title
stringlengths
1
250
url
stringlengths
37
44
text
stringlengths
1
4.81k
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Các lãnh đạo Đảng cộng sản tham gia Quốc hội và Chính phủ như Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Khánh Toàn, Trần Huy Liệu... cũng với tư cách là thành viên Việt Minh. Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương cũng là một tổ chức thành viên của Việt Minh. Tuy nhiên Việt Minh không chỉ có tổ chức thành viên là Đảng Cộng sản Đông Dương và các đoàn thể cứu quốc mà còn có các đảng phái cách mạng theo đường lối khác. Năm 1941 Đại hội thành lập Việt Minh thiết lập liên minh chống phát xít của người Việt ngoài Đảng Cộng sản Đông Dương, có Tân Việt Nam đảng (Tân Việt đảng), Hội Thanh niên cách mạng Việt Nam, một phần Việt Nam Quốc dân Đảng, một số hội giải phóng dân tộc... góp phần vào việc nâng cao uy tín Mặt trận. Một trong những biểu hiện rõ nét là vào năm 1943, Đảng đưa ra "Đề cương Văn hóa Việt Nam", tập hợp đông đảo những nhà văn hóa, văn nghệ, trí thức. Trên cơ sở đó, cuối năm 1944, Hội văn hóa cứu quốc Việt Nam ra đời, trở thành một thành viên của Mặt trận Việt Minh. Tháng 6 năm 1944, Đảng Cộng sản Đông Dương giúp cho một số trí thức thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam. Đảng Dân chủ Việt Nam gia nhập Việt Minh một thời gian ngắn rồi tách ra do mâu thuẫn với Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 12 năm 1946, đảng Dân chủ Việt Nam lại gia nhập Việt Minh. Đảng Cộng sản Đông Dương còn mở rộng Mặt trận Việt Minh trong việc liên lạc với một số người cộng sản và cánh tả thuộc Đảng Xã hội Pháp trong quân đội Lê dương và giới công chức Pháp ở Việt Nam. Nhưng do quan điểm khác nhau nên kế hoạch lập Hội của Đảng thất bại. Đảng còn tranh thủ sự giúp đỡ của các lực lượng chống Nhật ở Trung Quốc, vận động thành lập Mặt trận Trung-Việt liên minh, đặt quan hệ hợp tác với Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội (và một thời gian nhập vào tổ chức này trên danh nghĩa) - một tổ chức chính trị của người Việt Nam ở Trung Quốc để tranh thủ đoàn kết rộng rãi với những người Việt yêu nước hoạt động ở Trung Quốc. Ở Nam Kì, các cán bộ Đảng trong khi tập hợp lực lượng đã vận động được nhiều đảng phái khác tham gia Việt Minh.
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Kì bộ Việt Minh Nam Kì bao gồm Đảng Cộng sản Đông Dương, Tân Dân chủ, Tổng Công đoàn, Thanh niên Tiền phong, Việt Nam Quốc gia, Cao Đài hợp nhất, Việt Nam Cứu quốc Đoàn (Kì bộ cũ của Việt Minh), Quốc gia Độc lập, Công giáo, Thanh niên Nghĩa dũng Đoàn. Vào cuối năm 1944, Việt Minh tuyên bố tổng số thành viên là 500.000 người, trong đó có 200.000 người ở Bắc Kỳ, 150.000 người ở Trung Kỳ, và 150.000 người tại Nam Kỳ. Trong suốt quá trình vận động cách mạng từ Hội nghị 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đến Cách mạng Tháng Tám, những chủ trương nghị quyết của Đảng nhằm xây dựng lực lượng cách mạng đều được quán triệt trong các văn kiện của Mặt trận Việt Minh. Về thực tế Đảng Cộng sản Đông Dương còn lãnh đạo chi bộ đảng ngoài Việt Nam, như Lào, Miên, và sau khi tách các chi bộ này ra, để thành lập ba đảng riêng năm 1951, cùng với thành lập Liên Việt trên cơ sở hai tổ chức Việt Minh và Liên Việt, cũng thành lập Mặt trận liên minh Việt - Miên - Lào (do Tôn Đức Thắng làm chủ tịch) nhằm phối hợp cách mạng ba nước, tiến tới giành độc lập cho mỗi nước. Hợp tác với cơ quan tình báo Mỹ OSS. Ngày 29 tháng 3 năm 1945, Hồ Chí Minh gặp Thiếu tướng Claire Lee Chennault - Chỉ huy trưởng Không đoàn 14 Không lực Lục quân Hoa Kỳ, tại Côn Minh, Trung Quốc. Chennault cảm ơn Việt Minh và sẵn sàng giúp đỡ những gì có thể theo yêu cầu. Còn Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm của Việt Minh là ủng hộ và đứng về phía Đồng Minh chống phát xít Nhật. Theo Hồ Chí Minh, việc được tướng Chennault tiếp kiến được xem là một sự công nhận chính thức của Mỹ, là bằng chứng cho các đảng phái Quốc gia thấy Mỹ ủng hộ Việt Minh. Người Mỹ xem đây chỉ là một mưu mẹo của Hồ Chí Minh nhưng ông cũng đã đạt được kết quả.
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Hồ Chí Minh nhận thấy Hoa Kỳ đang muốn sử dụng các tổ chức cách mạng người Việt vào các hoạt động quân sự chống Nhật tại Việt Nam, ông đã thiết lập mối quan hệ với các cơ quan tình báo Hoa Kỳ đồng thời chỉ thị cho Việt Minh làm tất cả để giải cứu các phi công gặp nạn trong chiến tranh với Nhật Bản, cung cấp các tin tức tình báo cho OSS (Cơ quan Tình báo chiến lược Hoa Kỳ), tiến hành một số hoạt động tuyên truyền cho Trung Hoa Dân quốc và Văn phòng Thông tin Chiến tranh Hoa Kỳ (OWI). Đổi lại, cơ quan tình báo Hoa Kỳ OSS (U.S Office of Strategic Services) cung cấp vũ khí, phương tiện liên lạc, giúp đỡ y tế, cố vấn và huấn luyện quân đội quy mô nhỏ cho Việt Minh. Ngày 16 tháng 7 năm 1945, nhóm "Con Nai" thuộc cơ quan tình báo Mỹ OSS do Thiếu tá Allison K. Thomas chỉ huy nhảy dù xuống vùng lân cận làng Kim Lung cách Tuyên Quang 20 dặm về phía đông. Nhóm tình báo "Con Nai" được lực lượng Việt Minh tại Tuyên Quang gồm khoảng 200 người đón tiếp. Trong vòng một tháng, nhóm "Con Nai" đã huấn luyện cho lực lượng Việt Minh cách sử dụng những vũ khí Mỹ và chiến thuật du kích. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, nhóm "Con Nai" cùng Việt Minh về Hà Nội và tham dự lễ thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thông qua mối quan hệ với OSS, Việt Minh đề nghị Mỹ biến Đông Dương thành một xứ bảo hộ của Mỹ và yêu cầu Mỹ can thiệp với Liên Hợp Quốc để gạt người Pháp và người Trung Quốc ra ngoài kế hoạch chiếm đóng tại Đông Dương của Đồng Minh. Việt Minh lo sợ Trung Quốc sẽ trở thành những kẻ chiếm đất đai ở Đông Dương, sống bằng cướp bóc và tước đoạt. Tổng bộ Việt Minh ở Hà Nội gửi một công hàm cho Chính phủ Mỹ để giải thích lập trường của họ. Trong đó có đoạn viết: ""Nếu người Pháp mưu toan trở lại Đông Dương để hòng cai trị đất nước này và một lần nữa lại đóng vai những kẻ đi áp bức thì nhân dân Đông Dương sẵn sàng chiến đấu đến cùng chống lại việc tái xâm lược đó của Pháp. Mặt khác, nếu họ đến với tư cách là những người bạn để gây dựng nền thương mại, công nghiệp mà không có tham vọng thống trị thì họ sẽ được hoan nghênh như bất kỳ cường quốc nào khác"."
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Tổng bộ Việt Minh muốn báo cho Chính phủ Mỹ biết nhân dân Đông Dương yêu cầu trước hết là nền độc lập của Đông Dương và mong rằng nước Mỹ sẽ giúp đỡ họ giành lại độc lập bằng những cách sau đây: Hồ Chí Minh cố gắng thuyết phục Mỹ tiếp tục chính sách chống thực dân của Mỹ đối với Đông Dương. Ông tìm cách làm Mỹ tin rằng ông không phải là một phái viên của Quốc tế Cộng sản mà là một người Quốc gia - Xã hội mong muốn giải thoát đất nước khỏi ách đô hộ của ngoại bang. Thông qua OSS, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi một bức điện cho Tổng thống Mỹ Truman yêu cầu Mỹ đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ Lâm thời đồng thời Mỹ và Chính phủ Lâm thời sẽ có đại diện trong Ủy ban Liên tịch các nước Đồng Minh giải quyết các vấn đề liên quan đến Việt Nam. Việt Minh hy vọng tranh thủ được sự có mặt của Mỹ trong cuộc thương lượng giữa Trung Quốc và Pháp về Đông Dương vì hai nước này có thể làm nguy hại đến nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam đồng thời khuyến khích các nước Đồng Minh công nhận Chính phủ Lâm thời là đại diện duy nhất và hợp pháp của Việt Nam trong các vấn đề liên quan đến chủ quyền của Việt Nam. Việt Minh lo ngại việc không được các nước Đồng Minh công nhận sẽ làm suy yếu địa vị lãnh đạo của họ và có lợi cho Việt Cách, Việt Quốc trong việc thành lập chính phủ của các lực lượng này. Hồ Chí Minh nói với chỉ huy OSS tại miền Bắc, Archimedes L.A Patti, rằng ông theo chủ nghĩa Lenin, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp và xin gia nhập Đệ Tam Quốc tế vì đây là những cá nhân và tổ chức duy nhất quan tâm đến vấn đề thuộc địa. Ông không thấy có sự lựa chọn nào khác. Nhưng trong nhiều năm sau đó những tổ chức này cũng không có hành động gì vì nền độc lập của các dân tộc thuộc địa. Trước mắt, ông đặt nhiều tin tưởng vào sự giúp đỡ của Mỹ trước khi có thể hy vọng vào sự giúp đỡ của Liên Xô. Người Mỹ xem ông là một người quốc tế cộng sản, bù nhìn của Moskva vì ông đã ở Moskva nhiều năm nhưng ông không phải là người cộng sản theo nghĩa Mỹ hiểu mà là nhà cách mạng hoạt động độc lập.
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Tuy nhiên Mỹ không đáp lại nguyện vọng của Hồ Chí Minh. Cuối tháng 9 năm 1946, Mỹ rút tất cả các nhân viên tình báo tại Việt Nam về nước, chấm dứt liên hệ với chính phủ Hồ Chí Minh. Lãnh đạo nhân dân giành chính quyền. Theo Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, kể từ khi Việt Minh ra đời, ""toàn bộ phong trào chống phát xít Pháp-Nhật của nhân dân ta mang tên "Phong trào Việt Minh", cái tên tiêu biểu cho lòng yêu nước, chí quật cường của dân tộc ta"." Tổ chức này giành quyền và thành lập chính quyền với tên Khu Giải phóng Việt Bắc gồm 6 tỉnh năm 1944. Năm 1945, khi Nhật vừa đầu hàng phe Đồng Minh và chính phủ Trần Trọng Kim vừa thành lập, Việt Minh là lực lượng chính trị quan trọng tổ chức một số cuộc biểu tình trên cả nước và tuyên bố thành lập chính quyền. Quốc dân Đại hội do Tổng bộ Việt Minh triệu tập họp ở Tân Trào trong 2 ngày 16 và 17 tháng 8 năm 1945 đã thông qua lệnh Tổng khởi nghĩa, quyết định Quốc kỳ, Quốc ca, cử ra Ủy ban Giải phóng Dân tộc tức là Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập Chính phủ lâm thời của Việt Minh, khai sinh nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, Việt Minh chuyển mục tiêu sang đấu tranh giành lại toàn vẹn chủ quyền và lãnh thổ cho Việt Nam từ tay của thực dân Pháp. Thành lập Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thời gian đầu năm 1946, các lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Văn Hoan lui vào hoạt động bí mật. Hoạt động công khai với danh nghĩa là thành viên Việt Minh gồm có chủ tịch Hồ Chí Minh, các ông Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Hoàng Hữu Nam, Hồ Tùng Mậu và Nguyễn Lương Bằng. Về mặt công khai, trong một thời gian ngắn nhóm Mác-xít độc lập với Việt Minh. Thành viên Việt Minh không công khai là người Mác-xít. Theo các tài liệu chính thống của nhà nước Việt Nam, Chủ nhiệm Tổng bộ một thời gian dài là Hoàng Quốc Việt. Cơ quan ngôn luận là báo "Cứu quốc".
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Cơ quan ngôn luận là báo "Cứu quốc". Việt Minh lãnh đạo chính phủ trung ương Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ khi được thành lập cho đến khi chiến tranh Đông Dương kết thúc. Đảng Lao động chính thức xác nhận vai trò lãnh đạo năm 1951. Một số ít thành viên Việt Minh chuyển sang ủng hộ cho Quốc gia Việt Nam khi Việt Minh ngả sang khuynh hướng thân Liên Xô - CHND Trung Hoa công khai. Tại miền Nam, Việt Minh cũng lãnh đạo Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ. Các nhóm chính trị khác tham gia hợp tác với Việt Minh trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở trung ương và địa phương trong giai đoạn 1945 - 1946. Ủy ban Dân tộc Giải phóng gồm 12 thành viên Việt Minh, trong đó có 6 thành viên Đảng Cộng sản Đông Dương, 2 thành viên Đảng Dân chủ Việt Nam. Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ thành lập ngày 25/8/1945 có 6 thành viên Việt Minh (4 là thành viên Đảng Cộng sản, gồm Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tây, 2 thành viên Việt Minh không công khai là đảng viên cộng sản Phạm Ngọc Thạch, Hoàng Đôn Văn), 1 thành viên Đảng Dân chủ Việt Nam (Huỳnh Văn Tiểng), 2 thành viên không đảng phái (Phạm Văn Bạch, Huỳnh Thị Oanh), 1 thành viên Đảng Độc lập Dân tộc (Ngô Tấn Nhơn) (sau cải tổ đưa Huỳnh Phú Sổ - Hòa Hảo, Trần Văn Thạch - Trotskyist, Huỳnh Văn Phương - trí thức, Phan Văn Hùm, Trần Văn Nhọ, Nguyễn Văn Thủ... tham gia, nhưng sau một thời gian Việt Minh xung đột với các nhóm tôn giáo và Trotskyist).
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Ngày 10/9/1945, Ủy ban Nhân dân Nam Bộ thành lập, theo thể lệ của Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh, gồm: Phạm Văn Bạch (trạng sư, không đảng phái): Chủ tịch, Trần Văn Giàu (Giáo sư, Đảng Cộng sản Đông Dương), Phạm Ngọc Thạch (bác sĩ, thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong), Huỳnh Văn Tiểng (cựu sinh viên, Tân Dân chủ đoàn), Ngô Tấn Nhơn (kỹ sư, Đảng Quốc gia Độc lập), Nguyễn Văn Thọ (viết báo, Đảng Cộng sản Đông Dương), Hoàng Đôn Văn (Lao động Tổng công đoàn), Giáo chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ (Việt Nam Độc lập Vận động hội), Nguyễn Văn Nghiêm (kỹ sư, không đảng phái), Tứ Bảo Hòa (điền chủ, không đảng phái), dự khuyết Phan Văn Hùm, Trần Văn Nhọ, Nguyễn Văn Thủ Chính phủ Cách mạng Lâm thời có 9 thành viên Việt Minh (6 đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương), 4 đảng viên Đảng Dân chủ Việt Nam, 2 không đảng phái, 1 Công giáo. Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến thành lập ngày 2/3/1946 có 2 thành viên Việt Minh (thuộc Đảng Cộng sản Đông Dương), 3 thành viên Việt Quốc, 1 thành viên Việt Cách, 2 thành viên Dân chủ, 1 thành viên Xã hội, 3 độc lập. Chính phủ Liên hiệp Quốc dân thành lập ngày 3/11/1946 có 5 thành viên Việt Minh (thuộc Đảng Cộng sản), 5 độc lập, 2 Dân chủ, 1 Xã hội, 1 Dân tộc (Việt Nam Quốc dân Đảng - Chu Bá Phượng), khuyết 2 ghế. Chính phủ Liên hiệp Quốc dân năm 1949, 5 thành viên Đảng Cộng sản - Việt Minh, 5 độc lập, 2 đảng Dân chủ, 3 đảng Xã hội, 1 dân tộc (Việt Nam Quốc dân Đảng - Chu Bá Phượng), 1 Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội (Bồ Xuân Luật). Trong các thứ trưởng có 4 độc lập, 2 đảng Dân chủ, 1 đảng Xã hội, 1 Việt Minh (thuộc Đảng Cộng sản), 1 trống. Theo tài liệu của CIA thì Đảng Cộng sản tuy tuyên bố "giải tán" năm 1945 nhưng năm 1946 có 50.000 đảng viên, và tới 1950 có 400.000 đảng viên, dù trên danh nghĩa người của Việt Minh (Liên Việt), nhưng thực tế bán công khai. Xung đột với các nhóm chính trị đối lập.
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Xung đột với các nhóm chính trị đối lập. Trước năm 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương và các đảng phái Quốc gia khác tuy có ý thức hệ khác nhau nhưng vẫn có chung nền tảng giáo dục, thường xuyên có sự hợp tác và đôi khi có cùng quan hệ huyết thống hoặc hôn nhân. Trong giai đoạn 1924 - 1927, ở miền Nam Trung Quốc, các nhóm người Việt chống thực dân Pháp đa dạng tương tác với nhau, với cả người Trung Quốc, Triều Tiên và các dân tộc khác. Từ năm 1941 đến 1944 ở miền nam Trung Quốc, Đảng Cộng sản Đông Dương, Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội (Việt Cách) cùng tham gia vào mặt trận chống Nhật, đôi khi tố giác nhau với chính quyền Trung Quốc, nhưng không bắt cóc hoặc ám sát lẫn nhau. Chính sự cạnh tranh để kết nạp thành viên, thu nhận viện trợ cũng như sự bảo trợ của người Trung Quốc, hơn là sự khác biệt về ý thức hệ, mới là nguyên nhân khiến căng thẳng giữa các tổ chức lưu vong gia tăng. Trong nước, Đảng Cộng sản Đông Dương cũng từng hợp tác với những người Trotskyist tại Nam Kỳ trong giai đoạn 1933-1937. Hai bên sau đó chỉ trích nhau chẳng hạn thành viên của Quốc tế Thứ ba (Đảng Cộng sản Đông Dương) và Quốc tế Thứ tư (những người Trotskyist) cáo buộc lẫn nhau là phục vụ lợi ích đế quốc. Ban đầu cuộc tranh đấu chỉ trong phạm vi báo chí, truyền thông. Đến năm 1945 thì nhiều phe đã dùng vũ lực để tiêu diệt lẫn nhau. Quốc dân Đại hội Tân Trào do Việt Minh tổ chức ngày 16/8/1945, trước khi Việt Minh nắm chính quyền, xác định 10 chính sách lớn trong đó chính sách đầu tiên là "Phản đối xâm lược; Tiêu trừ Việt gian. Lập nên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hoàn toàn độc lập". Theo hồi ký của tướng Võ Nguyên Giáp, dù được Việt Minh trao nhiều ưu đãi (được nhường 70 ghế đại biểu Quốc hội mà không cần bầu cử, được giao một số chức vụ cao trong nhà nước) nhưng một số đảng phái như Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt... vẫn không bằng lòng với địa vị chính trị của mình và đã tìm nhiều cách lật đổ Việt Minh nhằm chiếm chính quyền.
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Theo sử gia David G. Marr, đó là một thời kỳ đầy hận thù, phản bội và giết chóc. Cho tới tháng 8 năm 1946, các đảng phái đối lập, ngoại trừ Giáo hội Công giáo, đều bị phá vỡ, vô hiệu hóa, hoặc buộc phải lưu vong. Việt Nam Quốc dân Đảng. Ngay sau khi Việt Minh giành chính quyền ngày 19/8/1945, Lê Khang dẫn đầu một nhóm Việt Quốc rời Hà Nội đến Vĩnh Yên nằm trên tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội. Tại đây họ tổ chức một cuộc biểu tình của dân chúng để thuyết phục lực lượng Bảo an binh địa phương tham gia. Ngày 29/8/1945, hàng ngàn người ủng hộ Việt Minh thuộc 3 huyện lân cận tiếp cận căn cứ của Việt Quốc tại Vĩnh Yên kêu gọi Việt Quốc tham gia một cuộc diễu hành xuyên qua thị trấn. Khi bị từ chối, họ bắn thành viên Việt Quốc. Việt Quốc bắn trả khiến một số người chết đồng thời bắt giữ khoảng 150 người. Những người bị bắt được thả sau khi đã được tuyên truyền về Việt Quốc và thừa nhận mình bị lừa khi tham gia biểu tình. Sau đó, Việt Minh và Việt Quốc tiếp tục thảo luận về việc phóng thích những người còn bị Việt Quốc giam giữ, về việc tổ chức đàm phán và những đề xuất liên quan đến việc thành lập chính quyền liên hiệp ở địa phương. Trong khi hai bên thảo luận, Việt Minh cắt đứt nguồn cung cấp lương thực cho thị xã Vĩnh Yên khiến cuộc sống ngày càng khó khăn. Ngày 18/9/1945, Hoàng Văn Đức, một thành viên quan trọng của Đảng Dân chủ Việt Nam cùng đại diện chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ Hà Nội đến Vĩnh Yên thương lượng. Cuộc thương lượng không thành công, Lê Khang tấn công Phúc Yên nhưng thất bại. Các đơn vị quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tấn công Vĩnh Yên nhưng không giành được thị xã này. Sau đó hai bên ngừng bắn trong vài tháng. Việt Quốc không tranh giành ảnh hưởng với Việt Minh ở vùng nông thôn ngoài việc chiếm giữ nông trại Tam Lộng tại Vĩnh Yên. Đầu tháng 12/1945, Việt Minh tấn công Tam Lộng nhưng bị đẩy lùi.
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Tháng 9/1945, Việt Quốc thỏa thuận bí mật với Đại úy Nguyễn Duy Viên theo đó đại đội lính Khố đỏ của ông sẽ theo Việt Quốc. Tuy nhiên Việt Quốc nghi ngờ Đại úy Viên là điệp viên hai mang của Pháp và sẽ điều động đơn vị của mình thủ tiêu đảng viên Việt Quốc ngay sau khi vượt biên giới về Việt Nam. Đầu tháng 11, Viên đến Hà Giang gặp các thành viên Việt Quốc tại đây. Những binh sĩ đào ngũ từ các đơn vị lính thuộc địa cũng đổ về Hà Giang giúp Viên có được một đội quân khoảng 400 người. Việt Quốc và Việt Minh tại Hà Giang mâu thuẫn nhau khiến Viên đến Hà Nội yêu cầu chính phủ cử đại diện đến thuyết phục mọi người cùng chống Pháp. Sau khi gặp Hồ Chí Minh, Viên trở về Hà Giang, cho quân bắt giữ các đảng viên Việt Quốc tại đây và xử bắn một số người trên một ngọn đồi gần thị xã. Tháng 4/1946, Việt Quốc cho người ám sát Viên tại Hà Nội. Tháng 5/1946, Trần Đăng Ninh, phụ trách an ninh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đến Vĩnh Yên với lý do thảo luận về công tác sửa chữa đê điều và bị Vũ Hồng Khanh bắt. Ninh và 2 người khác trốn thoát. Việc bắt giữ này trở thành lý do để đàn áp Việt Quốc. Vệ quốc quân bắt đầu tuần tra quanh nơi hoạt động của Việt Quốc. Ngày 20/5/1946, trong một cuộc đụng độ gần Phú Thọ, Việt Quốc bắt giữ và hành quyết một nhóm người ủng hộ Việt Minh, thả vài xác chết xuống sông Hồng để cảnh cáo. Giữa tháng 5/1946, Bộ Nội vụ ra lệnh cho tất cả các cán bộ công chức đang làm việc tại 7 thị xã ở các tỉnh phía Tây và Tây Bắc Hà Nội sơ tán và tham gia vào các Ủy ban thay thế được thành lập ở các địa điểm mới. Những người không thực hiện lệnh này không còn là người của chính phủ. Tháng 6/1946, khi quân đội Trung Quốc rút về Vân Nam, dân quân của Việt Minh cô lập các thị xã do Việt Quốc kiểm soát. Ngày 18/6/1946, Vệ quốc quân tấn công Phú Thọ và Việt Trì. Quốc dân quân của Việt Quốc ở Phú Thọ hết đạn sau 4 ngày và phải rút lui. Vũ Hồng Khanh chỉ huy 350 lính phòng thủ Việt Trì trong 9 ngày rồi rút lui về Yên Bái.
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Việt Quốc ở Vĩnh Yên do Đỗ Đình Đạo chỉ huy đàm phán với Việt Minh và đạt được thỏa thuận ngừng bắn trong 2 tháng. Đỗ Đình Đạo đồng ý sáp nhập lực lượng của ông vào Vệ quốc quân và thành lập Ủy ban Hành chính liên hiệp tại Vĩnh Yên. Lực lượng này được chia nhỏ đưa về các tiểu đoàn Vệ quốc quân tại nhiều nơi. Đỗ Đình Đạo được thuyên chuyển về Hà Nội. Trong suốt tháng 5 và tháng 6/1946, Báo Việt Nam của Việt Quốc tại Hà Nội khẩn thiết kêu gọi Việt Minh ngừng tấn công Việt Quốc. Cuối tháng 6 tại Hà Nội, các thành viên Việt Quốc họp để thảo luận về việc có nên thừa nhận sự lãnh đạo của Việt Minh, rút lui về biên giới hay tổ chức đảo chính lật đổ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong khi đó, Trương Tử Anh, đảng trưởng Đại Việt Quốc dân Đảng là đồng minh của Việt Quốc, đang lên kế hoạch cho một cuộc đảo chính có thể bắt đầu bằng việc tấn công lính Pháp để gây rối loạn. Người Pháp lại có ý định diễu binh quanh hồ Hoàn Kiếm để kỷ niệm Quốc khánh Pháp (14/7/1789) khiến lực lượng an ninh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lo ngại sự kiện này có thể trở thành mục tiêu của các đảng phái đối lập với Việt Minh. Võ Nguyên Giáp hỏi ý kiến của chỉ huy quân Pháp tại Bắc Kỳ, Đại tá Jean Crépin, về thái độ của Pháp nếu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tăng cường trấn áp Việt Quốc và Việt Cách thì được ông này trả lời Pháp sẽ không can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trường Chinh (Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, khi đó rút vào hoạt động bí mật, chức danh công khai là Hội trưởng Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương) được Nha Công an Trung ương báo cáo phát hiện được âm mưu của thực dân Pháp câu kết với Việt Nam Quốc dân Đảng đang chuẩn bị đảo chính Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chỉ đạo phải tập trung trấn áp Việt Nam Quốc dân Đảng, nhưng phải có đủ chứng cứ.
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 và cuộc bầu cử ngày 6 tháng 1 năm 1946, Việt Nam Quốc dân Đảng được giữ hơn 40 ghế trong số 70 ghế "đại biểu đương nhiên" (không phải qua bầu cử) trong Quốc hội khóa I và có một số thành viên chủ chốt tham gia lãnh đạo Quốc hội và Chính phủ do Quốc hội khóa I bầu ra như Nguyễn Hải Thần (Phó Chủ tịch Quốc hội), Trương Đình Chi (Bộ trưởng Xã hội, Y tế và Lao động). Theo hồi ký "Những năm tháng không thể nào quên" của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, do không bằng lòng với vị trí có được, Việt Nam Quốc dân Đảng tìm cách lật đổ Việt Minh để cùng với các đảng phái Việt Cách, Đại Việt... chiếm chính quyền. Trong khi giải giáp vũ khí của quân Nhật tại phía Bắc vĩ tuyến 16 theo Hiệp ước Hoa - Pháp tháng 2 năm 1946 và Hiệp định Sơ bộ Việt - Pháp ngày 6 tháng 3 năm 1946, quân Pháp đã chuyển giao cho Việt Nam Quốc dân Đảng và các đảng phái đối lập với Việt Minh hàng tấn vũ khí thu gom được của Nhật. Với số vũ khí này và được thực dân Pháp "bật đèn xanh", Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân đảng đã tổ chức các đội vũ trang mang tên "Thần lôi đoàn", "Thiết huyết đoàn", "Hùm xám"... Các đội vũ trang này đã tổ chức nhiều vụ cướp có vũ trang, bắt cóc, tống tiền, tổ chức ám sát những người theo Việt Minh và cả những người không đảng phái như "ông Ba Viên" rồi tuyên truyền đổ lỗi cho Việt Minh đã không đảm bảo được an ninh trật tự ở Hà Nội và một số đô thị ở Bắc Bộ. Đầu tháng 6 năm 1946, Việt Nam Quốc dân Đảng tổ chức cho Nghiêm Xuân Chi (đảng viên Việt Quốc) ám sát một số lãnh đạo của Việt Minh như Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh và ông Bồ Xuân Luật, một người cũ của Việt Cách nay đứng về phe Việt Minh. Vụ ám sát được bố trí tại Nhà Thủy tọa, cạnh Hồ Gươm, đối diện với nhà số 8 đường Vua Lê (nay là phố Lê Thái Tổ), một trong những nơi ăn nghỉ của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, khi Nghiêm Xuân Chi chưa kịp ra tay thì đã bị tổ trinh sát của Sở Công an Bắc Bộ do Nguyễn Bá Hùng chỉ huy khống chế.
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Khám người Nghiêm Xuân Chi, Công an Bắc bộ thu được hai khẩu súng ngắn với 12 viên đạn trong ổ đạn. Mỗi khẩu đều có một viên đã lên nòng. Tại trụ sở Công an Bắc bộ (số 87 đường Gamberta, nay là phố Trần Hưng Đạo), Nghiêm Xuân Chi khai nhận đã được các lãnh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng giao nhiệm ám sát một số lãnh đạo Việt Minh. Trước những hoạt động gây mất trật tự an ninh tại Hà Nội và một số thành phố ở Bắc Bộ, Sở Công an Bắc Bộ đã lập chuyên án mà sau này được lấy tên công khai là Chuyên án số 7 phố Ôn Như Hầu. Sau khi Việt Nam Công an vụ xin ý kiến chỉ đạo của Trường Chinh (Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, với chức danh công khai là Hội trưởng Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương), vào rạng sáng ngày 12 tháng 7 năm 1946, Đội Trinh sát đặc biệt đã thực hiện nhiệm vụ bắt, khám xét những người có mặt tại số 7 phố Ôn Như Hầu vì can tội tống tiền và bắt cóc người, đã thực hiện phá vụ án phố Ôn Như Hầu. Chỉ đạo trực tiếp lực lượng công an phá vụ án này là Lê Giản (Giám đốc Nha Công an Bắc bộ), Nguyễn Tuấn Thức (Giám đốc Công an Hà Nội) và Nguyễn Tạo (Trưởng nha Điệp báo Công an Trung ương). Lực lượng công an xung phong đã thực hiện khám xét các trụ sở Việt Nam Quốc dân Đảng tại Hà Nội, bắt tại chỗ nhiều thành viên của Việt Nam Quốc dân Đảng cùng nhiều tang vật như truyền đơn, vũ khí, dụng cụ tra tấn, đồng thời phát hiện nhiều xác chết tại đó... Trong số các thành viên của Quốc dân Đảng bị bắt, có Phan Kích Nam tự xưng là một lãnh đạo của Quốc dân Đảng. Theo điều tra của Nha công an, Việt Nam Quốc dân Đảng đang chuẩn bị những hành động khiêu khích rất nghiêm trọng. Dự định các thành viên của Việt Nam Quốc dân Đảng sẽ phục sẵn dọc đường quân Pháp diễu qua nhân ngày Quốc khánh Pháp, bắn súng, ném lựu đạn để tạo ra những chuyện rắc rối giữa Pháp và Chính phủ, gây sự phá hoại hòa bình rồi tung truyền đơn hô hào lật đổ chính quyền và sau đó đứng ra bắt tay với Pháp.
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Trên thực tế, trong cuộc vây bắt, khám xét tại số 7 - Ôn Như Hầu ngày 12 tháng 7, Công an Bắc Bộ thu được 8 súng ngắn, 5 súng trường và 1 trung liên Nhật, dụng cụ tra tấn, thuốc mê và đào được 6 xác người chôn đứng trong vườn chuối sau nhà. Tuy nhiên, trụ sở hành chính của Việt Nam Quốc dân Đảng tại số 7 phố Ôn Như Hầu (nay là phố Nguyễn Gia Thiều) chỉ là bình phong để che đậy hai căn cứ quan trọng hơn của Việt Nam Quốc dân Đảng trong nội thành Hà Nội khi đó là nhà số 132 phố Duvigneau (nay là phố Bùi Thị Xuân) và nhà số 80 phố Quán Thánh. Cuộc bắt, khám xét tại 132 - Duvigneau và 80 Quán Thánh diễn ra cùng thời điểm với vụ bắt, khám xét ở số 7 - Ôn Như Hầu. Tại nhà số 132 phố Duvigneau, Nha Công an Bắc Bộ thu giữ nhiều tang vật gồm 6 máy in tipo với các "bát chữ" còn nguyên vẹn nội dung; 11 mặt đá in lito đã khắc chữ; trên 3 tạ truyền đơn, khẩu hiệu; tài liệu chống Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa in xong còn chưa kịp chuyển đi; 18,6 kg tiền giả (gồm cả giấy bạc Quan kim và giấy bạc Đông Dương); 12 khẩu súng ngắn, 8 khẩu tiểu liên, 17 súng trường, 3 trung liên FM và 13 quả lựu đạn Nhật. Khám xét tại nhà số 80 phố Quán Thánh, Công an Bắc Bộ thu được 9 súng ngắn, 21 súng trường, 2 trung liên Nhật, 11 quả lựu đạn các loại, hai thùng tài liệu, truyền đơn chống chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quân Pháp tại Hà Nội đã điều xe tăng đến can thiệp vào vụ bắt, khám xét tại 80 phố Quán Thánh nhưng Việt Minh đã tiến hành đàm phán trên cơ sở Hiệp định Sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1945. Trưa ngày 12 tháng 7, xe tăng và quân Pháp rút khỏi phố Quán Thánh. Ngày 13 tháng 7, tướng Morlière, Tư lệnh các Lực lượng Pháp tại Hà Nội đã cử sĩ quan tùy tùng đến trụ sở chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Bắc Bộ Phủ thông báo việc người Pháp rút đề nghị tổ chức cuộc diễu binh của quân Pháp tại Hà Nội do nhận thấy không bảo đảm an toàn.
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Tại đây, viên tùy tùng của tướng Morlière được đại diện Chính phủ Việt Nam thông báo rằng Việt Minh sẽ tổ chức cuộc mít tinh lớn ở Quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội và một số con phố quanh Hồ Gươm để chào mừng kỷ niệm ngày Cách mạng Pháp 14-7-1789. Tất cả những chứng cứ, tang vật, truyền đơn, khẩu hiệu, ảnh chụp những xác chết, những hố chôn người... mà Công an Bắc Bộ thu tập được trong Vụ án phố Ôn Như Hầu đều được trưng bày cho toàn thể nhân dân Hà Nội được biết trong cuộc mít tinh diễu hành này. Nhà nước sau đó thông báo sự việc với báo chí. Các cuộc tấn công được gọi tắt là "Vụ án phố Ôn Như Hầu". Các báo của Việt Minh và các đảng phái thân Việt Minh đều tường thuật vụ án này. Các báo đưa tin công an đã phá tan âm mưu chống chính phủ, đã bắt những kẻ tiến hành những vụ bắt cóc tống tiền, ám sát, bán nước, in truyền đơn chống chính phủ, làm bạc giả... Tuy nhiên Việt Quốc đã không bị kể tên trong một số bài báo. Theo David G. Marr, nếu thật sự Pháp muốn đảo chính (họ đã cân nhắc và hoãn nhiều lần) thì không cần phải dựa vào Trương Tử Anh khơi ngòi, càng không cho Anh thành lập chính phủ. Công an cố tình lập lờ giữa Đại Việt Quốc dân Đảng do Trương Tử Anh lãnh đạo và Việt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Tưởng Tam và Vũ Hồng Khanh lãnh đạo khi nhắm vào tòa soạn "Báo Việt Nam" và các trụ sở khác của Việt Nam Quốc dân Đảng. Sau cuộc tấn công, có người trong chính quyền đã cố gắng hạn chế những lời lên án công khai Việt Quốc để tuyên truyền về Mặt trận Thống nhất. Việt Quốc trên danh nghĩa vẫn nằm trong mặt trận. Ngoại trừ một vài đảng viên Việt Quốc hợp tác với Việt Minh, mọi công dân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ đó trở đi đều sợ hãi khi bị cho là đảng viên Việt Quốc. Việt Quốc đồng nghĩa với tội phản quốc. Ngày 20/7/1946, Ủy ban Hành chính Bắc Bộ dù không nhắc đến Việt Quốc đã thông báo đến các tỉnh rằng gần đây công an đã phát hiện được việc tống tiền, bắt cóc và làm tiền giả. Tất cả đều phải bị điều tra và truy tố.
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Ủy ban hướng dẫn các địa phương không để việc bắt bớ và giam giữ các phần tử phản động biến thành khủng bố. Các Ủy ban Hành chính địa phương giờ đã được chấp thuận cho việc bắt giữ các đảng viên Việt Quốc đã bị phát hiện hay còn tình nghi, tuy nhiên họ không săn lùng và hành quyết ngay lập tức. Trong những tháng sau đó, hàng ngàn người bị bắt, bị thẩm vấn. Hàng trăm người bị tống giam, bị đưa đến các trại cải tạo; hàng trăm người khác bị cách chức. Cán bộ phòng chính trị thuộc Sở Công an các tỉnh bắt những kẻ tình nghi, thẩm vấn, bắt ký vào lời khai, sau đó báo cáo lên chính quyền tỉnh là thả, xét xử hay biệt giam những người này. Từ cuối tháng 7/1946 cho đến cuối năm 1946, phần lớn những người bị công an giam giữ vì lý do chính trị đều bị xem là Việt Quốc. Công an tiếp tục thẩm vấn các đảng viên Việt Quốc về vụ bắt cóc một số đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương xảy ra vào cuối năm 1945. Cuối tháng 7/1946, Báo Việt Nam bị đình bản nhưng Tuần báo Chính Nghĩa vẫn tiếp tục xuất bản suốt 3 tháng sau. Báo chính Nghĩa đăng một loạt bài xã luận lên án chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa đế quốc Xô Viết đồng thời chỉ trích hệ thống Ủy ban Hành chính của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và việc chính phủ không thể thành lập hệ thống tư pháp độc lập, chính sách ngoại giao của Hồ Chí Minh cũng bị hoài nghi. Cuối tháng 10/1946, các bài xã luận và tin tức trong nước bị loại bỏ. Tới đầu tháng 12, Tuần báo Chính Nghĩa hoàn toàn bị vô hiệu hóa, không còn một tin tức hay bài viết nào đáng phải kiểm duyệt nữa. Từ tháng 7/1946 đến tháng 11/1946, nhiều Đại biểu Quốc hội là đảng viên Việt Quốc bị bắt. Đại biểu Phan Kích Nam, đảng viên Việt Quốc, bị bắt trong vụ án phố Ôn Như Hầu, bị buộc tội bắt cóc, tống tiền và bị tống giam ngay lập tức. Đại biểu Nguyễn Đổng Lâm bị công an Hải Dương bắt và bị kiến nghị gửi đến trại biệt giam trong 2 năm với lý do "chính quyền địa phương sẽ gặp nhiều khó khăn nếu ông Lâm còn tự do ngoài vòng pháp luật".
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Trường hợp của Lâm được báo cáo lên Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội Nguyễn Văn Tố. Nguyễn Văn Tố cùng Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra lệnh thả Lâm. Ngày 21/8/1946, Nguyễn Đổng Lâm được thả. Tại các địa phương khác, các Đại biểu Quốc hội là đảng viên Việt Quốc cũng bị sách nhiễu hoặc bắt giữ. Đại biểu Trình Như Tấu gửi kháng nghị đến 5 cơ quan chính phủ khác nhau sau khi ông bị dân quân bao vây nhà riêng để yêu cầu bồi thường một máy đánh chữ không có thật và đe dọa dùng vũ lực nếu ông không tuân thủ. Trình Như Tấu yêu cầu được bảo vệ với tư cách nghị sĩ nhưng không được hồi đáp. Tại Kỳ họp lần thứ hai của Quốc hội vào cuối tháng 10/1946, chưa tới 12 người trong số 50 Đại biểu Quốc hội thuộc Quốc dân Đảng tham dự. Sau khi rút lui về Yên Bái, Vũ Hồng Khanh nhận ra rằng nguồn cung cấp lương thực tại địa phương chỉ đủ nuôi sống lực lượng quân đội Việt Quốc chứ không đủ cung cấp cho những người ủng hộ Việt Quốc từ đồng bằng sông Hồng đến. Việc tiếp tế từ Lào Cai gặp nhiều khó khăn vì Việt Minh đã phá hủy đường sắt. Tới tháng 11, Lào Cai bị Vệ quốc quân bao vây và lương thực sắp hết. Vũ Hồng Khanh quyết định sơ tán sang Vân Nam và ra lệnh hành quyết 2 giảng viên học viện quân sự vì cố gắng dẫn học viên của họ quay trở lại đồng bằng. Tháng 10/1947, khi Pháp nhảy dù xuống Phú Thọ, công an Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bị cáo buộc giết chết hơn 100 tù nhân Việt Quốc trước nguy cơ họ có thể trốn thoát hoặc rơi vào tay người Pháp. Đại Việt Quốc dân đảng. Sau khi giành được chính quyền, ngày 5 tháng 9 năm 1945, nhân danh Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã ký Sắc lệnh số 8 giải thể Đại Việt Quốc dân Đảng với lý do ""Đại Việt Quốc dân Đảng đã âm mưu những việc hại cho sự độc lập quốc gia và nền kinh tế Việt Nam"."
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Do Chính phủ ban hành Sắc lệnh giải tán Đại Việt Quốc dân Đảng, nên các đảng viên Đại Việt đã mất tư cách pháp nhân để tham gia chính trường. Trước chiến thắng của Việt Minh trong cuộc Tổng tuyển cử, ngày 15 tháng 12 năm 1945, Đại Việt Quốc dân Đảng cùng với Việt Nam Quốc dân Đảng (lãnh đạo là Vũ Hồng Khanh) và Đại Việt Dân chính Đảng (lãnh đạo là Nguyễn Tường Tam) thành lập Mặt trận Quốc dân Đảng Việt Nam nhằm chống lại "phe Cộng sản". Trương Tử Anh làm Chủ tịch, Vũ Hồng Khanh làm Bí thư trưởng và Nguyễn Tường Tam làm Tổng thư ký. Việc tham gia Mặt trận Quốc dân Đảng giúp các đảng viên Đại Việt có lại khả năng tham chính dưới danh nghĩa của Mặt trận. Đối với chương trình hành động của Mặt trận Quốc dân Đảng, Đại Việt Quốc dân Đảng đưa ra kế hoạch bốn điểm nhằm chống lại Việt Minh trong việc bầu cử Quốc hội và thành lập Chính phủ Liên hiệp: Trong tháng 9 và tháng 10 năm 1945, các tổ chức khác nhau của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Minh có thể đã thủ tiêu hoặc bắt giữ hàng trăm đảng viên và những người có liên quan đến Đại Việt Quốc dân Đảng, Đại Việt Duy dân Cách mệnh Đảng tại các tỉnh Ninh Bình, Tuyên Quang, Thái Bình, Phú Thọ, Hưng Yên... Trương Tử Anh lẩn trốn sự truy nã của công an Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng thời liên tục cảnh báo Việt Nam Quốc dân Đảng không được liên minh với Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong suốt năm 1946, công an tiếp tục truy lùng các thành viên đảng Đại Việt. Theo David G. Marr, nhờ tuyên truyền có hiệu quả nên Việt Minh làm dân chúng tin rằng đảng viên Đại Việt là những tên tay sai cho phát xít Nhật dù trên thực tế trước ngày 9/3/1945 khi Nhật đảo chính Pháp chỉ có một số ít người Việt có quan hệ với người Nhật, sau ngày 9/3/1945 tất cả các đảng phái ở Việt Nam kể cả Việt Minh đều tiếp xúc với quân đội và nhân viên dân sự Nhật.
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Trong ngày 12/7/1946, một tiểu đội công an do Lê Hữu Qua chỉ huy bao vây khám xét trụ sở của đảng Đại Việt tại số 132 Duvigneau, do phát hiện Đại Việt cấu kết với Pháp âm mưu tiến hành đảo chính chính quyền cách mạng đúng vào ngày quốc khánh Pháp 14/7/1946. Khi thực hiện cuộc bao vây khám xét này, lực lượng công an chưa có chứng cứ cụ thể và chưa có lệnh của cấp trên. Nhưng vẫn thực hiện bao vây khám xét để các thành viên Đại Việt không có thời gian rút vào bí mật và tẩu tán truyền đơn, hiệu triệu lật đổ chính quyền. Lực lượng công an đột kích bất ngờ vào lúc sáng sớm khiến cho lính canh và các đảng viên Đại Việt không kịp có hành động phản ứng. Tại trụ sở của Đại Việt, lực lượng công an đã tìm thấy nhiều truyền đơn, hiệu triệu chưa kịp tẩu tán cùng nhiều súng ống, lựu đạn. Sau khi Pháp tái chiếm Đông Dương, ngày 19 tháng 12 năm 1946, thì Trương Tử Anh đột ngột mất tích. Có nguồn cho là ông bị Việt Minh thủ tiêu. Đại Việt Quốc gia Xã hội Đảng. Đại Việt Quốc gia Xã hội Đảng (thường được gọi tắt là Đại Việt Quốc xã) theo Chủ nghĩa Quốc xã do Nguyễn Xuân Tiếu sáng lập vào năm 1936, Trần Trọng Kim là Tổng bí thư. Đây là tổ chức chính trị thân Đế quốc Nhật Bản, được thành lập để làm hậu thuẫn chính trị cho việc lập ra một Đế quốc Việt Nam, được xem là "chính phủ tay sai" của Nhật Bản trong thời kỳ Đế quốc Nhật chiếm đóng và thống trị Đông Á, Đông Nam Á và Việt Nam trong Chiến tranh Thái Bình Dương. Đại Việt Quốc xã là lực lượng có xu hướng bảo hoàng với khoảng 2 ngàn thành viên, ảnh hưởng ở các thị thành công nghiệp nhẹ ở miền Bắc như Hà Nội, Hải Phòng trong thời gian Chiến tranh Thế giới thứ hai diễn ra. Sau khi Việt Minh giành được chính quyền, ngày 5 tháng 9 năm 1945, thừa ủy quyền Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã ký Sắc lệnh số 8 giải thể Đại Việt Quốc gia Xã hội Đảng với lý do "Đại Việt Quốc gia Xã hội Đảng đã tư thông với ngoại quốc để mưu những việc có hại cho sự độc lập Việt Nam".
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Đại Việt Duy dân Cách mệnh Đảng. Trong thời gian quân Tưởng vào miền Bắc, Đại Việt Duy dân tìm cách thâm nhập gây cơ sở ở Hòa Bình, xây dựng Hòa Bình thành căn cứ. Đại Việt Duy dân liên kết với một số lang đạo chống chính quyền, lôi kéo một số lang đạo có thái độ hai mặt trong bộ máy chính quyền các cấp và được số này che chở. Vì vậy, cơ sở Đại Việt Duy dân phát triển khá nhanh bao gồm một số huyện của tỉnh Hà Đông (cũ), Ninh Bình, Hà Nam, Hòa Bình. Đảng Đại Việt Duy dân chọn Mường Diềm làm căn cứ chính của Đại Việt Duy dân ở Hòa Bình. Được các lang đạo giúp đỡ, Đại Việt Duy dân đã tích cực xây dựng lực lượng vũ trang bằng cách đưa thành viên từ miền xuôi lên, tập hợp thành viên ở địa phương, thành lập được một số đơn vị, mở một vài lớp huấn luyện quân sự... Giữa năm 1946, Đại Việt Duy dân bị chính quyền tấn công mạnh tại Hà Nội và các tỉnh ở đồng bằng. Đảng trưởng Đại Việt Duy dân Lý Đông A (tức Trần Khắc Tường) phải rời Hà Nội về Gia Viễn (Ninh Bình). Tại đây, Lý Đông A lại bị truy đuổi phải chạy lên Hòa Bình và về vùng Diềm. Nhiều thành viên Đại Việt Duy dân ở các nơi khác bị truy quét cũng chạy lên Hòa Bình. Trong thế bị truy đuổi, dồn ép, các lãnh đạo Đại Việt Duy dân dựa vào sự giúp đỡ của lang đạo chống chính quyền và có được một vài đơn vị vũ trang trong tay dự định đánh chiếm Lương Sơn, Lạc Sơn, Chợ Bờ, Suối Rút rồi tiến lên đánh chiếm thị xã Hòa Bình, làm chủ toàn bộ tỉnh Hòa Bình. Lấy Hòa Bình làm bàn đạp chiếm Sơn La, xây dựng Hòa Bình - Sơn La thành một căn cứ rộng lớn ở miền núi rừng Tây Bắc để chống lại chính quyền do Việt Minh lãnh đạo. Nhưng kế hoạch của Đại Việt Duy dân đã bị quần chúng phát giác. Ban cán sự Đảng Cộng sản Đông Dương tỉnh Hòa Bình thông qua con trai lang cun Mường Diềm là cán bộ phụ trách lực lượng vũ trang của huyện Mai Đà đã nắm được những tin tức quan trọng về tổ chức, hoạt động của Đại Việt Duy dân và đặc biệt là nắm được âm mưu kế hoạch bạo loạn của Đại Việt Duy dân.
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Do nắm được kế hoạch của Đảng Đại Việt Duy dân nên trước ngày Đại Việt Duy dân định khởi sự, Ban cán sự Đảng tỉnh Hòa Bình đã chỉ đạo lực lượng vũ trang, công an tiêu diệt các toán vũ trang của Đại Việt Duy dân ở Lạc Sơn, Kỳ Sơn, Cao Phong, Lương Sơn, thị xã Hòa Bình. Để tiêu diệt căn cứ của Lý Đông A tại vùng Mường Diềm, Ban cán sự Đảng tỉnh đã dùng mưu dụ toán vũ trang của Đại Việt Duy dân ra khỏi căn cứ. Lực lượng chiến đấu của Ban cán sự Đảng tỉnh Hòa Bình đã tiêu diệt và bắt sống đại bộ phận lãnh đạo và lực lượng vũ trang của Đại Việt Duy dân tại Bến Chương. Đảng trưởng Lý Đông A chết tại Bến Chương thuộc xã Hiền Lương - Mai Đà. Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội. Khi quân Trung Hoa tiến vào miền Bắt Việt Nam để giải giáp quân Nhật, lực lượng của Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội cũng theo về, mục đích của Việt Quốc, Việt Cách để mở đường, tạo dựng cơ sở cho Quân đội Trung Hoa Dân quốc vào Việt Nam, gây xung đột vũ trang với Quân Giải phóng và cướp chính quyền các địa phương... Ngày 11 tháng 5, các Lữ đoàn hành động theo 4 hướng vượt biên giới. Tuy nhiên trong 4 cánh quân này khi xung đột vũ trang với Việt Minh thì 3 cánh quân (do Lê Tùng Sơn, Bồ Xuân Luật và Trương Trung Phụng chỉ huy) đã hạ vũ khí, tự giải giáp hoặc gia nhập lực lượng quân đội quốc gia của Việt Minh, chỉ có một cánh quân do Vũ Kim Thành chạy về vùng Hải Ninh rồi bị tiêu diệt. Bồ Xuân Luật sau đó làm Bộ trưởng trong Chính phủ Liên hiệp. Riêng Nguyễn Hải Thần thì về Hà Nội lập trụ sở ở đường Quan Thánh phố Cửa Bắc, tìm cách vận động dân chúng nội thành ủng hộ. Việt Cách bắc loa tố cáo Việt Minh là cộng sản; sự việc dẫn đến xô xát giữa những đám người ủng hộ và chống đối. Trong khi lãnh đạo các phe phái Việt Minh, Việt Quốc, Việt Cách tranh cãi về các định nghĩa pháp lý, về việc bổ nhiệm các bộ trưởng và việc đưa ra các tuyên bố chung để đi đến thành lập Chính phủ Liên hiệp thì các chủ bút, cán bộ chính trị, lực lượng vũ trang của các bên vẫn đấu tranh với nhau gay gắt.
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Bộ Tuyên truyền của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi đến ban biên tập các tờ báo một bức thư hư cấu chỉ trích Nguyễn Hải Thần không cử người tham gia đoàn quân Nam tiến chi viện cho miền Nam đồng thời buộc tội ông thỏa thuận với quân Pháp. Báo chí thường xuyên cáo buộc Việt Cách và Việt Quốc tống tiền dân chúng. Công an Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thường xuyên bắt giữ các thành viên Việt Cách vì tội tống tiền, đặc biệt là đối với Hoa kiều. Các thành viên Việt Minh và Việt Cách xé áp phích của nhau, đe dọa tính mạng và phá các cuộc họp của đối thủ. Việt Minh khuyến khích Bồ Xuân Luật rời bỏ Việt Cách lập ra tờ "báo Đồng Minh" xuất bản cho đến tháng 11 năm 1946. Mười ngày sau đó, tại Hà Nội, Bồ Xuân Luật bị phục kích nhưng may mắn thoát chết. Các lãnh đạo Việt Cách không gặp khó khăn gì trong việc kiểm soát các thị xã từ biên giới Trung Quốc đến đồng bằng sông Hồng cho đến khi quân đội Trung Quốc rút về nước vào tháng 4/1946. Các viên chức nhà nước tại những nơi đó phải đối mặt với việc trung thành với Việt Cách, trung lập hay di tản khỏi thị xã. Việt Cách đôi khi phải xin phép chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để thực hiện một số hoạt động của họ. Bị Việt Quốc làm lu mờ và ngày càng mất đoàn kết, tháng 3/1946, Việt Cách bị chia rẽ. Một số thành viên tập trung bảo vệ các thị xã phía Bắc Hà Nội, những người khác gia nhập Việt Quốc, số còn lại lệ thuộc Việt Minh. Việt Cách có thể đã tổ chức một số cuộc tấn công vào lính Pháp tại Hải Phòng vào tháng 4/1946. Cuối tháng 4/1946, Pháp khai quật được 12 thi hài tại tầng hầm trụ sở cũ của Việt Cách tại Hà Nội trong đó có 2 công dân Pháp mất tích ngày 24/12/1945. Cuối tháng 5/1946, thành viên Việt Cách Hồ Đắc Thành tham gia Hội Liên Việt. Các thành viên Việt Cách ở Quảng Yên và Móng Cái đã rút qua Trung Quốc vào giữa tháng 6/1946. Cuối tháng 10/1946, "báo Đồng Minh" của Bồ Xuân Luật đưa tin về cuộc họp của một số chi bộ còn lại của Việt Cách và việc một số thành viên Việt Cách tham gia kỳ họp thứ hai của Quốc hội.
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Công an thu được một số tài liệu của Việt Cách và triệu tập các thành viên Việt Cách tới thẩm vấn. Từ đó trở đi một vài thành viên Việt Cách hợp tác với Việt Minh để xây dựng một hình ảnh mặt trận quốc gia liên hiệp giữa các đảng phái trong khi đó các thành viên khác bị tống giam hoặc phải lưu vong. Trotskyist. Tạ Thu Thâu là người tổ chức và lãnh đạo phong trào Tả Đối lập Trốt-kít ("L'Opposition de Gauche"), ông hoạt động cách mạng bằng nhiều phương tiện. Về báo chí, ông xuất bản tờ "Vô sản" (tháng 5 năm 1932), làm báo Pháp ngữ "La Lutte" ("Tranh đấu"; tháng 4 năm 1933); nhóm trí thức làm báo này được gọi là "Les Lutteurs" ("nhóm Tranh đấu") theo tên tờ báo. Có tên trong đó còn có Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Huỳnh Văn Phương, Trần Văn Thạch và Dương Bạch Mai. Vì những hoạt động này Tạ Thu Thâu bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam từ tháng 8/1932 đến tháng 1/1933. Ngay sau khi cấm Đại Việt Quốc dân Đảng hoạt động, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tố cáo những người Trotskyist (nhóm La Lutte và nhóm Liên minh Cộng sản Quốc tế) là kẻ thù của mình. Đảng cộng sản Đông Dương và những người Trotskyist từ lâu đã chỉ trích nhau là tay sai đế quốc. Tuy nhiên xung đột của hai nhóm này trước năm 1945 chỉ thể hiện bằng báo chí, diễn thuyết, truyền đơn. Sau năm 1945, hai nhóm bất đồng quan điểm về việc thực hiện cách mạng xã hội và cách đối phó với việc Đồng Minh đổ bộ vào Nam Kỳ. Những người Trotskyist muốn thực hiện ngay lập tức một cuộc cách mạng xã hội và vũ trang quần chúng chống lại lực lượng Đồng Minh còn Đảng Cộng sản Đông Dương muốn thực hiện giải phóng dân tộc trước rồi làm cách mạng xã hội đồng thời thỏa hiệp với Đồng Minh để giành độc lập từng bước. Ngày 7 và 8 tháng 9 năm 1945, một số thành viên Trotskyist cùng tín đồ Phật giáo Hòa Hảo tham gia một cuộc tấn công đẫm máu nhưng bất thành nhằm vào các thành viên Việt Minh ở Cần Thơ. Họ tổ chức một cuộc biểu tình của khoảng 20.000 tín đồ Phật giáo Hòa Hảo với các khẩu hiệu "Võ trang quần chúng chống thực dân Pháp. Tẩy uế các phần tử thúi nát trong Ủy ban Hành chánh Nam bộ".
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Việt Minh huy động Thanh niên Tiền phong bắn vào đoàn biểu tình khiến nhiều người chết và bị thương. Ngay sau đó, Dương Bạch Mai tống giam những người Trotskyist tại Sài Gòn. Binh lính Anh tìm thấy họ đêm 22/9/1945 và giao nộp cho người Pháp. Sau khi được thả, những người Trotskyist tổ chức tấn công quân Anh, Pháp theo lời kêu gọi Nam Bộ kháng chiến của Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ do Trần Văn Giàu đứng đầu. Trong một đợt tổng rút quân của lực lượng kháng chiến Nam Bộ giữa tháng 10/1945, Đảng Cộng sản Đông Dương đã truy lùng, bắt giữ và hành quyết một cách có hệ thống khoảng 20 lãnh đạo phe Trotskyist trong đó có Phan Văn Hùm, một lãnh đạo có uy tín của phe Trotskyist. Những thành viên Trotskyist khác phải nương tựa Hòa Hảo và các đảng phái quốc gia khác ở đồng bằng sông Cửu Long. Cuối năm 1945, trên đường ra Hà Nội, vừa đến Quảng Ngãi, ông bị giết. Một số ý kiến khác cho rằng sau khi Nhật đảo chính Pháp vào tháng 9 năm 1945, Tạ Thu Thâu về Nam Kỳ. Trên đường về, ông bị Việt Minh bắt và sau đó xử tử tại Quảng Ngãi. Phan Văn Hùm cũng là một thành viên nổi bật trong nhóm Trotskyist. Đầu năm 1946, khi Pháp đánh chiếm lại Nam Bộ, Phan Văn Hùm bị Kiều Đắc Thắng giết tại miền Đông Nam Bộ. Tại miền Bắc, các chính quyền địa phương được lệnh phát hiện, bắt giữ và tống giam những người Trotskyist tuy Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không ra văn bản nào cấm lực lượng này hoạt động. Đến năm 1946, những người Trotskyist tại miền Bắc không còn là mối lo ngại đối với chính quyền hoặc không còn người Trotskyist nào bị phát hiện. Trên báo chí, từ Trotskyist vẫn tiếp tục xuất hiện là để cảnh cáo những nhân viên nhà nước công khai phàn nàn đồng lương không đủ sống hay những người dám đấu tranh để người lao động kiểm soát nhà máy, xí nghiệp. Hòa Hảo. Tây Nam Bộ là nơi phát tích của giáo phái Hòa Hảo. Đa số tín đồ là những người dân hiền hòa, yêu nước.
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Nhằm thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân, Ủy ban Nhân dân Nam Bộ mới thành lập sau Cách mạng tháng Tám đã mời người sáng lập giáo phái Hòa Hảo là Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ giữ chức ủy viên đặc biệt của Ủy ban. Tuy nhiên, theo Việt Minh, một số lãnh đạo Hòa Hảo có nhiều tham vọng về quyền hành đã lợi dụng danh nghĩa của giáo phái Hòa Hảo đòi giao những tỉnh có đông tín đồ (như Cần Thơ, Long Xuyên, Châu Đốc) cho họ cai quản, quản lý. Khi yêu sách này không được đáp ứng, họ 2 lần tổ chức biểu tình tuần hành, kéo vào thị xã Long Xuyên (cuối tháng 8-1945) và thị xã Châu Đốc (đầu tháng 9-1945) định gây bạo loạn cướp chính quyền. Lực lượng vũ trang cách mạng được huy động đến kịp thời giải tán. Theo Archimedes L.A Patti, Hòa Hảo chống lại chủ trương của Việt Minh muốn đàm phán với Đồng Minh nên tổ chức biểu tình đòi vũ trang quần chúng chống lại việc quân Anh, Pháp đổ bộ vào Nam Kỳ. Ngày 9/9/1945, những người đứng đầu Phật giáo Hòa Hảo lại tổ chức tuần hành ở thị xã Cần Thơ với lý do "đi rước Đức Thầy", theo Việt Minh Hòa Hảo dự định cướp chính quyền. Chính quyền tỉnh Cần Thơ giải tán cuộc biểu tình này, bắt những người cầm đầu, đưa ra tòa xét xử và kết án tử hình 3 người đứng đầu. Đối với tín đồ, chính quyền giải thích ý đồ của lãnh đạo Hòa Hảo, khuyên họ trở về nhà tiếp tục làm ăn, không để bị lợi dụng. Với chủ trương đại đoàn kết toàn dân, ngày 6 tháng 2 năm 1946, tại Chợ Mới (Long Xuyên), Nguyễn Hữu Xuyến, Trung đoàn trưởng Khu 8, đã ký với Trần Văn Soái (Năm Lửa), thủ lĩnh một nhóm Hòa Hảo Dân Xã, một thỏa ước nhằm gác bỏ mọi hiềm khích và hiểu lầm cũ, cùng nhau đoàn kết chống thực dân Pháp. Thỏa ước này gồm 3 điều khoản: Tháng 6 năm 1946 Hòa Hảo tổ chức lại lực lượng vũ trang lấy tên Nghĩa quân Cách mạng Vệ quốc Liên đội Nguyễn Trung Trực. Pháp hỗ trợ những người chống chính quyền của Việt Minh trong đạo Hòa Hảo, trang bị và cung cấp tiền bạc cho họ.
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Pháp liên minh với những người đứng đầu Hòa Hảo có tư tưởng chống Việt Minh, lập ra nhiều đơn vị vũ trang mới ngoài những đơn vị vũ trang Hòa Hảo khác thành lập từ năm 1944, chiếm cứ một số vùng ở Tây Nam Bộ. Được Pháp trợ giúp, những người chống Việt Minh lập ra 4 nhóm nhằm mục đích để chống lại Việt Minh. Các nhóm này gồm: Sau một thời gian tạm hòa hoãn với Việt Minh, từ tháng 3-1947, nhóm Trần Văn Soái bỏ không tham gia kháng chiến do Việt Minh lãnh đạo nữa, mà cùng một tiểu đoàn Lê dương Pháp mở cuộc càn quét lớn vào 5 làng ở vùng Tân Châu (Châu Đốc). Đại đội 65 Vệ quốc đoàn cùng dân quân du kích địa phương đã đánh trả quyết liệt, buộc lực lượng của Năm Lửa và quân Pháp phải rút lui. Cuối tháng 3 đầu tháng 4-1947 ở Tịnh Biên, Tri Tôn (Châu Đốc), lực lượng Hòa Hảo và Cao Đài Tây Ninh chống Việt Minh liên tục đánh phá vùng Việt Minh kiểm soát, tàn sát thường dân, đốt phá xóm làng, truy lùng cán bộ Việt Minh và quần chúng cốt cán của kháng chiến. Theo Việt Minh, những người cầm đầu Dân xã Hòa Hảo phát động một cuộc tắm máu ở Tây Nam Bộ vào ngày 6/4/1947. Những người dân không ủng hộ Dân xã Hòa Hảo đều bị xem là kẻ thù, bị giết, buộc đá vào cổ, thả trôi sông. Dân chúng vô cùng phẫn uất trước hành động dã man của Dân xã Hòa Hảo. Ngoài việc giết hại dân thường, quân Dân xã Hòa Hảo còn tổ chức các hành động cướp phá ở các vùng do Việt Minh kiểm soát tại các tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc, Cần Thơ. Ngày 16 tháng 4 năm 1947 Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ đột ngột mất tích khi đến Tân Phú, Đồng Tháp Mười để hòa giải xung đột giữa Việt Minh và Phật giáo Hòa Hảo. Các tài liệu của phương Tây, Việt Nam Cộng hòa đều cho rằng Việt Minh thủ tiêu Huỳnh Phú Sổ. Sau khi Huỳnh Phú Sổ mất tích, quan hệ Việt Minh - Hòa Hảo hoàn toàn đổ vỡ. Năm 1947, các lực lượng Việt Minh vừa tổ chức tuyên truyền vũ trang, vừa mở một trận đánh lớn tại Kinh 13.
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Chỉ huy quân sự của Dân xã Hòa Hảo lừa dối tín đồ nói: "Súng Việt Minh bắn không nổ!", xua tín đồ tràn vào trận địa của Việt Minh. Lực lượng vũ trang của Việt Minh một mặt giải thích cho các tín đồ hiểu, mặt khác đánh quân của Dân xã Hòa Hảo, diệt nhiều lính, thu nhiều súng, có 1 Bazoka. Ở khu vực giữa Phú An - Phú Lâm (Tân Châu), Đại đội 65 đánh bật lực lượng của Dân xã ra khỏi vùng này. Việt Minh mở rộng công tác vũ trang tuyên truyền về hướng Thoại Sơn, tiếp tục tiến công ở Ba Thê, đánh lính Lê dương đi tàu sắt đổ bộ lên Mốp Văn và Núi Sập, diệt trên 200 lính. Tháng 6/1947, nhằm thu hút tín đồ Hòa Hảo tạo thành khối đoàn kết các lực lượng chống Pháp, Việt Minh thành lập Ban Hòa Hảo vận tại Chợ Mới - Nhà Bàn, tập trung hoạt động vùng Long Xuyên, Châu Đốc, tuyên truyền chính sách đại đoàn kết dân tộc, vận động tín đồ Hòa Hảo cùng toàn dân kháng chiến chống xâm lược Pháp. Do Phật giáo Hòa Hảo có tín đồ rất đông ở miền Tây, nhất là các tỉnh: Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên, Cần Thơ… Đạo này có tổ chức chính trị là Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng làm nòng cốt, nên có nhiều diễn biến phức tạp ngay cả trong nội bộ của đạo. Những người chống Việt Minh trong đạo Hòa Hảo, tổ chức nhiều lực lượng vũ trang hợp tác với Pháp, áp bức khủng bố dân chúng ủng hộ Việt Minh, gây ra nhiều tội ác. Dù vậy, đa số tín đồ là nông dân, khi Việt Minh tích cực vận động thì một số tín đồ Hòa Hảo giác ngộ và tham gia cuộc kháng chiến do Việt Minh lãnh đạo. Sư thúc Huỳnh Văn Trí là người chỉ huy một đơn vị vũ trang trong kháng chiến đã có công lớn trong công cuộc vận động tín đồ Hòa Hảo tham gia kháng chiến. Trong những năm 1949 - 1950, nhiều đồn bốt đã án binh bất động, "trung lập hóa", không đàn áp dân chúng và tránh không đụng độ với lực lượng Việt Minh. Cao Đài. Đạo Cao Đài là một tôn giáo được thành lập ở Việt Nam vào đầu thế kỷ XX, năm 1926.
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Tên gọi Cao Đài theo nghĩa đen chỉ "một nơi cao", nghĩa bóng là nơi cao nhất ở đó Thượng đế ngự trị; cũng là danh xưng rút gọn của Thượng đế trong tôn giáo Cao Đài, vốn có danh xưng đầy đủ là "Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát". Để tỏ lòng tôn kính, một số tín đồ Cao Đài thường gọi tôn giáo của mình là đạo Trời. Cả người Nhật lẫn Việt Minh đều tranh thủ ra sức lôi kéo các nhóm Cao Đài. Do sự vận động của các cán bộ Việt Minh, một nhóm các chức sắc Cao Đài, nòng cốt ở các phái Tiên Thiên, Ban Chỉnh Đạo và Minh Chơn Đạo, đã bí mật thành lập Hội Cao Đài Cứu Quốc. Hội hoạt động chủ yếu ở các vùng xa ở Tây Nam Bộ, bí mật tập hợp lực lượng trên nền tảng Thanh niên Đạo đức đoàn dưới sự lãnh đạo của Cao Triều Phát cố vấn Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, có xu hướng chống cả Pháp lẫn Nhật. Người Nhật thì can thiệp mở lại Tòa Thánh Tây Ninh tại Sài Gòn, đổi lại việc Giáo sư Thượng Vinh Thanh (Trần Quang Vinh), người tạm thời thay mặt Hộ pháp Phạm Công Tắc lãnh đạo các tín đồ Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh, tập hợp các tín đồ hợp tác với quân đội Nhật để chống Pháp. Khá đông tín đồ Cao Đài được tuyển làm nhân công của xưởng đóng tàu Nichinan của quân đội Nhật tại Nam Bộ. Một lực lượng bán vũ trang Cao Đài được ra đời với tên gọi Nội ứng nghĩa binh, dưới danh nghĩa được Hoàng thân Cường Để chỉ thị thành lập để liên minh với Nhật Bản. Trong Cách mạng tháng Tám, nhiều nhóm bán vũ trang Cao Đài đã gia nhập Cao Đài Cứu Quốc và tham gia giành chính quyền ở khắp Nam Bộ. Sau khi giành được chính quyền cuối tháng 8 năm 1945, nhiều chức sắc Cao Đài được chính quyền Việt Minh mời ra tham chính. Tại Tây Ninh, một tín đồ Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh là ông Trương Văn Xương được mời làm Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chánh tỉnh, một chức sắc Cao Đài thuộc Tòa Thánh Tây Ninh khác là Giáo sư Thượng Chữ Thanh (Đặng Trung Chữ) được mời làm cố vấn.
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Khi Pháp tái chiếm Nam Bộ, lực lượng vũ trang Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh tham chiến tại các mặt trận số 1 và số 2, chiến đấu ở mặt Đông và Bắc Sài Gòn. Sau khi vào Nam, Đặc phái viên Trung ương Nguyễn Bình đã tổ chức hội nghị An Phú Xã, thống nhất tổ chức các đơn vị vũ trang thành các chi đội Vệ Quốc đoàn. Lực lượng vũ trang Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh được tổ chức thành 2 chi đội số 7 do Nguyễn Thanh Bạch chỉ huy và chi đội số 8 do Nguyễn Hoài Thanh chỉ huy. Tuy nhiên, trước sức mạnh của quân Pháp, các mặt trận nhanh chóng tan vỡ. Nhiều đơn vị vũ trang tan rã, hoặc trở thành những lực lượng quân phiệt cát cứ, không chịu sự chỉ huy thống nhất. Một số chức sắc cao cấp và chỉ huy quân sự Cao Đài đã đưa lực lượng của mình rút về Tây Ninh và xây dựng các căn cứ để bảo vệ Tòa Thánh Tây Ninh. Hành động cát cứ này là lý do để các phần tử Việt Minh quá khích lên án các tín đồ Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh là phản bội. Một vài cuộc xung đột đẫm máu đã nổ ra bắt nguồn từ những tín đồ Cao Đài và các phần tử Việt Minh quá khích. Chi đội số 7 và số 8 do Cao Đài chỉ huy bị Việt Minh bao vây tước khí giới. Giáo sư Thượng Vinh Thanh (Trần Quang Vinh) cũng bị bắt tại Chợ Đệm và bị giải giam tại Cà Mau cùng với Giáo sư Hồ Văn Ngà, Chủ tịch Việt Nam Độc lập Đảng. Nắm được sự mâu thuẫn này và để tranh thủ thêm đồng minh trong cuộc chiến chống Việt Minh, chính quyền Pháp cho phép Hộ pháp Phạm Công Tắc trở về Tòa Thánh Tây Ninh, đổi lại các tín đồ Cao Đài sẽ không tấn công người Pháp và được quân Pháp bảo trợ. Thậm chí, chính quyền Pháp còn cho phép các lãnh thổ do Tòa Thánh Tây Ninh kiểm soát có quyền tự trị. Lực lượng vũ trang Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh được chính quyền Pháp bảo trợ và trang bị vũ khí, do Trung tướng Trần Quang Vinh làm Tổng tư lệnh, Thiếu tướng Nguyễn Văn Thành làm Tham mưu trưởng, có vai trò như một lực lượng bổ sung (Forces supplétives), hỗ trợ quân Pháp trong các chiến dịch tấn công Việt Minh.
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Bất đồng trước sự hợp tác của một số chức sắc với quân Pháp, các chức sắc còn lại của Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh đã gia nhập "Cao Đài Cứu Quốc", mở rộng thành "Cao Đài Cứu Quốc 12 phái Hiệp Nhứt" với lập trường tiếp tục ủng hộ kháng chiến chống Pháp. Các lực lượng vũ trang của Cao Đài Cứu Quốc được tập hợp thành Trung đoàn 124, chiến đấu cho đến hết cuộc Kháng chiến chống Pháp dưới quyền chỉ huy của Việt Minh. Phản ứng trước việc này, lãnh đạo Tòa Thánh Tây Ninh tuyên bố trục xuất các chức sắc và tín đồ Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh nào tham gia Cao Đài Cứu Quốc. Bình Xuyên. "Bình Xuyên" nguyên thủy là ấp Bình Xuyên thuộc làng Chánh Hưng, huyện Nhà Bè, Sài Gòn. Kể từ năm 1945, danh xưng "Bình Xuyên" được dùng để mô tả Bộ đội Bình Xuyên với nòng cốt là giới du đãng ven Sài Gòn, hoạt động trong 10 năm (1945 - 1955). Sau khi quân Anh-Pháp gây hấn ở Sài Gòn (23 tháng 9 năm 1945), nhiều lực lượng quân sự chống Pháp được thành lập. Người lập bộ đội thường lấy tên của mình đặt cho lực lượng trong vùng, như bộ đội Tân Quy cũng được gọi là bộ đội Dương Văn Dương, hay gọn hơn là bộ đội Ba Dương. Bộ đội Nhà Bè mang tên bộ đội Hai Nhị, Hai Soái... Khi Dương Văn Dương, thủ lĩnh các nhóm giang hồ Nam Bộ, thống nhất các lực lượng quân sự chống Pháp ở Tân Quy, Tân Thuận, Nhà Bè, Thủ Thiêm, ông đã chọn cái tên "Bình Xuyên" để đặt cho lực lượng thống nhất này. Đây là tên chữ trên bản đồ Sài Gòn - Chợ Lớn để chỉ vùng Hố Bần, còn gọi là Xóm Cỏ, địa bàn hoạt động của lực lượng này. Cái tên "Bình Xuyên" còn hàm chỉ: "Bình" gợi chiến công đánh chiếm và bình định, còn chữ "Xuyên" để chỉ vùng chi chít sông rạch. Bộ đội Bình Xuyên là lực lượng quân sự mạnh nhất ở vùng Đông Nam Bộ thời bấy giờ. Địa bàn hoạt động được tổ chức thành Liên khu Bình Xuyên (gồm các chi đội số 2, 3, 4, 7, 9, 21, 25), đảm trách nhiệm vụ bao vây quân Anh-Pháp ở mạn Nam Sài Gòn.
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Sau khi đặc phái viên trung ương Nguyễn Bình vào tổ chức quân đội, Dương Văn Dương được chỉ định làm Khu bộ phó Khu 7. Sau khi Dương Văn Dương tử trận vào năm 1946, lực lượng Bình Xuyên bị phân hóa. Một bộ phận chống Pháp do Dương Văn Hà (tức Năm Hà, em cùng cha khác mẹ của Dương Văn Dương) chỉ huy, được tổ chức lại và phiên chế chính quy thành Vệ quốc đoàn. Một bộ phận khác do Lê Văn Viễn (tức Bảy Viễn) chỉ huy, li khai năm 1948 và hợp tác với Pháp, sau đó tham gia vào chính phủ Quốc gia Việt Nam. Thành phần này là lực lượng Bình Xuyên được biết đến nhiều nhất vào thập niên 1950. Tháng 12/1947, Đại úy Savani (Thuộc Phòng nhì Pháp, một cơ quan tình báo quốc phòng hải ngoại của Pháp) cho người bí mật tiếp xúc với Bảy Viễn để chuẩn bị lập Chiến khu Quốc gia Rừng Sác. Đầu năm 1948, Bảy Viễn đồng ý đi Đồng Tháp gặp Nguyễn Bình (Nguyễn Bình cho mời Huỳnh Văn Nghệ hay còn gọi là Tám Nghệ đi Rừng Sác để thuyết phục vì biết Bảy Viễn rất nể trọng Tám Nghệ dù ông tướng này không phải dân giang hồ), và để tham gia cuộc họp quan trọng do Nguyễn Bình chủ trì với mục đích phong Bảy Viễn chức Khu trưởng khu 7, đồng thời giải quyết những mâu thuẫn đang tồn tại giữa bộ đội Bình Xuyên của Bảy Viễn và bộ đội Nguyễn Bình. Tại cuộc họp, Bảy Viễn đã trả lời những chất vấn của Nguyễn Bình về những mâu thuẫn nội bộ và tỏ ý nghi ngờ, lưỡng lự trong việc nhận chức Khu trưởng khu 7 mà trước đó Bảy Viễn cho rằng người xứng đáng nhận chức này phải là Huỳnh Văn Nghệ vì chiến công của bộ đội Tám Nghệ vượt xa những chiến công của bộ đội Bảy Viễn. Nguyễn Bình quyết định giải tán các đơn vị thuộc Bình Xuyên, phiên chế thành các đơn vị Vệ quốc đoàn để đối phó âm mưu chia rẽ các lực lượng Quốc gia và Việt Minh của Phòng nhì Pháp, mặc cho rất nhiều những lãnh đạo chủ chốt bên phía Bình Xuyên phản đối quyết định này (Bao gồm cả Mười Trí, một trong những thủ lĩnh chính của Lực lượng Bình Xuyên).
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Nguyễn Long Thành Nam cho rằng Bảy Viễn phản đối quyết liệt vì ông nghĩ Nguyễn Bình đã sát hại Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ và hai lần ám sát Viễn nhưng bất thành. Bảy Viễn nói với Nguyễn Bình ""chúng tôi không hài lòng về cung cách đồng chí đối xử với chúng tôi. Bình Xuyên đã chiến đấu từ trước khi đồng chí vào tới Nam Bộ, đồng chí không hề đề nghị giúp đỡ gì chúng tôi, mà đồng chí chỉ hạ lịnh bắt chúng tôi phải thi hành... Chúng tôi nghĩ rằng các chánh trị viên không có gì để dạy dỗ chúng tôi. Chúng tôi đã ý thức cầm súng chiến đấu vì nền độc lập của tổ quốc, và để đòi tự do. Chúng tôi không chiến đấu cho một chế độ đảng trị, hay để củng cố uy quyền lãnh đạo đã nhẫn tâm tàn sát đồng đội một cách ác độc hơn là đối với quân thù...". Bảy Viễn hỏi Nguyễn Bình vì sao giết giáo chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ thì được Nguyễn Bình trả lời "Đó là kẻ lúc nào cũng mưu tính diệt Cộng sản và cá nhân tôi, cho nên phải tiêu diệt". Bảy Viễn kết tội Nguyễn Bình đã hai lần ám sát ông, Nguyễn Bình phản bác "Chính hắn (Bảy Viễn) đã nhiều lần mưu sát tôi, đoàn hộ vệ của tôi đã chết về tay hắn"". Bảy Viễn từ chối chức Khu trưởng khu 7 và tỏ vẻ bất hợp tác với Việt Minh. Trên đường từ Đồng Tháp trở về Rừng Sác, Bảy Viễn và đoàn tùy tùng bị Trung đoàn 306 của Nguyễn Bình phục kích trong đêm nhưng Bình Xuyên đã đề phòng nên họ thoát khỏi vòng phục kích. Ngày 12 tháng 6 năm 1948, qua sự trung gian móc nối của Đại úy Savani (Trưởng phòng nhì Pháp) cùng Thiếu úy Cistisni, Bảy Viễn họp với 2 sĩ quan Pháp bàn việc hợp tác giữa 2 bên. Ngày 13 tháng 6, Bảy Viễn mở cuộc hành quân để tái chiếm chiến khu Rừng Sác của Việt Minh nhưng không thành vì tướng Nguyễn Bình đã cho củng cố chiến khu này rất chặt chẽ. Ngày 1 tháng 8 cùng năm, Bảy Viễn được Tướng De Latour gắn lon Đại tá và thuộc quyền Tổng trấn Nam phần.
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Từ năm 1948, nhóm Bình Xuyên li khai là một lực lượng quân sự bổ sung nằm trong khối Liên hiệp Pháp dưới danh xưng "Công an Xung phong", địa bàn hoạt động ở xung quanh Sài Gòn. Dưới sự đồng thuận của Pháp, Bình Xuyên kiểm soát nhiều sòng bài, nhà thổ, cùng những thương cuộc lớn nhỏ khắp vùng Sài Gòn - Chợ Lớn trong đó phải kể Casino Grande Monde (Đại Thế giới), Casino Cloche d'Or (Kim Chung), Bách hóa Noveautes Catinat. Có tài liệu còn cho thấy Bảy Viễn móc nối với người đảo Corse (Thuộc nước Pháp) để buôn thuốc phiện và ma tuý công khai. Trong giới giang hồ miền Nam khi đó thì Bảy Viễn là người thành công nhất về quyền lực, sự giàu sang cũng như danh vọng. Sau Hiệp định Genève, Bình Xuyên phải sáp nhập vào Quân đội Quốc gia Việt Nam nhưng ngầm không phục tùng. Đến năm 1955 thì nhóm Bình Xuyên bị lực lượng của Ngô Đình Diệm tiêu diệt. Bảy Viễn và các thuộc cấp được Pháp giải thoát và đưa sang Pháp bằng phi cơ, bắt đầu cuộc sống lưu vong. Công giáo. Người Công giáo Việt Nam tích cực ủng hộ sự độc lập của Việt Nam, đặc biệt thấy rõ khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được tuyên bố thành lập vào tháng 9 năm 1945. Ngày tuyên ngôn độc lập mùng 2 tháng 9 khi đó trùng vào ngày lễ kính các đấng tử đạo Việt Nam. Trong chính quyền Việt Nam có những nhân vật Công giáo nổi bật như Nguyễn Mạnh Hà, Ngô Tử Hạ, Vũ Đình Tụng. Người Công giáo Việt Nam chống lại việc thực dân Pháp quay trở lại Đông Dương, và họ trở nên dấn sâu vào phong trào độc lập dân tộc. Chính quyền Việt Nam cử lãnh đạo cấp cao tới dự lễ tấn phong Giám mục Tađêô Lê Hữu Từ và lễ thành lập Liên đoàn Công giáo tại Phát Diệm. Là người quyết liệt chống Pháp, Giám mục Lê Hữu Từ nhận lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh làm cố vấn tối cao của chính phủ. Trong giai đoạn ban đầu này, tiếp xúc giữa Công giáo và cộng sản tại miền Bắc diễn ra trực tiếp và ở cấp cao nhất, còn tại miền Nam, nơi sớm bị Pháp tái chiếm, các cuộc liên lạc này ít chính thức hơn.
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Phong trào kháng Pháp của người Công giáo ở Nam Bộ cũng diễn ra sôi nổi, nhiều người trong số đó ủng hộ Việt Minh như bác sĩ Nguyễn Tấn Gi Trọng, luật sư Thái Văn Lung, luật sư Nguyễn Thành Vĩnh. Nhiều giáo sĩ Công giáo Việt Nam đề cao tinh thần dân tộc, chống thực dân đồng thời cố gắng giữ người Công giáo khỏi bị cuốn vào cuộc chiến giữa thực dân Pháp và Việt Minh. Hai địa phận Phát Diệm và Bùi Chu được vũ trang thành khu tự vệ Công giáo. Trong suốt cuối thập niên 1940, khu vực này giữ được sự độc lập khỏi cả thực dân Pháp và Việt Minh. Nhiều người dân lương, giáo đã kéo về đây để tránh tình hình chiến sự căng thẳng. Trong suốt Chiến tranh Đông Dương, Tòa Thánh Vatican không sẵn lòng ủng hộ thực dân Pháp lôi kéo người Công giáo Việt Nam. Vấn đề là phong trào dân tộc ở Việt Nam lại do Đảng cộng sản lãnh đạo. Vatican cho rằng thức hệ cộng sản với chủ trương nhà nước vô thần muốn loại bỏ các tôn giáo. Tháng 6 năm 1948, Vatican nhận định rằng người cộng sản Việt Nam "từng chút một" bộc lộ bản chất không phải là những người yêu nước mà là một đảng chống tôn giáo sẽ tiến hành việc "bách hại có hệ thống" người Công giáo Việt Nam. Ngày 1 tháng 7 năm 1949, khi Đảng cộng sản đang dần kiểm soát toàn bộ Trung Quốc, Giáo hoàng Piô XII ra sắc lệnh cấm tín hữu Công giáo khắp thế giới cộng tác với phong trào cộng sản. Từ năm 1950, cả thực dân Pháp và Việt Minh đều muốn kiểm soát khu tự trị Phát Diệm–Bùi Chu, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trở nên gắn bó với khối cộng sản quốc tế, trong khi Vatican thì lên án mọi sự cộng tác với cộng sản, còn Quốc gia Việt Nam phi cộng sản được Hoa Kỳ hậu thuẫn đang trỗi dậy, dẫn đến việc các giáo sĩ Việt Nam nghiêng về phía chống cộng nhưng không từ bỏ chủ nghĩa dân tộc và chống thực dân. Năm 1951 tại Hà Nội, các đấng bản quyền Đông Dương ra thư chung thể hiện lập trường chống cộng sản gay gắt: "Chẳng những không được nhập đảng cộng sản, mà lại anh em không thể cộng tác bất kỳ dưới hình thức nào có thể giúp đỡ họ nắm chính quyền."
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Lá thư thôi thúc lòng yêu nước và đức bác ái: "Lòng ái quốc là tình yêu tổ quốc, là yêu quê cha đất tổ … chúng tôi khích lệ và vun trồng nó như các nhân đức Kitô giáo khác." Năm 1951, thực dân Pháp kiểm soát về mặt hành chính và quân sự đối với khu Phát Diệm–Bùi Chu, chấm dứt sự tự trị của nơi này. Thái độ chính trị hoặc trung lập chính trị của người Công giáo Việt Nam cho thấy sự đa dạng: họ không phải là một khối đồng nhất. Đông đảo hơn cả là những giáo hữu theo đường lối của các giám mục, thiểu số là những người ủng hộ Bảo Đại, hoặc là theo Việt Minh. Tại Địa phận Hà Nội, Giám mục Giuse Maria Trịnh Như Khuê xử lý quân bình trước cả hai phía. Theo trang VietCatholic ở hải ngoại, các nghiên cứu gần đây cho thấy Tòa Thánh và giới Công giáo Việt Nam không cộng tác với thực dân Pháp như thường được tuyên truyền. Trong Chiến tranh Đông Dương. Tháng 2 năm 1951, Đảng Cộng sản Đông Dương (lúc này đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam) ra hoạt động công khai. Hội nghị hợp nhất từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 3 năm 1951 tại xã Vinh Quang, Chiêm Hóa, Tuyên Quang đã tuyên bố hợp nhất Việt Minh và Hội Liên Việt thành Mặt trận Liên Việt. Tuy vậy Mặt trận Liên Việt vẫn được nhiều người quen gọi là Việt Minh. Năm 1955, Mặt trận Liên Việt tuyên bố hoàn thành nhiệm vụ và tự giải tán. Ngày 10 tháng 9 năm 1955, một tổ chức kế thừa Mặt trận Liên Việt là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời và hoạt động cho đến ngày nay. Tên gọi Việt Cộng và Vi Xi (VC). Năm 1954, tại Điện Biên Phủ quân Pháp đã đầu hàng. Theo quy định của Hiệp định Genève, Việt Nam được tạm thời chia cắt thành hai vùng tập kết quân sự và một cuộc tổng tuyển cử tự do trên toàn quốc sẽ được tổ chức trong vòng 2 năm để thống nhất đất nước. Phần lớn lực lượng của Việt Minh được tập trung về phía Bắc vĩ tuyến 17. Quân đội thực dân Pháp và đồng minh, Quân đội Quốc gia Việt Nam, tập trung về phía Nam vĩ tuyến 17. Các nhà lãnh đạo Việt Minh tin rằng với sự ủng hộ của đa số dân chúng, họ chắc chắn sẽ giành thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử.
Việt Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Tuy nhiên, Ngô Đình Diệm, dựa vào sự ủng hộ của Hoa Kỳ thông qua Chính sách Truman, đã đè bẹp lực lượng dân chủ đối lập, kẻ thù cá nhân cũng như các nhân vật tình nghi ủng hộ cộng sản tại miền Nam và tuyên bố thành lập nước Việt Nam Cộng hòa, từ chối tiến hành tổng tuyển cử. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, tiếp tục đấu tranh để thống nhất đất nước bằng tổng tuyển cử theo Hiệp định Genève. Một phần lực lượng Việt Minh tại miền Nam lui vào hoạt động bí mật và sau này đã tuyên bố thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam vào năm 1960. Trong các tài liệu, sách báo của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa, họ được gọi là Việt Cộng, còn sách báo phương Tây gọi là "Viet Cong", hay "Victor Charlie", "Vietnamese Communist" hay "V.C." (Vi Xi).
Thuyết Truman
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1233
Học thuyết Truman được đề xuất bởi Tổng thống Truman của Hoa Kỳ vào ngày 12 tháng 3 năm 1947, nó dựa trên chính sách ngăn chặn chủ nghĩa Cộng sản và được thông qua vào ngày 22 tháng 5 năm 1947. Học thuyết này nêu rõ Hoa Kỳ sẽ viện trợ cho bất kỳ nước nào mà họ thấy là "đang bị đe dọa bởi chủ nghĩa Cộng sản", và được dùng để ngăn ảnh hưởng chính trị của Liên Xô. Lúc đầu, học thuyết Truman được trình lên nghị viện Hoa Kỳ bởi tổng thống Truman vào ngày 12 tháng 3 năm 1947 và được phát triển thêm đến ngày 4 tháng 7 năm 1948 khi ông cam kết ngăn sự lan truyền của chủ nghĩa Cộng sản ở Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Hơn nữa, học thuyết Truman đã được sử dụng để hỗ trợ các quốc gia thân Mỹ chống lại các quốc gia thân Liên Xô khác như Đại Hàn Dân Quốc trong Chiến tranh Triều Tiên, Pháp và Quốc gia Việt Nam trong Chiến tranh Đông Dương, Việt Nam Cộng hòa trong Chiến tranh Việt Nam. Nói một cách tổng quát hơn, Học thuyết Truman là sự hỗ trợ của Mỹ đối với các quốc gia khác bị Moskva đe dọa. Nó trở thành nền tảng trong chính sách đối ngoại của Mỹ, và dẫn đến việc thành lập NATO vào năm 1949, một liên minh quân sự vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Các nhà sử học thường sử dụng bài phát biểu của Truman để xác định thời điểm bắt đầu Chiến tranh Lạnh. Học thuyết Truman được mở rộng một cách không chính thức để trở thành cơ sở cho chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh, áp dụng trên khắp châu Âu và trên toàn thế giới. Học thuyết Truman đã trực tiếp dẫn đến học thuyết Domino, mở đường cho việc Hoa Kỳ đưa quân tham chiến hoặc tài trợ cho các cuộc đảo chính tại hàng loạt các quốc gia trên thế giới.
Advanced Micro Devices
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1234
Advanced Micro Devices (AMD) là nhà sản xuất linh kiện bán dẫn tích hợp đa quốc gia có trụ sở tại Santa Clara, California và Austin, Texas. Chuyên phát triển bộ xử lý máy tính và các công nghệ liên quan cho thị trường tiêu dùng và kinh doanh. Mặc dù ban đầu, họ tự sản xuất bộ vi xử lý từ đầu đến cuối, sau đó công ty đã thuê gia công sản xuất các bộ xử lý của mình, sau khi bộ phận sản xuất bán dẫn của họ là GlobalFoundries tách ra vào năm 2009. Các sản phẩm chính của AMD bao gồm có bộ vi xử lý, chipset bo mạch chủ, bộ xử lý nhúng, bộ xử lý đồ họa cho máy chủ, máy trạm, máy tính cá nhân và các ứng dụng hệ thống nhúng. AMD là nhà cung cấp lớn thứ hai và là đối thủ đáng kể duy nhất của Intel trên thị trường cho các bộ vi xử lý dựa trên x86. Kể từ khi mua lại ATI vào năm 2006, AMD và đối thủ cạnh tranh Nvidia đã duy trì sự độc quyền trong thị trường Bộ xử lý đồ họa (GPU). Lịch sử. Advanced Micro Devices thành lập năm 1969 từ một nhóm kỹ sư thành viên tách ra từ Fairchild Semiconductor, trong số đó có cả Jerry Sanders. Ngày nay AMD trở thành một công ty đa quốc gia với hàng chục ngàn Edith nhân viên tại châu Âu, Nhật Bản, Hoa Kỳ... với tổng doanh số (2003) là 3,5 tỷ đôla Mỹ. Một số linh kiện của các thế hệ đời trước của máy tính Apple cũng do AMD cung cấp. Thế hệ vi xử lý mới nhất của hãng hiện nay (đời thứ 8) hỗ trợ tập lệnh mở rộng AMD64 cho điện toán 64 bit là AMD Athlon 64 cho thị trường máy tính để bàn và AMD Opteron cho thị trường máy chủ và trạm làm việc. Năm 2007 AMD đã mua lại hãng sản xuất chip đồ hoạ ATI Technologies càng làm đa dạng thêm các sản phẩm của mình. Các dòng sản phẩm. AMD nổi tiếng với dòng sản phẩm Athlon cho thị trường cao cấp và Duron cho thị trường cấp thấp giá rẻ. Một số linh kiện của các thế hệ đời trước của máy tính Apple cũng do AMD cung cấp. Thế hệ vi xử lý mới nhất của hãng hiện nay (đời thứ 8) hỗ trợ tập lệnh mở rộng AMD64 cho điện toán 64-bit là AMD Athlon 64 cho thị trường máy tính cá nhân và AMD Opteron cho thị trường máy chủ và máy trạm làm việc. Năm 2006 AMD đã mua lại hãng sản xuất chip đồ hoạ ATI Technologies càng làm đa dạng thêm các sản phẩm của mình. Đến năm 2017, AMD trở lại mạnh mẽ với sự ra mắt dòng sản phẩm CPU Ryzen và nâng cấp Card đồ họa Radeon với ưu điểm là giá thành rẻ và hiệu năng cao khi so với các đối thủ cạnh tranh như Intel và Nvidia.
Advanced Micro Devices
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1234
Như dành cho các máy chủ doanh nghiệp một món quà, dòng Epyc của hãng là dòng CPU đầu tiên có 32 lõi và 64 luồng với socket SP3. Năm 2018, AMD tung ra các bộ vi xử lý Ryzen thế hệ thứ 2 với kiến trúc Zen+ cùng với dòng sản phẩm Ryzen Mobile tiết kiệm điện cho máy tính xách tay như mẫu HP Envy x360. Tuy rằng trước đó đã có các sản phẩm máy tính xách tay sử dụng CPU AMD Ryzen như Asus ROG GL702ZC nhưng sử dụng CPU Ryzen cho máy tính để bàn. Giữa năm 2019, AMD tiếp tục cho ra mắt dòng sản phẩm Ryzen thế hệ thứ 3 với kiến trúc Zen 2 dựa trên tiến trình 7 nm, hứa hẹn hiệu năng cải thiện đáng kể cũng như duy trì lợi thế số nhân vượt trội so với đối thủ với mức giá phải chăng. Về đồ họa máy tính, sau khi mua lại ATI Technologies, AMD tiếp tục phát triển dòng sản phẩm Radeon cho phân khúc người dùng phổ thông, Radeon Pro/FirePro cho phân khúc người dùng chuyên nghiệp cũng như các sản phẩm cho doanh nghiệp và máy chủ, cạnh tranh trực tiếp với đối thủ Nvidia.
Pin sạc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1235
Nguồn điện thứ cấp hay ắc quy (gốc tiếng Pháp "accumulateur") hay pin sạc, pin thứ cấp là loại pin có thể tái sử dụng nhiều lần bằng cách cắm điện và đặt vào bộ sạc để sạc lại. Pin sạc hiện nay trên thị trường chủ yếu là ba loại sử dụng các chất hóa học khác nhau gồm: NiCd, NiMH và Lithium. Lịch sử. Ắc quy chì - acid. Gồm có các bản cực bằng chì và chì oxide ngâm trong dung dịch acid sulfuric. Các bản cực thường có cấu trúc phẳng, dẹp, dạng khung lưới, làm bằng hợp kim chì antimon, có nhồi các hạt hóa chất tích cực. Các hóa chất này khi được nạp đầy là dioxide chì ở cực dương, và chì nguyên chất ở cực âm. Các bản cực được nối với nhau bằng những thanh chì ở phía trên, bản cực dương nối với bản cực dương, bản cực âm nối với bản cực âm. Chiều dài, chiều ngang, chiều dầy và số lượng các bản cực sẽ xác định dung lượng của bình ắc-quy. Thông thường, các bản cực âm được đặt ở bên ngoài, do đó số lượng các bản cực âm nhiều hơn bản cực dương. Các bản cực âm ngoài cùng thường mỏng hơn, vì chúng sử dụng diện tích tiếp xúc ít hơn. Chất lỏng dùng trong bình ắc quy này là dung dịch acid sunfuaric. Nồng độ của dung dịch biểu trưng bằng tỉ trọng đo được, tuỳ thuộc vào loại bình ắc quy, và tình trạng phóng nạp của bình. Trị số tỉ trọng của bình ắc quy khi được nạp đầy được quy ra ở 25⁰C (77⁰F) được cho ở bảng sau: Dung lượng của bình ắc quy thường được tính bằng ampe giờ (AH). AH đơn giản chỉ là tích số giữa dòng điện phóng với thời gian phóng điện. Dung lượng này thay đổi tuỳ theo nhiều điều kiện như dòng điện phóng, nhiệt độ chất điện phân, tỉ trọng của dung dịch, và điện thế cuối cùng sau khi phóng. Các biến đổi của thông số của bình ắc-quy được cho trên các biểu đồ sau: Ắc quy sắt kền. Còn gọi là bình ắc quy ankalin, gồm các bản cực làm bằng oxy hydrat - kền, và các bản cực âm bằng sắt thuần ngâm trong dung dịch hydroxide kali. Các bản cực thường có cấu trúc phẳng, và dẹp, làm bằng hợp kim thép có mạ kền.
Pin sạc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1235
Các bản cực được chế tạo có các quai ở trên để có thể dùng bu lông xiết dính lại với nhau, bản cực dương nối với bản cực dương, bản cực âm nối với bản cực âm. Chiều dài, chiều ngang, chiều dầy, số lượng các bản cực sẽ xác định dung lượng của bình ắc quy. Điện thế danh định của bình là 1,2 vôn. Điện thế thực sự của bình phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như đang hở mạch, hay đang phóng, hay được nạp bao nhiêu. Thông thường, Điện thế hở mạch biến thiên từ 1,25 đến 1,35 vôn, tuỳ thuộc vào tình trạng nạp. Chất lỏng trong bình này là dung dịch hydrôxít kali, có pha thêm chất xúc tác tuỳ thuộc vào nhà chế tạo, thường là dioxide lithi. Nồng độ của dung dịch, biểu trưng bằng tỉ trọng đo được, không tuỳ thuộc vào loại bình ắc quy, và cũng không tuỳ thuộc vào tình trạng phóng nạp của bình, do nó không tham gia vào phản ứng hóa học. tỉ trọng suy ra ở 25 độ C (77 độ F) từ 1,210 đến 1,215 g/cm³. Trị số này thực tế giảm nhẹ theo thời gian, do dung dịch có khuynh hướng bị cacbônát hoá, do tiếp xúc với không khí. Khi trị số này giảm xuống tới 1,160 g/cm³, nó có thể làm thay đổi dung lưọng của bình, và cần phải thay thế. Tình trạng này có thể xảy ra vài lần trong suốt tuổi thọ của bình. Ngoài ra, chỉ có một lý do duy nhất có thể làm thay đổi tỉ trọng của bình, đó là khi bình ắc quy đã phóng quá giới hạn bình thường, nghĩa là tới điện thế gần bằng không. Khi đó, các phần tử lithi chuyển ra dung dịch làm tăng tỉ trọng lên, có thể tăng thêm từ 0,025 đến 0,030 g/cm³. Tác động này có thể loại bỏ khi nạp bình ắc quy trở lại. Dung lượng của bình, cách tính cũng như bình ắc quy chì - acid, nhưng các thông số và các hệ số hiệu chỉnh cũng khác. Đặc tuyến của bình ắc quy sắt-kền được vẽ ở các hình dưới đây. Các phương pháp phóng và nạp. Nạp ắc quy lần thứ nhất. Ắc quy mới lắp hoặc sau khi sửa chữa thay thế bản cực xong, phải nạp hình thành. Sau khi đã đổ dung dịch vào các bình ắc quy phải để cho ắc quy ổn định từ 2 đến 4 giờ mới được nạp. Nạp hình thành ắc quy chì.
Pin sạc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1235
Nạp hình thành ắc quy chì. Việc nạp hình thành ắc quy được tiến hành theo các bước: Kết thúc giai đoạn nạp hình thành được xác định theo các điều kiện sau: Ghi chú: trước khi thực hiện chương trình này, phải lập chương trình thật cụ thể, để việc thực hiện được chính xác. Chất lượng và tuổi thọ sau này của bình phụ thuộc rất nhiều vào việc nạp hình thành ban đầu. Không được để quá nạp, vì bản cực sẽ bị sunfat hoá, làm giảm tuổi thọ của ắc quy. Dòng điện nạp không được quá 0,1 lần dung lượng định mức. Nhiệt độ chất điện phân không được vượt quá 40 độ C. Nếu nhiệt độ vượt quá trị số này thì phải ngưng nạp để hạ nhiệt độ. Tuy nhiên, vào giai đoạn đầu khi chưa truyền cho ắc quy đủ 4 đến 5 lần dung lượng định mức không được phép ngừng nạp, mà chỉ giảm dòng nạp cho đến khi nhiệt độ ổn định. Như vậy, thời gian nạp phải tăng lên tương ứng để để bảo đảm dung lượng nạp. Cuối thời gian nạp, tỉ trọng của chất điện phân quy về 20 độ C cần phải là 1,205 +/- 0,005 g/cm³. Hệ số hiệu chỉnh tỉ trọng chất điện phân bằng - 0,001 g/cm³ cho mỗi 3  F hoặc 1,67 độ C. Sau khi nạp, ở một số bình, có thể có tỉ trọng khác biệt hẳn so với quy định. Khi thấy tỉ trọng cao hơn phải làm giảm bằng cách rút ra một lượng dung dịch chất điện phân và thay vào đó một lượng nước cất tương ứng. Sau đó tiếp tục nạp thêm 3 giờ nữa rồi kiểm tra lại. Cứ thế tiếp tục cho đến khi đạt được tỉ trọng quy định. Khi vận hành bình thường, nếu tỉ trọng thấp hơn quy định tới 0,02 g/cm³ thì cần tiến hành nạp cân bằng. Nếu mức dung dịch cạn gần bằng mức tối thiểu, thì dùng nước cất bổ sung cho đến khi bằng mức tối đa, sau đó tiến hành nạp cân bằng để làm đồng nhất chất điện phân. Thí dụ: tỉ trọng đo được ở 89  F là 1,235 g/cm3, và mực chất điện phân thấp hơn tiêu chuẩn 1/2 inch. Như vậy các hiệu chỉnh cần thiết là: 1,235 + 0,004 - 0,015 =1,224 g/cm³. Sau khi nạp ắc quy lần đầu xong, phải tiến hành phóng nạp tập dợt 3 lần để ắc-quy bảo đảm được dung lượng định mức.
Pin sạc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1235
Dòng điện phóng được thực hiện theo mức 3 giờ hoặc mức 10 giờ, phóng cho đến khi điện thế mỗi bình còn 1,8 vôn. Trong thời gian nạp hình thành và phóng nạp tập dợt, phải đo và ghi điện thế, tỉ trọng, và nhiệt độ từng ngăn một, định kỳ mỗi giờ một lần. Trong trường hợp có đột biến trên các ngăn, ( thí dụ điện thế trên các ngăn thay đổi quá nhanh), phải đo và ghi thông số thường xuyên hơn. Nạp hình thành ắc quy sắt kền. Đối với ắc quy sắt-kền, việc nạp hình thành cũng được nạp tương tự. Tuy nhiên, một số thông số có khác biệt rất lớn như sau: Để hiệu chỉnh tỉ trọng chất điện phân cần thực hiện như sau: Thí dụ: tỉ trọng đo được ở 89 o F là 1,235 g/cm³, và mực chất điện phân thấp hơn tiêu chuẩn 1/2 inch. Như vậy các hiệu chỉnh cần thiết là: 12 / 3 * 0,001 = 0,004 g/cm³ để ứng với 77 o F. 1,235 + 0,004 - 0,010 = 1,229 g/cm³. Phóng và nạp ắc quy lần sau. Phóng điện ắc quy. Phóng điện có thể tiến hành vào bất kỳ thời điểm nào và bất kỳ dòng điện nào nhỏ hơn trị số ghi trong bảng chỉ dẫn của nhà chế tạo. Khi phóng điện bằng chế độ 3 giờ hoặc dài hơn, có thể phóng liên tục cho đến khi Điện thế ở mỗi ngăn giảm xuống đến 1,8 vôn. Khi phóng với chế độ 1, 2 giờ, thì ngừng phóng khi Điện thế ở mỗi ngăn xuống đến 1,75 vôn. Khi phóng với dòng điện nhỏ thì không xác định việc kết thúc phóng theo Điện thế. Trong trường hợp này, việc kết thúc phóng được xác định theo tỉ trọng chất điện phân. Việc phóng được kết thúc khi tỉ trọng giảm đi từ 0,03 đến 0,06 g/cm3 so với tỉ trọng ban đầu. (Nhưng cũng không được để Điện thế mỗi ngăn giảm xuống thấp hơn 1,75 vôn.) Đối với ắc quy sắt-kền, Điện thế báo hiệu kết thúc phóng cho mọi trường hợp là 1 Vôn. Việc nạp ắc quy lần sau được tiến hành sau khi phóng thử dung lượng ắc quy nhưng không được quá 12 giờ tính từ lúc ngừng phóng. Tuỳ theo phương pháp vận hành ắc quy, thiết bị nạp và thời gian cho phép nạp, phương pháp nạp, việc nạp có thể được thực hiện theo các cách như sau: Nạp với dòng điện không đổi.
Pin sạc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1235
Đối với ắc-quy chì Việc nạp có thể tiến hành theo kiểu 1 bước hoặc 2 bước. a) Nạp kiểu 1 bước: Để dòng nạp không vượt quá 12 % của dung lượng phóng mức 10 giờ tức là 0, 12 x C(10). b) Nạp kiểu 2 bước: Bước 1: để dòng điện nạp bằng dòng điện định mức của thiết bị nạp, nhưng không vượt quá 0,25 x C(10). Khi Điện thế tăng lên đến 2,3  2,4 vôn thì chuyển sang bước 2. Bước 2: để dòng điện nạp không vượt quá 0,12 C x (10). Đến cuối thời gian nạp, Điện thế ắc-quy đạt đến 2,6 2,8 vôn, tỉ trọng ắc-quy tăng lên đến 1,200 1,210 g/cm3, giữa các bản cực ắc-quy quá trình bốc khí xảy ra mãnh liệt. Việc nạp được coi là kết thúc khi Điện thế và tỉ trọng của ắc-quy ngừng tăng lên trong khoảng 1 giờ, và các ắc-quy sau khi nghỉ nạp 1 giờ khi nạp lại sẽ sôi ngay tức thì. Thời gian nạp đối với ắc-quy đã được phóng hoàn toàn theo kiểu nạp 1 bước với dòng 0,12 x C(10) mất khoảng 12 giờ, còn nạp 2 bước với dòng 0,25 x C(10) và 0,12 x C(10) mất khoảng 78 giờ. Ở các giá trị mà dòng điện nạp bé hơn thì thời gian nạp phải tăng lên tương ứng. Đối với ắc-quy sắt-kền. Để dòng nạp không vượt quá 15 .. 25 % của dung lượng phóng mức 10 giờ tức là 0,15 .. 0,25 x C(10). Đến cuối thời gian nạp, Điện thế ắc-quy đạt đến 1,75.. 1,8 vôn, giữa các bản cực ắc-quy quá trình bốc khí xảy ra mãnh liệt. Việc nạp được coi là kết thúc khi Điện thế ắc-quy ngừng tăng lên trong khoảng 1 giờ và các ắc-quy sau khi nghỉ nạp 1 giờ khi nạp lại sẽ sôi ngay tức thì. Việc nạp khi hoàn tất thường truyền cho ắc-quy 1 dung lượng lớn hơn dung lượng định mức khoảng 25%. Nếu nạp ít quá, dung lượng của ắc-quy sẽ bị giảm, còn dư nhiều quá sẽ làm nóng dàn bình, và làm hao nước. Nạp với dòng điện giảm dần. Tiến hành nạp giống như phần trên, nhưng với dòng điện giảm dần, ban đầu 0,25 C(10) và sau đó 0,12 C(10).
Pin sạc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1235
Ở giá trị dòng nạp nhỏ: thời gian tương ứng được tăng lên. Dấu hiệu kết thúc nạp cũng giống như trưòng hợp nạp với dòng điện không đổi. Nạp với Điện thế không đổi. Nạp với Điện thế không đổi được tiến hành với thiết bị nạp làm việc ở chế độ ổn áp. Điện thế được chọn trong giới hạn từ 2,2  2,35 vôn đối với ắc-quy chì-axit và 1,5  1,55 vôn đối với ắc-quy sắt-kền và được duy trì ổn định trong suốt quá trình nạp. Thời gian nạp độ vài ngày đêm. Trong 10 giờ nạp đầu tiên, ắc-quy có thể nhận được tới 80% dung lượng bị mất khi phóng. Khi tỉ trọng chất điện phân giữ nguyên trong 10 giờ (đối với ắc-quy chì-axit) thì có thể kết thúc việc nạp. Nạp thay đổi với Điện thế không đổi. Việc nạp được tiến hành theo 2 bước: Bước 1: dòng điện nạp được hạn chế ở 0,25 x C(10), còn Điện thế thay đổi tăng tự do. Cho đến khi Điện thế ắc-quy tăng lên đến 2,2 2,35 vôn đối với ắc-quy chì-axit và 1,5 1,55 vôn đối với ắc-quy sắt-kền thì chuyển sang bước 2. Bước 2: Nạp với Điện thế không đổi. Việc nạp này được tự động hoá bằng thiết bị nạp có ổn định Điện thế và giới hạn dòng điện Các chế độ vận hành. Chế độ nạp thường xuyên. Đối với các loại bình ắc-quy tĩnh, việc vận hành ắc-quy được tiến hành theo chế độ phụ nạp thường xuyên. ắc-quy được đấu vào thanh cái một chiều song song với thiết bị nạp. Nhờ vậy, tuổi thọ và độ tin cậy của ắc-quy tăng lên, và chi phí bảo dưỡng cũng được giảm xuống. Để bảo đảm chất lượng ắc-quy, trước khi đưa vào chế độ phụ nạp thường xuyên phải phóng nạp tập dượt 4 lần. Trong quá trình vận hành ắc-quy ở chế độ phụ nạp thường xuyên, ắc-quy không cần phóng nạp tập dượt cũng như nạp lại. Trường hợp sau một thời gian dài làm việc ở chế độ phụ nạp thường xuyên mà thấy chất lượng ắc-quy bị giảm thì phải thực hiện việc phóng nạp đột xuất.
Pin sạc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1235
Ở chế độ phụ nạp thường xuyên, cần duy trì Điện thế trên mỗi bình ắc-quy là 2,2 +/- 0,05 vôn đối với ắc-quy chì-axit và 1,5 +/- 0,05 vôn đối với ắc-quy sắt-kền để bù trừ sự tự phóng và duy trì ắc-quy ở trạng thái luôn được nạp đầy. Dòng điện phụ nạp thông thường được duy trì bằng 50 .. 100 mA cho mỗi 100 AH dung lượng đối với ắc-quy chì-axit và bằng 40 .. 60 mA cho mỗi 100 AH dung lượng đối với ắc-quy sắt-kền. Ở chế độ phụ nạp này, Điện thế trên ắc-quy phải được duy trì tự động trong khoảng +/- 2 %. Việc phóng thử dung lượng thực tế của ắc-quy được tiến hành 1.. 2 năm 1 lần hoặc khi có nghi ngờ dung lượng ắc-quy kém. Dòng điện phóng được giới hạn ở chế độ mức 3 đến 10 giờ. Để đánh giá chính xác dung lượng phóng của ắc-quy, nên tiến hành ở cùng 1 chế độ phóng như nhau trong nhiều lần phóng. Dung lượng quy đổi được tính theo công thức: C20 = Ct / 1 + ( 0,008 ( t - 20 ) ) Với C20 : dung lượng ở 20 o C. Ct : dung lượng ở t o C. Chế độ phóng nạp xen kẽ. ắc-quy làm việc ở chế độ nạp phóng là ắc-quy thường xuyên phóng vào 1 phụ tải nào đó sau khi đã ngưng nạp. Sau khi đã phóng đến 1 giá trị nào đó thì phải nạp trở lại. Trường hợp sử dụng ắc-quy không nhiều thì mỗi tháng phải tiến hành phụ nạp với dòng điện không đổi, = 0,1 x C(10). Việc xác định tiến trình nạp được kết thúc dựa theo các điều ghi ở chương 3. Việc nạp lại nhằm loại trừ việc Sun - phát hóa ở các bản cực. Việc nạp lại tến hành 3 tháng một lần, hoặc khi ắc-quy bị phóng với một dòng phóng lớn hơn dòng phóng cho phép. Điều chế chất điện phân. A - xít để điều chế chất điện phân phải bảo đảm các tiêu chuẩn kỹ thuật. Hàm lượng các tạp chất trong A - xít không được quá các trị số ghi trong bảng sau:
Edmonton
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1237
Edmonton là thành phố lớn thứ 6 của Canada, thủ phủ của tỉnh (tương đương như bang ở Hoa Kỳ) Alberta, tỉnh nổi tiếng về trữ lượng dầu mỏ đứng thứ 2 thế giới chỉ sau Ả Rập Xê Út. Edmonton là một thành phố trẻ, năm 2004 này Edmonton ăn mừng kỷ niệm thế kỷ đầu tiên của mình; với chỉ khoảng gần 1 triệu dân. Thành phố này còn nổi tiếng với West Edmonton Mall, trung tâm mua sắm lớn nhất thế giới, có cả một khách sạn, một công viên nước, một trường bắn, một công viên giải trí với trò tàu lượn vòng xoay tốc, một bảo tàng sống mô tả cuộc sống qua các thời kỳ, bảo tàng hoàng gia Alberta, Đại học Alberta, đứng thứ 55 thế giới và thứ 2 đến 3 trong Canada. Thành phố này còn nổi tiếng về các lễ hội nhất là vào mùa hè. Mùa đông, bạn có thể chơi các trò chơi thể thao mùa đông như trượt băng, trượt tuyết (xuống đồi hoặc đường bằng) Du lịch. Những địa điểm du lịch:
Luxeon
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1238
Luxeon là công nghệ đèn LED siêu sáng do Lumiled sản xuất, với mẫu đầu tiên xuất ra tối đa 120 lumen cho mỗi bóng. Thừa hưởng những ưu điểm của công nghệ LED như tiết kiệm điện, thời gian dùng tới hơn 100.000 giờ và khả năng phát ra ánh sáng trắng, ấm, ổn định hơn so với các loại đèn dây tóc và đèn huỳnh quang thông thường cho phép Luxeon khả năng cạnh tranh và thay thế các công nghệ chiếu sáng cũ trong tương lai gần, nhanh nhất là 2007.
Lumileds
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1239
Philips Lumileds Lighting là công ty sản xuất và phát triển công nghệ chiếu sáng hàng đầu thế giới, nổi tiếng với sản phẩm Luxeon LED, bán được hơn 1 triệu đơn vị trên toàn thế giới. Khởi nghiệp từ bộ phận quang điện tử ("optoelectronics") của Hewlett-Packard gần 40 năm trước, ngày nay Lumiled là công ty 100% vốn tư nhân liên doanh giữa Agilent và Philips. Hiện tại, tại Việt Nam, Lumileds được giới thiệu bằng dòng sản phẩm LUXEON thông qua công ty cổ phần thiết bị chiếu sáng Ánh Sao.
Winamp
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1240
Winamp (dạng viết ngắn của "Windows amplifier" trong tiếng Anh) là một trong những phần mềm nghe nhạc phổ biến nhất trên toàn thế giới, với ước tính hơn 250.000.000 lần được cài đặt (2004). Winamp có một giao điện đơn giản, có thể thay đổi, dễ sử dụng, hỗ trợ nhiều dạng tập tin, miễn phí và là một trong những phần mềm đầu tiên hỗ trợ chơi nhạc MP3. Thuở ban đầu Winamp được lập trình bởi Justin Frankel, sau đó Justin Frankel rủ thêm một số bạn của mình để hoàn thiện thêm Winamp và sáng lập nên Nullsoft. Justin Frankel rời Nullsoft vào tháng 4, 2004 vì bất đồng với cách điều hành độc tài của AOL Time Warner, công ty mẹ của Nullsoft. Lịch sử. Winamp1 và Winamp2. Winamp (bản đầu tiên phát hành vào tháng 6, 1997) dưới dạng phần mềm chia sẻ, tuy nhiên lúc này Winamp vẫn còn rất nhiều hạn chế về nhiều mặt. Winamp 2 được phát hành năm 1998, vẫn dựa trên giao diện quen thuộc dưới dạng phần mềm miễn phí, đã trở thành một cơn sốt trên Internet và là một trong những phần mềm được tải về nhiều nhất. Winamp3. Một dự án Winamp khác đã được phát hành độc lập là Winamp3 (đánh vần là "Wina" "mp3") để đưa cụm từ "mp3" vào trong cách đọc. Đây là phiên bản được viết lại hoàn toàn từ phiên bản Winamp2 dựa trên nền tảng ứng dụng công nghệ Wasabi cho phép bổ sung nhiều tính năng linh hoạt. Winamp3 được phát triển song song cùng với Winamp2. Tuy nhiên nhiều người sử dụng phát hiện thấy phiên bản này tiêu tốn nhiều tài nguyên hoặc không ổn định (hoặc thậm chí bỏ sót một số chức năng được ưa thích như khả năng tìm kiếm tổng số của các bài trong danh sách thể hiện theo kiểu số và thời gian). Kết quả là nhiều người quay lại với phiên bản Winamp2. Công ty Nullsoft nắm bắt được điều này từ phản hồi của người tiêu dùng và trở lại với định hướng phát triển phiên bản trước là phiên bản ổn định hơn. Winamp 5.0. Winamp 5.0 được xây dựng trên cơ sở hòa trộn Winamp2 với Winamp3, việc đánh số 5.x được chọn vì 2 + 3 = 5, hàm ý dòng phiên bản mới này cho phép lựa chọn những phần tốt nhất từ hai dòng phiên bản trước: một số tính năng đặc biệt của Winamp3 được giữ lại trong khi vẫn duy trì sự ổn định của Winamp2.
Winamp
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1240
Đội ngũ tác giả còn đùa là: "Nobody wants to see a Winamp 4 skin" ("chẳng ai muốn thấy Winamp 4 skin đâu" - chữ "Winamp 4 skin" vừa mang nghĩa là giao diện Winamp4, vừa có thể hiểu là "bao quy đầu Winamp", bởi "4 skin" đọc giống "foreskin"). Winamp 5.0 được phát hành vào tháng 12 năm 2003. Phần lớn nền tảng công nghệ Wasabi được xây dựng cho Winamp3 đã trở thành mã nguồn mở và nó được sử dụng để phát triển một chương trình hoàn thiện là wasabi.player, đây là phần chủ yếu của phiên bản mã nguồn mở cho Winamp3. Winamp 5.0 có hai phiên bản: Chuẩn và Chuyên nghiệp. Bản Chuẩn miễn phí, còn bản Chuyên nghiệp cung cấp nhiều tính năng hơn, đặc biệt là các tính năng liên quan đến chất lượng âm và ghi đĩa. Bản Chuyên nghiệp hiện tại được bán với giá USD 14.95.
Xích lô
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1243
Xe xích lô (từ tiếng Pháp: "cyclo") là một phương tiện giao thông sử dụng sức người, có 3 bánh dùng để vận chuyển khách hoặc hàng hóa, thường có một hoặc hai ghế cho khách và một chỗ cho người lái xe. Người lái xe cũng vận hành nó như xe đạp thường, một vài loại có mô tơ để giúp người lái đỡ tốn sức, nếu có gắn động cơ thì gọi là xích lô máy. Thông thường xích lô có ba bánh. Loại xe đạp kéo thùng chở khách đằng sau trở thành xích lô thường gọi là xe lôi, phổ biến ở miền Tây Nam Bộ. Người chạy xe xích lô thông thường đạp xe đằng sau phần chở khách; nhiều loại có người đạp xe đằng trước. Từ "xích lô" có gốc từ "cyclo" trong tiếng Pháp. Xích lô sử dụng nhiều ở châu Á, hiện nay nó phổ biến hơn xe kéo nhiều. Xích lô cũng được sử dụng tại một số thành phố ở châu Âu và Mỹ, thường để chở khách đi du lịch. Lịch sử hình thành. Xe xích lô được cho là biến thân của xe kéo đã có từ thế kỷ 19. Động tác vận hành từ "kéo" chuyển sang "đạp" là do kết hợp với xe đạp vào đầu thế kỷ 20. Theo nhà sử học Dương Trung Quốc, và cũng được kể lại bởi nhà báo Nguyễn Lưu, thì chiếc xích lô ("cyclo") do một người Pháp miền Charente tên là Coupeaud phát minh ra vào năm 1939. Để quảng cáo cho phương tiện vận chuyển mới này, Coupeaud đã tổ chức một cuộc hành trình với chiếc xe chở khách chạy bằng 3 bánh từ Phnôm Pênh (thủ đô lớn nhất của Campuchia) tới Sài Gòn, với hai người đạp thuê đã thay phiên nhau đạp một mạch gần 200 km trong thời gian 17 giờ 23 phút. Số liệu thống kê cho biết, cuối năm 1939, Sài Gòn chỉ có 40 chiếc xích lô thì qua năm 1940, con số này đã là 200 chiếc. Tháng 2 năm 1941, tay anh chị khét tiếng Bảy Viễn cùng một người Pháp là Maurice lập công ty Mauvien (ghép tên 2 người) có 30 chiếc độc quyền ở khu vực Chợ Lớn…. Từ đầu thập niên 1960, tại Sài gòn xuất hiện xe xích lô máy, với động cơ 2 thì và với những phụ tùng, linh kiện, động cơ của hãng xe mô tô Peugeot nhập từ Pháp, loại 125 phân khối, dùng xăng pha nhớt.
Xích lô
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1243
Tuy nhiên theo soạn giả Tony Wheeler trong "Chasing Rickshaws" thì một loại xích lô (người đạp phía trước kéo hành khách ngồi phía sau) đã có mặt ở Singapore vào thập niên 1920. Trong khi đó kiểu xích lô người đạp phía sau, hành khách ngồi trước, thì năm 1936 đã xuất hiện ở Jakarta. Christopher Pym cũng ghi nhận là năm 1936 ở Nam Vang du nhập xe xích lô, nên sự việc ở Pháp năm 1939 chưa hẳn là "phát minh". Dù gì đi nữa thì loại xe ba bánh lấy sức người đạp ra đời khoảng thập niên 1920 và đến khoảng 1930 thì đã phổ biến ở châu Á. Hiện nay, xe xích lô bị hạn chế sử dụng tại Việt Nam. Từ năm 2009, Hà Nội từng tổ chức hội nghị về quản lý hoạt động của xe xích lô trên địa bàn, và siết chặt quản lý đối với hoạt động xích lô, tiến tới việc xóa bỏ hoàn toàn loại xe này. Hiện nay, tại Hà Nội còn khoảng 300 xe xích lô thuộc 4 doanh nghiệp được cấp phép để phục vụ du lịch. Tại các quốc gia khác. Loại xe đạp ba bánh được cho là có tại Ấn Độ từ năm 1930. Xe xích lô tại Malaysia thì gọi là Beca. Tại Trung Quốc gọi là 三輪車 (sānlúnchē, "tam luân xa"), Bangladesh gọi là রিকশা (riksha). Tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh thì người đạp ở phía trước. Ở Malaysia người đạp và hành khách ngồi hai phía song song nhau. Tại Việt Nam và Campuchia lại khác: Cấu tạo chiếc xích lô bao giờ cũng dành chỗ cho hành khách ngồi phía trước; nhưng trong cấu tạo của xe lôi ở các tỉnh Nam Bộ thì trái lại. Các xe 3 bánh khác. Loại xe đạp có 3 bánh chuyên dùng để chở hàng hóa ở phía trước xe thì gọi là xe ba gác. Nếu có gắn động cơ thì gọi là ba gác máy. Loại xe 3 bánh chở khách có động cơ và mái che được gọi là xe lam, ở Thái Lan gọi là xe túc túc ("tuk tuk"). Hiện nay, tại châu Âu, vào mùa hè, có những xe taxi đạp ba bánh, thường do sinh viên làm hè thêm để phục vụ du khách, gọi là "cycle rickshaw, bike taxi, velotaxi, pedicab"... Trong văn hóa. Nhạc sĩ Võ Thiện Thanh có ca khúc "Xích lô" do Mỹ Tâm trình bày vào năm 2001, với những câu: Phim Cyclo, phát hành vào năm 1995 bởi đạo diễn Việt kiều Trần Anh Hùng, về người lái xe xích lô. Liên kết ngoài.
Xích lô
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1243
Liên kết ngoài. Liên kết đến thảo luận và hãng làm và thuê xích lô:
Hamasaki Ayumi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1245
sinh ngày 2 tháng 10 năm 1978, là một nữ ca sĩ, nhạc sĩ và cũng là một diễn viên, Ayumi được gọi với tên Ayu bởi các fan hâm mộ của mình, ngoài ra cô còn có một bút danh dùng khi sáng tác nhạc nữa là CREA, tên của một con cún đang nuôi ở nhà. Ca khúc "Depend on you" của cô được khán giả trẻ Việt Nam biết đến với phiên bản lời Việt mang tên "Ban mai tình yêu" do Mỹ Tâm trình bày. Cô được phong tặng "nữ hoàng nhạc Pop" cùng với sự nổi tiếng của mình tại quê hương Nhật Bản. Sinh ra và lớn lên tại Fukuoka, cô bắt đầu sống tại Tokyo khi lên 14 tuổi để tiếp tục sự nghiệp trong ngành giải trí của mình. Vào năm 1998, dưới sự giám hộ của một nhà thâu âm Max Matsuura thuộc công ty Avex CEO, cô bắt đầu xuất bản một loạt các bài hát đơn giản trong Album đầu tay của mình vào năm 1999 mang tên "A Song for XX". Liền sau đó album này đã chiếm hạng nhất trên bảng xếp hạng Oricon và giữ vững vị trí trong 4 tuần lễ tiếp theo. Album "A Song for XX" được bán đến 548.210 bản và tạo nên sự nổi tiếng của Hamasaki Ayumi tại Nhật Bản. Với sự thay đổi liên tục hình ảnh và ra sức củng cố tài năng âm nhạc của mình, sự nổi tiếng của Ayumi vượt ra ngoài cả châu Á, tận Bắc Mĩ và châu Âu. Âm nhạc và thời trang của cô cũng lan rộng đến các nước như Trung Quốc, Singapore và Hàn Quốc. Ayumi cùng các bài hát của mình xuất hiện ngày càng nhiều trong quảng cáo và các chương trình truyền hình thương mại. Ayumi đã dồn hết tài năng và sự nổi tiếng của mình vào mục đích thương mại, nhưng sau đó cô đã chuyển hướng mình khỏi sự thương mại hóa bằng cách phủ nhận địa vị của mình tại công ty Avex như là một sản phẩm thương mại. Bài hát với tựa đề "Poker Face" trong album đầu tay của cô bán ra được 50 triệu bản trong nước Nhật và xếp hạng vào các bài hát bán chạy nhất của cô trong nước. Như một nữ ca sĩ, cô nắm giữ hầu hết các vị trí cao nhất trong các bảng xếp hạng và danh sách các nữ ca sĩ có doanh thu cao nhất trong nước. Từ năm 1999 đến 2008, hằng năm Ayumi đều có ít nhất một đĩa đơn đứng vị trí hàng đầu trong các bảng xếp hạng. Cô cũng là một nữ ca sĩ đầu tiên có 8 album ca nhạc bán chạy nhất đứng hàng đầu trên bảng xếp hạng Oricon.
Hamasaki Ayumi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1245
Cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc. Thời thơ ấu và những nỗ lực ban đầu. Ayu được sinh ra ở quận Fukuoka, con nuôi lớn bởi mẹ và bà. Khi Ayu được 3 tuổi thì cha đã đột ngột bỏ 2 mẹ con và không liên lạc gì từ đó. Trong khi mẹ đi làm suốt, bà đã trở thành người coi sóc Ayu. Ayumi bắt đầu sự nghiệp người mẫu cho các công ty ở địa phương từ năm lên 7 để kiếm thêm tiền phụ giúp gia đình. Tuổi thơ của Ayumi bị mất mát rất nhiều tại một đất nước vốn xem gia đình là hạt nhân của xã hội, nhưng cô không cảm nhận được sự mất mát đó. "Nếu có mất thì mẹ tôi mất chứ không phải tôi. Tôi không hiểu rõ nỗi khổ của sự cô đơn cho đến khi tôi đến Tokyo" - Ayumi hồi tưởng. Học hết trung học cơ sở, Ayumi rời Fukuoka, đến Tokyo một mình để học tiếp cấp 3 tại ngôi trường mà hai ngôi sao của Nhật là "Fukada Kyoko" và "Kato Ai" theo học. Tại đây, Ayu tiếp tục làm người mẫu và nhận một số vai diễn trong phim truyền hình như Miseinen, một số phim có kinh phí thấp Gakko II, Ladys Ladys! !Soucho Saigo no Hi và đã không được thành công cho lắm với những nỗ lực này: Cô ấy bị cho rằng quá thấp để làm người mẫu (do người hướng dẫn của Ayu nhận xét), và những gì cô ấy đã làm chưa được công chúng đón nhận nồng nhiệt. Mặc dù Ayu thường xuyên đạt thành tích tốt trong học tập, nhưng Ayu đã đi đến quyết định cuối là những môn mà mình theo học chẳng giúp ích gì được cho mình cả, do đó Ayu xuống hạng trầm trọng, và trở nên lơ là trong việc học. Khi sự nghiệp người mẫu và diễn xuất của Ayu gặt hái chút thành công. Người hướng dẫn của Ayu quyết định thay đổi hình tượng Ayu thành một ca sĩ. Khởi đầu ở môi trường âm nhạc chuyên nghiệp của Ayu là lĩnh vực Rap. Tháng 12 năm 1995, Album đầu của Ayu Nothing from Nothing dưới nhãn Nippon Columbia được phát hành. Nhưng Album đã không lọt vào bảng Oricon và Nippon Columbia đã bỏ rơi Ayu.
Hamasaki Ayumi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1245
Không lâu sau đó, Ayu đã bỏ trường trung học; không việc làm, Ayu bỏ nhiều thời gian đi shop mua sắm quần áo ở Shibuya và đi nhảy ở câu lạc bộ Disco Velfarre (Avex là chủ câu lạc bộ này) Và cái đêm định mệnh ấy đã đến khi một người bạn làm việc tại hộp đêm mời Ayumi đi hát karaoke đã làm thay đổi cuộc đời của Ayumi. Nghe Ayu hát, Masato Matsuura - người tự giới thiệu với Ayu là nhà sản xuất nhạc, đi cùng với bạn của Ayumi – đã thực sự sửng sốt. Ayumi hồi tưởng: "Tôi chưa bao giờ nghe đến công ty Avex. Khi Matsuura hỏi tôi có muốn trở thành ca sĩ hay không, tôi đã trả lời 'không đời nào' vì nhìn ông ta chẳng có vẻ gì có thể tin tưởng được... Bạn biết đấy, đã có rất nhiều cô gái bị dụ dỗ theo cách như thế này..." Hơn một năm sau đó, Matsuura đã kiên trì đi theo thuyết phục Ayumi. Cuối cùng thì Ayumi đã đồng ý sẽ theo học một lớp dạy hát vì "Lúc đó, tôi chẳng có việc gì khá hơn để làm". Thế nhưng, giáo viên quá nghiêm khắc và lớp học quá tẻ nhạt làm Ayumi chẳng cảm thấy thú vị và cô thường xuyên bỏ học. "Tôi có cảm giác như mình lại trở về với trường học. Ở đâu có những quy định khắt khe là tôi không thể nào chịu nổi" - Ayumi thú nhận với Matsuura. Thay vì nổi giận và xoá tên Ayumi thì Matsuura đã đề nghị cô sang New York để được đào tạo chuyên nghiệp. "Tôi nghĩ rằng đó chỉ là một lời nói đùa". Năm đó Ayumi chỉ vừa mới 17 tuổi. Và cô đã lên đường sang New York, sống trong một khách sạn, và hàng ngày đi học hát tại trường cách khách sạn không xa lắm. Thời gian sống thoải mái ở đây đã làm Ayumi cảm thấy rất thoải mái vì không chịu một sức ép nào cả. Sau 3 tháng, kết thúc khoá học, Ayumi quay trở về Nhật Bản. Do tính thẳng thắn và khá nóng nảy, Ayumi gặp khó khăn trong vấn đề nói lên suy nghĩ của mình, nên Ayumi thường trao đổi với Matsuura qua thư từ. Nhận ra lời văn của Ayumi rất hay, có thể biến thành những ca từ xúc động trong bài hát nên Matsuura đã đưa ra đề nghị Ayumi hãy thử viết nhạc. Ý tưởng bày tỏ cảm xúc tình cảm, gửi gấm tâm tư, suy nghĩ qua các ca khúc đã ám ảnh Ayumi.
Hamasaki Ayumi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1245
"Trước đây chưa từng có ai yêu cầu hoặc mong chờ ở tôi điều gì" – Ayumi nói. Ayumi nói với Matsuura: "Senmu (giám đốc điều hành) tôi không làm được điều này!" Matsuura rất tức giận, nhưng ông không mắng mà còn động viên Ayumi rằng cô sẽ làm được, và sẽ chiến thắng. Lòng tin của ông làm cho Ayumi cố gắng hơn. "Ông ấy là người đã phát hiện ra tôi và 'biến' tôi thành một vì sao" Và sự nghiệp của Matsuura có thể cũng sẽ tắt ngấm trong đêm nếu như vì sao đó không chói sáng trong đêm. Hai singles đầu tiên của Ayumi: "Poker Face" (phát hành ngày 8 tháng 4 năm 1998) và "You" (10 tháng 6 năm 1998) lọt vào vị trí số 20 trên bảng xếp hạng. Bốn bài kế tiếp: "Trust" (5 tháng 8 năm 1998), "For my dear" (7 tháng 10 năm 1998), "Depend on you" (9 tháng 12 năm 1998) và "Whatever" (10 tháng 2 năm 1999) lần lượt có chỗ đứng trong Top 10. Và đột phá bắt đầu khi single "Love Destiny" (14 tháng 4 năm 1999) leo lên chiếm ngôi vị số 1 suốt nhiều tuần liền. Kể từ đó, bất cứ single hay album nào của Ayumi cũng đều chiếm một trong 3 thứ hạng cao nhất chỉ sau vài tuần lọt vào bảng xếp hạng Oricon Global Entertainment (một phiên bản giống như Billboard của Nhật Bản). Và từ đó một nữ hoàng nhạc pop đã được ra đời.
Amuro Namie
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1249
(sinh ngày 20 tháng 9 năm 1977) là một ca sĩ nhạc Pop người Nhật Bản. Cô là biểu tượng thời trang và Diễn viên người Nhật Bản mà trong thời kì đỉnh cao sự nghiệp cô được mệnh danh "Nữ hoàng J-pop", "Madonna của Nhật" hay "Janet Jackson của Nhật". Tiểu sử. Sinh ra tại Naha, Okinawa, Amuro khởi nghiệp năm 14 tuổi, là một thành viên trong nhóm nhạc nữ Super Monkey's. Dù sự nghiệp của nhóm hầu như không thành công, nhưng đĩa đơn cuối cùng của họ "TRY ME ~私を信じて~" (1998) gây được nhiều chú ý. Amuro rời khỏi Toshiba-EMI sau khi phát hành thêm 2 đĩa đơn solo và cô tiếp tục hoạt động như một ca sĩ độc lập với hãng đĩa Avex Trax. Dưới sự dẫn dắt của nhà sản xuất Tetsuya Komuro, Amuro nhanh chóng đạt được những thành công thương mại với hàng triệu bản thu âm được tiêu thụ và tạo ra những xu hướng thời trang cho giới trẻ lúc bấy giờ. Đĩa đơn "CAN YOU CELEBRATE?" (1997) vẫn đang giữ kỷ lục đĩa đơn có lượng tiêu thụ cao nhất bởi một nữ nghệ sĩ tại Nhật. Tuy nhiên cuối năm 1997, cô tạm ngưng hoạt động vì đám cưới và việc mang thai. Amuro trở lại với âm nhạc bằng đĩa đơn "I HAVE NEVER SEEN" (1998) và album GENIUS 2000 (2000) đều đứng đầu bảng xếp hạng nhưng số lượng bán ra giảm mạnh so với những sản phẩm trước của cô. Sau khi ngừng hợp tác với Tetsuya Komuro năm 2001, Amuro tham gia vào dự án SUITE CHIC - một nhóm nhạc R&B/hip-hop với mục đích hướng tới dòng nhạc này. Nhờ việc đổi mới hình ảnh và thể loại âm nhạc hip-pop, cô một lần nữa lấy lại được thành công và danh tiếng. Album phòng thu thứ bảy PLAY (2007) đứng đầu bảng xếp hạng và có lượng tiệu thu cao nhất kể từ GENIUS 2000. Những album sau đó của cô đều giữ được lượng tiêu thụ ổn định, khẳng định vị trí của cô trong thị trường âm nhạc. Hơn 25 năm sự nghiệp, Amuro là một trong những nữ nghệ sĩ giữ được danh tiếng lâu nhất tại Nhật. Cô vẫn tiếp tục thành công cả khi đã li hôn, mất gia đình, đơn thân nuôi con. Cô cũng 2 lần thắng giải Grand Prix Award cùng nhiều giải thưởng danh giá như MTV Video Music Awards Japan, World Music Awards, Japan Gold Disc Award.
Amuro Namie
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1249
Tính đến năm 2012, số lượng đĩa nhạc bán ra của Amuro là 31 triệu bản, xếp thứ 4 trong danh sách những nữ nghệ sĩ và thứ 12 trong danh sách chung của các nghệ sĩ bán đĩa nhiều nhất.
Java Platform, Standard Edition
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1251
J2SE hay Java 2 Standard Edition  vừa là một đặc tả, cũng vừa là một nền tảng thực thi (bao gồm cả phát triển và triển khai) cho các ứng dụng Java. Nó cung cấp các API, các kiến trúc chuẩn, các thư viện lớp và các công cụ cốt lõi nhất để xây các ứng dụng Java. Mặc dù J2SE là nền tảng thiên về phát triển các sản phẩm chạy trên máy tính để bàn nhưng những tính năng của nó, bao gồm phần triển khai ngôn ngữ Java lớp gốc, các công nghệ nền như JDBC để truy vấn dữ liệu... chính là chỗ dựa để Java tiếp tục mở rộng và hỗ trợ các thành phần mạnh mẽ hơn dùng cho các ứng dụng hệ thống quy mô xí nghiệp và các thiết bị nhỏ. J2SE gồm 2 bộ phận chính là: Môi trường thực thi hay JRE cung cấp các Java API, máy ảo Java (Java Virtual Machine hay JVM) và các thành phần cần thiết khác để chạy các applet và ứng dụng viết bằng ngôn ngữ lập trình Java. Môi trường thực thi Java không có các công cụ và tiện ích như là các trình biên dịch hay các trình gỡ lỗi để phát triển các applet và các ứng dụng. Java 2 SDK là một tập mẹ của JRE, và chứa mọi thứ nằm trong JRE, bổ sung thêm các công cụ như là trình biên dịch (compiler) và các trình gỡ lỗi (debugger) cần để phát triển applet và các ứng dụng. Tên J2SE (Java 2 Platform, Standard Edition) được sử dụng từ phiên bản 1.2 cho đến 1.5. Từ "SE" được sử dụng để phân biệt với các nền tảng khác là Java EE và Java ME. "2" ban đầu vốn được dùng để chỉ đến những thay đổi lớn trong phiên bản 1.2 so với các phiên bản trước, nhưng đến phiên bản 1.6 thì "2" bị loại bỏ. Phiên bản được biết đến tới thời điểm hiện tại là Java SE 6 (hay Java SE 1.6 theo cách đặt tên của Sun Microsystems) với tên mã Mustang.
Lập trình viên
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1253
Lập trình viên (người lập trình hay thảo chương viên điện toán) là người viết ra các chương trình máy tính. "Thảo chương viên điện toán" là một từ cũ, được dùng trước năm 1975, và đang trở nên ít phổ thông hơn. Theo thuật ngữ máy tính, lập trình viên có thể là một chuyên gia trong một lĩnh vực của chương trình máy tính hoặc là một người không chuyên, viết mã cho các loại phần mềm. Người đã thực hiện và đưa ra cách tiếp cận chính thức để lập trình được gọi là người phân tích phần mềm. Những người thành thạo các kỹ năng lập trình máy tính có thể trở nên nổi tiếng, tuy nhiên sự đánh giá này lại bị giới hạn bởi những phạm vi trong lĩnh vực công nghệ phần mềm. Nhiều trong số những lập trình viên danh tiếng lại được dán mác là tin tặc. Những lập trình viên thường gắn với hình ảnh những chuyên gia tin học "cá biệt", họ chống lại cái gọi là "những bộ com lê" (thường gắn liền với những bộ đồng phục trong các doanh nghiệp, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng - chỉ dành cho giới quyền uy), sự điều khiền, tuân theo luật lệ. Có nhiều người trẻ tuổi vẫn có khả năng lập trình tốt, họ được xem là các hạt giống cho ngành lập trình trong tương lai. Trong lịch sử, Nữ bá tước Ada Lovelace được xem như là lập trình viên đầu tiên trên thế giới. Một số ngôn ngữ mà lập trình viên sử dụng phổ biến là C, C++, C#, Java, .NET, Python, Visual Basic, Lisp, PHP và Perl. Kỹ năng cần thiết của Lập trình viên. Một số kỹ năng của lập trình viên cần có: tính cần cù, nhanh nhẹn và sáng tạo. Vì vậy một số doanh nghiệp lớn về Công nghệ thông tin khi thi tuyển đầu vào thường Test về: Tiếng Anh (Cần cù), GMAT(nhanh nhẹn) và IQ(Sáng tạo). Lập trình viên ở Việt Nam. Lập trình viên đều có mức lương khá cao so với mức lương của các ngành khác. Trung bình tại các công ty có nhu cầu tuyển dụng, lương khởi điểm của lập trình viên khoảng 5 đến 10 triệu đồng/tháng. Ngoài ra, nếu lập trình viên trình độ trong ngành công nghệ hoặc có nhiều thâm niêm thì sẽ nhận được mức lương tốt hơn.
Hạt nhân Linux
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1265
Nhân Linux hay Linux kernel là một hạt nhân monolithic cho các hệ điều hành tương tự Unix. Họ hệ điều hành Linux dựa trên hạt nhân này và được triển khai trên cả hai hệ thống máy tính truyền thống là máy tính cá nhân và máy chủ, thường dưới dạng bản phân phối Linux, và trên các thiết bị nhúng khác nhau như router, điểm truy cập không dây, PBX, set-top box, máy thu FTA, smart TV, PVR và thiết bị NAS. Hệ điều hành Android cho máy tính bảng, điện thoại thông minh và đồng hồ thông minh sử dụng các dịch vụ do hạt nhân Linux cung cấp để thực hiện chức năng của nó. Trong khi thị phần trên desktop thấp, các hệ điều hành dựa trên Linux chiếm ưu thế gần như mọi phân đoạn máy tính khác, từ thiết bị di động đến máy tính lớn. Tính đến tháng 11/ 2017, tất cả 500 siêu máy tính mạnh nhất thế giới đều chạy Linux. Nhân Linux được viết bởi Linus Torvalds vào năm 1991 cho máy tính cá nhân của mình và không có ý định đa nền tảng, nhưng sau đó nó đã mở rộng hỗ trợ số lượng nền tảng kiến trúc máy tính khổng lồ. Linux nhanh chóng thu hút các nhà phát triển và người dùng sử dụng nó làm hạt nhân cho các dự án phần mềm tự do khác, đáng chú ý là Hệ điều hành GNU được tạo ra như một hệ điều hành tự do, không độc quyền và dựa trên UNIX như một sản phẩm phụ của sự sụp đổ của các cuộc chiến Unix. Nhân Linux đã nhận được sự đóng góp của gần 12.000 lập trình viên từ hơn 1.200 công ty, bao gồm một số nhà cung cấp phần mềm và phần cứng lớn nhất. Linux kernel API, một API thông qua đó các chương trình người dùng tương tác với hạt nhân, nó có ý nghĩa làm ổn định và không phá vỡ các chương trình không gian người dùng (một số chương trình có giao diện đồ họa người dùng GUI, số khác cũng dựa vào các API khác). Là một phần của chức năng của kernel, trình điều khiển thiết bị điều khiển phần cứng; Trình điều khiển "mainlined" (bên trong kernel) cũng có nghĩa là rất ổn định. Tuy nhiên, giao diện giữa các mô-đun hạt nhân và hạt nhân có thể tải (LKMs), không giống như trong nhiều hạt nhân và hệ điều hành khác, không có nghĩa là rất ổn định theo thiết kế. Hạt nhân Linux được phát triển bởi những người đóng góp trên toàn thế giới, là một ví dụ nổi bật về phần mềm tự do nguồn mở, và nó được hỗ trợ lên đến sáu năm tùy theo phiên bản.
Hạt nhân Linux
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1265
Các cuộc thảo luận phát triển hàng ngày diễn ra trên Linux kernel mailing list (LKML). Hạt nhân Linux được phát hành theo Giấy phép Công cộng GNU phiên bản 2 (GPLv2) với một số firmware được phát hành theo nhiều giấy phép không miễn phí. Lịch sử. "Xem thêm: Lịch sử Linux" Tháng 4/1991, Linus Torvalds, tại thời điểm đó là một sinh viên khoa học máy tính 21 tuổi tại Đại học Helsinki, Phần Lan, bắt đầu nghiên cứu một số ý tưởng đơn giản cho một hệ điều hành. Ông bắt đầu với một tác vụ switcher trong assembly Intel 80386 và một trình điều khiển thiết bị đầu cuối. Ngày 25/8/1991, Torvalds đã đăng thông tin sau lên Usenet comp.os.minix, trong đó có đoạn viết: Sau đó, nhiều người đã đóng góp mã cho dự án. Ban đầu, cộng đồng MINIX đã đóng góp mã và ý tưởng cho nhân Linux. Vào thời điểm đó, Dự án GNU đã tạo ra nhiều thành phần cần thiết cho một hệ điều hành tự do, nhưng hạt nhân riêng của nó, GNU Hurd, không đầy đủ và không có sẵn. Hệ điều hành BSD vẫn chưa tự giải thoát khỏi các vụ kiện pháp lý. Mặc dù có các chức năng giới hạn của các phiên bản đầu, Linux nhanh chóng thu hút các nhà phát triển và người dùng. Vào thời điểm này, dự án GNU đã hoàn thành nhiều cấu thành thiết yếu cho một hệ điều hành tự do, tuy nhiên phần hạt nhân (lõi - Linux Kernel) GNU Hurd của hệ điều hành này vẫn chưa được hoàn thành. Ngoài ra hệ điều hành BSD vẫn chưa được tự do hóa do các trở ngại về mặt pháp lý. Những điều này đã tạo ra một chỗ đứng thuận lợi cho hạt nhân Linux, nó nhanh chóng giành được sự quan tâm của các nhà phát triển cũng như người dùng. Tháng 9/1991, hạt nhân Linux phiên bản 0.01 được phát hành trên máy chủ FTP (ftp.funet.fi) của Đại học Phần Lan và Mạng Nghiên cứu (FUNET). Nó có 10,239 dòng mã. Ngày 10/5/1991, phiên bản 0.02 của hạt nhân Linux đã được phát hành. Tháng 12/1991, hạt nhân Linux 0.11 đã được phát hành. Phiên bản này là phiên bản đầu tiên được tự lưu trữ vì hạt nhân Linux 0.11 có thể được biên dịch bởi một máy tính chạy cùng phiên bản hạt nhân. Khi Torvald phát hành phiên bản 0.12 vào tháng 2/1992, ông đã thông qua Giấy phép Công cộng GNU (GPL) so với giấy phép tự soạn thảo trước đó của mình, điều này đã không cho phép phân phối lại thương mại.
Hạt nhân Linux
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1265
Ngày 19/1/1992, bài đăng đầu tiên tới nhóm tin tức mới "alt.os.linux" đã được đăng tải. Ngày 31/3/1992, nhóm tin được đổi tên thành "comp.os.linux." Việc Linux là một hạt nhân nguyên khối chứ không phải là một microkernel là chủ đề của cuộc tranh luận giữa Andrew S. Tanenbaum, người đã tạo ra MINIX, và Torvalds. Cuộc thảo luận này được gọi là cuộc tranh luận Tanenbaum–Torvalds và bắt đầu vào năm 1992 trên nhóm thảo luận Usenet comp.os.minix như một cuộc tranh luận chung về Linux và kiến trúc hạt nhân. Tanenbaum lập luận rằng microkernel vượt trội hơn so với hạt nhân nguyên khối và do đó Linux đã lỗi thời. Không giống như các hạt nhân nguyên khối truyền thống, trình điều khiển thiết bị trong Linux có thể dễ dàng được cấu hình dưới dạng các mô-đun hạt nhân có thể tải và được tải hoặc không tải trong khi chạy hệ thống. Chủ đề này đã được xem lại vào ngày 9 tháng 5 năm 2006, và vào ngày 12 tháng 5 năm 2006 Tanenbaum đã viết một tuyên bố về quan điểm. Tháng 3 năm 1992, phiên bản 0.xx cuối cùng của Linux kernel được phát hành. Linux version 0.95 là phiên bản đầu tiên có khả năng chạy X, vì Hệ thống X Window đã được port sang Linux. Bước nhảy lớn này được thể hiện trong số hiệu phiên bản, từ 0.1x đến 0.9x, do kỳ vọng phiên bản 1.0, mà không có những phần thiếu sót lớn, sắp xảy ra. Tuy nhiên, điều này đã được chứng minh là sai và từ năm 1993 đến đầu năm 1994, 15 phiên bản phát triển của phiên bản 0.99 đã ra mắt. Ngày 14 tháng 3 năm 1994, phiên bản chính thức đầu tiên của Linux kernel được phát hành. Linux kernel 1.0.0 có 176,250 dòng lệnh. Linux kernel 1.0.0 đã khởi động một hệ thống đánh số phiên bản "v.x.y" tiêu chuẩn cho kernel,trong đó x đại diện cho một phiên bản chính. Các bản phát hành số lẻ là để thử nghiệm và phát triển. Vào thời điểm đó, chỉ có các phiên bản được đánh số chẵn là phát hành sản xuất. Chữ y được tăng lên khi các bản vá nhỏ được phát hành trong phiên bản chính. Vào tháng 3 năm 1995, Linux kernel 1.2.0 đã được phát hành, với 310.950 dòng mã. Sau phiên bản kernel v1.3, Torvalds đã quyết định rằng đã có đủ các thay đổi đối với nhân Linux để đảm bảo việc phát hành phiên bản mới. Phiên bản 2.0.0 của Linux kernel được phát hành ngày 9 tháng 6 năm 1996.
Hạt nhân Linux
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1265
Trái ngược với Unix, tất cả mã nguồn của Linux kernel có sẵn miễn phí, bao gồm trình điều khiển, thư viện runtime và các công cụ phát triển. Thành công ban đầu của nhân Linux được thúc đẩy bởi sự hỗ trợ của các lập trình viên và người thử nghiệm trên toàn thế giới. Bằng cách cấu trúc nhân Linux theo các tiêu chuẩn POSIX, nó tương thích với một loạt các phần mềm và ứng dụng miễn phí đã được phát triển cho các trường đại học. Các nhà phát triển đóng góp cho nhân Linux đã nghĩ rằng điều quan trọng là hạt nhân mà Torvald đã viết cho các PC của Intel hỗ trợ các kiến ​​trúc phần cứng khác nhau. Hiện nay hạt nhân Linux có thể chạy trên các CPU từ Intel (80386, 80486, 80686), Digital Equipment Corporation (Alpha), Motorola (MC680x0 and PowerPC), Silicon Graphics (MIPS) và Sun Microsystems (SPARC). Thông qua một trình giả lập FPU tích hợp, nhân Linux thậm chí có thể chạy trên các kiến ​​trúc phần cứng thiếu bộ đồng xử lý toán học dấu phẩy động. Các nhóm nhà phát triển được thành lập cho các kiến ​​trúc khác nhau và với việc phát hành Linux kernel phiên bản 2.0, các nguồn của kernel bao gồm tất cả các thành phần để cấu hình kernel cho các kiến ​​trúc khác nhau trước khi biên dịch nó. Làm cho nhân Linux tương thích với các hệ thống file khác nhau cũng được ưu tiên. Nhân Linux có thể vận hành các hệ thống tập tin đã được định dạng cho Minix, Xenix hoặc System V, trong khi định dạng "umsdos" thậm chí cho phép Linux được cài đặt trong phân vùng MS-DOS. Vào tháng 12 năm 1999, các bản vá máy tính lớn của IBM cho 2.2.13 đã được xuất bản, cho phép nhân Linux được sử dụng trên các máy cấp doanh nghiệp. Tháng 12 năm 2003, với việc phát hành phiên bản kernel 2.6.0, 2.6.0, đã coi các hạt nhân Linux ổn định đến mức ông bắt đầu chu trình phát hành 2.6.x.y. Mỗi bản phát hành 2.6 là một hạt nhân để sản xuất, các bản phát hành phát triển được chỉ định bằng "-rc" ("release candidate") được gắn vào số hiệu phiên bản. Các bản phát hành kernel ổn định 2.6 bắt đầu được phát hành theo lịch trình đều đặn cứ sau 2 tháng 3, cho đến 2.6.39 tháng 5 năm 2011. Chu kỳ phát hành ngắn hơn là kết quả của các cuộc thảo luận giữa các nhà phát triển kernel về sơ đồ phát hành và phiên bản năm 2004.
Hạt nhân Linux
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1265
Để đáp lại việc thiếu một nhánh ổn định, nơi mọi người có thể điều phối bộ sưu tập sửa lỗi như vậy, vào tháng 12 năm 2005 Adrian Bunk tuyên bố rằng anh ta sẽ tiếp tục phát hành hạt nhân 2.6.16.y khi nhóm ổn định chuyển sang 2.6.17. Ông cũng bao gồm một số cập nhật trình điều khiển, làm cho việc bảo trì loạt 2.6.16 rất giống với các quy tắc cũ để bảo trì một loạt ổn định như 2.4. Kể từ đó, "nhóm ổn định" đã được thành lập và nó sẽ tiếp tục cập nhật các phiên bản kernel với các sửa lỗi. Vào tháng 10 năm 2008, Adrian Bunk tuyên bố rằng ông sẽ duy trì 2.6.27 trong một vài năm để thay thế 2.6.16. Đội ngũ ổn định đã lên ý tưởng và tính toán năm 2010, họ tiếp tục duy trì phiên bản đó và phát hành các bản sửa lỗi cho nó, ngoài ra còn có các bản sửa lỗi khác. Andrew Morton quyết định tái sử dụng cây-mm của mình từ quản lý bộ nhớ để làm đích cho tất cả các mã mới và thử nghiệm. Vào tháng 9 năm 2007, Morton quyết định ngừng duy trì cây này. Vào tháng 2 năm 2008, Stephen Rothwell đã tạo ra cây "linux-next" để phục vụ như là một nơi mà các bản vá nhằm mục đích được hợp nhất trong chu kỳ phát triển tiếp theo được tập hợp lại. Một số nhà bảo trì hệ thống con cũng sử dụng hậu tố "-next" cho các cây có chứa mã được gửi để đưa vào chu kỳ phát hành tiếp theo. , phiên bản đang phát triển của nhân Linux được giữ trong một nhánh không ổn định có tên "linux-next". Mã nguồn nhân Linux được bảo trì mà không cần sự trợ giúp của hệ thống quản lý mã nguồn tự động (SCM), chủ yếu là do Torvalds không thích các hệ thống SCM tập trung. Năm 2002, phát triển nhân Linux đã chuyển sang BitKeeper, một hệ thống SCM đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật của Torvalds. BitKeeper đã được cung cấp miễn phí cho Torvalds và một số người khác miễn phí nhưng không phải là phần mềm tự do, đây là một nguồn gây tranh cãi. Hệ thống này đã cung cấp một số khả năng tương tác với các hệ thống SCM miễn phí như CVS và Subversion.
Hạt nhân Linux
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1265
Tháng 4 năm 2005, Vào tháng 4 năm 2005, những nỗ lực dò ngược hệ thống BitKeeper của Andrew Tridgell đã khiến BitMover, công ty duy trì BitKeeper, ngừng hỗ trợ cộng đồng phát triển Linux. Đáp lại, Torvalds và những người khác đã viết một hệ thống kiểm soát mã nguồn mới cho mục đích này, được gọi là Git. Hệ thống mới được viết trong vòng vài tuần và trong hai tháng, bản phát hành hạt nhân chính thức đầu tiên được thực hiện bằng Git. Năm 2008, Greg Kroah-Hartman nói rằng từ năm 2005 hơn 3.700 nhà phát triển các nhân từ hơn 200 công ty khác nhau đã có đóng góp vào kernel. Kỷ niệm 20 năm nhân Linux được Torvalds tổ chức vào tháng 7 năm 2011 với việc phát hành phiên bản kernel 3.0.0. Mặc dù nó không có thay đổi công nghệ lớn khi so sánh với Linux 2.6.39 Linux Foundation đã kỷ niệm 20 năm hạt nhân trong phiên bản 2011 của nghiên cứu phát triển hạt nhân của họ. Kernel 3.0 có 15 triệu dòng lệnh và hơn 1.300 nhà phát triển các nhân có đóng góp cho phiên bản này của nhân Linux. Các nhà phát triển tình nguyện đóng góp 16% tất cả thay đổi của nhân Linux vào năm 2011. Những thay đổi khác đến từ những nhà phát triển phần mềm chuyên nghiệp, những người được các công ty thuê để gửi mã cho kernel. Năm 2011, các nhà phát triển Red Hat đã đóng góp 10% các thay đổi được thực hiện cho kernel, doanh nghiệp đóng góp lớn thứ hai là Intel, tiếp theo là IBM và Novell. Mặc dù lúc đó Nokia đã từ bỏ hệ điều hành cho điện thoại thông minh dựa trên nhân Linux của mình là MeeGo, nhưng năm 2011, các nhà phát triển Nokia vẫn đóng góp nhiều mã cho nhân Linux hơn so với các nhà phát triển được Google thuê, đã phát hành Android vào năm 2007 và Chrome OS vào năm 2009. Đến năm 2011, Microsoft dao động như là doanh nghiệp đóng góp nhiều thứ 17 cho hạt nhân. Các nhà phát triển của nó đã lần đầu tiên bắt đầu đóng góp cho kernel vào năm 2009 để cải thiện hiệu năng của các máy ảo Linux chạy trên trình ảo hóa Windows Hyper-V. Các hạt nhân ổn định 3.x.y đã được phát hành cho đến 3.19 trong tháng 2 năm 2015, với các phiên bản phát triển mang ký hiệu "-rc". Để giải thích cho bản phát hành bản vá đặc biệt thường xuyên, series v3 của kernel đã thêm một chữ số thứ tư vào đánh số phiên bản. tháng 4 năm 2015, Torvalds đã phát hành phiên bản kernel 4.0.
Hạt nhân Linux
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1265
Vào tháng 2 năm 2015, nhân Linux đã nhận được sự đóng góp của gần 12.000 lập trình viên từ hơn 1.200 công ty, bao gồm một số nhà cung cấp phần mềm và phần cứng lớn nhất thế giới. Phiên bản 4.1 của nhân Linux, được phát hành vào tháng 6 năm 2015, chứa hơn 19,5 triệu dòng mã được đóng góp bởi gần 14.000 lập trình viên. Phổ biến. Các bản phân phối Linux đóng gói nhân Linux với các ứng dụng, chương trình và gói ứng dụng Unix chịu trách nhiệm cho sự phổ biến ngày càng tăng của hệ điều hành Linux với người dùng. Sự phổ biến của hệ điều hành Android, bao gồm nhân Linux, đã khiến hạt nhân này trở thành lựa chọn phổ biến nhất cho các thiết bị di động, cạnh tranh với cơ sở được cài đặt của tất cả các hệ điều hành khác. Nhiều bộ định tuyến cũng sử dụng nhân Linux, cũng như nhiều loại thiết bị nhúng khác, chẳng hạn như smart TVs, set-top boxes, và webcams. Nhiều bản phân phối Linux trên máy tính để bàn bao gồm cả nhân Linux tồn tại, nhưng tỷ lệ sử dụng của các bản phân phối Linux thấp so với các hệ điều hành khác. Tính đến tháng 11/ 2017, tất cả 500 siêu máy tính mạnh nhất thế giới đều chạy Linux. Kiến trúc. Nhân Linux là một thiết kế nguyên khối và mô đun hóa (có thể nạp vào hay gỡ bỏ các kernel mô đun trong lúc đang chạy), hỗ trợ hầu hết các tính năng chỉ có trên nhân mã nguồn đóng của các hệ điều hành không tự do. Từ giờ trở đi, bài viết này sử dụng các thuật ngữ của các hệ điều hành Unix và tương tự, được đề cập trong các Man page (cẩm nang) chính thức. Các số đằng sau câu lệnh, giao diện hay các tính năng khác chỉ định nó thuộc thành phần nào của nhân (ví dụ là một lời gọi hệ thống, còn là một wrapper trong userspace). Danh sách sau đây và các phần tiếp theo mô tả tổng quan không đầy đủ về thiết kế kiến ​​trúc Linux và một số tính năng đáng chú ý của nó. Trình điều khiển thiết bị và phần mở rộng kernel chạy trong không gian kernel (ring 0 trong nhiều kiến trúc CPU), với toàn quyền truy cập vào phần cứng, mặc dù một số ngoại lệ chạy trong không gian người dùng, ví dụ: hệ thống file dựa trên FUSE/CUSE, và các phần của UIO. Hơn nữa, X Window và Wayland, các hệ thống cửa sổ và các giao thức máy chủ hiển thị mà hầu hết mọi người sử dụng với Linux không chạy trong kernel.
Hạt nhân Linux
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1265
Không giống như các hạt nhân nguyên khối tiêu chuẩn, trình điều khiển thiết bị dễ dàng được cấu hình dưới dạng các mô-đun và được tải hoặc không tải trong khi hệ thống đang chạy. Ngoài ra driver có thể bị ngắt quãng trong một số điều kiện nhất định; tính năng này đã được thêm vào để xử lý các ngắt phần cứng một cách chính xác và để hỗ trợ tốt hơn cho đa xử lý đối xứng. Theo lựa chọn, nhân Linux không có giao diện nhị phân ứng dụng ổn định cho các driver. Phần cứng cũng được thể hiện trong hệ thống phân cấp file. Giao diện trình điều khiển thiết bị với các ứng dụng người dùng thông qua một mục trong thư mục hoặc . Thông tin tiến trình cũng được ánh xạ tới hệ thống file thông qua thư mục . Giao diện. Linux là một hệ điều hành giống UNIX, và nhắm tới việc tương thích với POSIX và Single UNIX Specification. Ngoài ra nó còn cung cấp các lời gọi hệ thống và giao diện khác của riêng mình. Một đoạn mã muốn được thêm vào kernel chính thức phải tuân theo một số quy tắc về việc cấp phép. Giao diện nhị phân ứng dụng (ABI) của Linux nằm giữa kernel và không gian người dùng (user space) có bốn mức độ ổn định (ổn định, testing, lỗi thời và bị xóa bỏ), tuy nhiên các lời gọi hệ thống không bao giờ được phép thay đổi vì điều đó có thể làm hỏng các chương trình user space sử dụng chúng. Các Loadable kernel module (LKM) được thiết kế không thể phụ thuộc vào một ABI ổn định. Do đo chúng phải luôn được biên dịch lại mỗi khi có một kernel mới được cài đặt vào hệ thống, nếu không sẽ không tải được chúng. Các driver đã có sẵn như là một phần trọng yếu trong tập tin thực thi của kernel (gọi là vmlinux) được liên kết tĩnh trong quá trình biên dịch. Ngoài ra không có sự đảm bảo nào về tính ổn định của các API trong kernel, vì vậy mã nguồn của driver cũng như các hệ thống trong kernel phải được cập nhật thường xuyên. Bất kỳ lập trình viên nào thay đổi một API cũng được yêu cầu phải sửa tất cả các code bị ảnh hưởng. API giữa kernel và người dùng. Tập hợp API của kernel liên quan đến giao diện viết cho ứng dụng người dùng, về cơ bản, bao gồm các lời gọi hệ thống của UNIX và các lời gọi của riêng Linux. Một lời gọi hệ thống là một điểm vào bên trong kernel. Ví dụ, trong các lời gọi riêng của Linux có một họ các lời gọi là .
Hạt nhân Linux
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1265
Hầu hết các mở rộng phải được bật thông qua macro codice_1 trong một header file hoặc trong lúc biên dịch chương trình ứng dụng. Lời gọi hệ thống chỉ được thực hiện bằng cách sử dụng các lệnh bằng hợp ngữ cho phép chuyển từ chế độ người dùng không đặc quyền lên chế độ kernel đặc quyền trong ring 0. Vì vậy, thư viện C chuẩn (libC) có tác dụng như một wrapper của các lời gọi hệ thống, trong đó các hàm C chỉ khi cần thiết mới vào bên trong kernel để thực hiện lời gọi thay cho chương trình gọi nó. Đối với các lời gọi không có trong libC, ví dụ như fast user mutex (futex), thư viện cung cấp hàm cho phép thực hiện thẳng lời gọi đó. Các hệ thống file giả (ví dụ như sysfs hay procfs) và các file đặc biệt như codice_2, codice_3 hay codice_4, v.v là một cách trừu tượng hóa các thiểt bị phần cứng vật lý hoặc thiết bị phần mềm. ABI giữa kernel và người dùng. Có sự khác biệt giữa hàng trăm hệ điều hành Linux khác nhau, do đó các tập thực thi nhị phân được biên dịch, hợp dịch (assembly) hay liên kết để chạy trên một kiến trúc máy tính (ISA) cụ thể thường không thể chạy được trên các bản phân phối Linux khác nhau. Lý do chủ yếu là cấu hình riêng của bản phân phối hay các bản vá của kernel, hoặc khác biệt trong thư viện của hệ thống, dịch vụ (daemon), hệ thống file hay biến môi trường. Tiêu chuẩn chính liên quan đến vấn đề tương thích của các tập tin nhị phân và ứng dụng trong các bản phân phối là Linux Standard Base (LSB). Tuy nhiên LSB không chỉ đề cập đến kernel mà cả các môi trường desktop như thư viện X và Qt, những thứ không liên quan lắm đến kernel. LSB phiên bản 5 dựa trên vài tiêu chuẩn và bản dự thảo như POSIX, SUS, X/Open, File System Hierarchy (FHS), v.v. Các thành phần phần lớn liên quan đến kernel của LSB gọi là "General ABI" (gABI), đặc biệt là System V ABI và Executable and Linking Format (ELF) và "Processor Specific ABI" (psABI), ví dụ như "Core Specification for X86-64." Tiêu chuẩn ABI để các chương trình x86_64 thực hiện lời gọi hệ thống là nạp mã số lời gọi vào thanh ghi "rax" và các tham số vào các thanh ghi "rdi", "rsi", "rdx", "r10", "r8" và "r9", sau đó thực thi lệnh (hợp ngữ) "syscall". API nội bộ kernel. Có vài API nội bộ được sử dụng giữa các hệ thống trong kernel.
Hạt nhân Linux
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1265
Một số chỉ truy cập được bên trong hệ thống con, ngoài ra có một tập hợp khá ít ỏi các symbol (bao gồm các biến, hàm và cấu trúc) được xuất ra cho các module có thể tải động (ví dụ, các driver được tải khi yêu cầu) bằng cách thêm vào các macro hoặc (được dùng riêng cho các module có giấy phép GPL). Linux còn cung cấp các API nội bộ cho phép tương tác với các cấu trúc dữ liệu (như danh sách liên kết, cây radix, cây đỏ-đen và hàng đợi) hay thực hiện các hành động thông thường như sao chép dữ liệu trong user space, cấp phát bộ nhớ, in ra lịch trình hệ thống, v.v. được ổn định kể từ phiên bản 2.6. Các API nội bộ bao gồm các thư viện cung cấp các dịch vụ cấp thấp cho các trình điều khiển thiết bị phải kể đến: ABI nội bộ kernel. Các nhà phát triển Linux chọn cách không bảo trì các ABI ổn định bên trong kernel. Các module được biên dịch cho một phiên bản nhất định không thể nạp được vào phiên bản khác nếu không được biên dịch lại , cho dù mã nguồn của API nội bộ kernel không thay đổi. Nếu chúng bị thay đổi thì mã nguồn module phải được viết lại. Phát triển. Cộng đồng nhà phát triển. Tính đến năm 2007, sự phát triển của hạt nhân đã chuyển từ top 20 nhà phát triển tích cực nhất, viết 80% mã thành top 30 viết 30% mã, với các nhà phát triển hàng đầu dành nhiều thời gian xem xét thay đổi hơn. Các nhà phát triển cũng có thể được phân loại theo liên kết; trong năm 2007, các nhóm hàng đầu là không rõ trong khi đứng đầu nhóm doanh nghiệp là Red Hat với 12% đóng góp, và những người nghiệp dư được biết ở mức 3.9%. Những thay đổi về hạt nhân được thực hiện trong năm 2007 đã được gửi bởi hơn 1900 nhà phát triển, có thể là một đánh giá thấp đáng kể bởi vì các nhà phát triển làm việc theo nhóm thường được tính là một. Nó thường được giả định rằng cộng đồng các nhà phát triển hạt nhân Linux bao gồm 5000 hoặc 6000 thành viên. Cập nhật từ 2016 Linux Kernel Development Report, do Linux Foundation phát hành,bao gồm giai đoạn từ 3,18 (tháng 12 năm 2014) đến 4,7 (tháng 7 năm 2016): Khoảng 1500 nhà phát triển đã đóng góp cho mỗi bản phát hành từ khoảng 200-250 công ty trên mỗi bản phát hành. 30 nhà phát triển hàng đầu đã đóng góp hơn 16% mã.
Hạt nhân Linux
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1265
Trong khối doanh nghiệp, những công ty đóng góp nhiều nhất là Intel (12,9%) và Red Hat (8,0%), vị trí thứ ba và thứ tư được tổ chức bởi danh mục 'không' (7,7%) và 'không xác định' (6,8%). Quá trình phát triển. Một nhà phát triển muốn thay đổi hạt nhân Linux bắt đầu bằng việc phát triển và thử nghiệm sự thay đổi đó. Tùy thuộc vào mức độ thay đổi đáng kể và số lượng hệ thống con mà nó thay đổi mà thay đổi sẽ bao gồm một bản vá hoặc nhiều bản vá. Trong trường hợp của một hệ thống con duy nhất được duy trì bởi một người bảo trì duy nhất, các bản vá này được gửi dưới dạng e-mail đến người duy trì hệ thống con với danh sách gửi thư thích hợp trong Cc. Người duy trì và độc giả của danh sách gửi thư sẽ xem xét các bản vá và cung cấp phản hồi. Khi quá trình xem xét kết thúc, người duy trì chấp nhận các bản vá lỗi trong cây hạt nhân của mình. Nếu những thay đổi này là sửa lỗi được coi là đủ quan trọng, yêu cầu kéo bao gồm các bản vá sẽ được gửi đến Linus Torvalds trong vòng vài ngày. Nếu không, yêu cầu kéo sẽ được gửi đến Linus Torvalds trong cửa sổ hợp nhất tiếp theo. Cửa sổ hợp nhất thường kéo dài hai tuần và bắt đầu ngay sau khi phát hành phiên bản hạt nhân trước đó. Linus Torvalds là nhân tố cuối cùng không chỉ qua những thay đổi được chấp nhận vào nhân Linux mà còn hơn những người có thể trở thành một người bảo trì. Các nhà bảo trì hạt nhân giữ vai trò của họ trừ khi họ tự nguyện đóng vai trò của họ. Không có ví dụ nào được biết về các nhà bảo trì hạt nhân đã được yêu cầu từ bỏ. Ngoài ra, không có ví dụ nào được biết đến về trình bảo trì hạt nhân đã bị chỉ trích vì kiểu tương tác của cô ấy với các nhà phát triển của Linus. Điều này mang đến cho người bảo trì một lượng năng lượng đáng kể. Mặc dù văn hóa trong cộng đồng phát triển hạt nhân đã được cải thiện qua nhiều năm, cộng đồng phát triển hạt nhân có tiếng tăm đôi khi rất thô lỗ. Các nhà phát triển cảm thấy bị đối xử không công bằng có thể báo cáo điều này với Linux Foundation's Technical Advisory Board. Một số thành viên cộng đồng hạt nhân không đồng ý với văn hóa thảo luận hiện tại. Ngôn ngữ lập trình.
Hạt nhân Linux
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1265
Ngôn ngữ lập trình. Linux được viết bằng một phiên bản của ngôn ngữ lập trình C hỗ trợ bởi GCC (đã giới thiệu một số phần mở rộng và thay đổi cho tiêu chuẩn C), cùng với một số phần ngắn viết bằng hợp ngữ (trong cú pháp "AT&T-style" của GCC) cho kiến trúc đích. Bởi vì sự hỗ trợ mở rộng của C mà nó được viết, GCC trong một thời gian dài là trình biên dịch có thể dịch được đúng hạt nhân Linux. Nhiều ngôn ngữ khác được sử dụng trong nhiều cách, chủ yếu liên quan đến quá trình biên dịch. Bao gồm Perl, Python và nhiều loại shell scripting. Sự tương thích với các trình biên dịch. GCC là trình biên dịch mặc định cho nguồn nhân Linux. Năm 2014, Intel ttuyên bố đã sửa đổi kernel để trình biên dịch C của họ cũng có khả năng biên dịch hạt nhân. Có một báo cáo thành công như vậy trong năm 2009, với phiên bản kernel đã được sửa đổi 2.6,22. Từ năm 2010, nỗ lực đã được tiến hành để xây dựng nhân Linux với Clang, một trình biên dịch thay thế cho ngôn ngữ C; kể từ ngày 12 tháng 4 năm 2014, kernel chính thức gần như có thể được biên dịch bằng Clang. Dự án dành riêng cho nỗ lực này được đặt tên là "LLVMLinux" theo cơ sở hạ tầng trình biên dịch LLVM mà Clang được xây dựng. LLVMLinux không nhằm mục đích phân nhánh hạt nhân Linux hoặc LLVM, do đó, đây là một siêu dự án bao gồm các bản vá cuối cùng được gửi cho các dự án ngược dòng. Bằng cách cho phép nhân Linux được Clang biên dịch, trong số các ưu điểm khác, được biết đến với khả năng biên dịch nhanh hơn so với GCC, các nhà phát triển nhân có thể được hưởng lợi từ quy trình làm việc nhanh hơn do thời gian biên dịch ngắn hơn. Xung đột cộng đồng phát triển. Đã có một số xung đột đáng chú ý giữa các nhà phát triển nhân Linux. Ví dụ về những xung đột đó là: Các nhà phát triển nhân Linux nổi bật đã nhận thức được tầm quan trọng của việc tránh xung đột giữa các nhà phát triển. Trong một thời gian dài, không có quy tắc ứng xử nào cho các nhà phát triển nhân do sự phản đối của Linus Torvalds. Tuy nhiên, một Linux Kernel "Code of Conflict" đã được giới thiệu vào ngày 8 tháng 3 năm 2015. Nó đã được thay thế vào ngày 16 tháng 9 năm 2018 bởi "Code of Conduct" dựa trên "Giao ước cộng tác viên" (Contributor Covenant).
Hạt nhân Linux
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1265
Điều này trùng hợp với một lời xin lỗi công khai của Linus và một thông báo rằng ông đang tạm nghỉ phát triển nhân. Phương diện luật pháp. Điều khoản cấp phép. Ban đầu, Torvalds phát hành Linux theo một giấy phép cấm sử dụng thương mại. Điều này đã được thay đổi trong phiên bản 0.12 bằng cách chuyển sang Giấy phép Công cộng GNU (GPL). Giấy phép này cho phép phân phối và bán các phiên bản có thể sửa đổi và chưa sửa đổi của Linux nhưng yêu cầu tất cả các bản sao đó phải được phát hành theo cùng một giấy phép và được kèm theo mã nguồn tương ứng hoàn chỉnh. Torvalds đã mô tả việc cấp phép Linux theo GPL là "điều tốt nhất tôi từng làm". GPL v3. Linux kernel chỉ được cấp phép rõ ràng theo phiên bản 2 của GPL, mà không cung cấp cho người được cấp phép tùy chọn "bất kỳ phiên bản mới hơn", đây là một phần mở rộng GPL phổ biến. Đã có cuộc tranh luận đáng kể về việc giấy phép có thể được thay đổi dễ dàng để sử dụng các phiên bản GPL sau này (bao gồm cả phiên bản 3) và liệu sự thay đổi này có đáng mong muốn hay không. Bản thân Torvalds đã chỉ định cụ thể khi phát hành phiên bản 2.4.0 rằng mã riêng của ông chỉ được phát hành trong phiên bản 2. Tuy nhiên, các điều khoản của trạng thái GPL rằng nếu không có phiên bản nào được chỉ định thì có thể sử dụng bất kỳ phiên bản nào, và Alan Cox chỉ ra rằng rất ít người đóng góp Linux khác đã chỉ định một phiên bản cụ thể của GPL. Tháng 9/2006, một cuộc khảo sát với 29 lập trình viên hạt nhân chính đã chỉ ra rằng 28 người thích GPLv2 hơn dự thảo hiện tại của GPLv3. Torvalds nhận xét: "Tôi nghĩ rằng một số người ngoài cuộc... tin rằng cá nhân tôi chỉ là người kỳ quặc vì tôi đã công khai không phải là một fan hâm mộ lớn của GPLv3." Nhóm các nhà phát triển hạt nhân cao cấp này, bao gồm Linus Torvalds, Greg Kroah-Hartman và Andrew Morton, đã bình luận trên các phương tiện truyền thông đại chúng về sự phản đối của họ đối với GPLv3. Họ đã đề cập đến các điều khoản liên quan đến DRM/tivoization, bằng sáng chế, "các hạn chế bổ sung" và cảnh báo Balkanisation của "Open Source Universe" của GPLv3. Linus Torvalds, người quyết định không áp dụng GPLv3 cho nhân Linux, đã nhắc lại những lời chỉ trích của mình thậm chí nhiều năm sau đó. Loadable kernel modules.
Hạt nhân Linux
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1265
Loadable kernel modules. Cuộc tranh luận liệu các loadable kernel modules (LKMs) có được coi là tác phẩm phái sinh theo luật bản quyền hay không, và do đó nằm trong các điều khoản của GPL. Torvalds đã tuyên bố niềm tin của mình rằng các LKM chỉ sử dụng một tập hợp con giới hạn, "công khai" của các giao diện kernel đôi khi có thể là các tác phẩm không có nguồn gốc, do đó cho phép một số trình điều khiển chỉ nhị phân và các LKM khác không được cấp phép theo GPL. Một ví dụ điển hình cho việc này là việc sử dụng dma_buf bởi các trình điều khiển đồ họa Nvidia độc quyền. dma_buf là một tính năng kernel gần đây giống như phần còn lại của kernel, nó được cấp phép theo GPL), cho phép nhiều GPU nhanh chóng sao chép dữ liệu vào bộ đệm khung của nhau. Một trường hợp sử dụng có thể là Nvidia Optimus kết hợp GPU nhanh với GPU tích hợp Intel, trong đó GPU Nvidia ghi vào bộ đệm khung Intel khi nó hoạt động. Nhưng, Nvidia không thể sử dụng cơ sở hạ tầng này vì nó sử dụng một phương tiện kỹ thuật để thực thi quy tắc rằng nó chỉ có thể được sử dụng bởi các LKM cũng là GPL. đã trả lời trên LKML, từ chối yêu cầu từ một trong các kỹ sư của họ để loại bỏ thực thi kỹ thuật này khỏi API. Tuy nhiên, không phải tất cả những người đóng góp nhân Linux đều đồng ý với cách giải thích này, và ngay cả Torvald cũng đồng ý rằng nhiều LKM là các tác phẩm có nguồn gốc rõ ràng, và thực sự ông viết rằng "các mô-đun hạt nhân là dẫn xuất 'theo mặc định'". Mặt khác, Torvalds cũng đã nói rằng "một vùng màu xám nói riêng giống như một trình điều khiển ban đầu được viết cho một hệ điều hành khác (nghĩa là rõ ràng không phải là một tác phẩm có nguồn gốc từ Linux). [...] ĐÓ là một khu vực màu xám, and _that_ is khu vực mà cá nhân tôi tin rằng một số mô-đun có thể được coi là không có nguồn gốc hoạt động đơn giản vì chúng không được thiết kế cho Linux và không phụ thuộc vào bất kỳ hành vi đặc biệt nào của Linux". Trình điều khiển đồ họa độc quyền, đặc biệt, được thảo luận rất nhiều. Cuối cùng, có khả năng những câu hỏi như vậy chỉ có thể được giải quyết bởi một tòa án. Firmware binary blobs.
Hạt nhân Linux
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1265
Firmware binary blobs. Một điểm gây tranh cãi về cấp phép là việc sử dụng firmware "binary blobs" trong Linux kernel để hỗ trợ một số thiết bị phần cứng. Các tập tin này thuộc nhiều loại giấy phép, trong đó nhiều tập tin bị hạn chế và mã nguồn cơ bản chính xác của chúng thường không được biết. Năm 2002, Richard Stallman đã tuyên bố tại sao, theo quan điểm của mình, những đốm màu đó làm cho nhân Linux không phải là một phần mềm miễn phí và việc phân phối nhân Linux "vi phạm GPL", đòi hỏi phải có "mã nguồn tương ứng hoàn chỉnh". Năm 2008, Tổ chức Phần mềm Tự do Mỹ Latinh đã khởi động "Linux-libre" như một dự án tạo ra một biến thể hoàn toàn miễn phí của nhân Linux mà không có đối tượng độc quyền; nó được sử dụng bởi một số bản phân phối Linux hoàn toàn tự do, chẳng hạn như những bản phân phối được chứng nhận bởi Free Software Foundation, trong khi nó cũng có thể được sử dụng trên hầu hết các bản phân phối. Vào ngày 15 tháng 12 năm 2010, Dự án Debian đã thông báo rằng phiên bản ổn định tiếp theo của Debian "6.0 Squeeze" sẽ đi kèm với một hạt nhân "loại bỏ tất cả các bit phần mềm không tự do". Chính sách này tiếp tục được áp dụng trong các bản phát hành Debian ổn định sau này. Thương hiệu. Linux là thương hiệu đã đăng ký của Linus Torvalds tại Mỹ và một số quốc gia khác. Đây là kết quả của một sự cố trong đó William Della Croce, Jr., người không tham gia vào dự án Linux, đã đăng ký nhãn hiệu tên và sau đó yêu cầu tiền bản quyền để sử dụng nó. Một số người ủng hộ Linux đã yêu cầu tư vấn pháp lý và nộp đơn kiện chống lại Della Croce. Vấn đề đã được giải quyết vào tháng 8 năm 1997 khi nhãn hiệu được giao cho Linus Torvalds. Tranh chấp SCO. Đầu năm 2007, SCO đã đệ trình các chi tiết cụ thể về vi phạm bản quyền có mục đích. Mặc dù các tuyên bố trước đó rằng SCO là chủ sở hữu hợp pháp của 1 triệu dòng mã, họ chỉ xác định 326 dòng mã, hầu hết trong số đó là không bản quyền. Vào tháng 8 năm 2007, tòa án trong vụ Novell đã phán quyết rằng SCO đã không thực sự sở hữu bản quyền của Unix, mặc dù Tòa án phúc thẩm thứ mười phán quyết vào tháng 8 năm 2009 rằng câu hỏi về người sở hữu bản quyền vẫn còn đúng cho bồi thẩm đoàn câu trả lời.
Hạt nhân Linux
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1265
Tòa án đã ra phán quyết ngày 30 tháng 3 năm 2010 có lợi cho Novell.
UniKey
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1266
UniKey là chương trình gõ tiếng Việt phổ biến nhất trên Windows. Phần lõi xử lý tiếng Việt UniKey Input Engine cũng được sử dụng trong các chương trình bàn phím mặc định của các hệ điều hành Linux, Mac OS X và đặc biệt là tất cả các thiết bị dùng iOS (iPhone, iPad). UniKey Input Engine có mã nguồn mở theo giấy phép GNU. Giới thiệu UniKey. UniKey được công bố lần đầu tiên vào năm 1999. Ngay từ khi ra đời, UniKey đã được người dùng đón nhận rất tích cực nhờ tính đơn giản, tiện dụng, nhanh và đáng tin cậy. UniKey nhanh chóng trở thành chương trình gõ tiếng Việt tốt nhất, phổ biến nhất trên Windows. Hiện nay UniKey có mặt hầu như trên tất cả các máy tính chạy Windows của người Việt. UniKey Vietnamese Input Method, module chính xử lý tiếng Việt (gồm các phương pháp gõ, thuật toán chuyển đổi tiếng Việt) trong UniKey, được open-source từ năm 2001. Bản open-source của UniKey chạy trên X-Window (Linux) được công bố từ năm 2001, dưới tên x-unikey. x-unikey là một trong những chương trình gõ tiếng Việt đầu tiên trên Linux. Từ mã nguồn x-unikey, UniKey Input Engine đã được sử dụng và tích hợp vào các bộ gõ tiếng Việt trên Linux sau này. Bộ gõ phổ biến nhất dùng lõi UniKey trên Linux hiện nay là ibus-unikey (do Lê Quốc Tuấn phát triển). Từ năm 2006, tác giả UniKey đã cho phép Apple dùng mã nguồn x-unikey trong các sản phẩm của Apple theo các điều khoản của giấy phép "The MIT license". Từ phiên bản Tiger, bộ gõ tiếng Việt có sẵn trên Mac OS X đã bắt đầu dùng lõi UniKey. Đến năm 2010, phiên bản iOS 4.0 cũng tích hợp lõi UniKey. Đến nay tất cả các thiết bị iPhone, iPad đều đang sử dụng UniKey cho bộ gõ tiếng Việt có sẵn. Tính năng. UniKey hỗ trợ: Lịch sử. Sự ra đời của UniKey. Phạm Kim Long - cha đẻ của Unikey - bắt đầu viết một bộ gõ tiếng Việt với tên gọi "TVNBK" năm 1994 khi đang là sinh viên của trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Ban đầu TVNBK được viết bằng hợp ngữ cho DOS. Giữa những năm 1990, Phạm Kim Long đã chuyển đổi sang môi trường Windows và đổi tên thành "LittleVnKey." Năm 2000, anh phát hành bộ gõ mới với tên gọi là "Unikey," hỗ trợ nhập liệu Unicode và phát hành miễn phí theo giấy phép GNU GPL. Bản nguồn mở của UniKey chạy trên X-Window (Linux) được công bố từ năm 2001, dưới tên x-unikey. x-unikey là một trong những chương trình gõ tiếng Việt đầu tiên trên Linux.
UniKey
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1266
Từ source code x-unikey, UniKey Input Engine đã được sử dụng và tích hợp vào các bộ gõ tiếng Việt trên Linux sau này. Bộ gõ phổ biến nhất dùng lõi UniKey trên Linux hiện nay là ibus-unikey do Lê Quốc Tuấn phát triển. Từ năm 2006, tác giả UniKey đã cho phép Apple dùng mã nguồn x-unikey trong các sản phẩm của Apple theo các điều khoản của giấy phép MIT. Từ phiên bản Tiger, bộ gõ tiếng Việt có sẵn trên Mac OS X đã bắt đầu dùng lõi UniKey. Đến năm 2010, phiên bản iOS 4.0 cũng tích hợp lõi UniKey. Đến nay tất cả các thiết bị iPhone, iPad đều đang sử dụng UniKey cho bộ gõ tiếng Việt có sẵn. Hiện tại toàn bộ dự án bao gồm các phiên bản đã phát hành và mã nguồn của chúng được lưu trữ tại SourceForge. Đến năm 2013, anh phát triển thêm bộ gõ "Laban Key", một bộ gõ tiếng Việt phổ biến cho 2 nền tảng thiết bị di động iOS và Android. Hệ điều hành Hỗ trợ. Phiên bản Unikey mới nhất hiện chỉ hỗ trợ từ Windows 7 trở lên. Các phiên bản cũ hơn chỉ hỗ trợ Windows Vista trở xuống hiện đã được lưu trữ tại trang dự án Sourceforge của Unikey: Dư luận. Website bị hack. Ngày 1/2/2012, quản trị viên diễn đàn CMC InfoSec phát hiện và thông báo trên một số diễn đàn về bảo mật về website https://unikey.org của tác giả Phạm Kim Long đã bị kiểm soát bởi hacker đã trỏ các đường dẫn tải phần mềm Unikey ở trang web phần mềm sourceforge.net. Các file của phần mềm Unikey được lưu giữ ở website này cho đến sáng 1/3/2012 đều chứa phần mềm độc hại Trojan. Lợi dụng để tấn công. Ngày 4 tháng 12 năm 2019, CMC Cyber Security Lab phát hiện chiến dịch tấn công APT mới vào người dùng Việt Nam bằng cách chèn tập tin độc hại vào thư mục của UniKey. Khi khởi động Unikey, thay vì chạy tập tin Windows để phục vụ hoạt động của chương trình, kẻ tấn công đã hiệu chỉnh chương trình để đưa chương trình độc hại chạy lên trước thay vì chạy tập tin Windows. Khiến máy tính bị nhiễm mã độc, có thể bị thu thập dữ liệu và nguy cơ bị tấn công bởi các hành vi nguy hiểm. CMC cảnh báo người dùng kiểm tra lại thư mục chứa tập tin UniKey và chỉ nên tải phần mềm từ trang web chính thức của phần mềm. Bảo vệ. Nhằm đảm bảo việc tải về an toàn không bị Virus, người dùng chỉ nên tải về từ trang chủ Unikey tại https://www.unikey.org hoặc từ trang dự án của unikey trên sourceforge.net tại https://sourceforge.net/projects/unikey/.
UniKey
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1266
Từ Unikey 4.3 RC1, tác giả đã cài chứng thực chữ kí số vào tệp tin chạy của Unikey để đảm bảo an toàn.
Văn Tiến Dũng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1271
Văn Tiến Dũng (2 tháng 5 năm 1917 – 17 tháng 3 năm 2002), bí danh Lê Hoài, là một vị Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông từng là Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (1953 – 1978), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1980 – 1986), Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (1984 – 1986), một trong những tướng lĩnh danh tiếng của Việt Nam. Trong chiến tranh Việt Nam, ông trực tiếp tham gia chỉ đạo các chiến dịch Đường 9 – Nam Lào (năm 1971), chiến dịch Trị – Thiên ( năm 1972), Chiến dịch Tây Nguyên (năm 1975). Tháng 4 năm 1975, ông giữ chức Tư lệnh Chiến dịch giải phóng Sài Gòn – Gia Định (sau đổi tên thành Chiến dịch Hồ Chí Minh). Tiểu sử. Đại tướng Văn Tiến Dũng còn có bí danh là Lê Hoài, sinh ngày 2 tháng 5 năm 1917 tại xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm (nay là các phường Cổ Nhuế 1 và Cổ Nhuế 2, quận Bắc Từ Liêm), Hà Nội. Nhà nghèo, không ruộng đất, mẹ mất sớm, cậu bé họ Văn theo cha ra Hà Nội. Sau khi cha đột ngột qua đời vào năm cậu được 15 tuổi, Văn Tiến Dũng đành phải bỏ học, ở nhà trợ giúp cho anh làm nghề thợ may. 17 tuổi, Văn Tiến Dũng lại ra Hà Nội làm công cho các xưởng dệt Thanh Văn (Hàng Đào), sau chuyển sang xưởng Đức Xương Long, Cự Chung (Hàng Bông). Ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 11 năm 1937. Từ 1939 đến 1944, ông bị thực dân Pháp bắt giam 3 lần, vượt ngục 2 lần. Tháng 11 năm 1939, ông bị Pháp đày đi nhà tù Sơn La. Hai năm sau, trên đường bị địch áp giải từ Sơn La về Hà Nội, ông đã trốn thoát. Từ tháng 12 năm 1942 đến tháng 3 năm 1943, ông đã hoạt động dưới danh nghĩa nhà sư tại Chùa Bột Xuyên (nay thuộc huyện Mỹ Đức, Hà Nội). Ông từng đảm nhiệm chức vụ Bí thư Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh, Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ năm 1944. Chính trong thời kỳ này, ông đã làm quen với "Nguyễn Thị Kỳ" (tên khai sinh là "Cái Thị Tám") cùng hoạt động cách mạng và sau đó họ đã trở thành vợ chồng.
Văn Tiến Dũng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1271
Tháng 1 năm 1945, ông bị chính quyền thực dân Pháp kết án tử hình vắng mặt. Tháng 4 năm 1945, ông được cử làm Ủy viên Thường vụ Ủy ban Quân sự Cách mạng Bắc Kỳ (Bộ Tư lệnh Quân sự miền Bắc Đông Dương), được phân công phụ trách tổ chức Chiến khu Quang Trung, kiêm Bí thư Khu uỷ Chiến khu Quang Trung. Tháng 8 năm 1945, ông chỉ đạo vũ trang giành chính quyền ở các tỉnh Hoà Bình, Ninh Bình và Thanh Hoá. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông được giao nhiệm vụ lập chiến khu II (gồm 8 tỉnh phía tây bắc và tây nam Bắc Bộ), làm Chính uỷ Chiến khu, tham gia Quân ủy Trung ương. Ngày 20/11/1946 ông làm Phó Cục trưởng Cục Chính trị. Tháng 12 năm 1946, ông là Cục trưởng Cục Chính trị Quân đội Quốc gia Việt Nam (nay là Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam), Phó bí thư Quân uỷ Trung ương. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ông từng là Đại đoàn trưởng kiêm Chính uỷ Đại đoàn 320. Từ tháng 11 năm 1953 đến tháng 5 năm 1978, ông giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, chỉ gián đoạn một thời gian ngắn vào năm 1954, khi ông làm Trưởng đoàn đại biểu của Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam trong Ủy ban Liên hiệp đình chiến thi hành Hiệp định Genève về Đông Dương. Ông được giao trọng trách chỉ đạo trực tiếp nhiều chiến dịch lớn: từ chiến dịch Đường 9 – Nam Lào (1971), Trị – Thiên (1972), Chiến dịch Tây Nguyên (1975). Tháng 4 năm 1975, ông giữ chức Tư lệnh Chiến dịch giải phóng Sài Gòn – Gia Định (sau đổi tên thành Chiến dịch Hồ Chí Minh). Từ tháng 5 năm 1978 đến năm 1986, ông được giao nhiệm vụ làm Phó Bí thư thứ nhất, rồi Bí thư Quân ủy Trung ương. Từ tháng 2 năm 1980 đến 1986, ông giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng. Năm 1986, tại Đại hội Đảng bộ toàn quân, ông không được bầu làm Đại biểu Chính thức đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, do đó không vào được Bộ Chính trị và phải rời cương vị Bộ trưởng Quốc phòng.
Văn Tiến Dũng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1271
Ông lâm bệnh nặng và từ trần hồi 17h30' ngày 17/3/2002 tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 ở Hà Nội, hưởng thọ 85 tuổi, an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch. Khen thưởng. Ông đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Tưởng nhớ. Hà Nội có đường mang tên ông đoạn nối quốc lộ 32 và Liên Xã. Ngoài ra, tên ông còn được đặt cho một con đường ở Đà Nẵng (trên địa bàn phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ), ở thành phố Sơn La, ở Huế và ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Đồng Nai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1275
Đồng Nai là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ trên cơ sở hợp nhất 2 tỉnh cũ là Biên Hòa và Long Khánh, Việt Nam. Đây là tỉnh đông dân thứ 5 cả nước sau Thành phố Hồ Chí Minh, Thủ đô Hà Nội, tỉnh Thanh Hóa và tỉnh Nghệ An. Địa lý. Vị trí địa lý. Tỉnh Đồng Nai nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ, có diện tích tự nhiên là 5.907,2 km². Đồng Nai có tọa độ từ 10o30’03B đến 11o34’57’’B và từ 106o45’30Đ đến 107o35’00"Đ, có vị trí địa lý: Tỉnh được xem là một cửa ngõ đi vào vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ - vùng kinh tế phát triển và năng động nhất cả nước. Đồng thời, Đồng Nai là một trong 4 góc nhọn của Tứ giác phát triển Thành phố Hồ Chí Minh - Bình Dương - Bà Rịa – Vũng Tàu - Đồng Nai. Dân cư tập trung phần lớn ở Biên Hòa với hơn 1 triệu dân và ở 2 huyện Trảng Bom, Long Thành. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Biên Hòa, cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 30 km, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 1684 km theo đường Quốc lộ 1. Đây là thành phố trực thuộc tỉnh có dân số đông nhất cả nước, với quy mô dân số tương đương với 2 thành phố trực thuộc trung ương là Đà Nẵng và Cần Thơ. Điều kiện tự nhiên. Tỉnh Đồng Nai có địa hình vùng đồng bằng và trung du với những núi sót rải rác, có xu hướng thấp dần theo hướng bắc nam, với địa hình tương đối bằng phẳng. Địa hình có thể chia làm các dạng là địa hình đồng bằng, địa hình trũng trên trầm tích đầm lầy biển, địa đồi lượn sóng, dạng địa hình núi thấp, đất phù sa, đất gley và đất cát có địa hình bằng phẳng, nhiều nơi trũng ngập nước quanh năm. Đất đen, nâu, xám hầu hết có độ dốc nhỏ hơn 8, đất đỏ hầu hết nhỏ hơn 15. Riêng đất tầng mỏng và đá bọt có độ dốc cao. Tỉnh Đồng Nai có quỹ đất phong phú và phì nhiêu. Có 10 nhóm đất chính, tuy nhiên theo nguồn gốc và chất lượng đất có thể chia thành 3 nhóm chung gồm: các loại đất hình thành trên đá bazan, các loại đất hình thành trên phù sa cổ và trên đá phiến sét, các loại đất hình thành trên phù sa mới.
Đồng Nai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1275
Trong tổng diện tích tự nhiên, diện tích đất nông nghiệp chiếm 49,1%, diện tích đất lâm nghiệp chiếm 30,4%, diện tích đất chuyên dùng chiếm 13%, diện tích đất khu dân cư chiếm 2,1%, diện tích đất chưa sử dụng chiếm 5,4%. Khí hậu Đồng Nai là khí hậu nhiệt đới gió mùa, có hai mùa tương phản nhau là mùa khô và mùa mưa. Mùa khô thường bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11. Khoảng kết thúc mùa mưa dao động từ đầu tháng 10 đến tháng 12. Nhiệt độ trung bình năm 25 – 27 °C, nhiệt độ cao cực trị khoảng 40 °C và thấp cực trị 12,5 °C và số giờ nắng trong năm 2.500 – 2.700 giờ, độ ẩm trung bình luôn cao 80 – 82%. Rừng Đồng Nai có đặc trưng cơ bản của của rừng nhiệt đới, có tài nguyên động, thực vật phong phú đa dạng, tiêu biểu là vườn quốc gia Nam Cát Tiên. Tài nguyên khoáng sản khá phong phú về chủng loại như kim loại quý, kim loại màu, đá quý, nguyên liệu gốm sứ, vật liệu xây dựng, phụ gia xi măng, than bùn, nước khoáng và nước nóng,… Lịch sử. Lịch sử của Đồng Nai gắn liền với lịch sử của vùng đất Nam Bộ. Nước Đại Việt lúc bấy giờ chỉ từ ải Nam Quan đến vùng Bắc Đèo Ngang (Hà Tĩnh ngày nay). Việc mở rộng được bắt đầu khi có những giao tranh giữa Đại Việt và vương quốc Chăm Pa láng giềng lúc bấy giờ. Để mở rộng bờ cõi về phía Nam, nước Đại Việt lúc bấy giờ đã biết tổ chức một quân đội tốt, hùng hậu và có chiến lược nhu lẫn cương để thực hiện mưu đồ Nam tiến của mình. Nước Việt Nam lúc bấy giờ xảy ra giao tranh giữa vua Lê - Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn, lịch sử vẫn gọi là thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh, đây là cuộc phân tranh tạo ra tình trạng cát cứ trong lịch sử Việt Nam. Cuộc sống của người dân đói khổ và lâm vào lầm than. Điều này tạo ra một làn sóng di dân ồ ạt đầu tiên từ Bắc vào Nam, trong đó có làn sóng di dân của miền Thuận Quảng vào Đồng Nai tìm đất sinh sống và tái lập nghiệp.
Đồng Nai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1275
Năm 1621, Chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên) sai sứ sang gặp vua Chân Lạp Chey Chetta II, yêu cầu cho người Việt vào sinh sống, buôn bán ở Đồng Nai. Người Việt di cư đến đâu thì khai khẩn và phá hoang lấy đất canh tác đến đó tạo nên vùng đất trù phú. Ruộng lúa, hoa màu xanh tốt. Năm 1679, nhà Minh ở Trung Quốc sụp đổ, Tổng binh Trần Thượng Xuyên trấn thủ các châu Cao, Lôi, Liêm không khuất phục nhà Thanh đã đem 50 chiến thuyền, 3.000 binh lính thân tín và gia quyến đến xin thuần phục chúa Nguyễn ở Thuận Hóa. Lúc bấy giờ, đứng đầu nhà Nguyễn là Chúa Nguyễn Phúc Tần đã thu nhận họ và cho vào khai khẩn, mở mang vùng đất Đông Phố (Cù lao Phố ngày nay). Họ biến Cù Lao Phố trên sông Đồng Nai trở thành một thương cảng sầm uất và phát triển. Năm Mậu Dần 1698, chúa Nguyễn sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược vùng đất Đồng Nai (lúc này, từ Đồng Nai hay vùng đất Đồng Nai là ám chỉ cả một vùng Nam Bộ rộng lớn của bây giờ), đặt vùng đất mới thành phủ Gia Định, chia làm 2 huyện: huyện Phước Long (Đồng Nai) dựng dinh Trấn Biên, huyện Tân Bình (Sài Gòn) dựng dinh Phiên Trấn. Ngoài ra, Nguyễn Hữu Cảnh còn cho lập bộ đinh, bộ điền, chiêu mộ những người có vật lực từ các vùng khác vào lập nghiệp và phát triển kinh tế. Năm 1802, dinh Trấn Biên được vua Gia Long đổi thành trấn Biên Hòa, nhưng vẫn thuộc phủ Gia Định. Năm 1808, trấn Biên Hòa thuộc thành Gia Định, đặt Phước Long thành phủ, đặt ra các tổng Phước Chính, Phước An, Bình An, Long Thành làm huyện. Năm 1836, trấn Biên Hòa được vua Minh Mạng đổi thành tỉnh Biên Hoà. Năm 1837, lập thêm hai phủ Phước Tuy và các huyện Nghĩa An, Long Khánh, Phước Bình. Vào năm 1840, đặt thêm bốn phủ là Tân Định, Tân Bình, Tân Lợi và Tân Thuận. Năm 1851, Vua Tự Đức nhập hai huyện Phước Bình và Long Khánh vào các phủ Phước Long và Phước Tuy. Năm 1882, sau khi Hòa ước Nhâm Tuất được ký, lúc này triều đình Nhà Nguyễn cắt đất giao 3 tỉnh Gia Định, Định Tường và Biên Hoà cho Pháp.
Đồng Nai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1275
Sau đó, Pháp chia Biên Hòa thành ba tỉnh là Biên Hòa, Thủ Dầu Một và Bà Rịa. Đến thời Việt Nam Cộng hòa, đất Đồng Nai được chia làm 3 tỉnh là Biên Hòa, Long Khánh, Phước Tuy. Đầu năm 1975, hợp nhất 3 tỉnh này thành lập tỉnh Đồng Nai, tỉnh lỵ đặt tại thị xã Biên Hòa. Năm 1976, thị xã Biên Hòa được nâng cấp thành thành phố Biên Hòa - đô thị loại 3, trực thuộc tỉnh Đồng Nai. Ban đầu, tỉnh Đồng Nai có tỉnh lị là thành phố Biên Hòa, thị xã Vũng Tàu và 9 huyện: Châu Thành, Duyên Hải, Long Đất, Long Thành, Tân Phú, Thống Nhất, Vĩnh Cửu, Xuân Lộc, Xuyên Mộc. Ngày 23 tháng 12 năm 1978, sáp nhập xã Hố Nai 1 và xã Hố Nai 2 của huyện Thống Nhất vào thành phố Biên Hòa. Ngày 29 tháng 12 năm 1978, chuyển huyện Duyên Hải (nay là huyện Cần Giờ) về Thành phố Hồ Chí Minh quản lý theo nghị quyết của kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa VI. Ngày 30 tháng 5 năm 1979, tách thị xã Vũng Tàu và xã Long Sơn thuộc huyện Châu Thành để thành lập đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo. Ngày 23 tháng 12 năm 1985, chuyển huyện Vĩnh Cửu thành thị xã Vĩnh An. Ngày 10 tháng 4 năm 1991, chia huyện Xuân Lộc thành 2 huyện: Xuân Lộc và Long Khánh; chia huyện Tân Phú thành 2 huyện: Tân Phú và Định Quán. Đến năm 1991, tỉnh Đồng Nai có 11 đơn vị hành chính gồm: thành phố Biên Hòa (tỉnh lị), thị xã Vĩnh An và 9 huyện: Châu Thành, Định Quán, Long Đất, Long Khánh, Long Thành, Tân Phú, Thống Nhất, Xuân Lộc, Xuyên Mộc. Ngày 12 tháng 8 năm 1991, kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII ra nghị quyết chia tỉnh Đồng Nai thành 2 tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu: Năm 1993, thành phố Biên Hòa được công nhận là đô thị loại II, trực thuộc tỉnh Đồng Nai. Ngày 23 tháng 6 năm 1994, chia huyện Long Thành thành 2 huyện: Long Thành và Nhơn Trạch. Ngày 29 tháng 8 năm 1994, giải thể thị xã Vĩnh An để tái lập huyện Vĩnh Cửu.
Đồng Nai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1275
Ngày 21 tháng 8 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 97/2003/NĐ-CP, giải thể huyện Long Khánh để thành lập thị xã Long Khánh và huyện Cẩm Mỹ, chia huyện Thống Nhất thành hai huyện: Thống Nhất và Trảng Bom. Đến thời điểm này, tỉnh Đồng Nai có 1 thành phố, 1 thị xã và 9 huyện. Ngày 30 tháng 12 năm 2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2488/QĐ-TTg công nhận thành phố Biên Hòa là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Đồng Nai. Ngày 1 tháng 6 năm 2019, chuyển thị xã Long Khánh thành thành phố Long Khánh. Hành chính. Tỉnh Đồng Nai có 11 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 2 thành phố và 9 huyện, với 170 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 40 phường, 9 thị trấn và 121 xã. Kinh tế - xã hội. Kinh tế. Năm 2020, Đồng Nai là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ năm về số dân, xếp thứ ba về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ sáu về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 19 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 3.097.107 người dân, GRDP đạt gần 400.000 tỉ Đồng (tương ứng 17.2 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 124 triệu đồng (tương ứng với 5.300 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP dự kiến đạt trên 9,0%. Đồng Nai là một tỉnh cửa ngõ đi vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ – vùng kinh tế phát triển và năng động nhất cả nước. Trong đó, Đồng Nai là một trong ba góc nhọn của tam giác phát triển Thành phố Hồ Chí Minh – Bình Dương – Đồng Nai. Đồng Nai có nhiều cụm công nghiệp nghề truyền thống và hơn 32 khu công nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và đi vào hoạt động như Long Thành, An Phước, Nhơn Trạch II, Biên Hòa II, Amata... Năm 2011, mặc dù kinh tế xã hội gặp nhiều khó khăn thách thức, tuy nhiên tổng sản phẩm nội địa (GDP) trên địa bàn tỉnh Đồng Nai tăng vẫn 13,32% so với năm 2010, trong đó, dịch vụ tăng 14,9%, nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,9% công nghiệp - xây dựng tăng 14,2%.
Đồng Nai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1275
Quy mô GDP năm 2011 toàn tỉnh đạt 96.820 tỷ đồng, GDP thu nhập bình quân đầu người|bình quân đầu người đạt 36,6 triệu đồng, các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng của tỉnh hầu hết đều đạt và vượt các chỉ tiêu đề ra. Cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch theo hướng tích cực, công nghiệp - xây dựng chiếm 57,3%, nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 7,5%, dịch vụ chiếm 35,2%. Kim ngạch xuất khẩu đạt 9,8 tỷ USD, tăng 30,3% so với cùng kỳ, thu ngân sách trên địa bàn đạt 22.641,2 tỷ đồng. đầu tư nước ngoài (FDI) đạt 900 triệu USD, vốn đầu tư trong nước đạt 15.000 tỷ đồng... Cũng trong năm 2011, toàn tỉnh có 5.200 lượt hộ nghèo được vay vốn với số tiền 67 tỷ đồng. Số hộ nghèo năm 2011 giảm 7.800 hộ, hạ tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 5%. Trong 9 tháng đầu năm 2012, theo đánh giá, hầu hết các lĩnh vực đều tăng chậm hơn so với cùng kỳ các năm trước do ảnh hưởng từ những khó khăn chung của nền kinh tế trong và ngoài nước, ngoại trừ lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài vẫn tăng mạnh. Sản xuất công nghiệp trong 9 tháng tăng hơn 7% với 12 ngành công nghiệp tăng và 4 ngành giảm. Tăng trưởng GDP của tỉnh đạt 11,87% so với cùng kỳ năm 2012, đạt trên 70% kế hoạch, trong đó lĩnh vực dịch vụ tăng cao nhất với 14,51% so với cùng kỳ. Ngoài ra, tổng mức bán lẻ tăng 20% so với 9 tháng đầu năm 2011, chỉ số giá tiêu dùng tăng 6.14% so với cuối năm 2011. Xuất khẩu 9 tháng đầu năm 2012 đạt trên 7,9 tỷ USD, nhập khẩu đạt hơn 7,5 tỷ USD. Đến 2019, GDP Đồng Nai là 3.720 USD/người tương đương khoảng 60,4 triệu đồng, tỷ lệ hộ nghèo năm 2019 còn 9.200, chiếm khoảng 1,8% trong tổng số hộ. Về nông nghiệp, Đồng Nai là thủ phủ sản xuất chè, cà phê, ca cao, cam, bưởi, quýt, sầu riêng, chôm chôm, măng cụt... Đồng Nai là tỉnh có đàn lợn lớn nhất cả nước với gần 1 triệu con, và có đàn trâu bò lớn thứ 2 với 185.000 con.
Đồng Nai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1275
Đồng Nai là tỉnh đầu tiên của cả nước mà 100% xã, huyện, thành phố đều đạt chuẩn nông thôn mới. Vì vậy nông nghiệp Đồng Nai phát triển mạnh mẽ, là nguồn cung hàng hoá cho các khu vực lân cận và xuất khẩu. Đây là tỉnh có sản lượng nông nghiệp lớn nhất Đông Nam Bộ và là một trong những tỉnh sản xuất ra khối lượng nông sản lớn nhất Việt Nam. Năm 2018, Giá trị sản xuất của thủy sản so với Tổng giá trị sản xuất của Nông nghiệp – Lâm nghiệp – Thủy sản  là 8,8%. Năm 2019, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 8,7%, giá trị sản xuất nông lâm thủy sản tăng 2,7%. Thu ngân sách đạt 54.431 tỉ đồng, đạt 100% so với dự toán được giao, chi ngân sách đạt 22.509 tỉ đồng, đạt 109% so với dự toán. Tổng mức bán lẻ, doanh thu dịch vụ đạt 173,6 ngàn tỉ đồng, tăng 11,7% so với cùng kì và đạt kế hoạch năm. Kim ngạch xuất khẩu đạt 19,7 tỉ USD, tăng 7,1% so với cùng kì; kim ngạch nhập khẩu đạt 16,5 tỉ USD, tăng 2,1% so với cùng kì. Năm 2019, Đồng Nai xuất siêu khoảng 3,2 tỉ USD. Huy động vốn đầu tư phát triển đạt 91.335 tỉ đồng. Thu hút đầu tư trong nước đạt 34 nghìn tỉ đồng, đạt 340% kế hoạch năm, tăng 23,6% so với cùng kì. Lũy kế đến nay, trên địa bàn tỉnh có 917 dự án với tổng vốn khoảng 325.000 tỉ đồng. Tổng vốn đầu tư nước ngoài dự ước đạt 1.450 triệu USD, đạt 145% so với kế hoạch, bằng 75,7% so với cùng kì. Lũy kế đến nay, trên địa bàn tỉnh có 1.457 dự án còn hiệu lực với số vốn đăng kí khoảng 30 tỉ USD. Công tác đăng kí doanh nghiệp: Năm 2019 ước đạt 3.850 doanh nghiệp đăng kí thành lập mới, tăng 9,4% so với cùng kì, tổng vốn đăng kí ước đạt 34.000 tỉ đồng. Đến nay, trên địa bàn tỉnh có khoảng 38000 doanh nghiệp với tổng vốn đăng kí trên 264.000 tỉ đồng. Giáo dục.
Đồng Nai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1275
Giáo dục. Tính đến thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2018 trên địa bàn toàn tỉnh Đồng Nai có 745 trường học, trong đó có Trung học phổ thông có 84 trường, Trung học cơ sở có 273 trường, Tiểu học có 362 trường, trung học có 23 trường, có 4 trường phổ thông cơ sở, bên cạnh đó còn có 327 trường mẫu giáo. Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trong địa bàn tỉnh Đồng Nai cũng tương đối hoàn chỉnh, góp phần giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh. Trên địa bàn còn có cơ sở 2 của Trường Đại học Mở Tp Hồ Chí Minh ở phường Long Bình Tân, Tp Biên Hòa. Y tế. Đồng Nai là một trong những tỉnh có vị trí gần Thành phố Hồ Chí Minh nên có nhiều thuận lợi trong các lĩnh vực công nghệ khoa học, trong đó, mạng lưới y tế cũng rất phát triển. Cho đến nay, Đồng Nai đã thành lập được 11 bệnh viện tuyến huyện trên 11 huyện, thị xã và thành phố Biên Hòa. Danh sách bệnh viện tại Đồng Nai. Bên cạnh đó còn có Hệ thống phòng khám và chăm sóc sức khỏe Quốc tế Sỹ Mỹ đã phần nào đáp ứng được nhu cầu của người dân trong tỉnh và các tỉnh lân cận khám chữa bệnh mà các bệnh viện, phòng khám khác không đáp ứng được nhu cầu. Dân cư. Lịch sử phát triển dân số. Tính đến năm 2019, dân số toàn tỉnh Đồng Nai đạt 3.097.107 người, mật độ dân số đạt 516,3 người/km², dân số thành thị chiếm 48.4%, dân số nông thôn chiếm 51.6%. Đây cũng là tỉnh đông dân nhất vùng Đông Nam Bộ với hơn 3 triệu dân (nếu không tính Thành phố Hồ Chí Minh). Đây là tỉnh có dân số đông thứ nhì ở miền Nam (sau Thành phố Hồ Chí Minh), đông thứ 5 cả nước (sau Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Thanh Hóa, Nghệ An) và có dân số đô thị đứng thứ 4 cả nước (sau Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Bình Dương). Tỉnh có diện tích lớn thứ nhì ở Đông Nam Bộ (sau Bình Phước) và thứ ba ở miền Nam (sau Bình Phước và Kiên Giang). Theo thống kê của Tổng cục Thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn tỉnh Đồng Nai có 51 dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống.
Đồng Nai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1275
Trong đó người Kinh có 2.311.315 người, người Hoa có 95.162 người, người Nùng có 19.076 người, người Tày có 15.906 người, người Khmer có 7.059 người, còn lại là những dân tộc khác như Mường, Dao, Chăm, Thái... Ít nhất là người Si La và Ơ Đu chỉ có một người...Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 là hơn 45%. Tôn giáo. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh Đồng Nai có 13 Tôn giáo khác nhau, nhiều nhất là Công giáo có 1.015.315 người, Phật giáo có 440.556 người, Đạo Cao Đài có 34.670 người, các tôn giáo khác như Tin Lành có 43.690 người, Hồi giáo 6.220 người, Phật giáo hòa hảo có 5.220 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có 530 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có 36 người, Minh Sư Đạo có 39 người, Bahá'í có 63 người, Bà-la-môn có 15 người, Minh Lý Đạo có 12 người, còn lại là đạo Bửu Sơn Kỳ Hương có hai người. Tỉnh Đồng Nai là tỉnh có sự đa dạng về các đặc trưng tôn giáo, tín ngưỡng. Phần lớn dân cư theo sau Công cuộc Mở mang bờ cõi của Chúa Nguyễn và đánh dấu là sự khai hoang lập ấp của Nguyễn Hữu Cảnh. Cư dân ban đầu mang theo tín ngưỡng thờ cúng ông bà mà phần lớn người dân Việt Nam hiện nay đều có. Song song đó là sự có mặt của Phật giáo, Đạo giáo, Khổng giáo... dần dần đến các cuộc chiến tranh Việt Nam chống ngoại ban xâm lược thì sự du nhập các tôn giáo, tín ngưỡng theo sự di dân do chiến tranh và hoàn cảnh bắt đầu xuất hiện. Công giáo ra đời và phát triển mạnh mẽ đến ngày nay trên đất Đồng Nai là sau cuộc di dân năm 1954. Rồi dần, Phật giáo Hòa Hảo và Cao Đài, v.v.. dần xuất hiện theo sự di cư của người dân. Các nơi có đông giáo dân ở Đồng Nai là tp. Biên Hoà, huyện Trảng Bom, trải dài tới Xuân Lộc, Thống Nhất, Định Quán, Tân Phú, với hơn 900.000 giáo dân, Đồng Nai là nơi có số lượng người theo Công giáo rất lớn. Hiện nay Đồng Nai là một địa bàn đa tôn giáo: Công giáo, Phật giáo, Tin Lành, Cao đài, Hòa Hảo, Hồi giáo... Trong đó, Công giáo và Phật giáo là hai tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất. Công giáo tập trung đông đúc ở TP. Biên Hòa và huyện Trảng Bom.
Đồng Nai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1275
Biên Hòa và huyện Trảng Bom. Hiện tại (2019), Đồng Nai là địa phương có số người theo đạo Công giáo đông nhất cả nước với 1.015.315 giáo dân, chiếm 1/3 dân số trong toàn tỉnh (32,8%). Phật giáo phát triển mạnh sau sự kiện Thích Quảng Đức vị quốc thiêu thân năm 1963, làm phát khởi tinh thần Từ Bi - Trí tuệ của người Phật tử, hiện nay hàng loạt các ngôi chùa, tự viện, thiền viện được ra đời đáp ứng nhu cầu tu học của người dân, đăc biệt là Hệ thống Thiền viện thuộc Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam. Văn hóa - Du lịch. Văn hóa. Đồng Nai và Bình Dương là hai tỉnh miền Đông Nam Bộ có nghề nghiệp truyền thống nổi tiếng là gốm sứ. Sản phẩm gốm sứ của Đồng Nai có nhiều loại và không giống như các sản phẩm gốm sứ truyền thống khác ở miền Bắc và miền Trung. Phương pháp nghệ thuật tạo hoa văn cho sản phẩm của gốm sứ Đồng Nai là kết hợp giữa khắc nét chìm và trổ thủng sản phẩm gốm rồi quét men nhưng không có sự phân biết nước men và màu ve. Ngoài ra, Đồng Nai còn có nhiều nghề nghiệp thủ công nghiệp truyền thống như đan lát, mây tre lá nhờ nguồn tài nguyên là các rừng lá buông của địa phương, các làng nghề khác như bánh đa, hủ tíu, gò thùng thiếc làng Kim Bích. Gia công đồ mỹ nghệ, làm các sản phẩm từ gỗ công nghệ, chế biến nông sản, sản xuất gạch ngói, đúc đồng, đúc gang... là những ngành nghề truyền thống nổi tiếng của Đồng Nai. Nắm bắt được thế mạnh này, Đồng Nai ra sức bảo vệ nghề truyền thống và thành lập các cụm công nghiệp nghề truyền thống, mở các lớp đào tạo nghề truyền thống là giải pháp then chốt và mới mẻ nhưng có tính cách lâu dài và là bước đi đúng đắn bảo vệ ngành nghề truyền thống trước sức ép phát triển của quá trình đô thị hóa, hội nhập kinh tế và đầu tư nước ngoài cho các ngành công nghiệp và dịch vụ hiện đại Du lịch.
Đồng Nai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1275
Đồng Nai có nhiều di tích lịch sử, văn hoá và các điểm du lịch có tiềm năng: Văn miếu Trấn Biên (Biên Hòa), đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, khu du lịch Bửu Long, khu du lịch ven sông Đồng Nai, Vườn quốc gia Nam Cát Tiên, làng bưởi Tân Triều, khu du lịch sinh thái Thác Mai - hồ nước nóng, Đảo Ó, chiến khu Đ, mộ cổ Hàng Gòn, đàn đá Bình Đa, khu du lịch thác Giang Điền, khu du lịch Long Châu Viên (Xuân Tân, Long Khánh), khu du lịch Vườn Xoài, khu di tích cấp quốc gia núi Chứa Chan (núi Gia Lào), Hồ Núi Le (Xuân Lộc), trung tâm hành hương Đức Mẹ núi Cúi (Gia Kiệm), khu du lịch Suối Mơ, làng du lịch Tre Việt, khu du lịch Bò Cạp Vàng, khu du lịch sinh thái Thủy Châu. Giao thông. Cơ sở hạ tầng giao thông. Đồng Nai là một tỉnh có hệ thống giao thông thuận tiện với nhiều tuyến đường huyết mạch quốc gia đi qua như Quốc lộ 1, quốc lộ 20, quốc lộ 51; tuyến đường sắt Bắc - Nam; gần cảng Sài Gòn, sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế trong vùng cũng như giao thương với cả nước đồng thời có vai trò gắn kết vùng Đông Nam Bộ với Tây Nguyên. Các dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam, đường cao tốc Bắc Nam đều đi qua Đồng Nai . Tuyến đường sắt Bắc Nam đi qua dài 87,5 km với 8 ga: Biên Hoà, Hố Nai, Trảng Bom, Dầu Giây, Long Khánh, Bảo Chánh, Gia Ray và Trảng Táo. Tuyến đường sắt này là mạch máu giao thông quan trọng nối liền các tỉnh phía Bắc và Thành phố Hồ Chí Minh. Cảng hàng không quốc tế Long Thành là cửa ngõ đường hàng không vào Việt Nam cho khu vực Đông Nam Á và thế giới. Về giao thông đường thủy thì trên địa bàn tỉnh Đồng Nai có 3 khu cảng gồm có Khu cảng trên sông Đồng Nai,Khu cảng trên sông Nhà Bè – Lòng Tàu, và Khu cảng trên sông Thị Vải. Trong đó Khu cảng trên sông Đồng Nai gồm có các cảng là Cảng Đồng Nai, cảng SCTGAS-VN và cảng VTGAS (sử dụng bốc xếp hàng lỏng quy mô cho tàu 1000 DWT), Cảng tổng hợp Phú Hữu II, Cảng tại khu vực Tam Phước, Tam An.
Đồng Nai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1275
Các cảng tại Khu cảng trên sông Nhà Bè – Lòng Tàu gồm có cảng gỗ mảnh Phú Đông, cảng xăng dầu Phước Khánh, cảng nhà máy đóng tàu 76, cảng tổng hợp Phú Hữu 1, cảng cụm Công nghiệp Vật liệu xây dựng Nhơn Trạch, cảng nhà máy dầu nhờn Trâm Anh, cảng VIKOWOCHIMEX, cảng Sun Steel – China Himent, và các cảng chuyên dùng khác. Các cảng Khu cảng trên sông Thị Vải gồm có cảng Phước An, cảng Phước Thái, cảng Gò Dầu A, cảng Gò Dầu B, cảng Super Phosphat Long Thành, cảng nhà máy Unique Gas. Các tuyến đường quốc lộ. Tỉnh Đồng Nai có 4 tuyến quốc lộ chính là Quốc lộ 1, Quốc lộ 51, Quốc lộ 20, Quốc lộ 56. Như vậy, các tuyến quốc lộ đều đi qua tất cả các địa phương của tỉnh trừ 2 huyện Vĩnh Cửu và Nhơn Trạch. Huyện Nhơn Trạch đang phát triển đô thị thành nên giao thông đang được hoàn thiện. Riêng huyện Vĩnh Cửu có khu bảo tồn thiên nhiên với các cánh rừng bạt ngàn được xem là lá phổi xanh của tỉnh, chính vì vậy mà hạn chế mở quốc lộ qua đây giúp góp phần bảo vệ sự trong lành của môi trường. Biển số xe. Bênh cạnh Biên Hòa, Trảng Bom và Long Thành cũng là hai địa phương có lượng xe cơ giới lớn do sự phát triển của các địa phương và nhu cầu của người sử dụng. Huyện Trảng Bom và huyện Long Thành là 2 địa phương cấp huyện đầu tiên vượt qua mã biển số lần thứ 2 cụ thể là 60-H1 và 60-G1 của Đồng Nai nói riêng và khu vực phía Nam nói chung. Xuân Lộc cũng đã bước sang biển số mã 60-H5. Như vậy, Đồng Nai được xem là đơn vị cấp tỉnh có lượng xe cơ giới đông nhất cả nước và thứ 4 trên 63 tỉnh thành.
Tiếng Nga
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1277
Tiếng Nga ("русский язык"; phát âm theo ký hiệu IPA là /ruskʲə: jɪ'zɨk/) là một ngôn ngữ Đông Slav bản địa của người Nga ở Đông Âu. Nó là một ngôn ngữ chính thức ở Nga, Belarus, Kazakhstan, Kyrgyzstan, cũng như được sử dụng rộng rãi ở khắp các quốc gia Baltic, Kavkaz và Trung Á. Tiếng Nga thuộc họ ngôn ngữ Ấn-Âu, là một trong bốn thành viên còn sống của các ngôn ngữ Đông Slav, và là một phần của nhánh Balto-Slavic lớn hơn. Tiếng Nga có những từ tương tự với tiếng Serbia, tiếng Bungary, tiếng Belarus, tiếng Slovak, tiếng Ba Lan và các ngôn ngữ khác có nguồn gốc từ nhánh Slav của ngữ hệ Ấn-Âu. Tiếng Nga là ngôn ngữ "thực tế" của Liên Xô cho đến khi nó giải thể vào ngày 26 tháng 12 năm 1991. Tiếng Nga được sử dụng chính thức hoặc trong đời sống công cộng ở tất cả các quốc gia hậu Xô Viết. Một số lượng lớn người nói tiếng Nga cũng có thể được tìm thấy ở các quốc gia khác, chẳng hạn như Israel và Mông Cổ. Tiếng Nga là ngôn ngữ mẹ đẻ lớn nhất ở Châu Âu và là ngôn ngữ địa lý phổ biến nhất ở Âu-Á. Đây là ngôn ngữ Slav được sử dụng rộng rãi nhất, với tổng số hơn 258 triệu người nói trên toàn thế giới. Tiếng Nga là ngôn ngữ được sử dụng nhiều thứ bảy trên thế giới theo số người bản ngữ và là ngôn ngữ được sử dụng nhiều thứ tám trên thế giới theo tổng số người nói. Ngôn ngữ này là một trong sáu ngôn ngữ chính thức của Liên hợp quốc. Tiếng Nga cũng là ngôn ngữ phổ biến thứ hai trên Internet, sau tiếng Anh. Tiếng Nga phân biệt giữa âm vị phụ âm có phát âm phụ âm và những âm vị không có, được gọi là "âm mềm" và âm "cứng". Hầu hết mọi phụ âm đều có đối âm cứng hoặc mềm, và sự phân biệt là đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ. Một khía cạnh quan trọng khác là giảm các nguyên âm không nhấn. Trọng âm, không thể đoán trước, thường không được biểu thị chính xác mặc dù trọng âm cấp tính tùy chọn có thể được sử dụng để đánh dấu trọng âm, chẳng hạn như để phân biệt giữa các từ đồng âm, ví dụ замо́к ("zamók" - ổ khóa) và за́мок ("zámok" - lâu đài), hoặc để chỉ ra cách phát âm thích hợp của các từ hoặc tên không phổ biến. Phân loại.
Tiếng Nga
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1277
Phân loại. Tiếng Nga là một ngôn ngữ Đông Slav thuộc hệ Ấn-Âu. Nó là hậu duệ của ngôn ngữ được sử dụng trong Kievan Rus ', một tập đoàn lỏng lẻo của các bộ lạc Đông Slav từ cuối thế kỷ 9 đến giữa thế kỷ 13. Theo quan điểm của ngôn ngữ nói, họ hàng gần nhất của nó là tiếng Ukraina, tiếng Belarus và tiếng Rusyn, ba ngôn ngữ khác trong nhánh Đông Slav. Ở nhiều nơi ở miền đông và miền nam Ukraine và khắp Belarus, những ngôn ngữ này được sử dụng thay thế cho nhau, và ở một số khu vực nhất định, song ngữ truyền thống đã dẫn đến sự hỗn hợp ngôn ngữ như tiếng Surzhyk ở miền đông Ukraine và Trasianka ở Belarus. Một phương ngữ Novgorod cổ Đông Slavic, mặc dù nó đã biến mất trong thế kỷ 15 hoặc 16, đôi khi được coi là đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành tiếng Nga hiện đại. Ngoài ra, tiếng Nga cũng có những điểm tương đồng từ vựng đáng chú ý với tiếng Bungari do ảnh hưởng chung về tiếng Slav của Nhà thờ đối với cả hai ngôn ngữ, cũng như do sự tương tác muộn hơn vào thế kỷ 19 và 20, ngữ pháp tiếng Bungari khác hẳn với tiếng Nga. Vào thế kỷ 19 (ở Nga cho đến năm 1917), ngôn ngữ này thường được gọi là " Tiếng Nga vĩ đại " để phân biệt với tiếng Belarus, sau đó được gọi là "Tiếng Nga trắng" và tiếng Ukraina, sau đó được gọi là "Tiếng Nga nhỏ". Từ vựng (chủ yếu là các từ trừu tượng và văn học), các nguyên tắc hình thành từ, và, ở một mức độ nào đó, cách hiểu và phong cách văn học của tiếng Nga cũng bị ảnh hưởng bởi Church Slavonic, một dạng ngôn ngữ Slavonic Nhà thờ cổ Nam Slav được sử dụng một phần. của Nhà thờ Chính thống Nga. Tuy nhiên, các hình thức Đông Slav có xu hướng chỉ được sử dụng trong các phương ngữ khác nhau đang bị suy giảm nhanh chóng. Trong một số trường hợp, cả hai dạng Slavonic Đông và Giáo hội Slavonic đều được sử dụng, với nhiều ý nghĩa khác nhau. "Để biết chi tiết, xem Âm vị học tiếng Nga và Lịch sử ngôn ngữ Nga."
Tiếng Nga
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1277
Qua nhiều thế kỷ, từ vựng và phong cách văn học của tiếng Nga cũng bị ảnh hưởng bởi các ngôn ngữ Tây Âu và Trung Âu như Hy Lạp, Latinh, Ba Lan, Hà Lan, Đức, Pháp, Ý và Anh, và ở một mức độ thấp hơn các ngôn ngữ ở phía nam và phía đông: tiếng Uralic, tiếng Turkic, tiếng Ba Tư, và tiếng Ả Rập, cũng như tiếng Do Thái. Theo Học viện Ngôn ngữ Quốc phòng ở Monterey, California, tiếng Nga được phân loại là ngôn ngữ cấp III về mức độ khó học đối với người nói tiếng Anh bản ngữ, cần khoảng 1.100 giờ giảng dạy để đạt được độ trôi chảy trung bình. Nó cũng được Cộng đồng Tình báo Hoa Kỳ coi là ngôn ngữ "mục tiêu khó", do cả những người nói tiếng Anh khó thành thạo và vai trò quan trọng của nó trong chính sách thế giới của Hoa Kỳ. Tiếng Nga tiêu chuẩn. Những chia rẽ và xung đột phong kiến cũng như những trở ngại khác đối với việc trao đổi hàng hóa và tư tưởng mà các chính thể Nga cổ đại đã phải gánh chịu trước đây và đặc biệt là dưới ách thống trị của người Mông Cổ đã củng cố sự khác biệt biện chứng và trong một thời gian đã ngăn cản sự xuất hiện của ngôn ngữ quốc gia được chuẩn hóa. Sự hình thành của nhà nước Nga thống nhất và tập trung vào thế kỷ XV và XVI và sự xuất hiện dần dần của một không gian chính trị, kinh tế và văn hóa chung đã tạo ra nhu cầu về một ngôn ngữ chuẩn chung. Sự thúc đẩy ban đầu cho việc tiêu chuẩn hóa đến từ bộ máy hành chính của chính phủ vì việc thiếu một công cụ giao tiếp đáng tin cậy trong các vấn đề hành chính, pháp lý và tư pháp đã trở thành một vấn đề thực tế rõ ràng. Những nỗ lực sớm nhất trong việc chuẩn hóa tiếng Nga được thực hiện dựa trên cái gọi là ngôn ngữ chính thức hoặc thủ tướng Moscow. Kể từ đó, logic cơ bản của cải cách ngôn ngữ ở Nga chủ yếu phản ánh những cân nhắc về việc tiêu chuẩn hóa và hợp lý hóa các quy tắc và chuẩn mực ngôn ngữ để đảm bảo vai trò của tiếng Nga như một công cụ giao tiếp và hành chính thực tế. Hình thức chuẩn hiện tại của tiếng Nga thường được coi là "ngôn ngữ văn học Nga hiện đại" ( - "sovremenny russky literaturny yazyk").
Tiếng Nga
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1277
Nó xuất hiện vào đầu thế kỷ XVIII với những cải cách hiện đại hóa của nhà nước Nga dưới sự cai trị của Peter Đại đế, và được phát triển từ phương ngữ Moscow (Trung hoặc Trung Nga) dưới ảnh hưởng của một số ngôn ngữ thủ tướng Nga của thế kỷ trước. Mikhail Lomonosov lần đầu tiên biên soạn một cuốn sách chuẩn hóa ngữ pháp vào năm 1755; năm 1783, từ điển tiếng Nga giải thích đầu tiên của Viện Hàn lâm Nga xuất hiện. Vào cuối thế kỷ XVIII và XIX, thời kỳ được gọi là "Thời kỳ hoàng kim", ngữ pháp, từ vựng và cách phát âm của tiếng Nga đã được ổn định và chuẩn hóa, và nó trở thành ngôn ngữ văn học toàn quốc; trong khi đó, nền văn học nổi tiếng thế giới của Nga lại phát triển mạnh mẽ. Cho đến thế kỷ XX, hình thức nói của ngôn ngữ này là ngôn ngữ chỉ của tầng lớp quý tộc thượng lưu và dân cư thành thị, vì nông dân Nga từ nông thôn tiếp tục nói tiếng địa phương của họ. Vào giữa thế kỷ XX, những phương ngữ như vậy đã bị loại bỏ với sự ra đời của hệ thống giáo dục bắt buộc do chính phủ Liên Xô thiết lập. Mặc dù đã chính thức hóa tiếng Nga chuẩn, một số đặc điểm phương ngữ không chuẩn (chẳng hạn như tiếng fricative trong phương ngữ miền Nam Nga) vẫn được quan sát thấy trong ngôn ngữ nói thông tục. Phân bố địa lý. Năm 2010, có 259,8 triệu người nói tiếng Nga trên thế giới: ở Nga - 137,5 triệu, ở các nước SNG và Baltic - 93,7 triệu, ở Đông Âu - 12,9 triệu, Tây Âu - 7,3 triệu, châu Á - 2,7 triệu, Trung Đông và Bắc Phi - 1,3 triệu, Châu Phi cận Sahara - 0,1 triệu, Mỹ Latinh - 0,2 triệu, Mỹ, Canada, Úc và New Zealand - 4,1 triệu người nói. Do đó, tiếng Nga đứng thứ bảy trên thế giới về số lượng người nói, sau tiếng Anh, tiếng Quan Thoại, tiếng Hindi-Urdu, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp, tiếng Ả Rập và tiếng Bồ Đào Nha. Tiếng Nga là một trong sáu ngôn ngữ chính thức của Liên hợp quốc. Giáo dục bằng tiếng Nga vẫn là một lựa chọn phổ biến đối với cả người Nga là ngôn ngữ thứ hai (RSL) và người bản ngữ ở Nga cũng như nhiều nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ.