title
stringlengths 1
250
| url
stringlengths 37
44
| text
stringlengths 1
4.81k
|
---|---|---|
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Trong 2 năm 1948 và 1949, tỉnh Cần Thơ nhận thêm huyện Thốt Nốt từ tỉnh Long Xuyên, nhận các huyện Long Mỹ, Gò Quao, Giồng Riềng, thị xã Rạch Giá từ tỉnh Rạch Giá vừa bị giải thể và nhận huyện Kế Sách từ tỉnh Sóc Trăng. Đồng thời, tỉnh Cần Thơ giao 2 huyện Trà Ôn và Cầu Kè về tỉnh Vĩnh Trà (gồm hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh ngày nay).
Thiết lập ách thống trị trên vùng đất này, thực dân Pháp chính thức hóa tên gọi Cần Thơ bằng những văn bản hành chính. Để dễ bề kiểm soát hoạt động của nhân dân từng tỉnh trong 3 tỉnh vừa chiếm được, Pháp còn đánh số, tỉnh Cần Thơ mang con số 19. Từ đó trở đi, các phương tiện giao thông (chủ yếu giao thông thủy) như thuyền, ghe của Cần Thơ đều phải gắn con số 19 trước mui. Ngay cả lính mã tà mỗi lần có việc di chuyển từ Cần Thơ sang tỉnh khác hoặc giải phạm nhân chống đối lên Sài Gòn đều gắn con số 19 vào cổ áo để dễ nhận diện lính của mỗi tỉnh thuộc đất nhượng địa.
Giai đoạn 1956–1976.
Việt Nam Cộng hòa.
Sau hiệp định Giơnevơ năm 1954, địa giới hành chính của tỉnh Cần Thơ ở miền Nam có nhiều thay đổi. Ban đầu chính quyền Quốc gia Việt Nam và sau đó là Việt Nam Cộng hòa ban đầu vẫn duy trì tên gọi tỉnh Cần Thơ cùng với thị xã Cần Thơ như thời Pháp thuộc.
Ngày 28 tháng 8 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành Dụ số 50 về việc bãi bỏ quy chế thị xã. Theo quyết định này, bãi bỏ Dụ số 13 ban hành ngày 30 tháng 5 năm 1954 về quy chế thị xã. Những thị xã hiện đặt dưới quy chế trên, từ nay sẽ theo chế độ thôn xã, và được quản tri bởi một Ủy ban hành chính do tỉnh trường bồ nhiệm. Theo đó, tiến hành giải thể thị xã Cần Thơ vốn được lập nên trước đó, đồng thời địa bàn thị xã được chuyển thành xã Tân An trực thuộc tổng Định An, quận Châu Thành, tỉnh Cần Thơ.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143-NV để "thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Việt Nam Cộng hòa gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Phong Dinh được thành lập do đổi tên từ tỉnh Cần Thơ. Tỉnh lỵ tỉnh Phong Dinh đặt tại Cần Thơ và vẫn giữ nguyên tên là "Cần Thơ", về mặt hành chánh thuộc xã Tân An, quận Châu Thành.
Năm 1957, tỉnh Phong Dinh có 5 quận: Châu Thành, Phụng Hiệp, Ô Môn, Long Mỹ và Kế Sách. Ngày 23 tháng 2 năm 1957, tỉnh Phong Dinh nhận quận Kế Sách từ tỉnh Ba Xuyên (tức tỉnh Sóc Trăng trước đó) quản lý. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau vào ngày 16 tháng 9 năm 1958, tỉnh Phong Dinh giao lại quận Kế Sách cho tỉnh Ba Xuyên. Ngày 16 tháng 9 năm 1958, quận Ô Môn đổi tên là quận Phong Phú. Ngày 18 tháng 3 năm 1960, tỉnh Phong Dinh lập thêm quận Đức Long trên cơ sở tách đất từ quận Long Mỹ. Ngày 24 tháng 12 năm 1961, hai quận Đức Long và Long Mỹ được bàn giao cho tỉnh Chương Thiện mới thành lập. Ngày 2 tháng 7 năm 1962, tỉnh Phong Dinh lập thêm 2 quận Khắc Trung và Khắc Nhơn. Ngày 20 tháng 4 năm 1964, đổi tên 2 quận Khắc Trung và Khắc Nhơn thành Thuận Trung và Thuận Nhơn. Ngày 26 tháng 5 năm 1966 lập thêm quận Phong Điền. Ngày 23 tháng 4 năm 1968, lại lập thêm quận Phong Thuận.
Ngày 30 tháng 9 năm 1970, Thủ tướng chính quyền Việt Nam Cộng hòa Trần Thiện Khiêm ban hành Sắc lệnh số 115-SL/NV cải biến xã Tân An và các phần đất phụ cận (bao gồm xã Thuận Đức, ấp Lợi Nguyên thuộc xã An Bình và ấp Bình Nhựt thuộc xã Long Tuyền) thuộc quận Châu Thành, tỉnh Phong Dinh thành "thị xã Cần Thơ", là thị xã tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương Việt Nam Cộng hòa, đồng thời kiêm tỉnh lỵ tỉnh Phong Dinh. Thị xã Cần Thơ là nơi đặt Bộ Tư lệnh Quân khu IV của quân đội Việt Nam Cộng hòa trong cuộc chiến. Ngày 7 tháng 6 năm 1971, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 585-NĐ/NV thành lập tại thị xã Cần Thơ 2 quận lấy tên là quận 1 (quận Nhứt) và quận 2 (quận Nhì). |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Địa phận của 2 quận này được phân chia thành 8 khu phố trực thuộc, trong đó quận 1 gồm năm khu phố: An Lạc, An Cư, An Nghiệp, An Hòa, An Thới; quận 2 gồm ba khu phố: Hưng Lợi, Hưng Phú, Hưng Thạnh.
Ngày 22 tháng 8 năm 1972, Tổng trưởng Nội vụ chính quyền Việt Nam Cộng hòa lại ban hành Nghị định số 553BNV/HCĐP/NĐ, đối các danh xưng "khu phố" của thị xã thành "phường". Từ đó cho đến năm 1975, thị xã Cần Thơ và tỉnh Phong Dinh là hai đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau theo sự phân chia sắp xếp hành chính của Việt Nam Cộng hòa. Tỉnh Phong Dinh gồm 7 quận: Châu Thành, Phụng Hiệp, Phong Phú, Thuận Nhơn, Thuận Trung, Phong Điền, Phong Thuận.
Chính quyền Cách mạng.
Tuy nhiên phía chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi tỉnh Phong Dinh mà vẫn gọi theo tên cũ là tỉnh Cần Thơ. Đồng thời, chính quyền Cách mạng vẫn duy trì thị xã Cần Thơ trực thuộc tỉnh Cần Thơ trong giai đoạn 1956–1969.
Địa giới hành chính tỉnh Cần Thơ có thay đổi một phần. Tháng 11 năm 1954, huyện Long Mỹ và các huyện Gò Quao, Giồng Riềng, thị xã Rạch Giá giao trở lại cho tỉnh Rạch Giá. Huyện Kế Sách giao về tỉnh Sóc Trăng. Huyện Thốt Nốt giao về tỉnh Long Xuyên. Tỉnh Cần Thơ nhận lại 2 huyện Trà Ôn và Cầu Kè như cũ. Năm 1956, hai huyện Trà Ôn và Cầu Kè đưa về tỉnh Vĩnh Long. Năm 1957, huyện Long Mỹ chuyển trở lại tỉnh Cần Thơ. Năm 1958, huyện Kế Sách chuyển về tỉnh Cần Thơ.
Năm 1963, huyện Thốt Nốt thuộc tỉnh An Giang (trước năm 1956 là tỉnh Long Xuyên) lại được đưa về cho tỉnh Cần Thơ quản lý. Tháng 6 năm 1966, thành lập thị xã Vị Thanh trực thuộc tỉnh Cần Thơ. Tháng 10 năm 1966, huyện Châu Thành thuộc tỉnh Cần Thơ được chia ra thành hai huyện là Châu Thành A và Châu Thành B. Cuối 1967 nhập lại là Châu Thành. Sau nhiều lần chia tách rồi sáp nhập Châu Thành Vòng Cung vào Châu Thành A, Châu Thành B nhập lại là huyện Châu Thành. |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Năm 1969, chính quyền Cách mạng tách thị xã Cần Thơ khỏi tỉnh Cần Thơ và đặt thị xã trực thuộc Khu 9 (còn gọi là Khu Tây Nam Bộ). Năm 1971, thị xã Cần Thơ trở lại thuộc tỉnh Cần Thơ. Tháng 8 năm 1972, Thường vụ Khu ủy Khu 9 của phía chính quyền Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định tách thị xã Cần Thơ ra khỏi tỉnh Cần Thơ, hình thành Thành phố Cần Thơ trực thuộc Khu 9, bao gồm thị xã Cần Thơ và 6 xã vùng ven thuộc các huyện Ô Môn, Châu Thành trước đó. Đồng thời, chính quyền Cách mạng vẫn duy trì các đơn vị hành chính cấp quận, phường và khóm bên dưới giống như phía chính quyền Việt Nam Cộng hòa cho đến đầu năm 1976.
Như vậy cho đến năm 1976, tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ là hai đơn vị hành chính ngang bằng nhau. Tỉnh Cần Thơ khi đó bao gồm các đơn vị hành chính trực thuộc: thị xã Vị Thanh, huyện Châu Thành, huyện Phụng Hiệp, huyện Ô Môn, huyện Long Mỹ, huyện Thốt Nốt và huyện Kế Sách.
Sau năm 1975.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ vẫn duy trì hai đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau là tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ cho đến đầu năm 1976. Lúc này, chính quyền Cách mạng cũng bỏ danh xưng "quận" có từ thời Pháp thuộc và lấy danh xưng "huyện" (quận và phường dành cho các đơn vị hành chánh tương đương khi đã đô thị hóa).
Ngày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh trong toàn quốc "nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, về củng cố quốc phòng, bảo vệ trị an, và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung của cả nước". |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Theo Nghị quyết này, tỉnh Vĩnh Long, tỉnh Trà Vinh, tỉnh Cần Thơ (ngoại trừ huyện Thốt Nốt), tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên.
Nhưng đến ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị lại ra Nghị quyết số 19/NQ điều chỉnh lại việc hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam cho sát với tình hình thực tế, theo đó tỉnh Cần Thơ (có cả huyện Thốt Nốt), tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ được tiến hành hợp nhất lại thành một tỉnh.
Tỉnh Hậu Giang cũ, giai đoạn 1976–1992.
Theo Nghị định số 03/NĐ-76 ngày 24 tháng 2 năm 1976 và Quyết định số 17/QĐ-76 ngày 24 tháng 3 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định hợp nhất ba đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau là tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ để thành lập tỉnh mới với tên gọi là tỉnh Hậu Giang. Tỉnh lỵ tỉnh Hậu Giang lúc đó là thành phố Cần Thơ, đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc tỉnh Hậu Giang.
Khi mới thành lập, tỉnh Hậu Giang gồm có thành phố Cần Thơ, thị xã Sóc Trăng, thị xã Vị Thanh và 11 huyện: Thốt Nốt, Ô Môn, Châu Thành, Phụng Hiệp, Long Mỹ, Kế Sách, Mỹ Tú, Mỹ Xuyên, Long Phú, Thạnh Trị, Vĩnh Châu.
Đồng thời, quận 1 (quận Nhứt) và quận 2 (quận Nhì) cũng bị giải thể, các phường xã trực thuộc thành phố Cần Thơ và cũng có một vài sắp xếp, thay đổi nhỏ. Theo đó, nhập hai phường Hưng Phú và Hưng Thạnh (thuộc quận 2 cũ) thành phường Thạnh Phú; thành lập mới phường Bình Thủy gồm một phần nhỏ đất đai trước thuộc xã Long Tuyền và giải thể phường An Thới, nhập địa bàn vào phường mới này; tách đất hai phường An Hòa và An Cư (thuộc quận 1 cũ) để lập mới phường Cái Khế. Thành phố Cần Thơ ban đầu gồm 8 phường: An Cư, An Hòa, An Lạc, An Nghiệp, Bình Thủy, Cái Khế, Hưng Lợi, Thạnh Phú và 2 xã: An Bình, Long Tuyền. |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Ngày 21 tháng 4 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 174-CP về việc chia một số phường xã thuộc thành phố Cần Thơ, tỉnh Hậu Giang như sau:
Sau này, các ấp Thới Thuận, Thới Hòa và Thới Ngươn của xã Thới An Đông được tách ra để thành lập mới phường Trà Nóc trực thuộc thành phố Cần Thơ. Đồng thời, toàn bộ phần còn lại của xã Thới An Đông cũng được sáp nhập vào thành phố Cần Thơ. Ngày 5 tháng 5 năm 1990, thành phố Cần Thơ được công nhận là đô thị loại 2 trực thuộc tỉnh.
Ngày 26 tháng 12 năm 1991, Quốc hội Việt Nam ban hành Nghị quyết chia tỉnh Hậu Giang thành tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng. Tỉnh Cần Thơ có 7 đơn vị hành chính gồm: thành phố Cần Thơ và 6 huyện: Thốt Nốt, Ô Môn, Châu Thành, Long Mỹ, Phụng Hiệp, Vị Thanh, có diện tích tự nhiên 3.022,30 km² với số dân 1.614.350 người. Tỉnh lỵ: thành phố Cần Thơ.
Tỉnh Cần Thơ cũ, giai đoạn 1992–2003.
Tỉnh Cần Thơ chính thức được tái lập và đi vào hoạt động trở lại từ tháng 4 năm 1992. Tỉnh Cần Thơ lúc đó bao gồm thành phố Cần Thơ và 6 huyện là Thốt Nốt, Ô Môn, Châu Thành, Long Mỹ, Phụng Hiệp, Vị Thanh. Tỉnh lỵ là thành phố Cần Thơ trực thuộc tỉnh Cần Thơ. Ngày 1 tháng 7 năm 1999, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 45/1999/NĐ-CP về việc thành lập thị xã Vị Thanh, đổi tên huyện Vị Thanh thành huyện Vị Thủy và thành lập các phường, xã, thị trấn thuộc thị xã Vị Thanh và huyện Vị Thủy, tỉnh Cần Thơ.
Ngày 6 tháng 11 năm 2000, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 64/2000/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Châu Thành để thành lập huyện Châu Thành A thuộc tỉnh Cần Thơ. Theo đó, tái lập huyện Châu Thành A trên cơ sở 22.139 ha diện tích tự nhiên và 163.357 nhân khẩu của huyện Châu Thành. Từ đó cho đến cuối năm 2003, tỉnh Cần Thơ gồm 9 đơn vị hành chính trực thuộc: thành phố Cần Thơ, thị xã Vị Thanh, huyện Châu Thành, huyện Châu Thành A, huyện Phụng Hiệp, huyện Vị Thủy, huyện Long Mỹ, huyện Ô Môn, huyện Thốt Nốt. |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Thành phố Cần Thơ trực thuộc tỉnh Cần Thơ khi đó gồm 15 phường: An Cư, An Hòa, An Hội, An Lạc, An Nghiệp, An Phú, An Thới, Bình Thủy, Cái Khế, Hưng Lợi, Hưng Phú, Tân An, Thới Bình, Trà Nóc, Xuân Khánh và 7 xã: An Bình, Giai Xuân, Hưng Thạnh, Long Hòa, Long Tuyền, Mỹ Khánh, Thới An Đông.
Trở thành thành phố trực thuộc Trung ương.
Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội Việt Nam thông qua Nghị quyết số 22/2003/QH11 về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh. Theo đó, chia tỉnh Cần Thơ thành thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương và tỉnh Hậu Giang như sau:
Thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương chính thức được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 2004. Đến ngày 2 tháng 1 năm 2004, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 05/2004/NĐ-CP về việc thành lập các quận Ninh Kiều, Bình Thủy, Cái Răng, Ô Môn, các huyện Phong Điền, Cờ Đỏ, Vĩnh Thạnh, Thốt Nốt và các xã, phường, thị trấn thuộc thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương. Thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, thành lập các đơn vị hành chính trực thuộc có 138.959,99 ha diện tích tự nhiên và 1.112.121 nhân khẩu; gồm 8 đơn vị hành chính là 4 quận: Ninh Kiều, Bình Thủy, Cái Răng, Ô Môn và 4 huyện: Phong Điền, Cờ Đỏ, Vĩnh Thạnh, Thốt Nốt; có 67 đơn vị hành chính phường xã, thị trấn: 30 phường, 33 xã và 4 thị trấn.
Ngày 23 tháng 12 năm 2008, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 12/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính xã, thành lập xã thuộc huyện Thốt Nốt, huyện Vĩnh Thạnh, huyện Cờ Đỏ, thành lập quận Thốt Nốt và các phường trực thuộc, điều chỉnh địa giới hành chính huyện Cờ Đỏ để thành lập huyện Thới Lai thuộc thành phố Cần Thơ. Sau khi thành lập các quận, huyện mới, thành phố Cần Thơ có 140.161,60 ha diện tích tự nhiên và 1.147.067 nhân khẩu, có 9 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm các quận: Ninh Kiều, Bình Thủy, Cái Răng, Ô Môn, Thốt Nốt và các huyện: Phong Điền, Cờ Đỏ, Thới Lai, Vĩnh Thạnh. |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Ngày 24 tháng 6 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 889/QĐ-TTg về việc công nhận thành phố Cần Thơ là đô thị loại I trực thuộc trung ương.
Địa lý.
Cần Thơ nằm ở vùng hạ lưu của sông Cửu Long và ở vị trí trung tâm đồng bằng sông Cửu Long, và là thành phố nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long, nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 1877 km, cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh 169 km, cách thành phố Cà Mau hơn 150 km, cách Rạch Giá gần 120 km, cách trung tâm thủ đô Phnôm Pênh (Campuchia) khoảng 264 km và cách biển Đông 75 km theo đường nam sông Hậu (quốc lộ 91C), Cần Thơ có tọa độ địa lý 105°13’38" – 105°50’35" kinh độ Đông và 9°55’08" – 10°19’38" vĩ độ Bắc, trải dài trên 60 km dọc bờ Tây sông Hậu, có vị trí địa lý:
Cần Thơ có các điểm cực sau:
Diện tích nội thành là 53 km². Cần Thơ có tổng diện tích tự nhiên là 1.409,0 km², chiếm 3,49% diện tích toàn vùng và dân số vào khoảng 1.400.200 người, mật độ dân số tính đến 2015 là 995 người/km². Cần Thơ là thành phố trực thuộc trung ương lớn thứ 4 của cả nước về diện tích và dân số, lớn thứ 5 về kinh tế, cũng là thành phố hiện đại và lớn nhất của cả vùng hạ lưu sông Mekong.
Theo thống kê năm 2019, Cần Thơ có diện tích 1.439,2 km², dân số là 1.235.171 người, mật độ dân số đạt 885 người/km².
Thống kê dân số 10 năm, kể từ năm 2009 đến nay, quy mô dân số Cần Thơ tăng 46.736 người. Tỷ lệ tăng dân số bình quân giai đoạn năm 2009 – 2019 là 0,39% cao hơn ĐBSCL 0,34 điểm phần trăm và thấp hơn cả nước là 0,75 điểm phần trăm. Như vậy dân số Cần Thơ cũng như ĐBSCL có tăng so với năm 2009 nhưng dân số tăng không đáng kể. Thể hiện dân số có sự dịch chuyển từ nông thôn về thành thị và từ miền Tây Nam Bộ về miền Đông Nam Bộ và Cần Thơ cũng không nằm ngoài xu hướng đó.
Trong 10 năm qua, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh và rộng khắp nhiều địa phương đã tác động làm gia tăng dân số ở khu vực thành thị. |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Từ năm 2009 đến năm 2019, dân số khu vực thành thị tăng 77.271 người chiếm 9,8% trong khi đó dân số ở khu vực nông thôn lại giảm 30.535 người chiếm 7,5% cho thấy sự đô thị hóa ở Cần Thơ diễn ra nhanh hơn ở cấp độ vùng và toàn quốc. Qua kết quả điều tra dân số tập trung ở khu vực thành thị là 860.393 người chiếm 69,66%; nông thôn là 374.778 người chiếm 30,34% trong khi đó cách đây 10 năm tỷ lệ này là 65,9% và 34,1% tăng tỷ lệ dân số thành thị 3,36 điểm phần trăm. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 đạt 71,5%.
Kết quả tổng điều tra 2019, cũng cho thấy Cần Thơ là thành phố có mật độ dân số cao (858 người/km²) so với các tỉnh thành khác trong cả nước đứng 12/63 và cao gấp 3 lần mật độ dân số toàn quốc (290 người/km²) cao gấp 2 lần mật độ dân số ĐBSCL (423 người/km²). Nhưng so với năm 2009 thì mật độ dân số tăng 10 người/km² trong khi đó ĐBSCL có xu hướng giảm 1 người/km². Quận Ninh Kiều là đơn vị hành chính đông dân số nhất với 280.494 người và huyện Vĩnh Thạnh có dân số ít nhất là 98.399 người. Cần Thơ có mật độ dân số 858 người/km2, cao gấp 3 lần mật độ dân số toàn quốc và đứng thứ 12/63 tỉnh, thành cả nước. Ở khu vực thành thị, dân số vẫn tập trung chủ yếu tại quận Ninh Kiều với 9.596 người/km2, tăng 1.256 người/km2 so năm 2009. Tuy nhiên, quận Ô Môn giảm 8 người/km2 và Thốt Nốt giảm 24 người/km2. Ở khu vực nông thôn, dân số các huyện Vĩnh Thạnh, Cờ Đỏ, Phong Điền, Thới Lai đều giảm. Và trong những năm gần đây do sự phát triển với tốc độ đô thị hoá diễn ra khá nhanh mà thành phố này đang phải đối mặt nhiều vấn đề của 1 đô thị như: Ùn tắc giao thông, tình trạng hư hỏng xuống cấp ở một số tuyến đường có mật độ giao thông lớn, triều cường và ngập nghẹt mỗi khi trời mưa, ô nhiễm không khí, kênh rạch, thiếu mật độ cây xanh, gia tăng mật độ dân số khá cao gây nên sự quá tải ở khu vực trung tâm thành phố như quận Ninh Kiều và mật độ giảm dần ở các quận vùng ven thành phố như Quận Ô Môn và Quận Thốt Nốt.
Điều kiện tự nhiên. |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Điều kiện tự nhiên.
Cần Thơ nằm toàn bộ trên đất có nguồn gốc phù sa sông Cửu Long bồi đắp và được bồi lắng thường xuyên qua nguồn nước có phù sa của dòng sông Hậu. Địa chất trong thành phố được hình thành chủ yếu qua quá trình bồi lắng trầm tích biển và phù sa của sông Cửu Long, trên bề mặt ở độ sâu 50 mét có hai loại trầm tích là Holocen (phù sa mới) và Pleistocene (phù sa cổ).
Địa hình nhìn chung tương đối bằng phẳng, phù hợp cho sản xuất nông, ngư nghiệp, với độ cao trung bình khoảng 1 – 2 mét dốc từ đất giồng ven sông Hậu, và sông Cần Thơ thấp dần về phía nội đồng tức là từ phía đông bắc sang phía tây nam. Bên cạnh đó, thành phố còn có các cồn và cù lao trên sông Hậu như Cồn Ấu, Cồn Khương, Cồn Sơn, Cù lao Tân Lập. Cần Thơ có 3 dạng địa hình chính là Địa hình ven sông Hậu hình thành dải đất cao là đê tự nhiên và các cù lao ven sông Hậu.
Ngoài ra do nằm cạnh sông lớn, Cần Thơ có mạng lưới sông, kênh rạch khá chằng chịt. Vùng tứ giác Long Xuyên thấp trũng, chịu ảnh hưởng lũ trực tiếp hàng năm. Đồng bằng châu thổ chịu ảnh hưởng triều cùng lũ cuối vụ.
Cần Thơ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, ít bão, quanh năm nóng ẩm, không có mùa lạnh. Mùa mưa kéo dài dao động từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 28 °C, số giờ nắng trung bình cả năm khoảng 2.249,2 h, lượng mưa trung bình năm đạt 2000 mm. Độ ẩm trung bình năm dao động từ 82% - 87%. Do chịu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có lợi thế về nền nhiệt độ, chế độ bức xạ nhiệt, chế độ nắng cao và ổn định theo hai mùa trong năm.
Các lợi thế này rất thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển của sinh vật, có thể tạo ra 1 hệ thống nông nghiệp nhiệt đới có năng suất cao, với nhiều chủng loại cây con, tạo nên sự đa dạng trong sản xuất và trong chuyển dịch cơ cấu sản xuất. |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Tuy nhiên, mùa mưa thường đi kèm với ngập lũ ảnh hưởng tới khoảng 50% diện tích toàn thành phố, mùa khô thường đi kèm với việc thiếu nước tưới, gây khó khăn cho sản xuất và sinh hoạt, nhất là khu vực bị ảnh hưởng của mặn, phèn làm tăng thêm tính thời vụ cũng như nhu cầu dùng nước không đều giữa các mùa của sản xuất nông nghiệp.
Cần Thơ có sông Hậu chảy qua với tổng chiều dài là 65 km, trong đó đoạn qua Cần Thơ có chiều rộng khoảng 1,6 km. Tổng lượng phù sa của sông Hậu là 35 triệu m3/năm. Tại Cần Thơ, lưu lượng cực đại đạt mức 40.000 m³/s. Mùa cạn từ tháng 1 đến tháng 6, thấp nhất là vào tháng 3 và tháng 4. Lưu lượng nước trên sông tại Cần Thơ chỉ còn 2.000 m3/s. Mực nước sông lúc này chỉ cao hơn 48 cm so với mực nước biển.
Sông Cần Thơ bắt nguồn từ khu vực nội đồng tây sông Hậu, đi qua các quận Ô Môn, huyện Phong Điền, quận Cái Răng, quận Ninh Kiều và đổ ra sông Hậu tại bến Ninh Kiều. Sông Cần Thơ có nước ngọt quanh năm, vừa có tác dụng tưới nước trong mùa cạn, vừa có tác dụng tiêu úng trong mùa lũ và có ý nghĩa lớn về giao thông. Sông Cái Lớn dài 20 km, chiều rộng cửa sông 600 – 700 m, độ sâu 10 – 12 m nên có khả năng tiêu, thoát nước rất tốt.
Bên cạnh đó, Cần Thơ còn có hệ thống kênh rạch dày đặc, với hơn 158 sông, rạch lớn nhỏ là phụ lưu của 2 sông lớn là sông Hậu và sông Cần Thơ đi qua thành phố nối thành mạng đường thủy. Các sông rạch lớn khác là sông Bình Thủy, sông Trà Nóc, sông Ô Môn, sông Thốt Nốt, kênh Thơm Rơm và nhiều kênh lớn khác tại các huyện ngoại thành là Thốt Nốt, Vĩnh Thạnh, Cờ Đỏ và Phong Điền, cho nước ngọt suốt 2 mùa mưa nắng, tạo điều kiện cho nhà nông làm thủy lợi và cải tạo đất.
Tổ chức hành chính và chính quyền.
Tổ chức hành chính.
Thành phố Cần Thơ có 9 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 5 quận và 4 huyện với 83 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 5 thị trấn, 42 phường và 36 xã (chia thành 630 khu vực, khóm, ấp).
Chính quyền. |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Chính quyền.
Cần Thơ là một trong năm Thành phố trực thuộc trung ương (Việt Nam) , được xếp vào Đô thị loại I, thỏa mãn các tiêu chí như tỷ lệ lao động phi nông nghiệp khu vực nội thành so với tổng số lao động, cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng đồng bộ và cơ bản hoàn chỉnh, trong 5 Thành phố trực thuộc trung ương (Việt Nam).
Cũng như các tỉnh và thành phố khác của Việt Nam, Hội đồng nhân dân thành phố Cần Thơ là cơ quan quyền lực Nhà nước ở Thành phố do người dân Thành phố trực tiếp bầu lên với nhiệm kỳ 5 năm. Hội đồng Nhân dân thành phố Cần Thơ khóa IX nhiệm kỳ 2016–2021 gồm 52 đại biểu. Kỳ họp thứ nhất của Hội đồng Nhân dân thành phố ngày 30 tháng 6 năm 2016 đã bầu ra Thường trực Hội đồng Nhân dân gồm 7 người và bầu ra Chủ tịch Hội đồng Nhân dân (thường đồng thời là Bí thư Thành ủy thành phố). Chủ tịch Hội đồng Nhân dân thành phố hiện tại là ông Phạm Văn Hiểu.
Uỷ ban nhân dân thành phố Cần Thơ là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, do Hội đồng Nhân dân bầu ra và là Cơ quan hành chính Nhà nước ở thành phố, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, Pháp luật, các văn bản của Chính phủ Việt Nam và các nghị quyết của Hội đồng Nhân dân thành phố. Ủy ban Nhân dân thành phố khóa IX (nhiệm kỳ 2016-2021) được Hội đồng Nhân dân thành phố bầu ra Chủ tịch và 4 Phó Chủ tịch. Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố đương nhiệm là ông Trần Việt Trường.
Về phía Đảng ủy, Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Cần Thơ (hay thường gọi là Thành ủy Cần Thơ) là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ thành phố giữa hai kỳ Đại hội Đảng bộ. Thành ủy Thành phố Cần Thơ khóa XXII nhiệm kỳ 2020-2025 gồm 52 ủy viên, bầu ra Thường vụ Thành ủy gồm 14 thành viên. Đứng đầu Đảng ủy Thành phố là Bí thư Thành ủy do chính Thành ủy thành phố bầu ra hoặc do Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam phân công và chỉ định, là một Ủy viên Trung ương Đảng. Bí thư Thành ủy thành phố Cần Thơ hiện tại là ông Lê Quang Mạnh. |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Sáng ngày (17/7), tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã chủ trì cuộc họp Bộ Chính trị tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 45 Bộ Chính trị khóa IX về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết 45, tăng trưởng bình quân của Cần Thơ đạt 7,27% quy mô kinh tế, tăng gấp 7 lần so với cách đây 15 năm, ngân sách cân đối và điều tiết và có điều tiết về Trung ương, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng khẳng định vai trò của Cần Thơ là trung tâm của vùng Đồng bằng sông Cửu Long về dịch vụ và công nghiệp, cũng như làm vai trò đầu mối quan trọng về giao thông vận tải nội vùng và liên vận quốc tế và là 1 trong 6 đô thi trọng điểm thực hiện đề án phát triển các đô thị Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu.
Cần Thơ đã hoàn thành trước thời hạn chương trình nông thôn mới, đồng thời từng bước khẳng định vai trò trung tâm vùng về giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa, tỷ lệ hộ nghèo của Cần Thơ 0,66% giảm ở mức thấp nhất vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Bộ Chính trị cũng ghi nhận những kết quả của Cần Thơ về công tác xây dựng đảng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, hoạt động của bộ máy hành chính từng bước đổi mới theo hướng tin gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, quốc phòng an ninh được đảm bảo vững chắc.
Phát biểu kết luận, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh việc Bộ Chính trị cho ý kiến tổng kết Nghị quyết 45 của Bộ Chính trị sau 15 năm thực hiện rất có ý nghĩa quan trọng đối với Cần Thơ tại thời điểm địa phương đang chuẩn bị Đại hội Đảng bộ vào cuối năm nay.
Trên cơ sở phân tích những kết quả đã đạt được, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước cho biết Bộ Chính trị nhất trí cao về sự cần thiết phải ban hành Nghị quyết mới để phát triển Cần Thơ đến năm 2028 tầm nhìn 2045. |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Cụ thể, mục tiêu đến năm 2030 Cần Thơ trở thành thành phố sinh thái, văn minh hiện đại mang đậm bản sắc sông nước vùng Đồng bằng sông Cửu Long, là trung tâm của vùng về dịch vụ thương mại, du lịch, logistic, công nghiệp chế biến và nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, là đô thị hạt nhân vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Một số chỉ tiêu cụ thể trong 5 nắm tới gồm: tăng trưởng đạt mức 7,5-8%, vốn đầu tư toàn xã hội tăng 10-12,5%, thu nhập đạt từ 6.200 - 6.800 USD.
Kinh tế.
Trong nhiệm kỳ 2010 - 2015, Đảng bộ Thành phố Cần Thơ đã thực hiện đạt và vượt 20/22 chỉ tiêu Nghị quyết Đảng bộ lần thứ 12 đề ra. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Thành phố đạt 12,19%. Cơ cấu kinh tế tăng dần ở khu vực công nghiệp, xây dựng, thương mại dịch vụ, giảm dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp, thủy sản.
Tổng sản phẩm trên địa bàn đến 2015 đạt hơn 77.900 tỷ đồng, tăng 1,8 lần so với 2010; thu nhập bình quân đầu người đến năm 2015 đạt 78,46 triệu đồng/năm (tương đương 3.600 USD), tăng 2,15 lần so 2010. Hàng năm, thành phố Cần Thơ đóng góp cho vùng khoảng 12% tổng thu ngân sách...
Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 1,375 ty USD. Tính đến nay, thành phố Cần Thơ đ ã có quan hệ xuất khẩu với trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ, tập trung nhiều nhất ở châu Á với 50,6%, châu Mỹ 19,2%, các nước khu vực châu Âu 13%, châu Phi 7,78% và châu Úc là 2,63%.
Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2011 (theo giá so sánh 2010) đạt 70.187 tỷ đồng; năm 2014 đạt 93.362 tỷ đồng; năm 2015 đạt 101.868 tỷ đồng, tăng gấp 1,5 lần so với năm 2011; nhịp độ tăng trưởng bình quân ước đạt 9,8%/năm .
Năm 2011, tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố Cần Thơ đạt 14,64%, thu nhập bình quân đầu người đạt 2.346 USD. Trong 6 tháng đầu 2012, tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố ước đạt 8,36%, trong khi đó cùng kỳ năm 2011 mức tăng là 12,21%. Thu nhập bình quân đầu người của Cần Thơ 6 tháng đầu 2012 ước đạt 1.819 USD. |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Tỷ trọng nông nghiệp thủy sản chiếm 10,83%, công nghiệp xây dựng chiếm 44,45% và dịch vụ thương mại chiếm 44,72%. Giá trị sản xuất nông nghiệp thủy sản thực hiện được 1.617 tỷ đồng, đạt 39,5% kế hoạch cả năm, công nghiệp xây dựng thực hiện được 12.433 tỷ đồng, đạt 38,6% kế hoạch cả năm, dịch vụ thương mại ước thực hiện được 7.309 tỷ đồng, đạt 37% kế hoạch cả năm. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước thực hiện được 3.443 tỷ đồng, đạt 40,99% dự toán Hội đồng nhân dân thành phố giao. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện được 16.770 tỷ đồng.
Trong giai đoạn 9 Tháng đầu năm 2012, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thành phố Cần Thơ đạt 10,3%, mức cao nhất trong 5 thành phố trực thuộc Trung ương. Đây là mức tăng trưởng khá cao và hợp lý trong điều kiện sản xuất khó khăn và tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Giá trị sản xuất công nghiệp ước tăng 7,5%, tổng mức bán ra hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 18,5%, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng 4,97% so với cùng kỳ, thu ngân sách được 5.092 tỷ đồng, đạt 59,5% dự toán Hội đồng nhân dân thành phố giao…
Tuy nhiên, Bên cạnh những mặc tích cực vẫn còn hạn chế, các ngành, lĩnh vực có mức tăng trưởng thấp hơn mức tăng của những năm trước, ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế và thu ngân sách nhà nước, giá cả hàng hóa, dịch vụ, xăng, dầu và một số vật liệu chủ yếu tăng cao, mặt bằng lãi suất còn cao và khó tiếp cận đã gây áp lực cho sản xuất và đời sống dân cư, tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, nhũng nhiễu gây chậm trễ, phiền hà cho tổ chức và nhân dân chưa giảm…
Cây nông nghiệp chính của Cần Thơ là lúa, với sản lượng 1.194,7 tấn. Ngoài ra có một số cây hoa màu khác nhưng sản lượng không đáng kể. Ngành chăn nuôi ở Cần Thơ chủ yếu là nuôi heo và gia cầm. Số lượng heo là 2589,3 ngàn con, số lượng gia cầm là 13 ngàn con (vì bị cúm gia cầm). Các gia súc khác như trâu bò chiếm số lượng không nhiều. |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Ngành thủy sản ở Cần Thơ chủ yếu là nuôi trồng.
Công nghiệp.
Trong năm 2020 toàn thành phố có 250 dự án trong và ngoài nước, gồm: 222 dự án đầu tư trong nước, 27 dự án đầu tư nước ngoài và 1 dự án ODA, với tổng vốn đầu tư đăng ký là 1,76 tỉ USD.Tổng doanh thu của các doanh nghiệp đang hoạt động trong các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố đạt hơn 1.866 triệu USD, đạt 99,91% so với kế hoạch; thu hút 2 dự án mới vào các khu công nghiệp, với vốn đăng ký thực hiện 4,66 triệu USD.
Công nghiệp Cần Thơ về cơ bản đã xây dựng được nhiều cơ sở hạ tầng để phục vụ cho các đối tác nước ngoài tác nhập, điển hình là 2 khu công nghiệp tại Trà Nóc trực thuộc quận Bình Thủy, khu công nghiệp Thốt Nốt, khu công nghiệp Hưng Phú 1 và 2, khu công nghiệp tại quận Ô Môn. Trung tâm Công nghệ Phần mềm Cần Thơ, Cantho Software Park CSP cũng là một trong những dự án được Thành phố quan tâm đầu tư phát triển. Với những lợi thế về phát triển công nhiệp, Cần Thơ cũng đã được định hướng để phát triển trở thành "thành phố công nghiệp" trước năm 2020 theo Nghị quyết 45- NQ/TW của Bộ chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Dịch vụ & Thương mại.
Có nhiều siêu thị và khu mua sắm, thương mại lớn như: Tổ hợp TTTM và khách sạn cao cấp 5 sao Vincom Xuân Khánh, Vincom Hùng Vương, Go, Metro, Sense City (Co.opmart), Lotte Mart, VinMart (WinMart), Best Caring, Siêu thị Điện máy Sài Gòn Chợ Lớn, Siêu thị điện máy Nguyễn Kim, Khu mua sắm Đệ Nhất Phan Khang, Khu Thương mại Tây Đô, Trung tâm thương mại Cái Khế. Cùng với đó là các cửa hàng thương hiệu nổi tiếng như Grab, Vinmart, Loteria, Jollibee, Highlands Coffee, The Coffee House, Phúc Long đã có mặt trên địa bàn thành phố. |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Các ngành dịch vụ tại Cần Thơ rất nhiều loại hình dịch vụ đã và đang dần phát triển mạnh như Ngân hàng, Y tế, Giáo dục, Văn hóa xã hội...
Trong năm 2020 một số ngành tăng trưởng khá, lĩnh vực thiết yếu được xem là những điểm sáng của ngành Công Thương thành phố trước bối cảnh dịch COVID-19 bùng phát và kéo dài; nhu cầu tiêu thụ hàng hóa toàn cầu giảm mạnh, kéo theo thị trường xuất nhập khẩu bị thu hẹp. Theo Sở Công Thương thành phố, một số sản phẩm đạt mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ như phi lê đông lạnh tăng 8,6%; xi măng tăng 33,83%; sản phẩm đinh tăng 43,57%; điện sản xuất tăng 3%; nước máy thương phẩm tăng 4,33%. Các sản phẩm tăng là do doanh nghiệp ký kết được đơn hàng mới và tập trung đẩy mạnh sản xuất những tháng cuối năm; đồng thời, các giải pháp tháo gỡ khó khăn phát huy tác dụng tích cực, kích cầu tiêu thụ nội địa, tăng sức mua của người tiêu dùng. Ở lĩnh vực thương mại, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ năm 2020 của thành phố đạt trên 139.077 tỉ đồng. Mức bán lẻ này chỉ đạt 92,69% kế hoạch năm song lại tăng 3,53% so với cùng kỳ. Hoạt động xuất khẩu của thành phố cũng trải qua một năm nhiều khó khăn khi giảm 13,16% so với cùng kỳ với kim ngạch xuất khẩu cả năm đạt hơn 1,93 tỉ USD. Song nhìn chung, các doanh nghiệp đã nỗ lực kết nối với các đối tác truyền thống để duy trì thị trường, tìm cơ hội trong khó khăn và duy trì việc làm cho người lao động.
Theo Sở Công Thương thành phố Cần Thơ, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ trong 5 năm, từ 2011 - 2015 của thành phố trên 316.300 tỷ đồng; riêng năm 2015 đạt 80.900 tỷ đồng, đứng thứ ba của cả nước chỉ sau Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, góp phần đưa tỷ lệ của khu vực III (thương mại, dịch vụ) đạt 57,8% trong cơ cấu kinh tế của thành phố. Mức tăng trưởng trong lĩnh vực này bình quân trong 5 năm qua là 15,4%.
Với vị trí thuận lợi là trung tâm của vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, ngành Dịch vụ phát triển nhanh theo hướng đa dạng hoá loại hình, tạo nên điểm nhấn khá ấn tượng làm sôi động kinh tế thành phố. |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Trong 7 tháng đầu năm 2009, tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu và doanh thu dịch vụ thu ngoại tệ trên địa bàn thành phố ước thực hiện 447,4 triệu USD, đạt 48,2% so kế hoạch năm và tăng 4,3% so cùng kỳ. Trong đó, xuất khẩu hàng hoá hơn 431,9 triệu USD, đạt 48% so kế hoạch và tăng 1,5% so cùng kỳ, dịch vụ thu ngoại tệ 15,5 triệu USD, đạt 53,45% so kế hoạch và giảm 4% so cùng kỳ. Trong 9 tháng đầu năm 2009, các doanh nghiệp xuất khẩu gần 437.000 tấn gạo, đạt 82,4% so kế hoạch năm và tăng 20,2% so cùng kỳ, nhưng giá trị chỉ đạt gần 187 triệu USD, giảm 8% về giá trị. Trong đó, xuất trực tiếp 239.000 tấn (giá trị 102 triệu USD), xuất ủy thác 198.000 tấn (85 triệu USD) và cung ứng cho xuất khẩu trên 110.000 tấn quy gạo.
Tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ thu ngoại tệ năm 2019 ước 2.162,9 triệu USD, đạt 98,31%, tăng 4,49%; trong đó: xuất khẩu hàng hóa 1.712,7 triệu USD, đạt 97,87%, tăng 3,8%; dịch vụ thu ngoại tệ 450,2 triệu USD, vượt 0,04%, tăng 7,19%. Kim ngạch nhập khẩu ước 480,3 triệu USD, vượt 0,06%, tăng 11,37%. Du lịch đón trên 8,86 triệu lượt khách, doanh thu 4.435,3 tỷ đồng, tăng 17,2%. Sản xuất công nghiệp ước tăng 7,85% so với năm 2018. Tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ thực hiện 134.303,34 tỷ đồng, vượt 1,08% Kế hoạch, tăng 11,43% so năm 2018.
Tài chính - Ngân hàng.
Thành phố Cần Thơ hiện nay là một trung tâm tài chính đứng đầu khu vực ĐBSCL. Thành phố hiện có 46 Tổ trức tín dụng và 7 Quỹ tín dụng nhân dân đang hoạt động, bao gồm đủ loại hình: ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh; công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, với tổng đầu mối quản lý là 60 đầu mối, 257 địa điểm có giao dịch ngân hàng hoạt động (không kể hoạt động ngân hàng chính sách). Với mạng lưới này thì hầu hết các huyện vùng xa của Cần Thơ, các huyện mới tái lập, thành lập, huyện ít nhất cũng có 7 TCTD hoạt động trên địa bàn. |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận tín dụng, dịch vụ ngân hàng. Hiện tại, TP Cần Thơ là một trong những địa phương có dư nợ cho vay lớn nhất khu vực ĐBSCL. Ngay cả khi bị tác động của dịch COVID-19, tín dụng vẫn tăng trưởng, dư nợ cho vay của các TCTD đến hết tháng 4-2020 đạt trên 92.627 tỉ đồng; huy động trên 82.000 tỉ đồng
Năng lực cạnh tranh.
Năm 2020. TP Cần Thơ nằm trong nhóm điều hành tốt với tổng điểm 68,38, đứng vị trí thứ 11/63 tỉnh thành của cả nước (giữ vững thứ hạng và tăng 3,4 điểm so với năm 2018), đứng thứ 4 so với 5 TP trực thuộc Trung ương và xếp vị trí thứ 5 tại ĐBSCL. Năng lực cạnh tranh của thành phố không ngừng được cải thiện qua từng thời kì.
Xã hội.
Về mặt truyền thông và thông tin đại chúng, Cần Thơ có các đài phát thanh truyền hình như Đài Tiếng nói Việt Nam cơ quan thường trú KV ĐBSCL, Đài Phát thanh và Truyền hình thành phố Cần Thơ, Trung tâm Truyền hình Việt Nam khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, Đài VTV Cần Thơ và cơ quan thường trú VOV. Ngoài ra hệ thống truyền hình cáp cũng khá đông đảo như Truyền hình cáp Saigontourist, Truyền hình cáp Thành phố Hồ Chí Minh, Truyền hình vệ tinh DTH (direct-to-home), Truyền hình vệ tinh K+, Truyền hình vệ tinh VTC, và các đài truyền thanh ở các quận, huyện cùng với đó là các cơ quan báo chí như Báo Nhân Dân, Báo Cần Thơ, Canthogov cùng với các trang báo chí ở khắp các quận, huyện.
Cần Thơ có Sân vận động Cần Thơ với sức chứa 50.000 người đồng thời cũng là sân vận động có sức chứa lớn nhất Việt Nam ở thời điểm hiện tại. Ngoài các trận đấu của Câu lạc bộ Bóng đá Cần Thơ ở giải đấu cao thứ hai trong hệ thống các giải đấu chuyên nghiệp ở Việt Nam thì SVĐ còn tổ chức đua xe môtô. Và đây là môn thể thao được người dân Cần Thơ và các tỉnh lân cận ưa thích. Một năm thường tổ chức 3 lần đua là vào ngày mùng 4 Tết, ngày 30-4 và ngày 2-9. Hiện nay, đội bóng đá Cần Thơ đang đá ở Giải Hạng nhất Quốc gia (V.league 2). |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Ngoài ra còn có Nhà thi đấu đa Năng (đầu tư bởi Quân đội), Khu thi đấu tennis bãi cát quy mô 8 sân, Nhà thi đấu bơi lội và Sân bóng Quân khu 9.
Tính đến năm 2022, thành phố Cần Thơ có 1.252.348 dân, trong đó dân số thành thị chiếm 70,5%. Quận Ninh Kiều là đơn vị hành chính có lượng dân cư tập trung đông nhất, với 292.368 người, chiếm 23,3% lượng dân cư toàn thành phố.
Giáo dục.
Tính đến ngày 30 tháng 9 năm 2008, thành phố Cần Thơ có 255 trường học ở các cấp phổ thông, đứng đầu ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long. Tại các bậc bậc đại học và cao đẳng, thành phố có nhiều trường đại học hàng đầu khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long.
Danh sách các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp trên địa bàn thành phố Cần Thơ.
Riêng thành phố Cần Thơ hiện có 9 trường đại học, 16 trường cao đẳng, 1 học viện, 2 phân hiệu và 12 trường trung cấp chuyên nghiệp với tổng số hơn 76.677 sinh viên đại học, cao đẳng và trung cấp chính quy, chiếm gần 50% số sinh viên của cả vùng. Thành phố Cần Thơ có 4.260 người có trình độ sau đại học, trong đó có 234 người có trình độ tiến sĩ. Trường Đại học Cần Thơ và trường Đại học Y Dược Cần Thơ là 2 trường có chất lượng đào tạo cao, giữ được uy tín hàng đầu trong khu vực và cả nước.
Năm học 2019 - 2020, tỷ lệ học sinh xét tuyển lớp 1 đạt 100%, lớp 6 đạt 99,16%; thí sinh trúng tuyển vào lớp 10 các trường công lập tỷ lệ 90,73%. Mạng lưới y tế cơ sở từng bước nâng cao chất lượng, hiện có 82/82 trạm y tế đạt Bộ Tiêu chí quốc gia về y tế xã; tỷ lệ bác sĩ/vạn dân 14,96 bác sĩ. Văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao được quan tâm đầu tư.
Y tế.
Trong năm 2008, thành phố Cần Thơ có 83 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế. Trong đó có 12 bệnh viện, 8 phòng khám đa khoa khu vực và 60 trạm y tế phường xã, tổng số giường bệnh là 1.600 giường, trong đó các bệnh viện có 1.300 giường, phòng khám đa khoa khu vực có 85 giường, trạm y tế có 215 giường. |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Năm 2009, Cần Thơ đã có khoảng 58/76 trạm y tế đạt chuẩn quốc gia về y tế xã, 97% trạm y tế có bác sĩ, 96% trạm có nữ hộ sinh hoặc y sĩ sản nhi, 97% ấp có cán bộ y tế, 91% có dược sĩ trung học…Năm 2020 toàn thành phố có 34 bệnh viện. Trong đó có 28 bệnh viện đa khoa, chuyên khoa và 7 tuyến bệnh viện tại các quận, huyện.
Tôn giáo.
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn thành phố có 13 tôn giáo khác nhau đạt 601.330 người, nhiều nhất là Phật giáo Hòa Hảo có 245.390 người, tiếp theo là Phật giáo đạt 193.636 người, Công giáo có 119.942 người, đạo Cao Đài có 33.821 người, đạo Tin lành có 6.055 người, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có 1.440. Còn lại các tôn giáo khác như Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có 709 người, Hồi giáo có 138 người, Bửu Sơn Kỳ Hương có 123 người, Baha'i giáo có 59 người, 11 người theo Minh Sư Đạo, 5 người theo Minh Lý Đạo, 1 người theo Bà La Môn.
Văn hóa.
Thành phố Cần Thơ là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc khác nhau. Người Khmer ở Cần Thơ không nhiều, chủ yếu tập trung chung quanh chùa hoặc sống rải rác xen kẽ với người Việt ở các quận Ninh Kiều, Ô Môn, Thốt Nốt. Người Hoa ở Cần Thơ chiếm 1,45% dân số thành phố với khoảng 15.000 người sống tập trung ở các quận Ninh Kiều, quận Cái Răng, quận Ô Môn và huyện Phong Điền, người Quảng Đông làm nghề mua bán, người Khách Gia làm nghề thuốc Bắc và người Hải Nam làm nghề may mặc...
Mặc dù Cần Thơ được khám phá khá muộn. Tuy nhiên, Văn hoá Cần Thơ vừa mang những nét chung của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, đồng thời cũng mang nét đẹp văn hóa của vùng đất Tây Đô. Đặc trưng văn hoá Tây Đô được thể hiện qua nhiều phương diện ẩm thực, lối sống, tín ngưỡng, văn nghệ... Hò Cần Thơ là một trong những làn điệu dân ca độc đáo với các loại là hò huê tình, hò cấy và hò mái dài, xuất phát từ những cầu hò của khách thương hồ lúc rảnh rỗi cắm sào để tìm bạn hò và đợi con nước để rời sang bến khác.
Từ trước đến nay chưa hề có một văn bản chính thức nào gọi Cần Thơ là Tây Đô cả. |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Tuy nhiên, vì vị trí địa lí chiến lược của nó, cả quân sự lẫn kinh tế—rất thuận lợi về giao thông—nên mọi lãnh vực trong toàn khu vực châu thổ Sông Cửu Long như thương mại, công kỹ nghệ, và quân sự đều tập trung tại đây. Cần Thơ xứng đáng được gọi là thủ đô của Miền Tây hay Tây Đô.
Có lẽ cái biệt danh Tây Đô này có từ năm 1919. Trong một loạt bài du ký đăng trong tạp chí Nam Phong. Tác giả Phạm Quỳnh, một ký giả Miền Bắc, kể lại cảm xúc của ông khi lần đầu tiên viếng thăm Nam Kỳ:
"Cần Thơ có cái vẻ mỹ miều xinh xắn, sạch sẽ phòng quáng, thật xứng tên làm tỉnh đầu miền tây (La capitale de L'Ouest - Tây Đô). Đường phố thênh thang, nhà cửa san sát, các nhà buôn Tây cũng nhiều hơn, có chỗ coi xinh đẹp hơn ở Sài Gòn."
Hơn thế nữa, từ hồi mới thành lập, qua biết bao nhiêu chế độ đổi thay, hoàn cảnh địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hóa, chính trị, văn hóa, xã hội của Cần Thơ vẫn cứ tiếp tục tồn tại và phát triển không ngừng. Chính điều này là nền tảng khiến nhiều người, ở nhiều nơi, không ai bảo ai, cứ tiếp tục gọi Cần thơ là Tây Đô.
Cần Thơ cũng là quê hương của nhiều người nổi tiếng như Châu Văn Liêm, Út Trà Ôn... Về mặt tín ngưỡng, văn hoá, việc thờ cúng, sinh hoạt lễ hội của các ngôi đình ở Cần Thơ không khác mấy so với các ngôi đình ở Nam Bộ, Một số ngôi đình nổi tiếng ở Cần Thơ như đình Bình Thủy, thờ các nhân vật nổi tiếng như Đinh Công Chánh, Trần Hưng Đạo, Bùi Hữu Nghĩa...
Cần Thơ từ xưa từng được biết đến qua câu ca dao:
Du lịch.
Năm 2019, du lịch Cần Thơ đón 8,8 triệu lượt khách, tăng 4,6% so cùng kỳ năm 2018. Khách lưu trú đạt trên 3 triệu lượt, tăng 13,1%, trong đó lưu trú quốc tế đạt trên 409.000 lượt khách, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm. Tổng doanh thu từ du lịch đạt trên 4.435 tỉ đồng, tăng 17,2% so với cùng kỳ năm.
Năm qua, Hiệp hội Du lịch TP Cần Thơ đã kết nạp thêm 13 hội viên mới, nâng tổng số hội viên lên 82. |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Hiện hiệp hội có 8 câu lạc bộ, bao gồm: Khách sạn, Lữ hành, Vận chuyển, Hướng dẫn viên du lịch, Quần vợt, Điểm vườn du lịch quận Cái Răng, Điểm vườn du lịch huyện Phong Điền, Bếp ngon Phương Nam. Hiệp hội Du lịch đã phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành phố khảo sát và công nhận 2 điểm du lịch tiêu biểu cấp thành phố năm 2019: Điểm du lịch ẩm thực chay- Hakia Garden, Vườn sinh thái Xẻo Nhum; nâng tổng số số điểm du lịch tiêubiểu cấp thành phố năm 2019: Điểm du lịch ẩm thực chay- Hakia Garden, Vườn sinh thái Xẻo Nhum; nâng tổng số số điểm du lịch tiêu biểu cấp thành phố lên 15 điểm được công nhận. Hiệp hội Du lịch thành phố cũng đã mở rộng các mối quan hệ kết nối, ký kết hợp tác du lịch với Hiệp hội Du lịch tỉnh Thái Nguyên, Ninh Thuận, Bà Rịa- Vũng Tàu…
Trên những kết quả đạt được, năm 2020, Hiệp hội Du lịch thành phố tiếp tục phát huy việc kết nối, mở rộng các hoạt động của các câu lạc bộ; tiếp tục khảo sát, nâng chất và xây dựng hệ thống các điểm du lịch tiêu biểu của thành phố, các điểm du lịch tiêu biểu cấp ĐBSCL; tăng cường công tác quảng bá, xúc tiến và liên kết với các tỉnh, thành có kết nối với du lịch Cần Thơ.
Dịp này, Hiệp hội Du lịch thành phố cũng trao giấy khen cho các tập thể và cá nhân đạt thành tích xuất sắc trong năm 2019, tích cực tham gia hoạt động vớt rác trên sông. Ngoài ra thành phố còn có nhiều đền chùa như chùa Nam Nhã, chùa Ông (Cần Thơ), chợ nổi Cái Răng và chùa Long Quang (Cần Thơ). Một số nơi du lịch dành cho khách du lịch như: đình Bình Thủy, bến Ninh Kiều, chợ nổi Phong Điền, khu di tích Giàn Gừa và nhiều nơi khác.
Một số nhân vật nổi tiếng người Cần Thơ.
Văn hoá.
• Lê Quang Chiểu là 1 Nhà thơ cận đại Việt Nam Ông là nhà soạn giả Quốc âm thi hợp tuyển được các nhà nghiên cứu văn học xác định là tập thơ chữ Quốc ngữ in đầu tiên ở Việt Nam. |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | • Bùi Hữu Nghĩa (1807 - 1872) tại Quận Bình Thủy, hay Thủ Khoa Nghĩa, trước có tên là là Bùi Quang Nghĩa, hiệu Nghi Chi; là quan nhà Nguyễn, là nhà thơ và là nhà soạn tuồng Việt Nam.
• Nguyễn Trọng Quyền Nghệ danh Mộc Quán (1876-1953) tên thật là Nguyễn Trọng Quyền là một soạn giả lớn khai sinh dòng sân khấu cải lương tuồng Tàu, được suy tôn là Hậu tổ cải lương.
• Huỳnh Anh (2 tháng 1 năm 1932 - 13 tháng 12 năm 2013) là nhạc sĩ, nhạc công nổi tiếng trước 1975 thời Việt Nam Cộng hòa. Ông là tác giả của một số ca khúc được nhiều người biết đến như "Mưa rừng", "Kiếp cầm ca" và "Rừng lá thay chưa."
• Lana Condor Lana Therese Condor (tên thật là: Trần Đồng Lan; sinh ngày 11 tháng 5 năm 1997) tại Cần Thơ là một nữ Diễn viên và Vũ công người Việt Nam. Cô diễn xuất lần đầu với vai diễn Jubilation Lee / Jubilee trong bộ phim siêu anh hùng ' năm 2016 và có vai chính đầu tiên là Lara Jean Covey trong bộ phim năm 2018 của bộ phim "To All the Boys I've Loved Before". Cô trở thành sao với vai Koyomi K. trong bộ phim khoa học viễn tưởng ' (2019), và sẽ đóng vai Saya Kuroki trong bộ phim truyền hình sắp tới của Syfy, "Deadly Class".
• Nhan Phúc Vinh sinh ngày 27 tháng 6 năm 1986 tại Cần Thơ) là nam diễn viên điện ảnh truyền hình Việt Nam, anh đã đạt nhiều giải thưởng lớn như Giải Mai Vàng, Cánh Diều Vàng, HTV Awards, Liên hoan phim Việt Nam
• Phạm Lưu Tuấn Tài được biết với nghệ danh Isaac hay Isaac Phạm (sinh ngày 13 tháng 6 năm 1988) là một ca sĩ, người dẫn chương trình và diễn viên người Việt Nam. Anh thành danh trong sự nghiệp ca hát với tư cách trưởng nhóm nhạc 365 từ năm 2010 đến năm 2016 (khi nhóm ngừng hoạt động). Sau đó, Isaac chính thức solo riêng.
• Quốc Trường tên đầy đủ Nguyễn Quốc Trường (sinh năm 1988) là một nam diễn viên người Việt Nam. Anh từng xuất thân là một người mẫu ở Cần Thơ, sau đó trở thành diễn viên. Từ năm 2008 anh bắt đầu tham gia phim truyền hình, anh luôn miệt mài với nhiều vai diễn lớn nhỏ. Đến năm 2018 anh tạo được ấn tượng mạnh với vai nhân tình đểu giả của Hân (Thúy Ngân) trong phim "Gạo nếp gạo tẻ". |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Đến năm 2019, anh tỏa sáng trên bầu trời nghệ thuật với vai Vũ trong phim "Về nhà đi con" (VTV1), với vai này anh đã tạo nên điểm sáng rực rỡ trong sự nghiệp diễn xuất của mình.
• Trọng Hữu là một nghệ sĩ vọng cổ. Ông được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú năm 1997 và Nghệ sĩ Nhân dân năm 2016. Người ta hay gọi ông là "Người nông dân hát cải lương" vì những vai diễn của ông đa số đều đi chân trần, xuất thân ở vùng sông nước Nam Bộ và những vai diễn đó đều chân chất, mộc mạc, đậm chất miền quê.
• Tám Danh tên thật Nguyễn Phương Danh (1901 - 9 tháng 3 năm 1976) là đạo diễn, diễn viên cải lương, một trong những cây đại thụ của sân khấu cải lương. Ông có nhiều đóng góp lớn trong cách tân cải lương, là người đầu tiên đưa môn võ nghệ thuật lên sân khấu này. Nghệ sĩ Tám Danh còn là võ sư nổi tiếng. Ông đã được truy tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân đợt 1 (1984)
• Trần Kiết Tường sinh năm (1924-1999) tại làng Thới Thạnh,tổng Thới Bảo, quận Ô Môn, Tỉnh Cần Thơ (ngày nay thuộc thành phố Cần Thơ).là một Nhạc sĩ người Việt Nam. Ông là tác giả của ca khúc nổi tiếng "Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người".
• Võ Minh Lâm (sinh năm 1989) tại Cần Thơ là một Nghệ sĩ Cải lương Việt Nam. Anh là thí sinh nhỏ tuổi nhất và cũng là người đầu tiên đoạt giải Chuông vàng vọng cổ truyền hình khi giải này được tổ chức năm 2006.
• Cao Thái Hà sinh ngày 20-4-1990 tại thành phố Cần Thơ, cô sống và làm việc chủ yếu tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Cô là Diễn viên trẻ triển vọng của làng điện ảnh Việt Nam. Cô được khán giả biết đến nhiều nhất qua vai diễn Oanh t rong bộ phim truyền hình " Đồng tiền quỷ ám".
Thể thao..
• Nguyễn Thị Ánh Viên (sinh ngày 9 tháng 11 năm 1996 tại ấp Ba Cau, xã Giai Xuân, huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ) là 1 nữ vận động viên thuộc đội tuyển bơi lội quốc gia Việt Nam. |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Khi 19 tuổi cô đã giành 8 huy chương vàng, 1 huy chương bạc, 1 huy chương đồng cho Việt Nam và phá 8 kỷ lục và được công nhận là vận động viên ngoài Singapore xuất sắc nhất tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2015 ở Singapore., với 8 huy chương vàng giành được, Ánh Viên là người giành nhiều huy chương vàng thứ 2 sau vận động viên bơi lội nam Joseph Schooling của Singapore tại SEA Games 28. Cô còn đứng thứ 25 thế giới cự ly 400m tự do của nữ và thứ 9 thế giới nội dung 400m hỗn hợp. Năm 2015, cô là đại úy quân đội trẻ nhất tại Việt Nam và được tặng Huân chương lao động hạng nhì.
• Trần Chí Công sinh ngày 25/4/1983 tại Cần Thơ, là cầu thủ bóng đá của Câu lạc bộ bóng đá Long An. Vị trí sở trường của anh là hậu vệ.Là một trong những cầu thủ tiêu biểu của bóng đá Việt Nam được chọn vào đội tuyển năm 2008.
Người mẫu.
• Ngô Tiến Đoàn(sinh năm 1983), quê ở Cần Thơ, là người giành giải nhất cuộc thi Manhunt Việt Nam 2006 và Mister International 2008. Anh có hình thể được xem như hoàn hảo: cao 1,83 m, nặng 80 kg, với các số đo 99-80-99.
• Bùi Thị Diễm (sinh năm 1984) là một nữ diễn viên, người mẫu, hoa hậu Việt Nam. Cô từng đăng quang hoa hậu trong cuộc thi Hoa hậu phụ nữ Việt Nam qua ảnh năm 2004. Chồng cô là Nguyễn Xuân Anh, nguyên Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng.
• Lilly Nguyễn sinh năm 1993, cao 1m73 có mẹ là người Việt và bố là người Canada nên cô sở hữu gương mặt lai rất quyến rũ. Cô sinh ra ở Cần Thơ nhưng lớn lên tại Canada. Tuy nhiên, cô lại không chọn Canada làm nơi lập nghiệp của mình mà quyết tâm tìm cơ hội phát triển ở thị trường châu Á, bắt đầu bằng nghề người mẫu ảnh ở Thái Lan năm 17 tuổi.
Năm 2013, Lilly lấy danh nghĩa đại diện Việt Nam đăng kí tham gia chương trình truyền hình thực tế về người mẫu mang tên "Supermodel Me". Vượt qua nhiều đối thủ sừng sỏ, Lilly đã lọt vào top 4 thí sinh xuất sắc nhất của mùa giải năm đó. Cũng từ đây, sự nghiệp người mẫu của cô bước sang trang mới khi Lilly được nhiều người biết đến hơn. |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Năm 2014, cô về Việt Nam và từng đầu quân vào công ty người mẫu Venus dưới sự quản lý của ông bầu Vũ Khắc Tiệp.
• Nguyễn Huỳnh Kim Duyên (sinh ngày 19 tháng 10, năm 1995 tại Cần Thơ) là một Á hậu và Người mẫu người Việt Nam. Cô là Á hậu 1 cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2019, Top 16 Hoa hậu Hoàn Vũ 2021 và là Á hậu 2 Hoa hậu Siêu Quốc Gia 2022
• Lê Nguyễn Bảo Ngọc (sinh năm 2001) là Á hậu 1 cuộc thi Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2022. Hiện cô là Hoa hậu Liên lục địa 2022
Giao thông.
Hạ tầng.
Thành phố Cần Thơ được cấp điện chủ yếu từ lưới điện quốc gia qua đường dây 220KV, cung cấp điện cho thành phố qua đường dây 110KV và 6 trạm biến áp. Ngoài nguồn cung cấp trên, thành phố được Thủ tướng Chính phủ cho phép xây dựng dự án Trung tâm điện lực Ô Môn với tổng công suất cho 4 nhà máy với công xuất 2.700MW.
Cần Thơ nằm bên bờ phía nam sông Hậu, một bộ phận của sông Mê Kông chảy qua 6 quốc gia, đặc biệt là phần trung và hạ lưu chảy qua Lào, Thái Lan và Campuchia. Các tàu có trọng tải lớn (trên 1.000 tấn) có thể đi các nước và đến Cần Thơ dễ dàng. Ngoài ra, tuyến Cần Thơ - Xà No - Cái Tư là cầu nối quan trọng giữa Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Hậu Giang và Cà Mau.
Hệ thống bưu điện, viễn thông của thành phố Cần Thơ gồm 1 bưu điện trung tâm, 4 bưu điện huyện đủ điều kiện cung cấp thông tin liên lạc giữa Cần Thơ với các nước trên thế giới. Về Bưu chính có 01 doanh nghiệp nhà nước và hơn 24 doanh nghiệp tư nhân đóng trên địa bàn đảm nhận, có hệ thống ổn định với 35 bưu cục, 48 điểm bưu điện văn hóa xã và 216 đại lý bưu điện, điểm giao dịch chuyển phát. Cần Thơ có 2 nhà máy cấp nước sạch có công suất 70.000 m³/ngày, và dự kiến xây dựng thêm một số nhà máy để có thể cung cấp nước sạch 200.000 m³/ngày.
Toàn thành phố có 2.762,84 km đường bộ, trong đó có 123,715 km đường quốc lộ, 183,85 km đường tỉnh, 332,87 km đường huyện, 153,33 km đường đô thị, 1.969,074 km đường ấp, xã, khu phố. |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Mạng lưới đường thủy trên địa bàn có tổng chiều dài 1.157 km, trong đó có khoảng 619 km có khả năng vận tải cho loại phương tiện trọng tải từ 30 tấn trở lên. Các tuyến đường sông do quận, huyện quản lý gồm 40 tuyến với tổng chiều dài 405,05 km, đảm bảo cho phương tiện trọng tải từ 15 - 60 tấn hoạt động.
Đường hàng không.
Ngoài ra Thành phố Cần Thơ còn có Sân bay quốc tế Cần Thơ là sân bay lớn nhất khu vực đồng bằng sông Cửu Long, đã chính thức đi vào hoạt động khai thác thương mại các tuyến quốc nội từ ngày 3 tháng 1 năm 2009 và mở các tuyến bay quốc tế vào cuối năm 2010. Với 4 hãng hàng không hiện nay đang khai thác như Vietnam Airlines, Vietjet Air, Vasco, Bamboo Airways. Các chuyến bay trong nước đi đến Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Vinh (Nghệ An), Đà Lạt (Lâm Đồng), Quy Nhơn (Bình Định), Côn Đảo (Bà Rịa – Vũng Tàu), Phú Quốc, Thọ Xuân (Thanh Hóa). Các chuyến bay quốc tế đi đến các thành phố trong khu vực như Đài Bắc, Cao Hùng, Kuala Lumpur, Bangkok.
Đường sắt.
Toàn thành phố có 2 dự án đường sắt đang được quy hoạch gồm Dự án đường sắt cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Cần Thơ và Đường sắt đô thị Cần Thơ nhưng chưa có bất kỳ tuyến nào đang hoạt động hoặc đang được xây dựng trên thực tế. Đường sắt cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Cần Thơ có chiều dài 139 km, xây dựng đường đôi khổ đường ray tiêu chuẩn là 1.435 mm với 10 nhà ga, bắt đầu tại ga Tân Kiên (Huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh)và kết thúc tại ga Cái Răng (Quận Cái Răng, Thành phố Cần Thơ). Mạng lưới Đường sắt đô thị Cần Thơ được quy hoạch có tổng chiều dài 38,8 km, đi qua địa bàn Quận Ô Môn, Quận Bình Thủy, Quận Ninh Kiều, Quận Cái Răng và sẽ bao gồm 1 tuyến trên cao có lộ trình từ Bến xe Ô Môn, theo QL.91 đến khu công nghiệp Trà Nóc, qua Lê Hồng Phong, dọc theo Cách Mạng tháng Tám, qua bến xe Cần Thơ vào trung tâm Cần Thơ, theo Trần Hưng Đạo, Lý Tự Trọng, công viên Lưu Hữu Phước, sau đó rẽ hai nhánh sang cảng Cái Cui (gần ga Cái Răng của đường sắt cao tốc) và nút giao QL.1 với QL.61.
Cảng biển, hàng không logistics. |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Cảng biển, hàng không logistics.
Ngoài ra, hệ thống cảng của Cần Thơ đang được nâng cấp, gồm Cảng Cần Thơ có thể tiếp nhận tàu tàu biển có tải trọng 10.000 - 20.000 DWT, cảng Trà Nóc có 3 kho chứa lớn với dung lượng 40.000 tấn, khối lượng hàng hóa thông qua cảng có thể đạt 200.000 tấn/ năm có thể tiếp nhận tàu 2.500 DWT. Cảng Cái Cui là cảng mới được xây dựng có thể phục vụ̣ cho tàu từ 10.000 - 20.000 DWT, khối lượng hàng hóa thông qua cảng là 4,2 triệu tấn/năm.
Đường bộ.
Quốc lộ 1, Quốc lộ 91, Quốc lộ 91B và Quốc lộ 91C(Nam Sông Hậu), Quốc lộ 61C và Quốc lộ 80 nối các trung tâm Thành phố thuộc Đồng bằng sông Cửu Long với Thành phố Cần Thơ. Tương lai đang nâng cấp và mở rộng quốc lộ 80, Quốc lộ (Quốc lộ 91C) Nam Sông Hậu (đoạn từ ngã năm cầu Cần Thơ đến cảng Cái Cui); tuyến tránh thành phố Long Xuyên (đoạn Thốt Nốt - Lộ Tẻ); nâng cấp, mở rộng QL91 (đoạn Km0 - Km7)…
Bên cạnh đó, kiến nghị Bộ GTVT ủng hộ và đề xuất Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương giao Cần Thơ làm chủ đầu tư thực hiện dự án mở rộng tuyến QL61C (đường nối Vị Thanh - Cần Thơ) đối với đoạn qua địa phận Cần Thơ với chiều dài 10,2 km, quy mô 4 làn xe, tổng mức đầu tư dự kiến là 978 tỷ đồng bằng nguồn vốn ngân sách trung ương giai đoạn 2021-2025 và xây dựng Cầu Vàm Cống nối Cần Thơ và Đồng Tháp
Các tuyến cao tốc đang được đầu tư và hình thành như Cao tốc Lộ Tẻ - Rạch Sỏi nối liền tỉnh Kiên Giang và huyện Vĩnh Thạnh, Cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, Cao tốc Cần Thơ - Cà Mau, Cao tốc Mỹ Thuận - Cần Thơ.
Đường đô thị.
Hiện nay hạ tầng giao thông của TP đã và đang có những dự án được đưa vào khai thác như: cầu Quang Trung (đơn nguyên 2) nối liền hai quận Ninh Kiều và quận Cái Răng, cầu Vàm Cống nối liền quận Thốt Nốt và huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. |
Cần Thơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022 | Các dự án được đầu tư như tuyến đường vành đai phía Tây nối liền quận Ô Môn, Bình Thủy, Ninh Kiều, Cái Răng và huyện Phong Điền, Cần Thơ, dự án đường tỉnh 922 nối liền 4 quận huyện của TP như quận Bình Thủy, Ô Môn, Thới Lai, Cờ Đỏ, Đường Trần Hoàng Na và cầu Trần Hoàng Na nối 2 quận Ninh Kiều và quận Cái Răng. Đầu tư xây dựng 4 cầu vượt thép tại 4 nút giao thông đường 30 tháng 4 - Nguyễn Văn Linh, Đường 3 tháng 2 - đường Nguyễn Văn Linh, Đường Võ Văn Kiệt - Mậu Thân, Đường 3 tháng 2 - đường Trần Hưng Đạo, Cải tạo 167 tuyến đường khắp nội đô thành phố.
Thành phố kết nghĩa.
• Ngoài ra chính quyền thành phố đang nỗ lực tạo điều kiện thuận lợi nhất để kết nối thông tin với các đối tác Nhật Bản như thành lập Văn phòng Japan Desk tại Cần Thơ; 2 Văn phòng liên lạc tại Ōsaka và Tokyo.
• Về ngoại giao nhân dân, Hội hữu nghị Việt Nam - Nhật Bản TP Cần Thơ đã ký kết hợp tác với 6 Chi hội hữu nghị Nhật - Việt của Nhật Bản và thường xuyên tổ chức các hoạt động trao đổi đoàn thông qua các sự kiện lớn của địa phương.
Khởi nghiệp.
Mạng lưới liên kết Hệ sinh thái KNĐMST TP Cần Thơ - CanTho Startup Ecosystem và Mạng lưới Vườn ươm Đồng bằng sông Cửu Long. TP Cần Thơ còn là thành viên Mạng lưới Khởi nghiệp ĐBSCL - Mekong Startup Network với 23 thành viên thuộc các tỉnh, thành Đồng bằng sông Cửu Long.
Trên địa bàn thành phố hiện có 6 không gian làm việc chung nhằm giúp kết nối hoạt động khởi nghiệp sáng tạo cho sinh viên, doanh nghiệp, những dự án startups mới tại TP Cần Thơ cũng như các địa phương trong vùng: |
GNU | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1026 | GNU là một hệ điều hành và bộ sưu tập phần mềm máy tính phong phú. GNU bao gồm toàn bộ phần mềm tự do, hầu hết được cấp phép theo General Public License (GPL) của GNU Project.
"GNU" là một kiểu viết tắt đệ quy của "GNU's Not Unix!", nó được chọn bởi thiết kế của GNU là tương tự Unix, nhưng khác với Unix vì nó là phần mềm miễn phí và không có mã Unix. Dự án GNU bao gồm nhân hệ điều hành, GNU Hurd, vốn là trọng tâm ban đầu của Free Software Foundation (FSF). Tuy nhiên với trạng thái của hạt nhân Hurd là chưa sẵn sàng ra mắt, các hạt nhân phi GNU, phổ biến nhất là nhân Linux, cũng có thể được sử dụng với phần mềm GNU. Sự kết hợp giữa GNU và Linux đã trở nên phổ biến đến mức bộ đôi này thường được gọi tắt là "Linux", hoặc ít thường xuyên hơn, "GNU/Linux". (xem Tranh cãi về đặt tên GNU/Linux)
Richard Stallman, người sáng lập dự án, xem GNU như một "phương tiện kỹ thuật để kết thúc xã hội". Liên quan đến Lawrence Lessig trong phần giới thiệu về ấn bản thứ hai của cuốn sách "Free Software, Free Society" của mình Stallman đã viết về "các khía cạnh xã hội của phần mềm và cách Phần mềm tự do có thể tạo ra công bằng và xã hội".
Lịch sử.
Việc phát triển hệ điều hành GNU được Richard Stallman khởi xướng khi ông làm việc tại Phòng thí nghiệm trí tuệ nhân tạo MIT. Nó được gọi là Dự án GNU, và được công bố công khai vào ngày 27 tháng 9 năm 1983, trên các nhóm tin net.unix-wizards và net.usoft bởi Stallman. Việc phát triển phần mềm bắt đầu vào ngày 5 tháng 1 năm 1984, khi Stallman nghỉ việc tại Phòng thí nghiệm để họ không thể đòi quyền sở hữu hoặc can thiệp vào việc phân phối các thành phần GNU dưới dạng phần mềm tự do. Richard Stallman đã chọn tên bằng cách sử dụng nhiều cách chơi chữ khác nhau, bao gồm cả bài hát "The Gnu".
Mục tiêu là ra mắt một hệ điều hành phần mềm hoàn toàn tự do. Stallman muốn người dùng máy tính được tự do nghiên cứu mã nguồn của phần mềm họ sử dụng, chia sẻ phần mềm với người khác, sửa đổi hành vi của phần mềm và xuất bản các phiên bản phần mềm được sửa đổi của riêng họ. Triết lý này sau đó đã được xuất bản thành Tuyên ngôn GNU vào tháng 3 năm 1985. |
GNU | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1026 | Kinh nghiệm của Richard Stallman với Incompatible Timesharing System (ITS), một hệ điều hành ban đầu được viết bằng hợp ngữ đã trở nên lỗi thời do PDP-10 bị ngừng phát triển, kiến trúc máy tính mà ITS đã viết, dẫn đến một quyết định rằng hệ thống di động là cần thiết. Do đó ông đã quyết định rằng sự phát triển sẽ được bắt đầu bằng C và Lisp làm ngôn ngữ lập trình hệ thống, và GNU sẽ tương thích với Unix. Vào thời điểm đó, Unix đã là một hệ điều hành độc quyền phổ biến. Thiết kế của Unix là mô-đun, do đó, nó có thể được thực hiện lại từng phần.
Phần lớn các phần mềm cần thiết phải được viết từ đầu, nhưng các thành phần phần mềm miễn phí của bên thứ ba tương thích hiện có cũng được sử dụng như hệ thống sắp chữ TeX, X Window System, và microkernel Mach tạo thành nền tảng của lõi GNU Mach của GNU Hurd (hạt nhân chính thức của GNU). Ngoại trừ các thành phần bên thứ ba nói trên, hầu hết GNU đã được các tình nguyện viên viết; một số trong thời gian rảnh rỗi, một số được trả bởi các công ty, tổ chức giáo dục và các tổ chức phi lợi nhuận khác. Tháng 10 năm 1985, Stallman đã thành lập Free Software Foundation (FSF). Vào cuối những năm 1980 và 1990, FSF đã thuê các nhà phát triển phần mềm viết phần mềm cần thiết cho GNU.
Khi GNU trở nên nổi bật, các doanh nghiệp quan tâm bắt đầu đóng góp vào việc phát triển hoặc bán phần mềm và hỗ trợ kỹ thuật của GNU. Nổi bật và thành công nhất trong số này là Cygnus Solutions, bây giờ là một phần của Red Hat.
Thành phần.
Các thành phần cơ bản của hệ thống bao gồm GNU Compiler Collection (GCC), GNU C library (glibc), và GNU Core Utilities (coreutils), cũng bao gồm GNU Debugger (GDB), GNU Binary Utilities (binutils), GNU Bash shell. Các nhà phát triển GNU đã đóng góp cho các ports Linux của các ứng dụng và tiện ích GNU, hiện cũng được sử dụng rộng rãi trên các hệ điều hành khác như các biến thể BSD, Solaris và macOS.
Nhiều chương trình GNU đã được port đến các hệ điều hành khác, bao gồm cả các nền tảng độc quyền như Microsoft Windows và macOS. Các chương trình GNU đã được chứng minh là đáng tin cậy hơn so với các đối chiếu Unix độc quyền của chúng.
Tính đến tháng 11 năm 2015, có tổng số 466 gói GNU (bao gồm ngừng hoạt động, loại trừ 383) được lưu trữ trên trang web phát triển GNU chính thức.
Biến thể GNU. |
GNU | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1026 | Biến thể GNU.
Hạt nhân chính thức của GNU Project là GNU Hurd microkernel; tuy nhiên, vào năm 2012, Linux kernel trở thành một phần chính thức của GNU Project với Linux-libre, một biến thể của Linux với tất cả các thành phần độc quyền được loại bỏ.
Với bản phát hành Debian GNU/Hurd 2015 ngày 30/4/2015, GNU OS hiện cung cấp các thành phần để hợp lại thành một hệ điều hành mà người dùng có thể cài đặt và sử dụng trên máy tính. Việc này bao gồm hạt nhân GNU Hurd, hiện đang ở trạng thái tiền phát hành. Trang trạng thái Hurd nói rằng "nó có thể chưa sẵn sàng để đưa vào sử dụng, vì vẫn còn một số lỗi và thiếu tính năng. Tuy nhiên, đây phải là cơ sở tốt để phát triển thêm và sử dụng ứng dụng không quan trọng."
Do Hurd chưa sẵn sàng để đưa vào sử dụng, trong thực tế, các hệ điều hành này là các bản phân phối Linux. Chúng chứa nhân Linux, các thành phần GNU và phần mềm từ nhiều dự án phần mềm tự do khác. Nhìn vào tất cả các mã chương trình có trong bản phân phối Ubuntu Linux vào năm 2011, GNU bao gồm 8% (13% trong GNOME) và Linux kernel 6% (tăng lên 9% khi bao gồm các phụ thuộc trực tiếp của nó).
Các hạt nhân khác như FreeBSD cũng hoạt động cùng với phần mềm GNU để tạo thành một hệ điều hành hoạt động. FSF cho trì rằng một hệ điều hành được xây dựng bằng nhân Linux và các công cụ và tiện ích GNU, nên được coi là một biến thể của GNU và thúc đẩy thuật ngữ "GNU/Linux" cho các hệ thống đó (dẫn đến tranh cãi về đặt tên GNU/Linux). GNU Project đã phê duyệt các bản phân phối Linux, như gNewSense, Trisquel và Parabola GNU/Linux-libre. Các biến thể GNU khác không sử dụng Hurd làm hạt nhân bao gồm Debian GNU/kFreeBSD và Debian GNU/NetBSD, mang lại kết quả ban đầu cho GNU trên kernel BSD.
Bản quyền, giấy phép GNU và quản lý.
GNU Project khuyến nghị rằng những người đóng góp gán bản quyền cho các gói GNU cho Quỹ phần mềm tự do, mặc dù Quỹ phần mềm tự do cho rằng có thể chấp nhận phát hành các thay đổi nhỏ cho một dự án hiện theo Phạm vi công cộng. Tuy nhiên, điều này là không bắt buộc; các nhà bảo trì gói có thể giữ bản quyền đối với các gói GNU mà họ duy trì, mặc dù chỉ có chủ bản quyền mới có thể thực thi giấy phép được sử dụng (như GNU GPL), nên người giữ bản quyền trong trường hợp này thi hành nó thay vì Free Software Foundation. |
GNU | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1026 | Để phát triển phần mềm cần thiết, Stallman đã viết một giấy phép gọi là GNU General Public License (ban đầu gọi là Emacs General Public License), với mục tiêu đảm bảo người dùng tự do chia sẻ và tự do thay đổi phần mềm. Stallman đã viết giấy phép này sau kinh nghiệm của mình với James Gosling và một chương trình có tên UniPress, về một cuộc tranh cãi xung quanh việc sử dụng mã phần mềm trong chương trình GNU Emacs. Trong hầu hết những năm 1980, mỗi gói GNU có giấy phép riêng: Emacs General Public License, GCC General Public License, v.v. Năm 1989, FSF đã xuất bản một giấy phép duy nhất mà có thể sử dụng cho tất cả phần mềm của mình có thể được sử dụng bởi các dự án không phải GNU: GNU General Public License (GPL).
Giấy phép này hiện được sử dụng bởi hầu hết các phần mềm GNU, cũng như một số lượng lớn các chương trình phần mềm tự do không phải là một phần của GNU Project; nó cũng là giấy phép phần mềm tự do được sử dụng phổ biến nhất. Nó cho phép tất cả những người nhận chương trình có quyền chạy, sao chép, sửa đổi và phân phối chương trình đó, đồng thời cấm họ áp đặt các hạn chế hơn nữa đối với bất kỳ bản sao nào họ phân phối. Ý tưởng này thường được gọi là copyleft.
Năm 1991, giấy phép GNU Lesser General Public License (LGPL), sau đó được gọi là Library General Public License, được viết cho GNU C Library để cho phép nó được liên kết với phần mềm độc quyền. Năm 1991 phiên bản 2 của GNU GPL cũng được phát hành. GNU Free Documentation License (FDL), cho tài liệu, ra mắt vào năm 2000. GPL và LGPL đã được sửa đổi thành phiên bản 3 năm 2007, thêm các điều khoản để bảo vệ người dùng chống lại các hạn chế phần cứng ngăn người dùng chạy phần mềm đã sửa đổi trên thiết bị của họ.
Bên cạnh các gói riêng của GNU, giấy phép của Dự án GNU được sử dụng bởi nhiều dự án không liên quan, chẳng hạn như Linux kernel, thường được sử dụng với phần mềm GNU. Một số ít các phần mềm được sử dụng bởi hầu hết các bản phân phối Linux, chẳng hạn như X Window System, được cấp phép theo giấy phép phần mềm tự do.
Logo.
Logo của GNU là một chiếc đầu gnu. nan đầu được vẽ bởi Etienne Suvasa, một phiên bản táo bạo và đơn giản hơn được thiết kế bởi Aurelio Heckert hiện được ưa thích. Nó xuất hiện trong phần mềm GNU và trong tài liệu in và điện tử của GNU Project, và cũng được sử dụng trong các tài liệu của Tổ chức phần mềm tự do. |
GNU | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1026 | Hình ảnh hiển thị ở đây là một phiên bản sửa đổi của logo chính thức. Nó được tạo bởi Quỹ phần mềm miễn phí vào tháng 9 năm 2013 để kỷ niệm 30 năm GNU Project. |
Tam giác | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1037 | Tam giác hay hình tam giác là một loại hình cơ bản trong hình học: hình hai chiều phẳng có ba đỉnh là ba điểm không thẳng hàng và ba cạnh là ba đoạn thẳng nối các đỉnh với nhau. Tam giác là đa giác có số cạnh ít nhất (3 cạnh). Tam giác luôn luôn là một đa giác đơn và luôn là một đa giác lồi (các góc trong luôn nhỏ hơn 180°). Một tam giác có các cạnh AB, BC và AC được ký hiệu là formula_1.
Từ nguyên.
Chữ Hán: 三角; nghĩa: "ba góc".
Các yếu tố trong một tam giác.
Các góc trong một tam giác được gọi là góc trong. Các góc kề bù với góc trong được gọi là góc ngoài. Góc ngoài thì bằng tổng các góc trong không kề bù với nó. Mỗi tam giác chỉ có 3 góc trong và 6 góc ngoài.
Các đường đồng quy của tam giác.
Đường cao là một đoạn thẳng đi qua một đỉnh và vuông góc với cạnh đối diện của đỉnh đó. Mỗi tam giác chỉ có ba đường cao. Ba đường cao của một tam giác đồng quy tại một điểm, điểm này được gọi là trực tâm của tam giác. Đường cao đi qua đỉnh góc vuông của một tam giác vuông thì sẽ chia tam giác ấy thành 2 tam giác đồng dạng với và cùng đồng dạng với tam giác đã cho.
Đường trung tuyến là một đoạn thẳng nối từ đỉnh đến trung điểm của cạnh đối diện. Một tam giác chỉ có ba đường trung tuyến. Ba đường trung tuyến của một tam giác đồng quy tại một điểm, điểm này được gọi là trọng tâm của tam giác. Khoảng cách từ trọng tâm đến mỗi đỉnh bằng formula_2 đường trung tuyến tương ứng với đỉnh đó và suy ra, khoảng cách từ trọng tâm đến mỗi trung điểm bằng formula_3 đường trung tuyến tương ứng với điểm đó. Trên một mặt phẳng, đường thẳng đi qua bất kỳ một đỉnh và trọng tâm của "tam giác đều" thì chia tam giác đó thành hai tam giác có diện tích bằng nhau. Trong một tam giác, ba trung tuyến chia tam giác đó thành 6 tam giác có diện tích bằng nhau.
Đường trung trực của một tam giác là đường vuông góc với một cạnh của tam giác đó tại trung điểm. Mỗi tam giác chỉ có ba đường trung trực. Ba đường trung trực của một tam giác đồng quy tại một điểm, điểm đó có tên gọi là tâm của đường tròn ngoại tiếp tam giác. Tâm của đường tròn ngoại tiếp tam giác cách đều ba đỉnh của tam giác đó. |
Tam giác | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1037 | Đường phân giác là đoạn thẳng nối từ đỉnh đến cạnh đối diện và chia góc ở đỉnh làm 2 phần có số đo góc bằng nhau. Mỗi tam giác chỉ có ba đường phân giác. Ba đường này đồng quy tại một điểm. Điểm đó có tên gọi là tâm của đường tròn nội tiếp tam giác. Khoảng cách từ tâm của đường tròn nội tiếp tam giác tới các cạnh là bằng nhau. Đường phân giác đi qua một góc của một đinh tam giác thì chia cạnh đối diện của góc đó những đoạn tỉ lệ với hai cạnh còn lại của tam giác.
Theo định lý Euler: "Trong một tam giác:" "trực tâm, trọng tâm, tâm của đường tròn ngoại tiếp tam giác cùng thuộc một đường thẳng, trọng tâm sẽ nằm giữa trực tâm và tâm của đường tròn ngoại tiếp tam giác, từ trực tâm đến tâm của đường tròn ngoại tiếp tam giác sẽ bằng 3 lần từ trọng tâm đến tâm của đường tròn ngoại tiếp tam giác. Đường thẳng chứa ba điểm đó được gọi là đường thẳng Euler."
Sự bằng nhau giữa các tam giác.
Hai tam giác được gọi là bằng nhau khi chúng có thể đặt trùng khít lên nhau sau một số phép tịnh tiến, quay và đối xứng. Nói cách khác hai tam giác được gọi là bằng nhau nếu chúng có các cạnh tương ứng bằng nhau và các góc tương ứng bằng nhau. Hai tam giác bằng nhau khi và chỉ khi thỏa mãn một trong bảy điều kiện sau đây:
Sự đồng dạng giữa các tam giác.
Hai tam giác được gọi là đồng dạng nếu một trong chúng bằng với một tam giác nhận được từ tam giác kia sau một phép vị tự. Các điều kiện cần và đủ để hai tam giác đồng dạng:
Các tính chất của tam giác đồng dạng:
Tỉ số đồng dạng của hai tam giác là tỷ số giữa hai cạnh tương ứng bất của hai tam giác đó khi chúng đồng dạng
Phân loại tam giác.
Trong hình học Euclid, thuật ngữ "tam giác" thường được hiểu là tam giác nằm trên một mặt phẳng. Ngoài ra còn có tam giác cầu trong hình học cầu, tam giác hyperbol trong hình học hyperbol. Tam giác phẳng có một số dạng đặc biệt, được xét theo tính chất các cạnh và các góc của nó:
Một số tính chất của tam giác (trong hình học Euclid).
Trong hình học phi Euclid thì một tam giác có thể có tổng ba góc phụ thuộc vào kích thước của tam giác, khi kích thước tam giác gia tăng thì tổng đó tiến tới giá trị là 0 và có diện tích là vô hạn.
Các công thức tính diện tích tam giác. |
Tam giác | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1037 | Các công thức tính diện tích tam giác.
Tính diện tích tam giác là một bài toán cơ bản thường được gặp trong hình học sơ cấp.
Bằng cách sử dụng hình học.
Diện tích "S" bằng "½bh", trong đó "b" là độ dài của một cạnh bất kỳ của tam giác (thường gọi là "đáy") và "h" là độ dài đường cao hạ từ đỉnh đối diện xuống cạnh ấy.
Có thể giải thích công thức này bằng cách dùng diện tích hình chữ nhật như sau:
Từ một tam giác (màu xanh lục), ta sẽ sao một tam giác bằng nó,(màu xanh lam), quay góc 180°, và ghép chúng thành hình bình hành. Cắt một phần của hình bình hành, ghép lại thành hình chữ nhật. Vì diện tích hình chữ nhật là "bh", nên diện tích tam giác là ½"bh".
Nói cách khác, diện tích tam giác bằng độ dài cạnh đáy nhân với chiều cao chia 2:
Bằng phương pháp dùng tọa độ.
Nếu đỉnh A đặt ở gốc tọa độ (0, 0) của hệ tọa độ Descartes và tọa độ của hai đỉnh kia là B = ("x"B, "y"B) và C = ("x"C, "y"C), thì diện tích "S" của tam giác ABC bằng một nửa của giá trị tuyệt đối của định thức
Trong trường hợp tổng quát, ta có:
Trong không gian ba chiều, diện tích của tam giác cho bởi {A = ("x"A, "y"A, "z"A), B = ("x"B, "y"B, "z"B) và C = ("x"C, "y"C, "z"C)} là tổng 'Pythagor' của các diện tích các hình chiếu của chúng trên các mặt phẳng tọa độ (nghĩa là "x"=0, "y"=0 and "z"=0):
Áp dụng công thức Heron.
Cũng có thể tính diện tích tam giác "S" theo Công thức Heron: formula_9
trong đó formula_10 là nửa chu vi của tam giác.
Những nguyên tắc cơ bản.
Euclid đã trình bày các nguyên tắc cơ bản về tam giác trong tập 1 đến tập 4 tác phẩm Cơ sở ("Elements") của ông, viết khoảng năm 300 TCN.
Tam giác là một đa giác và đơn hình bậc 2 ("xem đa diện").
Hai tam giác là đồng dạng nếu có thể khai triển (co hay giãn) tam giác này theo cùng một tỷ lệ để có tam giác kia. Trường hợp này, độ dài của những bên đồng vị có tỷ lệ bằng nhau. |
Tam giác | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1037 | Tức là hai tam giác đồng dạng với nhau, nếu cạnh lớn nhất của tam giác này gấp bao nhiêu lần cạnh lớn nhất của tam giác kia, thì cạnh bé nhất của tam giác này cũng gấp bấy nhiêu lần cạnh bé nhất của tam giác kia và tương tự với cạnh còn lại.
Hơn nữa, tỷ lệ cạnh dài trên cạnh ngắn của một tam giác sẽ phải bằng tỷ lệ cạnh dài trên cạnh ngắn của tam giác kia. Điều quan trọng là những góc đồng vị phải bằng nhau để hai tam giác được đồng dạng nhau. Việc này cũng xảy ra nếu một tam giác có một cạnh chung với tam giác kia, và những cạnh đối với nó thì bằng nhau.
Hàm lượng giác sin và cosin có thể hiểu được khi dùng tam giác vuông và khái niệm đồng dạng. Đó là hai hàm của góc được nghiên cứu bởi lượng giác học.
Những định lý nổi tiếng được áp dụng trong tam giác.
Một số định lý nổi tiếng có liên quan đến tam giác là:
Các công trình kiến trúc sử dụng hình tam giác.
Hiện nay, hình chữ nhật là một dạng hình học phổ biến và phổ biến nhất cho các công trình vì hình dạng dễ xếp chồng và sắp xếp, thật dễ dàng để thiết kế đồ nội thất và đồ đạc để phù hợp với bên trong các tòa nhà hình chữ nhật. Hình tam giác, trong khi khó sử dụng hơn về mặt khái niệm nhưng nó cung cấp rất nhiều sức mạnh cho chúng ta. Khi công nghệ máy tính giúp các kiến trúc sư thiết kế các tòa nhà mới sáng tạo, hình dạng tam giác ngày càng trở nên phổ biến như là một phần của các công trình và là hình dạng chính cho một số loại nhà cao tầng cũng như các vật liệu xây dựng, đồ dùng nội thất. Năm 1989 tại Tokyo, Nhật Bản, các kiến trúc sư đã tự hỏi liệu có thể xây dựng một tòa tháp với hơn 500 tầng để cung cấp không gian văn phòng giá cả phải chăng cho thành phố đông đúc như thế này hay không. Nhưng sự nguy hiểm đối với các tòa nhà từ trận động đất, các kiến trúc sư cho rằng hình dạng tam giác sẽ là cần thiết, và như vậy một tòa nhà hình tam giác đã được xây dựng.
Tại thành phố New York, khi đi qua các đại lộ lớn, ta có thể nhìn thấy nhiều các công trình lớn xây dựng theo hình lăng trụ đứng có đáy là tam giác. |
Tam giác | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1037 | Ví dụ điển hình như vậy là Tòa nhà Flatiron hình tam giác mà mọi người thừa nhận có một "không gian thật không dễ để chứa đồ nội thất văn phòng hiện đại" nhưng điều đó không ngăn cản công trình trở thành một biểu tượng mang tính bước ngoặt. Các nhà thiết kế đã làm nhà ở Na Uy bằng cách sử dụng các chủ đề hình tam giác. Hình dạng tam giác cũng đã xuất hiện trong nhà thờ cũng như các tòa nhà công cộng bao gồm các trường đại học cũng như hỗ trợ cho các mẫu thiết kế nhà sáng tạo hơn nữa.
Cấu trúc của một hình tam giác rất chắc chắn, trong khi đó cấu trúc của một hình chữ nhật có thể bị bẻ nghiêng thành hình bình hành từ áp suất đến những điểm trong nó, hình tam giác có sức mạnh tự nhiên hỗ trợ các cấu trúc chống lại các áp lực bên. Một hình tam giác sẽ không bao giờ thay đổi hình dạng trừ khi các cạnh của nó bị uốn cong, mở rộng hoặc gãy hoặc nếu các khớp của nó bị gãy. Về bản chất, mỗi một cạnh trong tam giác đều hỗ trợ cho hai cạnh còn lại. Một hình chữ nhật, ngược lại, phụ thuộc nhiều hơn vào sức mạnh của các khớp theo nghĩa cấu trúc. Một số nhà thiết kế sáng tạo đã đề xuất làm cho gạch không chỉ có hình dạng chữ nhật, và với hình dạng tam giác có thể được kết hợp theo ba chiều. Rất có khả năng các hình tam giác sẽ được sử dụng ngày càng nhiều theo những cách mới khi kiến trúc tăng độ phức tạp. Điều quan trọng cần nhớ là hình tam giác rất mạnh về độ cứng, nhưng trong khi được sắp xếp theo hình tam giác sắp xếp không mạnh như hình lục giác khi bị (do đó sự phổ biến của các hình lục giác trong tự nhiên). |
Internet | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1047 | Internet hay Mạng (phiên âm tiếng Việt: in-tơ-nét) là một hệ thống thông tin toàn cầu có thể được truy nhập công cộng gồm các mạng máy tính được liên kết với nhau. Hệ thống này truyền thông tin theo kiểu nối chuyển gói dữ liệu ("packet switching") dựa trên một giao thức liên mạng đã được chuẩn hóa (giao thức IP). Hệ thống này bao gồm hàng ngàn mạng máy tính nhỏ hơn của các doanh nghiệp, của các viện nghiên cứu và các trường đại học, của người dùng cá nhân và các chính phủ trên toàn cầu, được liên kết bởi một loạt các công nghệ mạng điện tử, không dây và mạng quang. Internet mang theo một loạt các tài nguyên và dịch vụ thông tin, chẳng hạn như các tài liệu và ứng dụng siêu văn bản được liên kết với nhau của World Wide Web (WWW), thư điện tử, điện thoại và chia sẻ file.
Nguồn gốc của Internet bắt nguồn từ sự phát triển của chuyển mạch gói và nghiên cứu do Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ ủy quyền thực hiện vào những năm 1960 để cho phép chia sẻ thời gian của máy tính. Mạng tiền thân chính, ARPANET, ban đầu đóng vai trò là xương sống để kết nối các mạng lưới học thuật và quân sự khu vực trong những năm 1970. Việc tài trợ cho Mạng lưới Quỹ Khoa học Quốc gia như một xương sống mới trong những năm 1980, cũng như tài trợ tư nhân cho các phần mở rộng thương mại khác, dẫn đến sự tham gia trên toàn thế giới trong việc phát triển các công nghệ mạng mới và sáp nhập nhiều mạng. Sự liên kết của các mạng thương mại và doanh nghiệp vào đầu những năm 1990 đã đánh dấu sự khởi đầu của quá trình chuyển đổi sang Internet hiện đại, và tạo ra sự tăng trưởng theo cấp số nhân khi các thế hệ máy tính cá nhân, cá nhân và di động được kết nối với mạng. Mặc dù Internet được sử dụng rộng rãi bởi các học viện trong những năm 1980, việc thương mại hóa Internet đã kết hợp các dịch vụ và công nghệ của nó vào hầu hết mọi khía cạnh của cuộc sống hiện đại.
Hầu hết các phương tiện truyền thông truyền thống, bao gồm điện thoại, đài phát thanh, truyền hình, thư giấy và báo chí được định hình lại, xác định lại hoặc thậm chí bỏ qua Internet, khai sinh các dịch vụ mới như email, VoIP, truyền hình Internet, âm nhạc trực tuyến, báo kỹ thuật số và các trang web truyền phát video. |
Internet | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1047 | Báo, sách và xuất bản in khác đang thích ứng với công nghệ trang web hoặc được định hình lại thành blog, web feed và tổng hợp tin tức trực tuyến. Internet đã cho phép và tăng tốc các hình thức tương tác cá nhân mới thông qua tin nhắn tức thời, diễn đàn Internet và mạng xã hội. Mua sắm trực tuyến đã tăng theo cấp số nhân cho cả các nhà bán lẻ lớn và các doanh nghiệp nhỏ và doanh nhân, vì nó cho phép các công ty mở rộng sự hiện diện "gạch và vữa" của họ để phục vụ thị trường lớn hơn hoặc thậm chí bán hàng hóa và dịch vụ hoàn toàn trực tuyến. Các dịch vụ từ doanh nghiệp đến doanh nghiệp và tài chính trên Internet ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng trên toàn bộ các ngành công nghiệp.
Internet không có tổ chức quản trị tập trung duy nhất nào trong việc thực hiện công nghệ hoặc chính sách cho truy cập và sử dụng; mỗi mạng cấu thành đặt chính sách riêng của mình. Các định nghĩa của hai không gian tên chính trong Internet, không gian địa chỉ Giao thức Internet (địa chỉ IP) và Hệ thống tên miền (DNS), được chỉ đạo bởi một tổ chức bảo trì, Tập đoàn Internet về Tên miền và số được gán (ICANN). Nền tảng kỹ thuật và tiêu chuẩn hóa các giao thức cốt lõi là một hoạt động của Lực lượng đặc nhiệm kỹ thuật Internet (IETF), một tổ chức phi lợi nhuận của những người tham gia quốc tế liên kết lỏng lẻo mà bất kỳ ai cũng có thể liên kết bằng cách đóng góp chuyên môn kỹ thuật. Vào tháng 11 năm 2006, Internet đã được đưa vào danh sách "Bảy kỳ quan mới" của "USA Today."
Thuật ngữ.
Mặc dù thuật ngữ "Internet" được sử dụng để tham khảo các hệ thống toàn cầu cụ thể của kết nối với nhau qua mạng dùng Internet Protocol (IP), từ này là một danh từ riêng theo quy định của Chicago Manual of Style mà nên được viết với một chữ cái viết hoa. Trong sử dụng phổ biến và các phương tiện truyền thông, nó thường không được viết hoa, chẳng hạn "internet." Một số hướng dẫn xác định rằng từ này nên được viết hoa khi được sử dụng như một danh từ, nhưng không được viết hoa khi được sử dụng như một tính từ. Internet cũng thường được gọi là "Net", như một dạng viết tắt của "mạng". |
Internet | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1047 | Trong lịch sử, ngay từ năm 1849, từ "internetted" đã không được sử dụng như một tính từ, có nghĩa là "liên kết với nhau" hoặc "đan xen" Các nhà thiết kế của các mạng máy tính ban đầu đã sử dụng "internet" như một danh từ và một động từ ở dạng tốc ký của mạng nội bộ hoặc mạng nội bộ, nghĩa là kết nối các mạng máy tính.
Các thuật ngữ "Internet" và "World Wide Web" thường được sử dụng thay thế cho nhau trong lời nói hàng ngày; Người ta thường nói về " "truy cập Internet" " khi sử dụng trình duyệt web để xem các trang web. Tuy nhiên, World Wide Web hoặc "Web" chỉ là một trong số lượng lớn các dịch vụ Internet. Web là tập hợp các tài liệu được kết nối với nhau (các trang web) và các tài nguyên web khác, được liên kết bởi các siêu liên kết và URL. Thuật ngữ "interweb" là một từ ghép của "Internet" và "World Wide Web" thường được sử dụng một cách mỉa mai để nhại một người sử dụng không thành thạo về mặt kỹ thuật.
Lịch sử.
Cơ quan Dự án Nghiên cứu Tiên tiến (ARPA) của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã tài trợ cho nghiên cứu về việc chia sẻ thời gian của máy tính vào những năm 1960. Trong khi đó, nghiên cứu về chuyển mạch gói, một trong những công nghệ Internet cơ bản, bắt đầu trong công việc của Paul Baran vào đầu những năm 1960 và, độc lập, Donald Davies vào năm 1965. Chuyển mạch gói được tích hợp vào thiết kế đề xuất cho ARPANET vào năm 1967 và các mạng chuyển mạch gói khác như mạng NPL, Mạng Merit và CYCLADES được phát triển vào cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970.
Sự phát triển của ARPANET bắt đầu với hai nút mạng được kết nối giữa Trung tâm đo lường mạng tại Đại học California, Los Angeles (UCLA) Trường Kỹ thuật và Khoa học ứng dụng Henry Samueli do Leonard Kleinrock chỉ đạo và hệ thống NLS tại SRI International (SRI) Douglas Engelbart tại Menlo Park, California, vào ngày 29 tháng 10 năm 1969. Địa điểm thứ ba là Trung tâm toán học tương tác Culler-Fried tại Đại học California, Santa Barbara, tiếp theo là Khoa Đồ họa của Đại học Utah. Trong một dấu hiệu của sự phát triển trong tương lai, mười lăm trang web đã được kết nối với ARPANET trẻ vào cuối năm 1971. Những năm đầu tiên này đã được ghi nhận trong bộ phim "".
Hợp tác quốc tế ban đầu trên mạng ARPANET là rất hiếm. |
Internet | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1047 | Các kết nối đã được thực hiện vào năm 1973 với Mảng địa chấn Na Uy (NORSAR) thông qua một trạm vệ tinh ở Tanum, Thụy Điển và nhóm nghiên cứu của Peter Kirstein tại Đại học College London, nơi cung cấp một cổng vào mạng lưới học thuật của Anh. Dự án ARPANET và các nhóm làm việc quốc tế đã dẫn đến sự phát triển của các giao thức và tiêu chuẩn khác nhau, theo đó nhiều mạng riêng biệt có thể trở thành một mạng hoặc "một mạng các mạng". Năm 1974, Vint Cerf và Bob Kahn đã sử dụng thuật ngữ "internet" như một cách viết tắt cho "mạng nội bộ" "", và các RFC sau này lặp lại việc sử dụng này. Cerf và Khan tin rằng Louis Pouzin có ảnh hưởng quan trọng đến thiết kế TCP/IP. Các nhà cung cấp PTT thương mại đã quan tâm đến việc phát triển mạng dữ liệu công cộng X.25.
Quyền truy cập vào ARPANET được mở rộng vào năm 1981 khi Quỹ khoa học quốc gia (NSF) tài trợ cho Mạng khoa học máy tính (CSNET). Năm 1982, Bộ giao thức Internet (TCP/IP) đã được chuẩn hóa, cho phép phổ biến các mạng kết nối trên toàn thế giới. Truy cập mạng TCP/IP được mở rộng trở lại vào năm 1986 khi Mạng Khoa học Quốc gia (NSFNet) cung cấp quyền truy cập vào các trang web siêu máy tính ở Hoa Kỳ cho các nhà nghiên cứu, đầu tiên là ở tốc độ 56 kbit / s và sau đó là 1,5 Mbit/s và 45 Mbit/s. NSFNet đã mở rộng thành các tổ chức nghiên cứu và học thuật ở Châu Âu, Úc, New Zealand và Nhật Bản vào năm 1988. Mặc dù các giao thức mạng khác như UUCP đã tiếp cận toàn cầu trước thời điểm này, nhưng điều này đánh dấu sự khởi đầu của Internet như một mạng lưới liên lục địa. Các nhà cung cấp dịch vụ Internet thương mại (ISP) xuất hiện vào năm 1989 tại Hoa Kỳ và Úc. ARPANET đã ngừng hoạt động vào năm 1990.
Những tiến bộ ổn định trong công nghệ bán dẫn và mạng cáp quang đã tạo ra những cơ hội kinh tế mới cho sự tham gia thương mại trong việc mở rộng mạng lưới trong cốt lõi của nó và để cung cấp dịch vụ cho công chúng. Vào giữa năm 1989, MCI Mail và Compuserve đã thiết lập các kết nối với Internet, cung cấp email và các sản phẩm truy cập công cộng tới nửa triệu người dùng Internet. |
Internet | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1047 | Chỉ vài tháng sau, vào ngày 1 tháng 1 năm 1990, PSInet đã đưa ra một mạng Internet thay thế cho mục đích thương mại; một trong những mạng được thêm vào cốt lõi của Internet thương mại của những năm sau đó. Vào tháng 3 năm 1990, liên kết T1 (1,5 Mbit / s) tốc độ cao đầu tiên giữa NSFNET và Châu Âu đã được cài đặt giữa Đại học Cornell và CERN, cho phép liên lạc mạnh mẽ hơn nhiều so với khả năng của các vệ tinh. Sáu tháng sau Tim Berners-Lee sẽ bắt đầu viết WorldWideWeb, trình duyệt web đầu tiên sau hai năm vận động hành lang ban quản lý CERN. Vào Giáng sinh năm 1990, Berners-Lee đã xây dựng tất cả các công cụ cần thiết cho một Web hoạt động: Giao thức truyền tải siêu văn bản (HTTP) 0.9, Ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản (HTML), trình duyệt Web đầu tiên (cũng là trình soạn thảo HTML và có thể truy cập các nhóm tin Usenet và các tệp FTP), phần mềm máy chủ HTTP đầu tiên (sau này được gọi là CERN httpd), máy chủ web đầu tiên, và các trang Web đầu tiên mô tả chính dự án. Năm 1991, Commercial Internet eXchange được thành lập, cho phép PSInet giao tiếp với các mạng thương mại khác CERFnet và Alternet. Liên minh tín dụng liên bang Stanford là tổ chức tài chính đầu tiên cung cấp dịch vụ ngân hàng trực tuyến trên Internet cho tất cả các thành viên của mình vào tháng 10 năm 1994. Năm 1996, OP Financial Group, cũng là một ngân hàng hợp tác, trở thành ngân hàng trực tuyến thứ hai trên thế giới và đầu tiên ở châu Âu. Đến năm 1995, Internet đã được thương mại hóa hoàn toàn ở Mỹ khi NSFNet ngừng hoạt động, xóa bỏ những hạn chế cuối cùng trong việc sử dụng Internet để truyền tải lưu lượng thương mại.
Khi công nghệ phát triển và cơ hội thương mại thúc đẩy tăng trưởng đối ứng, khối lượng lưu lượng truy cập Internet bắt đầu gặp phải các đặc điểm tương tự như quy mô của bóng bán dẫn MOS, được minh họa bởi luật Moore, tăng gấp đôi cứ sau 18 tháng. Sự tăng trưởng này, được chính thức hóa theo luật Edholm, được xúc tác bởi những tiến bộ trong công nghệ MOS, hệ thống ánh sáng laser và hiệu suất xử lý nhiễu. |
Internet | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1047 | Từ năm 1995, Internet đã tác động rất lớn đến văn hóa và thương mại, bao gồm sự gia tăng của giao tiếp gần như qua email, nhắn tin tức thời, điện thoại (Giao thức thoại qua Internet hoặc VoIP), các cuộc gọi video tương tác hai chiều và World Wide Web với các diễn đàn thảo luận, blog, mạng xã hội và các trang web mua sắm trực tuyến. Lượng dữ liệu ngày càng tăng được truyền ở tốc độ cao hơn và cao hơn trên các mạng cáp quang hoạt động ở tốc độ 1-Gbit/s, 10-Gbit/s hoặc hơn. Internet tiếp tục phát triển, được thúc đẩy bởi lượng thông tin và kiến thức trực tuyến, thương mại, giải trí và mạng xã hội lớn hơn bao giờ hết. Vào cuối những năm 1990, ước tính lưu lượng truy cập trên Internet công cộng tăng 100% mỗi năm, trong khi mức tăng trưởng trung bình hàng năm về số lượng người dùng Internet được cho là từ 20% đến 50%. Sự tăng trưởng này thường được quy cho việc thiếu quản trị trung tâm, cho phép tăng trưởng hữu cơ của mạng, cũng như bản chất không độc quyền của các giao thức Internet, khuyến khích khả năng tương tác của nhà cung cấp và ngăn chặn bất kỳ công ty nào kiểm soát quá nhiều mạng. , tổng số người dùng Internet ước tính là 2,095 tỷ (30,2% dân số thế giới). Người ta ước tính rằng vào năm 1993, Internet chỉ mang theo 1% thông tin truyền qua viễn thông hai chiều, đến năm 2000, con số này đã tăng lên 51% và đến năm 2007, hơn 97% tất cả thông tin được điều khiển qua Internet.
Quản trị.
Internet là một mạng toàn cầu bao gồm nhiều mạng tự trị được kết nối với nhau một cách tự nguyện. Nó hoạt động mà không có một cơ quan quản lý trung ương nào. Nền tảng kỹ thuật và tiêu chuẩn hóa các giao thức cốt lõi (IPv4 và IPv6) là một hoạt động của Lực lượng đặc nhiệm kỹ thuật Internet (IETF), một tổ chức phi lợi nhuận của những người tham gia quốc tế liên kết lỏng lẻo mà bất kỳ ai có thể liên kết bằng cách đóng góp chuyên môn kỹ thuật. Để duy trì khả năng tương tác, các không gian tên chính của Internet được quản lý bởi Tập đoàn Internet cho Tên miền và số được gán (ICANN). ICANN được điều hành bởi một ban giám đốc quốc tế được rút ra từ các cộng đồng kỹ thuật, kinh doanh, học thuật và phi thương mại khác trên Internet. |
Internet | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1047 | ICANN điều phối việc gán các mã định danh duy nhất để sử dụng trên Internet, bao gồm tên miền, địa chỉ Giao thức Internet (IP), số cổng ứng dụng trong giao thức truyền tải và nhiều tham số khác. Không gian tên thống nhất toàn cầu là rất cần thiết để duy trì phạm vi toàn cầu của Internet. Vai trò này của ICANN phân biệt nó có lẽ là cơ quan điều phối trung tâm duy nhất cho Internet toàn cầu.
Cơ quan đăng ký Internet khu vực (RIR) được thành lập cho năm khu vực trên thế giới. Trung tâm thông tin mạng châu Phi (AfriNIC) cho châu Phi, Cơ quan đăng ký số Internet (ARIN) của Mỹ cho Bắc Mỹ, Trung tâm thông tin mạng châu Á-Thái Bình Dương (APNIC) cho châu Á và khu vực Thái Bình Dương, Cơ quan đăng ký địa chỉ Internet ở Mỹ Latinh và Caribbean (LACNIC) cho Châu Mỹ Latinh và khu vực Caribbean và Réseaux IP Européens - Trung tâm điều phối mạng (RIPE NCC) cho Châu Âu, Trung Đông và Trung Á đã được ủy quyền để gán các khối địa chỉ Giao thức Internet và các thông số Internet khác cho các cơ quan đăng ký địa phương, như là nhà cung cấp dịch vụ Internet, từ một nhóm địa chỉ được chỉ định dành riêng cho từng khu vực.
Cục Viễn thông và Thông tin Quốc gia, một cơ quan của Bộ Thương mại Hoa Kỳ, đã có sự chấp thuận cuối cùng đối với các thay đổi đối với vùng gốc DNS cho đến khi chuyển đổi quản lý IANA vào ngày 1 tháng 10 năm 2016. Hiệp hội Internet (ISOC) được thành lập năm 1992 với sứ mệnh "đảm bảo sự phát triển mở, phát triển và sử dụng Internet vì lợi ích của tất cả mọi người trên toàn thế giới". Thành viên của nó bao gồm các cá nhân (bất kỳ ai cũng có thể tham gia) cũng như các tập đoàn, tổ chức, chính phủ và trường đại học. Trong số các hoạt động khác, ISOC cung cấp một ngôi nhà hành chính cho một số nhóm ít tổ chức chính thức có liên quan đến việc phát triển và quản lý Internet, bao gồm: Lực lượng đặc nhiệm kỹ thuật Internet (IETF), Ban kiến trúc Internet (IAB), Nhóm chỉ đạo kỹ thuật Internet (IESG), Lực lượng đặc nhiệm nghiên cứu Internet (IRTF) và Nhóm chỉ đạo nghiên cứu Internet (IRSG). Vào ngày 16 tháng 11 năm 2005, Hội nghị thượng đỉnh thế giới do Liên hiệp quốc về Hiệp hội thông tin ở Tunis tài trợ đã thành lập Diễn đàn quản trị Internet (IGF) để thảo luận về các vấn đề liên quan đến Internet.
Cơ sở hạ tầng. |
Internet | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1047 | Cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng truyền thông của Internet bao gồm các thành phần phần cứng và hệ thống các lớp phần mềm kiểm soát các khía cạnh khác nhau của kiến trúc này. Như với bất kỳ mạng máy tính nào, Internet bao gồm các bộ định tuyến, phương tiện truyền thông (như cáp và liên kết vô tuyến), bộ lặp, modem, v.v. Tuy nhiên, như một ví dụ về liên mạng, rất nhiều các nút mạng không nhất thiết phải thiết bị Internet cho mỗi gia nhập, các gói dữ liệu Internet được thực hiện bởi các giao thức mạng chính thức khác với Internet đóng vai trò như một tiêu chuẩn mạng đồng nhất, chạy trên phần cứng không đồng nhất, với gói được hướng dẫn đến đích của chúng bằng bộ định tuyến IP.
Các tuyến định tuyến và dịch vụ.
Các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) thiết lập kết nối toàn cầu giữa các mạng riêng lẻ ở nhiều cấp độ khác nhau. Người dùng cuối chỉ truy cập Internet khi cần để thực hiện chức năng hoặc lấy thông tin, biểu thị phần dưới cùng của hệ thống phân cấp định tuyến. Ở phía trên cùng của hệ thống phân cấp định tuyến là tầng 1 mạng, các công ty viễn thông lớn mà giao thông trao đổi trực tiếp với nhau thông qua tốc độ rất cao cáp quang sợi và chi phối bởi thỏa thuận peering. Mạng cấp 2 và cấp thấp hơn mua quá cảnh Internet từ các nhà cung cấp khác để tiếp cận ít nhất một số bên trên Internet toàn cầu, mặc dù họ cũng có thể tham gia vào việc tiên phong. Một ISP có thể sử dụng một nhà cung cấp ở thượng nguồn duy nhất cho khả năng kết nối, hoặc thực hiện multihoming để đạt được khả năng dự phòng và cân bằng tải. Điểm trao đổi Internet là các trao đổi lưu lượng truy cập lớn với các kết nối vật lý đến nhiều ISP. Các tổ chức lớn, chẳng hạn như các tổ chức học thuật, doanh nghiệp lớn và chính phủ, có thể thực hiện chức năng tương tự như ISP, tham gia vào peering và mua quá cảnh thay mặt cho mạng nội bộ của họ. Các mạng nghiên cứu có xu hướng kết nối với các mạng con lớn như GEANT, GLORIAD, Internet2 và mạng nghiên cứu và giáo dục quốc gia của Vương quốc Anh, JANET. Cả cấu trúc định tuyến IP Internet và các liên kết siêu văn bản của World Wide Web là ví dụ về các mạng không có quy mô. |
Internet | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1047 | Máy tính và bộ định tuyến sử dụng các bảng định tuyến trong hệ điều hành của chúng để hướng các gói IP đến bộ định tuyến hoặc đích đến tiếp theo. Các bảng định tuyến được duy trì bằng cấu hình thủ công hoặc tự động bằng các giao thức định tuyến. Các nút cuối thường sử dụng tuyến mặc định hướng đến ISP cung cấp dịch vụ vận chuyển, trong khi các bộ định tuyến ISP sử dụng Giao thức cổng biên để thiết lập định tuyến hiệu quả nhất qua các kết nối phức tạp của Internet toàn cầu.
Ước tính 70 phần trăm lưu lượng truy cập Internet của thế giới đi qua Ashburn, Virginia.
Truy cập.
Các phương thức truy cập Internet phổ biến của người dùng bao gồm quay số bằng modem máy tính thông qua các mạch điện thoại, băng thông rộng qua cáp đồng trục, cáp quang hoặc dây đồng, Wi-Fi, vệ tinh và công nghệ điện thoại di động (ví dụ: 3G, 4G). Internet thường có thể được truy cập từ các máy tính trong thư viện và quán cà phê Internet. Các điểm truy cập Internet tồn tại ở nhiều nơi công cộng như sảnh sân bay và quán cà phê. Các thuật ngữ khác nhau được sử dụng, chẳng hạn như "kiosk Internet" "công cộng", "thiết bị đầu cuối truy cập công cộng" và "điện thoại thanh toán qua Web". Nhiều khách sạn cũng có các điểm truy cập Internet công cộng thường có phí. Các thiết bị đầu cuối này được truy cập rộng rãi cho các mục đích sử dụng khác nhau, chẳng hạn như đặt vé, gửi tiền ngân hàng hoặc thanh toán trực tuyến. Wi-Fi cung cấp truy cập không dây vào Internet thông qua các mạng máy tính địa phương. Hotspots cung cấp truy cập như vậy bao gồm quán cà phê Wi-Fi, nơi người dùng cần phải mang theo các thiết bị không dây của họ chẳng hạn như một máy tính xách tay hoặc PDA. Các dịch vụ này có thể miễn phí cho tất cả mọi người, hoặc chỉ miễn phí cho khách hàng hoặc có tính phí.
Những nỗ lực cơ sở đã dẫn đến các mạng cộng đồng không dây. Các dịch vụ Wi-Fi thương mại bao phủ các khu vực rộng lớn có sẵn ở nhiều thành phố, như New York, London, Vienna, Toronto, San Francisco, Philadelphia, Chicago và Pittsburgh, nơi Internet có thể được truy cập từ những nơi như ghế đá công viên. |
Internet | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1047 | Các thử nghiệm cũng đã được thực hiện với các mạng không dây di động độc quyền như Ricochet, các dịch vụ dữ liệu tốc độ cao khác nhau qua mạng di động và các dịch vụ không dây cố định. Điện thoại thông minh hiện đại cũng có thể truy cập Internet thông qua mạng di động. Để duyệt Web, các thiết bị này cung cấp các ứng dụng như Google Chrome, Safari và Firefox và nhiều phần mềm Internet khác có thể được cài đặt từ các cửa hàng ứng dụng. Lần đầu tiên sử dụng Internet trên thiết bị di động và máy tính bảng đã vượt quá máy tính để bàn trên toàn thế giới vào tháng 10 năm 2016.
Kết nối qua di động.
Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU) ước tính, vào cuối năm 2017, 48% người dùng cá nhân thường xuyên kết nối Internet, tăng từ 34% vào năm 2012. Kết nối Internet di động đã đóng một vai trò quan trọng trong việc mở rộng truy cập trong những năm gần đây, đặc biệt là ở châu Á và Thái Bình Dương và ở châu Phi. Số lượng thuê bao di động duy nhất đã tăng từ 3,89 tỷ vào năm 2012 lên 4,83 tỷ vào năm 2016, hai phần ba dân số thế giới, với hơn một nửa số thuê bao ở Châu Á và Thái Bình Dương. Số lượng đăng ký được dự đoán sẽ tăng lên 5,69 tỷ người dùng vào năm 2020. , gần 60% dân số thế giới đã truy cập vào mạng di động băng rộng 4G, tăng từ gần 50% vào năm 2015 và 11% vào năm 2012. Các giới hạn mà người dùng phải đối mặt khi truy cập thông tin qua các ứng dụng di động trùng khớp với quá trình phân mảnh Internet rộng hơn. Phân mảnh hạn chế quyền truy cập vào nội dung phương tiện và có xu hướng ảnh hưởng đến người dùng nghèo nhất.
Xếp hạng zero (zero rating), thông lệ của các nhà cung cấp dịch vụ Internet cho phép người dùng kết nối miễn phí để truy cập một nội dung hoặc ứng dụng cụ thể mà không phải trả chi phí, đã tạo cơ hội vượt qua các rào cản kinh tế, nhưng cũng bị các nhà phê bình cáo buộc là tạo ra Internet hai tầng. Để giải quyết các vấn đề với xếp hạng zero, một mô hình thay thế đã xuất hiện trong khái niệm 'xếp hạng bằng nhau' và đang được thử nghiệm trong Mozilla và Orange ở Châu Phi. Xếp hạng bằng nhau ngăn ngừa mức độ ưu tiên của một loại nội dung và không đánh giá tất cả nội dung cho đến giới hạn dữ liệu được chỉ định. |
Internet | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1047 | Một nghiên cứu được công bố bởi Chatham House, 15 trong số 19 quốc gia được nghiên cứu ở Mỹ Latinh có một số loại sản phẩm lai hoặc không xếp hạng được cung cấp. Một số quốc gia trong khu vực có rất nhiều kế hoạch để lựa chọn (trên tất cả các nhà khai thác mạng di động) trong khi các quốc gia khác, chẳng hạn như Colombia, cung cấp tới 30 gói trả trước và 34 gói trả sau.
Một nghiên cứu của tám quốc gia ở Nam toàn cầu đã phát hiện ra rằng các gói dữ liệu không được xếp hạng tồn tại ở mọi quốc gia, mặc dù có một phạm vi lớn về tần suất mà chúng được cung cấp và thực sự được sử dụng ở mỗi quốc gia. Nghiên cứu đã xem xét ba đến năm hãng hàng đầu theo thị phần ở Bangladesh, Colombia, Ghana, Ấn Độ, Kenya, Nigeria, Peru và Philippines. Một nghiên cứu khác, bao gồm Ghana, Kenya, Nigeria và Nam Phi, đã tìm thấy những điều cơ bản miễn phí và Wikipedia Zero của Facebook là nội dung không được xếp hạng phổ biến nhất.
Bộ giao thức Internet.
Các tiêu chuẩn Internet mô tả một khung được gọi là bộ giao thức Internet (còn được gọi là TCP/IP, dựa trên hai thành phần đầu tiên). Đây là một kiến trúc mô hình phân chia các phương thức thành một hệ thống các giao thức được phân lớp, ban đầu được ghi lại trong và .
Phân lớp.
Các lớp phần mềm tương ứng với môi trường hoặc phạm vi mà dịch vụ của họ hoạt động. Trên cùng là lớp ứng dụng, không gian cho các phương thức mạng dành riêng cho ứng dụng được sử dụng trong các ứng dụng phần mềm. Ví dụ: chương trình trình duyệt web sử dụng mô hình ứng dụng máy khách-máy chủ và giao thức tương tác cụ thể giữa máy chủ và máy khách, trong khi nhiều hệ thống chia sẻ tệp sử dụng mô hình ngang hàng.
Bên dưới lớp trên cùng này, lớp vận chuyển kết nối các ứng dụng trên các máy chủ khác nhau với một kênh logic thông qua mạng với các phương thức trao đổi dữ liệu phù hợp. Nó cung cấp một số dịch vụ bao gồm đặt hàng, phân phối đáng tin cậy (TCP) và dịch vụ datagram không đáng tin cậy (UDP).
Dưới các lớp này là các công nghệ mạng kết nối các mạng ở biên giới của chúng và trao đổi lưu lượng qua chúng. |
Internet | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1047 | Lớp Internet thực hiện Giao thức Internet cho phép các máy tính xác định và định vị lẫn nhau bằng địa chỉ Giao thức Internet (IP) và định tuyến lưu lượng truy cập của chúng thông qua các mạng trung gian (chuyển tuyến). Mã lớp giao thức internet độc lập với loại mạng mà nó đang chạy trên thực tế.
Ở dưới cùng của kiến trúc là lớp liên kết, cung cấp kết nối hợp lý giữa các máy chủ. Mã lớp liên kết thường là phần mềm duy nhất được tùy chỉnh theo loại giao thức liên kết mạng vật lý. Nhiều lớp liên kết đã được triển khai và mỗi lớp hoạt động trên một loại liên kết mạng, chẳng hạn như trong mạng cục bộ (LAN) hoặc mạng diện rộng (ví dụ: Wi-Fi hoặc Ethernet hoặc kết nối quay số, ATM, v.v.).
Giao thức Internet.
Thành phần nổi bật nhất của mô hình Internet là Giao thức Internet (IP). IP cho phép kết nối mạng và về bản chất là thiết lập Internet. Hai phiên bản của Giao thức Internet tồn tại, IPV4 và IPV6.
Các địa chỉ IP.
Để định vị các máy tính cá nhân trên mạng, Internet cung cấp địa chỉ IP. Địa chỉ IP được sử dụng bởi cơ sở hạ tầng Internet để hướng các gói internet đến đích của chúng. Chúng bao gồm các số có độ dài cố định, được tìm thấy trong gói. Địa chỉ IP thường được gán cho thiết bị tự động thông qua DHCP hoặc được định cấu hình.
Tuy nhiên, mạng cũng hỗ trợ các hệ thống địa chỉ khác. Người dùng thường nhập tên miền (ví dụ: "vi.wikipedia.org") thay vì địa chỉ IP vì chúng dễ nhớ hơn, chúng được Hệ thống tên miền (DNS) chuyển đổi thành địa chỉ IP hiệu quả hơn cho mục đích định tuyến.
IPv4.
Giao thức Internet phiên bản 4 (IPv4) định nghĩa địa chỉ IP là số 32 bit. Giao thức Internet Phiên bản 4 (IPv4) là phiên bản ban đầu được sử dụng trên thế hệ đầu tiên của Internet và vẫn đang được sử dụng chủ yếu. Nó được thiết kế để giải quyết tới 4,3 tỷ (10 9) máy chủ lưu trữ. Tuy nhiên, sự phát triển bùng nổ của Internet đã dẫn đến cạn kiệt địa chỉ IPv4, bước vào giai đoạn cuối cùng vào năm 2011, khi nhóm phân bổ địa chỉ IPv4 toàn cầu cạn kiệt.
IPv6. |
Internet | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1047 | IPv6.
Do sự phát triển của Internet và sự cạn kiệt của các địa chỉ IPv4 có sẵn, một phiên bản mới của IP IPv6, được phát triển vào giữa những năm 1990, cung cấp khả năng đánh địa chỉ lớn hơn rất nhiều và định tuyến lưu lượng truy cập Internet hiệu quả hơn. IPv6 sử dụng 128 bit cho địa chỉ IP và được chuẩn hóa vào năm 1998. Triển khai IPv6 đã được tiến hành từ giữa những năm 2000. IPv6 hiện đang được triển khai trên khắp thế giới, vì các cơ quan đăng ký địa chỉ Internet (RIR) bắt đầu thúc giục tất cả các nhà quản lý tài nguyên lên kế hoạch áp dụng và chuyển đổi nhanh chóng.
IPv6 không thể tương tác trực tiếp theo thiết kế với IPv4. Về bản chất, nó thiết lập một phiên bản song song của Internet không thể truy cập trực tiếp bằng phần mềm IPv4. Do đó, các cơ sở dịch thuật phải tồn tại để liên kết mạng hoặc các nút phải có phần mềm mạng trùng lặp cho cả hai mạng. Về cơ bản, tất cả các hệ điều hành máy tính hiện đại đều hỗ trợ cả hai phiên bản Giao thức Internet. Cơ sở hạ tầng mạng, tuy nhiên, đã bị chậm trễ trong sự phát triển này. Ngoài các kết nối vật lý phức tạp tạo nên cơ sở hạ tầng, Internet được hỗ trợ bởi các hợp đồng thương mại hai bên hoặc đa bên, ví dụ như các thỏa thuận tiên phong và thông số kỹ thuật hoặc giao thức mô tả việc trao đổi dữ liệu qua mạng. Thật vậy, Internet được xác định bởi các chính sách kết nối và định tuyến.
Mạng con.
Mạng "con" là một phân vùng logic của mạng IP. Việc thực hành chia một mạng thành hai hoặc nhiều mạng được gọi là "subnetting."
Các máy tính thuộc mạng con được xử lý với một nhóm bit quan trọng nhất giống hệt nhau trong các địa chỉ IP của chúng. Điều này dẫn đến việc phân chia hợp lý một địa chỉ IP thành hai trường, "số mạng" hoặc "tiền tố định tuyến" và trường "còn lại" hoặc "định danh máy chủ". Trường còn lại là một định danh cho một máy chủ hoặc giao diện mạng cụ thể.
"Tiền tố định tuyến" có thể được thể hiện bằng ký hiệu Định tuyến liên miền không phân loại (CIDR) được viết dưới dạng địa chỉ đầu tiên của mạng, theo sau là ký tự gạch chéo ("/") và kết thúc bằng độ dài bit của tiền tố. |
Internet | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1047 | Ví dụ: 198.51.100.0 / 24 là tiền tố của mạng Giao thức Internet phiên bản 4 bắt đầu tại địa chỉ đã cho, có 24 bit được phân bổ cho tiền tố mạng và 8 bit còn lại dành cho địa chỉ máy chủ. Địa chỉ trong phạm vi 198.51.100.0 đến 198.51.100.255 thuộc về mạng này. Đặc tả địa chỉ IPv6 2001:db8::/32 là một khối địa chỉ lớn với 296 địa chỉ, có tiền tố định tuyến 32 bit.
Đối với IPv4, một mạng cũng có thể được đặc trưng bởi "mặt nạ mạng con" hoặc "netmask", đó là bitmask khi được áp dụng bởi hoạt động bitwise AND cho bất kỳ địa chỉ IP nào trong mạng, tạo ra tiền tố định tuyến. Mặt nạ mạng con cũng được thể hiện bằng ký hiệu thập phân dấu chấm như một địa chỉ. Ví dụ: 255.255.255.0 là mặt nạ mạng con cho tiền tố 198.51.100.0/24.
Lưu lượng được trao đổi giữa các mạng con thông qua các bộ định tuyến khi tiền tố định tuyến của địa chỉ nguồn và địa chỉ đích khác nhau. Một bộ định tuyến phục vụ như là một ranh giới logic hoặc vật lý giữa các mạng con.
Lợi ích của việc chia mạng con hiện tại thay đổi theo từng kịch bản triển khai. Trong kiến trúc phân bổ địa chỉ của Internet bằng CIDR và trong các tổ chức lớn, cần phải phân bổ không gian địa chỉ một cách hiệu quả. Mạng con cũng có thể tăng cường hiệu quả định tuyến hoặc có lợi thế trong quản lý mạng khi các mạng con được kiểm soát hành chính bởi các thực thể khác nhau trong một tổ chức lớn hơn. Các mạng con có thể được sắp xếp một cách hợp lý theo kiến trúc phân cấp, phân vùng không gian địa chỉ mạng của tổ chức thành một cấu trúc định tuyến giống như cây.
IETF.
Mặc dù các thành phần phần cứng trong cơ sở hạ tầng Internet thường có thể được sử dụng để hỗ trợ các hệ thống phần mềm khác, nhưng đó là thiết kế và quy trình chuẩn hóa của phần mềm đặc trưng cho Internet và cung cấp nền tảng cho khả năng mở rộng và thành công của nó. Trách nhiệm đối với thiết kế kiến trúc của các hệ thống phần mềm Internet đã được Lực lượng đặc nhiệm kỹ thuật Internet (IETF) đảm nhận. IETF tiến hành các nhóm làm việc thiết lập tiêu chuẩn, dành cho mọi cá nhân, về các khía cạnh khác nhau của kiến trúc Internet. |
Internet | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1047 | Kết quả đóng góp và tiêu chuẩn được công bố dưới dạng tài liệu "Yêu cầu Nhận xét" (RFC) trên trang web của IETF. Các phương thức kết nối mạng chính cho phép Internet được chứa trong các RFC được chỉ định đặc biệt cấu thành các Tiêu chuẩn Internet. Các tài liệu ít nghiêm ngặt khác chỉ đơn giản là thông tin, thử nghiệm hoặc lịch sử hoặc tài liệu về các thực tiễn tốt nhất hiện nay (BCP) khi triển khai các công nghệ Internet.
Ứng dụng và dịch vụ.
Internet mang nhiều ứng dụng và dịch vụ, nổi bật nhất là World Wide Web, bao gồm phương tiện truyền thông xã hội, thư điện tử, ứng dụng di động, trò chơi trực tuyến nhiều người chơi, điện thoại Internet, chia sẻ tệp và dịch vụ truyền phát trực tuyến.
Hầu hết các máy chủ cung cấp các dịch vụ này ngày nay được lưu trữ trong các trung tâm dữ liệu và nội dung thường được truy cập thông qua các mạng phân phối nội dung hiệu suất cao.
World Wide Web.
World Wide Web là tập hợp toàn cầu các tài liệu, hình ảnh, đa phương tiện, ứng dụng và các tài nguyên khác, được liên kết với nhau một cách hợp lý bởi các siêu liên kết và được tham chiếu với Mã định danh tài nguyên thống nhất (URI), cung cấp một hệ thống tham chiếu có tên toàn cầu. Các URI tượng trưng xác định các dịch vụ, máy chủ web, cơ sở dữ liệu và các tài liệu và tài nguyên mà chúng có thể cung cấp. Giao thức truyền siêu văn bản (HTTP) là giao thức truy cập chính của World Wide Web. Các dịch vụ web cũng sử dụng HTTP để liên lạc giữa các hệ thống phần mềm để truyền thông tin, chia sẻ và trao đổi dữ liệu kinh doanh và hậu cần và là một trong nhiều ngôn ngữ hoặc giao thức có thể được sử dụng để liên lạc trên Internet.
Phần mềm trình duyệt World Wide Web, chẳng hạn như Internet Explorer/Edge của Microsoft, Mozilla Firefox, Opera, Safari và Google Chrome, cho phép người dùng di chuyển từ một trang web khác thông qua các siêu liên kết nhúng trong tài liệu. Các tài liệu này cũng có thể chứa bất kỳ sự kết hợp nào của dữ liệu máy tính, bao gồm đồ họa, âm thanh, văn bản, video, đa phương tiện và nội dung tương tác chạy trong khi người dùng đang tương tác với trang. Phần mềm phía khách hàng có thể bao gồm hình ảnh động, trò chơi, ứng dụng văn phòng và trình diễn khoa học. |
Internet | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1047 | Thông qua nghiên cứu Internet dựa trên từ khóa bằng các công cụ tìm kiếm như Yahoo!, Bing và Google, người dùng trên toàn thế giới có thể truy cập nhanh chóng, dễ dàng vào một lượng lớn thông tin trực tuyến đa dạng. So với phương tiện truyền thông in ấn, sách, bách khoa toàn thư và thư viện truyền thống, World Wide Web đã cho phép phân cấp thông tin trên quy mô lớn.
Web đã cho phép các cá nhân và tổ chức xuất bản ý tưởng và thông tin tới một đối tượng tiềm năng lớn trực tuyến với chi phí giảm đáng kể và thời gian trì hoãn. Xuất bản một trang web, một blog hoặc xây dựng một trang web liên quan đến ít chi phí ban đầu và nhiều dịch vụ miễn phí có sẵn. Tuy nhiên, xuất bản và duy trì các trang web lớn, chuyên nghiệp với thông tin hấp dẫn, đa dạng và cập nhật vẫn là một đề xuất khó khăn và tốn kém. Nhiều cá nhân và một số công ty và nhóm sử dụng "nhật ký web" hoặc blog, phần lớn được sử dụng như nhật ký trực tuyến dễ dàng cập nhật. Một số tổ chức thương mại khuyến khích nhân viên truyền đạt lời khuyên trong lĩnh vực chuyên môn của họ với hy vọng rằng khách truy cập sẽ bị ấn tượng bởi kiến thức chuyên môn và thông tin miễn phí, và kết quả là bị thu hút vào tập đoàn.
Quảng cáo trên các trang web phổ biến có thể sinh lời và thương mại điện tử, đó là việc bán sản phẩm và dịch vụ trực tiếp qua Web, tiếp tục phát triển. Quảng cáo trực tuyến là một hình thức tiếp thị và quảng cáo sử dụng Internet để truyền tải thông điệp tiếp thị quảng cáo đến người tiêu dùng. Nó bao gồm tiếp thị qua email, tiếp thị công cụ tìm kiếm (SEM), tiếp thị truyền thông xã hội, nhiều loại quảng cáo hiển thị (bao gồm quảng cáo biểu ngữ web) và quảng cáo trên thiết bị di động. Năm 2011, doanh thu quảng cáo trên Internet ở Hoa Kỳ đã vượt qua các kênh truyền hình cáp và gần như vượt xa các kênh truyền hình phát sóng. Nhiều kiểu quảng cáo trực tuyến phổ biến đang gây tranh cãi và ngày càng phải tuân theo quy định.
Khi Web phát triển vào những năm 1990, một trang web điển hình đã được lưu trữ ở dạng hoàn chỉnh trên máy chủ web, được định dạng bằng HTML, hoàn thành để truyền tới trình duyệt web để đáp ứng yêu cầu. |
Internet | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1047 | Theo thời gian, quá trình tạo và phục vụ các trang web đã trở nên năng động, tạo ra một thiết kế, bố cục và nội dung linh hoạt. Các trang web thường được tạo bằng phần mềm quản lý nội dung, ban đầu, rất ít nội dung. Những người đóng góp cho các hệ thống này, có thể là nhân viên được trả lương, thành viên của một tổ chức hoặc công chúng, điền vào cơ sở dữ liệu cơ bản bằng các trang chỉnh sửa được thiết kế cho mục đích đó trong khi khách truy cập bình thường xem và đọc nội dung này dưới dạng HTML. Có thể có hoặc không có các hệ thống biên tập, phê duyệt và bảo mật được xây dựng trong quá trình lấy nội dung mới được nhập và cung cấp cho khách truy cập mục tiêu.
Liên lạc.
Email là một dịch vụ liên lạc quan trọng có sẵn thông qua Internet. Khái niệm gửi tin nhắn văn bản điện tử giữa các bên, tương tự như gửi thư hoặc ghi nhớ, có trước khi tạo ra Internet. Hình ảnh, tài liệu và các tệp khác được gửi dưới dạng tệp đính kèm email. Tin nhắn email có thể được carbon copy đến nhiều địa chỉ email.
Internet điện thoại là một dịch vụ liên lạc phổ biến được thực hiện với Internet. Tên của giao thức kết nối mạng chính, Giao thức Internet, cho mượn tên của nó để gọi qua giao thức Internet (VoIP). Ý tưởng bắt đầu vào đầu những năm 1990 với các ứng dụng giọng nói giống như máy bộ đàm cho máy tính cá nhân. Các hệ thống VoIP hiện đang thống trị nhiều thị trường, dễ sử dụng và tiện lợi như điện thoại truyền thống. Lợi ích là tiết kiệm đáng kể chi phí so với các cuộc gọi điện thoại truyền thống, đặc biệt là trong khoảng cách xa. Mạng cáp, ADSL và dữ liệu di động cung cấp truy cập Internet trong cơ sở của khách hàng và các bộ điều hợp mạng VoIP rẻ tiền cung cấp kết nối cho các bộ điện thoại analog truyền thống. Chất lượng thoại của VoIP thường vượt quá các cuộc gọi truyền thống. Các vấn đề còn lại đối với VoIP bao gồm tình huống các dịch vụ khẩn cấp có thể không phổ biến và các thiết bị phụ thuộc vào nguồn điện cục bộ, trong khi các điện thoại truyền thống cũ hơn được cấp nguồn từ vòng cục bộ và thường hoạt động khi mất điện.
Các ISP.
ISP ("Internet Service Provider") là nhà cung cấp dịch vụ Internet. Các ISP phải thuê đường và cổng của một IAP. |
Internet | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1047 | Các ISP phải thuê đường và cổng của một IAP. Các ISP có quyền kinh doanh thông qua các hợp đồng cung cấp dịch vụ Internet cho các tổ chức và các cá nhân.
Các loại ISP dùng riêng được quyền cung cấp đầy đủ các dịch vụ Internet. Điều khác nhau duy nhất giữa ISP và ISP riêng là không cung cấp dịch vụ Internet vào mục đích kinh doanh. Người dùng chỉ cần thoả thuận với một ISP hay ISP riêng nào đó về các dịch vụ được sử dụng và thủ tuc thanh toán được gọi là thuê bao Internet.
Kiểm duyệt Internet.
Một số quốc gia đã sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để thực hiện công tác kiểm duyệt, lọc thông tin thông qua các nhà cung cấp dịch vụ Internet, như tại Iran, Trung Quốc, Turkmenistan, Syria, Triều Tiên, Việt Nam. |
Hello world | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1053 | Hello world có thể là: |
Heli | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1125 | Heli là nguyên tố trong bảng tuần hoàn nguyên tố có ký hiệu He và số hiệu nguyên tử bằng 2, nguyên tử khối bằng 4. Tên của nguyên tố này bắt nguồn từ "Helios", tên của thần Mặt Trời trong thần thoại Hy Lạp, do nguồn gốc nguyên tố này được tìm thấy trong quang phổ trên Mặt Trời.
Thuộc tính.
Heli có điểm sôi thấp nhất trong tất cả các nguyên tố và chỉ có thể đông đặc dưới áp suất rất cao. Nguyên tố này thường thường là khí đơn nguyên tử và về mặt hoá học nó là trơ.
Sự phổ biến.
Heli là nguyên tố nhiều thứ hai trong vũ trụ sau hydro. Trong khí quyển Trái Đất, mật độ heli theo thể tích là 5,2 x 10−6 tại mực nước biển và tăng dần đến độ cao 24 km, chủ yếu là do phần lớn heli trong bầu khí quyển Trái Đất đã thoát ra ngoài khoảng không gian vũ trụ vì tỷ trọng thấp và tính trơ của nó. Có một lớp trong bầu khí quyển Trái Đất ở độ cao khoảng 1.000 km mà ở đó heli là chất khí chủ yếu (mặc dù tổng áp suất gây ra là rất nhỏ).
Heli là nguyên tố phổ biến thứ 71 trong vỏ Trái Đất, chiếm tỷ lệ 8 x 10−9, còn trong nước biển chỉ có 4 x 10−12. Nói chung, nó hình thành từ sự phân rã phóng xạ của các nguyên tố, do vậy người ta có thể tìm thấy heli trong các mỏ khoáng chất chứa urani, thori v.v và trong vài loại nước khoáng cũng như khí phun trào núi lửa. Heli tồn tại trong nhiều loại khí tự nhiên.
Đồng vị.
Heli có 9 đồng vị, nhưng chỉ heli-3 và heli-4 là bền. Trong khí quyển Trái Đất, trong một triệu nguyên tử có một nguyên tử . Không giống như các nguyên tử khác, sự phổ biến của các đồng vị heli thay đổi tùy theo nguồn gốc, do các quá trình hình thành khác nhau. Đồng vị phổ biến nhất, heli-4, được tạo ra trên Trái Đất từ phân rã alpha của các nguyên tố phóng xạ nặng hơn; các hạt alpha sinh ra bị ion hóa hoàn toàn thành hạt nhân heli-4. Heli-4 là hạt nhân ổn định bất thường do các nucleon được sắp xếp vào lớp vỏ đầy đủ. Nó cũng được tạo ra với số lượng lớn trong tổng hợp hạt nhân Big Bang.
Heli-3 có chỉ có mặt trên Trái Đất ở dạng dấu vết; đa số trong đó có từ lúc hình thành Trái Đất, mặc dù một số rơi vào Trái Đất trong bụi vũ trụ. |
Heli | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1125 | Một lượng vết cũng được tạo ra từ phân rã beta của triti. Các đá trong vỏ Trái Đất có các tỉ lệ đồng vị thay đổi khoảng 1/10, và các tỉ lệ này có thể được dùng để khảo sát nguồn gốc của các đá và thành phần lớp phủ của Trái Đất. phổ biến hơn trong các ngôi sao ở dạng sản phẩm của phản ứng tổng hợp hạt nhân. Do đó trong môi trường liên sao, tỉ lệ so với cao khoảng 100 lần so với trên Trái Đất. Các vật liệu ngoài hành tinh như tầng phong hóa của Mặt Trăng và tiểu hành tinh có heli-3 ở dạng vết, chúng được hình thành từ sự bắn phá của gió Mặt Trời. Bề mặt Mặt Trăng chứa heli-3 với nồng độ 0.01 ppm. Một số người, đầu tiên là Gerald Kulcinski năm 1986, đã đề xuất thám hiểm Mặt Trăng, khai thác lớp phong hóa Mặt Trăng và sử dụng heli-3 trong phản ứng tổng hợp hạt nhân.
Heli-4 hóa lỏng có thể được làm lạnh ở khoảng 1 kelvin bằng làm lạnh bay hơi trong 1-K pot. Cách làm lạnh tương tự cũng áp dụng cho heli-3, đồng vị này có điểm sôi thấp hơn nên có thể lạnh ở 0,2 kelvin trong tủ lạnh heli-3. Hỗn hợp cân bằng của và lỏng dưới 0,8 K tách thành hai pha không trộn lẫn do sự khác biệt của chúng (chúng tên theo các thống kê lượng tử khác nhau: các nguyên tử heli-4 tuân theo boson trong khi heli-3 tuân theo fermion). Tủ lạnh pha loãng sử dụng tính không hòa trộn này để đạt được nhiệt độ vài milimét.
Nó có thể tạo ra các đồng vị heli ngoại lai, mà chúng có thể phân rã nhanh chóng thành các chất khác. Đồng vị heli nặng tồn tại ngắn nhất là heli-5 có chu kỳ bán rã 7,6 giây. Heli-6 phân rã bằng cách phát ra hạt beta và có chu kỳ bán rã 0,8 giây. Heli-7 cũng phát ra hạt beta cũng như tia gamma. Heli- và heli-8 được tạo ra trong các phản ứng hạt nhân nhất định. Heli-6 và heli-8 thể hiện là một nuclear halo. Heli-2 (2 proton, không có neutron) là một đồng vị phóng xạ phân rã bằng phát xạ proton thành proti (hydro), có chu kỳ bán rã 3 giây.
Ứng dụng.
Heli được dùng để đẩy các bóng thám không và khí cầu nhỏ do tỷ trọng riêng nhỏ hơn tỷ trọng của không khí và như chất lỏng làm lạnh cho nam châm siêu dẫn. |
Heli | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1125 | Đồng vị Heli 3 có nhiều trong gió mặt trời nhưng mà phần lớn chúng bị từ trường của Trái Đất đẩy ra. Người ta đang nghiên cứu khai thác Heli-3 trên Mặt Trăng để sử dụng như một nguồn năng lượng rất tiềm năng.
Làm cho giọng nói trở nên thay đổi (trở nên cao hơn). Do heli nhẹ hơn không khí rất nhiều nên trong khí heli, tốc độ của âm thanh nhanh hơn tới 3 lần trong không khí, lên tới 927 m/s. Khi hít khí heli, trong vòm họng bạn tràn ngập khí ấy. Do đó, tần số giọng nói sẽ biến đổi, tăng lên rất nhiều và tất yếu khiến giọng bạn cao và trong hơn. Tuy nhiên, do hàm lượng khí heli trong bóng bay thấp nên "giọng nói chipmunk" chỉ tồn tại trong một thời gian rất ngắn, rồi trở về bình thường.
Heli được sử dụng làm khí bảo vệ trong hàn kim loại như hàn TIG.
Heli khi được làm lạnh sẽ sôi rất mạnh.Vào năm 1930,khi người ta hạ nhiệt độ xuống 2⁰K (-271,15⁰C),heli lỏng ngừng sôi và trở thành heli siêu lỏng với những tính chất rất kì lạ.Nó có thể rò qua cốc đựng và đi ngược chiều trọng lực như một chất lỏng không có độ nhớt. |
Từ viết tắt từ chữ đầu | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1167 | Từ viết tắt từ chữ đầu hay từ cấu tạo là một cách viết tắt dùng các chữ cái đầu tiên của một số từ trong một cụm từ. Tùy theo bao nhiêu từ trong đó bắt đầu với nguyên âm, và tùy theo những quy tắc về cách phát âm thuộc ngôn ngữ của từ đó, lúc thì đọc theo lối ghép âm, và lúc thì đọc nguyên loạt tên chữ. Thông thường, từ viết tắt từ chữ đầu được dùng trong biệt ngữ hay là trong tên các tổ chức để viết tắt những thuật ngữ dài dòng và được dùng nhiều. |
Berkeley Software Distribution | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1183 | Berkeley Software Distribution (BSD) là một hệ điều hành dẫn xuất từ UNIX được phát hành vào thập niên 1970 từ trường Đại học California tại Berkeley. Tên này cũng được sử dụng cho các bản phân phối sau này.
Các phiên bản BSD sau này.
Các hệ điều hành tương tự như Unix ("Unix-like") hiện hành được phát triển từ BSD bao gồm: |
FreeBSD | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1184 | FreeBSD là một hệ điều hành kiểu Unix được phát triển từ Unix theo nhánh phát triển của BSD dựa trên 386BSD và 4.4BSD. Nó có khả năng chạy trên các bộ vi xử lý tương thích với họ vi xử lý x86 của Intel, cũng như trên các máy DEC Alpha, các bộ xử lý UltraSPARC của Sun Microsystems, các bộ xử lý Itanium (IA-64) và AMD64. Khả năng hỗ trợ cho kiến trúc PowerPC đang được phát triển. FreeBSD thường được đánh giá cao nhờ vào tính tin cậy và mạnh mẽ của nó.
Lịch sử và quá trình phát triển.
Quá trình phát triển của FreeBSD được khởi đầu vào tháng 11 năm 1993 bởi Jordan Hubbard, và được phát triển từ mã nguồn của 386BSD. Tuy nhiên, vì một lý do liên quan tới tính pháp lý của các mã nguồn sử dụng trong 386BSD, FreeBSD đã phải xây dựng lại rất nhiều phần trong hệ thống với phiên bản FreeBSD 2.0 phát hành vào tháng 1 năm 1995 sử dụng bản phát hành 4.4BSD-Lite của trường Đại học California tại Berkeley.
Trong phiên bản mới 8.0, FreeBSD chính thức hỗ trợ ZFS (hệ thống file) và giao diện GSSAPI của NFS phiên bản 3.
So sánh với Linux.
Mặc dù có những đặc điểm tương đồng nhưng FreeBSD khác so với Linux:
Ứng dụng.
Có nhiều công ty lớn sử dụng FreeBSD cho hệ thống máy chủ:
Ngoài ra, Nintendo còn sử dụng mã nguồn từ FreeBSD và Android cho Nintendo Switch. |
Tháng 4 năm 2004 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1192 | 2004: Tháng 1 - tháng 2 - tháng 3 - tháng 4 - tháng 5 - tháng 6 - tháng 7 - tháng 8 - tháng 9 - tháng 10 - tháng 11 - tháng 12
Sự kiện theo tháng.
2004: Tháng 3 - tháng 5 |
Khoa học Trái Đất | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1198 | Khoa học Trái Đất hay Địa học bao gồm tất cả các lĩnh vực khoa học tự nhiên liên quan đến hành tinh Trái Đất. Đây là một nhánh của khoa học liên quan đến sự cấu tạo của Trái Đất và bầu khí quyển của nó. Khoa học Trái Đất nghiên cứu về các đặc điểm vật lý của hành tinh của loài người, từ động đất đến hạt mưa, và từ lũ lụt đến hóa thạch. Khoa học Trái Đất có thể được coi là một nhánh của khoa học vũ trụ, nhưng có lịch sử lâu đời hơn. Khoa học Trái Đất bao gồm bốn nhánh nghiên cứu chính, thạch quyển, thủy quyển, khí quyển, và sinh quyển, mỗi nhánh được chia nhỏ thành các lĩnh vực chuyên biệt hơn.
Khoa học Trái Đất được tiếp cận bằng cả hai hướng giản lược và toàn diện. Nó cũng bao gồm những nghiên cứu về Trái Đất và các hành tinh lân cận khác trong không gian. Một số nhà khoa học Trái Đất sử dụng tri thức của họ về các hành tinh để định vị và phát triển tài nguyên năng lượng và khoáng sản. Số khác lại nghiên cứu tác động từ hoạt động của con người đến môi trường Trái Đất; từ đó thiết kế những biện pháp bảo vệ hành tinh. Ngoài ra, số còn lại thì đi sâu hơn về nghiên cứu các hiện tượng Trái Đất như núi lửa, động đất, và bão để giúp con người tránh những thảm hoạ tàn khốc của thiên nhiên.
Khoa học Trái Đất có thể bao gồm các nghiên cứu về địa chất, thạch quyển, và cấu trúc quy mô lớn sâu bên trong lõi Trái Đất, cũng như là bầu khí quyển của Trái Đất, thủy quyển, và sinh quyển. Thông thường, các nhà khoa học Trái Đất sử dụng các công cụ địa lý, niên đại học, vật lý, hoá học, sinh học, và toán học để xây dựng hệ tri thức định lượng về cách Trái Đất vận động và phát triển. Khoa học Trái Đất ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Ví dụ như các nhà khí tượng học nghiên cứu thời tiết và theo dõi các cơn bão nguy hiểm. Các nhà thủy văn học nghiên cứu nước và cảnh báo lũ lụt. Các nhà địa chấn học nghiên cứu động đất và dự đoán nơi nó sẽ diễn ra. Các nhà địa chất nghiên cứu đá và giúp xác định vị trí của các khoáng chất hữu ích. |
Khoa học Trái Đất | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1198 | Các nhà khoa học Trái Đất thường làm việc ngoài thực địa như leo núi, khám phá đáy biển, bò qua các hang động hoặc lội trong đầm lầy. Họ đo lường và thu thập các vật mẫu (như các mẫu đá hoặc nước sông), sau đó họ ghi chép lại phát hiện của họ trên các biểu đồ và bản đồ.
Các lĩnh vực nghiên cứu.
Khoa học Trái Đất thường được phân loại thành những lĩnh vực sau đây:
Cấu tạo bên trong Trái Đất.
Kiến tạo mảng, sự tạo núi, núi lửa và động đất là những hiện tượng địa chất có thể được giải thích dưới dạng các quá trình vật lý và hóa học trong lớp vỏ Trái Đất.
Bên dưới lớp vỏ Trái Đất là quyển manti hấp thụ nhiệt năng từ sự phóng xạ của các nguyên tố kim loại nặng. Lớp quyển manti không hoàn toàn rắn chắc và bao gồm các magma ở trạng thái đối lưu bán vĩnh viễn convection. Quá trình đối lưu này làm cho các tấm thạch quyển di chuyển, mặc dù chậm. Kết quả của quá trình này được gọi là kiến tạo mảng.
Kiến tạo mảng có thể được coi là quá trình bề mặt Trái Đất được tái tao lại). Do kết quả của sự mở rộng đáy biển, lớp vỏ và thạch quyển mới được tạo ra bởi dòng chảy magma từ quyển manti đến khu vực gần bề mặt, thông qua các khe nứt, nơi nó nguội đi và đông cứng lại. Thông qua sự/đối hút chìm, lớp vỏ đại dương và thạch quyển quay trở lại quyển manti đối lưu.
Các khu vực của lớp vỏ Trái Đất (nơi lớp vỏ mới được tạo ra) được gọi là " ranh giới phân kỳ ", còn khu vực vỏ bị mất đi hay bị húy chìm vào lòng Trái Đất gọi là "]]ranh giới hội tụ]]" và những nơi mà các mảng trượt qua nhau gọi là ranh giới chuyển dạng, tại ranh giới chuyển dạng này không có vật liệu thạch quyển mới nào được tạo ra hoặc phá hủy Động đất là kết quả của sự di chuyển của các mảng thạch quyển, và chúng thường xảy ra gần các ranh giới hội tụ, nơi các phần của lớp vỏ bị ép vào Trái Đất như một phần của sự hút chìm..
Núi lửa kết quả chủ yếu từ sự tan chảy của vật chất vỏ chìm. Vật chất vỏ bị ép vào thiên thạch tan chảy, và một phần vật chất nóng chảy trở nên đủ nhẹ để nổi lên bề mặt—và sinh ra núi lửa.
Bầu khí quyển của Trái Đất. |
Khoa học Trái Đất | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1198 | Bầu khí quyển của Trái Đất.
Tầng đối lưu, tầng bình lưu, tầng trung lưu, tầng ngoài khí quyển, và tầng ngoài vũ trụ là năm lớp tạo nên bầu khí quyển của Trái Đất. 75% khí trong khí quyển nằm trong tầng đối lưu (lớp nằm gần bề mặt Trái Đất nhất). Nhìn chung, bầu khí quyển được tạo thành từ khoảng 78,0% nitơ, 20,9% oxy, and 0,92% argon. Ngoài nitơ, oxy và argon còn có một lượng nhỏ các loại khí khác bao gồm CO2 và hơi nước. Hơi nước và CO2 cho phép khí quyển Trái Đất bắt và giữ năng lượng của Mặt Trời thông qua một hiện tượng gọi là hiệu ứng nhà kính. Điều này cho phép bề mặt Trái Đất đủ ấm để có nước và hỗ trợ sự sống. Ngoài việc lưu trữ nhiệt, bầu khí quyển còn bảo vệ các sinh vật sống bằng cách che chắn bề mặt Trái Đất khỏi các tia vũ trụ — thường được cho là không chính xác và bị làm chệch hướng bởi từ trường. Trường từ trường — được tạo ra bởi các chuyển động bên trong của lõi, tạo ra từ quyển bảo vệ bầu khí quyển của Trái Đất khỏi gió mặt trời. Vì Trái Đất đã 4,5 tỉ tuổi, nó đáng lẽ đã mất hết bầu khí quyển nếu không có từ trường bảo vệ.
Từ trường Trái Đất.
Nam châm điện là nam châm được tạo ra bởi một dòng điện. Lõi trong của Trái Đất là một khối sắt đặc, được bao quanh bởi lõi ngoài là một dòng chất lỏng đối lưu; Do đó, có thể nói, Trái Đất là một nam châm điện. Chuyển động của sự đối lưu chất lỏng duy trì từ trường của Trái Đất..
Phương pháp luận.
Phương pháp luận khác nhau tùy thuộc vào bản chất của các đối tượng được nghiên cứu. Các nghiên cứu thường rơi vào một trong ba loại: quan sát, thực nghiệm hoặc lý thuyết. Các nhà khoa học Trái Đất thường tiến hành phân tích máy tính tinh vi hoặc ghé thăm một địa điểm thú vị để nghiên cứu các hiện tượng Trái Đất (ví dụ: Nam Cực hoặc chuỗi đảo điểm nóng (địa chất)).
Một lý tưởng nền tảng trong khoa học Trái Đất là khái niệm về chủ nghĩa đồng nhất, khẳng địng rằng " các đặc điểm địa chất cổ đại được giải thích bằng cách hiểu các quá trình hoạt động dễ dàng quan sát." |
Khoa học Trái Đất | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1198 | Nói cách khác, bất kỳ quá trình địa chất nào đang hoạt động hiện nay đều hoạt động những cách tương tự trong suốt thời gian địa chất. Điều này cho phép những người nghiên cứu lịch sử Trái Đất áp dụng kiến thức về cách các quá trình Trái Đất hoạt động trong hiện tại để hiểu rõ hơn về cách hành tinh này tiến hoá và thay đổi qua lịch sử lâu dài.
Các quyển của Trái Đất.
Khoa học Trái Đất thường chia thành bốn phạm vi, thạch quyển, thủy quyển, khí quyển, và sinh quyển; chúng tương ứng với Đá (địa chất), nước, không khí và sự sống. Nó cũng bao gồm một số băng quyển (tương ứng với băng) như là một phần riêng biệt của thủy quyển và tầng sinh quyển (tương ứng với đất) như một khu vực hoạt động tích cực và xen kẽ.
Các quyển Trái Đất.
Băng quyển học.
Tuy nhiên, có một loạt các tác động tương hỗ giữa các lĩnh vực này. Rất nhiều các lĩnh vực hiện đại có cách tiếp cận đa ngành và do đó không phù hợp với sơ đồ này.
Các lĩnh vực đa ngành.
Ngoài ra, các chuyên ngành hiện đại khác được biết chung như là Khoa học hệ thống Trái Đất tiếp cận tới toàn bộ Trái Đất như là một hệ thống theo đúng nghĩa của nó, mà nó tiến hóa như là kết quả của các tác động tích cực và tiêu cực giữa các hệ thống hợp thành:
Giống như các nhà khoa học khác, các nhà khoa học về Trái Đất sử dụng các phương pháp khoa học: cố gắng đưa ra công thức cho các giả thuyết sau khi quan sát và thu thập dữ liệu về các yếu tố tự nhiên và sau đó kiểm tra các giả thuyết này. Trong khoa học về Trái Đất, dữ liệu thông thường đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc kiểm tra và chứng minh các giả thuyết. Việc tiếp cận hệ thống, bằng cách sử dụng tổ hợp của các mô hình máy tính cũng như kiểm tra giả thuyết bởi các dữ liệu vệ tinh hay dữ liệu của các tàu khoa học, đã tăng thêm khả năng để các nhà khoa học có thể giải thích các biến đổi trong quá khứ và trong tương lai có thể xảy ra của hệ thống Trái Đất. |
Việt ngữ (định hướng) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1200 | Việt ngữ có thể đề cập đến: |
PHP | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1214 | PHP: Hypertext Preprocessor, thường được viết tắt thành PHP là một ngôn ngữ lập trình kịch bản hay một loại mã lệnh chủ yếu được dùng để phát triển các ứng dụng viết cho máy chủ, mã nguồn mở, dùng cho mục đích tổng quát. Nó rất thích hợp với web và có thể dễ dàng nhúng vào trang HTML. Do được tối ưu hóa cho các ứng dụng web, tốc độ nhanh, nhỏ gọn, cú pháp giống C và Java, dễ học và thời gian xây dựng sản phẩm tương đối ngắn hơn so với các ngôn ngữ khác nên PHP đã nhanh chóng trở thành một ngôn ngữ lập trình web phổ biến nhất thế giới.
Ngôn ngữ, các thư viện, tài liệu gốc của PHP được xây dựng bởi cộng đồng và có sự đóng góp rất lớn của Zend Inc., công ty do các nhà phát triển cốt lõi của PHP lập nên nhằm tạo ra một môi trường chuyên nghiệp để đưa PHP phát triển ở quy mô doanh nghiệp.
Lịch sử phát triển.
PHP/FI.
PHP được phát triển từ một sản phẩm có tên là PHP/FI. PHP/FI do Rasmus Lerdorf tạo ra năm 1994, ban đầu được xem như là một tập con đơn giản của các mã kịch bản Perl để theo dõi tình hình truy cập đến bản sơ yếu lý lịch của ông trên mạng. Ông đã đặt tên cho bộ mã kịch bản này là 'Personal Home Page Tools'. Khi cần đến các chức năng rộng hơn, Rasmus đã viết ra một bộ thực thi bằng C lớn hơn để có thể truy vấn tới các cơ sở dữ liệu và giúp cho người sử dụng phát triển các ứng dụng web đơn giản. Rasmus đã quyết định công bố mã nguồn của PHP/FI cho mọi người xem, sử dụng cũng như sửa các lỗi có trong nó đồng thời cải tiến mã nguồn.
PHP/FI, viết tắt từ "Personal Home Page/Forms Interpreter", bao gồm một số các chức năng cơ bản cho PHP như ta đã biết đến chúng ngày nay. Nó có các biến kiểu như Perl, thông dịch tự động các biến của form và cú pháp HTML nhúng. Cú pháp này giống như của Perl, mặc dù hạn chế hơn nhiều, đơn giản và có phần thiếu nhất quán.
Vào năm 1997, PHP/FI 2.0, lần viết lại thứ hai của phiên bản C, đã thu hút được hàng ngàn người sử dụng trên toàn thế giới với xấp xỉ 50.000 tên miền đã được ghi nhận là có cài đặt nó, chiếm khoảng 1% số tên miền có trên mạng Internet. Tuy đã có tới hàng nghìn người tham gia đóng góp vào việc tu chỉnh mã nguồn của dự án này thì vào thời đó nó vẫn chủ yếu chỉ là dự án của một người. |
PHP | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1214 | PHP/FI 2.0 được chính thức công bố vào tháng 11 năm 1997, sau một thời gian khá dài chỉ được công bố dưới dạng các bản beta. Nhưng không lâu sau đó, nó đã được thay thế bởi các bản alpha đầu tiên của PHP 3.0.
PHP 3.
PHP 3.0 là phiên bản đầu tiên cho chúng ta thấy một hình ảnh gần gũi với các phiên bản PHP mà chúng ta được biết ngày nay. Nó đã được Andi Gutmans và Zeev Suraski tạo ra năm 1997 sau khi viết lại hoàn toàn bộ mã nguồn trước đó. Lý do chính mà họ đã tạo ra phiên bản này là do họ nhận thấy PHP/FI 2.0 hết sức yếu kém trong việc phát triển các ứng dụng thương mại điện tử mà họ đang xúc tiến trong một dự án của trường đại học. Trong một nỗ lực hợp tác và bắt đầu xây dựng dựa trên cơ sở người dùng đã có của PHP/FI, Andi, Rasmus và Zeev đã quyết định hợp tác và công bố PHP 3.0 như là phiên bản thế hệ kế tiếp của PHP/FI 2.0, và chấm dứt phát triển PHP/FI 2.0.
Một trong những sức mạnh lớn nhất của PHP 3.0 là các tính năng mở rộng mạnh mẽ của nó. Ngoài khả năng cung cấp cho người dùng cuối một cơ sở hạ tầng chặt chẽ dùng cho nhiều cơ sở dữ liệu, giao thức và API khác nhau, các tính năng mở rộng của PHP 3.0 đã thu hút rất nhiều nhà phát triển tham gia và đề xuất các mô đun mở rộng mới. Hoàn toàn có thể kết luận được rằng đây chính là điểm mấu chốt dẫn đến thành công vang dội của PHP 3.0. Các tính năng khác được giới thiệu trong PHP 3.0 gồm có hỗ trợ cú pháp hướng đối tượng và nhiều cú pháp ngôn ngữ nhất quán khác.
Ngôn ngữ hoàn toàn mới đã được công bố dưới một cái tên mới, xóa bỏ mối liên hệ với việc sử dụng vào mục đích cá nhân hạn hẹp mà cái tên PHP/FI 2.0 gợi nhắc. Nó đã được đặt tên ngắn gọn là 'PHP', một kiểu viết tắt hồi quy của "PHP: Hypertext Preprocessor".
Vào cuối năm 1998, PHP đã phát triển được con số cài đặt lên tới hàng chục ngàn người sử dụng và hàng chục ngàn Web site báo cáo là đã cài nó. Vào thời kì đỉnh cao, PHP 3.0 đã được cài đặt cho xấp xỉ 10% số máy chủ Web có trên mạng Internet.
PHP 3.0 đã chính thức được công bố vào tháng 6 năm 1998, sau thời gian 9 tháng được cộng đồng kiểm nghiệm.
PHP 4. |
PHP | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1214 | PHP 4.
Vào mùa đông năm 1998, ngay sau khi PHP 3.0 chính thức được công bố, Andi Gutmans và Zeev Suraski đã bắt đầu bắt tay vào việc viết lại phần lõi của PHP. Mục đích thiết kế là nhằm cải tiến tốc độ xử lý các ứng dụng phức tạp, và cải tiến tính mô đun của cơ sở mã PHP. Những ứng dụng như vậy đã chạy được trên PHP 3.0 dựa trên các tính năng mới và sự hỗ trợ khá nhiều các cơ sở dữ liệu và API của bên thứ ba, nhưng PHP 3.0 đã không được thiết kế để xử lý các ứng dụng phức tạp như thế này một cách có hiệu quả.
Một động cơ mới, có tên 'Zend Engine' (ghép từ các chữ đầu trong tên của Zeev và Andi), đã đáp ứng được các nhu cầu thiết kế này một cách thành công, và lần đầu tiên được giới thiệu vào giữa năm 1999. PHP 4.0, dựa trên động cơ này, và đi kèm với hàng loạt các tính năng mới bổ sung, đã chính thức được công bố vào tháng 5 năm 2000, gần 2 năm sau khi bản PHP 3.0 ra đời. Ngoài tốc độ xử lý được cải thiện rất nhiều, PHP 4.0 đem đến các tính năng chủ yếu khác gồm có sự hỗ trợ nhiều máy chủ Web hơn, hỗ trợ phiên làm việc HTTP, tạo bộ đệm thông tin đầu ra, nhiều cách xử lý thông tin người sử dụng nhập vào bảo mật hơn và cung cấp một vài các cấu trúc ngôn ngữ mới.
Với PHP 4, số nhà phát triển dùng PHP đã lên đến hàng trăm nghìn và hàng triệu site đã công bố cài đặt PHP, chiếm khoảng 20% số tên miền trên mạng Internet.
Nhóm phát triển PHP cũng đã lên tới con số hàng nghìn người và nhiều nghìn người khác tham gia vào các dự án có liên quan đến PHP như PEAR, PECL và tài liệu kĩ thuật cho PHP.
PHP 5.
Sự thành công hết sức to lớn của PHP 4.0 đã không làm cho nhóm phát triển PHP tự mãn. Cộng đồng PHP đã nhanh chóng giúp họ nhận ra những yếu kém của PHP 4 đặc biệt với khả năng hỗ trợ lập trình hướng đối tượng (OOP), xử lý XML, không hỗ trợ giao thức máy khách mới của MySQL 4.1 và 5.0, hỗ trợ dịch vụ web yếu. Những điểm này chính là mục đích để Zeev và Andi viết Zend Engine 2.0, lõi của PHP 5.0. Một thảo luận trên Slashdot đã cho thấy việc phát triển PHP 5.0 có thể đã bắt đầu vào thời điểm tháng 12 năm 2002 nhưng những bài phỏng vấn Zeev liên quan đến phiên bản này thì đã có mặt trên mạng Internet vào khoảng tháng 7 năm 2002. |
PHP | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1214 | Ngày 29 tháng 6 năm 2003, PHP 5 Beta 1 đã chính thức được công bố để cộng đồng kiểm nghiệm. Đó cũng là phiên bản đầu tiên của Zend Engine 2.0. Phiên bản Beta 2 sau đó đã ra mắt vào tháng 10 năm 2003 với sự xuất hiện của hai tính năng rất được chờ đợi: Iterators, Reflection nhưng namespaces một tính năng gây tranh cãi khác đã bị loại khỏi mã nguồn. Ngày 21 tháng 12 năm 2003: PHP 5 Beta 3 đã được công bố để kiểm tra với việc phân phối kèm với Tidy, bỏ hỗ trợ Windows 95, khả năng gọi các hàm PHP bên trong XSLT, sửa chữa nhiều lỗi và thêm khá nhiều hàm mới. PHP năm bản chính thức đã ra mắt ngày 13 tháng 7 năm 2004 sau một chuỗi khá dài các bản kiểm tra thử bao gồm Beta 4, RC 1, RC2, RC3. Mặc dù coi đây là phiên bản sản xuất đầu tiên nhưng PHP 5.0 vẫn còn một số lỗi trong đó đáng kể là lỗi xác thực HTTP.
Ngày 14 tháng 7 năm 2005, PHP 5.1 Beta 3 được PHP Team công bố đánh dấu sự chín muồi mới của PHP với sự có mặt của PDO, một nỗ lực trong việc tạo ra một hệ thống API nhất quán trong việc truy cập cơ sở dữ liệu và thực hiện các câu truy vấn. Ngoài ra, trong PHP 5.1, các nhà phát triển PHP tiếp tục có những cải tiến trong nhân Zend Engine 2, nâng cấp mô đun PCRE lên bản PCRE 5.0 cùng những tính năng và cải tiến mới trong SOAP, streams và SPL.
PHP 6.
Phiên bản PHP 6 được kỳ vọng sẽ lấp đầy những khiếm khuyết của PHP ở phiên bản hiện tại, ví dụ: hỗ trợ namespace; hỗ trợ Unicode; sử dụng PDO làm API chuẩn cho việc truy cập cơ sở dữ liệu, các API cũ sẽ bị đưa ra thành thư viện PECL... Phiên bản 6 này chỉ dùng ở việc nghiên cứu và thử nghiệm. Sau này PHP bỏ hẳn phiên bản 6 và lên 7.
PHP 7.
Với việc sử dụng bộ nhân Zend Engine mới PHPNG cho tốc độ nhanh gấp 2 lần. Ngoài ra ở phiên bản này còn thêm vào rất nhiều cú pháp, tính năng mới giúp cho PHP trở nên mạnh mẽ hơn. Những tính năng mới quan trọng có thể kể đến như:
Cú pháp.
PHP chỉ phân tích các đoạn mã nằm trong những dấu giới hạn của nó. Bất cứ mã nào nằm ngoài những dấu giới hạn đều được xuất ra trực tiếp không thông qua xử lý bởi PHP. Các dấu giới hạn thường dùng nhất là codice_1 và codice_2, tương ứng với dấu giới hạn mở và đóng. |
PHP | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1214 | Các dấu giới hạn codice_3 và codice_4 cũng đôi khi được sử dụng. Cách viết dấu giới hạn dạng thẻ ngắn cũng có thể được dùng để thông báo bắt đầu đoạn mã PHP, là codice_5 hay codice_6 (dấu này được sử dụng để in ra (echo) các xâu ký tự hay biến) với thẻ thông báo kết thúc đoạn mã PHP là codice_2. Những thẻ này thường xuyên được sử dụng, tuy nhiên giống với những thẻ kiểu ASP (codice_8 hay codice_9 và codice_10), chúng không có tính di động cao bởi có thể bị vô hiệu khi cấu hình PHP. Bởi vậy, việc dùng các thẻ dạng ngăn hay các thẻ kiểu ASP không được khuyến khích. Mục đích của những dấu giới hạn này là ngăn cách mã PHP với những đoạn mã thuộc ngôn ngữ khác, gồm cả HTML. Mọi đoạn mã bên ngoài các dấu này đều bị hệ thống phân tích bỏ qua và được xuất ra một cách trực tiếp.
Các biến được xác định bằng cách thêm vào trước một dấu đô la ("$") và không cần xác định trước kiểu dữ liệu. Không giống với tên hàm và lớp, tên biến là trường hợp nhạy cảm. Cả dấu ngoặc kép (codice_11) và ký hiệu đánh dấu văn bản (codice_12) đều có thể dùng để truyền xâu và giá trị biến. PHP coi xuống dòng như một khoảng trắng theo kiểu như một ngôn ngữ dạng tự do ("free-form language") (trừ khi nó nằm trong trích dẫn xâu), và các phát biểu được kết thúc bởi một dấu chấm phẩy. PHP có ba kiểu cú pháp chú thích: codice_13 cho phép một đoạn chú thích tùy ý, trong khi đó codice_14 và codice_15 cho phép chú thích trong phạm vi một dòng. Phát biểu echo là một trong những lệnh của PHP cho phép xuất văn bản (vd. ra một trình duyệt web).
Về cú pháp các từ khóa và ngôn ngữ, PHP tương tự hầu hết các ngôn ngữ lập trình bậc cao có cú pháp kiểu C. Các phát biểu điều kiện codice_16 ("Nếu"), vòng lặp codice_17 và codice_18, các hàm trả về đều tương tự cú pháp của các ngôn ngữ như C, C++, Java và Perl.
Kiểu dữ liệu.
Kiểu dữ liệu nguyên thủy.
Kiểu số nguyên(int), chuỗi ký tự(string),kiểu số thực(float, double)...
Kiểu dữ liệu có cấu trúc.
Kiểu class. |
Wiki | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1217 | Wiki (phát âm: ; từ tiếng Hawaii: "wikiwiki", có nghĩa: "nhanh"; cũng được gọi là công trình mở) là một loại ứng dụng xây dựng và quản lý các trang thông tin do nhiều người cùng phát triển. Đặc điểm nổi bật của wiki là thông tin không được xây dựng một cách tập trung theo nguyên tắc "phân quyền" như thường thấy ở các ứng dụng CMS hay forum mà theo nguyên tắc "phân tán": ai cũng có thể chỉnh sửa, thêm mới, bổ sung thông tin lên các trang tin và không ghi lại dấu ấn là ai đã cung cấp thông tin đó. Tác giả của wiki theo triết lý của những người đã xây dựng phần mềm wiki là: tác giả của thông tin này là chúng ta. Những trang tin như vậy được xây dựng và bổ sung dựa trên động lực của cộng đồng.
Wiki là một website có tính chất riêng tư cho một nhóm hoặc tổ chức, cộng đồng. Không giống như một website truyền thống chỉ phục vụ cho mục đích đọc, xem thông tin, wiki cho phép người dùng nó có thể soạn thảo, sửa đổi, cập nhật thông tin trực tiếp lên web theo kiểu đóng góp thông tin. Điểm đáng chú ý của wiki là người dùng không nhất thiết phải biết về Web, HTML.
Wikipedia, một dự án để xây dựng bách khoa toàn thư mở, có lẽ là wiki nổi tiếng nhất trên thế giới, nhưng cũng có thể sử dụng hình thức wiki theo nhiều mục đích khác.
Lịch sử.
Phần mềm đầu tiên được gọi là wiki, WikiWikiWeb do Ward Cunningham đặt tên. Cunningham nhớ một nhân viên tại Sân bay quốc tế Honolulu chỉ ông sử dụng tuyến xe buýt Chance RT-52 gọi là "Wiki Wiki". Theo Cunningham, "Tôi chọn wiki-wiki là cụm từ điệp âm thay thế cho 'quick' để tránh vụ đặt tên cái này là 'quick-web'." "Wiki Wiki" là từ láy của "wiki", từ tiếng Hawaii có nghĩa "nhanh". Từ "wiki" gọi tắt cho wiki wiki. Đôi khi từ này được giải thích là từ cấu tạo ngược ("backronym") của "cái mà tôi biết là như thế" ("what I know is"), cách giải thích đó miêu tả các chức năng đóng góp, lưu giữ và trao đổi kiến thức.
Theo Cunningham, ý kiến "wiki" bắt nguồn từ một ngăn xếp ông tạo ra trong HyperCard vào cuối thập niên 1980. Vào khoảng mười năm sau, công nghệ wiki từ từ được công nhận là một cách đầy hứa hẹn để quản lý tri thức bí mật và công khai và khả năng này dẫn đến dự án bách khoa thư Nupedia, về sau trở thành Wikipedia. Vào đầu thập niên 2000, công nghệ wiki được nhận vào hãng trong vai phần mềm cộng tác. |
Wiki | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1217 | Nó thường được sử dụng để hỗ trợ giao thông trong dự án, xây dựng intranet, và viết tài liệu, mới đầu cho những người quen sử dụng máy tính. Vào tháng 12 năm 2002, Socialtext khởi đầu sản phẩm wiki nguồn mở thương mại. Phần mềm wiki nguồn mở có sẵn rộng rãi, được tải xuống và cài đặt nhiều vào những năm này. Ngày nay một số công ty sử dụng wiki như phần mềm cộng tác duy nhất và để thay cho intranet khó thay đổi. Phần mềm wiki có thể được sử dụng nhiều hơn ở những công ty, đằng sau bức tường lửa, đối với Internet công cộng.
Các tính năng của một Wiki.
Chỉnh sửa.
""Wikitext" chuyển hướng đến đây. Đối với trang trợ giúp Wikipedia, xem Trợ giúp:Wikitext ."
Chỉnh sửa trực quan (Visual Editor).
Wiki cũng có thể cung cấp khả năng chỉnh sửa WYSIWYG cho người dùng, thường là thông qua một điều khiển JavaScript dịch các hướng dẫn định dạng được nhập bằng đồ họa thành các thẻ HTML hoặc wikitext tương ứng. Trong các triển khai đó, đánh dấu của một phiên bản đánh dấu, mới được chỉnh sửa của trang được tạo và gửi tới máy chủ một cách minh bạch , bảo vệ người dùng khỏi chi tiết kỹ thuật này. Một ví dụ về điều này là VisualEditor trên Wikipedia. Tuy nhiên, các điều khiển WYSIWYG không phải lúc nào cũng cung cấp tất cả các tính năng có sẵn trong wiki và một số người dùng không muốn sử dụng trình soạn thảo WYSIWYG. Do đó, nhiều trang trong số này cung cấp một số phương tiện để chỉnh sửa trực tiếp văn bản wiki.
Lịch sử phiên bản.
Một số wiki lưu giữ hồ sơ về những thay đổi được thực hiện đối với các trang wiki; thông thường, mọi phiên bản của trang đều được lưu trữ. Điều này có nghĩa là các tác giả có thể hoàn nguyên về phiên bản cũ hơn của trang nếu cần thiết do đã mắc lỗi, chẳng hạn như nội dung vô tình bị xóa hoặc trang đã bị phá hoại để bao gồm văn bản gây khó chịu hoặc độc hại hoặc nội dung không phù hợp khác.
Điều Hướng.
Trong văn bản của hầu hết các trang, thường có nhiều liên kết siêu văn bản tới các trang khác trong wiki. Hình thức điều hướng phi tuyến tính này "gốc" đối với wiki hơn là các sơ đồ điều hướng có cấu trúc/chính thức hóa. |
Wiki | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1217 | Người dùng cũng có thể tạo bất kỳ số lượng trang chỉ mục hoặc mục lục nào, với phân loại theo thứ bậc hoặc bất kỳ hình thức tổ chức nào họ muốn. Đây có thể là một thách thức để duy trì "bằng tay", vì nhiều tác giả và người dùng có thể tạo và xóa các trang theo cách đặc biệt , không có tổ chức. Wiki có thể cung cấp một hoặc nhiều cách để phân loại hoặc gắn thẻ các trang để hỗ trợ duy trì các trang chỉ mục đó. Một số wiki, bao gồm cả bản gốc, có một liên kết ngược tính năng, hiển thị tất cả các trang liên kết đến một trang nhất định. Thông thường, trong wiki cũng có thể tạo liên kết đến các trang chưa tồn tại, như một cách để mời những người khác chia sẻ những gì họ biết về một chủ đề mới đối với wiki. Người dùng wiki thường có thể "gắn thẻ" các trang bằng danh mục hoặc từ khóa để giúp người dùng khác tìm thấy bài viết dễ dàng hơn. Ví dụ: một người dùng tạo một bài viết mới về đạp xe trong thời tiết lạnh có thể "gắn thẻ" trang này dưới các danh mục đi lại, thể thao mùa đông và đi xe đạp. Điều này sẽ giúp những người dùng khác tìm thấy bài viết dễ dàng hơn.
Tạo một website Wiki.
Một website tương tự Wikipedia có thể được tạo bởi mã nguồn mở MediaWiki. Mã nguồn mở MediaWiki được viết bằng ngôn ngữ lập trình PHP và được dùng phổ biến bởi các website viết theo hình thức Wiki như các website của Wikimedia, website wiki du lịch Wikitravel, website wiki thương mại Wikibiz...
Để sử dụng MediaWiki, có thể truy cập vào website MediaWiki, sau đó download và cài đặt theo phiên bản ngôn ngữ phù hợp. Các bước hướng dẫn cài đặt rất đơn giản và trực quan. |
Tiêu chuẩn quốc gia (Việt Nam) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1218 | TCVN là viết tắt của cụm từ Tiêu chuẩn Việt Nam, dùng làm ký hiệu tiền tố cho các bộ tiêu chuẩn quốc gia của Việt Nam.
Các TCVN do Viện Tiêu chuẩn Chất lượng Việt Nam (thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng) và các bộ, ngành tổ chức xây dựng, Bộ Khoa học và Công nghệ công bố.
Hiện nay đã có hàng nghìn TCVN bao gồm tiêu chuẩn cơ bản, tiêu chuẩn thuật ngữ, tiêu chuẩn yêu cầu kỹ thuật, tiêu chuẩn phương pháp thử và lấy mẫu, tiêu chuẩn ghi nhãn, bao gói, vận chuyển và bảo quản; thuộc các lĩnh vực như cơ khí, luyện kim, giao thông vận tải, xây dựng, hóa chất, dầu khí, khoáng sản, nông nghiệp, thực phẩm, hàng tiêu dùng, môi trường, an toàn, điện, điện tử, công nghệ thông tin...
Các tiêu chuẩn có ảnh hưởng khá rộng rãi là: TCVN 5712 định nghĩa chuẩn cho bộ mã ABC với cách nhập liệu Telex; TCVN 6909 định nghĩa chuẩn mã hóa tiếng Việt như là một tập con của bộ mã Unicode 3.1; TCVN ISO 9001 (tương đương với ISO 9001) về các yêu cầu đối với hệ thống quản lý chất lượng.
Ký hiệu tiêu chuẩn quốc gia.
Ký hiệu tiêu chuẩn quốc gia bao gồm số hiệu, năm công bố tiêu chuẩn đứng sau cụm từ viết tắt TCVN và được phân cách bằng dấu hai chấm (:). Ví dụ: TCVN 4980:2006 là ký hiệu của tiêu chuẩn quốc gia có số hiệu là 4980, được công bố năm 2006.
Trường hợp tiêu chuẩn quốc gia hoàn toàn tương đương với tiêu chuẩn quốc tế, ký hiệu tiêu chuẩn gồm ký hiệu tiêu chuẩn quốc gia và ký hiệu của tiêu chuẩn quốc tế để trong ngoặc đơn, cách nhau khoảng trống một ký tự. Ví dụ: TCVN 111:2006 (ISO 15:1998).
Hoặc có thể thể hiện như sau:
là ký hiệu của tiêu chuẩn quốc gia có số hiệu là 111 được xây dựng trên cơ sở chấp nhận hoàn toàn tiêu chuẩn quốc tế ISO 15:1998 và được công bố năm 2006. |
Tiêu chuẩn quốc gia (Việt Nam) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1218 | Trường hợp đặc biệt, khi tiêu chuẩn quốc gia được xây dựng trên cơ sở chấp nhận hoàn toàn tiêu chuẩn quốc tế của Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO) về hệ thống quản lý (ISO 9000, ISO 14000, ISO 18000 và các tiêu chuẩn về hệ thống quản lý khác), ký hiệu tiêu chuẩn quốc gia bao gồm ký hiệu TCVN đứng trước, ký hiệu ISO đứng sau một ký tự, sau đó là số hiệu tiêu chuẩn ISO được chấp nhận và năm ban hành tiêu chuẩn quốc gia được phân cách bằng dấu hai chấm (:).
Ví dụ: ký hiệu TCVN ISO 14001:2006 là ký hiệu tiêu chuẩn quốc gia được xây dựng trên cơ sở chấp nhận hoàn toàn tiêu chuẩn quốc tế ISO 14001 về hệ thống quản lý môi trường và được công bố vào năm 2006.
Ký hiệu tiêu chuẩn quốc gia thay thế bao gồm số hiệu của tiêu chuẩn quốc gia được thay thế, năm công bố tiêu chuẩn quốc gia thay thế được phân cách bằng dấu hai chấm (:) và được đặt sau ký hiệu TCVN.
Ví dụ: TCVN công bố năm 2006 để thay thế TCVN 289:2000 được ký hiện là TCVN 289:2006.
Ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia.
Phần lớn các tiêu chuẩn quốc gia của Việt Nam hiện nay được xây dựng theo hình thức sử dụng các ban kỹ thuật.
Ban kỹ thuật tiêu chuẩn là tổ chức tư vấn kỹ thuật về hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn cụ thể.
Tiểu ban kỹ thuật tiêu chuẩn là tổ chức trực thuộc ban kỹ thuật tương ứng để triển khai hoạt động trong chuyên ngành hẹp thuộc lĩnh vực tiêu chuẩn của ban kỹ thuật.
Ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia của Việt Nam do Bộ Khoa học và Công nghệ thành lập.
Thành viên ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia bao gồm đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức khoa học và công nghệ, hội, hiệp hội, doanh nghiệp, các tổ chức khác có liên quan, người tiêu dùng và các chuyên gia. |
Java (công nghệ) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1219 | Java là một nền tảng phát triển các ứng dụng phần mềm có vị trí rất lớn trong những năm cuối thế kỉ 20, đầu thế kỉ 21. Đánh dấu sự trưởng thành của mô hình lập trình hướng đối tượng, nó được coi là một nền tảng mang tính cách mạng trong ngành phần mềm. Mô hình máy ảo Virtual Machine đã cho phép các ứng dụng viết bằng Java có thể chạy trên nhiều hệ điều hành khác nhau.
Lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1992 như là một ngôn ngữ dùng trong nội bộ tập đoàn Sun Microsystems để xây dựng ứng dụng điều khiển các bộ xử lý bên trong máy điện thoại cầm tay, lò vi sóng, các thiết bị điện tử dân dụng khác. Không chỉ là một ngôn ngữ, Java còn là một nền tảng phát triển và triển khai ứng dụng trong đó máy ảo Java, bộ thông dịch có vai trò trung tâm.
Sun, công ty đã phát minh ra ngôn ngữ Java, chính thức ban hành bản Java Development Kit 1.0 vào năm 1996 hoàn toàn miễn phí để các nhà phát triển có thể tải về, học Java, xây dựng các ứng dụng Java và triển khai chúng trên các hệ điều hành có hỗ trợ Java. Ban đầu, Java chủ yếu dùng để phát triển các applet, các ứng dụng nhúng vào trình duyệt, góp phần làm sinh động các trang web tĩnh vốn hết sức tẻ nhạt hồi đó. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin và nhu cầu của xã hội, Java applet đã dần mất đi vị trí của nó và thay vào đó, các công ty, cộng đồng ủng hộ Java đã phát triển nó theo một hướng khác. Hiện nay, công nghệ Java được chia làm ba bộ phận:
Java đã trải qua 3 bước phát triển quan trọng: Java 1.0 gắn liền với bản JDK đầu tiên, Java 2 gắn với JDK 1.2 và Java 5 gắn với J2SDK 1.5
Ngày nay, khi nhắc đến Java người ta không còn chỉ nhắc đến Java như là một ngôn ngữ mà nhắc đến Java như là một công nghệ hay một nền tảng phát triển. Nó bao gồm các bộ phận: |
Tòa án Công lý Quốc tế | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1220 | Tòa án Quốc tế là cơ quan tư pháp chính của Liên Hợp Quốc. Tòa án Quốc tế có nhiệm vụ xét xử các vụ kiện giữa các nước và tư vấn pháp lý về các vấn đề luật quốc tế. Tòa án Quốc tế là cơ quan tư pháp quốc tế duy nhất xét xử cho các nước. Quyết định và kết luận pháp lý của Tòa án Quốc tế là một phần của luật quốc tế.
Tòa án Quốc tế được thành lập trên cơ sở kế thừa Tòa án Thường trực Quốc tế của Hội Quốc Liên: Quy chế Tòa án Quốc tế vay mượn nội dung của Quy chế Tòa án Thường trực Quốc tế, tất cả các quyết định của Tòa án Thường trực Quốc tế vẫn còn có hiệu lực. Tất cả các nước thành viên của Liên Hợp Quốc đều là thành viên của Quy chế Tòa án Quốc tế. Một nước thành viên bất kỳ của Liên Hợp Quốc có thể khởi kiện tại Tòa án Quốc tế. Một cơ quan bất kỳ của Liên Hợp Quốc có thể yêu cầu Tòa án Quốc tế ra ý kiến tư vấn về một vấn đề pháp luật bất kỳ.
Tòa án Quốc tế gồm 15 thẩm phán do Đại hội đồng và Hội đồng Bảo an bầu ra. Nhiệm kỳ của một thẩm phán là chín năm, cứ ba năm bầu lại năm thẩm phán. Không được có hai thẩm phán có quốc tịch của cùng một nước. Phải có đại diện của tất cả các hệ thống pháp luật trên thế giới. Tòa án Quốc tế là cơ quan duy nhất của Liên Hợp Quốc không đặt trụ sở ở Thành phố New York mà ở Den Haag tại Cung Hòa bình. Ngôn ngữ chính thức của Tòa án Quốc tế là tiếng Anh và tiếng Pháp.
Tòa án Quốc tế đã xét xử 181 vụ kiện từ khi được thành lập tới tháng 9 năm 2021.
Lịch sử.
Công ước Den Haag năm 1899 thành lập Tòa án Thường trực Trọng tài làm cơ quan tư pháp quốc tế đầu tiên trên thế giới. Trụ sở của Tòa án đặt ở Den Haag, Hà Lan. Các trọng tài đều do những nước đương sự chọn trong danh sách do các nước thành viên của công ước lập. Tòa án có một ban thư ký giúp việc. Tòa án Thường trực Trọng tài bắt đầu thụ lý vụ kiện vào năm 1902.
Công ước Den Haag năm 1907 sửa lại thủ tục trọng tài của Tòa án Thường trực Trọng tài. |
Tòa án Công lý Quốc tế | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1220 | Tại hội nghị, Hoa Kỳ, Anh và Đức cùng đề nghị thành lập một tòa án quốc tế mới có các thẩm phán có nhiệm kỳ cố định, nhưng các bên không nhất trí về cách chọn thẩm phán mà gác đề nghị lại để bàn ở hội nghị sau.
Năm 1908, Tòa án Trung Mỹ được thành lập, vay mượn ý tưởng của hai công ước Den Haag. Từ năm 1911 tới năm 1919 có những đề nghị thành lập một cơ quan tư pháp quốc tế mà phải tới sau Chiến tranh thế giới thứ nhất mới được thực hiện.
Tòa án Thường trực Quốc tế.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Khối Đồng Minh thành lập Hội Quốc Liên để giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế. Hiến chương của Hội Quốc Liên quy định thành lập một Tòa án Thường trực Quốc tế có thẩm quyền xét xử các vụ tranh chấp giữa các nước và đưa ra ý kiến tư vấn về một vụ tranh chấp hay vấn đề bất kỳ theo yêu cầu của Hội Quốc Liên.
Tháng 12 năm 1920, Đại hội đồng Hội Quốc Liên nhất trí thông qua Quy chế Tòa án Thường trực Quốc tế, được đa số nước thành viên phê chuẩn vào năm sau. Quy chế quy định các thẩm phán do Đại hội đồng và Hội chính vụ bầu riêng. Thành phần của TATTQT phải có đại diện của "các nền văn minh và hệ thống pháp luật chính trên thế giới". Trụ sở của TATTQT cũng đặt ở Cung Hòa bình.
Tòa án Thường trực Quốc tế có những điểm đổi mới:
Tòa án Thường trực Quốc tế không phải là cơ quan của Hội Quốc Liên, nên một nước thành viên Hội Quốc Liên không đương nhiên là thành viên của Quy chế. Ví dụ: Hoa Kỳ không phải là thành viên, tuy đã tích cực thuyết phục thành lập TATTQT. Tuy nhiên, thành phần của TATTQT có nhiều thẩm phán người Mỹ.
Tòa án Quốc tế.
Sau năm 1933, Tòa án Thường trực Quốc tế không còn hoạt động tích cực do tình hình căng thẳng trên trường quốc tế và chính sách biệt lập của các nước. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, TATTQT họp lần cuối cùng vào tháng 12 năm 1939, lệnh cuối cùng của TTATTQT là vào tháng 2 năm 1940. Năm 1942, Hoa Kỳ và Anh cùng tuyên bố ủng hộ thành lập hoặc khôi phục một tòa án quốc tế. Năm 1943, một nhóm nhà luật học trên khắp thế giới họp ở Anh để thảo luận vấn đề. |
Tòa án Công lý Quốc tế | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1220 | Năm 1944, nhóm ra bản báo cáo khuyến nghị rằng:
Ở Hội nghị Moskva vào năm 1943, bốn nước Đồng Minh chính là Anh, Hoa Kỳ, Trung Hoa Dân quốc và Liên Xô ra bản tuyên bố chung thừa nhận cần phải thành lập một tổ chức quốc tế để giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế, tức Liên Hợp Quốc sau này.
Ở Hội nghị Dumbarton Oaks vào năm 1944, bốn nước Đồng Minh chính cùng những nước khác chính thức đề nghị thành lập một tổ chức liên chính phủ có một tòa án quốc tế. Tháng 4 năm 1945, 44 nhà luật học trên khắp thế giới họp ở Washington, D.C. để soạn quy chế của Tòa án Quốc tế trên cơ sở quy chế của TATTQT. Ở Hội nghị San Francisco, 50 nước thuộc khối Đồng Minh đồng ý thành lập Liên Hợp Quốc có Tòa án Quốc tế là một cơ quan chính.
Tháng 10 năm 1945, Tòa án Thường trực Quốc tế giao lại hồ sơ cho Tòa án Quốc tế. Tất cả các thẩm phán đồng loạt từ chức vào ngày 31 tháng 1 năm 1946. Tháng 4 năm 1946, TATTQT chính thức bị giải thể. Vốn là chủ tịch TATTQT, José Gustavo Guerrero được bầu làm chủ tịch đầu tiên của Tòa án Quốc tế.
Tòa án Quốc tế thụ lý vụ tranh chấp đầu tiên vào tháng 5 năm 1947 giữa Anh và Albania.
Công tác.
Tòa án Quốc tế được Hiến chương Liên Hợp Quốc thành lập vào năm 1945 trên cơ sở kế thừa Tòa án Thường trực Quốc tế. Quy chế Tòa án Quốc tế quy định tổ chức, quyền hạn và thủ tục.
Thành phần.
Tòa án Quốc tế gồm 15 thẩm phán do Đại hội đồng và Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc bầu ra trong danh sách do Tòa án Thường trực Trọng tài đưa ra. Quy chế Tòa án Quốc tế quy định thủ tục bầu các thẩm phán. Nhiệm kỳ của thẩm phán là chín năm, cứ ba năm bầu lại năm thẩm phán. Trường hợp thẩm phán qua đời thì thường sẽ bầu bổ khuyết thẩm phán mới.
Không được có hai thẩm phán có cùng một quốc tịch. Điều 9 của Quy chế Tòa án Quốc tế quy định thành phần TAQT phải có "đại diện của các hình thái văn hóa chủ yếu nhất và các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới", tức thông luật, dân luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa. |
Tòa án Công lý Quốc tế | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1220 | Có sự thỏa thuận ngầm rằng thành phần của Tòa án Quốc tế sẽ được chia theo các nhóm khu vực: các nước phương Tây có năm thẩm phán, châu Phi có ba thẩm phán (gồm một thẩm phán đại diện cho dân luật Pháp, một thẩm phán đại diện cho thông luật Anh và một thẩm phán đại diện cho Ả Rập), Đông Âu có hai thẩm phán, châu Á có hai thẩm phán, Mỹ Latinh và vùng Caribe có hai thẩm phán. Năm nước thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an gần như luôn có thẩm phán trong TAQT. Ngoại lệ là Trung Quốc không tiến cử thẩm phán từ năm 1967 tới năm 1985 và Anh rút ứng viên thẩm phán vào năm 2017 do không được Đại hội đồng chấp nhận.
Điều 2 của Quy chế Tòa án Quốc tế quy định các thẩm phán được bầu "không căn cứ quốc tịch, trong số những người có phẩm chất đạo đức tốt", có đủ tư cách ở nước họ để giữ chức vụ xét xử cao nhất hoặc là những nhà luật học có uy tín lớn về luật quốc tế. Thẩm phán không được kiêm chức vụ chính trị, hành chính hoặc nghề nghiệp. Thẩm phán không được tham gia xét xử nếu từng làm luật sư cho một trong các bên. Miễn nhiệm một thẩm phán phải được tất cả các thẩm phán khác tán thành.
Thẩm phán đặc phái.
Điều 31 của Quy chế Tòa án Quốc tế cho phép các bên tranh chấp cử thêm một thẩm phán để tham gia xét xử. Mục đích của quy định này là khuyến khích các nước thừa nhận thẩm quyền của TAQT bởi vì nước đó có thể cử một người có cùng quan điểm tham gia nghị án. Tuy trái với chức năng tư pháp của TAQT, chế độ thẩm phán đặc phái hiếm khi ảnh hưởng quyết định của TAQT do thẩm phán đặc biệt của các bên thường biểu quyết ngược nhau.
Ban xét xử.
Thành phần xét xử của Tòa án Quốc tế thường gồm tất cả 15 thẩm phán. TAQT có quyền thành lập những ban xét xử gồm ít nhất ba thẩm phán. Có hai loại ban xét xử: ban chuyên trách và ban chuyên án. Ban chuyên trách xét xử các vụ tranh chấp thuộc một phạm vi nhất định như lao động, quá cảnh và liên lạc. Ban chuyên án xét xử các vụ tranh chấp đặc biệt.
Thành phần hiện tại.
Tính tới ngày 6 tháng 11 năm 2021, thành phần của Tòa án Quốc tế gồm:<ref name="GA/12285"></ref>
Thẩm quyền. |
Tòa án Công lý Quốc tế | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1220 | Tất cả 193 nước thành viên Liên Hợp Quốc đương nhiên đều tham gia Quy chế Tòa án Quốc tế. Những nước không phải là thành viên Liên Hợp Quốc có thể tham gia Quy chế TAQT trong trường hợp đặc biệt. Tuy nhiên, tham gia Quy chế TAQT không phải là thừa nhận thẩm quyền của TAQT. Quyền hạn của TAQT gồm xét xử tranh chấp, biện pháp tạm thời và ý kiến tư vấn.
Xét xử tranh chấp.
Trong các vụ tranh chấp, quyết định của Tòa án Quốc tế có hiệu lực đối với các bên ở trong vụ tranh chấp. Chỉ pháp nhân nhà nước được tham gia tranh chấp, nhưng nhà nước được thay mặt công dân hoặc tổ chức của nước mình mà nộp đơn tranh chấp.
Nguyên tắc trọng yếu là Tòa án Quốc tế chỉ được xét xử nếu các bên đã thừa nhận thẩm quyền của TAQT. Theo điều 36 của Quy chế TAQT, TAQT có thẩm quyền trong bốn trường hợp:
Biện pháp tạm thời.
Cho đến khi có quyết định cuối cùng, Tòa án Quốc tế có quyền ra các biện pháp tạm thời để bảo đảm quyền lợi của các bên theo điều 41 của Quy chế TAQT.
Ý kiến tư vấn.
Tòa án Quốc tế có quyền ra những ý kiến tư vấn theo yêu cầu của những cơ quan Liên Hợp Quốc được Hiến chương LHQ cho phép. Đại hội đồng và Hội đồng Bảo an có quyền yêu cầu TAQT ra ý kiến tư vấn về một vấn đề pháp luật bất kỳ. Những cơ quan khác cần phải có Đại hội đồng cho phép, thường chỉ yêu cầu ý kiến tư vấn về những vấn đề thuộc phạm vi công tác của mình.
Quan hệ với Hội đồng Bảo an.
Một nước thành viên LHQ phải tuân theo quyết định của Tòa án Quốc tế trong mọi vụ tranh chấp mà nước ấy là đương sự. Trường hợp nước ấy không chịu tuân thủ thì Hội đồng Bảo an có quyền cưỡng chế chấp hành. Tuy nhiên, nếu nước đương sự là nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an thì nghị quyết cưỡng chế chấp hành có thể bị phủ quyết. Ví dụ: Hoa Kỳ phủ quyết nghị quyết Hội đồng Bảo an yêu cầu Hoa Kỳ ngừng vi phạm chủ quyền của Nicaragua căn cứ quyết định của TAQT.
Những điều luật quốc tế được áp dụng. |
Tòa án Công lý Quốc tế | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1220 | Những điều luật quốc tế được áp dụng.
Tòa án Quốc tế áp dụng các điều ước quốc tế, tập quán quốc tế và nguyên tắc pháp luật chung trong việc xét xử các vụ tranh chấp. Ngoài ra, TAQT được dùng các án lệ và học thuyết của các nhà luật học có chuyên môn cao nhất về luật quốc tế làm tư liệu phụ giúp xác định quy phạm pháp luật. Quyết định của TAQT không phải là án lệ, nhưng TAQT thường dẫn những quyết định của mình.
Trường hợp các bên đương sự đồng ý thì TAQT được xét xử cho công bằng cho các bên mà không cần phải dẫn pháp luật.
Thủ tục.
Tòa án Quốc tế tự ban hành thủ tục.
Nguyên đơn nộp đơn khởi kiện, ghi rõ cơ sở thẩm quyền của TAQT và lý do yêu cầu của mình là có căn cứ. Bị đơn có thể thừa nhận thẩm quyền của TAQT và nộp đơn riêng.
Yêu cầu bác đơn sơ bộ.
Trường hợp bị đơn thấy Tòa án Quốc tế thiếu thẩm quyền thì bị đơn có quyền yêu cầu TAQT bác đơn khởi kiện. Yêu cầu của bị đơn đưa ra các lý do TAQT không nên thụ lý vụ tranh chấp. Ví dụ: vấn đề đưa ra TAQT không phải là vấn đề tư pháp, bị đơn chưa thừa nhận thẩm quyền của TAQT. TAQT xem xét yêu cầu bác đơn khởi kiện của bị đơn và ra quyết định trước khi xem xét đơn khởi kiện của nguyên đơn.
Nếu TAQT thụ lý vụ tranh chấp thì các bên có quyền yêu cầu TAQT ra các biện pháp tạm thời để bảo đảm quyền lợi của mình đương lúc đợi xét xử.
Đơn tham gia tranh chấp.
Trường hợp vụ tranh chấp ảnh hưởng tới quyền lợi của một nước thứ ba thì nước ấy có quyền nộp đơn yêu cầu tham gia tranh chấp làm một bên đương sự. TAQT quyết định đơn của nước thứ ba.
Quyết định.
Sau khi nghị án xong, TAQT ra quyết định. Mỗi thẩm phán có quyền nêu ý kiến riêng về quyết định. Quyết định của TAQT là chung thẩm, nhưng các bên có quyền yêu cầu TAQT giải thích phạm vi của quyết định.
Chỉ trích.
Tòa án Quốc tế đã bị chỉ trích về thẩm quyền, thủ tục và quyết định. Những ý kiến chỉ trích chính gồm: |
Sun Microsystems | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1225 | Sun Microsystems, thành lập năm 1983, là một công ty sản xuất phần mềm, bóng bán dẫn và máy tính có trụ sở tại Silicon Valley. Ngày 27 tháng 1 năm 2010, Sun bị hãng Oracle Corporation mua với giá 7,4 tỷ USD, theo một thỏa ước ký ngày 20 tháng 4 năm 2009. Một tháng sau đó, Sun được nhập với Oracle USA để trở thành Oracle America, Inc.
Các sản phẩm của Sun bao gồm máy tính, các máy chủ và máy trạm chạy trên bộ xử lý SPARC, các hệ điều hành SunOS và Solaris, hệ thống file mạng NFS (network file system), nền tảng Java, và (cùng với AT&T) chuẩn hóa Hệ thống Unix V bản 4. Một số sản phẩm kém thành công hơn có thể kể đến hệ thống cửa sổ NeWS và giao diện đồ họa người sử dụng OpenLook.
Lịch sử.
Thiết kế ban đầu của máy trạm UNIX của Sun do nhóm sáng lập gồm bốn sinh viên tốt nghiệp Đại học Stanford ở Palo Alto, California, nghiên cứu ra. Cái tên công ty SUN ban đầu là viết tắt của Stanford University Network (và nó được phản ánh trong biểu trưng chứng khoán của công ty, SUNW). Những người sáng lập bao gồm Vinod Khosla, Scott McNealy, Bill Joy và Andy Bechtolsheim. Trong số này, chỉ còn McNealy và Bechtolsheim là hiện còn ở lại với Sun. Bill Joy đã rời bỏ Sun vào đầu năm 2004.
Những người có ảnh hưởng lớn ở Sun gồm có những nhân viên ban đầu của Sun John Gilmore, Bill Joy và James Gosling. Bill Joy đã được mời tham gia khi ông đang phát triển BSD ở UC Berkeley dưới quyền điều hành của Ken Thompson. James Gosling và những người đồng sự của ông đã phát triển ngôn ngữ lập trình Java. Cùng với thời gian, Sun đã trở thành một công ty có đẳng cấp thế giới, một tập đoàn hàng đầu của ngành công nghiệp, được nhắc đến với khẩu hiểu rất nổi tiếng "The Network Is The Computer". Gần đây nhất, Jon Bosak, một nhân viên của Sun cũng đã lãnh đạo nhóm nghiên cứu phát triển đặc tả XML ở W3C.
Biểu trưng của Sun, có hình ảnh bốn con chữ xếp vào nhau từ chữ "sun", do giáo sư Vaughan Pratt, cũng của Đại học Stanford, thiết kế. Ban đầu biểu trưng này sắp xếp các cạnh của nó theo chiều ngang và đứng nhưng về sau nó được thay đổi với một góc tựa xuống phía dưới.
Máy tính.
Sun ban đầu sử dụng họ CPU Motorola 68000 từ Sun 1 đến Sun 3. Chỉ trong một thời gian ngắn khoảng cuối những năm 1980, họ đã bán các máy tính chạy trên Intel 80386, đó là Sun 386i. |
Sun Microsystems | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1225 | Sau dòng Sun 4, Sun đã phát triển kiến trúc CPU của riêng hãng, SPARC, vay mượn lại kiến trúc RISC chuẩn của IEEE. Năm 1995, Sun cho ra đời loại CPU 64-bit, đó là UltraSPARC.
Các hệ điều hành.
Sun 1 được phân phối với hệ điều hành Unisoft V7 UNIX. Sau này vào năm 1982 Sun cung cấp bản UNIX 4.1BSD tùy biến có tên là SunOS để làm hệ điều hành cho các máy trạm của hãng. Vào năm 1992, cùng với AT&T, hãng này đã tích hợp BSD UNIX và System V thành Solaris, như là một kết quả dựa trên UNIX SVR4.
Sun cũng nổi tiếng với việc cấp các giấy phép sử dụng dựa trên cộng đồng cho tất cả các sản phẩm công nghệ quan trọng của hãng bao gồm trong đó có một số ấn bản mã nguồn mở. Mặc dù là người đi sau, nhưng hãng này cũng đã đưa Linux trở thành một bộ phận trong chiến lược của hãng – Sun đã và đang phải đối mặt với thời điểm khó khăn khi mà Linux đã bắt đầu gặm nhấm dần dần thị phần máy chủ của hãng. Mặc dù vậy, gần đây Sun đã phát triển hệ thống phần mềm chạy trên desktop dựa trên Linux có tên Java Desktop System (tên mã ban đầu là 'Madhatter') để sử dụng cả trên phần cứng x86 và trên các hệ thống máy tính mạng SunRay của Sun. Hãng này cũng công bố các kế hoạch cung cấp Java Enterprise System (một ngăn xếp thuộc tầng trung gian) của hãng trên Linux, và công bố mở mã nguồn Solaris dưới một dạng nào đó.
Nền tảng Java.
Nền tảng Java platform, được phát triển vào đầu những năm 1990 đã được phát triển có chủ đích cho mục tiêu cho phép các chương trình chạy mà không cần quan tâm đến chúng đang chạy trên loại thiết bị nào, đó là linh hồn của khẩu hiệu "Write once, run everywhere".
Nền tảng này gồm có ba phần chính, ngôn ngữ lập trình Java, Máy ảo Java (JVM), và Giao diện lập trình ứng dụng Java (API).
Ngôn ngữ lập trình Java là một ngôn ngữ lập trình hướng đối tượng. Kể từ khi nó được giới thiệu vào cuối năm 1995, thì nó đã nhanh chóng trở thành ngôn ngữ lập trình phổ biến nhất thế giới.
Để chạy được (dạng ảo) các chương trình viết bằng Java trên bất cứ một thiết bị nào, các chương trình Java đó được biên dịch ra mã nhị phân. Loại mã này được mọi JVM đọc, mà không có ảnh hưởng gì từ phía môi trường.
Java API cung cấp một tập hợp phong phú các tác vụ thư viện. |
Sun Microsystems | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1225 | Standard Edition của API nhắm vào các máy trạm thông thường, trong khi Enterprise Edition nhằm vào các công ty phần mềm lớn đang chạy các máy chủ ứng dụng cấp xí nghiệp. Micro Edition được sử dụng để xây dựng nên các phần mềm cho các thiết bị có hạn chế về tài nguyên như là các thiết bị di động.
Bộ ứng dụng văn phòng.
Sun đã mua StarOffice bằng cách thôn tính công ty phần mềm của Đức StarDivision và công bố nó như là bộ ứng dụng văn phòng OpenOffice.org dưới đồng thời cả giấy phép GNU LGPL lẫn SISSL (Sun Industry Standards Source License). OpenOffice.org, thường được so sánh với Microsoft Office (một người phát ngôn của Microsoft đã tuyên bố là nó có thể sánh được với Office 97), có đủ các phiên bản để chạy trên nhiều nền tảng và được sử dụng rộng rãi trong cộng đồng mã nguồn mở.
Sản phẩm StarOffice hiện thời là một sản phẩm mã nguồn đóng dựa trên OpenOffice.org. Sự khác biệt chính giữa StarOffice và OpenOffice.org là ở chỗ Sun hỗ trợ nó và được đóng gói tốt cùng với nguồn tài liệu khá dồi dào, số font và mẫu trình bày đa dạng hơn cùng với những tính năng mà Sun bổ sung gồm có hệ từ điển và từ điển từ đồng nghĩa được cải tiến. Trong khi các phiên bản OpenOffice.org được công bố khá thường xuyên thì StarOffice lại tuân thủ một lịch trình công bố bảo thủ hơn để thích hợp hơn với quá trình triển khai ở doanh nghiệp. |
OpenOffice.org | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1227 | OpenOffice.org (OOo) hay gọi tắt là OpenOffice là bộ trình ứng dụng văn phòng miễn phí, mã nguồn mở được xây dựng trên phiên bản StarOffice mã nguồn mở của Sun Microsystems. OpenOffice có thể chạy trên các hệ điều hành Windows (đòi hỏi phải có Java Runtime Environment), MacOS, Solaris và Linux. Phiên bản mới nhất của OpenOffice cho phép đọc/ghi các định dạng file của Microsoft Office khá hoàn hảo.
Các thành phần cơ bản của OOo:
Thông tin về giao diện tiếng Việt của OpenOffice.org có tại vi.openoffice.org.
Thay thế.
Vào ngày 28 tháng 9 năm 2010, một số thành viên của Dự án OpenOffice.org thành lập một nhóm mới với tên gọi The Document Foundation và công bố một nhánh mới của OpenOffice.org với gọi là LibreOffice. Lý do ra đời LibreOffice vì các thành viên của dự án lo sợ rằng Oracle Corporation, sau khi mua lại Sun Microsystems (hãng tài trợ trước đây của dự án OpenOffice.org) sẽ ngưng việc phát triển OpenOffice.org như họ đã làm với OpenSolaris. |
Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1229 | Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (tiếng Anh: "United Nations Development Programme", viết tắt UNDP) có trụ sở tại Thành phố New York.
UNDP có mạng lưới phát triển toàn cầu, có mặt tại hơn 166 quốc gia với nhiệm vụ chính là tuyên truyền vận động cho sự đổi mới và là cầu nối giữa các nước với tri thức, kinh nghiệm và nguồn lực để giúp người dân xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Chi phí hoạt động của UNDP được bảo trợ thông qua các khoản viện trợ không bắt buộc từ các cá nhân và các tổ chức trên thế giới.
Lịch sử.
UNDP được thành lập ngày 22 tháng 11 năm 1965, là sự hợp nhất của "Chương trình mở rộng hỗ trợ kỹ thuật" EPTA (Expanded Programme of Technical Assistance) vốn được thành lập năm 1949, và "Quỹ đặc biệt" của Liên Hợp Quốc (UN Special Fund) thành lập năm 1956..
Sự hợp nhất nhằm tránh trùng lặp hoạt động. EPTA hỗ trợ các khía cạnh kinh tế và chính trị của các nước kém phát triển, trong khi Quỹ đặc biệt là để mở rộng phạm vi hỗ trợ kỹ thuật của Liên Hợp Quốc.
Năm 1971, UNDP tích hợp đầy đủ của hai tổ chức này.
Năm 1995, "Văn phòng Dịch vụ Dự án" của Liên Hợp Quốc UNOPS (UN Office for Project Services), tách ra thành một tổ chức dịch vụ độc lập với UNDP. UNOPS tiếp quản việc quản lý và thực hiện các chương trình.
UNDP tại Việt Nam.
Trọng tâm của UNDP tại Việt Nam là giúp Việt Nam xây dựng và chia sẻ giải pháp cho các thách thức sau đây:
Đại sứ thiện chí.
UNDP cùng với các cơ quan khác của LHQ, đã từ lâu tranh thủ các dịch vụ và hỗ trợ của các cá nhân nổi bật làm Đại sứ thiện chí. Sự nổi tiếng của họ sẽ giúp khuếch trương các thông báo cấp thiết và phổ quát của phát triển con người và hợp tác quốc tế, giúp tăng tốc độ đạt được Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Họ nói lên chương trình UNDP về các cơ hội tự lực phát triển và thúc đẩy mọi người hành động vì lợi ích của việc cải thiện cuộc sống của mình và những người đồng bào của họ. |
22 tháng 1 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1231 | 22 tháng 1 là ngày thứ 22 của năm theo lịch Gregory. Sau ngày này còn 343 ngày trong năm thường hoặc 344 ngày trong năm nhuận. |
Việt Minh | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232 | Việt Nam Độc lập Đồng minh (tên chính thức trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương) còn gọi là Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội, gọi tắt là Việt Minh, là liên minh chính trị cánh tả mang danh nghĩa dân tộc chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập ngày 19 tháng 5 năm 1941 với mục đích công khai là "liên hiệp tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đang cùng nhau đánh đuổi Nhật - Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa".
Do Việt Minh được Đảng Cộng sản Việt Nam xem là một mặt trận dân tộc thống nhất ở Việt Nam nên còn được gọi là Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh, Mặt trận Việt Minh. Mặt trận dân tộc thống nhất là mặt trận thống nhất do các dân tộc, các giai cấp, các đảng phái quốc nội kết thành nhằm tiến hành cách mạng dân tộc, chống lại sự xâm lược và áp bức của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân.
Trước đó, đã có một tổ chức chính trị chống đế quốc của người Việt Nam ở nước ngoài có tên gọi tương tự là Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội, gọi tắt là Việt Minh, được thành lập năm 1936 ở Nam Kinh (Trung Quốc). Theo Hoàng Văn Hoan, Hồ Chí Minh chủ trương lấy danh nghĩa hội này và mời Hồ Học Lãm làm chủ trì để dựa vào mà hoạt động.
Sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố "giải tán", Việt Minh là tổ chức chính trị tham gia bầu cử và nắm chính quyền, là thành viên của Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Hội Liên Việt), sau lại tách ra. Đầu năm 1951 Đảng Cộng sản Đông Dương tái lập với tên gọi Đảng Lao động Việt Nam, Mặt trận Việt Minh sáp nhập với Hội Liên Việt để thành lập Mặt trận Liên Việt, nhưng nhiều người vẫn quen gọi là "Việt Minh".
Trong cuộc chiến chống Pháp, Việt Minh là vũ khí chính trị hiệu quả do Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập nhằm thu hút mọi tầng lớp người dân, kể cả những người Quốc gia và không Cộng sản, tham gia chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. |
Việt Minh | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232 | Bên cạnh đó, Việt Minh cũng từng xung đột với các nhóm chính trị, xã hội khác như Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, Đại Việt Quốc dân Đảng, Đệ Tứ Quốc tế Cộng sản và các nhóm tôn giáo.
Thành lập.
Tháng 10 năm 1940, tại Quế Lâm, Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc lấy danh nghĩa Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội (trước có tên là Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội, do Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần và một số chính trị gia khác thành lập năm 1936), đã mời ông Hồ Học Lãm đứng ra chủ trì để các đảng viên cộng sản Việt Nam tại Trung Quốc có danh nghĩa hợp pháp để hoạt động tại Trung Quốc. Chủ trương này xuất phát từ chỗ Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương (thành lập năm 1939, là tiền thân của Việt Minh sau này) là một tổ chức không phải là cộng sản và người sáng lập của tổ chức này là Hồ Học Lãm có quan hệ tốt với Nguyễn Ái Quốc. Những đảng viên cộng sản Việt Nam giới thiệu với Lý Tề Thâm, Chủ nhiệm Hành dinh khu Tây Nam Trung Hoa Quốc dân Đảng, rằng Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương là tổ chức chính trị lớn bên cạnh Đảng Cộng sản Đông Dương. Đảng Cộng sản Đông Dương có ảnh hưởng trong giai cấp công nhân thành thị còn Mặt trận Phản đế hoạt động chủ yếu trong các tầng lớp trên ở nông thôn. Người đồng sáng lập Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội là Nguyễn Hải Thần tuy không đồng ý với việc Đảng Cộng sản Đông Dương sử dụng danh nghĩa Mặt trận Phản đế để hoạt động vẫn hợp tác với Đảng Cộng sản.
Trước tình hình Chiến tranh Thế giới thứ hai ngày càng lan rộng và ác liệt, đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc quyết định về nước. Hội nghị cán bộ tỉnh Cao Bằng của Đảng Cộng sản Đông Dương, họp vào cuối tháng 4 năm 1941, dưới sự chủ tọa của Hoàng Văn Thụ và Vũ Anh (Trịnh Đông Hải). |
Việt Minh | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232 | Sau một thời gian nắm tình hình và chuẩn bị, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5 năm 1941 trong rừng Khuổi Nậm, thuộc Pác Bó, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Hội nghị đã xác định cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng và chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất riêng cho mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Ngoài ra, hội nghị cũng hoàn chỉnh hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, được đề ra từ Hội nghị VI vào tháng 11 năm 1939, là nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, vào ngày 19 tháng 5 năm 1941, Hội nghị quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh, thay cho Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương (thành lập theo Quyết nghị của Hội nghị Trung ương VI - khóa I, tháng 11 năm 1939).
Sau Hội nghị Trung ương lần thứ VIII bế mạc, một đại hội (ngày 19-5-1941) gồm đại diện đảng Cộng sản và các tổ chức quần chúng thành lập chính thức Việt Minh.
Ngoài Đảng Cộng sản, trong thời gian đầu có các tổ chức tham gia lần lượt gồm Đảng Cách mệnh An Nam, Việt Nam Quốc dân Cách mệnh Đảng, Đảng Quốc gia Cách mệnh An Nam, Phục quốc Hội, Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội, Đảng Đại Việt Quốc xã, Đảng Hưng Việt, Đảng Đại Việt, Việt Cách… Sau khi Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tan rã, một số đảng phái tiếp tục hợp tác với Việt Minh, một số khác thì tách khỏi Việt Minh và ủng hộ Bảo Đại thành lập Quốc gia Việt Nam chống lại Việt Minh còn Việt Minh gọi các đảng phái này là Việt gian, phản động.
Theo báo Cứu quốc "nhà đại ái quốc Hồ Chí Minh, ròng rã ba mươi năm nay bị mật thám thuộc địa truy nã, từ trong bóng tối nhảy ra, có một nhãn quan chính trị hết sức minh mẫn, ông đề nghị với người Pháp ở Đông Dương lập một mặt trận chung chống phát xít. |
Việt Minh | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232 | Việt Minh, hay là mặt trận chung chống phát xít dành độc lập, ra đời" nhưng chính quyền thuộc địa về phe phát xít.
Cương lĩnh.
Tháng 9 năm 1941, văn kiện "Chương trình Việt Minh" kèm theo điều lệ của một số hội cứu quốc đã được soạn thảo, coi như phụ lục của Nghị quyết hội nghị tháng 5 năm 1941. Ngày 25 tháng 10, Tổng bộ Việt Minh chính thức "Chương trình Việt Minh" để phổ biến rộng rãi trong quần chúng. Văn kiện này nhấn mạnh tới những mục tiêu của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc:
Chương trình của Việt Minh được Nguyễn Ái Quốc soạn thành một bài thơ dài theo thể song thất lục bát gồm 212 câu và được Bộ Tuyên truyền Việt Minh xuất bản. Tháng 8 năm 1942, Tòa soạn báo "Việt Nam độc lập" phát hành cuốn "Ngũ tự kinh" (kinh 5 chữ) dùng văn vần để phổ biến chương trình của Việt Minh. Ngày 15 tháng 3 năm 1944, Bộ Tuyên truyền Cổ động Việt Minh cho in một tập sách bao gồm: "Tuyên ngôn", "Chương trình" (đã được bổ sung) và "Điều lệ của Mặt trận Việt Minh".
Chủ trương cụ thể: - Chủ trương liên hiệp hết thảy các từng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp - Nhật giành quyền độc lập cho xứ sở. Việt Nam Độc lập Đồng minh lại còn hết sức giúp đỡ Ai Lao Độc lập Đồng minh và Cao Miên Độc lập Đồng minh để cùng thành lập Đông Dương Độc lập Đồng minh hay là mặt trận thống nhất dân tộc phản đế toàn Đông Dương để đánh được kẻ thù chung giành quyền độc lập cho nước nhà. - Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng nǎm cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra sẽ thi hành những nhiệm vụ như sau:
Tổ chức. |
Việt Minh | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232 | Việt Minh cũng công bố luôn "Tuyên ngôn" và "Điều lệ", nói rõ tôn chỉ, mục đích của mình: ""Liên hiệp hết thảy tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đang cùng nhau đánh đuổi Nhật-Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa"." Tôn chỉ đó đã quy định điều kiện gia nhập Việt Minh: ""Việt Minh kết nạp từng đoàn thể, không cứ đảng phái, đoàn thể nào của người Việt Nam hay của các dân tộc thiểu số sống trong nước Việt Nam, không phân biệt giai cấp, tôn giáo và xu hướng chính trị, hễ thừa nhận mục đích, tôn chỉ và chương trình của Việt Minh và được Tổng bộ Việt Minh thông qua, thời được gia nhập Việt Minh"."
Về tổ chức, Mặt trận có một cơ chế riêng, khác hẳn với cơ chế tổ chức của Đảng Cộng sản Đông Dương. Về hệ thống tổ chức, ở các xã có Ban Chấp hành Việt Minh do các đoàn thể Việt Minh ở làng hay xã cử ra; tổng, huyện (hay phủ, châu, quận), tỉnh, kì có Ban Chấp ủy Việt Minh cấp ấy; Việt Minh toàn quốc có Tổng bộ. Ngoài những đoàn thể cứu quốc có tính chất chính trị, cách mạng rõ rệt (như Hội Công nhân Cứu quốc, Hội Nông dân Cứu quốc, Hội Phụ nữ Cứu quốc, Hội Thanh niên Cứu quốc...) còn có những đoàn thể không có điều lệ, hoạt động công khai và bán công khai như Hội Cứu tế Thất nghiệp, Hội Tương tế, Hội Hiếu hỉ, nhóm học Quốc ngữ, nhóm đọc sách, xem báo... Chỉ thị về công tác của Ban Chấp hành Trung ương ngày 1 tháng 12 năm 1941 đã chỉ rõ: "Cần phải chú ý không nên dùng phương pháp Đảng mà tổ chức quần chúng, vì Đảng là một tổ chức gồm những phần tử giác ngộ nhất, hăng hái, trung thành nhất, hoạt động nhất của vô sản giai cấp. Tổ chức của Đảng cần phải chặt chẽ và nghiêm ngặt. Còn những tổ chức quần chúng phải rộng rãi, nhẹ nhàng". Tổng bộ Việt Minh, theo một tài liệu của Mỹ, từ tháng 6/1945 đến giữa năm 1946 có Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Trường Chinh và Hồ Tùng Mậu.
Mối quan hệ với Đảng Cộng sản Đông Dương. |
Việt Minh | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232 | Mối quan hệ với Đảng Cộng sản Đông Dương.
Trong quan hệ với Việt Minh, Đảng Cộng sản Đông Dương đã xác định: ""Đảng ta cũng là một bộ phận trong mặt trận phản đế Đông Dương, bộ phận trung kiên và lãnh đạo"," là ""một bộ phận linh động nhất trong Mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật-Pháp"."
Ngày 11/11/1945, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán khi Pháp, Trung Hoa Dân quốc và các đồng minh của họ muốn tiêu diệt Đảng, đi vào hoạt động bí mật và thành lập tổ chức công khai của Đảng là Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương đồng thời đóng cửa tờ báo "Cờ giải phóng".
"Thông cáo Đảng Cộng sản Đông Dương tự ý giải tán, ngày 11-11-1945:"
"1- Cǎn cứ vào điều kiện lịch sử, tình hình thế giới và hoàn cảnh trong nước, nhận rằng lúc này chính là cơ hội nghìn nǎm có một cho nước Việt Nam giành quyền hoàn toàn độc lập;"
"2- Xét rằng: muốn hoàn thành nhiệm vụ dân tộc giải phóng vĩ đại ấy, sự đoàn kết nhất trí của toàn dân không phân biệt giai cấp, đảng phái là một điều kiện cốt yếu;"
"3- Để tỏ rằng: những đảng viên cộng sản là những chiến sĩ tiền phong của dân tộc, bao giờ cũng hy sinh tận tụy vì sự nghiệp giải phóng của toàn dân, sẵn sàng đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi của giai cấp, hy sinh quyền lợi riêng của đảng phái cho quyền lợi chung của dân tộc;"
"4- Để phá tan tất cả những điều hiểu lầm ở ngoài nước và ở trong nước có thể trở ngại cho tiền đồ giải phóng của nước nhà."
"Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp ngày 11 tháng 11 nǎm 1945, nghị quyết tự động giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương."
"Những tín đồ của chủ nghĩa cộng sản muốn tiến hành việc nghiên cứu chủ nghĩa sẽ gia nhập "Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương""
Sau khi Đảng Cộng sản tuyên bố tự giải tán, phần lớn đảng viên cộng sản chuyển sang hoạt động bí mật và trên danh nghĩa Việt Minh; một số ít tham gia Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Marx ở Đông Dương để hoạt động công khai. |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.