title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
1
6.84k
bm25_text
stringlengths
0
5.05k
Lịch sử Madagascar
đầu, trực thuộc Bộ trưởng Bộ các vấn đề thuộc địa. Dưới toàn quyền là thống đốc các thuộc địa. Tỉnh ("cercles)" và các đơn vị hành chính bên dưới phụ trách trật tự công cộng, tư pháp, kinh tế và thị trường lao động. Các vị trí lãnh đạo tại thành phố và các hạt đều do người Pháp đảm nhiệm. Thành phố có chính quyền bao gồm cả thực dân và người bản xứ. "Mpiadydy" (trưởng làng) được "mpikarakar" (thư ký) hỗ trợ nắm quyền trực tiếp tại "fokontany" (xã). Thấp nhất là "phokonolona" (nhóm) do bộ lạc quản lý. Pháp củng cố ảnh hưởng chính trị và kinh tế dẫn đến sự thực dân hóa hòn đảo. Tài sản phong kiến bị xóa bỏ, cơ chế vương quốc và ngôi báu bị bãi bỏ, thay vào đó là thiết lập quyền sở hữu cá nhân. Một phần diện tích bị tách khỏi đất đai nhà nước, chuyển thành nhượng địa cho Pháp. Đất canh tác được dồn lại thành đồn điền cà phê. Theo Đạo luật Lao động Cưỡng bức, người lao động phải làm việc 50 ngà,y 9 giờ một ngày. Trong những năm 1905–1919, chính phủ Pháp thực hiện chính sách tăng cường quan hệ giữa thuộc địa và chính quốc. Kết quả là khoảng 45.000 người Malagasy đứng trong quân đội Pháp tham giá Thế chiến thứ nhất. Sau khi sáp nhập ở Madagascar, hoạt động giáo dục của các hiệp hội truyền giáo Công Giáo và Tin Lành bị giảm sút.
đầu trực thuộc bộ trưởng bộ các vấn đề thuộc địa dưới toàn quyền là thống đốc các thuộc địa tỉnh cercles và các đơn vị hành chính bên dưới phụ trách trật tự công cộng tư pháp kinh tế và thị trường lao động các vị trí lãnh đạo tại thành phố và các hạt đều do người pháp đảm nhiệm thành phố có chính quyền bao gồm cả thực dân và người bản xứ mpiadydy trưởng làng được mpikarakar thư ký hỗ trợ nắm quyền trực tiếp tại fokontany xã thấp nhất là phokonolona nhóm do bộ lạc quản lý pháp củng cố ảnh hưởng chính trị và kinh tế dẫn đến sự thực dân hóa hòn đảo tài sản phong kiến bị xóa bỏ cơ chế vương quốc và ngôi báu bị bãi bỏ thay vào đó là thiết lập quyền sở hữu cá nhân một phần diện tích bị tách khỏi đất đai nhà nước chuyển thành nhượng địa cho pháp đất canh tác được dồn lại thành đồn điền cà phê theo đạo luật lao động cưỡng bức người lao động phải làm việc 50 ngà y 9 giờ một ngày trong những năm 1905–1919 chính phủ pháp thực hiện chính sách tăng cường quan hệ giữa thuộc địa và chính quốc kết quả là khoảng 45 000 người malagasy đứng trong quân đội pháp tham giá thế chiến thứ nhất sau khi sáp nhập ở madagascar hoạt động giáo dục của các hiệp hội truyền giáo công giáo và tin lành bị giảm sút
Lịch sử Madagascar
quân đội Pháp tham giá Thế chiến thứ nhất. Sau khi sáp nhập ở Madagascar, hoạt động giáo dục của các hiệp hội truyền giáo Công Giáo và Tin Lành bị giảm sút. Chính phủ Pháp giới thiệu giáo dục tiểu học thế tục. Trẻ em sống trong vùng cách trường ba dặm đổ lại bắt buộc phải đi học. Trường huyện và dạy nghề cũng được thành lập. Trường đại học y khoa đầu tiên "Le Myre de Villiers" được mở ra ở Antananarivo. Đầu thế kỷ 20, phong trào dân tộc và đấu tranh giành độc lập ra đời ở Madagascar. Năm 1913 (hay 1912), nhóm trí thức Merina do Mục sư Ravelojoana đứng đầu đã khởi xướng thành lập tổ chức quốc gia bí mật Liên minh dân tộc Malagasy ("Vy Vato Sakelika" - VVS), theo mô hình hiện đại hóa của Nhật Bản. VVS đặt trụ sở chính tại Antananarivo. Năm 1915, Liên minh bị cấm hoạt động và các nhà lãnh đạo bị bắt. . Nhưng những hoạt động động của VVS đã góp phần cho Madagascar có đại diện trong chính phủ Pháp. Những người Malagasy chiến đấu tại châu Âu trong những năm 1914–1918 có cơ hội tìm hiểu thêm về luồng tư tưởng chính trị. Các cựu chiến binh trở về Madagascar góp phần vào làm cho phong trào dân tộc chủ nghĩa hồi sinh. Họ yêu cầu quyền công dân và quyền chính trị được bình đẳng với người Pháp cũng như thừa nhận việc Madagascar đã đứng về phía
quân đội pháp tham giá thế chiến thứ nhất sau khi sáp nhập ở madagascar hoạt động giáo dục của các hiệp hội truyền giáo công giáo và tin lành bị giảm sút chính phủ pháp giới thiệu giáo dục tiểu học thế tục trẻ em sống trong vùng cách trường ba dặm đổ lại bắt buộc phải đi học trường huyện và dạy nghề cũng được thành lập trường đại học y khoa đầu tiên le myre de villiers được mở ra ở antananarivo đầu thế kỷ 20 phong trào dân tộc và đấu tranh giành độc lập ra đời ở madagascar năm 1913 hay 1912 nhóm trí thức merina do mục sư ravelojoana đứng đầu đã khởi xướng thành lập tổ chức quốc gia bí mật liên minh dân tộc malagasy vy vato sakelika vvs theo mô hình hiện đại hóa của nhật bản vvs đặt trụ sở chính tại antananarivo năm 1915 liên minh bị cấm hoạt động và các nhà lãnh đạo bị bắt nhưng những hoạt động động của vvs đã góp phần cho madagascar có đại diện trong chính phủ pháp những người malagasy chiến đấu tại châu âu trong những năm 1914–1918 có cơ hội tìm hiểu thêm về luồng tư tưởng chính trị các cựu chiến binh trở về madagascar góp phần vào làm cho phong trào dân tộc chủ nghĩa hồi sinh họ yêu cầu quyền công dân và quyền chính trị được bình đẳng với người pháp cũng như thừa nhận việc madagascar đã đứng về phía
Lịch sử Madagascar
dân tộc chủ nghĩa hồi sinh. Họ yêu cầu quyền công dân và quyền chính trị được bình đẳng với người Pháp cũng như thừa nhận việc Madagascar đã đứng về phía Pháp tham chiến. Năm 1924, những phái đoàn kinh tế được thành lập để đại diện cho các tỉnh Malagasy, gồm đại diện của dân Pháp định cư và 24 người Malagasy một hội đồng bầu chọn. Tuy vậy, họ không có thực quyền ra quyết định các vấn đề kinh tế. Năm 1922, Jean Ralaimongo là một cựu nô lệ, giáo viên và lính đánh thuê cho Pháp trong Chiến tranh thế giới thứ nhất đã trở về Madagascar. Khi ở Paris, Ralaimongo có mối quan hệ với phe cánh tả. Trên đảo, ông mở tạp chí tiếng Pháp "L'Opinion" mô tả người thuộc địa bị ngược đãi. Ralaimongo truyền bá ý tưởng đồng hóa với Pháp để Madagascar trở thành một tỉnh của Pháp. Năm 1929, theo sáng kiến của ông, một cuộc biểu tình được tổ chức trước dinh toàn quyền. Ravohangy là cựu thành viên VVS cũng tham gia. Biểu tình bị đàn áp và những người lãnh đạo bị bắt. Phong trào do Ralaimongo khởi xướng dần biến thành chủ nghĩa dân tộc Malagasy với các tạp chí "La Partie Malgache" và "La Nation Malgache". Trong Giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh, dân số Ba Lan quá đông đã nộp đơn cư trú sang Pháp. Phe dân tộc cực hữu đưa ra khẩu hiệu "Người Do Thái đến Madagascar”. Người
dân tộc chủ nghĩa hồi sinh họ yêu cầu quyền công dân và quyền chính trị được bình đẳng với người pháp cũng như thừa nhận việc madagascar đã đứng về phía pháp tham chiến năm 1924 những phái đoàn kinh tế được thành lập để đại diện cho các tỉnh malagasy gồm đại diện của dân pháp định cư và 24 người malagasy một hội đồng bầu chọn tuy vậy họ không có thực quyền ra quyết định các vấn đề kinh tế năm 1922 jean ralaimongo là một cựu nô lệ giáo viên và lính đánh thuê cho pháp trong chiến tranh thế giới thứ nhất đã trở về madagascar khi ở paris ralaimongo có mối quan hệ với phe cánh tả trên đảo ông mở tạp chí tiếng pháp l opinion mô tả người thuộc địa bị ngược đãi ralaimongo truyền bá ý tưởng đồng hóa với pháp để madagascar trở thành một tỉnh của pháp năm 1929 theo sáng kiến của ông một cuộc biểu tình được tổ chức trước dinh toàn quyền ravohangy là cựu thành viên vvs cũng tham gia biểu tình bị đàn áp và những người lãnh đạo bị bắt phong trào do ralaimongo khởi xướng dần biến thành chủ nghĩa dân tộc malagasy với các tạp chí la partie malgache và la nation malgache trong giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh dân số ba lan quá đông đã nộp đơn cư trú sang pháp phe dân tộc cực hữu đưa ra khẩu hiệu người do thái đến madagascar” người
Lịch sử Madagascar
hai cuộc chiến tranh, dân số Ba Lan quá đông đã nộp đơn cư trú sang Pháp. Phe dân tộc cực hữu đưa ra khẩu hiệu "Người Do Thái đến Madagascar”. Người Ba Lan Do Thái không chỉ tìm cách định cư trên các lãnh thổ hải ngoại của Pháp mà còn ý đồ thành lập những cộng đồng tuân thủ theo luật Moses. Năm 1937, Mieczysław Lepecki dẫn đầu đoàn nghiên cứu tìm hiểu hiện trạng khả năng định cư trên đảo. Làng Ankanazina trên núi được chọn làm nơi xây dựng khu định cư. Tác giả Arkady Fiedler viết "Jutro na Madagaskar!" (Ngày mai tới Madascar) (1939) để cổ vũ người Ba Lan di cư. Ý tưởng biến Madagascar thành nơi đồng cai trị của Pháp-Ba Lan tan vỡ khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, thống đốc Madagascar đứng về phe Vichy, hợp tác với Đức và Nhật. Trước tình hình đó, Tướng Charles de Gaulle đứng đầu Nước Pháp Tự do phối hợp với Anh lên kế hoạch đánh chiếm hòn đảo nhằm ngăn chặn quân Nhật bành trướng Ấn Độ Dương và giải quyết việc tiếp vận hàng hảigiữa Anh với Ấn Độ và Úc . Theo kế hoạch, các tàu Anh đóng tại Durban sẽ đổ bộ Madagascar. Năm 1942, Nhật Bản thực hiện một số cuộc đột kích ở Ấn Độ Dương, khiến Đồng minh nhanh chóng thông qua Chiến dịch Ironclad, trong đó có việc đổ bộ lên đảo trong
hai cuộc chiến tranh dân số ba lan quá đông đã nộp đơn cư trú sang pháp phe dân tộc cực hữu đưa ra khẩu hiệu người do thái đến madagascar” người ba lan do thái không chỉ tìm cách định cư trên các lãnh thổ hải ngoại của pháp mà còn ý đồ thành lập những cộng đồng tuân thủ theo luật moses năm 1937 mieczysław lepecki dẫn đầu đoàn nghiên cứu tìm hiểu hiện trạng khả năng định cư trên đảo làng ankanazina trên núi được chọn làm nơi xây dựng khu định cư tác giả arkady fiedler viết jutro na madagaskar ngày mai tới madascar 1939 để cổ vũ người ba lan di cư ý tưởng biến madagascar thành nơi đồng cai trị của pháp-ba lan tan vỡ khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ trong chiến tranh thế giới thứ hai thống đốc madagascar đứng về phe vichy hợp tác với đức và nhật trước tình hình đó tướng charles de gaulle đứng đầu nước pháp tự do phối hợp với anh lên kế hoạch đánh chiếm hòn đảo nhằm ngăn chặn quân nhật bành trướng ấn độ dương và giải quyết việc tiếp vận hàng hảigiữa anh với ấn độ và úc theo kế hoạch các tàu anh đóng tại durban sẽ đổ bộ madagascar năm 1942 nhật bản thực hiện một số cuộc đột kích ở ấn độ dương khiến đồng minh nhanh chóng thông qua chiến dịch ironclad trong đó có việc đổ bộ lên đảo trong
Lịch sử Madagascar
Nhật Bản thực hiện một số cuộc đột kích ở Ấn Độ Dương, khiến Đồng minh nhanh chóng thông qua Chiến dịch Ironclad, trong đó có việc đổ bộ lên đảo trong vòng sáu tuần. Ngày 5 tháng 5 năm 1942 bắt đầu trận chiến giành Madagascar. Bộ binh Anh đổ bộ gần các cảng Diégo Suarez và Arrachart là nơi có căn cứ không quân của Pháp. Sau ba ngày, quân Pháp kháng cự ở đây bị phá vỡ. Ngày 22 tháng 6 năm 1942, Tập đoàn quân 22 Đông Phi đổ bộ lên bãi biển, và vài tuần sau đó, Lữ đoàn cơ giới số 7 Nam Phi và Lữ đoàn bộ binh 27 Rhodesia đến nơi. Đồng thời, chiến sự trên biển vẫn tiếp tục diễn ra. Hai tàu ngầm Pháp bị chìm, một chiếc bị hỏng nặng trước hạm đội đối phương. Cuối tháng 5 đầu tháng 6, bốn tàu ngầm Nhật cùng một số tàu ngầm nhỏ cũng hoạt động gần hòn đảo này. Chúng đánh hỏng thiết giáp hạm HMS Ramillies và đánh chìm một tàu chở dầu. Tuy nhiên, các hoạt động tiếp theo không đạt kết quả như mong đợi nên quân Nhật rời khỏi vùng biển Madagascar chỉ sau vài ngày. Ngày 10 tháng 9 năm 1942 bắt đầu giai đoạn hai chiến dịch. Lực lượng Đồng minh đổ bộ vào phía tây nam đảo, chiếm thành phố cảng Mahajanga. Tám ngày sau, họ chiếm Tamatave. Cuối tháng 9, quân Đồng minh chiếm được thủ phủ cùng thành phố Ambalavao.
nhật bản thực hiện một số cuộc đột kích ở ấn độ dương khiến đồng minh nhanh chóng thông qua chiến dịch ironclad trong đó có việc đổ bộ lên đảo trong vòng sáu tuần ngày 5 tháng 5 năm 1942 bắt đầu trận chiến giành madagascar bộ binh anh đổ bộ gần các cảng diégo suarez và arrachart là nơi có căn cứ không quân của pháp sau ba ngày quân pháp kháng cự ở đây bị phá vỡ ngày 22 tháng 6 năm 1942 tập đoàn quân 22 đông phi đổ bộ lên bãi biển và vài tuần sau đó lữ đoàn cơ giới số 7 nam phi và lữ đoàn bộ binh 27 rhodesia đến nơi đồng thời chiến sự trên biển vẫn tiếp tục diễn ra hai tàu ngầm pháp bị chìm một chiếc bị hỏng nặng trước hạm đội đối phương cuối tháng 5 đầu tháng 6 bốn tàu ngầm nhật cùng một số tàu ngầm nhỏ cũng hoạt động gần hòn đảo này chúng đánh hỏng thiết giáp hạm hms ramillies và đánh chìm một tàu chở dầu tuy nhiên các hoạt động tiếp theo không đạt kết quả như mong đợi nên quân nhật rời khỏi vùng biển madagascar chỉ sau vài ngày ngày 10 tháng 9 năm 1942 bắt đầu giai đoạn hai chiến dịch lực lượng đồng minh đổ bộ vào phía tây nam đảo chiếm thành phố cảng mahajanga tám ngày sau họ chiếm tamatave cuối tháng 9 quân đồng minh chiếm được thủ phủ cùng thành phố ambalavao
Lịch sử Madagascar
đổ bộ vào phía tây nam đảo, chiếm thành phố cảng Mahajanga. Tám ngày sau, họ chiếm Tamatave. Cuối tháng 9, quân Đồng minh chiếm được thủ phủ cùng thành phố Ambalavao. Đến cuối tháng, họ chiếm thành phố Toliara và Pháo đài Daulphin ở phía tây nam. Ngày 5 tháng 11 năm 1942, lực lượng quân Pháp còn lại ra hàng sau khi phản công bất thành tại Ilhosa ở phía nam đảo. == Lãnh thổ hải ngoại của Pháp. == Chiến tranh góp phần vào quá trình công nghiệp hóa một số thuộc địa châu Âu ở phía nam sa mạc Sahara. Xã hội xuất hiện các giai tầng mới, giai cấp tư sản và vô sản trở thành lực lượng chủ yếu trong đấu tranh giành độc lập. . Mùa thu năm 1945, người Malagasy và dân Pháp định cư trên đảo đã bầu hai đại diện là Joseph Raseta và Joseph Ravoahangy vào Quốc hội Lập hiến của Đệ Tứ Cộng hòa Pháp. Họ ủng hộ ý tưởng về quyền tự quyết như bảo đảm trong Hiến chương Đại Tây Dương năm 1941 và tái xác nhận tại hội nghị Brazzaville ở Congo năm 1944. Tại Paris, Raseta và Ravoahangy cùng nhà văn Malagasy Jacques Rabemananjara thành lập đảng Phong trào Đổi mới Dân chủ Malagasy ("Mouvement Démocratique de la Rénovation Malgache" - MDRM), thống nhất được một số đảng phái chính trị nhỏ hơn trên đảo vào năm 1946. Trong thời gian ngắn, MDRM đã có khoảng ba trăm nghìn thành viên. Trên
đổ bộ vào phía tây nam đảo chiếm thành phố cảng mahajanga tám ngày sau họ chiếm tamatave cuối tháng 9 quân đồng minh chiếm được thủ phủ cùng thành phố ambalavao đến cuối tháng họ chiếm thành phố toliara và pháo đài daulphin ở phía tây nam ngày 5 tháng 11 năm 1942 lực lượng quân pháp còn lại ra hàng sau khi phản công bất thành tại ilhosa ở phía nam đảo == lãnh thổ hải ngoại của pháp == chiến tranh góp phần vào quá trình công nghiệp hóa một số thuộc địa châu âu ở phía nam sa mạc sahara xã hội xuất hiện các giai tầng mới giai cấp tư sản và vô sản trở thành lực lượng chủ yếu trong đấu tranh giành độc lập mùa thu năm 1945 người malagasy và dân pháp định cư trên đảo đã bầu hai đại diện là joseph raseta và joseph ravoahangy vào quốc hội lập hiến của đệ tứ cộng hòa pháp họ ủng hộ ý tưởng về quyền tự quyết như bảo đảm trong hiến chương đại tây dương năm 1941 và tái xác nhận tại hội nghị brazzaville ở congo năm 1944 tại paris raseta và ravoahangy cùng nhà văn malagasy jacques rabemananjara thành lập đảng phong trào đổi mới dân chủ malagasy mouvement démocratique de la rénovation malgache mdrm thống nhất được một số đảng phái chính trị nhỏ hơn trên đảo vào năm 1946 trong thời gian ngắn mdrm đã có khoảng ba trăm nghìn thành viên trên
Lịch sử Madagascar
- MDRM), thống nhất được một số đảng phái chính trị nhỏ hơn trên đảo vào năm 1946. Trong thời gian ngắn, MDRM đã có khoảng ba trăm nghìn thành viên. Trên chính trường, đối thủ của MDRM là Đảng hậu duệ Madagascar (Parti des "Déshérités" "Malgaches") là con cháu những nô lệ duyên hải và cao nguyên trung tâm. Ngày 27 tháng 10 năm 1946, Đệ Tứ Cộng hòa thông qua hiến pháp, biến Madagascar từ thuộc địa thành một lãnh thổ hải ngoại trong Liên hiệp Pháp. Hiến pháp đảm bảo các quyền bình đẳng chính trị của tất cả các lãnh thổ dưới sự kiểm soát của Pháp và quyền công dân cho tất cả cư dân. Madagascar được chia thành các tỉnh do chính quyền địa phương quản lý. Quốc hội có trụ sở tại Anatananarivo gồm những đại diện của tỉnh. Trong cuộc bầu cử đầu tiên, ngoại trừ tỉnh Mahajanga, đa số ghế đều thuộc về đảng MDRM. Bất chấp thay đổi chính trị, tình hình Madagascar không ổn định. Cuộc khủng hoảng kinh tế và xã hội ngày càng sâu sắc, do tình trạng thiếu lương thực, các vụ bê bối, lao động cưỡng bức và căng thẳng sắc tộc, khiến xã hội bất mãn. Ngày 29 tháng 3 năm 1947, những người theo chủ nghĩa dân tộc trong Phong trào Đổi mới Dân chủ Malagasy đã châm ngòi một cuộc nổi dậy (dù các lãnh đạo đảng không tham gia) bùng phát trên một phần ba đảo. Chỉ khi có
mdrm thống nhất được một số đảng phái chính trị nhỏ hơn trên đảo vào năm 1946 trong thời gian ngắn mdrm đã có khoảng ba trăm nghìn thành viên trên chính trường đối thủ của mdrm là đảng hậu duệ madagascar parti des déshérités malgaches là con cháu những nô lệ duyên hải và cao nguyên trung tâm ngày 27 tháng 10 năm 1946 đệ tứ cộng hòa thông qua hiến pháp biến madagascar từ thuộc địa thành một lãnh thổ hải ngoại trong liên hiệp pháp hiến pháp đảm bảo các quyền bình đẳng chính trị của tất cả các lãnh thổ dưới sự kiểm soát của pháp và quyền công dân cho tất cả cư dân madagascar được chia thành các tỉnh do chính quyền địa phương quản lý quốc hội có trụ sở tại anatananarivo gồm những đại diện của tỉnh trong cuộc bầu cử đầu tiên ngoại trừ tỉnh mahajanga đa số ghế đều thuộc về đảng mdrm bất chấp thay đổi chính trị tình hình madagascar không ổn định cuộc khủng hoảng kinh tế và xã hội ngày càng sâu sắc do tình trạng thiếu lương thực các vụ bê bối lao động cưỡng bức và căng thẳng sắc tộc khiến xã hội bất mãn ngày 29 tháng 3 năm 1947 những người theo chủ nghĩa dân tộc trong phong trào đổi mới dân chủ malagasy đã châm ngòi một cuộc nổi dậy dù các lãnh đạo đảng không tham gia bùng phát trên một phần ba đảo chỉ khi có
Lịch sử Madagascar
Phong trào Đổi mới Dân chủ Malagasy đã châm ngòi một cuộc nổi dậy (dù các lãnh đạo đảng không tham gia) bùng phát trên một phần ba đảo. Chỉ khi có quân tiếp viện, Pháp mới có thể khôi phục trật tự. Số lượng nạn nhân ước đoán khác nhau: từ 60, 80 cho đến 100 nghìn người. Báo cáo của Pháp sau vụ việc là 11 nghìn nạn nhân, trong đó 180 người không phải là dân Malagasy. Những người tham gia bị kết án từ án tù ngắn hạn cho đến tử hình, ước tính có khoảng từ năm đến sáu nghìn bản án. Hai mươi thủ lĩnh bị kết án. Năm 1956, chính phủ Pháp ban hành luật tổng tuyển cử, qua đó xóa bỏ rào cản chính trị giữa Merina và "côtier" (người duyên hải), giúp côtier nâng cao vị thế chính trị. Cuối thập niên 1950, mối quan hệ Madagascar với Pháp càng ngày càng căng thẳng. Hai đảng mới được thành lập. Đảng Dân chủ Xã hội Madagascar PSD ("Parti Social Démocrate de" Madagascar) của Philibert Tsiranana ủng hộ quyền tự trị trong Liên hiệp Pháp. Trong thời gian ngắn, các đảng nhỏ hơn của "côtier" đã thống nhất trong PSD. Trung tâm chính của PSD là thành phố Mahajanga, đối lập với MDRM. Đảng thứ hai mới thành lập là Đảng Quốc hội tự do Madgascar AKFM ("Antokon'ny Kongresy Fanafahana an'i Madagasikara"), do Richard Andriamanjato người gốc Merina lãnh đạo. AKFM chủ trương quốc hữu hóa công nghiệp, tập
phong trào đổi mới dân chủ malagasy đã châm ngòi một cuộc nổi dậy dù các lãnh đạo đảng không tham gia bùng phát trên một phần ba đảo chỉ khi có quân tiếp viện pháp mới có thể khôi phục trật tự số lượng nạn nhân ước đoán khác nhau từ 60 80 cho đến 100 nghìn người báo cáo của pháp sau vụ việc là 11 nghìn nạn nhân trong đó 180 người không phải là dân malagasy những người tham gia bị kết án từ án tù ngắn hạn cho đến tử hình ước tính có khoảng từ năm đến sáu nghìn bản án hai mươi thủ lĩnh bị kết án năm 1956 chính phủ pháp ban hành luật tổng tuyển cử qua đó xóa bỏ rào cản chính trị giữa merina và côtier người duyên hải giúp côtier nâng cao vị thế chính trị cuối thập niên 1950 mối quan hệ madagascar với pháp càng ngày càng căng thẳng hai đảng mới được thành lập đảng dân chủ xã hội madagascar psd parti social démocrate de madagascar của philibert tsiranana ủng hộ quyền tự trị trong liên hiệp pháp trong thời gian ngắn các đảng nhỏ hơn của côtier đã thống nhất trong psd trung tâm chính của psd là thành phố mahajanga đối lập với mdrm đảng thứ hai mới thành lập là đảng quốc hội tự do madgascar akfm antokon ny kongresy fanafahana an i madagasikara do richard andriamanjato người gốc merina lãnh đạo akfm chủ trương quốc hữu hóa công nghiệp tập
Lịch sử Madagascar
thành lập là Đảng Quốc hội tự do Madgascar AKFM ("Antokon'ny Kongresy Fanafahana an'i Madagasikara"), do Richard Andriamanjato người gốc Merina lãnh đạo. AKFM chủ trương quốc hữu hóa công nghiệp, tập thể hóa, rời khỏi Liên hiệp Pháp và bài bác ngôn ngữ, phong tục và văn hóa Pháp để ủng hộ truyền thống Malagasy. Ngày 4 tháng 10 năm 1958, Đệ Ngũ Cộng hòa thông qua hiến pháp. Theo đó, Cộng đồng Pháp được thành lập, tiếp quản lãnh thổ của đế quốc thực dân Pháp trước đây. Cộng đồng có quyền đưa quyết định về chính sách đối ngoại, quốc phòng, tài chính, kinh tế, tư pháp, giáo dục đại học, giao thông vận tải, bưu chính và điện báo. Ý tưởng ban đầu của Cộng đồng Pháp là chuyển đổi các thuộc địa cũ thành nước cộng hòa tự trị và tăng cường mối quan hệ chính trị và kinh tế giữa các nước này với chính quốc. Ngày 28 tháng 9 năm 1958, Madagascar tổ chứctrưng cầu dân ý để xác định tương lai đất nước. Ngày 14 tháng 10 năm 1958, Cộng hòa Malagasy tự trị trở thành một phần của Cộng đồng Pháp trên cơ sở kết quả trưng cầu dân ý. Ngày 27 tháng 4 năm 1959 bầu ra tổng thống đầu tiên là Philibert Tsiranana của đảng PSD. == Madagascar độc lập. == === Đệ nhất cộng hòa. === Ngày 24 tháng 6 năm 1960, Hiến pháp sửa đổi của Đệ Ngũ Cộng hòa Pháp cho phép thành viên có vị thế
thành lập là đảng quốc hội tự do madgascar akfm antokon ny kongresy fanafahana an i madagasikara do richard andriamanjato người gốc merina lãnh đạo akfm chủ trương quốc hữu hóa công nghiệp tập thể hóa rời khỏi liên hiệp pháp và bài bác ngôn ngữ phong tục và văn hóa pháp để ủng hộ truyền thống malagasy ngày 4 tháng 10 năm 1958 đệ ngũ cộng hòa thông qua hiến pháp theo đó cộng đồng pháp được thành lập tiếp quản lãnh thổ của đế quốc thực dân pháp trước đây cộng đồng có quyền đưa quyết định về chính sách đối ngoại quốc phòng tài chính kinh tế tư pháp giáo dục đại học giao thông vận tải bưu chính và điện báo ý tưởng ban đầu của cộng đồng pháp là chuyển đổi các thuộc địa cũ thành nước cộng hòa tự trị và tăng cường mối quan hệ chính trị và kinh tế giữa các nước này với chính quốc ngày 28 tháng 9 năm 1958 madagascar tổ chứctrưng cầu dân ý để xác định tương lai đất nước ngày 14 tháng 10 năm 1958 cộng hòa malagasy tự trị trở thành một phần của cộng đồng pháp trên cơ sở kết quả trưng cầu dân ý ngày 27 tháng 4 năm 1959 bầu ra tổng thống đầu tiên là philibert tsiranana của đảng psd == madagascar độc lập == === đệ nhất cộng hòa === ngày 24 tháng 6 năm 1960 hiến pháp sửa đổi của đệ ngũ cộng hòa pháp cho phép thành viên có vị thế
Lịch sử Madagascar
PSD. == Madagascar độc lập. == === Đệ nhất cộng hòa. === Ngày 24 tháng 6 năm 1960, Hiến pháp sửa đổi của Đệ Ngũ Cộng hòa Pháp cho phép thành viên có vị thế độc lập trong Cộng đồng Pháp. Ngày 26 tháng 6 năm 1960, Madagascar được trao độc lập, thuộc Cộng đồng Pháp, kèm 14 hiệp định chỉnh sửa về quan hệ Pháp-Madagascar. Ngày 20 tháng 6 năm 1960, Madagascar gia nhập Liên hợp quốc cùng với 16 nước châu Phi khác tuyên bố độc lập vào Năm châu Phi. Tháng 12 năm 1960, Madagascar tham gia "Nhóm Brazzaville" là liên kết giữa Cộng đồng Pháp với các nước châu Phi khác gồm Thượng Volta, Niger, Bénin, Togo, Bờ Biển Ngà và Cameroon. Một năm sau, tại hội nghị Yaoundé, nhóm Brazzaville đã thành lập Tổ chức Hợp tác Kinh tế Phi-Malagasy OAMCE ("Organization Africaine et Malgache de Coopération Economique"), nhằm chuẩn bị nền tảng cho việc hình thành một thị trường chung châu Phi. Đặc trưng thời đầu Tsiranana cầm quyền là sự hợp tác giữa MDRM và AKFM. Tổng thống cũng nỗ lực duy trì và thắt chặt các mối quan hệ chính trị và kinh tế với Pháp và các nước phương Tây. Ông xây dựng quyền lực của mình dựa trên sự ủng hộ của "côtier", bỏ qua tầng lớp thanh niên và trung lưu Merina. Đầu thập niên 1970, các thế lực chính trị mới xuất hiện. Tháng 4 năm 1971, Phong trào Độc lập Quốc gia Madagascar Monima ("Mouvement pour l'Indépendance National de
psd == madagascar độc lập == === đệ nhất cộng hòa === ngày 24 tháng 6 năm 1960 hiến pháp sửa đổi của đệ ngũ cộng hòa pháp cho phép thành viên có vị thế độc lập trong cộng đồng pháp ngày 26 tháng 6 năm 1960 madagascar được trao độc lập thuộc cộng đồng pháp kèm 14 hiệp định chỉnh sửa về quan hệ pháp-madagascar ngày 20 tháng 6 năm 1960 madagascar gia nhập liên hợp quốc cùng với 16 nước châu phi khác tuyên bố độc lập vào năm châu phi tháng 12 năm 1960 madagascar tham gia nhóm brazzaville là liên kết giữa cộng đồng pháp với các nước châu phi khác gồm thượng volta niger bénin togo bờ biển ngà và cameroon một năm sau tại hội nghị yaoundé nhóm brazzaville đã thành lập tổ chức hợp tác kinh tế phi-malagasy oamce organization africaine et malgache de coopération economique nhằm chuẩn bị nền tảng cho việc hình thành một thị trường chung châu phi đặc trưng thời đầu tsiranana cầm quyền là sự hợp tác giữa mdrm và akfm tổng thống cũng nỗ lực duy trì và thắt chặt các mối quan hệ chính trị và kinh tế với pháp và các nước phương tây ông xây dựng quyền lực của mình dựa trên sự ủng hộ của côtier bỏ qua tầng lớp thanh niên và trung lưu merina đầu thập niên 1970 các thế lực chính trị mới xuất hiện tháng 4 năm 1971 phong trào độc lập quốc gia madagascar monima mouvement pour l indépendance national de
Lịch sử Madagascar
và trung lưu Merina. Đầu thập niên 1970, các thế lực chính trị mới xuất hiện. Tháng 4 năm 1971, Phong trào Độc lập Quốc gia Madagascar Monima ("Mouvement pour l'Indépendance National de Madagascar") ra đời theo sáng kiến của Monj Jaon là người từng tham gia nổi dậy năm 1947. Năm 1971, Monima dẫn dắt nông dân nổi dậy ở tỉnh Toliara là nơi bị dịch bệnh gia súc ảnh hưởng mạnh. Chính phủ đáng nhẽ phải miễn thuế lại tiếp tục đánh thuế. Phiến quân trông đợi Trung Quốc hỗ trợ quân sự nhưng không thành. Cuộc nổi dậy thất bại và các lãnh đạo gồm cả Monja Jaona bị trục xuất đến đảo Nosy Lava. Phải đến một nghìn người chết trong cuộc nổi dậy. Monima bị cấm hoạt động. Thứ nhì là giới sinh viên chống đối ở Antananarivo vào năm 1972. Nguyên nhân là sự bất mãn với chính quyền buông lỏng văn hóa, giáo dục. Các thỏa thuận hợp tác văn hóa với Pháp không được tiếp tục, đồng thời việc vào trường đại học là rất khó khăn với con em hộ nghèo. Phong trào bãi khóa biểu tình của sinh viên vang dội khắp các tỉnh. Các quan chức, công nhân, nông dân và những người thất nghiệp cũng tham gia. Những người biểu tình bao vây tòa thị chính và các văn phòng báo chí tiếng Pháp. Ngày 12–13 tháng 5 năm 1972, chính phủ quyết định huy động Lực lượng An ninh Cộng hòa FRS ("Force Républicaine de
và trung lưu merina đầu thập niên 1970 các thế lực chính trị mới xuất hiện tháng 4 năm 1971 phong trào độc lập quốc gia madagascar monima mouvement pour l indépendance national de madagascar ra đời theo sáng kiến của monj jaon là người từng tham gia nổi dậy năm 1947 năm 1971 monima dẫn dắt nông dân nổi dậy ở tỉnh toliara là nơi bị dịch bệnh gia súc ảnh hưởng mạnh chính phủ đáng nhẽ phải miễn thuế lại tiếp tục đánh thuế phiến quân trông đợi trung quốc hỗ trợ quân sự nhưng không thành cuộc nổi dậy thất bại và các lãnh đạo gồm cả monja jaona bị trục xuất đến đảo nosy lava phải đến một nghìn người chết trong cuộc nổi dậy monima bị cấm hoạt động thứ nhì là giới sinh viên chống đối ở antananarivo vào năm 1972 nguyên nhân là sự bất mãn với chính quyền buông lỏng văn hóa giáo dục các thỏa thuận hợp tác văn hóa với pháp không được tiếp tục đồng thời việc vào trường đại học là rất khó khăn với con em hộ nghèo phong trào bãi khóa biểu tình của sinh viên vang dội khắp các tỉnh các quan chức công nhân nông dân và những người thất nghiệp cũng tham gia những người biểu tình bao vây tòa thị chính và các văn phòng báo chí tiếng pháp ngày 12–13 tháng 5 năm 1972 chính phủ quyết định huy động lực lượng an ninh cộng hòa frs force républicaine de
Lịch sử Madagascar
thị chính và các văn phòng báo chí tiếng Pháp. Ngày 12–13 tháng 5 năm 1972, chính phủ quyết định huy động Lực lượng An ninh Cộng hòa FRS ("Force Républicaine de Sécurité") đàn áp. Ngày 13 tháng 5, FRS xả súng vào đoàn biểu tình khiến từ 15 đến 40 người thiệt mạng và khoảng 150 người bị thương. Các thủ lĩnh bị bắt và đày đến Nosy Lava. Biểu tình bị cấm. Tsiranana tuyên bố thiết quân luật. === Thiết quân luật 1972–1975. === Ngày 18 tháng 5, chính phủ Tsiranana từ chức. Quân đội dưới sự chỉ hủy của Tướng Gabriel Ramanantso tiếp quản quyền lực, phe đối lập và những người biểu tình đều chấp nhận. Tsinaranana vẫn giữ ghế cho đến 11 tháng 10 năm 1972 thì không chịu nổi áp lực dư luận liền từ chức và và bàn giao chức vụ lại cho Ramanantso. Chế độ quân quản Ramanantso không giải quyết được các vấn đề kinh tế. Thêm vào đó là mâu thuẫn sắc tộc trong quân đội. Ngày 31 tháng 12 năm 1974, một số sĩ quan côtier thực hiện đảo chính. Ngày 5 tháng 2 năm 1975, Ramanantsoa bàn giao lại cho Đại tá Richard Ratsimandrava. Ngày 11 tháng 2, Ratsimadrava bị ám sát. Trước tình hình nội chiến có thể bủng nổ, Quân đội Quốc gia nắm chính quyền trong nước, tiến hành kiểm duyệt và đình chỉ hoạt động tất cả các đảng phái chính trị. Ngày 15 tháng 6 năm 1975, Didier Ratsiraka người Betsimisaraka được bổ
thị chính và các văn phòng báo chí tiếng pháp ngày 12–13 tháng 5 năm 1972 chính phủ quyết định huy động lực lượng an ninh cộng hòa frs force républicaine de sécurité đàn áp ngày 13 tháng 5 frs xả súng vào đoàn biểu tình khiến từ 15 đến 40 người thiệt mạng và khoảng 150 người bị thương các thủ lĩnh bị bắt và đày đến nosy lava biểu tình bị cấm tsiranana tuyên bố thiết quân luật === thiết quân luật 1972–1975 === ngày 18 tháng 5 chính phủ tsiranana từ chức quân đội dưới sự chỉ hủy của tướng gabriel ramanantso tiếp quản quyền lực phe đối lập và những người biểu tình đều chấp nhận tsinaranana vẫn giữ ghế cho đến 11 tháng 10 năm 1972 thì không chịu nổi áp lực dư luận liền từ chức và và bàn giao chức vụ lại cho ramanantso chế độ quân quản ramanantso không giải quyết được các vấn đề kinh tế thêm vào đó là mâu thuẫn sắc tộc trong quân đội ngày 31 tháng 12 năm 1974 một số sĩ quan côtier thực hiện đảo chính ngày 5 tháng 2 năm 1975 ramanantsoa bàn giao lại cho đại tá richard ratsimandrava ngày 11 tháng 2 ratsimadrava bị ám sát trước tình hình nội chiến có thể bủng nổ quân đội quốc gia nắm chính quyền trong nước tiến hành kiểm duyệt và đình chỉ hoạt động tất cả các đảng phái chính trị ngày 15 tháng 6 năm 1975 didier ratsiraka người betsimisaraka được bổ
Lịch sử Madagascar
nắm chính quyền trong nước, tiến hành kiểm duyệt và đình chỉ hoạt động tất cả các đảng phái chính trị. Ngày 15 tháng 6 năm 1975, Didier Ratsiraka người Betsimisaraka được bổ nhiệm nắm quyền chủ tịch cơ quan quyền lực nhà nước mới được thành lập - Hội đồng Cách mạng Tối cao. === Đệ nhị cộng hòa. === Ngày 21 tháng 12 năm 1975, Madagascar tổ chức trưng cầu dân ý khai sinh ra Đệ nhị cộng hòa do cựu chủ tịch Hội đồng Cách mạng Tối cao Didier Ratsiraka đứng đầu. Tổng thống ký Hiến chương Cách mạng Malagasy "(Boky Mena") thể hiện định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo "Boky Mena", xã hội Madagascar phải dựa trên "năm trụ cột cách mạng": Hội đồng Cách mạng Tối cao, giai cấp nông dân-lao động, giới trí thức, phụ nữ và quân đội. Đường lối chính trị mới đã ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực đời sống. Hội đồng Cách mạng Tối cao nắm quyền kiểm soát nền kinh tế và các phương tiện truyền thông. Việc phi thực dân hóa hòn đảo và quốc hữu hóa nền kinh tế làm suy yếu mối quan hệ chính trị giữa Madagascar với Pháp, dù Pháp vẫn là đối tác thương mại của Đệ Nhị Cộng hòa. Chính phủ tiến hành "Malagasy hóa" tập trung phát triển giáo dục và truyền thông bản địa. Định hướng xã hội chủ nghĩa, Madagascar thiết lập quan hệ với các quốc gia xã hội chủ nghĩa. Các quốc gia này giúp cho
nắm chính quyền trong nước tiến hành kiểm duyệt và đình chỉ hoạt động tất cả các đảng phái chính trị ngày 15 tháng 6 năm 1975 didier ratsiraka người betsimisaraka được bổ nhiệm nắm quyền chủ tịch cơ quan quyền lực nhà nước mới được thành lập hội đồng cách mạng tối cao === đệ nhị cộng hòa === ngày 21 tháng 12 năm 1975 madagascar tổ chức trưng cầu dân ý khai sinh ra đệ nhị cộng hòa do cựu chủ tịch hội đồng cách mạng tối cao didier ratsiraka đứng đầu tổng thống ký hiến chương cách mạng malagasy boky mena thể hiện định hướng xã hội chủ nghĩa theo boky mena xã hội madagascar phải dựa trên năm trụ cột cách mạng hội đồng cách mạng tối cao giai cấp nông dân-lao động giới trí thức phụ nữ và quân đội đường lối chính trị mới đã ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực đời sống hội đồng cách mạng tối cao nắm quyền kiểm soát nền kinh tế và các phương tiện truyền thông việc phi thực dân hóa hòn đảo và quốc hữu hóa nền kinh tế làm suy yếu mối quan hệ chính trị giữa madagascar với pháp dù pháp vẫn là đối tác thương mại của đệ nhị cộng hòa chính phủ tiến hành malagasy hóa tập trung phát triển giáo dục và truyền thông bản địa định hướng xã hội chủ nghĩa madagascar thiết lập quan hệ với các quốc gia xã hội chủ nghĩa các quốc gia này giúp cho
Lịch sử Madagascar
giáo dục và truyền thông bản địa. Định hướng xã hội chủ nghĩa, Madagascar thiết lập quan hệ với các quốc gia xã hội chủ nghĩa. Các quốc gia này giúp cho đồng minh châu Phi một mô hình khác chủ nghĩa tư bản phương Tây. Tháng 1 năm 1976, mười dân sự được phép tham gia Hội đồng Cách mạng Tối cao của quân đội để tăng cường quyền lực chính phủ. Hai tháng sau, đảng Bảo lãnh Cách mạng Malagasy AREMA ("Antokin'ny Revolisiona Malagasy") ra đời với tổng thống đứng đầu. AREMA cùng năm đảng khác thành lập Mặt trận Quốc gia Phòng vệ Cách mạng FNDR ("Front National pour la Défense de la Révolution"). Năm 1977, dân chúng bất mãn với chính sách kinh tế. Khủng hoảng kinh tế ngày càng trầm trọng làm nổ ra biểu tình chống chính phủ tại Antananarivo vào tháng 9 năm 1977 và tháng 5 năm 1978, tại các cuộc biểu tình chống chính phủ được tháng 9 năm 1977 và tháng 5 năm 1978. Ratsiraka cả hai lần đều điều quân đội để thiết lập lại trật tự ở thủ đô. Nhưng việc dân chúng pahnr kháng khiến chính phủ phải nới lỏng chính sách kinh tế và thực hiện các cải cách thị trường tự do mà Quỹ Tiền tệ Quốc tế yêu cầu để hỗ trợ tài chính. Thập niên 1980, dân chúng giảm ủng hộ AREMA và Ratsiraki do tác động từ những thay đổi ở châu Âu. Bức tường Berlin sụp đổ khối cộng sản
giáo dục và truyền thông bản địa định hướng xã hội chủ nghĩa madagascar thiết lập quan hệ với các quốc gia xã hội chủ nghĩa các quốc gia này giúp cho đồng minh châu phi một mô hình khác chủ nghĩa tư bản phương tây tháng 1 năm 1976 mười dân sự được phép tham gia hội đồng cách mạng tối cao của quân đội để tăng cường quyền lực chính phủ hai tháng sau đảng bảo lãnh cách mạng malagasy arema antokin ny revolisiona malagasy ra đời với tổng thống đứng đầu arema cùng năm đảng khác thành lập mặt trận quốc gia phòng vệ cách mạng fndr front national pour la défense de la révolution năm 1977 dân chúng bất mãn với chính sách kinh tế khủng hoảng kinh tế ngày càng trầm trọng làm nổ ra biểu tình chống chính phủ tại antananarivo vào tháng 9 năm 1977 và tháng 5 năm 1978 tại các cuộc biểu tình chống chính phủ được tháng 9 năm 1977 và tháng 5 năm 1978 ratsiraka cả hai lần đều điều quân đội để thiết lập lại trật tự ở thủ đô nhưng việc dân chúng pahnr kháng khiến chính phủ phải nới lỏng chính sách kinh tế và thực hiện các cải cách thị trường tự do mà quỹ tiền tệ quốc tế yêu cầu để hỗ trợ tài chính thập niên 1980 dân chúng giảm ủng hộ arema và ratsiraki do tác động từ những thay đổi ở châu âu bức tường berlin sụp đổ khối cộng sản
Lịch sử Madagascar
hỗ trợ tài chính. Thập niên 1980, dân chúng giảm ủng hộ AREMA và Ratsiraki do tác động từ những thay đổi ở châu Âu. Bức tường Berlin sụp đổ khối cộng sản suy yếu làm chính trị Madagascar cũng thay đổi. Năm 1989, các nhà quan sát bầu cử quốc tế báo cáo những bất thường và vi phạm quy tắc bỏ phiếu, thổi bùng lên bạo loạn tại thủ đô. Ratsiraka dùng quân đội dập tắt bạo loạn, khoảng 75 người thiệt mạng và bị thương. Tháng 5 năm 1991, cả nước tổng đình công làm tê liệt nền kinh tế. Ngày 10 tháng 8 năm 1991, khoảng bốn trăm nghìn người Malagasy tham gia biểu tình ôn hòa bên ngoài dinh tổng thống. Bảo vệ dinh tổng thống nổ súng vào những người biểu tình. Ngày 31 tháng 10 năm 1991, Ratsiraka buộc phải ký thỏa thuận thành lập hiến pháp mới chấp nhận đa nguyên chính trị. Lãnh đạo của đảng đối lập Ủy ban Sinh lực CFV ("Comité des Forces Vives") Albert Zafy thuộc bộ tộc "Tsimiheta" đã tham gia quá trình dân chủ hóa nhà nước. Ngày 19 tháng 8 năm 1992, Madagascar thông qua dự thảo hiến pháp mới hạn chế quyền hạn của tổng thống. Ngày 25 tháng 11 tổ chức bầu cử tổng thống. Ở vòng đầu, Albert Zafy lãnh đạo CFV giành được 46% số phiếu, đại diện đảng Phong trào dân quân chủ nghĩa xã hội Malagasy MMSM ("Mouvement Militant pour le Socialisme Malgache") mới thành lập
hỗ trợ tài chính thập niên 1980 dân chúng giảm ủng hộ arema và ratsiraki do tác động từ những thay đổi ở châu âu bức tường berlin sụp đổ khối cộng sản suy yếu làm chính trị madagascar cũng thay đổi năm 1989 các nhà quan sát bầu cử quốc tế báo cáo những bất thường và vi phạm quy tắc bỏ phiếu thổi bùng lên bạo loạn tại thủ đô ratsiraka dùng quân đội dập tắt bạo loạn khoảng 75 người thiệt mạng và bị thương tháng 5 năm 1991 cả nước tổng đình công làm tê liệt nền kinh tế ngày 10 tháng 8 năm 1991 khoảng bốn trăm nghìn người malagasy tham gia biểu tình ôn hòa bên ngoài dinh tổng thống bảo vệ dinh tổng thống nổ súng vào những người biểu tình ngày 31 tháng 10 năm 1991 ratsiraka buộc phải ký thỏa thuận thành lập hiến pháp mới chấp nhận đa nguyên chính trị lãnh đạo của đảng đối lập ủy ban sinh lực cfv comité des forces vives albert zafy thuộc bộ tộc tsimiheta đã tham gia quá trình dân chủ hóa nhà nước ngày 19 tháng 8 năm 1992 madagascar thông qua dự thảo hiến pháp mới hạn chế quyền hạn của tổng thống ngày 25 tháng 11 tổ chức bầu cử tổng thống ở vòng đầu albert zafy lãnh đạo cfv giành được 46% số phiếu đại diện đảng phong trào dân quân chủ nghĩa xã hội malagasy mmsm mouvement militant pour le socialisme malgache mới thành lập
Lịch sử Madagascar
Albert Zafy lãnh đạo CFV giành được 46% số phiếu, đại diện đảng Phong trào dân quân chủ nghĩa xã hội Malagasy MMSM ("Mouvement Militant pour le Socialisme Malgache") mới thành lập giành được 29% phiếu bầu. Vòng hai diễn ra ngày 10 tháng 2 năm 1993, Zafy giành được lợi thế với 67% phiếu bầu. === Đệ Tam Cộng hòa. === Ngày 27 tháng 3 năm 1993, tân tổng thống nhậm chức, khai sinh Đệ Tam Cộng hòa. Ngày 13 tháng 6 năm 1993 diễn ra bầu cử quốc hội với đa số thuộc đảng CFV tạo nên liên minh chính phủ mạnh mẽ. Nhưng đầu năm 1994, chính phủ phải đối mặt với khủng hoảng kinh tế và chính trị. Sự chia rẽ sắc tộc trong liên minh ngày càng sâu sắc. Thâm hụt ngân sách gia tăng. Tháng 7 năm 1996, triều đại Zafy kết thúc bằng phiên luận tội khi quốc hội cáo buộc tổng thống lạm quyền. cCuộc bầu cử sớm tháng 11 năm 1996 mang về chiến thắng cho cựu tổng thống Didier Ratsiraka. Năm 1998, bầu cử quốc hội chứng kiến sự bao trùm hầu hết của AREMA. Khủng hoảng kinh tế vào thời điểm chuyển giao thiên niên kỷ và tình trạng bất ổn ngày càng gia tăng trong nước buộc phải bầu cử tổng thống sớm. Tháng 12 năm 2001, cả hai ứng viên Didier Ratsiraka và Marc Ravalomanana đều không công nhận kết quả, dẫn tới việc thành lập hai trung tâm quyền lực làm khủng hoảng hiến pháp.
albert zafy lãnh đạo cfv giành được 46% số phiếu đại diện đảng phong trào dân quân chủ nghĩa xã hội malagasy mmsm mouvement militant pour le socialisme malgache mới thành lập giành được 29% phiếu bầu vòng hai diễn ra ngày 10 tháng 2 năm 1993 zafy giành được lợi thế với 67% phiếu bầu === đệ tam cộng hòa === ngày 27 tháng 3 năm 1993 tân tổng thống nhậm chức khai sinh đệ tam cộng hòa ngày 13 tháng 6 năm 1993 diễn ra bầu cử quốc hội với đa số thuộc đảng cfv tạo nên liên minh chính phủ mạnh mẽ nhưng đầu năm 1994 chính phủ phải đối mặt với khủng hoảng kinh tế và chính trị sự chia rẽ sắc tộc trong liên minh ngày càng sâu sắc thâm hụt ngân sách gia tăng tháng 7 năm 1996 triều đại zafy kết thúc bằng phiên luận tội khi quốc hội cáo buộc tổng thống lạm quyền ccuộc bầu cử sớm tháng 11 năm 1996 mang về chiến thắng cho cựu tổng thống didier ratsiraka năm 1998 bầu cử quốc hội chứng kiến sự bao trùm hầu hết của arema khủng hoảng kinh tế vào thời điểm chuyển giao thiên niên kỷ và tình trạng bất ổn ngày càng gia tăng trong nước buộc phải bầu cử tổng thống sớm tháng 12 năm 2001 cả hai ứng viên didier ratsiraka và marc ravalomanana đều không công nhận kết quả dẫn tới việc thành lập hai trung tâm quyền lực làm khủng hoảng hiến pháp
Lịch sử Madagascar
năm 2001, cả hai ứng viên Didier Ratsiraka và Marc Ravalomanana đều không công nhận kết quả, dẫn tới việc thành lập hai trung tâm quyền lực làm khủng hoảng hiến pháp. Ratsiraka tập trung quyền lực ở tỉnh Mahajanga, nơi đông người côtier và thậm chí còn đe dọa ly khai. Tại Antananarivo, đối thủ Marc Ravalomanana nắm quyền dưới hỗ trợ của Tòa án tối cao và cư dân miền trung. Tổ chức châu Phi thống nhất và Hoa Kỳ hỗ trợ Ravalomanana để giải quyết xung đột tại Madagascar. Giữa năm 2002, Ratsiraka đồng ý rời đến Pháp. Cùng năm, ông bị buộc tội tham ô tám triệu đô la Mỹ và bị kết án mười năm lao động công ích. (Năm 2011, do làn sóng dân chủ hóa, ông được xóa bỏ mọi tội danh và được phép hồi hương.) Tháng 12 năm 2002, bầu cử quốc hội chứng kiến chiến thắng thuộc về đảng Tôi yêu Madagascar TIM ("Tiako I Madagasikara)" của Ravalomanana. Đảng AREMA chiếm đa số trong Thượng viện. Bắt đầu nắm quyền, Ravalomanana tuyên bố ý định cắt đứt ảnh hưởng của Pháp đối với văn hóa giáo dục Madagascar, tuyên bố khôi phục ngôn ngữ và truyền thống, xóa bỏ tham nhũng, cải thiện cơ sở hạ tầng và phúc lợi xã hội. . Madagascar thời Ravalomanana là một trong những đất nước nghèo nhất ở châu Phi. Tổng thống bị chỉ trích vì đã không thực hiện được xóa đói giảm nghèo, dù có những cố gắng
năm 2001 cả hai ứng viên didier ratsiraka và marc ravalomanana đều không công nhận kết quả dẫn tới việc thành lập hai trung tâm quyền lực làm khủng hoảng hiến pháp ratsiraka tập trung quyền lực ở tỉnh mahajanga nơi đông người côtier và thậm chí còn đe dọa ly khai tại antananarivo đối thủ marc ravalomanana nắm quyền dưới hỗ trợ của tòa án tối cao và cư dân miền trung tổ chức châu phi thống nhất và hoa kỳ hỗ trợ ravalomanana để giải quyết xung đột tại madagascar giữa năm 2002 ratsiraka đồng ý rời đến pháp cùng năm ông bị buộc tội tham ô tám triệu đô la mỹ và bị kết án mười năm lao động công ích năm 2011 do làn sóng dân chủ hóa ông được xóa bỏ mọi tội danh và được phép hồi hương tháng 12 năm 2002 bầu cử quốc hội chứng kiến chiến thắng thuộc về đảng tôi yêu madagascar tim tiako i madagasikara của ravalomanana đảng arema chiếm đa số trong thượng viện bắt đầu nắm quyền ravalomanana tuyên bố ý định cắt đứt ảnh hưởng của pháp đối với văn hóa giáo dục madagascar tuyên bố khôi phục ngôn ngữ và truyền thống xóa bỏ tham nhũng cải thiện cơ sở hạ tầng và phúc lợi xã hội madagascar thời ravalomanana là một trong những đất nước nghèo nhất ở châu phi tổng thống bị chỉ trích vì đã không thực hiện được xóa đói giảm nghèo dù có những cố gắng
Lịch sử Madagascar
Ravalomanana là một trong những đất nước nghèo nhất ở châu Phi. Tổng thống bị chỉ trích vì đã không thực hiện được xóa đói giảm nghèo, dù có những cố gắng hiện đại hóa cơ sở hạ tầng và cải thiện giáo dục và yê tế, cũng như hạn chế được tình trạng tham nhũng. Khủng hoảng tồi tệ hơn, lạm phát và thất nghiệp gia tăng. Ngày 18 tháng 11 năm 2006, nhân khi Ravalomanana ở nước ngoài, Madagascar diễn ra đảo chính nhưng thất bại. Tướng Andrianafidisoa chất vấn thẩm quyền tổng thống và tuyên bố thiết quân luật. Xung đột được giải quyết xong trước cuộc bầu cử tổng thống tháng 12, Ravalomanana tái đắc cử. . Tháng 7 năm 2007, Ravalomanana giải tán Quốc hội với lý do không được công chúng ủng hộ. Tháng 1 năm 2009, bắt đầu khủng hoảng chính trị và biểu tỉnh chống đối Marc Ravalomanana bắt đầu. Ngày 17 tháng 3 năm 2009, sau nhiều tháng bất ổn, tổng thống từ chức để trạo lại quyền lực cho thủ lĩnh biểu tình là thị trưởng Antananarivo Andry Rajoelina. === Đệ Tứ Cộng hòa. === Andra Rajoelina tiến hành cải cách kinh tế và chính trị nhằm đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng. Ngày 9 tháng 8 năm 2009, Rajoelina ký thỏa thuận với phe đối lập, nhưng rút khỏi thỏa thuận vào tháng 12. Với sự ủng hộ của 99 đảng chính trị nhỏ hơn, ông ấn định ngày bầu cử tổng thống, quốc hội và trưng
ravalomanana là một trong những đất nước nghèo nhất ở châu phi tổng thống bị chỉ trích vì đã không thực hiện được xóa đói giảm nghèo dù có những cố gắng hiện đại hóa cơ sở hạ tầng và cải thiện giáo dục và yê tế cũng như hạn chế được tình trạng tham nhũng khủng hoảng tồi tệ hơn lạm phát và thất nghiệp gia tăng ngày 18 tháng 11 năm 2006 nhân khi ravalomanana ở nước ngoài madagascar diễn ra đảo chính nhưng thất bại tướng andrianafidisoa chất vấn thẩm quyền tổng thống và tuyên bố thiết quân luật xung đột được giải quyết xong trước cuộc bầu cử tổng thống tháng 12 ravalomanana tái đắc cử tháng 7 năm 2007 ravalomanana giải tán quốc hội với lý do không được công chúng ủng hộ tháng 1 năm 2009 bắt đầu khủng hoảng chính trị và biểu tỉnh chống đối marc ravalomanana bắt đầu ngày 17 tháng 3 năm 2009 sau nhiều tháng bất ổn tổng thống từ chức để trạo lại quyền lực cho thủ lĩnh biểu tình là thị trưởng antananarivo andry rajoelina === đệ tứ cộng hòa === andra rajoelina tiến hành cải cách kinh tế và chính trị nhằm đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng ngày 9 tháng 8 năm 2009 rajoelina ký thỏa thuận với phe đối lập nhưng rút khỏi thỏa thuận vào tháng 12 với sự ủng hộ của 99 đảng chính trị nhỏ hơn ông ấn định ngày bầu cử tổng thống quốc hội và trưng
Lịch sử Madagascar
lập, nhưng rút khỏi thỏa thuận vào tháng 12. Với sự ủng hộ của 99 đảng chính trị nhỏ hơn, ông ấn định ngày bầu cử tổng thống, quốc hội và trưng cầu dân ý về hiến pháp. Trưng cầu dân ý được tổ chức ngày 17 tháng 11 năm 2010, mặc cho một nhóm sĩ quan định lật đổ chính phủ lâm thời, công chúng đã chấp nhận đề xuất thay đổi của Rajoelina. Ngày 11 tháng 12 năm 2010, Hiến pháp mới có hiệu lực từ đó thiết lập nền Đệ Tứ Cộng hòa. Hiến pháp dự kiến thay đổi về độ tuổi ứng viên tổng thống cũng như yêu cầu về nơi cư trú, đặt ra thể chế mới và có thể trừng phạt chính phủ lâm thời. == Thư mục. == BULLET::::- "Afryka naszych czasów. Problemy integracji państwowej, narodowej i panafrykańskiej", red. J. Chałasiński, Wrocław 1976. BULLET::::- Barié O. i in., "Wiek totalitaryzmu – I wojna światowa i zarzewie II wojny światowej", Madrid–Kraków 2008. . . BULLET::::- Baszkiewicz J., "Historia Francji", Wrocław 1978. BULLET::::- Carpanetto D. i in., "Wiek XVII – wiek absolutyzmu", Madrid–Kraków 2007. . . BULLET::::- Davidson B., "Czarna matka", Warszawa 1963. BULLET::::- Davidson B., "Stara Afryka na nowo odkryta", Warszawa 1961. BULLET::::- De Luna G., "Od II wojny światowej do wojny o niepodległość Wietnamu", Madrid–Kraków 2008. . . BULLET::::- Gornung M. B., Lipiec J. G., Olejnikow I. N., "Historia poznania Afryki", Warszawa 1977. BULLET::::- "Historia Afryki do początku XIX wieku", red. M. Tymowski, Wrocław 1996. . BULLET::::- Lafeber i in., "Wiek imperializmu", Madrid–Kraków 2008. . . BULLET::::- Loth J., "Afryka", Warszawa
lập nhưng rút khỏi thỏa thuận vào tháng 12 với sự ủng hộ của 99 đảng chính trị nhỏ hơn ông ấn định ngày bầu cử tổng thống quốc hội và trưng cầu dân ý về hiến pháp trưng cầu dân ý được tổ chức ngày 17 tháng 11 năm 2010 mặc cho một nhóm sĩ quan định lật đổ chính phủ lâm thời công chúng đã chấp nhận đề xuất thay đổi của rajoelina ngày 11 tháng 12 năm 2010 hiến pháp mới có hiệu lực từ đó thiết lập nền đệ tứ cộng hòa hiến pháp dự kiến thay đổi về độ tuổi ứng viên tổng thống cũng như yêu cầu về nơi cư trú đặt ra thể chế mới và có thể trừng phạt chính phủ lâm thời == thư mục == bullet afryka naszych czasów problemy integracji państwowej narodowej i panafrykańskiej red j chałasiński wrocław 1976 bullet barié o i in wiek totalitaryzmu – i wojna światowa i zarzewie ii wojny światowej madrid–kraków 2008 bullet baszkiewicz j historia francji wrocław 1978 bullet carpanetto d i in wiek xvii – wiek absolutyzmu madrid–kraków 2007 bullet davidson b czarna matka warszawa 1963 bullet davidson b stara afryka na nowo odkryta warszawa 1961 bullet de luna g od ii wojny światowej do wojny o niepodległość wietnamu madrid–kraków 2008 bullet gornung m b lipiec j g olejnikow i n historia poznania afryki warszawa 1977 bullet historia afryki do początku xix wieku red m tymowski wrocław 1996 bullet lafeber i in wiek imperializmu madrid–kraków 2008 bullet loth j afryka warszawa
Lịch sử Madagascar
I. N., "Historia poznania Afryki", Warszawa 1977. BULLET::::- "Historia Afryki do początku XIX wieku", red. M. Tymowski, Wrocław 1996. . BULLET::::- Lafeber i in., "Wiek imperializmu", Madrid–Kraków 2008. . . BULLET::::- Loth J., "Afryka", Warszawa [1936]. BULLET::::- Pak M. N. i in., "Historia nowożytna krajów Azji i Afryki", Warszawa 1980. BULLET::::- Prokopczuk J., "Historia Afryki w zarysie", Warszawa 1964. BULLET::::- Rostworowski E., "Historia powszechna. Wiek XVIII", Warszawa 1994. . BULLET::::- Wilkosz S., "Wszystko o Afryce", Warszawa 1982. . BULLET::::- Zins H., "Historia Afryki Wschodniej", Wrocław 1986. . BULLET::::- Żywczyński M., "Historia powszechna. 1789–1870", Warszawa 1990. . BULLET::::- Arnold G., BULLET::::- Gutowska A., BULLET::::- Guzinski G., BULLET::::- Metz H. C., BULLET::::- Rumiński P., BULLET::::- Wessels A., BULLET::::- Прокопенко Л.,
i n historia poznania afryki warszawa 1977 bullet historia afryki do początku xix wieku red m tymowski wrocław 1996 bullet lafeber i in wiek imperializmu madrid–kraków 2008 bullet loth j afryka warszawa [1936] bullet pak m n i in historia nowożytna krajów azji i afryki warszawa 1980 bullet prokopczuk j historia afryki w zarysie warszawa 1964 bullet rostworowski e historia powszechna wiek xviii warszawa 1994 bullet wilkosz s wszystko o afryce warszawa 1982 bullet zins h historia afryki wschodniej wrocław 1986 bullet żywczyński m historia powszechna 1789–1870 warszawa 1990 bullet arnold g bullet gutowska a bullet guzinski g bullet metz h c bullet rumiński p bullet wessels a bullet прокопенко л
Urraca I của León và Castilla
Urraca I của León và Castilla Urraca xứ León (tiếng Tây Ban Nha: "Urraca I de León"; tiếng Anh: "Urraca of León"), còn được gọi là Urraca Liều Lĩnh (Urraca la Temeraria), là nữ vương của León, Castilla và Galicia trong khoảng thời gian từ 1109 đến 1126. == Xem thêm. == Isabel I của Castilla Alfonso VII Sancha Raimúndez Berenguela I của Castilla Nhà Jimena == Tham khảo. == BULLET::::1. https://en.wikipedia.org/wiki/Urraca_of_Le%C3%B3n
urraca i của león và castilla urraca xứ león tiếng tây ban nha urraca i de león tiếng anh urraca of león còn được gọi là urraca liều lĩnh urraca la temeraria là nữ vương của león castilla và galicia trong khoảng thời gian từ 1109 đến 1126 == xem thêm == isabel i của castilla alfonso vii sancha raimúndez berenguela i của castilla nhà jimena == tham khảo == bullet 1 https en wikipedia org wiki urraca_of_le%c3%b3n
Uchinaga Aeri
Uchinaga Aeri (tiếng Hàn: 우치나가 에리, sinh ngày 30 tháng 10 năm 2000), thường được biết đến với nghệ danh Giselle (Hangul: 지젤) là nữ ca sĩ, dancer người Nhật Bản, thành viên của nhóm nhạc nữ aespa do SM Entertainment thành lập và quản lý. Nhờ kĩ năng rap mạnh mẽ nên Giselle chỉ thực tập 11 tháng tại công ty SM Entertainment. Cô ra mắt với tư cách là rap chính của aespa vào tháng 11 năm 2020. Giselle xuất hiện trong sân khấu “ZOO” cùng Taeyong, Jeno, Hendery, Yangyang (NCT) trong album “2021 Winter SMTOWN : SMCU EXPRESS” (2021). == Tiểu sử. == Giselle là con lai Nhật – Hàn có khả năng ngoại ngữ tốt nhất trong nhóm. Cô là tân binh mới của nhóm, phải mất một năm để luyện tập và ra mắt đội hình của aespa cùng các thành viên còn lại. Nữ idol có khả năng hát rap tốt, tỏa sáng trên sân khấu. Bên cạnh đó còn chơi các nhạc cụ như: guitar, piano,… Đặc biệt hơn cô còn nói lưu loát 3 loại ngôn ngữ như: Nhật, Hàn, Anh. Giselle hứa hẹn sẽ trở thành “thông dịch viên” của nhóm.
uchinaga aeri tiếng hàn 우치나가 에리 sinh ngày 30 tháng 10 năm 2000 thường được biết đến với nghệ danh giselle hangul 지젤 là nữ ca sĩ dancer người nhật bản thành viên của nhóm nhạc nữ aespa do sm entertainment thành lập và quản lý nhờ kĩ năng rap mạnh mẽ nên giselle chỉ thực tập 11 tháng tại công ty sm entertainment cô ra mắt với tư cách là rap chính của aespa vào tháng 11 năm 2020 giselle xuất hiện trong sân khấu “zoo” cùng taeyong jeno hendery yangyang nct trong album “2021 winter smtown smcu express” 2021 == tiểu sử == giselle là con lai nhật – hàn có khả năng ngoại ngữ tốt nhất trong nhóm cô là tân binh mới của nhóm phải mất một năm để luyện tập và ra mắt đội hình của aespa cùng các thành viên còn lại nữ idol có khả năng hát rap tốt tỏa sáng trên sân khấu bên cạnh đó còn chơi các nhạc cụ như guitar piano … đặc biệt hơn cô còn nói lưu loát 3 loại ngôn ngữ như nhật hàn anh giselle hứa hẹn sẽ trở thành “thông dịch viên” của nhóm
USS Naifeh (DE-352)
USS Naifeh (DE-352) USS "Naifeh" (DE-352) là một tàu hộ tống khu trục lớp "John C. Butler" từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên Trung úy Hải quân Alfred Naifeh (11915–1942), người từng phục vụ cùng tàu khu trục , đã tử trận khi "Meredith" bị đánh chìm vào ngày 16 tháng 10, 1942 và được truy tặng Huân chương Hải quân và Thủy quân Lục chiến. Nó đã phục vụ trong suốt Thế chiến II, được cho ngừng hoạt động sau khi xung đột chấm dứt vào năm 1946, rồi được huy động trở lại để phục vụ trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Lạnh từ năm 1951 đến năm 1960. Con tàu cuối cùng bị đánh chìm như một mục tiêu vào năm 1966. "Naifeh" được tặng thưởng ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên. == Thiết kế và chế tạo. == Lớp "John C. Butler" được thiết kế nhằm đáp ứng nhu cầu một số lượng lớn nhưng rẻ tiền của một kiểu tàu hộ tống chống tàu ngầm để hộ tống các đoàn tàu vận tải vượt đại dương. Chúng có chiều dài chung , mạn tàu rộng và mớn nước , trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải, với một thủy thủ đoàn bao gồm 14 sĩ quan và
uss naifeh de-352 uss naifeh de-352 là một tàu hộ tống khu trục lớp john c butler từng phục vụ cùng hải quân hoa kỳ trong chiến tranh thế giới thứ hai nó là chiếc tàu chiến duy nhất của hải quân hoa kỳ được đặt cái tên này theo tên trung úy hải quân alfred naifeh 11915–1942 người từng phục vụ cùng tàu khu trục đã tử trận khi meredith bị đánh chìm vào ngày 16 tháng 10 1942 và được truy tặng huân chương hải quân và thủy quân lục chiến nó đã phục vụ trong suốt thế chiến ii được cho ngừng hoạt động sau khi xung đột chấm dứt vào năm 1946 rồi được huy động trở lại để phục vụ trong cuộc chiến tranh triều tiên và chiến tranh lạnh từ năm 1951 đến năm 1960 con tàu cuối cùng bị đánh chìm như một mục tiêu vào năm 1966 naifeh được tặng thưởng ba ngôi sao chiến trận do thành tích phục vụ trong cuộc chiến tranh triều tiên == thiết kế và chế tạo == lớp john c butler được thiết kế nhằm đáp ứng nhu cầu một số lượng lớn nhưng rẻ tiền của một kiểu tàu hộ tống chống tàu ngầm để hộ tống các đoàn tàu vận tải vượt đại dương chúng có chiều dài chung mạn tàu rộng và mớn nước trọng lượng choán nước tiêu chuẩn và lên đến khi đầy tải với một thủy thủ đoàn bao gồm 14 sĩ quan và
USS Naifeh (DE-352)
, mạn tàu rộng và mớn nước , trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải, với một thủy thủ đoàn bao gồm 14 sĩ quan và 201 thủy thủ. Con tàu được vận hành bởi hai turbine hơi nước hộp số Westinghouse; hơi nước được cung cấp bởi hai nồi hơi "D" Express, tạo ra công suất và cho phép đạt được tốc độ tối đa . Nó có tầm hoạt động ở tốc độ đường trường . Dàn vũ khí chính bao gồm hai tháp pháo 5-inch/38 caliber đa dụng nòng đơn, được dẫn đường bởi hệ thống điều khiển hỏa lực Mark 51; vũ khí phòng không gồm hai khẩu đội Bofors 40 mm L/60 nòng đôi và mười khẩu Oerlikon 20 mm nòng đơn cũng được dẫn đường bởi hệ thống Mark 51. Ngoài ba ống phóng ngư lôi , vũ khí chống ngầm bao gồm hai đường ray thả mìn sâu, tám máy phóng mìn sâu K-gun cùng một dàn súng cối chống ngầm Hedgehog. Con tàu được trang bị sonar kiểu QC, radar dò tìm mặt biển SL và radar dò tìm không trung SA. "Naifeh" được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Consolidated Steel Corporation ở Orange, Texas vào ngày 29 tháng 12, 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 29 tháng 2, 1944, được đỡ đầu bởi bà Rathia Naifeh, mẹ của Trung úy Naifeh, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 4 tháng 7, 1944 dưới quyền
mạn tàu rộng và mớn nước trọng lượng choán nước tiêu chuẩn và lên đến khi đầy tải với một thủy thủ đoàn bao gồm 14 sĩ quan và 201 thủy thủ con tàu được vận hành bởi hai turbine hơi nước hộp số westinghouse hơi nước được cung cấp bởi hai nồi hơi d express tạo ra công suất và cho phép đạt được tốc độ tối đa nó có tầm hoạt động ở tốc độ đường trường dàn vũ khí chính bao gồm hai tháp pháo 5-inch 38 caliber đa dụng nòng đơn được dẫn đường bởi hệ thống điều khiển hỏa lực mark 51 vũ khí phòng không gồm hai khẩu đội bofors 40 mm l 60 nòng đôi và mười khẩu oerlikon 20 mm nòng đơn cũng được dẫn đường bởi hệ thống mark 51 ngoài ba ống phóng ngư lôi vũ khí chống ngầm bao gồm hai đường ray thả mìn sâu tám máy phóng mìn sâu k-gun cùng một dàn súng cối chống ngầm hedgehog con tàu được trang bị sonar kiểu qc radar dò tìm mặt biển sl và radar dò tìm không trung sa naifeh được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng consolidated steel corporation ở orange texas vào ngày 29 tháng 12 1943 nó được hạ thủy vào ngày 29 tháng 2 1944 được đỡ đầu bởi bà rathia naifeh mẹ của trung úy naifeh và được cho nhập biên chế cùng hải quân hoa kỳ vào ngày 4 tháng 7 1944 dưới quyền
USS Naifeh (DE-352)
1944, được đỡ đầu bởi bà Rathia Naifeh, mẹ của Trung úy Naifeh, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 4 tháng 7, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân John Seaman Albert III. == Phần thưởng. == "Naifeh" được tặng thưởng ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Chiến tranh Triều Tiên. == Liên kết ngoài. == BULLET::::- NavSource Online: Destroyer Escort Photo Archive - D5-352 Naifeh
1944 được đỡ đầu bởi bà rathia naifeh mẹ của trung úy naifeh và được cho nhập biên chế cùng hải quân hoa kỳ vào ngày 4 tháng 7 1944 dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng thiếu tá hải quân john seaman albert iii == phần thưởng == naifeh được tặng thưởng ba ngôi sao chiến trận do thành tích phục vụ trong chiến tranh triều tiên == liên kết ngoài == bullet navsource online destroyer escort photo archive d5-352 naifeh
USS Doyle C. Barnes (DE-353)
USS Doyle C. Barnes (DE-353) USS "Doyle C. Barnes" (DE-353) là một tàu hộ tống khu trục lớp "John C. Butler" từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên Thiếu úy Hải quân Doyle Clayton Barnes (1912–1942), phi công phục vụ cùng Liên đội Tiêm kích VF-6 trên tàu sân bay , từng được tặng thưởng Huân chương Chữ thập Hải quân do thành tích trong trận Midway và đã mất tích trong Trận chiến Đông Solomons vào ngày 24 tháng 8, 1942. Nó đã phục vụ trong suốt Thế chiến II, được cho ngừng hoạt động sau khi xung đột chấm dứt vào năm 1947, rồi cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1973. == Thiết kế và chế tạo. == Lớp "John C. Butler" được thiết kế nhằm đáp ứng nhu cầu một số lượng lớn nhưng rẻ tiền của một kiểu tàu hộ tống chống tàu ngầm để hộ tống các đoàn tàu vận tải vượt đại dương. Chúng có chiều dài chung , mạn tàu rộng và mớn nước , trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải, với một thủy thủ đoàn bao gồm 14 sĩ quan và 201 thủy thủ. Con tàu được vận hành bởi hai turbine hơi nước hộp số Westinghouse; hơi nước được cung cấp bởi hai nồi hơi "D" Express, tạo ra công suất và
uss doyle c barnes de-353 uss doyle c barnes de-353 là một tàu hộ tống khu trục lớp john c butler từng phục vụ cùng hải quân hoa kỳ trong chiến tranh thế giới thứ hai nó là chiếc tàu chiến duy nhất của hải quân hoa kỳ được đặt cái tên này theo tên thiếu úy hải quân doyle clayton barnes 1912–1942 phi công phục vụ cùng liên đội tiêm kích vf-6 trên tàu sân bay từng được tặng thưởng huân chương chữ thập hải quân do thành tích trong trận midway và đã mất tích trong trận chiến đông solomons vào ngày 24 tháng 8 1942 nó đã phục vụ trong suốt thế chiến ii được cho ngừng hoạt động sau khi xung đột chấm dứt vào năm 1947 rồi cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1973 == thiết kế và chế tạo == lớp john c butler được thiết kế nhằm đáp ứng nhu cầu một số lượng lớn nhưng rẻ tiền của một kiểu tàu hộ tống chống tàu ngầm để hộ tống các đoàn tàu vận tải vượt đại dương chúng có chiều dài chung mạn tàu rộng và mớn nước trọng lượng choán nước tiêu chuẩn và lên đến khi đầy tải với một thủy thủ đoàn bao gồm 14 sĩ quan và 201 thủy thủ con tàu được vận hành bởi hai turbine hơi nước hộp số westinghouse hơi nước được cung cấp bởi hai nồi hơi d express tạo ra công suất và
USS Doyle C. Barnes (DE-353)
201 thủy thủ. Con tàu được vận hành bởi hai turbine hơi nước hộp số Westinghouse; hơi nước được cung cấp bởi hai nồi hơi "D" Express, tạo ra công suất và cho phép đạt được tốc độ tối đa . Nó có tầm hoạt động ở tốc độ đường trường . Dàn vũ khí chính bao gồm hai tháp pháo 5-inch/38 caliber đa dụng nòng đơn, được dẫn đường bởi hệ thống điều khiển hỏa lực Mark 51; vũ khí phòng không gồm hai khẩu đội Bofors 40 mm L/60 nòng đôi và mười khẩu Oerlikon 20 mm nòng đơn cũng được dẫn đường bởi hệ thống Mark 51. Ngoài ba ống phóng ngư lôi , vũ khí chống ngầm bao gồm hai đường ray thả mìn sâu, tám máy phóng mìn sâu K-gun cùng một dàn súng cối chống ngầm Hedgehog. Con tàu được trang bị sonar kiểu QC, radar dò tìm mặt biển SL và radar dò tìm không trung SA. "Doyle C. Barnes" được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Consolidated Steel Corporation ở Orange, Texas vào ngày 11 tháng 1, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 4 tháng 3, 1944, được đỡ đầu bởi bà D. C. Barnes, vợ góa của Thiếu úy Barnes, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 13 tháng 7, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân John Pierce Ingle Jr. == Liên kết ngoài. == BULLET::::- NavSource Online: Destroyer Escort Photo Archive - DE-353 Doyle C. Barnes
201 thủy thủ con tàu được vận hành bởi hai turbine hơi nước hộp số westinghouse hơi nước được cung cấp bởi hai nồi hơi d express tạo ra công suất và cho phép đạt được tốc độ tối đa nó có tầm hoạt động ở tốc độ đường trường dàn vũ khí chính bao gồm hai tháp pháo 5-inch 38 caliber đa dụng nòng đơn được dẫn đường bởi hệ thống điều khiển hỏa lực mark 51 vũ khí phòng không gồm hai khẩu đội bofors 40 mm l 60 nòng đôi và mười khẩu oerlikon 20 mm nòng đơn cũng được dẫn đường bởi hệ thống mark 51 ngoài ba ống phóng ngư lôi vũ khí chống ngầm bao gồm hai đường ray thả mìn sâu tám máy phóng mìn sâu k-gun cùng một dàn súng cối chống ngầm hedgehog con tàu được trang bị sonar kiểu qc radar dò tìm mặt biển sl và radar dò tìm không trung sa doyle c barnes được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng consolidated steel corporation ở orange texas vào ngày 11 tháng 1 1944 nó được hạ thủy vào ngày 4 tháng 3 1944 được đỡ đầu bởi bà d c barnes vợ góa của thiếu úy barnes và được cho nhập biên chế cùng hải quân hoa kỳ vào ngày 13 tháng 7 1944 dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng thiếu tá hải quân john pierce ingle jr == liên kết ngoài == bullet navsource online destroyer escort photo archive de-353 doyle c barnes
USS Doyle C. Barnes (DE-353)
7, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân John Pierce Ingle Jr. == Liên kết ngoài. == BULLET::::- NavSource Online: Destroyer Escort Photo Archive - DE-353 Doyle C. Barnes
7 1944 dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng thiếu tá hải quân john pierce ingle jr == liên kết ngoài == bullet navsource online destroyer escort photo archive de-353 doyle c barnes
USS Kenneth M. Willett (DE-354)
USS Kenneth M. Willett (DE-354) USS "Kenneth M. Willett" (DE-354) là một tàu hộ tống khu trục lớp "John C. Butler" từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên Trung úy Hải quân Kenneth Martin Willett (1919–1942), người từng được biệt phái làm sĩ quan chỉ huy đội bảo vệ vũ trang cho tàu buôn , đã tử trận khi "Stephen Hopkins" đụng độ với hai tàu cướp tàu buôn Đức vào ngày 27 tháng 9, 1942 và được truy tặng Huân chương Chữ thập Hải quân. Nó đã phục vụ trong suốt Thế chiến II, được cho ngừng hoạt động sau khi xung đột chấm dứt vào năm 1946, rồi được huy động trở lại để phục vụ từ năm 1951 đến năm 1959. Con tàu cuối cùng bị đánh chìm như một mục tiêu ngoài khơi Puerto Rico vào năm 1974. "Kenneth M. Willett" được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. == Thiết kế và chế tạo. == Lớp "John C. Butler" được thiết kế nhằm đáp ứng nhu cầu một số lượng lớn nhưng rẻ tiền của một kiểu tàu hộ tống chống tàu ngầm để hộ tống các đoàn tàu vận tải vượt đại dương. Chúng có chiều dài chung , mạn tàu rộng và mớn nước , trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi
uss kenneth m willett de-354 uss kenneth m willett de-354 là một tàu hộ tống khu trục lớp john c butler từng phục vụ cùng hải quân hoa kỳ trong chiến tranh thế giới thứ hai nó là chiếc tàu chiến duy nhất của hải quân hoa kỳ được đặt cái tên này theo tên trung úy hải quân kenneth martin willett 1919–1942 người từng được biệt phái làm sĩ quan chỉ huy đội bảo vệ vũ trang cho tàu buôn đã tử trận khi stephen hopkins đụng độ với hai tàu cướp tàu buôn đức vào ngày 27 tháng 9 1942 và được truy tặng huân chương chữ thập hải quân nó đã phục vụ trong suốt thế chiến ii được cho ngừng hoạt động sau khi xung đột chấm dứt vào năm 1946 rồi được huy động trở lại để phục vụ từ năm 1951 đến năm 1959 con tàu cuối cùng bị đánh chìm như một mục tiêu ngoài khơi puerto rico vào năm 1974 kenneth m willett được tặng thưởng một ngôi sao chiến trận do thành tích phục vụ trong thế chiến ii == thiết kế và chế tạo == lớp john c butler được thiết kế nhằm đáp ứng nhu cầu một số lượng lớn nhưng rẻ tiền của một kiểu tàu hộ tống chống tàu ngầm để hộ tống các đoàn tàu vận tải vượt đại dương chúng có chiều dài chung mạn tàu rộng và mớn nước trọng lượng choán nước tiêu chuẩn và lên đến khi
USS Kenneth M. Willett (DE-354)
các đoàn tàu vận tải vượt đại dương. Chúng có chiều dài chung , mạn tàu rộng và mớn nước , trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải, với một thủy thủ đoàn bao gồm 14 sĩ quan và 201 thủy thủ. Con tàu được vận hành bởi hai turbine hơi nước hộp số Westinghouse; hơi nước được cung cấp bởi hai nồi hơi "D" Express, tạo ra công suất và cho phép đạt được tốc độ tối đa . Nó có tầm hoạt động ở tốc độ đường trường . Dàn vũ khí chính bao gồm hai tháp pháo 5-inch/38 caliber đa dụng nòng đơn, được dẫn đường bởi hệ thống điều khiển hỏa lực Mark 51; vũ khí phòng không gồm hai khẩu đội Bofors 40 mm L/60 nòng đôi và mười khẩu Oerlikon 20 mm nòng đơn cũng được dẫn đường bởi hệ thống Mark 51. Ngoài ba ống phóng ngư lôi , vũ khí chống ngầm bao gồm hai đường ray thả mìn sâu, tám máy phóng mìn sâu K-gun cùng một dàn súng cối chống ngầm Hedgehog. Con tàu được trang bị sonar kiểu QC, radar dò tìm mặt biển SL và radar dò tìm không trung SA. "Kenneth M. Willett" được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Consolidated Steel Corporation ở Orange, Texas vào ngày 10 tháng 1, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 7 tháng 3, 1944, được đỡ đầu bởi bà D. C. Willett, mẹ của Trung úy Willett, và được cho nhập
các đoàn tàu vận tải vượt đại dương chúng có chiều dài chung mạn tàu rộng và mớn nước trọng lượng choán nước tiêu chuẩn và lên đến khi đầy tải với một thủy thủ đoàn bao gồm 14 sĩ quan và 201 thủy thủ con tàu được vận hành bởi hai turbine hơi nước hộp số westinghouse hơi nước được cung cấp bởi hai nồi hơi d express tạo ra công suất và cho phép đạt được tốc độ tối đa nó có tầm hoạt động ở tốc độ đường trường dàn vũ khí chính bao gồm hai tháp pháo 5-inch 38 caliber đa dụng nòng đơn được dẫn đường bởi hệ thống điều khiển hỏa lực mark 51 vũ khí phòng không gồm hai khẩu đội bofors 40 mm l 60 nòng đôi và mười khẩu oerlikon 20 mm nòng đơn cũng được dẫn đường bởi hệ thống mark 51 ngoài ba ống phóng ngư lôi vũ khí chống ngầm bao gồm hai đường ray thả mìn sâu tám máy phóng mìn sâu k-gun cùng một dàn súng cối chống ngầm hedgehog con tàu được trang bị sonar kiểu qc radar dò tìm mặt biển sl và radar dò tìm không trung sa kenneth m willett được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng consolidated steel corporation ở orange texas vào ngày 10 tháng 1 1944 nó được hạ thủy vào ngày 7 tháng 3 1944 được đỡ đầu bởi bà d c willett mẹ của trung úy willett và được cho nhập
USS Kenneth M. Willett (DE-354)
vào ngày 10 tháng 1, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 7 tháng 3, 1944, được đỡ đầu bởi bà D. C. Willett, mẹ của Trung úy Willett, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 7, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân J. M. Stuart. == Phần thưởng. == "Kenneth M. Willett" được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. == Liên kết ngoài. == BULLET::::- NavSource Online: Destroyer Escort Photo Archive – USS Kenneth M. Willett (DE-354)
vào ngày 10 tháng 1 1944 nó được hạ thủy vào ngày 7 tháng 3 1944 được đỡ đầu bởi bà d c willett mẹ của trung úy willett và được cho nhập biên chế cùng hải quân hoa kỳ vào ngày 19 tháng 7 1944 dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng thiếu tá hải quân j m stuart == phần thưởng == kenneth m willett được tặng thưởng một ngôi sao chiến trận do thành tích phục vụ trong thế chiến ii == liên kết ngoài == bullet navsource online destroyer escort photo archive – uss kenneth m willett de-354
USS Jaccard (DE-355)
USS Jaccard (DE-355) USS "Jaccard" (DE-355) là một tàu hộ tống khu trục lớp "John C. Butler" từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên Thiếu úy Hải quân Richard Alonzo Jaccard (1918–1942), phi công từng phục vụ cùng Liên đội Ném bom VB-6 trên tàu sân bay , sau được0iều sang tàu sân bay , và đã tử trận khi "Wasp" bị đánh chìm vào ngày 15 tháng 9, 1942. Nó đã phục vụ trong suốt Thế chiến II, được cho ngừng hoạt động sau khi xung đột chấm dứt vào năm 1946, rồi cuối cùng bị đánh chìm như một mục tiêu vào năm 1968. "Jaccard" được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. == Thiết kế và chế tạo. == Lớp "John C. Butler" được thiết kế nhằm đáp ứng nhu cầu một số lượng lớn nhưng rẻ tiền của một kiểu tàu hộ tống chống tàu ngầm để hộ tống các đoàn tàu vận tải vượt đại dương. Chúng có chiều dài chung , mạn tàu rộng và mớn nước , trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải, với một thủy thủ đoàn bao gồm 14 sĩ quan và 201 thủy thủ. Con tàu được vận hành bởi hai turbine hơi nước hộp số Westinghouse; hơi nước được cung cấp bởi hai nồi hơi
uss jaccard de-355 uss jaccard de-355 là một tàu hộ tống khu trục lớp john c butler từng phục vụ cùng hải quân hoa kỳ trong chiến tranh thế giới thứ hai nó là chiếc tàu chiến duy nhất của hải quân hoa kỳ được đặt cái tên này theo tên thiếu úy hải quân richard alonzo jaccard 1918–1942 phi công từng phục vụ cùng liên đội ném bom vb-6 trên tàu sân bay sau được0iều sang tàu sân bay và đã tử trận khi wasp bị đánh chìm vào ngày 15 tháng 9 1942 nó đã phục vụ trong suốt thế chiến ii được cho ngừng hoạt động sau khi xung đột chấm dứt vào năm 1946 rồi cuối cùng bị đánh chìm như một mục tiêu vào năm 1968 jaccard được tặng thưởng một ngôi sao chiến trận do thành tích phục vụ trong thế chiến ii == thiết kế và chế tạo == lớp john c butler được thiết kế nhằm đáp ứng nhu cầu một số lượng lớn nhưng rẻ tiền của một kiểu tàu hộ tống chống tàu ngầm để hộ tống các đoàn tàu vận tải vượt đại dương chúng có chiều dài chung mạn tàu rộng và mớn nước trọng lượng choán nước tiêu chuẩn và lên đến khi đầy tải với một thủy thủ đoàn bao gồm 14 sĩ quan và 201 thủy thủ con tàu được vận hành bởi hai turbine hơi nước hộp số westinghouse hơi nước được cung cấp bởi hai nồi hơi
USS Jaccard (DE-355)
đoàn bao gồm 14 sĩ quan và 201 thủy thủ. Con tàu được vận hành bởi hai turbine hơi nước hộp số Westinghouse; hơi nước được cung cấp bởi hai nồi hơi "D" Express, tạo ra công suất và cho phép đạt được tốc độ tối đa . Nó có tầm hoạt động ở tốc độ đường trường . Dàn vũ khí chính bao gồm hai tháp pháo 5-inch/38 caliber đa dụng nòng đơn, được dẫn đường bởi hệ thống điều khiển hỏa lực Mark 51; vũ khí phòng không gồm hai khẩu đội Bofors 40 mm L/60 nòng đôi và mười khẩu Oerlikon 20 mm nòng đơn cũng được dẫn đường bởi hệ thống Mark 51. Ngoài ba ống phóng ngư lôi , vũ khí chống ngầm bao gồm hai đường ray thả mìn sâu, tám máy phóng mìn sâu K-gun cùng một dàn súng cối chống ngầm Hedgehog. Con tàu được trang bị sonar kiểu QC, radar dò tìm mặt biển SL và radar dò tìm không trung SA. "Jaccard" được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Consolidated Steel Corporation ở Orange, Texas vào ngày 25 tháng 1, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 18 tháng 3, 1944, được đỡ đầu bởi bà C. R. Jaccard, mẹ của Thiếu úy Jaccard, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 26 tháng 7, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Charles R. Hamilton. == Phần thưởng. == "Jaccard" được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do
đoàn bao gồm 14 sĩ quan và 201 thủy thủ con tàu được vận hành bởi hai turbine hơi nước hộp số westinghouse hơi nước được cung cấp bởi hai nồi hơi d express tạo ra công suất và cho phép đạt được tốc độ tối đa nó có tầm hoạt động ở tốc độ đường trường dàn vũ khí chính bao gồm hai tháp pháo 5-inch 38 caliber đa dụng nòng đơn được dẫn đường bởi hệ thống điều khiển hỏa lực mark 51 vũ khí phòng không gồm hai khẩu đội bofors 40 mm l 60 nòng đôi và mười khẩu oerlikon 20 mm nòng đơn cũng được dẫn đường bởi hệ thống mark 51 ngoài ba ống phóng ngư lôi vũ khí chống ngầm bao gồm hai đường ray thả mìn sâu tám máy phóng mìn sâu k-gun cùng một dàn súng cối chống ngầm hedgehog con tàu được trang bị sonar kiểu qc radar dò tìm mặt biển sl và radar dò tìm không trung sa jaccard được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng consolidated steel corporation ở orange texas vào ngày 25 tháng 1 1944 nó được hạ thủy vào ngày 18 tháng 3 1944 được đỡ đầu bởi bà c r jaccard mẹ của thiếu úy jaccard và được cho nhập biên chế cùng hải quân hoa kỳ vào ngày 26 tháng 7 1944 dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng thiếu tá hải quân charles r hamilton == phần thưởng == jaccard được tặng thưởng một ngôi sao chiến trận do
USS Jaccard (DE-355)
vào ngày 26 tháng 7, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Charles R. Hamilton. == Phần thưởng. == "Jaccard" được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. == Liên kết ngoài. == BULLET::::- NavSource Online: Destroyer Escort Photo Archive – USS Jaccard (DE 355)
vào ngày 26 tháng 7 1944 dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng thiếu tá hải quân charles r hamilton == phần thưởng == jaccard được tặng thưởng một ngôi sao chiến trận do thành tích phục vụ trong thế chiến ii == liên kết ngoài == bullet navsource online destroyer escort photo archive – uss jaccard de 355
Nicolò Longobardo
Nicolò Longobardo (10 tháng 9 năm 1559 - 1654; phồn thể: 龍華民; giản thể: 龙华民; bính âm: "Lóng Huámín," Hán Việt: Long Hoa Dân), là một tu sĩ Dòng Tên người Sicilia ở Trung Quốc vào đầu thế kỷ 17. Ông đến đó vào năm 1597, và được gửi đến khu vực Thiều Châu. Ông trở thành người kế vị Matteo Ricci vào năm 1610 với tư cách là Bề trên Tổng quyền của cơ quan truyền giáo Dòng Tên Trung Quốc. Ông được thay thế làm Bề trên bởi Giovanni Aroccia vào năm 1622, nhưng vẫn tiếp tục giảng đạo ở Trung Quốc cho đến khoảng 90 tuổi. == Tiểu sử. == === Truyền giáo. === ==== Công kích Tam giáo (Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo). ==== Ông mang theo cả cái mà Vatican gọi là ""Công đồng Tridentino"" vào Trung Quốc. Với tinh thần Tridentino, ông buộc tất cả các tin đồ bản địa phải dứt khoát đoạn tuyệt với Tam giáo (Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo), tín ngưỡng truyền thống của cha ông ta, điều mà người tiền nhiệm Matteo Ricci chưa thể làm được. ==== Cấm thờ cúng tổ tiên. ==== Ông đã ra lệnh, buộc tín đồ bản địa triệt phá bàn thờ, ảnh, tượng thuộc tín ngưỡng truyền thống, cấm thờ Khổng Tử, cấm thờ cúng tổ tiên. Lệnh cấm này được xem là một điều sỉ nhục, xúc phạm đối với dân tộc Trung Quốc, một dân tộc mà hai chữ ""trung - hiếu"" được đặt lên hàng đầu trong đời sống
nicolò longobardo 10 tháng 9 năm 1559 1654 phồn thể 龍華民 giản thể 龙华民 bính âm lóng huámín hán việt long hoa dân là một tu sĩ dòng tên người sicilia ở trung quốc vào đầu thế kỷ 17 ông đến đó vào năm 1597 và được gửi đến khu vực thiều châu ông trở thành người kế vị matteo ricci vào năm 1610 với tư cách là bề trên tổng quyền của cơ quan truyền giáo dòng tên trung quốc ông được thay thế làm bề trên bởi giovanni aroccia vào năm 1622 nhưng vẫn tiếp tục giảng đạo ở trung quốc cho đến khoảng 90 tuổi == tiểu sử == === truyền giáo === ==== công kích tam giáo nho giáo đạo giáo phật giáo ==== ông mang theo cả cái mà vatican gọi là công đồng tridentino vào trung quốc với tinh thần tridentino ông buộc tất cả các tin đồ bản địa phải dứt khoát đoạn tuyệt với tam giáo nho giáo đạo giáo phật giáo tín ngưỡng truyền thống của cha ông ta điều mà người tiền nhiệm matteo ricci chưa thể làm được ==== cấm thờ cúng tổ tiên ==== ông đã ra lệnh buộc tín đồ bản địa triệt phá bàn thờ ảnh tượng thuộc tín ngưỡng truyền thống cấm thờ khổng tử cấm thờ cúng tổ tiên lệnh cấm này được xem là một điều sỉ nhục xúc phạm đối với dân tộc trung quốc một dân tộc mà hai chữ trung hiếu được đặt lên hàng đầu trong đời sống
Nicolò Longobardo
được xem là một điều sỉ nhục, xúc phạm đối với dân tộc Trung Quốc, một dân tộc mà hai chữ ""trung - hiếu"" được đặt lên hàng đầu trong đời sống tinh thần của họ. Sự kiện này buộc triều đình phải can thiệp. Triều đình đã đặt Kitô giáo nói chung, Công giáo La Mã nói riêng ngoài vòng pháp luật. Lệnh trục xuất tất cả các thừa sai phương Tây ra khỏi Trung Quốc được ban hành. Công giáo La Mã mất đi cơ hội bành trướng tại Trung Quốc. == Thay thế làm bề trên. == Tên của tu sĩ Dòng Tên cũng xuất hiện trong các nguồn lịch sử là Nicholas Longobardi và Niccolo Longobardi, với năm sinh và năm mất là 1565 và 1655. Ông được chôn cất tại Nghĩa trang Zhalan của Dòng Tên ở Bắc Kinh. == Chú thích. == BULLET::::1. https://books.google.com.vn/books?id=SqTQjve2VLsC&q=Longobardo+Ricci&pg=RA1-PA371&redir_esc=y#v=snippet&q=Longobardo%20Ricci&f=false BULLET::::2. http://bdcconline.net/en/stories/l/longobardo-nicolo.php BULLET::::3. https://sachhiem.net/TONGIAO/tgN/NgoTrieuLich_03.php BULLET::::4. https://books.google.com.vn/books?id=wb4yPw4ZgZQC&redir_esc=y == Liên kết ngoài. == BULLET::::- Alexandre de Rhodes BULLET::::- Dòng Tên
được xem là một điều sỉ nhục xúc phạm đối với dân tộc trung quốc một dân tộc mà hai chữ trung hiếu được đặt lên hàng đầu trong đời sống tinh thần của họ sự kiện này buộc triều đình phải can thiệp triều đình đã đặt kitô giáo nói chung công giáo la mã nói riêng ngoài vòng pháp luật lệnh trục xuất tất cả các thừa sai phương tây ra khỏi trung quốc được ban hành công giáo la mã mất đi cơ hội bành trướng tại trung quốc == thay thế làm bề trên == tên của tu sĩ dòng tên cũng xuất hiện trong các nguồn lịch sử là nicholas longobardi và niccolo longobardi với năm sinh và năm mất là 1565 và 1655 ông được chôn cất tại nghĩa trang zhalan của dòng tên ở bắc kinh == chú thích == bullet 1 https books google com vn books id=sqtqjve2vlsc&q=longobardo+ricci&pg=ra1-pa371&redir_esc=y#v=snippet&q=longobardo%20ricci&f=false bullet 2 http bdcconline net en stories l longobardo-nicolo php bullet 3 https sachhiem net tongiao tgn ngotrieulich_03 php bullet 4 https books google com vn books id=wb4ypw4zgzqc&redir_esc=y == liên kết ngoài == bullet alexandre de rhodes bullet dòng tên
Đường cong Mordell
Đường cong Mordell Trong đại số, đường cong Mordell là đường cong elliptic dưới dạng "y" = "x" + "n" với "n" cố định là số nguyên khác không . Các đường cong elliptic này được nghiên cứu cẩn thận bởi Louis Mordell. Ông đã chứng minh rằng mọi đường cong Mordell chỉ chứa hữu hạn số điểm nguyên ("x", "y"). Hay nói cách khác, khoảng cách giữa số chính phương và số lập phương tiến tới vô cùng. Tốc độ mà khoảng cách lớn dần được xét bằng phương pháp Baker. Theo giả thuyết thì bài toán này có thể giải theo giả thuyết Marshall Hall. == Các tính chất. == Nếu ("x", "y") là điểm nguyên trên đường cong Mordell thì ("x", "-y") cũng là điểm nguyên trên đường cong đó. Có một số giá trị "n" mà đường cong Mordell tương ứng không có nghiệm danh sách các giá trị đó là: Trường hợp đặc biệt "n" = −2 được gọi là Định lý kẹp của Fermat. == Danh sách kết quả. == Sau đây là danh sách kết quả cho đường cong Mordell "y" = "x" + "n" với |"n"| ≤ 25. Ở đây chỉ hiện các cặp có "y" ≥ 0. Trong 1998, J. Gebel, A. Pethö, H. G. Zimmer tìm mọi điểm nguyên cho 0 < |"n"| ≤ 10. Trong 2015, M. A. Bennett và A. Ghadermarzi tính toàn bộ điểm nguyên cho 0 < |"n"| ≤ 10. == Liên kết ngoài. == BULLET::::- J. Gebel, Data on Mordell's curves for –10000 ≤ "n" ≤ 10000 BULLET::::- M. Bennett, Data on Mordell curves
đường cong mordell trong đại số đường cong mordell là đường cong elliptic dưới dạng y x n với n cố định là số nguyên khác không các đường cong elliptic này được nghiên cứu cẩn thận bởi louis mordell ông đã chứng minh rằng mọi đường cong mordell chỉ chứa hữu hạn số điểm nguyên x y hay nói cách khác khoảng cách giữa số chính phương và số lập phương tiến tới vô cùng tốc độ mà khoảng cách lớn dần được xét bằng phương pháp baker theo giả thuyết thì bài toán này có thể giải theo giả thuyết marshall hall == các tính chất == nếu x y là điểm nguyên trên đường cong mordell thì x -y cũng là điểm nguyên trên đường cong đó có một số giá trị n mà đường cong mordell tương ứng không có nghiệm danh sách các giá trị đó là trường hợp đặc biệt n −2 được gọi là định lý kẹp của fermat == danh sách kết quả == sau đây là danh sách kết quả cho đường cong mordell y x n với n ≤ 25 ở đây chỉ hiện các cặp có y ≥ 0 trong 1998 j gebel a pethö h g zimmer tìm mọi điểm nguyên cho 0 n ≤ 10 trong 2015 m a bennett và a ghadermarzi tính toàn bộ điểm nguyên cho 0 n ≤ 10 == liên kết ngoài == bullet j gebel data on mordell s curves for –10000 ≤ n ≤ 10000 bullet m bennett data on mordell curves
Đường cong Mordell
toàn bộ điểm nguyên cho 0 < |"n"| ≤ 10. == Liên kết ngoài. == BULLET::::- J. Gebel, Data on Mordell's curves for –10000 ≤ "n" ≤ 10000 BULLET::::- M. Bennett, Data on Mordell curves for –10 ≤ "n" ≤ 10
toàn bộ điểm nguyên cho 0 n ≤ 10 == liên kết ngoài == bullet j gebel data on mordell s curves for –10000 ≤ n ≤ 10000 bullet m bennett data on mordell curves for –10 ≤ n ≤ 10
Phương trình Ramanujan–Nagell
Phương trình Ramanujan–Nagell Trong toán học, đặc biệt là trong nhánh lý thuyết số, phương trình Ramanujan–Nagell là phương trình giữa một số chính phương và một số kém hơn 7 so với lũy thừa của 2. Nó là 1 trong những ví dụ về phương trình Đi-ô-phăng bao gồm số mũ, phương trình giải với nghiệm nguyên trong đó biến nằm trong số mũ. Phương trình được đặt tên theo hai nhà toán học, Srinivasa Ramanujan là người đặt ra giả thuyết phương trình trên chỉ có 5 nghiệm nguyên và Trygve Nagell là người chứng minh giả thuyết đó. Từ phương trình nay ta cũng chứng minh được không tồn tại mã nhị phân hoàn hảo với khoảng cách Hamming tối thiểu bằng 5 hoặc 6. == Phương trình và đáp án. == Phương trình được viết như sau và nghiệm tự nhiên "n" và "x" chỉ tồn tại khi "n" = 3, 4, 5, 7 và 15 . Giả thuyết trên lần đầu được đưa ra vào năm 1913 bởi nhà toán học người Ấn độ Srinivasa Ramanujan, đề xuất độc lập trong 1943 bởi nhà toán học Na Uy Wilhelm Ljunggren, và được chính minh trong 1948 bởi nhà toán học Na Uy Trygve Nagell. Các giá trị của "x" tương ứng với các giá trị "n" ở trên là:- == Số Mersenne tam giác. == Bài toán tìm tất cả các số dưới dạng 2 − 1 (số Mersenne) đồng thời là số tam giác tương đương với: Dễ thấy giá trị "b" bằng "n" − 3, và các số Mersenne tương ứng (cũng
phương trình ramanujan–nagell trong toán học đặc biệt là trong nhánh lý thuyết số phương trình ramanujan–nagell là phương trình giữa một số chính phương và một số kém hơn 7 so với lũy thừa của 2 nó là 1 trong những ví dụ về phương trình đi-ô-phăng bao gồm số mũ phương trình giải với nghiệm nguyên trong đó biến nằm trong số mũ phương trình được đặt tên theo hai nhà toán học srinivasa ramanujan là người đặt ra giả thuyết phương trình trên chỉ có 5 nghiệm nguyên và trygve nagell là người chứng minh giả thuyết đó từ phương trình nay ta cũng chứng minh được không tồn tại mã nhị phân hoàn hảo với khoảng cách hamming tối thiểu bằng 5 hoặc 6 == phương trình và đáp án == phương trình được viết như sau và nghiệm tự nhiên n và x chỉ tồn tại khi n 3 4 5 7 và 15 giả thuyết trên lần đầu được đưa ra vào năm 1913 bởi nhà toán học người ấn độ srinivasa ramanujan đề xuất độc lập trong 1943 bởi nhà toán học na uy wilhelm ljunggren và được chính minh trong 1948 bởi nhà toán học na uy trygve nagell các giá trị của x tương ứng với các giá trị n ở trên là == số mersenne tam giác == bài toán tìm tất cả các số dưới dạng 2 − 1 số mersenne đồng thời là số tam giác tương đương với dễ thấy giá trị b bằng n − 3 và các số mersenne tương ứng cũng
Phương trình Ramanujan–Nagell
tìm tất cả các số dưới dạng 2 − 1 (số Mersenne) đồng thời là số tam giác tương đương với: Dễ thấy giá trị "b" bằng "n" − 3, và các số Mersenne tương ứng (cũng được gọi là số Ramanujan–Nagell) là: với "x" = 1, 3, 5, 11 và 181, cho 0, 1, 3, 15, 4095 . == Phương trình dưới dạng Ramanujan–Nagell. == Phương trình có dạng sau với "D", "A" , "B" cố định và "x", "n" làm biến được coi là thuộc "dạng Ramanujan–Nagell". Kết quả Siegel cho rằng số nghiệm cho mỗi trường hợp là hữu hạn. Bằng cách biểu diễn formula_5 với formula_6 và formula_7 với formula_8, phương trình dưới dạng Ramanujan–Nagell có thể rút gọn thành 3 đường cong Mordell (đánh thứ tự bởi formula_9), mỗi đường có hữu hạn số nghiệm nguyên: Phương trình với formula_13 có tối đa hai nghiệm, chỉ trừ trường hợp formula_14 tương ứng với phương trình Ramanujan–Nagell gốc. Có vô số giá trị "D" sao cho phương trình chỉ có hai nghiệm, kể cả formula_15. == Phương trình dưới dạng Lebesgue–Nagell. == Phương trình viết dưới dạng với "D", "A" cố định và "x", "y", "n" làm biến được gọi là thuộc "dạng Lebesgue–Nagell". Tên dạng được đặt tên theo Victor-Amédée Lebesgue, người chứng minh rằng phương trình không có nghiệm không tầm thường. Kết quả của Shorey và Tijdeman cho rằng mỗi trường hợp có hữu hạn số nghiệm. Bugeaud, Mignotte và Siksek giải các phương trình dạng này với "A" = 1 và 1 ≤ "D" ≤ 100. Trong đó, phương trình tổng quát của
tìm tất cả các số dưới dạng 2 − 1 số mersenne đồng thời là số tam giác tương đương với dễ thấy giá trị b bằng n − 3 và các số mersenne tương ứng cũng được gọi là số ramanujan–nagell là với x 1 3 5 11 và 181 cho 0 1 3 15 4095 == phương trình dưới dạng ramanujan–nagell == phương trình có dạng sau với d a b cố định và x n làm biến được coi là thuộc dạng ramanujan–nagell kết quả siegel cho rằng số nghiệm cho mỗi trường hợp là hữu hạn bằng cách biểu diễn formula_5 với formula_6 và formula_7 với formula_8 phương trình dưới dạng ramanujan–nagell có thể rút gọn thành 3 đường cong mordell đánh thứ tự bởi formula_9 mỗi đường có hữu hạn số nghiệm nguyên phương trình với formula_13 có tối đa hai nghiệm chỉ trừ trường hợp formula_14 tương ứng với phương trình ramanujan–nagell gốc có vô số giá trị d sao cho phương trình chỉ có hai nghiệm kể cả formula_15 == phương trình dưới dạng lebesgue–nagell == phương trình viết dưới dạng với d a cố định và x y n làm biến được gọi là thuộc dạng lebesgue–nagell tên dạng được đặt tên theo victor-amédée lebesgue người chứng minh rằng phương trình không có nghiệm không tầm thường kết quả của shorey và tijdeman cho rằng mỗi trường hợp có hữu hạn số nghiệm bugeaud mignotte và siksek giải các phương trình dạng này với a 1 và 1 ≤ d ≤ 100 trong đó phương trình tổng quát của
Phương trình Ramanujan–Nagell
có hữu hạn số nghiệm. Bugeaud, Mignotte và Siksek giải các phương trình dạng này với "A" = 1 và 1 ≤ "D" ≤ 100. Trong đó, phương trình tổng quát của phương trình Ramanujan–Nagell: có nghiệm nguyên dương khi "x" = 1, 3, 5, 11, hoặc 181. == Xem thêm. == BULLET::::- Giả thuyết Catalan == Liên kết ngoài. == BULLET::::- Can "N" + "N" + 2 Be A Power Of 2?, Math Forum discussion
có hữu hạn số nghiệm bugeaud mignotte và siksek giải các phương trình dạng này với a 1 và 1 ≤ d ≤ 100 trong đó phương trình tổng quát của phương trình ramanujan–nagell có nghiệm nguyên dương khi x 1 3 5 11 hoặc 181 == xem thêm == bullet giả thuyết catalan == liên kết ngoài == bullet can n n 2 be a power of 2 math forum discussion
Ivan IV of Russia
Ivan IV of Russia Ivan IV Vasilyevich (tiếng Nga: "Иван IV Васильевич"; 25 tháng 8, 1530 – 18 tháng 3, 1584) là Đại vương công Moskva từ năm 1533 tới năm 1547. Ông là nhà cầm quyền đầu tiên của nước Nga chính thức xưng Sa hoàng (năm 1547). Trong thời gian cầm quyền kéo dài của mình ông đã chinh phục các hãn quốc Tartar và Sibir cũng như chuyển nước Nga trở thành một quốc gia đa sắc tộc và đa tôn giáo. Trong lịch sử Nga, vị Nga hoàng này đơn giản được gọi là Ivan Grozny (tiếng Nga: Иван Грозный nghe ), và được dịch sang tiếng Việt thành Ivan Bạo Chúa, Ivan Lôi Đế, Ivan Khủng Khiếp hay Ivan Hung Đế Ivan Lôi đế được cho là một Nga hoàng có năng lực và tài trí, nhưng ông cũng bị cho là một bạo chúa đã giết hại nhiều người trong cơn thịnh nộ của mình, bao gồm cả Hoàng tử Ivan Ivanovich. Tuy nhiên trong văn học dân gian Nga, Ivan Lôi đế không phải là bạo chúa mà là hiện thân của chính nghĩa, của người bảo vệ dân chúng khỏi bè lũ quý tộc quan lại thối nát. Người ta cho rằng Ivan Lôi đế đã tranh thủ được lòng tin của dư luận để phục vụ cho cuộc tranh đấu với các quyền thần và với tầng lớp quý tộc Nga. == Thời kỳ đầu cầm quyền[sửa | sửa mã nguồn]. == Ivan là đứa con được chờ đợi từ rất
ivan iv of russia ivan iv vasilyevich tiếng nga иван iv васильевич 25 tháng 8 1530 – 18 tháng 3 1584 là đại vương công moskva từ năm 1533 tới năm 1547 ông là nhà cầm quyền đầu tiên của nước nga chính thức xưng sa hoàng năm 1547 trong thời gian cầm quyền kéo dài của mình ông đã chinh phục các hãn quốc tartar và sibir cũng như chuyển nước nga trở thành một quốc gia đa sắc tộc và đa tôn giáo trong lịch sử nga vị nga hoàng này đơn giản được gọi là ivan grozny tiếng nga иван грозный nghe và được dịch sang tiếng việt thành ivan bạo chúa ivan lôi đế ivan khủng khiếp hay ivan hung đế ivan lôi đế được cho là một nga hoàng có năng lực và tài trí nhưng ông cũng bị cho là một bạo chúa đã giết hại nhiều người trong cơn thịnh nộ của mình bao gồm cả hoàng tử ivan ivanovich tuy nhiên trong văn học dân gian nga ivan lôi đế không phải là bạo chúa mà là hiện thân của chính nghĩa của người bảo vệ dân chúng khỏi bè lũ quý tộc quan lại thối nát người ta cho rằng ivan lôi đế đã tranh thủ được lòng tin của dư luận để phục vụ cho cuộc tranh đấu với các quyền thần và với tầng lớp quý tộc nga == thời kỳ đầu cầm quyền[sửa sửa mã nguồn] == ivan là đứa con được chờ đợi từ rất
Ivan IV of Russia
cuộc tranh đấu với các quyền thần và với tầng lớp quý tộc Nga. == Thời kỳ đầu cầm quyền[sửa | sửa mã nguồn]. == Ivan là đứa con được chờ đợi từ rất lâu của Vasili III. Khi ông mới lên ba, vua cha Vasily III qua đời vì một cái mụn biến chứng trở thành một ung nhọt chết người ở chân. Ivan được tuyên bố trở thành Đại vương công Moskva theo yêu cầu của vua cha. Ban đầu mẹ ông, Elena Glinskaya giữ vai trò nhiếp chính, nhưng bà cũng qua đời khi Ivan mới lên tám. Chức vụ nhiếp chính được các boyar thuộc nhà Shuisky nắm giữ cho tới khi Ivan nắm quyền lực năm 1544. Theo chính những bức thư của mình, ông thường cảm thấy bị bỏ rơi và bị các boyar thuộc hai dòng họ Shuisky và Belsky xúc phạm. Có lẽ những chấn thương tâm lý này góp phần khiến ông căm ghét các boyar và khiến ông bất ổn về tâm lý. Những tình cảm tiêu cực thể hiện trong những bức thư của ông có thể là một sự phản ánh tính khí gắt gỏng của ông. Ivan IV, parsuna, 16th-century (Viện Bảo tàng Quốc gia Đan Mạch) Ngai vàng bằng ngà voi của Ivan Bạo chúa. Ngày 16 tháng 1 năm 1547, Ivan trở thành Nga hoàng tại đại giáo đường Uspensky khi 16 tuổi. Dù vừa xảy ra vụ Đại hoả hoạn 1547, thời kỳ đầu cầm quyền của ông là một trong những giai đoạn hiện
cuộc tranh đấu với các quyền thần và với tầng lớp quý tộc nga == thời kỳ đầu cầm quyền[sửa sửa mã nguồn] == ivan là đứa con được chờ đợi từ rất lâu của vasili iii khi ông mới lên ba vua cha vasily iii qua đời vì một cái mụn biến chứng trở thành một ung nhọt chết người ở chân ivan được tuyên bố trở thành đại vương công moskva theo yêu cầu của vua cha ban đầu mẹ ông elena glinskaya giữ vai trò nhiếp chính nhưng bà cũng qua đời khi ivan mới lên tám chức vụ nhiếp chính được các boyar thuộc nhà shuisky nắm giữ cho tới khi ivan nắm quyền lực năm 1544 theo chính những bức thư của mình ông thường cảm thấy bị bỏ rơi và bị các boyar thuộc hai dòng họ shuisky và belsky xúc phạm có lẽ những chấn thương tâm lý này góp phần khiến ông căm ghét các boyar và khiến ông bất ổn về tâm lý những tình cảm tiêu cực thể hiện trong những bức thư của ông có thể là một sự phản ánh tính khí gắt gỏng của ông ivan iv parsuna 16th-century viện bảo tàng quốc gia đan mạch ngai vàng bằng ngà voi của ivan bạo chúa ngày 16 tháng 1 năm 1547 ivan trở thành nga hoàng tại đại giáo đường uspensky khi 16 tuổi dù vừa xảy ra vụ đại hoả hoạn 1547 thời kỳ đầu cầm quyền của ông là một trong những giai đoạn hiện
Ivan IV of Russia
hoàng tại đại giáo đường Uspensky khi 16 tuổi. Dù vừa xảy ra vụ Đại hoả hoạn 1547, thời kỳ đầu cầm quyền của ông là một trong những giai đoạn hiện đại hoá và cải cách trong hoà bình. Ivan xem xét lại các luật lệ (được gọi là sudebnik), tạo lập một đội quân thường trực (streltsy), thành lập nghị viện Nga đầu tiên cho các tiểu quốc phong kiến (Zemsky Sobor), hội đồng quý tộc (được gọi là Hội đồng được Lựa chọn), và xác nhận vị trí của Nhà thờ với Hội đồng Trăm Tăng hội, thống nhất các lễ nghi và các quy định giáo hội trong toàn bộ đất nước. Ông đưa ra sáng kiến tự quản tại các vùng nông thôn, chủ yếu tại Đông bắc Nga, nơi sinh sống của đa phần nông dân. Trong thời kỳ cầm quyền của ông lần đầu tiên báo in xuất hiện tại Nga (dù hai ông chủ nhà in đầu tiên người Nga Ivan Fedorov và Pyotr Mstislavets đã phải bỏ chạy khỏi Moskva tới Đại công quốc Lietuva). Năm 1547, Hans Schlitte, luật sư của Ivan, đã đưa các thợ thủ công Đức tới làm việc tại Nga. Tuy nhiên tất cả những người này đã bị bắt giữ tại Lübeck theo yêu cầu của Ba Lan và Livonia. Các hội buôn Đức đã từ chối cảng mới được Ivan cho xây dựng trên sông Narva năm 1550 và tiếp tục giao nhận hàng hoá tới các cảng ven biển Baltic
hoàng tại đại giáo đường uspensky khi 16 tuổi dù vừa xảy ra vụ đại hoả hoạn 1547 thời kỳ đầu cầm quyền của ông là một trong những giai đoạn hiện đại hoá và cải cách trong hoà bình ivan xem xét lại các luật lệ được gọi là sudebnik tạo lập một đội quân thường trực streltsy thành lập nghị viện nga đầu tiên cho các tiểu quốc phong kiến zemsky sobor hội đồng quý tộc được gọi là hội đồng được lựa chọn và xác nhận vị trí của nhà thờ với hội đồng trăm tăng hội thống nhất các lễ nghi và các quy định giáo hội trong toàn bộ đất nước ông đưa ra sáng kiến tự quản tại các vùng nông thôn chủ yếu tại đông bắc nga nơi sinh sống của đa phần nông dân trong thời kỳ cầm quyền của ông lần đầu tiên báo in xuất hiện tại nga dù hai ông chủ nhà in đầu tiên người nga ivan fedorov và pyotr mstislavets đã phải bỏ chạy khỏi moskva tới đại công quốc lietuva năm 1547 hans schlitte luật sư của ivan đã đưa các thợ thủ công đức tới làm việc tại nga tuy nhiên tất cả những người này đã bị bắt giữ tại lübeck theo yêu cầu của ba lan và livonia các hội buôn đức đã từ chối cảng mới được ivan cho xây dựng trên sông narva năm 1550 và tiếp tục giao nhận hàng hoá tới các cảng ven biển baltic
Ivan IV of Russia
Các hội buôn Đức đã từ chối cảng mới được Ivan cho xây dựng trên sông Narva năm 1550 và tiếp tục giao nhận hàng hoá tới các cảng ven biển Baltic thuộc Livonia. Nước Nga vẫn bị cô lập khỏi mạng lưới thương mại đường biển. Ivan đã thành lập các kết nối thương mại mới, mở cửa Biển Trắng và cảng Arkhangelsk cho công ty Muscovy của các thương nhân Anh. Năm 1552, ông đánh bại Hãn quốc Kazan, do quân đội nước này đã nhiều lần tàn phá vùng đông bắc Nga, và sáp nhập lãnh thổ nước này. Năm 1556, ông sáp nhập Hãn quốc Astrakhan và tiêu diệt chợ nô lệ lớn nhất trên sông Volga. Những cuộc chinh phục này đã làm phức tạp thêm sự di cư của những bộ tộc du cư từ châu Á tới châu Âu qua sông Volga và biến nước Nga trở thành một quốc gia đa sắc tộc và đa tôn giáo. Ông cho cho xây dựng đại giáo đường Thánh Basil tại kinh đô Moskva để kỷ niệm việc chinh phục Kazan. Truyền thuyết kể rằng ông ấn tượng trước kiến trúc công trình này tới mức đã cho làm mù mắt các kiến trúc sư để họ không thể xây dựng được thứ gì đẹp đẽ như thế nữa. Những khía cạnh tiêu cực trong thời kỳ này gồm việc đưa ra áp dụng những luật lệ đầu tiên hạn chế sự di chuyển của người nông dân, cuối cùng dẫn tới tình
các hội buôn đức đã từ chối cảng mới được ivan cho xây dựng trên sông narva năm 1550 và tiếp tục giao nhận hàng hoá tới các cảng ven biển baltic thuộc livonia nước nga vẫn bị cô lập khỏi mạng lưới thương mại đường biển ivan đã thành lập các kết nối thương mại mới mở cửa biển trắng và cảng arkhangelsk cho công ty muscovy của các thương nhân anh năm 1552 ông đánh bại hãn quốc kazan do quân đội nước này đã nhiều lần tàn phá vùng đông bắc nga và sáp nhập lãnh thổ nước này năm 1556 ông sáp nhập hãn quốc astrakhan và tiêu diệt chợ nô lệ lớn nhất trên sông volga những cuộc chinh phục này đã làm phức tạp thêm sự di cư của những bộ tộc du cư từ châu á tới châu âu qua sông volga và biến nước nga trở thành một quốc gia đa sắc tộc và đa tôn giáo ông cho cho xây dựng đại giáo đường thánh basil tại kinh đô moskva để kỷ niệm việc chinh phục kazan truyền thuyết kể rằng ông ấn tượng trước kiến trúc công trình này tới mức đã cho làm mù mắt các kiến trúc sư để họ không thể xây dựng được thứ gì đẹp đẽ như thế nữa những khía cạnh tiêu cực trong thời kỳ này gồm việc đưa ra áp dụng những luật lệ đầu tiên hạn chế sự di chuyển của người nông dân cuối cùng dẫn tới tình
Ivan IV of Russia
cạnh tiêu cực trong thời kỳ này gồm việc đưa ra áp dụng những luật lệ đầu tiên hạn chế sự di chuyển của người nông dân, cuối cùng dẫn tới tình trạng nông nô. Sự thay đổi lớn nhất trong tính cách của Ivan thường được cho là có liên quan tới lần ốm suýt chết của ông vào năm 1553 do cái chết của bà vợ đầu tiên, Anastasia Romanovna năm 1560. Ivan nghi ngờ các boyar đã đầu độc vợ mình và âm mưu lật đổ ông cùng người anh em họ, Vladimir Staritsa. Ngoài ra, trong thời kỳ ngã bệnh đó Ivan đã yêu cầu các boyar thề trung thành với người con cả của mình, khi ấy vẫn còn là một đứa trẻ. Nhiều boyar đã từ chối, vì cho rằng vị Nga hoàng không còn cơ hội sống sót. Điều này đã khiến Ivan nổi giận và càng khiến ông mất lòng tin vào họ. Sau sự kiện này nhiều người vô tội đã bị trả thù và giết hại, trong số đó có Đại giáo chủ Philip và công tước Aleksandr Gorbatyi-Shuisky. Một vấn đề khác là việc thành lập "Oprichnina" năm 1565. "Oprichnina" là khu vực của Nga (chủ yếu là vùng đông bắc) nằm dưới quyền cai trị trực tiếp của Ivan và được duy trì an ninh bởi đội cận vệ riêng của ông, "Oprichniki". Cả hệ thống "Oprichnina" đã bị một số nhà sử học coi là công cụ chống lại chính sách quý tộc cha
cạnh tiêu cực trong thời kỳ này gồm việc đưa ra áp dụng những luật lệ đầu tiên hạn chế sự di chuyển của người nông dân cuối cùng dẫn tới tình trạng nông nô sự thay đổi lớn nhất trong tính cách của ivan thường được cho là có liên quan tới lần ốm suýt chết của ông vào năm 1553 do cái chết của bà vợ đầu tiên anastasia romanovna năm 1560 ivan nghi ngờ các boyar đã đầu độc vợ mình và âm mưu lật đổ ông cùng người anh em họ vladimir staritsa ngoài ra trong thời kỳ ngã bệnh đó ivan đã yêu cầu các boyar thề trung thành với người con cả của mình khi ấy vẫn còn là một đứa trẻ nhiều boyar đã từ chối vì cho rằng vị nga hoàng không còn cơ hội sống sót điều này đã khiến ivan nổi giận và càng khiến ông mất lòng tin vào họ sau sự kiện này nhiều người vô tội đã bị trả thù và giết hại trong số đó có đại giáo chủ philip và công tước aleksandr gorbatyi-shuisky một vấn đề khác là việc thành lập oprichnina năm 1565 oprichnina là khu vực của nga chủ yếu là vùng đông bắc nằm dưới quyền cai trị trực tiếp của ivan và được duy trì an ninh bởi đội cận vệ riêng của ông oprichniki cả hệ thống oprichnina đã bị một số nhà sử học coi là công cụ chống lại chính sách quý tộc cha
Ivan IV of Russia
an ninh bởi đội cận vệ riêng của ông, "Oprichniki". Cả hệ thống "Oprichnina" đã bị một số nhà sử học coi là công cụ chống lại chính sách quý tộc cha truyền con nối (boyar) có truyền thống lâu dài ở Nga, những người chống lại chính sách chuyên chế Nga hoàng, trong khi những nhà sử học khác lại coi đó là một đấu hiệu bệnh hoang tưởng và sự suy sụp tinh thần của nhà vua. == Thời kỳ cuối[sửa | sửa mã nguồn]. == Nửa sau trong thời gian cầm quyền của Ivan không thành công nhiều như trước. Dù Hãn Krym là Devlet I Giray nhiều lần tàn phá vùng Moskva và thậm chí đốt cháy kinh đô Moskva năm 1571, Nga hoàng ủng hộ cuộc chinh phục người Tatar Siberia của Yermak, chấp nhận một chính sách xây dựng đế chế, dẫn ông tới việc tung ra một cuộc chiến tranh thắng lợi mở rộng về biển phía tây, đương đầu với người Thụy Điển, Litva, Ba Lan, và các hiệp sĩ Teutonic Livonia. Trong 24 năm cuộc chiến tranh Livonia kéo dài, gây thiệt hại cả về kinh tế và quân sự với Nga và không giành được bất kỳ một lãnh thổ nào cho nước Nga. Trong thập niên 1560 sự kết hợp giữa hạn hán và nạn đói, cũng như các cuộc tấn công của Ba Lan-Litva, những cuộc xâm lược của người Tatar, và sự phong toả đường thương mại trên biển do người Thuỵ Điển, Ba Lan và
an ninh bởi đội cận vệ riêng của ông oprichniki cả hệ thống oprichnina đã bị một số nhà sử học coi là công cụ chống lại chính sách quý tộc cha truyền con nối boyar có truyền thống lâu dài ở nga những người chống lại chính sách chuyên chế nga hoàng trong khi những nhà sử học khác lại coi đó là một đấu hiệu bệnh hoang tưởng và sự suy sụp tinh thần của nhà vua == thời kỳ cuối[sửa sửa mã nguồn] == nửa sau trong thời gian cầm quyền của ivan không thành công nhiều như trước dù hãn krym là devlet i giray nhiều lần tàn phá vùng moskva và thậm chí đốt cháy kinh đô moskva năm 1571 nga hoàng ủng hộ cuộc chinh phục người tatar siberia của yermak chấp nhận một chính sách xây dựng đế chế dẫn ông tới việc tung ra một cuộc chiến tranh thắng lợi mở rộng về biển phía tây đương đầu với người thụy điển litva ba lan và các hiệp sĩ teutonic livonia trong 24 năm cuộc chiến tranh livonia kéo dài gây thiệt hại cả về kinh tế và quân sự với nga và không giành được bất kỳ một lãnh thổ nào cho nước nga trong thập niên 1560 sự kết hợp giữa hạn hán và nạn đói cũng như các cuộc tấn công của ba lan-litva những cuộc xâm lược của người tatar và sự phong toả đường thương mại trên biển do người thuỵ điển ba lan và
Ivan IV of Russia
cũng như các cuộc tấn công của Ba Lan-Litva, những cuộc xâm lược của người Tatar, và sự phong toả đường thương mại trên biển do người Thuỵ Điển, Ba Lan và Liên minh Hanseatic tiến hành đã tàn phá nước Nga. Giá lương thực tăng gấp mười lần. Bệnh dịch giết hại 10.000 người ở Novgorod. Năm 1570 bệnh dịch làm 600-1000 người chết hàng ngày tại Moskva. Vị cố vấn thân cận nhất của Ivan, công tước Andrei Kurbsky, bỏ trốn theo người Litva, dẫn đầu quân đội Litva tàn phá vùng Velikiye Luki của nước Nga. Sự phản bội này đã làm Nga hoàng Ivan rất đau đớn. Khi chính sách Oprichnina tiếp diễn, Ivan dần trở nên bất ổn định về tinh thần và ốm yếu về thể chất. Trong một tuần, ông dễ dàng chuyển từ trạng thái ăn chơi sa đoạ nhất sang việc đi cầu nguyện và ăn chay tại một tu viện xa xôi phía bắc. Vì ông dần mất ổn định và trở nên bạo lực, những Oprichnik tại Malyuta Skuratov nhanh chóng vượt ra ngoài vòng kiểm soát và trở thành những kẻ sát nhân. Họ tàn sát các quý tộc và nông dân, bắt mọi người đi lính chiến đấu trong cuộc chiến với Livonia. Dân số sụt giảm và nạn đói kéo tới. Nơi từng là vùng giàu có nhất nước Nga đã trở thành vùng nghèo khổ nhất. Trong một cuộc tranh cãi với thành phố Novgorod giàu mạnh, Ivan đã ra lệnh cho
cũng như các cuộc tấn công của ba lan-litva những cuộc xâm lược của người tatar và sự phong toả đường thương mại trên biển do người thuỵ điển ba lan và liên minh hanseatic tiến hành đã tàn phá nước nga giá lương thực tăng gấp mười lần bệnh dịch giết hại 10 000 người ở novgorod năm 1570 bệnh dịch làm 600-1000 người chết hàng ngày tại moskva vị cố vấn thân cận nhất của ivan công tước andrei kurbsky bỏ trốn theo người litva dẫn đầu quân đội litva tàn phá vùng velikiye luki của nước nga sự phản bội này đã làm nga hoàng ivan rất đau đớn khi chính sách oprichnina tiếp diễn ivan dần trở nên bất ổn định về tinh thần và ốm yếu về thể chất trong một tuần ông dễ dàng chuyển từ trạng thái ăn chơi sa đoạ nhất sang việc đi cầu nguyện và ăn chay tại một tu viện xa xôi phía bắc vì ông dần mất ổn định và trở nên bạo lực những oprichnik tại malyuta skuratov nhanh chóng vượt ra ngoài vòng kiểm soát và trở thành những kẻ sát nhân họ tàn sát các quý tộc và nông dân bắt mọi người đi lính chiến đấu trong cuộc chiến với livonia dân số sụt giảm và nạn đói kéo tới nơi từng là vùng giàu có nhất nước nga đã trở thành vùng nghèo khổ nhất trong một cuộc tranh cãi với thành phố novgorod giàu mạnh ivan đã ra lệnh cho
Ivan IV of Russia
Nơi từng là vùng giàu có nhất nước Nga đã trở thành vùng nghèo khổ nhất. Trong một cuộc tranh cãi với thành phố Novgorod giàu mạnh, Ivan đã ra lệnh cho những Oprichnik giết hại những người dân thành phố này, từ đó thành phố không bao giờ còn quay trở lại được thời kỳ thịnh vượng đó nữa. Những kẻ trung thành với ông đã đốt phá và cướp bóc thành phố cùng các làng mạc. Có thể tới 60.000 người đã bị giết hại trong vụ thảm sát Novgorod nổi tiếng năm 1570; nhiều người khác đã bị trục xuất. Con số thống kê chính thức cho thấy 1.500 quý tộc Novgorod đã bị giết hại, chưa nói tới con số tương đương những thường dân khác. Nhiều nhà nghiên cứu hiện đại ước tính số nạn nhân trong khoảng 2 tới 3.000 người. (Sau nạn đói và các bệnh dịch số dân Novgorod trong thập niên 1560 có lẽ không vượt quá 10.000-20.000 người.) Năm 1581, Ivan đã đánh cô con dâu đang mang thai của mình vì tội mặc quần áo khiếm nhã, có thể đây là nguyên nhân khiến cô bị sẩy thai. Con trai ông, cũng tên là Ivan, khi biết tin này đã lao vào một cuộc tranh cãi nảy lửa với cha, cuộc tranh cãi kết thúc khi Ivan dùng cây gậy nhọn đánh vào đầu con mình, gây ra cái chết của người con trai (tai nạn). Sự kiện này đã được thể hiện trong bức tranh
nơi từng là vùng giàu có nhất nước nga đã trở thành vùng nghèo khổ nhất trong một cuộc tranh cãi với thành phố novgorod giàu mạnh ivan đã ra lệnh cho những oprichnik giết hại những người dân thành phố này từ đó thành phố không bao giờ còn quay trở lại được thời kỳ thịnh vượng đó nữa những kẻ trung thành với ông đã đốt phá và cướp bóc thành phố cùng các làng mạc có thể tới 60 000 người đã bị giết hại trong vụ thảm sát novgorod nổi tiếng năm 1570 nhiều người khác đã bị trục xuất con số thống kê chính thức cho thấy 1 500 quý tộc novgorod đã bị giết hại chưa nói tới con số tương đương những thường dân khác nhiều nhà nghiên cứu hiện đại ước tính số nạn nhân trong khoảng 2 tới 3 000 người sau nạn đói và các bệnh dịch số dân novgorod trong thập niên 1560 có lẽ không vượt quá 10 000-20 000 người năm 1581 ivan đã đánh cô con dâu đang mang thai của mình vì tội mặc quần áo khiếm nhã có thể đây là nguyên nhân khiến cô bị sẩy thai con trai ông cũng tên là ivan khi biết tin này đã lao vào một cuộc tranh cãi nảy lửa với cha cuộc tranh cãi kết thúc khi ivan dùng cây gậy nhọn đánh vào đầu con mình gây ra cái chết của người con trai tai nạn sự kiện này đã được thể hiện trong bức tranh
Ivan IV of Russia
thúc khi Ivan dùng cây gậy nhọn đánh vào đầu con mình, gây ra cái chết của người con trai (tai nạn). Sự kiện này đã được thể hiện trong bức tranh nổi tiếng của Ilya Repin, "Ivan Bạo chúa và con trai Ivan vào thứ Sáu, 16 tháng 11 năm 1581" nổi tiếng hơn với tên gọi "Ivan Bạo chúa giết con trai". == Qua đời và di sản[sửa | sửa mã nguồn]. == Dù nhiều người nghĩ rằng Ivan qua đời khi đang sắp xếp một bàn cờ, có lẽ đúng hơn là ông qua đời khi đang chơi cờ với Bogdan Belsky ngày 18 tháng 3 năm 1584. Khi hầm mộ của Nga hoàng Ivan được mở ra trong cuộc trùng tu hồi thập niên 1960, xác ông được xét nghiệm và phát hiện có chứa hàm lượng thuỷ ngân lớn, cho thấy rất có thể ông đã bị đầu độc. Các nghi vấn hiện tại tập trung vào các cố vấn của ông là Belsky và Boris Godunov (người trở thành Nga hoàng năm 1598). Ba ngày trước đó, Ivan được cho là đã định cưỡng hiếp Irina, em Godunov và là vợ của Feodor. Những tiếng kêu của bà khiến Godunov và Belsky chú ý, sau đó Ivan thả Irina, nhưng Belsky và Godunov coi mình như đã bị lĩnh án tử hình. Truyền thống cho rằng họ đã đầu độc hoặc bóp cổ Ivan đến chết vì lo sợ cho tính mạng của mình. Thuỷ ngân được tìm thấy trong thi thể
thúc khi ivan dùng cây gậy nhọn đánh vào đầu con mình gây ra cái chết của người con trai tai nạn sự kiện này đã được thể hiện trong bức tranh nổi tiếng của ilya repin ivan bạo chúa và con trai ivan vào thứ sáu 16 tháng 11 năm 1581 nổi tiếng hơn với tên gọi ivan bạo chúa giết con trai == qua đời và di sản[sửa sửa mã nguồn] == dù nhiều người nghĩ rằng ivan qua đời khi đang sắp xếp một bàn cờ có lẽ đúng hơn là ông qua đời khi đang chơi cờ với bogdan belsky ngày 18 tháng 3 năm 1584 khi hầm mộ của nga hoàng ivan được mở ra trong cuộc trùng tu hồi thập niên 1960 xác ông được xét nghiệm và phát hiện có chứa hàm lượng thuỷ ngân lớn cho thấy rất có thể ông đã bị đầu độc các nghi vấn hiện tại tập trung vào các cố vấn của ông là belsky và boris godunov người trở thành nga hoàng năm 1598 ba ngày trước đó ivan được cho là đã định cưỡng hiếp irina em godunov và là vợ của feodor những tiếng kêu của bà khiến godunov và belsky chú ý sau đó ivan thả irina nhưng belsky và godunov coi mình như đã bị lĩnh án tử hình truyền thống cho rằng họ đã đầu độc hoặc bóp cổ ivan đến chết vì lo sợ cho tính mạng của mình thuỷ ngân được tìm thấy trong thi thể
Ivan IV of Russia
tử hình. Truyền thống cho rằng họ đã đầu độc hoặc bóp cổ Ivan đến chết vì lo sợ cho tính mạng của mình. Thuỷ ngân được tìm thấy trong thi thể Ivan cũng có thể liên quan tới việc điều trị bệnh giang mai, bệnh được cho là Ivan đã từng mắc phải. Ngay sau khi Ivan qua đời, đất nước đã bị tàn phá rơi vào tay người con trai bất tài và còn nhỏ tuổi của ông là Fyodor I. == Thư từ[sửa | sửa mã nguồn]. == D.S. Mirsky đã gọi Ivan là ""một người viết những cuốn sách mỏng thiên tài"". Các thư từ được cho là của ông đều là những kiệt tác của lĩnh vực báo chí chính trị Nga cổ (có lẽ trong cả lịch sử). Có thể chúng có quá nhiều văn bản từ Kinh Thánh và Giám mục, và ngôn ngữ nhà thờ Slav của chúng không phải luôn chính xác. Nhưng chúng luôn đầy chặt sự mỉa mai tàn nhẫn, được thể hiện qua những từ ngữ châm chọc đầy sức mạnh. Sự ăn năn của Ivan: ông đã yêu cầu một cha bề trên tại Tu viện Pskovo-Pechorsky cho phép ông được vào tu tại đây. Hành động tàn bạo không hề hổ thẹn và nhà bút chiến vĩ đại đi cùng nhau trong một phút loé sáng khi ông mắng nhiếc kẻ trốn chạy Kurbsky với câu hỏi: Những cú tấn công đó đã được tính toán kỹ để đưa người trao đổi thư từ với ông rơi
tử hình truyền thống cho rằng họ đã đầu độc hoặc bóp cổ ivan đến chết vì lo sợ cho tính mạng của mình thuỷ ngân được tìm thấy trong thi thể ivan cũng có thể liên quan tới việc điều trị bệnh giang mai bệnh được cho là ivan đã từng mắc phải ngay sau khi ivan qua đời đất nước đã bị tàn phá rơi vào tay người con trai bất tài và còn nhỏ tuổi của ông là fyodor i == thư từ[sửa sửa mã nguồn] == d s mirsky đã gọi ivan là một người viết những cuốn sách mỏng thiên tài các thư từ được cho là của ông đều là những kiệt tác của lĩnh vực báo chí chính trị nga cổ có lẽ trong cả lịch sử có thể chúng có quá nhiều văn bản từ kinh thánh và giám mục và ngôn ngữ nhà thờ slav của chúng không phải luôn chính xác nhưng chúng luôn đầy chặt sự mỉa mai tàn nhẫn được thể hiện qua những từ ngữ châm chọc đầy sức mạnh sự ăn năn của ivan ông đã yêu cầu một cha bề trên tại tu viện pskovo-pechorsky cho phép ông được vào tu tại đây hành động tàn bạo không hề hổ thẹn và nhà bút chiến vĩ đại đi cùng nhau trong một phút loé sáng khi ông mắng nhiếc kẻ trốn chạy kurbsky với câu hỏi những cú tấn công đó đã được tính toán kỹ để đưa người trao đổi thư từ với ông rơi
Ivan IV of Russia
loé sáng khi ông mắng nhiếc kẻ trốn chạy Kurbsky với câu hỏi: Những cú tấn công đó đã được tính toán kỹ để đưa người trao đổi thư từ với ông rơi vào một cơn cuồng loạn. ""Phần của một vị bạo chúa hung tợn mắng nhiếc kẻ nạn nhân đã bỏ chạy trong khi ông tiếp tục tra tấn những ai trong tầm kiểm soát của mình có thể là đáng ghê tởm, nhưng Ivan đã hoàn thành vai trò đó với quan điểm tưởng tượng chính xác như trong các tác phẩm của Shakespear"".. Ngoài những bức thư gửi cho Kurbsky ông còn viết nhiều bức thư khác thoá mạ những kẻ dưới quyền. Bức thư nổi tiếng nhất là thư gửi Cha trưởng Tu viện Kirillo-Belozersky, trong đó ông đã thể hiện tất cả sự ác nghiệt và tàn bạo của mình về cuộc sống phè phỡn của các boyar, những thầy tu biến chất, và những người đã bị trục xuất theo lệnh của ông. Hình ảnh của ông về cuộc sống xa hoa của họ trong thành trì của sự khổ hạnh là một kiệt tác về sự mỉa mai đanh thép. == Biệt hiệu[sửa | sửa mã nguồn]. == Cái tên "Bạo chúa" hay "Hung Đế" trong tiếng Việt thường được dùng để dịch từ "grozny", tên hiệu của Ivan trong tiếng Nga. Nghĩa của từ Grozny gần với nghĩa—"khiến run sợ hay kinh hoàng", "nguy hiểm", "ghê gớm", "đe doạ", hay "đáng sợ". Có lẽ để dịch gần nghĩa hơn biệt hiệu
loé sáng khi ông mắng nhiếc kẻ trốn chạy kurbsky với câu hỏi những cú tấn công đó đã được tính toán kỹ để đưa người trao đổi thư từ với ông rơi vào một cơn cuồng loạn phần của một vị bạo chúa hung tợn mắng nhiếc kẻ nạn nhân đã bỏ chạy trong khi ông tiếp tục tra tấn những ai trong tầm kiểm soát của mình có thể là đáng ghê tởm nhưng ivan đã hoàn thành vai trò đó với quan điểm tưởng tượng chính xác như trong các tác phẩm của shakespear ngoài những bức thư gửi cho kurbsky ông còn viết nhiều bức thư khác thoá mạ những kẻ dưới quyền bức thư nổi tiếng nhất là thư gửi cha trưởng tu viện kirillo-belozersky trong đó ông đã thể hiện tất cả sự ác nghiệt và tàn bạo của mình về cuộc sống phè phỡn của các boyar những thầy tu biến chất và những người đã bị trục xuất theo lệnh của ông hình ảnh của ông về cuộc sống xa hoa của họ trong thành trì của sự khổ hạnh là một kiệt tác về sự mỉa mai đanh thép == biệt hiệu[sửa sửa mã nguồn] == cái tên bạo chúa hay hung đế trong tiếng việt thường được dùng để dịch từ grozny tên hiệu của ivan trong tiếng nga nghĩa của từ grozny gần với nghĩa— khiến run sợ hay kinh hoàng nguy hiểm ghê gớm đe doạ hay đáng sợ có lẽ để dịch gần nghĩa hơn biệt hiệu
Ivan IV of Russia
tiếng Nga. Nghĩa của từ Grozny gần với nghĩa—"khiến run sợ hay kinh hoàng", "nguy hiểm", "ghê gớm", "đe doạ", hay "đáng sợ". Có lẽ để dịch gần nghĩa hơn biệt hiệu này phải là "Ivan Kẻ đáng sợ", hay "Ivan kẻ Kinh khủng". == Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]. == BULLET::::- Ivan Bạo chúa trong văn học dân gian Nga BULLET::::- "Ivan Bạo chúa" – phim của Sergei Eisenstein. BULLET::::- "Ivan Vasilyevich đổi nghề" – phim của Leonid Gaidai == Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]. == BULLET::::1. ^ Lỗi chú thích: Thẻ codice_1 sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên codice_2 BULLET::::2. ^ Biên niên sử Nga ghi chép lại khoảng 40 vụ tấn công của hãn quốc Kazan vào lãnh thổ Nga (chủ yếu trong khu vực Nizhniy Novgorod, Murom, Vyatka, Vladimir, Kostroma, Galich) trong nửa đầu thế kỷ 16. Năm 1521, liên quân của Hãn Muhamed Giray và các đồng minh vùng Krym đã tấn công Nga và bắt giữ trên 150.000 nông nô. "Tuyển tập Biên niên sử Nga, quyển 13, S.Pb, 1904" BULLET::::3. ^ R.Skrynnikov, "Ivan Grosny", M., AST, 2001 BULLET::::4. ^ Novgorod, Nga BULLET::::5. ^ Ivan Hung Đế, Nga, (1533-1584) BULLET::::6. ^ Theo biên niên sử Novgorod III, vụ thảm sát kéo dài trong 5 tuần. Gần như mỗi ngày có tới 500 hay 600 người bị giết hay bị dìm chết. Biên niên sử Pskov I ước tính số nạn nhân khoảng 60.000. BULLET::::7. ^ Điều tra báo cáo của Maljuta Skuratov và các danh sách tưởng nhớ ("sinodiki"), R. Skrynnikov cho rằng số nạn nhân
tiếng nga nghĩa của từ grozny gần với nghĩa— khiến run sợ hay kinh hoàng nguy hiểm ghê gớm đe doạ hay đáng sợ có lẽ để dịch gần nghĩa hơn biệt hiệu này phải là ivan kẻ đáng sợ hay ivan kẻ kinh khủng == xem thêm[sửa sửa mã nguồn] == bullet ivan bạo chúa trong văn học dân gian nga bullet ivan bạo chúa – phim của sergei eisenstein bullet ivan vasilyevich đổi nghề – phim của leonid gaidai == ghi chú[sửa sửa mã nguồn] == bullet 1 lỗi chú thích thẻ codice_1 sai không có nội dung trong thẻ ref có tên codice_2 bullet 2 biên niên sử nga ghi chép lại khoảng 40 vụ tấn công của hãn quốc kazan vào lãnh thổ nga chủ yếu trong khu vực nizhniy novgorod murom vyatka vladimir kostroma galich trong nửa đầu thế kỷ 16 năm 1521 liên quân của hãn muhamed giray và các đồng minh vùng krym đã tấn công nga và bắt giữ trên 150 000 nông nô tuyển tập biên niên sử nga quyển 13 s pb 1904 bullet 3 r skrynnikov ivan grosny m ast 2001 bullet 4 novgorod nga bullet 5 ivan hung đế nga 1533-1584 bullet 6 theo biên niên sử novgorod iii vụ thảm sát kéo dài trong 5 tuần gần như mỗi ngày có tới 500 hay 600 người bị giết hay bị dìm chết biên niên sử pskov i ước tính số nạn nhân khoảng 60 000 bullet 7 điều tra báo cáo của maljuta skuratov và các danh sách tưởng nhớ sinodiki r skrynnikov cho rằng số nạn nhân
Ivan IV of Russia
sử Pskov I ước tính số nạn nhân khoảng 60.000. BULLET::::7. ^ Điều tra báo cáo của Maljuta Skuratov và các danh sách tưởng nhớ ("sinodiki"), R. Skrynnikov cho rằng số nạn nhân là 2.000-3.000. (Skrynnikov R. G., "Ivan Grosny", M., AST, 2001) BULLET::::8. ^  codice_3 cần codice_4 () BULLET::::9. ^ D.S. Mirsky. "A History of Russian Literature". Nhà in Đại học Northwestern, 1999. ISBN 0-8101-1679-0. Trang 21. == Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]. == BULLET::::- Bobrick Benson. "Ivan the Terrible". Edinburgh: Canongate Books, 1990 (hardcover, ISBN 0-86241-288-9). BULLET::::- Madariaga Isabel de. "Ivan the Terrible. First Tsar of Russia". New Haven; London: Nhà in Đại học Yale, 2005 (bìa cứng, ISBN 0-300-09757-3); 2006 (bìa giấy, ISBN 0-300-11973-9). BULLET::::- Payne Robert; Romanoff Nikita. "Ivan the Terrible". Lanham, MD: Nhà in Cooper Square, 2002 (bìa giấy, ISBN 0-8154-1229-0). BULLET::::- Henri Troyat. "Ivan the Terrible". New York: Buccaneer Books, 1988 (bìa cứng, ISBN 0-88029-207-5); London: Nhà in Phoenix, 2001 (bìa giấy, ISBN 1-84212-419-6). BULLET::::- "Ivan IV", World Book Inc, 2000. World Book Encyclopedia. == Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]. == BULLET::::- Cherniavsky Michael. "Ivan the Terrible as Renaissance Prince", "Slavic Review", Tập 27, Số 2. (tháng 6 năm 1968), các trang 195–211. BULLET::::- Hunt Priscilla. "Ivan IV's Personal Mythology of Kingship", "Slavic Review", Tập 52, số 4. (mùa đông năm 1993), các trang 769–809. BULLET::::- Perrie Maureen. "The Image of Ivan the Terrible in Russian Folklore (Cambridge Studies in Oral and Literate Culture; 14)". Cambridge: Nhà in Đại học Cambridge, 1987 (bìa cứng, ISBN 0-521-33075-0); 2002 (bìa mềm, ISBN 0-521-89100-0). BULLET::::- Perrie Maureen. "The Cult of Ivan the Terrible in Stalin's
sử pskov i ước tính số nạn nhân khoảng 60 000 bullet 7 điều tra báo cáo của maljuta skuratov và các danh sách tưởng nhớ sinodiki r skrynnikov cho rằng số nạn nhân là 2 000-3 000 skrynnikov r g ivan grosny m ast 2001 bullet 8 codice_3 cần codice_4 bullet 9 d s mirsky a history of russian literature nhà in đại học northwestern 1999 isbn 0-8101-1679-0 trang 21 == tham khảo[sửa sửa mã nguồn] == bullet bobrick benson ivan the terrible edinburgh canongate books 1990 hardcover isbn 0-86241-288-9 bullet madariaga isabel de ivan the terrible first tsar of russia new haven london nhà in đại học yale 2005 bìa cứng isbn 0-300-09757-3 2006 bìa giấy isbn 0-300-11973-9 bullet payne robert romanoff nikita ivan the terrible lanham md nhà in cooper square 2002 bìa giấy isbn 0-8154-1229-0 bullet henri troyat ivan the terrible new york buccaneer books 1988 bìa cứng isbn 0-88029-207-5 london nhà in phoenix 2001 bìa giấy isbn 1-84212-419-6 bullet ivan iv world book inc 2000 world book encyclopedia == đọc thêm[sửa sửa mã nguồn] == bullet cherniavsky michael ivan the terrible as renaissance prince slavic review tập 27 số 2 tháng 6 năm 1968 các trang 195–211 bullet hunt priscilla ivan iv s personal mythology of kingship slavic review tập 52 số 4 mùa đông năm 1993 các trang 769–809 bullet perrie maureen the image of ivan the terrible in russian folklore cambridge studies in oral and literate culture 14 cambridge nhà in đại học cambridge 1987 bìa cứng isbn 0-521-33075-0 2002 bìa mềm isbn 0-521-89100-0 bullet perrie maureen the cult of ivan the terrible in stalin s
Ivan IV of Russia
in Oral and Literate Culture; 14)". Cambridge: Nhà in Đại học Cambridge, 1987 (bìa cứng, ISBN 0-521-33075-0); 2002 (bìa mềm, ISBN 0-521-89100-0). BULLET::::- Perrie Maureen. "The Cult of Ivan the Terrible in Stalin's Russia (Studies in Russian and Eastern European History and Society)" . New York: Palgrave, 2001 (ISBN 0-333-65684-9). BULLET::::- Perrie Maureen; Pavlov Andrei. "Ivan the Terrible (Profiles in Power)". Harlow, UK: Longman, 2003 (bìa giấy, ISBN 0-582-09948-X). BULLET::::- Platt Kevin M.F.; Brandenberger, David. "Terribly Romantic, Terribly Progressive, or Terribly Tragic: Rehabilitating Ivan IV under I.V. Stalin", "Russian Review", Tập 58, số 4. (tháng 10 năm 1999), các trang 635–654. == Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]. == BULLET::::- "Mad Monarchs" - Ivan IV Lưu trữ 2005-06-23 tại Wayback Machine BULLET::::- Các tổ tiên của Nga hoàng Ivan IV Vasilyevich Hung Đế (bằng tiếng Nga)
in oral and literate culture 14 cambridge nhà in đại học cambridge 1987 bìa cứng isbn 0-521-33075-0 2002 bìa mềm isbn 0-521-89100-0 bullet perrie maureen the cult of ivan the terrible in stalin s russia studies in russian and eastern european history and society new york palgrave 2001 isbn 0-333-65684-9 bullet perrie maureen pavlov andrei ivan the terrible profiles in power harlow uk longman 2003 bìa giấy isbn 0-582-09948-x bullet platt kevin m f brandenberger david terribly romantic terribly progressive or terribly tragic rehabilitating ivan iv under i v stalin russian review tập 58 số 4 tháng 10 năm 1999 các trang 635–654 == liên kết ngoài[sửa sửa mã nguồn] == bullet mad monarchs ivan iv lưu trữ 2005-06-23 tại wayback machine bullet các tổ tiên của nga hoàng ivan iv vasilyevich hung đế bằng tiếng nga
Sân vận động Hindmarsh
Sân vận động Hindmarsh (; hiện được gọi là Sân vận động Coopers do công ty Coopers Brewery có trụ sở tại Adelaide tài trợ) là một sân vận động đa năng ở Hindmarsh, một vùng ở phía tây ngoại ô Adelaide, Nam Úc. Đây là sân nhà của câu lạc bộ Adelaide United thuộc A-League. Sân vận động có sức chứa 16.500 người, trong đó 15.000 chỗ được lắp ghế ngồi. Sân thường xuyên được lấp đầy khán giả trong các trận đấu của đội nhà Adelaide United, và trung bình có hơn 12.000 khán giả đến xem các trận đấu của đội trong mùa giải 2006–07 và mùa giải 2007–08. Adelaide United đã sử dụng sân vận động này cho các trận đấu trên sân nhà tại AFC Champions League 2008, AFC Champions League 2010 và AFC Champions League 2012. Nơi đây sẽ tổ chức một số trận đấu của Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2023. == Liên kết ngoài. == BULLET::::- Coopers Stadium
sân vận động hindmarsh hiện được gọi là sân vận động coopers do công ty coopers brewery có trụ sở tại adelaide tài trợ là một sân vận động đa năng ở hindmarsh một vùng ở phía tây ngoại ô adelaide nam úc đây là sân nhà của câu lạc bộ adelaide united thuộc a-league sân vận động có sức chứa 16 500 người trong đó 15 000 chỗ được lắp ghế ngồi sân thường xuyên được lấp đầy khán giả trong các trận đấu của đội nhà adelaide united và trung bình có hơn 12 000 khán giả đến xem các trận đấu của đội trong mùa giải 2006–07 và mùa giải 2007–08 adelaide united đã sử dụng sân vận động này cho các trận đấu trên sân nhà tại afc champions league 2008 afc champions league 2010 và afc champions league 2012 nơi đây sẽ tổ chức một số trận đấu của giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2023 == liên kết ngoài == bullet coopers stadium
Kia K5
Kia K5 (trước đây được gọi là Kia Optima), là phiên bản xe ô tô hạng trung do Kia sản xuất từ ​​năm 2000. Thế hệ đầu tiên chủ yếu được bán trên thị trường với tên gọi Optima, mặc dù tên Kia Magentis đã được sử dụng ở thị trường châu Âu và Canada từ năm năm 2002. Đối với các mẫu xe thế hệ thứ hai, Kia sử dụng tên Kia Lotze và Kia K5 cho thị trường Hàn Quốc, sử dụng tên Magentis cho thị trường toàn cầu, ngoại trừ ở Hoa Kỳ, Canada và Malaysia, trong đó tên Optima được giữ lại cho đến phiên bản năm 2021. Tên K5 được sử dụng cho tất cả các thị trường kể từ khi phiên bản thế hệ thứ năm được giới thiệu vào năm 2019.
kia k5 trước đây được gọi là kia optima là phiên bản xe ô tô hạng trung do kia sản xuất từ ​​năm 2000 thế hệ đầu tiên chủ yếu được bán trên thị trường với tên gọi optima mặc dù tên kia magentis đã được sử dụng ở thị trường châu âu và canada từ năm năm 2002 đối với các mẫu xe thế hệ thứ hai kia sử dụng tên kia lotze và kia k5 cho thị trường hàn quốc sử dụng tên magentis cho thị trường toàn cầu ngoại trừ ở hoa kỳ canada và malaysia trong đó tên optima được giữ lại cho đến phiên bản năm 2021 tên k5 được sử dụng cho tất cả các thị trường kể từ khi phiên bản thế hệ thứ năm được giới thiệu vào năm 2019
Kia Picanto
Kia Picanto là dòng ô tô phân khúc A do Kia sản xuất từ năm 2004. Dòng xe này có nhiều tên gọi khác như Kia Morning () tại Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan (hai thế hệ đầu tiên) và Chile, Kia EuroStar tại Đài Loan (thế hệ đầu tiên), Kia New Morning tại Việt Nam, Naza Suria và Naza Picanto tại Malaysia (thế hệ đầu tiên). Picanto chủ yếu được sản xuất tại nhà máy liên doanh Donghee ở Seosan, Hàn Quốc. == Doanh số. == Picanto là mẫu xe bán chạy nhất của Kia tại thị trường châu Âu từ năm 2004 đến năm 2006, chiếm một phần ba doanh số bán hàng của thương hiệu trong giai đoạn này. == Liên kết ngoài. == BULLET::::- (Hàn Quốc) BULLET::::- (Anh)
kia picanto là dòng ô tô phân khúc a do kia sản xuất từ năm 2004 dòng xe này có nhiều tên gọi khác như kia morning tại hàn quốc hồng kông đài loan hai thế hệ đầu tiên và chile kia eurostar tại đài loan thế hệ đầu tiên kia new morning tại việt nam naza suria và naza picanto tại malaysia thế hệ đầu tiên picanto chủ yếu được sản xuất tại nhà máy liên doanh donghee ở seosan hàn quốc == doanh số == picanto là mẫu xe bán chạy nhất của kia tại thị trường châu âu từ năm 2004 đến năm 2006 chiếm một phần ba doanh số bán hàng của thương hiệu trong giai đoạn này == liên kết ngoài == bullet hàn quốc bullet anh
Giả thuyết Catalan
Giả thuyết Catalan (hoặc định lý Mihăilescu) là định lý trong lý thuyết số được đặt giả thuyết bởi nhà toán học Eugène Charles Catalan trong 1844 và được chứng minh trong 2002 bởi Preda Mihăilescu của đại học Paderborn. Hai số 2 và 3 là hai lũy thừa hoàn hảo có giá trị (8 và 9 tương ứng) liên tiếp.Định lý phát biểu rằng đây là trường hợp "duy nhất" của hai số lũy thừa hoàn hảo liên tiếp. Có nghĩa là == Lịch sử. == Lịch sử của bài toán bắt nguồn ít nhất từ Gersonides ngừoi đã chứng minh trường hợp đặc biệt trong 1343 khi ("x", "y") bị giới hạn bằng (2, 3) hoặc (3, 2). Bước tiến đầu tiên sau khi Catalan đưa ra giả thuyết là vào năm 1850 khi Victor-Amédée Lebesgue xét trường hợp "b" = 2. Trong 1976, Robert Tijdeman áp dụng phương pháp Baker trong lý thuyết siêu việt để đặt ra các giới hạn cho a,b và dùng các kết quả giới hạn có sẵn cho "x","y" khi biết "a", "b" để tìm ra chặn trên của "x","y","a","b". Michel Langevin đã tính ra formula_1 cho giới hạn trên, đưa giả thuyết Catalan về một lượng hữu hạn còn lại cần xét. Giả thuyết Catalan đã được chứng minh bởi Preda Mihăilescu vào tháng 4 năm 2002. Bái chứng minh được xuất bản trong "Journal für die reine und angewandte Mathematik", 2004. Bài chứng minh sử dụng chủ yếu các trường cyclotomic và các modun Galois. Một bài luận
giả thuyết catalan hoặc định lý mihăilescu là định lý trong lý thuyết số được đặt giả thuyết bởi nhà toán học eugène charles catalan trong 1844 và được chứng minh trong 2002 bởi preda mihăilescu của đại học paderborn hai số 2 và 3 là hai lũy thừa hoàn hảo có giá trị 8 và 9 tương ứng liên tiếp định lý phát biểu rằng đây là trường hợp duy nhất của hai số lũy thừa hoàn hảo liên tiếp có nghĩa là == lịch sử == lịch sử của bài toán bắt nguồn ít nhất từ gersonides ngừoi đã chứng minh trường hợp đặc biệt trong 1343 khi x y bị giới hạn bằng 2 3 hoặc 3 2 bước tiến đầu tiên sau khi catalan đưa ra giả thuyết là vào năm 1850 khi victor-amédée lebesgue xét trường hợp b 2 trong 1976 robert tijdeman áp dụng phương pháp baker trong lý thuyết siêu việt để đặt ra các giới hạn cho a b và dùng các kết quả giới hạn có sẵn cho x y khi biết a b để tìm ra chặn trên của x y a b michel langevin đã tính ra formula_1 cho giới hạn trên đưa giả thuyết catalan về một lượng hữu hạn còn lại cần xét giả thuyết catalan đã được chứng minh bởi preda mihăilescu vào tháng 4 năm 2002 bái chứng minh được xuất bản trong journal für die reine und angewandte mathematik 2004 bài chứng minh sử dụng chủ yếu các trường cyclotomic và các modun galois một bài luận
Giả thuyết Catalan
Bái chứng minh được xuất bản trong "Journal für die reine und angewandte Mathematik", 2004. Bài chứng minh sử dụng chủ yếu các trường cyclotomic và các modun Galois. Một bài luận cho bài chứng minh được viết bởi Yuri Bilu trong Séminaire Bourbaki. Vào 2005, Mihăilescu xuất bản một bài chứng minh khác đơn giản hơn == Tổng quát hóa. == Hiện đang có giả thuyết rằng với mọi số nguyên dương "n", chỉ có hữu hạn số cặp lũy thừa hoàn hảo có khoảng cách "n". Danh sách bên dưới xét "n" ≤ 64 ,hiển thị các nghiệm lũy thừa hoàn hảo nhỏ hơn 10, xem . Xem thêm cho nghiệm nhỏ nhất (> 0). == Giả thuyết Pillai. == Giả thuyết Pillai xét đến khoảng cách tổng quát giữa hai số lũy thừa hoàn hảo : là bài toán mở được đưa ra bởi S. S. Pillai, người đặt ra giả thuyết rằng khoảng cách giữa các lũy thừa hoàn hảo tiến đến vô cùng. Ta có thể hiểu tương đương là mỗi số tự nhiên đều có thể biểu diễn thành khoảng cách giữa hai lũy thừa hoàn hảo nhưng chỉ có hữu hạn số lần biểu diễn như vậy.Thậm chí, tổng quát hơn trong 1931 Pillai đã đặt ra giả thuyết khi cố định "A", "B", "C" thì phương trình formula_2 có hữu hạn số nghiệm ("x", "y", "m", "n") với ("m", "n") ≠ (2, 2). Pillai chứng minh rằng khoảng cách formula_3 với bất kỳ λ nhỏ hơn 1, cách đều với "m" và "n". Giả thuyết tổng quát có thể được
bái chứng minh được xuất bản trong journal für die reine und angewandte mathematik 2004 bài chứng minh sử dụng chủ yếu các trường cyclotomic và các modun galois một bài luận cho bài chứng minh được viết bởi yuri bilu trong séminaire bourbaki vào 2005 mihăilescu xuất bản một bài chứng minh khác đơn giản hơn == tổng quát hóa == hiện đang có giả thuyết rằng với mọi số nguyên dương n chỉ có hữu hạn số cặp lũy thừa hoàn hảo có khoảng cách n danh sách bên dưới xét n ≤ 64 hiển thị các nghiệm lũy thừa hoàn hảo nhỏ hơn 10 xem xem thêm cho nghiệm nhỏ nhất 0 == giả thuyết pillai == giả thuyết pillai xét đến khoảng cách tổng quát giữa hai số lũy thừa hoàn hảo là bài toán mở được đưa ra bởi s s pillai người đặt ra giả thuyết rằng khoảng cách giữa các lũy thừa hoàn hảo tiến đến vô cùng ta có thể hiểu tương đương là mỗi số tự nhiên đều có thể biểu diễn thành khoảng cách giữa hai lũy thừa hoàn hảo nhưng chỉ có hữu hạn số lần biểu diễn như vậy thậm chí tổng quát hơn trong 1931 pillai đã đặt ra giả thuyết khi cố định a b c thì phương trình formula_2 có hữu hạn số nghiệm x y m n với m n ≠ 2 2 pillai chứng minh rằng khoảng cách formula_3 với bất kỳ λ nhỏ hơn 1 cách đều với m và n giả thuyết tổng quát có thể được
Giả thuyết Catalan
nghiệm ("x", "y", "m", "n") với ("m", "n") ≠ (2, 2). Pillai chứng minh rằng khoảng cách formula_3 với bất kỳ λ nhỏ hơn 1, cách đều với "m" và "n". Giả thuyết tổng quát có thể được chứng minh từ giả thuyết abc. Paul Erdős đặt ra giả thuyết rằng dãy tăng dần formula_4 của lũy thừa hoàn hảo thỏa mãn formula_5 với một số giá trị "c" và giá trị  "n" đủ lớn. == Xem thêm. == BULLET::::- Giả thuyết Beal BULLET::::- Equation x = y BULLET::::- Giả thuyết Fermat–Catalan BULLET::::- Đường cong Mordell BULLET::::- Phương trình Ramanujan–Nagell BULLET::::- Định lý Størmer BULLET::::- Định lý Tijdeman == Tham khảo. == BULLET::::- Predates Mihăilescu's proof. == Liên kết ngoài. == BULLET::::- Ivars Peterson's MathTrek BULLET::::- On difference of perfect powers BULLET::::- Jeanine Daems: A Cyclotomic Proof of Catalan's Conjecture
nghiệm x y m n với m n ≠ 2 2 pillai chứng minh rằng khoảng cách formula_3 với bất kỳ λ nhỏ hơn 1 cách đều với m và n giả thuyết tổng quát có thể được chứng minh từ giả thuyết abc paul erdős đặt ra giả thuyết rằng dãy tăng dần formula_4 của lũy thừa hoàn hảo thỏa mãn formula_5 với một số giá trị c và giá trị n đủ lớn == xem thêm == bullet giả thuyết beal bullet equation x y bullet giả thuyết fermat–catalan bullet đường cong mordell bullet phương trình ramanujan–nagell bullet định lý størmer bullet định lý tijdeman == tham khảo == bullet predates mihăilescu s proof == liên kết ngoài == bullet ivars peterson s mathtrek bullet on difference of perfect powers bullet jeanine daems a cyclotomic proof of catalan s conjecture
Nhà Zähringen
Nhà Zähringen (tiếng Đức: "Zähringer") là một triều đại của giới quý tộc Swabia. Tên của gia tộc này bắt nguồn từ Lâu đài Zähringen gần Freiburg im Breisgau. Những người đứng đầu Nhà Zähringer vào thế kỷ XII sử dụng tước hiệu Công tước xứ Zähringen, đây là tước hiệu được trao để đền bù cho việc gia tộc này nhường tước hiệu Công tước xứ Swabia cho Gia tộc Staufer vào năm 1098. Người Nhà Zähringer được phong tước hiệu đặc biệt là Rector của xứ Burgundy vào năm 1127, và họ tiếp tục sử dụng cả hai tước hiệu này cho đến khi dòng công tước tuyệt tự vào năm 1218. Các lãnh thổ và thái ấp do Zähringer nắm giữ được gọi là 'Công quốc Zähringen' ("Herzogtum Zähringen"), nhưng nó không được coi là một công quốc ngang hàng với các công quốc gốc có trước đó. Người nhà Zähringer đã cố gắng mở rộng lãnh thổ của họ ở Swabia và Burgundy thành một công quốc được công nhận đầy đủ, nhưng việc mở rộng của họ đã bị dừng lại vào những năm 1130 do mối thù với Nhà Welf. Theo đuổi tham vọng lãnh thổ của mình, Zähringer đã thành lập nhiều thành phố và tu viện ở hai bên rìa của Rừng Đen, cũng như ở Cao nguyên phía tây Thụy Sĩ. Sau sự tuyệt tự của dòng dõi công tước vào năm 1218, các phần lãnh thổ của gia tộc được trở lại với vương quyền (đạt
nhà zähringen tiếng đức zähringer là một triều đại của giới quý tộc swabia tên của gia tộc này bắt nguồn từ lâu đài zähringen gần freiburg im breisgau những người đứng đầu nhà zähringer vào thế kỷ xii sử dụng tước hiệu công tước xứ zähringen đây là tước hiệu được trao để đền bù cho việc gia tộc này nhường tước hiệu công tước xứ swabia cho gia tộc staufer vào năm 1098 người nhà zähringer được phong tước hiệu đặc biệt là rector của xứ burgundy vào năm 1127 và họ tiếp tục sử dụng cả hai tước hiệu này cho đến khi dòng công tước tuyệt tự vào năm 1218 các lãnh thổ và thái ấp do zähringer nắm giữ được gọi là công quốc zähringen herzogtum zähringen nhưng nó không được coi là một công quốc ngang hàng với các công quốc gốc có trước đó người nhà zähringer đã cố gắng mở rộng lãnh thổ của họ ở swabia và burgundy thành một công quốc được công nhận đầy đủ nhưng việc mở rộng của họ đã bị dừng lại vào những năm 1130 do mối thù với nhà welf theo đuổi tham vọng lãnh thổ của mình zähringer đã thành lập nhiều thành phố và tu viện ở hai bên rìa của rừng đen cũng như ở cao nguyên phía tây thụy sĩ sau sự tuyệt tự của dòng dõi công tước vào năm 1218 các phần lãnh thổ của gia tộc được trở lại với vương quyền đạt
Nhà Zähringen
Cao nguyên phía tây Thụy Sĩ. Sau sự tuyệt tự của dòng dõi công tước vào năm 1218, các phần lãnh thổ của gia tộc được trở lại với vương quyền (đạt được quyền hoàng gia ngay lập tức), trong khi các phần khác được chia cho các gia tộc của Kyburg, Urach và Fürstenberg. == Liên kết ngoài. == BULLET::::- Zähringen Castle – original castle of the Zähringer
cao nguyên phía tây thụy sĩ sau sự tuyệt tự của dòng dõi công tước vào năm 1218 các phần lãnh thổ của gia tộc được trở lại với vương quyền đạt được quyền hoàng gia ngay lập tức trong khi các phần khác được chia cho các gia tộc của kyburg urach và fürstenberg == liên kết ngoài == bullet zähringen castle – original castle of the zähringer
Công quốc Carinthia
Công quốc Carinthia (tiếng Đức: "Herzogtum Kärnten"; tiếng Slovenia: "Vojvodina Koroška") là một công quốc nằm ở miền Nam nước Áo và một phần phía Bắc của Slovenia. Nó được tách ra khỏi Công quốc Bayern vào năm 976, và là Nhà nước Đế chế đầu tiên được thành lập sau các Công quốc gốc Đức. Carinthia vẫn là một Nhà nước trong Đế chế La Mã Thần thánh cho đến khi đế chế này giải thể vào năm 1806, mặc dù từ năm 1335, nó được cai trị bởi Quân chủ Habsburg của Đại công quốc Áo. Carinthia được xem là một bộ phận cấu thành của chế độ quân chủ Habsburg và sau này là Đế quốc Áo, nó vẫn là vùng đất thuộc vương miện Cisleithania của Đế quốc Áo-Hung cho đến năm 1918. Đến thời kỳ Toàn dân đầu phiếu Carinthia vào tháng 10 năm 1920, khu vực chính của công quốc đã hình thành nên bang Carinthia của Áo. == Chú thích và Tham khảo. == BULLET::::- Kärnten (Religious population data is inaccurate) == Liên kết ngoài. == BULLET::::- Map of the Balkans (1815–59)
công quốc carinthia tiếng đức herzogtum kärnten tiếng slovenia vojvodina koroška là một công quốc nằm ở miền nam nước áo và một phần phía bắc của slovenia nó được tách ra khỏi công quốc bayern vào năm 976 và là nhà nước đế chế đầu tiên được thành lập sau các công quốc gốc đức carinthia vẫn là một nhà nước trong đế chế la mã thần thánh cho đến khi đế chế này giải thể vào năm 1806 mặc dù từ năm 1335 nó được cai trị bởi quân chủ habsburg của đại công quốc áo carinthia được xem là một bộ phận cấu thành của chế độ quân chủ habsburg và sau này là đế quốc áo nó vẫn là vùng đất thuộc vương miện cisleithania của đế quốc áo-hung cho đến năm 1918 đến thời kỳ toàn dân đầu phiếu carinthia vào tháng 10 năm 1920 khu vực chính của công quốc đã hình thành nên bang carinthia của áo == chú thích và tham khảo == bullet kärnten religious population data is inaccurate == liên kết ngoài == bullet map of the balkans 1815–59
Nguyễn Văn Khoa
Nguyễn Văn Khoa (sinh năm 1977) là một doanh nhân người Việt Nam, hiện đang giữ chức Tổng giám đốc điều hành của Tập đoàn FPT . Ngoài ra, ông còn là Ủy viên HĐQT Công ty FPT Telecom, Chủ tịch Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ Công nghệ thông tin Việt Nam, thành viên Hiệp hội Internet Việt Nam, Hiệp hội truyền hình cáp Việt Nam, Ủy viên Ban chấp hành Hội Tin học Thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ 2018 - 2023 . == Tiểu sử. == Nguyễn Văn Khoa sinh ngày 4 tháng 2 năm 1977 tại thủ đô Hà Nội. Ông Khoa theo học tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân từ 1995 tới 1999, tốt nghiệp cử nhân ngành Du Lịch. Gia nhập FPT từ khi còn là một sinh viên vào năm 1997, trong vòng suốt 25 năm, ông Khoa đã kinh qua các mảng kinh doanh trọng điểm của Tập đoàn là Viễn Thông và Công Nghệ. == Lịch sử công tác. == BULLET::::- 3/2019 - nay: Tổng giám đốc Tập đoàn FPT BULLET::::- 3/2018 - 3/2019: Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn FPT, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Hệ thống thông tin FPT (FPT IS) BULLET::::- 7/2015 - 3/2019: Kiêm nhiệm Giám đốc Chi nhánh FPT tại TP Hồ Chí Minh BULLET::::- 4/2015 - 2/2018: Chủ tịch Công ty TNHH MTV Viễn thông Quốc tế FPT (FTI), thuộc Công ty Cổ phần Viễn thông FPT (FPT Telecom) BULLET::::- 7/2013 - 11/2018: Chủ tịch FPT Telecom Tân Thuận thuộc Công ty FPT
nguyễn văn khoa sinh năm 1977 là một doanh nhân người việt nam hiện đang giữ chức tổng giám đốc điều hành của tập đoàn fpt ngoài ra ông còn là ủy viên hđqt công ty fpt telecom chủ tịch hiệp hội phần mềm và dịch vụ công nghệ thông tin việt nam thành viên hiệp hội internet việt nam hiệp hội truyền hình cáp việt nam ủy viên ban chấp hành hội tin học thành phố hồ chí minh nhiệm kỳ 2018 2023 == tiểu sử == nguyễn văn khoa sinh ngày 4 tháng 2 năm 1977 tại thủ đô hà nội ông khoa theo học tại trường đại học kinh tế quốc dân từ 1995 tới 1999 tốt nghiệp cử nhân ngành du lịch gia nhập fpt từ khi còn là một sinh viên vào năm 1997 trong vòng suốt 25 năm ông khoa đã kinh qua các mảng kinh doanh trọng điểm của tập đoàn là viễn thông và công nghệ == lịch sử công tác == bullet 3 2019 nay tổng giám đốc tập đoàn fpt bullet 3 2018 3 2019 phó tổng giám đốc tập đoàn fpt tổng giám đốc công ty tnhh hệ thống thông tin fpt fpt is bullet 7 2015 3 2019 kiêm nhiệm giám đốc chi nhánh fpt tại tp hồ chí minh bullet 4 2015 2 2018 chủ tịch công ty tnhh mtv viễn thông quốc tế fpt fti thuộc công ty cổ phần viễn thông fpt fpt telecom bullet 7 2013 11 2018 chủ tịch fpt telecom tân thuận thuộc công ty fpt
Nguyễn Văn Khoa
ty TNHH MTV Viễn thông Quốc tế FPT (FTI), thuộc Công ty Cổ phần Viễn thông FPT (FPT Telecom) BULLET::::- 7/2013 - 11/2018: Chủ tịch FPT Telecom Tân Thuận thuộc Công ty FPT Telecom BULLET::::- 7/2013 - 3/2015: Giám đốc Điều hành Công ty Cổ phần Dịch vụ Trực tuyến FPT (FPT Online) BULLET::::- 1/2012 - 2/2018: Tổng Giám đốc FPT Telecom BULLET::::- 5/2010 - 1/2012: Phó Tổng Giám đốc thường trực FPT Telecom BULLET::::- 6/2008 - 5/2011: Tổng Giám đốc Công ty FTI, thuộc FPT Telecom BULLET::::- 2006 - 2007: Phó Giám đốc Kinh doanh - Chi nhánh Công ty FPT Telecom Hà Nội, Giám đốc chi nhánh FPT Telecom tại Hải Phòng BULLET::::- 2003 - 2005: Giám đốc Trung tâm Quản lý hạ tầng thuộc FPT Telecom BULLET::::- 1998 - 2003: Trưởng phòng Dự án; Trưởng phòng Quảng cáo và Phát triển; Trưởng phòng Hỗ trợ kỹ thuật của Trung tâm FPT Internet thuộc Công ty Cổ phần FPT; Giám đốc Trung tâm Giải pháp và truyền số liệu thuộc Công ty Truyền thông FPT BULLET::::- 1997: Gia nhập FPT với vị trí nhân viên kỹ thuật == Quá trình hoạt động. == Năm 2012, ở tuổi 35, ông Nguyễn Văn Khoa là CEO công ty thành viên chủ chốt trẻ nhất FPT khi được bổ nhiệm vị trí Tổng Giám đốc FPT Telecom. Nhờ xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý nòng cốt, cùng những quyết sách và tầm nhìn mới mẻ, ông đã dẫn dắt FPT Telecom giữ vững vị trí Top 3 công ty cung cấp dịch vụ internet hàng
ty tnhh mtv viễn thông quốc tế fpt fti thuộc công ty cổ phần viễn thông fpt fpt telecom bullet 7 2013 11 2018 chủ tịch fpt telecom tân thuận thuộc công ty fpt telecom bullet 7 2013 3 2015 giám đốc điều hành công ty cổ phần dịch vụ trực tuyến fpt fpt online bullet 1 2012 2 2018 tổng giám đốc fpt telecom bullet 5 2010 1 2012 phó tổng giám đốc thường trực fpt telecom bullet 6 2008 5 2011 tổng giám đốc công ty fti thuộc fpt telecom bullet 2006 2007 phó giám đốc kinh doanh chi nhánh công ty fpt telecom hà nội giám đốc chi nhánh fpt telecom tại hải phòng bullet 2003 2005 giám đốc trung tâm quản lý hạ tầng thuộc fpt telecom bullet 1998 2003 trưởng phòng dự án trưởng phòng quảng cáo và phát triển trưởng phòng hỗ trợ kỹ thuật của trung tâm fpt internet thuộc công ty cổ phần fpt giám đốc trung tâm giải pháp và truyền số liệu thuộc công ty truyền thông fpt bullet 1997 gia nhập fpt với vị trí nhân viên kỹ thuật == quá trình hoạt động == năm 2012 ở tuổi 35 ông nguyễn văn khoa là ceo công ty thành viên chủ chốt trẻ nhất fpt khi được bổ nhiệm vị trí tổng giám đốc fpt telecom nhờ xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý nòng cốt cùng những quyết sách và tầm nhìn mới mẻ ông đã dẫn dắt fpt telecom giữ vững vị trí top 3 công ty cung cấp dịch vụ internet hàng
Nguyễn Văn Khoa
lý nòng cốt, cùng những quyết sách và tầm nhìn mới mẻ, ông đã dẫn dắt FPT Telecom giữ vững vị trí Top 3 công ty cung cấp dịch vụ internet hàng đầu Việt Nam, liên tục thử nghiệm các sản phẩm, dịch vụ và phương pháp quản trị mới. Ông góp phần quan trọng giúp FPT Telecom triển khai thành công tuyến đường trục Bắc – Nam 1.800 km, chuyển đổi toàn bộ hạ tầng cáp đồng sang cáp quang trong 1 năm – nhanh gấp 2 lần so với tiến độ dự kiến; đặt nền móng cho sự phát triển lớn mạnh của Truyền hình FPT hiện đại khi quyết định lựa chọn kinh doanh IPTV (truyền hình qua internet) thay cho truyền hình cáp. Dưới sự lãnh đạo của ông, giai đoạn 2012-2017, doanh thu FPT Telecom tăng 2,6 lần, lợi nhuận tăng 1,6 lần; nhân sự tăng gần gấp 2 lần và có tỷ lệ đóng góp cao nhất trong lợi nhuận Tập đoàn (2012-2016). Hiện FPT Telecom sở hữu hạ tầng Viễn thông, Internet và truyền hình phủ rộng 63/63 tỉnh, thành phố. Tháng 3/2018, ông được luân chuyển làm Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần FPT, Tổng Giám đốc Công ty Hệ thống Thông tin FPT (FPT Information System - FPT IS) trong chương trình quy hoạch và đào tạo đội ngũ lãnh đạo kế cận của Tập đoàn. Chỉ sau một năm, ông nhận được sự tin tưởng, ủng hộ của đội ngũ Ban lãnh đạo, cán bộ
lý nòng cốt cùng những quyết sách và tầm nhìn mới mẻ ông đã dẫn dắt fpt telecom giữ vững vị trí top 3 công ty cung cấp dịch vụ internet hàng đầu việt nam liên tục thử nghiệm các sản phẩm dịch vụ và phương pháp quản trị mới ông góp phần quan trọng giúp fpt telecom triển khai thành công tuyến đường trục bắc – nam 1 800 km chuyển đổi toàn bộ hạ tầng cáp đồng sang cáp quang trong 1 năm – nhanh gấp 2 lần so với tiến độ dự kiến đặt nền móng cho sự phát triển lớn mạnh của truyền hình fpt hiện đại khi quyết định lựa chọn kinh doanh iptv truyền hình qua internet thay cho truyền hình cáp dưới sự lãnh đạo của ông giai đoạn 2012-2017 doanh thu fpt telecom tăng 2 6 lần lợi nhuận tăng 1 6 lần nhân sự tăng gần gấp 2 lần và có tỷ lệ đóng góp cao nhất trong lợi nhuận tập đoàn 2012-2016 hiện fpt telecom sở hữu hạ tầng viễn thông internet và truyền hình phủ rộng 63 63 tỉnh thành phố tháng 3 2018 ông được luân chuyển làm phó tổng giám đốc công ty cổ phần fpt tổng giám đốc công ty hệ thống thông tin fpt fpt information system fpt is trong chương trình quy hoạch và đào tạo đội ngũ lãnh đạo kế cận của tập đoàn chỉ sau một năm ông nhận được sự tin tưởng ủng hộ của đội ngũ ban lãnh đạo cán bộ
Nguyễn Văn Khoa
và đào tạo đội ngũ lãnh đạo kế cận của Tập đoàn. Chỉ sau một năm, ông nhận được sự tin tưởng, ủng hộ của đội ngũ Ban lãnh đạo, cán bộ nhân viên FPT IS và đã truyền cảm hứng cùng tinh thần đổi mới cho cán bộ nhân viên các cấp. Ngày 8 tháng 3 năm 2019, Hội đồng Quản trị FPT đã thông qua nghị quyết bổ nhiệm ông đảm trách vị trí Tổng Giám đốc FPT thay thế ông Bùi Quang Ngọc hết nhiệm kỳ từ ngày 29 tháng 3 năm 2019. Với tầm nhìn mới mẻ, sự quyết liệt và đề cao sáng tạo, kỷ luật, ông đã dẫn dắt FPT và các công ty thành viên liên tục tăng trưởng, khẳng định vị thế công ty chuyển đổi số hàng đầu, đồng thời kiến tạo động cơ tăng trưởng bền vững cho FPT trong dài hạn bằng việc phát triển Hệ sinh thái công nghệ Made by FPT; mở nhiều kênh bán hàng mới, hợp lực các đơn vị thành viên; chuyển đổi số nội bộ giúp tối ưu hiệu suất, tiết kiệm cho Tập đoàn hàng trăm tỷ đồng… == Xem thêm. == BULLET::::- FPT BULLET::::- FPT Telecom
và đào tạo đội ngũ lãnh đạo kế cận của tập đoàn chỉ sau một năm ông nhận được sự tin tưởng ủng hộ của đội ngũ ban lãnh đạo cán bộ nhân viên fpt is và đã truyền cảm hứng cùng tinh thần đổi mới cho cán bộ nhân viên các cấp ngày 8 tháng 3 năm 2019 hội đồng quản trị fpt đã thông qua nghị quyết bổ nhiệm ông đảm trách vị trí tổng giám đốc fpt thay thế ông bùi quang ngọc hết nhiệm kỳ từ ngày 29 tháng 3 năm 2019 với tầm nhìn mới mẻ sự quyết liệt và đề cao sáng tạo kỷ luật ông đã dẫn dắt fpt và các công ty thành viên liên tục tăng trưởng khẳng định vị thế công ty chuyển đổi số hàng đầu đồng thời kiến tạo động cơ tăng trưởng bền vững cho fpt trong dài hạn bằng việc phát triển hệ sinh thái công nghệ made by fpt mở nhiều kênh bán hàng mới hợp lực các đơn vị thành viên chuyển đổi số nội bộ giúp tối ưu hiệu suất tiết kiệm cho tập đoàn hàng trăm tỷ đồng… == xem thêm == bullet fpt bullet fpt telecom
Luật Tiếp công dân 2013
Luật Tiếp công dân 2013 (số ký hiệu: 42/2013/QH13) là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên quy định toàn diện và có hiệu lực hiện hành về việc tiếp công dân của khối cơ quan nhà nước và "chủ thể công" ở Việt Nam, được ban hành năm 2013 bởi Quốc hội Việt Nam khóa XIII. == Bối cảnh. == === Trước 2012. === Ở Việt Nam, "tiếp công dân" thời kỳ đầu được hiểu là việc cơ quan nhà nước tiếp công dân để lắng nghe và xử lý các vấn đề từ yêu cầu của công dân. Văn bản đầu tiên chính thức quy định về công tác tiếp công dân là Nghị định số 89 của Chính phủ năm 1997, ban hành đi kèm là quy chế tổ chức tiếp công dân, trao quyền cho Tổng Thanh tra Nhà nước tổ chức thực hiện; đề cập ở luật đầu tiên là Luật Khiếu nại, tố cáo 1998, rồi Luật Tố cáo 2010, Luật Khiếu nại 2011, liên tiếp được nêu ở nghị định hướng dẫn thi hành luật này năm 2006, 2012, đề án của về đổi mới công tác tiếp công dân 2010 được phê duyệt bởi Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng. Bên cạnh các văn bản luật này, một số cơ quan, tổ chức có ban hành văn bản quy định về tổ chức và hoạt động tiếp công dân trong cơ quan, tổ chức mình như Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
luật tiếp công dân 2013 số ký hiệu 42 2013 qh13 là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên quy định toàn diện và có hiệu lực hiện hành về việc tiếp công dân của khối cơ quan nhà nước và chủ thể công ở việt nam được ban hành năm 2013 bởi quốc hội việt nam khóa xiii == bối cảnh == === trước 2012 === ở việt nam tiếp công dân thời kỳ đầu được hiểu là việc cơ quan nhà nước tiếp công dân để lắng nghe và xử lý các vấn đề từ yêu cầu của công dân văn bản đầu tiên chính thức quy định về công tác tiếp công dân là nghị định số 89 của chính phủ năm 1997 ban hành đi kèm là quy chế tổ chức tiếp công dân trao quyền cho tổng thanh tra nhà nước tổ chức thực hiện đề cập ở luật đầu tiên là luật khiếu nại tố cáo 1998 rồi luật tố cáo 2010 luật khiếu nại 2011 liên tiếp được nêu ở nghị định hướng dẫn thi hành luật này năm 2006 2012 đề án của về đổi mới công tác tiếp công dân 2010 được phê duyệt bởi phó thủ tướng trương vĩnh trọng bên cạnh các văn bản luật này một số cơ quan tổ chức có ban hành văn bản quy định về tổ chức và hoạt động tiếp công dân trong cơ quan tổ chức mình như tòa án nhân dân tối cao viện kiểm sát nhân dân tối cao
Luật Tiếp công dân 2013
bản quy định về tổ chức và hoạt động tiếp công dân trong cơ quan, tổ chức mình như Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của mặt trận. Cuối năm 2012, Thanh tra Chính phủ báo cáo tổng kết việc thực hiện công tác tiếp công dân giai đoạn 2008–11 nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu xây dựng đề án đổi mới công tác tiếp công dân, theo đó, các cơ quan hành chính nhà nước đã tiếp hơn 1,5 triệu lượt người đến khiếu nại, tố cáo với hơn 830 nghìn vụ việc; trong đó có gần 14 nghìn đoàn đông người với hơn 160 nghìn người, gần 9.000 vụ việc; đã tiếp nhận, xử lý gần 700 nghìn đơn khiếu nại, tố cáo; giải quyết hơn 250 nghìn đơn khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền. Trong quá trình thực thi công tác tiếp công dân, các cơ quan nhà nước và đơn vị nghiên cứu, đánh giá đã đưa ra nhận định về lĩnh vực này theo hướng còn nhiều vướng mắc trong quy định của luật lẫn áp dụng thực tế. Các vấn đề chính là nhận thức của các lãnh đạo bộ, ngành, địa phương chưa đúng, chưa thực sự coi công tác tiếp dân là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, góp phần ổn định chính trị, xã hội,
bản quy định về tổ chức và hoạt động tiếp công dân trong cơ quan tổ chức mình như tòa án nhân dân tối cao viện kiểm sát nhân dân tối cao mặt trận tổ quốc việt nam và các tổ chức thành viên của mặt trận cuối năm 2012 thanh tra chính phủ báo cáo tổng kết việc thực hiện công tác tiếp công dân giai đoạn 2008–11 nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu xây dựng đề án đổi mới công tác tiếp công dân theo đó các cơ quan hành chính nhà nước đã tiếp hơn 1 5 triệu lượt người đến khiếu nại tố cáo với hơn 830 nghìn vụ việc trong đó có gần 14 nghìn đoàn đông người với hơn 160 nghìn người gần 9 000 vụ việc đã tiếp nhận xử lý gần 700 nghìn đơn khiếu nại tố cáo giải quyết hơn 250 nghìn đơn khiếu nại tố cáo thuộc thẩm quyền trong quá trình thực thi công tác tiếp công dân các cơ quan nhà nước và đơn vị nghiên cứu đánh giá đã đưa ra nhận định về lĩnh vực này theo hướng còn nhiều vướng mắc trong quy định của luật lẫn áp dụng thực tế các vấn đề chính là nhận thức của các lãnh đạo bộ ngành địa phương chưa đúng chưa thực sự coi công tác tiếp dân là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại tố cáo góp phần ổn định chính trị xã hội
Luật Tiếp công dân 2013
coi công tác tiếp dân là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, góp phần ổn định chính trị, xã hội, phát huy quyền dân chủ của công dân; quy định pháp luật về tiếp công dân được đặt làm một bộ phận trong các luật khiếu nại, luật tố cáo là chưa đầy đủ, chưa kịp thời, thiếu đồng bộ, chưa tương xứng với tính chất, yêu cầu của công tác này, đặc biệt chưa phân định rõ việc tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo với kiến nghị, phản ánh, chưa làm rõ việc tiếp công dân của người đứng đầu với việc tiếp công dân của công chức, giữa việc tiếp dân thường xuyên với yêu cầu khẩn thiết đối với vụ việc phức tạp, có nhiều người tham gia; chưa gắn việc tiếp công dân với việc theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, giải quyết của các cấp, các ngành. Phía đánh giá cho rằng công tác tiếp công dân là hoạt động phức tạp, đòi hỏi nhiều kỹ năng và tuân thủ luật định, trong khi nhiều phần nhân lực tiếp công dân còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Mặt khác, nhiều vấn đề do lịch sử để lại hoặc chính sách, pháp luật về các lĩnh vực nhạy cảm như nhà ở, đất đai, đền bù, giải phóng mặt bằng còn nhiều bất cập nên việc giải thích, trả lời cho công dân gặp
coi công tác tiếp dân là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại tố cáo góp phần ổn định chính trị xã hội phát huy quyền dân chủ của công dân quy định pháp luật về tiếp công dân được đặt làm một bộ phận trong các luật khiếu nại luật tố cáo là chưa đầy đủ chưa kịp thời thiếu đồng bộ chưa tương xứng với tính chất yêu cầu của công tác này đặc biệt chưa phân định rõ việc tiếp công dân đến khiếu nại tố cáo với kiến nghị phản ánh chưa làm rõ việc tiếp công dân của người đứng đầu với việc tiếp công dân của công chức giữa việc tiếp dân thường xuyên với yêu cầu khẩn thiết đối với vụ việc phức tạp có nhiều người tham gia chưa gắn việc tiếp công dân với việc theo dõi kiểm tra đôn đốc giải quyết của các cấp các ngành phía đánh giá cho rằng công tác tiếp công dân là hoạt động phức tạp đòi hỏi nhiều kỹ năng và tuân thủ luật định trong khi nhiều phần nhân lực tiếp công dân còn yếu chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn mặt khác nhiều vấn đề do lịch sử để lại hoặc chính sách pháp luật về các lĩnh vực nhạy cảm như nhà ở đất đai đền bù giải phóng mặt bằng còn nhiều bất cập nên việc giải thích trả lời cho công dân gặp
Luật Tiếp công dân 2013
luật về các lĩnh vực nhạy cảm như nhà ở, đất đai, đền bù, giải phóng mặt bằng còn nhiều bất cập nên việc giải thích, trả lời cho công dân gặp nhiều vướng mắc. Những kết luận này đưa ra đề xuất xây dựng một đạo luật mới và riêng biệt về tiếp công dân. === Soạn thảo, ban hành. === Năm 2012, Chính phủ quyết định giao nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng các quy định về tiếp công dân cho Thanh tra Chính phủ, sau đó, Ban soạn thảo và Tổ biên tập dự thảo Luật Tiếp công dân được thành lập do Tổng Thanh tra Huỳnh Phong Tranh làm trưởng ban, với tinh thần xây dựng một đạo luật riêng biệt cho vấn đề tiếp công dân. Ban soạn thảo có thêm các đại diện đến từ Văn phòng Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Văn phòng Trung ương Đảng, tiến hành nghiên cứu các văn bản pháp luật trước đó, đánh giá tác động kinh tế, xã hội của dự án, tổ chức các cuộc hội thảo có sự tham gia của các chuyên gia pháp lý, cán bộ quản lý, thanh tra viên có nhiều kinh nghiệm của các bộ, ngành, địa phương để trao đổi về các nội dung của dự án. Bên cạnh đó, đã giới thiệu dự thảo trên cổng thông tin điện tử của Thanh tra Chính phủ để lấy ý kiến người dân, gửi hồ sơ dự án để
luật về các lĩnh vực nhạy cảm như nhà ở đất đai đền bù giải phóng mặt bằng còn nhiều bất cập nên việc giải thích trả lời cho công dân gặp nhiều vướng mắc những kết luận này đưa ra đề xuất xây dựng một đạo luật mới và riêng biệt về tiếp công dân === soạn thảo ban hành === năm 2012 chính phủ quyết định giao nhiệm vụ nghiên cứu xây dựng các quy định về tiếp công dân cho thanh tra chính phủ sau đó ban soạn thảo và tổ biên tập dự thảo luật tiếp công dân được thành lập do tổng thanh tra huỳnh phong tranh làm trưởng ban với tinh thần xây dựng một đạo luật riêng biệt cho vấn đề tiếp công dân ban soạn thảo có thêm các đại diện đến từ văn phòng chính phủ bộ công an bộ tư pháp ủy ban kiểm tra trung ương văn phòng trung ương đảng tiến hành nghiên cứu các văn bản pháp luật trước đó đánh giá tác động kinh tế xã hội của dự án tổ chức các cuộc hội thảo có sự tham gia của các chuyên gia pháp lý cán bộ quản lý thanh tra viên có nhiều kinh nghiệm của các bộ ngành địa phương để trao đổi về các nội dung của dự án bên cạnh đó đã giới thiệu dự thảo trên cổng thông tin điện tử của thanh tra chính phủ để lấy ý kiến người dân gửi hồ sơ dự án để
Luật Tiếp công dân 2013
án. Bên cạnh đó, đã giới thiệu dự thảo trên cổng thông tin điện tử của Thanh tra Chính phủ để lấy ý kiến người dân, gửi hồ sơ dự án để Bộ Tư pháp thẩm định pháp lý rồi hoàn thiện và trình Chính phủ vào đầu năm 2013. Dự thảo luật trình lần đầu được thảo luận ở Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong phiên họp thứ 16 đầu năm 2013, gồm 10 chương, 71 điều, dự kiến trình Quốc hội ở kỳ họp thứ năm nhưng bị bác bỏ, nhận đánh giá là chưa đáp ứng yêu cầu thực tế, cần chỉnh lý theo hướng bỏ các điều khoản "vòng vèo" về hệ thống tiếp công dân, chưa rõ quyền "được tiếp" công dân. Sau đó, dự thảo được sửa đổi, trình Thường vụ lần thứ hai vào tháng 8 năm 2013, tiếp tục chỉnh lý và trình Quốc hội trong kỳ hợp thứ sáu, được thông qua với tỷ lệ tán thành là 84,14% vào ngày 25 tháng 11 năm 2013. == Cấu trúc. == Luật có chín chương, 36 điều, thay thế và chấm dứt hiệu lực của một bộ phận các quy định về tiếp công dân trước đó bao gồm những quy định về tiếp công dân tại Chương V, Luật Khiếu nại, tố cáo 1998 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 26/2004/QH11 và Luật số 58/2005/QH11, và Chương V, Luật Khiếu nại 2011, từ ngày 1 tháng 7 năm 2014. == Nội dung
án bên cạnh đó đã giới thiệu dự thảo trên cổng thông tin điện tử của thanh tra chính phủ để lấy ý kiến người dân gửi hồ sơ dự án để bộ tư pháp thẩm định pháp lý rồi hoàn thiện và trình chính phủ vào đầu năm 2013 dự thảo luật trình lần đầu được thảo luận ở ủy ban thường vụ quốc hội trong phiên họp thứ 16 đầu năm 2013 gồm 10 chương 71 điều dự kiến trình quốc hội ở kỳ họp thứ năm nhưng bị bác bỏ nhận đánh giá là chưa đáp ứng yêu cầu thực tế cần chỉnh lý theo hướng bỏ các điều khoản vòng vèo về hệ thống tiếp công dân chưa rõ quyền được tiếp công dân sau đó dự thảo được sửa đổi trình thường vụ lần thứ hai vào tháng 8 năm 2013 tiếp tục chỉnh lý và trình quốc hội trong kỳ hợp thứ sáu được thông qua với tỷ lệ tán thành là 84 14% vào ngày 25 tháng 11 năm 2013 == cấu trúc == luật có chín chương 36 điều thay thế và chấm dứt hiệu lực của một bộ phận các quy định về tiếp công dân trước đó bao gồm những quy định về tiếp công dân tại chương v luật khiếu nại tố cáo 1998 đã được sửa đổi bổ sung một số điều theo luật số 26 2004 qh11 và luật số 58 2005 qh11 và chương v luật khiếu nại 2011 từ ngày 1 tháng 7 năm 2014 == nội dung
Luật Tiếp công dân 2013
được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 26/2004/QH11 và Luật số 58/2005/QH11, và Chương V, Luật Khiếu nại 2011, từ ngày 1 tháng 7 năm 2014. == Nội dung chính. == Với nguyên tắc dựng luật là tạo cơ sở pháp lý, thống nhất về tổ chức, hoạt động tiếp công dân của các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm này, do đó, luật định phạm vi điều chỉnh gồm những vấn đề cơ bản nhất về tổ chức và hoạt động tiếp công dân, gồm các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp công dân, quyền và nghĩa vụ của công dân và trách nhiệm của người tiếp công dân, trụ sở tiếp công dân, trình tự, thủ tục tiếp công dân; các điều kiện đảm bảo cho hoạt động tiếp công dân như kinh phí, chế độ chính sách đối với người tiếp công dân. Ngoài ra, luật cũng quy định việc tiếp đại diện của cơ quan, tổ chức, lẫn người nước ngoài đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh (gọi tắt là "trình vấn đề"). Các chủ thể có trách nhiệm tiếp công dân là khối cơ quan nhà nước, chủ thể công tổ chức việc tiếp công dân phù hợp với yêu cầu, quy mô, tính chất hoạt động của mình. Với công dân, khi đến nơi tiếp công dân thì có các quyền là: trình bày về nội dung vấn đề, được hướng dẫn, giải thích về những nội dung liên quan của mình; khiếu
được sửa đổi bổ sung một số điều theo luật số 26 2004 qh11 và luật số 58 2005 qh11 và chương v luật khiếu nại 2011 từ ngày 1 tháng 7 năm 2014 == nội dung chính == với nguyên tắc dựng luật là tạo cơ sở pháp lý thống nhất về tổ chức hoạt động tiếp công dân của các cơ quan tổ chức có trách nhiệm này do đó luật định phạm vi điều chỉnh gồm những vấn đề cơ bản nhất về tổ chức và hoạt động tiếp công dân gồm các cơ quan tổ chức có trách nhiệm tiếp công dân quyền và nghĩa vụ của công dân và trách nhiệm của người tiếp công dân trụ sở tiếp công dân trình tự thủ tục tiếp công dân các điều kiện đảm bảo cho hoạt động tiếp công dân như kinh phí chế độ chính sách đối với người tiếp công dân ngoài ra luật cũng quy định việc tiếp đại diện của cơ quan tổ chức lẫn người nước ngoài đến khiếu nại tố cáo kiến nghị phản ánh gọi tắt là trình vấn đề các chủ thể có trách nhiệm tiếp công dân là khối cơ quan nhà nước chủ thể công tổ chức việc tiếp công dân phù hợp với yêu cầu quy mô tính chất hoạt động của mình với công dân khi đến nơi tiếp công dân thì có các quyền là trình bày về nội dung vấn đề được hướng dẫn giải thích về những nội dung liên quan của mình khiếu
Luật Tiếp công dân 2013
khi đến nơi tiếp công dân thì có các quyền là: trình bày về nội dung vấn đề, được hướng dẫn, giải thích về những nội dung liên quan của mình; khiếu nại, tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật của người tiếp công dân; nhận thông báo về việc tiếp nhận, kết quả xử lý vấn đề đã trình. Trường hợp người trình vấn đề không sử dụng thông thạo tiếng Việt thì có quyền sử dụng người phiên dịch. Tương ứng với các quyền, người trình vấn đề có nghĩa vụ là: nêu rõ thông tin cá nhân, xuất trình giấy tờ tuỳ thân; các yêu cầu về thái độ đúng mực, trình bày trung thực sự việc, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung vấn đề; sau đó cần ký hoặc điểm chỉ xác nhận những nội dung trình bày đã được ghi chép lại; bên cạnh đó là nghiêm chỉnh chấp hành nội quy tiếp công dân và hướng dẫn của người tiếp công dân; và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung khiếu nại, tố cáo của mình. === Chủ thể tiếp dân. === Với các chủ thể tiếp công dân thì có trách nhiệm là tôn trọng nguyên tắc, tôn trọng công dân thông qua trang phục, hành vi như: trang phục chỉnh tề, có đeo thẻ vị trí, phù hiệu theo quy định; yêu cầu người đến trình vấn đề nêu rõ thông tin, giấy tờ tùy thân, tiếp nhận vấn đề, thụ
khi đến nơi tiếp công dân thì có các quyền là trình bày về nội dung vấn đề được hướng dẫn giải thích về những nội dung liên quan của mình khiếu nại tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật của người tiếp công dân nhận thông báo về việc tiếp nhận kết quả xử lý vấn đề đã trình trường hợp người trình vấn đề không sử dụng thông thạo tiếng việt thì có quyền sử dụng người phiên dịch tương ứng với các quyền người trình vấn đề có nghĩa vụ là nêu rõ thông tin cá nhân xuất trình giấy tờ tuỳ thân các yêu cầu về thái độ đúng mực trình bày trung thực sự việc cung cấp thông tin tài liệu liên quan đến nội dung vấn đề sau đó cần ký hoặc điểm chỉ xác nhận những nội dung trình bày đã được ghi chép lại bên cạnh đó là nghiêm chỉnh chấp hành nội quy tiếp công dân và hướng dẫn của người tiếp công dân và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung khiếu nại tố cáo của mình === chủ thể tiếp dân === với các chủ thể tiếp công dân thì có trách nhiệm là tôn trọng nguyên tắc tôn trọng công dân thông qua trang phục hành vi như trang phục chỉnh tề có đeo thẻ vị trí phù hiệu theo quy định yêu cầu người đến trình vấn đề nêu rõ thông tin giấy tờ tùy thân tiếp nhận vấn đề thụ
Luật Tiếp công dân 2013
chỉnh tề, có đeo thẻ vị trí, phù hiệu theo quy định; yêu cầu người đến trình vấn đề nêu rõ thông tin, giấy tờ tùy thân, tiếp nhận vấn đề, thụ lý vụ việc. Người tiếp công dân theo quy định thì phải có thái độ đúng mực, lắng nghe, tiếp nhận đơn trình vấn đề hoặc ghi chép đầy đủ, chính xác nội dung mà người đến trình bày. == Xem thêm. == BULLET::::- Luật Khiếu nại 2011 BULLET::::- Luật Tố cáo 2018 == Liên kết ngoài. == BULLET::::- Luật Tiếp công dân 2013. BULLET::::- Luật Khiếu nại 2011.
chỉnh tề có đeo thẻ vị trí phù hiệu theo quy định yêu cầu người đến trình vấn đề nêu rõ thông tin giấy tờ tùy thân tiếp nhận vấn đề thụ lý vụ việc người tiếp công dân theo quy định thì phải có thái độ đúng mực lắng nghe tiếp nhận đơn trình vấn đề hoặc ghi chép đầy đủ chính xác nội dung mà người đến trình bày == xem thêm == bullet luật khiếu nại 2011 bullet luật tố cáo 2018 == liên kết ngoài == bullet luật tiếp công dân 2013 bullet luật khiếu nại 2011
Kia Rio
Kia Rio () là dòng xe subcompact do Kia sản xuất từ tháng 11 năm 1999. Đến nay đã có 4 thế hệ khác nhau được ra mắt. == Doanh số. == Rio / K2 là mẫu xe bán chạy nhất của Kia trên toàn thế giới trong các năm 2012 và 2015. == Liên kết ngoài. == BULLET::::- (Hoa Kỳ, sedan) BULLET::::- (Anh, hatchback)
kia rio là dòng xe subcompact do kia sản xuất từ tháng 11 năm 1999 đến nay đã có 4 thế hệ khác nhau được ra mắt == doanh số == rio k2 là mẫu xe bán chạy nhất của kia trên toàn thế giới trong các năm 2012 và 2015 == liên kết ngoài == bullet hoa kỳ sedan bullet anh hatchback
Kia Stinger
Kia Stinger () là dòng ô tô hạng trung do Kia sản xuất kể từ năm 2017.
kia stinger là dòng ô tô hạng trung do kia sản xuất kể từ năm 2017
Căn cứ Xuân Lộc
Căn cứ Xuân Lộc (còn gọi là Sân bay Xuân Lộc hoặc Căn cứ hỏa lực Husky) là căn cứ cũ của Quân đội Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) tọa lạc tại thị trấn Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, miền Nam Việt Nam. == Lịch sử. == Phân đội Biệt kích số 5 AB-31 đã lập nên căn cứ này vào cuối năm 1966 tại Xuân Lộc và cách Núi Đất 28 km về phía bắc. Lúc 1 giờ sáng ngày 18 tháng 5 năm 1969, Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 9 Pháo binh và Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 35 Pháo binh, Liên đoàn 54 Pháo binh tại căn cứ này bị các phần tử của Sư đoàn 5 Việt Cộng (VC) tấn công. Một số lính VC xâm nhập vòng vây nhưng bị pháo binh đánh lui. Quân trú phòng được sự yểm trợ từ trực thăng chiến đấu, các cuộc không kích và máy bay gunship AC-47 "Spooky". Khi trận chiến vẫn tiếp tục, một đơn vị thuộc Trung đoàn 11 Thiết giáp đã đến đối đầu với quân VC. Giao tranh tiếp tục cho đến 6 giờ sáng khiến 24 lính VC và 14 lính Mỹ thiệt mạng. Sư đoàn 18 Bộ binh VNCH đặt sở chỉ huy tại đây, căn cứ và sân bay nằm ở khu trung tâm trận Xuân Lộc vào tháng 4 năm 1975. Sau khi chiến tranh chấm dứt ngày 30 tháng 4 năm 1975, căn cứ này hiện nay đã bị bỏ hoang và được chuyển
căn cứ xuân lộc còn gọi là sân bay xuân lộc hoặc căn cứ hỏa lực husky là căn cứ cũ của quân đội mỹ và quân lực việt nam cộng hòa qlvnch tọa lạc tại thị trấn xuân lộc tỉnh đồng nai miền nam việt nam == lịch sử == phân đội biệt kích số 5 ab-31 đã lập nên căn cứ này vào cuối năm 1966 tại xuân lộc và cách núi đất 28 km về phía bắc lúc 1 giờ sáng ngày 18 tháng 5 năm 1969 tiểu đoàn 7 trung đoàn 9 pháo binh và tiểu đoàn 2 trung đoàn 35 pháo binh liên đoàn 54 pháo binh tại căn cứ này bị các phần tử của sư đoàn 5 việt cộng vc tấn công một số lính vc xâm nhập vòng vây nhưng bị pháo binh đánh lui quân trú phòng được sự yểm trợ từ trực thăng chiến đấu các cuộc không kích và máy bay gunship ac-47 spooky khi trận chiến vẫn tiếp tục một đơn vị thuộc trung đoàn 11 thiết giáp đã đến đối đầu với quân vc giao tranh tiếp tục cho đến 6 giờ sáng khiến 24 lính vc và 14 lính mỹ thiệt mạng sư đoàn 18 bộ binh vnch đặt sở chỉ huy tại đây căn cứ và sân bay nằm ở khu trung tâm trận xuân lộc vào tháng 4 năm 1975 sau khi chiến tranh chấm dứt ngày 30 tháng 4 năm 1975 căn cứ này hiện nay đã bị bỏ hoang và được chuyển
Căn cứ Xuân Lộc
tâm trận Xuân Lộc vào tháng 4 năm 1975. Sau khi chiến tranh chấm dứt ngày 30 tháng 4 năm 1975, căn cứ này hiện nay đã bị bỏ hoang và được chuyển đổi thành nhà ở và đất nông nghiệp.
tâm trận xuân lộc vào tháng 4 năm 1975 sau khi chiến tranh chấm dứt ngày 30 tháng 4 năm 1975 căn cứ này hiện nay đã bị bỏ hoang và được chuyển đổi thành nhà ở và đất nông nghiệp
Căn cứ Lai Khê
Căn cứ Lai Khê là căn cứ cũ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa và Quân đội Mỹ đóng tại ấp Lai Khê, xã Lai Hưng, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, dọc theo Quốc lộ 13 về phía Tây Bắc Sài Gòn và cách Thủ Dầu Một khoảng 20 km về phía bắc tỉnh này. == Lịch sử. == Trong chiến tranh Việt Nam, Lai Khê là một thị trấn đồn trú do Sư đoàn 5 Bộ binh QLVNCH đóng tại đó trong hầu hết thập niên 1960/1970. Lai Khê cũng là Sở chỉ huy Sư đoàn 1 Bộ binh của Lục quân Mỹ từ tháng 10 năm 1967 đến tháng 1 năm 1970. Các đơn vị quân đội Mỹ khác đóng tại Lai Khê bao gồm: BULLET::::- Tiểu đoàn Tín hiệu 121 (1965 – 1970) BULLET::::- Bệnh viện Phẫu thuật số 2 (1968 – Tháng 3, 1970) BULLET::::- Tiểu đoàn 2, Thiết đoàn 5 Kỵ binh (Tháng 4 – Tháng 12 năm 1969) BULLET::::- Tiểu đoàn 5, Sư đoàn 7 Kỵ binh (Tháng 4 – Tháng 12 năm 1969) BULLET::::- Trung đoàn 11 Thiết giáp (Tháng 2 năm 1969) BULLET::::- Tiểu đoàn 6, Pháo binh 15 (Tháng 5, 1967 - Tháng 7, 1968) BULLET::::- Bệnh viện Phẫu thuật số 18 (Tháng 12, 1967 – Tháng 2, 1968) BULLET::::- Tiểu đoàn 2, Pháo binh 33 (Tháng 7, 1967 – Tháng 4, 1970) BULLET::::- Đại đội Trực thăng Tấn công 173 (1966 – Tháng 3, 1972) BULLET::::- Tiểu đoàn Công binh 554 (Tháng 10, 1969 – 1971) BULLET::::- Đại đội Nghiên cứu Vô tuyến 337, Tiểu đoàn Nghiên
căn cứ lai khê là căn cứ cũ của quân lực việt nam cộng hòa và quân đội mỹ đóng tại ấp lai khê xã lai hưng thị xã bến cát tỉnh bình dương dọc theo quốc lộ 13 về phía tây bắc sài gòn và cách thủ dầu một khoảng 20 km về phía bắc tỉnh này == lịch sử == trong chiến tranh việt nam lai khê là một thị trấn đồn trú do sư đoàn 5 bộ binh qlvnch đóng tại đó trong hầu hết thập niên 1960 1970 lai khê cũng là sở chỉ huy sư đoàn 1 bộ binh của lục quân mỹ từ tháng 10 năm 1967 đến tháng 1 năm 1970 các đơn vị quân đội mỹ khác đóng tại lai khê bao gồm bullet tiểu đoàn tín hiệu 121 1965 – 1970 bullet bệnh viện phẫu thuật số 2 1968 – tháng 3 1970 bullet tiểu đoàn 2 thiết đoàn 5 kỵ binh tháng 4 – tháng 12 năm 1969 bullet tiểu đoàn 5 sư đoàn 7 kỵ binh tháng 4 – tháng 12 năm 1969 bullet trung đoàn 11 thiết giáp tháng 2 năm 1969 bullet tiểu đoàn 6 pháo binh 15 tháng 5 1967 tháng 7 1968 bullet bệnh viện phẫu thuật số 18 tháng 12 1967 – tháng 2 1968 bullet tiểu đoàn 2 pháo binh 33 tháng 7 1967 – tháng 4 1970 bullet đại đội trực thăng tấn công 173 1966 – tháng 3 1972 bullet tiểu đoàn công binh 554 tháng 10 1969 – 1971 bullet đại đội nghiên cứu vô tuyến 337 tiểu đoàn nghiên
Căn cứ Lai Khê
Đại đội Trực thăng Tấn công 173 (1966 – Tháng 3, 1972) BULLET::::- Tiểu đoàn Công binh 554 (Tháng 10, 1969 – 1971) BULLET::::- Đại đội Nghiên cứu Vô tuyến 337, Tiểu đoàn Nghiên cứu Vô tuyến 303, Liên đoàn Nghiên cứu Vô tuyến 509 (ASA) BULLET::::- Trung đội 4 Đại đội Y tế 45 (cứu thương trên không) [AKA "Dustoff"] (Tháng 6, 1966 – Tháng 2, 1969) BULLET::::- Phi đội 1, Thiết đoàn 9 Kỵ binh BULLET::::- Binh đoàn Bravo BULLET::::- Binh đoàn Echo - thành lập tại đây vào ngày 1 tháng 9 năm 1970 Ngày 28 tháng 7 năm 1971, một cuộc tấn công của đặc công QĐNDVN/VC vào căn cứ này đã phá hủy bốn trực thăng Mỹ và làm hư hỏng chiếc thứ năm. Sau khi chiến tranh chấm dứt ngày 30 tháng 4 năm 1975, Phần lớn khu căn cứ này đều được chuyển sang làm nhà ở và đất canh tác trong lúc một phần căn cứ vẫn được Quân đội Nhân dân Việt Nam sử dụng cho đến nay.
đại đội trực thăng tấn công 173 1966 – tháng 3 1972 bullet tiểu đoàn công binh 554 tháng 10 1969 – 1971 bullet đại đội nghiên cứu vô tuyến 337 tiểu đoàn nghiên cứu vô tuyến 303 liên đoàn nghiên cứu vô tuyến 509 asa bullet trung đội 4 đại đội y tế 45 cứu thương trên không [aka dustoff tháng 6 1966 – tháng 2 1969 bullet phi đội 1 thiết đoàn 9 kỵ binh bullet binh đoàn bravo bullet binh đoàn echo thành lập tại đây vào ngày 1 tháng 9 năm 1970 ngày 28 tháng 7 năm 1971 một cuộc tấn công của đặc công qđndvn vc vào căn cứ này đã phá hủy bốn trực thăng mỹ và làm hư hỏng chiếc thứ năm sau khi chiến tranh chấm dứt ngày 30 tháng 4 năm 1975 phần lớn khu căn cứ này đều được chuyển sang làm nhà ở và đất canh tác trong lúc một phần căn cứ vẫn được quân đội nhân dân việt nam sử dụng cho đến nay
Elisabeth Glantzberg
Elisabeth Glantzberg Elisabeth Margareta Glantzberg (1873–1951) là một nghệ nhân dệt may, giáo viên và nhà thiết kế thời trang người Thụy Điển. Sau vài năm dạy dệt và quảng cáo hàng dệt của Thụy Điển ở Boston, Massachusetts, bà trở lại Thụy Điển vào năm 1909. Cùng với Emy Fick, bà thành lập trường Birgittaskolan ở Stockholm . Ngoài việc cung cấp các khóa học về dệt may, trường Birgitta còn là xưởng dệt hàng đầu sản xuất các loại hàng dệt may. Bà tiếp tục thiết kế quần áo ở đó cho đến giữa những năm 1930, dựa trên xu hướng thời trang cao cấp và trang phục hàng ngày của Paris. == Tiểu sử. == Elisabeth Glantzberg sinh ngày 20 tháng 10 năm 1873 tại Dalarna, miền Trung Thụy Điển. Bà là con gái của một giáo sĩ tên Christian Magnus Glantzberg và Hilda Dorotea Glantzberg, nhũ danh Arborelius. Bà có ba chị gái và một anh trai. Mặc dù không được đào tạo bài bản, Glantzberg và các chị gái của cô đã tự tay may vá và sản xuất đồ dệt may tại nhà, giống như bao đứa trẻ khác thời bấy giờ. Khoảng năm 1900, cô và chị gái Ellen chuyển đến Boston, nơi anh trai Ernst của cô di cư đến vào năm 1891. Hai chị em đã thành lập một doanh nghiệp có tên The Misses Glantzberg, vừa là một trường dệt may vừa là một doanh nghiệp bán lẻ trưng bày đồ thủ công và đồ đạc trong nhà của Thụy
elisabeth glantzberg elisabeth margareta glantzberg 1873–1951 là một nghệ nhân dệt may giáo viên và nhà thiết kế thời trang người thụy điển sau vài năm dạy dệt và quảng cáo hàng dệt của thụy điển ở boston massachusetts bà trở lại thụy điển vào năm 1909 cùng với emy fick bà thành lập trường birgittaskolan ở stockholm ngoài việc cung cấp các khóa học về dệt may trường birgitta còn là xưởng dệt hàng đầu sản xuất các loại hàng dệt may bà tiếp tục thiết kế quần áo ở đó cho đến giữa những năm 1930 dựa trên xu hướng thời trang cao cấp và trang phục hàng ngày của paris == tiểu sử == elisabeth glantzberg sinh ngày 20 tháng 10 năm 1873 tại dalarna miền trung thụy điển bà là con gái của một giáo sĩ tên christian magnus glantzberg và hilda dorotea glantzberg nhũ danh arborelius bà có ba chị gái và một anh trai mặc dù không được đào tạo bài bản glantzberg và các chị gái của cô đã tự tay may vá và sản xuất đồ dệt may tại nhà giống như bao đứa trẻ khác thời bấy giờ khoảng năm 1900 cô và chị gái ellen chuyển đến boston nơi anh trai ernst của cô di cư đến vào năm 1891 hai chị em đã thành lập một doanh nghiệp có tên the misses glantzberg vừa là một trường dệt may vừa là một doanh nghiệp bán lẻ trưng bày đồ thủ công và đồ đạc trong nhà của thụy
Elisabeth Glantzberg
doanh nghiệp có tên The Misses Glantzberg, vừa là một trường dệt may vừa là một doanh nghiệp bán lẻ trưng bày đồ thủ công và đồ đạc trong nhà của Thụy Điển. Từ năm 1903, với tư cách là thành viên tích cực của Hiệp hội Nghệ thuật và Thủ công Boston, bà đã nhiều lần tổ chức trưng bày các tác phẩm của mình . Bà trở lại Thụy Điển vào năm 1909. Làm việc ở cửa hàng bách hóa Nordiska Kompaniet ở Stockholm, bà gặp Emy Fick. Năm 1910, họ cùng nhau thành lập Birgittaskolan ở trung tâm Stockholm. Trung tâm là nơi cung cấp các khóa học về may, thêu và ren. Ngoài ra, đây cũng là nơi săn xuất các đơn đặt hàng đồ lót, hàng dệt trang trí và thảm. Tuy nhiên, Glantzberg mong muốn đào tạo phụ nữ học dệt may để họ có thể làm việc chuyên nghiệp, còn Fick lại muốn đào tạo những phụ nữ muốn sản xuất hàng dệt tại nhà. Do khác biệt trong đường lối đào tạo, họ ngừng hợp tác và chia doanh nghiệp thành hai công ty riêng biệt. Glantzberg giữ lịa tên Birgittaskolan trong khi Fick đặt tên công ty của mình là Sankta Birgittaskolan hoặc trường Saint Birgitta. Năm 1917, Glantzberg chuyển sang lĩnh vực thời trang. Bà tuyển dụng hai nhà thiết kế theo xu hướng Paris để tạo ra những bộ sưu tập táo bạo đáng chú ý. Công việc kinh doanh của Glantzberg phát triển mạnh cho đến giữa
doanh nghiệp có tên the misses glantzberg vừa là một trường dệt may vừa là một doanh nghiệp bán lẻ trưng bày đồ thủ công và đồ đạc trong nhà của thụy điển từ năm 1903 với tư cách là thành viên tích cực của hiệp hội nghệ thuật và thủ công boston bà đã nhiều lần tổ chức trưng bày các tác phẩm của mình bà trở lại thụy điển vào năm 1909 làm việc ở cửa hàng bách hóa nordiska kompaniet ở stockholm bà gặp emy fick năm 1910 họ cùng nhau thành lập birgittaskolan ở trung tâm stockholm trung tâm là nơi cung cấp các khóa học về may thêu và ren ngoài ra đây cũng là nơi săn xuất các đơn đặt hàng đồ lót hàng dệt trang trí và thảm tuy nhiên glantzberg mong muốn đào tạo phụ nữ học dệt may để họ có thể làm việc chuyên nghiệp còn fick lại muốn đào tạo những phụ nữ muốn sản xuất hàng dệt tại nhà do khác biệt trong đường lối đào tạo họ ngừng hợp tác và chia doanh nghiệp thành hai công ty riêng biệt glantzberg giữ lịa tên birgittaskolan trong khi fick đặt tên công ty của mình là sankta birgittaskolan hoặc trường saint birgitta năm 1917 glantzberg chuyển sang lĩnh vực thời trang bà tuyển dụng hai nhà thiết kế theo xu hướng paris để tạo ra những bộ sưu tập táo bạo đáng chú ý công việc kinh doanh của glantzberg phát triển mạnh cho đến giữa
Elisabeth Glantzberg
dụng hai nhà thiết kế theo xu hướng Paris để tạo ra những bộ sưu tập táo bạo đáng chú ý. Công việc kinh doanh của Glantzberg phát triển mạnh cho đến giữa những năm 1930. Sau đó bà trở về quê hương Dalarna, nơi bà điều hành một trường dạy dệt. Bà qua đời tại Älvdalen vào ngày 10 tháng 12 năm 1951.
dụng hai nhà thiết kế theo xu hướng paris để tạo ra những bộ sưu tập táo bạo đáng chú ý công việc kinh doanh của glantzberg phát triển mạnh cho đến giữa những năm 1930 sau đó bà trở về quê hương dalarna nơi bà điều hành một trường dạy dệt bà qua đời tại älvdalen vào ngày 10 tháng 12 năm 1951
Kia Carnival
Kia Carnival () là dòng xe minivan được sản xuất bởi Kia từ năm 1998. Dòng xe này được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau; tiêu biểu là cái tên Kia Sedona hiện không còn được sử dụng.
kia carnival là dòng xe minivan được sản xuất bởi kia từ năm 1998 dòng xe này được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau tiêu biểu là cái tên kia sedona hiện không còn được sử dụng
Kia Sonet
Kia Sonet là dòng xe SUV crossover cỡ nhỏ được sản xuất bởi Kia từ năm 2020. Dòng xe đã được tiếp thị ở các thị trường mới nổi bao gồm Ấn Độ, Indonesia, Nam Phi, Việt Nam, Trung Đông và một số quốc gia Mỹ Latinh. == Liên kết ngoài. == BULLET::::- Trang web chính thức (Ấn Độ)
kia sonet là dòng xe suv crossover cỡ nhỏ được sản xuất bởi kia từ năm 2020 dòng xe đã được tiếp thị ở các thị trường mới nổi bao gồm ấn độ indonesia nam phi việt nam trung đông và một số quốc gia mỹ latinh == liên kết ngoài == bullet trang web chính thức ấn độ
Thiện nguyện
Thiện nguyện là một dạng chủ nghĩa vị tha bao gồm "các sáng kiến cá nhân, dành cho hàng hóa công cộng, tập trung vào chất lượng cuộc sống". Hoạt động thiện nguyện đối lập với các sáng kiến kinh doanh, vốn là những sáng kiến cá nhân dành cho hàng hóa tư nhân, tập trung vào lợi ích vật chất; và cùng với các nỗ lực của chính phủ, vốn là các sáng kiến công dành cho hàng hóa công cộng, tập trung chủ yếu vào việc cung cấp các dịch vụ công. Người chuyên làm công việc thiện nguyện được gọi là "nhà từ thiện" hoặc "nhà thiện nguyện". == Châu Á. == Hoạt động từ thiện có một lịch sử lâu đời tại khu vực châu Á, việc thiện nguyện hay cách tiếp cận có hệ thống để làm việc thiện đã có từ thuở sơ khai. Triết gia Trung Quốc là == Xem thêm. == BULLET::::- Danh sách các quỹ từ thiện lớn mạnh nhất thế giới BULLET::::- Tổ chức từ thiện == Đọc thêm. == BULLET::::- Adam, Thomas. "Philanthropy, Patronage, and Civil Society: Experiences from Germany, Great Britain, and North America" (2008) BULLET::::- Burlingame, D.F. Ed. (2004). "Philanthropy in America: A comprehensive historical encyclopaedia" (3 vol. ABC Clio). BULLET::::- Curti, Merle E. "American philanthropy abroad: a history" (Rutgers UP, 1963). BULLET::::- Grimm, Robert T. "Notable American Philanthropists: Biographies of Giving and Volunteering" (2002) excerpt BULLET::::- Hitchcock, William I. (2014) "World War I and the humanitarian impulse." "The Tocqueville Review/La revue Tocqueville" 35.2 (2014): 145–163. BULLET::::- Ilchman, Warren F. et al. "Philanthropy
thiện nguyện là một dạng chủ nghĩa vị tha bao gồm các sáng kiến cá nhân dành cho hàng hóa công cộng tập trung vào chất lượng cuộc sống hoạt động thiện nguyện đối lập với các sáng kiến kinh doanh vốn là những sáng kiến cá nhân dành cho hàng hóa tư nhân tập trung vào lợi ích vật chất và cùng với các nỗ lực của chính phủ vốn là các sáng kiến công dành cho hàng hóa công cộng tập trung chủ yếu vào việc cung cấp các dịch vụ công người chuyên làm công việc thiện nguyện được gọi là nhà từ thiện hoặc nhà thiện nguyện == châu á == hoạt động từ thiện có một lịch sử lâu đời tại khu vực châu á việc thiện nguyện hay cách tiếp cận có hệ thống để làm việc thiện đã có từ thuở sơ khai triết gia trung quốc là == xem thêm == bullet danh sách các quỹ từ thiện lớn mạnh nhất thế giới bullet tổ chức từ thiện == đọc thêm == bullet adam thomas philanthropy patronage and civil society experiences from germany great britain and north america 2008 bullet burlingame d f ed 2004 philanthropy in america a comprehensive historical encyclopaedia 3 vol abc clio bullet curti merle e american philanthropy abroad a history rutgers up 1963 bullet grimm robert t notable american philanthropists biographies of giving and volunteering 2002 excerpt bullet hitchcock william i 2014 world war i and the humanitarian impulse the tocqueville review la revue tocqueville 35 2 2014 145–163 bullet ilchman warren f et al philanthropy
Thiện nguyện
Biographies of Giving and Volunteering" (2002) excerpt BULLET::::- Hitchcock, William I. (2014) "World War I and the humanitarian impulse." "The Tocqueville Review/La revue Tocqueville" 35.2 (2014): 145–163. BULLET::::- Ilchman, Warren F. et al. "Philanthropy in the World's Traditions" (1998) Examines philanthropy in Buddhist, Islamic, Hindu, Jewish, and Native American religious traditions and in cultures from Latin America, Eastern Europe, the Middle East, Africa, and Asia. online BULLET::::- Jordan, W.K. "Philanthropy in England, 1480–1660: A Study of the Changing Pattern of English Social Aspirations" (1959) online BULLET::::- Kiger, Joseph C. "Philanthropists and foundation globalization" (Transaction Publishers, 2011). BULLET::::- Petersen, Jørn Henrik, Klaus Petersen, and Søren Kolstrup. "Autonomy, Cooperation or Colonization? Christian Philanthropy and State Welfare in Denmark." "Journal of Church and State" 56#1 (2014): 81–104. BULLET::::- Reich, Rob, Chiara Cordelli, and Lucy Bernholz, eds. "Philanthropy in democratic societies: History, institutions, values" (U of Chicago Press, 2016). BULLET::::- Zunz, Olivier. "Philanthropy in America: A history" (Princeton UP, 2014). == Liên kết ngoài. == BULLET::::- History of Philanthropy, 1601–present compiled and edited by National Philanthropic Trust
biographies of giving and volunteering 2002 excerpt bullet hitchcock william i 2014 world war i and the humanitarian impulse the tocqueville review la revue tocqueville 35 2 2014 145–163 bullet ilchman warren f et al philanthropy in the world s traditions 1998 examines philanthropy in buddhist islamic hindu jewish and native american religious traditions and in cultures from latin america eastern europe the middle east africa and asia online bullet jordan w k philanthropy in england 1480–1660 a study of the changing pattern of english social aspirations 1959 online bullet kiger joseph c philanthropists and foundation globalization transaction publishers 2011 bullet petersen jørn henrik klaus petersen and søren kolstrup autonomy cooperation or colonization christian philanthropy and state welfare in denmark journal of church and state 56#1 2014 81–104 bullet reich rob chiara cordelli and lucy bernholz eds philanthropy in democratic societies history institutions values u of chicago press 2016 bullet zunz olivier philanthropy in america a history princeton up 2014 == liên kết ngoài == bullet history of philanthropy 1601–present compiled and edited by national philanthropic trust
Oxalinh
Oxalinh là đại diện đầu tiên của Việt Nam tại Hoa Hậu hoàn vũ 2002 tổ chức tại Puerto Rico tại thời điểm đó, Oxalinh gây ra nhiều tranh cãi vì sự có mặt của Oxalinh không được bất kì ai công nhận ngoài đại diện Nga-Oksana Fyodorova. Ngoài ra vào cuối năm 2021 cô bất ngờ bị tố giác ăn chặn từ thiện ngay chính quê hương Việt Nam của cô. Cô là niềm kiêu hãnh của Việt Nam.Vì là người giữ danh vị cao nhất của Việt Nam tại đấu trường nhan sắc quốc tế Miss Universe 2002 là á hậu 2. Và đặc biệt cô chính là một trong những á hậu có điểm S"wimsuit" cao nhất trong lịch sử Miss Universe.
oxalinh là đại diện đầu tiên của việt nam tại hoa hậu hoàn vũ 2002 tổ chức tại puerto rico tại thời điểm đó oxalinh gây ra nhiều tranh cãi vì sự có mặt của oxalinh không được bất kì ai công nhận ngoài đại diện nga-oksana fyodorova ngoài ra vào cuối năm 2021 cô bất ngờ bị tố giác ăn chặn từ thiện ngay chính quê hương việt nam của cô cô là niềm kiêu hãnh của việt nam vì là người giữ danh vị cao nhất của việt nam tại đấu trường nhan sắc quốc tế miss universe 2002 là á hậu 2 và đặc biệt cô chính là một trong những á hậu có điểm s wimsuit cao nhất trong lịch sử miss universe
Alessia Rovegno
Alessia Rovegno Cayo (sinh ngày 20 tháng 1 năm 1998) là một người mẫu, diễn viên, ca sĩ và hoa hậu người Peru đã đăng quang cuộc thi Hoa hậu Peru 2022. Với tư cách là Hoa hậu Peru, Rovegno sẽ đại diện cho Peru tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2022. == Tiểu sử. == Rovegno sinh ra và lớn lên ở Lima, Peru. Cô là con gái của Lucho Rovegno và Bárbara Cayo. Rovegno nhỏ hơn 2 tuổi so với chị gái Arianna Celeste Rovegno Cayo, người sáng lập ra "La Bambina de Rovegno". Dì của họ là Fiorella Cayo, Stephanie Cayo và chú của họ là Macs Cayo đều là diễn viên. Vào ngày 6 tháng 10 năm 2021, cô phát hành bài hát "Un Amor Como el Nuestro". == Các cuộc thi sắc đẹp. == === Hoa hậu Peru 2022. === Vào ngày 14 tháng 6 năm 2022, Rovegno cạnh tranh với 9 ứng cử viên khác trong cuộc thi Hoa hậu Peru 2022. Vào cuối sự kiện, Rovegno đã được trao danh hiệu bởi Yely Rivera của Arequipa với tư cách tân Hoa hậu Hoàn vũ Peru 2022. === Hoa hậu Hoàn vũ 2022. === Với tư cách là Hoa hậu Peru, Rovegno sẽ đại diện cho Peru tại Hoa hậu Hoàn vũ 2022. == Cuộc sống cá nhân. == Vào ngày 12 tháng 12 năm 2021, cô xác nhận mối quan hệ lãng mạn của mình với vận động viên người Peru Hugo García.
alessia rovegno cayo sinh ngày 20 tháng 1 năm 1998 là một người mẫu diễn viên ca sĩ và hoa hậu người peru đã đăng quang cuộc thi hoa hậu peru 2022 với tư cách là hoa hậu peru rovegno sẽ đại diện cho peru tại cuộc thi hoa hậu hoàn vũ 2022 == tiểu sử == rovegno sinh ra và lớn lên ở lima peru cô là con gái của lucho rovegno và bárbara cayo rovegno nhỏ hơn 2 tuổi so với chị gái arianna celeste rovegno cayo người sáng lập ra la bambina de rovegno dì của họ là fiorella cayo stephanie cayo và chú của họ là macs cayo đều là diễn viên vào ngày 6 tháng 10 năm 2021 cô phát hành bài hát un amor como el nuestro == các cuộc thi sắc đẹp == === hoa hậu peru 2022 === vào ngày 14 tháng 6 năm 2022 rovegno cạnh tranh với 9 ứng cử viên khác trong cuộc thi hoa hậu peru 2022 vào cuối sự kiện rovegno đã được trao danh hiệu bởi yely rivera của arequipa với tư cách tân hoa hậu hoàn vũ peru 2022 === hoa hậu hoàn vũ 2022 === với tư cách là hoa hậu peru rovegno sẽ đại diện cho peru tại hoa hậu hoàn vũ 2022 == cuộc sống cá nhân == vào ngày 12 tháng 12 năm 2021 cô xác nhận mối quan hệ lãng mạn của mình với vận động viên người peru hugo garcía
Alessia Rovegno
cô xác nhận mối quan hệ lãng mạn của mình với vận động viên người Peru Hugo García.
cô xác nhận mối quan hệ lãng mạn của mình với vận động viên người peru hugo garcía
Matija Šarkić
Matija Šarkić Matija Sarkic (; sinh ngày 23 tháng 7 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá người Montenegre hiện đang chơi cho Wolverhampton Wanderers và đội tuyển quốc gia Montenegro. Sarkic được sinh ra tại Anh, có bố là người Montenegro và mẹ là người Anh.
matija šarkić matija sarkic sinh ngày 23 tháng 7 năm 1997 là một cầu thủ bóng đá người montenegre hiện đang chơi cho wolverhampton wanderers và đội tuyển quốc gia montenegro sarkic được sinh ra tại anh có bố là người montenegro và mẹ là người anh
Sông Neckar
Sông Neckar Neckar là một con sông dài 362 kilômét (225 mi) ở Đức, chủ yếu chảy qua khu vực tây nam của bang Baden-Württemberg, với một đoạn ngắn qua Hessen . Sông Neckar là một phụ lưu bên phải chính của sông Rhein. Nguồn nằm ở Schwarzwald-Baar-Kreis gần Schwenningen trong khu bảo tồn Schwenninger Moos ở độ cao 706 m (2.316 ft) trên mực nước biển, nó đi qua Rottweil, Rottenburg am Neckar, Kilchberg, Tübingen, Wernau, Nürtingen, Plochingen, Esslingen, Stuttgart, Ludwigsburg, Marbach, Heilbronn và Heidelberg, trước khi xả trung bình 145 m3 / s (5.100 cu ft / s) nước vào sông Rhein tại Mannheim, ở độ cao 95 m (312 ft) trên mực nước biển, khiến Neckar là phụ lưu lớn thứ 4, và là sông lớn thứ 10 ở Đức. Kể từ năm 1968, tàu Neckar có thể điều hướng cho các tàu chở hàng qua 27 âu tàu dài khoảng 200 kilômét (120 mi) ngược dòng từ Mannheim đến cảng sông Plochingen, tại nơi hợp lưu với sông Fils. Từ Plochingen đến Stuttgart, thung lũng Neckar tập trung đông dân cư và được công nghiệp hóa mạnh, với một số công ty nổi tiếng. Giữa Stuttgart và Lauffen, Neckar có một cảnh đẹp, quanh co, và ở nhiều nơi, thung lũng có dốc núi bằng đá vôi Trias nguyên thạch và Pleistocen. Dọc theo thung lũng của Neckar trên các ngọn đồi Odenwald, nhiều lâu đài có thể được thấy, bao gồm Lâu đài Hornberg và Lâu đài Guttenberg ở Haßmersheim; Nhà máy điện
sông neckar neckar là một con sông dài 362 kilômét 225 mi ở đức chủ yếu chảy qua khu vực tây nam của bang baden-württemberg với một đoạn ngắn qua hessen sông neckar là một phụ lưu bên phải chính của sông rhein nguồn nằm ở schwarzwald-baar-kreis gần schwenningen trong khu bảo tồn schwenninger moos ở độ cao 706 m 2 316 ft trên mực nước biển nó đi qua rottweil rottenburg am neckar kilchberg tübingen wernau nürtingen plochingen esslingen stuttgart ludwigsburg marbach heilbronn và heidelberg trước khi xả trung bình 145 m3 s 5 100 cu ft s nước vào sông rhein tại mannheim ở độ cao 95 m 312 ft trên mực nước biển khiến neckar là phụ lưu lớn thứ 4 và là sông lớn thứ 10 ở đức kể từ năm 1968 tàu neckar có thể điều hướng cho các tàu chở hàng qua 27 âu tàu dài khoảng 200 kilômét 120 mi ngược dòng từ mannheim đến cảng sông plochingen tại nơi hợp lưu với sông fils từ plochingen đến stuttgart thung lũng neckar tập trung đông dân cư và được công nghiệp hóa mạnh với một số công ty nổi tiếng giữa stuttgart và lauffen neckar có một cảnh đẹp quanh co và ở nhiều nơi thung lũng có dốc núi bằng đá vôi trias nguyên thạch và pleistocen dọc theo thung lũng của neckar trên các ngọn đồi odenwald nhiều lâu đài có thể được thấy bao gồm lâu đài hornberg và lâu đài guttenberg ở haßmersheim nhà máy điện
Sông Neckar
Dọc theo thung lũng của Neckar trên các ngọn đồi Odenwald, nhiều lâu đài có thể được thấy, bao gồm Lâu đài Hornberg và Lâu đài Guttenberg ở Haßmersheim; Nhà máy điện hạt nhân Obrigheim hiện đã ngưng hoạt động và Nhà máy điện hạt nhân Neckarwestheim còn hoạt động cũng nằm ở đó. Theo truyền thống, các vùng đồng bằng màu mỡ được sử dụng nhiều cho nông nghiệp và các sườn thung lũng dốc của nó làm vườn nho.
dọc theo thung lũng của neckar trên các ngọn đồi odenwald nhiều lâu đài có thể được thấy bao gồm lâu đài hornberg và lâu đài guttenberg ở haßmersheim nhà máy điện hạt nhân obrigheim hiện đã ngưng hoạt động và nhà máy điện hạt nhân neckarwestheim còn hoạt động cũng nằm ở đó theo truyền thống các vùng đồng bằng màu mỡ được sử dụng nhiều cho nông nghiệp và các sườn thung lũng dốc của nó làm vườn nho
Kia Soul
Kia Soul là dòng ô tô SUV crossover cở nhỏ được sản xuất bởi Kia. Ra mắt tại Paris Motor Show 2008, tính đến nay đã có ba phiên bản được phát hành. == Doanh số. == Tính đến năm 2015, Kia đã sản xuất hơn một triệu chiếc Kia Soul. Tại Hoa Kỳ, hơn 100.000 chiếc đã được bán ra mỗi năm từ năm 2011 đến năm 2018. == Liên kết ngoài. == BULLET::::- (e-Soul)
kia soul là dòng ô tô suv crossover cở nhỏ được sản xuất bởi kia ra mắt tại paris motor show 2008 tính đến nay đã có ba phiên bản được phát hành == doanh số == tính đến năm 2015 kia đã sản xuất hơn một triệu chiếc kia soul tại hoa kỳ hơn 100 000 chiếc đã được bán ra mỗi năm từ năm 2011 đến năm 2018 == liên kết ngoài == bullet e-soul
Lưu vong (phim)
Lưu vong (phim) Lưu vong (tiếng Trung: "放‧逐", tiếng Anh: "Exiled", Hán-Việt: "Phóng trục") là một bộ phim điện ảnh thuộc thể loại hành động - tội phạm - chính kịch của điện ảnh Hồng Kông công chiếu năm 2006 do Đỗ Kỳ Phong làm đạo diễn kiêm nhà sản xuất, với phần kịch bản do tổ sáng tác Ngân Hà biên soạn. Tác phẩm có sự tham gia của các diễn viên gồm Huỳnh Thu Sinh, Ngô Trấn Vũ, Trương Gia Huy, Hà Siêu Nghi, Trương Diệu Dương, Lâm Tuyết, với Nhậm Đạt Hoa và Nhậm Hiền Tề. Bộ phim có buổi công chiếu lần đầu tại Liên hoan phim quốc tế Venezia vào ngày 6 tháng 9 năm 2006, sau đó chính thức phát hành tại các cụm rạp ở Hồng Kông từ ngày 19 tháng 10 cùng năm. Tác phẩm cũng được chọn là một trong những tác phẩm của điện ảnh Trung Quốc đi tranh giải Sư tử vàng cũng tại liên hoan phim danh giá ấy, dù không được nhận giải. == Nội dung. == Lấy bối cảnh vào thập niên 90 của thế kỉ XX, có một nhóm sát thủ gồm năm người gồm Hòa, Miêu, Ba, Hỏa và Thái cùng chơi thân với nhau thì bất ngờ thay, Hòa đã quyết định bỏ nghề và đã có gia đình riêng với người vợ là A Tĩnh, kể từ đó Hòa cùng vợ con chuyển sang Ma Cao và sinh sống lặng lẽ tại đây. Tuy vậy, Đại Phi - ông chủ của
lưu vong phim lưu vong tiếng trung 放‧逐 tiếng anh exiled hán-việt phóng trục là một bộ phim điện ảnh thuộc thể loại hành động tội phạm chính kịch của điện ảnh hồng kông công chiếu năm 2006 do đỗ kỳ phong làm đạo diễn kiêm nhà sản xuất với phần kịch bản do tổ sáng tác ngân hà biên soạn tác phẩm có sự tham gia của các diễn viên gồm huỳnh thu sinh ngô trấn vũ trương gia huy hà siêu nghi trương diệu dương lâm tuyết với nhậm đạt hoa và nhậm hiền tề bộ phim có buổi công chiếu lần đầu tại liên hoan phim quốc tế venezia vào ngày 6 tháng 9 năm 2006 sau đó chính thức phát hành tại các cụm rạp ở hồng kông từ ngày 19 tháng 10 cùng năm tác phẩm cũng được chọn là một trong những tác phẩm của điện ảnh trung quốc đi tranh giải sư tử vàng cũng tại liên hoan phim danh giá ấy dù không được nhận giải == nội dung == lấy bối cảnh vào thập niên 90 của thế kỉ xx có một nhóm sát thủ gồm năm người gồm hòa miêu ba hỏa và thái cùng chơi thân với nhau thì bất ngờ thay hòa đã quyết định bỏ nghề và đã có gia đình riêng với người vợ là a tĩnh kể từ đó hòa cùng vợ con chuyển sang ma cao và sinh sống lặng lẽ tại đây tuy vậy đại phi ông chủ của
Lưu vong (phim)
với người vợ là A Tĩnh, kể từ đó Hòa cùng vợ con chuyển sang Ma Cao và sinh sống lặng lẽ tại đây. Tuy vậy, Đại Phi - ông chủ của băng nhóm - có ý định trả thù Hòa sau vụ ám sát hắn bất thành từ Hòa. Vì thế, hắn liền cử một đôi sát thủ tìm tới để thực hiện nhiệm vụ, và không ai khác đó chính là Hỏa và Ba. Khi đến nơi, Hỏa và Ba đều gặp lại Miêu và Thái - cặp sát thủ có ý định bảo vệ Hòa. Sau một pha khẩu chiến, bọn họ quyết định đoàn tụ lại với nhau và được Tạ Phu giao một trong hai phi vụ mới: hoặc là giết tên trùm địch thủ Đản Quyền Cường, hoặc là ăn trộm một tấn vàng. Điều này đã làm cho Đại Phi trở nên tức tối hơn, nên hắn quyết định diệt hết cả năm anh em trong băng nhóm này. Trùng hợp thay là sau khi Hòa đã vĩnh viễn ra đi sau một vụ mưu sát, bốn sát thủ còn lại quyết định tiêu diệt Đại Phi. Và rồi cuộc chiến đã diễn ra trong tình trạng ngang tài ngang sức. Kết quả là sau cuộc chiến ấy, ngoại trừ người vợ A Tình và đứa con trong tay cô, tất cả bốn anh em cùng với Đại Phi đều chết hết, tên trùm Quyền Cường cũng không phải là ngoại lệ. Trước khi nhắm mắt, cả bốn anh em
với người vợ là a tĩnh kể từ đó hòa cùng vợ con chuyển sang ma cao và sinh sống lặng lẽ tại đây tuy vậy đại phi ông chủ của băng nhóm có ý định trả thù hòa sau vụ ám sát hắn bất thành từ hòa vì thế hắn liền cử một đôi sát thủ tìm tới để thực hiện nhiệm vụ và không ai khác đó chính là hỏa và ba khi đến nơi hỏa và ba đều gặp lại miêu và thái cặp sát thủ có ý định bảo vệ hòa sau một pha khẩu chiến bọn họ quyết định đoàn tụ lại với nhau và được tạ phu giao một trong hai phi vụ mới hoặc là giết tên trùm địch thủ đản quyền cường hoặc là ăn trộm một tấn vàng điều này đã làm cho đại phi trở nên tức tối hơn nên hắn quyết định diệt hết cả năm anh em trong băng nhóm này trùng hợp thay là sau khi hòa đã vĩnh viễn ra đi sau một vụ mưu sát bốn sát thủ còn lại quyết định tiêu diệt đại phi và rồi cuộc chiến đã diễn ra trong tình trạng ngang tài ngang sức kết quả là sau cuộc chiến ấy ngoại trừ người vợ a tình và đứa con trong tay cô tất cả bốn anh em cùng với đại phi đều chết hết tên trùm quyền cường cũng không phải là ngoại lệ trước khi nhắm mắt cả bốn anh em
Lưu vong (phim)
tay cô, tất cả bốn anh em cùng với Đại Phi đều chết hết, tên trùm Quyền Cường cũng không phải là ngoại lệ. Trước khi nhắm mắt, cả bốn anh em đều nở nụ cười mãn nguyện vì đã giữ lời hứa năm xưa với Hòa là phải giết được Đại Phi. Và họ đã thành công.
tay cô tất cả bốn anh em cùng với đại phi đều chết hết tên trùm quyền cường cũng không phải là ngoại lệ trước khi nhắm mắt cả bốn anh em đều nở nụ cười mãn nguyện vì đã giữ lời hứa năm xưa với hòa là phải giết được đại phi và họ đã thành công
VNOI
VNOI CLB Olympic Tin học Việt Nam (tên giao dịch tiếng Anh là "Vietnam Olympiad in Informatics", viết tắt VNOI) là tổ chức xã hội - nghề nghiệp tự nguyện của của các học sinh, sinh viên đam mê môn tin học đặc biệt về giải thuật và lập trình, là một chi hội của Hội Tin Học Việt Nam . Với sự trao đổi học tập qua Internet, các học sinh sinh viên ở mọi miền đất nước và kẻ cả du học nước ngoài đều có cơ hội như nhau để tiếp cận với những kiến thức mới nhất trong bộ môn tin học đặc biệt trong lĩnh vực thuật toán và lập trình. Các hoạt động, diễn đàn, kỳ thi được diễn ra trên trang thông tin chính thức của VNOI . == Hình thành. == Cộng đồng VNOI hoạt động từ năm 2008 bởi các cựu học sinh khối PTTH chuyên toán - tin cả nước đã từng tham gia các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia & quốc tế, ngoài ra VNOI còn nhận được sự tham gia, ủng hộ và đóng góp của đông đảo thế hệ học sinh, sinh viên và các thầy cô . Ngày 28/02/2021 Đại hội thành lập CLB VNOI đã thông qua các văn kiện quan trọng như: Điều lệ CLB VNOI, Phương hướng hoạt động VNOI 2021-2026 và bầu 20 thành viên vào Ban Chấp hành VNOI nhiệm kỳ I (2021-2026) và thông Qua nghị quyết Đại hội VNOI lần thứ 1 . == Hoạt động. == Hằng năm, VNOI
vnoi clb olympic tin học việt nam tên giao dịch tiếng anh là vietnam olympiad in informatics viết tắt vnoi là tổ chức xã hội nghề nghiệp tự nguyện của của các học sinh sinh viên đam mê môn tin học đặc biệt về giải thuật và lập trình là một chi hội của hội tin học việt nam với sự trao đổi học tập qua internet các học sinh sinh viên ở mọi miền đất nước và kẻ cả du học nước ngoài đều có cơ hội như nhau để tiếp cận với những kiến thức mới nhất trong bộ môn tin học đặc biệt trong lĩnh vực thuật toán và lập trình các hoạt động diễn đàn kỳ thi được diễn ra trên trang thông tin chính thức của vnoi == hình thành == cộng đồng vnoi hoạt động từ năm 2008 bởi các cựu học sinh khối ptth chuyên toán tin cả nước đã từng tham gia các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia quốc tế ngoài ra vnoi còn nhận được sự tham gia ủng hộ và đóng góp của đông đảo thế hệ học sinh sinh viên và các thầy cô ngày 28 02 2021 đại hội thành lập clb vnoi đã thông qua các văn kiện quan trọng như điều lệ clb vnoi phương hướng hoạt động vnoi 2021-2026 và bầu 20 thành viên vào ban chấp hành vnoi nhiệm kỳ i 2021-2026 và thông qua nghị quyết đại hội vnoi lần thứ 1 == hoạt động == hằng năm vnoi