title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
1
6.84k
bm25_text
stringlengths
0
5.05k
Trẻ Trâu
thể hiện cá tính và có những hành động xốc nổi. Vì vậy, ở lứa tuổi này rất cần có sự hướng dẫn và chỉ bảo của người thân để đi đúng hướng. Tuy nhiên, đây là tâm lý rất dễ hiểu của tuổi dậy thì nên chúng ta có thể thông cảm và không gọi là xấu. Mặt khác, những người tuổi trường thành có những hành động thiếu suy nghĩ, không biết tiết chế cảm xúc. Người có tính sửu nhi thường làm người đối diện cảm thấy khó chịu, không thiện cảm, làm cho các cuộc nói chuyện trở lên căng thẳng, đi vào ngõ cụt thì rất không tốt cho chính họ và cho mọi người xung quanh. Cũng không phủ nhận người có tính trẻ trâu hoàn toàn là xấu, vì họ là những người nhiệt tình, thẳng tính, nếu biết kiềm chế cảm xúc thì sửu nhi đôi khi lại thành ưu điểm của người đó. == Các biếu hiện của người trẻ trâu. == === "Biểu hiện của sửu nhi bên ngoài thế giới thực (nhuộm tóc, đánh lộn,…)". === Để nhận biết trẻ trâu ngoài đời không quá khó khăn, chỉ cần nhìn vẻ bề ngoài cùng vài câu nói giao tiếp là chúng ta có thể nhận ra thanh niên sửu nhi. Các biểu hiện tiêu biểu của thanh niên trẻ trâu ngoài đời như sau: Thời trang hao hao giống nhau: chủ yếu là set đồ với các thương hiệu fake nổi tiếng, cưỡi xe Dream hoặc xe số wave tàu, yêu
thể hiện cá tính và có những hành động xốc nổi vì vậy ở lứa tuổi này rất cần có sự hướng dẫn và chỉ bảo của người thân để đi đúng hướng tuy nhiên đây là tâm lý rất dễ hiểu của tuổi dậy thì nên chúng ta có thể thông cảm và không gọi là xấu mặt khác những người tuổi trường thành có những hành động thiếu suy nghĩ không biết tiết chế cảm xúc người có tính sửu nhi thường làm người đối diện cảm thấy khó chịu không thiện cảm làm cho các cuộc nói chuyện trở lên căng thẳng đi vào ngõ cụt thì rất không tốt cho chính họ và cho mọi người xung quanh cũng không phủ nhận người có tính trẻ trâu hoàn toàn là xấu vì họ là những người nhiệt tình thẳng tính nếu biết kiềm chế cảm xúc thì sửu nhi đôi khi lại thành ưu điểm của người đó == các biếu hiện của người trẻ trâu == === biểu hiện của sửu nhi bên ngoài thế giới thực nhuộm tóc đánh lộn … === để nhận biết trẻ trâu ngoài đời không quá khó khăn chỉ cần nhìn vẻ bề ngoài cùng vài câu nói giao tiếp là chúng ta có thể nhận ra thanh niên sửu nhi các biểu hiện tiêu biểu của thanh niên trẻ trâu ngoài đời như sau thời trang hao hao giống nhau chủ yếu là set đồ với các thương hiệu fake nổi tiếng cưỡi xe dream hoặc xe số wave tàu yêu
Trẻ Trâu
trẻ trâu ngoài đời như sau: Thời trang hao hao giống nhau: chủ yếu là set đồ với các thương hiệu fake nổi tiếng, cưỡi xe Dream hoặc xe số wave tàu, yêu thích hình ảnh đại bàng, hổ,… với quần rách chằng chịt. Đầu tóc thì nhuộm các màu nổi xanh, đỏ, tím vàng. Người thì xăm mình kín chân tay. Dành nhiều thời gian cho các thú chơi vô bổ: bỏ bê việc học, đam mê chơi game, nhất là các game online đang hot quên ăn, quên ngủ. Thích tụ tập bạn bè, hội nhóm chơi các trò chơi nguy hiểm như đua xe, đánh nhau,… Lời nói, cử chỉ bốc đồng hiếu thắng, thiếu suy nghĩ: luôn muốn thể hiện mình là nhất, là trên hết, luôn cho mình là đúng, không chịu nghe lời của người khác. Ăn nói cộc lốc, không có chủ ngữ, vai vế trên dưới. === "Biểu hiện của trẻ trâu trên mạng xã hội – thế giới ảo (Facebook, Tiktok,…)". === Profile Facebook, Tiktok với các thông tin nhảm như: đại học bôn ba, giái quê, trai tổ lái,…. Đặt nick name – tên facebook không đúng với tên thật, tỏ ra đáng yêu, khác biệt là các biệt danh thường gắn với các từ như: heo, béo, đồ ngốc, nhà nghèo, baby, cuốn theo chiều gió, cô đơn,… Hoặc gắn thêm các kí tự đặc biệt. Kiểu chụp ảnh đăng mạng xã hội: các ảnh chỉnh áp quá đà, tự sướng bản thân, kiểu chụp chu mỏ, phồng má, nửa mặt, một
trẻ trâu ngoài đời như sau thời trang hao hao giống nhau chủ yếu là set đồ với các thương hiệu fake nổi tiếng cưỡi xe dream hoặc xe số wave tàu yêu thích hình ảnh đại bàng hổ … với quần rách chằng chịt đầu tóc thì nhuộm các màu nổi xanh đỏ tím vàng người thì xăm mình kín chân tay dành nhiều thời gian cho các thú chơi vô bổ bỏ bê việc học đam mê chơi game nhất là các game online đang hot quên ăn quên ngủ thích tụ tập bạn bè hội nhóm chơi các trò chơi nguy hiểm như đua xe đánh nhau … lời nói cử chỉ bốc đồng hiếu thắng thiếu suy nghĩ luôn muốn thể hiện mình là nhất là trên hết luôn cho mình là đúng không chịu nghe lời của người khác ăn nói cộc lốc không có chủ ngữ vai vế trên dưới === biểu hiện của trẻ trâu trên mạng xã hội – thế giới ảo facebook tiktok … === profile facebook tiktok với các thông tin nhảm như đại học bôn ba giái quê trai tổ lái … đặt nick name – tên facebook không đúng với tên thật tỏ ra đáng yêu khác biệt là các biệt danh thường gắn với các từ như heo béo đồ ngốc nhà nghèo baby cuốn theo chiều gió cô đơn … hoặc gắn thêm các kí tự đặc biệt kiểu chụp ảnh đăng mạng xã hội các ảnh chỉnh áp quá đà tự sướng bản thân kiểu chụp chu mỏ phồng má nửa mặt một
Trẻ Trâu
gắn thêm các kí tự đặc biệt. Kiểu chụp ảnh đăng mạng xã hội: các ảnh chỉnh áp quá đà, tự sướng bản thân, kiểu chụp chu mỏ, phồng má, nửa mặt, một mắt,….thêm các hiệu ứng màu mè rối mắt Trạng thái và status: Triết lý cuộc sống cop nhặt trên mạng xã hội, tâm trạng yêu đương, thất tình, tiêu cực hay những câu thả thính ngôn tình xuất hiện nhiều trong các bộ phim dành cho tuổi teen. Thích nhiều like, share ảo: kêu gọi cộng đồng like share, những bình luận. Quan tâm tới từng like 1. Sử dụng ngôn ngữ teencode: Ngôn ngữ không phổ thông của tiếng Việt, các cụm từ viết tắt, sai chính tả. Thiết lập trạng thái bản thân như: quan hệ phức tạp, đang hẹn hò, đã kết hôn, đang thất tình,… dù vẫn còn tuổi tới trường. Tay nhanh hơn não: rảnh rỗi hay thích đi comment dạo, chỉ trích, soi mói mọi người, thích cà khịa, thách thức gây sự chú ý từ mọi người tới mình. Thích ta đây, thể hiện hiểu biết của mình nhưng thực ra chẳng biết gì. == Những điều cần tránh để không bị gọi là trẻ trâu. == Trẻ trâu không phải là xấu hoàn toàn nhưng nó mang hình ảnh không tốt, thiếu thiện cảm của mình tới người xung quanh. Để có thể hòa đồng tốt hơn với mọi người chúng ta nên có tránh hoặc khắc phục những hành động mang tính sửu nhi bằng cách: Suy nghĩ trước khi nói hoặc hành
gắn thêm các kí tự đặc biệt kiểu chụp ảnh đăng mạng xã hội các ảnh chỉnh áp quá đà tự sướng bản thân kiểu chụp chu mỏ phồng má nửa mặt một mắt … thêm các hiệu ứng màu mè rối mắt trạng thái và status triết lý cuộc sống cop nhặt trên mạng xã hội tâm trạng yêu đương thất tình tiêu cực hay những câu thả thính ngôn tình xuất hiện nhiều trong các bộ phim dành cho tuổi teen thích nhiều like share ảo kêu gọi cộng đồng like share những bình luận quan tâm tới từng like 1 sử dụng ngôn ngữ teencode ngôn ngữ không phổ thông của tiếng việt các cụm từ viết tắt sai chính tả thiết lập trạng thái bản thân như quan hệ phức tạp đang hẹn hò đã kết hôn đang thất tình … dù vẫn còn tuổi tới trường tay nhanh hơn não rảnh rỗi hay thích đi comment dạo chỉ trích soi mói mọi người thích cà khịa thách thức gây sự chú ý từ mọi người tới mình thích ta đây thể hiện hiểu biết của mình nhưng thực ra chẳng biết gì == những điều cần tránh để không bị gọi là trẻ trâu == trẻ trâu không phải là xấu hoàn toàn nhưng nó mang hình ảnh không tốt thiếu thiện cảm của mình tới người xung quanh để có thể hòa đồng tốt hơn với mọi người chúng ta nên có tránh hoặc khắc phục những hành động mang tính sửu nhi bằng cách suy nghĩ trước khi nói hoặc hành
Trẻ Trâu
có thể hòa đồng tốt hơn với mọi người chúng ta nên có tránh hoặc khắc phục những hành động mang tính sửu nhi bằng cách: Suy nghĩ trước khi nói hoặc hành động. Cần tìm hiểu kĩ vấn đề, nhìn mọi việc ở các góc nhìn khác nhau. Ta không nên nhìn mọi thứ phiếm diện, luôn cho mình là đúng, cãi chày cãi cối bằng được. Lắng nghe các ý kiến, góp ý của mọi người: Cần biết sàng lọc các góp ý của mọi người để đưa ra nhận đúng về vấn đề. Hạn chế tiếp xúc với những người có suy nghĩ tiêu cực, hành động sai lệch với thuần phong mỹ tục của Việt Nam. Mở rộng mối quan hệ với người có lỗi sống tích cực, lành mạnh. Trong trường hợp này câu “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” rất phù hợp để được áp dụng. Rất mong qua bài viết này có thể giúp bạn hiểu được ý nghĩa trẻ trâu là gì? cũng như các dấu hiệu nhận biết về trẻ trâu. Bài viết là kiến thức hữu ích, khá đầy đủ giúp bạn hiểu và sử dụng đúng trong cuộc sống, tránh sử dụng sai nghĩa hoặc gây hiểu lầm.
có thể hòa đồng tốt hơn với mọi người chúng ta nên có tránh hoặc khắc phục những hành động mang tính sửu nhi bằng cách suy nghĩ trước khi nói hoặc hành động cần tìm hiểu kĩ vấn đề nhìn mọi việc ở các góc nhìn khác nhau ta không nên nhìn mọi thứ phiếm diện luôn cho mình là đúng cãi chày cãi cối bằng được lắng nghe các ý kiến góp ý của mọi người cần biết sàng lọc các góp ý của mọi người để đưa ra nhận đúng về vấn đề hạn chế tiếp xúc với những người có suy nghĩ tiêu cực hành động sai lệch với thuần phong mỹ tục của việt nam mở rộng mối quan hệ với người có lỗi sống tích cực lành mạnh trong trường hợp này câu “gần mực thì đen gần đèn thì sáng” rất phù hợp để được áp dụng rất mong qua bài viết này có thể giúp bạn hiểu được ý nghĩa trẻ trâu là gì cũng như các dấu hiệu nhận biết về trẻ trâu bài viết là kiến thức hữu ích khá đầy đủ giúp bạn hiểu và sử dụng đúng trong cuộc sống tránh sử dụng sai nghĩa hoặc gây hiểu lầm
Betobeto-san
Betobeto-san Betobeto-san (べ と べ と さ ん) là một loại yokai của Nhật Bản , được cho là đi theo những người đi bộ trên đường đêm. [1] Ở Uda-gun , Nara , tốt hơn là nên gặp trên một con đường đêm tối, [2] ở Shizuoka , người ta nói rằng một người sẽ gặp phải khi đi xuống từ một ngọn núi nhỏ. [3] Tổng quan Mặc dù người ta nói rằng chúng không gây hại cho người chỉ bằng cách phát ra tiếng bước chân, [4] nếu cảm thấy có tiếng bước chân kỳ lạ, họ nên dừng lại ở một bên đường và nói "Betobesan, đi trước" [2] (Tỉnh Nara) . Nếu một người nói "đang đến" [3] (tỉnh Shizuoka), "Xin hãy tiến lên" [4] (cùng tỉnh), người đó sẽ tránh xa những người theo sau họ. Nghệ sĩ manga Shigeru Mizuki nói rằng anh đã gặp phải một thứ có vẻ là một yokai. [5] Tên địa phương của Mizuki, Tuyến Sakai của Công ty Đường sắt Tây Nhật Bản (JR West) , Ga Sân bay Yonago có biệt danh là ga "Betobesan". Phép tương tự "Bishakutsu", được truyền đến Sakai-gun, tỉnh Fukui (hiện là thành phố Sakai ), là nơi có thể nhìn thấy các vật thể vô hình sau khi con người đi trên con đường đêm tối trong trận mưa tuyết mùa đông. [6] Người ta nghe thấy một bí ẩn về việc tạo ra âm thanh đi bộ, và nó được coi là một con quái vật cùng
betobeto-san betobeto-san べ と べ と さ ん là một loại yokai của nhật bản được cho là đi theo những người đi bộ trên đường đêm [1] ở uda-gun nara tốt hơn là nên gặp trên một con đường đêm tối [2] ở shizuoka người ta nói rằng một người sẽ gặp phải khi đi xuống từ một ngọn núi nhỏ [3] tổng quan mặc dù người ta nói rằng chúng không gây hại cho người chỉ bằng cách phát ra tiếng bước chân [4] nếu cảm thấy có tiếng bước chân kỳ lạ họ nên dừng lại ở một bên đường và nói betobesan đi trước [2] tỉnh nara nếu một người nói đang đến [3] tỉnh shizuoka xin hãy tiến lên [4] cùng tỉnh người đó sẽ tránh xa những người theo sau họ nghệ sĩ manga shigeru mizuki nói rằng anh đã gặp phải một thứ có vẻ là một yokai [5] tên địa phương của mizuki tuyến sakai của công ty đường sắt tây nhật bản jr west ga sân bay yonago có biệt danh là ga betobesan phép tương tự bishakutsu được truyền đến sakai-gun tỉnh fukui hiện là thành phố sakai là nơi có thể nhìn thấy các vật thể vô hình sau khi con người đi trên con đường đêm tối trong trận mưa tuyết mùa đông [6] người ta nghe thấy một bí ẩn về việc tạo ra âm thanh đi bộ và nó được coi là một con quái vật cùng
Betobeto-san
trong trận mưa tuyết mùa đông. [6] Người ta nghe thấy một bí ẩn về việc tạo ra âm thanh đi bộ, và nó được coi là một con quái vật cùng loại với người dính. [7] " Teketeke ", được biết đến trong những năm gần đây, gần giống như một con quái vật có bước chân. [số 8] Tài liệu tham khảo "ロ ー ド の" 人 気 も ん "は 誰? 妖怪 ブ ロ ン ズ 像 撮 影 ラ ン キ ン グ" . furusato.sanin.jp . Tháng 4 năm 2008 . Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2010 . "第 2 回 妖怪 人 気 投票 結果 発 表 !!" .さ か な と 鬼 太郎 の ま ち 境 港市 観 光 ガ イ ド. 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 5 năm 2012 . Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2014 .
trong trận mưa tuyết mùa đông [6] người ta nghe thấy một bí ẩn về việc tạo ra âm thanh đi bộ và nó được coi là một con quái vật cùng loại với người dính [7] teketeke được biết đến trong những năm gần đây gần giống như một con quái vật có bước chân [số 8] tài liệu tham khảo ロ ー ド の 人 気 も ん は 誰 妖怪 ブ ロ ン ズ 像 撮 影 ラ ン キ ン グ furusato sanin jp tháng 4 năm 2008 truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2010 第 2 回 妖怪 人 気 投票 結果 発 表 さ か な と 鬼 太郎 の ま ち 境 港市 観 光 ガ イ ド 2009 bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 5 năm 2012 truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2014
Đế chế Ramsaigan
Đế chế Ramsaigan Đế quốc Ramsaigan is The Empire greatest less violence and bad. == Lịch sử. == Đế quốc Ramsaigan bắt đầu xâm lược Việt Nam và làm cho người Việt và người Khmer tin tưởng Ramsaigan và sau đó họ ủng hộ Ramsaigan và Việt Nam đang thua và đầu hàng .Họ được phong làm Vua và Thủ tướng vào năm 1989 - 1990 và Ramsaigan bắt đầu trở thành Futuristic và Metaverse VR được hỗ trợ trong Ramsaigan để mọi người được tự do và không bị bệnh.
đế chế ramsaigan đế quốc ramsaigan is the empire greatest less violence and bad == lịch sử == đế quốc ramsaigan bắt đầu xâm lược việt nam và làm cho người việt và người khmer tin tưởng ramsaigan và sau đó họ ủng hộ ramsaigan và việt nam đang thua và đầu hàng họ được phong làm vua và thủ tướng vào năm 1989 1990 và ramsaigan bắt đầu trở thành futuristic và metaverse vr được hỗ trợ trong ramsaigan để mọi người được tự do và không bị bệnh
Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)
Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý) Vittorio Veneto là một thiết giáp hạm lớp "Littorio" của Hải quân Hoàng Gia Ý (Regia Marina) trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được đặt tên theo Trận Vittorio Veneto, một trận đánh nổi tiếng trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất với sự thắng lợi hoàn toàn thuộc về Vương quốc Ý và đánh dấu sự sụp đổ của Đế quốc Áo-Hung. Được đóng để đối phó với lớp thiết giáp hạm "Dunkerque" của Hải quân Pháp, "Vittorio Veneto" là một trong hai thiết giáp hạm tân tiến đầu tiên của Hải quân Hoàng Gia Ý, và là một trong những tàu chủ lực có mức choán nước 41.000 tấn đầu tiên được hạ thủy sau khi người Ý liên tục vi phạm các điều khoản của Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922. "Vittorio Veneto" được đặt lườn vào tháng 10 năm 1934, hạ thủy vào tháng 7 năm 1937 và nhập biên chế vào tháng 4 năm 1940. "Vittorio Veneto" đã phục vụ tận tụy trong suốt cuộc Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu may mắn không chịu bất kỳ hư hại nào trong cuộc không kích của Hải quân Hoàng Gia Anh vào Taranto đêm ngày 11 tháng 11 năm 1940. Vào giai đoạn đầu của cuộc chiến, "Vittorio Veneto" góp mặt vào Trận Cape Spartivento trong tháng 11 năm 1940 và Trận Cape Matapan vào tháng 3 năm 1941, nơi con tàu bị hư hại bởi một quả ngư lôi, và sau
vittorio veneto thiết giáp hạm ý vittorio veneto là một thiết giáp hạm lớp littorio của hải quân hoàng gia ý regia marina trong chiến tranh thế giới thứ hai con tàu được đặt tên theo trận vittorio veneto một trận đánh nổi tiếng trong chiến tranh thế giới thứ nhất với sự thắng lợi hoàn toàn thuộc về vương quốc ý và đánh dấu sự sụp đổ của đế quốc áo-hung được đóng để đối phó với lớp thiết giáp hạm dunkerque của hải quân pháp vittorio veneto là một trong hai thiết giáp hạm tân tiến đầu tiên của hải quân hoàng gia ý và là một trong những tàu chủ lực có mức choán nước 41 000 tấn đầu tiên được hạ thủy sau khi người ý liên tục vi phạm các điều khoản của hiệp ước hải quân washington năm 1922 vittorio veneto được đặt lườn vào tháng 10 năm 1934 hạ thủy vào tháng 7 năm 1937 và nhập biên chế vào tháng 4 năm 1940 vittorio veneto đã phục vụ tận tụy trong suốt cuộc chiến tranh thế giới thứ hai con tàu may mắn không chịu bất kỳ hư hại nào trong cuộc không kích của hải quân hoàng gia anh vào taranto đêm ngày 11 tháng 11 năm 1940 vào giai đoạn đầu của cuộc chiến vittorio veneto góp mặt vào trận cape spartivento trong tháng 11 năm 1940 và trận cape matapan vào tháng 3 năm 1941 nơi con tàu bị hư hại bởi một quả ngư lôi và sau
Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)
mặt vào Trận Cape Spartivento trong tháng 11 năm 1940 và Trận Cape Matapan vào tháng 3 năm 1941, nơi con tàu bị hư hại bởi một quả ngư lôi, và sau đó con tàu bị trúng ngư lôi từ tàu ngầm HMS "Urge" vào tháng 12 năm 1941. Con tàu giành phần lớn thời gian trong năm 1941 và đầu năm 1942 để tham gia các chiến dịch đánh chặn đoàn tàu vận tải của Anh đến Malta, nhưng tình trạng khan hiếm nhiên liệu trầm trọng đã khiến Hải quân Ý phải hạn chế các chiến dịch này trong những tháng tiếp theo. Theo Hiệp định Đình chiến Cassibile, "Vittorio Veneto" cùng phần lớn các tàu chủ lực Ý được lệnh khởi hành về Malta, sau đó là Alexandria và tập kết tại Hồ Great Bitter của Kênh đào Suez để giao cho người Anh quản lý. "Vittorio Veneto" lưu lại ở Hồ Great Bitter đến năm 1947 trước khi khởi hành đến nước Anh với vai trò là chiến lợi phẩm. Con tàu được trao trả về Ý vào năm 1948 và được tháo dỡ ở La Spezia vài năm sau đó. == Đặc tính. == "Vittorio Veneto" có chiều dài tính toán (LBP) là 224,05 mét (735,1 ft), chiều dài tổng thể đạt 237,76 mét (780,1 ft), mức mớn nước đạt 9,6 mét (31 ft) và con tàu cao 32,82 mét (107,7 ft). "Vittorio Veneto" có mức choán nước tiêu chuẩn là 40.724 tấn (40.081 tấn Anh; 44.891 tấn Mỹ) và 45.236 tấn (44.522
mặt vào trận cape spartivento trong tháng 11 năm 1940 và trận cape matapan vào tháng 3 năm 1941 nơi con tàu bị hư hại bởi một quả ngư lôi và sau đó con tàu bị trúng ngư lôi từ tàu ngầm hms urge vào tháng 12 năm 1941 con tàu giành phần lớn thời gian trong năm 1941 và đầu năm 1942 để tham gia các chiến dịch đánh chặn đoàn tàu vận tải của anh đến malta nhưng tình trạng khan hiếm nhiên liệu trầm trọng đã khiến hải quân ý phải hạn chế các chiến dịch này trong những tháng tiếp theo theo hiệp định đình chiến cassibile vittorio veneto cùng phần lớn các tàu chủ lực ý được lệnh khởi hành về malta sau đó là alexandria và tập kết tại hồ great bitter của kênh đào suez để giao cho người anh quản lý vittorio veneto lưu lại ở hồ great bitter đến năm 1947 trước khi khởi hành đến nước anh với vai trò là chiến lợi phẩm con tàu được trao trả về ý vào năm 1948 và được tháo dỡ ở la spezia vài năm sau đó == đặc tính == vittorio veneto có chiều dài tính toán lbp là 224 05 mét 735 1 ft chiều dài tổng thể đạt 237 76 mét 780 1 ft mức mớn nước đạt 9 6 mét 31 ft và con tàu cao 32 82 mét 107 7 ft vittorio veneto có mức choán nước tiêu chuẩn là 40 724 tấn 40 081 tấn anh 44 891 tấn mỹ và 45 236 tấn 44 522
Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)
mét (31 ft) và con tàu cao 32,82 mét (107,7 ft). "Vittorio Veneto" có mức choán nước tiêu chuẩn là 40.724 tấn (40.081 tấn Anh; 44.891 tấn Mỹ) và 45.236 tấn (44.522 tấn Anh; 49.864 tấn Mỹ) khi đầy tải. Điều này đã vi phạm nghiêm trọng các điều khoản được đặt ra trong Hiệp ước Hải quân Washington, khi Hiệp ước chỉ quy định các quốc gia chỉ được phép hạ thủy các tàu chủ lực có mức choán nước tối đa là 35.000 tấn/tàu. Tuy vậy, Hải quân Ý đã khéo léo đánh tráo thông tin và thuyết phục được các đoàn khảo sát rằng lớp "Littorio" của họ vẫn nằm trong giới hạn mà hiệp ước áp đặt. Hệ thống động cơ của tàu bao gồm bốn động cơ tuabin hơi nước Belluzzo được cung cấp năng lượng bởi tám nồi hơi Yarrow chạy bằng dầu. Động cơ của tàu đạt công suất trục là 128.200 mã lục (95.600 kW) và đạt tốc độ tối đa là 30 knot (56 km/h; 35 mph). có biên chế thủy thủ đoàn theo mức tiêu chuẩn là 80 sĩ quan và 1.750 thủy thủ, và con số này tăng lên thành 1.950 sĩ quan và thủy thủ trong giai đoạn cuối của cuộc chiến. Hệ thống pháo chính của "Vittorio Veneto" bao gồm chín khẩu pháo 381 mm L/50 Ansaldo 1934 được chia đều ra ba tháp pháo ba nòng, hai tháp pháo đặt ở trước đài chỉ huy và một tháp đặt ở cuối hệ thống
mét 31 ft và con tàu cao 32 82 mét 107 7 ft vittorio veneto có mức choán nước tiêu chuẩn là 40 724 tấn 40 081 tấn anh 44 891 tấn mỹ và 45 236 tấn 44 522 tấn anh 49 864 tấn mỹ khi đầy tải điều này đã vi phạm nghiêm trọng các điều khoản được đặt ra trong hiệp ước hải quân washington khi hiệp ước chỉ quy định các quốc gia chỉ được phép hạ thủy các tàu chủ lực có mức choán nước tối đa là 35 000 tấn tàu tuy vậy hải quân ý đã khéo léo đánh tráo thông tin và thuyết phục được các đoàn khảo sát rằng lớp littorio của họ vẫn nằm trong giới hạn mà hiệp ước áp đặt hệ thống động cơ của tàu bao gồm bốn động cơ tuabin hơi nước belluzzo được cung cấp năng lượng bởi tám nồi hơi yarrow chạy bằng dầu động cơ của tàu đạt công suất trục là 128 200 mã lục 95 600 kw và đạt tốc độ tối đa là 30 knot 56 km h 35 mph có biên chế thủy thủ đoàn theo mức tiêu chuẩn là 80 sĩ quan và 1 750 thủy thủ và con số này tăng lên thành 1 950 sĩ quan và thủy thủ trong giai đoạn cuối của cuộc chiến hệ thống pháo chính của vittorio veneto bao gồm chín khẩu pháo 381 mm l 50 ansaldo 1934 được chia đều ra ba tháp pháo ba nòng hai tháp pháo đặt ở trước đài chỉ huy và một tháp đặt ở cuối hệ thống
Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)
pháo 381 mm L/50 Ansaldo 1934 được chia đều ra ba tháp pháo ba nòng, hai tháp pháo đặt ở trước đài chỉ huy và một tháp đặt ở cuối hệ thống thượng tầng. Hệ thống vũ khí phụ của tàu bao gồm 12 khẩu pháo 152 mm (6.0 in) L/55 Ansaldo Model 1934, được chia đều cho bốn tháp pháo ba nòng. Hai tháp pháo 152 mm được đặt hai bên tháp pháo 381 mm số 2 và hai tháp còn lại được đặt ở hai bên rìa tháp pháo 381 mm số 3. Hệ thống pháo phòng không của tàu bao gồm 12 khẩu pháo 90 mm (3.5 in) L/50 mạnh mẽ được đặt ở bên bên thượng tầng của tàu, 12 khẩu pháo 37 mm (1.5 in) L/54 và 16 pháo 20 mm (0.79 in) L/65. Pháo 90 mm có nhiệm vụ cung cấp hỏa lực phòng không tầm xa cho tàu, và được đặt trong các ụ riêng lẻ với hệ thống ổn định chạy biệt lập. Tốc độ bắn của pháo 90 mm là 12 viên/phút và có trần bay khoảng 10.800 m. Pháo 37 mm và 20 mm có nhiệm vụ cung cấp hỏa lực phòng không tầm gần và có tầm bắn hiệu quả lần lượt là 4.000 mét và 2.500 mét. Ngoài ra, con tàu còn được lắp đặt bốn khẩu pháo 120 mm (4.7 in) L/40 làm nhiệm vụ bắn pháo sáng. Hệ thống radar EC 3 ter 'Gufo', có khả năng quét được các mục tiêu
pháo 381 mm l 50 ansaldo 1934 được chia đều ra ba tháp pháo ba nòng hai tháp pháo đặt ở trước đài chỉ huy và một tháp đặt ở cuối hệ thống thượng tầng hệ thống vũ khí phụ của tàu bao gồm 12 khẩu pháo 152 mm 6 0 in l 55 ansaldo model 1934 được chia đều cho bốn tháp pháo ba nòng hai tháp pháo 152 mm được đặt hai bên tháp pháo 381 mm số 2 và hai tháp còn lại được đặt ở hai bên rìa tháp pháo 381 mm số 3 hệ thống pháo phòng không của tàu bao gồm 12 khẩu pháo 90 mm 3 5 in l 50 mạnh mẽ được đặt ở bên bên thượng tầng của tàu 12 khẩu pháo 37 mm 1 5 in l 54 và 16 pháo 20 mm 0 79 in l 65 pháo 90 mm có nhiệm vụ cung cấp hỏa lực phòng không tầm xa cho tàu và được đặt trong các ụ riêng lẻ với hệ thống ổn định chạy biệt lập tốc độ bắn của pháo 90 mm là 12 viên phút và có trần bay khoảng 10 800 m pháo 37 mm và 20 mm có nhiệm vụ cung cấp hỏa lực phòng không tầm gần và có tầm bắn hiệu quả lần lượt là 4 000 mét và 2 500 mét ngoài ra con tàu còn được lắp đặt bốn khẩu pháo 120 mm 4 7 in l 40 làm nhiệm vụ bắn pháo sáng hệ thống radar ec 3 ter gufo có khả năng quét được các mục tiêu
Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)
được lắp đặt bốn khẩu pháo 120 mm (4.7 in) L/40 làm nhiệm vụ bắn pháo sáng. Hệ thống radar EC 3 ter 'Gufo', có khả năng quét được các mục tiêu trên mặt biển trong khoảng cách 30 kilomét và máy bay ở khoảng cách 80 kilomét, được lắp đặt vào tháng 7 năm 1943. Đai giáp chính của "Vittorio Veneto" bao gồm lớp giáp đồng chất dày 70 mm đặt ở bên ngoài và lớp giáp trát xi măng dày 280 mm được đặt phía sau tấm giáp đồng chất. Con tàu được lắp đặt Hệ thống đai chống ngư lôi Pugliese - một trong những hệ thống chống ngư lôi hiệu quả nhất trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Boong tàu bao gồm một lớp giáp đồng nhất dày 36 mm đặt trên một lớp giáp dày 9 mm; lớp giáp trên khu vực boong tàu sẽ thay đổi tùy thuộc vào không gian và vị trí chúng bảo vệ. Ở khu vực khoang chứa đạn, boong tàu dày 162 mm. Tại khu vực khoang động cơ, độ dày của boong được giảm xuống còng 110 mm và 90 mm ở các khu vực còn lại. Bệ tháp pháo chính của tàu được bảo vệ bởi một lớp giáp tráng xi măng dày 350 mm ở bên trên boong tàu và giảm xuống còn 280 mm ở bên dưới boong tàu. Mặt trước của các tháp pháo chính dày 350 mm, hai bên tháp và trần dày 200 mm và 130 mm ở
được lắp đặt bốn khẩu pháo 120 mm 4 7 in l 40 làm nhiệm vụ bắn pháo sáng hệ thống radar ec 3 ter gufo có khả năng quét được các mục tiêu trên mặt biển trong khoảng cách 30 kilomét và máy bay ở khoảng cách 80 kilomét được lắp đặt vào tháng 7 năm 1943 đai giáp chính của vittorio veneto bao gồm lớp giáp đồng chất dày 70 mm đặt ở bên ngoài và lớp giáp trát xi măng dày 280 mm được đặt phía sau tấm giáp đồng chất con tàu được lắp đặt hệ thống đai chống ngư lôi pugliese một trong những hệ thống chống ngư lôi hiệu quả nhất trong chiến tranh thế giới thứ hai boong tàu bao gồm một lớp giáp đồng nhất dày 36 mm đặt trên một lớp giáp dày 9 mm lớp giáp trên khu vực boong tàu sẽ thay đổi tùy thuộc vào không gian và vị trí chúng bảo vệ ở khu vực khoang chứa đạn boong tàu dày 162 mm tại khu vực khoang động cơ độ dày của boong được giảm xuống còng 110 mm và 90 mm ở các khu vực còn lại bệ tháp pháo chính của tàu được bảo vệ bởi một lớp giáp tráng xi măng dày 350 mm ở bên trên boong tàu và giảm xuống còn 280 mm ở bên dưới boong tàu mặt trước của các tháp pháo chính dày 350 mm hai bên tháp và trần dày 200 mm và 130 mm ở
Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)
giảm xuống còn 280 mm ở bên dưới boong tàu. Mặt trước của các tháp pháo chính dày 350 mm, hai bên tháp và trần dày 200 mm và 130 mm ở khu vực hông tháp pháo. Tháp pháo phụ 152 mm được đặt trong các bệ dày 150 mm ở trên boong tàu và 100 mm ở dưới boong tàu. Mặt trước tháp pháo 152 mm dày 280 mm và 70 mm ở hai mặt bên. Hệ thống pháo phòng không của tàu được bảo vệ bởi các tấm thép chống đạn có độ dày từ 12 mm tới 40 mm. Con tàu được lắp đặt một máy phóng thủy phi cơ, và được trang bị ba thủy phi cơ trinh sát IMAM Ro.43 hoặc tiêm kích Reggiane Re.2000. == Lịch sử hoạt động. == === Chế tạo. === "Vittorio Veneto" được đặt hàng theo một chương trình đóng tàu năm 1934, và được đặt tên theo Trận Vittorio Veneto, một chiến thắng mang tính quyết định của Ý trước quân đội Đế quốc Áo-Hung trong giai đoạn cuối của Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Con tàu được đặt lườn vào ngày 28 tháng 10 năm 1934 tại Xưởng Đóng tàu Cantieri Riuniti dell'Adriatico, cùng ngày với thiết giáp hạm "Littorio". Vittorio Veneto được hạ thủy vào ngày 25 tháng 7 năm 1937, và quá trình đóng tàu hoàn tất vào tháng 10 năm 1939. Việc lắp ráp các cấu trúc đã bị trì hoãn do sự thay đổi liên tục về thiết kế và tình trạng
giảm xuống còn 280 mm ở bên dưới boong tàu mặt trước của các tháp pháo chính dày 350 mm hai bên tháp và trần dày 200 mm và 130 mm ở khu vực hông tháp pháo tháp pháo phụ 152 mm được đặt trong các bệ dày 150 mm ở trên boong tàu và 100 mm ở dưới boong tàu mặt trước tháp pháo 152 mm dày 280 mm và 70 mm ở hai mặt bên hệ thống pháo phòng không của tàu được bảo vệ bởi các tấm thép chống đạn có độ dày từ 12 mm tới 40 mm con tàu được lắp đặt một máy phóng thủy phi cơ và được trang bị ba thủy phi cơ trinh sát imam ro 43 hoặc tiêm kích reggiane re 2000 == lịch sử hoạt động == === chế tạo === vittorio veneto được đặt hàng theo một chương trình đóng tàu năm 1934 và được đặt tên theo trận vittorio veneto một chiến thắng mang tính quyết định của ý trước quân đội đế quốc áo-hung trong giai đoạn cuối của chiến tranh thế giới thứ nhất con tàu được đặt lườn vào ngày 28 tháng 10 năm 1934 tại xưởng đóng tàu cantieri riuniti dell adriatico cùng ngày với thiết giáp hạm littorio vittorio veneto được hạ thủy vào ngày 25 tháng 7 năm 1937 và quá trình đóng tàu hoàn tất vào tháng 10 năm 1939 việc lắp ráp các cấu trúc đã bị trì hoãn do sự thay đổi liên tục về thiết kế và tình trạng
Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)
trình đóng tàu hoàn tất vào tháng 10 năm 1939. Việc lắp ráp các cấu trúc đã bị trì hoãn do sự thay đổi liên tục về thiết kế và tình trạng thiếu các tấm giáp hạng nặng để hàn vào tàu. Vì Xưởng Venice là xưởng duy nhất ở Ý có ụ khô đủ dài để chứa một tàu cỡ lớn như của lớp "Littorio", nên trước khi tiến hành chuyến thử máy, "Vittorio Veneto" đã được đưa đến Venice vào ngày 4 tháng 10 để làm sạch đáy tàu sau một thời gian dài lắp ráp. Ngày 17 tháng 10, sau khi hoàn tất việc dọn sạch đáy tàu, ụ khô được làm ngập nước để kiểm tra khả năng cân bằng của "Vittorio Veneto". Con tàu sau đó di chuyển về Trieste vào ngày 19 tháng 10, và chuyến thử máy đầu tiên được bắt đầu bốn ngày sau đó. Việc thử máy, bao gồm các bài thử nghiệm hệ thống vũ khí, kéo dài đến tháng 3 năm 1940. Con tàu được chuyển giao cho Hải quân Hoàng Gia Ý vào ngày 28 tháng 4, dù việc lắp đặt vũ khí cho tàu vẫn chưa hoàn tất. Ngày 1 tháng 5, "Vittorio Veneto" khởi hành về La Spezia để bắt đầu quá trình lắp đặt cuối cùng, được hộ tống bởi các khu trục hạm "Leone Pancaldo" và "Emanuele Pessagno". Ngày 6 tháng 5, "Vittorio Veneto" bắt đầu tiếp nhận các lô đạn pháo đầu tiên, và quá trình cấp đạn kéo dài
trình đóng tàu hoàn tất vào tháng 10 năm 1939 việc lắp ráp các cấu trúc đã bị trì hoãn do sự thay đổi liên tục về thiết kế và tình trạng thiếu các tấm giáp hạng nặng để hàn vào tàu vì xưởng venice là xưởng duy nhất ở ý có ụ khô đủ dài để chứa một tàu cỡ lớn như của lớp littorio nên trước khi tiến hành chuyến thử máy vittorio veneto đã được đưa đến venice vào ngày 4 tháng 10 để làm sạch đáy tàu sau một thời gian dài lắp ráp ngày 17 tháng 10 sau khi hoàn tất việc dọn sạch đáy tàu ụ khô được làm ngập nước để kiểm tra khả năng cân bằng của vittorio veneto con tàu sau đó di chuyển về trieste vào ngày 19 tháng 10 và chuyến thử máy đầu tiên được bắt đầu bốn ngày sau đó việc thử máy bao gồm các bài thử nghiệm hệ thống vũ khí kéo dài đến tháng 3 năm 1940 con tàu được chuyển giao cho hải quân hoàng gia ý vào ngày 28 tháng 4 dù việc lắp đặt vũ khí cho tàu vẫn chưa hoàn tất ngày 1 tháng 5 vittorio veneto khởi hành về la spezia để bắt đầu quá trình lắp đặt cuối cùng được hộ tống bởi các khu trục hạm leone pancaldo và emanuele pessagno ngày 6 tháng 5 vittorio veneto bắt đầu tiếp nhận các lô đạn pháo đầu tiên và quá trình cấp đạn kéo dài
Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)
các khu trục hạm "Leone Pancaldo" và "Emanuele Pessagno". Ngày 6 tháng 5, "Vittorio Veneto" bắt đầu tiếp nhận các lô đạn pháo đầu tiên, và quá trình cấp đạn kéo dài tới ngày 20 tháng 5. Sang ngày tiếp theo, "Vittorio Veneto" di chuyển về Taranto và gia nhập Hải đội 9 của Chuẩn Đô đốc Carlo Bergamini. Trong tháng tiếp theo, nước Ý chính thức tuyên chiến với Anh và Pháp, mặc dù phải đến ngày 2 tháng 8 cùng năm, "Vittorio Veneto" và "Littorio" mới chính thức đi vào hoạt động một cách hoàn chỉnh. === Chiến tranh Thế giới thứ hai. === Từ ngày 31 tháng 8 tới ngày 2 tháng 9 năm 1940, "Vittorio Veneto", cùng bốn thiết giáp hạm, mười tuần dương hạm và 31 khu trục hạm đã tham gia đánh chặn Đoàn vận tải MB.3 trong Chiến dịch Hats, nhưng việc trinh sát thiếu hiệu quả đã khiến hạm đội Ý không thể nghênh chiến với tàu chiến Anh. Ngoài ra, trinh sát của Anh đã phát hiện ra hạm đội Ý đầu tiên nên hạm đội của Anh đã nhanh chóng rút lui an toàn. Vào ngày 6 tháng 9, hạm đội Ý tiếp tục xuất kích, lần này là tấn công một hạm đội Anh, được báo cáo là đang rời Gibraltar tiến vào Địa Trung Hải, nhưng không cuộc giao tranh nào nổ ra vì tàu chiến Anh thực tế được lệnh di chuyển về phía nam Đại Tây Dương. Hạm đội này tiếp tục tung ra
các khu trục hạm leone pancaldo và emanuele pessagno ngày 6 tháng 5 vittorio veneto bắt đầu tiếp nhận các lô đạn pháo đầu tiên và quá trình cấp đạn kéo dài tới ngày 20 tháng 5 sang ngày tiếp theo vittorio veneto di chuyển về taranto và gia nhập hải đội 9 của chuẩn đô đốc carlo bergamini trong tháng tiếp theo nước ý chính thức tuyên chiến với anh và pháp mặc dù phải đến ngày 2 tháng 8 cùng năm vittorio veneto và littorio mới chính thức đi vào hoạt động một cách hoàn chỉnh === chiến tranh thế giới thứ hai === từ ngày 31 tháng 8 tới ngày 2 tháng 9 năm 1940 vittorio veneto cùng bốn thiết giáp hạm mười tuần dương hạm và 31 khu trục hạm đã tham gia đánh chặn đoàn vận tải mb 3 trong chiến dịch hats nhưng việc trinh sát thiếu hiệu quả đã khiến hạm đội ý không thể nghênh chiến với tàu chiến anh ngoài ra trinh sát của anh đã phát hiện ra hạm đội ý đầu tiên nên hạm đội của anh đã nhanh chóng rút lui an toàn vào ngày 6 tháng 9 hạm đội ý tiếp tục xuất kích lần này là tấn công một hạm đội anh được báo cáo là đang rời gibraltar tiến vào địa trung hải nhưng không cuộc giao tranh nào nổ ra vì tàu chiến anh thực tế được lệnh di chuyển về phía nam đại tây dương hạm đội này tiếp tục tung ra
Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)
Hải, nhưng không cuộc giao tranh nào nổ ra vì tàu chiến Anh thực tế được lệnh di chuyển về phía nam Đại Tây Dương. Hạm đội này tiếp tục tung ra một cuộc đánh chặn khác vào Đoàn vận tải MB.5 tới Malta vào ngày 29 tháng 9, "Vittorio Veneto", cùng bốn thiết giáp hạm, 11 tuần dương hạm và 23 khu trục hạm có ý định tấn công một đoàn vận tải chở quân đến Malta. Mặc dù các máy bay của Không quân Hoàng Gia Ý đã phát hiện ra đoàn vận tải, nhưng các tàu Anh vẫn may mắn thoát khỏi sự truy sát của tàu chiến Ý và cập bến Malta an toàn. Đêm ngày 11 - sáng ngày 12 tháng 11 năm 1940, Hạm đội Địa Trung Hải của Hải quân Hoàng Gia Anh đã tổ chức một đợt không kích vào hạm đội Ý neo đậu tại cảng Taranto. 21 máy bay phóng lôi Swordfish cất cánh từ hàng không mẫu hạm "Illustrious" và tấn công theo hai đợt. Dù cảng Taranto được bảo vệ bởi một hệ thống phòng không khá mạnh mẽ, bao gồm 21 pháo phòng không 90 mm, hàng chục pháo 37 mm và 20 mm, và 27 khinh khí cầu chống máy bay, nhưng họ không có hệ thống radar dò tìm trên không. Do đó, khi các tốp máy bay Swordfish bắt đầu tấn công, các đơn vị phòng không và tàu chiến Ý hoàn toàn bị bất ngờ và không kịp tổ chức
hải nhưng không cuộc giao tranh nào nổ ra vì tàu chiến anh thực tế được lệnh di chuyển về phía nam đại tây dương hạm đội này tiếp tục tung ra một cuộc đánh chặn khác vào đoàn vận tải mb 5 tới malta vào ngày 29 tháng 9 vittorio veneto cùng bốn thiết giáp hạm 11 tuần dương hạm và 23 khu trục hạm có ý định tấn công một đoàn vận tải chở quân đến malta mặc dù các máy bay của không quân hoàng gia ý đã phát hiện ra đoàn vận tải nhưng các tàu anh vẫn may mắn thoát khỏi sự truy sát của tàu chiến ý và cập bến malta an toàn đêm ngày 11 sáng ngày 12 tháng 11 năm 1940 hạm đội địa trung hải của hải quân hoàng gia anh đã tổ chức một đợt không kích vào hạm đội ý neo đậu tại cảng taranto 21 máy bay phóng lôi swordfish cất cánh từ hàng không mẫu hạm illustrious và tấn công theo hai đợt dù cảng taranto được bảo vệ bởi một hệ thống phòng không khá mạnh mẽ bao gồm 21 pháo phòng không 90 mm hàng chục pháo 37 mm và 20 mm và 27 khinh khí cầu chống máy bay nhưng họ không có hệ thống radar dò tìm trên không do đó khi các tốp máy bay swordfish bắt đầu tấn công các đơn vị phòng không và tàu chiến ý hoàn toàn bị bất ngờ và không kịp tổ chức
Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)
không. Do đó, khi các tốp máy bay Swordfish bắt đầu tấn công, các đơn vị phòng không và tàu chiến Ý hoàn toàn bị bất ngờ và không kịp tổ chức phòng thủ. Các thiết giáp hạm neo đậu trong cảng, trong đó có "Vittorio Veneto" và "Littorio", lại không được bảo vệ bởi các lớp lưới chống ngư lôi. "Vittorio Veneto" may mắn không chịu bất kỳ hư hại nào trong cuộc không kích, nhưng ba thiết giáp hạm khác đã bị trúng ngư lôi, hai trong số đó chịu hư hại ở mức nghiêm trọng. Sau cuộc không kích, "Vittorio Veneto" dẫn đầu hạm đội Ý di chuyển về Naples và sau đó trở thành soái hạm của Đô đốc Inigo Campioni. ==== Cape Spartivento. ==== Ngày 17 tháng 11 năm 1940, "Vittorio Veneto" và "Giulio Cesare" - hai thiết giáp hạm duy nhất của Hải quân Hoàng Gia Ý còn hoạt động, tham gia đánh chặn một đoàn vận tải của Anh tới Malta trong Chiến dịch White, nhưng không thành công. Ngày 26 tháng 11, hạm đội Ý tổ chức một đợt đánh chặn tiếp theo nhằm vào một đoàn vận tải Anh trong Chiến dịch Collar. Hai hạm đội đã chạm trán nhau và dẫn đến Trận Cape Spartivento (còn được biết đến là Trận Cape Teulada trong báo cáo của Hải quân Ý). "Vittorio Veneto", "Giulio Cesare", cùng sáu tuần dương hạm và 14 khu trục hạm, có ý định tấn công một đoàn vận tải được bảo vệ bởi hàng
không do đó khi các tốp máy bay swordfish bắt đầu tấn công các đơn vị phòng không và tàu chiến ý hoàn toàn bị bất ngờ và không kịp tổ chức phòng thủ các thiết giáp hạm neo đậu trong cảng trong đó có vittorio veneto và littorio lại không được bảo vệ bởi các lớp lưới chống ngư lôi vittorio veneto may mắn không chịu bất kỳ hư hại nào trong cuộc không kích nhưng ba thiết giáp hạm khác đã bị trúng ngư lôi hai trong số đó chịu hư hại ở mức nghiêm trọng sau cuộc không kích vittorio veneto dẫn đầu hạm đội ý di chuyển về naples và sau đó trở thành soái hạm của đô đốc inigo campioni ==== cape spartivento ==== ngày 17 tháng 11 năm 1940 vittorio veneto và giulio cesare hai thiết giáp hạm duy nhất của hải quân hoàng gia ý còn hoạt động tham gia đánh chặn một đoàn vận tải của anh tới malta trong chiến dịch white nhưng không thành công ngày 26 tháng 11 hạm đội ý tổ chức một đợt đánh chặn tiếp theo nhằm vào một đoàn vận tải anh trong chiến dịch collar hai hạm đội đã chạm trán nhau và dẫn đến trận cape spartivento còn được biết đến là trận cape teulada trong báo cáo của hải quân ý vittorio veneto giulio cesare cùng sáu tuần dương hạm và 14 khu trục hạm có ý định tấn công một đoàn vận tải được bảo vệ bởi hàng
Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)
của Hải quân Ý). "Vittorio Veneto", "Giulio Cesare", cùng sáu tuần dương hạm và 14 khu trục hạm, có ý định tấn công một đoàn vận tải được bảo vệ bởi hàng không mẫu hạm HMS "Ark Royal", thiết giáp hạm HMS "Ramillies", và tuần dương-chiến hạm HMS "Renown". Máy bay trinh sát Ý đã phát hiện ra hạm đội hộ tống nhưng lại phóng đại quá mức quy mô của hạm đội này, và Campioni, với mệnh lệnh không được phép cho hai thiết giáp hạm của ông giao chiến với lực lượng tương đương hoặc áp đảo của kẻ thù, đã ra lệnh rút lui ngay sau khi trận đánh vừa bắt đầu. "Vittorio Veneto" chỉ giao chiến với một số tuần dương hạm của Anh bằng tháp pháo 381 mm số 3 trong thời gian ngắn, và ở khoảng cách hơn 27 kilomét (17 dặm). Con tàu bắn tổng cộng bảy loạt đạn vào tuần dương hạm của Anh và chỉ ghi nhận gây hư hại nhẹ chiếc HMS "Manchester". Trong trận đánh này, máy bay Swordfish từ hàng không mẫu hạm "Ark Royal" đã tấn công "Vittorio Veneto", nhưng con tàu đã tránh thành công toàn bộ số ngư lôi. Các cuộc không kích liên tiếp của Anh vào khu vực Naples đã khiến bộ chỉ huy cấp cao phải đưa "Vittorio Veneto" và toàn bộ lực lượng chủ lực còn lại về Sardinia vào ngày 14 tháng 12. Tuy nhiên, hạm đội này được lệnh quay về Naples sáu ngày sau đó
của hải quân ý vittorio veneto giulio cesare cùng sáu tuần dương hạm và 14 khu trục hạm có ý định tấn công một đoàn vận tải được bảo vệ bởi hàng không mẫu hạm hms ark royal thiết giáp hạm hms ramillies và tuần dương-chiến hạm hms renown máy bay trinh sát ý đã phát hiện ra hạm đội hộ tống nhưng lại phóng đại quá mức quy mô của hạm đội này và campioni với mệnh lệnh không được phép cho hai thiết giáp hạm của ông giao chiến với lực lượng tương đương hoặc áp đảo của kẻ thù đã ra lệnh rút lui ngay sau khi trận đánh vừa bắt đầu vittorio veneto chỉ giao chiến với một số tuần dương hạm của anh bằng tháp pháo 381 mm số 3 trong thời gian ngắn và ở khoảng cách hơn 27 kilomét 17 dặm con tàu bắn tổng cộng bảy loạt đạn vào tuần dương hạm của anh và chỉ ghi nhận gây hư hại nhẹ chiếc hms manchester trong trận đánh này máy bay swordfish từ hàng không mẫu hạm ark royal đã tấn công vittorio veneto nhưng con tàu đã tránh thành công toàn bộ số ngư lôi các cuộc không kích liên tiếp của anh vào khu vực naples đã khiến bộ chỉ huy cấp cao phải đưa vittorio veneto và toàn bộ lực lượng chủ lực còn lại về sardinia vào ngày 14 tháng 12 tuy nhiên hạm đội này được lệnh quay về naples sáu ngày sau đó
Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)
"Vittorio Veneto" và toàn bộ lực lượng chủ lực còn lại về Sardinia vào ngày 14 tháng 12. Tuy nhiên, hạm đội này được lệnh quay về Naples sáu ngày sau đó sau khi bộ chỉ huy kết luận rằng việc đưa toàn bộ hạm đội đến Sardinia sẽ cho phép người Anh có để đưa tàu vận tải của họ từ Alexandria đến Malta một cách dễ dàng hơn. Vào đêm ngày 8-9 tháng 1 năm 1941, một tốp máy bay Vickers Wellington của Anh bất ngờ không kích hạm đội Ý đang neo đậu ở Naples, nhưng không gây ra bất kỳ thiệt hại đáng kể và chỉ khiến thiết giáp hạm "Giulio Cesare" bị hư hại nhẹ. Hai thiết giáp hạm này sau đó di chuyển về La Spezia vào ngày tiếp theo. Do "Giulio Cesare" được đưa vào ụ sửa chữa, "Vittorio Veneto" là thiết giáp hạm duy nhất còn hoạt động trong hạm đội Ý tại thời điểm đó. "Giulio Cesare" cùng "Andrea Doria" quay trở lại hạm đội vào đầu tháng 2 năm 1941. Ngày 8 tháng 2 năm 1941, "Vittorio Veneto", "Andrea Doria" và "Giulio Cesare" tiến hành đánh chặn một đoàn tàu được tin là đoàn vận tải tới Malta, nhưng thực chất đó là Lực lượng H của Hải quân Hoàng Gia Anh, đang tiến về Genoa để chuẩn bị pháo kích. Tuy nhiên, hai hạm đội này đã không bắt gặp nhau và hạm đội của Ý đã quay trở về cảng sau đó. ==== Cape Matapan.
vittorio veneto và toàn bộ lực lượng chủ lực còn lại về sardinia vào ngày 14 tháng 12 tuy nhiên hạm đội này được lệnh quay về naples sáu ngày sau đó sau khi bộ chỉ huy kết luận rằng việc đưa toàn bộ hạm đội đến sardinia sẽ cho phép người anh có để đưa tàu vận tải của họ từ alexandria đến malta một cách dễ dàng hơn vào đêm ngày 8-9 tháng 1 năm 1941 một tốp máy bay vickers wellington của anh bất ngờ không kích hạm đội ý đang neo đậu ở naples nhưng không gây ra bất kỳ thiệt hại đáng kể và chỉ khiến thiết giáp hạm giulio cesare bị hư hại nhẹ hai thiết giáp hạm này sau đó di chuyển về la spezia vào ngày tiếp theo do giulio cesare được đưa vào ụ sửa chữa vittorio veneto là thiết giáp hạm duy nhất còn hoạt động trong hạm đội ý tại thời điểm đó giulio cesare cùng andrea doria quay trở lại hạm đội vào đầu tháng 2 năm 1941 ngày 8 tháng 2 năm 1941 vittorio veneto andrea doria và giulio cesare tiến hành đánh chặn một đoàn tàu được tin là đoàn vận tải tới malta nhưng thực chất đó là lực lượng h của hải quân hoàng gia anh đang tiến về genoa để chuẩn bị pháo kích tuy nhiên hai hạm đội này đã không bắt gặp nhau và hạm đội của ý đã quay trở về cảng sau đó ==== cape matapan
Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)
về Genoa để chuẩn bị pháo kích. Tuy nhiên, hai hạm đội này đã không bắt gặp nhau và hạm đội của Ý đã quay trở về cảng sau đó. ==== Cape Matapan. ==== "Vittorio Veneto" quay về Naples vào ngày 22 tháng 3, và bốn ngày sau, con tàu dẫn đầu một hạm đội gồm tám tuần dương hạm và chín khu trục hạm tấn công một đoàn vận tải của Anh tới Hy Lạp. Hạm đội Ý được hỗ trợ bởi các đơn vị máy bay thuộc Không quân Hoàng Gia Ý ("Regia Aeronautica") và "Fliegerkorps X" của Không quân Đức Quốc Xã. Phía Đức đã gây nhiều áp lực đến mức buộc người Ý phải triển khai hạm đội đánh chặn, với thông tin rằng họ [Đức] đã vô hiệu hóa hai trong tổng số ba thiết giáp hạm và một hàng không mẫu hạm của người Anh tại Địa Trung Hải. Chiến dịch đánh chặn này đã đẫn đến cuộc giao tranh ở Cape Matapan, giữa các tuần dương hạm thuộc Hải đội 3 của Phó Đô đốc Luigi Sansonetti và Hải đội Tuần dương hạm 15 của Hải quân Hoàng Gia Anh. Đô đốc Angelo Iachino, chỉ huy hạm đội Ý, ra lệnh đưa chiếc "Vittorio Veneto" xuống phía đông trong khi nhóm tuần dương hạm của Anh đang bị thu hút bởi tàu chiến của Sansonetti, để có thể khép vòng vây tàu chiến Anh. Nhưng tuần dương hạm HMS "Orion" đã kịp phát hiện ra chiếc "Vittorio Veneto" trước khi Sansonetti
về genoa để chuẩn bị pháo kích tuy nhiên hai hạm đội này đã không bắt gặp nhau và hạm đội của ý đã quay trở về cảng sau đó ==== cape matapan ==== vittorio veneto quay về naples vào ngày 22 tháng 3 và bốn ngày sau con tàu dẫn đầu một hạm đội gồm tám tuần dương hạm và chín khu trục hạm tấn công một đoàn vận tải của anh tới hy lạp hạm đội ý được hỗ trợ bởi các đơn vị máy bay thuộc không quân hoàng gia ý regia aeronautica và fliegerkorps x của không quân đức quốc xã phía đức đã gây nhiều áp lực đến mức buộc người ý phải triển khai hạm đội đánh chặn với thông tin rằng họ [đức] đã vô hiệu hóa hai trong tổng số ba thiết giáp hạm và một hàng không mẫu hạm của người anh tại địa trung hải chiến dịch đánh chặn này đã đẫn đến cuộc giao tranh ở cape matapan giữa các tuần dương hạm thuộc hải đội 3 của phó đô đốc luigi sansonetti và hải đội tuần dương hạm 15 của hải quân hoàng gia anh đô đốc angelo iachino chỉ huy hạm đội ý ra lệnh đưa chiếc vittorio veneto xuống phía đông trong khi nhóm tuần dương hạm của anh đang bị thu hút bởi tàu chiến của sansonetti để có thể khép vòng vây tàu chiến anh nhưng tuần dương hạm hms orion đã kịp phát hiện ra chiếc vittorio veneto trước khi sansonetti
Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)
hút bởi tàu chiến của Sansonetti, để có thể khép vòng vây tàu chiến Anh. Nhưng tuần dương hạm HMS "Orion" đã kịp phát hiện ra chiếc "Vittorio Veneto" trước khi Sansonetti có thể thực hiện được ý định đó. "Vittorio Veneto" nhanh chóng phát hiện ra chiếc "Orion" và ngay lập tức nổ súng về phía con tàu, nhưng chỉ gây ra hư hại nhẹ cho "Orion". "Orion" nhanh chóng rút về phía nam, quay trở lại hạm đội chính của Anh. Lỗi kỹ thuật ở tháp pháo 381 mm số 1 của "Vittorio Veneto" buộc con tàu phải tạm thời ngừng bắn. Pháo thủ Ý nhanh chóng đưa khẩu pháo quay trở lại hoạt động và tiếp tục bắn phá về phía các tuần dương hạm của Anh. "Vittorio Veneto" đã bắn tổng cộng 92 viên đạn 381 mm về phía tàu chiến Anh, tuy nhiên, tầm nhìn kém và khói dày đã cản trở đường ngắm của hoa tiêu Ý và họ không ghi nhận một phát bắn trúng nào. Trong trận đánh, máy bay phóng ngư lôi của hàng không mẫu hạm HMS "Formidable" đã tấn công liên tục các tàu chiến Ý, trong đó có "Vittorio Veneto", khiến con tàu phải ngừng giao chiến với tàu chiến Anh để cơ động tránh ngư lôi. "Vittorio Veneto" đã né được toàn bộ số ngư lôi được ném về phía con tàu trong đợt tấn công đầu tiên. Điều này đã thuyết phục Iachino rằng Hạm đội Địa Trung Hải của Anh vẫn còn
hút bởi tàu chiến của sansonetti để có thể khép vòng vây tàu chiến anh nhưng tuần dương hạm hms orion đã kịp phát hiện ra chiếc vittorio veneto trước khi sansonetti có thể thực hiện được ý định đó vittorio veneto nhanh chóng phát hiện ra chiếc orion và ngay lập tức nổ súng về phía con tàu nhưng chỉ gây ra hư hại nhẹ cho orion orion nhanh chóng rút về phía nam quay trở lại hạm đội chính của anh lỗi kỹ thuật ở tháp pháo 381 mm số 1 của vittorio veneto buộc con tàu phải tạm thời ngừng bắn pháo thủ ý nhanh chóng đưa khẩu pháo quay trở lại hoạt động và tiếp tục bắn phá về phía các tuần dương hạm của anh vittorio veneto đã bắn tổng cộng 92 viên đạn 381 mm về phía tàu chiến anh tuy nhiên tầm nhìn kém và khói dày đã cản trở đường ngắm của hoa tiêu ý và họ không ghi nhận một phát bắn trúng nào trong trận đánh máy bay phóng ngư lôi của hàng không mẫu hạm hms formidable đã tấn công liên tục các tàu chiến ý trong đó có vittorio veneto khiến con tàu phải ngừng giao chiến với tàu chiến anh để cơ động tránh ngư lôi vittorio veneto đã né được toàn bộ số ngư lôi được ném về phía con tàu trong đợt tấn công đầu tiên điều này đã thuyết phục iachino rằng hạm đội địa trung hải của anh vẫn còn
Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)
bộ số ngư lôi được ném về phía con tàu trong đợt tấn công đầu tiên. Điều này đã thuyết phục Iachino rằng Hạm đội Địa Trung Hải của Anh vẫn còn rất mạnh, khiến ông phải ra lệnh ngừng tấn công và rút trở về cảng. Người Anh tiếp tục tung ra các đợt không kích nữa vào hạm đội Ý nhằm ngăn chiếc "Vittorio Veneto" rút khỏi khu vực. Vào đầu chiến, "Formidable" tung ra đợt xuất kích thứ hai, và vào lúc 15:10, một chiếc Swordfish đã thả trúng một quả ngư lôi chiếc "Vittorio Veneto." Quả ngư lôi phát nổ tại khu vực đuôi tàu, làm hỏng chân vịt ở mạn trái, bánh lái ở khu vực bên trái tàu bị kẹt và làm hỏng toàn bộ máy bơm ở khu vực đuôi tàu. Ngoài ra, "Vittorio Venetto" cũng bị ngập khoảng 4.000 tấn nước, khiến con tàu bị nghiên khoảng 4-4,5 độ về bên trái và buộc phải dừng chạy khoảng 10 phút. Khi "Vittorio Venetto" đang bất động giữa biển, một máy bay ném bom Bristol Blenheim cất cánh từ Hy Lạp đã thả một quả bom suýt trúng phần đuôi tàu, chỉ gây ra vài hư hại nhẹ. Đội kiểm soát thiệt hại đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc kiểm soát và giảm thiểu mức lụt tại phần đuôi tàu, vì họ chỉ có thể bơm nước bằng máy bơm khẩn cấp điều khiển bằng tay. Một vài khoang rỗng ở khu vực mũi tàu và mạn phải
bộ số ngư lôi được ném về phía con tàu trong đợt tấn công đầu tiên điều này đã thuyết phục iachino rằng hạm đội địa trung hải của anh vẫn còn rất mạnh khiến ông phải ra lệnh ngừng tấn công và rút trở về cảng người anh tiếp tục tung ra các đợt không kích nữa vào hạm đội ý nhằm ngăn chiếc vittorio veneto rút khỏi khu vực vào đầu chiến formidable tung ra đợt xuất kích thứ hai và vào lúc 15 10 một chiếc swordfish đã thả trúng một quả ngư lôi chiếc vittorio veneto quả ngư lôi phát nổ tại khu vực đuôi tàu làm hỏng chân vịt ở mạn trái bánh lái ở khu vực bên trái tàu bị kẹt và làm hỏng toàn bộ máy bơm ở khu vực đuôi tàu ngoài ra vittorio venetto cũng bị ngập khoảng 4 000 tấn nước khiến con tàu bị nghiên khoảng 4-4 5 độ về bên trái và buộc phải dừng chạy khoảng 10 phút khi vittorio venetto đang bất động giữa biển một máy bay ném bom bristol blenheim cất cánh từ hy lạp đã thả một quả bom suýt trúng phần đuôi tàu chỉ gây ra vài hư hại nhẹ đội kiểm soát thiệt hại đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc kiểm soát và giảm thiểu mức lụt tại phần đuôi tàu vì họ chỉ có thể bơm nước bằng máy bơm khẩn cấp điều khiển bằng tay một vài khoang rỗng ở khu vực mũi tàu và mạn phải
Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)
tại phần đuôi tàu, vì họ chỉ có thể bơm nước bằng máy bơm khẩn cấp điều khiển bằng tay. Một vài khoang rỗng ở khu vực mũi tàu và mạn phải đã được làm ngập để lấy lại độ cân bằng cho tàu. Trong khi đó, nhóm kỹ sư ở phòng động cơ đã khởi động lại được trục chân vịt ở mạn phải và việc đánh lái có thể được thực hiện bằng thiết bị lái tay dự phòng. Khi "Vittorio Venetto" dần nổ máy, con tàu từ từ tăng tốc độ lên được 20 knot chỉ với trục chân vịt bên phải của tàu. Trong khi hạm đội Ý đang rút lui, Formidable tiếp tục phóng thêm đợt xuất kích thứ ba, bao gồm chín chiếc Swordfish, nhằm ngăn cản "Vittorio Venetto" quay trở về căn cứ. Tuy nhiên, thay vì tấn công "Vittorio Venetto", nhóm Swordfish lại tấn công tuần dương hạm hạng nặng "Pola", vô hiệu hóa con tàu và khiến "Pola" chết đứng giữa biển. "Vittorio Venetto" quay về Taranto an toàn trong khi hai tuần dương hạm và vài khu trục hạm khác được lệnh ở lại để bảo vệ chiếc Pola. Cả ba tuần dương hạm này cùng hai khu trục hạm sau đó bị bắn chìm sau đêm giao tranh ác liệt ở tầm gần với thiết giáp hạm "Valiant", "Warspite", và "Barham". "Vittorio Veneto" cập bến Taranto vào ngày 29 tháng 3, và việc sửa chữa kéo dài đến tháng 7 cùng năm. Con tàu đi
tại phần đuôi tàu vì họ chỉ có thể bơm nước bằng máy bơm khẩn cấp điều khiển bằng tay một vài khoang rỗng ở khu vực mũi tàu và mạn phải đã được làm ngập để lấy lại độ cân bằng cho tàu trong khi đó nhóm kỹ sư ở phòng động cơ đã khởi động lại được trục chân vịt ở mạn phải và việc đánh lái có thể được thực hiện bằng thiết bị lái tay dự phòng khi vittorio venetto dần nổ máy con tàu từ từ tăng tốc độ lên được 20 knot chỉ với trục chân vịt bên phải của tàu trong khi hạm đội ý đang rút lui formidable tiếp tục phóng thêm đợt xuất kích thứ ba bao gồm chín chiếc swordfish nhằm ngăn cản vittorio venetto quay trở về căn cứ tuy nhiên thay vì tấn công vittorio venetto nhóm swordfish lại tấn công tuần dương hạm hạng nặng pola vô hiệu hóa con tàu và khiến pola chết đứng giữa biển vittorio venetto quay về taranto an toàn trong khi hai tuần dương hạm và vài khu trục hạm khác được lệnh ở lại để bảo vệ chiếc pola cả ba tuần dương hạm này cùng hai khu trục hạm sau đó bị bắn chìm sau đêm giao tranh ác liệt ở tầm gần với thiết giáp hạm valiant warspite và barham vittorio veneto cập bến taranto vào ngày 29 tháng 3 và việc sửa chữa kéo dài đến tháng 7 cùng năm con tàu đi
Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)
với thiết giáp hạm "Valiant", "Warspite", và "Barham". "Vittorio Veneto" cập bến Taranto vào ngày 29 tháng 3, và việc sửa chữa kéo dài đến tháng 7 cùng năm. Con tàu đi vào hoạt động trở lại vào tháng 8 năm 1941. ==== Những chiến dịch tiếp theo. ==== "Vittorio Veneto" và "Littorio" quay trở lại hoạt động vào tháng 8 năm 1941. Vào ngày 22, hai tàu xuất kích đánh chặn một đoàn vận tải, nhưng thất bại và quay trở về cảng sau đó. Người Anh sau đó có ý định rải thủy lôi tại khu vực Livorno và tiến hành một cuộc không kích vào miền bắc Sardinia. Ý định này đã được tình báo Ý ở Tây Ban Nha phát hiện ra và họ nhanh chóng gửi tin cảnh báo tới Bộ chỉ huy Hải quân Hoàng Gia Ý ngay sau khi tàu của Anh rời Gibraltar. Tuy nhiên, hạm đội của Ý lại được bố trí quá xa ở phía nam và các máy bay trinh sát của Ý đã không phát hiện ra được vị trí của hạm đội Anh. Ngày 26 tháng 9, "Vittorio Veneto" và "Littorio", với sự hỗ trợ của năm tuần dương hạm và 14 khu trục hạm, tiến hành nhiệm vụ đánh chặn một đoàn tàu vận tải Anh trong Chiến dịch Halberd. Hải quân Hoàng Gia Anh có ý định nhử toàn bộ hạm đội Ý vào bẫy và tiến hành phục kích bằng hạm đội hộ tống mạnh mẽ của họ, được dẫn đầu bởi
với thiết giáp hạm valiant warspite và barham vittorio veneto cập bến taranto vào ngày 29 tháng 3 và việc sửa chữa kéo dài đến tháng 7 cùng năm con tàu đi vào hoạt động trở lại vào tháng 8 năm 1941 ==== những chiến dịch tiếp theo ==== vittorio veneto và littorio quay trở lại hoạt động vào tháng 8 năm 1941 vào ngày 22 hai tàu xuất kích đánh chặn một đoàn vận tải nhưng thất bại và quay trở về cảng sau đó người anh sau đó có ý định rải thủy lôi tại khu vực livorno và tiến hành một cuộc không kích vào miền bắc sardinia ý định này đã được tình báo ý ở tây ban nha phát hiện ra và họ nhanh chóng gửi tin cảnh báo tới bộ chỉ huy hải quân hoàng gia ý ngay sau khi tàu của anh rời gibraltar tuy nhiên hạm đội của ý lại được bố trí quá xa ở phía nam và các máy bay trinh sát của ý đã không phát hiện ra được vị trí của hạm đội anh ngày 26 tháng 9 vittorio veneto và littorio với sự hỗ trợ của năm tuần dương hạm và 14 khu trục hạm tiến hành nhiệm vụ đánh chặn một đoàn tàu vận tải anh trong chiến dịch halberd hải quân hoàng gia anh có ý định nhử toàn bộ hạm đội ý vào bẫy và tiến hành phục kích bằng hạm đội hộ tống mạnh mẽ của họ được dẫn đầu bởi
Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)
Hoàng Gia Anh có ý định nhử toàn bộ hạm đội Ý vào bẫy và tiến hành phục kích bằng hạm đội hộ tống mạnh mẽ của họ, được dẫn đầu bởi các thiết giáp hạm "Rodney", "Nelson", và "Prince of Wales". Tuy vậy, không có cuộc giao tranh nào diễn ra giữa tàu chiến của hai bên do cả hai đều không xác định được vị trí chính xác của nhau, nhưng thiết giáp hạm "Nelson" đã chịu hư hại đáng kể sau khi trúng một quả ngư lôi được thả từ một chiếc Savoia-Marchetti SM.84 của Không quân Hoàng Gia Ý. Lúc 14:00 cùng ngày, Đô đốc Iachino ra lệnh hủy bỏ chiến dịch và cho hạm đội Ý quay trở về căn cứ. Ngày 13 tháng 12, "Vittorio Veneto" tham gia vào nhiệm vụ hộ tống một đoàn vận tải tới Bắc Phi, nhưng phải hủy bỏ nhiệm vụ sau khi bị tình báo Anh đánh lừa rằng đang có một hạm đội Anh ở trong khu vực. Khi "Vittorio Veneto" đang trên đường quay về căn cứ vào ngày 14, con tàu trúng một quả ngư lôi được phóng từ tàu ngầm "HMS Urge" tại Eo biển Messina. Quả ngư lôi đã tạo một cái lỗ dài 13 mét và khiến con tàu ngập hơn 2.000 tấn nước, mặc dù hệ thống đai chống ngư lôi Pugliese đã hấp thụ phần lớn vụ nổ. "Vittorio Veneto" bị nghiêng khoảng 3,5 độ về phía mạn trái và phần đuôi tàu bị ngập khoảng 2,2
hoàng gia anh có ý định nhử toàn bộ hạm đội ý vào bẫy và tiến hành phục kích bằng hạm đội hộ tống mạnh mẽ của họ được dẫn đầu bởi các thiết giáp hạm rodney nelson và prince of wales tuy vậy không có cuộc giao tranh nào diễn ra giữa tàu chiến của hai bên do cả hai đều không xác định được vị trí chính xác của nhau nhưng thiết giáp hạm nelson đã chịu hư hại đáng kể sau khi trúng một quả ngư lôi được thả từ một chiếc savoia-marchetti sm 84 của không quân hoàng gia ý lúc 14 00 cùng ngày đô đốc iachino ra lệnh hủy bỏ chiến dịch và cho hạm đội ý quay trở về căn cứ ngày 13 tháng 12 vittorio veneto tham gia vào nhiệm vụ hộ tống một đoàn vận tải tới bắc phi nhưng phải hủy bỏ nhiệm vụ sau khi bị tình báo anh đánh lừa rằng đang có một hạm đội anh ở trong khu vực khi vittorio veneto đang trên đường quay về căn cứ vào ngày 14 con tàu trúng một quả ngư lôi được phóng từ tàu ngầm hms urge tại eo biển messina quả ngư lôi đã tạo một cái lỗ dài 13 mét và khiến con tàu ngập hơn 2 000 tấn nước mặc dù hệ thống đai chống ngư lôi pugliese đã hấp thụ phần lớn vụ nổ vittorio veneto bị nghiêng khoảng 3 5 độ về phía mạn trái và phần đuôi tàu bị ngập khoảng 2 2
Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)
thống đai chống ngư lôi Pugliese đã hấp thụ phần lớn vụ nổ. "Vittorio Veneto" bị nghiêng khoảng 3,5 độ về phía mạn trái và phần đuôi tàu bị ngập khoảng 2,2 mét. Thủy thủ đoàn nhanh chóng kiểm soát được thiệt hại, cân bằng được tàu và quay về căn cứ an toàn. Việc sửa chữa hư hại của "Vittorio Veneto" ở Taranto kéo dài đến mùa xuân năm 1942. Ngày 14 tháng 6, "Vittorio Veneto" tiếp tục tham gia vào một chiến dịch đánh chặn đoàn tàu vận tải của Anh từ Alexandria tới Malta trong Chiến dịch Vigorous và Chiến dịch Harpoon. "Vittorio Veneto", "Littorio", cùng bốn tuần dương hạm và 12 khu trục hạm được điều động tham gia vào nhiệm vụ. Người Anh nhanh chóng phát hiện ra hạm đội Ý và tổ chức các đợt không kích trong ngày 15 tháng 6 bằng máy bay ném bom Wellington và Bristol Beaufort nhằm cầm ngăn chặn người Ý tiếp cận các tàu vận tải. Không thiết giáp hạm nào của Ý bị hư hại trong cuộc không kích, nhưng tuần dương hạm "Trento" đã bị vô hiệu hóa và bị đánh chìm không lâu sau đó bởi tàu ngầm Anh. Cũng trong buổi sáng ngày 14, trong quá trình tìm kiếm đoàn vận tải Anh, hạm đội Ý bị không kích bởi các máy bay ném bom hạng nặng B-24 Liberator của Không lực Lục quân Hoa Kỳ. "Vittorio Veneto" may mắn không trúng quả bom nào, "Littorio" trúng một quả bom
thống đai chống ngư lôi pugliese đã hấp thụ phần lớn vụ nổ vittorio veneto bị nghiêng khoảng 3 5 độ về phía mạn trái và phần đuôi tàu bị ngập khoảng 2 2 mét thủy thủ đoàn nhanh chóng kiểm soát được thiệt hại cân bằng được tàu và quay về căn cứ an toàn việc sửa chữa hư hại của vittorio veneto ở taranto kéo dài đến mùa xuân năm 1942 ngày 14 tháng 6 vittorio veneto tiếp tục tham gia vào một chiến dịch đánh chặn đoàn tàu vận tải của anh từ alexandria tới malta trong chiến dịch vigorous và chiến dịch harpoon vittorio veneto littorio cùng bốn tuần dương hạm và 12 khu trục hạm được điều động tham gia vào nhiệm vụ người anh nhanh chóng phát hiện ra hạm đội ý và tổ chức các đợt không kích trong ngày 15 tháng 6 bằng máy bay ném bom wellington và bristol beaufort nhằm cầm ngăn chặn người ý tiếp cận các tàu vận tải không thiết giáp hạm nào của ý bị hư hại trong cuộc không kích nhưng tuần dương hạm trento đã bị vô hiệu hóa và bị đánh chìm không lâu sau đó bởi tàu ngầm anh cũng trong buổi sáng ngày 14 trong quá trình tìm kiếm đoàn vận tải anh hạm đội ý bị không kích bởi các máy bay ném bom hạng nặng b-24 liberator của không lực lục quân hoa kỳ vittorio veneto may mắn không trúng quả bom nào littorio trúng một quả bom
Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)
kích bởi các máy bay ném bom hạng nặng B-24 Liberator của Không lực Lục quân Hoa Kỳ. "Vittorio Veneto" may mắn không trúng quả bom nào, "Littorio" trúng một quả bom vào tháp pháo 381 mm số 1 nhưng không gây thiệt hại đáng kể. Ngay sau đó, một tốp máy bay ném bom Beaufort nữa tấn công hạm đội Ý, nhưng bị máy bay tiêm kích của Ý và Đức đánh chặn, khiến hai chiếc Beaufort bị bắn rơi và năm chiếc khác bị hư hỏng. Đến chiều, Đô đốc Iachino kết luận rằng hạm đội của ông sẽ không bắt kịp đoàn hộ tống của Anh trước khi trời tối, nên ông đã cho dừng chiến dịch đánh chặn và quay về căn cứ. Tuy nhiên, sự hiện diện của thiết giáp hạm Ý trong khu vực đã khiến Chiến dịch Vigorous và Chiến dịch Harpoon của người Anh sụp đổ khi toàn bộ đoàn hộ tống được lệnh rút về Alexandria thay vì tiếp tục di chuyển đến Malta. === Số phận. === Ngày 12 tháng 11, "Vittorio Veneto" rời Taranto tới Naples sau khi quân đội Đồng Minh đổ bộ vào Bắc Phi. Ngày 4 tháng 12, máy bay Mỹ không kích Naples, buộc Hải quân Ý phải đưa phần lớn hạm đội của họ về La Spezia. Tại đây, "Vittorio Veneto", cùng "Littorio" và "Roma", được ngừng hoạt động trong sáu tháng đầu năm 1943 do Hải quân Ý gặp vấn đề thiếu nhiên liệu trầm trọng. Ngày 5 tháng 6,
kích bởi các máy bay ném bom hạng nặng b-24 liberator của không lực lục quân hoa kỳ vittorio veneto may mắn không trúng quả bom nào littorio trúng một quả bom vào tháp pháo 381 mm số 1 nhưng không gây thiệt hại đáng kể ngay sau đó một tốp máy bay ném bom beaufort nữa tấn công hạm đội ý nhưng bị máy bay tiêm kích của ý và đức đánh chặn khiến hai chiếc beaufort bị bắn rơi và năm chiếc khác bị hư hỏng đến chiều đô đốc iachino kết luận rằng hạm đội của ông sẽ không bắt kịp đoàn hộ tống của anh trước khi trời tối nên ông đã cho dừng chiến dịch đánh chặn và quay về căn cứ tuy nhiên sự hiện diện của thiết giáp hạm ý trong khu vực đã khiến chiến dịch vigorous và chiến dịch harpoon của người anh sụp đổ khi toàn bộ đoàn hộ tống được lệnh rút về alexandria thay vì tiếp tục di chuyển đến malta === số phận === ngày 12 tháng 11 vittorio veneto rời taranto tới naples sau khi quân đội đồng minh đổ bộ vào bắc phi ngày 4 tháng 12 máy bay mỹ không kích naples buộc hải quân ý phải đưa phần lớn hạm đội của họ về la spezia tại đây vittorio veneto cùng littorio và roma được ngừng hoạt động trong sáu tháng đầu năm 1943 do hải quân ý gặp vấn đề thiếu nhiên liệu trầm trọng ngày 5 tháng 6
Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)
"Vittorio Veneto", cùng "Littorio" và "Roma", được ngừng hoạt động trong sáu tháng đầu năm 1943 do Hải quân Ý gặp vấn đề thiếu nhiên liệu trầm trọng. Ngày 5 tháng 6, "Vittorio Veneto" trúng hai quả bom cỡ lớn vào khu vực mạn trái ở mũi tàu. Một quả bom xuyên qua lớp giáp sàn và phát nổ dưới phần lườn tàu, khiến cấu trúc tàu bị hư hại nghiêm trọng. "Vittorio Veneto" phải khởi hành về Genoa sửa chữa do hệ thống ụ khô ở La Spezia đang được sửa chữa sau các đợt không kích của máy bay Mỹ. Ngày 3 tháng 9 năm 1942, Hiệp định Đình chiến Cassibile được ký kết, chính thức gạch tên nước Ý ra khỏi cuộc chiến. "Vittorio Veneto" cùng toàn bộ hạm đội Ý được lệnh khởi hành về Malta để đầu hàng quân đội Anh. Trên đường, hạm đội Ý bị tấn công bởi máy bay ném bom Dornier Do 217 của Đức Quốc Xã. "Vittorio Veneto" không bị hư hại trong cuộc tấn công, nhưng "Italia" (gốc-"Littorio", được đổi tên sau khi sau khi chính phủ Phát xít của Benito Mussolini sụp đổ) chịu thiệt hại nhẹ do trúng một quả bom Fritz X và "Roma" bị chìm sau khi trúng hai quả bom Fritz X. "Vittorio Veneto" cập bến Malta thành công và được lưu lại tại đó tới ngày 14 tháng 9, trước khi được lệnh di chuyển về Alexandria. "Vittorio Veneto" và "Italia" neo đậu tại Hồ Great Bitter ở Kênh đào
vittorio veneto cùng littorio và roma được ngừng hoạt động trong sáu tháng đầu năm 1943 do hải quân ý gặp vấn đề thiếu nhiên liệu trầm trọng ngày 5 tháng 6 vittorio veneto trúng hai quả bom cỡ lớn vào khu vực mạn trái ở mũi tàu một quả bom xuyên qua lớp giáp sàn và phát nổ dưới phần lườn tàu khiến cấu trúc tàu bị hư hại nghiêm trọng vittorio veneto phải khởi hành về genoa sửa chữa do hệ thống ụ khô ở la spezia đang được sửa chữa sau các đợt không kích của máy bay mỹ ngày 3 tháng 9 năm 1942 hiệp định đình chiến cassibile được ký kết chính thức gạch tên nước ý ra khỏi cuộc chiến vittorio veneto cùng toàn bộ hạm đội ý được lệnh khởi hành về malta để đầu hàng quân đội anh trên đường hạm đội ý bị tấn công bởi máy bay ném bom dornier do 217 của đức quốc xã vittorio veneto không bị hư hại trong cuộc tấn công nhưng italia gốc- littorio được đổi tên sau khi sau khi chính phủ phát xít của benito mussolini sụp đổ chịu thiệt hại nhẹ do trúng một quả bom fritz x và roma bị chìm sau khi trúng hai quả bom fritz x vittorio veneto cập bến malta thành công và được lưu lại tại đó tới ngày 14 tháng 9 trước khi được lệnh di chuyển về alexandria vittorio veneto và italia neo đậu tại hồ great bitter ở kênh đào
Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)
và được lưu lại tại đó tới ngày 14 tháng 9, trước khi được lệnh di chuyển về Alexandria. "Vittorio Veneto" và "Italia" neo đậu tại Hồ Great Bitter ở Kênh đào Suez trong suốt quãng thời gian còn lại của cuộc chiến. Ngày 6 tháng 6 năm 1946, "Vittorio Veneto" khỏi hành về Augusta ở Sicily, và theo Hiệp ước Hòa bình với Ý 1947, con tàu được lệnh tiến đến Anh với vai trò là chiến lợi phẩm của người Anh. Ngày 14 tháng 10 năm 1946, "Vittorio Veneto" quay về La Spezia và được đem đi bán để tháo dỡ vào ngày 3 tháng 1 năm 1948. "Vittorio Veneto" là thiết giáp hạm phục vụ tận tụy nhất của Hải quân Hoàng Gia Ý trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, đã tham gia tổng cộng 11 chiến dịch tấn công/đánh chặn khác nhau. 12 khẩu pháo cao xạ 90 mm của "Vittorio Veneto" đã được giữ lại sau khi tháo dỡ, và chúng sau này được Quân đội Nhân dân Nam Tư (JNA) trưng dụng để thiết lập một trận địa pháo ở Đảo Žirje. Các khẩu pháo này đã đầu hàng không phản kháng Lực lượng Vệ binh Quốc gia Croatia vào ngày 14 tháng 9 năm 1991 trong cuộc Chiến tranh giành độc lập Croatia. Các khẩu pháo này sau được Lực lượng Vệ binh Quốc gia Croatia tái sử dụng và góp phần giúp quân đội Croatia giành thắng lợi trong Trận Šibenik diễn ra từ ngày 16 tới ngày
và được lưu lại tại đó tới ngày 14 tháng 9 trước khi được lệnh di chuyển về alexandria vittorio veneto và italia neo đậu tại hồ great bitter ở kênh đào suez trong suốt quãng thời gian còn lại của cuộc chiến ngày 6 tháng 6 năm 1946 vittorio veneto khỏi hành về augusta ở sicily và theo hiệp ước hòa bình với ý 1947 con tàu được lệnh tiến đến anh với vai trò là chiến lợi phẩm của người anh ngày 14 tháng 10 năm 1946 vittorio veneto quay về la spezia và được đem đi bán để tháo dỡ vào ngày 3 tháng 1 năm 1948 vittorio veneto là thiết giáp hạm phục vụ tận tụy nhất của hải quân hoàng gia ý trong chiến tranh thế giới thứ hai đã tham gia tổng cộng 11 chiến dịch tấn công đánh chặn khác nhau 12 khẩu pháo cao xạ 90 mm của vittorio veneto đã được giữ lại sau khi tháo dỡ và chúng sau này được quân đội nhân dân nam tư jna trưng dụng để thiết lập một trận địa pháo ở đảo žirje các khẩu pháo này đã đầu hàng không phản kháng lực lượng vệ binh quốc gia croatia vào ngày 14 tháng 9 năm 1991 trong cuộc chiến tranh giành độc lập croatia các khẩu pháo này sau được lực lượng vệ binh quốc gia croatia tái sử dụng và góp phần giúp quân đội croatia giành thắng lợi trong trận šibenik diễn ra từ ngày 16 tới ngày
Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)
sau được Lực lượng Vệ binh Quốc gia Croatia tái sử dụng và góp phần giúp quân đội Croatia giành thắng lợi trong Trận Šibenik diễn ra từ ngày 16 tới ngày 22 tháng 9 năm 1991, khi những khẩu pháo này đã ngăn chặn thành công cuộc tấn công của JNA vào Šibenik; đồng thời giúp quân đội Croatia chiếm nguyên vẹn 15 tàu tuần tra của Nam Tư đang neo đậu ở Cảng Šibenik và 19 tàu khác đang được nâng cấp trong Xưởng Šibenik, chiếm 1/4 tổng số tàu mặt nước của Hải quân Nam Tư tại thời điểm đó. == Tham khảo. == === Sách tham khảo. === BULLET::::- Čanić, Dean (2014). "Prva pobjeda u obrani od velikosrpske agresije – šibenska bitka u rujnu 1991. godine". P. 1-2-3. Vojna Povijest. Retrieved on 2018-06-26. == Liên kết ngoài. == BULLET::::- Thiết giáp hạm Vittorio Veneto Trang web của Marina Militare. BULLET::::- Classe Littorio Trang web chính thức của Hải quân Ý (Marina Militare)
sau được lực lượng vệ binh quốc gia croatia tái sử dụng và góp phần giúp quân đội croatia giành thắng lợi trong trận šibenik diễn ra từ ngày 16 tới ngày 22 tháng 9 năm 1991 khi những khẩu pháo này đã ngăn chặn thành công cuộc tấn công của jna vào šibenik đồng thời giúp quân đội croatia chiếm nguyên vẹn 15 tàu tuần tra của nam tư đang neo đậu ở cảng šibenik và 19 tàu khác đang được nâng cấp trong xưởng šibenik chiếm 1 4 tổng số tàu mặt nước của hải quân nam tư tại thời điểm đó == tham khảo == === sách tham khảo === bullet čanić dean 2014 prva pobjeda u obrani od velikosrpske agresije – šibenska bitka u rujnu 1991 godine p 1-2-3 vojna povijest retrieved on 2018-06-26 == liên kết ngoài == bullet thiết giáp hạm vittorio veneto trang web của marina militare bullet classe littorio trang web chính thức của hải quân ý marina militare
Christopher Hooley
Christopher Hooley (Ngày 7 Tháng 8 Năm 1928 – Ngày 13 Tháng 12 Năm 2018) là nhà toán học Anh, từng là giáo sư dạy toán tại đại học Cardiff. Ông hoàn thành bằng tiến sĩ của mình dưới sự giám sát của Albert Ingham. Ông đoạt giải Adams của đại học Cambridge vào năm 1973. Ông được bầu làm Thành viên Hội Hoàng gia trong 1983. Ông cũng là một trong những người thành lập cộng đồng khoa học xứ Wales. Ông chứng minh rằng nguyên lý Hasse áp dụng được đối với các dạng lập phương không kỳ dị với ít nhất 9 biến.
christopher hooley ngày 7 tháng 8 năm 1928 – ngày 13 tháng 12 năm 2018 là nhà toán học anh từng là giáo sư dạy toán tại đại học cardiff ông hoàn thành bằng tiến sĩ của mình dưới sự giám sát của albert ingham ông đoạt giải adams của đại học cambridge vào năm 1973 ông được bầu làm thành viên hội hoàng gia trong 1983 ông cũng là một trong những người thành lập cộng đồng khoa học xứ wales ông chứng minh rằng nguyên lý hasse áp dụng được đối với các dạng lập phương không kỳ dị với ít nhất 9 biến
As It Was
As It Was "As It Was" là một bài hát của ca sĩ người Anh Harry Styles, được phát hành thông qua Erskine và Columbia Records vào ngày 31 tháng 3 năm 2022 với tư cách là đĩa đơn chính trong album phòng thu thứ ba của anh, Harry's House (2022). Bài hát được viết lời bởi Styles cùng với các nhà sản xuất của bài hát là Kid Harpoon và Tyler Johnson. "As It Was" đứng đầu Bảng xếp hạng Đĩa đơn Vương quốc Anh, trở thành đĩa đơn quán quân thứ hai của Styles trên bảng xếp hạng sau "Sign of the Times" vào tháng 4 năm 2017 và giữ vị trí đầu Bảng xếp hạng Đĩa đơn Vương quốc Anh trong vong mười tuần, trở thành Đĩa đơn quán quân lâu nhất trên bảng xếp hạng. Ngoài ra, bài hát đã đứng đầu "Bảng xếp hạng Billboard" Hot 100, trở thành đĩa đơn quán quân thứ hai của anh ấy trên bảng xếp hạng sau "Watermelon Sugar" vào tháng 8 năm 2020. Ngoài Vương quốc Anh và Hoa Kỳ, "As It Was" cũng đứng đầu bảng xếp hạng ở các quốc gia như Úc, Áo, Bỉ, Canada, Đan Mạch, Pháp, Đức, Hy Lạp, Ireland, Lithuania, Hà Lan, New Zealand, Singapore và Thụy Điển. == Bối cảnh. == Styles đã tiết lộ tên album phòng thu thứ ba của mình là "Harry's House" vào ngày 23 tháng 3 năm 2022, cùng với một đoạn video giới thiệu dài 40 giây và ngày phát hành album là 20 tháng
as it was as it was là một bài hát của ca sĩ người anh harry styles được phát hành thông qua erskine và columbia records vào ngày 31 tháng 3 năm 2022 với tư cách là đĩa đơn chính trong album phòng thu thứ ba của anh harry s house 2022 bài hát được viết lời bởi styles cùng với các nhà sản xuất của bài hát là kid harpoon và tyler johnson as it was đứng đầu bảng xếp hạng đĩa đơn vương quốc anh trở thành đĩa đơn quán quân thứ hai của styles trên bảng xếp hạng sau sign of the times vào tháng 4 năm 2017 và giữ vị trí đầu bảng xếp hạng đĩa đơn vương quốc anh trong vong mười tuần trở thành đĩa đơn quán quân lâu nhất trên bảng xếp hạng ngoài ra bài hát đã đứng đầu bảng xếp hạng billboard hot 100 trở thành đĩa đơn quán quân thứ hai của anh ấy trên bảng xếp hạng sau watermelon sugar vào tháng 8 năm 2020 ngoài vương quốc anh và hoa kỳ as it was cũng đứng đầu bảng xếp hạng ở các quốc gia như úc áo bỉ canada đan mạch pháp đức hy lạp ireland lithuania hà lan new zealand singapore và thụy điển == bối cảnh == styles đã tiết lộ tên album phòng thu thứ ba của mình là harry s house vào ngày 23 tháng 3 năm 2022 cùng với một đoạn video giới thiệu dài 40 giây và ngày phát hành album là 20 tháng
As It Was
thứ ba của mình là "Harry's House" vào ngày 23 tháng 3 năm 2022, cùng với một đoạn video giới thiệu dài 40 giây và ngày phát hành album là 20 tháng 5 năm 2022. Năm ngày sau, anh công bố tên đĩa đơn chính của album là "As It Was", cùng với những bức ảnh anh trong trang phục màu đỏ và ngày phát hành của bài hát là ngày 1 tháng 4 năm 2022. Đồng thời, rất nhiều poster mang lời bài hát "It's not the same as it was" (tạm dịch: "Không giống như xưa") và hình ảnh Styles ngồi trên một quả bóng lớn xuất hiện ở nhiều thành phố khác nhau. Anh đã phát hành một đoạn giới thiệu của video âm nhạc vào ngày 30 tháng 3, mô tả anh trong một bộ đồ liền quần màu đỏ đang đứng trên đỉnh một bàn xoay. == Sáng tác và lời bài hát. == "As It Was" mở đầu bằng câu nói của con gái đỡ đầu của Styles: "Come on Harry, we wanna say goodnight to you." (tạm dịch: "Nào Harry, bọn con muốn nói lời chúc ngủ ngon với bố.") Các nhà phê bình âm nhạc mô tả bài hát như một bản nhạc synth-pop hòa tấu với guitar. Chris Willman của "Variety" cho rằng bài hát lấy cảm hứng từ Depeche Mode và A-ha, đồng thời cho rằng bài hát đã áp dụng một phong cách tương tự như đĩa đơn của năm 2019 "Blinding Lights" của The Weeknd. Về
thứ ba của mình là harry s house vào ngày 23 tháng 3 năm 2022 cùng với một đoạn video giới thiệu dài 40 giây và ngày phát hành album là 20 tháng 5 năm 2022 năm ngày sau anh công bố tên đĩa đơn chính của album là as it was cùng với những bức ảnh anh trong trang phục màu đỏ và ngày phát hành của bài hát là ngày 1 tháng 4 năm 2022 đồng thời rất nhiều poster mang lời bài hát it s not the same as it was tạm dịch không giống như xưa và hình ảnh styles ngồi trên một quả bóng lớn xuất hiện ở nhiều thành phố khác nhau anh đã phát hành một đoạn giới thiệu của video âm nhạc vào ngày 30 tháng 3 mô tả anh trong một bộ đồ liền quần màu đỏ đang đứng trên đỉnh một bàn xoay == sáng tác và lời bài hát == as it was mở đầu bằng câu nói của con gái đỡ đầu của styles come on harry we wanna say goodnight to you tạm dịch nào harry bọn con muốn nói lời chúc ngủ ngon với bố các nhà phê bình âm nhạc mô tả bài hát như một bản nhạc synth-pop hòa tấu với guitar chris willman của variety cho rằng bài hát lấy cảm hứng từ depeche mode và a-ha đồng thời cho rằng bài hát đã áp dụng một phong cách tương tự như đĩa đơn của năm 2019 blinding lights của the weeknd về
As It Was
hứng từ Depeche Mode và A-ha, đồng thời cho rằng bài hát đã áp dụng một phong cách tương tự như đĩa đơn của năm 2019 "Blinding Lights" của The Weeknd. Về mặt ca từ, "As It Was" bắt nguồn từ quá trình chuyển đổi cảm giác bản thân và miêu tả cảm giác mất mát và cô đơn. == Thành công thương mại. == "As It Was" có thể được coi là một thành công lớn, bài hát đã ghi tên mình vào Kỷ lục Guinness Thế giới cho ca khúc được phát trực tuyến nhiều nhất trên Spotify trong vòng 24 giờ bởi một nghệ sĩ nam. Bài hát cũng mở đầu "Bảng xếp hạng Billboard" Global 200 với tuần phát trực tuyến toàn cầu lớn nhất năm 2022, trở thành quán quân đầu tiên của Styles trên bảng tổng sắp. Tại Vương quốc Anh, "As It Was" đứng đầu Bảng xếp hạng Đĩa đơn Vương quốc Anh vào ngày 8 tháng 4 năm 2022 và kết thúc vào ngày 14 tháng 4 năm 2022 - với số tuần bán và phát trực tuyến lớn nhất so với bất kỳ đĩa đơn nào trong năm 2022 và trở thành đĩa đơn thứ hai của Styles đứng đầu bảng xếp hạng sau "Sign of the Times" vào tháng 4 năm 2017. Bài hát đã thu được nhiều lượt phát trực tiếp nhất trong một ngày trên Spotify tại Hoa Kỳ, từ trước đến nay, vượt qua "Driver License" của Olivia Rodrigo (2021). Bài hát đứng ở vị trí
hứng từ depeche mode và a-ha đồng thời cho rằng bài hát đã áp dụng một phong cách tương tự như đĩa đơn của năm 2019 blinding lights của the weeknd về mặt ca từ as it was bắt nguồn từ quá trình chuyển đổi cảm giác bản thân và miêu tả cảm giác mất mát và cô đơn == thành công thương mại == as it was có thể được coi là một thành công lớn bài hát đã ghi tên mình vào kỷ lục guinness thế giới cho ca khúc được phát trực tuyến nhiều nhất trên spotify trong vòng 24 giờ bởi một nghệ sĩ nam bài hát cũng mở đầu bảng xếp hạng billboard global 200 với tuần phát trực tuyến toàn cầu lớn nhất năm 2022 trở thành quán quân đầu tiên của styles trên bảng tổng sắp tại vương quốc anh as it was đứng đầu bảng xếp hạng đĩa đơn vương quốc anh vào ngày 8 tháng 4 năm 2022 và kết thúc vào ngày 14 tháng 4 năm 2022 với số tuần bán và phát trực tuyến lớn nhất so với bất kỳ đĩa đơn nào trong năm 2022 và trở thành đĩa đơn thứ hai của styles đứng đầu bảng xếp hạng sau sign of the times vào tháng 4 năm 2017 bài hát đã thu được nhiều lượt phát trực tiếp nhất trong một ngày trên spotify tại hoa kỳ từ trước đến nay vượt qua driver license của olivia rodrigo 2021 bài hát đứng ở vị trí
As It Was
nhiều lượt phát trực tiếp nhất trong một ngày trên Spotify tại Hoa Kỳ, từ trước đến nay, vượt qua "Driver License" của Olivia Rodrigo (2021). Bài hát đứng ở vị trí số một trên "Billboard" Hot 100, đánh dấu bài hát đầu tiên của năm 2022 ra mắt ở vị trí cao nhất, và trở thành quán quân thứ hai của Styles sau "Watermelon Sugar" (2019), đồng thời đứng đầu bảng xếp hạng khác trên thế giới. Với thành tích này, One Direction trở thành nhóm nhạc đầu tiên có hai thành viên đứng vị trí số một trên Hot 100 với các ca khúc solo, do Styles kết hợp với Zayn Malik. Bài hát cũng đạt vị trí số một trên Canadian Hot 100. == Video âm nhạc. == Video âm nhạc cho "As It Was" đã được phát hành trên YouTube cùng ngày bài hát được phát hành. Trong clip, Styles cùng vũ công Mathilde Lin ngồi trên bệ quay và thực hiện nhiều vũ đạo khác nhau để giải tỏa cảm xúc tiêu cực. Đoạn video được quay ở London, bài hát còn được quay tại Lindley Hall gần Cung điện Westminster, và tại hồ bơi dành cho chim cánh cụt ở Sở thú London. Đạo diễn Tanu Muino, tuyên bố rằng việc được đạo diễn cảnh quay cho bài hát của Styles là "giấc mơ thành hiện thực", nhưng vào ngày quay thứ hai, quê hương Ukraine của Muino bị Nga xâm lược, khiến quá trình này trở thành một trải nghiệm "buồn
nhiều lượt phát trực tiếp nhất trong một ngày trên spotify tại hoa kỳ từ trước đến nay vượt qua driver license của olivia rodrigo 2021 bài hát đứng ở vị trí số một trên billboard hot 100 đánh dấu bài hát đầu tiên của năm 2022 ra mắt ở vị trí cao nhất và trở thành quán quân thứ hai của styles sau watermelon sugar 2019 đồng thời đứng đầu bảng xếp hạng khác trên thế giới với thành tích này one direction trở thành nhóm nhạc đầu tiên có hai thành viên đứng vị trí số một trên hot 100 với các ca khúc solo do styles kết hợp với zayn malik bài hát cũng đạt vị trí số một trên canadian hot 100 == video âm nhạc == video âm nhạc cho as it was đã được phát hành trên youtube cùng ngày bài hát được phát hành trong clip styles cùng vũ công mathilde lin ngồi trên bệ quay và thực hiện nhiều vũ đạo khác nhau để giải tỏa cảm xúc tiêu cực đoạn video được quay ở london bài hát còn được quay tại lindley hall gần cung điện westminster và tại hồ bơi dành cho chim cánh cụt ở sở thú london đạo diễn tanu muino tuyên bố rằng việc được đạo diễn cảnh quay cho bài hát của styles là giấc mơ thành hiện thực nhưng vào ngày quay thứ hai quê hương ukraine của muino bị nga xâm lược khiến quá trình này trở thành một trải nghiệm buồn
As It Was
Styles là "giấc mơ thành hiện thực", nhưng vào ngày quay thứ hai, quê hương Ukraine của Muino bị Nga xâm lược, khiến quá trình này trở thành một trải nghiệm "buồn vui lẫn lộn"; tuy nhiên, Muino và nhóm của cô đến từ Ukraine "đã dành rất nhiều tình cảm cho video này và bạn có thể xem nó ngay trên màn hình của bạn. Đó sẽ là một video âm nhạc mà tôi không bao giờ quên và bây giờ tôi có thể vui vẻ nghỉ hưu." Trên YouTube, video đã nhận được hơn 150 triệu lượt xem và 4,5 triệu lượt thích tính đến tháng 5 năm 2022. == Biểu diễn trực tiếp. == Styles đã biểu diễn "As It Was" lần đầu tiên tại Coachella Valley Music and Arts Festival vào ngày 15 tháng 4 và ngày 22 tháng 4. == Nhân sự. == BULLET::::- Harry Styles - giọng hát chính, sáng tác BULLET::::- Kid Harpoon - sáng tác, sản xuất, dụng cụ BULLET::::- Tyler Johnson - sáng tác, sản xuất, đánh đàn piano BULLET::::- Doug Showalter - guitar điện BULLET::::- Mitch Rowland - trống BULLET::::- Jeremy Hatcher - lập trình, ghi âm BULLET::::- Randy Merrill - chuyển đổi âm thanh BULLET::::- Spike Stent - pha trộn âm thanh BULLET::::- Katie May - trợ lý kỹ thuật BULLET::::- Luke Gibbs - trợ lý kỹ thuật BULLET::::- Adele Phillips - trợ lý kỹ thuật BULLET::::- Josh Caulder - trợ lý kỹ thuật BULLET::::- Joe Dougherty - trợ lý kỹ thuật BULLET::::- Matt Wolach - trợ lý kỹ thuật == Xem thêm. == BULLET::::- Harry Styles BULLET::::- Harry’s House
styles là giấc mơ thành hiện thực nhưng vào ngày quay thứ hai quê hương ukraine của muino bị nga xâm lược khiến quá trình này trở thành một trải nghiệm buồn vui lẫn lộn tuy nhiên muino và nhóm của cô đến từ ukraine đã dành rất nhiều tình cảm cho video này và bạn có thể xem nó ngay trên màn hình của bạn đó sẽ là một video âm nhạc mà tôi không bao giờ quên và bây giờ tôi có thể vui vẻ nghỉ hưu trên youtube video đã nhận được hơn 150 triệu lượt xem và 4 5 triệu lượt thích tính đến tháng 5 năm 2022 == biểu diễn trực tiếp == styles đã biểu diễn as it was lần đầu tiên tại coachella valley music and arts festival vào ngày 15 tháng 4 và ngày 22 tháng 4 == nhân sự == bullet harry styles giọng hát chính sáng tác bullet kid harpoon sáng tác sản xuất dụng cụ bullet tyler johnson sáng tác sản xuất đánh đàn piano bullet doug showalter guitar điện bullet mitch rowland trống bullet jeremy hatcher lập trình ghi âm bullet randy merrill chuyển đổi âm thanh bullet spike stent pha trộn âm thanh bullet katie may trợ lý kỹ thuật bullet luke gibbs trợ lý kỹ thuật bullet adele phillips trợ lý kỹ thuật bullet josh caulder trợ lý kỹ thuật bullet joe dougherty trợ lý kỹ thuật bullet matt wolach trợ lý kỹ thuật == xem thêm == bullet harry styles bullet harry’s house
As It Was
Caulder - trợ lý kỹ thuật BULLET::::- Joe Dougherty - trợ lý kỹ thuật BULLET::::- Matt Wolach - trợ lý kỹ thuật == Xem thêm. == BULLET::::- Harry Styles BULLET::::- Harry’s House
caulder trợ lý kỹ thuật bullet joe dougherty trợ lý kỹ thuật bullet matt wolach trợ lý kỹ thuật == xem thêm == bullet harry styles bullet harry’s house
Đường số thực kéo dài
Đường số thực kéo dài Trong toán học, hệ thống số thực kéo dài affine được tạo từ tập số thực formula_1 và hai phần tử vô cực: formula_2 và formula_3 trong đó các cực được coi như số. Nó hữu dụng trong việc mô tả đại số trên các cực cũng như nhiều hành vi của giới hạn trong vi tích phân và giải tích toán học, đặc biệt là trong lý thuyết độ đo và tích phân. Hệ thống số thực kéo dài affine được ký hiệu là formula_4 hoặc formula_5 hoặc là Khi đã rõ ngữ cảnh thì ký hiệu formula_2 có thể viết ngắn gọn thành == Lý do thúc đẩy. == === Giới hạn hàm số. === Thường thì để thuận lợi, ta thường hay mô tả hành vi của hàm formula_7 khi tham số formula_8 hoặc kết quả hàm formula_7 trở nên "lớn vô cùng" bằng một số phương pháp hoặc hình học. Để lấy ví dụ, xét hàm formula_7 được định nghĩa bởi Đồ thị của hàm số này có tiệm cận ngang tại formula_12 Nhìn theo hình học thì, khi ta càng di chuyển về bên phải theo trục formula_8, giá trị của formula_14 càng gần đến . Hành vi giới hạn này giống với giới hạn của hàm số formula_15 trong đó số thực formula_8 tiến dần đến formula_17. Việc thêm formula_2 và formula_19 trong tập formula_1 cho phép ta lập "giới hạn tại vô cực", với các tính chất tô pô tương tự như tập formula_21 Định nghĩa dãy Cauchy của formula_1
đường số thực kéo dài trong toán học hệ thống số thực kéo dài affine được tạo từ tập số thực formula_1 và hai phần tử vô cực formula_2 và formula_3 trong đó các cực được coi như số nó hữu dụng trong việc mô tả đại số trên các cực cũng như nhiều hành vi của giới hạn trong vi tích phân và giải tích toán học đặc biệt là trong lý thuyết độ đo và tích phân hệ thống số thực kéo dài affine được ký hiệu là formula_4 hoặc formula_5 hoặc là khi đã rõ ngữ cảnh thì ký hiệu formula_2 có thể viết ngắn gọn thành == lý do thúc đẩy == === giới hạn hàm số === thường thì để thuận lợi ta thường hay mô tả hành vi của hàm formula_7 khi tham số formula_8 hoặc kết quả hàm formula_7 trở nên lớn vô cùng bằng một số phương pháp hoặc hình học để lấy ví dụ xét hàm formula_7 được định nghĩa bởi đồ thị của hàm số này có tiệm cận ngang tại formula_12 nhìn theo hình học thì khi ta càng di chuyển về bên phải theo trục formula_8 giá trị của formula_14 càng gần đến hành vi giới hạn này giống với giới hạn của hàm số formula_15 trong đó số thực formula_8 tiến dần đến formula_17 việc thêm formula_2 và formula_19 trong tập formula_1 cho phép ta lập giới hạn tại vô cực với các tính chất tô pô tương tự như tập formula_21 định nghĩa dãy cauchy của formula_1
Đường số thực kéo dài
thêm formula_2 và formula_19 trong tập formula_1 cho phép ta lập "giới hạn tại vô cực", với các tính chất tô pô tương tự như tập formula_21 Định nghĩa dãy Cauchy của formula_1 cho phép định nghĩa formula_2 là tập các dãy formula_24 của số hữu tỷ thỏa mãn với mọi formula_25 được đi kèm tương ứng formula_26 sao cho formula_27 với mọi formula_28 Định nghĩa cho formula_19 có thể được định nghĩa tương tự. === Độ đo và tích phân. === Trong lý thuyết độ đo, thường để thuận lợi ta cho phép các tập có độ đo vô cực và tích phân có thể có giá trị truyền vào vô cực.
thêm formula_2 và formula_19 trong tập formula_1 cho phép ta lập giới hạn tại vô cực với các tính chất tô pô tương tự như tập formula_21 định nghĩa dãy cauchy của formula_1 cho phép định nghĩa formula_2 là tập các dãy formula_24 của số hữu tỷ thỏa mãn với mọi formula_25 được đi kèm tương ứng formula_26 sao cho formula_27 với mọi formula_28 định nghĩa cho formula_19 có thể được định nghĩa tương tự === độ đo và tích phân === trong lý thuyết độ đo thường để thuận lợi ta cho phép các tập có độ đo vô cực và tích phân có thể có giá trị truyền vào vô cực
Nguyễn Xuân Dạng
Nguyễn Xuân Dạng Họ tên : Nguyễn Xuân Dạng Ngày sinh : 11/10/2007 Giới tính : Nam Sống tại Tiểu Cần, Trà Vinh Đặc điểm : Mặn hơn muối Là một good boy chính hiệu.
nguyễn xuân dạng họ tên nguyễn xuân dạng ngày sinh 11 10 2007 giới tính nam sống tại tiểu cần trà vinh đặc điểm mặn hơn muối là một good boy chính hiệu
Rebel
Rebel hay cuộc biểu tình Rebel là một cuộc biểu tình tại Việt Nam ngày 10 tháng 6 năm 2022 để tạo ra một chính phủ riêng nhưng thất bại.Tất cả đi đến Hoàng Sa của Việt Nam và biểu tình lần hai ngày 16/6/2022 nhưng thất bại.ngoài Rebel,Onalaixa và Jasda cũng hỗ trợ Rebel nhưng cả ba lần lượt thất bại.Cờ Rebel là một lá cờ Đỏ có hình vuông Xanh dương.họ chỉ có 4 đồng minh là Trung Quốc,Onalaixa,Iran,Jasda.Nhưng lúc Rebel biểu tình thì 2 quốc gia đã bỏ Rebel.Chỉ có Onalaixa và Jassa Singh Ahluwalia giúp Rebel.
rebel hay cuộc biểu tình rebel là một cuộc biểu tình tại việt nam ngày 10 tháng 6 năm 2022 để tạo ra một chính phủ riêng nhưng thất bại tất cả đi đến hoàng sa của việt nam và biểu tình lần hai ngày 16 6 2022 nhưng thất bại ngoài rebel onalaixa và jasda cũng hỗ trợ rebel nhưng cả ba lần lượt thất bại cờ rebel là một lá cờ đỏ có hình vuông xanh dương họ chỉ có 4 đồng minh là trung quốc onalaixa iran jasda nhưng lúc rebel biểu tình thì 2 quốc gia đã bỏ rebel chỉ có onalaixa và jassa singh ahluwalia giúp rebel
Võ Trần Chinh
Võ Trần Chinh BULLET::::- Võ Trần Chinh 22/10/2005 BULLET::::- Được xem là tài năng trẻ của Clb TOPPENLAND BÌNH ĐỊNH BULLET::::- Trần Chinh vừa gia nhập clb vào ngày 10-6-2022,anh đã chứng tỏ tài năng thiên bẩm của mình cũng như khiến HLV có ấn tượng về tài năng trẻ này Anh Chị em cầu thủ: BULLET::::- Võ tuyết trinh 19/5/2009 BULLET::::- Chinh có tham vọng là sẽ được đặt chân đến SVĐ Old Trafford và mong muốn lớn nhất của Chinh là sẽ được thi đấu trong màu áo này . BULLET::::- Hiện nay anh vẫn còn vừa đi học vừa theo con đường cầu thủ chuyên nghiệp Anh vẫn theo học tại trường THPT Hoà Bình
võ trần chinh bullet võ trần chinh 22 10 2005 bullet được xem là tài năng trẻ của clb toppenland bình định bullet trần chinh vừa gia nhập clb vào ngày 10-6-2022 anh đã chứng tỏ tài năng thiên bẩm của mình cũng như khiến hlv có ấn tượng về tài năng trẻ này anh chị em cầu thủ bullet võ tuyết trinh 19 5 2009 bullet chinh có tham vọng là sẽ được đặt chân đến svđ old trafford và mong muốn lớn nhất của chinh là sẽ được thi đấu trong màu áo này bullet hiện nay anh vẫn còn vừa đi học vừa theo con đường cầu thủ chuyên nghiệp anh vẫn theo học tại trường thpt hoà bình
Roigheim
Roigheim () là một đô thị nằm ở huyện Heilbronn, bang Baden-Württemberg, tây nam nước Đức. Nằm bên bờ sông Seckach, nơi đây có dân số khoảng 1,400 người. == Liên kết ngoài. == BULLET::::- Trang web chính thức (bằng tiếng Đức) BULLET::::- Pucaro
roigheim là một đô thị nằm ở huyện heilbronn bang baden-württemberg tây nam nước đức nằm bên bờ sông seckach nơi đây có dân số khoảng 1 400 người == liên kết ngoài == bullet trang web chính thức bằng tiếng đức bullet pucaro
Talheim, Heilbronn
Talheim, Heilbronn Talheim () là một thị xã nằm ở huyện Heilbronn thuộc bang Baden-Württemberg, miền nam nước Đức. Nơi đây thường được biết đến với rượu vang, giải đấu quần vợt Heilbronn Open. Vào năm 1983, Hố tử thần Talheim được phát hiện ở đây.
talheim heilbronn talheim là một thị xã nằm ở huyện heilbronn thuộc bang baden-württemberg miền nam nước đức nơi đây thường được biết đến với rượu vang giải đấu quần vợt heilbronn open vào năm 1983 hố tử thần talheim được phát hiện ở đây
Năng lượng Gibbs tạo thành chuẩn
Năng lượng Gibbs tạo thành chuẩn ("G"°) của một hợp chất là sự thay đổi của năng lượng tự do Gibbs đi kèm với sự hình thành 1 mol chất ở trạng thái tiêu chuẩn từ các chất phản ứng cũng ở trạng thái tiêu chuẩn (dạng ổn định nhất của phần tử ở áp suất 1 bar và nhiệt độ xác định, thường là 298,15 K hoặc 25 °C). == Năng lượng Gibbs tạo thành chuẩn của một số chất. == Bảng dưới đây liệt kê năng lượng Gibbs tạo thành chuẩn của một số nguyên tố và hợp chất hóa học và được trích từ Lange's Handbook of Chemistry. Lưu ý rằng tất cả các giá trị đều tính bằng kJ/mol. Các bảng mở rộng hơn có thể được tìm thấy trong Sổ tay CRC về Hóa học và Vật lý và các bảng của NIST JANAF. Sách Hóa học online của Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ Quốc gia (xem mục Liên kết ngoài bên dưới) là một tài nguyên trực tuyến chứa entanpi tạo thành chuẩn cho các hợp chất khác nhau cùng với entropy tuyệt đối chuẩn cho các hợp chất này, từ đó có thể tính toán năng lượng Gibbs tạo thành chuẩn. == Xem thêm. == BULLET::::- Nhiệt hóa học BULLET::::- Nhiệt lượng == Liên kết ngoài. == BULLET::::- Sách Hóa học online của Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ Quốc gia
năng lượng gibbs tạo thành chuẩn g ° của một hợp chất là sự thay đổi của năng lượng tự do gibbs đi kèm với sự hình thành 1 mol chất ở trạng thái tiêu chuẩn từ các chất phản ứng cũng ở trạng thái tiêu chuẩn dạng ổn định nhất của phần tử ở áp suất 1 bar và nhiệt độ xác định thường là 298 15 k hoặc 25 °c == năng lượng gibbs tạo thành chuẩn của một số chất == bảng dưới đây liệt kê năng lượng gibbs tạo thành chuẩn của một số nguyên tố và hợp chất hóa học và được trích từ lange s handbook of chemistry lưu ý rằng tất cả các giá trị đều tính bằng kj mol các bảng mở rộng hơn có thể được tìm thấy trong sổ tay crc về hóa học và vật lý và các bảng của nist janaf sách hóa học online của viện tiêu chuẩn và công nghệ quốc gia xem mục liên kết ngoài bên dưới là một tài nguyên trực tuyến chứa entanpi tạo thành chuẩn cho các hợp chất khác nhau cùng với entropy tuyệt đối chuẩn cho các hợp chất này từ đó có thể tính toán năng lượng gibbs tạo thành chuẩn == xem thêm == bullet nhiệt hóa học bullet nhiệt lượng == liên kết ngoài == bullet sách hóa học online của viện tiêu chuẩn và công nghệ quốc gia
Năng lượng Gibbs tạo thành chuẩn
Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ Quốc gia
viện tiêu chuẩn và công nghệ quốc gia
Mặt phẳng bất biến
Mặt phẳng bất biến của một hệ hành tinh, còn gọi là mặt phẳng bất biến Laplace, là mặt phẳng đi qua khối tâm của hệ và vuông góc với vectơ tổng mô men động lượng. Trong hệ Mặt Trời, khoảng 98% hiệu ứng này được đóng góp bởi các mô men động lượng quỹ đạo của bốn hành tinh lớn (Mộc Tinh, Thổ Tinh, Thiên Vương Tinh, và Hải Vương Tinh). Mặt phẳng bất biến nghiêng dưới 0,5° so với mặt phẳng quỹ đạo của Mộc Tinh, và có thể được coi là trung bình trọng số của tất cả các mặt phẳng quỹ đạo và tự quay của các hành tinh. Mặt phẳng này đôi khi được gọi là "mặt phẳng Laplace/Laplacian" hay "mặt phẳng bất biến Laplace", mặc dù không nên nhầm lẫn với mặt phẳng Laplace của vệ tinh hành tinh, tức là mặt phẳng mà các mặt phẳng quỹ đạo của các vệ tinh tiến động quanh. Cả hai khái niệm này đều xuất phát từ các công trình của (hay được đặt tên theo) nhà thiên văn người Pháp, Pierre Simon Laplace. == Mô tả. == Nếu coi tất cả các thiên thể trong hệ Mặt Trời là các chất điểm hoặc các vật rắn có phân bố khối lượng đối xứng cầu thì "mặt phẳng bất biến" trong hệ quy chiếu quán tính mới hoàn toàn là bất biến do nó được xác định chỉ bởi các quỹ đạo. Tuy nhiên, các thiên thể không phải là hình cầu lý tưởng
mặt phẳng bất biến của một hệ hành tinh còn gọi là mặt phẳng bất biến laplace là mặt phẳng đi qua khối tâm của hệ và vuông góc với vectơ tổng mô men động lượng trong hệ mặt trời khoảng 98% hiệu ứng này được đóng góp bởi các mô men động lượng quỹ đạo của bốn hành tinh lớn mộc tinh thổ tinh thiên vương tinh và hải vương tinh mặt phẳng bất biến nghiêng dưới 0 5° so với mặt phẳng quỹ đạo của mộc tinh và có thể được coi là trung bình trọng số của tất cả các mặt phẳng quỹ đạo và tự quay của các hành tinh mặt phẳng này đôi khi được gọi là mặt phẳng laplace laplacian hay mặt phẳng bất biến laplace mặc dù không nên nhầm lẫn với mặt phẳng laplace của vệ tinh hành tinh tức là mặt phẳng mà các mặt phẳng quỹ đạo của các vệ tinh tiến động quanh cả hai khái niệm này đều xuất phát từ các công trình của hay được đặt tên theo nhà thiên văn người pháp pierre simon laplace == mô tả == nếu coi tất cả các thiên thể trong hệ mặt trời là các chất điểm hoặc các vật rắn có phân bố khối lượng đối xứng cầu thì mặt phẳng bất biến trong hệ quy chiếu quán tính mới hoàn toàn là bất biến do nó được xác định chỉ bởi các quỹ đạo tuy nhiên các thiên thể không phải là hình cầu lý tưởng
Mặt phẳng bất biến
quy chiếu quán tính mới hoàn toàn là bất biến do nó được xác định chỉ bởi các quỹ đạo. Tuy nhiên, các thiên thể không phải là hình cầu lý tưởng và có sự trao đổi một phần rất nhỏ mô men động lượng giữa các chuyển động tự quay và chuyển động quỹ đạo. Điều này gây ra một sự thay đổi trong độ lớn của tổng mô men động lượng quỹ đạo và cả hướng của nó (tiến động) bởi vì các trục tự quay không song song với trục của các quỹ đạo. Tuy nhiên, do hiệu ứng này là cực kỳ nhỏ, trong hầu hết mục đích, mặt phẳng được xác định chỉ dựa trên các quỹ đạo có thể được coi là bất biến trong cơ học cổ điển. === Nghịch lý mô men động lượng. === Độ lớn của vectơ mô men động lượng quỹ đạo của một hành tinh là trong đó formula_1 là bán kính quỹ đạo của một hành tinh (tính từ khối tâm), formula_2 là khối lượng của hành tinh, và formula_3 là vận tốc góc quỹ đạo. Mộc Tinh đóng góp vào phần lớn mô men động lượng của hệ Mặt Trời, chiếm tới 60,3%. Tiếp đến là Thổ Tinh tới 24,5%, Hải Vương Tinh tới 7,9%, và Thiên Vương Tinh tới 5,3%. Mặt Trời đóng vai trò là đối trọng, nên nó gần hơn với khối tâm khi Mộc Tinh ở một phía và ba hành tinh lớn kia ở phía trực tiếp đối diện;
quy chiếu quán tính mới hoàn toàn là bất biến do nó được xác định chỉ bởi các quỹ đạo tuy nhiên các thiên thể không phải là hình cầu lý tưởng và có sự trao đổi một phần rất nhỏ mô men động lượng giữa các chuyển động tự quay và chuyển động quỹ đạo điều này gây ra một sự thay đổi trong độ lớn của tổng mô men động lượng quỹ đạo và cả hướng của nó tiến động bởi vì các trục tự quay không song song với trục của các quỹ đạo tuy nhiên do hiệu ứng này là cực kỳ nhỏ trong hầu hết mục đích mặt phẳng được xác định chỉ dựa trên các quỹ đạo có thể được coi là bất biến trong cơ học cổ điển === nghịch lý mô men động lượng === độ lớn của vectơ mô men động lượng quỹ đạo của một hành tinh là trong đó formula_1 là bán kính quỹ đạo của một hành tinh tính từ khối tâm formula_2 là khối lượng của hành tinh và formula_3 là vận tốc góc quỹ đạo mộc tinh đóng góp vào phần lớn mô men động lượng của hệ mặt trời chiếm tới 60 3% tiếp đến là thổ tinh tới 24 5% hải vương tinh tới 7 9% và thiên vương tinh tới 5 3% mặt trời đóng vai trò là đối trọng nên nó gần hơn với khối tâm khi mộc tinh ở một phía và ba hành tinh lớn kia ở phía trực tiếp đối diện
Mặt phẳng bất biến
Trời đóng vai trò là đối trọng, nên nó gần hơn với khối tâm khi Mộc Tinh ở một phía và ba hành tinh lớn kia ở phía trực tiếp đối diện; trong khi đó Mặt Trời sẽ di chuyển tới cách khối tâm 2,17 lần bán kính của nó khi tất cả các hành tinh lớn đều thẳng hàng về một phía. Mô men động lượng quỹ đạo của Mặt Trời và tất cả các hành tinh nhỏ hơn, các vệ tinh, và các thiên thể nhỏ; cùng với mô men động lượng tự quay của tất cả các thiên thể trong hệ kể cả Mặt Trời, tổng cộng chỉ chiếm khoảng 2%. Sự tự quay của riêng Mặt Trời chỉ chiếm 0,3%. Người ta phát hiện ra rằng mô men động lượng của đĩa tiền hành tinh bị sai lệch khi so sánh với các mô hình hiện tại về quá trình hình thành sao. Mặt Trời và các sao khác được các mô hình dự đoán quay nhanh hơn đáng kể so với thực tế. == Xem thêm. == BULLET::::- Sự hình thành và tiến hóa của hệ Mặt Trời
trời đóng vai trò là đối trọng nên nó gần hơn với khối tâm khi mộc tinh ở một phía và ba hành tinh lớn kia ở phía trực tiếp đối diện trong khi đó mặt trời sẽ di chuyển tới cách khối tâm 2 17 lần bán kính của nó khi tất cả các hành tinh lớn đều thẳng hàng về một phía mô men động lượng quỹ đạo của mặt trời và tất cả các hành tinh nhỏ hơn các vệ tinh và các thiên thể nhỏ cùng với mô men động lượng tự quay của tất cả các thiên thể trong hệ kể cả mặt trời tổng cộng chỉ chiếm khoảng 2% sự tự quay của riêng mặt trời chỉ chiếm 0 3% người ta phát hiện ra rằng mô men động lượng của đĩa tiền hành tinh bị sai lệch khi so sánh với các mô hình hiện tại về quá trình hình thành sao mặt trời và các sao khác được các mô hình dự đoán quay nhanh hơn đáng kể so với thực tế == xem thêm == bullet sự hình thành và tiến hóa của hệ mặt trời
Untergruppenbach
Untergruppenbach () là một đô thị nằm ở huyện Heilbronn thuộc bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây bao gồm 6 ngôi làng với dân số khoảng 7,600 người. Khoảng 5,100 người sống ở các làng Untergruppenbach, Donnbronn và Obergruppenbach. Khoảng 2,500 sống ở các làng Unterheinriet, Oberheinriet và Vorhof.
untergruppenbach là một đô thị nằm ở huyện heilbronn thuộc bang baden-württemberg đức nơi đây bao gồm 6 ngôi làng với dân số khoảng 7 600 người khoảng 5 100 người sống ở các làng untergruppenbach donnbronn và obergruppenbach khoảng 2 500 sống ở các làng unterheinriet oberheinriet và vorhof
Julien Ponceau
Julien Ponceau Lê Công Vinh
julien ponceau lê công vinh
Các sao cố định
Các sao cố định hay các sao nền là một thuật ngữ bắt nguồn từ thời cổ để chỉ các ngôi sao mà dường như không thay đổi vị trí trên bầu trời và vị trí tương đối của chúng với nhau, trái ngược với các "sao lang thang" tức là các hành tinh. Khoảng 3.000 tới 6.000 ngôi sao cố định có thể được trông thấy bằng mắt thường trên khắp bầu trời, nhưng chỉ gần một nửa trong số chúng là có thể được trông thấy tại cùng một thời điểm trên một địa điểm trên Trái Đất. Chúng là các sao thuộc dải Ngân Hà và với những khoảng cách khác nhau tới Trái Đất. Tuy nhiên, hầu hết trong số ước tính 100 tỉ sao trong dải Ngân Hà là không thể thấy bằng mắt thường bởi vì chúng không đủ sáng, ở quá xa, hoặc bị che khuất bởi các thiên thể khác. == Tên gọi và ý nghĩa trong lịch sử. == Các ngôi sao cố định cấu thành nên các chòm sao mà chúng ta biết từ vị trí tương đối giữa chúng, dường như không thay đổi với mắt thường. Nền của toàn bộ các "sao cố định" này có sự chuyển động biểu kiến quan sát được trong suốt thời gian một đêm hoặc một năm từ đông sang tây, dọc trên vòm trời nhìn từ Trái Đất là do sự tự quay quanh trục của nó hoặc quỹ đạo quanh Mặt Trời. Trong các tài liệu cổ tiếng Hy
các sao cố định hay các sao nền là một thuật ngữ bắt nguồn từ thời cổ để chỉ các ngôi sao mà dường như không thay đổi vị trí trên bầu trời và vị trí tương đối của chúng với nhau trái ngược với các sao lang thang tức là các hành tinh khoảng 3 000 tới 6 000 ngôi sao cố định có thể được trông thấy bằng mắt thường trên khắp bầu trời nhưng chỉ gần một nửa trong số chúng là có thể được trông thấy tại cùng một thời điểm trên một địa điểm trên trái đất chúng là các sao thuộc dải ngân hà và với những khoảng cách khác nhau tới trái đất tuy nhiên hầu hết trong số ước tính 100 tỉ sao trong dải ngân hà là không thể thấy bằng mắt thường bởi vì chúng không đủ sáng ở quá xa hoặc bị che khuất bởi các thiên thể khác == tên gọi và ý nghĩa trong lịch sử == các ngôi sao cố định cấu thành nên các chòm sao mà chúng ta biết từ vị trí tương đối giữa chúng dường như không thay đổi với mắt thường nền của toàn bộ các sao cố định này có sự chuyển động biểu kiến quan sát được trong suốt thời gian một đêm hoặc một năm từ đông sang tây dọc trên vòm trời nhìn từ trái đất là do sự tự quay quanh trục của nó hoặc quỹ đạo quanh mặt trời trong các tài liệu cổ tiếng hy
Các sao cố định
đông sang tây, dọc trên vòm trời nhìn từ Trái Đất là do sự tự quay quanh trục của nó hoặc quỹ đạo quanh Mặt Trời. Trong các tài liệu cổ tiếng Hy Lạp về các chòm sao và hiện tượng thiên văn, chỉ có từ "sao" ("astra") được đề cập đến, chẳng hạn trong "Phaenomena" của Aratus ở thế kỷ 3 TCN. Sau đó, tất cả các thiên thể sáng đều được gọi là sao ("stellae)" bởi các tác giả , tuy nhiên các hành tinh được phân biệt là sao di chuyển ("errantia") so với các sao được gắn ("adfixa") trên nền trời. Các giao hội của một hành tinh và chòm sao riêng lẻ đã được quan sát bằng mắt thường từ rất lâu, và đã được đề cập đến bởi Aristotle ở thế kỷ thứ 4 TCN trong tác phẩm của ông "Meteorologica" (Μετεωρολογικῶν). Sự phân biệt giữa những khái niệm này ngày càng được phổ biến. Claudius Ptolemy viết trong Almagest (sách 7, chương 1) rằng một số sao nhất định có vị trí tương đối vĩnh viễn không thay đổi. Các tác giả phương Tây thời trung đại chấp thuận khái niệm này và đưa vào các ngôn ngữ thuật ngữ "sao cố định" ("fixed star, Fixstern"). Trong công trình của mình "De revolutionibus", Copernicus cũng đã phân biệt "fixae stellae" với "errantes"; một cách tương tự "Astronomia Nova" của Johannes Kepler, phân biệt "sphaera Fixarum" với "planetae". Cũng trong giữa thế kỷ 18, Immanuel Kant sử dụng thuật ngữ sao "cố
đông sang tây dọc trên vòm trời nhìn từ trái đất là do sự tự quay quanh trục của nó hoặc quỹ đạo quanh mặt trời trong các tài liệu cổ tiếng hy lạp về các chòm sao và hiện tượng thiên văn chỉ có từ sao astra được đề cập đến chẳng hạn trong phaenomena của aratus ở thế kỷ 3 tcn sau đó tất cả các thiên thể sáng đều được gọi là sao stellae bởi các tác giả tuy nhiên các hành tinh được phân biệt là sao di chuyển errantia so với các sao được gắn adfixa trên nền trời các giao hội của một hành tinh và chòm sao riêng lẻ đã được quan sát bằng mắt thường từ rất lâu và đã được đề cập đến bởi aristotle ở thế kỷ thứ 4 tcn trong tác phẩm của ông meteorologica μετεωρολογικῶν sự phân biệt giữa những khái niệm này ngày càng được phổ biến claudius ptolemy viết trong almagest sách 7 chương 1 rằng một số sao nhất định có vị trí tương đối vĩnh viễn không thay đổi các tác giả phương tây thời trung đại chấp thuận khái niệm này và đưa vào các ngôn ngữ thuật ngữ sao cố định fixed star fixstern trong công trình của mình de revolutionibus copernicus cũng đã phân biệt fixae stellae với errantes một cách tương tự astronomia nova của johannes kepler phân biệt sphaera fixarum với planetae cũng trong giữa thế kỷ 18 immanuel kant sử dụng thuật ngữ sao cố
Các sao cố định
stellae" với "errantes"; một cách tương tự "Astronomia Nova" của Johannes Kepler, phân biệt "sphaera Fixarum" với "planetae". Cũng trong giữa thế kỷ 18, Immanuel Kant sử dụng thuật ngữ sao "cố định" để chỉ các sao theo nghĩa ngày nay trong công trình "Allgemeine Naturgeschichte und Theorie des Himmels". Cách dùng các thuật ngữ vẫn không thay đổi cho đến nửa cuối thế kỷ 19, khi ngành vật lý thiên văn được phát triển, sử dụng các phương pháp phân tích quang phổ, phép trắc quang, và chụp ảnh để nghiên cứu các thiên thể. Thuật ngữ "sao cố định" của thiên văn quan sát cổ điển đã được thay thế, chỉ đơn giản là "sao". Tuy nhiên, sự thay đổi này diễn ra chậm và không nhất quán. Nhà vật lý và thiên văn học Karl Friedrich Zöllner, chẳng hạn, chủ yếu dùng từ "sao" trong công trình quan trọng của ông về phép trắc quang thiên thể, "Grundzüge der allgemeinen Photometrie des Himmels" (1861), nhưng vẫn nhắc đến "sao cố định" trong một câu đặt vấn đề. Ngày nay, thuật ngữ "sao cố định" được sử dụng trong ngữ cảnh lịch sử và khi xét về các chòm sao. Trong niên giám thiên văn "Kosmos Himmelsjahr", xuất bản hàng năm bởi Hans-Ulrich Keller từ năm 1982, đề từ "Fixsternhimmel" hay "bầu trời sao cố định" vẫn được sử dụng cho một trong những chuyên mục hàng tháng. == Trong cơ học cổ điển. == Trong cơ học của Newton, nền của các sao cố định được chọn
stellae với errantes một cách tương tự astronomia nova của johannes kepler phân biệt sphaera fixarum với planetae cũng trong giữa thế kỷ 18 immanuel kant sử dụng thuật ngữ sao cố định để chỉ các sao theo nghĩa ngày nay trong công trình allgemeine naturgeschichte und theorie des himmels cách dùng các thuật ngữ vẫn không thay đổi cho đến nửa cuối thế kỷ 19 khi ngành vật lý thiên văn được phát triển sử dụng các phương pháp phân tích quang phổ phép trắc quang và chụp ảnh để nghiên cứu các thiên thể thuật ngữ sao cố định của thiên văn quan sát cổ điển đã được thay thế chỉ đơn giản là sao tuy nhiên sự thay đổi này diễn ra chậm và không nhất quán nhà vật lý và thiên văn học karl friedrich zöllner chẳng hạn chủ yếu dùng từ sao trong công trình quan trọng của ông về phép trắc quang thiên thể grundzüge der allgemeinen photometrie des himmels 1861 nhưng vẫn nhắc đến sao cố định trong một câu đặt vấn đề ngày nay thuật ngữ sao cố định được sử dụng trong ngữ cảnh lịch sử và khi xét về các chòm sao trong niên giám thiên văn kosmos himmelsjahr xuất bản hàng năm bởi hans-ulrich keller từ năm 1982 đề từ fixsternhimmel hay bầu trời sao cố định vẫn được sử dụng cho một trong những chuyên mục hàng tháng == trong cơ học cổ điển == trong cơ học của newton nền của các sao cố định được chọn
Các sao cố định
cố định" vẫn được sử dụng cho một trong những chuyên mục hàng tháng. == Trong cơ học cổ điển. == Trong cơ học của Newton, nền của các sao cố định được chọn là hệ quy chiếu được coi là đứng yên so với không gian tuyệt đối. Trong các hệ quy chiếu đứng yên hoặc tịnh tiến đều so với các sao cố định, các định luật chuyển động của Newton được nghiệm đúng. Trái lại, trong các hệ quy chiếu có gia tốc hoặc quay đối với các sao cố định, các định luật chuyển động ở dạng đơn giản nhất không được nghiệm đúng, mà phải bổ sung thêm các lực ảo hay lực quán tính, chẳng hạn lực ly tâm và lực Coriolis. Tuy nhiên chúng ta ngày nay đã biết rằng các "sao cố định" không thực sự "cố định". Khái niệm hệ quy chiếu quán tính không còn gắn với các sao cố định, và không gian tuyệt đối là không đúng theo vật lý hiện đại. Thay vào đó, sự định nghĩa của hệ quy chiếu quán tính chỉ được dựa trên sự đơn giản hóa của các định luật vật lý trong hệ, cụ thể là không có các lực quán tính. Định luật quán tính đúng với hệ tọa độ Galileo cổ điển, tức là một hệ giả định so với các sao thực sự cố định. == Sự di chuyển thực tế. == Trên thực tế, trái ngược với tên của chúng, các sao cố định cũng có chuyển động của
cố định vẫn được sử dụng cho một trong những chuyên mục hàng tháng == trong cơ học cổ điển == trong cơ học của newton nền của các sao cố định được chọn là hệ quy chiếu được coi là đứng yên so với không gian tuyệt đối trong các hệ quy chiếu đứng yên hoặc tịnh tiến đều so với các sao cố định các định luật chuyển động của newton được nghiệm đúng trái lại trong các hệ quy chiếu có gia tốc hoặc quay đối với các sao cố định các định luật chuyển động ở dạng đơn giản nhất không được nghiệm đúng mà phải bổ sung thêm các lực ảo hay lực quán tính chẳng hạn lực ly tâm và lực coriolis tuy nhiên chúng ta ngày nay đã biết rằng các sao cố định không thực sự cố định khái niệm hệ quy chiếu quán tính không còn gắn với các sao cố định và không gian tuyệt đối là không đúng theo vật lý hiện đại thay vào đó sự định nghĩa của hệ quy chiếu quán tính chỉ được dựa trên sự đơn giản hóa của các định luật vật lý trong hệ cụ thể là không có các lực quán tính định luật quán tính đúng với hệ tọa độ galileo cổ điển tức là một hệ giả định so với các sao thực sự cố định == sự di chuyển thực tế == trên thực tế trái ngược với tên của chúng các sao cố định cũng có chuyển động của
Các sao cố định
định so với các sao thực sự cố định. == Sự di chuyển thực tế. == Trên thực tế, trái ngược với tên của chúng, các sao cố định cũng có chuyển động của riêng chúng, tức là một sự chuyển động biểu kiến trên thiên cầu so với các sao xung quanh. James Bradley cũng đã phát hiện một sự dịch chuyển biểu kiến gọi là quang sai vào những năm 1725–1728. Bởi vì khoảng cách rất lớn của chúng, sự thay đổi vị trí của một sao cố định là hầu như không thể nhận thấy được đối với mắt thường, ngay cả sau vài thế kỷ. Ngôi sao với chuyển động riêng nhanh nhất được biết đến nay được gọi là Sao Barnard; nó thay đổi vị trí tới 0,3° mỗi thế kỷ, nhưng không dễ quan sát được nó với mắt thường. Một hiệu ứng khác bắt nguồn từ tầm nhìn thay đổi khi Trái Đất quay quanh Mặt Trời. Do đó, một sao cố định được chiếu lên thiên cầu từ những điểm khác nhau trên quỹ đạo của Trái Đất trong suốt thời gian một năm và được thấy vạch ra một hình elip nhỏ. Hiệu ứng này được đo bởi góc thị sai, tức là góc giữa hai đường ngắm đến từ hai nơi quan sát khác nhau. == Xem thêm. == BULLET::::- Cấp sao biểu kiến BULLET::::- Vị trí ngôi sao == Tham khảo. == === Tham khảo sách. === BULLET::::- Jürgen Hamel: "Meilensteine der Astronomie", Stuttgart 2006 BULLET::::- Hans-Ulrich Keller: "Wörterbuch der Astronomie", Stuttgart 2004 BULLET::::- Helmut Zimmermann,
định so với các sao thực sự cố định == sự di chuyển thực tế == trên thực tế trái ngược với tên của chúng các sao cố định cũng có chuyển động của riêng chúng tức là một sự chuyển động biểu kiến trên thiên cầu so với các sao xung quanh james bradley cũng đã phát hiện một sự dịch chuyển biểu kiến gọi là quang sai vào những năm 1725–1728 bởi vì khoảng cách rất lớn của chúng sự thay đổi vị trí của một sao cố định là hầu như không thể nhận thấy được đối với mắt thường ngay cả sau vài thế kỷ ngôi sao với chuyển động riêng nhanh nhất được biết đến nay được gọi là sao barnard nó thay đổi vị trí tới 0 3° mỗi thế kỷ nhưng không dễ quan sát được nó với mắt thường một hiệu ứng khác bắt nguồn từ tầm nhìn thay đổi khi trái đất quay quanh mặt trời do đó một sao cố định được chiếu lên thiên cầu từ những điểm khác nhau trên quỹ đạo của trái đất trong suốt thời gian một năm và được thấy vạch ra một hình elip nhỏ hiệu ứng này được đo bởi góc thị sai tức là góc giữa hai đường ngắm đến từ hai nơi quan sát khác nhau == xem thêm == bullet cấp sao biểu kiến bullet vị trí ngôi sao == tham khảo == === tham khảo sách === bullet jürgen hamel meilensteine der astronomie stuttgart 2006 bullet hans-ulrich keller wörterbuch der astronomie stuttgart 2004 bullet helmut zimmermann
Các sao cố định
== BULLET::::- Cấp sao biểu kiến BULLET::::- Vị trí ngôi sao == Tham khảo. == === Tham khảo sách. === BULLET::::- Jürgen Hamel: "Meilensteine der Astronomie", Stuttgart 2006 BULLET::::- Hans-Ulrich Keller: "Wörterbuch der Astronomie", Stuttgart 2004 BULLET::::- Helmut Zimmermann, Joachim Gürtler: "ABC Astronomie", Heidelberg 2008
== bullet cấp sao biểu kiến bullet vị trí ngôi sao == tham khảo == === tham khảo sách === bullet jürgen hamel meilensteine der astronomie stuttgart 2006 bullet hans-ulrich keller wörterbuch der astronomie stuttgart 2004 bullet helmut zimmermann joachim gürtler abc astronomie heidelberg 2008
Bồng Hạ
Bồng Hạ là một ngôi làng thuộc xã Vĩnh Minh, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc xã Minh Tân), nằm ở vùng trung lưu, phía tả ngạn bên dòng sông Mã. Bồng Hạ là trung tâm buôn bán, dịch vụ cho một vùng quê rộng lớn trong huyện Vĩnh Lộc, và hiện được quy hoạch cùng các làng Bồng Thượng, Bồng Trung để tạo lập khu đô thị Bồng (trung tâm của tiểu vùng II huyện Vĩnh Lộc). Làng nằm ở khu vực trung tâm xã Vĩnh Minh, phía Tây giáp với làng Bồng Thôn, phía Đông giáp làng Mai Vực, phía Bắc là đồng ruộng, phía Nam giáp sông Mã. == Lịch sử. == Vùng đất Bồng đã được xác lập từ xưa vào khoảng thế kỉ XIV và được tái lập vào đầu triều Lê sơ gồm làng Bồng Trung, Bồng Thượng, Bồng Hạ, nằm ở phía Đông huyện Vĩnh Lộc trên bờ Bắc sông Mã, phía Nam sông Mã là huyện Yên Định. Với những tên gọi là "Thượng", “ Trung”, “Hạ” là để phân biệt vị trí của làng theo cách định vị dân gian bởi ba làng Bồng cùng nằm ở bờ Bắc sông Mã: Làng Bồng Thượng ở phía trên (về phía trung tâm Thị trấn Vĩnh Lộc), Bồng Trung ở giữa, Bồng Hạ ở phía dưới (theo dòng chảy của sông Mã). Làng Bồng Trung nằm giữa làng Bồng Thượng và làng Bồng Hạ, trước đây ranh giới của các làng thường không rõ ràng. Ba làng Bồng
bồng hạ là một ngôi làng thuộc xã vĩnh minh huyện vĩnh lộc tỉnh thanh hóa nay thuộc xã minh tân nằm ở vùng trung lưu phía tả ngạn bên dòng sông mã bồng hạ là trung tâm buôn bán dịch vụ cho một vùng quê rộng lớn trong huyện vĩnh lộc và hiện được quy hoạch cùng các làng bồng thượng bồng trung để tạo lập khu đô thị bồng trung tâm của tiểu vùng ii huyện vĩnh lộc làng nằm ở khu vực trung tâm xã vĩnh minh phía tây giáp với làng bồng thôn phía đông giáp làng mai vực phía bắc là đồng ruộng phía nam giáp sông mã == lịch sử == vùng đất bồng đã được xác lập từ xưa vào khoảng thế kỉ xiv và được tái lập vào đầu triều lê sơ gồm làng bồng trung bồng thượng bồng hạ nằm ở phía đông huyện vĩnh lộc trên bờ bắc sông mã phía nam sông mã là huyện yên định với những tên gọi là thượng “ trung” “hạ” là để phân biệt vị trí của làng theo cách định vị dân gian bởi ba làng bồng cùng nằm ở bờ bắc sông mã làng bồng thượng ở phía trên về phía trung tâm thị trấn vĩnh lộc bồng trung ở giữa bồng hạ ở phía dưới theo dòng chảy của sông mã làng bồng trung nằm giữa làng bồng thượng và làng bồng hạ trước đây ranh giới của các làng thường không rõ ràng ba làng bồng
Bồng Hạ
(theo dòng chảy của sông Mã). Làng Bồng Trung nằm giữa làng Bồng Thượng và làng Bồng Hạ, trước đây ranh giới của các làng thường không rõ ràng. Ba làng Bồng nằm ở khu vực trung tâm của châu thổ sông Mã cận kề Ngã Ba Bông (nơi sông Mã phân nhánh đẻ về với Biển). Là vùng nằm trong khu vực đồng bằng sông Mã nhưng cảnh quan thiên nhiên, điều kiện tự nhiên vùng đất Bồng khá đa dạng và phong phú. Đến giữa cuối thế kỷ XIX, vào thời vua Tự Đức triều Nguyễn, vùng đất Bồng được đổi tên gộp thành Tổng (Tổng Biện Thượng gồm có 9 xã, thôn, vạn gồm: Biện Thượng, Đông Biện, Biện Hạ, Mai Vực, Đa Bút, Bản Thủy,Thọ Lộc, Kim Sơn và Vạn Biện Thượng) và đổi tên Biện Thượng thành Bồng Thượng. Đến năm 1885 khi vua Hàm Nghi lên ngôi Hoàng đế thì cho đổi Biện Hạ thành Bồng Hạ, Đông Biện thành Bồng Trung và Tổng Biện Thượng đổi thành Tổng Bồng Thượng. Lý do đổi là do chữ "Biện" cùng tên húy của vị tổ dòng họ Nguyễn Phúc. Khi cách mạng tháng Tám năm 1945 nổ ra, dưới sự kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dân vùng đất Bồng nổi lên giành chính quyền sau đó thì chính quyền cách mạng quy định tên gọi và địa giới hành chính của xã là xã Hùng Lĩnh, đến tháng 6/ 1946 đổi tên là xã Vĩnh Hùng, xã lúc này
theo dòng chảy của sông mã làng bồng trung nằm giữa làng bồng thượng và làng bồng hạ trước đây ranh giới của các làng thường không rõ ràng ba làng bồng nằm ở khu vực trung tâm của châu thổ sông mã cận kề ngã ba bông nơi sông mã phân nhánh đẻ về với biển là vùng nằm trong khu vực đồng bằng sông mã nhưng cảnh quan thiên nhiên điều kiện tự nhiên vùng đất bồng khá đa dạng và phong phú đến giữa cuối thế kỷ xix vào thời vua tự đức triều nguyễn vùng đất bồng được đổi tên gộp thành tổng tổng biện thượng gồm có 9 xã thôn vạn gồm biện thượng đông biện biện hạ mai vực đa bút bản thủy thọ lộc kim sơn và vạn biện thượng và đổi tên biện thượng thành bồng thượng đến năm 1885 khi vua hàm nghi lên ngôi hoàng đế thì cho đổi biện hạ thành bồng hạ đông biện thành bồng trung và tổng biện thượng đổi thành tổng bồng thượng lý do đổi là do chữ biện cùng tên húy của vị tổ dòng họ nguyễn phúc khi cách mạng tháng tám năm 1945 nổ ra dưới sự kêu gọi của chủ tịch hồ chí minh nhân dân vùng đất bồng nổi lên giành chính quyền sau đó thì chính quyền cách mạng quy định tên gọi và địa giới hành chính của xã là xã hùng lĩnh đến tháng 6 1946 đổi tên là xã vĩnh hùng xã lúc này
Bồng Hạ
chính quyền cách mạng quy định tên gọi và địa giới hành chính của xã là xã Hùng Lĩnh, đến tháng 6/ 1946 đổi tên là xã Vĩnh Hùng, xã lúc này gồm hai làng là Bồng Thượng và Việt Yên. Các làng thuộc xã Vĩnh Minh và Vĩnh Tân nay thành lập nên xã Duy Tân, sau đó đến 4/1954 xã Duy Tân lại tách thành hai xã Vĩnh Tân ( gồm làng Bồng Trung và Đa Bút) và Vĩnh Minh ( gồm 3 làng Bồng Thôn, Bồng Hạ, Mai Vực). Đến ngày 1/12/2019, theo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hai xã Vĩnh Minh và Vĩnh Tân sáp nhập với nhau thành xã Minh Tân (bao gồm cả làng Bồng Trung, Bồng Hạ, Đa Bút, Mai Vực, Bồng Thôn). Làng Bồng Hạ trước đây chia thành hai thôn là Lại thôn và Thị thôn, hiện tại được chia làm hai thôn là thôn 6 và thôn 7. == Kinh tế - xã hội. == Làng Bồng Hạ có hơn 20 dòng họ sinh cư lập nghiệp gồm các họ lớn là họ Trịnh ( có tới 10 chi họ), họ Nguyễn ( có 9 chi họ), họ Hoàng ( có 5 chi họ), họ Trần (có 3 chi họ) ngoài ra còn có một số họ khác như: họ Vũ, họ Phạm, họ Lê, họ Lưu, họ Lâm, họ Cao,… Một trong những dòng họ đến đây sớm nhất để sinh cư lập nghiệp là họ Trịnh với chi Trịnh Tất, theo giả
chính quyền cách mạng quy định tên gọi và địa giới hành chính của xã là xã hùng lĩnh đến tháng 6 1946 đổi tên là xã vĩnh hùng xã lúc này gồm hai làng là bồng thượng và việt yên các làng thuộc xã vĩnh minh và vĩnh tân nay thành lập nên xã duy tân sau đó đến 4 1954 xã duy tân lại tách thành hai xã vĩnh tân gồm làng bồng trung và đa bút và vĩnh minh gồm 3 làng bồng thôn bồng hạ mai vực đến ngày 1 12 2019 theo nghị quyết của ủy ban thường vụ quốc hội hai xã vĩnh minh và vĩnh tân sáp nhập với nhau thành xã minh tân bao gồm cả làng bồng trung bồng hạ đa bút mai vực bồng thôn làng bồng hạ trước đây chia thành hai thôn là lại thôn và thị thôn hiện tại được chia làm hai thôn là thôn 6 và thôn 7 == kinh tế xã hội == làng bồng hạ có hơn 20 dòng họ sinh cư lập nghiệp gồm các họ lớn là họ trịnh có tới 10 chi họ họ nguyễn có 9 chi họ họ hoàng có 5 chi họ họ trần có 3 chi họ ngoài ra còn có một số họ khác như họ vũ họ phạm họ lê họ lưu họ lâm họ cao … một trong những dòng họ đến đây sớm nhất để sinh cư lập nghiệp là họ trịnh với chi trịnh tất theo giả
Bồng Hạ
Phạm, họ Lê, họ Lưu, họ Lâm, họ Cao,… Một trong những dòng họ đến đây sớm nhất để sinh cư lập nghiệp là họ Trịnh với chi Trịnh Tất, theo giả phả ghi chép lại thì họ Nguyễn cũng là một trong những dòng họ có mặt ở đây sớm. Với vị trí địa lý thuận lợi nên làng là trung tâm mua bán của xã Minh Tân tại chợ Cung, cơ sở khám chữa bệnh cho Nhân dân năm xã miền xuôi (Minh Tân, Vĩnh Hùng, Vĩnh Thịnh, Vĩnh An) là Phòng khám đa khoa huyện Vĩnh Lộc khu vực Vĩnh Minh cũng được đặt tại làng, điểm giao dịch của Bưu điện, Ngân hàng Agribank, các cơ sở giáo dục của xã... Di tích lịch sử được công nhận: Đình Làng Bồng Hạ, Nghè Cung. Di tích đình Bồng Hạ đặt tại trung tâm làng (Bồng Hạ), ngoảnh mặt hướng Đông. So với nhiều đình làng thời Nguyễn, đình Bồng Hạ có lịch sử khởi dựng khá muộn (năm 1940). Đình làng Bồng Hạ là nơi thờ Thành hoàng làng Linh Lang Thượng đẳng thần. Theo truyền thuyết, vị thần Linh Lang là con thứ 4 của vua Lý, có công trong việc đánh thắng giặc ngoại xâm đã hi sinh trong cuộc chiến chống nhà Tống xâm lược xưa kia (giai đoạn 1075-1077). Hiện nay, đình còn kết hợp thờ anh hùng liệt sĩ, mẹ Việt Nam anh hùng. Hằng năm vào ngày rằm tháng Giêng làng đều tổ chức lễ rước linh
phạm họ lê họ lưu họ lâm họ cao … một trong những dòng họ đến đây sớm nhất để sinh cư lập nghiệp là họ trịnh với chi trịnh tất theo giả phả ghi chép lại thì họ nguyễn cũng là một trong những dòng họ có mặt ở đây sớm với vị trí địa lý thuận lợi nên làng là trung tâm mua bán của xã minh tân tại chợ cung cơ sở khám chữa bệnh cho nhân dân năm xã miền xuôi minh tân vĩnh hùng vĩnh thịnh vĩnh an là phòng khám đa khoa huyện vĩnh lộc khu vực vĩnh minh cũng được đặt tại làng điểm giao dịch của bưu điện ngân hàng agribank các cơ sở giáo dục của xã di tích lịch sử được công nhận đình làng bồng hạ nghè cung di tích đình bồng hạ đặt tại trung tâm làng bồng hạ ngoảnh mặt hướng đông so với nhiều đình làng thời nguyễn đình bồng hạ có lịch sử khởi dựng khá muộn năm 1940 đình làng bồng hạ là nơi thờ thành hoàng làng linh lang thượng đẳng thần theo truyền thuyết vị thần linh lang là con thứ 4 của vua lý có công trong việc đánh thắng giặc ngoại xâm đã hi sinh trong cuộc chiến chống nhà tống xâm lược xưa kia giai đoạn 1075-1077 hiện nay đình còn kết hợp thờ anh hùng liệt sĩ mẹ việt nam anh hùng hằng năm vào ngày rằm tháng giêng làng đều tổ chức lễ rước linh
Bồng Hạ
đoạn 1075-1077). Hiện nay, đình còn kết hợp thờ anh hùng liệt sĩ, mẹ Việt Nam anh hùng. Hằng năm vào ngày rằm tháng Giêng làng đều tổ chức lễ rước linh đình từ Nghè Cung về đình làng Bồng Hạ.
đoạn 1075-1077 hiện nay đình còn kết hợp thờ anh hùng liệt sĩ mẹ việt nam anh hùng hằng năm vào ngày rằm tháng giêng làng đều tổ chức lễ rước linh đình từ nghè cung về đình làng bồng hạ
Nguyễn Hữu Chung
Nguyễn Hữu Chung
nguyễn hữu chung
Trường Phổ quát học Columbia
Trường Phổ quát học Columbia (tiếng anh: "Columbia University School of General Studies", viết tắt là GS) là trường giáo dục thường xuyên của Viện Đại học Columbia. Khác với các chương trình chính quy của Columbia, GS hướng đến đối tượng phi truyền thống như cựu chiến binh, người lớn tuổi, sinh viên các trường cao đẳng cộng đồng cũng như học sinh đã nghỉ học ít nhất một năm. GS tọa lạc tại khuôn viên chính của Đại học Columbia ở Morningside Heights, New York. Số học sinh của trường chiếm gần 1/3 tổng số sinh viên theo học bậc cử nhân tại Columbia. GS cũng có các chương trình bằng kép với một số trường liên kết như Chủng viện Thần học Do thái, Viện Nghiên cứu Chính trị Paris, Cao đẳng Trinity Dublin, và Đại học Thành phố Hồng Kông. Trường cũng cung cấp Chương trình Y khoa Dự bị sau đại học. Sinh viên của GS được cấp bằng do Chủ tịch Đại học Columbia ký tên nhưng được viết bằng tiếng Anh chứ không phải tiếng Latinh như chương trình chính quy của Đại học Columbia. Tỉ lệ trúng tuyển vào Trường Phổ quát học là 35% trong khi chuơng trình chính quy của Columbia có tỉ lệ chọi chỉ 3.7%. Trường Phổ quát học Columbia có nhiều điểm tuơng đồng với Trường Mở rộng Harvard, vốn có điều kiện trúng tuyển thấp hơn nhiều so với trường chính quy Harvard. Các cựu sinh viên đáng chú ý của GS bao gồm Simon
trường phổ quát học columbia tiếng anh columbia university school of general studies viết tắt là gs là trường giáo dục thường xuyên của viện đại học columbia khác với các chương trình chính quy của columbia gs hướng đến đối tượng phi truyền thống như cựu chiến binh người lớn tuổi sinh viên các trường cao đẳng cộng đồng cũng như học sinh đã nghỉ học ít nhất một năm gs tọa lạc tại khuôn viên chính của đại học columbia ở morningside heights new york số học sinh của trường chiếm gần 1 3 tổng số sinh viên theo học bậc cử nhân tại columbia gs cũng có các chương trình bằng kép với một số trường liên kết như chủng viện thần học do thái viện nghiên cứu chính trị paris cao đẳng trinity dublin và đại học thành phố hồng kông trường cũng cung cấp chương trình y khoa dự bị sau đại học sinh viên của gs được cấp bằng do chủ tịch đại học columbia ký tên nhưng được viết bằng tiếng anh chứ không phải tiếng latinh như chương trình chính quy của đại học columbia tỉ lệ trúng tuyển vào trường phổ quát học là 35% trong khi chuơng trình chính quy của columbia có tỉ lệ chọi chỉ 3 7% trường phổ quát học columbia có nhiều điểm tuơng đồng với trường mở rộng harvard vốn có điều kiện trúng tuyển thấp hơn nhiều so với trường chính quy harvard các cựu sinh viên đáng chú ý của gs bao gồm simon
Trường Phổ quát học Columbia
đồng với Trường Mở rộng Harvard, vốn có điều kiện trúng tuyển thấp hơn nhiều so với trường chính quy Harvard. Các cựu sinh viên đáng chú ý của GS bao gồm Simon Kuznets, Baruj Benacerraf, Louise Glück, Isaac Asimov, JD Salinger, Amelia Earhart, Leonard Cohen và Công chúa Firyal của Jordan.
đồng với trường mở rộng harvard vốn có điều kiện trúng tuyển thấp hơn nhiều so với trường chính quy harvard các cựu sinh viên đáng chú ý của gs bao gồm simon kuznets baruj benacerraf louise glück isaac asimov jd salinger amelia earhart leonard cohen và công chúa firyal của jordan
Hirunkit Changkham
Hirunkit Changkham Hirunkit ChangKham (, hay còn gọi là Nani, sinh ngày 30 tháng 10 năm 1997 là một nam diễn viên, người mẫu người Thái Lan trực thuộc GMMTV.
hirunkit changkham hirunkit changkham hay còn gọi là nani sinh ngày 30 tháng 10 năm 1997 là một nam diễn viên người mẫu người thái lan trực thuộc gmmtv
Lịch sử Madagascar
Lịch sử Madagascar nói về lịch sử quốc đảo Madagascar, nằm trên Ấn Độ Dương ngoài khơi bờ biển phía đông nam Đông Phi, kể từ khi con người bắt đầu xuất hiện trên đảo. Những đề cập lâu đời nhất về Madagascar có lẽ đã xuất hiện trong thư tịch cổ từ thế kỷ 1. Với vị trí nằm trên các tuyến giao thương giữa Ả Rập và bờ biển phía đông lục địa châu Phi, người Ả Rập có lẽ đã biết đến Madagascar vào thế kỷ thứ 4, và đượcmô tả lại vào thế kỷ thứ 10. Người Trung Quốc có thể biết về hòn đảo này vào thế kỷ 11. Người châu Âu đến đảo năm 1500. Những dấu vết cổ xưa nhất của con người ở Madagascar có từ thời đại đồ sắt. Vào thế kỷ 1, những người Nam Đảo đã đặt chân lên đảo. Trong những thế kỷ tiếp theo, dân số trên đảo biến động theo từng gia đoạn. Những sắc dân cập đảo vào các thời điểm khác nhau góp phần tạo nên sự đa dạng sắc tộc. Trước khi người châu Âu xuất hiện, nền kinh tế chính của Madagascar là thương mại, do người Ả Rập định cư ở bờ bắc nắm giữ. Vào thế kỷ 14, tổ tiên Merin (một trong những nhóm dân tộc hiện nay) đến từ Indonesiavà định cư ở trung tâm Madagascar. Từ thế kỷ 15, việc buôn bán nô lệ phát triển. Những người châu Âu đầu tiên xuất hiện là
lịch sử madagascar nói về lịch sử quốc đảo madagascar nằm trên ấn độ dương ngoài khơi bờ biển phía đông nam đông phi kể từ khi con người bắt đầu xuất hiện trên đảo những đề cập lâu đời nhất về madagascar có lẽ đã xuất hiện trong thư tịch cổ từ thế kỷ 1 với vị trí nằm trên các tuyến giao thương giữa ả rập và bờ biển phía đông lục địa châu phi người ả rập có lẽ đã biết đến madagascar vào thế kỷ thứ 4 và đượcmô tả lại vào thế kỷ thứ 10 người trung quốc có thể biết về hòn đảo này vào thế kỷ 11 người châu âu đến đảo năm 1500 những dấu vết cổ xưa nhất của con người ở madagascar có từ thời đại đồ sắt vào thế kỷ 1 những người nam đảo đã đặt chân lên đảo trong những thế kỷ tiếp theo dân số trên đảo biến động theo từng gia đoạn những sắc dân cập đảo vào các thời điểm khác nhau góp phần tạo nên sự đa dạng sắc tộc trước khi người châu âu xuất hiện nền kinh tế chính của madagascar là thương mại do người ả rập định cư ở bờ bắc nắm giữ vào thế kỷ 14 tổ tiên merin một trong những nhóm dân tộc hiện nay đến từ indonesiavà định cư ở trung tâm madagascar từ thế kỷ 15 việc buôn bán nô lệ phát triển những người châu âu đầu tiên xuất hiện là
Lịch sử Madagascar
dân tộc hiện nay) đến từ Indonesiavà định cư ở trung tâm Madagascar. Từ thế kỷ 15, việc buôn bán nô lệ phát triển. Những người châu Âu đầu tiên xuất hiện là người Bồ Đào Nha, trong suốt một thế kỷ đã chọn đảo làm điểm dừng chân trên đường đến Ấn Độ. Vào thế kỷ 17, người Pháp bắt đầu tăng cường vị thế tại Madagascar, coi đây là nguồn cung cấp lao động rẻ mạt phục vụ cho những đồn điền trên các đảo xung quanh. Vào đầu thế kỷ 17 và 18, Madagascar là căn cứ cho hải tặc chuyên săn tìm nô lệ để bán. Sau khi đánh tan thế lực hải tặc, Pháp củng cố vị thế kinh tế và bắt đầu thiết lập các trạm giao thương trên bờ biển, dần dần tiến tới thực dân hóa hòn đảo. Vào đầu thế kỷ 18 và 19, Anh trở thành đối thủ chính trị làm Pháp suy yếu trong cuộc tranh chấp ảnh hưởng ở Madagascar. Nhưng cuối cùng vào năm 1896, Anh chấp nhận sáp nhập để Pháp sáp nhập Madagascar. Tổ chức nhà nước địa phương sớm nhất ở Madagascar xuất hiện vào thế kỷ 17, do các bộ lạc Sakalawa, Betsimasaraka và Merina tập hợp lại. Luật tục bộ lạc và gia tộc không ủng hộ việc thống nhất đến đầu thế kỷ 19 thì lãnh thổ của đảo mới nằm dưới quyền cai trị của vua người Merin. Vào thế kỷ 19, người châu Âu tác động ngày
dân tộc hiện nay đến từ indonesiavà định cư ở trung tâm madagascar từ thế kỷ 15 việc buôn bán nô lệ phát triển những người châu âu đầu tiên xuất hiện là người bồ đào nha trong suốt một thế kỷ đã chọn đảo làm điểm dừng chân trên đường đến ấn độ vào thế kỷ 17 người pháp bắt đầu tăng cường vị thế tại madagascar coi đây là nguồn cung cấp lao động rẻ mạt phục vụ cho những đồn điền trên các đảo xung quanh vào đầu thế kỷ 17 và 18 madagascar là căn cứ cho hải tặc chuyên săn tìm nô lệ để bán sau khi đánh tan thế lực hải tặc pháp củng cố vị thế kinh tế và bắt đầu thiết lập các trạm giao thương trên bờ biển dần dần tiến tới thực dân hóa hòn đảo vào đầu thế kỷ 18 và 19 anh trở thành đối thủ chính trị làm pháp suy yếu trong cuộc tranh chấp ảnh hưởng ở madagascar nhưng cuối cùng vào năm 1896 anh chấp nhận sáp nhập để pháp sáp nhập madagascar tổ chức nhà nước địa phương sớm nhất ở madagascar xuất hiện vào thế kỷ 17 do các bộ lạc sakalawa betsimasaraka và merina tập hợp lại luật tục bộ lạc và gia tộc không ủng hộ việc thống nhất đến đầu thế kỷ 19 thì lãnh thổ của đảo mới nằm dưới quyền cai trị của vua người merin vào thế kỷ 19 người châu âu tác động ngày
Lịch sử Madagascar
thống nhất đến đầu thế kỷ 19 thì lãnh thổ của đảo mới nằm dưới quyền cai trị của vua người Merin. Vào thế kỷ 19, người châu Âu tác động ngày càng nhiều đến vương quốc Imerina khi chiếm được nhiềunhượng địa. Vua Madagascar thống nhất cố gắng ngăn chặn việc phụ thuộc vào các quốc gia châu Âu. Sau những xung với Pháp và Anh, vương quốc Imerina cáo chung và hòn đảo thành thuộc địa Pháp. Đầu thế kỷ 20, các phong trào chủ nghĩa dân tộc ra đời trên đảo, nhằm giành lấy quyền chính trị. Khát vọng giành độc lập của Madagascar càng mãnh liệt sau Thế chiến thứ hai. Pháp nhượng bộ từng bước khi tuyên bố Madagascar là một lãnh thổ hải ngoại và cuối cùng trao trả hoàn toàn chủ quyền vào năm 1960. Madagascar trở thành nước cộng hòa, trải qua bốn thời kỳ. Ngoại trừ thời kỳ thứ nhì theo xã hội chủ nghĩa, còn lại đều theo thể chế dân chủ. Khủng hoảng kinh tế và khác biệt sắc tộc dẫn đến khủng hoảng chính trị, tạo ra những thay đổi mang tính hệ thống. == Lịch sử nghiên cứu Madagascar. == Cái tên "Madagascar" đến từ sai lầm của nhà hàng hải vĩ đại Marco Polo trong thế kỷ 13, ông có viết và mô tả về Mogadishu mà nhầm thành phố này là một hòn đảo. Cái tên Mogadishu bị bóp méo thành Madagascar sau đó được dùng trong các tác phẩm sử học châu Âu.
thống nhất đến đầu thế kỷ 19 thì lãnh thổ của đảo mới nằm dưới quyền cai trị của vua người merin vào thế kỷ 19 người châu âu tác động ngày càng nhiều đến vương quốc imerina khi chiếm được nhiềunhượng địa vua madagascar thống nhất cố gắng ngăn chặn việc phụ thuộc vào các quốc gia châu âu sau những xung với pháp và anh vương quốc imerina cáo chung và hòn đảo thành thuộc địa pháp đầu thế kỷ 20 các phong trào chủ nghĩa dân tộc ra đời trên đảo nhằm giành lấy quyền chính trị khát vọng giành độc lập của madagascar càng mãnh liệt sau thế chiến thứ hai pháp nhượng bộ từng bước khi tuyên bố madagascar là một lãnh thổ hải ngoại và cuối cùng trao trả hoàn toàn chủ quyền vào năm 1960 madagascar trở thành nước cộng hòa trải qua bốn thời kỳ ngoại trừ thời kỳ thứ nhì theo xã hội chủ nghĩa còn lại đều theo thể chế dân chủ khủng hoảng kinh tế và khác biệt sắc tộc dẫn đến khủng hoảng chính trị tạo ra những thay đổi mang tính hệ thống == lịch sử nghiên cứu madagascar == cái tên madagascar đến từ sai lầm của nhà hàng hải vĩ đại marco polo trong thế kỷ 13 ông có viết và mô tả về mogadishu mà nhầm thành phố này là một hòn đảo cái tên mogadishu bị bóp méo thành madagascar sau đó được dùng trong các tác phẩm sử học châu âu
Lịch sử Madagascar
tả về Mogadishu mà nhầm thành phố này là một hòn đảo. Cái tên Mogadishu bị bóp méo thành Madagascar sau đó được dùng trong các tác phẩm sử học châu Âu. Trong tiếng Malagasy, tên đảo nghĩa là "vùng đất tận cùng thế giới". Người châu Âu biết đến Madagascar khoảng sau năm 1500. Năm 1519, lần đầu tiên Dioga Ribeira đưa đảo vào bản đồ. Giữa thế kỷ 17, một trong những đại diện của Công ty Đông Ấn là Étienne de Flacourt đã mô tả địa lý trên đảo qua tác phẩm "Histoire de la grande isle de Madagascar" xuất bản tại Paris năm 1658. Nạn cướp biển hoành hành khiến công tác nghiên cứu đình trệ. Trong thời gian dài chỉ có những thông tin khái quát chung về đảo, bản đồ vị trí các cảng và trạm giao thương của châu Âu. Năm 1776, d'Apres de Mannovillette người Pháp đã vẽ bản đồ chi tiết hơn gồm cả các tọa độ địa lý. Năm 1770–1780, đoàn thám hiểm của nhà nghiên cứu người Pháp Nicolas Mayeure lần đầu tiên tiến sâu vào đảo, trong đoàn đồng hành có Móric Beňovský. Nicolas Mayeure đã mô tả phần phía bắc và trung tâm Madagascar. Còn Beňovský là tác giả của cuốn nhật ký "Lịch sử hành trình và những sự kiện kỳ lạ..." mô tả chi tiết đầu tiên về hòn đảo. Thập niên 1820, thuyền trưởng Hải quân Anh William Fitzwilliam Owen bắt đầu nghiên cứu bờ biển Đông Phi, gồm cả Madagascar. Họ tiến
tả về mogadishu mà nhầm thành phố này là một hòn đảo cái tên mogadishu bị bóp méo thành madagascar sau đó được dùng trong các tác phẩm sử học châu âu trong tiếng malagasy tên đảo nghĩa là vùng đất tận cùng thế giới người châu âu biết đến madagascar khoảng sau năm 1500 năm 1519 lần đầu tiên dioga ribeira đưa đảo vào bản đồ giữa thế kỷ 17 một trong những đại diện của công ty đông ấn là étienne de flacourt đã mô tả địa lý trên đảo qua tác phẩm histoire de la grande isle de madagascar xuất bản tại paris năm 1658 nạn cướp biển hoành hành khiến công tác nghiên cứu đình trệ trong thời gian dài chỉ có những thông tin khái quát chung về đảo bản đồ vị trí các cảng và trạm giao thương của châu âu năm 1776 d apres de mannovillette người pháp đã vẽ bản đồ chi tiết hơn gồm cả các tọa độ địa lý năm 1770–1780 đoàn thám hiểm của nhà nghiên cứu người pháp nicolas mayeure lần đầu tiên tiến sâu vào đảo trong đoàn đồng hành có móric beňovský nicolas mayeure đã mô tả phần phía bắc và trung tâm madagascar còn beňovský là tác giả của cuốn nhật ký lịch sử hành trình và những sự kiện kỳ lạ mô tả chi tiết đầu tiên về hòn đảo thập niên 1820 thuyền trưởng hải quân anh william fitzwilliam owen bắt đầu nghiên cứu bờ biển đông phi gồm cả madagascar họ tiến
Lịch sử Madagascar
mô tả chi tiết đầu tiên về hòn đảo. Thập niên 1820, thuyền trưởng Hải quân Anh William Fitzwilliam Owen bắt đầu nghiên cứu bờ biển Đông Phi, gồm cả Madagascar. Họ tiến hành đo đạc thủy văn bờ biển và vùng nước ven biển. Năm 1833, kết quả nghiên cứu của Owen được công bố trên tạp chí "Narrative of voyages to explore the shores of Africa, Arabia and Madagascar". Thập niên 1830, người Pháp tiến hành những nghiên cứu tương tự. Năm 1846, Louis Édouard Bouët-Willaumez xuất bản tại Paris tác phẩm "Description nautique des côtes de l'Afrique occidentale comprises entre le Sénégal et l'Equateur." Giữa thế kỷ 19, các nhà hàng hải xuất bản ba tác phẩm tại Paris: "Voyage à la còte orientale d'Afrique" (1846), "Documents sur l'histoire, la géographie et le commerce de la partie occidentale de Madagascar" (1845) và "Documents sur l'histoire, la géographie et le commerce de l'Afrique orientale" (1856-1857). Năm 1834, những quả trứng vỡ của chim voi được tìm thấy trên đảo. Flacourt đã đề cập đến loài chim khổng lồ sống ở Madagascar đã được đề cập từ năm 1658, nhưng thế kỷ 19 coi chuyện này là huyền thoại. Phát hiện này khiến Viện Hàn lâm Khoa học Pháp tổ chức thám hiểm khoa học trên đảo. Năm 1865, Alfred Grandidier chỉ huy đoàn thám hiểm tìm kiếm chim voi. Grandidier cho rằng loài này đã bị thợ săn Malagasy và cá sấu làm cho tuyệt chủng. Trong những năm 1865–1870 Grandidier thực hiện 1.500 phép đo bằng
mô tả chi tiết đầu tiên về hòn đảo thập niên 1820 thuyền trưởng hải quân anh william fitzwilliam owen bắt đầu nghiên cứu bờ biển đông phi gồm cả madagascar họ tiến hành đo đạc thủy văn bờ biển và vùng nước ven biển năm 1833 kết quả nghiên cứu của owen được công bố trên tạp chí narrative of voyages to explore the shores of africa arabia and madagascar thập niên 1830 người pháp tiến hành những nghiên cứu tương tự năm 1846 louis édouard bouët-willaumez xuất bản tại paris tác phẩm description nautique des côtes de l afrique occidentale comprises entre le sénégal et l equateur giữa thế kỷ 19 các nhà hàng hải xuất bản ba tác phẩm tại paris voyage à la còte orientale d afrique 1846 documents sur l histoire la géographie et le commerce de la partie occidentale de madagascar 1845 và documents sur l histoire la géographie et le commerce de l afrique orientale 1856-1857 năm 1834 những quả trứng vỡ của chim voi được tìm thấy trên đảo flacourt đã đề cập đến loài chim khổng lồ sống ở madagascar đã được đề cập từ năm 1658 nhưng thế kỷ 19 coi chuyện này là huyền thoại phát hiện này khiến viện hàn lâm khoa học pháp tổ chức thám hiểm khoa học trên đảo năm 1865 alfred grandidier chỉ huy đoàn thám hiểm tìm kiếm chim voi grandidier cho rằng loài này đã bị thợ săn malagasy và cá sấu làm cho tuyệt chủng trong những năm 1865–1870 grandidier thực hiện 1 500 phép đo bằng
Lịch sử Madagascar
hiểm tìm kiếm chim voi. Grandidier cho rằng loài này đã bị thợ săn Malagasy và cá sấu làm cho tuyệt chủng. Trong những năm 1865–1870 Grandidier thực hiện 1.500 phép đo bằng máy kinh vĩ, xác định chính xác vĩ độ 1.885 điểm và tọa độ 28 thị trấn. Ông mô tả đặc điểm địa lý và thủy văn, đặc tính thảm thực vật. Năm 1870, Gardinier khảo sát địa hình học một diệc tích 1.800 km² và đánh dấu trên vị trí hàng nghìn điểm trên bản đồ. Nghiên cứu của ông dẫn đến việc xuất bản các bản đồ tỷ lệ 1: 1.850.000 vào năm 1871. Năm 1874–1875, Shaw tiếp tục công việc của Gardinier và khám phá phần đông nam Madagascar. Năm 1876, Suell mô tả hòn đảo dọc theo tuyến từ Tananariva đến bờ biển phía tây. Cùng năm, James Sibree nghiên cứu các vùng nội địa. Mặt khác, Muillens hiệu chỉnh những quan sát của Gardinier. Năm 1885, Gardinier tổng hợp các kết quả nghiên cứu được thực hiện trong nửa sau của thế kỷ 19 và xuất bản trong chuyên khảo "Histoire physique, naturelle et politique de Madagascar." Cuối thế kỷ 19, song song với các thám hiểm thuộc địa, Pháp còn tổ chức thám hiểm khoa học sâu hơn vào vùng nội địa. Năm 1892, Louis Catat và Casimir Maistre thám hiểm phần đông nam Madagascar. Cùng năm, H. Gautier mô tả hình thế và địa lý của đảo. Trong những năm 1896–1906, các nhà địa hình Pháp đã xuất bản bản
hiểm tìm kiếm chim voi grandidier cho rằng loài này đã bị thợ săn malagasy và cá sấu làm cho tuyệt chủng trong những năm 1865–1870 grandidier thực hiện 1 500 phép đo bằng máy kinh vĩ xác định chính xác vĩ độ 1 885 điểm và tọa độ 28 thị trấn ông mô tả đặc điểm địa lý và thủy văn đặc tính thảm thực vật năm 1870 gardinier khảo sát địa hình học một diệc tích 1 800 km² và đánh dấu trên vị trí hàng nghìn điểm trên bản đồ nghiên cứu của ông dẫn đến việc xuất bản các bản đồ tỷ lệ 1 1 850 000 vào năm 1871 năm 1874–1875 shaw tiếp tục công việc của gardinier và khám phá phần đông nam madagascar năm 1876 suell mô tả hòn đảo dọc theo tuyến từ tananariva đến bờ biển phía tây cùng năm james sibree nghiên cứu các vùng nội địa mặt khác muillens hiệu chỉnh những quan sát của gardinier năm 1885 gardinier tổng hợp các kết quả nghiên cứu được thực hiện trong nửa sau của thế kỷ 19 và xuất bản trong chuyên khảo histoire physique naturelle et politique de madagascar cuối thế kỷ 19 song song với các thám hiểm thuộc địa pháp còn tổ chức thám hiểm khoa học sâu hơn vào vùng nội địa năm 1892 louis catat và casimir maistre thám hiểm phần đông nam madagascar cùng năm h gautier mô tả hình thế và địa lý của đảo trong những năm 1896–1906 các nhà địa hình pháp đã xuất bản bản
Lịch sử Madagascar
thám hiểm phần đông nam Madagascar. Cùng năm, H. Gautier mô tả hình thế và địa lý của đảo. Trong những năm 1896–1906, các nhà địa hình Pháp đã xuất bản bản đồ đảo với tỷ lệ 1: 500 000. Trong giai đoạn 1898-1902, Guillaume Grandidier khám phá phần phía nam và phía tây Madagascar. Đầu thế kỷ 20 đánh dấu thực hiện nghiên cứu hệ động thực vật cũng như địa chất và dân tộc học. Từ năm 1906 thành lập Dịch vụ Địa lý Tananarivo chuyên thực hiện trắc địa, chuẩn bị cho việc hoàn thiện bản đồ tỷ lệ 1:100 000. == Thời kỳ tiền thuộc địa. == Các nhà sử học còn bất đồng về thời điểm khám phá ra Madagascar. Hòn đảo rất có thể đã được đề cập đến trong "Vùng biển Erythras" từ khoảng năm 60. Madagascar nằm trên các giao thương trên biển giữa Ả Rập tiền Hồi giáo và bờ biển phía đông châu Phi. Khả năn lớn là người Ả Rập biết đến hòn đảo vào đầu thế kỷ thứ 4. Trên bờ bắc đảo tìm thấy một đồng xu từ thời Constantinus Đại đế. Nhà du hành Ả Rập Al-Masudi mô tả đất nước Waq Waq trong tác phẩm "Cánh đồng vàng" thế kỷ 10, có giả thiết cho rằng cái tên này ám chỉ đến đảo Madagascar. Còn nhiều nghi vấn về thời điểm Trung Hoa phát hiện ra hòn đảo này. Một văn bản chữ Hán năm 1178 đề cập về việc tồn tại hòn đảo ngoài
thám hiểm phần đông nam madagascar cùng năm h gautier mô tả hình thế và địa lý của đảo trong những năm 1896–1906 các nhà địa hình pháp đã xuất bản bản đồ đảo với tỷ lệ 1 500 000 trong giai đoạn 1898-1902 guillaume grandidier khám phá phần phía nam và phía tây madagascar đầu thế kỷ 20 đánh dấu thực hiện nghiên cứu hệ động thực vật cũng như địa chất và dân tộc học từ năm 1906 thành lập dịch vụ địa lý tananarivo chuyên thực hiện trắc địa chuẩn bị cho việc hoàn thiện bản đồ tỷ lệ 1 100 000 == thời kỳ tiền thuộc địa == các nhà sử học còn bất đồng về thời điểm khám phá ra madagascar hòn đảo rất có thể đã được đề cập đến trong vùng biển erythras từ khoảng năm 60 madagascar nằm trên các giao thương trên biển giữa ả rập tiền hồi giáo và bờ biển phía đông châu phi khả năn lớn là người ả rập biết đến hòn đảo vào đầu thế kỷ thứ 4 trên bờ bắc đảo tìm thấy một đồng xu từ thời constantinus đại đế nhà du hành ả rập al-masudi mô tả đất nước waq waq trong tác phẩm cánh đồng vàng thế kỷ 10 có giả thiết cho rằng cái tên này ám chỉ đến đảo madagascar còn nhiều nghi vấn về thời điểm trung hoa phát hiện ra hòn đảo này một văn bản chữ hán năm 1178 đề cập về việc tồn tại hòn đảo ngoài
Lịch sử Madagascar
Madagascar. Còn nhiều nghi vấn về thời điểm Trung Hoa phát hiện ra hòn đảo này. Một văn bản chữ Hán năm 1178 đề cập về việc tồn tại hòn đảo ngoài khơi rất có thể là Madagascar, nơi thổ dân hoang dã da đen tóc xoăn sinh sống. Họ làm nô lệ "tốt" vì "không nhớ quê" và bán được giá cao cho người Ả Rập. Cho đến thời đồ sắt, Madagascar vẫn là đảo hoang. . Không có dấu vết con người thời đồ đá hiện diện trên đảo. Tuy về mặt địa lý, đảo thuộc châu Phi, nhưng thổ dân trên đảo lại là người gốc Nam Đảo. Vẫn còn những tranh luận về nguồn gốc và thời điểm người Malagasy (chiếm 98% dân số Madagascar) đến đảo. Rất có thể họ là người Indonesia từ đảo Java thuộc Quần đảo Mã Lai (Đông Nam Á) và cập đảo vào thế kỷ 1. Ngoài ra cũng không rõ nguyên nhân tại sao tổ tiên người Malagasy lại rời quê hương cũng như họ đã đi qua tuyến đường biển nào để đến đảo. Giả thuyết về đợt di cư này đã diễn ra qua Ấn Độ, Ceylon, Comoros và dọc theo bờ biển Đông Phi. Kết quả nghiên cứu ngôn ngữ học xác định tiếng Malagasy có liên hệ với nhóm ngôn ngữ Indonesia giúp đưa ra gợi ý nhất định để xác định nguồn gốc ngôn ngữ này. Tuy nhiên, một số từ mượn từ nhómm ngôn ngữ Bantu đã phức tạp hóa công
madagascar còn nhiều nghi vấn về thời điểm trung hoa phát hiện ra hòn đảo này một văn bản chữ hán năm 1178 đề cập về việc tồn tại hòn đảo ngoài khơi rất có thể là madagascar nơi thổ dân hoang dã da đen tóc xoăn sinh sống họ làm nô lệ tốt vì không nhớ quê và bán được giá cao cho người ả rập cho đến thời đồ sắt madagascar vẫn là đảo hoang không có dấu vết con người thời đồ đá hiện diện trên đảo tuy về mặt địa lý đảo thuộc châu phi nhưng thổ dân trên đảo lại là người gốc nam đảo vẫn còn những tranh luận về nguồn gốc và thời điểm người malagasy chiếm 98% dân số madagascar đến đảo rất có thể họ là người indonesia từ đảo java thuộc quần đảo mã lai đông nam á và cập đảo vào thế kỷ 1 ngoài ra cũng không rõ nguyên nhân tại sao tổ tiên người malagasy lại rời quê hương cũng như họ đã đi qua tuyến đường biển nào để đến đảo giả thuyết về đợt di cư này đã diễn ra qua ấn độ ceylon comoros và dọc theo bờ biển đông phi kết quả nghiên cứu ngôn ngữ học xác định tiếng malagasy có liên hệ với nhóm ngôn ngữ indonesia giúp đưa ra gợi ý nhất định để xác định nguồn gốc ngôn ngữ này tuy nhiên một số từ mượn từ nhómm ngôn ngữ bantu đã phức tạp hóa công
Lịch sử Madagascar
Indonesia giúp đưa ra gợi ý nhất định để xác định nguồn gốc ngôn ngữ này. Tuy nhiên, một số từ mượn từ nhómm ngôn ngữ Bantu đã phức tạp hóa công trình nghiên cứu. Vào thập niên 1970, R. K. Kent kết hợp những phát hiện trước đó của các ngành nghiên cứu ngôn ngữ học, dân tộc học và lịch sử để phát triển lý thuyết rằng người Afro-Malagasy (người Malgasy châu Phi) đã sinh sống trên vùng đất ngăn cách giữa eo biển Mozambique trong thiên niên kỷ 1. Ông đồng thời nhấn mạnh vai trò lớn của các dân tộc châu Phi trong quá trình hình thành dân tộc Malagasy. Những người Afro-Malagasy ngoài khơi đã bị người Bantu đến từ phía tây đồng hóa. Mặt khác, người châu Á đến Madagascar cho đến thế kỷ 16. Do đó, tuy còn tồn tại một số yếu tố Afro-Malagasy nhưng tiếng Malagasy vẫn được xếp vào loại ngôn ngữ Châu Á. Dân số Madagascar dần tăng trong thiên niên kỷ 1. Nhà nghiên cứu Kent phân biệt ba thời kỳ người Indonesia di cư đến châu Phi. Ba thời kỳ này không đồng nhất về mặt sắc tộc. Ông gọi thổ dân Malagasy là "lakato" (những người chèo thuyền). Nhóm "lakato" đầu tiên sau khi đến Đông Phi đã tiếp xúc với các bộ lạc Bantu, bắt đầu hình thành nên cộng đồng Afro-Malagasy. Một làn sóng Bantu khác từ nội địa châu Phi tràn đến bờ biển, người Afro-Malagasy buộc phải chạy ra
indonesia giúp đưa ra gợi ý nhất định để xác định nguồn gốc ngôn ngữ này tuy nhiên một số từ mượn từ nhómm ngôn ngữ bantu đã phức tạp hóa công trình nghiên cứu vào thập niên 1970 r k kent kết hợp những phát hiện trước đó của các ngành nghiên cứu ngôn ngữ học dân tộc học và lịch sử để phát triển lý thuyết rằng người afro-malagasy người malgasy châu phi đã sinh sống trên vùng đất ngăn cách giữa eo biển mozambique trong thiên niên kỷ 1 ông đồng thời nhấn mạnh vai trò lớn của các dân tộc châu phi trong quá trình hình thành dân tộc malagasy những người afro-malagasy ngoài khơi đã bị người bantu đến từ phía tây đồng hóa mặt khác người châu á đến madagascar cho đến thế kỷ 16 do đó tuy còn tồn tại một số yếu tố afro-malagasy nhưng tiếng malagasy vẫn được xếp vào loại ngôn ngữ châu á dân số madagascar dần tăng trong thiên niên kỷ 1 nhà nghiên cứu kent phân biệt ba thời kỳ người indonesia di cư đến châu phi ba thời kỳ này không đồng nhất về mặt sắc tộc ông gọi thổ dân malagasy là lakato những người chèo thuyền nhóm lakato đầu tiên sau khi đến đông phi đã tiếp xúc với các bộ lạc bantu bắt đầu hình thành nên cộng đồng afro-malagasy một làn sóng bantu khác từ nội địa châu phi tràn đến bờ biển người afro-malagasy buộc phải chạy ra
Lịch sử Madagascar
các bộ lạc Bantu, bắt đầu hình thành nên cộng đồng Afro-Malagasy. Một làn sóng Bantu khác từ nội địa châu Phi tràn đến bờ biển, người Afro-Malagasy buộc phải chạy ra đảo Madagascar. Làn sóng nhập cư "Lakato" thứ nhì đã làm phân hóa đa dạng một số nhóm dân tộc ở Madagascar và góp phần tạo nên thứ ngôn ngữ Malagasy. Nhóm thứ nhì này mang theo kỹ năng trồng trọt và chăn nuôi gia súc, làm ruộng bậc thang đặc trưng trên sườn núi, xây dựng cự thạch và công sự, cho đến niềm tin thờ cúng tổ tiên, nghi lễ tế thần và phong tục an táng, cả biểu tượng sắc đỏ thể hiện cho quyền lực. Họ đưa vào thể chế những người đứng đầu thôn làng. Nghề nặn gốm trên đảo cũng có khác biệt dù vẫn thấy nhiều nét chung với gốm Bantu. Các dân tộc Vazimba và Arindrano đóng vai trò hàng đầu trong việc hình thành nền văn hóa Malagasy. "Lakato III" diễn ra vào giai đoạn giao thời giữa hai thiên niên kỷ 1 và 2. Nguyên nhân chính cho chuyến di cư này là do kết nối thương mại phát triển trong khu vực. Làn sóng thứ ba rất đa dạng về sắc tộc, văn hóa và tôn giáo. Đa phần là các dân tộc Swahili và Bantu tràn xuống Nam Phi. Vào thời "Lakato III", văn hóa Antalaotra-Swahili xuất hiện ở phía bắc đảo. Nguyên nhân dân Swahili đến Madagascar là do chiến tranh và
các bộ lạc bantu bắt đầu hình thành nên cộng đồng afro-malagasy một làn sóng bantu khác từ nội địa châu phi tràn đến bờ biển người afro-malagasy buộc phải chạy ra đảo madagascar làn sóng nhập cư lakato thứ nhì đã làm phân hóa đa dạng một số nhóm dân tộc ở madagascar và góp phần tạo nên thứ ngôn ngữ malagasy nhóm thứ nhì này mang theo kỹ năng trồng trọt và chăn nuôi gia súc làm ruộng bậc thang đặc trưng trên sườn núi xây dựng cự thạch và công sự cho đến niềm tin thờ cúng tổ tiên nghi lễ tế thần và phong tục an táng cả biểu tượng sắc đỏ thể hiện cho quyền lực họ đưa vào thể chế những người đứng đầu thôn làng nghề nặn gốm trên đảo cũng có khác biệt dù vẫn thấy nhiều nét chung với gốm bantu các dân tộc vazimba và arindrano đóng vai trò hàng đầu trong việc hình thành nền văn hóa malagasy lakato iii diễn ra vào giai đoạn giao thời giữa hai thiên niên kỷ 1 và 2 nguyên nhân chính cho chuyến di cư này là do kết nối thương mại phát triển trong khu vực làn sóng thứ ba rất đa dạng về sắc tộc văn hóa và tôn giáo đa phần là các dân tộc swahili và bantu tràn xuống nam phi vào thời lakato iii văn hóa antalaotra-swahili xuất hiện ở phía bắc đảo nguyên nhân dân swahili đến madagascar là do chiến tranh và
Lịch sử Madagascar
dân tộc Swahili và Bantu tràn xuống Nam Phi. Vào thời "Lakato III", văn hóa Antalaotra-Swahili xuất hiện ở phía bắc đảo. Nguyên nhân dân Swahili đến Madagascar là do chiến tranh và xung đột chia rẽ tại quê hương. Những người mới từ Swahili liền định cư ở phía bắc đảo. Họ duy trì giao thương với Bán đảo Ả Rập và Swahili. Họ cũng để lại dấu vết sinh sống tại phía tây nam hòn đảo. Người Ả Rập xuất hiện trên đảo vào thế kỷ 10-11. Văn bản chữ Ả Rập thế kỷ 12 có nhắc đến Djesire Comor, rất có thể để chỉ về Madagascar, từ này có nghĩa là "Đảo của người Indonesia". Người Ả Rập mà tiếng Bồ Đào Nha gọi là "poleis" đã thành lập các khu dân cư ở phía tây bắc đảo. Họ chủ yếu tập trung vào buôn bán và sản xuất. Họ sống chủ yếu trên các đảo xung quanh còn sở hữu các đồn điền trồng lúa ở Madagascar. "Poleis" duy trì mối quan hệ giao thương với Mogadishu, Malindi và Kilwa (qua bằng chứng khảo cổ học). Một trong những thành lớn nhất và giàu có nhất Lulungane trên đảo Nosi Manju. Người dân Lulungane nhập vải và quặng từ Đông Phi. Ngược lại, họ bán gạo từ đồn điền cũng như gia súc và sáp ong của Malagasy. Nô lệ người Phi lao động trên đồng lúa. Năm 1507, Bồ Đào Nha chinh phục Lulungane. Sang thế kỷ 14-15, thành Iharana (nay là Vohémar) của
dân tộc swahili và bantu tràn xuống nam phi vào thời lakato iii văn hóa antalaotra-swahili xuất hiện ở phía bắc đảo nguyên nhân dân swahili đến madagascar là do chiến tranh và xung đột chia rẽ tại quê hương những người mới từ swahili liền định cư ở phía bắc đảo họ duy trì giao thương với bán đảo ả rập và swahili họ cũng để lại dấu vết sinh sống tại phía tây nam hòn đảo người ả rập xuất hiện trên đảo vào thế kỷ 10-11 văn bản chữ ả rập thế kỷ 12 có nhắc đến djesire comor rất có thể để chỉ về madagascar từ này có nghĩa là đảo của người indonesia người ả rập mà tiếng bồ đào nha gọi là poleis đã thành lập các khu dân cư ở phía tây bắc đảo họ chủ yếu tập trung vào buôn bán và sản xuất họ sống chủ yếu trên các đảo xung quanh còn sở hữu các đồn điền trồng lúa ở madagascar poleis duy trì mối quan hệ giao thương với mogadishu malindi và kilwa qua bằng chứng khảo cổ học một trong những thành lớn nhất và giàu có nhất lulungane trên đảo nosi manju người dân lulungane nhập vải và quặng từ đông phi ngược lại họ bán gạo từ đồn điền cũng như gia súc và sáp ong của malagasy nô lệ người phi lao động trên đồng lúa năm 1507 bồ đào nha chinh phục lulungane sang thế kỷ 14-15 thành iharana nay là vohémar của
Lịch sử Madagascar
súc và sáp ong của Malagasy. Nô lệ người Phi lao động trên đồng lúa. Năm 1507, Bồ Đào Nha chinh phục Lulungane. Sang thế kỷ 14-15, thành Iharana (nay là Vohémar) của người Ả Rập ở phía bắc Madagascar có ảnh hưởng kinh tế đáng kê. Các quan hệ giao thương được duy trì với Kilwa và Viễn Đông. Người Iharana di chuyển dọc theo bờ biển xuống phía nam. Họ là tổ tiên của các nhóm người Zafi-Raminia và Antemoro. Những cộng đồng này bảo tồn truyền thống, chữ viết Ả Rập và nghề làm giấy. Zafi-Raminia và Antemoro thành lập nhà nước của riêng mình nhưng bị phân chia thành các nước nhỏ hơn vào thế kỷ 16. Tổ tiên người Merina từ Indonesia đến Madagascar vào thế kỷ 14-15. Họ đổ bộ lên bờ bắc, rồi di chuyển sâu vào bên trong và định cư tại vùng đất gọi là Imerina. Ban đầu, họ chung sống hòa bình với những thổ dân trước đó. Nhưng cuối thế kỷ 15 đầu thế kỷ 16, Andrianaponga và Andriamanelo chỉ huy Merina giao tranh với bộ tộc Vazimba bản địa. Kết quả là Vazimba công nhận quyền cai trị của Merina, đổi lại Merina cũng cho phép Vazimba giữ quyền đất đai. Vào thế kỷ 16, người Bồ Đào Nha đến đảo và báo cáo sự có mặt của nhóm người Kafra da đen thuộc nhóm Bantu sống trên bờ vịnh Sada (Anorontsanga). Khoảng 2.000 người Kafra có thể lànô lệ trốn thoát khỏi Malindi, Mombasa và Mogadishu.
súc và sáp ong của malagasy nô lệ người phi lao động trên đồng lúa năm 1507 bồ đào nha chinh phục lulungane sang thế kỷ 14-15 thành iharana nay là vohémar của người ả rập ở phía bắc madagascar có ảnh hưởng kinh tế đáng kê các quan hệ giao thương được duy trì với kilwa và viễn đông người iharana di chuyển dọc theo bờ biển xuống phía nam họ là tổ tiên của các nhóm người zafi-raminia và antemoro những cộng đồng này bảo tồn truyền thống chữ viết ả rập và nghề làm giấy zafi-raminia và antemoro thành lập nhà nước của riêng mình nhưng bị phân chia thành các nước nhỏ hơn vào thế kỷ 16 tổ tiên người merina từ indonesia đến madagascar vào thế kỷ 14-15 họ đổ bộ lên bờ bắc rồi di chuyển sâu vào bên trong và định cư tại vùng đất gọi là imerina ban đầu họ chung sống hòa bình với những thổ dân trước đó nhưng cuối thế kỷ 15 đầu thế kỷ 16 andrianaponga và andriamanelo chỉ huy merina giao tranh với bộ tộc vazimba bản địa kết quả là vazimba công nhận quyền cai trị của merina đổi lại merina cũng cho phép vazimba giữ quyền đất đai vào thế kỷ 16 người bồ đào nha đến đảo và báo cáo sự có mặt của nhóm người kafra da đen thuộc nhóm bantu sống trên bờ vịnh sada anorontsanga khoảng 2 000 người kafra có thể lànô lệ trốn thoát khỏi malindi mombasa và mogadishu
Lịch sử Madagascar
có mặt của nhóm người Kafra da đen thuộc nhóm Bantu sống trên bờ vịnh Sada (Anorontsanga). Khoảng 2.000 người Kafra có thể lànô lệ trốn thoát khỏi Malindi, Mombasa và Mogadishu. Tiếng nói của họ đã hé lộ nguồn gốc dân tộc vì giống với ngôn ngữ của người Kafra sống trên lục địa châu Phi. Madagascar rất đa dạng về sắc tộc và văn hóa do có nhiều làn sóng nhập cư. Đến đầu thế kỷ 16 có khoảng mười tám dân tộc sống trên đảo. Những người mới đến thường sống bên bờ biển, nhưng dần sẽ đi sâu vào trong đảo hơn. Vào thế kỷ 13, dân tộc Vazimba gốc Phi làm chủ phần trung tâm đảo, họ còn chưa có các hình thái chính trị sơ khai, nên những người mới đến liền trở thành cai trị. Sự tiến bộ từ phía đông Hova với kiểu cách sinh sống của người Indonesia cũng như canh tác lúa nước đã hấp thụ họ. Các nhóm dân cư khác nhau phân biệt về hoạt động kinh tế chủ chốt như: Sakalawa ở bờ tây chăn nuôi gia súc, Merina ở trung tâm trồng lúa, còn Wezu ở phía tây đảo làm nghề chài lưới. Vào thế kỷ thứ 10, người Madagascar thường đến châu Phi để cướp bóc. Thế kỷ 12 - 13, hình thức kinh tế cơ bản của Madagascar là giao thương với vùng Ấn Độ Dương. Đảo xuất khẩu gạo còn lấy về sắt, vàng và có thể cả đồng. Thế
có mặt của nhóm người kafra da đen thuộc nhóm bantu sống trên bờ vịnh sada anorontsanga khoảng 2 000 người kafra có thể lànô lệ trốn thoát khỏi malindi mombasa và mogadishu tiếng nói của họ đã hé lộ nguồn gốc dân tộc vì giống với ngôn ngữ của người kafra sống trên lục địa châu phi madagascar rất đa dạng về sắc tộc và văn hóa do có nhiều làn sóng nhập cư đến đầu thế kỷ 16 có khoảng mười tám dân tộc sống trên đảo những người mới đến thường sống bên bờ biển nhưng dần sẽ đi sâu vào trong đảo hơn vào thế kỷ 13 dân tộc vazimba gốc phi làm chủ phần trung tâm đảo họ còn chưa có các hình thái chính trị sơ khai nên những người mới đến liền trở thành cai trị sự tiến bộ từ phía đông hova với kiểu cách sinh sống của người indonesia cũng như canh tác lúa nước đã hấp thụ họ các nhóm dân cư khác nhau phân biệt về hoạt động kinh tế chủ chốt như sakalawa ở bờ tây chăn nuôi gia súc merina ở trung tâm trồng lúa còn wezu ở phía tây đảo làm nghề chài lưới vào thế kỷ thứ 10 người madagascar thường đến châu phi để cướp bóc thế kỷ 12 13 hình thức kinh tế cơ bản của madagascar là giao thương với vùng ấn độ dương đảo xuất khẩu gạo còn lấy về sắt vàng và có thể cả đồng thế
Lịch sử Madagascar
13, hình thức kinh tế cơ bản của Madagascar là giao thương với vùng Ấn Độ Dương. Đảo xuất khẩu gạo còn lấy về sắt, vàng và có thể cả đồng. Thế kỷ 15 thịnh hành việc buôn bán nô lệ chủ yếu cho bờ biển đông Phi và có thể tới cả Viễn Đông. Nguồn cung cấp nô lệ có thể do chiến tranh (Bantu) hoặc nhu cầu kinh tế (Malagasy). == Madagascar vì lợi ích của các cường quốc châu Âu. == Nhà thám hiểm Bồ Đào Nha Diogo Dias khám phá ra Madagascar khoảng năm 1500. Một tàu thuộc hải đội Pedro Álvares Cabral đến Ấn Độ ngoài khơi Mũi Hảo Vọng đã đổi hướng sang phía đông sau khi mất dấu những tàu còn lại. Theo hướng này, tàu đến được hòn đảo lớn chính là Madagascar. Người Bồ Đào Nha gọi đảo là Đảo St. Lawrence. Năm 1506, những tàu của Fernando Suarez đến Madagascar. Năm 1517, nhà bản đồ học Bồ Đào Nha Pedro Reinel vẽ bản đồ chính xác hình dạng của đảo. Bồ Đào Nha không quan tâm đến Madagascar vì không có tài nguyên thiên nhiên. Họ muốn phát triển giao thương tại đây và sự kết nối đảo với bờ biển đông Đông Phi cản trở việc này. Do đó, trước tiên họ khuất phục các đồng minh Madagascar, rồi bình định các thành phố yếu ớt ở phía bắc đảo. Dần dần, người Hà Lan, Anh và Pháp xuất hiện ở lưu Ấn Độ Dương và cạnh tranh
13 hình thức kinh tế cơ bản của madagascar là giao thương với vùng ấn độ dương đảo xuất khẩu gạo còn lấy về sắt vàng và có thể cả đồng thế kỷ 15 thịnh hành việc buôn bán nô lệ chủ yếu cho bờ biển đông phi và có thể tới cả viễn đông nguồn cung cấp nô lệ có thể do chiến tranh bantu hoặc nhu cầu kinh tế malagasy == madagascar vì lợi ích của các cường quốc châu âu == nhà thám hiểm bồ đào nha diogo dias khám phá ra madagascar khoảng năm 1500 một tàu thuộc hải đội pedro álvares cabral đến ấn độ ngoài khơi mũi hảo vọng đã đổi hướng sang phía đông sau khi mất dấu những tàu còn lại theo hướng này tàu đến được hòn đảo lớn chính là madagascar người bồ đào nha gọi đảo là đảo st lawrence năm 1506 những tàu của fernando suarez đến madagascar năm 1517 nhà bản đồ học bồ đào nha pedro reinel vẽ bản đồ chính xác hình dạng của đảo bồ đào nha không quan tâm đến madagascar vì không có tài nguyên thiên nhiên họ muốn phát triển giao thương tại đây và sự kết nối đảo với bờ biển đông đông phi cản trở việc này do đó trước tiên họ khuất phục các đồng minh madagascar rồi bình định các thành phố yếu ớt ở phía bắc đảo dần dần người hà lan anh và pháp xuất hiện ở lưu ấn độ dương và cạnh tranh
Lịch sử Madagascar
minh Madagascar, rồi bình định các thành phố yếu ớt ở phía bắc đảo. Dần dần, người Hà Lan, Anh và Pháp xuất hiện ở lưu Ấn Độ Dương và cạnh tranh phạm vi ảnh hưởng đối với Đông Phi. Người châu Âu tìm cách thiết lập các căn cứ và hải cảng để bổ sung tiếp tế cho các chuyến buôn bán từ châu Âu đến Ấn Độ. Các tàu châu Âu đến Madagascar không thường xuyên. Người châu Âu xuất hiện bắt đầu làm sụp đổ tổ chức nhà nước và nền kinh tế của đảo. Cuối thế kỷ 16, dân số Madagascar ước tính vào khoảng 700.000 người. Trong thế kỷ 16, Bồ Đào Nha không chỉ một lần cướp phá Madagascar hơn một lần, nhưng cũng không có ý định củng cố ảnh hưởng lên đảo. Giữa thế kỷ 17, Pháp có kế hoạch thiết lập đồn điền ở quần đảo Mascarene gần đó, đã nhìn đến Madagascar như nguồn cung cấp lao động rẻ mạt. Năm 1642, Công ty Đông Ấn Pháp được thành lập nhằm thâu tóm Mascarene. Madagascar liền trở thành căn cứ để tiến tới các đảo xung quanh. Trên đảo Saint Luca, mười ba khu dân cư được giao nhiệm vụ thành lập pháo đài. Năm 1643, Pháo đài Dauphin được xây dựng ở phía nam Madagascar làm tiền đề chiếm phần đông bắc đảo, Vịnh Antongil và đảo Saint Mary. Trong những năm 1642–1643, Ponis chỉ huy pháo , nhưng cả ông và lẫn Flacourt là người
minh madagascar rồi bình định các thành phố yếu ớt ở phía bắc đảo dần dần người hà lan anh và pháp xuất hiện ở lưu ấn độ dương và cạnh tranh phạm vi ảnh hưởng đối với đông phi người châu âu tìm cách thiết lập các căn cứ và hải cảng để bổ sung tiếp tế cho các chuyến buôn bán từ châu âu đến ấn độ các tàu châu âu đến madagascar không thường xuyên người châu âu xuất hiện bắt đầu làm sụp đổ tổ chức nhà nước và nền kinh tế của đảo cuối thế kỷ 16 dân số madagascar ước tính vào khoảng 700 000 người trong thế kỷ 16 bồ đào nha không chỉ một lần cướp phá madagascar hơn một lần nhưng cũng không có ý định củng cố ảnh hưởng lên đảo giữa thế kỷ 17 pháp có kế hoạch thiết lập đồn điền ở quần đảo mascarene gần đó đã nhìn đến madagascar như nguồn cung cấp lao động rẻ mạt năm 1642 công ty đông ấn pháp được thành lập nhằm thâu tóm mascarene madagascar liền trở thành căn cứ để tiến tới các đảo xung quanh trên đảo saint luca mười ba khu dân cư được giao nhiệm vụ thành lập pháo đài năm 1643 pháo đài dauphin được xây dựng ở phía nam madagascar làm tiền đề chiếm phần đông bắc đảo vịnh antongil và đảo saint mary trong những năm 1642–1643 ponis chỉ huy pháo nhưng cả ông và lẫn flacourt là người
Lịch sử Madagascar
Madagascar làm tiền đề chiếm phần đông bắc đảo, Vịnh Antongil và đảo Saint Mary. Trong những năm 1642–1643, Ponis chỉ huy pháo , nhưng cả ông và lẫn Flacourt là người kế nhiệm giai đoạn 1643–1655 đều không thể thiết lập quan hệ hữu hảo với người Malagasy. Thiếu hàng để bán, việc giao hàng từ Pháp không thường xuyên nên quân Pháp tổ chức những cuộc chinh phạt cướp bóc người bản xứ. Năm 1665, một làn sóng những kẻ thực dân Pháp mới đến đảo. Năm 1674, người Malagasy (Antanusi) hạ được Pháo đài Dauphin và giết gần như toàn bộ quân Pháp đồn trú. Thất bại của Pháp ở Madagascar thế kỷ 17 được nhìn nhận là do khác biệt về lợi ích giữa Bộ trưởng Bộ Tài chính của Louis XIV, Jean-Baptiste Colbert với giới lãnh đạo công ty Đông Ấn. Colbert chủ trương người Pháp định cư trên đảo nhưng công ty từ chối cấp kinh phí để thực hiện kế hoạch này mà vẫn tập trung giao thương với Ấn Độ và thúc đẩy chủ lực là đồn điền quần đảo Mascarene. Giao thương với châu Âu gia tăng vào thế kỷ 17 cùng với việc con người sinh sống tiến sâu vào đảo ảnh hưởng đến sự phát triển thị trường địa phương và khu vực tại Madagascar cũng như đa dạng hóa nền kinh tế. Dân cư tiến vào trung tâm đảo góp phần thúc đẩy giao thương đường dài phát triển. Việc trao đổi hàng hóa được
madagascar làm tiền đề chiếm phần đông bắc đảo vịnh antongil và đảo saint mary trong những năm 1642–1643 ponis chỉ huy pháo nhưng cả ông và lẫn flacourt là người kế nhiệm giai đoạn 1643–1655 đều không thể thiết lập quan hệ hữu hảo với người malagasy thiếu hàng để bán việc giao hàng từ pháp không thường xuyên nên quân pháp tổ chức những cuộc chinh phạt cướp bóc người bản xứ năm 1665 một làn sóng những kẻ thực dân pháp mới đến đảo năm 1674 người malagasy antanusi hạ được pháo đài dauphin và giết gần như toàn bộ quân pháp đồn trú thất bại của pháp ở madagascar thế kỷ 17 được nhìn nhận là do khác biệt về lợi ích giữa bộ trưởng bộ tài chính của louis xiv jean-baptiste colbert với giới lãnh đạo công ty đông ấn colbert chủ trương người pháp định cư trên đảo nhưng công ty từ chối cấp kinh phí để thực hiện kế hoạch này mà vẫn tập trung giao thương với ấn độ và thúc đẩy chủ lực là đồn điền quần đảo mascarene giao thương với châu âu gia tăng vào thế kỷ 17 cùng với việc con người sinh sống tiến sâu vào đảo ảnh hưởng đến sự phát triển thị trường địa phương và khu vực tại madagascar cũng như đa dạng hóa nền kinh tế dân cư tiến vào trung tâm đảo góp phần thúc đẩy giao thương đường dài phát triển việc trao đổi hàng hóa được
Lịch sử Madagascar
Madagascar cũng như đa dạng hóa nền kinh tế. Dân cư tiến vào trung tâm đảo góp phần thúc đẩy giao thương đường dài phát triển. Việc trao đổi hàng hóa được tiến hành khi lãnh đạo địa phương hoặc trưởng làng chấp thuận và có đầu mối thích hợp, thường được lấy lòng bằng quà tặng. Khác với lục địa châp Phi, phụ nữ là nhân tố quan trọng tại Madagascar. Người phụ nữ này thường là quý tộc địa phương. Thương gia châu Âu kết hôn với phụ nữ bộ tộc từ đó được bộ tộc bảo vệ và đảm bảo quan hệ giao thương. Madagascar nhận đạn dược, hàng dệt may Ấn Độ, rượu, sản phẩm kim loại và đồ trang trí. Tiền tệ là đồng piaster bạc Tây Ban Nha, nhưng thường thì qua cơ chế hàng đổi hàng. Cũng có thể dùng tiền trung gian là đồng livre của Pháp. Cuối thế kỷ 17, hải tặc Âu Mỹ bắt đầu xâm chiếm bờ biển phía đông bắc, tạo dựng nơi sinh sông và quan hệ với thổ dân. Họ quan tâm đến đảo chủ yếu xuất phát từ khả năng bắt nô lệ da đen, là mặt hàng được người Bồ Đào Nha và Hà Lan coi trọng ở Ấn Độ. Hải tặc lập căn cứ trên bờ biển Madagascar và các đảo lân cận. Trong những năm 1685–1726, có hàng chục tàu hải tặc đã kìm hãm phát triển kinh tế đồn điền, cản trở giao thương và nghiên cứu địa
madagascar cũng như đa dạng hóa nền kinh tế dân cư tiến vào trung tâm đảo góp phần thúc đẩy giao thương đường dài phát triển việc trao đổi hàng hóa được tiến hành khi lãnh đạo địa phương hoặc trưởng làng chấp thuận và có đầu mối thích hợp thường được lấy lòng bằng quà tặng khác với lục địa châp phi phụ nữ là nhân tố quan trọng tại madagascar người phụ nữ này thường là quý tộc địa phương thương gia châu âu kết hôn với phụ nữ bộ tộc từ đó được bộ tộc bảo vệ và đảm bảo quan hệ giao thương madagascar nhận đạn dược hàng dệt may ấn độ rượu sản phẩm kim loại và đồ trang trí tiền tệ là đồng piaster bạc tây ban nha nhưng thường thì qua cơ chế hàng đổi hàng cũng có thể dùng tiền trung gian là đồng livre của pháp cuối thế kỷ 17 hải tặc âu mỹ bắt đầu xâm chiếm bờ biển phía đông bắc tạo dựng nơi sinh sông và quan hệ với thổ dân họ quan tâm đến đảo chủ yếu xuất phát từ khả năng bắt nô lệ da đen là mặt hàng được người bồ đào nha và hà lan coi trọng ở ấn độ hải tặc lập căn cứ trên bờ biển madagascar và các đảo lân cận trong những năm 1685–1726 có hàng chục tàu hải tặc đã kìm hãm phát triển kinh tế đồn điền cản trở giao thương và nghiên cứu địa
Lịch sử Madagascar
và các đảo lân cận. Trong những năm 1685–1726, có hàng chục tàu hải tặc đã kìm hãm phát triển kinh tế đồn điền, cản trở giao thương và nghiên cứu địa lý trên đảo. Trong những năm 1685–1705, hải tặc đứng đầu là Avery, Misson và Kid có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong khu vực. Họ đặt căn cứ tại Sainte Marie, Rantabé, Foulpointe, Tintingue và Nosy Mangabé trong Vịnh Antongil, cũng như tại Antalaha và Vohémar. Hải tặc hợp tác với lãnh đạo địa phương, cung cấp vũ khí cho họ. Họ sử dụng hôn nhân địa phương để mở rộng ảnh hưởng, tham gia vào chiến tranh địa phương để làm cơ hội bán tù nhân thành nô lệ. Năm 1722, các nước châu Âu nỗ lực tiêu diệt nạn cướp biển trong khu vực nhưng không giải quyết được hết mà chỉ làm giảm quyền lực của hải tặc. Thế kỷ 18, Madagascar đóng vai trò là nguồn lợi đồn điền cho Pháp ở Mascarene, bắt đầu trồng cà phê. Pháp và Anh càng gia tăng cạnh tranh lẫn nhau. Cả hai nước đều tìm cách chinh phục và sáp nhập hòn đảo này. Các trạm mậu dịch khác được thành lập trên bờ biển phía đông Madagascar để trực tiếp thu lợi từ Mascarene và kiểm soát chính sách thuộc địa của Pháp. Ban đầu, văn phòng Tamatave giữ vị trí quan trọng trên bờ biển phía đông. Đến giữa thế kỷ 18, mở thêm trạm giao dịch tại khu định
và các đảo lân cận trong những năm 1685–1726 có hàng chục tàu hải tặc đã kìm hãm phát triển kinh tế đồn điền cản trở giao thương và nghiên cứu địa lý trên đảo trong những năm 1685–1705 hải tặc đứng đầu là avery misson và kid có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong khu vực họ đặt căn cứ tại sainte marie rantabé foulpointe tintingue và nosy mangabé trong vịnh antongil cũng như tại antalaha và vohémar hải tặc hợp tác với lãnh đạo địa phương cung cấp vũ khí cho họ họ sử dụng hôn nhân địa phương để mở rộng ảnh hưởng tham gia vào chiến tranh địa phương để làm cơ hội bán tù nhân thành nô lệ năm 1722 các nước châu âu nỗ lực tiêu diệt nạn cướp biển trong khu vực nhưng không giải quyết được hết mà chỉ làm giảm quyền lực của hải tặc thế kỷ 18 madagascar đóng vai trò là nguồn lợi đồn điền cho pháp ở mascarene bắt đầu trồng cà phê pháp và anh càng gia tăng cạnh tranh lẫn nhau cả hai nước đều tìm cách chinh phục và sáp nhập hòn đảo này các trạm mậu dịch khác được thành lập trên bờ biển phía đông madagascar để trực tiếp thu lợi từ mascarene và kiểm soát chính sách thuộc địa của pháp ban đầu văn phòng tamatave giữ vị trí quan trọng trên bờ biển phía đông đến giữa thế kỷ 18 mở thêm trạm giao dịch tại khu định
Lịch sử Madagascar
thuộc địa của Pháp. Ban đầu, văn phòng Tamatave giữ vị trí quan trọng trên bờ biển phía đông. Đến giữa thế kỷ 18, mở thêm trạm giao dịch tại khu định cư Foulpointe, cách Tamatave khoảng 250 km về phía nam. Trạm Faktoria Foulpointe nằm gần và quan hệ hữu hảo với dân Betsimisaraka. Lãnh đạo Betsimisarak là Zanahara (chết năm 1767), Yavi (1767–1791) và Zakavola (1791–1803) thường xuyên cung cấp nô lệ để bán cho Pháp để bán, chủ yếu lấy từ các cuộc săn lùng bộ tộc. Trong những năm 1774–1776, Maurycy Beniowski được bổ nhiệm ở Foulpointe. Beniowski thiết lập quan hệ với người Malagasy và lên kế hoạch chiếm Madagascar và thay mặt Pháp nắm quyền trên đảo. Trong các năm 1768–1771 và 1774–1776, Pháp tổ chức hai cuộc chinh phạt vào sâu trong đảo. Maurycy Beniowski trực tiếp chỉ huy cuộc chinh phạt thứ nhì và tự xưng là Hoàng đế Madagascar ngày 10 tháng 10 năm 1776. Ông tử trận ngày 23 tháng 5 năm 1786. Năm 1770, Pháp có bốn văn phòng thuộc địa, nhằm cung cấp nhân công rẻ cho các đồn điền quần đảo Mascarene. Giá một nô lệ vào nửa đầu thế kỷ 18 là khoảng 30 livre. Giá bắt đầu tăng sau năm 1760: trong những năm 1767–1770 là khoảng 200 livre, năm 1785 là 300 livres, và vào cuối thế kỷ 18 dao động từ 320 đến 540 livre. Ước tính rằng trong những năm 1755–1808, các trạm dịch phía đông của Pháp đã gửi
thuộc địa của pháp ban đầu văn phòng tamatave giữ vị trí quan trọng trên bờ biển phía đông đến giữa thế kỷ 18 mở thêm trạm giao dịch tại khu định cư foulpointe cách tamatave khoảng 250 km về phía nam trạm faktoria foulpointe nằm gần và quan hệ hữu hảo với dân betsimisaraka lãnh đạo betsimisarak là zanahara chết năm 1767 yavi 1767–1791 và zakavola 1791–1803 thường xuyên cung cấp nô lệ để bán cho pháp để bán chủ yếu lấy từ các cuộc săn lùng bộ tộc trong những năm 1774–1776 maurycy beniowski được bổ nhiệm ở foulpointe beniowski thiết lập quan hệ với người malagasy và lên kế hoạch chiếm madagascar và thay mặt pháp nắm quyền trên đảo trong các năm 1768–1771 và 1774–1776 pháp tổ chức hai cuộc chinh phạt vào sâu trong đảo maurycy beniowski trực tiếp chỉ huy cuộc chinh phạt thứ nhì và tự xưng là hoàng đế madagascar ngày 10 tháng 10 năm 1776 ông tử trận ngày 23 tháng 5 năm 1786 năm 1770 pháp có bốn văn phòng thuộc địa nhằm cung cấp nhân công rẻ cho các đồn điền quần đảo mascarene giá một nô lệ vào nửa đầu thế kỷ 18 là khoảng 30 livre giá bắt đầu tăng sau năm 1760 trong những năm 1767–1770 là khoảng 200 livre năm 1785 là 300 livres và vào cuối thế kỷ 18 dao động từ 320 đến 540 livre ước tính rằng trong những năm 1755–1808 các trạm dịch phía đông của pháp đã gửi
Lịch sử Madagascar
là 300 livres, và vào cuối thế kỷ 18 dao động từ 320 đến 540 livre. Ước tính rằng trong những năm 1755–1808, các trạm dịch phía đông của Pháp đã gửi tới Mascarene 349 tàu nô lệ, trong khi trạm dịch phía tây chỉ vỏn vẹn có 10 chuyến. Đại cách mạng Pháp và Chiến tranh Napoléon góp phần làm suy yếu Pháp ở Madagascar. Năm 1810, Anh chiếm một số khu vực của Pháp. Sợ mất ảnh hưởng, Pháp tuyên bố sáp nhập hòn đảo, nhưng Anh không công nhận. Hai nước đều tranh giành hòn đảo này cho đến cuối thế kỷ 19. Năm 1896, hai nước đạt được thỏa thuận và Madagascar trở thành thuộc địa Pháp. == Những nhà nước đầu tiên. == Không giống như những quốc gia châu Phi bản địa khác thời tiền thuộc địa, sự can thiệp của các cường quốc châu Âu không làm sụp đổ của những vương quốc Malagasy. Thậm chí từ thế kỷ 17, các vương quốc này còn phát triển hơn nhờ có sự liên hệ với hoạt động buôn bán nô lệ của Pháp các đảo Îsle de Bourbon và Îsle de France gần đó. === Sakalawa. === Theo truyền khẩu, nhà nước đầu tiên của người Sakalawa được thành lập trên bờ sông Sakalawa (một phụ lưu sôngMangoka) vào đầu thế kỷ 17. Thủ đô là Bengi. Người thành lập là vua Andriamisara huyền thoại, có thể là hậu duệ triều đại Maroserana ở phía nam đảo, gốc gác tại Anosi. Cũng có thuyết cho
là 300 livres và vào cuối thế kỷ 18 dao động từ 320 đến 540 livre ước tính rằng trong những năm 1755–1808 các trạm dịch phía đông của pháp đã gửi tới mascarene 349 tàu nô lệ trong khi trạm dịch phía tây chỉ vỏn vẹn có 10 chuyến đại cách mạng pháp và chiến tranh napoléon góp phần làm suy yếu pháp ở madagascar năm 1810 anh chiếm một số khu vực của pháp sợ mất ảnh hưởng pháp tuyên bố sáp nhập hòn đảo nhưng anh không công nhận hai nước đều tranh giành hòn đảo này cho đến cuối thế kỷ 19 năm 1896 hai nước đạt được thỏa thuận và madagascar trở thành thuộc địa pháp == những nhà nước đầu tiên == không giống như những quốc gia châu phi bản địa khác thời tiền thuộc địa sự can thiệp của các cường quốc châu âu không làm sụp đổ của những vương quốc malagasy thậm chí từ thế kỷ 17 các vương quốc này còn phát triển hơn nhờ có sự liên hệ với hoạt động buôn bán nô lệ của pháp các đảo îsle de bourbon và îsle de france gần đó === sakalawa === theo truyền khẩu nhà nước đầu tiên của người sakalawa được thành lập trên bờ sông sakalawa một phụ lưu sôngmangoka vào đầu thế kỷ 17 thủ đô là bengi người thành lập là vua andriamisara huyền thoại có thể là hậu duệ triều đại maroserana ở phía nam đảo gốc gác tại anosi cũng có thuyết cho
Lịch sử Madagascar
Thủ đô là Bengi. Người thành lập là vua Andriamisara huyền thoại, có thể là hậu duệ triều đại Maroserana ở phía nam đảo, gốc gác tại Anosi. Cũng có thuyết cho rằng tổ tiên vua là người Ả Rập. Truyền thuyết nói nhờ vào lá bùa thần, Andriamisara có được sức mạnh và đánh thắng anh trai mình. Kế vị Andriamisara, Andriandahifotsi (mất năm 1685) sử dụng súng ống chiếm được các vùng lãnh thổ phía bắc Manambolo và phía đông Midongy, kết minh Antanandro qua hôn nhân chính trị với Sakoambe. Ông chuyển thủ đô Sakalawa đến Maneva. Vương quốc của Andriandahifotsi gọi là Menabe. Andriandahifotsi đưa ra một số thể chế và phong tục, như thờ các tiên vương đã qua đời như thần linh, thông qua cách đặt danh tính bắt đầu bằng "Andria" và kết thúc bằng "-arivo". Ông chia vương quốc thành các thái ấp ban cho hoàng thân trong gia tộc, đặt ra hệ thống tôn ti cho hậu duệ: con trai vợ cả gọi là Volamena (con cháu vàng), còn các con trai vợ lẽ được gọi là Volafotsi ("con trai bạc). Sau khi Andriandahifotsi qua đời năm 1685, chiến tranh kế vị nổ ra ở Menabe. Trimanongarivo (mất năm 1718) có được quyền lực và tiếp tục các chính sách của Andriandahifotsi cũng như thiết lập quan hệ giao thương mới với châu Âu. Thất bại trong chiến tranh kế vị, con trai của Andriandahifotsi của Tsimanata hoặc tên thường biết Andriamandisoarivo cùng tùy tùng trốn lên phía bắc.
thủ đô là bengi người thành lập là vua andriamisara huyền thoại có thể là hậu duệ triều đại maroserana ở phía nam đảo gốc gác tại anosi cũng có thuyết cho rằng tổ tiên vua là người ả rập truyền thuyết nói nhờ vào lá bùa thần andriamisara có được sức mạnh và đánh thắng anh trai mình kế vị andriamisara andriandahifotsi mất năm 1685 sử dụng súng ống chiếm được các vùng lãnh thổ phía bắc manambolo và phía đông midongy kết minh antanandro qua hôn nhân chính trị với sakoambe ông chuyển thủ đô sakalawa đến maneva vương quốc của andriandahifotsi gọi là menabe andriandahifotsi đưa ra một số thể chế và phong tục như thờ các tiên vương đã qua đời như thần linh thông qua cách đặt danh tính bắt đầu bằng andria và kết thúc bằng -arivo ông chia vương quốc thành các thái ấp ban cho hoàng thân trong gia tộc đặt ra hệ thống tôn ti cho hậu duệ con trai vợ cả gọi là volamena con cháu vàng còn các con trai vợ lẽ được gọi là volafotsi con trai bạc sau khi andriandahifotsi qua đời năm 1685 chiến tranh kế vị nổ ra ở menabe trimanongarivo mất năm 1718 có được quyền lực và tiếp tục các chính sách của andriandahifotsi cũng như thiết lập quan hệ giao thương mới với châu âu thất bại trong chiến tranh kế vị con trai của andriandahifotsi của tsimanata hoặc tên thường biết andriamandisoarivo cùng tùy tùng trốn lên phía bắc
Lịch sử Madagascar
quan hệ giao thương mới với châu Âu. Thất bại trong chiến tranh kế vị, con trai của Andriandahifotsi của Tsimanata hoặc tên thường biết Andriamandisoarivo cùng tùy tùng trốn lên phía bắc. Tại đồng bằng Mananara, ông thành lập nhà nước Boina, rồi chiếm Sandangoatsi, Manandabo và Antalaotes. Thủ đô đặt tại Tongay. . Hậu duệ Tsimanata là Andrianamboniarivo (1712–1722) và Andriamahatindriarivo (1722–1742) mở rộng quyền kiểm soát của Sakalawa đến bờ biển phía tây của Madagascar. Boina đạt thịnh trị cực điểm dưới thời trị vì của Tsitavana sau này gọi là Andrianiveniarivo. Tranh giành quyền lực ở cả Menabe và Boina khiến chính trị và quân sự người Sakalaw bị suy yếu. Những kẻ thua trận buộc phải di cư đến các vùng khác và lập nhà nước riêng. Một số tìm cách trở lại nắm quyền như Tsitavana trở lại Boina. Vua Sakalawa được được hội đồng gia tộc chọn trong số Volamen. Phụ nữ cũng có quyền lên ngôi, khi đó chồng của vua không có vai trò chính trị gì và thường bị thay đổi. Vua được tôn thờ như một vị thần và hiếm khi xuất hiện trước thần dân. Các bang Sakalawa thống nhất lại thời kỳ trị vì của Ravahina (khoảng 1770? –1808). Kết minh với Andrianampoinimerina của Imerina lúc đó yếu hơn Sakalawa, Ravahina đàn áp các cuộc nổi dậy. Đổi lại, ông cho phép Imerina trở lại buôn bán với bờ biển phía tây và đảm bảo Sakalawa không tiến hành xâm chiếm. Theo Dumaine viết năm 1792,
quan hệ giao thương mới với châu âu thất bại trong chiến tranh kế vị con trai của andriandahifotsi của tsimanata hoặc tên thường biết andriamandisoarivo cùng tùy tùng trốn lên phía bắc tại đồng bằng mananara ông thành lập nhà nước boina rồi chiếm sandangoatsi manandabo và antalaotes thủ đô đặt tại tongay hậu duệ tsimanata là andrianamboniarivo 1712–1722 và andriamahatindriarivo 1722–1742 mở rộng quyền kiểm soát của sakalawa đến bờ biển phía tây của madagascar boina đạt thịnh trị cực điểm dưới thời trị vì của tsitavana sau này gọi là andrianiveniarivo tranh giành quyền lực ở cả menabe và boina khiến chính trị và quân sự người sakalaw bị suy yếu những kẻ thua trận buộc phải di cư đến các vùng khác và lập nhà nước riêng một số tìm cách trở lại nắm quyền như tsitavana trở lại boina vua sakalawa được được hội đồng gia tộc chọn trong số volamen phụ nữ cũng có quyền lên ngôi khi đó chồng của vua không có vai trò chính trị gì và thường bị thay đổi vua được tôn thờ như một vị thần và hiếm khi xuất hiện trước thần dân các bang sakalawa thống nhất lại thời kỳ trị vì của ravahina khoảng 1770 –1808 kết minh với andrianampoinimerina của imerina lúc đó yếu hơn sakalawa ravahina đàn áp các cuộc nổi dậy đổi lại ông cho phép imerina trở lại buôn bán với bờ biển phía tây và đảm bảo sakalawa không tiến hành xâm chiếm theo dumaine viết năm 1792
Lịch sử Madagascar
cuộc nổi dậy. Đổi lại, ông cho phép Imerina trở lại buôn bán với bờ biển phía tây và đảm bảo Sakalawa không tiến hành xâm chiếm. Theo Dumaine viết năm 1792, ngoài người Malagasy, có khoảng 6.000 người Ả Rập và Ấn Độ ở thủ đô Majunga của Ravahina làm nghề buôn bán. Các tàu đi biển được đóng tại thủ đô, và hàng năm có hai tàu chở vải bông và lụa từ Surat đến Majunga. Vua có quyền bổ nhiệm người đứng đầu ba khu vực của người Ả Rập trong đô thành. Sakalawa có nghề chăn nuôi và buôn bán gia súc. Nông nghiệp còn sơ khai. Kinh tế phát triển không thuận lợi do đời sống dân cư nghèo đói trên một lãnh thổ rộng lớn, chiến tranh giành ngôi báu liên miên, các địa phương nổi dậy và xã hội đa dạng văn hóa sắc tộc. Điểm yếu của Sakalawa là kết hợp các đặc điểm của chế độ quân chủ tuyệt đối coi vua như thần, phong kiến và thương mại. === Betsimisaraka. === Nhiều dân tộc cư ngụ ở bờ biển phía đông Madagascar, đông nhất là Antanusi từ Đảo Sainte Marie và Antemaroa từ Vịnh Antongil. Các vấn đề như: chiến tranh thường xuyên, điều kiện tự nhiên, hải tặc đánh chiếm, thương gia đột kích bắt nô lệ... khiến hình thái nhà nước khó xuất hiện trước thế kỷ 18. Tổ chức chính trị xã hội các dân tộc phía đông Madagascar mang tính chất thị tộc. Các thị
cuộc nổi dậy đổi lại ông cho phép imerina trở lại buôn bán với bờ biển phía tây và đảm bảo sakalawa không tiến hành xâm chiếm theo dumaine viết năm 1792 ngoài người malagasy có khoảng 6 000 người ả rập và ấn độ ở thủ đô majunga của ravahina làm nghề buôn bán các tàu đi biển được đóng tại thủ đô và hàng năm có hai tàu chở vải bông và lụa từ surat đến majunga vua có quyền bổ nhiệm người đứng đầu ba khu vực của người ả rập trong đô thành sakalawa có nghề chăn nuôi và buôn bán gia súc nông nghiệp còn sơ khai kinh tế phát triển không thuận lợi do đời sống dân cư nghèo đói trên một lãnh thổ rộng lớn chiến tranh giành ngôi báu liên miên các địa phương nổi dậy và xã hội đa dạng văn hóa sắc tộc điểm yếu của sakalawa là kết hợp các đặc điểm của chế độ quân chủ tuyệt đối coi vua như thần phong kiến và thương mại === betsimisaraka === nhiều dân tộc cư ngụ ở bờ biển phía đông madagascar đông nhất là antanusi từ đảo sainte marie và antemaroa từ vịnh antongil các vấn đề như chiến tranh thường xuyên điều kiện tự nhiên hải tặc đánh chiếm thương gia đột kích bắt nô lệ khiến hình thái nhà nước khó xuất hiện trước thế kỷ 18 tổ chức chính trị xã hội các dân tộc phía đông madagascar mang tính chất thị tộc các thị
Lịch sử Madagascar
lệ... khiến hình thái nhà nước khó xuất hiện trước thế kỷ 18. Tổ chức chính trị xã hội các dân tộc phía đông Madagascar mang tính chất thị tộc. Các thị tộc tự quyết các vấn đề riêng, còn khi có các vấn đề trọng đại, hội đồng trưởng tộc "philohani" được triệu tập. Phụ nữ nắm quyền quyết định việc giao thương. Hải tặc định cư trong thời gian dài từ đó sinh ra Zana Malata là người lai Mulatto. Nửa đầu thế kỷ 18, con trai hải tặc Thomas White và công nương Malagasy Rahena Ratsimilaho học xong tại Anh trở về Vịnh Antongil. Để chống lại những kẻ buôn bán nô lệ xâm nhập, ông bắt đầu thống nhất các thị tộc. Sau khi đánh bại lãnh chúa Tsikoa của Vịnh Antongil, ông được bầu làm vua và lấy tên là Ramaromanampo ("người có nhiều thần dân"). Nhà nước của Ratsimilaho được gọi là Betsimisaraka (nhiều dân - không thể tách rời). Ramaromanampo cưới một công nương Sakalawa để có được đồng minh Boina vốn mạnh hơn Betsimisarak. Trong thời trị vì, Ramaromanampo đã chinh phục Tamatave. Sau khi Ramaromanampo qua đời năm 1750, tranh giành quyền lực nổ ra ở Betsimisaraka, vương quốc bị phân chia giữa các thủ lĩnh thị tộc và Zana Malat. Con trai của Ramaromanampo là Zanahara thất bại khi tìm cách khôi phục Betsimisaraka thống nhất. === Imerina. === Tổ tiên Merina xuất hiện ở Madagascar cuối thế kỷ 14 đầu thế kỷ 15. Họ từ Đông Nam Á đến
lệ khiến hình thái nhà nước khó xuất hiện trước thế kỷ 18 tổ chức chính trị xã hội các dân tộc phía đông madagascar mang tính chất thị tộc các thị tộc tự quyết các vấn đề riêng còn khi có các vấn đề trọng đại hội đồng trưởng tộc philohani được triệu tập phụ nữ nắm quyền quyết định việc giao thương hải tặc định cư trong thời gian dài từ đó sinh ra zana malata là người lai mulatto nửa đầu thế kỷ 18 con trai hải tặc thomas white và công nương malagasy rahena ratsimilaho học xong tại anh trở về vịnh antongil để chống lại những kẻ buôn bán nô lệ xâm nhập ông bắt đầu thống nhất các thị tộc sau khi đánh bại lãnh chúa tsikoa của vịnh antongil ông được bầu làm vua và lấy tên là ramaromanampo người có nhiều thần dân nhà nước của ratsimilaho được gọi là betsimisaraka nhiều dân không thể tách rời ramaromanampo cưới một công nương sakalawa để có được đồng minh boina vốn mạnh hơn betsimisarak trong thời trị vì ramaromanampo đã chinh phục tamatave sau khi ramaromanampo qua đời năm 1750 tranh giành quyền lực nổ ra ở betsimisaraka vương quốc bị phân chia giữa các thủ lĩnh thị tộc và zana malat con trai của ramaromanampo là zanahara thất bại khi tìm cách khôi phục betsimisaraka thống nhất === imerina === tổ tiên merina xuất hiện ở madagascar cuối thế kỷ 14 đầu thế kỷ 15 họ từ đông nam á đến
Lịch sử Madagascar
thất bại khi tìm cách khôi phục Betsimisaraka thống nhất. === Imerina. === Tổ tiên Merina xuất hiện ở Madagascar cuối thế kỷ 14 đầu thế kỷ 15. Họ từ Đông Nam Á đến Vịnh Antongil, rồi di chuyển lên cao nguyên trung tâm và chung sống hòa bình với người Vazimba bản địa. Cuối thế kỷ 15 đến đầu thế kỷ 16, dưới thời Andrianapong và Andriamanelo xảy ra xung đột, Merina chiến thắng nhờ sử dụng vũ khí sắt. Hiện vẫn chưa rõ Merina lập nên một nhà nước mới trên các vùng lãnh thổ bị họ chiếm đoạt hay do kế thừa từ khu vực sẵn có. Lãnh thổ người Merina được định hình trong nửa đầu thế kỷ 17 dưới thời ba vị vua đầu tiên là Andriamanelo (1590-1616), Ralambo (1615-1640) và Andriandazak (1640-1665). Khi ấy diễn ra các cải cách chính trị dẫn đến sự hình thành nhà nước Imerina. Imerina có vị trí chiến lược quan trọng trong quá trình phát triển. Dân Merina sống ở miền núi trung tâm nên không chịu thiệt hại từ các cuộc chiến tranh duyên hải. Vua người Merin đầu tiên là Andriamanelo đưa ra tục lệ bắt buộc các hoàng tử phải cắt bì. Ralambo đã chia giai cấp quý tộc thành chủng tính: Zafindralambo là hậu duệ vua phải kết hôn nội tộc, ba tầng lớp Andrianteloray được đặc ân phục vụ vua. Nửa sau thế kỷ 17 lại tiếp tục phân chia tầng lớp cho đến đầu thế kỷ 18, đã có 7 tầng lớp
thất bại khi tìm cách khôi phục betsimisaraka thống nhất === imerina === tổ tiên merina xuất hiện ở madagascar cuối thế kỷ 14 đầu thế kỷ 15 họ từ đông nam á đến vịnh antongil rồi di chuyển lên cao nguyên trung tâm và chung sống hòa bình với người vazimba bản địa cuối thế kỷ 15 đến đầu thế kỷ 16 dưới thời andrianapong và andriamanelo xảy ra xung đột merina chiến thắng nhờ sử dụng vũ khí sắt hiện vẫn chưa rõ merina lập nên một nhà nước mới trên các vùng lãnh thổ bị họ chiếm đoạt hay do kế thừa từ khu vực sẵn có lãnh thổ người merina được định hình trong nửa đầu thế kỷ 17 dưới thời ba vị vua đầu tiên là andriamanelo 1590-1616 ralambo 1615-1640 và andriandazak 1640-1665 khi ấy diễn ra các cải cách chính trị dẫn đến sự hình thành nhà nước imerina imerina có vị trí chiến lược quan trọng trong quá trình phát triển dân merina sống ở miền núi trung tâm nên không chịu thiệt hại từ các cuộc chiến tranh duyên hải vua người merin đầu tiên là andriamanelo đưa ra tục lệ bắt buộc các hoàng tử phải cắt bì ralambo đã chia giai cấp quý tộc thành chủng tính zafindralambo là hậu duệ vua phải kết hôn nội tộc ba tầng lớp andrianteloray được đặc ân phục vụ vua nửa sau thế kỷ 17 lại tiếp tục phân chia tầng lớp cho đến đầu thế kỷ 18 đã có 7 tầng lớp
Lịch sử Madagascar
tầng lớp Andrianteloray được đặc ân phục vụ vua. Nửa sau thế kỷ 17 lại tiếp tục phân chia tầng lớp cho đến đầu thế kỷ 18, đã có 7 tầng lớp quý tộc. Ralambo kế vị Andriamanelo, tiến hành thay đổi kinh tế bên cạnh cải cách xã hội. Ông đảm bảo nguồn thu ổn định cho quốc khố bằng cách áp thuế "vadin-aina" bắt buộc ("giá phải trả cho cuộc sống an bình") trên cả nước. Với khoản thu từ thuế, ông duy trì một đội quân thường trực. Vua kế tiếp là Andriandazaka tập trung vào cải cách tôn giáo và hệ tư tưởng, nhờ đó củng cố quyền lực của tầng lớp thống trị trong xã hội. Cuối thế kỷ 17, Andriamasinavaluna (? –1710) lên nắm quyền Imerina. Vào triều đại Andriamasinavaluna, Imerina có diện tích 150 km² và số dân vài nghìn, cũng như không có liên hệ với các hải cảng trên bờ biển Madagascar. Andriamasinavaluna thống nhất được người Merina. Vua tập trung phát triển nông nghiệp (thủy lợi và trồng lúa, chăn nuôi gia súc), thủ công nghiệp (sắt) và thương mại đường dài, cùng hình thức thuế quan đảm bảo nguồn thu cũng như lượng vũ khí cho vương quốc. Đến cuối đời, Andriamasinavaluna chia Imerina cho các con mình. Xã hội Imerina thế kỷ 18 càng phân cấp mạnh. Vua đứng ở đỉnh của phân tầng xã hội, nắm giữ đất đai lãnh thổ và giao cho thần dân. Hệ thống quyền lực được cha truyền con nối. Tiếp theo
tầng lớp andrianteloray được đặc ân phục vụ vua nửa sau thế kỷ 17 lại tiếp tục phân chia tầng lớp cho đến đầu thế kỷ 18 đã có 7 tầng lớp quý tộc ralambo kế vị andriamanelo tiến hành thay đổi kinh tế bên cạnh cải cách xã hội ông đảm bảo nguồn thu ổn định cho quốc khố bằng cách áp thuế vadin-aina bắt buộc giá phải trả cho cuộc sống an bình trên cả nước với khoản thu từ thuế ông duy trì một đội quân thường trực vua kế tiếp là andriandazaka tập trung vào cải cách tôn giáo và hệ tư tưởng nhờ đó củng cố quyền lực của tầng lớp thống trị trong xã hội cuối thế kỷ 17 andriamasinavaluna –1710 lên nắm quyền imerina vào triều đại andriamasinavaluna imerina có diện tích 150 km² và số dân vài nghìn cũng như không có liên hệ với các hải cảng trên bờ biển madagascar andriamasinavaluna thống nhất được người merina vua tập trung phát triển nông nghiệp thủy lợi và trồng lúa chăn nuôi gia súc thủ công nghiệp sắt và thương mại đường dài cùng hình thức thuế quan đảm bảo nguồn thu cũng như lượng vũ khí cho vương quốc đến cuối đời andriamasinavaluna chia imerina cho các con mình xã hội imerina thế kỷ 18 càng phân cấp mạnh vua đứng ở đỉnh của phân tầng xã hội nắm giữ đất đai lãnh thổ và giao cho thần dân hệ thống quyền lực được cha truyền con nối tiếp theo
Lịch sử Madagascar
mạnh. Vua đứng ở đỉnh của phân tầng xã hội, nắm giữ đất đai lãnh thổ và giao cho thần dân. Hệ thống quyền lực được cha truyền con nối. Tiếp theo là "Tampontan", chủ đất hậu duệ của những những thủ lĩnh của vùng đất, là hậu duệ của những người định cư đầu tiên. Tiếp theo là dân tự do gọi là "huva", gồm thương gia và nông dân. Nông dân có nghĩa vụ canh tác và nộp hoa lợi cho chủ đất. Nô lệ gọi là "andevu" ở dưới cùng xã hội. Nửa cuối thế kỷ 18, Ambuhimangi do Rambusalam (1740–1810) giữ vị trí đứng đầu trong số các bang Imerin riêng lẻ. Năm 1787, Rambusalama bắt đầu quá trình thống nhất Imerina. Ông củng cố các làng biên giới và cải tổ quân đội trang bị vũ khí mua về từ châu Âu. Năm 1794, vua bắt Antananariva và tự xưng là vua Imerina Adrianampoinimerina. Trong những năm tiếp theo, ông chinh phục vùng đất của người dân Sihanaka, Betsileu và Boina. Adrianampoinimerina cải cách nội bộ nhằm tập trung hóa nhà nước. Ông chia Imerina thành sáu tỉnh mới khác với lúc trước, đồng thời hạn chế quyền lực của tầng lớp quý tộc, xử lý tư pháp. Trong lĩnh vực kinh tế, Adrianampoinimerina thu thuế thành công, cống phẩm và nghĩa vụ, hỗ trợ thương mại, nông nghiệp và xây dựng đường xá. == Madagascar thống nhất. == Nhà nước đạt đến đỉnh cao vào thế kỷ 19, khi người Merina thâu tóm
mạnh vua đứng ở đỉnh của phân tầng xã hội nắm giữ đất đai lãnh thổ và giao cho thần dân hệ thống quyền lực được cha truyền con nối tiếp theo là tampontan chủ đất hậu duệ của những những thủ lĩnh của vùng đất là hậu duệ của những người định cư đầu tiên tiếp theo là dân tự do gọi là huva gồm thương gia và nông dân nông dân có nghĩa vụ canh tác và nộp hoa lợi cho chủ đất nô lệ gọi là andevu ở dưới cùng xã hội nửa cuối thế kỷ 18 ambuhimangi do rambusalam 1740–1810 giữ vị trí đứng đầu trong số các bang imerin riêng lẻ năm 1787 rambusalama bắt đầu quá trình thống nhất imerina ông củng cố các làng biên giới và cải tổ quân đội trang bị vũ khí mua về từ châu âu năm 1794 vua bắt antananariva và tự xưng là vua imerina adrianampoinimerina trong những năm tiếp theo ông chinh phục vùng đất của người dân sihanaka betsileu và boina adrianampoinimerina cải cách nội bộ nhằm tập trung hóa nhà nước ông chia imerina thành sáu tỉnh mới khác với lúc trước đồng thời hạn chế quyền lực của tầng lớp quý tộc xử lý tư pháp trong lĩnh vực kinh tế adrianampoinimerina thu thuế thành công cống phẩm và nghĩa vụ hỗ trợ thương mại nông nghiệp và xây dựng đường xá == madagascar thống nhất == nhà nước đạt đến đỉnh cao vào thế kỷ 19 khi người merina thâu tóm
Lịch sử Madagascar
và nghĩa vụ, hỗ trợ thương mại, nông nghiệp và xây dựng đường xá. == Madagascar thống nhất. == Nhà nước đạt đến đỉnh cao vào thế kỷ 19, khi người Merina thâu tóm gần như toàn bộ hòn đảo. Radam I (1810–1828) kế vị Adrianampoinimerina đã ngay lập tức chinh phục người Betsileo, rồi chiếm Sakalawa. Anh ủng hộ việc mở rộng lãnh thổ của Radama I để tạo ra một quốc gia mạnh ở Madagascar nhằm làm suy yếu ảnh hưởng của Pháp. Được Anh trợ giúp, Radama I hiện đại hóa quân đội. Năm 1817, ông chiếm phần đông nam đảo đến tận Tôlanaro (Pháo đài Dauphine). Năm 1824, Anh ủng hộ Imerina đánh chiếm Bethsimisarak. Song song với việc chinh phạt, cải cách hành chính cũng giúp củng cố kiểm soát quyền lực trên xã hội đa sắc tộc, như đặt ra "phokonolon" (hội đồng làng xã). Radama I đặt ra luật lệ để giúp các tầng lớp nghèo khổ có thể nâng cao mức sống, ông ký một thỏa thuận với Anh bãi bỏ việc buôn bán nô lệ. Để hạn chế ảnh hưởng của tầng lớp quý tộc, giới lãnh đạo cũng là thầy tư tế của tôn giáo bản địa, Radama I cải đạo sang Cơ đốc giáo và cho phép Hội Truyền giáo Phúc Âm Luân Đôn thành lập trường học và nhà thờ. Giáo dục được thực hiện bằng tiếng địa phương, sử dụng chữ viết. Năm 1828, vài nghìn người chủ yếu là Merina được gửi đến Anh
và nghĩa vụ hỗ trợ thương mại nông nghiệp và xây dựng đường xá == madagascar thống nhất == nhà nước đạt đến đỉnh cao vào thế kỷ 19 khi người merina thâu tóm gần như toàn bộ hòn đảo radam i 1810–1828 kế vị adrianampoinimerina đã ngay lập tức chinh phục người betsileo rồi chiếm sakalawa anh ủng hộ việc mở rộng lãnh thổ của radama i để tạo ra một quốc gia mạnh ở madagascar nhằm làm suy yếu ảnh hưởng của pháp được anh trợ giúp radama i hiện đại hóa quân đội năm 1817 ông chiếm phần đông nam đảo đến tận tôlanaro pháo đài dauphine năm 1824 anh ủng hộ imerina đánh chiếm bethsimisarak song song với việc chinh phạt cải cách hành chính cũng giúp củng cố kiểm soát quyền lực trên xã hội đa sắc tộc như đặt ra phokonolon hội đồng làng xã radama i đặt ra luật lệ để giúp các tầng lớp nghèo khổ có thể nâng cao mức sống ông ký một thỏa thuận với anh bãi bỏ việc buôn bán nô lệ để hạn chế ảnh hưởng của tầng lớp quý tộc giới lãnh đạo cũng là thầy tư tế của tôn giáo bản địa radama i cải đạo sang cơ đốc giáo và cho phép hội truyền giáo phúc âm luân đôn thành lập trường học và nhà thờ giáo dục được thực hiện bằng tiếng địa phương sử dụng chữ viết năm 1828 vài nghìn người chủ yếu là merina được gửi đến anh
Lịch sử Madagascar
lập trường học và nhà thờ. Giáo dục được thực hiện bằng tiếng địa phương, sử dụng chữ viết. Năm 1828, vài nghìn người chủ yếu là Merina được gửi đến Anh du học. Trên đảo thành lập được nhà in riêng. Sau khi Radama I qua đời năm 1828, vợ là Ranavalona I lên nắm quyền, xử lý tàn bạo bất cứ ai có thể lên ngôi. Vào thời Ranavalona I, xuất hiện phong trào tôn giáo ly khai và càng lúc gia tăng với những biểu hiện đầu tiên năm 1833. Phong trào tôn giáo cổ động cho bái vật giáo, đặc trưng cho sự chống đối người châu Âu. Tùy thuộc vào bối cảnh mà các yếu tố văn hóa châu Âu chọn lọc được chấp nhận hoặc khước từ hoàn toàn. Ranavalona I ra chính sách nhằm hạn chế ảnh hưởng chính trị và kinh tế của châu Âu vào Madagascar, bãi bỏ quy định do chồng mình đặt ra trước đó. Trong lĩnh vực tư pháp, cô ấy đã kích hoạt lại sắc lệnh bằng cách uống thuốc độc. Bà cấm giáo sĩ lên đảo và bắt bớ những người theo đạo Thiên Chúa. Ước tính có khoảng 150.000 người bị hành quyết trong thời Ranavalona I. Năm 1838, Ranavalona I áp đặt hạn chế thương mại với người Anh chỉ được phép giao dịch tại các cảng chỉ định trước dưới sự kiểm soát hoàn toàn của các quan chức Madagascar. Đáp lại, Anh cùng Pháp bắn phá cảng Tamatawa. Phải đến
lập trường học và nhà thờ giáo dục được thực hiện bằng tiếng địa phương sử dụng chữ viết năm 1828 vài nghìn người chủ yếu là merina được gửi đến anh du học trên đảo thành lập được nhà in riêng sau khi radama i qua đời năm 1828 vợ là ranavalona i lên nắm quyền xử lý tàn bạo bất cứ ai có thể lên ngôi vào thời ranavalona i xuất hiện phong trào tôn giáo ly khai và càng lúc gia tăng với những biểu hiện đầu tiên năm 1833 phong trào tôn giáo cổ động cho bái vật giáo đặc trưng cho sự chống đối người châu âu tùy thuộc vào bối cảnh mà các yếu tố văn hóa châu âu chọn lọc được chấp nhận hoặc khước từ hoàn toàn ranavalona i ra chính sách nhằm hạn chế ảnh hưởng chính trị và kinh tế của châu âu vào madagascar bãi bỏ quy định do chồng mình đặt ra trước đó trong lĩnh vực tư pháp cô ấy đã kích hoạt lại sắc lệnh bằng cách uống thuốc độc bà cấm giáo sĩ lên đảo và bắt bớ những người theo đạo thiên chúa ước tính có khoảng 150 000 người bị hành quyết trong thời ranavalona i năm 1838 ranavalona i áp đặt hạn chế thương mại với người anh chỉ được phép giao dịch tại các cảng chỉ định trước dưới sự kiểm soát hoàn toàn của các quan chức madagascar đáp lại anh cùng pháp bắn phá cảng tamatawa phải đến
Lịch sử Madagascar
được phép giao dịch tại các cảng chỉ định trước dưới sự kiểm soát hoàn toàn của các quan chức Madagascar. Đáp lại, Anh cùng Pháp bắn phá cảng Tamatawa. Phải đến năm 1853 cảng mới mở cửa trở lại. Với việc Pháp nhúng tay can thiệp, Jean Laborde bắt đầu sản xuất vũ khí, vật liệu xây dựng và vải ở Mantasoa gần Antananarivo. Kế vị Ranavalona I, Radama II (1861–1863) chuyển hướng bắt tay với châu Âu và liên hệ với các nước phương Tây. Radama II tái ký kết hiệp ước thương mại bị hủy bỏ dưới thời Ranavalona I và cho giáo sĩ Công giáo Pháp trở lại. Radama II chỉ ở ngôi được hai năm thì bị giết do một nhóm quý tộc lo ngại về chính sách thân Pháp và sợ mất đặc quyền. Vợ ông là Rasoherina (1863–1868) lên ngôi, phá vỡ thỏa thuận với Pháp và cấm Laborde hoạt động, chuyển hướng chính trị sang thân Anh. Sau khi Rasoherina qua đời, Ranavalona II lên thay trong giai đoạn 1868–1883. Quyền lực thực sự nằm trong tay người chồng thứ hai của nữ hoàng là Thủ tướng Rainilaiarivona. Ông đặt ra chính sách ngăn chặn các cường quốc châu Âu sáp nhập hòn đảo cũng như tiến trình thực dân hóa. Thủ tướng cố gắng tập trung hóa cơ quan hành chính nhà nước và tư pháp. Một đội ngũ quan chức được bổ nhiệm để kiểm soát những lãnh đạo gia tộc bộ lạc và lãnh chúa địa phương.
được phép giao dịch tại các cảng chỉ định trước dưới sự kiểm soát hoàn toàn của các quan chức madagascar đáp lại anh cùng pháp bắn phá cảng tamatawa phải đến năm 1853 cảng mới mở cửa trở lại với việc pháp nhúng tay can thiệp jean laborde bắt đầu sản xuất vũ khí vật liệu xây dựng và vải ở mantasoa gần antananarivo kế vị ranavalona i radama ii 1861–1863 chuyển hướng bắt tay với châu âu và liên hệ với các nước phương tây radama ii tái ký kết hiệp ước thương mại bị hủy bỏ dưới thời ranavalona i và cho giáo sĩ công giáo pháp trở lại radama ii chỉ ở ngôi được hai năm thì bị giết do một nhóm quý tộc lo ngại về chính sách thân pháp và sợ mất đặc quyền vợ ông là rasoherina 1863–1868 lên ngôi phá vỡ thỏa thuận với pháp và cấm laborde hoạt động chuyển hướng chính trị sang thân anh sau khi rasoherina qua đời ranavalona ii lên thay trong giai đoạn 1868–1883 quyền lực thực sự nằm trong tay người chồng thứ hai của nữ hoàng là thủ tướng rainilaiarivona ông đặt ra chính sách ngăn chặn các cường quốc châu âu sáp nhập hòn đảo cũng như tiến trình thực dân hóa thủ tướng cố gắng tập trung hóa cơ quan hành chính nhà nước và tư pháp một đội ngũ quan chức được bổ nhiệm để kiểm soát những lãnh đạo gia tộc bộ lạc và lãnh chúa địa phương
Lịch sử Madagascar
cơ quan hành chính nhà nước và tư pháp. Một đội ngũ quan chức được bổ nhiệm để kiểm soát những lãnh đạo gia tộc bộ lạc và lãnh chúa địa phương. Bộ máy giám sát hầu hết là từ quân đội chuyển sang đi về từng làng mạc. Dưới thời Thủ tướng Rainilaiarivona, chế độ đa thê bị cấm. Năm 1877, Madagascar bãi bỏ chế độ nô lệ. Chính phủ đã dành ngân quỹ để trả tự do cho một số loại nô lệ, hạn chế buôn bán và cấm dùng nô lệ để gán nợ. Năm 1881, mười bộ được thành lập để kiểm soát hành chính và kinh tế. Thay cho nô lệ là chế độ làm thuê, chính phủ ủng hộ việc thành lập doanh nghiệp. Rainilaiarivona tìm cách củng cố quân đội. Tuy nhiên, cải cách mới đòi hỏi tăng thuế lên cao, nên dân chúng cũng không vui vẻ ủng hộ. Năm 1869, nữ hoàng và thủ tướng theo đạo Tin lành và nâng lên quốc giáo. Việc này nhằm kết thân với Anh và hạn chế Pháp chống lại Madagascar. Tuy nhiên, kết quả lại là gia tăng quan hệ với người Pháp trên đảo. Dù vậy cuộc chiến 1883–1885 kết thúc với việc Pháp thành lập chính quyền bảo hộ trên toàn bộ đảo. Sau khi Ranavalona II qua đời năm 1883, Thủ tướng kết hôn với người kế vị là Ranavalona III (1883–1897) - nữ hoàng cuối cùng của Madagascar. Ông duy trì đường hướng chính trị chống Pháp
cơ quan hành chính nhà nước và tư pháp một đội ngũ quan chức được bổ nhiệm để kiểm soát những lãnh đạo gia tộc bộ lạc và lãnh chúa địa phương bộ máy giám sát hầu hết là từ quân đội chuyển sang đi về từng làng mạc dưới thời thủ tướng rainilaiarivona chế độ đa thê bị cấm năm 1877 madagascar bãi bỏ chế độ nô lệ chính phủ đã dành ngân quỹ để trả tự do cho một số loại nô lệ hạn chế buôn bán và cấm dùng nô lệ để gán nợ năm 1881 mười bộ được thành lập để kiểm soát hành chính và kinh tế thay cho nô lệ là chế độ làm thuê chính phủ ủng hộ việc thành lập doanh nghiệp rainilaiarivona tìm cách củng cố quân đội tuy nhiên cải cách mới đòi hỏi tăng thuế lên cao nên dân chúng cũng không vui vẻ ủng hộ năm 1869 nữ hoàng và thủ tướng theo đạo tin lành và nâng lên quốc giáo việc này nhằm kết thân với anh và hạn chế pháp chống lại madagascar tuy nhiên kết quả lại là gia tăng quan hệ với người pháp trên đảo dù vậy cuộc chiến 1883–1885 kết thúc với việc pháp thành lập chính quyền bảo hộ trên toàn bộ đảo sau khi ranavalona ii qua đời năm 1883 thủ tướng kết hôn với người kế vị là ranavalona iii 1883–1897 nữ hoàng cuối cùng của madagascar ông duy trì đường hướng chính trị chống pháp
Lịch sử Madagascar
qua đời năm 1883, Thủ tướng kết hôn với người kế vị là Ranavalona III (1883–1897) - nữ hoàng cuối cùng của Madagascar. Ông duy trì đường hướng chính trị chống Pháp làm bùng nổ xung đột trong trong hai thập kỷ cuối thế kỷ 19. Cuối thế kỷ 19 ghi dấu chế độ sở hữu đất đai trở nên rõ ràng. "Menabe" là đất riêng, đất hoàn thuộc về vua hay nữ hoàng. "Vodivon" là lãnh chúa có phần đất riêng. Đất đai còn lại thuộc về những nhóm "phokonolona" cùng nhau canh tác. Thành viên "phokonolona" có thể được thừa kế, hoặc bán phần của mình cho người khác trong nhóm với sự chấp thuận của cả nhóm. Người nông dân được hưởng hoa lợi "hetra" (ruộng lúa) từ "phokonolona". Các nhóm kiêm quản lý luôn đồng cỏ và đất rừng. == Xứ bảo hộ thuộc Pháp. == Dù có thêm nhiều đặc quyền nhiều trong thế kỷ 19, Pháp vẫn đang cố gắng chiếm toàn bộ đảo. Nửa sau thế kỷ 19, công nghiệp và thủ công nghiệp phát triển ở Madagascar. Những công xưởng đầu tiên đã xuất hiện, cùng với việc tổ chức các ngành công nghiệp khai thác. Cố gắng chiếm đảo thành thuộc địa, Pháp gây chiến với Madagascar trong những năm 1883–1885. Hạm đội Pháp bắn phá cảng và phong tỏa để cô lập đảo khỏi giao thông liên lạc với thế giới. Trường hợp Madagascar được đề cập trong hội nghị Berlinnăm 1885 theo sáng kiến phân chia ảnh hưởng ở
qua đời năm 1883 thủ tướng kết hôn với người kế vị là ranavalona iii 1883–1897 nữ hoàng cuối cùng của madagascar ông duy trì đường hướng chính trị chống pháp làm bùng nổ xung đột trong trong hai thập kỷ cuối thế kỷ 19 cuối thế kỷ 19 ghi dấu chế độ sở hữu đất đai trở nên rõ ràng menabe là đất riêng đất hoàn thuộc về vua hay nữ hoàng vodivon là lãnh chúa có phần đất riêng đất đai còn lại thuộc về những nhóm phokonolona cùng nhau canh tác thành viên phokonolona có thể được thừa kế hoặc bán phần của mình cho người khác trong nhóm với sự chấp thuận của cả nhóm người nông dân được hưởng hoa lợi hetra ruộng lúa từ phokonolona các nhóm kiêm quản lý luôn đồng cỏ và đất rừng == xứ bảo hộ thuộc pháp == dù có thêm nhiều đặc quyền nhiều trong thế kỷ 19 pháp vẫn đang cố gắng chiếm toàn bộ đảo nửa sau thế kỷ 19 công nghiệp và thủ công nghiệp phát triển ở madagascar những công xưởng đầu tiên đã xuất hiện cùng với việc tổ chức các ngành công nghiệp khai thác cố gắng chiếm đảo thành thuộc địa pháp gây chiến với madagascar trong những năm 1883–1885 hạm đội pháp bắn phá cảng và phong tỏa để cô lập đảo khỏi giao thông liên lạc với thế giới trường hợp madagascar được đề cập trong hội nghị berlinnăm 1885 theo sáng kiến phân chia ảnh hưởng ở
Lịch sử Madagascar
phong tỏa để cô lập đảo khỏi giao thông liên lạc với thế giới. Trường hợp Madagascar được đề cập trong hội nghị Berlinnăm 1885 theo sáng kiến phân chia ảnh hưởng ở châu Phi của Otto von Bismarck. Theo đó, hòn đảo nằm trong vùng ảnh hưởng của Pháp. Ranavalona III buộc phải ký thỏa thuận với Pháp, biến Madagascar thành một xứ bảo hộ, Pháp nắm quyền đối ngoại của đảo. Ranavalona III phải chịu mất Diego Suarez cùng bồi thường chiến phí. Theo hiệp ước, Pháp bố trí quân nhiều nơi trên đảo. Ngày 5 tháng 9 năm 1890, Anh Pháp ký kết hiệp định. Anh chấp nhận Pháp bảo hộ Madagascar, còn Pháp xác nhận Anh có quyền trên Zanzibar. Ngày 18 tháng 11 năm 1890, Đức cũng đồng ý Pháp bảo hộ Madagascar để đổi lấy việc được công nhận quyền lực tại Đông Phi thuộc Đức. Nhân dân Madagascar đứng lên phản ứng lại sự cai trị của Pháp, khởi nghĩa vũ trang nổ ra đầu tiên ở miền nam, rồi lan rộng ra hầu khắp cả nước. Năm 1890, Pháp gửi tối hậu thư nhưng người Malagasy không chịu từ bỏ độc lập. Năm 1895, mười lăm nghìn quân Pháp đổ bộ và chiếm Tananariva, Thủ tướng Rainilaiarivony bị trục xuất đến Algiers. Năm 1896, chính phủ Pháp thông qua luật sáp nhập Madagascar. Tướng Joseph Galleni dẫn quân đến đảo để đàn áp nổi dậy và áp đặt luật này. Khởi nghĩa bị dập tắt. Năm 1897, Nữ hoàng Ranavalla
phong tỏa để cô lập đảo khỏi giao thông liên lạc với thế giới trường hợp madagascar được đề cập trong hội nghị berlinnăm 1885 theo sáng kiến phân chia ảnh hưởng ở châu phi của otto von bismarck theo đó hòn đảo nằm trong vùng ảnh hưởng của pháp ranavalona iii buộc phải ký thỏa thuận với pháp biến madagascar thành một xứ bảo hộ pháp nắm quyền đối ngoại của đảo ranavalona iii phải chịu mất diego suarez cùng bồi thường chiến phí theo hiệp ước pháp bố trí quân nhiều nơi trên đảo ngày 5 tháng 9 năm 1890 anh pháp ký kết hiệp định anh chấp nhận pháp bảo hộ madagascar còn pháp xác nhận anh có quyền trên zanzibar ngày 18 tháng 11 năm 1890 đức cũng đồng ý pháp bảo hộ madagascar để đổi lấy việc được công nhận quyền lực tại đông phi thuộc đức nhân dân madagascar đứng lên phản ứng lại sự cai trị của pháp khởi nghĩa vũ trang nổ ra đầu tiên ở miền nam rồi lan rộng ra hầu khắp cả nước năm 1890 pháp gửi tối hậu thư nhưng người malagasy không chịu từ bỏ độc lập năm 1895 mười lăm nghìn quân pháp đổ bộ và chiếm tananariva thủ tướng rainilaiarivony bị trục xuất đến algiers năm 1896 chính phủ pháp thông qua luật sáp nhập madagascar tướng joseph galleni dẫn quân đến đảo để đàn áp nổi dậy và áp đặt luật này khởi nghĩa bị dập tắt năm 1897 nữ hoàng ranavalla
Lịch sử Madagascar
qua luật sáp nhập Madagascar. Tướng Joseph Galleni dẫn quân đến đảo để đàn áp nổi dậy và áp đặt luật này. Khởi nghĩa bị dập tắt. Năm 1897, Nữ hoàng Ranavalla III bị ép ký thoái vị và bị trục xuất. Pháp đặt chế độ khủng bố đẫm máu trên đảo. Galleni đưa ra chính sách nhằm chia rẽ các lãnh chúa địa phương và kích động đấu tranh sắc tộc. Năm 1904, Madagascar hoàn toàn nằm dưới quyền quân đội Pháp. . == Thuộc địa Pháp. == Sau khi nắm quyền, Pháp bắt đầu cai trị trực tiếp. Chính quyền Pháp thay đổi hành chính và luật lệ thay đổi cho phù hợp thể chế địa phương và áp đặt lên người Malagasy. Dân Madagascar nằm dưới luật pháp Pháp, có tự do và quyền cá nhân nhưng không có quyền công dân và chính trị. Họ chỉ có được quyền công dân nếu biết tiếng Pháp, công trạng với nước Pháp hoặc kết hôn với công dân Pháp. Các hành vi không phù hợp với đạo đức châu Âu đều bị cấm, ví dụ như các luật tục thử tội dã man. Trên văn bản, tên gọi các cơ quan và đơn vị hành chính năm 1896 vẫn được giữ nguyên. Hòn đảo được coi là một liên bang do một viên toàn quyền đứng đầu, trực thuộc Bộ trưởng Bộ các vấn đề thuộc địa. Dưới toàn quyền là thống đốc các thuộc địa. Tỉnh ("cercles)" và các đơn vị hành chính bên dưới phụ trách
qua luật sáp nhập madagascar tướng joseph galleni dẫn quân đến đảo để đàn áp nổi dậy và áp đặt luật này khởi nghĩa bị dập tắt năm 1897 nữ hoàng ranavalla iii bị ép ký thoái vị và bị trục xuất pháp đặt chế độ khủng bố đẫm máu trên đảo galleni đưa ra chính sách nhằm chia rẽ các lãnh chúa địa phương và kích động đấu tranh sắc tộc năm 1904 madagascar hoàn toàn nằm dưới quyền quân đội pháp == thuộc địa pháp == sau khi nắm quyền pháp bắt đầu cai trị trực tiếp chính quyền pháp thay đổi hành chính và luật lệ thay đổi cho phù hợp thể chế địa phương và áp đặt lên người malagasy dân madagascar nằm dưới luật pháp pháp có tự do và quyền cá nhân nhưng không có quyền công dân và chính trị họ chỉ có được quyền công dân nếu biết tiếng pháp công trạng với nước pháp hoặc kết hôn với công dân pháp các hành vi không phù hợp với đạo đức châu âu đều bị cấm ví dụ như các luật tục thử tội dã man trên văn bản tên gọi các cơ quan và đơn vị hành chính năm 1896 vẫn được giữ nguyên hòn đảo được coi là một liên bang do một viên toàn quyền đứng đầu trực thuộc bộ trưởng bộ các vấn đề thuộc địa dưới toàn quyền là thống đốc các thuộc địa tỉnh cercles và các đơn vị hành chính bên dưới phụ trách