id
stringlengths 1
8
| revid
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 37
44
| title
stringlengths 1
250
| text
sequence |
---|---|---|---|---|
3525 | 255 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3525 | Tháng 11 | [] |
3531 | 98738 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3531 | Lịch dương | [] |
3532 | 98738 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3532 | Lịch Tây | [] |
3533 | 903240 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3533 | Cơ sở dữ liệu | [
"Cơ sở dữ liệu () là một tập hợp các dữ liệu có tổ chức liên quan đến nhau, thường được lưu trữ và truy cập điện tử từ hệ thống máy tính. Khi cơ sở dữ liệu phức tạp hơn, chúng thường được phát triển bằng cách sử dụng các kỹ thuật thiết kế và mô hình hóa chính thức.",
"Về mặt vật lý, máy chủ cơ sở dữ liệu là các máy tính chuyên dụng chứa cơ sở dữ liệu thực tế và chỉ chạy DBMS và phần mềm liên quan. Các máy chủ cơ sở dữ liệu thường là các máy tính đa bộ xử lý, với bộ nhớ hào phóng và mảng đĩa RAID được sử dụng để lưu trữ ổn định. RAID được sử dụng để phục hồi dữ liệu nếu bất kỳ đĩa nào bị lỗi. Bộ tăng tốc cơ sở dữ liệu phần cứng, được kết nối với một hoặc nhiều máy chủ thông qua kênh tốc độ cao, cũng được sử dụng trong môi trường xử lý giao dịch khối lượng lớn. DBMS được tìm thấy ở trung tâm của hầu hết các ứng dụng cơ sở dữ liệu. Các DBMS có thể được xây dựng xung quanh một hạt nhân đa nhiệm tùy chỉnh có hỗ trợ mạng tích hợp, nhưng các DBMS hiện đại thường dựa vào một hệ điều hành tiêu chuẩn để cung cấp các chức năng này.",
"Vì các DBMS là một thị trường quan trọng, các nhà cung cấp máy tính và lưu trữ thường tính đến các yêu cầu DBMS trong các kế hoạch phát triển của riêng họ.",
"Cơ sở dữ liệu và các DBMS có thể được phân loại theo mô hình cơ sở dữ liệu mà chúng hỗ trợ (như quan hệ hoặc XML), loại máy tính mà chúng chạy trên (từ cụm máy chủ đến điện thoại di động), ngôn ngữ truy vấn (QL) được sử dụng để truy cập cơ sở dữ liệu (như SQL hoặc XQuery) và kỹ thuật nội bộ của chúng, ảnh hưởng đến hiệu suất, khả năng mở rộng, khả năng phục hồi và bảo mật.",
"Lịch sử.",
"Các kích thước, khả năng và hiệu suất của cơ sở dữ liệu và DBMS tương ứng của chúng đã tăng theo thứ tự độ lớn. Những sự gia tăng hiệu suất này được kích hoạt bởi sự tiến bộ công nghệ trong các lĩnh vực của bộ xử lý, bộ nhớ máy tính, lưu trữ máy tính và mạng máy tính. Sự phát triển của công nghệ cơ sở dữ liệu có thể được chia thành ba thời đại dựa trên mô hình hoặc cấu trúc dữ liệu: hướng đối tượng, SQL / quan hệ và hậu quan hệ.",
"Hai mô hình dữ liệu hướng đối tượng ban đầu chính là mô hình phân cấp và mô hình CODASYL (mô hình mạng).",
"Mô hình quan hệ, lần đầu tiên được Edgar F. Codd đề xuất vào năm 1970, đã thoát ly khỏi truyền thống này bằng cách nhấn mạnh rằng các ứng dụng nên tìm kiếm dữ liệu theo nội dung, thay vì theo các liên kết. Mô hình quan hệ sử dụng các tập hợp các bảng kiểu sổ cái, mỗi bảng được sử dụng cho một loại thực thể khác nhau. Chỉ vào giữa những năm 1980, phần cứng máy tính đã trở nên đủ mạnh để cho phép triển khai rộng rãi các hệ thống quan hệ (DBMS cộng với các ứng dụng). Tuy nhiên, vào đầu những năm 1990, các hệ thống quan hệ chiếm ưu thế trong tất cả các ứng dụng xử lý dữ liệu quy mô lớn và ính đến năm 2018[ [cập nhật]] chúng vẫn chiếm ưu thế: IBM DB2, Oracle, MySQL và Microsoft SQL Server là DBMS được tìm kiếm nhiều nhất. Ngôn ngữ cơ sở dữ liệu thống trị, SQL được tiêu chuẩn hóa cho mô hình quan hệ, đã ảnh hưởng đến các ngôn ngữ cơ sở dữ liệu cho các mô hình dữ liệu khác. Cơ sở dữ liệu đối tượng được phát triển vào những năm 1980 để khắc phục sự bất tiện của sự không phù hợp trở kháng quan hệ đối tượng, dẫn đến việc đặt ra thuật ngữ \"hậu quan hệ\" và cũng là sự phát triển của cơ sở dữ liệu quan hệ đối tượng lai.",
"Thế hệ cơ sở dữ liệu hậu quan hệ tiếp theo vào cuối những năm 2000 được gọi là cơ sở dữ liệu NoQuery, giới thiệu các kho lưu trữ khóa giá trị nhanh và cơ sở dữ liệu định hướng tài liệu. Một \"thế hệ tiếp theo\" cạnh tranh được gọi là cơ sở dữ liệu NewQuery đã thử triển khai các mô hình mới giữ lại mô hình quan hệ / SQL trong khi hướng đến việc phù hợp với hiệu suất cao của NoQuery so với các DBMS quan hệ có sẵn trên thị trường.",
"Những năm 1960, DBMS hướng đối tượng.",
"Sự ra đời của thuật ngữ \"cơ sở dữ liệu\" trùng khớp với sự sẵn có của bộ lưu trữ truy cập trực tiếp (đĩa và trống) từ giữa những năm 1960 trở đi. Thuật ngữ này thể hiện sự tương phản với các hệ thống dựa trên băng từ trước đây, cho phép sử dụng tương tác được chia sẻ thay vì xử lý hàng ngày. Từ điển tiếng Anh Oxford trích dẫn một báo cáo năm 1962 của Tập đoàn phát triển hệ thống California là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ \"cơ sở dữ liệu\" theo nghĩa kỹ thuật cụ thể.",
"Khi máy tính tăng trưởng về tốc độ và khả năng, một số hệ thống cơ sở dữ liệu đa năng đã xuất hiện; vào giữa những năm 1960, một số hệ thống như vậy đã được đưa vào sử dụng thương mại. Sự quan tâm đến một tiêu chuẩn bắt đầu tăng lên và Charles Bachman, tác giả của một sản phẩm như vậy, Kho dữ liệu tích hợp (IDS), đã thành lập \"Nhóm nhiệm vụ cơ sở dữ liệu\" trong CODASYL, nhóm chịu trách nhiệm tạo và chuẩn hóa COBOL. Năm 1971, Nhóm Nhiệm vụ Cơ sở dữ liệu đã đưa ra tiêu chuẩn của họ, thường được gọi là \"phương pháp CODASYL\", và ngay sau đó, một số sản phẩm thương mại dựa trên phương pháp này đã được đưa vào thị trường.",
"Cách tiếp cận CODASYL dựa trên hướng đối tượng \"thủ công\" của tập dữ liệu được liên kết được tạo thành một mạng lớn. Các ứng dụng có thể tìm thấy các bản ghi theo một trong ba phương pháp:",
"Các hệ thống sau này đã thêm cây B để cung cấp các đường dẫn truy cập thay thế. Nhiều cơ sở dữ liệu CODASYL cũng đã thêm một ngôn ngữ truy vấn rất đơn giản. Tuy nhiên, trong lần kiểm tra cuối cùng, CODASYL rất phức tạp và cần được đào tạo và nỗ lực đáng kể để tạo ra các ứng dụng hữu ích.",
"IBM cũng có DBMS của riêng họ vào năm 1966, được gọi là Hệ thống quản lý thông tin (IMS). IMS là sự phát triển của phần mềm được viết cho chương trình Apollo trên System/360. IMS nói chung tương tự khái niệm với CODASYL, nhưng đã sử dụng một hệ thống phân cấp chặt chẽ cho mô hình hướng đối tượng dữ liệu thay vì mô hình mạng của CODASYL. Cả hai khái niệm này sau đó được gọi là cơ sở dữ liệu hướng đối tượng do cách truy cập dữ liệu và bài thuyết trình Turing Award năm 1973 của Bachman là \"The Programmer as Navigator\". IMS được phân loại như một cơ sở dữ liệu phân cấp. Cơ sở dữ liệu TOTAL của IDMS và Cincom Systems được phân loại là cơ sở dữ liệu mạng. IMS vẫn được sử dụng ính đến năm 2014[ [cập nhật]].",
"Những năm 1970, DBMS quan hệ.",
"Edgar Codd làm việc tại IBM ở San Jose, California, tại một trong những văn phòng của họ, chủ yếu liên quan đến việc phát triển các hệ thống đĩa cứng. Ông không hài lòng với mô hình hướng đối tượng của phương pháp CODASYL, đáng chú ý là thiếu cơ sở \"tìm kiếm\". Năm 1970, ông đã viết một số bài báo phác thảo một cách tiếp cận mới để xây dựng cơ sở dữ liệu mà cuối cùng đã đạt đến đỉnh cao trong bài \"A Relational Model of Data for Large Shared Data Banks\".",
"Trong bài báo này, ông đã mô tả một hệ thống mới để lưu trữ và làm việc với các cơ sở dữ liệu lớn. Thay vì các bản ghi được lưu trữ trong một số loại danh sách các bản ghi dạng tự do được liên kết như trong CODASYL, ý tưởng của Codd là sử dụng \" bảng \" các bản ghi có độ dài cố định, với mỗi bảng được sử dụng cho một loại thực thể khác nhau. Một hệ thống danh sách liên kết sẽ rất kém hiệu quả khi lưu trữ cơ sở dữ liệu \"thưa thớt\" trong đó một số dữ liệu cho bất kỳ một bản ghi nào có thể bị bỏ trống. Mô hình quan hệ đã giải quyết điều này bằng cách chia dữ liệu thành một loạt các bảng (hoặc \"quan hệ\") được chuẩn hóa, với các phần tử tùy chọn được chuyển ra khỏi bảng chính đến nơi chúng chỉ chiếm phòng nếu cần. Dữ liệu có thể được chèn, xóa và chỉnh sửa tự do trong các bảng này, với DBMS thực hiện bất kỳ bảo trì nào cần thiết để hiển thị chế độ xem bảng cho ứng dụng / người dùng. ",
"Mô hình quan hệ cũng cho phép nội dung của cơ sở dữ liệu phát triển mà không cần viết lại liên kết và con trỏ. Phần quan hệ xuất phát từ các thực thể tham chiếu các thực thể khác trong mối quan hệ được gọi là mối quan hệ một-nhiều, như mô hình phân cấp truyền thống và mối quan hệ nhiều-nhiều, như mô hình hướng đối tượng (mạng). Do đó, một mô hình quan hệ có thể biểu thị cả mô hình phân cấp và hướng đối tượng, cũng như mô hình bảng gốc của nó, cho phép mô hình thuần túy hoặc kết hợp theo ba mô hình này, như ứng dụng yêu cầu.",
"Ví dụ, việc sử dụng phổ biến hệ thống cơ sở dữ liệu là theo dõi thông tin về người dùng, tên, thông tin đăng nhập, địa chỉ và số điện thoại khác nhau. Theo cách tiếp cận hướng đối tượng, tất cả các dữ liệu này sẽ được đặt trong một bản ghi và các mục không sử dụng sẽ không được đặt trong cơ sở dữ liệu. Theo cách tiếp cận quan hệ, dữ liệu sẽ được \"chuẩn hóa\" thành bảng người dùng, bảng địa chỉ và bảng số điện thoại (ví dụ). Bản ghi sẽ được tạo trong các bảng tùy chọn này chỉ khi địa chỉ hoặc số điện thoại thực sự được cung cấp.",
"Liên kết thông tin lại với nhau là chìa khóa cho hệ thống này. Trong mô hình quan hệ, một số thông tin được sử dụng làm \"khóa\", xác định duy nhất một bản ghi cụ thể. Khi thông tin được thu thập về người dùng, thông tin được lưu trữ trong các bảng tùy chọn sẽ được tìm thấy bằng cách tìm kiếm khóa này. Chẳng hạn, nếu tên đăng nhập của người dùng là duy nhất, địa chỉ và số điện thoại của người dùng đó sẽ được ghi lại với tên đăng nhập làm khóa. Việc \"liên kết lại\" các dữ liệu liên quan trở lại thành một bộ sưu tập đơn giản là điều mà các ngôn ngữ máy tính truyền thống không được thiết kế cho.",
"Giống như cách tiếp cận hướng đối tượng sẽ yêu cầu các chương trình lặp để thu thập các bản ghi, phương pháp quan hệ sẽ yêu cầu các vòng lặp để thu thập thông tin về bất kỳ \"một\" bản ghi nào. Các đề xuất của Codd là một ngôn ngữ được định hướng theo tập hợp, sau này sẽ sinh ra SQL phổ biến. Sử dụng một nhánh toán học được gọi là tính toán tuple, ông đã chứng minh rằng một hệ thống như vậy có thể hỗ trợ tất cả các hoạt động của cơ sở dữ liệu thông thường (chèn, cập nhật, v.v.) cũng như cung cấp một hệ thống đơn giản để tìm và trả về \"các tập hợp\" dữ liệu trong một thao tác.",
"Bài báo của Codd đã được hai người tại Berkeley, Eugene Wong và Michael Stonebraker chú ý. Họ đã bắt đầu một dự án được gọi là INGRES bằng cách sử dụng nguồn vốn đã được phân bổ cho một dự án cơ sở dữ liệu địa lý và các lập trình viên sinh viên để tạo mã. Bắt đầu từ năm 1973, INGRES đã cung cấp các sản phẩm thử nghiệm đầu tiên thường sẵn sàng để sử dụng rộng rãi vào năm 1979. INGRES tương tự như System R theo một số cách, bao gồm cả việc sử dụng \"ngôn ngữ\" để truy cập dữ liệu, được gọi là QUEL. Theo thời gian, INGRES chuyển sang tiêu chuẩn SQL mới nổi.",
"Bản thân IBM đã thực hiện một thử nghiệm thực hiện mô hình quan hệ, PRTV và một mô hình sản xuất, Business System 12, cả hai đều đã ngừng hoạt động. Honeywell đã viết MRDS cho Multics, và bây giờ có hai triển khai mới: Alphora Dataphor và Rel. Hầu hết các triển khai DBMS khác thường được gọi là \"quan hệ\" thực sự là các DBMS SQL.",
"Năm 1970, Đại học Michigan đã bắt đầu phát triển Hệ thống quản lý thông tin MICRO dựa trên mô hình Dữ liệu lý thuyết tập hợp của DL Childs. MICRO đã được sử dụng để quản lý các tập dữ liệu rất lớn bởi Bộ Lao động Mỹ, Cục Bảo vệ Môi trường Mỹ, và các nhà nghiên cứu từ Đại học Alberta, trường Đại học Michigan, và trường Đại học Wayne State. Nó chạy trên các máy tính lớn của IBM sử dụng Hệ thống đầu cuối Michigan. Hệ thống vẫn được sử dụng cho đến năm 1998.",
"Phương pháp tích hợp.",
"Trong những năm 1970 và 1980, các nỗ lực đã được thực hiện để xây dựng các hệ thống cơ sở dữ liệu với phần cứng và phần mềm tích hợp. Triết lý cơ bản là sự tích hợp như vậy sẽ cung cấp hiệu suất cao hơn với chi phí thấp hơn. Ví dụ là IBM System / 38, việc cung cấp Teradata sớm và máy cơ sở dữ liệu Britton Lee, Inc.",
"Một cách tiếp cận khác để hỗ trợ phần cứng cho quản lý cơ sở dữ liệu là bộ tăng tốc CAFS của ICL, bộ điều khiển đĩa phần cứng với khả năng tìm kiếm được lập trình. Về lâu dài, những nỗ lực này thường không thành công vì các máy cơ sở dữ liệu chuyên dụng không thể theo kịp sự phát triển và tiến bộ nhanh chóng của các máy tính đa năng. Do đó, hầu hết các hệ thống cơ sở dữ liệu hiện nay là các hệ thống phần mềm chạy trên phần cứng đa năng, sử dụng lưu trữ dữ liệu máy tính đa năng. Tuy nhiên, ý tưởng này vẫn được một số công ty như Netezza và Oracle (Exadata) theo đuổi.",
"Cuối những năm 1970, SQL DBMS.",
"IBM bắt đầu làm việc trên một hệ thống nguyên mẫu dựa trên các khái niệm của Codd là \"System R\" vào đầu những năm 1970. Phiên bản đầu tiên đã sẵn sàng vào năm 1974/5 và sau đó bắt đầu hoạt động trên các hệ thống nhiều bảng trong đó dữ liệu có thể được phân tách để tất cả dữ liệu cho một bản ghi (một số trong đó là tùy chọn) không phải được lưu trữ trong một \"chunk\" lớn. Các phiên bản đa người dùng sau đó đã được khách hàng thử nghiệm vào năm 1978 và 1979, vào thời điểm đó, một ngôn ngữ truy vấn được tiêu chuẩn hóa - SQL - đã được thêm vào. Các ý tưởng của Codd đã tự thiết lập cả khả thi và vượt trội so với CODASYL, thúc đẩy IBM phát triển một phiên bản sản xuất thực sự của System R, được gọi là \"SQL/DS\", và sau đó là \"Database 2\" (DB2).",
"Cơ sở dữ liệu Oracle của Larry Ellison (hay đơn giản hơn là Oracle) bắt đầu từ một chuỗi khác, dựa trên các tài liệu của IBM về Hệ thống R. Mặc dù việc triển khai Oracle V1 đã được hoàn thành vào năm 1978, nhưng mãi đến khi Oracle Phiên bản 2 đánh bại IBM trên thị trường vào năm 1979.",
"Stonoplker tiếp tục áp dụng các bài học từ INGRES để phát triển cơ sở dữ liệu mới, Postgres, hiện được gọi là PostgreQuery. PostgreSQL thường được sử dụng cho các ứng dụng quan trọng toàn cầu (các cơ quan đăng ký tên miền.org và.info sử dụng nó làm kho lưu trữ dữ liệu chính của họ, cũng như nhiều công ty lớn và tổ chức tài chính).",
"Ở Thụy Điển, bài báo của Codd cũng được đọc và Mimer SQL được phát triển từ giữa những năm 1970 tại Đại học Uppsala. Năm 1984, dự án này được hợp nhất thành một doanh nghiệp độc lập.",
"Một mô hình dữ liệu khác, mô hình quan hệ thực thể, xuất hiện vào năm 1976 và đã trở nên phổ biến cho thiết kế cơ sở dữ liệu vì nó nhấn mạnh một mô tả quen thuộc hơn so với mô hình quan hệ trước đó. Sau đó, các cấu trúc mối quan hệ thực thể được trang bị thêm như một cấu trúc mô hình dữ liệu cho mô hình quan hệ và sự khác biệt giữa hai cấu trúc đã trở nên không liên quan.",
"Những năm 1980, trên máy tính để bàn.",
"Những năm 1980 mở ra thời đại của máy tính để bàn. Các máy tính mới trao quyền cho người dùng của họ với các bảng tính như Lotus 1-2-3 và phần mềm cơ sở dữ liệu như dBASE. Sản phẩm dBASE rất nhẹ và dễ dàng cho bất kỳ người dùng máy tính nào hiểu được. C. Wayne Ratliff, người tạo ra dBASE, đã tuyên bố: \"dBASE khác với các chương trình như BASIC, C, FORTRAN và COBOL ở chỗ rất nhiều công việc bẩn thỉu đã được thực hiện. Thao tác dữ liệu được thực hiện bởi dBASE thay vì người dùng, vì vậy người dùng có thể tập trung vào những gì anh ta đang làm, thay vì phải làm rối với các chi tiết bẩn của việc mở, đọc và đóng tệp và quản lý phân bổ không gian. \" dBASE là một trong những phần mềm bán chạy hàng đầu trong những năm 1980 và đầu những năm 1990.",
"Những năm 1990, hướng đối tượng.",
"Những năm 1990, cùng với sự gia tăng trong lập trình hướng đối tượng, đã chứng kiến sự tăng trưởng về cách xử lý dữ liệu trong các cơ sở dữ liệu khác nhau. Các lập trình viên và nhà thiết kế bắt đầu coi dữ liệu trong cơ sở dữ liệu của họ là đối tượng. Điều đó có nghĩa là nếu dữ liệu của một người nằm trong cơ sở dữ liệu, các thuộc tính của người đó, như địa chỉ, số điện thoại và tuổi của họ, giờ đây được coi là thuộc về người đó thay vì dữ liệu không liên quan. Điều này cho phép các mối quan hệ giữa dữ liệu là quan hệ với các đối tượng và thuộc tính của chúng chứ không phải cho các trường riêng lẻ. Thuật ngữ \" không khớp trở kháng quan hệ đối tượng \" đã mô tả sự bất tiện của việc dịch giữa các đối tượng được lập trình và các bảng cơ sở dữ liệu. Cơ sở dữ liệu đối tượng và cơ sở dữ liệu quan hệ đối tượng cố gắng giải quyết vấn đề này bằng cách cung cấp ngôn ngữ hướng đối tượng (đôi khi là phần mở rộng cho SQL) mà các lập trình viên có thể sử dụng thay thế cho SQL hoàn toàn quan hệ. Về phía lập trình, các thư viện được gọi là ánh xạ quan hệ đối tượng (ORM) cố gắng giải quyết vấn đề tương tự.",
"Những năm 2000, NoSQL và NewSQL.",
"Cơ sở dữ liệu XML là một loại cơ sở dữ liệu hướng tài liệu có cấu trúc, cho phép truy vấn dựa trên các thuộc tính tài liệu XML. Cơ sở dữ liệu XML chủ yếu được sử dụng trong các ứng dụng mà dữ liệu được xem thuận tiện dưới dạng tập hợp tài liệu, với cấu trúc có thể thay đổi từ rất linh hoạt đến rất cứng nhắc: ví dụ bao gồm các bài báo khoa học, bằng sáng chế, hồ sơ thuế và hồ sơ nhân sự.",
"Cơ sở dữ liệu NoSQL thường rất nhanh, không yêu cầu lược đồ bảng cố định, tránh các hoạt động tham gia bằng cách lưu trữ dữ liệu không chuẩn hóa và được thiết kế để mở rộng theo chiều ngang.",
"Trong những năm gần đây, có nhu cầu lớn về cơ sở dữ liệu phân tán ồ ạt với dung sai phân vùng cao, nhưng theo định lý CAP, hệ thống phân tán không thể đồng thời cung cấp sự đảm bảo tính nhất quán, tính sẵn sàng và phân vùng. Một hệ thống phân tán có thể đáp ứng bất kỳ hai trong số các bảo đảm này cùng một lúc, nhưng không phải cả ba. Vì lý do đó, nhiều cơ sở dữ liệu NoSQL đang sử dụng cái được gọi là tính nhất quán cuối cùng để cung cấp cả đảm bảo dung sai phân vùng và tính sẵn sàng với mức độ thống nhất dữ liệu giảm.",
"NewSQL là một lớp cơ sở dữ liệu quan hệ hiện đại nhằm cung cấp hiệu năng có thể mở rộng tương tự của các hệ thống NoQuery để xử lý khối lượng công việc xử lý giao dịch trực tuyến (đọc-ghi) trong khi vẫn sử dụng SQL và duy trì bảo đảm ACID của hệ thống cơ sở dữ liệu truyền thống.",
"Trường hợp sử dụng.",
"Cơ sở dữ liệu được sử dụng để hỗ trợ các hoạt động nội bộ của các tổ chức và để củng cố các tương tác trực tuyến với khách hàng và nhà cung cấp (xem phần mềm Doanh nghiệp).",
"Cơ sở dữ liệu được sử dụng để chứa thông tin quản trị và dữ liệu chuyên ngành hơn, chẳng hạn như dữ liệu kỹ thuật hoặc mô hình kinh tế. Ví dụ bao gồm hệ thống thư viện máy tính, hệ thống đặt chỗ chuyến bay, hệ thống kiểm kê bộ phận máy tính và nhiều hệ thống quản lý nội dung lưu trữ các trang web dưới dạng bộ sưu tập các trang web trong cơ sở dữ liệu.",
"Phân loại.",
"Một cách để phân loại cơ sở dữ liệu liên quan đến loại nội dung của chúng, ví dụ: thư mục, tài liệu văn bản, thống kê hoặc đối tượng đa phương tiện. Một cách khác là theo lĩnh vực ứng dụng của họ, ví dụ: kế toán, sáng tác nhạc, phim ảnh, ngân hàng, sản xuất hoặc bảo hiểm. Cách thứ ba là theo một số khía cạnh kỹ thuật, chẳng hạn như cấu trúc cơ sở dữ liệu hoặc loại giao diện. Phần này liệt kê một số tính từ được sử dụng để mô tả các loại cơ sở dữ liệu khác nhau.",
" Các kiến trúc DBMS song song chính được tạo ra bởi kiến trúc phần cứng cơ bản là: ",
"* Kiến trúc bộ nhớ dùng chung, nơi nhiều bộ xử lý chia sẻ không gian bộ nhớ chính, cũng như lưu trữ dữ liệu khác. ",
"* Kiến trúc đĩa chia sẻ, trong đó mỗi đơn vị xử lý (thường bao gồm nhiều bộ xử lý) có bộ nhớ chính, nhưng tất cả các đơn vị chia sẻ bộ lưu trữ khác. ",
"* Kiến trúc không chia sẻ, trong đó mỗi đơn vị xử lý có bộ nhớ chính và bộ lưu trữ khác.",
"Tương tác cơ sở dữ liệu.",
"Hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu.",
"Connolly và Begg định nghĩa Hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu (DBMS) là một \"hệ thống phần mềm cho phép người dùng xác định, tạo, duy trì và kiểm soát truy cập vào cơ sở dữ liệu\".",
"Từ viết tắt DBMS đôi khi được mở rộng để chỉ ra mô hình cơ sở dữ liệu cơ bản, với RDBMS cho mô hình quan hệ, OODBMS hoặc ORDBMS cho mô hình đối tượng (định hướng) và ORDBMS cho Quan hệ đối tượng. Các phần mở rộng khác có thể chỉ ra một số đặc điểm khác, chẳng hạn như DDBMS cho hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu phân tán.",
"Các chức năng được cung cấp bởi một DBMS có thể rất khác nhau. Chức năng cốt lõi là lưu trữ, truy xuất và cập nhật dữ liệu. Codd đề xuất các chức năng và dịch vụ sau đây, DBMS có mục đích chung được cung cấp đầy đủ: ",
"Nhìn chung, DBMS sẽ cung cấp một bộ các tiện ích cho các mục đích như vậy có thể cần thiết để quản trị cơ sở dữ liệu một cách hiệu quả, bao gồm các tiện ích nhập, xuất, giám sát, phân mảnh và phân tích. Phần cốt lõi của DBMS tương tác giữa cơ sở dữ liệu và giao diện ứng dụng đôi khi được gọi là công cụ cơ sở dữ liệu.",
"Thông thường các DBMS sẽ có các tham số cấu hình có thể được điều chỉnh tĩnh và động, ví dụ: lượng bộ nhớ chính tối đa trên máy chủ mà cơ sở dữ liệu có thể sử dụng. Xu hướng là giảm thiểu số lượng cấu hình thủ công và đối với các trường hợp như cơ sở dữ liệu nhúng, nhu cầu nhắm mục tiêu quản trị tự động là tối quan trọng.",
"Các DBMS doanh nghiệp lớn có xu hướng tăng kích thước và chức năng và có thể liên quan đến hàng ngàn năm nỗ lực phát triển của con người trong suốt cuộc đời của họ.",
"DBMS nhiều người dùng sớm thường chỉ cho phép ứng dụng cư trú trên cùng một máy tính có quyền truy cập thông qua thiết bị đầu cuối hoặc phần mềm mô phỏng thiết bị đầu cuối. Kiến trúc máy chủ của máy khách là một sự phát triển trong đó ứng dụng nằm trên màn hình máy khách và cơ sở dữ liệu trên máy chủ cho phép xử lý được phân phối. Điều này phát triển thành một kiến trúc đa nhiệm kết hợp các máy chủ ứng dụng và máy chủ web với giao diện người dùng cuối thông qua trình duyệt web với cơ sở dữ liệu chỉ được kết nối trực tiếp với tầng liền kề.",
"DBMS có mục đích chung sẽ cung cấp các giao diện lập trình ứng dụng công cộng (API) và tùy chọn bộ xử lý cho các ngôn ngữ cơ sở dữ liệu như SQL để cho phép các ứng dụng được viết để tương tác với cơ sở dữ liệu. DBMS có mục đích đặc biệt có thể sử dụng API riêng và được tùy chỉnh và liên kết cụ thể với một ứng dụng. Ví dụ, một hệ thống email thực hiện nhiều chức năng của DBMS có mục đích chung như chèn tin nhắn, xóa tin nhắn, xử lý tệp đính kèm, tra cứu danh sách chặn, liên kết tin nhắn một địa chỉ email, v.v..",
"Ứng dụng.",
"Tương tác bên ngoài với cơ sở dữ liệu sẽ thông qua một chương trình ứng dụng có giao diện với DBMS. Điều này có thể bao gồm từ một công cụ cơ sở dữ liệu cho phép người dùng thực hiện các truy vấn SQL bằng văn bản hoặc bằng đồ họa, đến một trang web tình cờ sử dụng cơ sở dữ liệu để lưu trữ và tìm kiếm thông tin.",
"Giao diện chương trình ứng dụng.",
"Một lập trình viên sẽ lập trình các tương tác vào cơ sở dữ liệu (đôi khi được gọi là nguồn dữ liệu) thông qua giao diện chương trình ứng dụng (API) hoặc thông qua ngôn ngữ cơ sở dữ liệu. API hoặc ngôn ngữ cụ thể được chọn sẽ cần được DBMS hỗ trợ, có thể gián tiếp thông qua bộ xử lý trước hoặc API bắc cầu. Một số API nhằm mục đích độc lập với cơ sở dữ liệu, ODBC là một ví dụ thường được biết đến. Các API phổ biến khác bao gồm JDBC và ADO.NET.",
"Ngôn ngữ cơ sở dữ liệu.",
"Ngôn ngữ cơ sở dữ liệu là ngôn ngữ có mục đích đặc biệt, cho phép một hoặc nhiều tác vụ sau, đôi khi được phân biệt là ngôn ngữ con:",
"Ngôn ngữ cơ sở dữ liệu là cụ thể cho một mô hình dữ liệu cụ thể. Các ví dụ đáng chú ý bao gồm:",
"Một ngôn ngữ cơ sở dữ liệu cũng có thể kết hợp các tính năng như:",
"Lưu trữ.",
"Lưu trữ cơ sở dữ liệu là nơi chứa vật chất hóa vật lý của cơ sở dữ liệu. Nó bao gồm \"mức độ\" \"nội bộ\" (vật lý) trong kiến trúc cơ sở dữ liệu. Nó cũng chứa tất cả thông tin cần thiết (ví dụ: siêu dữ liệu, \"dữ liệu về dữ liệu\" và cấu trúc dữ liệu bên trong) để tái cấu trúc \"mức khái niệm\" và \"cấp độ bên ngoài\" từ cấp độ bên trong khi cần. Đưa dữ liệu vào lưu trữ vĩnh viễn nói chung là trách nhiệm của công cụ cơ sở dữ liệu hay còn gọi là \"công cụ lưu trữ\". Mặc dù DBMS thường truy cập thông qua hệ điều hành cơ bản (và thường sử dụng các hệ thống tệp của hệ điều hành làm trung gian để bố trí lưu trữ), các thuộc tính lưu trữ và cài đặt cấu hình là cực kỳ quan trọng đối với hoạt động hiệu quả của DBMS và do đó được duy trì chặt chẽ bởi quản trị cơ sở dữ liệu. Một DBMS, trong khi hoạt động, luôn có cơ sở dữ liệu của nó nằm trong một số loại lưu trữ (ví dụ: bộ nhớ và bộ nhớ ngoài). Dữ liệu cơ sở dữ liệu và thông tin cần thiết bổ sung, có thể với số lượng rất lớn, được mã hóa thành các bit. Dữ liệu thường nằm trong bộ lưu trữ trong các cấu trúc trông hoàn toàn khác với cách dữ liệu nhìn ở cấp độ khái niệm và bên ngoài, nhưng theo cách cố gắng tối ưu hóa (tốt nhất có thể) các cấu trúc này khi người dùng và chương trình cũng cần như để tính toán các loại thông tin cần thiết từ dữ liệu (ví dụ: khi truy vấn cơ sở dữ liệu).",
"Một số DBMS hỗ trợ chỉ định mã hóa ký tự nào được sử dụng để lưu trữ dữ liệu, do đó, nhiều mã hóa có thể được sử dụng trong cùng một cơ sở dữ liệu.",
"Các cấu trúc lưu trữ cơ sở dữ liệu mức thấp khác nhau được sử dụng bởi công cụ lưu trữ để tuần tự hóa mô hình dữ liệu để nó có thể được ghi vào phương tiện lựa chọn. Các kỹ thuật như lập chỉ mục có thể được sử dụng để cải thiện hiệu suất. Lưu trữ thông thường là theo định hướng hàng, nhưng cũng có cơ sở dữ liệu tương quan và định hướng cột.",
"Quan điểm cụ thể hóa.",
"Thường dự phòng lưu trữ được sử dụng để tăng hiệu suất. Một ví dụ phổ biến là lưu trữ \"các khung nhìn cụ thể hóa\", bao gồm các \"khung nhìn bên ngoài\" hoặc kết quả truy vấn thường xuyên cần thiết. Lưu trữ các quan điểm như vậy giúp tiết kiệm điện toán đắt tiền của chúng mỗi khi chúng cần thiết. Nhược điểm của các khung nhìn cụ thể hóa là chi phí phát sinh khi cập nhật chúng để giữ cho chúng được đồng bộ hóa với dữ liệu cơ sở dữ liệu được cập nhật ban đầu của chúng và chi phí dự phòng lưu trữ.",
"Sao chép nhân rộng.",
"Đôi khi, cơ sở dữ liệu sử dụng dự phòng lưu trữ bằng cách sao chép đối tượng cơ sở dữ liệu (có một hoặc nhiều bản sao) để tăng tính khả dụng của dữ liệu (cả hai để cải thiện hiệu suất của nhiều người dùng cuối truy cập vào cùng một đối tượng cơ sở dữ liệu và để cung cấp khả năng phục hồi trong trường hợp không thành công một cơ sở dữ liệu phân tán). Cập nhật của một đối tượng được nhân rộng cần phải được đồng bộ hóa trên các bản sao đối tượng. Trong nhiều trường hợp, toàn bộ cơ sở dữ liệu được nhân rộng.",
"Bảo mật.",
"Bảo mật cơ sở dữ liệu liên quan đến tất cả các khía cạnh khác nhau của việc bảo vệ nội dung cơ sở dữ liệu, chủ sở hữu và người dùng của nó. Nó bao gồm từ bảo vệ khỏi việc sử dụng cơ sở dữ liệu trái phép có chủ ý đến cơ sở dữ liệu vô tình truy cập bởi các thực thể trái phép (ví dụ: một người hoặc một chương trình máy tính).",
"Kiểm soát truy cập cơ sở dữ liệu liên quan đến việc kiểm soát ai (một người hoặc một chương trình máy tính nhất định) được phép truy cập thông tin nào trong cơ sở dữ liệu. Thông tin có thể bao gồm các đối tượng cơ sở dữ liệu cụ thể (vd hoặc các cấu trúc dữ liệu khác để truy cập thông tin). Các điều khiển truy cập cơ sở dữ liệu được thiết lập bởi nhân viên được ủy quyền đặc biệt (bởi chủ sở hữu cơ sở dữ liệu) sử dụng các giao diện DBMS bảo mật chuyên dụng được bảo vệ.",
"Điều này có thể được quản lý trực tiếp trên cơ sở cá nhân, hoặc bằng cách phân công các cá nhân và đặc quyền cho các nhóm, hoặc (trong các mô hình phức tạp nhất) thông qua việc phân công các cá nhân và nhóm cho các vai trò sau đó được cấp quyền. Bảo mật dữ liệu ngăn người dùng trái phép xem hoặc cập nhật cơ sở dữ liệu. Sử dụng mật khẩu, người dùng được phép truy cập vào toàn bộ cơ sở dữ liệu hoặc các tập hợp con của nó được gọi là \"các bộ phận con\". Ví dụ: cơ sở dữ liệu nhân viên có thể chứa tất cả dữ liệu về một nhân viên, nhưng một nhóm người dùng có thể được phép chỉ xem dữ liệu bảng lương, trong khi những người khác chỉ được phép truy cập vào lịch sử làm việc và dữ liệu y tế. Nếu DBMS cung cấp một cách để tương tác nhập và cập nhật cơ sở dữ liệu, cũng như thẩm vấn nó, khả năng này cho phép quản lý cơ sở dữ liệu cá nhân.",
"Bảo mật dữ liệu nói chung liên quan đến việc bảo vệ các khối dữ liệu cụ thể, cả về mặt vật lý (nghĩa là khỏi tham nhũng, hoặc phá hủy hoặc xóa; ví dụ: xem bảo mật vật lý) hoặc giải thích chúng hoặc các phần của chúng đối với thông tin có ý nghĩa (ví dụ: nhìn vào chuỗi bit mà chúng bao gồm, kết luận số thẻ tín dụng hợp lệ cụ thể, ví dụ: xem mã hóa dữ liệu).",
"Thay đổi và truy cập các bản ghi nhật ký những người đã truy cập thuộc tính nào, những gì đã được thay đổi và khi nó được thay đổi. Dịch vụ ghi nhật ký cho phép kiểm tra cơ sở dữ liệu pháp y sau đó bằng cách lưu giữ hồ sơ về các lần xuất hiện và thay đổi truy cập. Đôi khi mã cấp độ ứng dụng được sử dụng để ghi lại các thay đổi thay vì để mã này vào cơ sở dữ liệu. Giám sát có thể được thiết lập để cố gắng phát hiện các vi phạm an ninh.",
"Giao dịch và xử lý giao dịch đồng thời.",
"Các giao dịch cơ sở dữ liệu có thể được sử dụng để giới thiệu một số mức độ chịu lỗi và tính toàn vẹn dữ liệu sau khi phục hồi sau sự cố. Giao dịch cơ sở dữ liệu là một đơn vị công việc, thường đóng gói một số hoạt động trên cơ sở dữ liệu (ví dụ: đọc đối tượng cơ sở dữ liệu, viết, lấy khóa, v.v.), một sự trừu tượng được hỗ trợ trong cơ sở dữ liệu và các hệ thống khác. Mỗi giao dịch có các ranh giới được xác định rõ về mặt thực thi chương trình / mã được bao gồm trong giao dịch đó (được xác định bởi người lập trình giao dịch thông qua các lệnh giao dịch đặc biệt).",
"Từ viết tắt ACID mô tả một số tính chất lý tưởng của giao dịch cơ sở dữ liệu: tính nguyên tử, tính nhất quán, sự cô lập và độ bền.",
"Di chuyển.",
"Một cơ sở dữ liệu được xây dựng với một DBMS không thể di chuyển sang một DBMS khác (nghĩa là DBMS khác không thể chạy nó). Tuy nhiên, trong một số tình huống, mong muốn di chuyển, di chuyển cơ sở dữ liệu từ DBMS này sang DBMS khác. Các lý do chủ yếu là kinh tế (các DBMS khác nhau có thể có tổng chi phí sở hữu hoặc TCO khác nhau), chức năng và hoạt động (các DBMS khác nhau có thể có các khả năng khác nhau). Việc di chuyển liên quan đến việc chuyển đổi cơ sở dữ liệu từ loại DBMS này sang loại khác. Việc chuyển đổi phải duy trì (nếu có thể) các ứng dụng liên quan đến cơ sở dữ liệu (nghĩa là tất cả các chương trình ứng dụng liên quan) còn nguyên vẹn. Do đó, các mức kiến trúc bên ngoài và khái niệm của cơ sở dữ liệu nên được duy trì trong quá trình chuyển đổi. Có thể mong muốn rằng một số khía cạnh của cấp độ kiến trúc được duy trì. Di chuyển cơ sở dữ liệu phức tạp hoặc lớn có thể là một dự án phức tạp và tốn kém (một lần), điều này cần được đưa vào quyết định di chuyển. Điều này mặc dù thực tế là các công cụ có thể tồn tại để giúp di chuyển giữa các DBMS cụ thể. Thông thường, nhà cung cấp DBMS cung cấp các công cụ để giúp nhập cơ sở dữ liệu từ các DBMS phổ biến khác.",
"Xây dựng, bảo trì và điều chỉnh.",
"Sau khi thiết kế cơ sở dữ liệu cho một ứng dụng, giai đoạn tiếp theo là xây dựng cơ sở dữ liệu. Thông thường, một DBMS có mục đích chung thích hợp có thể được chọn để sử dụng cho mục đích này. DBMS cung cấp các giao diện người dùng cần thiết được sử dụng bởi các quản trị viên cơ sở dữ liệu để xác định cấu trúc dữ liệu của ứng dụng cần thiết trong mô hình dữ liệu tương ứng của DBMS. Các giao diện người dùng khác được sử dụng để chọn các tham số DBMS cần thiết (như liên quan đến bảo mật, tham số phân bổ lưu trữ, v.v.).",
"Khi cơ sở dữ liệu đã sẵn sàng (tất cả các cấu trúc dữ liệu và các thành phần cần thiết khác được xác định), nó thường được điền với dữ liệu của ứng dụng ban đầu (khởi tạo cơ sở dữ liệu, thường là một dự án riêng biệt; trong nhiều trường hợp sử dụng giao diện DBMS chuyên dụng hỗ trợ chèn hàng loạt) trước đó làm cho nó hoạt động. Trong một số trường hợp, cơ sở dữ liệu sẽ hoạt động trong khi trống dữ liệu ứng dụng và dữ liệu được tích lũy trong quá trình hoạt động.",
"Sau khi cơ sở dữ liệu được tạo, khởi tạo và điền vào nó cần được duy trì. Các tham số cơ sở dữ liệu khác nhau có thể cần thay đổi và cơ sở dữ liệu có thể cần được điều chỉnh (điều chỉnh) để có hiệu suất tốt hơn; cấu trúc dữ liệu của ứng dụng có thể được thay đổi hoặc thêm vào, các chương trình ứng dụng liên quan mới có thể được viết để thêm vào chức năng của ứng dụng, v.v.",
"Sao lưu và khôi phục.",
"Đôi khi, mong muốn đưa cơ sở dữ liệu trở về trạng thái trước đó (vì nhiều lý do, ví dụ: các trường hợp khi phát hiện cơ sở dữ liệu bị lỗi do lỗi phần mềm hoặc nếu nó đã được cập nhật với dữ liệu bị lỗi). Để đạt được điều này, một hoạt động sao lưu được thực hiện đôi khi hoặc liên tục, trong đó mỗi trạng thái cơ sở dữ liệu mong muốn (nghĩa là các giá trị của dữ liệu và việc nhúng chúng vào cấu trúc dữ liệu của cơ sở dữ liệu) được giữ trong các tệp sao lưu chuyên dụng (có nhiều kỹ thuật để thực hiện điều này một cách hiệu quả). Khi trạng thái này là cần thiết, tức là khi người quản trị cơ sở dữ liệu quyết định đưa cơ sở dữ liệu trở lại trạng thái này (ví dụ: bằng cách chỉ định trạng thái này theo thời điểm mong muốn khi cơ sở dữ liệu ở trạng thái này), các tệp này được sử dụng để khôi phục trạng thái đó.",
"Phân tích tĩnh.",
"Các kỹ thuật phân tích tĩnh để xác minh phần mềm cũng có thể được áp dụng trong kịch bản của các ngôn ngữ truy vấn. Cụ thể, khung giải thích * Tóm tắt đã được mở rộng sang lĩnh vực ngôn ngữ truy vấn cho cơ sở dữ liệu quan hệ như một cách để hỗ trợ các kỹ thuật gần đúng âm thanh. Ngữ nghĩa của các ngôn ngữ truy vấn có thể được điều chỉnh theo sự trừu tượng phù hợp của miền dữ liệu cụ thể. Sự trừu tượng của hệ thống cơ sở dữ liệu quan hệ có nhiều ứng dụng thú vị, đặc biệt, cho mục đích bảo mật, chẳng hạn như kiểm soát truy cập chi tiết, hình mờ, v.v.",
"Các tính năng khác.",
"Các tính năng DBMS khác có thể bao gồm:",
"Ngày càng có nhiều lời kêu gọi cho một hệ thống duy nhất kết hợp tất cả các chức năng cốt lõi này vào cùng một khung xây dựng, kiểm tra và triển khai để quản lý cơ sở dữ liệu và kiểm soát nguồn. Mượn từ những phát triển khác trong ngành công nghiệp phần mềm, một số thị trường như \" DevOps cho cơ sở dữ liệu\".",
"Thiết kế và mô hình.",
"Nhiệm vụ đầu tiên của một nhà thiết kế cơ sở dữ liệu là tạo ra một mô hình dữ liệu khái niệm phản ánh cấu trúc của thông tin sẽ được lưu giữ trong cơ sở dữ liệu. Một cách tiếp cận phổ biến cho việc này là phát triển một mô hình quan hệ thực thể, thường với sự trợ giúp của các công cụ vẽ. Một cách tiếp cận phổ biến khác là Ngôn ngữ mô hình thống nhất. Một mô hình dữ liệu thành công sẽ phản ánh chính xác trạng thái có thể có của thế giới bên ngoài đang được mô hình hóa: ví dụ: nếu mọi người có thể có nhiều hơn một số điện thoại, nó sẽ cho phép nắm bắt thông tin này. Thiết kế một mô hình dữ liệu khái niệm tốt đòi hỏi sự hiểu biết tốt về miền ứng dụng; nó thường liên quan đến việc đặt câu hỏi sâu sắc về những điều mà một tổ chức quan tâm, như \"khách hàng cũng có thể là nhà cung cấp không?\" hoặc \"nếu một sản phẩm được bán với hai hình thức đóng gói khác nhau, đó là cùng một sản phẩm hay sản phẩm khác nhau? \"hoặc\" nếu một chiếc máy bay bay từ New York đến Dubai qua Frankfurt, đó có phải là một hoặc hai chuyến bay (hoặc thậm chí là ba) không? \". Các câu trả lời cho những câu hỏi này thiết lập các định nghĩa về thuật ngữ được sử dụng cho các thực thể (khách hàng, sản phẩm, chuyến bay, phân khúc chuyến bay) và các mối quan hệ và thuộc tính của chúng.",
"Sản xuất mô hình dữ liệu khái niệm đôi khi liên quan đến đầu vào từ các quy trình kinh doanh hoặc phân tích quy trình công việc trong tổ chức. Điều này có thể giúp thiết lập những thông tin cần thiết trong cơ sở dữ liệu và những gì có thể bị bỏ lại. Ví dụ, nó có thể giúp khi quyết định liệu cơ sở dữ liệu có cần giữ dữ liệu lịch sử cũng như dữ liệu hiện tại hay không.",
"Đã tạo ra một mô hình dữ liệu khái niệm mà người dùng hài lòng, giai đoạn tiếp theo là dịch nó thành một lược đồ thực hiện các cấu trúc dữ liệu có liên quan trong cơ sở dữ liệu. Quá trình này thường được gọi là thiết kế cơ sở dữ liệu logic và đầu ra là một mô hình dữ liệu lôgic được thể hiện dưới dạng lược đồ. Trong khi mô hình dữ liệu khái niệm (về lý thuyết ít nhất) không phụ thuộc vào sự lựa chọn công nghệ cơ sở dữ liệu, mô hình dữ liệu lôgic sẽ được biểu thị theo mô hình cơ sở dữ liệu cụ thể được DBMS chọn. (\"Mô hình dữ liệu\" thuật ngữ và \"mô hình\" \"cơ sở dữ liệu\" thường được sử dụng thay thế cho nhau, nhưng trong bài viết này, chúng tôi sử dụng \"mô hình dữ liệu\" để thiết kế cơ sở dữ liệu cụ thể và \"mô hình cơ sở dữ liệu\" cho ký hiệu mô hình được sử dụng để thể hiện thiết kế đó.)",
"Mô hình cơ sở dữ liệu phổ biến nhất cho cơ sở dữ liệu đa năng là mô hình quan hệ, hay chính xác hơn là mô hình quan hệ được biểu thị bằng ngôn ngữ SQL. Quá trình tạo ra một thiết kế cơ sở dữ liệu logic bằng mô hình này sử dụng một phương pháp có phương pháp được gọi là chuẩn hóa. Mục tiêu của chuẩn hóa là đảm bảo rằng mỗi \"thực tế\" cơ bản chỉ được ghi lại ở một nơi, để các phần chèn, cập nhật và xóa tự động duy trì tính nhất quán.",
"Giai đoạn cuối cùng của thiết kế cơ sở dữ liệu là đưa ra các quyết định ảnh hưởng đến hiệu suất, khả năng mở rộng, phục hồi, bảo mật và tương tự, phụ thuộc vào DBMS cụ thể. Điều này thường được gọi là \"thiết kế cơ sở dữ liệu vật lý\" và đầu ra là mô hình dữ liệu vật lý. Mục tiêu chính trong giai đoạn này là tính độc lập dữ liệu, nghĩa là các quyết định được đưa ra cho mục đích tối ưu hóa hiệu suất sẽ vô hình đối với người dùng cuối và ứng dụng. Có hai loại độc lập dữ liệu: độc lập dữ liệu vật lý và độc lập dữ liệu logic. Thiết kế vật lý được điều khiển chủ yếu bởi các yêu cầu về hiệu suất và đòi hỏi kiến thức tốt về khối lượng công việc và các mẫu truy cập dự kiến và hiểu biết sâu sắc về các tính năng được cung cấp bởi DBMS đã chọn.",
"Một khía cạnh khác của thiết kế cơ sở dữ liệu vật lý là bảo mật. Nó bao gồm cả việc xác định kiểm soát truy cập cho các đối tượng cơ sở dữ liệu cũng như xác định các mức và phương thức bảo mật cho chính dữ liệu.",
"Mô hình.",
"Mô hình cơ sở dữ liệu là một loại mô hình dữ liệu xác định cấu trúc logic của cơ sở dữ liệu và xác định cơ bản theo cách thức dữ liệu có thể được lưu trữ, sắp xếp và thao tác. Ví dụ phổ biến nhất của mô hình cơ sở dữ liệu là mô hình quan hệ (hoặc xấp xỉ SQL của quan hệ), sử dụng định dạng dựa trên bảng.",
"Các mô hình dữ liệu logic phổ biến cho cơ sở dữ liệu bao gồm:",
"Một cơ sở dữ liệu quan hệ đối tượng kết hợp hai cấu trúc liên quan.",
"Các mô hình dữ liệu vật lý bao gồm:",
"Các mô hình khác bao gồm:",
"Các mô hình chuyên biệt được tối ưu hóa cho các loại dữ liệu cụ thể:",
"Cấp độ xem bên ngoài, khái niệm và nội bộ.",
"Một hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu cung cấp ba khung nhìn của dữ liệu cơ sở dữ liệu:",
"Mặc dù thường chỉ có một chế độ xem khái niệm (hoặc logic) và vật lý (hoặc nội bộ) của dữ liệu, có thể có bất kỳ số lượt xem bên ngoài khác nhau. Điều này cho phép người dùng xem thông tin cơ sở dữ liệu theo cách liên quan đến kinh doanh hơn là từ quan điểm xử lý kỹ thuật. Ví dụ: bộ phận tài chính của một công ty cần chi tiết thanh toán của tất cả nhân viên như một phần chi phí của công ty, nhưng không cần chi tiết về nhân viên là mối quan tâm của bộ phận nhân sự. Do đó, các bộ phận khác nhau cần \"quan điểm\" khác nhau về cơ sở dữ liệu của công ty.",
"Kiến trúc cơ sở dữ liệu ba cấp liên quan đến khái niệm \"độc lập dữ liệu\", một trong những động lực ban đầu chính của mô hình quan hệ. Ý tưởng là những thay đổi được thực hiện ở một mức độ nhất định không ảnh hưởng đến chế độ xem ở cấp độ cao hơn. Ví dụ, các thay đổi ở cấp độ nội bộ không ảnh hưởng đến các chương trình ứng dụng được viết bằng giao diện cấp khái niệm, điều này làm giảm tác động của việc thực hiện các thay đổi vật lý để cải thiện hiệu suất.",
"Khung nhìn khái niệm cung cấp một mức độ gián tiếp giữa bên trong và bên ngoài. Một mặt, nó cung cấp một khung nhìn chung cho cơ sở dữ liệu, độc lập với các cấu trúc khung nhìn bên ngoài khác nhau và mặt khác, nó trừu tượng hóa các chi tiết về cách dữ liệu được lưu trữ hoặc quản lý (mức nội bộ). Về nguyên tắc, mọi cấp độ và thậm chí mọi chế độ xem bên ngoài đều có thể được trình bày bởi một mô hình dữ liệu khác nhau. Trong thực tế, một DBMS nhất định sử dụng cùng một mô hình dữ liệu cho cả mức độ bên ngoài và mức khái niệm (ví dụ: mô hình quan hệ). Cấp độ bên trong, được ẩn bên trong DBMS và phụ thuộc vào việc triển khai nó, đòi hỏi một mức độ chi tiết khác và sử dụng các loại cấu trúc dữ liệu riêng của nó.",
"Tách rời các cấp độ \"bên ngoài\", \"khái niệm\" và \"bên trong\" là một tính năng chính của việc triển khai mô hình cơ sở dữ liệu quan hệ thống trị cơ sở dữ liệu thế kỷ 21.",
"Nghiên cứu.",
"Công nghệ cơ sở dữ liệu là một chủ đề nghiên cứu tích cực từ những năm 1960, cả trong các học viện và trong các nhóm nghiên cứu và phát triển của các công ty (ví dụ như Nghiên cứu của IBM). Hoạt động nghiên cứu bao gồm lý thuyết và phát triển các nguyên mẫu. Các chủ đề nghiên cứu đáng chú ý đã bao gồm các mô hình, khái niệm giao dịch nguyên tử và các kỹ thuật kiểm soát đồng thời có liên quan, ngôn ngữ truy vấn và phương pháp tối ưu hóa truy vấn, RAID,v.v...",
"Khu vực nghiên cứu cơ sở dữ liệu có một số tạp chí học thuật chuyên dụng (ví dụ: \"ACM Transactions on Database Systems\" -TODS, \"Data & Knowledge Engineering\" -DKE) và các hội nghị hàng năm (ví dụ: ACM SIGMOD, ACM PODS, VLDB, IEEE ICDE)."
] |
3534 | 255 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3534 | Lịch âm | [] |
3571 | 98738 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3571 | Chính thống giáo đông phương | [] |
3572 | 98738 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3572 | Chính Thống Giáo Đông Phương | [] |
3575 | 161772 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3575 | Giáo hội công giáo Rôma | [] |
3576 | 161772 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3576 | Giáo Hội Công Giáo Rôma | [] |
3578 | 161772 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3578 | Giáo Hội Công Giáo Rô-ma | [] |
3579 | 161772 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3579 | Giáo hội công giáo Rô-ma | [] |
3580 | 4 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3580 | Kitô Giáo Tây Phương | [] |
3581 | 4 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3581 | Kitô giáo tây phương | [] |
3582 | 98738 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3582 | Tin lành | [] |
3583 | 98738 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3583 | Đạo Tin Lành | [] |
3584 | 98738 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3584 | Đạo tin lành | [] |
3585 | 4 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3585 | Anh Giáo | [] |
3586 | 4 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3586 | Giáo phái Anh | [] |
3587 | 4 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3587 | Giáo Phái Anh | [] |
3588 | 4 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3588 | Giáo phái anh | [] |
3589 | 161772 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3589 | Công Giáo La Mã | [] |
3590 | 161772 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3590 | Công giáo La mã | [] |
3593 | 161772 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3593 | Công giáo La-Mã | [] |
3594 | 161772 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3594 | Công Giáo La-Mã | [] |
3597 | 161772 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3597 | Giáo hội Công giáo La mã | [] |
3598 | 161772 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3598 | Giáo hội công giáo La Mã | [] |
3601 | 161772 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3601 | Giáo Hội Công Giáo La Mã | [] |
3602 | 161772 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3602 | Giáo hội Công giáo La-Mã | [] |
3607 | 4 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3607 | Kiếng | [] |
3610 | 11 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3610 | Nước Áo | [] |
3612 | 98738 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3612 | Tiểu bang Niu Oóc | [] |
3615 | 593120 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3615 | Tháng giêng | [
"Trong âm lịch, hiện nay thuật ngữ tháng giêng (hay chính nguyệt) dùng để chỉ tháng thứ nhất của năm. Tháng này còn gọi là tháng Dần. Ngày đầu tiên của tháng này có thể dao động trong khoảng giữa hai tiết Đại hàn và Vũ thủy, nhưng nói chung nó chủ yếu dao động xung quanh tiết Lập xuân trong phạm vi ±10 ngày (xem thêm tiết khí). Việc xác định ngày bắt đầu cũng như số ngày trong tháng phụ thuộc vào khoảng thời gian giữa hai trăng mới (new moon) kế tiếp nhau, tuy nhiên nói chung thì nó có 29 hoặc 30 ngày. Ngày đầu tiên của tháng này là Tết Nguyên Đán. Đa phần các lễ hội của Việt Nam hiện nay tập trung trong tháng giêng. Trong âm lịch, tháng giêng là tháng không được phép nhuận (rất thú vị là người ta không thể ăn hai Tết Nguyên Đán trong vòng chỉ có một tháng), mặc dù vậy nhưng theo một số phép tính lịch trước thì đến năm 2148 (Mậu Thân) sẽ nhuận tháng giêng (Mùng 1 tháng Giêng âm lịch vào ngày Chủ nhật 21.1.2148, mùng 1 tháng Giêng nhuận vào thứ Ba ngày 20.2.2148). Trước đó, năm Quý Hợi 1803 lịch Việt Nam cũng nhuận tháng giêng. Đôi khi người ta vẫn gọi là \"tháng một\", tuy nhiên đa phần hiểu tháng một âm lịch là tháng thứ 11 (tháng Tý) trong những năm âm lịch thường. Các nhà lập lịch còn thêm Can vào trước tên gọi của tháng, nên trên lịch có các tên tháng như \"Giáp Dần\", \"Bính Dần\", \"Mậu Dần\", \"Canh Dần\", \"Nhâm Dần\" tùy theo từng năm. Tuy nhiên, rất khó nhớ cách gọi này nếu không nhìn vào lịch."
] |
3616 | 648222 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3616 | Tháng chạp | [
"Tháng Chạp còn gọi là \"tháng củ mật\" là từ để chỉ tháng cuối cùng của năm âm lịch - tháng thứ mười hai (12) đối với các năm âm lịch thường hoặc tháng thứ mười ba (13) trong những năm âm lịch nhuận. Tháng âm lịch nào cũng chỉ có thể có từ 29 đến 30 ngày, tùy theo thời điểm diễn ra hai kỳ trăng non kế tiếp nhau theo giờ địa phương. Ở Việt Nam đó là GMT+7. Xem thêm lịch Trung Quốc. Tháng Chạp là tháng luôn luôn diễn ra sau ngày đông chí. Cách tính số lượng ngày trong tháng âm lịch và số tháng trong năm cũng như việc xác định tháng nào là tháng nhuận (nếu có trong năm âm lịch đó) tương đối phức tạp.",
"Người Trung Quốc xưa gọi tháng 12 âm lịch là tháng Quý đông (tháng cuối mùa đông), nhưng còn một cái tên khác là \"Lạp nguyệt\". Chữ \"lạp\" có xuất xứ từ thịt, vì từ thời xưa người Trung Quốc đã thích ướp thịt khô vào dịp mùa đông để dành ăn quanh năm. Việc ướp thịt rộ lên vào tháng 12, và đó là lý do vì sao người Trung Quốc gọi đây là Lạp nguyệt. Lạp cũng là lễ tế cuối năm của người Trung Quốc. Từ thời nhà Chu, tháng 12 là dịp nhà vua nghỉ ngơi săn bắn, còn đặt lệ: lễ tế tất niên gọi là \"đại lạp\".",
"Trong Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt do Nguyễn Tài Cẩn biên soạn, chính từ 2 chữ \"Lạp nguyệt\" này, người Việt đã đọc chệch từ Lạp thành Chạp. Tương tự là tháng Giêng, bắt nguồn từ hai chữ \"Chinh nguyệt\".",
"Người xưa gọi tháng Chạp là \"tháng củ mật\" bởi tháng ấy nhiều trộm đạo. \"Củ\" là củ soát, kiểm soát, còn \"mật\" là cẩn mật, nghĩa là kiểm soát cẩn mật. Đến tháng Chạp này, các quan phủ thường hay nhắc nhở những người dân cần cẩn mật, các tuần đinh phải tăng cường kiểm soát cẩn mật để phòng ngừa trộm cắp.",
"Cho đến nay, tháng Chạp vẫn được coi là \"tháng củ mật\". Đây là tháng làm ăn không chỉ của người lương thiện mà của cả người bất lương vì cuối năm ai cũng có nhu cầu Tết. Do đó, đạo chích tăng cường tăm tia để có món nọ món kia. Ngoài ra \"tháng củ mật\" vì theo quan niệm của dân ta cho rằng đây là tháng xui xẻo hay là tháng có thể dễ mất mát tiền của, hay bị \"tai bay vạ gió\", có khi hao người tốn của với những lý do hết sức khác nhau nhưng thường cho là… đen và đắng như Củ Mật.."
] |
3617 | 4 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3617 | Database | [] |
3618 | 4 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3618 | Tháng Dần | [] |
3621 | 69202074 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3621 | Sóc (lịch) | [
"Sóc trong công tác lập lịch trong âm lịch theo kiểu lịch Việt Nam (đúng ra là âm-dương lịch), được hiểu là thời điểm xảy ra trăng mới theo múi giờ địa phương. Sóc là mốc để tính ngày đầu tiên của tháng âm lịch. Ngày đầu tiên của tháng âm lịch là ngày chứa điểm sóc, cho dù điểm sóc có thể xảy ra ở thời điểm 23 h 59 m 59 s (tính theo giờ địa phương) của ngày dương lịch. Tháng âm lịch sẽ kết thúc vào 23 h 59 m 59 s của ngày trước khi diễn ra sóc kế tiếp. Do chu kỳ quay của Mặt Trăng xung quanh Trái Đất trung bình là 29,5302 ngày (theo quan sát từ Trái Đất) nên một tháng âm lịch có thể có 29 hoặc 30 ngày (theo quy tắc làm tròn trên đây). Tháng nào có 30 ngày gọi là tháng đủ, còn tháng nào có 29 ngày gọi là tháng thiếu."
] |
3622 | 11 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3622 | Áo (nước) | [] |
3624 | 70445593 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3624 | Tiếng Ý | [
"Tiếng Ý hay tiếng Italia (\"italiano\", \"lingua italiana\") là một ngôn ngữ thuộc nhóm Rôman của hệ Ấn-Âu và được dùng bởi khoảng 70 triệu người, đa số sinh sống tại Ý. Giọng Ý được xem như chuẩn hiện nay là giọng của vùng Toscana (tiếng Anh: \"Tuscany\", tiếng Pháp: \"Toscane\"), nhất là giọng của những người sống tại thành phố Firenze (còn được gọi là \"Florence\"). Trên bán đảo Ý và các đảo phụ cận, nó được xem như đứng trung gian giữa các tiếng miền nam (thuộc nhánh phía Nam của nhóm Rôman) và các tiếng miền bắc (thuộc nhóm ngôn ngữ Gaul-Rôman, một phân nhóm của nhóm Rôman). Trong nhóm Rôman, nó là tiếng gần tiếng Latinh nhất và giống như các ngôn ngữ khác trong nhóm, dùng rất nhiều trọng âm (\"stress\") trong lối phát âm.",
"Hệ thống chữ viết.",
"Tiếng Ý sử dụng bảng chữ cái Latinh. Trong bảng chữ cái tiếng Ý tiêu chuẩn không có các ký tự \"J\", \"K\", \"W\", \"X\" và \"Y\", tuy nhiên chúng vẫn xuất hiện trong các từ tiếng Ý vay mượn như \"jeans\" (quần bò), \"whisky\", \"taxi\" hay như tên của câu lạc bộ bóng đá Juventus. Để thay thế các âm tương ứng của các ký tự kể trên, có thể dùng \"gi\" thay cho \"j\", \"c\" hoặc \"ch\" thay cho \"k\"; \"u\" hoặc \"v\" thay cho \"w\"; \"s\", \"ss\", hoặc \"cs\" thay cho \"x\" và \"i\" thay cho \"y\" (tùy cách phát âm từng từ). Để đánh dấu cách phát âm và cách đặt trọng âm, tiếng Ý cũng sử dụng dấu sắc và dấu huyền, ví dụ dấu huyền cho các chữ cái \"A\", \"I\", \"O\" và \"U\" ở cuối từ có nghĩa là trọng âm của từ được đặt vào nguyên âm đó (\"gioventù\", tuổi trẻ).",
"Chữ cái \"H\" nằm ở đầu từ được dùng để phân biệt \"ho\", \"hai\", \"ha\", \"hanno\" (thì hiện tại của động từ \"avere\", có) với \"o\", \"ai\", \"a\" (các giới từ), \"anno\" (năm). Chữ cái này cũng xuất hiện ở đầu một số từ ngoại lai như \"hotel\" (khách sạn), trong đa số trường hợp H đều là âm câm (không được phát âm), ví dụ \"hotel\" được đọc là /oˈtɛl/.",
"Lịch sử.",
"Sự biến hóa từ tiếng Latinh sang tiếng Ý hiện đại là một quá trình tương đối phức tạp vì có rất nhiều ngôn ngữ đã được dùng tại bán đảo Ý trước, và trong khi, Đế quốc La Mã hình thành. Tuy tiếng Latinh cổ điển đã được dùng như một loại tiếng chính thức, dân tại các vùng khác nhau của đế quốc này tiếp tục dùng các thứ tiếng địa phương của họ. Khi cần, họ dùng một loại tiếng Latinh đã được đơn giản hóa rất nhiều trong các việc giao dịch với những người cầm quyền: đây là tiếng Latinh bình dân (\"Vulgar Latin\"). Trước khi tiếng Latinh bình dân có thể thống nhất hoàn toàn nhiều tiếng địa phương trong lãnh thổ của Đế quốc La Mã thì đế quốc này sụp đổ vào cuối thế kỷ thứ V. Sự thống nhất \"một nửa\" này đã tạo ra một nhóm ngôn ngữ được dùng hiện nay tại Tây Âu – nhóm Rôman – mà tiếng Ý là một trong số đó. Tiếng Ý, do đó, chịu ảnh hưởng không chỉ từ tiếng Latinh mà còn từ nhiều tiếng địa phương khác nữa.",
"Văn kiện tiếng Ý sớm nhất còn tồn tại là các mẫu đơn của vùng Benevento vào giữa thế kỷ thứ X. Tuy nhiên, tất cả phải công nhận rằng tiếng Ý, như chúng ta biết hiện nay, chỉ thật sự ra đời sau khi Dante Alighieri viết tập thơ dài \"Thần khúc\" (\"La Divina Commedia\") vào thế kỷ XIV.",
"Phân loại và các ngôn ngữ liên hệ.",
"Tiếng Ý được các nhà ngôn ngữ học xếp vào nhánh Ý-Dalmatia, một phân nhánh của nhánh Ý-Tây thuộc nhóm Rôman của hệ Ấn-Âu.",
"Các tiếng gần tiếng Ý nhất là tiếng Napoli, tiếng Sicilia và tiếng Ý-Do Thái. Sau đó là các ngôn ngữ tại miền bắc của Ý như các tiếng Liguri, Lombard, Piemont... Xa thêm tí nữa là các tiếng Romana, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Pháp.",
"Phân bổ địa lý.",
"Tiếng Ý là ngôn ngữ chính thức tại các nơi sau đây: Ý, San Marino, Vatican, Thụy Sĩ và tại vài vùng của Croatia và Slovenia. Các nước có một số người dùng tiếng Ý đáng kể là: Albania, Argentina, Brasil, Canada, Hoa Kỳ, Luxembourg, Malta, Úc và Venezuela. Ngoài ra một vài thuộc địa cũ của Ý như Somalia, Lybia và Eritrea vẫn còn một số người nói tiếng Ý."
] |
3625 | 161772 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3625 | Tết Ta | [] |
3626 | 161772 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3626 | Tết Âm Lịch | [] |
3627 | 161772 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3627 | Tết nguyên đán | [] |
3628 | 161772 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3628 | Tết âm lịch | [] |
3629 | 161772 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3629 | Tết ta | [] |
3630 | 686003 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3630 | Nông lịch | [
"Nông lịch, thường gọi là âm lịch, là một loại âm dương lịch hiện vẫn còn được sử dụng ở các quốc gia và khu vực chịu ảnh hưởng của nền văn minh lúa nước. Về thực chất, nó là một loại âm dương lịch tạo ra bởi sự kết hợp của âm lịch thuần túy với thời điểm xảy ra tiết khí, là những cái được tính theo dương lịch. Lịch này hiện nay chủ yếu được sử dụng để tính toán các ngày lễ hội quan trọng như Tết Nguyên Đán hay Tết Trung thu, cũng như để tính toán ngày tháng cho các công việc trọng đại như cưới xin, khởi công xây dựng nhà cửa, mồ mả, mua sắm những đồ vật có giá trị lớn v.v... Điều này không chỉ thịnh hành ở nông thôn mà còn ở các thành phố lớn. Các loại nông lịch của người Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan, Việt Nam, Singapore về cơ bản là gần giống như lịch của người Trung Quốc. Người Nhật Bản tính theo múi giờ UTC+9 cũng như quy tắc hơi khác, người Việt Nam tính theo UTC+7 cho nên có thể có sai biệt nào đó so với nông lịch Trung Quốc về thời điểm bắt đầu và kết thúc của mỗi tháng (tức số ngày trong tháng) cũng như tháng nhuận.",
"Ở Trung Quốc, và các nước nêu trên, lịch này còn gọi là Hạ lịch (夏曆), \"nông lịch\" (農曆), khác với \"công lịch\" (公曆), hay \"tây lịch\" (西曆). Ngoài ra người ta còn gọi nó là \"cựu lịch\" (舊曆) sau khi \"tân lịch\" (新曆), tức lịch Gregory được sử dụng như là lịch chính thức.",
"Lịch sử.",
"Bắt đầu.",
"Truyền thuyết về sự khởi đầu của lịch Trung Quốc cho rằng lịch này có từ trước thiên niên kỷ 1 TCN. Truyền thuyết cho rằng lịch Trung Quốc do Hoàng Đế phát minh. Nhưng chỉ là truyền thuyết vì lịch được tính theo văn hóa lúa nước bắt nguồn từ Bách Việt (lúc này không biết Bách Việt nằm ở đâu nếu không có người Hoa (Hạ) gọi tên họ như vậy). Ông là người cai trị Trung Quốc khoảng năm 2698-2599 trước Công Nguyên. Vị hoàng đế huyền sử thứ tư là Đường Nghiêu đã thêm vào các tháng nhuận. Chu kỳ 60 năm, Can-Chi (干支 \"gānzhī\"), được thêm vào cho các năm từ thế kỷ 1 TCN. Cho là Hoàng Đế lên ngôi khi đã lớn, năm đầu tiên của chu kỳ đầu tiên là năm 2637 TCN theo như Herbert A. Giles, trong quyển \"A Chinese-English Dictionary\" (1912), cũng như tất cả các tác giả phương Tây khác trong thời kỳ cuối của nhà Thanh. Vì thế cho đến năm 1984 thì chu kỳ hiện tại là 78. Tuy nhiên, một số tác giả hiện đại cho rằng năm đầu tiên của chu kỳ đầu tiên là 2697 TCN khi mà Hoàng Đế còn nhỏ, và nói là hiện nay chúng ta đang ở chu kỳ 79. Hai cách tính kỷ nguyên này đã tạo ra hai cách tính toán năm liên tục, tạo ra \"năm Trung Quốc\" là 4642 hay 4702 cho đến đầu năm 2005.",
"Tuy nhiên, các chu kỳ 60 được đánh số liên tục và các năm dựa trên chúng là phát kiến của các nhà niên đại học phương Tây—người Trung Hoa không sử dụng chúng. Họ sử dụng các chu kỳ không đánh số, mặc dù nó có vai trò có lợi đối với năm niên hiệu, được công bố bởi các hoàng đế Trung Hoa. Thực vậy, việc \"không\" sử dụng niên hiệu của hoàng đế tương đương với sự làm phản mà hình phạt của nó là tử hình. Nhưng cuộc nổi dậy của Nghĩa Hòa Đoàn năm 1900 đã làm người lãnh đạo không chính thức của Trung Quốc, Từ Hi Thái hậu, bị suy yếu và dễ tổn thương trước các thách thức từ phía những người đi theo xu hướng cộng hòa, đây là những người cố ý dùng hệ thống đếm năm liên tục nhằm bất hợp pháp hóa nhà Thanh bằng cách từ chối sử dụng niên hiệu của nó. Mặc dù báo chí cộng hòa sử dụng nhiều hơn một niên đại, cái mà Tôn Trung Sơn lựa chọn, 2698 TCN, đã được công nhận bởi phần lớn các cộng đồng Hoa kiều ngoài khu vực Đông Nam Á như phố người Hoa ở San Francisco, dẫn đến năm 4703 của họ được bắt đầu vào năm 2005. Nhiều nhà niên đại học, không biết lịch sử của nó, cho rằng 2698 TCN là sai lầm đối với kỷ nguyên 2697 TCN thu được từ các chu kỳ 60, trong khi nó thực sự là kỷ nguyên duy nhất được một số người Trung Quốc sử dụng thật sự, mặc dù chỉ là thiểu số (phần lớn người Trung Hoa không sử dụng bất kỳ một kiểu đếm số năm từ kỷ nguyên truyền thuyết).",
"Lịch sử sơ kỳ.",
"Các chứng cứ khảo cổ học sớm nhất của lịch Trung Quốc xuất hiện trên các tấm xương bói toán vào thời kỳ cuối của thiên niên kỷ 2 TCN thời nhà Thương. Các tấm xương này chỉ ra năm âm dương lịch có 12 tháng và thỉnh thoảng có tháng thứ 13, cũng như thậm chí có tháng thứ 14. Bởi vì ngày tháng Trung Quốc là có cơ sở vững chắc bắt đầu từ năm 841 TCN, lịch của thời kỳ đầu nhà Chu được biết đến như là lịch với tháng nhuận được thêm vào một cách tùy tiện. Tháng đầu tiên của năm khi đó rất gần với đông chí và tháng nhuận của nó là sau tháng thứ 12. Lịch tứ phân (四分 \"sìfēn\") bắt đầu khoảng năm 484 TCN, là lịch đầu tiên được tính toán ở Trung Quốc. Nó được đặt tên như thế vì nó sử dụng năm Mặt Trời với 365¼ ngày, cùng với quy tắc chu kỳ 19 năm = 235 tháng, được biết đến ở phương tây là chu kỳ Meton. Đông chí khi đó nằm trong tháng đầu tiên và tháng nhuận của nó được chèn thêm vào sau tháng thứ mười hai. Bắt đầu từ năm 256 TCN của vương quốc Tần, sau này là nhà Tần, tháng nhuận là tháng phụ thứ chín vào cuối năm mà bây giờ bắt đầu bằng tháng thứ mười, và đông chí nằm trong tháng thứ mười một. Cách tính năm như thế được sử dụng cho đến nửa thời kỳ đầu của nhà Tây Hán.",
"Quy tắc \"Trung khí\".",
"Vua Hán Vũ đế của nhà Hán đã đề ra các quy tắc cơ bản mà lịch Trung Quốc áp dụng từ đó đến nay. Lịch Thái sơ (太初, \"Tàichū\" - sự khởi đầu vĩ đại, niên hiệu của Hán Vũ đế) của ông năm 104 TCN là năm với đông chí nằm trong tháng thứ mười một và được thiết kế để tháng nhuận có thể là bất kỳ tháng nào (tháng 29 hay 30 ngày) mà trong tháng đó Mặt Trời không đi qua các điểm \"Trung khí\" (tức là Mặt Trời chỉ nằm trong một cung hoàng đạo). Vì chuyển động trung bình của Mặt Trời (biểu kiến) được sử dụng để tính toán tiết khí cho đến tận năm 1645, tháng nhuận như thế có thể xuất hiện sau bất kỳ tháng nào của năm với cùng một xác suất. Tuy nhiên, sự giao hội của Mặt Trời và Mặt Trăng (hay sóc) sử dụng chuyển động trung bình của cả hai thiên thể này chỉ cho đến năm 619, năm thứ hai của nhà Đường, khi cả hai chuyển động bắt đầu được sử dụng mô hình chuyển động thật với hai parabôn quan trắc ngược nhau (với những thành phần nhỏ tuyến tính và lập phương). Tuy nhiên, các parabôn không phù hợp với chuyển động trung bình, mà phù hợp với những điểm gián đoạn hay bước nhảy.",
"Chuyển động thực của Mặt Trời và Mặt Trăng.",
"Sau khi thiên văn học của châu Âu được giới thiệu vào Trung Hoa bởi các giáo sĩ dòng Tên, chuyển động của cả Mặt Trời và Mặt Trăng bắt đầu được tính toán bằng các hàm lượng giác trong lịch Thời Hiến (時憲 \"Shíxiàn\") năm 1645 của nhà Thanh, lịch này được lập bởi giáo sĩ Adam Schall, tên Trung Hoa là Thang Nhược Vọng. Chuyển động thật của Mặt Trời (biểu kiến) bấy giờ được sử dụng để tính tiết khí. Tháng nhuận thông thường hay xảy ra sau tháng thứ hai cho đến tháng thứ chín và ít khi xảy ra sau tháng thứ mười nếu tính từ tháng đầu tiên. Rất ít thời gian trong mùa thu-đông có một hay hai tháng mà Mặt Trời đi qua hai cung hoàng đạo, lẫn với hai hay ba tháng mà Mặt Trời chỉ nằm trong một cung hoàng đạo.",
"Cải cách lịch Gregory và thay đổi thời gian năm 1929.",
"Lịch Gregory được công nhận bởi Trung Hoa Dân Quốc, lúc đó mới ra đời, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1912 cho các hoạt động chính thức, nhưng dân chúng vẫn tiếp tục sử dụng lịch truyền thống của nhà Thanh. Tình trạng của lịch Gregory trong khoảng 1916 đến 1921, khi Trung Quốc bị kiểm soát bởi các đốc quân, không được rõ. Từ khoảng 1921 đến 1928 các đốc quân vẫn tiếp tục kiểm soát phía bắc Trung Quốc, nhưng Quốc dân đảng đã kiểm soát miền nam Trung Quốc và có lẽ họ đã sử dụng lịch Gregory. Sau khi Quốc dân đảng công bố cải tổ lại Trung Hoa Dân Quốc 10 tháng 10 năm 1928, họ ra sắc lệnh bắt buộc sử dụng lịch Gregory có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1929. Họ cũng ra sắc lệnh có hiệu lực từ ngày này mọi người dân phải sử dụng múi thời gian bờ biển đã được dùng trong tất cả các cảng hiệp ước, cho các cảng dọc theo bờ biển phía đông Trung Quốc, ký với châu Âu (theo Hiệp ước Nam Kinh 1842) từ năm 1904. Điều này đã thay đổi thời điểm bắt đầu mỗi ngày đối với cả lịch truyền thống và lịch Gregory một lượng +14,3 phút từ nửa đêm Bắc Kinh tới nửa đêm tại kinh độ 120° đông tính từ Greenwich.",
"Điều này đã sinh ra một số sai biệt, chẳng hạn như đối với Tết Trung Thu năm 1978. Điểm sóc khi đó là ngày 3 tháng 9 năm 1978, hồi 00:07, Giờ chuẩn Trung Quốc. Sử dụng lịch cũ theo múi giờ Bắc Kinh, sóc xảy ra lúc 23:53 ngày 2, vì thế tháng Tám (âm lịch) bắt đầu trong các ngày khác nhau tùy theo từng loại lịch. Người Hồng Kông (sử dụng lịch truyền thống) ăn Tết này vào ngày 16 tháng 9, nhưng những người Trung Quốc khác ăn Tết này vào ngày 17 tháng 9.",
"Quốc dân đảng có thể đã bắt đầu đánh số năm của nền cộng hòa của họ vào năm 1929, bắt đầu từ năm 1912 như là năm 1. Khi những người cộng sản giành được quyền kiểm soát đối với Trung Hoa đại lục 1 tháng 10 năm 1949, họ chỉ đơn giản là tiếp tục sử dụng lịch Gregory, nhưng bắt đầu từ đây đánh số năm theo kiểu phương tây, bắt đầu với 1949. Ở cả Trung Hoa đại lục và Đài Loan, các tháng của lịch Gregory được đánh số từ 1 đến 12 giống như các tháng của lịch truyền thống.",
"Quy tắc.",
"Các quy tắc sau có hiệu lực từ năm 104 TCN, mặc dù một số chi tiết đã từng là không cần thiết trước năm 1645. Cũng lưu ý là các quy tắc này không chỉ rõ các tính toán chi tiết dựa trên cơ sở của chuyện động thật hay trung bình của Mặt Trời, Mặt Trăng, điều này phụ thuộc vào từng giai đoạn lịch sử.",
"Cung Hoàng Đạo mà Mặt Trời đi qua trong tháng và kinh độ của đường hoàng đạo của các điểm đi vào các cung thông thường dùng để xác định tháng thông thường. Tháng 1, chánh nguyệt (\"zhēngyuè\"), tiếng Việt gọi là tháng giêng (tiếng Hoa là tháng khởi đầu - \"tháng nguyên\" có nghĩa đầu tiên. Từ đây phát sinh tên gọi \"tết + Nguyên Đán\" tức là buổi sáng sớm đầu tiên, \"tết + Nguyên Tiêu\" tức là buổi đêm đầu tiên v.v.).",
"Mười hai tháng âm lịch là khá gần với các sự kiện trong sự phát triển của thực vật và trong nông nghiệp, vì thế chúng còn có tên gọi khác theo các loài cây:",
"Một số người tin rằng các quy tắc trên đây luôn luôn đúng, nhưng thực tế có một số ngoại lệ ngăn không cho Tết Nguyên Đán luôn luôn là sóc thứ hai sau Đông chí, hay có nghĩa là nó làm cho ngày lễ này diễn ra sau tiết \"Vũ Thủy\". Ngoại lệ này diễn ra vào các giai đoạn từ năm 2033 đến năm 2034, và từ năm 2128 đến năm 2129, khi Đông chí là tiết khí chính thứ hai trong tháng Một (11) âm lịch. Tháng tiếp theo không có tiết khí chính và do vậy nó là nhuận, và tháng Chạp (12) tiếp theo sau đó sẽ chứa cả Bảo Bình (\"Aquarius\") và Song Ngư (\"Pisces\") và hai tiết khí chính (\"Đại Hàn\" và \"Vũ Thủy\"). Năm Dần vì thế bắt đầu vào sóc thứ ba sau Đông chí, và nó diễn ra sau tiết Vũ Thủy - Song Ngư (\"Pisces\"), vào ngày 19 tháng 2.",
"\"Chú thích của người viết: Điều này hiện vẫn còn đang chưa thống nhất, do các nhà làm lịch Trung Quốc cho rằng cách tính của người phương Tây có sai số, tháng nhuận trong năm 2033 theo họ rơi vào sau tháng 7 (tháng Thân) âm lịch chứ không phải sau tháng Một (11) âm lịch và quy tắc không nhuận các tháng 11, 12, 1 vẫn được bảo toàn. Tuy nhiên, vì giữa tháng âm lịch chứa Đông chí của năm 2032 (Mùng 1 của tháng này rơi vào ngày 3/12/2032) và tháng âm lịch chứa Đông chí của năm 2033 (Mùng 1 của tháng này rơi vào ngày 22/11/2033) chỉ có 11 tháng, nên nếu sau tháng 7 (tháng Thân) âm lịch là tháng nhuận, thì tháng chứa Đông chí của năm 2033 sẽ là tháng 10 âm lịch???. Nên nếu muốn đảm bảo giữ cho Đông chí nằm trong tháng 11, thì không được tính tháng nhuận sau tháng 7 (tháng Thân) âm lịch. Điều tương tự sẽ lặp lại vào năm 2128.\"",
"Một trường hợp khác là năm 1984-1985, khi Mặt Trời nằm trong cung Ma Kết (\"Capricorn\") ở 270° và Bảo Bình (\"Aquarius\") ở 300° trong tháng 11, và sau đó đi vào cung Song Ngư (\"Pisces\") ở 330° trong tháng kế tiếp, mà lẽ ra khi đó phải là trong tháng giêng (tháng 1). Mặt Trời đã không đi vào cung nào trong tháng kế tiếp. Để đảm bảo giữ cho Đông chí nằm trong tháng 11, tháng lẽ ra phải là tháng 1 (Dần) trở thành tháng 12, và tháng sau đó là tháng 1, làm cho Tết Nguyên Đán diễn ra vào 20 tháng 2 năm 1985 sau khi Mặt Trời đã vượt qua Pisces ở 330° trong tháng trước đó, hơn là nằm trong tháng bắt đầu trong ngày này.",
"\"Chú thích của người viết: Điều này đã không diễn ra đối với lịch Việt Nam do Việt Nam tính theo UTC+7 và trên thực tế Tết Nguyên Đán năm 1985 ở Việt Nam diễn ra sớm hơn so với Trung Quốc 1 tháng âm lịch\".",
"Trong các trường hợp khi tháng có 2 tiết khí chính diễn ra, nó luôn luôn xảy ra ở một khoảng thời gian nào đó giữa hai tháng không có tiết khí chính. Nó thông thường diễn ra đơn lẻ và nằm ở một trong hai bên hoặc gần với Đông chí, vì thế việc đặt Đông chí trong tháng 11 (quy tắc 4) sẽ dẫn đến phải chọn lựa tháng nào trong hai tháng không có tiết khí làm tháng nhuận. Năm 1984-1985, tháng ngay trước tháng 11 có hai tiết khí chính là tháng không có tiết khí chính và nó được tính là tháng 10 nhuận. Mọi tháng từ tháng có hai tiết khí chính tới tháng không có tiết khí chính mà không tính là nhuận được đánh số nối tiếp nhau theo quy tắc 2 tính như là các tháng thường. Phát biểu của quy tắc 5, lựa chọn tháng đầu tiên trong hai tháng không có tiết khí chính giữa tháng 11, là không bị bắt buộc kể từ lần cải cách lịch cuối cùng và cũng sẽ không cần thiết cho đến tận trường hợp của năm 2033-2034 và năm 2128-2129, khi các tháng có hai tiết khí chính sẽ nằm cạnh ba tháng không có tiết khí chính, hai trong số chúng sẽ nằm ở một bên của tháng 11. Tháng 11 nhuận rất ít khi xảy ra. Xem ",
"Các ngoại lệ như trên đây là rất hiếm. Tới 96,6% các tháng chỉ chứa một tiết khí chính (điểm vào trong một cung hoàng đạo), nó phù hợp với quy tắc đánh số của bảng tiết khí, và 3,0% các tháng là nhuận (luôn luôn là tháng không có tiết khí chính). Chỉ có 0,4% các tháng hoặc là có hai tiết khí chính hoặc là các tháng kế tiếp được đánh số lại.",
"Điều này chỉ xảy ra sau cải cách lịch năm 1645. Khi đó người ta cần thiết phải cố định một tháng luôn luôn chứa tiết khí chính của nó và cho phép các tháng còn lại đôi khi không chứa tiết khí chính của nó. Tháng 11 đã được chọn, vì tiết khí chính của nó (Đông chí) tạo ra sự khởi đầu của năm Mặt Trời trong lịch Trung Quốc.",
"Lịch Trung Quốc và lịch Gregory thông thường sẽ đồng bộ trở lại sau 19 năm (chu kỳ Meton). Tuy nhiên, chu kỳ 19 năm với các bộ tháng nhuận định sẵn chỉ là tương đối, vì thế các mô hình xác định tháng nhuận trong các chu kỳ kế tiếp nhau cuối cùng sẽ thay đổi sau vài lần chu kỳ 19 năm thành chu kỳ 19 năm hoàn toàn khác.",
"Hoàng đạo Trung Hoa (xem các phần Danh pháp và Địa Chi) chỉ sử dụng để đặt tên năm - nó thực sự không được sử dụng để tính lịch. Trên thực tế, người Trung Quốc có hệ thống chòm sao hoàn toàn khác.",
"Danh pháp.",
"Các năm được đặt tên theo chu kỳ của 10 Thiên Can và chu kỳ của 12 Địa Chi. Mỗi năm được đặt tên theo cặp của một can và một chi gọi là Can Chi (干支 \"gānzhī\"). Thiên Can phối hợp với Âm Dương và Ngũ hành. Chu kỳ 10 năm của Can bắt đầu từ can Giáp những năm tận cùng bằng 4 như 1984, 1994, 2004 v.v., còn đối với năm trước công nguyên là 7. Địa Chi liên kết với 12 con vật tượng trưng. Chu kỳ 12 năm bắt đầu bằng chi Tý (Tí) với những năm chia cho 12 còn dư 4 như 1984, 1996 v.v. hay trong phép chia cho 12 còn dư 9 nếu là năm trước Công nguyên như 9 TCN (Nhâm Tý), 21 TCN (Canh Tý), v.v. (lưu ý là không có năm 0, sau ngày 31 tháng 12 năm 1 TCN (năm Canh Thân) là ngày 1 tháng 1 năm 1 (năm Tân Dậu)).",
"Chu kỳ 60 năm tạo thành bởi tổ hợp của hai chu kỳ được biết như là \"chu kỳ Giáp Tý\" (甲子 \"jiǎzǐ\"). Nó không phải là 120 vì hai chu kỳ này quay vòng tuần hoàn độc lập với nhau. Do vậy không thể có những tổ hợp như Giáp Sửu chẳng hạn. Gọi là chu kỳ Giáp Tý vì năm đầu tiên của chu kỳ 60 năm là năm Giáp Tý.",
"Chu kỳ 60 năm là không đủ cho các tham chiếu lịch sử. Trong thời kỳ phong kiến, niên hiệu (tên kỷ nguyên của một ông vua) được đặt trước tên của năm để phân biệt. Ví dụ: Khang Hi Nhâm Dần (康熙壬寅), hay năm 1662, là năm Nhâm Dần (壬寅) đầu tiên trong thời gian trị vì của hoàng đế Khang Hi (康熙). Khang Hi cũng là trường hợp duy nhất trong lịch sử Trung Quốc trị vì trên 60 năm, cho nên năm Khang Hi Nhâm Dần vừa là năm 1662 khi Khang Hi lên ngôi, vừa là năm 1722 khi ông băng hà. Sử dụng niên hiệu của vua là tiềm ẩn sự thừa nhận tính hợp pháp của vị vua đó, là rất quan trọng về chính trị trong trường hợp kế vị đầy tranh cãi hay nổi loạn. Tuy nhiên, nó cũng gây ra khó khăn cho các nhà sử học Trung Quốc trong việc cho rằng triều đại nào là hợp pháp hơn khi nói về các thời kỳ sớm hơn, khi mà Trung Quốc bị chia sẻ.",
"Các tháng, ngày và giờ cũng có thể được biểu thị bằng Can Chi, mặc dù chúng nói chung được biểu diễn chủ yếu theo các số đếm Trung Hoa. Cùng với nó, bốn cặp Can-Chi tạo ra bát tự (八字 \"bāzì\") được sử dụng trong chiêm tinh học Trung Quốc.",
"Có sự phân biệt giữa năm tính theo Mặt Trời và năm tính theo Mặt Trăng trong lịch Trung Quốc do nó là một loại âm dương lịch. Năm dựa theo Mặt Trăng (年 \"nián\" = niên) là từ một Tết Nguyên Đán đến Tết Nguyên Đán tiếp theo. Năm dựa theo Mặt Trời (歲 \"suì\" = tuế) có thể là chu kỳ giữa một Lập xuân và Lập xuân tiếp theo hay chu kỳ giữa hai Đông chí (xem phần tiết khí). Năm dựa theo Mặt Trăng được sử dụng để tính ngày, trong khi năm dựa theo Mặt Trời (đặc biệt là năm giữa hai Đông chí) để tính tháng.",
"\"Xem chiêm tinh học Trung Quốc để biết thêm chi tiết\"",
"Mười hai chi.",
"Mười hai con vật đại diện cho mười hai địa chi theo trật tự là chuột, bò (Việt Nam: trâu), hổ, thỏ (Việt Nam: mèo), rồng, rắn, ngựa, cừu (hay dê), khỉ, gà, chó và lợn (bắc Việt Nam: heo là cách gọi lợn của miền nam).",
"Truyền thuyết giải thích trật tự được phân chia cho các con vật. Cả 12 con vật đánh lẫn nhau để tranh giành quyền đứng trước trong chu kỳ các năm của lịch, vì thế Ngọc Hoàng phải tổ chức một cuộc thi để xác định trật tự. Mọi con vật xếp hàng ngang trên bờ sông và phải tìm cách sang bờ sông bên kia. Trật tự trong lịch của chúng sẽ là trật tự khi chúng sang đến bên kia bờ sông. Mèo thì tự hỏi bằng cách nào có thể sang bờ sông bên kia khi mà nó rất sợ nước. Cũng trong thời gian ấy, bò tự hỏi bằng cách nào nó có thể sang đến bờ bên kia với thị lực kém. Con chuột láu lỉnh đề nghị là nó và mèo sẽ ngồi trên lưng bò và hướng dẫn cho nó qua sông. Bò đồng ý và làm việc cật lực mà không để ý đến những sự kiện trên lưng nó. Trong khi ấy, chuột lẻn ra đằng sau mèo và đẩy nó xuống nước. Khi bò đến gần bờ, chuột nhảy lên phía trước và kết thúc cuộc dua ở vị trí thứ nhất. Con lợn lười biếng sang đến bờ bên kia ở vị trí thứ mười hai. Vì thế chuột được đặt tên cho năm đầu tiên, bò ở vị trí thứ hai và lợn ở vị trí thứ 12 trong chu kỳ. Mèo vào đến bờ quá muộn, không còn chỗ cho nó trong lịch và nó thề rằng sẽ là kẻ thù truyền kiếp của chuột.",
"Tiết khí.",
"Các tháng trong lịch Trung Quốc tuân theo các chu kỳ của Mặt Trăng. Lịch nông nghiệp dựa theo Mặt Trời với 24 điểm gọi là tiết khí (節氣). Chúng là các điểm đánh dấu các thay đổi bốn mùa để hỗ trợ nông dân quyết định khi nào trồng trọt hay thu hoạch mùa màng, trong khi âm lịch vì nguyên nhân trên là không đáng tin cậy để theo dõi. Thuật ngữ \"tiết khí\" thông thường được gọi là các \"điểm thời tiết\". Vì việc tính toán dựa theo Mặt Trời, các tiết khí rơi vào xấp xỉ cùng một ngày trong mọi năm dương lịch chẳng hạn như lịch Gregory, nhưng nó không tạo ra quy luật rõ ràng trong lịch Trung Quốc do quy tắc tính tháng nhuận của nó. Tiết khí được công bố hàng năm trong niên lịch cho nông dân. Tết Nguyên Đán thông thường là ngày sóc gần với Lập xuân. Cụ thể về tiết khí xem bài Tiết khí.",
"Ghi chú:",
"Lễ hội.",
"Mỗi năm theo lịch Trung Quốc có 9 lễ hội chính, 7 trong số đó xác định theo âm-dương lịch, 2 lễ hội còn lại có nguồn gốc từ lịch nông nghiệp (nông lịch) dựa theo Mặt Trời. (Lưu ý rằng nông dân thực tế sử dụng lịch Mặt Trời (dương lịch), và nó có 24 tiết khí để xác định khi nào thì cần gieo trồng ngũ cốc vì các đặc điểm thời tiết, khí hậu khi tính theo âm dương lịch truyền thống không chính xác. Tuy nhiên, lịch truyền thống cũng được biết đến như là nông lịch.)",
"Hai lễ hội đặc biệt đó là Tết Thanh Minh và lễ hội Đông chí, trùng với hai tiết khí tương ứng là Thanh minh và Đông chí, lễ hội đầu tiên diễn ra khi kinh độ của Trái Đất trên quỹ đạo của nó quanh Mặt Trời là 15 độ, lễ hội sau ở vị trí 270 độ. Để tính toán âm lịch thì múi giờ được sử dụng là UTC+ 8.",
"Bảng dưới đây thể hiện 9 lễ hội này. Tuy nhiên, bảng này còn bỏ sót một số tết khác như Tết Hàn Thực (3 tháng 3 âm lịch) hay Tết Trùng Thập (10 tháng 10 âm lịch), đôi khi còn được tổ chức trang trọng hơn các lễ hội như Đông chí hay Thất tịch.",
"Lịch Triều Tiên.",
"Lịch truyền thống Triều Tiên có nguồn gốc từ lịch Trung Quốc. Đầu thế kỷ 19 Triều Tiên dựa vào quan hệ ngoại giao gần gũi với Trung Quốc trong khi không có quan hệ ngoại giao với các quốc gia khác. Để công nhận mối quan hệ này, các vị vua Triều Tiên tổ chức việc tiếp nhận lịch Trung Quốc từ hoàng đế Trung Hoa mỗi năm với một sự phô trương lớn. Lịch này có:",
"Lịch truyền thống Triều Tiên thông thường tính bắt đầu từ năm 2333 TCN, là thời gian thành lập ra Triều Tiên bởi Dangun theo huyền thoại.",
"Lịch truyền thống này hiện nay ít được sử dụng, ngoại trừ để tính toán các lễ hội truyền thống (xem thêm Lễ hội Triều Tiên theo âm lịch) và để đánh dấu ngày tháng sinh bởi những người cao tuổi."
] |
3638 | 3399 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3638 | Danh sách ngôn ngữ theo tổng số người dùng | [] |
3640 | 195 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3640 | Sông Mê Kông | [] |
3643 | 794624 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3643 | Tháng Tý | [
"Trong âm lịch, tháng Tý (tức tháng 11 âm lịch; còn gọi là tháng một) là tháng bắt buộc phải có ngày đông chí. Đây là một quy tắc bắt buộc để xây dựng lịch. Ngày nay, do chịu ảnh hưởng của cách đánh số các tháng, nên đôi khi một số người vẫn gọi nhầm tháng giêng là tháng một âm lịch do đánh số tháng giêng là 1 và họ gọi \"tháng một âm lịch\" thực thụ này là tháng 11 do đánh số của nó là 11. Hiện nay, tháng này là tháng thứ 11 trong năm âm lịch thường và là tháng thứ 12 trong năm âm lịch nhuận, nhưng vẫn được đánh số 11 do tháng nhuận có cùng cách đánh số với tháng trước đó.",
"Tháng này còn gọi là tháng trọng đông. Một số người (nhất là các nhà lập lịch) còn thêm Can vào tên gọi của tháng nên có tháng Giáp Tý, Bính Tý, Mậu Tý, Canh Tý, Nhâm Tý tùy theo từng năm âm lịch. Nhưng gọi là tháng Tý là dễ nhớ hơn so với Giáp Tý, Bính Tý v.v do nếu không nhìn vào lịch thì rất ít người nhớ nổi đó là tháng ??? + Tý."
] |
3646 | 70579637 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3646 | Âm lịch | [
"Thái Âm lịch (chữ Hán: 太陰曆, \"lịch mặt trăng\"), thường gọi là Âm lịch, là loại lịch dựa trên chu kỳ và vị trí của Mặt Trăng so với Trái Đất. Loại lịch duy nhất trên thực tế chỉ thuần túy sử dụng âm lịch là lịch Hồi giáo, trong đó mỗi năm chỉ chứa đúng 12 tháng Mặt Trăng. Đặc trưng của âm lịch thuần túy, như trong trường hợp của lịch Hồi giáo, là ở chỗ lịch này là sự liên tục của chu kỳ trăng tròn và hoàn toàn không gắn liền với các mùa. Vì vậy năm âm lịch Hồi giáo ngắn hơn mỗi năm dương lịch khoảng 11 hay 12 ngày, và chỉ trở lại vị trí ăn khớp với năm dương lịch sau mỗi 33 hoặc 34 năm Hồi giáo. Lịch Hồi giáo được sử dụng chủ yếu cho các mục đích tín ngưỡng tôn giáo. Tại Ả Rập Xê Út lịch cũng được sử dụng cho các mục đích thương mại.",
"Phần lớn các loại lịch khác, dù được gọi là \"âm lịch\", trên thực tế chính là âm dương lịch. Điều này có nghĩa là trong các loại lịch đó, các tháng được duy trì theo chu kỳ của Mặt Trăng, nhưng đôi khi các tháng nhuận lại được thêm vào theo một số quy tắc nhất định để điều chỉnh các chu kỳ trăng cho ăn khớp lại với năm dương lịch. Do âm lịch thuần túy chỉ có 12 tháng âm lịch (tháng giao hội) trong mỗi năm, nên chu kỳ này (354,367 ngày) đôi khi cũng được gọi là \"năm âm lịch\".",
"Hiện nay, trong tiếng Việt \"âm lịch\" (hoặc \"lịch ta\") thường được dùng để chỉ nông lịch. Đó là một loại âm dương lịch chứ không phải âm lịch thuần túy. Do Việt Nam hiện nay dùng múi giờ để tính nông lịch, trong khi Trung Quốc thì dùng múi giờ nên ngày Tết Nguyên Đán theo nông lịch Việt Nam và Trung Quốc đôi khi không ứng với cùng một ngày Tây lịch.",
"Bắt đầu của tháng âm lịch.",
"Âm lịch thuần túy cũng khác dương lịch ở chỗ ngày nào là ngày đầu tiên của năm. Cụ thể xem lịch Hồi giáo.",
"Đối với một số loại \"âm lịch\" (không thực sự), chẳng hạn như lịch Trung Quốc, thì ngày đầu tiên của tháng là ngày \"trăng mới\", tức là khi Mặt Trăng bị hoàn toàn che khuất trong khu vực lịch này được sử dụng.",
"Nhiều loại \"âm lịch\" khác thì căn cứ vào thời điểm trăng lưỡi liềm hiện ra.",
"Độ dài của tháng âm lịch.",
"Thời lượng của chu kỳ/quỹ đạo Mặt Trăng không cố định và dao động ít nhiều trong khoảng thời gian trung bình của nó. Do các quan sát phụ thuộc vào độ không chắc chắn và các điều kiện thời tiết, và các phương pháp thiên văn rất là phức tạp, nên đã có những cố gắng để tạo ra các quy tắc số học cố định.",
"Độ dài trung bình của tháng giao hội là 29,530588... ngày. Đó có nghĩa là độ dài tháng sẽ là 29 và 30 ngày luân phiên (được gọi tương ứng là \"thiếu\" và \"đủ\"). Sự phân bố của các tháng thiếu và đủ có thể được xác định bằng sử dụng phân số liên tục, và khảo sát các phép xấp xỉ kế tiếp cho độ dài của tháng theo phân số của ngày. Trong danh sách dưới đây, sau số ngày liệt kê trong tử số thì một số nguyên tháng được liệt kê như là mẫu số đã đầy đủ:",
"Các phân số này có thể được sử dụng trong việc lập các loại âm lịch, hoặc kết hợp với dương lịch để tạo ra âm dương lịch. Chu kỳ 49 tháng được Isaac Newton đề xuất làm cơ sở cho một lựa chọn trong tính toàn ngày Phục sinh vào khoảng năm 1700. Chu kỳ 360 tháng của lịch Hồi giáo dạng bảng là tương đương với 24×15 tháng trừ đi phần hiệu chỉnh là 1 ngày.",
"Âm lịch 13 tháng tại Anh cổ.",
"Tại Anh, lịch với 13 tháng, mỗi tháng 28 ngày, cộng một ngày dư, được gọi là \"a year and a day\" (một năm và một ngày) còn được sử dụng tới thời kỳ Tudor. Nó có lẽ là một loại lịch lai trong đó người ta thay thế một tuần thông thường với 7 ngày cho một phần tư tháng âm lịch trên thực tế, vì thế một tháng có chính xác 4 tuần, không phụ thuộc vào tuần trăng trên thực tế. \"Năm âm lịch\" ở đây được coi là có 364 ngày, làm cho năm dương lịch (365 ngày) trở thành \"một năm và một ngày\".",
"Chẳng hạn, bài ca balat thời kỳ \"Edward\" (có lẽ là Edward II, cuối thế kỷ XIII hay đầu thế kỷ XIV) về Robin Hood có câu \"How many merry months be in the year? / There are thirteen, I say...\" (Có bao nhiêu tháng dễ chịu trong năm? / Có mười ba, tôi nói...), đã được soạn giả thời Tudor thay đổi thành \"...There are but twelve, I say...\" (Chỉ có mười hai, tôi nói...). Robert Graves trong lời giới thiệu cho \"Greek Myths\" đã bình luận điều này với \"số 13, con số của tháng chết chóc của Mặt Trời, chưa bao giờ đánh mất tiếng xấu của nó trong số các điều mê tín.\"",
"Thậm chí vào cuối thế kỷ XX, các tổ chức tài chính Anh quốc vẫn còn cung cấp các khoản vay thế chấp theo âm lịch, đòi hỏi phải có điều chỉnh hàng năm.",
"Âm dương lịch.",
"Phần lớn các loại lịch khác được gọi là âm lịch trên thực tế chính là âm dương lịch; các ví dụ như thế có lịch Trung Quốc, lịch Do Thái và lịch Hindu, lịch vạn niên cũng như phần lớn các loại lịch được sử dụng thời cổ đại.",
"Tất cả các loại lịch trên đều có số tháng không cố định trong mỗi năm. Lý do là mỗi năm dương lịch trên thực tế không chia hết cho tháng âm lịch, vì thế nếu không có sự chỉnh sửa bằng cách thêm các tháng nhuận vào thì các mùa sẽ bị trôi dạt dần sau mỗi năm qua đi. Sự chỉnh sửa này tạo ra tháng thứ 13 của năm sau mỗi 2 hay 3 năm âm dương lịch."
] |
3647 | 901505 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3647 | Can Chi | [
"Can Chi (干支), gọi đầy đủ là Thiên Can Địa Chi (天干地支) hay Thập Can Thập Nhị Chi (十干十二支), là hệ thống đánh số thành chu kỳ được dùng tại các nước thuộc vùng văn hóa Đông Á như: Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan, Việt Nam và một số quốc gia khác ngoài vùng. Nó được áp dụng với tổ hợp chu kỳ 60 trong âm lịch nói chung để xác định tên gọi của thời gian (ngày, giờ, năm, tháng) cũng như trong chiêm tinh học. Người ta cho rằng nó có xuất xứ từ Nhị Thập Bát Tú trong cách tính lịch cổ đại dùng để đếm ngày.",
"Can.",
"Ý nghĩa.",
"Can (干) hay còn gọi là Thiên Can (天干) hoặc Thập Can (十干) do có đúng mười (10) can khác nhau. Can cũng còn được phối hợp với Âm dương và Ngũ hành.",
"Danh sách 10 can.",
"Năm kết thúc bằng số nào thì có Can tương ứng.",
"Chi.",
"Ý nghĩa.",
"Chi (支) hay còn gọi là Địa Chi (地支) hay Thập Nhị Chi (十二支) do có đúng mười hai chi. Đây là mười hai từ chỉ 12 con vật của hoàng đạo phương Đông dùng như để chỉ phương hướng, bốn mùa, ngày, tháng, năm và giờ ngày xưa (gọi là canh gấp đôi giờ hiện đại). Việc liên kết các yếu tố liên quan đến cuộc sống con người với Chi là rất phổ biến ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á. ",
"Do số lượng con giáp cũng là 12 nên trong đời sống, Thập Nhị Chi cũng hay được gọi theo 12 con giáp.",
"Giờ Âm Lịch - Dương Lịch.",
" Tương truyền ngày xưa có một người tên Đại Nhiêu đã lập ra Thập Can và Thập Nhị Chi để giúp người ta tính toán thời gian. Việc tính giờ cũng có liên quan đến tập tính của 12 loài vật:",
"Lục thập hoa giáp.",
"60 tổ hợp Can Chi.",
"Người ta ghép một can với một chi để tạo thành tên gọi chính thức của những cái cần đặt tên (ngày, giờ, tháng, năm v.v...) bắt đầu từ can Giáp và chi Tý tạo ra Giáp Tý, sau đó đến can Ất và chi Sửu tạo ra Ất Sửu và cứ như vậy cho đến hết (Bính..., Quý) và (Dần..., Hợi). Sự kết hợp như vậy tạo thành một chu kì, hết can (hoặc chi) cuối cùng thì nó tự động quay trở lại cho đến tổ hợp cuối cùng là Quý Hợi. Có tổng cộng 60 (bằng bội số chung nhỏ nhất của 10 và 12) tổ hợp khác nhau của 10 can và 12 chi. Can phải kết hợp với Chi đồng tính (Can dương phải kết hợp với Chi dương và Can âm phải kết hợp với Chi âm). Năm 0 là Canh Thân, 1 là Tân Dậu... 59 là Kỷ Mùi. Dựa vào số dư khi chia hết cho 60 có thể tính can chi từng năm. 60 tổ hợp can chi, được gọi là Lục thập hoa giáp bao gồm:"
] |
3648 | 69704669 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3648 | Công Nguyên | [
"Công Nguyên (viết tắt là CN) là thuật ngữ được sử dụng để đánh số năm trong Lịch Julius và Lịch Gregory. Thuật ngữ này là gốc từ tiếng Latinh thời Trung Cổ, A là AD). Từ \"Công nguyên\" (chữ Hán: 公元) trong Hán Việt được vay mượn từ tiếng Trung. Trong tiếng Trung, \"Công nguyên\" 公元 là tên gọi tắt của \"Công lịch kỷ nguyên\" 公曆紀元.",
"\"Công Nguyên\" hay \"Kỷ nguyên Công lịch\" tính từ khi Chúa Giêsu được sinh ra. Trước thời điểm Giêsu sinh ra được gọi là Trước Công Nguyên hay \"Trước Công lịch kỉ Nguyên\" (viết tắt là TCN, cách sử dụng tương ứng ở phương Tây là BC, viết tắt của Before Christ).",
"Hệ thống TCN và CN được phát minh bởi Dionysius Exiguus của Scythia Minor vào năm 525, nhưng không được sử dụng rộng rãi cho đến sau năm 800.",
"Cách ghi này trong lịch Gregorian được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới hiện nay. Nó đã trở thành tiêu chuẩn không chính thức trên phạm vi toàn cầu, được áp dụng vì các lợi ích thiết thực trong sử dụng truyền thông quốc tế, vận tải và hội nhập thương mại và được các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc công nhận.",
"Lịch sử.",
"Khái niệm kỷ nguyên Kitô được tu sĩ Dionysius Exiguus đặt ra vào thế kỷ VI khi ông tính lịch cho các ngày lễ Phục Sinh và được dùng với các lịch Julius và Gregory. Không có năm 0 trong các lịch này; năm 1 TCN được theo sau bằng năm 1 CN. Các nhà làm sử áp dụng thông lệ này vì nó được dùng lần đầu bởi tu sĩ Beda trong tác phẩm \"Historia Ecclesiastica Gentis Anglorum\" (Lịch sử giáo hội của người Anh, 731). Ông không dùng số 0, mặc dù ông đã biết số 0 vào lúc đó, vì việc đếm số cho năm bắt đầu từ 1 chứ không phải 0. Năm 0 trong lịch thiên văn là năm 1 TCN; các năm trước 0 được đánh số âm, như −1 = 2 TCN.",
"Hầu hết các học giả Kinh Thánh hiện nay cho rằng Dionysius đã tính sai, và rằng trên thực tế Giêsu sinh trong khoảng từ năm 8 TCN tới năm 4 TCN. Dữ kiện muộn nhất liên quan đến sự giáng sinh của Giê-su là cái chết của Herod Đại đế vào năm 4 TCN.",
"Sau Công Nguyên.",
"Tại Việt Nam, một số người do hiểu lầm CN là chỉ năm Chúa Giê-su ra đời nên họ đã gọi những năm nằm trong Công nguyên là năm \"sau Công nguyên\". Công nguyên là kỷ nguyên bắt đầu từ năm được cho là năm Chúa Giê-su ra đời, Công nguyên vẫn còn đang tiếp diễn, nó chỉ ngừng lại khi người ta quyết định kết thúc nó. Chừng nào Công nguyên chưa kết thúc thì mọi năm chỉ có thể là nằm trước hoặc trong Công nguyên, không có năm \"sau Công nguyên\".",
"Theo cách nghĩ bình thường với kiến thức chung của người Việt Nam, từ \" Công Nguyên\" được hiểu là mốc (hoặc là số 0), nên họ thường sử dụng động từ Trước (-) và Sau (+) để định hình câu nói của họ. Ví dụ: sau công nguyên 2 năm là Năm 2+."
] |
3650 | 531603 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3650 | CN | [
"CN hay cn có thể là từ viết tắt cho:",
"<templatestyles src=\"Dmbox/styles.css\" />",
" Trang này liệt kê những bài viết liên quan đến tiêu đề ."
] |
3658 | 4 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3658 | Tháng củ mật | [] |
3659 | 4 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3659 | Thiên Can Địa Chi | [] |
3660 | 4 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3660 | Thập Can Thập Nhị Chi | [] |
3661 | 98738 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3661 | Trước Công Nguyên | [] |
3662 | 98738 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3662 | TCN | [] |
3663 | 248072 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3663 | Trung Hoa | [] |
3664 | 4 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3664 | Kilômet | [] |
3668 | 66771 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3668 | Phản ứng trùng ngưng, đồng trùng ngưng | [] |
3669 | 66771 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3669 | Đồng trùng ngưng | [] |
3674 | 806951 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3674 | Lịch sử vật lý học | [
"Vật lý (từ tiếng Hy Lạp cổ đại φύσις \"physis\" có nghĩa \"tự nhiên\") là chi nhánh cơ bản của khoa học, phát triển từ những nghiên cứu về tự nhiên và triết học nổi tiếng, và cho đến cuối thế kỷ thứ 19 vẫn coi là \"triết học tự nhiên\" (natural philosophy). Ngày nay, vật lý được xác định là môn khoa học nghiên cứu về \"vật chất, năng lượng và mối quan hệ giữa chúng\".",
"Lịch sử.",
"Từ xa xưa, con người đã cố gắng tìm hiểu về các đặc điểm của vật chất và đặt ra các câu hỏi như: tại sao một vật lại có thể rơi được xuống đất? tại sao vật chất khác nhau lại có các đặc tính khác nhau? Và vũ trụ kia vẫn là điều bí ẩn: Trái Đất được hình thành như thế nào? đặc điểm của các thiên thể như Mặt Trời hay Mặt Trăng ra sao? Một vài thuyết đã được đưa ra, nhưng đa phần đều không chính xác. Những thuyết này mang đậm nét triết lý và chưa từng qua các bước kiểm chứng như các thuyết hiện đại. Một số ít được công nhận, số còn lại đã lỗi thời, ví dụ như nhà tư tưởng người Hy Lạp, Archimedes, đưa ra nhiều miêu tả định lượng chính xác về cơ học và thủy tĩnh học.",
"Thế kỷ thứ 17, Galileo Galilei là người đi tiên phong trong lĩnh vực sử dụng thực nghiệm để kiểm tra tính đúng đắn của lý thuyết, và nó là chìa khóa để hình thành nên ngành khoa học thực nghiệm. Galileo xây dựng và kiểm tra thành công nhiều kết quả trong động lực học, cụ thể là Đinh luật quán tính. Năm 1687, Isaac Newton công bố cuốn sách \"Principia Mathematica\", miêu tả chi tiết và hoàn thiện hai thuyết vật lý: Định luật chuyển động Newton, là nền tảng của cơ học cổ điển và Định luật hấp dẫn, miêu tả lực cơ bản của hấp dẫn. Cả hai thuyết trên đều được công nhận bằng thực nghiệm. Cuốn sách Principia cũng giới thiệu một vài thuyết thuộc ngành thủy động lực học. Cơ học cổ điển được mở rộng bởi Joseph Louis Lagrange, William Rowan Hamilton, và một số nhà vật lý khác, người đã xây dựng lên các công thức, nguyên lý và kết quả mới. Định luật hấp dẫn mở đầu cho ngành vật lý thiên văn, ở đó miêu tả các hiện tượng thiên văn dựa trên các thuyết vật lý học.",
"Bước sang thế kỷ thứ 18, nhiệt động lực học được ra đời, bởi Robert Boyle, Thomas Young và một số nhà vật lý khác. Năm 1733, Daniel Bernoulli sử dụng phương pháp thống kê với cơ học cổ điển để đưa ra các kết quả cho nhiệt động lực học, từ đó ngành cơ học thống kê được ra đời. Năm 1798, Benjamin Thompson chứng minh được việc chuyển hóa cơ năng sang nhiệt, và năm 1847, James Prescott Joule đặt ra định luật bảo toàn năng lượng, dưới dạng nhiệt cũng như năng lượng cơ học, cơ năng.",
"Đặc điểm của tính điện và từ tính được nghiên cứu bởi Michael Faraday, Georg Ohm, cùng với một số nhà vật lý khác. Năm 1855, James Clerk Maxwell thống nhất hai ngành điện học và từ học vào làm một, gọi chung là Điện từ học, được miêu tả bằng các phương trình Maxwell. Dự đoán của thuyết này đó là ánh sáng là một dạng sóng điện từ. Năm 1895, Wilhelm Conrad Roentgen (Röntgen) khám phá ra tia X quang, là một dạng tia phóng xạ điện từ tần số cao. Độ phóng xạ được tìm ra từ năm 1896 bởi Henri Becquerel, và sau đó là Marie Curie (Maria Skłodowska-Curie), Pierre Curie, cùng với một số nhà vật lý khác. Từ đó khai sinh ra ngành vật lý hạt nhân.",
"Năm 1905, Albert Einstein xây dựng Thuyết tương đối đặc biệt, kết hợp không gian và thời gian vào một khái niệm chung, không-thời gian. Thuyết tương đối hẹp dự đoán một sự biến đối khác nhau giữa các điểm gốc hơn là cơ học cổ điển, điều này dẫn đến việc phát triển cơ học tương đối tính để thay thế cơ học cổ điển. Với trường hợp vật tốc nhỏ, hai thuyết này dẫn đến cùng một kết quả. Năm 1915, Einstein phát triển thuyết tương đối đặc biệt để giải thích lực hấp dẫn, thuyết này do đó được gọi là Thuyết tương đối tổng quát hay Thuyết tương đối rộng, thay thế cho định luật hấp dẫn của Newton. Trong trường hợp khối lượng và năng lượng thấp, hai thuyết này cũng cho một kết quả như nhau.",
"Năm 1911, Ernest Rutherford suy luận từ thí nghiệm tán xạ về sự tồn tại của hạt nhân nguyên tử, với thành phần mang điện tích dương được đặt tên là proton. Neutron, thành phần của hạt nhân nguyên tử không mang điện tích, được phát hiện ra năm 1932 bởi James Chadwick.",
"Bước sang thế kể thứ 20, Max Planck, Einstein, Niels Bohr cùng với một số nhà vật lý khác xây dựng thuyết lượng tử để giải thích cho các kết quả thí nghiệm bất thường bằng việc miêu tả các lớp năng lượng rời rạc. Năm 1925, Werner Heisenberg và năm 1926 Erwin Schrodinger và Paul Dirac công thức hóa cơ học lượng tử, để giải thích thuyết lượng tử bằng các công thức toán học. Trong cơ lương tử, kết quả của các đo đạc vật lý tồn tại dưới dạng xác suất, và lý thuyết này đã rất thành công khi miêu tả các đặc điểm và tính chất của thế giới vi mô.",
"Cơ học lượng tử là công cụ cho ngành vật lý vật chất đặc (\"condensed matter physics\"), một ngành nghiên cứu các tính chất vật lý của chất rắn và chất khí, bao gồm các đặc tính như cấu trúc tinh thể, bán dẫn và siêu dẫn. Người đi tiên phong trong ngành vật lý vật chất đặc đó là Felix Bloch, người đã sáng tạo ra một bộ mặt lượng tử các tính chất của electron trong cấu trúc tinh thể năm 1928.",
"Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, các nghiên cứu khoa học tập trung vào ngành vật lý hạt nhân với mục đích tạo ra bom nguyên tử. Sự cố gắng của người Đức, do Heisenberg dẫn đầu, đã không thành công, nhưng dự án Manhattan của Mỹ đã đạt được mục đích. Nhóm khoa học người Mỹ, đứng đầu là Enrico Fermi đã là người đầu tiên xây dựng lò phản ứng hạt nhân năm 1942, và chỉ 3 năm sau, năm 1945, vụ thử hạt nhân đầu tiên đã diễn ra tại Trinity, gần Alamogorgo, New Mexico.",
"Lý thuyết trường lượng tử được xây dựng để phát triển cơ lượng tử, với việc kết hợp thuyết tương đối hẹp. Một phiên bản mới được hình thành vào cuối năm 1940 bởi Richard Feynman, Julian Schwinger, Tomonaga và Freeman Dyson. Họ đã công thức hóa thuyết điện động lực học lượng tử để miêu tả tương tác điện từ.",
"Thuyết trường lượng tử tạo nền cho ngành vật lý hạt, ở đó nghiên cứu các lực tự nhiên và các hạt cơ bản. Năm 1945. Dương Chấn Ninh và Robert Mills phát triển một dạng thuyết gauge, tạo cơ sở cho Mô hình chuẩn. Mô hình chuẩn đã được hoàn chỉnh vào năm 1970, với thành công là việc miêu tả tất cả các hạt biết được khi ấy."
] |
3680 | 98738 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3680 | Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa | [] |
3681 | 4 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3681 | CHXHCNVN | [] |
3683 | 11 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3683 | Các nước trên thế giới | [] |
3686 | 98738 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3686 | Thuyết tương đối đặc biệt | [] |
3687 | 812749 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3687 | Einstein | [] |
3688 | 11 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3688 | Bach | [] |
3692 | 859204 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3692 | Lịch sử cơ học | [
"Những viên gạch đầu tiên của bộ môn cơ học dường như được xây nền từ thời Hy Lạp cổ đại. Những kết quả nghiên cứu đầu tiên được ngày nay biết đến là của Archimedes (287-212 TCN). Chúng bao gồm định lý mang tên ông trong thủy tĩnh học, khái niệm về khối tâm và nghiên cứu cân bằng của đòn bẩy.",
"Sau đó, khoa học đã ngủ quên quá lâu và cơ học chỉ được đánh thức vào thời kỳ Phục Hưng ở châu Âu với những tiến bộ vượt bậc vào thế kỉ 16. Trong suốt đêm trường thời Trung Cổ, những lý thuyết ngụy biện của Aristoteles (384-322 TCN) đã ngăn trở rất nhiều sự đi lên của khoa học đích thực. Trong thời này người ta phải kể đến Leonardo da Vinci (1452-1519) với những nghiên cứu về tĩnh học. Tuy nhiên những tên tuổi lớn nhất của giai đoạn huy hoàng này chính là nhà khoa học Ba Lan Nicolaus Copernicus (1473-1543) - người đã phủ nhận mô hình với Trái Đất là trung tâm vũ trụ của Ptolémée (xem thuyết địa tâm) và mô tả những chuyển động đúng đắn của Hệ Mặt Trời, là nhà thiên văn học người Đức Johannes Kepler (1571-1630) - người đã phát biểu ba định luật mang tên ông về sự chuyển động của các hành tinh, là nhà bác học thiên tài người Ý Galileo Galilei (1564-1642). Có thể nói, Galileo là ông tổ khai sáng ra động lực học: ông đã đưa ra khái niệm gia tốc, phát biểu vào năm 1632 nguyên lý tương đối Galileo và nguyên lý quán tính. Ông cũng đã nghiên cứu đến rất nhiều những vấn đề khác nhau của cơ học: con lắc, mặt phẳng nghiêng, sự rơi tự do.",
"Kế tiếp sau đó, sang thế kỉ 17, nhà khoa học Pháp Blaise Pascal (1623-1662) đã có những nghiên cứu quan trọng về thủy tĩnh học. Nhà vật lý Hà Lan Christiaan Huygens (1629-1695) đã phân tích chuyển động quay, đặc biệt là những dao động của con lắc và đưa ra khái niệm về động năng cũng như về lực hướng tâm. Đặc biệt, nhà bác học Anh Isaac Newton (1642-1727) đã xuất bản cuốn sách \"Philosphiae naturalis principia mathematica\" (Những nguyên lý toán học của triết học tự nhiên) trong đó có nêu lên ba định luật mang tên ông, tạo nên nền tảng của cơ học cổ điển. Newton còn được biết đến với định luật vạn vật hấp dẫn của vũ trụ.",
"Thế kỉ 17 khép lại và thế kỉ 18 mở ra và được xem như là thế kỉ của cơ học giải tích. Nhà bác học Thụy Sĩ Leonhard Euler (1707-1783) đã phát biểu những phương trình về cơ học chất lưu. Ông cũng tham gia vào việc xây dựng nên ngành cơ học giải tích cùng với Louis Joseph Lagrange (1736-1813) và Jean Le Rond d'Alembert (1717-1783).",
"Tiếp theo đó, sự phát triển của cơ học cổ điển đã đạt tới giới hạn với những ứng dụng tuyệt vời. Ví dụ như Pierre-Simon Laplace (1749-1827) đã cải thiện sự chính sáng về sự ra đời của chuyển động các hành tinh nhờ vào phương pháp nhiễu loạn. Urbain Le Verrier (1811-1877) đã tiên đoán trước sự hiện hữu của Sao Hải Vương bằng chính phương pháp này. Mặt khác, ông cũng đã khám phá ra sự xích lại của điểm cận nhật của Sao Thủy. Tuy nhiên chính kết quả này lại đánh dấu một trong những giới hạn của cơ học Newton: kết quả này chỉ có thể được giải thích dựa vào cơ học tương đối. William Rowan Hamilton (1805-1865) đã đề xuất ra phép khai triển chính tắc được biết đến với tên những phương trình Hamilton. Người ta cũng có thể kể đến Henri Poincaré (1854-1912) với những đóng góp trong cơ học tính toán.",
"Cuối cùng có rất nhiều sự mở rộng của cơ học cổ điển trong lĩnh vực về các môi trường liên tục (thủy động lực học hoặc môi trường chịu biến dạng).",
"Chúng ta cũng không được phép quên rằng mặc dù ngày nay đã có rất nhiều những phát minh và khám phá trong cơ học lượng tử và cơ học tương đối ở thế kỉ 20 nhưng những nghiên cứu về hệ hỗn độn trong thập niên 1970, về những áp dụng của cơ học cổ điển vẫn là một phần to lớn trong lâu đài vật lý học. Trong khi đó, vẫn còn nguyên vẹn rất nhiều vấn đề chưa được giải quyết trong cơ học cổ điển, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến dao động kép."
] |
3700 | 4 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3700 | Chxhcnvn | [] |
3701 | 4 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3701 | Lược sử vắn tắt của môn cơ học | [] |
3702 | 826 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3702 | Vật lý lý thuyết và vật lý thực nghiệm | [] |
3703 | 826 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3703 | Các thuyết vật lý chính | [] |
3706 | 70551054 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3706 | Danh sách quốc gia theo dân số | [
"Đây là danh sách quốc gia theo dân số.",
"Danh sách này dựa trên cách gọi tên dùng trong danh sách nước trên thế giới. Lưu ý là bài này không chủ ý nói về tình trạng của các lãnh thổ.",
"Một số lãnh thổ cũng được đề cập để tiện so sánh. Chúng được in \"nghiêng\"."
] |
3707 | 3399 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3707 | Thánh Kinh | [] |
3708 | 826 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3708 | Các ngành của vật lý | [] |
3715 | 161772 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3715 | Danh sách các nước theo dân số | [] |
3716 | 826 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3716 | Vật lý ngày mai | [] |
3718 | 4 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3718 | Mặt trời | [] |
3719 | 630332 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3719 | Công giáo | [
"Công giáo là một thuật ngữ rộng được sử dụng đặc biệt trong ngữ cảnh Kitô giáo, xuất phát từ chữ Hy Lạp καθολικός có nghĩa \"chung\" hay \"phổ quát\". Như vậy thuật ngữ Công giáo hay Đại công trong tiếng Việt được dùng để dịch chữ \"καθολικός\", \"catholicus\" hoặc \"catholique\", với ý nghĩa đó là đạo chung, đạo phổ quát, đón nhận mọi người, chứ không riêng cho dân tộc hay quốc gia nào. \"Công giáo\" được dùng với một số nghĩa như sau:",
"\"Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền\".",
"Văn kiện sớm nhất sử dụng thuật từ \"Giáo hội Công giáo\" được tìm thấy trong thư của thánh Ignatius thành Antiochia gửi các tín hữu ở Smyrna vào năm 107. Khi kêu gọi các Kitô hữu giữ vững sự hiệp nhất với giám mục của mình, ông viết: \"Ở đâu có giám mục hiện diện, là ở đó có cộng đoàn; cũng thế, ở đâu có Chúa Giêsu Kitô, là ở đó có Giáo hội Công giáo\".",
"Từ \"Công giáo\" được sử dụng kể từ đó để chỉ giáo hội duy nhất, nguyên thủy của Chúa Kitô, do Chúa Kitô sáng lập và được các Tông đồ lưu truyền, và xuất hiện trong các Kinh Tin Kính Kitô giáo, đáng chú ý là Kinh Tin Kính của các Tông đồ và Kinh Tin Kính Nicea. Vì vậy, nhiều người theo Kitô giáo tuyên bố mang danh hiệu \"công giáo\". Những người này có thể được chia thành 2 nhóm:",
"Nhìn chung, từ \"công giáo\" thường được các thành viên của nhóm đầu dùng để chỉ chính họ. Thành viên của nhóm sau thường không tự gọi mình là công giáo, mặc dù họ vẫn xem mình là một phần của giáo hội \"công giáo\" vô hình.",
"Các tín đồ Kitô giáo của hầu hết các giáo phái, trong đó có hầu hết các giáo phái Tin Lành, xác nhận niềm tin vào Giáo hội Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền. Đối với những người Tin Lành, mà hầu hết tự xem là hậu duệ tinh thần của các Tông đồ (nhóm thứ 2 nhắc tới ở trên), sự xác định rõ ràng này cho thấy niềm tin của họ vào sự hợp nhất cuối cùng của mọi giáo hội dưới một Thiên Chúa và Đấng Cứu Độ duy nhất, hơn là một giáo hội hợp nhất hữu hình. Trong cách dùng này, \"công giáo\" thường được viết với chữ \"c\" thường; đây cũng là cách viết được dùng trong Kinh Tin Kính Nicea và Kinh Tin Kính của các Tông đồ.",
"Các giáo hội tuyên bố mình là \"Công giáo\".",
"Giáo hội Công giáo Rôma.",
"Giáo hội Công giáo Rôma là giáo hội lớn nhất trong số các nhóm tự gọi mình là Công giáo. Một số người cũng dùng cách gọi \"Công giáo Rôma\" để đề cập tới thành phần chiếm đa số trong giáo hội và theo nghi thức Latinh, là Giáo hội Latinh. Như trên có đề cập, thuật ngữ \"Công giáo\" thường được dùng để nói về \"Công giáo Rôma\". Từ \"Rôma\" dùng để chỉ vai trò trung tâm của Giáo hoàng Rôma đối với giáo hội này và theo định nghĩa mọi tín đồ Công giáo Rôma có sự hiệp thông trọn vẹn với vị Giáo hoàng này khi là thành phần của Giáo hội Latinh (Tây phương) chiếm đa số hay thuộc 22 Giáo hội Công giáo Đông phương nhỏ hơn, chấp nhận \"quyền bính trọn vẹn. tối cao, phổ quát trên Hội thánh\" của Giáo hoàng tại Rôma (Điều 882 Giáo lý Hội thánh Công giáo).",
"Các nhóm Công giáo khác.",
"Trong Kitô giáo Tây phương các nhóm chính tự xem là \"Công giáo\" mà không có sự hiệp thông đầy đủ với Giáo hoàng là Giáo hội Công giáo Thượng cổ (\"Ancient Catholic\", Giáo hội Công giáo Cổ tại Hà Lan), các Giáo hội Công giáo Cổ (\"Old Catholic\", tách khỏi Giáo hội Công giáo Rôma năm 1870), Hội Công giáo Yêu nước Trung Quốc, các Giáo hội Công giáo Độc lập (\"Independent Catholic\") như các nhóm ở Philippines, Brazil, Ba Lan và một số thành phần của Anh giáo (Thượng Giáo hội hay Công giáo Anh). Các nhóm này giữ các niềm tin tinh thần và thực hành nghi lễ tôn giáo tương tự như Công giáo Rôma nghi lễ La-tinh mà từ đó họ xuất phát, nhưng từ chối địa vị và thẩm quyền của Giáo hoàng. Một số nhóm Công giáo Truyền thống chủ nghĩa không chấp nhận một phần hoặc toàn bộ các cải cách của Công đồng Vatican II cũng ở tình trạng tương tự.",
"Các sách nhập môn về Anh giáo thường đề cập đến đặc tính của truyền thống Anh giáo là bao gồm cả \"Công giáo và Cải cách\", Anh giáo (\"Anglicanism\") về thực hành có thể được chia thành 2 cánh chính: Thượng Giáo hội (\"High Church\"), còn được gọi là Công giáo Anh (\"Anglo-Catholicism\"), và Hạ Giáo hội (\"Low Church\"), còn được gọi là trường phái Tin lành. Mặc dù tất cả các thành tố bên trong Anh giáo đều áp dụng các tín điều như nhau nhưng Anh giáo Hạ Giáo hội xem chữ \"Công giáo\" theo ý nghĩa lý tưởng, còn Anh giáo Thượng Giáo hội xem đó là tên gọi cho toàn thể Giáo hội hoàn vũ mà họ là một bộ phận cùng với Công giáo Rôma và các giáo hội Chính thống giáo.",
"Công giáo Anh giữ nhiều nét giống với nghi lễ La-tinh của Công giáo Rôma cũng như nhiều yếu tố tinh thần có liên quan, như niềm tin và thực hành 7 bí tích, tin vào sự Hiện diện thực sự của Chúa Kitô trong Tiệc thánh, tôn kính Nữ Đồng trinh Maria và các thánh, gọi người đã được truyền chức là \"linh mục\" – được xưng hô là \"cha\" – mặc lễ phục trong các nghi thức lễ nhà thờ, và đôi khi gọi hy lễ Tạ ơn là lễ \"Missa\". Cánh Công giáo Anh của Anh giáo phát triển chủ yếu vào thế kỷ thứ 19 và có liên hệ mạnh mẽ với Phong trào Oxford. Hai người lãnh đạo nổi bật của phong trào, John Henry Newman và Henry Edward Manning, vốn đều là giáo sĩ Anh giáo, sau này gia nhập Giáo hội Công giáo Rôma và trở thành Hồng y.",
"Một vài giáo hội Chính thống giáo Đông phương và Chính thống giáo Đông phương phi Chalcedon tự xem là giáo hội Công giáo chân thực và hoàn vũ, và xem các giáo hội khác cùng hệ thống hoặc các giáo hội Công giáo Tây phương là lạc giáo và rời bỏ Giáo hội Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền. Thượng phụ của các giáo hội Chính thống giáo này là các tổng giám mục độc lập, nghĩa là mỗi vị không bị một vị khác giám sát trực tiếp khác (mặc dù vẫn ở dưới quyền, tuỳ theo truyền thống riêng của họ, của hội đồng giám mục hoặc quyết định chung của các thượng phụ cùng hiệp thông với nhau).",
"Bốn đặc tính của Giáo hội: Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo, Tông truyền"
] |
3720 | 161772 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3720 | Đạo Cơ Đốc | [] |
3721 | 142 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3721 | Chilê | [] |
3722 | 11 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3722 | Cu-ba | [] |
3723 | 827006 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3723 | Israel | [
" ",
"Israel (phiên âm tiếng Việt: I-xra-en, Ít-ra-en hay Y-sơ-ra-ên, #đổi ",
"Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.",
", #đổi ",
"Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.",
"), tên gọi chính thức là Nhà nước Israel ( ]; #đổi ",
"Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.",
" ]), là một quốc gia có chủ quyền tại khu vực Trung Đông, nằm trên bờ đông nam của Địa Trung Hải và bờ bắc của Biển Đỏ. Israel có biên giới trên bộ với Liban về phía bắc, với Syria về phía đông bắc, với Jordan về phía đông, lần lượt giáp với các lãnh thổ Bờ Tây, Dải Gaza - kiểm soát chung với Palestine về phía đông - tây và với Ai Cập về phía tây nam. Quốc gia này có diện tích tương đối nhỏ, song lại có nhiều đặc điểm địa lý đa dạng. Trung tâm thương mại, tài chính và công nghệ của Israel là Tel Aviv, thành phố cổ Jerusalem được tuyên bố là thủ đô vào năm 1980, song, chủ quyền của Israel đối với Đông Jerusalem lại không được cộng đồng quốc tế công nhận dù cho nước này hiện đang duy trì quyền tài phán cũng như sự kiểm soát trên thực tế.",
"Ngày 29 tháng 11 năm 1947, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc quyết định thông qua một phương án phân chia chính thức cho Lãnh thổ ủy trị Palestine - cựu thuộc địa của Đế quốc Anh, kế hoạch được kỳ vọng rằng sẽ giải quyết dứt điểm những xung đột liên miên giữa các phe phái của cộng đồng người Do Thái di cư theo 'Chủ nghĩa phục quốc Do Thái' và người Ả Rập bản địa - điều mà người Anh ngày càng bế tắc. Cụ thể, phương án này sẽ chia Lãnh thổ ủy trị Palestine thành 2 nhà nước mới, một của người Ả Rập và một của người Do Thái, trong khi khu vực Jerusalem nằm dưới quyền quản lý của Liên Hợp Quốc dưới hình thức là một chính thể quốc tế. Thời điểm kết thúc quyền quản lý ủy trị của Anh Quốc đối với Palestine được ấn định là vào nửa đêm ngày 14 tháng 5 năm 1948. Người Do Thái chấp thuận theo sự sắp xếp của Liên Hợp Quốc, tuy nhiên, người Ả Rập lại không đồng ý với kế hoạch trên, họ cho rằng việc phân định, chia cắt lãnh thổ của cộng đồng người Ả Rập - những người mà đã sinh sống tại nơi đây lâu đời như vậy thì không khác gì hành vi cướp đất theo kiểu \"Thực dân châu Âu\". Mặc cho những phản đối của người Ả Rập, gần sát đến thời điểm đó, một thủ lĩnh của cộng đồng người Do Thái là David Ben-Gurion ra tuyên bố \"thành lập một nhà nước Do Thái tại Eretz Israel, được biết đến với tên gọi là Nhà nước Israel\", thể chế sẽ chính thức bắt đầu đi vào hoạt động ngay sau khi Anh Quốc kết thúc sự quản lý ủy trị. Thế nhưng, biên giới của nhà nước mới lại không được xác định rõ ràng trong tuyên bố. Thế giới Ả Rập ngay lập tức phản ứng gay gắt với quyết định này, họ gọi đó là hành động \"liều lĩnh, trắng trợn, bất hợp pháp\" và sẽ kiên quyết không bao giờ công nhận nhà nước mới của người Do Thái. Ngay sau đó, Liên minh quân đội giữa các quốc gia Ả Rập chính thức tuyên bố chiến tranh, mục tiêu nhằm sử dụng vũ lực để xóa sổ nhà nước Israel non trẻ. Chiến tranh Ả Rập - Israel (1948) bùng phát, Lực lượng Phòng vệ Israel với ưu thế về sự chủ động, sức cơ động, chiến thuật ưu tiên tác chiến đánh phủ đầu kết hợp không kích bất ngờ đồng thời thành công trong việc hạn chế các công nghệ quân sự của đối phương... đã chiến đấu và nhanh chóng giành chiến thắng áp đảo trước các nước Ả Rập láng giềng. Không dừng lại ở đó, sau này, Israel còn tiếp tục chiến thắng khối Ả Rập trong Chiến tranh Sáu Ngày (5/6-10/6 năm 1967) và Chiến tranh Yom Kippur (6/10-26/10 năm 1973). Trong quá trình đó, Israel chiếm đóng thêm một loạt các lãnh thổ mới, bao gồm: Bờ Tây, bán đảo Sinai (1956-57, 1967-82), một bộ phận của miền nam Liban (1982-2000), Dải Gaza (1967-2005, ngày nay vẫn bị xem là chiếm đóng sau năm 2005) và Cao nguyên Golan. Sau đó, Israel tiếp tục mở rộng quyền tài phán của mình lên toàn bộ Cao nguyên Golan và Đông Jerusalem, ngoại trừ khu vực Bờ Tây - giúp cho diện tích lãnh thổ nước này được mở rộng ra gấp 3 lần so với ban đầu. Các nỗ lực sau đó của cộng đồng quốc tế nhằm giải quyết xung đột Israel - Palestine nhằm tìm kiếm, tiến tới một giải pháp hòa bình tiếp tục đi vào bế tắc và không đạt được kết quả nào đáng chú ý. Tuy nhiên, các hiệp ước hòa bình giữa Israel với Ai Cập và Jordan đã được ký kết thành công, các lực lượng quân sự Israel đồng ý rút quân, trao trả lại bán đảo Sinai cho chính phủ cùng Quân đội Ai Cập. Tính đến thời điểm hiện tại, sự chiếm đóng của Israel tại Dải Gaza, Bờ Tây và Đông Jerusalem là hành động chiếm đóng quân sự dài nhất trong lịch sử thế giới hiện đại. Trong giai đoạn 2008-2009, Israel tiếp tục xảy ra xung đột vũ trang trên quy mô lớn với Phong trào Dân quân Kháng chiến Hồi giáo Hamas, cuộc chiến này đã gây ra nhiều thiệt hại lớn về người và của cho cả 2 bên. Ngày nay, những mâu thuẫn, xung đột giữa Thế giới Ả Rập và Israel, giữa Israel và Iran cũng như giữa Israel với các tổ chức, phong trào dân quân kháng chiến Hồi giáo cực đoan nhân danh \"giải phóng, giành độc lập cho Palestine\" như PLO (Hamas + Fatah), Hezbollah... vẫn thỉnh thoảng diễn ra do vị thế địa - chính trị phức tạp của đất nước này.",
"Theo thống kê của Cục Thống kê Trung ương Israel, dân số Israel vào năm 2017 được ước tính đạt 8.747.080 người. Đây là quốc gia duy nhất trên thế giới mà người Do Thái chiếm đa số, với 6.388.800 tương đương với 74,8%. Nhóm công dân lớn thứ nhì trong nước là người Ả Rập, có số lượng là 1.775.400 người (bao gồm người Druze và hầu hết người Ả Rập ở Đông Jerusalem). Đại đa số người Ả Rập Israel theo dòng Hồi giáo Sunni. Trong cơ cấu dân số Israel còn bao gồm một số lượng đáng kể người Negev Bedouin bán du cư, còn lại là các tín đồ Cơ Đốc giáo, Công giáo Roma và cùng các nhóm thiểu số khác. Israel còn có một số lượng lớn các công dân ngoại quốc nhập cư, chủ yếu là những người tị nạn từ châu Phi (nhưng những người này bắt buộc phải có gốc Do Thái nếu muốn được xin nhập quốc tịch) và dân nhập cư châu Á không có quyền công dân, trong đó có cả những người nhập cư - lao động bất hợp pháp.",
"Theo Luật Cơ bản, Israel tự xác định là một quốc gia của người Do Thái và là một nền chính trị dân chủ hoàn chỉnh với đầy đủ chức năng. Israel duy trì thể chế Cộng hòa nghị viện, nhà nước đơn nhất, Tổng thống chế, dân chủ đại nghị kết hợp với dân chủ trực tiếp, xây dựng một hệ thống nghị viện, đại diện tỷ lệ và phổ thông đầu phiếu. Tổng thống là người đứng đầu chính phủ nhưng quyền lực lãnh đạo đất nước nằm trong tay Thủ tướng và Knesset - tức Quốc hội - đóng vai trò là cơ quan lập pháp cao nhất. Israel hiện đang giữ vững tư cách là quốc gia công nghiệp phát triển duy nhất tại Trung Đông và là một thành viên của OECD, quốc gia này có bình quân thu nhập đầu người vào mức rất cao, với hạng 19 toàn cầu, đồng thời là nền kinh tế lớn thứ 30 trên thế giới - với dân số chỉ khoảng hơn 9 triệu người - theo GDP danh nghĩa ước tính cho năm 2020. Israel hưởng lợi từ lực lượng lao động có tư chất, trình độ học vấn, sự tin cậy cũng như kỹ năng nghề nghiệp cao, luôn nằm trong số các quốc gia có nền giáo dục phát triển nhất trên thế giới với tỷ lệ công dân tốt nghiệp đại học luôn được xếp vào top đầu, đồng thời, phần trăm ngân sách chính phủ chi cho các hoạt động nghiên cứu - phát triển của Israel cũng đứng số 1 thế giới trong năm 2020. Israel luôn nằm trong top những quốc gia sáng tạo nhất trên thế giới, có bình quân mức sống, mức tiêu chuẩn sinh hoạt và chỉ số phát triển con người (HDI) cao nhất tại Trung Đông, đứng thứ 4 ở châu Á, xếp hạng 22 thế giới về chỉ số thương hiệu quốc gia (2019), 26 về chỉ số tự do kinh tế (2021) và 20 trong Báo cáo cạnh tranh toàn cầu (2019), đồng thời thuộc vào nhóm các quốc gia có tuổi thọ trung bình cao nhất trên thế giới. Israel cũng là một cường quốc quân sự với trình độ rất cao về công nghiệp quốc phòng, đứng hạng 20 trên thế giới về sức mạnh quân sự tổng hợp cũng như xếp thứ 17 toàn cầu về tổng mức ngân sách chi tiêu cho quốc phòng năm 2021. Mặc dù bản thân nước này chưa bao giờ chính thức lên tiếng xác nhận, song, giới chuyên gia vẫn tin rằng Quân đội Israel vốn từ lâu đã sở hữu một lượng rất lớn vũ khí hạt nhân và đang bí mật tiếp tục nâng cấp, phát triển. Israel là một đồng minh không thuộc khối NATO quan trọng hàng đầu của Hoa Kỳ, người Mỹ gốc Do Thái là một trong những cộng đồng dân cư quan trọng, có sự chi phối, sức ảnh hưởng lớn, lâu đời, sâu rộng nhất đối với nền kinh tế - chính trị Mỹ và cũng từ đó, Israel luôn nhận được sự ủng hộ, hỗ trợ gần như tuyệt đối trong mọi vấn đề đến từ Siêu cường này.",
"Hiện nay, mặc dù chỉ có diện tích lãnh thổ nhỏ cũng như dân số khiêm tốn, Israel với ưu thế về sức mạnh quân sự, kinh tế và tầm ảnh hưởng lớn từ văn hóa, chính trị, chủng tộc vẫn được công nhận là một cường quốc khu vực tại Trung Đông cũng như là một Trung cường quốc trên thế giới.",
"Từ nguyên.",
"Tên gọi \"Israel\" bắt nguồn từ Kinh thánh Hebrew, theo đó, Tổ phụ Jacob đã được đổi tên thành \"Israel\" sau khi vật lộn với thiên thần của Đức Chúa Trời. Đồng thời, hậu duệ của Jacob cũng được gọi là \"con cái của Israel\", trong tiếng Anh gọi là \"Israelites\". Các công dân của nước Israel hiện đại ngày nay, theo tiếng Anh, được gọi là \"Israelis\".",
"Sau khi vua Solomon (973 - 937 TCN) (còn nhiều tranh cãi về niên đại chính xác) mất, Vương quốc Israel Thống nhất bị chia đôi thành: Vương quốc Israel (Samaria) ở miền bắc và Vương quốc Judah ở miền nam. Danh từ Judah được phiên âm Hán Việt là \"Do Thái\". Nước Israel ở phía bắc có thủ đô là Samaria, tồn tại đến năm 721 TCN thì bị Đế quốc Assyria (nay ở miền bắc Iraq) tiêu diệt. Nước Judah ở phía nam có thủ đô là Jerusalem, tồn tại đến năm 587 TCN thì bị Đế quốc Tân Babylon (nay ở miền nam Iraq) tiêu diệt.",
"Lịch sử.",
"Cổ đại.",
"Khái niệm về \"Vùng đất Israel\", gọi là \"Eretz Yisrael\" trong tiếng Hebrew, trở nên quan trọng và thiêng liêng đối với người Do Thái từ thời kỳ Kinh Thánh. Theo Kinh Torah, Thượng đế đảm bảo vùng đất cho ba tộc trưởng của người Do Thái. Trên cơ sở kinh thánh, thời kỳ ba tộc trưởng được xác định là khoảng đầu thiên niên kỷ thứ 2 TCN, và Vương quốc Israel thứ nhất được thành lập vào khoảng thế kỷ XI TCN. Các vương quốc và nhà nước Israel sau đó cai trị không liên tục trong bốn thế kỷ tiếp sau, và được đề cập trong nhiều nguồn ngoài kinh thánh.",
"Ghi chép đầu tiên về tên gọi Israel (với dạng \"\") xuất hiện trong Bia Merneptah, được dựng cho Pharaoh Merneptah của Ai Cập vào khoảng năm 1209 TCN.",
"\"Israel\" này là một thực thể văn hóa và có lẽ là chính trị của cao địa trung tâm, đủ vững chắc để người Ai Cập xem là một thách thức khả dĩ đối với quyền bá chủ của họ, song là một dân tộc thay vì là một nhà nước có tổ chức; Tổ tiên của người Israel có thể gồm người Semit bản địa của Canaan và Liên minh Hải nhân.",
"Các ngôi làng có dân số đến 300 hoặc 400, họ sống bằng nghề trồng trọt và chăn nuôi, và phần lớn là tự cung tự cấp; trao đổi kinh tế là điều phổ biến. Người ta biết đến chữ viết và có thể dùng để ghi chép, thậm chí tại các di chỉ nhỏ. Bằng chứng khảo cổ học cho thấy một xã hội gồm các trung tâm giống như làng, song với tài nguyên hạn chế hơn và dân số nhỏ. Học giả hiện đại nhìn nhận Israel xuất hiện trong hòa bình và nội bộ, từ cư dân hiện hữu tại cao địa Canaan.",
"Khoảng năm 930 TCN, vương quốc bị phân chia thành Vương quốc Judah tại miền nam và Vương quốc Israel tại miền bắc. Từ giữa thế kỷ VIII TCN, Israel ngày càng xung đột với Đế quốc Tân Assyria đang bành trướng. Dưới thời Tiglath-Pileser III, đế quốc này ban đầu phân chia lãnh thổ Israel thành một vài đơn vị nhỏ hơn và sau đó phá hủy thủ đô Samaria (722 TCN). Một cuộc khởi nghĩa của người Israel (724–722 TCN) bị dẹp tan sau khi Quốc vương Assyria Sargon II bao vây và chiếm lĩnh Samaria. Con trai của Sargon là Sennacherib nỗ lực bất thành nhằm chinh phục Judah. Ghi chép của Assyria viết rằng ông ta san bằng 46 thành và bao vây Jerusalem, rời đi sau khi nhận được cống nạp lớn.",
"Năm 586 TCN, Quốc vương Nebuchadnezzar II của Babylon chinh phục Judah. Theo Kinh Thánh Hebrew, ông ta phá hủy Đền Solomon và đày người Do Thái đến Babylon. Thất bại này của Judah cũng được người Babylon ghi lại. Năm 538 TCN, Cyrus Đại đế của Ba Tư chinh phục Babylon và tiếp quản đế quốc này. Cyrus ra tuyên cáo rằng cấp cho các dân tộc bị chinh phục (gồm người Judah) quyền tự do tôn giáo. Theo Kinh Thánh Hebrew, có 50.000 người Judea dưới quyền lãnh đạo của Zerubabel trở về đến Judah và tái thiết đền thờ. Một nhóm thứ hai dưới quyền lãnh đạo của Ezra và Nehemiah trở về đến Judah vào năm 456 TCN bất chấp việc có những người phi Do Thái viết thư cho Cyrus nhằm ngăn chặn động thái này.",
"Thời kỳ Cổ điển.",
"Khu vực liên tục nằm dưới quyền cai quản của Ba Tư, được phân chia giữa tỉnh Syria-Coele và sau đó là Yehud Medinata tự trị, và dần phát triển trở lại thành xã hội đô thị, phần lớn do người Judea chi phối. Các cuộc chinh phục của người Hy Lạp phần nhiều là tràn qua khu vực mà không gặp phải kháng cự. Miền nam Levant được hợp nhất vào Ptolemaios rồi Seleukos, và bị Hy Lạp hóa mạnh mẽ, gây căng thẳng giữa người Judea và người Hy Lạp. Khởi nghĩa Maccabe bùng phát vào năm 167 TCN, khởi nghĩa thành công và Vương quốc Hasmoneus độc lập được lập nên tại Judah. Vương quốc này sau đó bành trướng ra phần lớn Israel ngày nay, trong bối cảnh Seleukos dần đánh mất quyền kiểm soát trong khu vực.",
"Đế quốc La Mã xâm chiếm khu vực vào năm 63 TCN, ban đầu họ nắm quyền kiểm soát Syria, và sau đó can thiệp nội chiến tại Hasmoneus. Đấu tranh giữa các phái thân La Mã và thân Parthia tại Judea cuối cùng dẫn đến việc Herodes Đại vương đăng cơ và củng cố Vương quốc Herod với vị thế là một nhà nước Judea chư hầu của La Mã.",
"Khi thế lực Herod suy yếu, Judea lúc này có vị thế là một tỉnh của La Mã, trở thành nơi diễn ra đấu tranh bạo lực của người Do Thái chống lại người Hy Lạp-La Mã, lên đến cực điểm là các cuộc chiến Do Thái-La Mã, kết thúc trong tàn phá, trục xuất và diệt chủng quy mô lớn. Sự hiện diện của người Do Thái trong khu vực thu hẹp đáng kể sau thất bại của Khởi nghĩa Bar Kokhba chống La Mã vào năm 132 CN. Tuy thế, có một lượng nhỏ người Do Thái hiện diện liên tục và Galilee trở thành trung tâm tôn giáo của họ. Các văn bản trung tâm của người Do Thái là Mishnah và một phần của Talmud được soạn thành trong các thế kỷ thứ hai đến thứ tư CN tại Tiberias và Jerusalem. Thành phần dân cư trong khu vực lúc đó chủ yếu là người Hy Lạp-La Mã tại duyên hải và người Samaria tại vùng đồi núi. Cơ Đốc giáo dần phát triển hơn dị giáo La Mã khi khu vực nằm dưới quyền cai quản của Byzantine. Trong thế kỷ V và VI, các cuộc khởi nghĩa của người Samaria tái định hình khu vực, khiến xã hội Cơ Đốc giáo Byzantine và xã hội Samaria bị tàn phá nghiêm trọng và dẫn đến suy giảm dân số. Sau khi Ba Tư chinh phục và lập ra Thịnh vượng chung Do Thái đoản mệnh vào năm 614, Byzantine tái chinh phục khu vực vào năm 628.",
"Trung Cổ và cận đại.",
"Năm 634–641, khu vực bị người Ả Rập chinh phục, họ là một dân tộc mới chấp nhận Hồi giáo. Khu vực nằm dưới quyền cai quản của người Hồi giáo trong 1.300 năm sau đó dưới nhiều triều đại khác nhau. Quyền kiểm soát khu vực được chuyển giao giữa các Khalip Rashidun, Umayyad, Abbas, Fatima, Seljuk, quân Thập tự chinh, và Ayyub trong suốt sáu trăm năm đầu, đến năm 1260 thì bị Vương triều Mamluk chinh phục.",
"Trong Thập tự chinh thứ nhất, khi Jerusalem bị vây vào năm 1099, cư dân Do Thái trong thành chiến đấu bên phía quân đồn trú Fatima và cư dân Hồi giáo. Đến khi thành thất thủ, khoảng 60.000 người bị tàn sát, trong đó có 6.000 người Do Thái tìm cách tị nạn trong một thánh đường Do Thái giáo. Đương thời là tròn một nghìn năm sau khi nhà nước Do Thái sụp đổ, các cộng đồng Do Thái hiện diện khắp khu vực. 50 trong số cộng đồng đó được biết đến và gồm có Jerusalem, Tiberias, Ramleh, Ashkelon, Caesarea, và Gaza.",
"Năm 1165, nhà triết học người Do Thái sinh tại Tây Ban Nha ngày nay là Maimonides đến thăm Jerusalem và cầu nguyện tại Núi Đền. Năm 1141, nhà thơ Do Thái Tây Ban Nha Yehuda Halevi ra lời kêu gọi người Do Thái di cư đến Vùng đất Israel. Năn 1187, Sultan Saladin của Vương triều Ayyub đánh bại quân Thập tự chinh trong Trận Hattin và sau đó chiếm lĩnh Jerusalem và hầu như toàn bộ Palestine. Đương thời, Saladin ra tuyên cáo mời người Do Thái trở về và định cư tại Jerusalem.",
"Năm 1211, cộng đồng Do Thái trong khu vực được tăng cường khi có thêm một nhóm dưới quyền lãnh đạo của trên 300 giáo sĩ đến từ Pháp và Anh. Nachmanides là một giáo sĩ Do Thái Tây Ban Nha thế kỷ XIII, và là thủ lĩnh được công nhận của dân Do Thái, ông hết sức tán dương Vùng đất Israel và nhìn nhận việc định cư tại đó là một giới mệnh tuyệt đối của toàn bộ người Do Thái. Ông viết rằng \"Nếu người ngoại đạo muốn kiến tạo hòa bình, chúng ta sẽ kiến tạo hòa bình và để chúng trong các điều khoản rõ ràng; song đối với đất đai, chúng ta sẽ không để nó vào tay họ, hay vào tay bất kỳ dân tộc nào, không vào bất kỳ thế hệ nào.\"",
"Năm 1260, quyền kiểm soát khu vực thuộc về các sultan Mamluk tại Ai Cập. Khu vực nằm giữa hai trung tâm quyền lực của Mamluk là Cairo và Damascus, và chỉ có một số bước phát triển dọc tuyến đường bưu chính liên kết hai thành phố. Jerusalem dù không còn tường thành nào bảo vệ kể từ năm 1219, song cũng chứng kiến bùng nổ các dự án xây dựng tập trung quanh tổ hợp Thánh đường Al-Aqsa (Núi Đền). Năm 1266, Sultan Mamluk Baybars chuyển đổi Hang các Tộc trưởng tại Hebron thành một nơi tôn nghiêm của riêng Hồi giáo và cấm chỉ tín đồ Cơ Đốc giáo và Do Thái giáo bước vào, dù trước đó họ có thể tự do vào hang. Lệnh cấm duy trì cho đến khi Israel giành quyền kiểm soát công trình vào năm 1967.",
"Năm 1470, Isaac b. Meir Latif đến từ Ancona và đếm được 150 gia đình Do Thái tại Jerusalem. Giáo sĩ Joseph Saragossi đến vào những năm cuối của thế kỷ XV, nhờ có công lao của ông mà Safed và khu vực xung quanh phát triển thành nơi tập trung lớn nhất của người Do Thái tại Palestine. Nhờ các di dân Do Thái Sephardic từ Tây Ban Nha, dân số Do Thái đã tăng lên 10.000 vào đầu thế kỷ XVI.",
"Năm 1516, khu vực bị Đế quốc Ottoman chinh phục; và duy trì nằm dưới quyền kiểm soát của người Thổ cho đến khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất, khi Anh Quốc đánh bại Ottoman và lập một chính quyền quân sự cai quản khu vực Syria của Ottoman trước kia. Năm 1920, Syria thuộc Ottoman cũ bị phân chia giữa Anh và Pháp theo hệ thống ủy trị, và khu vực do Anh cai quản bao gồm Israel ngày nay và có tên gọi Lãnh thổ Ủy trị Palestine.",
"Chủ nghĩa phục quốc Do Thái và Anh cai quản.",
"Từ khi xuất hiện cộng đồng Do Thái tha hương đầu tiên, nhiều người Do Thái đã mong mỏi trở về \"Zion\" và \"Vùng đất Israel\", Hy vọng và khao khát của người Do Thái sống lưu vong là một đề tài quan trọng trong hệ thống đức tin Do Thái. Sau khi người Do Thái bị trục xuất khỏi Tây Ban Nha vào năm 1492, một số cộng đồng đến định cư tại Palestine. Trong thế kỷ XVI, các cộng đồng Do Thái bén rễ tại Bốn thành phố thánh địa - Jerusalem, Tiberias, Hebron, và Safed, đến năm 1697, Giáo sĩ Yehuda Hachasid dẫn một nhóm gồm 1.500 người Do Thái đến Jerusalem. Trong nửa sau của thế kỷ XVIII, các thành phần đối lập tại Đông Âu của phái Hasidim, gọi là Perushim, đến cư trú tại Palestine.",
"Làn sóng đầu tiên trong quá trình người Do Thái nhập cư thời hiện đại đến Palestine thuộc Ottoman, gọi là Aliyah lần thứ nhất, bắt đầu vào năm 1881 khi người Do Thái tị nạn cuộc tàn sát tại Đông Âu. Mặc dù phong trào phục quốc Do Thái đã hiện diện trên thực tiễn, song nhà báo Áo-Hung Theodor Herzl là người được công nhận có công hình thành chủ nghĩa phục quốc Do Thái về chính trị, phong trào này mưu cầu thành lập một nhà nước Do Thái tại Vùng đất Israel, do đó đề xuất một giải pháp gọi là Vấn đề Do Thái của các quốc gia châu Âu. Năm 1896, Herzl công bố \"Der Judenstaat\" (\"Nhà nước của người Do Thái\"), đề xuất viễn kiến của ông về một nhà nước Do Thái trong tương lai; đến năm sau ông chủ tọa Đại hội Phục quốc Do Thái lần thứ nhất.",
"Aliyah lần thứ nhì (1904–14) bắt đầu sau Thảm sát Kishinev tại Đế quốc Nga; có khoảng 40.000 người Do Thái định cư tại Palestine, song gần một nửa trong số đó cuối cùng rời đi. Làn sóng nhập cư thứ nhất và thứ hai chủ yếu là người Do Thái Chính thống, song Aliyah lần thứ hai cũng bao gồm các tổ chức xã hội chủ nghĩa, họ lập ra phong trào cộng đồng tập thể \"kibbutz\". Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Bộ trưởng Ngoại giao Anh Arthur Balfour gửi Tuyên ngôn Balfour 1917 cho một thủ lĩnh cộng đồng Do Thái tại Anh là Walter Rothschild, viết rằng Anh có ý định lập một \"quê hương dân tộc\" (national home) cho người Do Thái trong Lãnh thổ ủy trị Palestine.",
"Quân đoàn Do Thái là một tổ chức chủ yếu gồm các tình nguyện viên theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái, họ giúp người Anh chinh phục Palestine vào năm 1918. Người Ả Rập phản đối người Anh cai trị và người Do Thái nhập cư, dẫn đến bạo loạn năm 1920 tại Palestine và hình thành một tổ chức dân quân Do Thái mang tên Haganah, các tổ chức bán quân sự Irgun và Lehi sau đó tách ra từ Haganah. Năm 1922, Hội Quốc Liên cấp cho Anh quyền cai trị ủy trị đối với Palestine theo các điều khoản bao gồm cả Tuyên ngôn Balfour và cam kết trong đó với người Do Thái, và với các điều khoản tương tự liên quan đến người Palestine Ả Rập. Đương thời người Ả Rập và Hồi giáo chiếm ưu thế trong thành phần dân tộc của khu vực, người Do Thái chiếm khoảng 11%, và người Cơ Đốc giáo Ả Rập chiếm khoảng 9,5% dân số.",
"Aliyah lần thứ ba (1919–23) và lần thứ tư (1924–29) đưa thêm 100.000 người Do Thái đến Palestine. Cuối cùng, việc chủ nghĩa quốc xã xuất hiện và tình trạng gia tăng áp bức người Do Thái tại châu Âu trong thập niên 1930 dẫn đến Aliyah lần thứ năm, với số lượng là 1/4 triệu người Do Thái. Đây là một nguyên nhân chủ yếu khiến người Ả Rập khởi nghĩa trong giai đoạn 1936–39, khi đó nhà cầm quyền Anh tại lãnh thổ cùng với các dân quân phục quốc Do Thái thuộc Haganah và Irgun sát hại 5.032 người Ả Rập và làm bị thương 14.760 người, kết quả là trên 10% nam giới trưởng thành người Ả Rập Palestine bị giết, bị thương, bị cầm tù hay lưu đày. Người Anh áp đặt hạn chế trong vấn đề người Do Thái nhập cư đến Palestine bằng Sách trắng 1939. Trước tình hình các quốc gia khắp thế giới quay lưng với người tị nạn Do Thái chạy trốn khỏi Holocaust (Đức Quốc Xã diệt chủng người Do Thái), một phong trào bí mật mang tên Aliyah Bet được tổ chức nhằm đưa người Do Thái đến Palestine. Đến cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, dân số Do Thái tại Palestine tăng lên đến 33% tổng dân số.",
"Sau Chiến tranh thế giới thứ hai.",
"Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Anh nhận thấy bản thân có xung đột mãnh liệt với cộng đồng Do Thái về vấn đề hạn chế người Do Thái nhập cư, cũng như tiếp tục xung đột với cộng đồng Ả Rập về mức độ hạn chế. Các tổ chức Haganah, Irgun và Lehi của người Do Thái cùng tham gia một cuộc đấu tranh vũ trang chống lại sự cai trị của Anh. Đồng thời, hàng trăm nghìn nạn nhân còn sống và người tị nạn diệt chủng Holocaust tìm kiếm cuộc sống mới cách xa khỏi cộng đồng đã bị phá hủy của họ tại châu Âu. Người Do Thái tại Palestine nỗ lực đưa những người tị nạn này đến Palestine song nhiều người bị Anh trục xuất, vây bắt hoặc tống giam tại Atlit và Síp.",
"Ngày 22 tháng 7 năm 1946, Irgun tấn công trụ sở chính quyền Anh tại Palestine, nằm tại phía nam của Khách sạn King David tại Jerusalem. Tổng cộng có 91 người thiệt mạng và 46 người bị thương. Cuộc tấn công được cho là nhằm phản ứng trước Chiến dịch Agatha của nhà cầm quyền Anh (nhằm bắt giữ các thành viên phục quốc Do Thái ngầm) và là sự kiện đẫm mẫu nhất đối với người Anh trong thời kỳ cai trị ủy trị (1920–1948). Năm 1947, chính phủ Anh tuyên bố họ sẽ triệt thoái khỏi Lãnh thổ ủy trị Palestine, cho rằng không thể đi đến một giải pháp chấp nhận được cho cả người Ả Rập và Do Thái.",
"Ngày 15 tháng 5 năm 1947, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc quyết định thành lập Ủy ban Đặc biệt Liên Hợp Quốc về Palestine (UNSCOP). Trong báo cáo của ủy ban đề ngày 3 tháng 9 năm 1947 lên Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc, đa số thành viên trong ủy ban tại Chương VI đề xuất một kế hoạch thay thế Lãnh thổ ủy trị của Anh bằng \"một nhà nước Ả Rập độc lập, một nhà nước Do Thái độc lập, và Thành phố Jerusalem... phần thứ ba nằm dưới một Hệ thống Quản thác Quốc tế\". Đến ngày 29 tháng 11 năm 1947, Đại Hội đồng phê chuẩn một nghị quyết về kế hoạch phân chia Palestine. Kế hoạch này về cơ bản giống như đề xuất của đa số thành viên UNSCOP vào ngày 3 tháng 9 năm 1947. Cơ quan Do Thái là đại biểu được công nhận của cộng đồng Do Thái, họ chấp thuận kế hoạch này. Liên đoàn Ả Rập và Ủy ban Cấp cao Ả Rập Palestine bác bỏ nó, và chỉ ra rằng họ sẽ bác bỏ bất kỳ kế hoạch phân chia nào khác.",
"Đến ngày hôm sau, 1 tháng 12 năm 1947, Ủy ban Cấp cao Ả Rập công bố đình công ba ngày, và các toán người Ả Rập bắt đầu tấn công các mục tiêu Do Thái. Người Do Thái ban đầu ở thế phòng thủ khi nội chiến bùng phát, song đến tháng 4 năm 1948 họ chuyển sang thế tấn công. Kinh tế của cộng đồng Ả Rập Palestine sụp đổ và 250.000 người Ả Rập Palestine đào thoát hoặc bị trục xuất.",
"Ngày 14 tháng 5 năm 1948, là ngày trước khi kết thúc quyền ủy trị của người Anh, người đứng đầu Cơ quan Do Thái là David Ben-Gurion tuyên bố \"thành lập một nhà nước Do Thái tại Eretz-Israel, được gọi là Nhà nước Israel\". Ám chỉ duy nhất trong văn bản Tuyên ngôn về biên giới của nhà nước mới là sử dụng thuật ngữ \"Eretz-Israel\" (\"Vùng đất Israel\").",
"Ngày hôm sau, quân đội của bốn quốc gia Ả Rập gồm Ai Cập, Syria, Ngoại Jordan và Iraq tiến vào Lãnh thổ ủy trị Palestine cũ, phát động Chiến tranh Ả Rập-Israel 1948; Các đạo quân đến từ Yemen, Maroc, Ả Rập Xê Út và Sudan cũng tham chiến. ",
"Mục đích hiển nhiên của hành động này là ngăn chặn thành lập nhà nước Do Thái vào lúc sơ khởi, và một số nhà lãnh đạo Ả Rập thảo luận về việc đẩy người Do Thái ra biển. Liên đoàn Ả Rập tuyên bố rằng cuộc xâm chiếm là để vãn hồi pháp luật và trật tự và để ngăn chặn đổ máu thêm.",
"Sau một năm giao chiến, một thỏa thuận đình chiến được công bố và biên giới tạm thời gọi là Giới tuyến Xanh được lập ra. Jordan sáp nhập khu vực được gọi là Bờ Tây, bao gồm Đông Jerusalem, và Ai Cập nắm quyền cai quản Dải Gaza. Tuy nhiên lợi ích lớn nhất vẫn thuộc về Israel, họ giờ đây đã kiểm soát toàn bộ lãnh thổ đã được dành cho họ theo Kế hoạch Phân chia và đa phần lãnh thổ dành cho người Ả rập cũng như một nửa phía tây thành phố Jerusalem thuộc quyền quản lý của Liên hiệp quốc. Liên Hợp Quốc ước tính rằng trên 700.000 người Palestine bị trục xuất bởi hoặc phải chạy trốn khỏi quân Israel trong xung đột, một tình trạng được gọi là \"Nakba\" (\"tai ương\") trong tiếng Ả Rập.",
"Những năm đầu của Nhà nước Israel.",
"Israel được đa số thành viên Liên Hợp Quốc chấp thuận là một thành viên vào ngày 11 tháng 5 năm 1949. Năm 1949, Israel và Jordan chân thành quan tâm đến một thỏa thuận hòa bình song người Anh hãm lại nỗ lực của Jordan để tránh gây hại cho các lợi ích của Anh tại Ai Cập.",
"Trong những năm đầu lập quốc, phong trào Phục quốc Do Thái Lao động do Thủ tướng David Ben-Gurion lãnh đạo đã chi phối chính trường Israel. Các kibbut giữ vị thế trụ cột trong việc thành lập nhà nước mới.",
"Cơ quan Nhập cư Israel và tổ chức phi chính phủ Mossad LeAliyah Bet giúp đỡ nhập cư đến Israel vào cuối thập niên 1940 và đầu thập niên 1950).",
"Một dòng chảy các nạn nhân còn sống sau họa diệt chủng và người Do Thái từ các lãnh thổ Ả Rập và Hồi giáo di cư đến Israel trong ba năm đầu tiên sau lập quốc, khiến số lượng người Do Thái tại Israel tăng từ 700.000 lên 1.400.000. Do đó, dân số Israel tăng từ 800.000 lên đến hai triệu từ năm 1948 đến năm 1958. Từ năm 1948 đến năm 1970, khoảng 1.150.000 người tị nạn Do Thái tái định cư đến Israel. Các di dân đến Israel vì nguyên nhân khác nhau, một số tin tưởng vào ý thức hệ Phục quốc Do Thái, trong khi một số khác di chuyển để thoát khỏi ngược đãi. Một số người khác thì di cư vì hứa hẹn về một đời sống tốt hơn tại Israel và một lượng nhỏ bị trục xuất khỏi quê hương của họ, như trường hợp người Do Thái gốc Anh và Pháp tại Ai Cập sau Khủng hoảng Suez.",
"Một số di dân mới đến với thân phận người tị nạn và không có tài sản, họ được cho ở trong các trại tạm thời gọi là \"ma'abarot\"; đến năm 1952, có trên 200.000 di dân sống trong các khu lán trại này. Trong thời kỳ đó, thực phẩm, quần áo và đồ đạc bị chia khẩu phần theo chế độ được gọi là Thời kỳ Khắc khổ. Nhu cầu giải quyết khủng hoảng khiến Ben-Gurion ký một thỏa thuận bồi thường với Tây Đức, song nó khiến người Do Thái kháng nghị quy mô lớn do giận dữ với ý tưởng rằng Israel có thể chấp thuận bồi thường tiền tệ cho nạn diệt chủng Holocaust. Những người tị nạn thường được đối đãi khác biệt dựa theo nguồn gốc của họ, người Do Thái xuất thân từ châu Âu được đối đãi thuận lợi hơn so với những người Do Thái đến từ các quốc gia Trung Đông và Bắc Phi, chẳng hạn như nhóm sau thường ở trong các \"ma'abarot\" lâu hơn. Căng thẳng phát triển giữa hai nhóm do các kỳ thị như vậy tiếp tục cho đến nay.",
"Năm 1950, Ai Cập đóng cửa Kênh đào Suez đối với các tàu của Israel, căng thẳng dâng cao khi xung đột vũ trang diễn ra dọc biên giới Israel. Trong thập niên 1950, các fedayeen (du kích dân tộc) Palestine thường xuyên tổ chức các cuộc tấn công khủng bố Israel, gần như luôn nhằm vào thường dân, và được tài trợ bởi Ai Cập, dẫn đến một số động thái đáp trả của Israel. Năm 1956, Anh và Pháp đặt mục tiêu giành lại quyền kiểm soát Kênh đào Suez từ Ai Cập. Do tàu của Israel tiếp tục bị phong tỏa tại Kênh đào Suez và Eo biển Tiran, cùng với gia tăng số cuộc tấn công của fedayeen chống lại cư dân miền nam của Israel, cùng các tuyên bố nghiêm trọng và đe dọa gần đó từ thế giới Ả Rập, Israel quyết định tấn công Ai Cập. Israel tham gia một liên minh bí mật với Anh và Pháp, tràn ngập Bán đảo Sinai song chịu áp lực phải triệt thoái từ Liên Hợp Quốc để đổi lấy đảm bảo quyền lợi hàng hải của Israel tại Biển Đỏ qua Eo biển Tiran và Kênh đào Suez. Cuộc chiến này khiến các vụ xâm nhập biên giới Israel giảm đáng kể.",
"Đầu thập niên 1960, Israel bắt giữ tội phạm chiến tranh Đức Quốc Xã Adolf Eichmann tại Argentina và đưa ông về Israel để xét xử. Phiên tòa có tác động lớn đến nhận thức công chúng về Holocaust. Eichmann vẫn là người duy nhất bị hành quyết tại Israel dựa theo kết tội của tòa án dân sự Israel.",
"Chiến tranh Sáu ngày và Chiến tranh Yom Kippur.",
"Từ năm 1964, các quốc gia Ả Rập lo ngại về các kế hoạch của Israel nhằm chuyển nước từ sông Jordan đến đồng bằng duyên hải, họ nỗ lực chuyển nước đầu nguồn nhằm tước đoạt tài nguyên nước của Israel, kích động căng thẳng giữa Israel với Syria-Liban.",
"Các thành phần dân tộc chủ nghĩa Ả Rập dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser từ chối công nhận Israel, và kêu gọi tiêu diệt nước này. Đến năm 1966, quan hệ Israel-Ả Rập xấu đến mức diễn ra các trận đánh trên thực địa giữa lực lượng của Israel và Ả Rập. Đến tháng 5 năm 1967, Ai Cập tập trung quân đội của mình gần biên giới với Israel, trục xuất lực lượng duy trì hòa bình của Liên Hợp Quốc đồn trú tại Bán đảo Sinai từ năm 1957, và phong tỏa tàu Israel tiếp cận Biển Đỏ. Các quốc gia Ả Rập khác cũng huy động lực lượng của mình. Ngày 5 tháng 6 năm 1967, Israel phát động tấn công phủ đầu chống Ai Cập. Jordan, Syria và Iraq phản ứng và tấn công Israel. Trong Chiến tranh Sáu ngày, Israel đánh bại Jordan và chiếm Bờ Tây, đánh bại Ai Cập và chiếm Dải Gaza cùng Bán đảo Sinai, đánh bại Syria và chiếm Cao nguyên Golan. Ranh giới của Jerusalem được mở rộng, sáp nhập Đông Jerusalem, và Giới tuyến Xanh năm 1949 trở thành biên giới hành chính giữa Israel và các lãnh thổ do họ chiếm đóng.",
"Sau chiến tranh năm 1967 và nghị quyết \"ba không\" của Liên đoàn Ả Rập, trong Chiến tranh Tiêu hao 1967–1970 Israel phải đối diện với các cuộc tấn công từ người Ai Cập tại Sinai, và từ các tổ chức Palestine nhắm mục tiêu là người Israel tại các lãnh thổ bị chiếm đóng, tại bản thân Israel, và toàn thế giới. Tổ chức người Palestine và Ả Rập quan trọng nhất trong số đó là Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO), được thành lập vào năm 1964 và ban đầu cho rằng \"đấu tranh vũ trang là cách thức duy nhất để giải phóng quê hương\". Đến cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970, các tổ chức Palestine phát động một làn sóng tấn công chống lại các mục tiêu Israel và Do Thái trên toàn thế giới, trong đó có cuộc tàn sát các vận động viên Israel tham gia Thế vận hội Mùa hè 1972 tại München. Chính phủ Israel sau đó tiến hành chiến dịch ám sát những người tổ chức cuộc tàn sát, oanh tạc và tập kích đại bản doanh của Tổ chức Giải phóng Palestine tại Liban.",
"Ngày 6 tháng 10 năm 1973, khi người Do Thái cử hành Yom Kippur, quân đội Ai Cập và Syria phát động tấn công bất ngờ chống lực lượng Israel tại bán đảo Sinai và cao nguyên Golan, khai màn Chiến tranh Yom Kippur. Chiến tranh kết thúc vào ngày 26 tháng 10 với kết quả là Israel đẩy lui thành công quân Ai Cập và Syria song chịu tổn thất 2.500 binh sĩ. Một cuộc điều tra nội bộ miễn trách nhiệm cho chính phủ về các thất bại trước và trong chiến tranh, song nỗi tức giận của công chúng buộc Thủ tướng Golda Meir phải từ chức.",
"Tiếp tục xung đột và tiến trình hòa bình.",
"Tháng 7 năm 1976, một máy bay bị các du kích Palestine bắt cóc khi đang bay đến Tel Aviv, buộc phải hạ cánh tại Entebbe, Uganda. Biệt kích Israel tiến hành một chiến dịch giải cứu thành công các con tin.",
"Bầu cử Knesset (quốc hội) năm 1977 là một bước ngoặt lớn trong lịch sử chính trị Israel khi Đảng Likud của Menachem Begin giành quyền kiểm soát từ Đảng Lao động. Trong cùng năm, Tổng thống Ai Cập Anwar El Sadat thực hiện một chuyến đi đến Israel và phát biểu trước Quốc hội, được cho là sự công nhận Israel đầu tiên của một nguyên thủ Ả Rập. Trong hai năm sau đó, Sadat và Begin ký kết Hiệp nghị Trại David (1978) và Hiệp định Hòa bình Israel–Ai Cập (1979). Đổi lại, Israel triệt thoái khỏi Bán đảo Sinai mà họ chiếm giữ từ năm 1967, và đồng ý tham gia đàm phán về quyền tự trị cho người Palestine tại Bờ Tây và Dải Gaza.",
"Ngày 11 tháng 3 năm 1978, một cuộc tấn công du kích của Tổ chức Giải phóng Palestine từ Liban khiến hàng chục thường dân Israel thiệt mạng. Israel đáp lại bằng một cuộc xâm chiếm miền nam Liban để tiêu diệt các căn cứ của PLO tại phía nam sông Litani. Hầu hết chiến binh PLO triệt thoái, song Israel chiếm giữ miền nam Liban cho đến khi một lực lượng Liên Hợp Quốc và quân đội Liban có thể tiếp quản. PLO nhanh chóng khôi phục chính sách tấn công chống Israel.",
"Trong khi đó, chính phủ của Begin cung cấp ưu đãi cho người Israel đến định cư tại Bờ Tây bị chiếm đóng, gia tăng bất hòa với người Palestine tại khu vực đó. Luật Cơ bản: Jerusalem, Thủ đô của Israel được thông qua vào năm 1980, được một số người cho là tái xác nhận hành động sáp nhập Jerusalem của Israel vào năm 1967 bằng một sắc lệnh chính phủ, và khơi lại tranh luận quốc tế về tình trạng của thành phố. Không có pháp luật Israel nào định nghĩa lãnh thổ của Israel và không có đạo luật nào bao gồm cụ thể Đông Jerusalem trong đó. Lập trường của đa số thành viên Liên Hợp Quốc được phản ánh trong nhiều nghị quyết tuyên bố rằng các hành động do Israel tiến hành nhằm định cư công dân của họ tại Bờ Tây, và áp đặt pháp luật và chính quyền của họ tại Đông Jerusalem, là bất hợp pháp và vô hiệu. Năm 1981, Israel sáp nhập Cao nguyên Golan, song động thái này không được quốc tế công nhận.",
"Ngày 7 tháng 6 năm 1981, không quân Israel phá hủy lò phản ứng hạt nhân duy nhất của Iraq, nhằm cản trở chương trình vũ khí hạt nhân của Iraq. Sau một loạt cuộc tấn công của Tổ chức Giải phóng Palestine vào năm 1982, Israel xâm chiếm Liban vào cùng năm để phá hủy các căn cứ mà PLO dùng để phát động tấn công và phóng tên lửa vào miền bắc Israel. Trong sáu ngày đầu giao chiến, Israel phá hủy lực lượng quân sự của PLO tại Liban và đánh bại quyết định Syria. Ủy ban Kahan của chính phủ Israel sau đó quy trách nhiệm gián tiếp cho Begin, Sharon và một số tướng lĩnh Israel về cuộc thảm sát người Palestine và Liban tại Sabra và Shatila. Năm 1985, Israel đáp lại một cuộc tấn công khủng bố của người Palestine tại Síp bằng cách oanh tạc trụ sở của PLO tại Tunis. Israel triệt thoái khỏi hầu hết Liban vào năm 1986, song duy trì một vùng đệm biên giới tại miền nam Liban cho đến năm 2000, tại đó lực lượng Israel tham gia xung đột với tổ chức dân quân Liban Hezbollah.",
"Đa dạng sắc tộc của Israel được mở rộng trong thập niên 1980 và 1990 do nhập cư. Một số làn sóng người Do Thái Ethiopia di cư đến Israel trong thập niên 1980 và 1990. Trong khi đó, từ năm 1990 đến năm 1994, dân số Israel tăng 12% nhờ người Nga nhập cư.",
"Đại khởi nghĩa (Intifada) lần thứ nhất là chỉ một cuộc khởi nghĩa của người Palestine chống lại quyền cai trị của Israel, bùng phát vào năm 1987, với các làn sóng tuần hành và bạo lực không có phối hợp tại Bờ Tây và Dải Gaza. Trong sáu năm sau đó, Đại khởi nghĩa có tổ chức hơn và gồm các biện pháp kinh tế và văn hóa nhằm mục tiêu phá vỡ sự chiếm đóng của Israel. Trên một nghìn người bị giết chết trong bạo lực. Trong Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991, PLO ủng hộ Saddam Hussein và Iraq phóng tên lửa tấn công Israel. Tuy nhiên, Israel lưu ý đến lời kêu gọi của Hoa Kỳ về giữ kiềm chế trả đũa và không tham gia cuộc chiến này.",
"Năm 1992, Yitzhak Rabin trở thành thủ tướng khi đảng của ông thắng cử với lời kêu gọi thỏa hiệp với láng giềng của Israel. Năm sau, Shimon Peres đại diện cho Israel, và Mahmoud Abbas đại diện cho Tổ chức Giải phóng Palestine, ký kết Hiệp nghị Oslo, theo đó trao cho Chính quyền Dân tộc Palestine quyền cai quản một bộ phận của Bờ Tây và Dải Gaza. PLO cũng công nhận quyền tồn tại của Israel và cam kết kết thúc chính sách khủng bố. Năm 1994, Hiệp định hòa bình Israel–Jordan được ký kết, theo đó Jordan trở thành quốc gia Ả Rập thứ nhì bình thường hóa quan hệ với Israel. Tháng 11 năm 1995, Yitzhak Rabin bị ám sát bởi một người Do Thái cực hữu phản đối Hiệp nghị Oslo.",
"Đến cuối thập niên 1990, Israel dưới quyền lãnh đạo của Benjamin Netanyahu triệt thoái khỏi Hebron, và ký kết Bị vong lục Wye River, trao quyền cai quản lớn hơn cho Chính quyền Dân tộc Palestine. Ehud Barak trở thành thủ tướng vào năm 1999, ông cho rút quân khỏi miền nam Liban và tiến hành đàm phán với Chủ tịch Chính quyền Palestine Yasser Arafat và Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton tại Hội nghị thượng đỉnh Trại David năm 2000. Trong hội nghị, Barak đề xuất kế hoạch thành lập một nhà nước Palestine, bao gồm toàn bộ Dải Gaza và trên 90% Bờ Tây, còn Jerusalem là thủ đô chung của Israel và Palestine..",
"Sau khi các cuộc đàm phán tan vỡ và chuyến thăm gây tranh luận của thủ lĩnh Đảng Likud là Ariel Sharon đến Núi Đền, Đại khởi nghĩa lần thứ hai khởi đầu. Một số nhà bình luận cho rằng cuộc khởi nghĩa do Yasser Arafat lên kế hoạch từ trước do đàm phán hòa bình tan vỡ. Sharon trở thành thủ tướng trong cuộc bầu cử năm 2001, ông tiến hành kế hoạch nhằm đơn phương triệt thoái khỏi Dải Gaza và cũng đi đầu trong xây dựng hàng rào Bờ Tây của Israel, kết thúc Đại khởi nghĩa.",
"Tháng 7 năm 2006, Hezbollah tiến hành pháo kích các cộng đồng biên giới phía bắc của Israel và vượt biên bắt cóc hai binh sĩ Israel, dẫn đến Chiến tranh Liban thứ hai kéo dài trong hơn một tháng. Ngày 6 tháng 9 năm 2007, Không quân Israel phá hủy một lò phản ứng hạt nhân tại Syria. Cuối năm 2008, Israel tham gia một cuộc xung đột khác khi thỏa thuận đình chiến giữa Hamas và Israel tan vỡ. Chiến tranh Gaza kéo dài trong ba tuần và kết thúc sau khi Israel tuyên bố đơn phương đình chiến. Hamas tuyên bố lệnh đình chiến riêng của họ. Mặc dù các vụ phóng rocket của người Palestine và các cuộc tấn công trả đũa của Israel không hoàn toàn ngưng lại, song lệnh đình chiến mong manh vẫn được duy trì. Với lý do là phản ứng trước các cuộc tấn công rocket của người Palestine nhằm vào các thành phố miền nam Israel, Israel bắt đầu tiến hành một chiến dịch tại Gaza vào ngày 14 tháng 11 năm 2012, kéo dài trong tám ngày. Tháng 7 năm 2014, Israel bắt đầu một chiến dịch khác tại Gaza sau khi Hamas leo thang các cuộc tấn công bằng rocket.",
"Địa lý.",
"Địa lý Israel",
"Cao nguyên Golan ",
"Galilea ",
"Đồng bằng duyên hải ",
"Dãy núi Judae ",
"Thung lũng Jordan ",
"Negev ",
"Israel nằm ven cực đông của Địa Trung Hải, giáp với Liban về phía bắc, Syria về phía đông bắc, Jordan và Bờ Tây về phía Đông, và Ai Cập cùng Dải Gaza về phía tây nam. Lãnh thổ Israel nằm giữa vĩ tuyến 29° và 34° Bắc, và kinh tuyến 34° và 36° Đông.",
"Lãnh thổ chủ quyền của Israel (theo phân giới trong Hiệp định Đình chiến 1949 và loại trừ toàn bộ lãnh thổ bị Israel chiếm lĩnh trong Chiến tranh Sáu ngày năm 1967) có diện tích khoảng , trong đó hai phần trăm là mặt nước. Tuy nhiên, vùng đặc quyền kinh tế của họ tại Địa Trung Hải lớn gấp đôi diện tích đất liền. Tổng diện tích lãnh thổ tuân theo pháp luật Israel, kể cả Đông Jerusalem và Cao nguyên Golan, là , và tổng diện tích nằm dưới quyền kiểm soát của Israel, bao gồm Bờ Tây do Israel kiểm soát quân sự và người Palestine quản lý cục bộ, là . Mặc dù có quy mô nhỏ song Israel sở hữu các đặc điểm địa lý đa dạng, từ hoang mạc Negev tại miền nam đến thung lũng Jezreel phì nhiêu nội lục, các dãy núi Galilee, Carmel và về phía Golan tại miền bắc. Đồng bằng Duyên hải Israel bên bờ Địa Trung Hải là nơi cư trú của 57% cư dân toàn quốc. Phía đông của các cao địa trung tâm là Thung lũng đứt gãy Jordan, một bộ phận nhỏ của Thung lũng tách giãn Lớn dài .",
"Sông Jordan chảy dọc Thung lũng đứt gãy Jordan, từ núi Hermon qua thung lũng Hulah và biển Galilee đến Biển Chết- điểm thấp nhất trên bề mặt Trái Đất. Xa hơn về phía nam là Arabah, kết thúc là vịnh Eilat thuộc Biển Đỏ. Điểm độc đáo của Israel và bán đảo Sinai là các makhtesh, hay các đài vòng bị xói mòn. Makhtesh lớn nhất trên thế giới là miệng Ramon tại Negev, có kích thước . Một báo cáo về tình trạng môi trường của các quốc gia lưu vực Địa Trung Hải cho thấy Israel có số lượng loài thực vật nhiều nhất trên mỗi mét vuông so với các quốc gia khác trong lưu vực.",
"Kiến tạo và địa chấn.",
"Thung lũng đứt gãy Jordan là kết quả của vận động địa chấn bên dưới hệ thống đứt gãy Đoạn tầng Biển Chết (DSF). DSF hình thành ranh giới biến đổi giữa mảng châu Phi ở phía tây và mảng Ả Rập ở phía đông. Cao nguyên Golan và toàn bộ Jordan thuộc mảng Ả Rập, trong khi Galilee, Bờ Tây, Đồng bằng Duyên hải và Negev cùng bán đảo Sinai nằm trên mảng châu Phi. Sự sắp xếp kiến tạo này kéo theo hoạt động địa chấn tương đối cao độ trong khu vực. Toàn bộ đoạn thung lũng Jordan được cho là nhiều lần bị đứt, thí dụ trong hai trận động động đất lớn cuối cùng dọc theo cấu trúc này vào năm 749 và 1033. Sự thiếu hụt trượt bắt nguồn từ sự kiện năm 1033 là đủ để gây một trận động đất Mw~7.4.",
"Các trận động đất thê thảm nhất được biết đến từng diễn ra vào các năm 31 TCN, 363, 749, và 1033, trung bình cách nhau khoảng 400 năm. Các trận động đất hủy diệt gây ra tổn thất nghiêm trọng về nhân mạng xảy ra mỗi 80 năm. Trong khi các quy định xây dựng nghiêm ngặt đang được thi hành và các công trình xây dựng gần đây an toàn với động đất, #đổi phần lớn công trình tại Israel được xây trước khi thi hành các quy định này và nhiều tòa nhà công cộng cũng như 50.000 tòa nhà ở không đáp ứng các tiêu chuẩn mới và bị \"dự kiến sụp đổ\" nếu gặp phải một trận động đất mạnh.",
"Khí hậu.",
"Nhiệt độ tại Israel biến động nhiều, đặc biệt là trong mùa đông. Các khu vực duyên hải, như Tel Aviv và Haifa, có khí hậu Địa Trung Hải đặc trưng với mùa đông mát và có mưa nhiều còn mùa hè kéo dài và nóng. Khu vực Beersheba và Bắc Negev có khí hậu bán hoang mạc với mùa hè nóng và mùa đông lạnh, số ngày mưa ít hơn so với khí hậu Địa Trung Hải. Các khu vực Nam Negev và Arava có khí hậu hoang mạc với mùa hè rất nóng và khô, mùa đông ôn hòa với vài ngày có mưa. Nhiệt độ cao nhất tại lục địa châu Á () ghi nhận được vào năm 1942 tại kibbutz Tirat Zvi thuộc miền bắc thung lũng sông Jordan.",
"Trên các khu vực núi cao cực độ khác có thể nhiều gió và lạnh, các khu vực có độ cao từ 750 mét trở lên (cùng độ cao với Jerusalem) thường có ít nhất một trận tuyết rơi mỗi năm. Mưa hiếm khi rơi tại Israel từ tháng 5 đến tháng 9. Do tài nguyên nước khan hiếm, Israel phát triển các kỹ thuật tiết kiệm nước khác nhau, chẳng hạn như tưới nhỏ giọt. Người Israel cũng tận dụng ánh sáng mặt trời sẵn có cho ngành quang năng, biến Israel trở thành nước dẫn đầu về năng lượng mặt trời sử dụng theo bình quân (hầu như toàn bộ hộ gia đình sử dụng tấm năng lượng mặt trời để đun nước).",
"Israel có bốn khu vực địa lý thực vật khác nhau, do nước này nằm giữa ôn đới và nhiệt đới, giáp với Địa Trung Hải tại phía tây và hoang mạc về phía đông. Vì nguyên nhân này, động thực vật tại Israel cực kỳ đa dạng. Phát hiện được 2.867 loài thực vật tại Israel. Trong đó, ít nhất 253 loài được du nhập và phi bản địa. Israel có 380 khu bảo tồn thiên nhiên.",
"Chính trị.",
"Israel áp dụng hệ thống nghị viện theo mô hình cộng hòa dân chủ cùng quyền phổ thông đầu phiếu. Một thành viên của nghị viện được đa số nghị viện ủng hộ sẽ trở thành thủ tướng, thường là thủ lĩnh của đảng lớn nhất. Thủ tướng là người đứng đầu chính phủ và nội các. Nghị viện của Israel có 120 thành viên, gọi là Knesset. Tư cách thành viên của Knesset dựa trên đại diện tỷ lệ của các chính đảng, với ngưỡng phiếu bầu là 3,25%.",
"Bầu cử nghị viện được quy định bốn năm tổ chức một lần, song các liên minh không ổn định hoặc một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm của Knesset có thể giải tán chính phủ sớm hơn. Luật Cơ bản của Israel có chức năng là hiến pháp bất thành văn. Năm 2003, Knesset bắt đầu soạn thảo hiến pháp chính thức dựa trên các luật này. Tổng thống Israel là nguyên thủ quốc gia, có nhiệm vụ hạn chế và phần lớn mang tính lễ nghi.",
"Israel không có tôn giáo chính thức, song việc định nghĩa nhà nước là \"Do Thái và dân chủ\" tạo ra một liên kết mạnh với Do Thái giáo, cũng như là xung đột giữa luật nhà nước và luật tôn giáo. Sự tương tác giữa các chính đảng giúp duy trì cân bằng giữa nhà nước và tôn giáo ở mức độ lớn như đã từng thể hiện thời Anh cai trị ủy trị.",
"Hệ thống tư pháp.",
"Israel có hệ thống tòa án ba cấp. Cấp thấp nhất là các tòa án thẩm phán, nằm tại hầu hết thành phố khắp Israel. Cấp thứ hai là các tòa án cấp quận, đóng vai trò là các tòa án phúc thẩm và tòa án sơ thẩm; chúng nằm tại năm trong số sáu quận. Cấp cao nhất là tòa án tối cao; nằm tại Jerusalem; nó đóng vai trò là tòa án phúc thẩm tối cao và tòa án tư pháp tối cao. Trong chức năng thứ hai, Tòa án tối cao là tòa án sơ thẩm, cho phép các cá nhân, cả công dân và phi công dân, được đệ đơn kiện các quyết định của nhà cầm quyền đất nước. Mặc dù Israel ủng hộ mục tiêu của Tòa án Hình sự Quốc tế, song họ không phê chuẩn Quy chế Roma do lo ngại về khả năng tòa án duy trì rằng buộc công bằng chính trị.",
"Hệ thống tư pháp của Israel kết hợp ba truyền thống tư pháp: thông luật Anh, dân luật, và luật Do Thái. Nó dựa trên nguyên tắc án lệ (tiền lệ) và là một hệ thống đối địch, tại đó các bên trình bằng chứng trước tòa. Các vụ kiện tòa án do thẩm phán chuyên nghiệp quyết định thay vì bồi thẩm đoàn. Kết hôn và ly hôn là thẩm quyền của các tòa án tôn giáo: Do Thái giáo, Hồi giáo, Druze, Cơ Đốc giáo. Một ủy ban gồm hai thành viên Knesset, ba thành viên Tòa án Tối cao, hai thành viên hiệp hội luật sư, và hai bộ trưởng (một người là bộ trưởng tư pháp và là chủ tịch ủy ban) bầu ra các thẩm phán. Các thành viên của hội đồng thuộc Knesset được Knesset bầu bí mật, và một người theo truyền thống là thành viên của phe đối lập.",
"Đơn vị hành chính.",
"Các quận của Israel",
"Bắc ",
"Haifa ",
"Trung ",
"Tel Aviv ",
"Judeavà Samaria ",
"Jerusalem ",
"Nam ",
"Nhà nước Israel được phân chia thành sáu quận hành chính, gọi là \"mehozot\" (מחוזות; số ít: \"mahoz\") – Trung, Haifa, Jerusalem, Bắc, Nam, và Tel Aviv, cùng với Khu vực Judea và Samaria tại Bờ Tây. Toàn bộ Khu vực Judea và Samaria cùng bộ phận của các quận Jerusalem và Bắc không được quốc tế công nhận là bộ phận của Israel. Các quận được phân chia thành 15 \"nafot\" (נפות; số ít: \"nafa\"), chúng lại được chia thành 50 khu vực tự nhiên.",
"Vì mục đích thống kê, quốc gia được chia thành ba khu vực đại đô thị: Đại đô thị Tel Aviv, đại đô thị Haifa, và đại đô thị Beersheba. Đô thị lớn nhất của Israel về dân số và diện tích là Jerusalem với 773.800 cư dân trên diện tích (năm 2009). Số liệu thống kê của chính phủ Israel về Jerusalem bao gồm dân số và diện tích của Đông Jerusalem, vốn được công nhận phổ biến là bộ phận lãnh thổ của Palestine bị Israel chiếm đóng. Tel Aviv, Haifa, và Rishon LeZion là các thành phố đông dân kế tiếp của Israel.",
"Ngoại giao.",
"Israel duy trì quan hệ ngoại giao với 158 quốc gia và có 107 phái bộ ngoại giao trên toàn cầu; hầu hết các quốc gia Hồi giáo nằm trong nhóm không có quan hệ ngoại giao với Israel. Chỉ có ba thành viên của Liên đoàn Ả Rập bình thường hóa quan hệ với Israel: Ai Cập và Jordan lần lượt ký các hiệp định hòa bình vào năm 1979 và 1994, và Mauritania chọn lập quan hệ ngoại giao đầy đủ với Israel vào năm 1999. Mặc dù Israel và Ai Cập có hiệp định hòa bình, song Israel vẫn bị nhìn nhận phổ biến là quốc gia đối địch trong xã hội Ai Cập. Theo pháp luật Israel thì Liban, Syria, Ả Rập Xê Út, Iraq, Iran, Sudan, và Yemen là các quốc gia đối địch, và công dân Israel không được đến đó nếu không được phép từ Bộ Nội vụ. Iran có quan hệ ngoại giao với Israel dưới thời triều đại Pahlavi song thu hồi việc công nhận Israel trong Cách mạng Hồi giáo 1979. Do Chiến tranh Gaza 2008-2009, Mauritania, Qatar, Bolivia, và Venezuela đình chỉ các quan hệ chính trị và kinh tế với Israel.",
"Hoa Kỳ và Liên Xô là hai quốc gia đầu tiên công nhận Nhà nước Israel, họ ra tuyên bố công nhận gần như đồng thời. Hoa Kỳ nhìn nhận Israel là \"đối tác đáng tin cậy nhất tại Trung Đông\" của họ, dựa trên \"các giá trị dân chủ, thân thuộc tôn giáo, và lợi ích an ninh chung\". Hoa Kỳ đã cung cấp 68 tỷ USD viện trợ quân sự và 32 tỷ USD tài trợ cho Israel từ năm 1967 theo Đạo luật Viện trợ Nước ngoài, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào trong cùng thời kỳ cho đến năm 2003. Anh Quốc được nhận định là có một mối quan hệ \"tự nhiên\" với Israel bắt nguồn từ khi Anh Quốc cai trị ủy trị Palestine. Quan hệ giữa hai quốc gia cũng được củng cố nhờ các nỗ lực của cựu Thủ tướng Tony Blair về một giải pháp hai nhà nước. #đổi Đức đã chi trả 25 tỷ euro tiền bồi thường cho Nhà nước Israel và những công dân Israel sống sót sau nạn diệt chủng người Do Thái. Israel được đưa vào trong Chính sách Láng giềng Châu Âu (ENP) của Liên minh châu Âu, vốn có mục tiêu thắt chặt quan hệ giữa EU và các quốc gia lân cận.",
"Mặc dù Thổ Nhĩ Kỳ và Israel không thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ cho đến năm 1991, song Thổ Nhĩ Kỳ đã hợp tác với Nhà nước Israel kể từ khi công nhận quốc gia này vào năm 1949. Mối quan hệ của Thổ Nhĩ Kỳ với các quốc gia Hồi giáo đa số trong khu vực vào đương thời cản trở quan hệ giữa họ và Israel. Quan hệ giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Israel bị suy sụp sau Chiến tranh Gaza 2008-2009 và việc Israel tập kích đội tàu Gaza năm 2010. Quan hệ giữa Israel và Hy Lạp được cải thiện từ năm 1995 do quan hệ Israel-Thổ Nhĩ Kỳ suy thoái. Hai quốc gia có một hiệp định hợp tác phòng thủ và vào năm 2010, Không quân Israel tổ chức diễn tập chung với Không quân Hy Lạp tại căn cứ Uvda. Chương trình thăm dò chung dầu khí Síp-Israel tập trung tại mỏ khí Leviat là một yếu tố quan trọng đối với Hy Lạp do nước này có liên kết mạnh mẽ với Síp. Hợp tác trong tuyến cáp điện ngầm EuroAsia Interconnector giúp tăng cường quan hệ giữa Síp và Israel.",
"Azerbaijan là một trong vài quốc gia Hồi giáo phát triển các quan hệ chiến lược và kinh tế song phương với Israel. Azerbaijan cung cấp dầu cho Israel, và Israel giúp hiện đại hóa lực lượng vũ trang của Azerbaijan. Ấn Độ thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ với Israel vào năm 1992 và từ đó phát triển quan hệ đối tác quân sự, công nghệ và văn hóa mạnh mẽ với Israel. Theo một cuộc thăm dò quan điểm quốc tế được tiến hành vào năm 2009 nhân danh Bộ Ngoại giao Israel, Ấn Độ là quốc gia thân Israel nhất trên thế giới. Ấn Độ là khách hàng lớn nhất của thiết bị quân sự Israel và Israel là đối tác quân sự lớn thứ nhì của Ấn Độ sau Nga. Tại châu Phi, Ethiopia là đồng minh chủ yếu và thân cận nhất của Israel do có chính trị, tôn giáo và lợi ích an ninh tương đồng.",
"Việt Nam và Israel thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 12 tháng 7 năm 1993. Israel mở đại sứ quán tại Hà Nội vào tháng 12 năm 1993. Từ khi tạo dựng mối quan hệ ngoại giao, hai nước đã thường xuyên có những chuyến thăm lẫn nhau ở nhiều cấp và đã củng cố sự hợp tác trên các lĩnh vực như thương mại, giáo dục, văn hóa, nông nghiệp, quốc phòng và hợp tác kỹ thuật. Những chuyến thăm của chính phủ Israel thường đi kèm với những đoàn đại biểu bao gồm các doanh nhân, các học giả, nhà báo, nghệ sĩ, nhạc sĩ, nhân viên pháp lý và vân vân.",
"Quân đội.",
"Lực lượng Phòng vệ Israel là lực lượng quân đội duy nhất của lực lượng an ninh Israel, có người đứng đầu là tổng tư lệnh (\"Ramatkal\"), dưới quyền nội các. Lực lượng Phòng vệ Israel gồm có lục quân, không quân và hải quân. Lực lượng này được thành lập trong Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948, do hợp nhất các tổ chức bán quân sự mà trong đó chủ yếu là tổ chức Haganah tồn tại từ trước khi lập quốc. Lực lượng Phòng vệ Israel cũng dựa trên nguồn lực của Cục Tình báo Quân sự (\"Aman\"), cơ quan này hoạt động cùng với cơ quan tình báo quốc gia Mossad và cơ quan an ninh nội bộ Shabak. Lực lượng Phòng vệ Israel tham gia một số chiến tranh và xung đột biên giới quy mô lớn trong lịch sử ngắn ngủi của mình, trở thành một trong những lực lượng quân sự được huấn luyện trong chiến đấu nhiều nhất trên thế giới.",
"Hầu hết người Israel thực hiện nghĩa vụ quân sự vào tuổi 18. Nam giới phục vụ trong hai năm tám tháng, còn nữ giới phục vụ trong hai năm. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ, nam giới Israel tham gia lực lượng dự bị và thường xuyên thực hiện đến vài tuần nhiệm vụ dự bị mỗi năm cho đến khi 40 tuổi. Hầu hết nữ giới được miễn nhiệm vụ dự bị. Công dân Israel là người Ả Rập (ngoại trừ tín đồ Druze) và những người tham gia nghiên cứu tôn giáo toàn thời gian được miễn nghĩa vụ quân sự, song việc miễn trừ cho các học viên chủng viện Do Thái là một đề tài gây tranh luận nhiều năm trong xã hội Israel. Một sự thay thế cho những người được miễn trừ vì các nguyên nhân khác nhau là phục vụ quốc gia (\"Sherut Leumi\"), tức tham gia một chương trình phục vụ trong các bệnh viện, trường học, và các cơ cấu tổ chức phúc lợi xã hội khác. Do chương trình nghĩa vụ quân sự, Lực lượng Phòng vệ Israel duy trì khoảng 176.500 lính tại ngũ cộng thêm 445.000 lính dự bị (2012).",
"Quân sự Israel dựa chủ yếu vào các hệ thống vũ khí công nghệ cao, do Israel thiết kế và chế tạo, cùng một số vũ khí nhập khẩu. Tên lửa Arrow nằm trong số ít hệ thống tên lửa chống tên lửa đạn đạo hoạt động trên thế giới. Dòng tên lửa không đối không Python thường được nhận định là một trong các vũ khí quan trọng nhất trong lịch sử quân sự quốc gia. Tên lửa Spike của Israel nằm trong số tên lửa chống tăng được xuất khẩu nhiều nhất trên thế giới. Hệ thống phòng không chống tên lửa Vòm Sắt được tán dương trên toàn cầu sau khi chặn đứng hàng trăm pháo phản lực Qassam, 122 mm Grad và Fajr-5 do các chiến binh Palestine phóng đi từ Dải Gaza. Kể từ Chiến tranh Yom Kippur năm 1973, Israel phát triển một mạng lưới vệ tinh do thám. Thành công của chương trình \"Ofeq\" khiến Israel trở thành một trong bảy quốc gia có năng lực phóng các vệ tinh như vậy.",
"Israel được nhiều người tin là sở hữu vũ khí hạt nhân cũng như các vũ khí hóa học và sinh học hủy diệt hàng loạt. Israel không ký kết Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân và duy trì một chính sách mơ hồ có chủ ý về năng lực hạt nhân của mình. Các tàu ngầm Dolphin của Hải quân Israel được cho là được vũ trang bằng các tên lửa Popeye Turbo hạt nhân, cung cấp năng lực tấn công thứ hai về hạt nhân. Kể từ Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991, khi Israel bị các tên lửa Scud của Iraq tấn công, toàn bộ nhà tại Israel được yêu cầu có một phòng an ninh tăng cường gọi là Merkhav Mugan, không thẩm thấu các vật chất hóa học và sinh học.",
"Kể từ khi Israel lập quốc, chi tiêu quân sự chiếm một tỷ lệ lớn GDP của quốc gia này, đạt đỉnh là 30,3% chi tiêu GDP cho quốc phòng vào năm 1975. Năm 2015, Israel xếp hạng 7 thế giới về chi tiêu quốc phòng theo tỷ lệ GDP, với 5,4%, và có tổng chi tiêu quân sự lớn thứ 15 thế giới. Kể từ năm 1974, Hoa Kỳ là nước đóng góp đặc biệt đáng kể về viện trợ quân sự cho Israel. Theo một bị vong lục thông hiểu ký kết vào năm 2016, Hoa Kỳ được dự kiến cung cấp cho Israel 3,8 tỉ USD mỗi năm từ năm 2018 đến năm 2028, chiếm khoảng 20% ngân sách quốc phòng của Israel. Israel xếp hạng bảy thế giới về xuất khẩu vũ khí vào năm 2016. Đa số xuất khẩu vũ khí của Israel không được tường thuật ví các lý do an ninh. Israel luôn bị xếp hạng thấp trong Chỉ số hòa bình toàn cầu, xếp hạng 144/163 quốc gia vào năm 2017.",
"Kinh tế.",
"Israel được nhận định là quốc gia tiến bộ nhất tại Tây Nam Á và Trung Đông về phát triển kinh tế và công nghiệp. Giáo dục đại học có chất lượng ưu tú và việc hình thành một cộng đồng dân chúng có động lực và giáo dục cao là nguyên nhân chính khích lệ bùng nổ công nghệ cao và phát triển kinh tế nhanh chóng tại Israel. Năm 2010, Israel gia nhập OECD. Quốc gia này xếp hạng 24 trong \"Báo cáo cạnh tranh toàn cầu\" 2016-2017 của Diễn đàn Kinh tế thế giới và đứng thứ 52 về Chỉ số thuận lợi kinh doanh của Ngân hàng Thế giới vào năm 2017. Israel có số lượng công ty khởi nghiệp nhiều thứ hai thế giới (sau Hoa Kỳ) theo một nghiên cứu năm 2005, và đứng thứ ba về số lượng công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán NASDAQ sau Hoa Kỳ và Trung Quốc. Năm 2016, Israel xếp hạng 21 trong số các quốc gia cạnh tranh nhất thế giới, theo Niên giám Cạnh tranh Thế giới của IMD. Israel xếp hạng tư thế giới về tỷ lệ người làm công việc có kỹ năng cao vào năm 2016. Ngân hàng Israel nắm giữ 97,22 tỉ dự trữ ngoại hối.",
"Mặc dù có tài nguyên tự nhiên hạn chế, song do phát triển mạnh mẽ trong các lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp trong nhiều thập niên nên Israel phần lớn tự cung cấp được thực phẩm, trừ ngũ cốc và thịt bò. Nhập khẩu vào Israel đạt tổng kim ngạch 57,9 tỉ USD vào năm 2016, bao gồm kim loại thô, thiết bị quân sự, hàng hoá đầu tư, kim cương thô, nhiên liệu, lương thực, hàng tiêu dùng. Các mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Israel là máy móc và thiết bị, phần mềm, kim cương chế tác, nông sản, hoá chất, hàng dệt may; năm 2016, Israeli xuất khẩu trị giá 51,61 tỉ USD.",
"Israel là quốc gia dẫn đầu về phát triển năng lượng Mặt trời. Israel đứng đầu thế giới về bảo tồn nước và năng lượng địa nhiệt, và bước phát triển của Israel trong các công nghệ ưu việt về phầm mềm, viễn thông và khoa học sự sống gợi lên so sánh với Thung lũng Silicon. Theo OECD, Israel cũng xếp hạng nhất thế giới về chi tiêu nghiên cứu và phát triển (R&D) theo tỷ lệ trong GDP. Israel có thành tích ấn tượng về sáng tạo các công nghệ thúc đẩy lợi nhuận, khiến quốc gia này là một lựa chọn hàng đầu của nhiều nhà lãnh đạo doanh nghiệp và dã khổng lồ công nghiệp công ngệ cao. Intel và Microsoft xây dựng các trung tâm nghiên cứu và phát triển hải ngoại đầu tiên của họ tại Israel, và các tập đoàn đa quốc gia công nghệ cao khác, như IBM, Google, Apple, HP, Cisco Systems, Facebook đã mở các cơ sở R&D tại Israel.",
"Tháng 7 năm 2007, công ty Berkshire Hathaway của nhà đầu tư người Mỹ Warren Buffett mua lại một công ty Israel là Iscar, vụ thu mua đầu tiên của công ty ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ, với giá 4 tỷ USD. Từ thập niên 1970, Israel nhận được viện trợ quân sự từ Hoa Kỳ, cũng như giúp đỡ kinh tế dưới dạng bảo lãnh vốn vay và hiện dạng này chiếm khoảng một nửa nợ nước ngoài của Israel. Israel có nợ nước ngoài vào hàng thấp nhất trong các quốc gia phát triển, và là một nước cho vay ròng dưới dạng nợ nước ngoài ròng, ở mức thặng dư 118 tỷ USD #đổi .",
"Tuần làm việc tại Israel kéo dài từ Chủ Nhật đến Thứ Năm (đối với tuần làm việc năm ngày), hoặc Thứ Sáu (đối với tuần làm việc sáu ngày). Tuân theo \"Shabbat\", tại những nơi làm việc vào ngày Thứ Sáu và đa số cư dân là người Do Thái, Thứ Sáu là một \"ngày ngắn\", thường kéo dài đến 14:00 trong mùa đông, hoặc 16:00 trong mùa hè. Có một số đề xuất để điều chỉnh tuần làm việc phù hợp với đa phần thế giới.",
"Khoa học và kỹ thuật.",
"Israel là quốc gia dẫn đầu về nghiên cứu khoa học, đặc biệt là trong khoa học tự nhiên, kỹ thuật, và khoa học y tế, chúng cũng là một trong các lĩnh vực phát triển nhất tại Israel. Israel xếp hạng năm trong số các quốc gia sáng tạo nhất theo Chỉ số sáng tạo Bloomberg 2015. Tỷ lệ người Israel tham gia nghiên cứu khoa học, và số tiền chi cho nghiên cứu và phát triển so với GDP, đều nằm vào hàng cao nhất trên thế giới. Israel có số lượng cao nhất về tỷ lệ các nhà khoa học, nhà kỹ thuật, và kỹ sư trên thế giới, với 140/10.000 người lao động. Trong khi đó, con số này là 85/10.000 tại Hoa Kỳ và 83/10.000 tại Nhật Bản.",
"Các trường đại học tại Israel được xếp hạng trong số 100 đại học hàng đầu thế giới về toán học (Đại học Hebrew, TAU và Technion), vật lý (TAU, Đại học Hebrew và Học viện Khoa học Weizmann), hóa học (Technion và Học viện Khoa học Weizmann), khoa học máy tính (Học viện Khoa học Weizmann, Technion, Đại học Hebrew, TAU và BIU) và kinh tế (Đại học Hebrew và TAU). Israel có nhiều nhà khoa học đạt giải Nobel, và thường xuyên được xếp hạng là một trong các quốc gia có tỷ lệ bình quân cao nhất về các bài luận khoa học trên thế giới. Israel dẫn đầu thế giới về các bài luận nghiên cứu tế bào gốc từ năm 2000.",
"Cơ quan Không gian Israel điều phối toàn bộ các chương trình nghiên cứu không gian của Israel với các mục tiêu khoa học và thương mại. Năm 2012, Israel được xếp hạng chín trên thế giới theo Chỉ số cạnh tranh không gian của Futron. Israel là một trong bảy quốc gia có năng lực sản xuất đồng thời phóng vệ tinh của mình. Shavit là một tên lửa đẩy không gian do Israel sản xuất để phóng các vệ tinh nhỏ vào quỹ đạo Trái Đất tầm thấp. Nó được phóng lần đầu vào năm 1988, biến Israel thành quốc gia thứ tám có năng lực phóng vệ tinh. Các tên lửa Shavit được Cơ quan Không gian Israel phóng từ sân bay vũ trụ tại Căn cứ Không quân Palmachim. Từ năm 1988, Israel Aerospace Industries đã thiết kế và chế tạo bản địa ít nhất 13 vệ tinh thương mại, nghiên cứu và do thám. Một số vệ tinh của Israel được xếp vào hàng các hệ thống vệ tinh tiến bộ nhất thế giới. Năm 2003, Ilan Ramon trở thành nhà du hành vũ trụ đầu tiên của Israel, song thiệt mạng khi Tàu con thoi Columbia của NASA bị vỡ.",
"Israel nằm trong số các quốc gia dẫn dầu thế giới về kỹ thuật nước. Năm 2011, ngành kỹ thuật nước đạt giá trị khoảng 2 tỷ USD mỗi năm với lượng xuất khẩu sản phẩm và dịch vụ mỗi năm là hàng chục triệu USD. Do liên tục thiếu hụt tài nguyên nước, Israel có sáng kiến về các kỹ thuật bảo tồn nước, và một kỹ thuật hiện đại hóa nông nghiệp trọng yếu là tưới nhỏ giọt được phát minh tại Israel. Israel cũng ở vị trí hàng đầu về kỹ thuật khử muối và tuần hoàn nước. Nhà máy thẩm thấu ngược nước biển Ashkelon có quy mô hàng đầu thế giới. Israel tổ chức Triển lãm và Hội nghị Kỹ thuật Nước (WaTec) thường niên, thu hút hàng nghìn người từ khắp thế giới. Đến năm 2014, chương trình khử muối của Israel cung cấp khoảng 35% nước uống của Israel và được dự kiến cung cấp 70% vào năm 2050. Tính đến tháng 5 năm 2015, trên 50% nước cho các gia đình, nông nghiệp và công nghiệp Israel được sản xuất nhân tạo. Do các sáng kiến về kỹ thuật thẩm thấu ngược, Israel bắt đầu trở thành một nước xuất khẩu ròng về nước trong những năm tới.",
"Israel đã đi theo hướng năng lượng Mặt trời; các kỹ sư của họ đi tiên phong về lĩnh vực này và các công ty năng lượng Mặt trời của Israel làm việc trong các dự án khắp thế giới. Trên 90% gia đình Israel sử dụng năng lượng Mặt trời để làm nóng nước, đây là tỷ lệ cao nhất thế giới (2011). Theo số liệu của chính phủ, quốc gia tiết kiệm được 8% tiêu thụ điện năng mỗi năm nhờ sử dụng năng lượng Mặt trời để đun nóng. Bức xạ Mặt trời cao tạo điều kiện lý tưởng cho ngành công nghiệp nghiên cứu và phát triển năng lượng Mặt trời nổi danh thế giới tại Hoang mạc Negev. Israel có cơ sở hạ tầng ô tô điện hiện đại, có hệ thống trạm nạp điện trên toàn quốc. Người ta cho rằng loại xe này sẽ khiến Israel giảm sự phụ thuộc vào dầu và hạ thấp chi phí nhiên liệu của những người lái xe Israel sử dụng ô tô chỉ chạy bằng pin điện. Mô hình Israel được một số quốc gia học tập và thực hiện. Tuy nhiên, công ty ô tô điện tiên phong của Israel là Better Place đóng cửa vào năm 2013.",
"Giao thông.",
"Israel có 19.224 km đường được lát mặt vào năm 2016, và có 3 triệu xe ô tô vào năm 2015. Số lượng xe ô tô trên 1.000 dân là 365, tương đối thấp so với các quốc gia phát triển. Israel có 5.715 xe buýt trên các tuyến cố định, do một số hãng vận chuyển điều hành, lớn nhất trong số đó là Egged, phục vụ hầu hết toàn quốc. Các tuyến đường sắt trải dài 1.277 km tính đến năm 2016, và công ty quốc doanh Israel Railways là thể chế điều hành duy nhất. Sau các khoản đầu tư lớn từ đầu đến giữa thập niên 1990, số lượng hành khách đường sắt mỗi năm tăng từ 2,5 triệu vào năm 1990, lên đến 53 triệu vào năm 2015; đường sắt cũng được sử dụng để vận chuyển 7,5 tấn hàng hóa mỗi năm.",
"Israel có hai sân bay quốc tế: Sân bay quốc tế Ben Gurion là trung tâm hàng không quốc tế chủ yếu và nằm gần đại đô thị Tel Aviv-Yafo, còn Sân bay Ovda phục vụ thành phố cảng cực nam Eilat. Ngoài ra, còn có các sân bay nội địa. Sân bay Ben Gurion vận chuyển trên 15 triệu lượt hành khách vào năm 2015. Tại bờ biển Địa Trung Hải, Cảng Haifa là cảng lâu năm nhất và lớn nhất Israel, còn Cảng Ashdod là một trong vài cảng nước sâu trên thế giới được xây dựng trên vùng biển mở. Ngoài ra, Cảng Eilat có quy mô nhỏ hơn nằm ven Biển Đỏ, chủ yếu được sử dụng cho mậu dịch với các quốc gia Viễn Đông.",
"Du lịch.",
"Du lịch, đặc biệt là du lịch tôn giáo, là một ngành quan trọng tại Israel, nhờ có khí hậu ôn hòa, các bãi biển, di chỉ khảo cổ học, các di tích lịch sử và kinh thánh, và địa lý độc đáo. Vấn đề an ninh của Israel gây tổn hại cho ngành du lịch, song số lượng du khách phục hồi sau Đại khởi nghĩa của người Palestine. Năm 2013, một báo cáo cho hay 3,54 triệu du khách đến Israel, địa điểm phổ biến nhất là Bức tường Than khóc với 68% du khách đến đó. Israel có số lượng bảo tàng bình quân đầu người cao nhất trên thế giới.",
"Nhân khẩu.",
"Năm 2022, dân số Israel ước tính đạt 9,660,320 người, trong đó 7,110,000 (73,6%) được ghi trong hồ sơ là người Do Thái. 1.808.000 người Ả Rập chiếm 21,1% dân số, trong khi những người Cơ Đốc giáo phi Ả Rập và người không tôn giáo theo đăng ký dân sự chiếm 4,8%. Trong khoảng thập niên đầu của thế kỷ XXI, có lượng lớn công nhân di cư đến từ Romania, Thái Lan, Trung Quốc, châu Phi, và Nam Mỹ định cư tại Israel. Không rõ số liệu chính xác do nhiều người cư trú bất hợp pháp tại Israel, song có ước tính là 203.000. Đến tháng 6 năm 2012, có khoảng 60.000 di dân châu châu Phi nhập cảnh Israel. Khoảng 92% người Israel cư trú tại các khu vực đô thị.",
"Tình trạng người Do Thái di cư từ Israel (được gọi là \"yerida\" trong tiếng Hebrew), chủ yếu là đến Hoa Kỳ và Canada, được các nhà nhân khẩu học mô tả là khiêm tốn, song các cơ quan chính phủ Israel thường dẫn ra như một mối đe dọa lớn đến tương lai của quốc gia.",
"Israel được thành lập làm tổ quốc cho người Do Thái và thường được gọi là nhà nước Do Thái. Luật Trở về của Israel trao cho toàn bộ người Do Thái và những người có tổ tiên Do Thái quyền có tư cách công dân Israel. Ba phần tư dân số là người Do Thái, song họ có xuất thân đa dạng. Khoảng 4% người Israel (300.000) được xác định dân tộc vào mục \"khác\", họ là những hậu duệ người Nga có tổ tiên hoặc dòng dõi Do Thái, họ không phải là người Do Thái theo luật rabi, song đủ tư cách có quyền công dân Israel theo Luật Trở về. Năm 2017, khoảng 77% người Do Thái Israel sinh tại Israel, 16% là người nhập cư từ châu Âu và châu Mỹ, và 7% là người nhập cư từ châu Á và châu Phi (kể cả Thế giới Ả Rập). Người Do Thái từ châu Âu và Liên Xô cũ cùng hậu duệ của họ sinh tại Israel, gồm nhóm Ashkenazi, chiếm khoảng 50% người Do Thái Israel. Người Do Thái đến từ các quốc gia Ả Rập và Hồi giáo cùng hậu duệ của họ, gồm nhóm Mizrahi và Sephardi chiếm hầu hết số người Do Thái còn lại tại Israel. Tỷ lệ liên hôn Do Thái tăng đến trên 35% và các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng tỷ lệ người Israel có nguồn gốc từ cả hai nhóm Sephardi và Ashkenazi tăng trưởng 0,5 phần trăm mỗi năm, với trên 25% học sinh hiện có nguồn gốc từ cả hai cộng đồng.",
"Ngôn ngữ.",
"Israel có hai ngôn ngữ chính thức là tiếng Hebrew và tiếng Ả Rập. Hebrew là ngôn ngữ chính của quốc gia và được đa số cư dân nói hàng ngày. Người thiểu số Ả Rập nói tiếng Ả Rập, và tiếng Hebrew được dạy tại các trường học Ả Rập.",
"Do là một quốc gia của người nhập cư, nhiều ngôn ngữ hiện diện tại Israel. Do nhập cư hàng loạt từ Liên Xô cũ và Ethiopia (khoảng 130.000 người Do Thái Ethiopia cư trú tại Israel), nên tiếng Nga và tiếng Amhara được nói phổ biến. Trên một triệu người nhập cư nói tiếng Nga đến Israel từ các quốc gia Liên Xô cũ từ năm 1990 đến năm 2004. Khoảng 700.000 người Israel nói tiếng Pháp, hầu hết nhóm này có nguồn gốc từ Pháp và Bắc Phi. Tiếng Anh là một ngôn ngữ chính thức trong thời kỳ Ủy thác; nó mất vị thế này sau khi Israel hình thành, song giữ được một vai trò tương đương một ngôn ngữ chính thức, như có thể thấy trong các bảng hiệu đường bộ và văn kiện chính thức. Nhiều người Israel giao tiếp khá tốt bằng tiếng Anh, do nhiều chương trình truyền hình được phát bằng tiếng Anh cùng phụ đề và ngôn ngữ này được dạy từ các lớp đầu trong trường tiểu học. Ngoài ra, các đại học tại Israel cung cấp khóa trình bằng tiếng Anh cho nhiều môn học khác nhau.",
"Tôn giáo.",
"Tôn giáo tại Israel (2016)",
"<templatestyles src=\"Legend/styles.css\" /> Do Thái giáo (74.71%)<templatestyles src=\"Legend/styles.css\" /> Hồi giáo (17.66%)<templatestyles src=\"Legend/styles.css\" /> Công giáo Roma (1.95%)<templatestyles src=\"Legend/styles.css\" /> Druze giáo (1.61%)<templatestyles src=\"Legend/styles.css\" /> Không tôn giáo (4.07%)",
"74% người dân Israel theo Do Thái giáo. Liên hệ tôn giáo của người Do Thái Israel có bất đồng lớn: Một nghiên cứu xã hội vào năm 2016 cho thấy rằng 49% tự nhận là Hiloni (thế tục), 29% là Masorti (truyền thống), 13% là Dati (mộ đạo) và 9% là Haredi (Siêu Chính Thống). Người Do Thái Haredi được dự kiến sẽ chiếm trên 20% dân số Do Thái Israel vào năm 2028.",
"Người Hồi giáo chiếm 17,6% dân số Israel và là cộng đồng thiểu số tôn giáo lớn nhất tại đây. Khoảng 2% dân số là tín đồ Cơ Đốc giáo và 1,6% là tín đồ Druze. Dân số Cơ Đốc giáo chủ yếu gồm người Cơ Đốc giáo Ả Rập, song cũng có các di dân hậu Liên Xô, lao động ngoại quốc đến từ nhiều quốc gia, và những người theo Do Thái giáo Chúa cứu thế- bị hầu hết người Cơ Đốc giáo và Do Thái giáo cho là một dạng của Cơ Đốc giáo. Thành viên của nhiều nhóm tôn giáo khác, như Phật giáo và Ấn Độ giáo, duy trì hiện diện tại Israel dù có số lượng nhỏ. Trong số hơn một triệu di dân từ Liên Xô cũ tại Israel, có khoảng 300.000 người bị giáo sĩ chính thống cho là không phải người Do Thái.",
"Thành phố Jerusalem có tầm quan trọng đặc biệt đối với người Do Thái, Hồi giáo và Cơ Đốc giáo do tại đây có các địa điểm chủ chốt trong đức tin tôn giáo của họ, như trong khu Thành cổ có Bức tường Than Khóc và Núi Đền, Nhà thờ Hồi giáo Al-Aqsa và Nhà thờ Mộ Thánh. Các địa điểm tôn giáo quan trọng khác tại Israel là Nazareth (linh thiêng trong Cơ Đốc giáo do là nơi lễ truyền tin của Maria), Tiberias và Safed (hai trong số bốn thành phố linh thiêng trong Do Thái giáo), Thánh đường Trắng tại Ramla (linh thiêng trong Hồi giáo vì là nơi thờ nhà tiên tri Saleh), và Nhà thờ Thánh George tại Lod (linh thiêng trong Cơ Đốc giáo và Hồi giáo vì là lăng mộ của Thánh George hay Al Khidr). Một số địa danh tôn giáo khác nằm tại Bờ Tây, như Lăng mộ Giuse tại Nablus, sinh quán của Giêsu và Lăng mộ Rachel tại Bethlehem, và Hang các Thượng phụ tại Hebron. Trung tâm hành chính của Đức tin Bahá'í và Đền thờ Báb nằm tại Trung tâm Thế giới Bahá'í tại Haifa; thủ lĩnh của đức tin được táng tại Acre. Ngoài nhân viên bảo trì, không có cộng đồng Bahá'í tại Israel, song đây là nơi các tín đồ Bahá'í hành hương. Nhân viên Bahá'í tại Israel không truyền dạy đức tin của mình cho người Israel do tuân theo chính sách nghiêm ngặt.",
"Giáo dục.",
"Giáo dục được xem trọng cao độ trong văn hóa Israel, được nhận định là một trong các nền tảng cơ bản trong sinh hoạt của người Israel cổ đại. Các cộng đồng Do Thái tại Levant là những người đầu tiên áp dụng giáo dục nghĩa vụ, do đó cộng đồng có tổ chức sẽ chịu trách nhiệm về giáo dục cho thế hệ tương lai của người Do Thái bên cạnh cha mẹ. Hệ thống giáo dục Israel được tán dương vì nhiều nguyên nhân, bao gồm chất lượng cao và có vai trò lớn trong khích lệ bùng nổ phát triển kinh tế và kỹ thuật của Israel.",
"Do kinh tế Israel dựa phần lớn vào khoa học và kỹ thuật, thị trường lao động yêu cầu cá nhân cần đạt được một dạng giáo dục bậc đại học nào đó, đặc biệt là liên quan đến khoa học và kỹ thuật để có lợi thế cạnh tranh khi tìm việc. Năm 2015, quốc gia này xếp thứ ba trong các quốc gia OECD (sau Canada và Nhật Bản) về tỷ lệ người trong độ tuổi 25-64 đạt được trình độ đại học là 49%, trong khi tỷ lệ trung bình của OECD là 35%. Ngoài ra, Israel có tỷ lệ người trong độ tuổi 55–64 sở hữu bằng đại học là 47% vào năm 2013, trong khi mức bình quân của OECD là 25%. Năm 2012, Israel xếp hạng ba thế giới về số bằng đại học bình quân (20% dân số).",
"Người Israel có số năm đi học binh quân là 15,5 và tỷ lệ biết chữ đạt 97,1% theo Liên Hợp Quốc. Luật Giáo dục Nhà nước được thông qua vào năm 1953, lập ra năm loại trường học: thế tục nhà nước, tôn giáo nhà nước, chính thống giáo cực độ, trường học khu định cư cộng đồng, và trường học Ả Rập. Thế tục công cộng là loại trường học lớn nhất, đa số học sinh Do Thái và phi Ả Rập theo học tại đó. Hầu hết người Ả Rập đưa con mình đến các trường học có ngôn ngữ giảng dạy là tiếng Ả Rập. Giáo dục là nghĩa vụ tại Israel đối với trẻ em từ 3-18 tuổi. Trường học được chia thành ba cấp – trường tiểu học (lớp 1–6), trường trung học cơ sở (lớp 7–9), và trường trung học phổ thông (lớp 10–12) – cực đỉnh là kỳ thi \"Bagrut\" để được công nhận hoàn thành 12 năm học. Năng lực về các môn học chủ chốt như toán học, tiếng Hebrew và văn học tổng thể, tiếng Anh, lịch sử, kinh thánh và dân quyền là cần thiết để nhận được giấy chứng nhận Bagrut. Trong các trường học Ả Rập, Cơ Đốc giáo và Druze, môn thi nghiên cứu kinh thánh được thay thế bằng môn thi về di sản tín hữu Hồi giáo, Cơ Đốc giáo hoặc Druze. Người Ả Rập Cơ Đốc giáo có thành tích giáo dục tốt nhất so với các nhóm khác tại Israel. Trẻ em Israel xuất thân từ các gia đình nói tiếng Nga có tỷ lệ đỗ bagrut cao hơn mức bình quân. In 2014, 61,5% số người có bằng hoàn thành lớp 12 có giấy chứng nhận trúng tuyển đại học.",
"Israel có chín đại học công lập được nhà nước trợ cấp, và 49 học viện tư nhân. Đại học Hebrew Jerusalem là đại học lâu năm thứ hai tại Israel sau Technion, bao gồm Thư viện Quốc gia Israel. Technion, Đại học Hebrew, và Học viện Weizmann lần lượt nằm trong 100 đại học hàng đầu thế giới theo xếp hạng của Đại học Giao thông Thượng Hải năm 2013. Đại học Hebrew Jerusalem và Đại học Tel Aviv nằm trong 100 đại học hàng đầu thế giới theo tạp chí Times Higher Education năm 2012. Các đại học lớn khác tại Israel là Đại học Bar-Ilan, Đại học Haifa, Đại học Mở Israel, và Đại học Ben-Gurion Negev. Bảy đại học nghiên cứu của Israel (ngoại trừ Đại học Mở) lần lượt nằm trong danh sách 500 đại học hàng đầu thế giới.",
"Văn hóa.",
"Văn hóa đa dạng của Israel bắt nguồn từ sự đa dạng về dân cư: người Do Thái từ các cộng đồng tha hương khắp thế giới đem các truyền thống văn hóa và tôn giáo theo mình khi họ nhập cư, tạo ra sự dung hợp của các phong tục và đức tin Do Thái. Israel là quốc gia duy nhất trên thế giới có sinh hoạt dựa theo lịch Hebrew. Các ngày lễ công cộng và trường học được gắn với các ngày lễ Do Thái giáo, và ngày nghỉ chính thức trong tuần là Thứ Bảy, tức ngày cầu nguyện Shabbat của người Do Thái. Cộng đồng Ả Rập thiểu số tại Israel cũng khắc dấu ấn trong văn hóa Israel trong các phạm vi kiến trúc, âm nhạc, và ẩm thực.",
"Văn học Israel chủ yếu là thơ và văn xuôi viết bằng tiếng Hebrew, là bộ phận của quá trình phục hưng tiếng Hebrew ở dạng nói từ thế kỷ XIX, song có một bộ phận nhỏ văn học được xuất bản bằng các ngôn ngữ khác như tiếng Anh. Theo luật, hai bản sao của toàn bộ ấn phẩm xuất bản tại Israel cần phải lưu tại Thư viện Quốc gia Israel. Năm 2001, luật được sửa đổi để bao trùm các âm thanh và đoạn phim, cùng các truyền thông phi in ấn khác. Năm 2015, 85 % trong số 7.843 sách chuyển đến thư viện được viết bằng tiếng Hebrew.",
"Năm 1966, Shmuel Yosef Agnon cùng đoạt giải Nobel Văn học cùng tác giả người Do Thái Đức Nelly Sachs. Các nhà thơ hàng đầu Israel là Yehuda Amichai, Nathan Alterman và Rachel Bluwstein. Các nhà văn Israel đương đại nổi tiếng quốc tế gồm có Amos Oz, Etgar Keret và David Grossman. Nhà thơ trào phúng người Ả Rập Israel Sayed Kashua cũng được quốc tế biết đến. Israel cũng là nơi có hai tác giả người Palestine hàng đầu: Emile Habibi và Mahmoud Darwish- được nhiều người nhìn nhận là \"nhà thơ quốc dân Palestine\".",
"Âm nhạc Israel chịu ảnh hưởng từ toàn cầu; âm nhạc Sephardic, giai điệu Hasidic, âm nhạc múa bụng, âm nhạc Hy Lạp, jazz, và pop rock đều là một phần của âm nhạc. Trong số dàn nhạc nổi tiếng thế giới của Israel có Dàn nhạc Giao hưởng Israel hoạt động được hơn bảy mươi năm và nay trình diễn trên hai trăm buổi mỗi năm. Israel cũng có nhiều nhạc sĩ đáng chú ý, một số trở thành ngôi sao quốc tế. Itzhak Perlman, Pinchas Zukerman và Ofra Haza nằm trong số các nhạc sĩ được hoan nghênh quốc tế sinh tại Israel. Israel tham gia thi đấu tại Eurovision Song Contest gần như mọi năm kể từ năm 1973, giành chiến thắng trong bốn lần và hai lần tổ chức giải. Eilat là nơi tổ chức Lễ hội Jazz Biển Đỏ, được tổ chức mỗi mùa hè kể từ năm 1987.",
"Các bài hát dân ca kinh điển của quốc gia, gọi là \"các bài ca của Vùng đất Israel,\" có liên quan đến kinh nghiệm của những người tiên phong trong kiến thiết quê hương Do Thái. Vũ điệu vòng tròn Hora được những người định cư Do Thái ban đầu giới thiệu, nó trước tiên phổ biến tại các cộng đồng Kibbutz và ngoại vi. Nó trở thành một biểu trưng của tái thiết phục quốc Do Thái và khả năng trải nghiệm niềm vui giữa cảnh khắc khổ. Nó hiện đóng một vai trò quan trọng trong dân vũ Israel và được biểu diễn thường xuyên trong các đám cưới và sự kiện khác, và trong các bài nhảy nhóm khắp Israel.",
"Israel là nơi cư trú của nhiều nhạc sĩ Palestine, trong đó có bậc thầy đàn oud và violin Taiseer Elias, ca sĩ Amal Murkus, và anh em Samir và Wissam Joubran. Các nhạc sĩ Ả Rập Israel có danh tiếng vượt khỏi biên giới: Elias và Murkus thường xuyên trình diễn cho khán giả tại châu Âu và châu Mỹ.",
"Mười bộ phim Israel được đề cử chung kết cho giải Oscar cho phim ngoại ngữ hay nhất từ khi Israel lập quốc. Phim \"Ajami\" năm 2009 là đề cử thứ ba liên tiếp của một phim Israel. Các nhà làm phim Israel-Palestine đã làm một số phim liên quan đến xung đột Ả Rập-Israel và tình trạng của người Palestine trong Israel.",
"Kế tục truyền thống sân khấu mạnh mẽ của sân khấu Yiddish tại Đông Âu, Israel duy trì cảnh tượng sân khấu sôi động. Sân khấu Habima tại Tel Aviv được thành lập vào năm 1918 và là sân khấu quốc gia của Israel.",
"Năm 2016, Israel được xếp hạng 65 theo báo cáo tự do báo chí của Freedom House, đứng đầu tại khu vực Trung Đông và Bắc Phi. Trong Xếp hạng về tự do báo chí của Phóng viên không biên giới, Israel (bao gồm \"Israel ngoại lãnh thổ\" từ xếp hạng năm 2013) xếp thứ 101 trong số 180 quốc gia, đứng thứ ba tại Trung Đông và Bắc Phi sau Tunisia (hạng 96) và Liban (hạng 98).",
"Israel có tỷ lệ bảo tàng bình quân đầu người nhiều nhất thế giới. Bảo tàng Israel tại Jerusalem là một trong các thể chế văn hóa tối quan trọng của quốc gia và lưu giữ các Cuộn giấy Biển Chết, cùng bộ sưu tập lớn về nghệ thuật Do Thái và châu Âu. Bảo tàng Holocaust quốc gia của Israel là Yad Vashem, đây là trung tâm lưu trữ thế giới về các thông tin liên quan đến Holocaust. Beth Hatefutsoth (bảo tàng tha hương) trong khuôn viên Đại học Tel Aviv là một bảo tàng tương tác dành cho lịch sử của các cộng đồng Do Thái khắp thế giới. Ngoài các bảo tàng lớn tại các đô thị lớn, còn có các không gian nghệ thuật chất lượng cao tại nhiều thị trấn và \"kibbutz\". \"Mishkan Le'Omanut\" tại Kibbutz Ein Harod Meuhad là bảo tàng nghệ thuật lớn nhất tại miền bắc của Israel.",
"Ẩm thực Israel gồm các món ăn bản địa cũng như các món ăn được di dân Do Thái đưa đến. Từ khi lập quốc vào năm 1948, và đặc biệt là từ cuối thập niên 1970, một nền ẩm thực dung hợp Israel đã phát triển. Khoảng một nửa cư dân Do Thái Israel duy trì chế độ ăn uống Do Thái kosher tại nhà. Các nhà hàng kosher hiếm thấy trong thập niên 1960, song tăng lên khoảng 25% #đổi , có lẽ phản ánh các giá trị phần lớn là thế tục của những thực khách. Các nhà hàng khách sạn có nhiều khả năng phục vụ thực phẩm kosher. Thị trường bán lẻ phi kosher vốn thưa thớt, song phát triển nhanh chóng và đáng kể sau khi có dòng người nhập cư từ Đông Âu và Nga trong thập niên 1990. Cùng với cá, thỏ và đà điểu phi kosher, thì thịt lợn—thường gọi là \"thịt trắng\" tại Israel—vẫn được sản xuất và tiêu thụ bất chấp việc bị cả Do Thái giáo và Hồi giáo cấm chỉ.",
"Thể thao.",
"Israel giành được huy chương vàng Thế vận hội đầu tiên trong nội dung lướt ván buồm tại Thế vận hội Mùa hè 2004. Israel giành được hơn 100 huy chương vàng tại Thế vận hội dành cho người khuyết tật. Thế vận hội Mùa hè người khuyết tật năm 1968 được tổ chức tại Israel. Đại hội thể thao Maccabiah là một sự kiện theo thể thức thế vận hội dành cho các vận động viên Do Thái và các vận động viên Israel, sự kiện được bắt đầu từ thập niên 1930, và từ đó được tổ chức bốn năm một lần.",
"Các môn thể thao có đông khán giả nhất tại Israel là bóng đá và bóng rổ. Giải Ngoại hạng Israel là giải bóng đá cấp cao nhất toàn quốc, và Giải bóng rổ siêu cấp Israel là giải cấp cao nhất. Maccabi Haifa, Maccabi Tel Aviv, Hapoel Tel Aviv và Beitar Jerusalem là các câu lạc bộ thể thao lớn nhất. Maccabi Tel Aviv, Maccabi Haifa và Hapoel Tel Aviv thi đấu tại Giải bóng đá vô địch các câu lạc bộ châu Âu và Hapoel Tel Aviv từng vào đến trận tứ kết giải này. Maccabi Tel Aviv B.C. nhiều lần giành chức vô địch tại giải vô địch bóng rổ châu Âu.",
"Năm 1964, Israel đăng cai và giành chức vô địch Giải các quốc gia châu Á; năm 1970 đội tuyển bóng đá quốc gia Israel đủ điều kiện tham gia Giải bóng đá vô địch thế giới, đây là lần duy nhất họ tham dự World Cup. Đại hội Thể thao châu Á 1974 tổ chức tại Tehran là lần cuối cùng Israel tham gia đại hội này, và chịu tổn hại do các quốc gia Ả Rập từ chối thi đấu với Israel. Israel bị trục xuất khỏi Đại hội Thể thao châu Á 1978 và từ đó không tham gia đại hội này. Năm 1994, Liên đoàn bóng đá châu Âu chấp thuận nhận Israel và các đội tuyển bóng đá Israel nay thi đấu tại giải của châu Âu.",
"Cờ vua là một môn thể thao hàng đầu tại Israel và được mọi lứa tuổi hưởng ứng. Có nhiều đại kiện tướng và kỳ thủ Israel giành một số giải vô địch thế giới trẻ. Israel tổ chức một giải vô địch quốc tế thường niên và đăng cai Giải vô địch cờ vua đội tuyển thế giới năm 2005. Bộ Giáo dục và Liên đoàn Cờ vua Thế giới đồng ý về một kế hoạch dạy cờ vua trong các trường học Israel, và nó được đưa vào chương trình giảng dạy tại một số trường. Thành phố Beersheba trở thành một trung tâm cờ vua quốc gia, trò chơi này được dạy trong các nhà trẻ của thành phố. Một phần nhờ vào các di dân Liên Xô cũ, đây là thành phố có số lượng đại kiện tướng cờ vua cao nhất thế giới.",
"Nhà vô địch quần vợt Israel Shahar Pe'er xếp hạng 11 thế giới vào ngày 31 tháng 1 năm 2011. Krav Maga là một môn võ thuật phát triển trong các khu người Do Thái khi đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít tại châu Âu, nó được lực lượng an ninh và cảnh sát Israel sử dụng và được học khắp thế giới."
] |
3724 | 686003 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3724 | Pakistan | [
"Pakistan (, phiên âm: \"Pa-ki-xtan\"), tên chính thức là Cộng hoà Hồi giáo Pakistan, là một quốc gia ở Nam Á. Pakistan có bờ biển dài 1,046 km (650 mi) dọc theo Biển Ả Rập và Vịnh Oman ở phía nam; phía tây giáp Afghanistan và Iran; phía đông giáp Ấn Độ; cực đông bắc giáp Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Tajikistan cũng nằm rất gần với Pakistan nhưng bị ngăn cách bởi Hành lang Wakhan hẹp. Vì thế, nước này nằm trên ngã tư đường giữa Nam Á, Trung Á và Trung Đông.",
"Vùng tạo thành nước Pakistan hiện đại từng là trung tâm của nền Văn minh lưu vực sông Ấn cổ đại và sau này là nơi lĩnh hội các nền văn hoá Vệ Đà, Ba Tư, Ấn-Hy Lạp, Turk-Mông Cổ và Hồi giáo. Vùng này đã chứng kiến những cuộc xâm lược và/hay định cư của người Ấn-Aryan, Ba Tư, Hy Lạp, Ả Rập, Thổ, Mông Cổ, Sikh và Anh.",
"Ngoài Phong trào độc lập Ấn Độ yêu cầu một nước Ấn Độ độc lập, Phong trào Pakistan (dưới sự lãnh đạo của Muhammad Ali Jinnah thuộc Liên đoàn Hồi giáo), cũng tìm kiếm một nền độc lập cho Ấn Độ, tìm kiếm một nhà nước độc lập cho đa số dân cư Hồi giáo ở các vùng phía đông và phía tây của Ấn Độ thuộc Anh. Người Anh đã trao độc lập và cũng thành lập một nhà nước đa số Hồi giáo Pakistan gồm các tỉnh Sindh, Tỉnh biên giới Tây Bắc, Tây Punjab, Balochistan và Đông Bengal. Với việc thông qua hiến pháp năm 1956, Pakistan trở thành một nước Cộng hoà Hồi giáo. Năm 1971, một cuộc nội chiến bùng phát ở Đông Pakistan dẫn tới việc thành lập Bangladesh.",
"Lịch sử Pakistan có đặc điểm bởi những giai đoạn cai trị quân sự và bất ổn chính trị. Pakistan là một quốc gia đang phát triển phải đối mặt với các vấn đề tỷ lệ đói nghèo và mù chữ cao. Nước này là nước đông dân thứ sáu trên thế giới và có cộng đồng dân số Hồi giáo đứng hàng thứ hai thế giới sau Indonesia. Pakistan có số dân theo dòng Hồi giáo Shia đứng thứ hai thế giới.. Đây là quốc gia hạt nhân có đa số dân là tín đồ Hồi giáo duy nhất trên thế giới. Pakistan là một thành viên của Khối thịnh vượng chung, các nền kinh tế Next Eleven và D8.",
"Từ nguyên.",
"Cái tên \"Pakistan\" (]#đổi ) có nghĩa \"vùng đất của (sự) Thanh khiết\" trong tiếng Urdu và tiếng Ba Tư (Farsi). Nó được Choudhary Rahmat Ali gọi là \"Pakstan\" vào năm 1934 trong cuốn sách mỏng \"Bây giờ hay Không bao giờ\" của ông. Cái tên là một từ kết hợp đại diện cho \"ba mươi triệu người Hồi giáo PAKISTAN, đang sống ở các Khu vực phía Bắc của British Raj — Punjab, Afghania (bây giờ được gọi là Tỉnh biên giới Tây Bắc), Kashmir, Sindh, và Balochistan.\"",
"Tiếng Việt còn gọi quốc gia này vào thế kỷ XX là \"Hồi Quốc\".",
"Lịch sử.",
"Lưu vực sông Ấn, bao gồm một phần lớn lãnh thổ Pakistan, từng là địa điểm của nhiều nền văn hoá cổ gồm cả văn hoá Mehrgarh thời kỳ đồ đá mới và Văn minh Châu thổ sông Ấn thời kỳ đồ đồng (2500 trước Công Nguyên – 1500 trước Công Nguyên) tại (Harappa thuộc quận Sahiwal) và Mohenjo-Daro.",
"Các làn sóng người chinh phục và di cư từ phía tây - gồm cả người Harappan, Ấn-Aryan, Ba Tư, Hy Lạp, Saka, Parthia, Kushan, Hephthalite, Afghan, Ả Rập, Turk và Mughal - đã tới định cư trong vùng trong nhiều thế kỷ, ảnh hưởng tới người dân địa phương và bị hấp thụ vào bên trong họ. Các đế chế cổ ở phía đông – như Đế chế Nanda, Maurya, Sunga, Gupta, và Pala – đã cai trị những lãnh thổ này ở những khoàng thời gian khác nhau từ Patliputra.",
"Tuy nhiên, ở giai đoạn trung cổ, khi các tỉnh phía đông của Punjab và Sindh dần liên kết với nền văn minh Ấn Độ-Hồi giáo, các khu vực phía tây về văn hoá trở thành đồng minh của nền văn minh Iran của Afghanistan và Iran. Vùng này là ngã tư của các con đường thương mại lịch sử, gồm cả Con đường tơ lụa, và như một cảng vào cho con đường thương mại ven biển giữa Lưỡng Hà và kéo dài tới La Mã ở phía tây và Malabar và tới tận Trung Quốc ở phía đông.",
"Pakistan ngày nay từng là trung tâm của nền Văn minh Châu thổ sông Ấn; đã sụp đổ hồi giữa thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên và tiếp đó là Văn minh Vệ Đà, cũng mở rộng hầu hết các đồng bằng Ấn-Hằng. Các đế chế và vương quốc cổ đại nối tiếp nhau cai trị vùng này: đế chế Ba Tư Achaemenid khoảng năm 543 trước Công nguyên, đế chế Hy Lạp do Alexander Đại đế thành lập năm 326 trước Công nguyên và đế chế Maurya sau đó.",
"Vương quốc Ấn-Hy Lạp do Demetrius của Bactria thành lập gồm cả Gandhara và Punjab từ năm 184 trước Công nguyên, và đạt tới tầm vóc lớn nhất dưới thời Menander, thành lập nên giai đoạn Hy Lạp-Phật giáo với những tiến bộ trong thương mại và văn hoá. Thành phố Taxila (Takshashila) trở thành một trung tâm học thuật chính ở những thời cổ đại – tàn tích của thành phố, nằm ở phía tây Islamabad, là một trong những địa điểm khảo cổ chính của đất nước. Triều đại Rai (khoảng 489–632) của Sindh, ở thời cực thịnh, đã cai trị vùng này và các lãnh thổ xung quanh.",
"Năm 712 sau Công Nguyên, vị tướng Ả Rập Muhammad bin Qasim đã chinh phục Sindh và Multan ở Punjab phía nam. Biên niên sử chính thức của chính phủ Pakistan nói rằng \"sự thành lập của nó đã được sắp đặt\" như một kết quả của cuộc chinh phục này. Thắng lợi này của người Ả Rập và Hồi giáo sẽ lập ra một giai đoạn của nhiều đế chế Hồi giáo nối tiếp nhau ở Nam Á, gồm cả Đế chế Ghaznavid, Vương quốc Ghorid, Vương quốc Hồi giáo Delhi và Đế chế Mughal. Trong giai đoạn này, các nhà truyền giáo Sufi đóng một vai trò then chốt trong việc cải đạo đa số tín đồ Phật giáo và dân cư Hindo trong vùng sang Hồi giáo. ",
"Sự suy tàn lần lần của Đế chế Mughal đầu thế kỷ XVIII mang lại cơ hội cho những người Afghan, Baloch và Sikh nắm quyền ảnh hưởng trên những khu vực rộng lớn cho tới khi Công ty Đông Ấn Anh giành được uy thế ở Nam Á. Cuộc Nổi dậy Ấn Độ năm 1857, cũng được gọi là Binh biến Ấn Độ, là cuộc đấu tranh vũ trang lớn cuối cùng chống lại Raj Anh, và nó lập ra những nền tảng cho cuộc đấu tranh phi vũ trang dưới sự lãnh đạo của Đảng Quốc đại Ấn Độ trong thế kỷ XIX. Trong thập niên 1920 và 1930, một phong trào dưới sự lãnh đạo của Mahatma Gandhi, thể hiện cam kết \"ahimsa\", hay bất bạo động, hàng triệu người phản kháng đã tham gia vào các chiến dịch bất tuân dân sự rộng lớn.",
"Liên đoàn Hồi giáo Toàn Ấn giành được sự ủng hộ của dân chúng cuối thập niên 1930 giữa những lo ngại về sự lơ đãng và không chú tâm của tín đồ Hồi giáo với chính trị. Ngày 29 tháng 12 năm 1930, bài diễn văn của Allama Iqbal đã kêu gọi cho một \"nhà nước tự trị ở tây bắc Ấn Độ cho các tín đồ Hồi giáo Ấn Độ, bên trong cơ cấu chính trị của Ấn Độ.\" Muhammad Ali Jinnah tán thành \"Lý thuyết Hai Nhà nước\" và lãnh đạo Liên đoàn Hồi giáo thông qua \"Nghị quyết Lahore\" năm 1940, thường được gọi là Nghị quyết Pakistan. Đầu năm 1947, Anh thông báo quyết định chấm dứt cai trị Ấn Độ. Tháng 6 năm 1947, các lãnh đạo quốc gia của Ấn Độ thuộc Anh - gồm cả Nehru và Abul Kalam Azad thay mặt cho Đảng Quốc đại, Jinnah đại diện cho Liên đoàn Hồi giáo và Master Tara Singh đại diện cho người Sikhs - đồng ý các điều khoản được đề xuất của việc chuyển giao quyền lực và độc lập.",
"Nhà nước Pakistan hiện đại được thành lập ngày 14 tháng 8 năm 1947 (27 Ramadan 1366 theo Lịch Hồi giáo), cắt ra hai khu vực đa số Hồi giáo ở phía đông và phía tây bắc của Ấn Độ thuộc Anh và gồm các tỉnh Balochistan, Đông Bengal, Tỉnh biên giới Tây Bắc, Tây Punjab và Sindh. Sự tranh cãi, sai thời điểm, phân chia các tỉnh Punjab và Bengal đã gây ra các vụ bạo động cộng đồng trên khắp Ấn Độ và Pakistan – hàng triệu người Hồi giáo đã dời sang Pakistan và hàng triệu người Hindus và người Sikhs đã phải sang Ấn Độ. Những cuộc tranh cãi gia tăng về nhiều vương quốc hoàng thân gồm cả Jammu và Kashmir đa số Hồi giáo, nơi nhà cai trị người Hindu đã nhượng nó cho Ấn Độ sau một cuộc xâm lược của các chiến binh bộ tộc Pashtun, dẫn tới cuộc Chiến tranh Kashmir lần thứ nhất năm 1948.",
"Từ năm 1947 đến năm 1956, Pakistan là một lãnh thổ tự trị bên trong Khối thịnh vượng chung. Nó trở thành một nhà nước Cộng hoà năm 1956, nhưng quyền cai trị dân sự đã bị ngừng lại sau một cuộc đảo chính của Tướng Ayub Khan, người nắm chức tổng thống trong giai đoạn 1958–69, một giai đoạn bất ổn bên trong và một cuộc chiến tranh thứ hai với Ấn Độ năm 1965. Người kế nhiệm ông, Yahya Khan (1969–71) phải giải đương đầu với một trận bão có sức tàn phá mạnh — làm 500.000 người chết ở Đông Pakistan— và cũng phải đối mặt với một cuộc nội chiến năm 1971. Những sự bất bình về kinh tế và bất đồng về chính trị ở Đông Pakistan dẫn tới một tình trạng căng thẳng chính trị và bạo lực và sự đàn áp quân sự leo thang trở thành một cuộc nội chiến. Sau chín tháng chiến tranh du kích giữa Quân đội Pakistan và quân du kích Belgan Mukti Bahini được Ấn Độ ủng hộ, sau này sự can thiệp của Ấn Độ leo thang thành cuộc Chiến tranh Ấn Độ-Pakistani năm 1971, và cuối cùng là sự ly khai của Đông Pakistan trở thành nhà nước Bangladesh độc lập.",
"Quyền cai trị dân sự ở Pakistan được tái lập từ năm 1972 tới năm 1977 dưới thời Zulfikar Ali Bhutto, cho tới khi ông bị hạ bệ và bị kết án tử hình năm 1979 bởi Tướng Zia-ul-Haq, người trở thành tổng thống quân sự thứ ba của đất nước. Zia đưa ra bộ luật hình sự Hồi giáo Sharia, tăng cường ảnh hưởng của tôn giáo trong đời sống dân sự và quân sự. Khi Tổng thống Zia chết trong một tai nạn máy bay năm 1988, Benazir Bhutto, con gái của Zulfikar Ali Bhutto, được bầu làm nữ Thủ tướng đầu tiên của Pakistan. Trong thập kỷ tiếp theo bà phải đấu tranh cho quyền lực với Nawaz Sharif khi tình hình chính trị và kinh tế trong nước ngày càng xấu đi. Pakistan tham gia vào cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991 và gửi 5,000 quân như một phần của liên quân dưới sự lãnh đạo của Mỹ, để bảo vệ Ả Rập Xê Út.",
"Những căng thẳng quân sự trong cuộc xung đột Kargil với Ấn Độ được tiếp nối bằng một cuộc đảo chính quân sự Pakistan năm 1999 trong đó tướng Pervez Musharraf đã nắm quyền hành pháp tuyệt đối. Năm 2001, Musharraf trở thành Tổng thống sau vụ từ chức gây tranh cãi của Rafiq Tarar. Sau cuộc bầu cử nghị viện năm 2002, Musharraf chuyển giao quyền hành pháp cho Thủ tướng mới được bầu là Zafarullah Khan Jamali, ông được Shaukat Aziz kế vị sau cuộc bầu cử thủ tướng năm 2004. Ngày 15 tháng 11 năm 2007 Quốc hội hoàn thành nhiệm kỳ và cuộc bầu cử mới được kêu gọi. Các lãnh đạo chính trị lưu vong Benazir Bhutto và Nawaz Sharif được cho phép quay trở lại Pakistan. Tuy nhiên, vụ ám sát Benazir Bhutto trong chiến dịch tranh cử tháng 12 đã dẫn tới sự trì hoãn bầu cử và những cuộc nổi loạn khắp đất nước. Đảng Nhân dân Pakistan (PPP) của bà Butto giành nhiều ghế nhất trong cuộc bầu cử được tổ chức tháng 2 năm 2008 và một thành viên của đảng này Yousaf Raza Gillani đã tuyên thệ nhậm chức Thủ tướng. Ngày 18 tháng 8 năm 2008, Pervez Musharaff từ chức tổng thống khi phải đối mặt với cuộc luận tội. Hiện tại, (ở thời điểm cuối năm 2009), hơn 3 triệu người Pakistan đã phải dời bỏ nhà cửa vì cuộc xung đột đang diễn ra ở Tây Bắc Pakistan giữa chính phủ và các chiến binh Taliban.",
"Chính phủ và chính trị.",
"Hiến pháp đầu tiên của Pakistan được thông qua năm 1956, nhưng đã bị Tướng Ayub Khan đình chỉ năm 1958. Hiến pháp năm 1973 — bị đình chỉ năm 1977, bởi Zia-ul-Haq, nhưng đã được tái lập năm 1985 — là văn kiện quan trọng nhất của quốc gia, đặt ra những nền tảng cho chính phủ hiện tại. Pakistan là một nước cộng hoà dân chủ liên bang bán tổng thống với Đạo Hồi là tôn giáo của nhà nước.",
"Nghị viện lưỡng viện gồm Thượng viện 100 thành viên và một Quốc hội với 342 thành viên. Tổng thống là Nguyên thủ quốc gia và Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang và được bầu bởi một ban bầu cử. Thủ tướng thường là lãnh đạo đảng lớn nhất trong Quốc hội. Mỗi tỉnh có một hệ thống chính phủ tương tự với một nghị viện Tỉnh được bầu trực tiếp trong đó lãnh đạo đảng hay liên minh lớn nhất trở thành thủ hiến (Chief Minister). Các thống đốc tỉnh do Tổng thống chỉ định.",
"Quân đội Pakistan đã đóng một vai trò ảnh hưởng trên trường chính trị trong suốt lịch sử Pakistan, với các vị tổng thống quân sự cầm quyền từ 1958–71, 1977–88 và từ 1999–2008. Đảng Nhân dân Pakistan cánh tả, dưới sự lãnh đạo của Zulfikar Ali Bhutto, đã giành được sự ủng hộ sau khi Bangladesh ly khai nhưng đã bị lật đổ sau những cuộc bạo động năm 1977. Dưới sự cai trị quân sự của Muhammad Zia-ul-Haq, trong thập niên 1980, Phong trào Muttahida Qaumi (MQM) chống phong kiến, ủng hộ Muhajir khởi đầu như một đảng của tầng lớp dân cư đô thị dị giáo và có giáo dục cao người Sindh và đặc biệt ở Karachi. Một cuộc nổi dậy ở Balochistan đã bị thống đốc Rahimuddin đàn áp bằng quân sự. Thập niên 1990 có đặc điểm là các liên minh chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Pakistan và một Liên đoàn Hồi giáo đổi mới.",
"Pakistan là một thành viên tích cực của Liên hiệp quốc (UN) và Tổ chức Hội nghị Hồi giáo (OIC), tổ chức mà Pakistan đã sử dụng như một diễn đàn cho \"Khai sáng Điều độ\", một kế hoạch khuyến khích một sự phục hưng và khai sáng trong thế giới Hồi giáo. Pakistan cũng là một thành viên của Hiệp hội Hợp tác Vùng Nam Á (SAARC) và Tổ chức Hợp tác Kinh tế (ECO). Trong quá khứ, Pakistan có những quan hệ pha trộn với Hoa Kỳ; đầu thập niên 1950, Pakistan là \"đồng minh thân cận nhất tại châu Á\" của Hoa Kỳ và là một thành viên của cả Tổ chức Hiệp ước Trung tâm (CENTO) và Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO).",
"Trong cuộc Chiến tranh Xô viết tại Afghanistan hồi thập niên 1980 Pakistan là một đồng minh chính của Hoa Kỳ. Nhưng các quan hệ đã xấu đi trong thập niên 1990, khi những lệnh cấm vận được Hoa Kỳ áp đặt vì Pakistan từ chối từ bỏ các hoạt động hạt nhân của mình. Tuy nhiên, Cuộc chiến chống Khủng bố của Hoa Kỳ, một hậu quả của những vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001 tại Mỹ, đã dẫn tới một sự cải thiện trong quan hệ Hoa Kỳ–Pakistan, đặc biệt sau khi Pakistan chấm dứt sự hỗ trợ của họ cho chế độ Taliban tại Kabul. Thái độ hợp tác của Pakistan được minh chứng bằng sự gia tăng viện trợ quân sự lớn của Mỹ, cung cấp cho Pakistan nhiều hơn $4 tỷ trong ba năm sau các vụ tấn công ngày 9/11 so với trước đó. Mặt khác, Pakistan hiện đang có gánh nặng 3 triệu người phải dời bỏ nhà cửa bởi cuộc chiến tranh đang diễn ra ở Afghanistan. Từ năm 2004, Pakistan đã được Hoa Kỳ gọi là một phần của Đại Trung Đông.",
"Ngày 18 tháng 2 năm 2008, Pakistan tổ chức cuộc tổng tuyển cử sau khi vụ ám sát Benazir Bhutto đã làm trì hoãn ngày dự định trước đó là mùng 8 tháng 1 năm 2008. Đảng Nhân dân Pakistan giành đa số phiếu và thành lập một liên minh với Liên đoàn Hồi giáo Pakistan (N). Họ chỉ định và bầu Yousaf Raza Gilani làm Thủ tướng Pakistan. Ngày 18 tháng 8 năm 2008, Pervez Musharraf từ chức Tổng thống Pakistan giữa những lời kêu gọi ngày càng gia tăng về việc luận tội ông. Trong cuộc bầu cử tổng thống diễn ra sau đó, Asif Ali Zardari thuộc Đảng Nhân dân Pakistan giành một thắng lợi lớn và trở thành Tổng thống Pakistan.",
"Phân chia hành chính.",
"Pakistan là một liên hiệp gồm bốn tỉnh và một lãnh thổ thủ đô. Chính phủ Pakistan trên thực tế thực hiện quyền tài phán với các phần phía tây của vùng tranh chấp Kashmir, được tổ chức thành hai thực thể chính trị riêng biệt (Azad Kashmir và Gilgit-Baltistan).",
"Các khu vực Hành chính Bộ lạc Liên bang (FATA) được thành lập vào năm 1947, và đã được sáp nhập vào tỉnh Khyber Pakhtunkhwa kể từ ngày 31 tháng 5 năm 2018",
"Tầng thứ ba của chính phủ gồm 26 khu vực hành chính với hai tầng nữa (các quận và các tehsil) được quản lý trực tiếp từ cấp tỉnh. Các khu vực hành chính đã bị xoá bỏ năm 2001 và một hệ thống chính phủ địa phương ba tầng mới bắt đầu có hiệu lực gồm các quận, tehsil và các hội đồng liên minh với một cơ cấu theo bầu cử ở mỗi tầng. Hiện có 107 quận trong lãnh thổ Pakistan, mỗi quận có nhiều tehsil và các hội đồng liên minh. Các khu vực bộ tộc gồm bảy cơ quan bộ tộc và sáu vùng biên giới nhỏ hơn được tách khỏi các quận lân cận trong khi Azad Kashmir gồm bảy quận và Các vùng phía Bắc gồm sáu quận.",
"Nhân khẩu.",
"Ước tính dân số Pakistan năm 2009 là hơn 180,800,000 người khiến nước này có số dân đứng hàng thứ sáu trên thế giới sau Brasil và trước Nga. Tới năm 2020, dân số nước này dự tính sẽ đạt mức 208 triệu người, vì tỷ lệ tăng dân số khá cao. Khoảng 20% dân số sống dưới ngưỡng nghèo khổ quốc tế ở mức US$1.25 một ngày. Việc dự đoán dân số cho Pakistan khá khó khăn bởi những khác biệt trong độ chính xác của mỗi cuộc điều tra dân số và những mâu thuẫn giữa nhiều cuộc điều tra liên quan tới tỷ lệ sinh, nhưng có lẽ tỷ lệ tăng dân số đã lên tới đỉnh trong thập niên 1980 và từ đó đã giảm đáng kể.",
"Đa số dân cư miền nam Pakistan sống dọc theo Sông Indus. Theo mức độ dân số, Karachi là thành phố lớn nhất Pakistan. Ở nửa phía bắc, hầu hết dân số sống trong một vành đai được tạo thành bởi các thành phố Lahore, Faisalabad, Rawalpindi, Islamabad, Gujranwala, Sialkot, Gujrat, Jhelum, Sargodha và Sheikhupura. Trong quá khứ, dân số nước này từng có tỷ lệ tăng khá lớn, tuy nhiên đã giảm vì tỷ lệ sinh giảm. Những thay đổi xã hội lớn đã dẫn tới sự đô thị hoá nhanh chóng và sự xuất hiện của các siêu thành phố. Trong thời kỳ 1990–2003, Pakistan duy trì được vị thế lịch sử như là quốc gia đô thị hoá nhất ở Nam Á, với dân cư thành thị chiếm 36% dân số.",
"Pakistan có một xã hội đa văn hoá và đa sắc tộc và là nơi tiếp đón một trong những cộng đồng người tị nạn lớn nhất thế giới cũng như một dân số trẻ. Xấp xỉ 1.7 triệu người tị nạn Afghanistan đang ở Pakistan. Gần một nửa số người này thực tế ra đời và lớn lên ở Pakistan trong 30 năm qua, vì thế họ chưa từng nhìn thấy Afghanistan. Họ không được tính đến trong các cuộc điều tra dân số quốc gia, thậm chí với cả người ra đời tại Pakistan, bởi họ vẫn bị coi là các công dân Afghanistan. Khoảng 8 triệu người Muhajir khi ấy chiếm một phần tư dân số đất nước tới từ Ấn Độ sau khi nước này độc lập năm 1947. Người Muhajir nói tiếng Urdu chiếm gần một nửa trong số 17 triệu dân Karachi, người Punjab và Pashtun cũng là những cộng đồng đáng kể trong thành phố này.",
"Ngôn ngữ.",
"Pakistan là một quốc gia đa ngôn ngữ với hơn sáu mươi ngôn ngữ hiện đang được sử dụng. Tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức của Pakistan và được sử dụng trong thương mại, chính phủ và các hợp đồng pháp lý, trong khi tiếng Urdu là ngôn ngữ quốc gia.",
"Tiếng Punjabi là ngôn ngữ cấp tỉnh của Punjab. Tiếng Pashto là ngôn ngữ cấp tỉnh của NWFP. Tiếng Sindh là ngôn ngữ cấp tỉnh của Sindh và tiếng Baloch là ngôn ngữ cấp tỉnh của Balochistan.",
"Các ngôn ngữ khác gồm Aer, Badeshi, Bagri, Balti, Bateri, Bhaya, Brahui, Burushaski, Chilisso, Dameli, Dehwari, Dhatki, Domaaki, Farsi (Dari), Gawar-Bati, Ghera, Goaria, Gowro, Gujarat, Gujari, Gurgula, Hazaragi, Hindko (hai loại), Jadgali, Jandavra, Kabutra, Kachchi (Kutchi), Kalami, Kalash, Kalkoti, Kamviri, Kashmir, Kati, Khetrani, Indus Kohistani, Koli (ba loại), Lasi, Loarki, Marwar, Memoni, Od, Ormuri, Pahari-Potwari, Ngôn ngữ Ký hiệu Pakistan, Palula (Phalura), Sansi, Savi, Shina (hai loại), Torwali, Ushojo, Vaghri, Wakhi, Waneci, và Yidgha. Một số trong số các ngôn ngữ đó đang gặp nguy cơ biến mất với một số người sử dụng khá nhỏ và những ngôn ngữ khác có hàng trăm nghìn người sử dụng.",
"Đa số các ngôn ngữ thuộc nhánh Ấn-Iran của ngữ hệ Ấn-Âu. Các ngoại trừ là Burushaski, là một ngôn ngữ tách biệt; Balti, là Hán-Tạng; và Brahui, là Dravidian.",
"Tôn giáo.",
"Pakistan là nước có quốc gia có đa số dân là tín đồ Hồi giáo hàng thứ hai thế giới và cũng có cộng đồng Shi'a hạng hai thế giới.",
"Khoảng 95% người dân Pakistan là tín đồ Hồi giáo, trong số đó gần 75% thuộc phái Sunni và 20% là Shi'a. Dù hai nhóm Hồi giáo này thường chung sống hoà bình, những vụ bạo lực giáo phái thỉnh thoảng vẫn xảy ra.",
"Thống kê tôn giáo của đất nước như sau:",
"Sức khoẻ.",
"Tuổi thọ khi sinh là 63 với nữ và 62 với nam năm 2006. Tuổi thọ khoẻ mạnh khi sinh là 54 cho nam và 52 cho nữ năm 2003. Expenditure on health was at 2% of the GDP in 2006. Tỷ lệ tử dưới 5 tuổi ở mức 97 trên 1,000 ca sinh sống năm 2006.",
"Quân đội.",
"Các lực lượng vũ trang Pakistan là một lực lượng hoàn toàn tự nguyện và lớn thứ sáu trên thế giới. Ba nhánh chính là Lục quân, Hải quân và Không quân, được hỗ trợ bởi một số lực lượng bán vũ trang thực hiện các vai trò an ninh nội địa và tuần tra biên giới. Bộ tư lệnh Quốc gia chịu trách nhiệm huấn luyện sử dụng và kiểm soát phát triển mọi lực lượng và tổ chức hạt nhân chiến lược.",
"Quân đội Pakistan lần đầu tham chiến trong cuộc Chiến tranh Kashmir lần thứ nhất, giành được quyền kiểm soát vùng hiện là Azad Kashmir. Năm 1961, quân đội đã đẩy lui một cuộc tiến công bất ngờ của Afghanistan vào biên giới phía tây Pakistan. Pakistan và Ấn Độ một lần nữa tham chiến năm 1965 và năm 1971. Năm 1973, quân đội đã tiêu diệt một cuộc nổi dậy quốc gia Baloch. Trong cuộc chiến tranh Xô viết-Afghanistan, Pakistan đã bắn hạ nhiều máy bay của lực lượng Afghanistan ủng hộ Liên Xô và cung cấp hỗ trợ bí mật cho lực lượng mujahideen Afghanistan thông qua cơ quan Inter-Services Intelligence. Năm 1999, Pakistan tham gia vào cuộc xung đột Kargil với Ấn Độ. Hiện tại, quân đội nước này đang tham gia vào một cuộc xung đột vũ trang với các chiến binh Hồi giáo cực đoan ở phía tây bắc đất nước.",
"Các lực lượng vũ trang Pakistan đã tham gia vào các nỗ lực gìn giữ hoà bình của Liên hiệp quốc, với hơn 10,000 quân được triển khai năm 2007, và hiện là nước đóng góp lớn nhất. Trong quá khứ, binh sĩ Pakistan đã tình nguyện phục vụ cùng với các lực lượng Ả Rập trong các cuộc xung đột với Israel. Pakistan cung cấp một đội quân cho liên minh được Liên hiệp quốc ủng hộ trong cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ nhất.",
"Quân đội Pakistan sử dụng nhiều loại vũ khí gồm cả vũ khí hạt nhân, các hệ thống tên lửa đạn đạo di động, các hệ thống thông tin laser, xe bọc thép và xe tăng, máy bay phản lực chiến đấu/ném bom đa nhiệm.",
"Đầu thế kỷ XXI, Pakistan bị cáo buộc đã nhận hàng tỷ dollar để chiến đấu chống chủ nghĩa khủng bố, trong khi cùng lúc đó lại cung cấp nơi trú ẩn an toàn cho một số những kẻ cực đoan Hồi giáo nguy hiểm nhất, gồm cả lãnh đạo al-Qa'ida Osama bin Laden và lãnh đạo Taliban Afghanistan Mullah Omar .",
"Địa lý và khí hậu.",
"Pakistan có diện tích 881,640 km² (340,403 dặm vuông), xấp xỉ bằng diện tích của Pháp và Anh. Các vùng phía đông nước này nằm trên đĩa kiến tạo Ấn Độ và các vùng tây và bắc trên cao nguyên Iran và lục địa Á Âu. Ngoài 1,046-kilômét (650 dặm) bờ Biển Ả Rập, các biên giới trên bộ của Pakistan có tổng chiều dài 6,774 kilômét—2,430 kilômét (1,509 dặm) với Afghanistan ở phía tây bắc, 523 kilômét (325 dặm) với Trung Quốc ở phía đông bắc, 2,912 kilômét (1,809 dặm) với Ấn Độ ở phía đông và 909 kilômét (565 dặm) với Iran ở phía tây nam.",
"Các cao nguyên phía bắc và phía tây Pakistan gồm các dãy núi Karakoram và Pamir cao ngất, gồm cả một số những đỉnh cao nhất thế giới, như K2 (28,250 ft; 8,611 m) và Nanga Parbat (26,660 ft; 8,126 m). Cao nguyên Balochistan nằm ở phía tây, và sa mạc Thar và một sự mở rộng của các đồng bằng bồi đắp, Punjab và Sind, nằm ở phía đông. Sông Indus dài 1,609 km (1,000 dặm) và các phụ lưu của nó chảy xuyên qua đất nước từ vùng Kashmir vào Biển Ả Rập.",
"Pakistan có bốn mùa: một mùa đông lạnh và khô từ tháng 12 đến tháng 2; một mùa xuân nóng và khô từ tháng 3 đến tháng 5; mùa hè nhiều mưa, hay giai đoạn gió mùa tây nam, từ tháng 6 đến tháng 9; và giai đoạn gió mùa rút đi từ tháng 10 đến tháng 11. Sự bắt đầu và quá trình của các mùa này hơi khác biệt tuỳ theo địa điểm. Lượng mưa có thể khác biệt rất nhiều tuỳ theo năm, và những mô hình kế lụt và hạn hán kế tiếp nhau cũng không hiếm thấy.",
"Hệ động thực vật.",
"Con vật quốc gia Pakistan là Markhor và loài chim quốc gia là Chukar, cũng được gọi là Chakhoor trong tiếng Urdu. Sự đa dạng trong phong cảnh và khí hậu ở Pakistan cho phép nhiều loài động vật và chim hoang dã phát triển. Các khu rừng từ tùng bách núi cao và các loài cây cận núi cao như vân sam, thông và thông tuyết ở các vùng núi phía bắc tới các loài cây rụng lá như Shisham kiểu dâu tằm ở dãy Sulaiman ở phía nam. Các vùng đồi phía tây có cây bách xù và cây thánh liễu cũng như các loại cỏ lá rộng và cây bụi. Dục theo bờ biển phía nam là các rừng xoài chiếm hầu hết các vùng đất ẩm bờ biển.",
"Ở phía nam, có cá sấu sinh sống tại các vùng nước tối tại cửa sông Indus trong khi trên các bờ sông, có các loài lợn lòi, hươu, nhím, và các loài gặp nhấm nhỏ sinh sống. Tại các vùng đất cây bụi cát ở trung Pakistan có chó sói, linh cầu, mèo rừng, báo còn trên trời có các loài chim ưng, diều hâu và đại bàng. Ở các sa mạc phía tây nam có các loài báo Cheetah châu Á sinh sống. Ở những vùng núi phía bắc có nhiều loài thú quý đang gặp nguy hiểm gồm cừu Marco Polo, cừu Urial, dê Markhor và Ibex, gấu đen và gấu xám Himalaya, và loài báo tuyết quý hiếm. Trong tháng 8 năm 2006, Pakistan đã tặng một con báo tuyết mồ côi tên là Leo cho Mỹ. Các giống loài quý hiếm khác là cá heo mù sông Indus khoảng 1,100 được cho là còn đang tồn tại, được bảo vệ tại Khu dự trữ cá heo sông Indus ở Sindh. Trong những năm gần đây số lượng các loài thú hoang dã bị giết để lấy lông và da khiến nước này phải ra một luật mới cấm săn bắn các loài thú hoang và chim và thành lập nhiềm khu vực dự trữ bảo vệ các loài sinh vật này. Số lượng thợ săn đã giảm đáng kể sau đó.",
"Kinh tế.",
"Dù là một nước rất nghèo năm 1947, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của Pakistan đã ở trên mức trung bình của thế giới trong bốn thập niên sau đó, nhưng các chính sách không thận trọng đã khiến tốc độ này chậm lại hồi cuối thập niên 1990. Gần đây, những chính sách cải cách kinh tế trên diện rộng đã dẫn tới một triển vọng kinh tế mạnh mẽ hơn và tăng tốc phát triển đặc biệt trong các lĩnh vực chế tạo và dịch vụ tài chính. Từ thập niên 1990, đã có sự cải thiện đáng kể trong vị thế ngoại hối và một sự tăng trưởng nhanh chóng trong dự trữ ngoại tệ mạnh.",
"Ước tính số nợ nước ngoài năm 2005 ở mức gần US$40 tỷ. Tuy nhiên, nó đã giảm bớt trong những năm gần đây với sự hỗ trợ từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế và khoản xoá nợ đáng kể từ Hoa Kỳ. Tổng Sản phẩm Quốc nội của Pakistan, tính theo sức mua tương đương, ước tính ở mức US$5,403 tỷ trong khi thu nhập trên đầu người đứng ở mức $1,428. Tỷ lệ nghèo khổ ở Pakistan ước tính trong khoảng 23% đến 28%.",
"Tăng trưởng GDP bền vững trong gia đoạn giữa những năm 2000 với tỷ lệ 7%; tuy nhiên, nó đã giảm bớt trong cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 xuống mức 4.7%. Một tỷ lệ lạm phát cao 24.4% và mức dự trữ thấp, cùng các yếu tố kinh tế khác, tiếp tục là trở ngại cho việc duy trì một tốc độ phát triển kinh tế cao. GDP của Pakistan ở mức US$167 tỷ, khiến nước này trở thành nền kinh tế đứng hàng 48 trên thế giới hay hạng 27 khi tính theo sức mua tương đương đã được điều chỉnh tỷ giá. Hiện nay, Pakistan được coi là nền kinh tế đứng thứ hai ở Nam Á (sau Ấn Độ). Tính đến năm 2016, GDP của Pakistan đạt 271.050 USD, đứng thứ 43 thế giới và đứng thứ 16 châu Á.",
"Cơ cấu kinh tế Pakistan đã thay đổi từ chủ yếu dựa vào nông nghiệp sang một kết cấu dựa mạnh vào dịch vụ. Nông nghiệp hiện nay chỉ chiếm khoảng 20% GDP, trong khi lĩnh vực dịch vụ chiếm 53% GDP. Các khoản đầu tư nước ngoài lớn đã được rót vào nhiều lĩnh vực gồm cả viễn thông, bất động sản và năng lượng. Các ngành công nghiệp quan trọng khác gồm đồ trang sức và dệt may (chiếm gần 60% xuất khẩu), chế biến thực phẩm, sản xuất hoá chất, và các ngành công nghiệp sắt và thép. Xuất khẩu của Pakistan năm 2008 đạt giá trị $20.62 tỷ (USD). Pakistan là một nước phát triển nhanh.",
"Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 đã khiến Pakistan phải tìm kiếm hơn $100 tỷ để tránh tình trạng phá sản có thể xảy ra. Khoản tiền này không bao giờ được trao cho Pakistan và vì thế họ phải phụ thuộc vào một chính sách thuế khoá nặng nề hơn, do IMF hậu thuẫn. Một năm sau Ngân hàng Phát triển châu Á thông báo cuộc khủng hoảng kinh tế của Pakistan đã giảm nhẹ trong năm 2009 . Hơn nữa, họ dự đoán rằng trong năm 2010 kinh tế Pakistan sẽ tăng trưởng ít nhất 4% và có thể tăng trưởng hơn nữa với sự phục hồi kinh tế mạnh mẽ của thế giới.",
"Giáo dục.",
"Giáo dục tại Pakistan được chia thành năm cấp: tiểu học (lớp một tới lớp năm); trung học (lớp sáu đến lớp tám); cao (lớp chín và mười và được cấp Bằng cấp hai); trung gian (lớp mười một và mười hai, được cấp Chứng nhận giáo dục cấp hai hạng cao); và các chương trình đại học với các bằng cấp tốt nghiệp và sau đại học.",
"Pakistan cũng có một hệ thống giáo dục cấp hai song song tại các trường tư, dựa trên bộ chương trình và do Cambridge International Examinations quản lý, thay cho các kỳ thi của chính phủ. Một số học sinh lựa chọn thực hiện các kỳ kiểm tra O level và A level qua Hội đồng Anh.",
"Hiện có 730 trường kỹ thuật và dạy nghề ở Pakistan. Những yêu cầu tối thiểu để vào trường dạy nghề của nam là hoàn thành lớp 8. Các chương trình nói chung kéo dài hai hay ba năm. Các yêu cầu tối thiểu để vào các trường dạy nghề của nữ là hoàn thành lớp 5.",
"Tất cả các cơ sở giáo dục hàn lâm thuộc trách nhiệm của các chính quyền tỉnh. Chính phủ Liên bang chủ yếu hỗ trợ phát triển chương trình giảng dạy, cấp bằng công nhận và một số trợ giúp tài chính cho nghiên cứu.",
"Giáo dục tiếng Anh trung học được mở rộng, dựa trên cơ sở các giai đoạn, với mọi trường học trên cả nước. Thông qua nhiều cuộc cải cách giáo dục, tới năm 2015, bộ giáo dục dự kiến đạt mức đăng ký theo học 100% với các trẻ em trong độ tuổi, và tỷ lệ biết chữ đạt 86% ở người trên 10 tuổi.",
"Pakistan cũng có các madrassah cung cấp giáo dục miễn phí và cũng cung cấp các chương trình học cùng nơi ở miễn phí cho các học sinh thuộc tầng lớp nghèo nhất xã hội. Sau những chỉ trích về việc những kẻ khủng bố sử dụng những trường này cho mục đích tuyển mộ chiến binh, những nỗ lực đã được đưa ra nhằm quản lý các trường đó.",
"Xã hội và văn hoá.",
"Xã hội Pakistan phần lớn theo chế độ thứ bậc, với sự tôn trọng lớn dành cho các giá trị truyền thống Hồi giáo, dù các gia đình thành thị đã phát triển thành một hệ thống gia đình hạt nhân bởi những đè nén kinh tế xã hội đã bị áp đặt bởi hệ thống gia đình chung truyền thống. Những thập kỷ gần đây đã chứng kiến sự xuất hiện của một tầng lớp trung lưu tại các thành phố như Karachi, Lahore, Rawalpindi, Hyderabad, Faisalabad, Multan và Peshawar những người muốn theo một khuynh hướng ôn hoà hơn, lập trường bị các khu vực phía tây bắc giáp giới với Afghanistan chủ yếu vẫn rất bảo thủ và vẫn tuân theo các truyền thống bộ tộc từ hàng thế kỷ phản đối. Sự gia tăng toàn cầu hoá khiến nước này được xếp hạng 46 theo Chỉ số Toàn cầu hoá A.T. Kearney/FP.",
"Sự đa dạng của âm nhạc Pakistan từ các loại âm nhạc dân gian của các tỉnh tới các thể loại âm nhạc truyền thống như Qawwali và Ghazal Gayaki tới các hình thức âm nhạc hiện đại dựa trên âm nhạc truyền thống và phương tây, như sự đồng bộ hoá Qawwali và âm nhạc phương tây bởi nhà soạn nhạc nổi tiếng thế giới Nusrat Fateh Ali Khan. Ngoài ra Pakistan cũng là quê hương của nhiều ca sĩ nhạc dân gian nổi tiếng như Alam Lohar, người cũng nổi tiếng ở Punjab Ấn Độ. Tuy nhiên, đa số người dân Pakistan nghe âm nhạc Ấn Độ do Bollywood sản xuất và của ngành công nghiệp điện ảnh Ấn Độ. Sự xuất hiện của những người tị nạn Afghanistan ở các tỉnh phía tây đã nhen lại âm nhạc Pashto và Ba Tư và biến Peshawar thành một cổng chính cho các nhạc sĩ Afghanistan và là một trung tâm phân phối của âm nhạc Afghanistan ra nước ngoài.",
"Tập đoàn Truyền hình Pakistan (PTV) và Tập đoàn Truyền phát Pakistan thuộc sở hữu nhà nước là các cơ quan truyền thông có vai trò chi phối, nhưng hiện có nhiều kênh truyền hình tư nhân. Đại đa số người dân Pakistan được tiếp cận nhiều kênh truyền hình và các bộ phim Mỹ, châu Âu và châu Á thông qua các mạng lưới truyền hình tư nhân, truyền hình cáp, và truyền hình vệ tinh. Cũng có một ngành công nghiệp phim bản xứ nhỏ tại Lahore và Peshawar (thường được gọi là Lollywood). Và tuy các bộ phim Bollywood đã bị cấm trình chiếu tại các rạp chiếu phim công cộng từ năm 1965 chúng vẫn phổ biến trong văn hoá đại chúng.",
"Kiến trúc của các khu vực hiện tạo thành Pakistan có thể chia thành bốn giai đoạn riêng biệt —tiền Hồi giáo, Hồi giáo, thuộc địa và hậu thuộc địa. Với sự bắt đầu của văn minh Indus khoảng giữa thiên niên kỷ thứ ba trước Công Nguyên, một nền văn hoá thành thị tiên tiến đã phát triển lần đầu tiên trong vùng, với những cơ sở kiến trúc lớn, một số công trình vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Mohenjo Daro, Harappa và Kot Diji thuộc các khu định cư thời kỳ tiền Hồi giáo. Sự trỗi dậy của Phật giáo và ảnh hưởng Ba Tư và Hy Lạp đã dẫn tới sự phát triển của phong cách Hy Lạp-Phật giáo, bắt đầu từ thế kỷ thứ nhất của Công Nguyên. Đỉnh cao của thời kỷ này diễn ra cùng phong cách Gandhara. Một ví dụ về kiến trúc Phật giáo là các tàn tích của tu viện Phật giáo Takht-i-Bahi ở tỉnh Biên giới Tây Bắc.",
"Sự xuất hiện của Đạo Hồi ở Pakistan hiện nay có nghĩa là một sự chấm dứt đột ngột của kiến trúc Phật giáo. Tuy nhiên, một sự chuyển tiếp nhẹ nhàng sang kiến trúc Hồi giáo không tranh ảnh đã diễn ra. Công trình quan trọng nhất trong một số ít công trình đã hoàn toàn được khám phá thuộc phong cách Ba Tư là lăng mộ của Shah Rukn-i-Alam ở Multan. Trong thời kỳ Mughal các yếu tố thiết kế của kiến trúc Hồi giáo-Ba Tư đã bị pha trộn với các hình thức thường ít nghiêm túc của nghệ thuật Hindustani. Lahore, nơi ở không thường xuyên của các vị vua cai trị Mughal, có nhiều công trình quan trọng từ thời đế chế, trong số đó có thánh đường Hồi giáo Badshahi, Pháo đài Lahore với Cổng Alamgiri nổi tiếng, thánh đường Hồi giáo Wazir Khan nhiều màu sắc, mang nặng ảnh hưởng Ba Tư cũng như nhiều thánh đường và lăng mộ khác.",
"Tương tự Thánh đường Shahjahan ở Thatta của người Sindh từ thời Mughal. Trong thời kỳ thuộc địa Anh, các công trình chủ yếu mang tính chất chức năng thuộc phong cách Ấn-Âu đã phát triển từ một tập hợp các yếu tố châu Âu và Ấn Độ-Hồi giáo. Bản sắc quốc gia hậu thuộc địa được thể hiện trong những công trình hiện đại như Thánh đường Faisal, Minar-e-Pakistan và Mazar-e-Quaid.",
"Văn học Pakistan gồm văn học của các ngôn ngữ đã từng tồn tại ở quốc gia này, gồm Urdu, Sindh, Punjab, Pushto, Baloch cũng như tiếng Anh trong các thời kỳ gần đây và trong quá khứ gồm cả văn học Ba Tư. Trước thế kỷ XIX, văn học chủ yếu gồm yếu tố thơ trữ tình và tôn giáo, thần bí và đại chúng. Trong thời kỳ thuộc địa các nhân vật văn học bản xứ, dưới ảnh hưởng của văn học phương Tây thuộc chủ nghĩa hiện thực, đã ngày càng tiếp cận với các chủ đề và các hình thức diễn tả khác nhau. Ngày nay, truyện ngắn được dân chúng rất ưa chuộng.",
"Nhà thơ quốc gia Pakistan, Allama Muhammad Iqbal, đã đề xuất việc tạo lập một quê hương riêng biệt cho những người Hồi giáo Ấn Độ. Tuy nhiên, Iqbal cũng đã viết Tarana-e-Hind nói nên niềm tin vào một nước Ấn Độ thống nhất và hùng mạnh. Cuốn sách The Reconstruction of Religious Thought in Islam (Tái thiết Tư tưởng Tôn giáo trong Đạo Hồi) của ông là một tác phẩm lớn của triết học Hồi giáo hiện đại. Nhân vật nổi tiếng nhất của văn học Urdu đương đại ở Pakistan là Faiz Ahmed Faiz. Thơ Sufi Shah Abdul Latif, Bulleh Shah và Khawaja Farid cũng rất phổ biến ở Pakistan. Mirza Kalich Beg đã được gọi là người cha của văn xuôi tiếng Sindh hiện đại.",
"Du lịch.",
"Dù không có hình ảnh tốt và thường bị cường điệu ở phương Tây, và từng bị tạp chí \"The Economist\" coi là một trong những địa điểm nguy hiểm nhất thế giới, du lịch vẫn là một ngành công nghiệp đang trên đà phát triển tại Pakistan nhờ sự đa dạng văn hoá, con người và phong cảnh. Sự đa dạng trong thu hút du lịch từ những tàn tích của những nền văn hoá cổ như Mohenjo-daro, Harappa và Taxila, cho tới những địa điểm nghỉ dưỡng ở Himalaya, thu hút những người say mê phong cảnh hoang dã và các môn thể thao mùa đông. Pakistan cũng có nhiều đỉnh núi có độ cao trên , thu hút những nhà thám hiểm và người leo núi từ khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là K2. Từ tháng 4 đến tháng 9, khách du lịch trong nước và quốc tế tới thăm các vùng này khiến du lịch trở thành một nguồn thu nhập cho người dân địa phương. Đa số khách du lịch tới từ các nước châu Á.",
"Tại Balochistan có nhiều hang động cho những khách du lịch và người thám hiểm hang động, đặc biệt là Hang Juniper Shaft, hang Murghagull Gharra, hang Mughall saa, và những hang tự nhiên đẹp đẽ. Pakistan là một quốc gia thành viên Liên minh Hang động học Quốc tế (UIS).",
"Những vùng phía bắc Pakistan là nơi có nhiều pháo đài, tháp và các kiến trúc lịch sử, gồm cả các thung lũng Hunza và Chitral, thung lũng là nơi sinh sống của Kalash, một cộng đồng theo thuyết vật linh nhỏ thời tiền Hồi giáo. Punjab cũng là một địa điểm diễn ra trận đánh của Alexandre trên sông Jhelum. Thành phố Lahore lịch sử được coi là trung tâm văn hoá của Pakistan và có nhiều công trình kiến trúc Mughal như Badshahi Masjid, Vườn Shalimar, Lăng mộ Jahangir và Pháo đài Lahore. Hiệp hội Phát triển Du lịch Pakistan (PTDC) cũng giúp quảng bá du lịch trong nước. Tuy nhiên, du lịch vẫn bị hạn chế bởi sự thiếu hụt cơ sở hạ tầng thích hợp và tình hình an ninh đang kém đi trong nước. Các hoạt chiến sự gần đây của Pakistan tại các địa điểm du lịch, gồm cả Swat và NWFP, đã ảnh hưởng lớn tới ngành công nghiệp du lịch. Những khó khăn khác cũng được quy cho mạng lưới du lịch còn hạn chế, khung quản lý du lịch kém, chính phủ ít ưu tiên cho ngành du lịch, tính hiệu quả thấp trong quảng bá du lịch và một nhận thức thiển cận về du lịch. Hơn nữa Pakistan từng tiếp đón hơn 500,000 du khách trước cuộc giảm phát kinh tế toàn cầu .",
"Thể thao.",
"Môn thể thao chính thức và quốc gia của Pakistan là khúc côn cầu trên cỏ, dù cricket được ưa chuộng hơn. Đội tuyển cricket quốc gia đã một lần giành Cricket World Cup (năm 1992), và một lần về nhì (năm 1999), và nước này hai lần đồng đăng cai tổ chức (năm 1987 và 1996). Pakistan về nhì trong giải ICC World Twenty20 2007 đầu tiên được tổ chức ở Nam Phi và là nhà vô địch ICC World Twenty20 2009 được tổ chức ở Anh. Squash là một môn thể thao nổi bật khác của người Pakistan, với các vận động viên đẳng cấp thế giới như Jahangir Khan và Jansher Khan nhiều lần giành giải World Open trong sự nghiệp của họ.",
"Ở mức độ quốc tế, Pakistan đã nhiều lần tham gia Olympics mùa hè môn hockey trên cỏ, quyền Anh, điền kinh, bơi lội, và bắn súng. Pakistan đã giành được tổng số 10 chiếc huy chương (3 vàng, 3 bạc và 4 đồng) trong khi tại Commonwealth Games và Asian Games họ có 61 và 182 huy chương. Hockey là môn thể thao Pakistan có được nhiều thành công nhất tại các kỳ Olympic, với ba huy chương vàng năm (1960, 1968, và 1984). Pakistan cũng có kỷ lục bốn lần giành Hockey World Cup (1971, 1978, 1982, 1994). Motorsport Association của Pakistan là một thành viên của Fédération Internationale de l'Automobile. Trong các môn thể thao thám hiểm hang động Pakistan là một quốc gia thành viên của UIS (Liên đoàn Hang động học Quốc tế) Freedom Rally là một cuộc đua off-road được tổ chức hàng năm diễn ra trong các dịp kỷ niệm Độc lập. Pakistan cũng đã lần đầu tiên được tham gia Golf World Cup năm 2009."
] |
3726 | 305 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3726 | Tiếng Hi Lạp | [] |
3727 | 161772 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3727 | Đạo Kitô | [] |
3728 | 4874 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3728 | Đạo Thiên Chúa | [] |
3729 | 70608405 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3729 | Mặt Trời | [
"Mặt Trời hay Thái Dương (chữ Hán: 太陽), hay Nhật (chữ Hán: 日), là hằng tinh ở trung tâm Hệ Mặt Trời, chiếm khoảng 99,8% khối lượng của Hệ Mặt Trời. Trái Đất và các thiên thể khác như các hành tinh, tiểu hành tinh, thiên thạch, sao chổi, và bụi quay quanh Mặt Trời. Khoảng cách trung bình giữa Mặt Trời và Trái Đất xấp xỉ 149,6 triệu kilômét (1 Đơn vị thiên văn AU) nên ánh sáng Mặt Trời cần 8 phút 20 giây mới đến được Trái Đất. Trong một năm, khoảng cách này thay đổi từ 147,1 triệu kilômét (0,9833 AU) ở điểm cận nhật (khoảng ngày 3 tháng 1), tới xa nhất là 152,1 triệu kilômét (1,017 AU) ở điểm viễn nhật (khoảng ngày 4 tháng 7). Năng lượng Mặt Trời ở dạng ánh sáng hỗ trợ cho hầu hết sự sống trên Trái Đất thông qua quá trình quang hợp, và điều khiển khí hậu cũng như thời tiết trên Trái Đất. Thành phần của Mặt Trời gồm hydro (khoảng 74% khối lượng, hay 92% thể tích), heli (khoảng 24% khối lượng, 7% thể tích), và một lượng nhỏ các nguyên tố khác, gồm sắt, nickel, oxy, silic, lưu huỳnh, magiê, carbon, neon, calci, và crom. ",
"Mặt Trời có hạng quang phổ G2V. \"G2\" có nghĩa nó có nhiệt độ bề mặt xấp xỉ 5.778 K (5.505 °C) khiến nó có màu trắng, và thường có màu vàng khi nhìn từ bề mặt Trái Đất bởi sự tán xạ khí quyển. Chính sự tán xạ này của ánh sáng ở giới hạn cuối màu xanh của quang phổ khiến bầu trời có màu xanh. Quang phổ Mặt Trời có chứa các vạch ion hoá và kim loại trung tính cũng như các đường hydro rất yếu. \"V\" (số 5 La Mã) trong lớp quang phổ thể hiện rằng Mặt Trời, như hầu hết các ngôi sao khác, là một ngôi sao thuộc dãy chính. Điều này có nghĩa nó tạo ra năng lượng bằng tổng hợp hạt nhân của hạt nhân hydro thành heli. Có hơn 100 triệu ngôi sao lớp G2 trong Ngân Hà của chúng ta. Từng bị coi là một ngôi sao nhỏ và khá tầm thường nhưng thực tế theo hiểu biết hiện tại, Mặt Trời sáng hơn 85% các ngôi sao trong Ngân Hà với đa số là các sao lùn đỏ.",
"Quầng nóng của Mặt Trời liên tục mở rộng trong không gian và tạo ra gió Mặt Trời là các dòng hạt có vận tốc gấp 5 lần âm thanh - mở rộng nhật mãn (\"Heliopause\") tới khoảng cách xấp xỉ 100 AU. Bong bóng trong môi trường liên sao được hình thành bởi gió mặt trời, nhật quyển (\"heliosphere\") là cấu trúc liên tục lớn nhất trong Hệ Mặt Trời.",
"Mặt Trời hiện đang đi xuyên qua đám mây Liên sao Địa phương (\"Local Interstellar Cloud\") trong vùng Bóng Địa phương (\"Local Bubble\") mật độ thấp của khí khuếch tán nhiệt độ cao, ở vành trong của Nhánh Lạp Hộ của Ngân Hà, giữa Nhánh Anh Tiên và Nhánh Cung Thủ của Ngân Hà. Trong 50 hệ sao gần nhất bên trong 17 năm ánh sáng từ Trái Đất, Mặt Trời xếp hạng 4 về khối lượng như một ngôi sao cấp bốn (M = +4,83), dù có một số giá trị cấp hơi khác biệt đã được đưa ra, ví dụ 4,85 và 4,81. Mặt Trời quay quanh trung tâm của Ngân Hà ở khoảng cách xấp xỉ 24.000–26.000 năm ánh sáng từ trung tâm Ngân Hà, nói chung di chuyển theo hướng chòm sao Thiên Nga và hoàn thành một vòng trong khoảng 225–250 triệu năm (một năm ngân hà). Tốc độ trên quỹ đạo của nó được cho khoảng 250 ± 20, km/s nhưng một ước tính mới đưa ra con số 251 km/s.",
"Bởi Ngân Hà của chúng ta đang di chuyển so với Màn bức xạ vi sóng vũ trụ (CMB) theo hướng chòm sao Trường Xà với tốc độ 550 km/s, nên tốc độ chuyển động của nó so với CMB là khoảng 370 km/s theo hướng chòm sao Cự Tước hay Sư Tử.",
"Đặc điểm.",
"Mặt Trời là một ngôi sao thuộc dãy chính màu vàng chiếm khoảng 99,8% tổng khối lượng Hệ Mặt Trời. Nó là một hình cầu gần hoàn hảo, chỉ hơi dẹt khoảng chín phần triệu, có nghĩa đường kính cực của nó khác biệt so với đường kính xích đạo chỉ 10 km (6 dặm), bởi Mặt Trời tồn tại ở dạng trạng thái plasma và không rắn chắc do đó tốc độ quay (vận tốc góc) tại xích đạo nhanh hơn ở hai cực. Điều này được gọi là chuyển động không đồng tốc. Chu kỳ của \"chuyển động thực\" này xấp xỉ 25,6 ngày ở xích đạo và 33,5 ngày ở cực. Tuy nhiên, vì điểm quan sát thuận lợi luôn thay đổi khi Trái Đất quay quanh Mặt Trời nên \"chuyển động biểu kiến\" của ngôi sao này tại xích đạo là khoảng 28 ngày. Hiệu ứng ly tâm của chuyển động chậm này yếu hơn 18 triệu lần so với lực hấp dẫn tại xích đạo Mặt Trời. Hiệu ứng thủy triều của các hành tinh thậm chí còn yếu hơn, và không ảnh hưởng lớn tới hình dạng Mặt Trời.",
"Mặt Trời là một sao nhóm I, nhóm sao có nhiều nguyên tố nặng. Sự hình thành Mặt Trời có thể đã được bắt đầu từ các sóng xung kích từ một hay nhiều siêu tân tinh bên cạnh. Lý thuyết này được đưa ra do sự phong phú của nguyên tố nặng trong Hệ Mặt Trời, như vàng và uranium, khi so sánh với những sao có ít nguyên tố này thì gọi là Sao nhóm II (ít nguyên tố nặng). Các nguyên tố này theo khả năng có thể nhất đã được tạo ra bởi các phản ứng hạt nhân thu năng lượng trong một quá trình hình thành sao siêu mới, hay bởi sự biến đổi thông qua hấp thụ neutron bên trong một ngôi sao lớn thế hệ hai.",
"Cấu trúc của Mặt Trời không có ranh giới cụ thể như những hành tinh đá: ở phần phía ngoài của nó, mật độ các khí giảm gần như theo hàm mũ theo khoảng cách từ tâm. Tuy nhiên, cấu trúc bên trong của nó được xác định rõ ràng, như được miêu tả bên dưới. Bán kính Mặt Trời được đo từ tâm tới cạnh ngoài quang quyển. Đây đơn giản là lớp mà bên trên nó các khí quá lạnh hay quá mỏng để bức xạ một lượng ánh sáng đáng kể, và vì thế là bề mặt dễ quan sát nhất bằng mắt thường.",
"Phía trong Mặt Trời không thể được quan sát trực tiếp và chính Mặt Trời là vật chắn bức xạ điện từ. Tuy nhiên, tương tự như trong địa chất học sử dụng sóng do các trận động đất tạo ra để xác định cấu trúc bên trong của Trái Đất, ngành nhật chấn học (\"helioseismology\") sử dụng các sóng ngoại âm (\"infrasound\") đi xuyên qua phần trong Mặt Trời để đo và hình dung cấu trúc bên trong của ngôi sao. Mô hình máy tính về Mặt Trời cũng sử dụng một công cụ lý thuyết để xác định các lớp bên trong của nó.",
"Lõi mặt trời.",
"Lõi của Mặt Trời được coi là chiếm khoảng 0,2 tới 0,25 bán kính Mặt Trời. Nó có mật độ lên tới 150g/cm³ (150 lần mật độ nước trên Trái Đất) và có nhiệt độ gần 13.600.000 độ K (so với nhiệt độ bề mặt Mặt Trời khoảng 5.800 K). Những phân tích gần đây của phi vụ SOHO cho thấy tốc độ tự quay của lõi cao hơn vùng bức xạ. Trong hầu hết vòng đời của Mặt Trời, năng lượng được tạo ra bởi phản ứng tổng hợp hạt nhân thông qua một loạt bước được gọi là dãy p–p (proton–proton) (\"\") để biến hydro thành heli. Chưa tới 2% heli được tạo ra trong Mặt Trời có từ chu trình CNO (Cacbon-Nitơ-Oxy). Lõi là vùng duy nhất trong Mặt Trời tạo ra một lượng đáng kể nhiệt thông qua phản ứng tổng hợp: phần còn lại của ngôi sao được đốt nóng bởi năng lượng truyền ra ngoài từ lõi. Tất cả năng lượng được tạo ra từ phản ứng tổng hợp hạt nhân trong lõi phải đi qua nhiều lớp để tới quang quyển trước khi đi vào không gian dưới dạng ánh sáng Mặt Trời hay động năng của các hạt.",
"Tốc độ phản ứng tổng hợp hạt nhân phụ thuộc nhiều vào mật độ và nhiệt độ, vì tốc độ phản ứng tổng hợp hạt nhân diễn ra ở lõi trong trạng thái cân bằng tự điều chỉnh: nếu tốc độ phản ứng hơi lớn hơn sẽ khiến lõi nóng lên nhiều và hơi mở rộng chống lại trọng lượng của các lớp bên ngoài, làm giảm tốc độ phản ứng và điều chỉnh sự nhiễu loạn; và nếu tốc độ hơi nhỏ hơn sẽ khiến lõi lạnh đi và hơi co lại, làm tăng tốc độ phản ứng và một lần nữa lại đưa nó về mức cũ. Các photon (tia gamma) nhiều năng lượng phát ra trong các phản ứng tổng hợp hạt nhân bị hấp thụ trong một plasma mặt trời chỉ vài millimét, và sau đó tái phát xạ theo hướng ngẫu nhiên (và ở mức năng lượng khá thấp)—vì thế cần một thời gian dài các bức xạ mới lên tới bề mặt Mặt Trời. Những ước tính về \"thời gian di chuyển của photon\" trong khoảng từ 10.000 tới 170.000 năm.",
"Sau chuyến du hành cuối cùng qua lớp đối lưu bên ngoài để tới \"bề mặt\" trong suốt của quang quyển, các photon thoát ra như ánh sáng khả kiến. Mỗi tia gamma trong lõi Mặt Trời được chuyển thành hàng triệu photon ánh sáng nhìn thấy được trước khi đi vào không gian. Các neutrino cũng được phát sinh từ các phản ứng tổng hợp hạt nhân trong lõi, nhưng không giống như photon, chúng hiếm khi tương tác với vật chất, vì thế hầu như toàn bộ chúng thoát khỏi Mặt Trời ngay lập tức. Trong nhiều năm những đo đạc về số lượng neutrino do Mặt Trời tạo ra cho kết quả thấp hơn các dự đoán lý thuyết khoảng 3 lần. Sự không nhất quán này gần đây đã được giải quyết thông qua sự khám phá các hiệu ứng dao động neutrino. Vì trên thực tế Mặt Trời toả ra số lượng neutrino như các lý thuyết dự đoán, nhưng các máy dò tìm neutrino để lọt mất 2/3 trong số chúng bởi vì các neutrino đã thay đổi hương.",
"Vùng bức xạ.",
"Trong vùng từ 0,25 tới khoảng 0,7 bán kính Mặt Trời, vật liệu Mặt Trời đủ nóng và đặc đủ để bức xạ nhiệt chuyển được nhiệt độ từ trong lõi ra ngoài. Trong vùng này không có đối lưu nhiệt; tuy các vật liệu lạnh đi khi độ cao tăng lên (từ 7.000.000 °C tới khoảng 2.000.000 °C) làm gradient nhiệt độ này nhỏ hơn giá trị tỷ lệ khoảng đoạn nhiệt (adiabatic lapse rate) và vì thế không thể gây ra sự đối lưu. Nhiệt được truyền bởi sự bức xạ—ion của hydro và heli phát ra các photon, nó chỉ di chuyển một khoảng cách ngắn trước khi bị tái hấp thụ bởi các ion khác. Các photon thực tế bật lên rất nhiều lần xuyên qua vật chất đặc này tới mức một photon riêng lẻ mất khoảng một triệu năm để tới được lớp bề mặt, và vì thế, năng lượng chuyển ra ngoài rất chậm. Mật độ giảm sút hàng trăm lần (từ 20 g/cm³ xuống chỉ 0,2 g/cm³) từ đáy lên đỉnh vùng bức xạ.",
"Giữa vùng bức xạ và vùng đối lưu là một lớp chuyển tiếp được gọi là tachocline. Đây là vùng nơi có sự thay đổi mạnh giữa chuyển động xoay đồng tốc của vùng bức xạ và chuyển động chênh lệch của vùng đối lưu dẫn tới một sự trượt mạnh—một điều kiện nơi các lớp ngang giáp nhau trượt trên nhau. Các dạng chuyển động giống chất lỏng trong vùng đối lưu bên trên, dần biến mất từ đỉnh của lớp này xuống đáy của nó, phù hợp với các đặc điểm yên tĩnh của vùng bức xạ trên đáy. Hiện tại, có giả thuyết cho rằng một nguồn phát điện từ bên trong lớp này tạo ra từ trường của Mặt Trời.",
"Vùng đối lưu.",
"Trong lớp ngoài của Mặt Trời, từ bề mặt nó xuống xấp xỉ 200.000 km (hay 70% bán kính Mặt Trời), plasma Mặt Trời không đủ đặc hay đủ nóng để chuyển năng lượng nhiệt từ bên trong ra ngoài bằng bức xạ. Vì thế, đối lưu nhiệt diễn ra khi các cột nhiệt mang vật liệu nóng ra bề mặt (quyển sáng) của Mặt Trời. Khi vật liệu lạnh đi ở bề mặt, nó đi xuống dưới đáy vùng đối lưu, để nhận thêm nhiệt từ đỉnh vùng bức xạ. Ở bề mặt nhìn thấy được của Mặt Trời, nhiệt độ đã giảm xuống 5.700 K và mật độ chỉ còn 0,2 g/m³ (khoảng 1/10.000 mật độ không khí ở mực nước biển).",
"Các cột nhiệt trong vùng đối lưu tạo nên một dấu vết trên Mặt Trời, dưới hình thức hạt mặt trời (solar granulation) và siêu hột. Sự hỗn loạn đối lưu của bộ phận phía ngoài này của phần bên trong lòng Mặt Trời hình thành một máy phát điện \"tỷ lệ nhỏ\" xuất hiện tạo ra từ trường bắc và nam cực trên toàn bộ bề mặt Mặt Trời. Các cột nhiệt của Mặt Trời là các pin Bénard và vì thế thường có hình lăng trụ năm cạnh.",
"Quang quyển.",
"Bề mặt nhìn thấy được của Mặt Trời hay quang quyển là lớp mà ở bên dưới nó, Mặt Trời trở nên mờ đục với ánh sáng nhìn thấy được. Trên quang quyển ánh sáng khả kiến của Mặt Trời tự do đi vào không gian, và năng lượng của nó thoát hoàn toàn khỏi Mặt Trời. Sự thay đổi trong độ mờ đục xảy ra vì sự giảm số lượng ion H−, mà chúng dễ dàng hấp thụ ánh sáng. Trái lại, ánh sáng khả kiến mà chúng ta nhìn thấy được tạo ra khi các electron phản ứng với các nguyên tử hydro để tạo ra các ion H−.",
"Quang quyển thực tế dày từ hàng chục tới hàng trăm kilômét, mờ hơn chút ít so với không khí trên Trái Đất. Bởi vì phần phía trên của quang quyển lạnh hơn phần phía dưới, hình ảnh Mặt Trời hiện lên sáng hơn ở trung tâm so với ở cạnh hay \"rìa\" của đĩa Mặt Trời, trong một hiện tượng được gọi là rìa tối (\"limb darkening\"). Ánh sáng Mặt Trời có phổ gần giống với quang phổ vật đen cho thấy một nhiệt độ khoảng 6.000 K (các vùng sâu có nhiệt độ tới 6.400 K trong khi những vùng nông hơn là 4.400 K), rải rác với các vạch hấp thụ nguyên tử từ các lớp loãng trên quang quyển. Quang quyển có mật độ hạt ~1023/m³ (khoảng 1% mật độ hạt của khí quyển Trái Đất ở mực nước biển).",
"Những nghiên cứu ban đầu về phổ quang học của quang quyển, một số vạch hấp thụ được tìm ra không tương ứng với bất kỳ một nguyên tố hoá học nào từng biết trên Trái Đất khi ấy. Năm 1868, Norman Lockyer đưa ra giả thuyết rằng các vạch hấp thụ đó là bởi một nguyên tố mới mà ông gọi là \"heli\", theo tên thần Mặt Trời Hy Lạp Helios. Mãi 25 năm sau, heli mới được phân lập trên Trái Đất.",
"Khí quyển.",
"Các phần bên trên quang quyển của Mặt Trời được gọi chung là \"khí quyển Mặt Trời\". Chúng có thể được quan sát bằng kính viễn vọng trên toàn bộ dãy phổ điện từ, từ sóng radio qua ánh sáng nhìn thấy được tới tia gamma, và gồm năm vùng chính: \"nhiệt độ tối thiểu\", sắc quyển, vùng chuyển tiếp, vành nhật hoa, và nhật quyển. ",
"Nhật quyển, có thể được coi là khí quyển liên tục phía ngoài của Mặt Trời, mở rộng ra bên ngoài vượt quá cả quỹ đạo Sao Diêm Vương tới nhật mãn (\"heliopause\"), nơi nó hình thành một biên giới đường chấn động rõ rệt với không gian liên sao. Sắc quyển, vùng chuyển tiếp và vành nhật hoa nóng hơn nhiều so với bề mặt Mặt Trời. Lý do giải thích việc này vẫn chưa rõ ràng, bằng chứng cho thấy rằng các sóng Alfvén có thể có đủ năng lượng để làm nóng vành nhật hoa.",
"Hàn quyển.",
"Lớp lạnh nhất của Mặt Trời là vùng nhiệt độ tối thiểu nằm cách khoảng 500 km bên trên quanq quyển, với nhiệt độ cỡ 4.100 K. Phần này của Mặt Trời đủ lạnh để tồn tại các phân tử như carbon monoxit và nước, có thể được phát hiện bởi quang phổ hấp thụ của chúng.",
"Sắc quyển (chromosphere).",
"Bên trên lớp nhiệt độ tối thiểu là một lớp dày khoảng 2.000 km, chủ yếu là quang phổ của các vạch hấp thụ và phát xạ. Nó được gọi là \"sắc quyển\" bắt nguồn từ từ \"chroma\" của Hy Lạp, có nghĩa màu sắc, bởi sắc quyển nhìn thấy được như một ánh sáng có màu ở đầu và cuối của các lần nhật thực toàn phần. Nhiệt độ của sắc quyển tăng dần cùng với độ cao, lên khoảng 20.000 K ở gần đỉnh. Ở phần phía trên của sắc quyển heli bị ion hoá một phần.",
"Vùng chuyển tiếp.",
"Bên trên sắc quyển có một vùng chuyển tiếp mỏng (khoảng 200 km ) trong đó nhiệt độ tăng nhanh từ khoảng 20.000 K ở thượng tầng sắc quyển lên tới nhiệt độ gần một triệu K tại miện. Nhiệt độ gia tăng dễ dàng bởi sự ion hoá toàn bộ heli trong vùng chuyển tiếp, làm giảm mạnh sự bức xạ làm nguội của plasma. Vùng chuyển tiếp không xảy ra ở một độ cao được xác định chính xác. Thực vậy, nó hình thành một kiểu quầng với các đặc tính kiểu sắc quyển như gai và sợi, và luôn chuyển động hỗn loạn. Vùng chuyển tiếp không dễ được quan sát thấy từ bề mặt Trái Đất, mà thực tế chỉ có thể được quan sát thấy từ vũ trụ bằng các dụng cụ nhạy cảm với thành phần tử ngoại của quang phổ.",
"Vành nhật hoa.",
"Vành nhật hoa kéo dài ra lớp khí quyển bên ngoài của Mặt Trời, nó có thể tích lớn hơn cả Mặt Trời. Vành nhật hoa liên tục mở rộng vào vũ trụ hình thành nên gió Mặt Trời, lấp đầy toàn bộ Hệ Mặt Trời. Vành nhật hoa hạ, rất gần bề mặt Mặt Trời, có mật độ phân tử khoảng 1015–1016/m³. Nhiệt độ trung bình của vành nhật hoa và gió Mặt Trời khoảng 1–2 triệu kelvin, tuy nhiên, trong những vùng nóng nhất nó khoảng 8–20 triệu kelvin. Tuy chưa tồn tại 1 lý thuyết đầy đủ để tính nhiệt độ vành nhật hoa, ít nhất một số lượng nhiệt của nó được biết có từ sự tái liên thông từ trường.",
"Nhật quyển.",
"Nhật quyển là khoảng trống xung quanh Mặt Trời, được lấp đầy bằng gió plasma Mặt Trời và kéo dài xấp xỉ khoảng 20 lần bán kính Mặt Trời (0,1 AU) ra các mép phía ngoài của Hệ Mặt Trời. Biên giới phía trong của nó được xác định là lớp mà tại đó luồng gió Mặt Trời trở thành \"siêu Alfvén\" — có nghĩa là nơi tốc độ luồng gió mặt trời trở nên nhanh hơn tốc độ của sóng Alfvén. Sự nhiễu loạn và các lực động lực học bên ngoài biên giới này không thể ảnh hưởng tới hình dạng của quầng Mặt Trời bên trong, bởi thông tin chỉ có thể di chuyển với tốc độ của các sóng Alfvén. Gió Mặt Trời đi ra bên ngoài liên tục xuyên qua nhật quyển, hình thành nên trường điện từ Mặt Trời trong hình dạng xoắn ốc Parker, cho tới khi nó va chạm với nhật mãn với khoảng cách hơn 50 AU từ Mặt Trời. Tháng 12 năm 2004, tàu vũ trụ Voyager 1 đã vượt qua một dải chấn được cho là một phần của nhật mãn. Cả hai tàu Voyager đều ghi nhận mức độ hạt năng lượng cao khi chúng tiếp cận biên giới.",
"Từ trường.",
"Mặt Trời là một sao có hoạt động của từ trường. Nó có từ trường biến đổi mạnh mẽ hàng năm và đổi hướng sau mỗi 11 năm. Từ trường của Mặt Trời tăng lên gây ra một số hiệu ứng gọi chung là hoạt động của Mặt Trời bao gồm vết đen trên bề mặt của Mặt Trời, vết sáng Mặt Trời, và các bức xạ trong gió Mặt Trời, chúng mang vật chất vào trong hệ Mặt Trời. Các ảnh hưởng của hoạt động bức xạ này lên Trái Đất như cực quang ở các vĩ độ trung bình đến cao, và sự gián đoạn việc truyền sóng radio và điện năng. Hoạt động của Mặt Trời được cho là có vai trò quan rất lớn trong sự hình thành và tiến hóa của hệ Mặt Trời và làm thay đổi cấu trúc tầng điện ly của Trái Đất.",
"Tất cả vật chất trong Mặt Trời đều ở thể khí và plasma do có nhiệt độ cao. Điều này có thể làm cho vận tốc quay ở vùng xích đạo (khoảng 25 ngày) nhanh hơn ở các vùng có vĩ độ cao hơn (khoảng 35 ngày ở gần các cực). Vận tốc quay khác nhau ở các vĩ độ của Mặt Trời tạo ra các đường sức từ xoắn vào nhau theo thời gian, tạo ra các vòng hoa từ tường phun ra từ bề mặt của Mặt Trời và tạo ra các vết đen Mặt Trời và các tai lửa Mặt Trời (xem sự nối lại từ trường). Sự xoắn vào nhau này làm tăng quá trình phát sinh từ trường của Mặt Trời và gây ra sự đảo từ của Mặt Trời theo chu kỳ 11 năm.",
"Từ trường của Mặt Trời mở rộng ra ngoài ranh giới của nó. Plasma trong gió Mặt Trời bị từ hóa mang từ trường của Mặt Trời vào không gian tạo ra từ trường giữa các hành tinh. Vì plasma chỉ có thể chuyển động trên các đường sức từ, từ trường giữa các hành tinh được mở rộng xuyên tâm từ Mặt Trời ra ngoài không gian. Do trường từ ở trên và dưới xích đạo khác nhau về cực hướng vào và hướng ra khỏi Mặt Trời, nên tồn tại một lớp dòng điện mỏng trên mặt phẳng xích đạo được gọi là dải dòng điện nhật quyển (heliospheric current sheet). Ở khoảng cách lớn, sự quay của Mặt Trời xoắn từ trường và dải dòng này thành cấu trúc giống xoắn ốc Archimedes gọi là xoắn ốc Parker. Từ trường giữa các hành tinh mạnh hơn từ trường ở hai cực của Mặt Trời. Từ trường ở hai cực của Mặt Trời 50–400 μT (trong Quang quyển) giảm theo hàm mũ bậc ba của khoảng cách và đạt 0,1 nT ở Trái Đất. Tuy nhiên, theo các thăm dò từ tàu không gian cho thấy từ trường giữa các hành tinh ở vị trí của Trái Đất cao hơn khoảng 100 lần so với con số trên, vào khoảng 5 nT.",
"Thành phần hóa học.",
"Mặt Trời được cấu tạo chủ yếu bởi các nguyên tố hydro và heli, các nguyên tố này chiếm tương ứng 74,9% và 23,8% khối lượng của Mặt Trời trong quang quyển. Các nguyên tố nặng hơn được gọi là \"kim loại\" trong thiên văn học, chiếm ít hơn 2% khối lượng Mặt Trời. Trong đó phổ biến nhất là oxy (chiếm gần 1% khối lượng Mặt Trời), cacbon (0,3%), neon (0,2%), và sắt (0,2%).",
"Thành phần hóa học của Mặt Trời thừa hưởng các nguyên tố từ vật chất giữa các sao khi nó hình thành: hydro và heli trong Mặt Trời được tạo ra từ tổng hợp hạt nhân Big Bang. Các kim loại này được tạo ra bởi tổng hợp hạt nhân sao khi kết thúc quá trình tiến hóa sao và trả các vật liệu của chúng về khoảng không giữa các sao trước khi Mặt Trời hình thành. Thành phần hóa học của quang quyển thường được xem là đại diện cho các thành phần của hệ Mặt Trời nguyên thủy. Tuy nhiên, khi Mặt Trời hình thành, heli và các nguyên tố nặng tích tụ trong quang quyển. Do đó, quang quyển ngày nay chứa ít heli và chỉ có khoảng 84% các nguyên tố nặng so với sao tổ tiên; sao tổ tiên có 71,1% hydro, 27,4% heli, và 1,5% kim loại.",
"Bên trong Mặt Trời, các phản ứng tổng hợp hạt nhân làm biến đổi thành phần của nó do hydro biến thành heli trong phản ứng nhiệt hạch, vì vậy phần trong cùng nhất của Mặt Trời hiện tại chỉ có khoảng 60% heli, còn hàm lượng kim loại phổ biến thì không đổi. Do phần bên trong Mặt Trời có hoạt động phóng xạ, chứ không phải đối lưu (xem cấu trúc ở trên), nên không có sản phẩm tổng hợp hạt nhân nào từ lõi đi vào quang quyển.",
"Các nguyên tố nặng phổ biến trong Mặt Trời mô tả bên trên được đo đạc đồng thời bằng quang phổ trong quang quyển và bằng các vật chất trong thiên thạch không bị nung chảy. Các thiên thạch này được cho là có chứa thành phần của ngôi sao tiền Mặt Trời và không bị ảnh hưởng bởi sự tích tụ các nguyên tố nặng. Đó là hai cách đo đạc được nhiều người đồng ý nhất.",
"Các nguyên tố nhóm sắt bị ion hóa.",
"Trong thập niên 1970, nhiều nghiên cứu tập trung vào sự phong phú của các nguyên tố nhóm sắt trong Mặt Trời. Mặc dù các nghiên cứu này mang lại nhiều ý nghĩa, nhưng việc xác định sự phong phú của các nguyên tố nhóm sắt (như coban và mangan) vẫn còn là khó khăn vào thời điểm đó do các cấu trúc siêu mịn của chúng.",
"Một bộ hoàn chỉnh về độ mạnh dao động đầu tiên của các nguyên tố nhóm sắt bị ion hóa riêng lẻ được thực hiện thành công vào thập niên 1960, và được nâng cấp vào năm 1976. Năm 1978, sự phong phú về các nguyên tố thuộc nhóm sắt bị ion hóa đã được nhận dạng.",
"Quan hệ sự phân tầng khối lượng giữa hành tinh và Mặt Trời.",
"Nhiều tác giả khác nhau đề cập đến sự tồn tại của mối quan hệ phân tầng khối lượng giữa các thành phần đồng vị của Mặt Trời và khí trơ trên các hành tinh, ví dụ như sự tương quan giữa thành phần đồng vị của hành tinh và Mặt Trời là Ne và Xe. Tuy nhiên, người ta tin rằng toàn bộ Mặt Trời có cùng thành phần như nhau trong khi bầu khí quyển của Mặt Trời vẫn trải rộng và ít nhất là đến năm 1983. Năm 1983, người ta cho rằng có sự phân tầng trên Mặt Trời, chính vì vậy đã tạo ra mối quan hệ phân tầng giữa các thành phần đồng vị của hành tinh và gió Mặt Trời là các khí hiếm.",
"Các chu kỳ trên Mặt Trời.",
"Các vết đen Mặt Trời.",
"Khi quan sát Mặt Trời bằng các bộ lọc thích hợp, các đặc điểm dễ nhận ra ngay đó là các vết đen Mặt Trời, chúng là các khu vực bề mặt được xác định rõ ràng bởi vì chúng tối hơn các khu vực xung quanh do nhiệt độ của chúng thấp hơn. Các vết đen này là những vùng có hoạt động từ trường mạnh, ở đây sự đối lưu được điều khiển bởi các trường từ mạnh, nhằm giải phóng năng lượng từ bên trong Mặt Trời lên bề mặt của nó. Trường từ làm nóng phần lõi, tạo thành các vùng hoạt động đây chính là nguồn gây ra vết lóa Mặt Trời (solar flare) và phóng thích vật chất vành nhật hoa (CME). Các vết đen lớn nhất có thể vươn xa hàng chục ngàn km.",
"Số lượng các vết đen có thể thấy được trên Mặt Trời thì không cố định, nhưng chúng thay đổi theo chù kỳ 11 năm hay còn gọi là chu kỳ Mặt Trời. Trong điều kiện bình thường, chỉ có vài vết đen có thể quan sát được, và hiếm khi quan sát được hết tất cả. Một số xuất hiện ở các vĩ độ lớn hơn. Khi diễn ra chu kỳ Mặt Trời, số lượng các vết đen tăng và chúng di chuyển gần hơn về phía xích đạo của Mặt Trời, hiện tượng này được miêu tả trong quy luật Spörer. Các vết đen luôn tồn tại thành cặp có cực từ đối nhau. Cực từ của vết đen xen kẽ mỗi chu kỳ Mặt Trời, vì thế nó sẽ là cực bắc từ trong một chu kỳ và sẽ là cực nam trong chu kỳ tiếp theo.",
"Chu kỳ Mặt Trời có ảnh hưởng lớn đến thời tiết không gian, và cũng như khí hậu trên Trái Đất do độ sáng có mối quan hệ trực tiếp với hoạt động từ trường. Cực tiểu hoạt động của Mặt Trời có xu hướng tương quan với nhiệt độ lạnh hơn, và lâu hơn so với các chu kỳ mặt trời trung bình có xu hướng tương quan đến nhiệt độ nóng hơn. Trong thế kỷ XVII, chu kỳ mặt trời dường như đã ngưng hoàn toàn trong vài thập kỷ; có rất ít vết đen được quan sát trong giai đoạn này. Cũng trong giai đoạn này, hay còn gọi là cực tiểu Maunder hay thời kỳ băng hà nhỏ, châu Âu đã trải qua thời kỳ nhiệt độ rất lạnh. Hoạt động cực tiểu vào thời kỳ trước đây được phát hiện thông qua việc phân tích vòng sinh trưởng của cây đã sinh sống vào thời gian nhiệt độ toàn cầu thấp hơn nhiệt độ trung bình.",
"Chu kỳ dài.",
"Một giả thuyết gần đây nêu rằng từ trường không ổn định trong lõi của Mặt Trời tạo ra sự dao động với chu kỳ 41.000 hoặc 100.000 năm. Điều này có thể cung cấp các dữ kiện để giải thích về thời kỳ băng hà hơn là chu kỳ Milankovitch.",
"Vị trí và chuyển động trong dải Ngân Hà.",
"Sự chuyển động của Mặt Trời liên quan đến khối tâm của Hệ Mặt Trời trở nên phức tạp do các nhiễu loạn từ các hành tinh. Cứ mỗi vài trăm năm chuyển động này lại thay đổi giữa cùng hướng và ngược hướng với các thiên thể khác.",
"Mặt Trời nằm gần rìa trong của Nhánh Lạp Hộ của Ngân Hà, trong Đám mây liên sao Địa phương hoặc Vành đai Gould, với khoảng cách giả thuyết 7,5–8,5 kpc (25.000–28.000 năm ánh sáng) tính từ trung tâm Ngân Hà,",
"nằm bên trong Bong bóng địa phương, một không gian khí nóng loãng, có thể được tạo ra từ phần còn sót lại của siêu tân tinh, Geminga, một nguồn phát xạ tia gamma sáng chói. Khoảng cách giữa nhánh địa phương và nhánh gần đó là nhánh Anh Tiên vào khoảng 6.500 năm ánh sáng.",
"Điểm apec của đường đi của Mặt Trời là hướng mà mặt trời đi qua không gian của thiên hà. Hướng chung của chuyển động của Mặt Trời thẳng về sao Vega gần chòm sao Vũ Tiên, với góc gần 60 độ khối (\"sky degree\") so với hướng của tâm Ngân Hà. Nếu một người nào đó quan sát Mặt Trời từ Alpha Centauri, hệ sao gần nhất, Mặt Trời sẽ xuất hiện trong chòm sao Thiên Hậu.",
"Quỹ đạo của Mặt Trời xung quanh Ngân Hà được cho là dạng elip có một chút nhiễu do các nhánh xoắn ốc và sự phân bố khối lượng không đồng nhất của thiên hà. Thêm vào đó, Mặt Trời dao động lên và xuống so với mặt phẳng thiên hà khoảng 2,7 lần trong một quỹ đạo. Đều này tương tự với một dao động điều hòa đơn giản không có lực kéo nào. Đã từng có tranh luận rằng sự chuyển động của Mặt Trời xuyên qua các nhánh xoắn ốc mật độ cao hơn đôi khi bằng với các sự kiện tuyệt chủng lớn trên Trái Đất, có lẽ là do làm tăng các sự kiện va chạm (\"impact event\"). Hệ Mặt Trời mất khoảng 225–250 triệu năm để hoàn thiện một vòng quỹ đạo của nó trong Ngân Hà (hay \"một năm ngân hà\"), vì vậy, tổng số vòng quay của Mặt Trời quanh Ngân Hà là khoảng 20–25 trong cuộc đời đã qua của nó. Vận tốc quỹ đạo của Hệ Mặt Trời so với tâm của Ngân Hà vào khoảng 251 km/s. Với vận tốc này, mất khoảng 1.400 năm để Hệ Mặt Trời đi được một khoảng cách của 1 năm ánh sáng, hay 8 ngày để đi được 1 AU.",
"Các vấn đề về các học thuyết.",
"Neutrino Mặt Trời.",
"Trong một vài năm số lượng neutrino electron Mặt Trời được phát hiện trên Trái Đất từ 1⁄3 đến 1⁄2 so với số lượng dự đoán bằng Mô hình chuẩn của Mặt Trời. Kết quả bất thường này được đặt tên là vấn đề neutrino Mặt Trời. Các giả thuyết đưa ra để giải quyết vấn đề này hoặc là sự giảm nhiệt độ bên trong Mặt Trời làm cho dòng neutrino thấp hơn, hoặc là khẳng định rằng các neutrino electron có thể dao động liên quan đến các neutrino tau và neutrino muon, mà hai loại này không thể nhận biết được khi chúng chuyển động giữa Mặt Trời và Trái Đất. Một vài quan sát về neutrino đã bắt đầu thực hiện trong thập niên 1980 để đo dòng neutrino Mặt Trời với độ chính xác có thể, bao gồm Đài quan sát Neutrino Sudbury và Kamiokande. Các kết quả cho thấy các neutrino có khối lượng tĩnh rất nhỏ và thực tế là có sự dao động. Ngoài ra, vào năm 2001 dự án \"Đài quan sát Neutrino Sudbury\" đã có thể nhận dạng ba loại neutrino một cách trực tiếp, và thấy rằng tốc độ phát xạ tổng số các neutrino của Mặt Trời phù hợp với \"Mô hình chuẩn Mặt Trời\", mặc dù nó phụ thuộc vào năng lượng neutrino làm cho có 1/3 neutrino được phát hiện trên Trái Đất là loại neutrino electron. Tỷ lệ này phù hợp với dự đoán theo hiệu ứng Mikheyev-Smirnov-Wolfenstein (hay còn gọi là hiệu ứng vật chất). Hiệu ứng này miêu tả sự dao động của vật chất, và nó được xem là một lời giải cho vấn đề này.",
"Nhiệt độ vành nhật hoa.",
"Nhiệt độ bề mặt Mặt Trời (quang quyển) vào khoảng 6.000 K. Bên trên nó là vành nhật hoa, nhiệt độ lên đến 1 - 2 triệu K. Nhiệt độ của vành nhật hoa cao cho thấy rằng nó đã bị nung nóng bởi một cơ chế nào đó khác với sự đối lưu nhiệt trực tiếp từ quang quyển.",
"Người ta cho rằng năng lượng cần thiết để làm nóng vành nhật hoa được cung cấp bởi sự chuyển động hỗn loạn trong đới đối lưu nằm dưới quang quyển, và có hai cơ chế chính đã được đề xuất để giải thích về nhiệt độ cao của vành nhật hoa. ",
"Hiện tại, chưa có câu trả lời rõ ràng rằng có phải các sóng ảnh hưởng đến cơ chế nung nóng này hay không. Tất cả các sóng trừ sóng Alfvén đã được phát hiện là tán xạ hoặc phản xạ trước khi chúng chạm đến vành nhật hoa. Thêm vào đó, các sóng Alfvén không dễ dàng tán xạ vào vành nhật hoa. Các nghiên cứu hiện tại tập trung theo hướng cơ chế nung nóng bởi các vết sáng mặt trời.",
"Sao trẻ.",
"Các mô hình lý thuyết về sự phát triển của Mặt Trời cho rằng cách đây khoảng 3,8 đến 2,5 tỉ năm, vào liên đại Thái Cổ, Mặt Trời chỉ sáng bằng khoảng 75% so với hiện nay. Như một ngôi sao yếu nó không thể duy trì lượng nước ổn định trên bề Mặt Trái Đất, và sự sống đã có thể không phát triển. Tuy nhiên, các chứng cứ địa chất chứng minh rằng Trái Đất đã trải qua ở chế độ nhiệt độ tương đối ổn định trong suốt thời kỳ lịch sử của nó, và rằng Trái Đất trẻ vào thời điểm nào đó trong quá khứ đã ấm hơn hiện nay. Các cuộc tranh luận giữa các nhà khoa học rằng khí quyển của Trái Đất trẻ chứa nhiều khí nhà kính (như carbon dioxide, metan và amonia) hơn hiện tại, các khí này giữ nhiệt đủ để làm cân bằng nhiệt độ Trái Đất từ một lượng nhỏ năng lượng mặt trời đi đến Trái Đất.",
"Các dị thường hiện tại.",
"Mặt Trời hiện tại đang thể hiện những bất thường theo nhiều cách. ",
"Thám hiểm Mặt Trời.",
"Những hiểu biết trước đây.",
"Hiểu biết cơ bản nhất của nhân loại về Mặt Trời đó là một đĩa sáng trong bầu trời, khi nó xuất hiện thì gọi là ban ngày, còn khi nó biến mất là ban đêm. Trong các nền văn hóa cổ đại và tiền sử, Mặt Trời được xem là thần Mặt Trời hay các hiện tượng siêu nhiên khác. Thờ cúng Mặt Trời là tâm điểm của các nền văn minh như Inca ở Nam Mỹ và Aztec thuộc México ngày nay. Một số tượng đài cổ được xây dựng với ý tưởng kết hợp với các hiện tượng liên quan đến Mặt Trời; ví dụ, các cự thạch đánh dấu một cách chính xác đông chí hoặc hạ chí (các cự thạch nổi tiếng phân bố ở Nabta Playa, Ai Cập, Mnajdra, Malta và ở Stonehenge, Anh). Vào thời kỳ La Mã, ngày sinh của Mặt Trời là ngày nghỉ để kỉ niệm Sol Invictus chỉ sau đông chí mà ngày nay gọi là Christmas. Dựa theo các sao cố định, Mặt Trời xuất hiện từ Trái Đất xoay một lần mất một năm theo mặt phẳng hoàng đạo xuyên qua mười hai chòm sao, và vì thế các nhà thiên văn học Hy Lạp cho rằng nó là một trong 7 hành tinh (Hy Lạp \"planetes\" nghĩa là \"đi lang thang\"), sau đó nó được đặt tên cho 7 ngày trong tuần trong một số ngôn ngữ.",
"Sư hiểu biết cùng với tiến bộ khoa học.",
"Trước Công nguyên.",
"Vào đầu thiên niên kỷ 1 TCN, các nhà thiên văn học Babylon đã quan sát thấy rằng sự chuyển động của Mặt Trời theo đường hoàng đạo là không đồng nhất, mặc dù họ không biết tại sao như thế; với kiến thức ngày nay thì đó là do Trái Đất chuyển động theo quỹ đạo elip quanh Mặt Trời, khi đó Trái Đất sẽ chuyển động nhanh hơn khi nó ở gần Mặt Trời tại điểm cận nhật và chậm hơn khi nó ở xa điểm viễn nhật.",
"Một trong những người tiên phong nêu ra lời giải thích khoa học về Mặt Trời là nhà triết học Hy Lạp Anaxagoras (500-428 TCN). Ông cho rằng Mặt Trời là quả cầu lửa kim loại khổng lồ, thậm chí lớn hơn Peloponnesus, và không phải là xe ngựa chariot của thần Mặt Trời Helios. Khi giảng về vấn đề dị giáo này, ông đã bị bỏ tù bởi nhà cầm quyền và bị tuyên án tử hình, mặc dù sau đó ông được phóng thích bởi sự can thiệp của Pericles. Sau đó hai thế kỷ, vào thế kỷ III TCN nhà toán học, thi sĩ, thiên văn học Hy Lạp Eratosthenes đã ước tính khoảng cách giữa Trái Đất và Mặt Trời vào khoảng \"400 vạn và 80.0000 thước đo tầm xa (\"stadia\")\", việc giải nghĩa vẫn chưa rõ ràng, nó ám chỉ hoặc 4.080.000 stadia (755.000 km) hoặc 804.000.000 stadia (148 đến 153 triệu km); con số sau là chính xác với sai số vài phần trăm.",
"Công nguyên.",
"Vào thế kỷ I, nhà toán học, thiên văn học xứ Alexandria Ptolemy đã ước tính khoảng cách này gấp 1.210 lần bán kính Trái Đất. Vào thế kỷ VIII, nhà toán học, thiên văn học người Ba Tư Yaqūb ibn Tāriq đã ước tính khoảng cách giữa Trái Đất và Mặt Trời gấp 8.000 lần bán kính Trái Đất, một con số lớn nhất về đơn vị thiên văn cho đến thời điểm đó.",
"Những đóng góp cho thiên văn học của người Ả rập như Albatenius phát hiện rằng hướng độ lệch tâm của Mặt Trời đang thay đổi, và Ibn Yunus quan sát hơn 10.000 vị trí của Mặt Trời trong nhiều năm bằng thiết bị đo độ cao thiên thể. Sự chuyển động của Sao Kim được Avicenna quan sát đầu tiên vào năm 1032 và ông kết luận rằng Sao Kim nằm gần Trái Đất hơn Mặt Trời, còn quan sát đầu tiên về sự chuyển động của Sao Thủy do Ibn Bajjah thực hiện vào thế kỷ XII. Nhà vật lý Ả rập, Alhazen, đã nghiên cứu các đặc điểm của ánh sáng Mặt Trời bằng các thí nghiệm với camera trong buồng tối obscura, được miêu tả trong quyển \"Sách quang học\" (1021), và đã minh họa rằng Mặt Trời là nguồn cung cấp ánh sáng cho Mặt Trăng. Để tạo nên công trình của ông vào thế kỷ XIII, Qutb al-Din al-Shirazi và Theodoric của Freiberg đã đưa ra các giải thích chính xác về hiện tượng cầu vồng, còn Kamāl al-Dīn al-Fārisī đã xác nhận thông qua các thí nghiệm bằng \"camera obscura\" rằng màu sắc của hiện tượng cầu vồng là sự phân tán của ánh sáng Mặt Trời. Trong thế kỷ XIII, nhà thiên văn học đạo Hồi Maghribi đã ước tính đường kính Mặt Trời khoảng 255 lần đường kính Trái Đất, con số này lớn gấp đôi con số hiện tại được chấp nhận.",
"Thuyết nhật tâm.",
"Giả thuyết rằng Mặt Trời là trung tâm của quỹ đạo chuyển động của các hành tinh được Aristarchus của Samos (310-230 TCN) đưa ra vào thế kỷ III TCN, và sau đó Seleukos của Seleucia cũng theo thuyết này (xem thuyết Nhật tâm). Quan điểm triết học quan trọng này đã được phát triển thành mô hình toán học dự đoán một cách hoàn chỉnh về hệ nhật tâm vào thế kỷ XVI bởi Nicolaus Copernicus. Vào đầu thế kỷ XVII, việc phát minh ra kính viễn vọng đã cho phép các quan sát chi tiết hơn về vết đen Mặt Trời do Thomas Harriot, Galileo Galilei và các nhà thiên văn khác thực hiện. Galileo đã thực hiện một số quan sát vết đen Mặt Trời bằng kính viễn vọng và thừa nhận rằng chúng nằm trên bề mặt của Mặt Trời hơn là các vật thể nhỏ chuyển động qua khoảng không giữa Trái Đất và Mặt Trời. Các vết đen Mặt Trời cũng được các nhà thiên văn Trung Quốc quan sát vào thời nhà Hán (206 TCN - 220 CN), họ đã duy trì ghi chép các quan sát này trong vài thế kỷ. Averroes cũng đưa ra một miêu tả về các vết đen Mặt Trời trong thế kỷ XII.",
"Năm 1672 Giovanni Cassini và Jean Richer xác định được khoảng cách đến Sao Hỏa và đã tính được khoảng cách đến Mặt Trời. Isaac Newton quan sát ánh sáng Mặt Trời bằng lăng kính, và thấy nó được tạo thành từ nhiều màu sắc, trong khi đó vào năm 1800 William Herschel phát hiện ra bức xạ hồng ngoại nằm gần ánh sáng đỏ trong quang phổ của Mặt Trời. Thập niên 1800 phát triển mạnh các kính quang phổ nghiên cứu về Mặt Trời, và Joseph von Fraunhofer đã thực hiện các quan sát đầu tiên về các vạch hấp thụ quang phổ, vạch mạnh nhất vẫn thường được gọi theo tên của ông là vạch Fraunhofer. Khi mở rộng dải quang phổ của sánh sáng từ Mặt Trời thì có một số màu bị mất được phát hiện.",
"Thiên văn học hiện đại.",
"Vào những năm đầu tiên của kỷ nguyên khoa học hiện đại, nguồn năng lượng Mặt Trời vẫn là vấn đề còn nhiều bí ẩn. Lord Kelvin đã đề nghị rằng Mặt Trời là một vật thể lỏng đang lạnh đi một cách từ từ vì vậy nó đang phát ra nhiệt dự trữ bên trong lòng nó. Sau đó, Kelvin và Hermann von Helmholtz đưa ra cơ chế Kelvin-Helmholtz để giải thích lượng năng lượng tỏa ra này. Tuy nhiên, kết quả tính tuổi Mặt Trời chỉ có 20 triệu năm, một con số rất nhỏ so với các tính toán mà các dấu hiệu địa chất lúc đó đưa ra là ít nhất 300 triệu năm. Năm 1890 Joseph Lockyer, người đã phát hiện ra heli trong quang phổ của Mặt Trời, đã đưa ra giả thuyết thiên thạch về sự hình thành và tiến hóa của Mặt Trời.",
"Mãi cho đến năm 1904 thì vấn đề này mới được giải quyết. Ernest Rutherford cho rằng lượng bức xạ Mặt Trời có thể đã được duy trì bởi một nguồn nhiệt bên trong nó, và đó là hoạt động phân rã phóng xạ. Tuy nhiên, Albert Einstein là người đã đưa ra mối quan hệ giữa nguồn năng lượng phát ra từ Mặt Trời với phương trình cân bằng khối lượng-năng lượng \"E\" = \"mc\"2.",
"Năm 1920, Sir Arthur Eddington đề xuất rằng áp suất và nhiệt động trong lõi của Mặt Trời có thể phát sinh một phản ứng hợp hạch hạt nhân theo đó các hạt nhân hydro (proton) hợp lại tạo ra hạt nhân heli, quá trình này sinh ra năng lượng đồng thời sẽ làm giảm dần khối lượng. Lượng hdro chiếm ưu thế trong Mặt Trời được Cecilia Payne xác nhận vào năm 1925. Quan điểm lý thuyết về tổng hợp hạt nhân được các nhà vật lý thiên văn Subrahmanyan Chandrasekhar và Hans Bethe phát triển vào thập niên 1930. Hans Bethe đã tính toán chi tiết hai phản ứng sinh năng lượng chính trên Mặt Trời.",
"Sau cùng, một bài báo có ảnh hưởng lớn của Margaret Burbidge được xuất bản năm 1957 với tựa là \"Sự tổng hợp các nguyên tố của các Sao\" (\"Synthesis of the Elements in Stars\"). Bài báo đã minh hoạ một cách thuyết phục rằng hầu hết các nguyên tố trong vũ trụ đã và đang được tổng hợp bằng các phản ứng hạt nhân bên trong các ngôi sao, giống như Mặt Trời.",
"Các nhiệm vụ khám phá không gian.",
"Các vệ tinh đầu tiên được thiết kế để giám sát Mặt Trời là Pioneer 5, 6, 7, 8 và 9 của NASA, được phóng lên trong khoảng 1959 - 1968. Các vệ tinh mang máy dò này quay quanh Mặt Trời với khoảng cách tương tự như vệ tinh bay quanh Trái Đất, và thực hiện các đo đạc chi tiết đầu tiên về gió Mặt Trời và trường từ Mặt Trời. Pioneer 9 vận hành trong thời gian tương đối dài và truyền dữ liệu về đến năm 1987.",
"Trong thập niên 1970, hai phi thuyền Helios và Skylab cùng với kính thiên văn Apollo cung cấp cho các nhà khoa học những dữ liệu mới về gió Mặt Trời và vành nhật hoa. Hai bộ phận thăm dò Helios 1 and 2 kết hợp giữa Hoa Kỳ và Đức cùng nghiên cứu gió Mặt Trời bay trong quỹ đạo của Sao Thủy ở điểm cận nhật. Trạm không gian Skylab được NASA phóng năm 1973 gồm các mô-đun quan sát Mặt Trời gọi là Apollo Telescope Mount, mô-đun này được vận hành bởi các nhà du hành vũ trụ định cư trên đó. Skylab đã thực hiện các quan sát thời gian đầu tiên về các cùng Mặt Trời chuyển động qua và sự phát xạ tia tử ngoại từ vành nhật hoa. Các phát hiện bao gồm các giám sát đầu tiên về sự phát xạ vật chất vành nhật hoa, còn gọi là \"coronal transients\", và các hố nhật hoa, ngày nay cho thấy rằng nó liên quan đến gió Mặt Trời.",
"Năm 1980, phi vụ Solar Maximum Mission được phóng bởi NASA. Phi thuyền này được thiết kế để giám sát các tia gamma, tia X và UV từ các vết lóa Mặt Trời trong suốt thời gian hoạt động của Mặt Trời mạnh và độ sáng Mặt Trời. Tuy nhiên, chỉ một vài tháng sau khi phóng, một sự cố về điện làm cho đầu dò chuyển sang chế độ dự phòng, và phải mất 3 tháng hoạt động ở chế độ này. Năm 1984 nhiệm vụ Space Shuttle Challenger STS-41 đã khôi phục vệ tinh và sửa hệ thống điện trước khi đưa nó trở vào quỹ đạo. Solar Maximum Mission đã cung cấp hàng ngàn tấm ảnh về vành nhật hoa trước khi trở về khí quyển Trái Đất tháng 6 năm 1989.",
"Một trong những chương trình mang nhiệm vụ quan trọng là phóng \"Đài quan sát Mặt Trời và nhật quyển\" (\"SOHO-Solar and Heliospheric Observatory\") vào ngày 2 tháng 12 năm 1995 do Cơ quan Vũ trụ châu Âu (ESA) và Cục Quản trị Hàng không và Không gian Quốc gia Hoa Kỳ (NASA) hợp tác. Soho nằm tại một điểm khá đặc biệt trong không gian, điểm Lagrange L1. Điểm Lagrange là điểm nằm giữa Trái Đất và mặt trời, cách Trái Đất chừng 1,6 triệu km, nơi có điểm trọng lực cân bằng giữa các hành tinh.",
"Sự giàu có của các nguyên tố trong quang quyển được biết rất rõ từ các nghiên cứu quang phổ thiên văn, nhưng thành phần bên trong Mặt Trời thì được biết ít hơn. Tàu Genesis, được thiết kế để lấy mẫu gió Mặt Trời, cho phép các nhà thiên văn có thể trực tiếp đo đạc thành phần vật chất của Mặt Trời. Nó trở lại Trái Đất năm 2004 và lẽ ra sẽ được phân tích, nhưng nó đã bị hư hại nặng khi hạ cánh do dù không mở khi đi vào bầu khí quyển của Trái Đất.",
"Mặt Trời là nguồn năng lượng khổng lồ.",
"Ánh sáng nói riêng, hay bức xạ điện từ nói chung, từ bề mặt của Mặt Trời được xem là nguồn năng lượng chính cho Trái Đất. Hằng số năng lượng Mặt Trời được tính bằng công suất của lượng bức xạ trực tiếp chiếu trên một đơn vị diện tích bề mặt Trái Đất; nó bằng khoảng 1370 Watt trên một mét vuông. Ánh sáng Mặt Trời bị hấp thụ một phần trên bầu khí quyển Trái Đất, nên một phần nhỏ hơn tới được bề mặt Trái Đất, gần 1.000 Watt/m² năng lượng Mặt Trời tới Trái Đất trong điều kiện trời quang đãng khi Mặt Trời ở gần thiên đỉnh. Năng lượng này có thể dùng vào các quá trình tự nhiên hay nhân tạo. Quá trình quang hợp trong cây sử dụng ánh sáng mặt trời và chuyển đổi CO2 thành oxy và hợp chất hữu cơ, trong khi nguồn nhiệt trực tiếp là làm nóng các bình đun nước dùng năng lượng Mặt Trời, hay chuyển thành điện năng bằng các pin năng lượng Mặt Trời. Năng lượng dự trữ trong dầu mỏ và các nguồn nhiên liệu hóa thạch khác được giả định có nguồn gốc chính là từ nguồn năng lượng của Mặt Trời được chuyển đổi từ xa xưa trong quá trình quang hợp và phản ứng hóa sinh của sinh vật cổ.",
"Mặt Trời và tác hại đến mắt.",
"Mặt Trời rất sáng, và nhìn trực tiếp vào Mặt Trời rất có hại cho mắt, nhưng không nghiêm trọng khi mắt mở bình thường hoặc không mở rộng. Nhìn trực tiếp vào Mặt Trời vào lúc trưa nắng sẽ làm cho các sắc tố quang hình trong con ngươi bị mất màu tạm thời, có thể tạo ra hiện tượng đom đóm mắt và mù tạm thời. Nhìn thẳng vào Mặt Trời bằng mắt trần sẽ nhận khoảng 4 miliwatt ánh sáng vào con ngươi và làm nóng lên đủ để có thể gây tác hại do mắt không phản ứng kịp trước độ sáng. Nhìn thoáng qua Mặt Trời có thể gây cảm giác khó chịu nhưng không gây hại nhiều.",
"Nhìn Mặt Trời thông qua các thấu kính như ống nhòm rất có hại nếu không có màn chắn hấp thụ làm mờ tia sáng. Các màng làm mờ có bán tại các cửa hàng cung cấp sản phẩm hàn và máy chụp ảnh. Sử dụng đồ lọc thích hợp rất quan trọng như làm giảm độ sáng và cản các tia hồng ngoại và cực tím có thể làm hại cho mắt ở các cấp độ sáng cao. Nhìn thẳng vào thấu kính để nhìn Mặt Trời có thể nhận khoảng 2 watt năng lượng trực tiếp vào mắt, gấp 500 lần hơn so với nhìn bằng mắt thường. Chỉ thoáng nhìn qua thấu kính mà không có đầu lọc có thể gây ra mù vĩnh viễn.",
"Trong hiện tượng nhật thực, điều kiện nguy hiểm có thể xảy ra đối với mắt bởi phản ứng của mắt với ánh sáng. Đồng tử được điều khiển bằng tổng ánh sáng của môi trường, không bằng ánh sáng của vật sáng nhất trong môi trường. Trong hiện tượng nhật thực, phần lớn ánh sáng bị cản lại bằng Mặt Trăng, nhưng phần ánh sáng không bị che khuất có lượng ánh sáng bằng một ngày bình thường. Trong ánh sáng mờ, đồng tử có hiện tượng giãn nở từ 2 mm đến 6 mm, tăng điện tích tiếp nhận ánh sáng gấp 10 lần. Các phần tử trên con ngươi nhận trực tiếp từ ánh sáng Mặt Trời vì thế gấp 10 lần bình thường, hay lúc không nhật thực. Nhìn trực tiếp nhật thực bằng mắt thường có thể gây ra sự hủy hoại từng phần trên võng mạc, gây ra hiện tượng mù từng đốm trên mắt. Điều này đặc biệt ảnh hưởng với trẻ em và những người không có kinh nghiệm.",
"Trong lúc Mặt Trời mọc hay lặn, ánh sáng bị hấp thụ một phần do khoảng đường xa tới tầng khí quyển Trái Đất, ngoài ra ánh sáng còn bị làm mờ do bụi trong không khí, sương mù và độ ẩm trong không khí góp một phần trong sự hấp thu này nên không làm cho mắt khó chịu.",
"Vòng đời của Mặt Trời.",
"Mặt Trời được hình thành cách đây khoảng 4,57 tỉ năm khi đám mây phân tử hydro tích tụ dần lại. Tuổi của Mặt Trời được xác định theo 2 cách: tuổi của các sao ở dãy chính mà hiện tại Mặt Trời đang thuộc về nhóm này, được xác định thông qua các mô hình máy tính của sự kiện tiến hóa sao và niên đại học phóng xạ hạt nhân vào khoảng 4,57 tỉ năm. Trong khi phương pháp định tuổi bằng đồng vị phóng xạ của các vật liệu cổ nhất từ hệ Mặt Trời vào khoảng 4,567 tỉ năm.",
"Mặt Trời hiện đã tồn tại nửa vòng đời của nó theo tiến hóa của các sao dãy chính, trong khi các phản ứng tổng hợp hạt nhân trong lõi của nó chuyển hydro thành heli. Mỗi giây có hơn 4 triệu tấn vật chất trong lõi của Mặt Trời được chuyển thành năng lượng, tạo ra neutrino và các dạng bức xạ năng lượng Mặt Trời. Với tốc độ này cho đến nay, Mặt Trời đã chuyển đổi khoảng 100 lần khối lượng vật chất Trái Đất thành năng lượng. Mặt Trời sẽ mất tổng cộng khoảng 10 tỷ năm để kết thúc sự tồn tại của nó trước khi trở thành sao lùn trắng.",
"Kết quả của sự tăng cường nguyên tử heli một cách từ từ trong lõi của Mặt Trời, độ sáng của ngôi sao này đang từ từ tăng lên. Độ sáng của Mặt Trời sẽ tăng 10% trong 1,1 tỷ năm tới, 40% sau 3,5 tỷ năm.",
"Mặt Trời không có khối lượng đủ lớn để kết thúc vòng đời bằng một vụ nổ tung như siêu tân tinh. Ngược lại, trong vòng 4-5 tỷ năm tới nó sẽ đi tới trạng thái sao khổng lồ đỏ của mình, diễn ra khi nguồn hydro trong lõi cạn kiệt. Sau đó nó bắt đầu phun trào heli và nhiệt độ phần lõi sẽ tăng lên đến 10 triệu K và sẽ tạo ra carbon để trở thành gần như là sao khổng lồ. Các phản ứng nhiệt hạch sẽ sử dụng heli làm nguyên liệu tổng hợp nên các nguyên tố nặng hơn heli, làm cho lớp ngoài cùng của Mặt Trời sẽ giãn nở, đạt đến vị trí bên ngoài quỹ đạo Trái Đất hiện tại, 1 AU (1,5×1011 m), gấp 250 lần bán kính hiện tại của Mặt Trời. Tuy nhiên, theo thời gian, khi đạt tới gần một sao khổng lồ đỏ, Mặt Trời sẽ mất đi khoảng 30% khối lượng hiện tại do gió Sao, vì thế các quỹ đạo của các hành tinh sẽ dần chuyển động ra xa. Nếu như thế sẽ làm quỹ đạo Trái Đất dịch ra xa hơn về phía bên ngoài, ngăn không cho nó bị nhấn chìm, nhưng các nghiên cứu mới cho thấy rằng Trái Đất sẽ bị Mặt Trời \"nuốt chửng\" do các tương tác thủy triều.",
"Thậm chí nếu Trái Đất thoát khỏi ảnh hưởng của Mặt Trời, tất cả nước sẽ bị bốc hơi và hầu hết khí trong khí quyển sẽ thoát vào không gian. Trong trường hợp Mặt Trời còn nằm trong dãy chính, nó sẽ tỏa sáng hơn một cách dần dần (khoảng 10% mỗi một tỉ năm), và nhiệt độ bề mặt của nó sẽ tăng một cách chậm chạp. Mặt Trời từng là một ngôi sao mờ nhạt trong quá khứ của nó, đó cũng là lý do có thể hợp lý để giải thích sự sống trên Trái Đất chỉ tồn tại khoảng 1 tỉ năm trên đất liền. Nhiệt độ Mặt Trời gia tăng đã diễn ra trong khoảng 1 tỉ năm, bề mặt Trái Đất sẽ trở nên rất nóng để nước có thể tồn tại ở dạng lỏng và kết thúc tất cả sự sống Trái Đất.",
"Sau giai đoạn đỏ khổng lồ, các xung nhiệt khổng lồ sẽ làm cho Mặt Trời phun ra các lớp bên ngoài của nó để tạo ra tinh vân. Mặt Trời sau đó sẽ trở thành sao lùn trắng, nguội dần đi vĩnh viễn. Kịch bản tiến hóa sao này là rất điển hình đối với những sao có khối lượng thấp đến trung bình.",
"Thời gian biểu tiến hóa sao của Mặt Trời và hệ Mặt Trời.",
"Lấy mốc điểm khởi đầu hình thành hệ Mặt Trời khi sự nén ép trọng lực của tinh vân mặt trời tăng lên cách đây 5 tỉ năm.",
"Trong văn hóa.",
"Trong một số ngôn ngữ đông Á, Mặt Trời được viết là 日 (tiếng Trung, phiên âm pinyin \"rì\" hoặc tiếng Nhật \"nichi\") hay 太阳 (giản thể)/太陽 (phồn thể) (pinyin \"tài yáng\" hay tiếng Nhật \"taiyō\"). Trong tiếng Việt, phiên âm Hán Việt của chữ này là \"nhật\" và \"thái dương\". Mặt Trăng và Mặt Trời còn liên quan đến âm dương, với Mặt Trăng tượng trưng cho \"âm\" và Mặt Trời tượng trưng cho \"dương\" với ý nghĩa trái ngược nhau. Mặt Trời đại diện cho lực lượng diệt trừ ma quỷ. Các ma cà rồng hầu hết đều bị sợ ánh sáng Mặt Trời.",
"Cũng giống như các hiện tượng tự nhiên khác, Mặt Trời là đối tượng được đề cập nhiều trong các nền văn hóa trong suốt lịch sử nhân loại và cũng là từ gốc xuất xứ của từ \"sunday\" (chủ nhật). Thần Mặt Trời được đề cập, thờ phụng trong nhiều nền văn hóa: Người Ê Đê gọi là thần Yang Hruê, người M'Nông gọi là thần Yang Nar, Yang TNghe, Yang Măt, người Gia Rai: thần Yang Dai. Thần thoại Hy Lạp có thần Apollo, Helios; Thần thoại La Mã có thần Sol",
"Thần Ra trong tôn giáo Ai Cập cổ đại cũng là thần Mặt Trời, được xem là vua của các vị thần. Trong văn hóa Aztec, là một vị thần mặt trời hung dữ và hiếu chiến.",
"Trong phim Lưu lạc địa cầu năm 2019, Mặt Trời biến thành một ngôi sao khổng lồ đỏ, hiện tượng này có khả năng tiêu hủy hoàn toàn những hành tinh xung quanh nó",
"Liên kết ngoài.",
"Tiếng Việt.",
"Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ."
] |
3730 | 4 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3730 | Căm-bốt | [] |
3732 | 272 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3732 | Cơ cổ điển | [] |
3737 | 889445 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3737 | Euro | [
"Euro (€; mã ISO: EUR, còn gọi là Âu kim hay Đồng tiền chung châu Âu) là đơn vị tiền tệ của Liên minh Tiền tệ châu Âu, là tiền tệ chính thức trong 20 quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu (Áo, Bỉ, Bồ Đào Nha, Đức, Hà Lan, Hy Lạp, Ireland, Luxembourg, Pháp, Phần Lan, Tây Ban Nha, Ý, Slovenia, Malta, Cộng hòa Síp, Estonia, Latvia, Litva, Slovakia, Croatia) và trong 6 nước và lãnh thổ không thuộc Liên minh châu Âu.",
"Vào ngày 1 tháng 1 năm 1999 tỷ lệ hối đoái giữa Euro và các đơn vị tiền tệ quốc gia được quy định không thể thay đổi và Euro trở thành tiền tệ chính thức. Việc phát hành đồng Euro rộng rãi đến người tiêu dùng bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm 2002.",
"Tiền giấy Euro giống nhau hoàn toàn trong tất cả các quốc gia. Tiền giấy Euro có mệnh giá 5 Euro, 10 Euro, 50 Euro, 100 Euro, 200 Euro và 500 Euro. Mặt trước có hình của một cửa sổ hay phần trước của một cánh cửa, mặt sau là một chiếc cầu. Tháng 7 năm 2017, được sự chấp thuận của Ngân hàng Trung ương Châu Âu, Ngân hàng Trung ương Đức chính thức phát hành đồng hiện kim bằng giấy với mệnh giá là 0 euro (giá bán là 2,5 euro) đáp ứng nhu cầu của những người có sở thích sưu tập tiền tệ. Một mặt in chân dung nhà thần học Martin Luther ở bên phải, cùng căn phòng làm việc của ông tại Lâu đài Wartburg; mặt còn lại gồm tổ hợp hình ảnh quy tụ các kiến trúc tiêu biểu thuộc Liên minh châu Âu, bên góc phải là bức tranh nàng Mona Lisa.",
"Các đồng tiền kim loại euro cùng một mệnh giá giống nhau ở mặt trước, nhưng có trang trí khác nhau ở mặt sau, đặc trưng cho từng quốc gia phát hành.",
"Euro có thể được phát âm như \"iu-rô\" hoặc \"ơ-rô\", \"oi-rô\", \"u-rô\" tùy từng nơi ở châu Âu và thế giới. Tại Việt Nam, người ta thường phát âm là \"ơ-rô\".",
"Lịch sử.",
"Dự án chính trị.",
"Euro là tiền tệ thống nhất trong châu Âu có nguồn gốc từ thời kỳ đầu tiên của Liên minh châu Âu và trong lịch sử kinh tế toàn cầu. Một mặt việc hòa nhập kinh tế thông qua liên minh thuế quan 1968 đã có những bước tiến dài, mặt khác sự sụp đổ của hệ thống tỷ giá hối đoái Bretton Woods dẫn đến việc tỷ giá hối đoái dao động mạnh mà theo như cách nhìn của giới chính trị thì đã cản trở thương mại. Năm 1970 lần đầu tiên ý tưởng về một liên minh tiền tệ châu Âu được cụ thể hóa. Trong cái gọi là kế hoạch Werner, Thủ tướng Luxembourg, Pierre Werner, đã cùng nhiều chuyên gia soạn thảo một Liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu với tiền tệ thống nhất. Dự tính với mục đích thành lập liên minh này cho đến năm 1980 đã thất bại mà một trong những nguyên nhân là sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods. Thay vào đó Liên minh Tỷ giá hối đoái châu Âu được thành lập vào năm 1972 và sau đó là Hệ thống Tiền tệ châu Âu vào năm 1979. Hệ thống tiền tệ châu Âu có nhiệm vụ ngăn cản việc các tiền tệ quốc gia dao động quá mạnh. Đơn vị Tiền tệ châu Âu (tiếng Anh: \"European Currency Unit – ECU\"), một đơn vị thanh toán, ra đời vì mục đích này và có thể xem như là tiền thân của đồng Euro. Năm 1988 một ủy ban xem xét về liên minh kinh tế và tiền tệ dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Ủy ban châu Âu, Jacques Delors, đã soạn thảo cái gọi là báo cáo Delors, dự định thành lập Liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu qua 3 bước.",
"Đồng Euro hình thành.",
"Bước đầu tiên bắt đầu vào ngày 1 tháng 7 năm 1990, việc lưu chuyển vốn được tự do hóa giữa các nước trong Liên minh châu Âu. Vào ngày 1 tháng 1 năm 1994 bước thứ hai bắt đầu: Viện Tiền tệ châu Âu, tiền thân của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB), được thành lập và tình trạng ngân sách quốc gia của các nước thành viên bắt đầu được xem xét. Ngoài ra, vào ngày 16 tháng 12 năm 1995 Hội đồng châu Âu tại Madrid (Tây Ban Nha) đã quyết định tên của loại tiền tệ mới: \"Euro\". Trước ngày này đã có nhiều tên khác được thảo luận: các \"ứng cử viên\" quan trọng nhất bao gồm \"Franc châu Âu\", \"Krone châu Âu\" và \"Gulden châu Âu\". Việc sử dụng tên một loại tiền tệ quen thuộc là nhằm vào mục đích phát ra tín hiệu của sự liên tục và củng cố niềm tin tưởng của quần chúng vào loại tiền tệ mới này, ngoài ra một vài thành viên cũng có thể tiếp tục giữ được tên tiền tệ của nước mình. Pháp thích \"Ecu\", tên của loại tiền tệ thanh toán cũ. Thế nhưng tất cả các đề nghị này đều thất bại vì một vài nước dè dặt. Để đối phó với tình thế này, tên \"Euro\" được Bộ trưởng Bộ Tài chính Đức, Theodor Waigel, đề nghị.",
"Ngày 13 tháng 12 năm 1996 các bộ trưởng Bộ Tài chính của EU đi đến thỏa thuận về Hiệp ước Ổn định và Tăng trưởng nhằm bảo đảm các nước thành viên giữ kỷ luật về ngân sách và qua đó bảo đảm giá trị của tiền tệ chung. Bước thứ ba của Liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu bắt đầu có hiệu lực cùng với cuộc họp của Hội đồng châu Âu từ ngày 1 tháng 5 đến ngày 3 tháng 5 năm 1998, xác định 11 quốc gia thành viên của Liên minh Kinh tế và Tiền tệ theo các tiêu chuẩn hội tụ được quy định trước. Ngày 19 tháng 6 năm 2000 Hội đồng châu Âu đi đến \"nhận định là Hy Lạp đã đạt hội tụ bền vững ở mức độ cao và trên cơ sở này thỏa mãn các yêu cầu cần thiết để đưa tiền tệ chung vào sử dụng\". Vì thế vào ngày 1 tháng 1 năm 2001 Hy Lạp gia nhập vào Liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu.",
"Vào ngày 1 tháng 1 năm 1999 tỷ lệ hối đoái giữa Euro và các đơn vị tiền tệ quốc gia được quy định không thể thay đổi và Euro trở thành tiền tệ chính thức. Ngay ngày hôm sau, ngày 2 tháng 1, các thị trường chứng khoán tại Milano (Ý), Paris (Pháp) và Frankfurt am Main (Đức) đã định giá tất cả các chứng khoán bằng Euro. Một thay đổi khác có liên quan với thời điểm đưa đồng Euro vào sử dụng là việc thay thế cách ghi giá cho ngoại tệ. Trước ngày đã định, việc ghi theo giá (1 USD = xxx DEM) là hình thức thông dụng. Từ ngày 1 tháng 1 năm 1999, trong mua bán ngoại tệ tại các nước thành viên, giá trị của ngoại tệ được ghi theo lượng (1 EUR = xxx USD). Thêm vào đó, từ ngày 1 tháng 1 năm 1999 có thể chuyển khoản bằng Euro (Tại Hy Lạp từ ngày 1 tháng 1 năm 2001). Các tài khoản và sổ tiết kiệm được phép ghi bằng Euro và tiền cũ. Cổ phiếu và các chứng khoán khác chỉ còn được phép mua bán bằng Euro. Việc phát hành đồng Euro đến người tiêu dùng bắt đầu vào ngày 1 tháng 1 năm 2002.",
"Trong một thời gian chuyển tiếp nhất định tùy thuộc vào từng quốc gia, kéo dài hoặc là đến hết tháng 2 năm 2002 hay đến hết tháng 6 năm 2002, đồng Euro và tiền quốc gia cũ tồn tại song song như là tiền tệ chính thức. Thời gian sau này các tiền quốc gia cũ không còn là tiền tệ chính thức nữa nhưng vẫn có thể được đổi lấy đồng Euro tại các ngân hàng quốc gia của các nước, tùy theo quy định của từng nước. Từ ngày 28 tháng 2 năm 2002 tại Đức quyền đổi đồng Mark Đức sang Euro không tốn lệ phí tại các ngân hàng trung ương tiểu bang là một điều được pháp luật quy định. Khác với một số nước thành viên khác, yêu cầu này tại Đức không có thời hạn. Mặc dầu có cơ chế đổi tiền không tốn lệ phí và đơn giản, trong tháng 5 năm 2005 vẫn còn lưu hành 3,72 tỉ Euro tiền kim loại Mark Đức. Tổng giá trị của tiền giấy chưa đổi thành tiền Euro ở vào khoảng 3,94 tỉ Euro. Theo nhận xét của Ngân hàng Liên bang Đức phần lớn số tiền này là tiền đã bị tiêu hủy hay đánh mất.",
"\"Xem bài Khu vực đồng Euro\"",
"Khu vực đồng Euro.",
"Ngoài 18 quốc gia trong Khu vực Liên minh châu Âu đã lưu hành và sử dụng chính thức đồng Euro, một số quốc gia khác đã tham gia vào Liên minh tiền tệ với thành viên trong khu vực và sử dụng đồng Euro như tiền tệ chính thức. Bên cạnh các thành viên chính thức, một số quốc gia hay địa phận khác cũng đã tự quyết định chọn Euro làm tiền tệ chuẩn (không có quyết định của EU). Thêm vào đó, nhiều quốc gia khác bắt đầu coi đồng Euro là một ngoại tệ quan trọng, thay chỗ cho đồng Đô la Mỹ.",
"Các thành viên EU như Đan Mạch, Estonia, Latvia, Litva, Malta, và Síp cam kết giữ tỷ giá tiền tệ của mình đối với đồng Euro trong khoảng dao động cho phép của Cơ chế Tỷ giá hối đoái II (ERM II). Các quốc gia Anh, Đan Mạch, Thụy Điển đã quyết định không dùng đồng Euro và vẫn giữ tiền tệ chính thức của quốc gia.",
"Các quốc gia Ba Lan, Cộng hòa Séc, Estonia, Hungary, Latvia, Litva, Malta, Slovakia, và Síp gia nhập EU năm 2004 chỉ có thể gia nhập vào Liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu sau khi thỏa mãn được các điều kiện hội tụ (qua 2 năm là thành viên của Cơ chế Tỷ giá hối đoái II và các điều kiện khác).",
"Các nước mới gia nhập EU vào ngày 1 tháng 1 năm 2007, Bulgaria, Romania có kế hoạch gia nhập Khu vực đồng Euro lần lượt vào các năm 2010 và 2011.",
"Tác động kinh tế.",
"Khi đưa đồng Euro vào lưu hành người ta hy vọng là thương mại và cộng tác kinh tế giữa các thành viên trong vùng Euro sẽ vững mạnh thêm vì các rủi ro về tỷ giá hối đoái và kèm theo đó là việc bảo hộ tiền tệ (tiếng Anh: \"currency hedging\") của các doanh nghiệp châu Âu sẽ không còn tồn tại nữa. Người ta cũng đoán rằng việc này sẽ mang lại lợi thế cho người dân trong vùng Euro vì trong quá khứ thương mại là một trong những nguồn chính của tăng trưởng kinh tế. Thêm vào đó người ta cũng tin rằng giá cả của sản phẩm và dịch vụ sẽ không còn chênh lệch nhau nhiều nữa. Điều này dẫn đến cạnh tranh mạnh hơn giữa các doanh nghiệp và vì thế sẽ làm giảm lạm phát và tăng sức mua của người tiêu thụ.",
"Một số nhà kinh tế học bày tỏ lo ngại về những nguy hiểm của một đồng tiền tệ chung cho một vùng kinh tế không đồng nhất và rộng lớn như vùng Euro. Đặc biệt là khi các nền kinh tế phát triển không đồng bộ sẽ tạo khó khăn cho một chính sách tiền tệ thích ứng. Về mặt chính trị vẫn còn câu hỏi là liệu Ngân hàng Trung ương châu Âu và Ủy ban châu Âu có khả năng kiềm chế các nước thành viên giữ kỷ luật trong ngân sách quốc gia hay không. Trên thực tế, thời gian vừa qua dường như đã xác thực nỗi lo ngại này, ít nhất là trong trường hợp của nước Đức: Từ khi đưa đồng Euro vào lưu hành nước Đức chưa có năm nào đạt được điều kiện về thâm hụt ngân sách quốc gia (không được vượt quá 3% tổng sản phẩm quốc nội). Cho tới nay, các biện pháp trừng phạt thật ra là đã được quy định trước trong Hiệp ước Ổn định và Tăng trưởng đã không được Hội đồng các bộ trưởng Bộ Tài chính châu Âu áp dụng.",
"Tác động về lạm phát của đồng Euro.",
"Nhiều người tiêu dùng nhận định là hàng hóa và dịch vụ đã tăng giá khi đồng Euro được đưa vào sử dụng. Tại Đức, một nguyên nhân là do một số nhà cung cấp hàng hóa và dịch vụ đã cố tình không dùng tỷ giá chính xác giữa đồng Mark Đức và Euro khi tính toán chuyển đổi và một phần khác, giá được nâng lên một ít trước khi đưa đồng Euro vào sử dụng để sau đó là thông qua tính toán tỷ giá chuyển đổi có thể \"làm tròn số\" giá bán. Tuy nhiên, theo như các thống kê chính thức thì giá tăng không đáng kể: Theo Statistik Austria (\"Tổng cục Thống kê Liên bang Áo\"), dựa trên chỉ số giá tiêu dùng, tỷ lệ lạm phát tăng trung bình ở Áo là 2,45% trong vòng 12 năm, từ 1987 đến 1998, trong khi đó tỷ lệ lạm phát trung bình giảm xuống còn 1,84% sau khi đưa đồng Euro vào lưu hành. Tại Đức, lạm phát trung bình đã giảm từ 2,60% (trước khi đưa đồng Euro vào sử dụng) xuống còn 1,29% sau đó.",
"Có nhiều lý thuyết giải thích sự khác nhau giữa lạm phát đã giảm theo tính toán thống kê và cảm nhận tăng lạm phát chủ quan. Thí dụ như người ta đã chỉ ra rằng các mặt hàng được mua hằng ngày như thực phẩm thật sự là đã tăng giá quá mức trung bình trong khi các mặt hàng khác trong giỏ hàng hóa thí dụ như các mặt hàng điện dân dụng tuy là được giảm giá nhưng sự giảm giá này không được cảm nhận vì các mặt hàng này hiếm được mua hơn.",
"Euro trong hệ thống tiền tệ toàn cầu.",
"Theo một bản nghiên cứu của Ngân hàng Trung ương châu Âu tỷ lệ của đồng Euro trong dự trữ ngoại tệ trên toàn cầu tăng từ 13% trong năm 2001 lên 16,4% trong năm 2002 và đến 18,7% trong năm 2003, cũng trong cùng thời gian này tỷ lệ của đồng Đô la Mỹ giảm từ 68,3% (2001) xuống 67,5% (2002) và trong năm 2003 còn 64,5%. Nói chung người ta tin rằng tầm quan trọng của đồng Đô la Mỹ như là tiền tệ dự trữ thế giới sẽ tiếp tục giảm và đồng Euro sẽ ngày càng quan trọng hơn trong chức năng này. Tầm quan trọng ngày càng tăng của đồng Euro cũng thể hiện qua một khía cạnh khác: Trong năm 1999 21,7% tất cả các giấy nợ quốc tế được tính bằng Euro, trong năm 2001 là 27,4% và trong năm 2003 đã là 33%. Năm 2004 đồng Đô la Mỹ đã chấm dứt vai trò là tiền tệ quan trọng nhất cho các loại trái phiếu và công trái với lãi suất cố định và lãi suất thả nổi (tiếng Anh: \"Floating Rate Notes\"): Trong cuối tháng 9 năm 2004 có trên 12.000 tỷ đô la trái phiếu và công trái quốc tế lưu hành trên toàn thế giới. Trong đó có 5.400 tỉ là đồng Euro, 4.800 tỉ là đồng Đô la Mỹ, 880 tỷ đồng Bảng Anh, 500 tỉ tiền Yen và 200 tỉ là đồng Franc Thụy Sĩ. Tỷ lệ của đồng Đô la Mỹ trong tổng số tiền gửi tại các tài khoản của các quốc gia OPEC giảm từ 75% trong mùa hè 2001 xuống còn 61,5% trong mùa hè 2004. Tỷ lệ tiền Euro tăng trong cùng khoảng thời gian từ 12% lên 20%. Trong năm 2003 tỷ lệ mua bán Euro trên các thị trường ngoại tệ là 25% so với 50% của đồng Đô la Mỹ và 10% cho hai loại tiền Bảng Anh và Yen Nhật. Đồng Euro vì vậy là tiền tệ quan trọng đứng thứ nhì hiện thời.",
"Tỷ giá hối đoái của đồng Euro.",
"Tỷ giá hối đoái của các tiền tệ cũ so với Euro.",
"Tỷ giá hối đoái của các tiền tệ chính thức của các quốc gia là thành viên của liên minh tiền tệ được quy định vào ngày 31 tháng 12 năm 1998 dựa trên cơ sở giá trị tính chuyển đổi của đồng ECU (European Currency Unit). Vì thế mà đồng Euro bắt đầu tồn tại như là tiền để thanh toán trong kế toán (chưa có tiền mặt): đồng Euro về mặt hình thức trở thành tiền tệ của các nước thành viên, các tiền tệ quốc gia có địa vị là một đơn vị dưới Euro và có tỷ giá cố định không đổi. Tỷ giá này được quy định bao gồm có sáu con số để giữ cho các sai sót làm tròn ít đi. Một đồng Euro tương ứng với:",
"Sau khi đồng Euro được sử dụng như là tiền dùng để thanh toán trong kế toán, các tiền tệ là thành viên chỉ được phép tính chuyển đổi với nhau thông qua đồng Euro, tức là trước tiên phải tính chuyển từ tiền tệ khởi điểm sang Euro và sau đấy từ Euro sang tiền tệ muốn chuyển đổi. Cho phép làm tròn số bắt đầu từ ba số sau dấu phẩy ở tiến Euro và tiền muốn chuyển đổi. Phương pháp này là quy định bắt buộc của Ủy ban châu Âu nhằm tránh các sai sót trong lúc làm tròn số có thể xuất hiện khi tính toán chuyển đổi trực tiếp.",
"Tỷ giá hối đoái EUR/USD.",
"Có nhiều ý kiến khác nhau về tầm quan trọng kinh tế của một đồng Euro mạnh. Một mặt các nguyên liệu đa phần vẫn tiếp tục được mua bán bằng đồng Đô la Mỹ, vì thế mà một đồng Euro mạnh có tác dụng làm giảm giá các nguyên liệu. Mặt khác, giá đồng Euro cao sẽ làm cho xuất khẩu từ vùng Euro trở nên đắt và vì thế một đồng Euro có giá cao sẽ làm cho tăng trưởng kinh tế yếu đi trong một chừng mực nhất định. Vì vùng Euro rộng lớn nên tỷ giá hối đoái và các rủi ro về tỷ giá hối đoái do các tiền tệ dao động gây nên không còn có tầm quan trọng như trong thời kỳ còn các tiền tệ quốc gia nữa.",
"Việc đồng Euro liên tục bị xuống giá cho đến năm 2002 có thể là do đồng Euro không tồn tại trên thực tế như là tiền mặt, vì thế mà trong thời gian đầu đồng Euro đã bị đánh giá thấp hơn giá trị thực dựa trên những số liệu cơ bản. Các vấn đề về kinh tế trong Cộng đồng châu Âu đã đẩy mạnh thêm xu hướng này và làm cho việc đầu tư trong châu Âu không còn hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài nữa. Thật ra thì các triển vọng về kinh tế của châu Âu đã không tốt đẹp hơn từ thời điểm đó nhưng ngay sau khi tiền mặt được đưa vào lưu hành thì đồng Euro mà cho tới lúc đó là bị đánh giá dưới trị giá thật bắt đầu được đánh giá cao hơn. Có 3 nguyên nhân có thể giải thích cho điều này:",
"Ký hiệu tiền tệ, tiền đồng và tiền giấy.",
"Mã tiền tệ ISO.",
"Ký hiệu quốc tế bao gồm ba mẫu tự của đồng Euro (mã tiền tệ ISO) là EUR. Ký hiệu này là một trường hợp đặc biệt trong mã tiền tệ ISO vì nhiều lý do:Thông thường thì chữ cái đầu tiên của ký hiệu cho một loại tiền tệ được sử dụng trong khuôn khổ của một liên minh tiền tệ là chữ X. Vì thế ký hiệu nếu như theo như tiêu chuẩn phải là XEU. Nếu như chữ đầu tiên không phải là X thì hai mẫu tự đầu tiên là mã quốc gia theo ISO 3166. Ký hiệu EU dành cho Liên minh châu Âu cũng được định nghĩa trong tiêu chuẩn này nhưng thật ra là trường hợp đặc biệt vì Liên minh châu Âu không phải là một quốc gia có chủ quyền. Chữ cái cuối cùng của mã tiền tệ thường là chữ cái đầu tiên của tiền tệ. Không có ký hiệu chính thức và cũng không có cách viết tắt chính thức cho Cent (xu) của Euro.",
"\"Đọc bài chính về ký hiệu Euro\"",
"Ký hiệu tiền tệ.",
"Dấu hiệu Euro được Ủy ban châu Âu đưa vào sử dụng như là ký hiệu của đồng tiền tệ cộng đồng châu Âu vào năm 1997. Ký hiệu này dựa trên cơ sở của phác thảo nghiên cứu năm 1974 của người trưởng đồ họa của Cộng đồng châu Âu, Arthur Eisenmenger. Ký hiệu này là một chữ E tròn và lớn có hai vạch nằm ngang €. Ký hiệu này gợi nhớ đến chữ epsilon của Hy Lạp và vì vậy là gợi nhớ đến châu Âu thời cổ điển. Hai vạch ngang tượng trưng cho sự bền vững của Euro và của vùng kinh tế châu Âu.",
"\"Đọc bài chính về tiền kim loại Euro\"",
"Tiền kim loại Euro.",
"Các đồng tiền kim loại Euro có mặt trước hoàn toàn giống nhau trong tất cả các nước nhưng mặt sau là hình ảnh của từng quốc gia. Thế nhưng vẫn có thể trả bằng tiền kim loại trong khắp liên minh tiền tệ. Một euro được chia thành 100 cent, tại Hy Lạp thay vì cent người ta dùng \"lepto\" (số ít) hay \"lepta\" (số nhiều) trên các đồng tiền kim loại của Hy Lạp.",
"\"Đọc bài chính về tiền giấy Euro\"",
"Tiền giấy Euro.",
"Tiền giấy Euro giống nhau hoàn toàn trong tất cả các nước. Tiền giấy Euro có mệnh giá 5 Euro, 10 Euro, 50 Euro, 100 Euro, 200 Euro và 500 Euro. Mặt trước có hình của một cửa sổ hay phần trước của một cánh cửa, mặt sau là một chiếc cầu. Đây không phải là hình ảnh của các công trình xây dựng có thật mà chỉ là đặc điểm của từng thời kỳ kiến trúc. Tiền giấy Euro do người Áo Robert Kalina tạo mẫu sau một cuộc thi đua trong toàn EU. Tiền giấy Euro có thể được theo dõi trên toàn thế giới qua dự án Eurobilltracker.",
"\"Euro\" trong các ngôn ngữ khác nhau.",
"Tên chính thức của tiền tệ là \"euro\" và \"cent\" (bằng 1/100 một euro). Tên này được dùng trong đa số các ngôn ngữ ở khu vực đồng euro."
] |
3739 | 849702 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3739 | Land der Berge, Land am Strome | [
"Land der Berge, Land am Strome (tạm dịch: \"Đất trên núi, đất trên sông\") là quốc ca của nước Áo. Tác giả của bài này là Wolfgang Amadeus Mozart."
] |
3740 | 15735 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3740 | Sankt Pölten | [
"Sankt Pölten (]; Phương ngữ Trung Bayern: \"St. Pödn\"), chủ yếu được viết tắt với tên chính thức St. Pölten, [3] là thủ đô và thành phố lớn nhất của Bang Hạ Áo ở Đông Bắc Áo, với 55.538 dân vào ngày 1 tháng 1 năm 2020. St. Pölten là một thành phố có quy chế riêng (hay Statutarstadt) và do đó nó vừa là một đô thị vừa là một quận trong Mostviertel.",
"Địa lý.",
"Thành phố nằm trên sông Traisen và nằm ở phía bắc của dãy Alps và phía nam Wachau. Nó là một phần của Mostviertel, khu vực phía tây nam của Hạ Áo.",
"Tổ chức hành chính cấp quận, huyện.",
"St Pölten được chia thành các huyện sau đây: Altmannsdorf, Dörfl at Ochsenburg, Eggendorf, Ganzendorf, Hafing, Harland, Hart, Kreisberg, Matzersdorf, Mühlgang, Nadelbach, Oberradlberg, Oberwagram, Oberzwischenbrunn, Oberzwischenbrunn, Ochsendorf, Ratagdorf, Ratagsen, Pelsdorfnburg at the Traisen, Reitzersdorf, Schwadorf, Spratzern, St Georgen trên Steinfelde, St Pölten, Stattersdorf, Steinfeld, Teufelhof, Unterradlberg, Unterwagram, Unterzwischenbrunn, Viehofen, Völtendzeorf, Waitzendorf, Wasserberg, Wasserburg, Wasserburg và Zwerndorf.",
"Vận tải.",
"Nhà ga chính của thành phố St. Pölten Hauptbahnhof nằm ngay trên tuyến đường sắt miền Tây của ÖBB và cũng là ga cuối của tuyến đường sắt Leobersdorfer, Mariazellerbahn, tuyến đường sắt vùng đến Tulln và tuyến đường sắt vùng đến Krems. Nó nằm ở giao lộ của Đường cao tốc miền Tây A1 và Đường cao tốc Kremser S33 và được cắt ngang bởi Đường Vienna B1. St Pölten là giao lộ của các tuyến xe buýt Wieselbus kết nối thủ đô và các vùng của Hạ Áo.",
"Trong thành phố.",
"Từ năm 1911 đến năm 1976, một tuyến xe điện hoạt động ở St Pölten. Ngày nay, một mạng lưới gồm 11 tuyến xe buýt hoạt động đều đặn trong thành phố. Mỗi mùa hè, một chuyến tàu du lịch miễn phí ở trung tâm thành phố kết nối các khu vực cổ kính của thành phố với khu hành chính.",
"Lịch sử.",
"Phần cổ nhất của thành phố được xây dựng trên địa điểm của thành phố Aelium Cetium thời La Mã cổ đại, tồn tại từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ IV. Vào năm 799, nó được gọi là Treisma. St Pölten đã trở thành thị trấn vào năm 1050 và chính thức trở thành thành phố vào năm 1169. Cho đến năm 1494, St Pölten là một phần của giáo phận Passau và sau đó trở thành lãnh thổ thuộc nhà nước. Một tu viện dòng Benedict được thành lập vào năm 771. Năm 1081, nơi đây đã tổ chức \"Chorherren\" của Augustinô và vào năm 1784, Kollegiatsstift của họ đóng cửa. Kể từ năm 1785, tòa nhà này là nơi tổ chức nhà thờ St Pölten. Thành phố đã thay thế Vienna làm thủ phủ Hạ Áo theo nghị quyết của Nghị viện Hạ Áo vào ngày 10 tháng 7 năm 1986. Chính quyền Hạ Áo đã được đặt tại St Pölten từ năm 1997.",
"Tên St Pölten có nguồn gốc từ Hippôlytô thành Roma. Thành phố được đổi tên thành Sankt Hippolyt, sau đó là St Polyt và cuối cùng là St Pölten.",
"Chính trị.",
"Hội đồng thành phố.",
"Hội đồng thành phố bao gồm 42 thành viên và kể từ cuộc bầu cử thành phố vào năm 2016, Hội đồng thành phố bao gồm các đảng sau:",
"Nghi viện thành phố.",
"Nghị viện của thành phố bao gồm 11 thành viên:",
"Thị trưởng.",
"Vào ngày 9 tháng 7 năm 2004, hội đồng thành phố đã bầu ra cựu thượng nghị sĩ phụ trách văn hóa Mag. Matthias Stadler (SPÖ) với tư cách là thị trưởng mới của St Pölten. Phó thị trưởng thứ nhất là Susanne Kysela (SPÖ); Phó thị trưởng thứ hai là Johannes Sassmann (ÖVP).",
"Huy hiệu, cờ và con dấu.",
"Kí hiệu của huy hiệu có màu bạc và màu xanh da trời; ở bên phải là vạch đỏ, bên trái là hình con sói chồm lên màu bạc.",
"Cờ của thành phố có màu đỏ và vàng. Con dấu của thành phố có quốc huy được bao quanh bởi dòng chữ Landeshauptstadt St. Pölten. Con dấu của thẩm phán cũng có quốc huy của thành phố với dòng chữ Magistrat der Stadt St. Pölten.",
"Kinh tế.",
"Tính đến ngày 15 tháng 5 năm 2001, 40.041 người làm việc trong 2.711 công ty trong thành phố. 23 công ty trong số đó là các doanh nghiệp quy mô lớn với hơn 200 nhân viên.",
"Phương tiện truyền thông.",
"Một số công ty truyền thông có trụ sở tại St Pölten có \"@cetera\", một tạp chí văn học-văn hóa; \"City-Flyer\", một tạp chí trực tuyến mô tả những nét văn hóa của thành phố được xuất bản hàng tháng; \"Campus Radio\", một đài phát thanh của Đại học Khoa học Ứng dụng; \"HiT FM\", một đài phát thanh phát sóng ở Hạ Áo; \"LetHereBeRock\", một tạp chí trực tuyến dành cho giới trẻ về nền nhạc rock; NÖN, một tờ báo ở Hạ Áo; Tập đoàn Phát thanh truyền hình Áo chi nhánh Hạ Áo và kênh truyền hình địa phương \"P3tv\".",
"Doanh nghiệp quy mô lớn.",
"Các công ty lớn nhất có trụ sở tại St Pölten là nhà sản xuất đồ nội thất Leiner, nhà sản xuất giấy Salzer và tập đoàn kỹ thuật thuộc sở hữu của gia tộc Voith.",
"Tiện ích công cộng.",
"Địa điểm giải trí và thể thao.",
"Bạn có thể bơi tại Aquacity (hồ bơi trong nhà]), hồ bơi ngoài trời St. Pölten và Hồ Ratzersdorf (một hồ tắm nơi có bãi tắm khỏa thân, bóng chuyền bãi biển và Golf mini). Để rèn luyện sức khỏe có \" City-Treff - Pueblo \", \" Lifeline \", \" Reebok \" và \" Seepark \". Ngoài ra, thành phố có:",
"St Pölten có cơ sở chính của trường thể thao bang Hạ Áo.",
"Quần vợt.",
"Hàng năm, vào tuần thứ ba của tháng Năm, giải đấu của ATP diễn ra ở St Pölten. St Pölten có nhiều sân vận động quần vợt địa phương như Arena im Aufeld, trung tâm quần vợt Allround, các sân tennis của hiệp hội thể thao trên băng địa phương 1872, các sân ở St. Georgen, các sân ở Ratzersdorfer Pond, các sân ở trường thể thao bang Hạ Áo và các sân của công viên giải trí Megafun.",
"Quan hệ quốc tế.",
"Thị trấn song sinh - Thành phố kết nghĩa.",
"St Pölten kết nghĩa với các thành phố sau:",
"Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.",
" Altoona, Pennsylvania, USA",
"Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.",
" Brno, Cộng hòa Séc ",
"Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.",
" Clichy, Hauts-de-Seine, Île-de-France, Pháp#đổi ",
"Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.",
" Heidenheim, Baden-Württemberg, Đức#đổi ",
"Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.",
" Kurashiki, Nhật#đổi ",
"Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.",
" Nyíregyháza, Hungary#đổi ",
"Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.",
" Vũ Hán, Trung Quốc#đổi "
] |
3743 | 686003 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3743 | Graz | [
"Graz (]; tiếng Slovene: \"Gradec\", tiếng Séc: \"Štýrský Hradec\") là thành phố thủ phủ của bang Steiermark và là thành phố lớn thứ hai tại Áo chỉ sau Viên. Tính đến ngày 1 tháng 1 năm 2019, Graz có dân số là 328.276 người (trong đó có 292.269 người có hộ khẩu). Năm 2015, dân số khu đại đô thị Graz là 633.168 người. Graz có một truyền thống lâu đời như một trung tâm giáo dục đại học. Tại đây có bốn trường cao đẳng và bốn trường đại học với tổng số sinh viên là 60.000 người. Trung tâm lịch sử của nó (\"Altstadt\") là một trong những trung tâm thành phố được bảo tồn tốt nhất ở Trung Âu.",
"Về chính trị và văn hóa, Graz trong nhiều thế kỷ là một trung tâm quan trọng với người Slovene và Croatia",
"hơn cả hai thủ đô Ljubljana của Slovenia và Zagreb của Croatia ngày nay. Năm 1999, trung tâm lịch sử của thành phố đã được UNESCO thêm vào danh sách Di sản thế giới, và trong năm 2010 nó đã được mở rộng để bao gồm cả Cung điện Eggenberg nằm ở rìa phía tây thành phố. Thành phố này được trao danh hiệu Thủ đô Văn hóa châu Âu vào năm 2003 và trở thành Thành phố Ẩm thực vào năm 2008.",
"Tên nguyên.",
"Tên của thành phố, trước đây được đánh vần là Gratz, rất có thể bắt nguồn từ \"gradec\" trong tiếng Slav có nghĩa là \"lâu đài nhỏ\". Một số cuộc khai quật khảo cổ đã tìm thấy sự hiện diện của một lâu đài nhỏ của người dân Slav, theo thời gian đã trở thành một pháo đài được bảo vệ nghiêm ngặt. Trong tiếng Slovenia và Croatia, \"gradec\" có nghĩa là \"lâu đài nhỏ\" tạo thành một tên gọi trìu mến chuyển hóa của ngôn ngữ Slav Tây-Nam nguyên thủy là \"gradьcъ\" hay \"gardiku\" ban đầu biểu thị \"thị trấn nhỏ, khu định cư\". Do đó, cái tên này tuân theo kiểu mẫu Slav Nam chung để đặt tên các khu định cư là \"grad\". Tên tiếng Đức \"Graz\" xuất hiện đầu tiên trong ghi chép vào năm 1128.",
"Địa lý.",
"Graz nằm ở hai bên sông Mur ở đông nam nước Áo. Nó cách Viên (Wien) khoảng 200 km (120 dặm) về phía tây nam. Vùng đô thị lớn gần nhất là Maribor (Marburg) ở Slovenia, cách đó khoảng 50 km (31 dặm) về phía nam. Graz là thủ phủ của bang và là thành phố lớn nhất ở Steiermark, một khu vực nhiều cây xanh và nhiều rừng rậm ở rìa phía đông của dãy Alps.",
"Các thành phố lân cận.",
"Các thị trấn và làng mạc giáp ranh với Graz:",
"Quận.",
"Graz được chia thành 17 quận (\"Stadtbezirke\"):",
"<templatestyles src=\"Div col/styles.css\"/>",
"Lịch sử.",
"Khu định cư lâu đời nhất ở thành phố Graz hiện đại có từ thời kỳ đồ đồng. Tuy nhiên, nó không tồn tại liên tục đến trước thời Trung cổ.",
"Trong suốt thế kỷ 12, các công tước dưới sự cai trị của nhà Babenberg đã biến thị trấn trở thành một trung tâm thương mại quan trọng. Sau đó, Graz nằm dưới sự cai trị của nhà Habsburg và vào năm 1281, được vua Rudolph I trao đặc quyền.",
"Vào thế kỷ 14, Graz trở thành thành phố cư trú của nhánh Habsburg Nội Áo. Hoàng tộc sống trong lâu đài Schlossberg và từ đó cai trị Steiermark, Carinthia, hầu hết Slovenia ngày nay và một số vùng của Ý (Carniola, Gorizia và Gradisca, Trieste).",
"Vào thế kỷ 16, thiết kế và quy hoạch của thành phố chủ yếu do các kiến trúc sư và nghệ sĩ thời Phục hưng Ý kiểm soát. Một trong những tòa nhà nổi tiếng nhất đại diện cho phong cách này là Landhaus, được thiết kế bởi Domenico dell'Allio và được các nhà cai trị địa phương sử dụng làm trụ sở chính phủ.",
"Đại học Graz được thành lập bởi Đại Công tước Karl II vào năm 1585, đây là trường đại học lâu đời nhất của thành phố. Trong phần lớn thời gian tồn tại, nó được kiểm soát bởi Giáo hội Công giáo và bị đóng cửa vào năm 1782 bởi Joseph II trong một nỗ lực nhằm giành quyền kiểm soát của nhà nước đối với các cơ sở giáo dục. Joseph II đã biến nó thành một \"lyceum\" nơi các công chức và nhân viên y tế được đào tạo. Năm 1827, nó được Hoàng đế Franz I tái thành lập thành một trường đại học và được đặt tên là \"Karl-Franzens Universität\" hoặc \"Đại học Charles-Francis\" trong tiếng Anh. Hơn 30.000 sinh viên hiện đang theo học tại trường đại học này.",
"Nhà thiên văn học Johannes Kepler đã sống ở Graz trong một thời gian ngắn. Ông từng là giáo viên toán và là giáo sư toán tại Đại học Graz nhưng vẫn dành thời gian để nghiên cứu thiên văn. Ông rời Graz đến Praha khi tín đồ Luther bị cấm đến thành phố.",
"Ludwig Boltzmann là Giáo sư Vật lý Toán từ năm 1869 đến năm 1890. Trong thời gian đó, Nikola Tesla theo học ngành kỹ thuật điện tại Đại học Bách khoa vào năm 1875. Người đoạt giải Nobel Otto Loewi giảng dạy tại Đại học Graz từ năm 1909 đến năm 1938. Ivo Andric, người giải Nobel Văn học năm 1961 lấy bằng tiến sĩ tại Đại học Graz. Erwin Schrödinger là hiệu trưởng của Đại học Graz một thời gian ngắn vào năm 1936.",
"Graz nằm ở trung tâm của Bundesland (bang) Steiermark ngày nay hay \"Steiermark\" trong tiếng Đức. \"Mark\" là một từ tiếng Đức cổ để chỉ một vùng đất rộng lớn được sử dụng làm biên giới phòng thủ, trong đó, tầng lớp nông dân được dạy cách tổ chức và chiến đấu trong trường hợp bị xâm lược. Với vị trí chiến lược ở đầu thung lũng Mur rộng mở và màu mỡ, Graz trong lịch sử là mục tiêu của những kẻ xâm lược như người Hungary dưới thời Mátyás Corvin vào năm 1481 và người Ottoman vào năm 1529 và 1532. Ngoài Lâu đài Riegersburg, Schlossberg là pháo đài duy nhất trong khu vực chưa từng rơi vào tay Ottoman. Graz là nơi có kho vũ khí cấp tỉnh của khu vực, đây là bộ sưu tập hiện vật lịch sử lớn nhất thế giới về vũ khí cuối thời Trung cổ và Phục hưng. Nó đã được bảo tồn từ năm 1551 và trưng bày hơn 30.000 hiện vật.",
"Từ đầu thế kỷ 15, Graz là nơi ở của nhánh nhỏ hơn của nhà Habsburg, người kế vị ngai vàng vào năm 1619 dưới thời Hoàng đế Ferdinand II, người đã dời đô đến Viên. Các công sự mới được xây dựng ở Schlossberg vào cuối thế kỷ 16. Quân đội của Napoléon đã chiếm giữ Graz vào năm 1797. Năm 1809, thành phố này phải chịu một cuộc tấn công khác của quân đội Pháp. Trong cuộc tấn công này, sĩ quan chỉ huy trong pháo đài được lệnh bảo vệ nó với khoảng 900 người chống lại đội quân khoảng 3.000 người của Napoléon. Ông đã bảo vệ thành công Schlossberg trước tám cuộc tấn công nhưng họ buộc phải bỏ cuộc sau khi \"Grande Armée\" chiếm đóng Viên và Hoàng đế ra lệnh đầu hàng. Sau khi bị quân Napoléon đánh bại Áo trong trận Wagram vào năm 1809, các công sự bị phá hủy bằng chất nổ theo quy định trong Hòa ước Schönbrunn cùng năm. Tháp chuông (Glockenturm) và tháp đồng hồ (Uhrturm) là điểm thu hút khách du lịch hàng đầu và là biểu tượng của Graz đã được miễn việc phá hủy sau khi người dân Graz trả tiền chuộc để giữ lại.",
"Đại Công tước Karl II của Nội Áo đã đốt 20.000 cuốn sách Tin lành tại quảng trường mà bây giờ là bệnh viện tâm thần và đã thành công trong việc trả lại Steiermark cho Tòa Thánh. Đại Công tước Franz Ferdinand sinh ra ở Graz, nơi mà ngày nay là Stadtmuseum (bảo tàng thành phố).",
"Phát triển dân số.",
"Các số liệu dân số gần đây không đưa ra bức tranh toàn cảnh vì chỉ những người có tình trạng cư trú chính được tính còn những người có tình trạng cư trú thứ cấp thì không. Hầu hết những người có tình trạng cư trú thứ cấp ở Graz là sinh viên. Vào cuối năm 2016, có 33.473 người có tình trạng cư trú thứ cấp ở Graz.",
"Khí hậu.",
"Khí hậu đại dương là kiểu khí hậu trong thành phố [16] nhưng do đẳng nhiệt 0 °C, điều này cũng xảy ra ở khí hậu lục địa ẩm có trụ sở trong hệ thống Köppen (đường biên giới Cfb / Dfb). Bản thân Wladimir Köppen đã có mặt tại thị trấn và thực hiện các nghiên cứu để xem khí hậu trong quá khứ ảnh hưởng như thế nào đến lý thuyết Trôi dạt lục địa. [17] Do vị trí của nó ở phía đông nam của dãy Alps, Graz được che chắn khỏi những cơn gió tây mang các khối khí từ Bắc Đại Tây Dương đến tây bắc và trung Âu. Do đó, thời tiết ở Graz chịu ảnh hưởng của Địa Trung Hải và nó có nhiều giờ nắng mỗi năm hơn Viên hoặc Salzburg và cũng ít gió hoặc mưa hơn. Graz nằm trong một lưu vực chỉ mở về phía nam, khiến khí hậu ấm hơn so với dự kiến ở vĩ độ đó. [18] Cây cối ở Graz thường mọc hướng về phía nam.",
"Người Slovene và Graz.",
"Về mặt chính trị, văn hóa, khoa học và tôn giáo, Graz là một trung tâm quan trọng đối của người Slovene, đặc biệt là từ khi thành lập Đại học Graz năm 1586 cho đến khi thành lập Đại học Ljubljana năm 1919. Năm 1574, cuốn sách Công giáo tiếng Slovene đầu tiên [sl] xuất bản tại Graz, và năm 1592, Hieronymus Megiser xuất bản tại Graz cuốn sách \"Dictionarium quatuor linguarum\", cuốn từ điển đa ngôn ngữ đầu tiên bằng tiếng Slovene.",
"Người Slovene ở Steiermark không coi Graz là một thành phố của người Đức mà là của họ, là nơi để học tập khi sống tại nhà người thân và để thực hiện tham vọng nghề nghiệp của mình. Các hiệp hội sinh viên ở Graz là một phần của người Slovene và các sinh viên Slovene ở Graz có ý thức về quốc gia hơn các nhóm sinh viên từ các dân tộc khác. Điều này dẫn đến những nỗ lực chống người Slovene quyết liệt của những người theo chủ nghĩa dân tộc Đức ở Graz trước và trong Thế chiến thứ hai.",
"Nhiều người Slovene Steiermark học ở đó. Người Slovene là một trong số các giáo sư tại nhạc viện Jazz ở Graz. Nhiều người Slovene đã tìm được việc làm ở đó trong khi trước đây họ thất nghiệp ở Slovenia. Đối với văn hóa Slovene, Graz vẫn vĩnh viễn chiếm một phần quan trọng do trường đại học ở đây và kho lưu trữ Universalmuseum Joanneum chứa nhiều tài liệu về người Slovene Steiermark.",
"Một hội nghị chuyên đề về mối quan hệ của Graz và người Slovene đã được tổ chức tại Graz vào năm 2010 nhân dịp kỷ niệm 200 năm thành lập chủ tịch đầu tiên và lâu đời nhất của người Slovene. Nó được thành lập tại Lyzeum của Graz vào tháng 7 năm 1811 theo sáng kiến của Janez Nepomuk Primic [sl]. Một bộ sưu tập các bài giảng về chủ đề đã được xuất bản. Bưu chính Slovenia đã kỷ niệm ngày kỷ niệm bằng một con tem.",
"Điểm tham quan chính.",
"Trong năm Graz là Thủ đô Văn hóa Châu Âu, các công trình kiến trúc mới đã được dựng lên. Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại Graz (tiếng Đức: Kunsthaus) được thiết kế bởi Peter Cook và Colin Fournier nằm bên bờ sông Mur. Cù lao trên sông Mur là một bệ nổi làm bằng thép. Nó được thiết kế bởi kiến trúc sư người Mỹ Vito Acconci và có một quán cà phê, một nhà hát ngoài trời và một sân chơi.",
"Trung tâm thành phố cổ.",
"Trung tâm lịch sử đã được thêm vào Danh sách Di sản Thế giới của UNESCO vào năm 1999 do sự kết hợp hài hòa của các tòa nhà tiêu biểu từ các thời đại khác nhau và theo các phong cách kiến trúc khác nhau. Nằm ở vùng biên giới văn hóa giữa Trung Âu, Ý và các nước Balkan, Graz hấp thụ nhiều ảnh hưởng khác nhau từ các khu vực lân cận và do đó tạo nên cảnh quan đặc biệt của thị trấn. Ngày nay, trung tâm lịch sử này bao gồm hơn 1.000 tòa nhà có niên đại từ thời Gothic đến nay.",
"Các điểm tham quan quan trọng nhất ở trung tâm lịch sử là:",
"Chính trị.",
"[[Tập tin:Gemeindesrat of Graz elections, 1945-2021.png|thumb|400px|Các cuộc bầu cử từ năm 1945 đến năm 2017.]]",
"Trong phần lớn lịch sử sau chiến tranh, Graz là thành trì của [[Đảng Dân chủ Xã hội Áo]] (SPÖ) nhưng kể từ cuối những năm 1990, đảng này đã mất hầu hết sự ủng hộ ở cấp địa phương. Nó đã bị [[Đảng Nhân dân Áo]] (ÖVP) vượt qua vào năm 2003, đảng này là đảng lớn nhất trong hội đồng thành phố (Gemeindesrat) kể từ đó. Với sự suy yếu của SPÖ, [[Đảng Cộng sản Áo]] (KPÖ) đã trở nên rất phổ biến ở Graz mặc dù sự hiện diện của nó ở cấp quốc gia không đáng kể. Đảng này đứng thứ ba với 20,8% phiếu bầu trong cuộc bầu cử địa phương năm 2003, được cho là nhờ sự nổi tiếng của lãnh đạo địa phương [[Ernest Kaltenegger]]. Đảng này đã giảm tỉ lệ ủng hộ xuống 11,2% vào năm 2008 nhưng đã phục hồi dưới thời lãnh đạo mới [[Elke Kahr]], trở thành đảng đứng thứ hai ở Graz với 19,9% trong năm 2012 và 20,3% vào năm 2017. Sự nổi tiếng của KPÖ ở Graz đã cho phép họ tham gia vào nghị viện bang Steiermark. trong cuộc bầu cử năm 2005, đánh dấu lần xuất hiện đầu tiên của họ trong nghị viện tiểu bang sau 35 năm; họ đã giữ được ghế của mình trong các cuộc bầu cử tiếp theo năm 2010, 2015 và 2019.",
"Thị trưởng hiện tại của Graz là [[Siegfried Nagl]] (ÖVP), người lần đầu tiên nhậm chức vào năm 2003.",
"Cuộc bầu cử hội đồng thành phố gần đây nhất được tổ chức vào ngày 5 tháng 2 năm 2017 với kết quả như sau:",
"Văn hóa.",
"Trong năm 2003, Graz đã giữ danh hiệu \"[[Thủ đô Văn hóa Châu Âu]]\" và là một trong những \"Thành phố Thiết kế\" của [[UNESCO]] vào năm 2011.",
"Bảo tàng.",
"[[Tập tin:Graz Kunsthaus vom Schlossberg 20061126.jpg|thumb|right|Kunsthaus]]",
"[[Tập tin:Tramway graz14.jpg|thumb|right|Bảo tàng xe điện]]",
"[[Tập tin:07 Graz, Austria.jpg|thumb|right|Toàn cảnh thành phố từ Schlossberg với Kunsthaus ở giữa]]",
"Các bảo tàng quan trọng nhất ở Graz là:",
"Kiến trúc.",
"Khu Phố Cổ và các quận lân cận được đặc trưng bởi các tòa nhà và nhà thờ cổ. Ở các quận bên ngoài, các tòa nhà chủ yếu mang phong cách kiến trúc từ nửa sau thế kỷ 20.",
"Năm 1965, \"Grazer Schule\" (Trường phái Graz) được thành lập. Một số tòa nhà xung quanh các trường đại học mang phong cách này như những ngôi nhà xanh của [[Volker Giencke]] và trung tâm \"RESOWI\" của [[Günther Domenig]].",
"Trước khi Graz trở thành Thủ đô Văn hóa Châu Âu vào năm 2003, một số dự án mới đã được thực hiện như [[Stadthalle]], [[Kindermuseum]] (bảo tàng dành cho trẻ em), [[Helmut-List-Halle]], [[Kunsthaus]] và [[Murinsel]].",
"Các tòa nhà ở Graz cao ít nhất 50m là:",
"Thể thao.",
"[[SK Sturm Graz]] là câu lạc bộ bóng đá chính của thành phố với 3 chức vô địch Áo và 5 mùa giải á quân. [[Grazer AK]] cũng từng giành chức vô địch Áo nhưng được đưa vào quản lý vào năm 2007 và bị loại khỏi hệ thống giải đấu chuyên nghiệp.",
"Ở môn khúc côn cầu trên băng, [[ATSE Graz]] là nhà vô địch của [[Giải Khúc côn cầu Áo]] vào các năm 1975 và 1978. [[EC Graz]] là á quân vào các năm 1991–92, 1992–93 và 1993–94. [[Graz 99ers]] chơi ở giải hạng nhất kể từ năm 2000.",
"[[UBSC Raiffeisen Graz]] chơi ở [[Giải bóng rổ Áo]].",
"[[Graz Giants]] thi đấu tại [[Giải Bóng bầu dục Áo]] (Bóng bầu dục Mỹ).",
"Thành phố này đã đăng ký tổ chức [[Thế vận hội Mùa đông 2002]] vào năm 1995 nhưng đã thua [[Thành phố Salt Lake]] trong cuộc bầu chọn. Ngày nay, có kế hoạch đấu thầu cho [[Thế vận hội mùa đông 2026]] với một số địa điểm ở Bayern, Đức để cắt giảm chi phí khi sử dụng các địa điểm hiện có xung quanh biên giới quốc gia. Nó vẫn đang được trưng cầu dân ý, có nghĩa là thường là dấu chấm hết cho nhiều cuộc đấu thầu ở châu Âu và Bắc Mỹ trước đây kể từ năm 1970.",
"Styriarte.",
"Graz tổ chức lễ hội âm nhạc cổ điển [[Styriarte]] hàng năm, được thành lập vào năm 1985 để gắn kết nhạc trưởng [[Nikolaus Harnoncourt]] gần hơn với quê hương của ông. Các sự kiện đã được tổ chức tại các địa điểm khác nhau ở Graz và trong khu vực xung quanh.",
"Phương ngữ.",
"Người dân địa phương gọi là Steirisch, Graz thuộc về vùng phương ngữ [[Tiếng Bayern|Áo-Bayern]], cụ thể hơn là sự pha trộn giữa tiếng [[Phương ngữ Trung Bayern|Trung Bayern]] ở phía tây của [[Steiermark]] và tiếng [[Nam Bayern]] ở phần phía đông. Grazer [[ORF (đài truyền hình)|ORF]], công ty con ở Graz thuộc Tập đoàn Phát thanh truyền hình Áo đã đưa ra một sáng kiến vào năm 2008 có tên là \"Scho wieda Steirisch g'redt\" nhằm làm nổi bật nhiều phương ngữ của Graz và Steiermark nói chung và nuôi dưỡng niềm tự hào mà nhiều người Steiermark giữ cho văn hóa địa phương của họ. Hai lý do cho sự kết hợp các phương ngữ này với [[tiếng Đức chuẩn]]: ảnh hưởng của truyền hình và đài phát thanh đưa tiếng Đức chuẩn vào gia đình và quá trình công nghiệp hóa làm biến mất những người nông dân vì các cộng đồng nông dân được coi là những người thực sự nói phương ngữ.",
"Vận tải.",
"[[Tập tin:Tramway graz23.jpg|thumb|right|Xe điện tại [[Jakominiplatz]]]]",
"Mạng lưới giao thông công cộng rộng khắp khiến Graz trở thành một thành phố thuận tiện cho việc di chuyển mà không cần ô tô. Thành phố có một mạng lưới xe buýt toàn diện bổ sung cho mạng lưới xe điện Graz bao gồm tám tuyến. Bốn tuyến đi qua trạm dừng xe điện ngầm tại ga xe lửa trung tâm (Hauptbahnhof) và đến trung tâm thành phố trước khi rẽ nhánh. Hơn nữa, có bảy tuyến xe buýt chạy vào ban đêm mặc dù các tuyến này chỉ chạy vào cuối tuần và vào các buổi tối trước ngày lễ.",
"[[Schlossbergbahn]], một tuyến đường sắt leo núi và thang máy Schlossberg, một thang máy thẳng đứng kết nối trung tâm thành phố với Schlossberg.",
"Từ ga xe lửa trung tâm (Hauptbahnhof), các chuyến tàu trong khu vực liên kết đến hầu hết Steiermark. Các chuyến tàu chạy thẳng đến hầu hết các thành phố lớn gần đó bao gồm [[Viên]], [[Salzburg]], [[Innsbruck]], [[Maribor]] và [[Ljubljana]] ở Slovenia, [[Zagreb]] ở Croatia, [[Budapest]] ở Hungary, [[Praha]] và [[Brno]] ở Cộng hòa Séc, [[Zürich]] ở Thụy Sĩ cũng như [[Munich]], [[Stuttgart]], [[Heidelberg]] và [[Frankfurt]] ở Đức. Các chuyến tàu đến Viên khởi hành mỗi giờ. Trong những năm gần đây, nhiều ga đường sắt trong phạm vi thành phố và ngoại ô đã được xây dựng lại hoặc hiện đại hóa và hiện là một phần của \"S-Bahn Graz\", một dịch vụ tàu hỏa đi lại kết nối thành phố với khu vực ngoại ô và các thị trấn lân cận.",
"[[Sân bay Graz]] nằm cách trung tâm thành phố khoảng 10 km (6 mi) về phía nam và có thể đến bằng xe buýt, đường sắt và ô tô. Các điểm đến trực tiếp bao gồm [[Amsterdam]], [[Berlin]], [[Düsseldorf]], [[Frankfurt]], [[Munich]], [[Stuttgart]], [[Istanbul]], [[Viên]] và [[Zurich]].",
"Sức khỏe.",
"Ở Graz có bảy bệnh viện, một số bệnh viện tư nhân, viện điều dưỡng và 44 nhà thuốc.",
"Bệnh viện Đại học Graz (LKH-Universitäts-Klinikum Graz) nằm ở phía đông Graz và có 1.556 giường bệnh và 7.190 nhân viên. Bệnh viện Khu vực Graz II (LKH Graz II) có hai địa điểm ở Graz. Cơ sở phía tây (LKH Graz II Standort West) nằm ở [[Eggenberg]] và có 280 giường bệnh và khoảng 500 nhân viên, địa điểm phía nam (LKH Graz II Standort Süd) chuyên về thần kinh học và tâm thần học và nằm ở [[Straßgang]] với 880 giường bệnh và 1.100 nhân viên. Bệnh viện Tai nạn AUVA (Unfallkrankenhaus der AUVA) nằm ở Eggenberg, có 180 giường bệnh và tổng số 444 nhân viên.",
"Phòng khám Albert Schweitzer ở phía tây của thành phố là một bệnh viện lão khoa với 304 giường, Bệnh viện Thánh John của Chúa (Krankenhaus der Barmherzigen Brüder) có hai địa điểm ở Graz, một ở [[Lend]] với 225 giường và một ở Eggenberg với 260 giường. Bệnh viện Dòng Thánh Elizabeth (Krankenhaus der Elisabethinen) ở [[Gries]] có 182 giường.",
"Ngoài ra, còn có một số phòng khám tư nhân: Privatklinik Kastanienhof, Privatklinik Leech, Privatklinik der Kreuzschwestern, Sanatorium St. Leonhard, Sanatorium Hansa và Privatklinik Graz-Ragnitz.",
"[[Dịch vụ y tế khẩn cấp ở Áo]] ở Graz chỉ được cung cấp bởi [[Hội Chữ thập đỏ Áo]]. Thường xuyên có hai xe cấp cứu của bác sĩ (NEF - Notarzteinsatzfahrzeug), hai xe NAW (Notarztwagen - xe cấp cứu có nhân viên bác sĩ ngoài nhân viên thông thường) và khoảng 30 xe RTW (Rettungswagen - xe cấp cứu thông thường) ở chế độ chờ. Hơn nữa, một số xe cấp cứu không khẩn cấp (KTW - Krankentransportwagen) và Đơn vị Chăm sóc Đặc biệt Di động (MICU) được điều hành bởi Hội Chữ Thập Đỏ để vận chuyển bệnh nhân không cần cấp cứu đi hoặc chuyển viện. Ngoài Hội Chữ thập đỏ, Liên minh Samaritan của người Lao động (Arbeiter-Samariter-Bund Österreichs), tổ chức Quân đoàn cứu thương Malta Áo (Malteser Hospitaldienst Austria) và Hội Chữ thập xanh (Grünes Kreuz) vận hành xe cứu thương (KTW) để vận chuyển bệnh nhân không khẩn cấp. Ngoài ô tô còn có máy bay trực thăng cứu thương hàng không C12 đóng tại sân bay Graz, được biên chế với một bác sĩ cấp cứu ngoài nhân viên thông thường.",
"Quan hệ quốc tế.",
"Thành phố kết nghĩa.",
"Graz là [[thành phố kết nghĩa]] với:",
"<templatestyles src=\"Div col/styles.css\"/>",
"Nhân vật nổi tiếng.",
"Sau đây là những nhân vật nổi tiếng trong quá khứ và hiện tại của Graz.",
"<templatestyles src=\"Div col/styles.css\"/>",
"Liên kết ngoài.",
"Trang chính",
"Lịch sử",
"Thông tin đọc thêm",
"[[Thể loại:Di sản thế giới tại Áo]]",
"[[Thể loại:Graz| ]]",
"[[Thể loại:Đô thị của Steiermark]]",
"[[Thể loại:Thủ phủ bang Áo]]"
] |
3744 | 686003 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3744 | Giáo hoàng Gioan Phaolô II | [
"Gioan Phaolô II (hay Gioan Phaolô Đệ Nhị, Latinh: \"Ioannes Paulus II\"; tên sinh ; 18 tháng 5 năm 1920 – 2 tháng 4 năm 2005) là vị giáo hoàng thứ 264 của Giáo hội Công giáo Rôma và là người lãnh đạo tối cao của Vatican kể từ ngày 16 tháng 10 năm 1978. Cho đến khi qua đời, triều đại của ông đã kéo dài hơn 26 năm và trở thành triều đại Giáo hoàng dài thứ hai trong lịch sử hiện đại, sau triều đại dài 32 năm của Giáo hoàng Piô IX. Cho đến hiện tại, ông là vị Giáo hoàng duy nhất người Ba Lan và là Giáo hoàng đầu tiên không phải người Ý trong gần 500 năm, kể từ Giáo hoàng Ađrianô VI năm 1520.",
"Ông được tạp chí TIME bình chọn là một trong bốn người có ảnh hưởng lớn nhất thế kỷ 20. và cả những năm đầu thế kỷ 21.",
"Trong triều đại của mình, Giáo hoàng Gioan Phaolô II không ngừng mở rộng ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo trong Thế giới thứ ba. Ông đã thực hiện rất nhiều chuyến công du hơn 129 quốc gia, ông có thể nói được hơn 10 ngôn ngữ (ngoài tiếng Ba Lan còn có tiếng Ý, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga .",
"Trong khi tại vị, ông đã lên tiếng phản đối chiến tranh, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản, chế độ độc tài, chủ nghĩa duy vật, các phương pháp phá thai, cách thức chết êm dịu và ủng hộ hòa bình. Ông cũng được coi là một trong những nguồn lực dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Ba Lan và Đông Âu.",
"Ông là vị giáo hoàng đầu tiên công khai xin lỗi về những lỗi lầm của Giáo hội trong quá khứ; tổng cộng hơn 100 lần về những hành động sai trái của Giáo hội Công giáo",
"trong đó có sự kiện xưng thú 7 tội của Giáo hội trước đám đông tại quảng trường thánh Phêrô vào ngày 12 tháng 3 năm 2000. Ông cũng là vị Giáo hoàng đầu tiên đứng ra hòa giải với Chính thống giáo Đông phương và Do Thái giáo,; Anh giáo.; là vị Giáo hoàng đầu tiên đứng ra tổ chức cuộc gặp gỡ với các lãnh đạo của các tôn giáo khác như Phật giáo, Khổng giáo, Chính thống giáo Đông phương, Do Thái giáo, Cao Đài và Hồi giáo; là vị Giáo hoàng đầu tiên đến thăm một ngôi đền Hồi giáo ở Syria; là vị Giáo hoàng đầu tiên tổ chức ra Ngày Giới trẻ Thế giới hằng năm; và cũng là vị Giáo hoàng đầu tiên đến thăm vùng Thánh Địa Jerusalem. Gioan Phaolô II cũng đã lên tiếng thừa nhận vai trò của thuyết Tiến hóa, thuyết Nhật tâm, nguồn gốc thế giới theo quan điểm khoa học ngày nay, phủ nhận sự hiện hữu của một thiên đường vật chất trên các tầng mây và một địa ngục vật chất nơi con người bị thiêu đốt như trong Thánh kinh miêu tả",
"Gioan Phaolô II đã được Giáo hoàng Biển Đức XVI phong là Đấng đáng kính ngày 19 tháng 12 năm 2009 và phong chân phước ngày 1 tháng 5 năm 2011. Ông được Giáo hoàng Phanxicô tuyên thánh vào ngày 27 tháng 4 năm 2014. Vì ông là người sáng lập ra Đại hội Giới trẻ Thế giới nên ông được chọn là một trong những vị quan thầy bảo trợ cho nhiều kỳ đại hội này kể từ năm 2008.",
"Tiểu sử.",
"Thời thơ ấu.",
"Karol Józef Wojtyła sinh vào ngày 18 tháng 5 năm 1920 tại Wadowice, miền nam Ba Lan, cách Kraków 50 cây số. Là con út trong một gia đình có ba người con, cô chị chết từ khi còn nhỏ. Cha ông là Karol Wojtyla một cựu sĩ quan trong quân đội Habsburg và mẹ là Emilia Kaczorowka. Bà là con của một viên chức chính phủ và chính bà là người đã truyền lại lòng đạo đức sâu sắc cho ông.Theo lời kể của Giáo hoàng thì chính mẹ ông \"là người đã tạo ra món quà tôn giáo kỳ diệu cho gia đình Wojtyla\". Ngay từ đầu, bà đã muốn Karol trở thành một tu sĩ. Bà thường nói với những người hàng xóm: \"Lolek (một cách gọi Karol) của tôi sẽ trở thành một người vĩ đại\"",
"Trong trường tiểu học dành cho trẻ em trai ở Wadowice, ông tỏ ra là một học sinh xuất sắc. Trong phiếu báo điểm đầu tiên, cậu được các điểm \"rất tốt\" về tôn giáo, hành vẽ, vẽ, hát, trò chơi, thể dục và \"tốt\" trong tất cả các môn còn lại. Ông rất thích thể thao, là thủ môn cho đội tuyển nhà trường. Ông được rước lễ lần đầu lúc 9 tuổi, được lãnh bí tích thêm sức lúc 17 tuổi. Mẹ ông qua đời ngày 13 tháng 4 năm 1929, lúc ông mới 9 tuổi. Giấy chứng tử của bà ghi bà bị sung huyết tim và thận..",
"Ở tuổi 11, Karol vào học trường trung học dành cho nam sinh của Wadowice. Cũng trong năm đó, ông trở thành một chú bé phụ lễ và có mối quan hệ gần gũi với linh mục Kazimiers Figlewicz. Ngày 5 tháng 12 năm 1932 anh ông là Edmund qua đời khi đang chăm sóc những người bị bệnh dịch. Sau này, trong một giây phút giãi bày tâm sự hiếm hoi, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã kể lại với tác giả người Pháp André Frossard: \"cái chết của anh tôi có thể đã tác động tới tôi sâu sắc hơn cái chết của mẹ, do những hoàn cảnh riêng biệt, tất nhiên là đau thương và do tôi đã lớn hơn\".",
"Trong thời gian này ông cũng đã đến với sân khấu. Nhiều trong số các vở kịch được diễn trên sân khấu của trường trung học là do Karol Wojtyla đạo diễn. Những vở kịch này thường đề cập tới những chủ đề yêu nước. Karol cũng thích khiêu vũ, ông có thể khiêu vũ thoải mái với các điệu pôlône, maduka, van, tănggô. Vào cuối những năm trung học, ông đã quen biết với Mieczyslaw Kotlarczyk - một nhà trí thức, người đã sáng lập Nhà hát Đại học nghiệp dư ở Wadowice. Ngày 6 tháng 5 năm 1938, tổng Giám mục địa phận Kraków, Adam Sapieha đến Wadowice để chủ tọa buổi lễ xác nhận trước khi tốt nghiệp. Ấn tượng trước cậu học sinh Karol, Giám mục đã hỏi cậu sẽ vào trường dòng chứ? Nhưng Karol đã trả lời rằng: \"Con sẽ nghiên cứu văn học Ba Lan và triết học\".",
"Sau khi học xong trung học tại Wadowice, Cha ông đưa ông đến Kraków vào tháng 8 năm 1938 khi ông 18 tuổi. Ở đó ông ghi danh vào Đại học Kraków giống như ông anh Edmund. Karol Wojtyła nhanh chóng thích ứng với 1 chương trình rất nặng tại trường đại học bao gồm các môn: từ vựng và ngữ âm Ba Lan, Văn học trung cổ Ba Lan, Kịch Ba Lan thế kỷ XVIII và thi ca đương đại. Ông đã trở thành một sinh viên triết lý và văn chương rất xuất sắc, vừa đồng thời theo học thêm ngành kịch nghệ. Wojtyła nhanh chóng kết bạn với một loạt các thi sĩ và kịch gia. Ông thường lui tới ngôi nhà của gia đình Szkoci - một nhà âm nhạc cừ khôi.",
"Ông được huấn luyện quân sự ở Hermanice năm 1935. Vào tháng 7 năm 1939, các sinh viên Ba Lan và Ukraine phải vào trung tâm huấn luyện quân sự ở Ozomla, gần Sadowa Wiszna. Vào ngày 1 tháng 9 năm 1939 khi Đức tấn công Ba Lan mở màn cho Chiến tranh thế giới lần thứ hai, hai cha con Wojtyła quyết định rời khỏi Kraków. Hai người cuốc bộ đi về phía đông tới vùng núi Tarmobrzeg, cách Kraków 120 dặm thì nhận được tin Nga chuẩn bị xâm nhập phía đông Ba Lan. Hai cha con quyết định quay trở lại Kraków .",
"Vào mùa Đông năm 1939, Tyranowski đã mời ông tham gia tổ chức Living Rosary - một tổ chức hoạt động tôn giáo rất bí mật. Wojtyła gặp Tyranowski một tuần một lần. Dưới sự chỉ đạo của Tyranowski, ông lao vào những thực hành huyền bí . Wojtyła đã học cách điều chỉnh cuộc sống hàng ngày một cách chính xác cho công việc cũng như cho các hoạt động tôn giáo của mình. Chính cách làm việc này đã ảnh hưởng rất nhiều tới ông sau này. Trong thời gian này, ông cũng viết cùng một lúc ba vở kịch: David, Job và Jeremiah bảy tỏ những suy nghĩ, tính huyền bí của sự hi sinh và sự khát khao về một sự giải phóng dân tộc mới .",
"Bất kỳ ai không có một việc làm thường xuyên được nhà chức trách Đức xác nhận đều có nguy cơ bị đưa sang Đức. Chính vì lý do đó, tháng 10 năm 1940 ông đã làm việc lao động chân tay trong một nhà máy hóa học ở Solvay ở ngoại ô Kraków. Đây là những kinh nghiệm cho những quan điểm và thái độ với phong trào công nhân và nhân dân lao động sau này. Ông chỉ phải lao động nặng trong vài tháng còn sau đó đã chuyển sang lao động nhẹ hơn. Thậm chí có thể kiếm được một chân văn phòng thế nhưng để đảm bảo an toàn và không gây chú ý ông đã từ chối .",
"Ngày 18 tháng 2 năm 1941, cha ông Wojtyla sau một trận ốm nặng đã qua đời. Sau khi những nghi thức cuối cùng dành cho người qua đời đã được cử hành, ông đã thức suốt đêm để canh thi hài cho cha và suy nghĩ về tương lai và nghề nghiệp của mình. Ông đã nói với tác giả André Frossard: \"ở tuổi 20, tôi đã mất tất cả những người mà tôi yêu quý, và thậm chí cả những người mà có thể tôi đã yêu quý\". Đầu năm 1941, theo lời giới thiệu của vị giáo sư tiếng Pháp cũ của ông, các quản đốc ở Solvay trao cho ông công việc kế toán ở mỏ đá và theo dõi số chất nổ được dùng để phá đá.",
"Lúc nhỏ tuổi ông có tiếp xúc nhiều lần với nhóm người Do Thái tại Kraków. Trong thời Đức quốc xã chiếm Ba Lan trong Chiến tranh thế giới thứ hai, rất nhiều bạn bè Do thái của Karol Józef Wojtyła đã bị giết hay bị trục xuất. Tuy nhiên thái độ của Wojtyla với những hành động này là \"cầu nguyện\". Ông nói rằng: \"Hãy nhớ rằng, chúng ta có bổn phận cầu chúa ban cho họ đủ sức mạnh chịu đựng tất cả những thứ này\" . Ông không bao giờ tham gia vào bất kỳ một sự kháng cự nào chống lại Đức quốc xã hay vào những hoạt động nhằm giải cứu người Do Thái..",
"Trong những lúc rảnh rỗi, ông đã dành thời gian say mê điện ảnh. Cùng với những người bạn trong đó có Mieczyslaw Katlarczyk, ông đã sáng lập nên nhà hát Rhapsodic, tiền thân của đoàn kịch nghệ quốc gia Ba Lan. Nhưng họ phải hoạt động một cách bí mật vì nếu bị lính Đức quốc xã phát hiện họ sẽ có thể bị giết hay trục xuất. Mặc dù vậy trong khoảng thời gian từ 1941 - 1945, nhà hát đã trình diễn được 22 buổi và Wojtyła đã tỏ ra là một diễn viên xuất sắc.",
"Tu sĩ.",
"Năm 1941, sau khi cha ông qua đời, Karol đã dấn sâu hơn vào việc tái hiện sự huyền bí và triết học. Tại nhà Kydrynskis-một người bạn, nơi ông đã dọn đến và ở trong sáu tháng, người ta thường thấy ông nằm xoài ra sàn nhà cầu nguyện, tay dang ngang như hình thánh giá..",
"Vào mùa thu năm 1942, sau một cuộc thảo luận dài với cha giải tội Figlewicz, Wojtyla đến nhà riêng tổng Giám mục Sapieha và trình bày ước nguyện trở thành tu sĩ với vị Giám mục. Trước đó, ông đã tới tu viện khổ hạnh dòng Carmeline ở Czerna với hy vọng được vào đây nhưng tu viện này đã bị quốc xã đóng cửa. Mặc dù những người bạn đã cố gắng thuyết phục ông đừng rời bỏ sự nghiệp sân khấu, nhưng ông vẫn quyết định theo con đường mình đã chọn.",
"Ông bắt đầu lén lút học những môn của Chủng viện Kraków, do Hồng y Adam Stefan Sapieha, lúc đó là Tổng Giám mục Kraków, điều khiển. Mỗi người được trao cho một vị giáo sư. Các lớp học được tổ chức ở nhà tu, nhà thờ và ở nhà riêng. Những chủng sinh này được yêu cầu không để những người quen biết về việc học tập của họ và bản thân những người này vẫn duy trì một nếp sống bên ngoài như bình thường. Trong thời gian này, ông đã đọc cuốn: \"Luận về sự hiến dâng hoàn toàn cho Đức mẹ đồng trinh\" của St Louis Grignion de Montfort, \"Lý thuyết tự nhiên\" của Kazimierz Wars. Ngày 6 tháng 8 năm 1944, \"Ngày Chủ Nhật đen\" hơn 8000 người đàn ông và các cậu bé đã bị quân đội phát xít bắt giam, rất may mắn Wojtyla đã không nằm trong số đó. Sau sự kiện này, ông vào ẩn trú trong dinh tổng Giám mục và không tiếp tục làm việc tại Solvay nữa. Ngày 13 tháng 11, ông chịu lễ xuống tóc - một nghi lễ từ thời trung cổ để biểu tượng hóa sự khuất phục trước Chúa.",
"Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Karol Wojtyla trở về phân khoa Thần học của Đại học Jagiellonia vừa được mở cửa lại. Tại đây, ông đã được bầu làm phó chủ tịch hội sinh viên. Trong thời gian này, ông đã tập trung vào việc hoàn tất các chương trình nghiên cứu của năm 3 và năm 4. Từ tháng 4 năm 1945 cho tới tháng 8 năm 1946, ông cũng làm việc ở cương vị phụ giáo.",
"Karol Wojtyla cũng đệ đơn xin gia nhập tu viện Czera của dòng Carmelite đã được mở của trở lại. Tuy nhiên, tổng Giám mục Sapieha đã kiên quyết từ chối việc cho phép Wojtyla gia nhập dòng tu. Sau này, ông còn cố thử gia nhập dòng này một lần nữa vào năm 1948 nhưng vẫn bị vị tổng Giám mục từ chối.",
"Linh mục.",
"Karol Wojtyła được thụ phong linh mục vào dịp Lễ Các Thánh ngày 1 tháng 11 năm 1946 sớm hơn sáu tháng so với các chủng sinh đồng khóa. Ngày hôm sau, tại nhà lớn Wawel, Karol đã cử hành thánh lễ đầu tiên. Sau đó không lâu, hồng y Sapieha gửi linh mục Karol Wojtyla đi du học Roma, tại Đại học của các linh mục Dòng Đa Minh Angelicum. Dưới sự hướng dẫn của linh mục dòng Đa Minh nổi tiếng là Garrigou - Lagrange, Karol hoàn thành luận án tiến sĩ thần học về đề tài Đức tin trong các tác phẩm của Thánh Gioan Thánh giá vào năm 1948. Trong các kỳ nghỉ hè trong thời gian du học tại Roma, Karol thi hành mục vụ nơi các người Ba Lan di dân sống bên Pháp, Hà Lan và Bỉ.",
"Sau khi hoàn tất học trình tiến sĩ trong thời gian du học ở Roma, tháng 7 năm 1948, Karol Wojtyla được hồng y Sapieha bổ nhiệm làm linh mục phụ tá Niegowic, một giáo xứ hẻo lánh thuộc vùng quê Galicia, cách Kraków 30 dặm.Mỗi buổi sáng, Wojtyla thức giấc lúc 5 giờ, dâng Thánh Lễ, điểm tâm rồi dùng xe ngựa di chuyển một vòng qua các khu trong giáo xứ, hướng dẫn giáo lý cho thiếu nhi và cử hành Thánh Lễ tại một khu xóm. Sau đó, ông trở về nhà xứ ăn trưa, tiếp khách hoặc đi thăm viếng giáo dân. Những buổi chiều hoặc những cuối tuần rảnh rỗi ông còn tự mình phụ giúp giáo dân địa phương những công việc lao động trong nhà .",
"Cũng trong thời gian làm phó xứ Niegowic, linh mục Wojtyla đã cống hiến nhiều thì giờ cho giới trẻ tại đây. Ông hướng dẫn họ trình diễn trên sân khấu, giúp họ học thêm để bồi bổ kiến thức, tổ chức những buổi cắm trại trong rừng hoặc những chuyến du ngoạn trong các khu lân cận thuộc giáo phận Krakow, thành lập các đội bóng chuyền và bóng đá cho thanh thiếu niên trong vùng.",
"Tháng 3 năm 1949, hồng y Sapieha thuyên chuyển ông về làm việc tại một trường của Đại học Kraków thuộc giáo xứ Saint Florian. Ông tiếp tục trau dồi triết và thần học tại Đại học Công giáo Lublin. Tại đây, ông có cơ hội tìm hiểu thêm về giới trẻ, đồng thời khai triển những phương pháp mục vụ trong khi tiếp xúc với đời sống văn hóa cùng các thức giả tại tổng giáo phận Kraków. Cũng tại nơi đây, Linh mục Wojtyla còn có dịp tiếp tục triển khai những kiến thức về văn chương và triết học của mình.",
"Ông thường đưa những sinh viên đi cắm trại và du ngoại ngoài trời để hòa mình vào thiên nhiên. Chính nhờ những sinh hoạt với giới sinh viên trong thời gian ở Saint Florian, mà sau này khi được cử làm Giám mục Phụ Tá Giáo phận Krakow, linh mục Wojtyla đã hoàn tất những tác phẩm nói lên mối liên hệ phái tính theo tinh thần Kitô giáo mà tiêu biểu là: The Jeweler’s Shop (Tiệm Nữ Trang), Love And Responsibility (Tình Yêu Và Trách Nhiệm).",
"Năm 1953, ông trình bày một luận án với đề tài \"Thẩm định khả thể xây dựng nền luân lý Công giáo trên hệ thống luân lý của Max Scheler\" tại Đại học Lublin. Sau đó, ông trở thành giáo sư thần học luân lý và luân lý xã hội tại Đại chủng viện Kraków và tại phân khoa thần học của Đại học Công giáo Lublin.",
"Tháng 10 năm 1954, phân khoa Thần học tại Đại học Jagiellonian, nơi ông đang giảng dạy môn luân lý Kitô giáo, bị đóng cửa. Lúc ấy Linh mục Karol Wojtyla thường cùng một nhóm giáo sư bí mật gặp gỡ để trao đổi quan điểm về mối liên hệ giữa nhà nước và Giáo hội.",
"Giám mục.",
"Vào ngày 4 tháng 7 năm 1958 ông được Giáo hoàng Piô XII bổ nhiệm làm Giám mục phụ tá giáo phận Kraków. Nửa giờ sau cuộc gặp với Hồng y Wyszynski và nhận sự đề cử làm Giám mục phụ tá, vị linh mục trẻ tìm tới tu viện của các nữ tu áo xám Ursuline bên bờ sông Vistula. Ông đã cầu nguyện liên tục suốt trong 8 tiếng đồng hồ liên tiếp trước khi rời tu viện Ursuline.",
"Ngày 28 tháng 9 năm 1958, ông được tấn phong Giám mục tại Nhà thờ lớn Wawel ở Kraków, 11 ngày trước khi Giáo hoàng Piô XII qua đời. Một tháng sau, Giáo hoàng Gioan XXIII lên kế vị, mở ra một kỷ nguyên mới cho Giáo hội Công giáo qua quyết định triệu tập Công đồng Vatican II. Vị tân Giám mục 38 tuổi nhận được giấy mời tham dự công đồng.",
"Tại đây, ông đã có sự đóng góp tích cực và hữu hiệu vào chương trình của công đồng với bảy diễn từ đọc trước các nghị phụ tham dự Công đồng và với 13 tuyên ngôn, Giám mục Karol Wojtyla đã gây được một ấn tượng sâu sắc đối với hầu hết các thành phần tham dự Công đồng. Đặc biệt là của Giáo hoàng Gioan XXIII, và nhất là Giáo hoàng Phaolô VI sau đó.",
"Vào ngày 30 tháng 12 năm 1963, Giáo hoàng Phaolô VI đề bạt ông làm Tổng Giám mục Kraków. Trong cương vị tổng Giám mục, ông tham dự Công đồng Vatican II, góp công soạn thảo các tài liệu Tuyên ngôn về tự do tôn giáo (\"Dignitatis Humanae\") và Hiến chế Mục Vụ Giáo hội trong thế giới ngày nay (\"Gaudium et Spes\", Vui mừng và Hy vọng), hai văn bản có tính cách lịch sử và quan trọng nhất của Công đồng này.",
"Tháng 5 năm 1964, Wojtyla đã đệ trình đoàn chủ tịch công đồng 1 văn bản được soạn thảo nhân danh các Giám mục Ba Lan tuyên bố rằng: mối quan hệ của Giáo hội với thế giới hiện đại phải được dựa trên khái niệm coi Giáo hội là một xã hội hoàn thiện do Chúa sáng lập và ở bên trên lịch sử. Ngày 30 tháng 11 năm 1964, ông đã có cuộc nói chuyện riêng đầu tiên với Giáo hoàng Phaolô VI, người đã theo dõi chặt chẽ các phát biểu của người Giám mục mới này.",
"Trong thời gian này, nhà cầm quyền Ba Lan đã cho rằng Wojtyla là một người dễ có những thỏa hiệp với nhà nước hơn là Hồng y Wyszynski. Chính quyền đã gợi ý để Wyszynski lựa chọn Wojtyla vào ghế tổng Giám mục chứ không phải là một người khác. Niềm tin về Wojtyla của họ có thể thấy trong một báo cáo mật năm 1967 của cảnh sát Ba Lan: \"\"Có thể yên tâm nói rằng ông ta (Wojtyla) là một trong số ít những trí thức trong đoàn Giám mục Ba Lan. Không giống như Wyszynski, ông ta đã khéo léo dung hòa lòng mộ đạo truyền thống của dân chúng với Công giáo trí thức, mà cả hai đều được ông ta đánh giá cao...Cho đến nay, ông ta chưa tham gia vào các hoạt động chính trị chống nhà nước một cách công khai. Có vẻ như là các vấn đề chính trị không phù hợp với ông ta; ông ta bị trí thức hóa quá mức\".\" ",
"Hồng y.",
"Trong năm 1967 Giáo hoàng Phaolô VI phong ông làm hồng y. Ông cũng đồng thời được bổ nhiệm vào bốn thánh bộ của Vatican: bộ giáo sĩ, thánh bộ Giáo dục công giáo, thánh bộ nghi lễ, bộ các giáo hội Đông Phương và làm cố vấn cho hội đồng về thế tục.",
"Vào mùa Giáng sinh năm 1970, khi tình hình Ba Lan căng thẳng, giá thực phẩm leo thang, trong bài thuyết giảng nhân lễ Giáng sinh tại Kraków năm ấy, ông nói: \"Khi người dân bị thương tích và khổ đau, Giáo hội phải lên tiếng bênh đỡ không vì bất cứ khuynh hướng chính trị nào mà chỉ vì tình yêu và tình liên đới của người con Thiên Chúa\".",
"Thời gian này ông cũng làm việc với nhóm tín hữu trí thức dấn thân có tên là Odrodzenie (Tái Sinh), tổ chức Công giáo đấu tranh duy nhất đặt dưới sự bảo trợ của Hồng y Wyszynski. Ông cũng có những cuộc gặp gỡ giới trí thức để cùng nhau trao đổi quan điểm. Tại tư dinh, ông không chỉ gặp gỡ các chủ biên của tờ Tygodnik Powszechny mà còn tiếp xúc với các sử gia, các nhà toán học, các khoa học gia, triết gia, các văn gia, nhạc sĩ, kể cả các nghệ sĩ trình diễn. Ông bàn hỏi họ về những vấn đề của Ba Lan, của nhân loại và cả những vấn đề thuộc thế giới bên kia –thế giới siêu hình\".",
"Vào năm 1972, Hồng y Karol Wojyla cũng bắt đầu một mối quan hệ với Anna-Teresa Tymieniecka, một phụ nữ Ba Lan đang làm việc tại Đại học Havard . Bà đã giúp ông trở nên nổi bật, giới thiệu ông với cộng đồng triết học châu Âu, với các học giả Mỹ. Bà đã giúp vạch kế hoạch cho chuyến thăm kéo dài đầu tiên của ông tới Mỹ, và thu xếp để ông có bài giảng đầu tiên tại Đại học Harvard . Sau khi lên làm giáo hoàng, ông đã có một rắc rối với Tymieniecka về vấn đề bản quyền với cuốn Osoba i Czyn. Bà đã đánh giá sự im lặng của Giáo hoàng trước công luận trong cuộc tranh chấp này là một \"sự phản bội\" cá nhân, mặc dù bà và Giáo hoàng sau đó đã hòa giải.",
"Trong khoảng thời gian từ 1973 đến 1975, Tổng Giám mục Wojtyla đã vào phòng đọc của Giáo hoàng để nói chuyện riêng 11 lần. Vào năm 1976, Phaolô VI đã mời Wojtyla cử hành Lễ Chay (lễ Lent) tại Vatican cho các thành viên của Tòa thánh và gia đình Giáo hoàng. Cũng trong năm này, tờ \"Thời báo New York\" đã đặt ông vào danh sách 10 người được nhắc tới nhiều nhất như là các ứng cử viên để kế tục Phaolô VI.",
"Vào tháng 8 năm 1978, sau khi Giáo hoàng Phaolô VI mất, ông đã tham gia Hồng y đoàn chọn Albino Luciani, Hồng y Tổng Giám mục của Venezia làm Giáo hoàng Gioan Phaolô I. Khi được chọn làm giáo hoàng, Luciani chỉ 65 tuổi, trẻ so với nhiều giáo hoàng khác. Vào ngày 28 tháng 9 năm 1978, chỉ 33 ngày sau khi nhậm chức, Giáo hoàng Gioan Phaolô I qua đời. Vào tháng 10 năm 1978 Hồng y Wojtyła trở về lại Tòa Thánh để bầu giáo hoàng mới.",
"Trở thành Giáo hoàng.",
"Lúc 16:30 ngày thứ bảy 14 tháng 10 năm 1978, sau khi cử hành Lễ kính Chúa Thánh Thần tại Đền thờ Thánh Phêrô vào ban sáng, 111 vị Hồng y từ khắp thế giới bước vào Mật Viện, để bầu Giáo hoàng mới. Hôm sau các Hồng y bắt đầu bỏ phiếu: ban sáng hai lần, ban chiều hai lần. Bốn lần bỏ phiếu ngày 15 tháng 10 năm 1978, không có kết quả nào cụ thể. Các Hồng y người Ý chiếm đa số, nhưng các ông không đồng ý với nhau về một \"ứng cử viên duy nhất\", lúc đó là Hồng y Giuseppe Siri, Tổng Giám mục Genova, người đã được báo chí nói đến từ lâu và được coi như \"ứng cử viên\" chắc chắn hơn cả. Vị khác là Hồng y Giovanni Benelli, Tổng Giám mục Firenze, đã nhiều năm phục vụ tại Phủ quốc Vụ Khanh, có nhiều kinh nghiệm trong Ngành Ngoại giao và công việc của Giáo Triều Roma.",
"Sáng thứ hai 16 tháng 10 năm 1978, với hai lần bỏ phiếu, các Hồng y vẫn chưa chọn được Vị Giáo hoàng mới. Tên của Tổng Giám mục Cracovia đã nhận được nhiều phiếu hơn cả vào lúc 17:30, trong cuộc bỏ phiếu lần thứ sáu, vào chiều ngày 16 tháng 10 năm 1978. Sau khi kiểm xong các lá phiếu, Vị Hồng y nhiếp chính (trong thời kỳ trống ngôi) lại gần Vị được chọn, chào kính, đặt câu hỏi theo lễ nghi: \"Ngài có chấp nhận việc lựa chọn Ngài hay không?\". Trong cầu nguyện và yên lặng suy tư, Karol Wojtyla chưa trả lời ngay. Mọi người chờ đợi và thấy ông cảm động, nước mắt chảy trên gò má. Sau cùng, với giọng rõ ràng và nghiêm nghị, ông trả lời: \"Vì Chúa Kitô của tôi, vì Đức Trinh Nữ, Mẹ của tôi, vì tôn trọng Tông Hiến của Đức Phaolô VI mời gọi, tôi xin chấp nhận.\"",
"6 giờ 18 phút, hồng y phó tế Tisserant tuyên bố: \"Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Hồng y đoàn đã tín nhiệm Hồng y Karol Wojtyla, Tổng Giám mục Kraków, Ba Lan, vào ngôi vị giáo hoàng của thế giới Công giáo\". Ông đã được bầu để kế vị Gioan Phaolô I, trở thành Giáo hoàng từ ngoài nước Ý đầu tiên trong gần 500 năm và là vị giáo hoàng gốc người Slav đầu tiên trong lịch sử Công giáo.",
"Vị tân giáo hoàng giơ tay chào dân chúng. Trước khi ban phép lành Urbi et Orbi, ông mở đầu: \"Sia lodato Gesù Cristo\" Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô: lời chào người dân công giáo Ý rất ưa chuộng. Ông nói tiếp:",
"Như giáo hoàng trước ông, Gioan Phaolô II đã đơn giản hóa chức vụ này và làm nó bớt huy hoàng. Ông không tự xưng là \"chúng tôi\" như các giáo hoàng trước; thay vào đó ông dùng \"tôi\". Ông chọn làm một lễ tấn phong đơn giản chứ không rườm rà, và ông chưa đội mũ giáo hoàng trong khi đảm nhiệm. Ông làm thế để nhấn mạnh tên chức vụ hầu hạ của mình là tôi tớ của những người tôi tớ của Chúa (\"Servus Servorum Dei\").",
"Sáng ngày 17 tháng 10, ông đã trình bày chiến lược của ông: trung thành với công đồng và các hội đoàn. Gioan Phaolô II đã kiên quyết khẳng định việc phải tuân thủ lời răn dạy của giáo hoàng, tôn trọng các luật lệ về nghi lễ cũng như về kỷ luật. Sau cùng, ông nhấn mạnh đến nhu cầu tiến hành cuộc đối thoại trên phạm vi toàn thế giời và cam kết của Giáo hội với hòa bình và công lý trên thế giới.",
"Nhiệm kỳ giáo hoàng.",
"Cai quản Giáo hội Công giáo.",
"Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã chủ sự 51 nghi lễ tuyên thánh cho 482 người và 147 nghi lễ phong chân phước cho tất cả 1338 người. Nhiều người hơn tất cả những giáo hoàng trước. Việc ông có tuyên thánh cho nhiều người hơn số người được những giáo hoàng trước tuyên thánh cộng lại khó xác minh được vì hồ sơ việc tuyên thánh lúc ban đầu còn thiếu sót. Trong số những người được tuyên thánh có Anuarite Negapeta, một nữ tu người Phi bị một tên lính Simba ở Daia sát hại trong lúc bảo vệ sự trinh tiết của mình; Peter Toror, một nhà truyền giáo ở Papua Niughinê đã bị sát hại trong một trại tù binh chiến tranh của Nhật Bản trong thế chiến thứ hai; Người được tấn phong gây nhiều tranh cãi nhất là Josemaria Escriva de Balague, người sáng lập tổ chức Thiên chúa giáo thần bí Opus Dei. Giáo hoàng Gioan Phaolô cũng được cho là người đã có những mối quan hệ với tổ chức này.. Đặc biệt trong số những người được tuyên thánh có 117 vị thánh tử đạo Việt Nam được ông tuyên phong tại thành Rôma ngày 19 tháng 6 năm 1988.",
"Năm 1984, ông đã thành lập Học viện Sahel để đặc trách việc trợ giúp phát triển cho các quốc gia vùng sa mạc Sahara. Tháng 2 năm 1992, Gioan Phaolô đã thành lập Quỹ phát triển Populorum Progressio để trợ giúp cho các nhóm thổ dân Mỹ Latinh. Ông cũng đã thành lập Hàn lâm viện Giáo hoàng về sự sống và các khoa học xã hội, lập Ngày Quốc tế Bệnh nhân, Ngày Quốc tế Đời tận hiến và Ngày Giới trẻ Thế giới.",
"Trong suốt thời gian làm giáo hoàng, ông đã gặp 17,6 triệu khách hành hương trong 1160 lần tại Quảng trường Thánh Phêrô vào mỗi ngày Thứ tư. Khoảng 8 triệu khách hành hương trong Năm Thánh 2000. Ông đã 737 lần tiếp các nhà lãnh đạo quốc gia và 245 lần các thủ tướng quốc gia.",
"Ông đã được cả hai chính phủ Chilê và Áchentina nhờ can thiệp về vấn đề kênh Beagle \"với mục đích hướng dẫn và giúp họ trong việc giải quyết hòa bình cuộc tranh chấp\". Đây là một vấn đề quan trọng đối với Vatican và lần thứ hai sau một thế kỷ, Giáo hoàng lại một lần nữa được yêu cầu đóng một vai trò trong các cuộc thương lượng quốc tế.",
"Trong suốt nhiệm kỳ của mình, Gioan Phaolô II đã tổ chức 9 mật nghị để phong tước cho 232 hồng y, trong đó có một vị \"còn giữ kín\"; đã bổ nhiệm trên 3,5 ngàn trong số gần 4,2 ngàn Giám mục trên thế giới. Ông đã gặp từng người trong các Giám mục một số lần qua nhiều năm, nhất là khi họ viếng thăm Tòa thánh 5 năm một lần.",
"Ông đã chủ sự 15 thượng hội Giám mục: 6 thường lệ (1980 về gia đình, 1983 về thống hối và hòa giải, 1987 về giáo dân, 1990 về linh mục, 1994 về tu sĩ, 2001 về Giám mục), 1 ngoại lệ (1985 Công đồng Vatican II 20 năm sau) và 8 đặc biệt (1980 cho Hà Lan, 1991 cho Châu Âu lần nhất, 1994 cho Châu Phi, 1995 cho Liban, 1997 cho Châu Mỹ, 1998 [2] cho Châu Á và Châu Đại Dương, 1999 cho châu Âu lần hai).",
"Vào ngày 14 tháng 3 năm 2004, ông trở thành vị Giáo hoàng thứ ba trong số những vị Giáo hoàng có thời gian ở ngôi lâu dài nhất, sau Thánh Phêrô (từ 34 đến 37 năm) và Piô IX (31 năm, 7 tháng, 23 ngày).",
"Với vai trò Giáo hoàng, ông đã viết 14 thông điệp, 14 tông huấn, 11 tông hiến, 42 tông thư và 22 tự sắc chưa kể đến hằng trăm sứ điệp và thư tín khác nữa. Để sửa soạn cho Năm Thánh 2000, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết tông thư \"Tiến đến Thiên niên kỷ thứ Ba\" (\"Tertio Millennio Adveniente\") đề ngày 10 tháng 11 năm 1994.",
"Các chuyến tông du.",
"Trong suốt triều đại của mình ông đã thực hiện 104 cuộc viếng thăm ngoài nước Ý, chuyến đi cuối cùng là Lộ Đức vào tháng 8 năm 2004.",
"Ông cũng thực hiện 143 cuộc viếng thăm trong nước Ý. Với tư cách là Giám mục Rôma, ông đã đi thăm mục vụ 301 trong tổng số 334 giáo xứ trong Giáo phận Rôma.",
"Với 247 chuyến viếng thăm mục vụ trong và ngoài nước Ý, Gioan Phaolô II đã đi 1.167.295 km (hay 700.380 dặm), trên 28 lần chu vi của Trái Đất (hay 3 lần khoảng cách giữa Trái Đất và Mặt Trăng), nhiều hơn tất cả những Giáo hoàng trước cộng lại. Những chuyến đi này là dấu hiệu của nỗ lực bắc cầu nối lại những quốc gia và tôn giáo trong nhiệm kỳ của ông.",
"Ngay từ đầu, những chuyến đi của Giáo hoàng đã là một bài thuyết giáo không ngừng về tiếng tăm của con người và sức mạnh của lòng trung thành. Tại Triều Tiên, ông đã nói đến sự nghiệp giải phóng con người trước những người công nhân phải lao động cực nhọc. Ông đã đích thân phát biểu trước những người theo Thiên Chúa và những người không theo Thiên Chúa. Ông đã đến thăm nhiều nơi trên thế giới, dù ở thế giới thứ nhất hay thế giới thứ ba, ông đều hướng tới những con người, những thân phận nghèo khổ.",
"Tại Nigiêria, ông tuyên bố rằng: \"việc khai thác bất chấp đạo lý đối với người nghèo và kém hiểu biết là một tội ác chống lại Chúa\"; tại Côlômbia ông cảnh cáo: \"những người sống dư thừa và xa hoa vô độ thể hiện sự mù quáng về tinh thần\". Người nghèo sẽ phán xử các quốc gia đã lấy mất của cải của họ, khẳng định sự độc quyền đế quốc chủ nghĩa đối với hàng hóa của họ và quyền tối cao về mặt chính trị bằng sự trả giá của người khác\". Tại Bồ Đào Nha, ông chỉ rõ: \"Công lý đòi hỏi những người nông dân có thể canh tác trên mảnh đất của chính họ\". Tại Tây Ban Nha, ông yêu cầu nhà nước phải bảo vệ những người lao động: \"Chúng ta không thể bỏ mặc người lao động và số phận của họ được\". Ông cũng bảo vệ việc thành lập những tổ chức công đoàn ở Brasil và tại Nam Phi, ông kết tội chủ nghĩa Apácthai.",
"Gioan Phaolô II đã biến những chuyến chuyến tông du trở thành một cuộc hành trình truyền giáo mang tính chất sứ đồ. Ông sẵn sàng đón nhận mọi phong tục và nghi thức văn hóa ở những vùng miền khác nhau. Ông không chỉ nói bằng hàng chục thứ tiếng mà còn đội bất cứ một trong số các mũ lạ thường nào mà nhân dân địa phương tặng: Mũ nồi dành cho sinh viên, mũ phớt rộng vành của những người Mêhicô, mũ làm bằng lông của những người da đỏ, mũ đen. Tại châu Phi, ông mặc bộ quần áo bằng da dê và đứng trong lúc nắm chặt cái giáo của vị trưởng bộ lạc. Tại miền tây nước Mỹ, ông xuất hiện từ một túp lều vải trong bộ quần áo lễ có tua; tại Phoenix một nhóm thổ dân Mỹ đặt ông lên bục diễn thuyết tròn rồi đi vòng quanh ông...",
"Bất cứ ở nơi nào ông đến, ông đều tới viếng thăm những nơi tôn kính đức Maria. Nơi Đức Mẹ hiện hình ở Brasil, Ngôi nhà Đức Mẹ tại Thổ Nhĩ Kỳ, Hang đá Đức Mẹ Lộ Đức, thánh địa Fatima ở Bồ Đào Nha...ông hiến dâng tất cả các lục địa cho trái tim Đức Mẹ \"xin Người hãy thấu hiểu tất cả nỗi khổ đau và niềm hy vọng của tất cả chúng con\".",
"Tuy nhiên chuyến thăm Đức vào năm 1996 đã trở thành thảm họa. Ngày 24 tháng 6 năm 1996, khi xe của Giáo hoàng đi về phía cổng Bradenburg tại Berlin, hàng trăm người vô chính phủ và những người hoạt động xã hội ủng hộ người đồng tính thuộc một \"Liên minh chống Giáo hoàng\" đã xông về phía Gioan Phaolô II, gào to lên \"Hãy xuống địa ngục đi!\", \"Thiêu sống Giáo hoàng!\" \"Bao cao su thay thế cho Tòa thánh!\" (\"Kondome statt Dome!\") và ném sơn, cà chua, trứng thối vào chiếc xe của Giáo hoàng. Hai bịch sơn đã văng trúng chiếc xe chở Gioan Phaolô II. Danh sách các bài báo nói về vụ Giáo hoàng bị biểu tình ở Berlin năm 1996",
"Giới trẻ.",
"Trong suốt nhiệm kỳ của mình, Gioan Phaolô II đã dành một sự quan tâm đặc biệt tới giới trẻ như là một sự tiếp nối những công việc ông đã làm kể từ khi còn là linh mục và Giám mục. Ngoài những cuộc gặp gỡ, trao đổi trực tiếp với các học sinh, sinh viên nam nữ trong giáo xứ, nơi học đường, trong các cuộc bơi thuyền, leo núi, chơi thể thao, cắm trại với mục tiêu tìm hiểu hầu đáp ứng những khao khát kiếm tìm của giới trẻ về mọi vấn đề liên quan tới đời sống – kể cả vấn đề yêu đương, tính dục-,ông còn đưa ý niệm này vào lãnh vực văn chương, kịch nghệ qua những tác phẩm do ông thực hiện lúc bấy giờ.",
"Trong tác phẩm \"Crossing The Threshold Of Hope\" (Bước Qua Ngưỡng Cửa hy Vọng), của mình, Gioan Phaolô II đã viết: ",
" \"Giống như người thanh niên trong Phúc Âm, để trả lời cho những vấn nạn nền tảng, điều người trẻ tìm kiếm không chỉ là ý nghĩa đời sống, mà còn là phương thế cụ thể và hiệu nghiệm để sống đời sống ấy. (...). Người trẻ muốn là chính họ...Họ phải yêu mến chính tuổi trẻ của họ. Và điều này, mỗi một người linh mục cần phải biết và hiểu rõ.(…).\"",
"Năm 1985, ông công bố lập ngày giới trẻ thế giới (JMJ) 2 năm 1 lần. Đầu tiên là Rôma (1985), Buenos Aires (Argentine 1987), Santiago de Compostella (Tây Ban Nha 1989)…và nhiều nơi sau đó trên thế giới, để những người trẻ có thể gặp gỡ nhau, cùng ông tôn vinh Thiên Chúa, cùng nói lên niềm hi vọng của nhân loại, rồi sẽ trở về nhà như \"những chứng nhân không chút sợ hãi của Tin Mừng \".",
"Ông đã truyền cho họ sự dũng cảm, lòng nhiệt thành khi phải đối đầu với nền văn hóa sự chết như chiến tranh, bạo lực, nạn phá thai,… để duy trì sự sống cho con người.",
"Quan hệ với các tôn giáo và giáo phái.",
"Ông cũng góp sức cho sự thông hiểu giữa các tôn giáo, gặp gỡ và tổ chức những buổi hội thảo và cầu nguyện với nhiều cấp lãnh đạo các tôn giáo khác. Năm 2002, trong bối cảnh Hoa Kỳ chuẩn bị tấn công Iraq, ông đã mời gọi các nhà lãnh đạo các tôn giáo trên thế giới gặp nhau tại Assisi (Quê hương của thánh Phanxicô) để cầu nguyện cho hòa bình. Tham dự có tổng Giám mục Piritim - đại diện Giáo hội Chính Thống giáo Nga, Thượng phụ Giáo chủ Bartholomew I của Giáo hội Chính Thống giáo Constantinopole, Giám mục Vasilios - Chính Thống giáo Cypriot, đạo Sikh (Ấn Độ), Thần đạo (Nhật Bản), giáo phái Hồn vật (Phi châu) và nhiều đại diện tôn giáo khác.",
"Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã công khai xin lỗi thế giới và các tôn giáo khác về những lỗi lầm của Giáo hội Công giáo Rôma trong quá khứ, tổng cộng 94 lần.",
"Anh giáo.",
"Năm 1995, với thông điệp về Hiệp Nhất (Ut Sint Unum), Giáo hoàng Gioan Phaolô II kêu gọi hãy thực hiện một cuộc đối thoại và suy tư về \"thừa tác vụ hiệp nhất của vị Giám mục Roma\", trong các giáo hội Kitô khác nhau trên thế giới.",
"Năm 1981, Một \"Phúc Trình chung\" đã được công bố, đúc kết lập trường của hai giáo hội Anh giáo và Công giáo về quyền bính. Năm 1982, Gioan Phaolô II qua Canterbury (Anh quốc) thăm vị giáo chủ Anh giáo.",
"Ngày 12 tháng 5 năm 1999, Ủy ban Quốc tế hỗn hợp Anh giáo và Công giáo đã công bố chung một văn kiện nói về \"Quyền bính của đức Giáo hoàng\" trong giáo hội. Văn Kiện định nghĩa \"quyền đứng đầu\" của vị Giám mục Roma như là \"quyền để phân định sự thật\" và quyền nầy cần được thi hành một cách \"tập đoàn\" trong khung cảnh của \"hội đồng tính\" của các Giám mục. Việc công bố Văn Kiện Chung Anh Giáo và Công giáo nói về quyền bính, là một bước tiến thêm nữa trên con đường đại kết.",
"Tháng 7 năm 2002, Nhân việc bổ nhiệm tân Tổng Giám mục Canterbury - Rowan Williamatican, Gioan Phaolô II đã chúc mừng tân Tổng Giám mục Canterbury và nói thêm như sau: \"Tôi đã có dịp biết và làm việc gần gũi với các vị tiền nhiệm của ngài, Đức tổng Giám mục Runcie và Đức tổng Giám mục Carey, trong công tác chung là thăng tiến sự thông cảm giữa cộng đoàn Anh Giáo và giáo hội Công giáo. Tôi tin rằng với ơn phù trợ của Thiên Chúa, chúng ta có thể đạt được tiến bộ trên con đường tiến tới hiệp nhất\".",
"Tin lành.",
"Vào năm 1983, Gioan Phaolô II là vị giáo hoàng đầu tiên lên tiếng giảng trong một nhà thờ Tin lành.. Ngày 31 tháng 10 năm 1999, giữa tiếng reo vui của dân chúng và sự cảm động của giới hữu trách, Tuyên ngôn chung liên quan tới giáo lý về Công Chính Hóa đã được hai Giáo hội Công giáo và Tin Lành Luther ký kết tại thành phố Augsburg .",
"Do Thái giáo.",
"Ngay từ khi mới đăng quang, ngày 12 tháng 3 năm 1979 ở Mayence, Gioan-Phaolô II đã tuyên bố:\" hai cộng đoàn tôn giáo (Công giáo - Do Thái giáo) chúng ta được liên kết ở ngay mức độ lý lịch của chính chúng \".",
"Ngày 13. 04. 1986, ông trở thành vị giáo hoàng đầu tiên bước vào đại hội đường Do Thái tại Roma, ông tuyên bố:",
"Ông cũng thừa nhận những tổn thương mà những người Do Thái phải cam chịu hàng trăm năm khi sống ở các nước Thiên Chúa \"\"các hành động phân biệt đối xử, những hạn chế bất cong về tự do tín ngưỡng cũng như sự ngặt nghèo về tự do... Vâng, một lần nữa đã làm cho tôi cảm thấy hối tiếc và ngay cả những từ ngữ trong cuốn Nostra Aetete, sự bất công, sự ngược đãi và tất cả những biểu hiện chống lại phong trào Xemit, trực tiếp chống lại người Do Thái bất kỳ lúc nào và bởi bất cứ ai\"\".",
"Năm 2000, trong dịp viếng thăm Giêrusalem, ông đã để lại lời cầu nguyện vắn tắt trong Bức Tường Than khóc - nơi các người Do thái vẫn đến cầu nguyện với nội dung như sau:",
"Chính Thống giáo Đông phương.",
"Ngày 30 tháng 11 năm 2000, Nhân ngày lễ kính thánh Anrê tông đồ tử đạo 30.11.2000, trong một lá thư viết cho Thượng Phụ Giáo chủ thành Constantinopolis ở Thổ Nhĩ Kỳ, về việc tiếp tục cuộc đối thoại Liên Tôn, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tặng nhà thờ St. Theodore ở trên ngọn đồi Palatine thuộc thành Rôma cho Chính Thống giáo Đông phương.",
"Trong thư, Giáo hoàng nói về nguồn cội chung của Công giáo và Chính Thống giáo nên ông nói đó là lẽ khẩn thiết bắt buộc Công giáo và Chính Thống giáo \"tái thành lập lại sự hợp nhất toàn vẹn trong đức tin và trong đời sống sớm hết sức có thể, bởi vì sự chia rẽ giữa các Kitô giáo đi ngược lại tinh thần của Phúc Âm và việc chứng nhân giữa thế giới (...)vì một trái tim tinh tuyền và trong sáng, và vì vâng lệnh ý muốn của cùng một Thiên Chúa, chúng ta phải tiếp tục cuộc tìm kiếm sự hiệp thông toàn vẹn trong chân thành, huynh đệ và yêu thương\".",
"Ông cũng đã cử một phái đoàn sang Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ dẫn đầu bởi hồng y Edward Idris Cassidy, chủ tịch Hội đồng giáo hoàng cổ võ Hợp Nhất Kitô hữu tham dự thánh lễ kính thánh Anrê - quan thầy của giáo hội phương Đông. Việc thăm viếng nhau nhân ngày lễ này đã trở thành truyền thống và được thực hiện liên tiếp từ năm sáu năm nay. Ngược lại mỗi năm vào ngày 29.6 nhân lễ kính thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ, quan thầy của Giáo hội Công giáo Roma thì Thượng Phụ giáo chủ Bartholomew I, cũng gửi phái đoàn sang Roma kính thăm Giáo hoàng.",
"Ngày 22 tháng 8 năm 2004, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã thông báo việc ông trao trả Bức ảnh Đức Mẹ Kazan cho Giáo chủ Alexis II của Giáo hội Chính Thống giáo Matxcơva, và qua Alexis cho toàn thể dân tộc Nga. Bức Ảnh Đức Mẹ Kazan, đã được họa trên gỗ vào thế kỷ thứ 13. Bức Ảnh Đức Mẹ Kazan đã được lưu giữ tại Fatima, sau đó được đưa về Vatican vào năm 1991 và được giữ nơi nhà nguyện riêng của giáo hoàng.",
"Trong sứ điệp gửi cho Giáo chủ Alexis II nhân dịp này, ông viết: ",
" \"Vị Giám mục Roma đã cầu nguyện trước Bức Ảnh Thánh nầy vừa khẩn cầu sao cho mau đến ngày mà tất cả chúng ta sẽ hiệp nhất với nhau, và là ngày mà chúng ta có thể công bố cho thế giới, trong cùng một tiếng nói và trong sự hiệp thông hữu hình, (công bố cho thế giới) biết ơn cứu rỗi của Chúa Duy Nhất của chúng ta và sự chiến thắng của Chúa trên tất cả mọi quyền lực xấu xa và vô đạo đang gây hại cho đức tin cũng như gây hại cho chứng tá hiệp nhất của chúng ta\".",
"Phật giáo.",
"Trong thời gian đương nhiệm, giáo hoàng Gioan Phaolô II đã gặp gỡ người lãnh đạo Phật giáo Tây Tạng là Đại Lai Lạt Ma nhiều lần. Đại Lai Lạt Ma đã đánh giá về Giáo hoàng Gioan Phaolô II:",
"Vào tháng 5 năm 1984 tại Băng Cốc, Giáo hoàng đã tới gặp giáo trưởng tối cao của Phật giáo Thái Lan tại tu viện của ông. Gioan Phaolô II bỏ giày ra và bước nhẹ nhàng đến bục nơi Vasana Jara, 86 tuổi đang an tọa trong tư thế thiền.",
"Tuy nhiên, một số phát biểu về Phật giáo của Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã gây ra nhiều tranh cãi và chỉ trích. Ví dụ, trong tác phẩm \"Bước qua ngưỡng cửa hi vọng\", Giáo hoàng đã chỉ trích đạo Phật là \"thờ ơ với cuộc sống\", \"tiêu cực\", \"vô thần\". Nhận định này đã vấp phải sự phản đối dữ dội từ cộng đồng Phật giáo. Tanaka Ken, giáo sư tại Học viện Phật học đã cho rằng Giáo hoàng \"\"chưa chịu làm bài tập\", còn Lạt Ma Ole Nydahl thì nhận xét Giáo hoàng \"sẽ không thể tận hưởng cuộc sống ở kiếp sau\"\". Linh mục Thomas Hand, một chức sắc Công giáo nghiên cứu thiền tại Medical Retreat Center cho rằng ý kiến của Gioan Phaolô II về sự \"vô thần\" và \"tiêu cực\" trong đạo Phật là hoàn toàn sai lầm và Giáo hoàng không thể nhận xét bừa bãi về một tôn giáo thâm thúy như đạo Phật mà không hiểu gì về nó. Một số nhân sĩ Phật giáo bình luận rằng, nguyên nhân của phát biểu trên bắt nguồn từ những lo ngại của Gioan Phaolô II về các nỗ lực truyền bá ảnh hưởng của đạo Phật ra ngoài châu Á. Trong một buổi họp mặt, các nhà sư tại Tích Lan đã quyết định yêu cầu Giáo hoàng phải xin lỗi. Trước các phản ứng này, Gioan Phaolô II đã thanh minh rằng ông luôn bày tỏ sự kính trọng sâu sắc đến các tín đồ Phật giáo và không có ý xúc phạm Phật giáo.",
"Hồi giáo.",
"Sau khi được bầu làm giáo hoàng, Giáo hoàng Gioan Phaolô II cho biết rằng qua Hồng y Pignedoli, cộng tác viên thân cận của cố Giáo hoàng Phaolô VI và đức ông Rossano, người sáng lập Phong Trào Giải Phóng và Hoà Giải, ông đã thực sự đi vào con đường đối thoại với hồi giáo. Ngay từ những năm 1979, 1980 Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã có những cuộc đối thoại với giáo chủ Hồi giáo Ayatollah Khomeini.",
"Vào năm 1985 ông đã phát động cái gọi là \"cuộc tấn công đối thoại\" nhằm vào các tín đồ Hồi Giáo. Ông đánh giá cao một vài mặt của đạo Hồi: Thuyết độc thần, quy phục một vị Chúa nhân từ và những quy định về việc ăn chay và sám hối. Nhưng ông cũng tỏ ra hoài nghi về Hồi Giáo đang co mình trong nỗi sợ hãi. Vào năm 1982, trong một chuyến thăm tới Nigieria ông đã dự định dừng chân ở thị trấn Kaduna, khu vực đạo Hồi chiếm ưu thế. Tuy nhiên, kế hoạch này đã thất bại.",
"Kể từ sau năm 1989, Gioan Phaolô đã thấy trước rằng thách đố của thế giới sẽ là cuộc đối đầu với Hồi Giáo. Trong nhiều cuộc gặp gỡ với những người Hồi giáo, Giáo hoàng luôn muốn đối thoại. Kể từ khi chiến tranh lạnh kết thúc, ông xác tín rằng Hồi giáo sẽ là vấn đề lớn của thế giới.",
"Gioan Phaolô II kêu gọi mọi người, Kitô hữu cũng như Hồi giáo, hãy vượt qua thái độ đối đầu. Với các bạn trẻ được quốc vương Hassan II của Maroc tập trung tại Casablanca hồi năm 1985, ông đã nói như sau: ",
"Gioan Phaolô II đã không ngừng bày tỏ thiện cảm với các Dân tộc Hồi giáo tại Bosnia Herzegovina và kêu gọi thế giới can thiệp nhân đạo để chấm dứt cuộc diệt chủng nhắm vào họ. Ông cũng đã lên án cuộc chiến chống Iraq do Liên Minh Anh Mỹ chủ trương. Sau cuộc khủng bố 11 tháng 9 năm 2001, giáo hoàng còn cố gắng kéo thế giới ra khỏi một cuộc đối đầu về văn minh và tôn giáo. Ngày 14 tháng 12 tháng 2001, vào chính ngày kết thúc tháng chay tịnh Ramadan của người Hồi giáo, ông kêu gọi tất cả các tín hữu kitô trên toàn thế giới hãy ăn chay để cầu nguyện cho hòa bình.",
"Vai trò trong sự sụp đổ của chế độ cộng sản ở Ba Lan.",
"Ảnh hưởng của Giáo hoàng đối với sự sụp đổ của chế độ cộng sản Ba Lan đã được diễn tả trong cuốn \"His Holiness John Paul II and The Hidden History of Our Time\" (\"Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II và Lịch sử bị che đậy trong Thời Đại Chúng Ta\") của Carl Bernstein và Marco Politi...",
"Giáo hoàng đã đến thăm Ba Lan lần thứ hai vào năm 1983, khi phong trào Công Đoàn Đoàn Kết của Lech Walesa đang dấy lên khắp nơi. Trong bối cảnh đó, chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Ba Lan và Tòa Thánh Vatican đã đạt được một thỏa thuận để Giáo hoàng có thể đến thăm Ba Lan với mục đích thuần túy tôn giáo.",
"Ngày 16 tháng 6 năm 1983. Sau khi quỳ xuống hôn đất quê hương, ông đã lên kêu gọi những người đang bị bắt bớ ở Ba Lan: \"Cha kêu gọi những người bị đày đọa hãy đến đây với cha. Cha kêu gọi lời này thay lời Chúa Giê-xu: Cha đã bị ốm và các con hãy đến thăm cha. Cha bị giam cầm, các con hãy đến với cha. Bản thân cha không thể tới thăm các con chiên đang bị giam cầm, đến thăm tất cả các con chiên đang bị đày đọa. Nhưng cha kêu gọi họ hãy đến với cha trong tinh thần giúp đỡ cha, như họ vẫn luôn làm.\"... Buổi tối, hàng chục ngàn người đã diễn hành... Khi đi ngang qua tòa nhà của Trung ương Đảng Cộng sản Ba Lan, đoàn thanh niên đã hô to: \"Công Đoàn Đoàn kết! Công Đoàn Đoàn kết! Walesa! Dân Chủ!.\" ",
"Mục tiêu của những âm mưu ám sát.",
"Vào ngày 13 tháng 5 năm 1981, ông đã bị một người đàn ông Hồi giáo gốc Thổ Nhĩ Kỳ tên là Mehmet Ali Ağca bắn trọng thương khi ông đang đứng trên xe chạy vòng quanh Quảng trường Thánh Phêrô như thường lệ.",
"Ông lập tức quỵ xuống vì đau đớn rồi từ từ ngã trong vòng tay các cận vệ. Ngay sau đó, hung thủ thực hiện vụ mưu sát bị cảnh sát tóm gọn. Nhưng kẻ tòng phạm đứng cách đó một đoạn xa thì nhanh chóng chạy thoát.",
"Viên đạn chỉ đi xuyên qua ổ ruột, cách động mạch vài ly, rồi rớt ngay trong xe, khiến ông dù bị mất đến 2/3 số máu trong cơ thể, nhưng vẫn được cứu sống kịp thời. Các bác sĩ cho rằng nếu viên đạn cắt ngang động mạch, ông sẽ chết tại chỗ hoặc trên đường cấp cứu. Về phần mình, ông lại xem đó như một sự can thiệp lạ lùng của Đức Mẹ Maria.",
"Sau khi hồi phục, ông đã tuyên bố với mọi người rằng: \"Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi, người tôi đã chân thành tha thứ\". Giáo hoàng đã viết thư định gửi cho Ağca: \"Tại sao anh lại bắn tôi khi mà cả hai chúng ta đều chung đức tin vào Chúa?\" Nhưng thay vì gửi bức thư đó, đã quyết định đến gặp Ağca. Năm 1983, ông đến thăm Ağca và tha thứ cho việc ám sát ông. Ông còn cầu khẩn nhà cầm quyền Ý ân xá cho Ağca. Ông đã giữ liên lạc với gia đình của Ağca nhiều năm sau đó và đã thăm mẹ Ağca năm 1987.",
"Cho đến nay, mưu đồ sát hại Giáo hoàng vẫn còn là một trong những bí mật lớn nhất của thế kỷ XX. Một số người (trong đó có William Casey - người lãnh đạo của CIA) đã tin rằng: những người Xô Viết đứng sau âm mưu sát hại giáo hoàng. Họ đã chỉ ra cái gọi là những vấn đề có liên quan đến những người Bungari, một tổ chức hay nhúng vào chuyện của người khác nhưng một chứng cứ trái ngược rằng Agca được bảo vệ và bao che bởi cơ quan tình báo Bungari, một tổ chức lệ thuộc vào cơ quan KGB. Về phần mình, quan điểm của giáo hoàng là: \"tôi luôn luôn tin rằng ngay từ đầu, những người Bungari hoàn toàn vô tội, họ không việc gì phải làm điều đó\". Cho đến nay người ta vẫn chưa tìm được một tài liệu rõ ràng liên quan đến âm mưu sát hạt giáo hoàng ở Nga hoặc ở Bungari kể từ khi chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ.",
"Quan điểm về xã hội và chính trị.",
"Trong những năm làm giáo hoàng, Gioan Phaolô II đã vận động công khai chống , chủ nghĩa cộng sản kiềm chế nhân quyền và việc đàn áp chính trị. Ông cũng cương quyết chống việc phá thai, giữ vững lập trường về sự độc thân của chức linh mục, không phong chức linh mục cho phụ nữ và đặc biệt đã triệu tập các hồng y và Giám mục Hoa Kỳ về Vatican để đối phó với việc lạm dụng tình dục do một số các linh mục gây nên.",
"Thần học giải phóng.",
"Đối với phong trào Thần học giải phóng nổi lên ở các quốc gia Mỹ La Tinh, Gioan Phaolô II đã ủng hộ hành động nhân đạo của các vị Hồng y. Ông cũng đề cao tấm gương của tổng Giám mục Santiago, Hồng y Raul Silve Henriquez, một đối thủ của nhà cầm quyền độc tài Pinochet ở Chilê. Mặc dù vậy, ông không ủng hộ những phương thức tiến hành của thần học giải phóng.",
"Trước việc những người công giáo ở Mỹ La Tinh chọn chủ nghĩa xã hội, quan điểm của ông là: \"chúng ta phải bắt đầu xem xét chủ nghĩa xã hội là gì và ở đó có những dị biệt gì đã. Ví dụ, một chủ nghĩa xã hội vô thần, không thể nào phù hợp với các nguyên tác Thiên chúa giáo, với quan điểm Thiên chúa giáo về thế giới, về các quyền của con người, với đạo lý, sẽ là một giải pháp không chấp nhận được\".",
"Về thần học giải phóng, quan điểm của ông khá gay gắt: \"Đó không phải là thần học thật sự. Nó bóp méo cảm giác thật về kinh Phúc âm. Nó dẫn dắt những người đã dâng mình cho Chúa khỏi vai trò thật sự mà Giáo hội đã giao phó cho họ. Khi họ bắt đầu sử dụng các biện pháp chính trị, họ không còn là các nhà thần học nữa. Nếu đó là một chương trình xã hội, thì đó là một vấn đề của xã hội học. Nếu nó đề cập đến việc cứu vớt con người, thì nó là thần học của muôn đời, đã có từ hai nghìn năm náy\".",
"Chống chiến tranh, kêu gọi hòa bình.",
"Tại Agrigento, Italia, Gioan Phaolô II đã lên tiếng thách thức các băng đảng mafia ở Sicily bằng những lời lẽ sau .:",
"Trước những cuộc xung đột đẫm máu của hai cộng đồng Công giáo và Tin Lành ở Ái Nhĩ Lan, vào năm 1979, Gioan Phaolô II đã gửi đến những con chiên của ông nơi đây với nội dung như sau.",
"Trong cuộc viếng thăm thành phố Coventry, Anh ngày 28-6-1982 khi nước này đang xảy ra chiến tranh với nước láng giềng, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã có những lời lẽ quyết liệt lên án sự tàn khốc của chiến tranh, dù dưới bất cứ hình thức nào:",
"Gioan Phaolô II đã tích cực can thiệp nhằm ngăn chặn hai cuộc chiến tranh tại Vùng Vịnh. Hơn một lần ông cho rằng người ta không thề nhân danh bất cứ điều gì để gây thương vong, chết chóc cho con người. Trong khoảng thời gian từ 26-8-1990 đến tháng 3-1991, qua những văn thư, diễn tư, trên dưới 50 lần, Gioan Phaolô II đã nói tới hậu quả tai hại của cuộc chiến Vùng Vịnh. Trong diễn từ vào đúng ngày Giáng Sinh 25-12-1990, Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói:",
"Cho đến khi cuộc chiến Vùng Vịnh tái bùng nổ vào đầu thế kỷ 21 thì Gioan Phaolô II cũng lên tiếng phản đối. Đối với những xung đột giữa Do thái và Palestine, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã vận dụng nhiều cách để mưu tìm hòa bình tại vùng đất này. Những cuộc thăm viếng, những buổi tiếp xúc cá nhân giữa vị Giáo chủ và các lãnh tụ của cả hai phía Do thái và Palestine đã diễn ra rất nhiều lần, tại Vatican, trong những cuộc gặp gỡ nhân những cuộc du hành mục vụ hải ngoại.",
"Nạo phá thai.",
"Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nỗ lực nhằm ngăn chặn những áp đặt của chính quyền Clinton về các biện pháp phá thai trên nghị trình hội nghị về dân số ở thủ đô Ai Cập. Ông không từ bỏ bất cứ cơ hội nào để lên tiếng về vấn đề bảo vệ quyền sống của thai nhi. Một mặt ông chỉ trích những âm mưu của các cường quốc giàu có nhằm áp đặt những biện pháp vô nhân đạo trên các quốc gia nghèo, kém phát triển qua chiêu bài kiểm soát dân số với những hứa hẹn viện trợ. Mặt khác, ông không ngớt lưu ý quần chúng, cách riêng các bậc phụ huynh, quan tâm tới những giá trị đạo đức trong mối liên hệ từ trong gia đình, giữa người vợ, người chồng, người cha, người mẹ, cho tới ngoài xã hội.",
"Ngay từ khi vừa được chọn làm người kế vị thánh Phêrô, Gioan Phaolô II đã nhiệt thành cổ võ cho điều mà trong những bài giảng thuyết cũng như những tông thư, thông điệp mà ông mệnh danh là nền ‘Văn Minh Sự Sống’. Gioan Phaolô II không ngớt đề cao giá trị sự sống của con người, từ khi còn là một bào thai trong lòng mẹ cho đến lúc chết. Bằng những lời lẽ cứng rắn, ông lên án những hành vi phá thai, trợ tử cũng như phong trào đồng tính luyến ái. Theo ông, những hài nhi mang sẵn một giá trị nhân bản tiên thiên, tự hữu mà không một ai, kể cả cha mẹ chúng, có thể tước đoạt hoặc coi như sở hữu của mình, rồi muốn làm gì thì làm trên sinh mạng của chúng, điều chỉ một mình Thượng đế (Thiên Chúa) mới có quyền quyết định..",
"Chủ Nhật đầu tháng 8-1994, Giáo hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh tới những khía cạnh của tệ nạn phá thai ngày càng gia tăng trong xã hội loài người. Giáo hoàng tuyên bố: nền móng công lý công cộng đã bị xói mòn bởi vì nhà nước không nhìn nhận sự sống của những đứa trẻ khi chúng còn trong lòng mẹ để bảo vệ chúng .",
"Gioan Phaolô II cũng lên án việc sử dụng các biện pháp tránh thai. Trong cuốn sách của ông mang tên Tình yêu và Trách nhiệm, ông đã nêu lên rằng: việc sử dụng các biện pháp tranh thai làm giảm giá trị của hành vi vợ chồng và của người phụ nữ (bằng việc coi rằng người đàn bá chỉ đơn thuần là đối tượng cho khoái lạc của người đàn ông).",
"Lập trường này đã gặp phải những luận điệu chỉ trích lập trường của Giáo hội về vấn đề chống phá thai và ngừa thai bằng mọi giá. Những chỉ trích này trong nhiều trường hợp còn đụng chạm tới chủ trương đề cao và quyết tâm bảo vệ hệ thống gia đình của Giáo hội.",
"Công nhân và người lao động.",
"Lên tiếng trước đám đông những công nhân người Da Đỏ ngày 21-02-1979 sau cuộc viếng thăm Mêxicô lần thứ nhất, ông công khai nói với họ một cách bộc trực rằng: \"Chúng ta cần gọi đích danh những hành vi phản công lý\". Khi tiếp xúc với giới lao động, ông đến với họ như một người bạn cùng chung cảnh ngộ, chia sẻ với họ bằng những kinh nghiệm được làm nên bằng mồ hôi, nước mắt của chính mình. Có lần ông đã tâm sự với một số công nhân ở Rôma rằng: \"Tôi đã làm việc tay chân trong suốt bốn năm trời. Đối với tôi, bốn năm ấy có giá trị hơn hai mảnh bằng tiến sĩ\".",
"Trong cuộc gặp gỡ ngày 19-3-1982 tại Livorno, Ý, Giáo hoàng nói với các công nhân là nền dân chủ của giới thợ thuyền trên thế giới lâu đời hơn nền dân chủ của Giáo hội ít nữa là ở cấp độ giáo xứ. Từ nhận định ấy, ông cho rằng ông phải cảm ơn họ vì chính giới cần lao đã đóng góp, đã cống hiến cho Giáo hội những suy tư quý giá giúp cho đời sống Giáo hội ngày một thêm phong phú. Khi các công nhân mạnh dạn lên tiếng phê phán là trong quá khứ Giáo hội Công giáo thường đứng về phía những người giàu có thế lực, ông nói: \"Tôi xin cảm ơn về những lời bình phẩm của anh em, cho dù sự thật hàm súc trong những lời này làm đau lòng\".",
"Tại Prato, Ý, ngày 19-3-1986, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã lên tiếng khuyến cáo các nghiệp đoàn công nhân làm áp lực với giới chủ nhân, kể cả giới cầm quyền, để đạt mục tiêu. Tám năm sau, nhân lễ thánh Giuse ngày 19-3-1994 tại Rôma, giáo hoàng công khai thúc đẩy giới lãnh đạo nghiệp đoàn phải hành động. Ông nói: \"Nếu con người im lặng, chính Thiên Chúa sẽ cất tiếng!\"",
"Trong sứ điệp Mùa Chay đề ngày 20-02-1985 gửi các tín hữu trên toàn thế giới, Giáo hoàng viết:",
"Trong hơn 26 năm ở ngôi Giáo hoàng, Gioan Phaolô II đã công bố ba Thông Điệp quan trọng mà nội dung bàn sâu vào những vấn đề xã hội. Đó là Thông Điệp \"Người Lao động\", (\"Laborem Exercens\" - 1981), \"Mối bận Tâm Xã Hội\" (\"Sollicitudo Rei Socialis\" - 1987), và \"Một Trăm năm Thông Điệp Tân Sự\" (C\"entesimus Annus\" - 1991). Những Thông Điệp này phê bình những bất toàn của chế độ Tư bản cũng như chủ nghĩa Cộng sản đồng thời tỏ bày tình liên đới của Giáo hội đối với giới thợ thuyền.",
"Phụ nữ.",
"Gioan Phaolô II đã đề cao vai trò và thiên chức của người phụ nữ. Trong thư gửi phụ nữ toàn thế giời ngày 29 tháng 6 năm 1995 nhân dịp Năm Quốc tế Người Nữ, ông viết: \"Giáo hội có nhiều lý do để ước muốn rằng, trong kỳ Hội nghị sắp tới do Liên Hợp Quốc tổ chức tại Bắc Kinh, người ta đưa ra ánh sáng chân lý trọn vẹn về người nữ. Ước gì người ta tán dương thật sự \"thiên tài người nữ\", lưu ý không những tới các người nữ quan trọng và danh tiếng, đã sống thời quá khứ hay còn đồng thời với chúng ta, nhưng cũng lưu tâm tới các người nữ bình thường, những người phát triển tài năng phụ nữ của mình để phục vụ những kẻ khác trong cái tầm thường hằng ngày\".",
"Mặc dù vậy, ông vẫn giữ lập trường dứt khoát với việc thụ phong chức linh mục cho phụ nữ: Ngày 15 tháng 8 năm 1988 trong Tông thư Mulieris Dignitatem, Gioan Phaolô II đã viết:\" \"Khi kêu gọi chỉ những người nam để trở nên các Tông Đồ, Đức Kitô đã hành động cách hoàn toàn tự do và độc lập. Ngài đã làm điều đó cũng với sự tự do như khi Ngài đề cao phẩm giá ơn gọi phụ nữ trong tất cả; cách cư xử của Ngài không theo những xu thế tập tục hay những truyền thống mà luật pháp thời ấy chuẩn nhận\"\" (Mulieris Dignitatem,26). Sau hết, ông tuyên bố: ",
"Quan điểm này của ông đã vấp phải sự phản đối của nhiều phụ nữ. Năm 1979, tại Mỹ, xơ Theresa Kane, Chủ tịch hội nghị các nhà lãnh đạo về tín ngưỡng phụ nữ và dõng dạc tuyên bố trước giáo hoàng: \"Thưa giáo hoàng, Giáo hội phải đáp ứng những chịu đựng của phụ nữ bằng cách xem xét khả năng của họ trong cả các chức vụ thiêng liêng\". Khi đến Thụy Sĩ lại có một phụ nữ chỉ trích ông về điều này, đó là Margrit Stucky Scheller. Cô đã nói: \"Chúng tôi rất lấy làm tiếc vì việc làm của chúng tôi ít có ảnh hưởng tới Đức tin và Giáo hội. Những người phụ nữ chúng tôi có ấn tượng là chúng tôi đã bị xem như công dân loại 2\".",
"Thái độ đối với khoa học và nguồn gốc vũ trụ.",
"Trong nhiệm kỳ của mình, Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng có những bước đi thể hiện thái độ thừa nhận của bản thân và của Giáo hội trước vai trò và sự đúng đắn của Thuyết Nhật tâm, Thuyết Tiến hóa và nguồn gốc vũ trụ theo khoa học hiện đại.",
"Theo Stephen Hawking, vào năm 1981, trong một cuộc tiếp kiến với các nhà khoa học được mời để làm cố vấn khoa học cho Giáo hội Công giáo, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói rằng các nhà khoa học có thể tùy nghi nghiên cứu sự tiến hóa của vũ trụ sau khi sự kiện Big Bang xảy ra, tuy nhiên những sự kiện trước đó thì không nên vì đó là giai đoạn sáng tạo thế giới của Thiên Chúa.",
"Năm 1996, trong một thông báo chính thức gửi đến Học viện Hồng y về Khoa học, Gioan Phaolô II đã lên tiếng thừa nhận về vai trò và sự xác tín của Thuyết tiến hóa, rằng con người sinh ra có thể là do một quá trình tiến hóa dần dần chứ không phải là do sự sáng tạo tức thời của Thượng đế:",
"Tháng 7 năm 1999, Gioan Phaolô II đã ra tuyên bố phủ nhận sự hiện diện của một thiên đường vật chất trên các tầng mây và một hỏa ngục nơi con người bị thiêu đốt bởi ngọn lửa vĩnh hằng:",
"Xin lỗi.",
"Gioan Phaolô II đã xin lỗi những người Do Thái, Galileo, phụ nữ, những nạn nhân của Tòa án dị giáo, những người Hồi giáo bị những Thập Tự Quân tàn sát, và tất cả những người đã chịu đau khổ dưới bàn tay của Giáo hội Công giáo trong những năm tháng qua. Ngay khi chưa làm Giáo hoàng, ông đã biên soạn và ủng hộ các sáng kiến như Lá thư Hòa giải của Giám mục Ba Lan gửi Giám mục Đức vào năm 1965. Đến khi trở thành Giáo hoàng, ông đã chính thức công khai xin lỗi cho hơn 100 điều sai trái, bao gồm:",
"Đặc biệt, ngày 12 tháng 3 năm 2000, Giáo hoàng Gioan Phaolô II cùng toàn thể chức sắc của Giáo hội Công giáo Rôma, tại quảng trường nhà thờ thánh Phêrô, đã công khai xưng thú bảy loại tội của Giáo hội trong suốt 2000 năm qua trước toàn thể đám đông tụ hội ở quảng trường, bao gồm:",
"Tuy nhiên đã có một ý kiến không hài lòng về lời xưng thú này, cho rằng nó không chân thành. R. J. Weissman đã viết trong tờ \"Chicago Tribune\" ngày 16 tháng 3 năm 2000 như sau:",
"Sức khỏe.",
"Tháng 7 năm 1992, ông đã phải cắt một khối u ở ruột kết. Theo một thông báo chính thức thì đó là \"một khối hạch thường\" ở ruột già. Một thông báo của Vatican đã nhấn mạnh rằng ca mổ kéo dài gần bốn tiếng cơ bản đã chữa được bệnh. Tuy nhiên, kể từ ca mổ đó, sức khỏe của giáo hoàng ngày càng suy giảm và ông đã phải thường xuyên đến bệnh viện đa khoa Gemelli.",
"Ngày 11 tháng 11 năm 1993, trong một buổi tiếp phái đoàn của Tổ chức nông lương thế giới (FAO) ở Vatican, ông đã khụy ra sau, ngã xuống sàn nhà và bị trật khớp vai. Theo nguồn tin chính thức của Vatican, Giáo hoàng đã vấp ở bậc thềm nơi đặt ngai của ông trong phòng đọc kinh tạ ơn. Nhiều tuần sau, Gioan Phaolô II rất khó nhọc khi giữ vai trò người chủ lễ Mixa và vào tháng 4 năm 1994, ông bị ngã trong vùng trượt tuyết ở Aburzzi. Ngày 28 tháng 4, ông ngã gãy xương đùi trong buồng tắm. Người ta thông báo rằng ông đã trượt chân ngã khi ra khỏi bồn tắm sau khi xả nước. Kể từ đó, ông phải dùng gậy chống khi đi. Và ông phải mổ ruột thừa năm 1996.",
"Năm 2001, một bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình đã xác nhận điều từ lâu nghi vấn rằng giáo hoàng đang mắc bệnh Parkinson (bệnh mãn tính về hệ thần kinh làm cho các cơ rung và yếu).",
"Qua đời và tang lễ.",
"Vào cuối tháng 3 năm 2005, khi đã 85 tuổi, Giáo hoàng trở bệnh nặng và phải nhập viện. Vào ngày 1 tháng 4, tình trạng sức khỏe Giáo hoàng trầm trọng hơn khi tim và thận bị suy nhược. Vào ngày 2 tháng 4, Tòa Thánh tuyên bố rằng ông đang \"hấp hối\". Đức Giáo hoàng qua đời lúc 9 giờ 47 phút (giờ Roma).",
"Ghi nhận sau khi qua đời.",
"Được tuyên chân phước.",
"Ngày 28 tháng 4 năm 2005, Giáo hoàng Biển Đức XVI trong buổi tiếp kiến hồng y Jose Saraiva Martins, Bộ trưởng Bộ Tuyên Thánh, đã chấp thuận miễn chuẩn quy định chờ 5 năm sau khi qua đời, để có thể mở liền ngay án phong chân phước và tuyên thánh cho cố giáo hoàng Gioan Phaolô II.",
"Ngày 9 tháng 5 năm 2005, Hồng y Jose Saraiva Martins và Tổng Giám mục Edward Nowak, tổng thư ký của Bộ Tuyên Thánh, đã viết thư gởi cho Hồng y Camillo Ruini, đại diện của giáo hoàng, để chính thức loan báo tin này. Trong ngày lễ kính Đức mẹ Fatima 13 tháng 5 năm 2005, và cũng là ngày kỷ niệm 24 năm giáo hoàng Gioan Phaolô II bị mưu sát, giáo hoàng Benedictô XVI đích thân đọc bức thư này, trong cuộc tiếp kiến hàng giáo sĩ Roma, tại Vương cung Thánh đường Thánh Gioan Laterano - nhà thờ chính tòa của Giáo phận Roma.",
"Ngày 29 tháng 5 năm 2005, nhật báo \"Quan sát viên Roma\" và nhật báo \"Tương Lai\" đã cho đăng chỉ dụ của Hồng y Camillo Ruini. Bắt đầu thu thập tài liệu về cố giáo hoàng Gioan Phaolô II để làm án phong chân phước và tuyên thánh.",
"Toà án Giáo hội tại Ba Lan đã bắt đầu công việc lập hồ sơ tuyên thánh vào tháng 11 năm 2005 tại Kraków, nơi Gioan Phaolô II đã trải qua phần lớn cuộc đời trước khi được chọn lên kế vị Phêrô. Công việc chính của toà án này là lắng nghe các nhân chứng tại Ba Lan về cuộc đời của Gioan Phaolô II.",
"Ngày 2 tháng 4 năm 2007, Giáo phận Roma đã chính thức hoàn tất việc điều tra ở cấp giáo phận về cuộc đời, các nhân đức và danh tiếng của Gioan Phaolô II.",
"Phép lạ.",
"Hai tháng sau khi giáo hoàng Gioan Phaolô II qua đời, một nữ tu sĩ người Pháp tên là Marie Simon Pierre không còn những triệu chứng của căn bệnh Parkinson. Bà cho rằng: \"Tôi đã được chữa lành, đây là việc làm của Chúa, nhờ lời bầu cử của đức Gioan Phaolô II. Đây là điều gây ấn tượng mạnh, và khó diễn tả ra bằng lời nói.\" (bản thân Gioan Phaolô II mất vì căn bệnh này).",
"Được tuyên thánh.",
"Lễ tuyên thánh cho hai Chân phước Giáo hoàng Gioan XXIII và Gioan Phaolô II đã được cử hành bởi Giáo hoàng Phanxicô (cùng với Giáo hoàng Danh dự Bênêđictô XVI) vào Chủ nhật 27 tháng 4 năm 2014 tại Quảng trường thánh Phêrô, Vatican.",
"Chỉ trích giáo và tranh cãi.",
"Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhận phải nhiều sự chỉ trích về quan điểm của ông về phụ nữ, về việc ngừa thai, kế hoạch hóa gia đình, về sự ủng hộ của ông dành cho Công đồng Vaticanô II và các cải cách của nó về thánh lễ, cũng như lập trường của ông về tính thiêng liêng của việc kết hôn.",
"Bê bối tình dục trong hàng ngũ giáo sĩ.",
"Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng bị chỉ trích trong việc phản ứng chậm chạp trước các vụ án xâm hại tình dục trong giới chức sắc Công giáo. Trước các cáo buộc này, Giáo hoàng đã lên tiếng trấn an: \"Sẽ không có bất cứ chỗ nào trong hàng ngũ giáo sĩ cũng như religious life dành cho những kẻ đã xâm hại giới trẻ\". Sau đó Giáo hội đã thực thi những cải cách trong hàng ngũ giáo phẩm của mình nhằm ngăn chặn tệ đoan xâm hại tình dục trong tương lai, tỉ như yêu cầu tra xét kỹ lưỡng thân thế các chức sắc trong giáo hội khi tuyển dụng và, vì phần lớn các nạn nhân là trẻ em trai vị thành niên, những nam chức sắc có thiên hướng hoạt tình dục đồng giới biểu lộ sâu sắc sẽ bị cấm được thụ phong. Đồng thời các giáo khu dính líu tới những cáo buộc sẽ phải báo cáo chính quyền sở tại và tổ chức các cuộc điều tra nhằm loại bỏ những người phạm tội ra khỏi hàng ngũ chức sắc. Năm 2008, Giáo hội thừa nhận các bê bối tình dục này là vấn đề cực kì nghiêm trọng như cho rằng những người phạm tội theo ước tính chỉ không quá một phần trăm trong tổng số 500.000 chức sắc Công giáo trên toàn thế giới.",
"Chỉ trích về lập trường ủng hộ Opus Dei.",
"Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã bị chỉ trích vì lập trường ủng hộ của ông đối với tổ chức Opus Dei và việc tuyên thánh cho người sáng lập nó, Josemaría Escrivá, vào năm 2002, và Giáo hoàng đã gọi ông này là \"\"vị thánh của đời thường\". Một số phong trào và tổ chức tôn giáo của Giáo hội thuộc quyền kiểm soát của ông (Binh đoàn của Chúa, Con đường Tân tòng, Phong trào Schönstatt, Phong trào Lôi cuốn, vv.) và ông đã bị cáo buộc là không cai quản nghiêm khắc các tổ chức này, nhất là trong trường hợp của Giám mục Marcial Maciel, người sáng lập tổ chức Binh đoàn của Chúa. Năm 1984 Giáo hoàng đã bổ nhiệm Joaquín Navarro-Valls, một thành viên của Opus Dei, làm Chủ nhiệm Cơ quan Báo chí Tòa thánh Vatican (\"Sala Stampa della Santa Sede\"). Ngay cả một người phát ngôn của Opus Dei đã nói rằng \"ảnh hưởng của Opus Dei trong Vatican đã bị phóng đại.\"\" Trong gần 200 Giám mục của Giáo hội Công giáo Rôma, chỉ có hai Giám mục được biết đến là thành viên của Opus Dei.",
"Chỉ trích về việc tiếp cựu thủ tướng Ý Giulio Andreotti.",
"Ngày 14 tháng 12 năm 1995, ngay tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, một sinh viên đã lớn tiếng mắng nhiếc Giáo hoàng Gioan Phaolô II về việc ông tiếp cựu thủ tưởng Giulio Andreotti, người bị Tòa án quy kết là dính líu sâu sắc đến giới Mafia Ý, và cho rằng anh ta không hiểu tại sao một người như Andreotti lại được cho phép xuất hiện trong Tòa thánh. Một số ý kiến đã nhận định rằng việc này chứng minh Giáo hội Công giáo Rôma đã dính líu đến giới chính trị gia. Về phía mình, Vatican không có bình luận gì về vụ việc trên.",
"Kế hoạch hóa gia đình, phá thai và binh đẳng giới.",
"Như đã đề cập, Giáo hoàng Gioan Phaolô II có lập trường bảo vệ các quan điểm truyền thống của giáo hội Công giáo Rôma về thể hiện giới tính, thiên hướng tình dục, cái chết êm dịu, kiểm soát sinh sản và phá thai. Nhiều người chỉ trích Giáo hoàng vẫn còn giữ quan điểm bảo thủ về việc không cho nữ giới tham gia các vị trí cao cấp trong giáo hội.",
"Aisha Taylor đã nhận xét về vấn đề này như sau",
"Frank Zindler, một tư tưởng gia nổi tiếng theo chủ nghĩa vô thần đã đưa ra những chỉ trích gay gắt về Giáo hoàng Gioan Phaolô II và giáo hội Công giáo Rôma về các chính sách kiệm soát sinh sản và so sánh Giáo hoàng với Hitler:",
"Trong chuyến tông du tại Hoa Kỳ năm 1987, Giáo hoàng Gioan Phaolô II trở thành tâm điểm chỉ trích dữ dội của các tổ chức nữ quyền. Trong một cuộc biểu tình xảy ra tại California, một phụ nữ đã giả dạng làm một bà mẹ mang thai, tay cầm ba con búp bê và dải băng ghi dòng chữ \"Tử cung của tôi, tài sản của Vatican.\"",
"Quan điểm bảo thủ về đồng tính luyến ái.",
"Nhiều nhà hoạt động xã hội bảo vệ cho những người đồng tính luyến ái đã chỉ trích Giáo hoàng vì ông giữ quan điểm chống lại đồng tính luyến ái cũng như hôn nhân đồng giới. Giáo hoàng đã từng phát biểu rằng đồng tính luyến ái là một sự \"rối loạn\" và trong tác phẩm \"Memory and Identity\" Gioan Phaolô II đã miêu tả các gia đình đồng tính là \"ý thức hệ tội lỗi\", những điều này đã gây phẫn nộ cho nhiều thành viên trong cộng đồng những người đồng tính và hoán tính. Trong chuyến tông du tại Hoa Kỳ năm 1993, một cuộc biểu tình đã nổ ra nhằm phản đối tư tưởng kỳ thị đồng tính luyến ái của Giáo hoàng. Những người biểu tình đã mô tả Gioan Phaolô II là \"kẻ kì thị đồng tính luyến ái lớn nhất quả đất\", đồng thời lên án Giáo hội Công giáo phạm các tội về kì thị giới tính, kì thị người đồng tính và lạm dụng quyền lực.",
"Trong một nhận xét đăng trên tờ \"The Advocate\" vào năm 2000 về một bài diễn thuyết của Gioan Phaolô II, Michelangeo Signorile đã bình phẩm:",
"Tôn giáo và AIDS.",
"Giáo hoàng Gioan Phaolô II phản đối quan điểm cho rằng nên dùng bao cao su trong việc phòng chống HIV mà chỉ nên sử dụng các biện pháp tuyên truyền giáo dục về tầm quan trọng của mạng sống cũng như việc sinh hoạt tình dục điều độ và có ý thức. Điều này đã vấp phải sự chỉ trích kịch liệt từ giới y khoa và những nhà hoạt động xã hội về lĩnh vực bệnh AIDS, những người này cho rằng quan điểm của Giáo hoàng sẽ gây ra cái chết cho hàng triệu người và khiến hàng triệu người mồ côi vì bệnh AIDS. Những người chỉ trích còn cho rằng các gia đình quá đông con là nguyên nhân của việc thiếu kế hoạch hóa gia đình và làm tăng thêm sự nghèo khó ở các nước thế giới thứ ba cũng như các vấn nạn khác, ví dụ nạn trẻ em đường phố ở Nam Phi. Trước các chỉ trích này, Cơ quan Công giáo về Phát triển Hải ngoại (\"CAFOD - Catholic Agency for Overseas Development\") đã xuất bản một bài báo thừa nhận chuyện quan hệ tình dục trong nhiều trường hợp là chẳng đặng đừng, và nói rằng bất cứ những biện pháp nào giúp người dân có thể giảm thiểu nguy cơ mang bệnh qua đường tình dục đều đáng được sử dụng.",
"Chuyên quyền độc đoán.",
"Gioan Phaolô II bị chỉ trích là đã cố gắng tập trung quyền lực lại về cơ quan trung ương ở Vatican, trái ngược với một số chính sách phân quyền do Giáo hoàng Gioan XXIII chủ xướng và cản trở tiến trình dân chủ hóa giáo hội. Việc này một phần thể hiện trong sự thiên kiến của Gioan Phaolô II trong việc bổ nhiệm các Giám mục khi 232 Hồng y và hơn 3.300 Giám mục do Giáo hoàng bổ nhiệm phần nhiều có tư tưởng bảo thủ gần giống như ông; và phần lớn số Hồng y trong 114 người thuộc Mật nghị bầu cử nên Biển Đức XVI là do chính Gioan Phaolô II bổ nhiệm. Ngoài ra, dưới tư cách cá nhân hay trong các cuộc hội nghị, các chức sắc Giáo hội cũng ít có cơ hội được tranh biện hay chống đối các chính sách của Giáo hoàng và phe cánh của ông ta nếu không muốn đứng trước nguy cơ mất chức. Vì vậy Gioan Phaolô II bị một số ý kiến chỉ trích là độc đoán, chuyên quyền.",
"Bị cáo buộc là người mê tín dị đoan.",
"Học giả Joseph L. Daleiden đã chê trách Giáo hoàng còn tin vào những tín điều mê tín dị đoan mà ngày nay ít ai còn tin:",
"Chỉ trích từ giới Kitô giáo bảo thủ.",
"Trong khi những người cấp tiến chỉ trích sự bảo thủ của Giáo hoàng, những tín đồ Công giáo bảo thủ lại chỉ trích những biện pháp cấp tiến của Gioan Phaolô II. Một trong những chỉ trích của nhóm bảo thủ có nội dung yêu cầu Giáo hoàng phục hồi Thánh lễ Công đồng Trent và hủy bỏ các cải cách thực hiện sau Công đồng Vaticanô II tỉ như việc sử dụng các ngôn ngữ bản địa thay thế cho tiếng La Tinh trong các nghi lễ nhà thờ La Mã, phong trào Đại Kết, và các nguyên lý về tự do tôn giáo. Ông cũng bị phe bảo thủ chỉ trích vì đã bổ nhiệm các Giám mục có tư tưởng tự do và làm ngơ cho họ tuyên truyền các tư tưởng đổi mới, cấp tiến, những tư tưởng này từng bị giáo hoàng Piô X chỉ trích là \"sự tổng hợp của mọi tư tưởng dị giáo\". Năm 1988, Tổng Giám mục theo tư tưởng bảo thủ Marcel Lefebvre, người sáng lập Hội Thánh Piô X vào năm 1970, đã bị Gioan Phaolô II tuyệt thông vì đã phản đối việc Vatican thụ phong cho 4 Giám mục - hành động này bị tòa thánh cáo buộc là \"ly giáo\".",
"Khi Giáo hoàng cầu nguyện với các tín đồ Thiên chúa Giáo trong Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Hòa bình tổ chức tại Assisi, Ý vào năm 1986, sự kiện này bị chỉ trích là gây nên ấn tượng rằng thuyết hổ lốn và chủ nghĩa trung lập tôn giáo được công khai thừa nhận bởi Tòa thánh. Khi Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Hòa binh tiếp tục được tổ chức vào năm 2002, sự kiện này lại bị chỉ trích là lẫn lộn với các yếu tố thế tục và thỏa hiệp với các \"tôn giáo giả tạo\". Việc Giáo hoàng hôn cuốn kinh Koran tại Damascus, Syria trong một chuyến tông du ngày 6 tháng 5 năm 2001 cũng bị chỉ trích. Chủ trương tự do tôn giáo của Gioan Phaolô II cũng bị một số ý kiến chỉ trích, tỉ như trong khi các Giám mục như Antônio de Castro Mayer ủng hộ hòa hợp tôn giáo nhưng mặt khác cũng phủ nhận các nguyên tắc của Công đồng Vaticanô II về tự do tôn giáo mà Giáo hoàng Piô IX đã chỉ trích trong tác phẩm \"Syllabus errorum’\" năm 1864 và trong Công đồng Vaticanô I.",
"Vì các lý do trên, một số giới chức Công giáo bảo thủ đã phản đối việc Gioan Phaolô II được phong chân phước.",
"Ian Paisley.",
"Năm 1988, khi Giáo hoàng Gioan Phaolô II đang diễn thuyết trước nghị viện châu Âu thì nhà lãnh đạo tương lai của Đảng Dân chủ Hợp nhất Bắc Ailen và là Chủ tịch Đại hội đồng Trưởng lão của Giáo hội Trưởng lão Tự do Ulster, Ian Paisley, bất thình lình hét lên: \"Tôi tố cáo ông là kẻ phản kitô!\" và giơ cao biểu ngữ ghi dòng chữ \"Giáo hoàng Gioan Phaolô II KẺ PHẢN KITÔ\" (\"Pope John Paul II ANTICHRIST\"). Cựu thái tử Otto von Habsburg, người đứng đầu gia tộc Habsburg của đế quốc Áo – Hung cũ, vội vàng giật biểu ngữ này xuống và cùng với các nghi viên khác lật đật lôi cổ Paisley ra khỏi nơi diễn thuyết. Sau khi Paisley được \"tiễn\" khỏi hội trường, Giáo hoàng tiếp tục bài diễn thuyết của mình."
] |
3745 | 98738 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3745 | John Paul II | [] |
3746 | 98738 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3746 | Gioan Phao-lô II | [] |
3747 | 98738 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3747 | Gioan Phalô II | [] |
3748 | 69162366 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3748 | Vật lý hạt | [
"Vật lý hạt là một ngành của vật lý nghiên cứu về các hạt sơ cấp chứa trong vật chất và bức xạ, cùng với những tương tác giữa chúng. Nó còn được gọi là vật lý năng lượng cao bởi vì rất nhiều hạt trong số đó không xuất hiện ở điều kiện môi trường tự nhiên, mà chỉ được tạo ra hay phát hiện trong các vụ va chạm giữa các hạt, nhờ các máy gia tốc.",
"Lịch sử ngành vật lý hạt.",
"Ý tưởng về việc vật chất được tạo bởi các hạt cơ bản đã được đưa ra từ thế kỷ thứ 6 trước công nguyên. Thuyết nguyên tử đã được truyền bá bởi những triết gia người Hy Lạp như Leucippus, Democritus và Epicurus. Mặc dầu đến thế kỷ thứ 17 Isaac Newton đã nghĩ rằng vật chất được tạo bởi các hạt, song phải đợi mãi đến năm 1802, John Dalton mới chứng minh được \"mọi vật đều được cấu tạo bởi các hạt cực nhỏ, gọi là các nguyên tử\".",
"Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học của Dmitri Ivanovich Mendeleev năm 1869 đã củng cố lý thuyết trên, vài thập niên sau, J.J. Thomson đã chứng minh được rằng nguyên tử được tạo bởi các hạt electron có khối lượng nhỏ và các proton có khối lượng tương đối lớn. Thí nghiệm của Ernest Rutherford đã chỉ ra rằng các proton nằm trong các hạt nhân. Ban đầu người ta cho rằng hạt nhân được tạo bởi các hạt proton và electron, nhưng trong quá trình nghiên cứu và so sánh khối lượng cùng với điện tích của chúng thì có nhiều sơ hở. Về sau, năm 1932, người ta mới tìm ra rằng hạt nhân được tạo bởi các hạt proton, mang điện tích dương, và neutron mang điện tích trung hòa.",
"Thế kỷ thứ 20 là cuộc bùng nổ của vật lý hạt nhân cùng với vật lý lượng tử, cực điểm chính là các thí nghiệm phân hạch hạt nhân cùng với bom hạt nhân, tạo ra một đà lớn cho sự phát triển của ngành công nghiệp, trong đó phải kể đến ngành xuất chế, biến đổi một nguyên tử sang một nguyên tử khác, như quá trình chuyển chì thành vàng (tồn tại trên lý thuyết, nhưng không có hiệu quả kính tế).",
"Trong những năm 1950 và 1960, một số lượng lớn các hạt được tìm ra bởi các thí nghiệm phân rã hạt. Khái niệm \"vườn hạt\", là tập hợp của các hạt, nhờ đó mà ra đời. Và nó còn tồn tại cho đến khi mô hình chuẩn được ra đời năm 1970, nơi mà tất cả các hạt và tổ hợp của chúng đều được giải thích một cách chính xác.",
"Mô hình chuẩn.",
"Sự phân loại các hạt cơ bản được đưa ra trong mô hình chuẩn; nó mô tả các lực cơ bản của tự nhiên như lực tương tác mạnh, lực tương tác yếu và lực điện từ, bằng việc sử dụng các hạt truyền tương tác, gauge boson. Các hạt gauge bosons như là photon, W- W+ cùng với Z boson và gluon. Mô hình này có giới thiệu 24 hạt cơ bản chứa trong vật chất. Và sau cùng, nó còn dự đoán về sự tồn tại của một loại hạt khác có tên là Higgs boson.",
"Các hạt hạ nguyên tử.",
"Các nghiên cứu trong vật lý hạt hiện đại tập trung vào các hạt hạ nguyên tử, là những hạt có cấu trúc nhỏ hơn nguyên tử. Nó bao gồm những hạt cấu thành nguyên tử như electron, proton, neutron (proton và neutron được tạo ra bởi các hạt sơ cấp gọi là quark), các hạt được tạo ra bởi quá trình bức xạ hay phân rã như photon, neutrino, muon, cũng như một số lượng lớn các hạt ngoại lai.",
"Đối tượng nghiên cứu của vật lý hạt tuân thủ theo các định luật trong cơ học lượng tử. Ví dụ như chúng có lưỡng tính sóng-hạt - các hạt này vừa biểu hiện tính hạt như những hạt vật chất khác, vừa có thể biểu diễn dưới dạng sóng như trong các hàm sóng. Trên lý thuyết, không có sự phân biệt giữa tính hạt và tính sóng, mà nó đều được biểu diễn bằng các véc tơ trạng thái trong không gian Hilbert.",
"Có hai loại hạt, hạt cơ bản hay còn gọi là hạt sơ cấp - là những hạt không thể chia nhỏ hơn được nữa, như electron hay photon; và hạt tổ hợp - là những hạt được cấu thành bởi các hạt khác, như proton và neutron, được cấu thành từ các hạt quark.",
"Tất cả các hạt quan sát được cho đến ngày này đều được mô tả đầy đủ trong một mục của thuyết trường lượng từ có tên là mô hình chuẩn. Mô hình này giới thiệu 47 thành phần hạt sơ cấp, cùng với dạng tổ hợp của nó, do đó số hạt được nghiên cứu trong vật lý hạt nên tới con số vài trăm. ",
"Mặc dầu mô hình chuẩn được công nhận là đúng thông qua những thí nghiệm kiểm chứng hiện đại nhất ngày nay, tuy nhiên, nhiều nhà vật lý hạt vẫn cho rằng mô hình vẫn chưa hoàn thiện để có thể mô tả tự nhiên một cách trọn vẹn. Do vậy họ vẫn mong chờ để khám phá ra một lý thuyết mới, cơ bản hơn.",
"Hiện tại, các số liệu về khối lượng của neutrino là những bằng chứng thí nghiệm đầu tiên của sự không hoàn thiện trong mô hình chuẩn.",
"Vật lý hạt có một ảnh hưởng lớn tới triết học, một số lĩnh vực của nó vẫn trung thành với thuyết hoàn nguyên, một khái niệm cổ đã được phân tích bởi nhiều triết gia và nhà khoa học. Các cuộc tranh luận về nó vẫn kéo dài cho đến ngày nay.",
"Vật lý lý thuyết hạt.",
"Vật lý lý thuyết hạt cố gắng để phát triển các mô hình lý thuyết, với công cụ là toán học để giải thích các kết quả của thí nghiệm hiện hành, cùng với việc dự đoán các kết quả thí nghiệm trong tương lại. Có một số lĩnh vực chính trong ngành vật lý lý thuyết hạt, song lại tạo ra một lượng lớn các hoạt động nghiên cứu.",
"Trọng tâm của vật lý lý thuyết hạt chính là việc cố gắng hiểu sâu hơn về mô hình chuẩn cùng với các thí nghiệm kiểm chứng của nó. Bằng việc đưa ra nhiều tham số trong các thí nghiệm của mô hình chuẩn, để giảm thiểu các kết quả không chắc chắn, công việc này sẽ giúp các nhà vật lý phát hiện ra các hạn chế của mô hình chuẩn, nhờ đó giúp chúng ta hiểu sâu hơn về tự nhiên. Công việc tìm hiểu trên mang đầy thách thức, như việc tính toán các đại lượng trong sắc động lực học lượng tử. Một số nhà lý thuyết sử dụng công cụ là thuyết trường hiệu dụng, một số khác thì sử dụng thuyết lattice gauge theory.",
"Một đóng góp không nhỏ khác tạo bởi các nhà xây dựng mô hình, người đưa ra các ý tưởng có thể mở rộng mô hình chuẩn (với phạm vi năng lượng cao hơn hay khoảng cách nhỏ hơn). Công việc này được thúc đẩy bởi các bài toán nảy sinh ra từ những số liệu của thí nghiệm. Nó bao gồm siêu đối xứng, tiếp đến là bộ máy Higgs, hay mô hình Randall-Sundrum, là sự kết hợp của những ý tưởng trên và một số ý tưởng khác.",
"Một hướng đi chính trong vật lý lý thuyết hạt chính là lý thuyết dây. Các nhà lý thuyết dây có gắng xây dựng một mô hình thống nhất cơ học lượng tử với thuyết tương đối rộng, với ý tưởng chính là vật chất tạo bởi các dây, các màng nhỏ, chứ không chỉ dừng lại ở các hạt.",
"Song song với thuyết dây là thuyết hấp dẫn lượng tử vòng, với ý tưởng không-thời gian được lượng tử hóa, có cấu trúc và kích thước xác định.",
"Tương lai của vật lý hạt.",
"Các nhà vật lý hạt trên thế giới cùng hướng về một mục tiêu chung đó chính là nghiên cứu về sự tồn tại của hạt Higgs boson và các hạt siêu đối xứng. Sự hoàn thành của máy gia tốc LHC (\"Large Hadron Collider\") vào năm 2009 sẽ tạo đà cho các nghiên cứu của vật lý hạt trong tương lai. Cùng với nó là dự án ILC (\"International Linear Collider\"), nếu như được nhất trí xây dựng, sẽ là một bước đệm rất lớn cho ngành vật lý hạt nói riêng cũng như ngành vật lý nói chung. Máy va chạm ILC sẽ cho phép các nhà vật lý hạt phát hiện các tính chất của hạt một cách chuẩn xác hơn.",
"Một mục tiêu chính khác của vật lý hạt chính là việc xác định khối lượng của hạt neutrino, cũng như sự kiểm chứng về sự tồn tại phản ứng phân rã kép của proton.",
"Các Loại Hạt.",
"Hạt Điện.",
"Các hạt tạo nên Điện tử bao gồm",
"Phản Hạt Điện.",
"Các hạt tạo nên Quang Tử h bao gồm",
"Hạt Quang.",
"Các hạt tạo nên Quang Tử bao gồm",
"Liên kết ngoài.",
"Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ."
] |
3749 | 98738 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3749 | Gio-an Phao-lô II | [] |