messages
listlengths
3
3
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Dassault Mirage 5?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Dassault Mirage 5 là một mẫu máy bay cường kích do hãng Dassault Aviation của Pháp thiết kế chế tạo vào thập niên 1960, nó được sản xuất ở cả Pháp và một số quốc gia khác. Nó được bắt nguồn từ mẫu máy bay tiêm kích rất thành công của Dassault là Mirage III.\nThiết kế và phát triển.\nPhát triển ban đầu.\nMirage 5 được phát triển từ một yêu cầu của Không quân Israel đối với Dassault. Do thời tiết ở vùng Trung Đông chủ yếu là gió và nắng, Israel đề nghị loại bỏ hệ thống điện tử hàng không, thông thường được đặt sau buồng lái từ tiêu chuẩn Mirage IIIE để giảm bớt giá thành và bảo dưỡng, và thay thế hệ thống điện tử bằng những thùng nhiên liệu cho các nhiệm vụ tấn công. Vào tháng 9-1966, Israel đã đặt chế tạo 50 chiếc máy bay mới.\nMirage 5.\nChiếc Mirage 5 đầu tiên bay vào ngày 19 tháng 5-1967. Nó trông giống với Mirage III, ngoại trừ nó có phần mũi thon dài và phần thân máy bay được kéo dài thêm nửa mét, và người ta cho rằng Mirage 5 là mẫu máy bay thanh lịch nhất trong seri máy bay cánh tam giác Mirage. Một ống đo áp lực chất lỏng được chuyển từ đầu xuống phía dưới mũi máy bay trong phần lớn các phiên bản của Mirage 5.\nMirage 5 giữ lại hai khẩu súng DEFA của Mirage IIIE, nhưng thêm vào 2 gia treo vũ khí, nâng tổng số giá treo lên 7. Trọng tải vũ khí tối đa của Mirage 5 là 4.000 kg (8.800 lb). Những động cơ tên lửa SEPR dự phòng đã bị loại bỏ.\nDo xuất hiện những căng thẳng trong khu vực Trung Đông dẫn đến tổng thống Pháp lúc đó là Charles de Gaulle đã áp đặt lệnh cấm vận đối với những chiếc Mirage 5 của Israel vào 3 tháng 6-1967, khiến những chiếc Mirage 5 không thể giao cho Israel. Những chiếc Mirage tiếp tục được xuất xưởng khỏi dây chuyền sản xuất, mặc dù nó đã bị cấm vận, vào đến năm 1968 lô máy bay cuối cùng đã được hoàn thành và Israel đã trả những khoản thanh toán cuối cùng.\nCuối năm 1969, Israel đã cho phép các phi công Pháp kiểm tra máy bay, và yêu cầu máy bay sẽ được chuyển đến Corse, về lý thuyết cho phép họ tiếp tục bay huấn luyện trong mùa đông. Chính phủ Pháp nghi ngờ khi Israel cũng thử giành những thùng nhiên liệu cho máy bay hoạt động tầm xa và dừng mọi di chuyển.\nIsrael cuối cùng đã từ bỏ thử để có máy bay và chấp nhận trả lại. Tuy nhiên sau đó, việc hợp tác với Pháp tiếp tục được nối lại bí mật, tránh những con mắt dàm ngó của công chúng và Israel đã có được 50 chiếc Mirage 5 từ Không quân Pháp (AdA), trong khi AdA đang giữ 50 chiếc Mirage 5 của Israel với tên gọi Mirage 5F. Máy bay được giao từ tháng 5-1971 đến tháng 2-1974 và máy bay được đánh giá cùng với các kỹ thuật viên của Israel. Israel tuyên bố chính thức đã chế tạo máy bay sau khi có được bản thiết kế hoàn thiện, máy bay được Israel đặt tên là Nesher.\nCũng như Mirage IIIE, Mirage 5 được giới thiệu cho nhiều khách hàng, với các phiên bản xuất khẩu khác nhau được trang bị với nhiều hệ thống điện tử khác nhau. Trong khi Mirage 5 ban đầu được định hướng trong vai trò máy bay cường kích hoạt động trong thời tiết tốt, với hệ thống điện tử phù hợp với nhiệm vụ chiến đấu. Trong khi hệ thống điện tử trên nên gọn và mạnh hơn, nó có thể tăng cường các năng lực cho Mirage 5, mặc dù khoang chứa hệ thống điện tử phía sau đã bị loại bỏ, bởi vậy trong nội bộ Dassault đã có một số khúc mắc và kết thúc là Mirage IIIE được phát minh lại.\nPhiên bản trinh sát và hai chỗ của Mirage 5 cũng được xuất khẩu rộng rãi với tên gọi tương ứng Mirage 5R và Mirage 5D. Tuy nhiên, một số ít quan tâm về sự khác nhau giữa một chiếc Mirage III và một chiếc Mirage 5 nhanh chóng chỉ ra tên gọi này đơn giản chỉ để dùng cho mục đích tiếp thị. Không có đường phân cách rõ ràng giữa cấu hình của một phiên bản trinh sát hay huấn luyện của Mirage III và tương tự với Mirage 5, và thực tế chúng là một, và cũng giống nhau trong nhiều trường hợp.\nMirage 5 được bán cho Abu Dhabi, Bỉ, Colombia, Ai Cập, Gabon, Libya, Pakistan, Peru, Venezuela, và Zaire, với danh sách thông thường những tên gọi và biến đổi khác nhau trong trang bị. Máy bay của Bỉ được trang bị với phần lớn hệ thống điện tử hàng không của Mỹ, máy bay Ai Cập trang bị với hệ thống điện tử tấn công MS2 của Dassault-Dornier Alpha Jet.\nNăm 1978 và 1980, Israek đã bán tổng cộng 35 chiếc Nesher và 4 chiếc Nesher huấn luyện (Nesher T) cho Argentina, ở Argentina chúng có tên gọi đầu tiên là Dagger và sau khi nâng cấp có tên gọi Finger. Người Argentina đã mất hai chiếc IIIEA và 11 chiếc Dagger trong Chiến tranh Falklands vào năm 1982, và Peru đã chuyển cho Argentian 5 chiếc Mirage 5 của mình để bày tỏ sự đoàn kết, những máy bay này có tên gọi là Mirage Mara.\nChile gọi một số chiếc Mirage 5 dưới tên gọi Mirage Elkan.\nTổng cộng có 582 chiếc Mirage 5 được chế tạo, bao gồm 51 chiếc Nesher của Israel.\nMirage 50.\nĐộng cơ Atar 09K-50 là một ý tưởng tốt, và đã dẫn đến phiên bản tiếp theo của Mirage là Mirage 50 trong thập niên 1970. Động cơ nâng cấp đã giúp Mirage 50 cất cánh và vận tốc leo cao tốt hơn so với những mẫu máy bay trước đó. Trong khi Mirage 50 cũng kết hợp những hệ thống điện tử hàng không mới, như hệ thống radar Cyrano IV, nó không tỏ ra thông dụng trong các đơn bán hàng, như loạt Mirage thế hệ đầu đã bắt đầu ngừng hoạt động.\nChile đã đặt mua một số máy bay Mirage 50, họ đã mua cả máy bay mới cũng như những chiếc Mirage 5 nâng cấp của không quân Pháp. Máy bay Chile sau đó được hiện đại hóa theo IAI Kfir tại ENAER Pantera. Pantera đã kết hợp những cánh mũi và các cải tiến khí động hoác khác, cũng như hệ thống điện tử hàng không tiên tiến. Những máy bay này có một cái mũi rộng để tạo không gian cho những hệ thống mới.\nNăm 1990, Dassault nâng cấp một lô những chiếc Mirage IIIE và 5 của Venezuela thành tiêu chuẩn Mirage 50 đặc biệt, với tên gọi là Mirage 50M.\nChương trình Mirage 5 ROSE.\nChương trình ROSE được giới thiệu bởi hãng SAGEM của Pháp nhằm nâng cấp những chiếc Mirage III & 5 cho không quân Pakistan (PAF). Đợt nâng cấp trải qua 3 giai đoạn - ROSE-I, ROSE-II, và ROSE-III. Khoảng 42 chiếc Mirage III sẽ trải quan giai đoạn nâng cấp ROSE I bao gồm thêm vào radar Grifo M - giúp máy bay của không quân Pakistan có khả năng không chiến ngoài tầm nhìn. Chương trình ROSE-II sẽ nâng cấp ít nhất 40 chiếc Mirage 5 của PAF với buồng lái số mới và hệ thống hồng ngoại tiên tiến, nó giúp máy bay có khả năng tấn công không đối đất sử dụng bom thông minh. Giai đoạn ROSE III sẽ là những phiên bản Mirage tiếp theo của ROSE II; PAF có 14 máy bay ROSE III trong biên chế.\nTham khảo.\n And on ", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Saint-Léger-Magnazeix nha ?", "role": "user" }, { "content": "Saint-Léger-Magnazeix () là một xã của tỉnh Haute-Vienne, thuộc vùng Nouvelle-Aquitaine, miền trung nước Pháp.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Pseudoeurycea cephalica từ bách khoa toàn thư nha ?", "role": "user" }, { "content": "Pseudoeurycea cephalica là một loài kỳ giông trong họ Plethodontidae.\nNó là loài đặc hữu của México.\nCác môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, các đồn điền, vườn nông thôn, và các vùng đô thị.\nNó bị đe dọa do mất môi trường sống.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Vườn quốc gia Los Glaciares ?", "role": "user" }, { "content": "Vườn quốc gia Los Glaciares (Tây Ban Nha: \"Los Glaciares\" nghĩa là \"Các sông băng\") là một vườn quốc gia ở tỉnh Santa Cruz, Patagonia của Argentina. Vườn quốc gia có diện tích 4459 km ². Năm 1981, vườn quốc gia này được công nhận là di sản thế giới của UNESCO.\nĐược lập vào năm 1937, đây là vườn quốc gia lớn thứ hai ở Argentina. Tên của nó đề cập đến các chỏm băng khổng lồ trong dãy núi Andes, là nguồn cung cấp nước cho 47 sông băng lớn, trong đó chỉ có 13 dòng chảy về phía Đại Tây Dương. Đây là các chỏm băng lớn nhất nằm ngoài Nam Cực và Greenland. Trong các phần khác của thế giới, sông băng bắt đầu ở độ cao ít nhất là 2.500 mét trên mực nước biển trung bình, nhưng ở vườn quốc gi này, do kích thước của các chỏm băng, các sông băng bắt đầu chỉ 1.500 m, trượt xuống đến 200 m AMSL, làm xói mòn bề mặt của vùng núi đỡ chúng.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Ypsolopha cockerella?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Ypsolopha cockerella là một loài bướm đêm thuộc họ Ypsolophidae. Nó được tìm thấy ở Hoa Kỳ, bao gồm New Mexico.\nSải cánh dài khoảng 19–21 mm.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Sorbus subcuneata from the encyclopedia?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Sorbus subcuneata là một loài thực vật thuộc họ Rosaceae. Đây là loài đặc hữu của Vương quốc Anh. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Abu Nuwas từ bách khoa toàn thư nha ?", "role": "user" }, { "content": "Abū Nuwās al-Ḥasan ibn Hānī al-Ḥakamī (biến thể: Al-Ḥasan ibn Hānī 'Abd al-Awal al-Ṣabāḥ, Abū' Alī (), được gọi là Abū Nuwās al-Salamī () hoặc chỉ Abū Nuwās (tiếng Ả Rập: أبو نواس, 750 – 810) – là một trong những nhà thơ Ả Rập xuất sắc thời trung cổ. Sinh ra tại thành phố Ahvaz, thuộc Iran ngày nay, với cha là người Ả Rập và mẹ là người Ba Tư, ông đã trở thành một bậc thầy của tất cả các thể loại thơ Ả Rập đương đại. Ông cũng đi vào truyền thống dân gian, xuất hiện nhiều lần trong \"Nghìn lẻ một đêm\". Ông chết trong Nội chiến Abbasid vĩ đại trước khi al-Ma'mūn tiến quân từ Khurāsān vào năm 199 hoặc 200 AH (814–816). \nTiểu sử.\nCha của Nuwas, Hānī, người mà nhà thơ chưa từng biết, là một người Ả Rập, hậu duệ của bộ tộc Jizani Banu Hakam và là một người lính trong quân đội của Marwan II. Mẹ ông là người Ba Tư, Jullaban, làm thợ dệt. Các nhà viết tiểu sử khác nhau về ngày sinh của Nuwas, với ước tính dao động từ 747 đến 762. Một số nguồn tin nói rằng ông sinh ra ở Basra.\nCông việc.\nIsmail bin Nubakht, một trong những người cùng thời với Nuwas, cho biết:\n\"Tôi chưa bao giờ thấy một người đàn ông có học thức sâu rộng hơn Abu Nuwas, cũng như một người, với trí nhớ phong phú, mà lại sở hữu quá ít sách. giấy, trong đó là một bộ sưu tập các cách diễn đạt hiếm và các quan sát về ngữ pháp. \" \nCác tuyển tập thơ sớm nhất và tiểu sử của ông được sản xuất bởi: \nBị bỏ tù và cái chết.\nVì thường xuyên say sưa và sống phóng túng, Nuwas đã bị bắt giam dưới triều đại của Al-Amin, ngay trước khi qua đời. Nguyên nhân cái chết của ông bị tranh cãi; một số người nói rằng Nuwas chết trong tù, trong khi những người khác cho rằng ông bị đầu độc. Nuwas được chôn cất tại nghĩa trang Shunizi ở Baghdad.\nDi sản.\nNuwas là một trong số những nhà văn được cho là đã phát minh ra hình thức văn học của \"mu'ammā\" (nghĩa đen là \"bị mù\" hoặc \"bị che khuất\"), một câu đố được giải \"bằng cách kết hợp các chữ cái cấu thành của từ hoặc tên được tìm thấy\". Ibn Quzman, người đang viết ở Al-Andalus vào thế kỷ 12, rất ngưỡng mộ ông và được so sánh với ông.\nKiểm duyệt.\nTrong khi các tác phẩm của ông được lưu hành tự do cho đến những năm đầu của thế kỷ XX, ấn bản hiện đại bị kiểm duyệt đầu tiên của các tác phẩm của ông đã được xuất bản ở Cairo vào năm 1932. Vào tháng 1 năm 2001, Bộ Văn hóa Ai Cập đã ra lệnh đốt khoảng 6.000 bản sách thơ ca đồng tính của Nuwas. Trong mục Từ \"điển bách khoa toàn cầu tiếng\" Ả Rập của Ả Rập Xê Út dành cho Abu Nuwas, tất cả các đề cập đến phong cách yêu trẻ vị thành niên đều bị bỏ qua.\nTượng đài.\nThành phố Baghdad có một số địa danh được đặt theo tên nhà thơ này. Phố Abū Nuwās chạy dọc theo bờ đông của sông Tigris, trong một khu phố từng là nơi trưng bày của thành phố. Công viên Abu Nuwas nằm trên đoạn đường dài 2,5 km giữa Cầu Jumhouriya và một công viên kéo dài ra sông ở Karada gần Cầu 14 tháng Bảy.\nNăm 1976, một miệng núi lửa trên hành tinh Mercury được đặt tên để vinh danh Abu Nuwas. \nTrong văn hóa đại chúng.\nAbu Nuwas được hư cấu nhiều là nhân vật chính của các cuốn tiểu thuyết \"The Father of Locks\" (Dedalus Books, 2009) và \"The Khalifah's Mirror\" (2012) của Andrew Killeen, trong đó ông được miêu tả là một điệp viên làm việc cho Ja'far al-Barmaki. \nTrong cuốn tiểu thuyết tiếng Sudan \"Mùa di cư đến phương Bắc\" (1966) của Tayeb Salih, thơ tình của Abu Nuwas được một trong những nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết, người Sudan Mustafa Sa'eed, trích dẫn rất nhiều, như một phương tiện để quyến rũ một phụ nữ trẻ người Anh ở London: “Trái đất đang dậy sóng, / Rượu trinh nữ xưa kia có để lấy chăng?” \nNghệ sĩ người Tanzania Godfrey Mwampembwa (Gado) đã tạo ra một cuốn truyện tranh tiếng Swahili có tên \"Abunuwasi\" được xuất bản vào năm 1996. Nó có một nhân vật lừa gạt tên là Abunuwasi, nhân vật chính trong ba câu chuyện lấy cảm hứng từ văn hóa dân gian Đông Phi cũng như tiểu thuyết \"Nghìn lẻ một đêm\" của Abu Nuwasi. ", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho xin thông tin về Global output gap nhé", "role": "user" }, { "content": "Tham khảo.\nThuật ngữ Độ lệch tổng thu nhập toàn cầu (Global Output Gap) được hiểu là chênh lệch giữa tổng thu nhập quốc dân tiềm năng trừ đi tổng thu nhập quốc dân thực tế. Nếu chỉ số này dương, có nghĩa là quốc gia đó hiện đang có lạm phát. Nếu chỉ số này âm, có nghĩa là quốc gia đó đang giảm phát (trường hợp này khá hiếm gặp). Trong thực tế, dù chỉ số này dương hay âm thì đều có nghĩa là quốc gia đó đang hoạt động kém hiệu quả, tận dụng kém các nguồn lực sản xuất kinh doanh của mình.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Jeremy Clarkson's Extreme Machines từ bách khoa toàn thư không ?", "role": "user" }, { "content": "Jeremy Clarkson's Extreme Machines là phim tài liệu 6 tập, được phát sóng đầu tiên trên kênh BBC Two vào năm 1998. Những tập phim này được dẫn bởi Jeremy Clarkson, thử nghiệm một loạt các xe hơi, máy bay phản lực và xuồng máy.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Băng sơn?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Băng sơn (tiếng Anh: iceberg) là chỉ khối băng nước ngọt lớn do sự nứt vỡ từ một đầu của sông băng hoặc tấm băng địa cực gần sát biển mà rơi xuống trôi nổi giữa biển, thường thấy ở Nam Đại Dương, Bắc Băng Dương và phía tây bắc Đại Tây Dương. Bởi vì tính chất của băng sơn cứng rắn vững chắc, thể tích lớn, cho nên thường dẫn đến tai nạn khi va đụng với thuyền tàu, nổi tiếng trong số đó là tai nạn tàu RMS Titanic xảy ra vào năm 1912.\nBởi vì băng sơn dễ hình thành mối nguy hiểm của các ngành nghề trên biển, cho nên trước mắt đã hình thành đội tuần tra băng sơn quốc tế để giám sát và dự đoán hướng chuyển động của băng sơn thế giới, các quốc gia cũng có hệ thống giám trắc tương quan.\nVào tháng 4 năm 2021, \"băng sơn lớn nhất thế giới\" ở sát gần châu Nam Cực mã hiệu là A-68 có diện tích che phủ gần 6.000 kilômét vuông đã tan chảy giải phóng thành rất nhiều băng sơn nhỏ, là hiện tượng tự nhiên, không liên quan đến sự biến đổi khí hậu do hoạt động của con người gây ra.\nTừ nguyên.\nIceberg - tiếng Anh của băng sơn là dịch âm ijsberg từ tiếng Hà Lan, ý nghĩa về mặt chữ của nó là \"băng sơn\", trong đó ijs là băng, berg là sơn, ijsberg đồng âm với isbjerg của tiếng Đan Mạch, eisberg của tiếng Đức, iesbarg của tiếng Hạ Đức và isber của tiếng Na Uy và tiếng Thuỵ Điển.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về Chapelle-Voland không ?", "role": "user" }, { "content": "Chapelle-Voland là một xã của tỉnh Jura, thuộc vùng Bourgogne-Franche-Comté, miền đông nước Pháp.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Xylocopa maior?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Xylocopa maior là một loài Hymenoptera trong họ Apidae. Loài này được Maidl mô tả khoa học năm 1912.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Faule không ?", "role": "user" }, { "content": "Faule là một đô thị tại tỉnh Cuneo trong vùng Piedmont của Italia, vị trí cách khoảng 30 km về phía tây nam của Torino và khoảng 45 km về phía bắc của Cuneo. Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2004, đô thị này có dân số 425 người và diện tích 6,9 km².\nFaule giáp các đô thị: Casalgrasso, Moretta, Pancalieri, Polonghera và Villafranca Piemonte.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về 2128 Wetherill từ bách khoa toàn thư không ?", "role": "user" }, { "content": "2128 Wetherill (1973 SB) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 16 tháng 9 năm 1973 bởi E. F. Helin ở Đài thiên văn Palomar.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin của Mạng máy tính ở wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Mạng máy tính () là mạng viễn thông kỹ thuật số cho phép các nút mạng chia sẻ tài nguyên. Trong các mạng máy tính, các thiết bị máy tính trao đổi dữ liệu với nhau bằng các kết nối (liên kết dữ liệu) giữa các nút. Các liên kết dữ liệu này được thiết lập qua cáp mạng như dây hoặc cáp quang hoặc phương tiện không dây như Wi-Fi.\nCác thiết bị máy tính mạng làm nhiệm vụ khởi động, định tuyến và chấm dứt dữ liệu được gọi là các nút mạng. Các nút thường được xác định bởi địa chỉ mạng và có thể bao gồm máy chủ mạng như máy tính cá nhân, điện thoại và máy chủ, cũng như phần cứng mạng như bộ định tuyến và chuyển mạch. Hai thiết bị như vậy có thể được cho là được kết nối với nhau khi một thiết bị có thể trao đổi thông tin với thiết bị kia, cho dù chúng có kết nối trực tiếp với nhau hay không. Trong hầu hết các trường hợp, các giao thức truyền thông dành riêng cho ứng dụng được xếp lớp (nghĩa là mang theo trọng tải) so với các giao thức truyền thông chung khác. Bộ sưu tập công nghệ thông tin ghê gớm này đòi hỏi phải có những người quản lý mạng lành nghề để giữ cho tất cả hệ thống mạng hoạt động tốt.\nMạng máy tính hỗ trợ một số lượng lớn các ứng dụng và dịch vụ như truy cập vào World Wide Web, video kỹ thuật số, âm thanh kỹ thuật số, sử dụng chung các máy chủ lưu trữ và ứng dụng, máy in và máy fax, và sử dụng email và ứng dụng nhắn tin tức thời cũng như nhiều ứng dụng khác. Mạng máy tính khác nhau về cách thức truyền tin được sử dụng để mang tín hiệu, giao thức truyền thông để tổ chức lưu lượng mạng, kích thước của mạng, cấu trúc liên kết, cơ chế điều khiển lưu lượng và ý định tổ chức mạng. Mạng máy tính nổi tiếng nhất là Internet.\nLịch sử của máy tính.\nMáy tính của thập niên 1940 là các thiết bị cơ-điện tử lớn và rất dễ hỏng. Sự phát minh ra transistor bán dẫn vào năm 1947 tạo ra cơ hội để làm ra chiếc máy tính nhỏ và đáng tin cậy hơn.\nNăm 1950, các máy tính lớn \"mainframe\" chạy bởi các chương trình ghi trên thẻ đục lỗ (\"punched card\") bắt đầu được dùng trong các học viện lớn. Điều này tuy tạo nhiều thuận lợi với máy tính có khả năng được lập trình nhưng cũng có rất nhiều khó khăn trong việc tạo ra các chương trình dựa trên thẻ đục lỗ này.\nVào cuối thập niên 1950, người ta phát minh ra mạch tích hợp (IC) chứa nhiều transistor trên một mẫu bán dẫn nhỏ, tạo ra một bước nhảy vọt trong việc chế tạo các máy tính mạnh hơn, nhanh hơn và nhỏ hơn. Đến nay, IC có thể chứa hàng triệu transistor trên nhiều mạch.\nVào cuối thập niên 1960, đầu thập niên 1970, các máy tính nhỏ được gọi là \"minicomputer\" bắt đầu xuất hiện.\nNăm 1977, công ty máy tính Apple Computer giới thiệu máy vi tính còn được gọi là máy tính cá nhân (\"personal computer\" - PC).\nNăm 1981, IBM đưa ra máy tính cá nhân đầu tiên. Sự thu nhỏ ngày càng tinh vi hơn của các IC đưa đến việc sử dụng rộng rãi máy tính cá nhân tại nhà và trong kinh doanh.\nVào giữa thập niên 1980, người sử dụng dùng các máy tính độc lập bắt đầu chia sẻ các tập tin bằng cách dùng modem kết nối với các máy tính khác. Cách thức này được gọi là điểm nối điểm, hay truyền theo kiểu quay số. Khái niệm này được mở rộng bằng cách dùng các máy tính là trung tâm truyền tin trong một kết nối quay số. Các máy tính này được gọi là sàn thông báo (\"bulletin board\"). Các người dùng kết nối đến sàn thông báo này, để lại đó hay lấy đi các thông điệp, cũng như gửi lên hay tải về các tập tin. Hạn chế của hệ thống là có rất ít hướng truyền tin, và chỉ với những ai biết về sàn thông báo đó. Ngoài ra, các máy tính tại sàn thông báo cần một modem cho mỗi kết nối, khi số lượng kết nối tăng lên, hệ thống không thề đáp ứng được nhu cầu.\nQua các thập niên 1950, 1970, 1980 và 1990, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã phát triển các mạng diện rộng WAN có độ tin cậy cao, nhằm phục vụ các mục đích quân sự và khoa học. Công nghệ này khác truyền tin điểm nối điểm. Nó cho phép nhiều máy tính kết nối lại với nhau bằng các đường dẫn khác nhau. Bản thân mạng sẽ xác định dữ liệu di chuyển từ máy tính này đến máy tính khác như thế nào. Thay vì chỉ có thể thông tin với một máy tính tại một thời điểm, nó có thể thông tin với nhiều máy tính cùng lúc bằng cùng một kết nối. Sau này, WAN của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã trở thành Internet.\nMô hình tính toán mạng.\nMô hình tính toán tập trung (Centralized computing).\nToàn bộ các tiến trình xử lý diễn ra tại máy tính trung tâm. Các máy trạm cuối (Terminals) được nối mạng với máy tính trung tâm và chỉ hoạt động như những thiết bị nhập xuất dữ liệu cho phép người dùng xem trên màn hình và nhập liệu qua bàn phím. Các máy trạm đầu cuối không lưu trữ và xử lý dữ liệu. Mô hình tính toán mạng trên có thể triển khai trên hệ thống phần cứng hoặc phần mềm được cài đặt trên máy chủ (Server).\nƯu điểm: Dữ liệu bảo mật an toàn, dễ sao lưu, dễ diệt virus và chi phí cài đặt thấp.\nKhuyết điểm: Khó đáp ứng được các yêu cầu của nhiều ứng dụng khác nhau, tốc độ truy xuất chậm.\nMô hình tính toán phân tán (Distributed computing).\nCác máy tính có khả năng hoạt động độc lập, các công việc được tách nhỏ và giao cho nhiều máy tính khác nhau trong mạng thay vì tập trung xử lý trên máy trung tâm. Tuy dữ liệu được xử lý và lưu trữ tại máy cục bộ nhưng các máy tính này được nối mạng với nhau nên chúng có thể trao đổi dữ liệu và các dịch vụ.\nƯu điểm: Truy xuất nhanh, phần lớn không giới hạn các ứng dụng.\nKhuyết điểm: Dữ liệu lưu trữ rời rạc khó đồng bộ, sao lưu và rất dễ nhiễm virus.\nMô hình tính toán cộng tác (Collaborative computing).\nMô hình tính toán mạng cộng tác bao gồm nhiều máy tính có thể hợp tác để thực hiện một công việc. Một máy tính này có thể mượn năng lực tính toán, xử lý của máy tính khác bằng cách chạy các chương trình trên các máy tính nằm trong mạng.\nƯu điểm: Xử lý rất nhanh và mạnh, có thể dùng để chạy các ứng dụng có các phép toán lớn, xử lý dữ liệu lớn. Ví dụ: bẻ khóa các hệ mã, tính toán DNA...\nKhuyết điểm: Các dữ liệu được lưu trữ trên các vị trí khác nhau nên rất khó đồng bộ và sao lưu, khả năng nhiễm virus rất cao.\nPhân loại mạng.\nLAN.\nLAN () hay còn gọi là \"mạng cục bộ\", là mạng tư nhân trong một toà nhà, một khu vực (trường học hay cơ quan chẳng hạn) có cỡ chừng vài km. Chúng nối các máy chủ và các máy trạm trong các văn phòng và nhà máy để chia sẻ tài nguyên và trao đổi thông tin. LAN có 3 đặc điểm:\nMAN.\nMAN () hay còn gọi là \"mạng đô thị\", là mạng có cỡ lớn hơn LAN, phạm vi vài km. Nó có thể bao gồm nhóm các văn phòng gần nhau trong thành phố, nó có thể là công cộng hay tư nhân và có đặc điểm:\nVí dụ của kỹ thuật này là mạng DQDB (\"Distributed Queue Dual Bus\") hay còn gọi là bus kép theo hàng phân phối (tiêu chuẩn IEEE 802.6).\nWAN.\nWAN () còn gọi là \"mạng diện rộng\", dùng trong vùng địa lý lớn thường cho quốc gia hay cả lục địa, phạm vi vài trăm cho đến vài ngàn km. Chúng bao gồm tập hợp các máy nhằm chạy các chương trình cho người dùng. Các máy này thường gọi là máy lưu trữ(\"host\") hay còn có tên là máy chủ, máy đầu cuối (\"end system\"). Các máy chính được nối nhau bởi các \"mạng truyền thông con\" (\"communication subnet\") hay gọn hơn là mạng con (\"subnet\"). Nhiệm vụ của mạng con là chuyển tải các thông điệp (\"message\") từ máy chủ này sang máy chủ khác.\nMạng con thường có hai thành phần chính:\nHầu hết các WAN bao gồm nhiều đường cáp hay là đường dây điện thoại, mỗi đường dây như vậy nối với một cặp bộ định tuyến. Nếu hai bộ định tuyến không nối chung đường dây thì chúng sẽ liên lạc nhau bằng cách gián tiếp qua nhiều bộ định truyến trung gian khác. Khi bộ định tuyến nhận được một gói dữ liệu thì nó sẽ chứa gói này cho đến khi đường dây ra cần cho gói đó được trống thì nó sẽ chuyển gói đó đi. Trường hợp này ta gọi là nguyên lý mạng con điểm nối điểm, hay nguyên lý mạng con lưu trữ và chuyển tiếp (\"store-and-forward\"), hay nguyên lý mạng con nối chuyển gói.\nCó nhiều kiểu cấu hình cho WAN dùng nguyên lý điểm tới điểm như là dạng sao, dạng vòng, dạng cây, dạng hoàn chỉnh, dạng giao vòng, hay bất định.\nMô hình mạng.\nMạng hình sao (Star Network).\nCó tất cả các trạm được kết nối với một thiết bị trung tâm có nhiệm vụ nhận tín hiệu từ các trạm và chuyển đến trạm đích. Tùy theo yêu cầu truyền thông trên mạng mà thiết bị trung tâm có thể là hub, switch, router hay máy chủ trung tâm. Vai trò của thiết bị trung tâm là thiết lập các liên kết Point – to – Point.\nMạng tuyến tính (Bus Network).\nCó tất cả các trạm phân chia trên một đường truyền chung (bus). Đường truyền chính được giới hạn hai đầu bằng hai đầu nối đặc biệt gọi là terminator. Mỗi trạm được nối với trục chính qua một đầu nối chữ T (T-connector) hoặc một thiết bị thu phát (transceiver). Mô hình mạng Bus hoạt động theo các liên kết Point–to–Multipoint hay Broadcast.\nMạng hình vòng (Ring Network).\nTín hiệu được truyền đi trên vòng theo một chiều duy nhất. Mỗi trạm của mạng được nối với nhau qua một bộ chuyển tiếp (repeater) có nhiệm vụ nhận tín hiệu rồi chuyển tiếp đến trạm kế tiếp trên vòng. Như vậy tín hiệu được lưu chuyển trên vòng theo một chuỗi liên tiếp các liên kết Point–to–Point giữa các repeater.\nMạng kết hợp (Mesh Network).\nKết hợp hình sao và tuyến tính (Star Bus Network): Cấu hình mạng dạng này có bộ phận tách tín hiệu (splitter) giữ vai trò thiết bị trung tâm, hệ thống dây cáp mạng cấu hình là Star Topology và Linear Bus Topology. Lợi điểm của cấu hình này là mạng có thể gồm nhiều nhóm làm việc ở cách xa nhau, ARCNET là mạng dạng kết hợp Star Bus Network. Cấu hình dạng này đưa lại sự uyển chuyển trong việc bố trí đường dây tương thích dễ dàng đối với bất cứ toà nhà nào.\nKết hợp hình sao và vòng (Star Ring Network): Cấu hình dạng kết hợp Star Ring Network, có một \"thẻ bài\" liên lạc (Token) được chuyển vòng quanh một cái HUB trung tâm. Mỗi trạm làm việc được nối với HUB – là cầu nối giữa các trạm làm việc và để tǎng khoảng cách cần thiết.\nCác phương pháp truyền tin.\nMạng chuyển mạch kênh (Circuit Switching Network).\nKhi có hai trạm cần trao đổi thông tin với nhau thì giữa chúng sẽ được thiết lập một \"kênh\" cố định và được duy trì cho đến khi một trong hai bên ngắt kết nối. Dữ liệu chỉ được truyền theo con đường cố định này. Kỹ thuật chuyển mạch kênh được sử dụng trong các kết nối ATM (Asynchronous Transfer Mode) và Dial-up ISDN (Integrated Services Digital Networks). Ví dụ về mạng chuyển mạch kênh là mạng điện thoại.\nƯu điểm là kênh truyền được dành riêng trong suốt quá trình giao tiếp do đó tốc độ truyền dữ liệu được bảo đảm. Điều này là đặc biệt quan trọng đối với các ứng dụng thời gian thực như audio và video.\nNhược điểm là phải tốn thời gian để thiết lập đường truyền cố định giữa hai trạm; hiệu suất sử dụng đường truyền không cao, vì có lúc trên kênh không có dữ liệu truyền của hai trạm kết nối, nhưng các trạm khác không được sử dụng kênh truyền này.\nMạng chuyển mạch thông báo (Message Switching Network).\nKhông giống chuyển mạch kênh, chuyển mạch thông báo không thiết lập liên kết dành riêng giữa hai trạm giao tiếp mà thay vào đó mỗi thông báo được xem như một khối độc lập bao gồm cả địa chỉ nguồn và địa chỉ đích. Mỗi thông báo sẽ được truyền qua các trạm trong mạng cho đến khi nó đến được địa chỉ đích, mỗi trạm trung gian sẽ nhận và lưu trữ thông báo cho đến khi trạm trung gian kế tiếp sẵn sàng để nhận thông báo sau đó nó chuyển tiếp thông báo đến trạm kế tiếp, chính vì lý do này mà mạng chuyển mạch thông báo còn có thể được gọi là mạng lưu và chuyển tiếp (Store and Forward Network). Một ví dụ điển hình về kỹ thuật này là dịch vụ thư điện tử (e-mail), nó được chuyển tiếp qua các trạm cho đến khi tới được đích cần đến.\nƯu điểm là cung cấp một sự quản lý hiệu quả hơn đối với sự lưu thông của mạng, bằng cách gán các thứ tự ưu tiên cho các thông báo và đảm bảo các thông báo có độ ưu tiên cao hơn sẽ được lưu chuyển thay vì bị trễ do quá trình lưu thông trên mạng; giảm sự tắc nghẽn trên mạng, các trạm trung gian có thể lưu giữ các thông báo cho đến khi kênh truyền rảnh mới gửi thông báo đi; tăng hiệu quả sử dụng kênh truyền, với kỹ thuật này các trạm có thể dùng chung kênh truyền.\nNhược điểm là độ trễ do việc lưu trữ và chuyển tiếp thông báo là không phù hợp với các ứng dụng thời gian thực, Các trạm trung gian phải có dung lượng bộ nhớ rất lớn để lưu giữ các thông báo trước khi chuyển tiếp nó tới một trạm trung gian khác (kích thước của các thông báo không bị hạn chế).\nMạng chuyển mạch gói (Packet Switching Network).\nKỹ thuật này được đưa ra nhằm tận dụng các ưu điểm và khắc phục những nhược điểm của hai kỹ thuật trên, đối với kỹ thuật này các thông báo được chia thành các gói tin (packet) có kích thước thay đổi, mỗi gói tin bao gồm dữ liệu, địa chỉ nguồn, địa chỉ đích và các thông tin về địa chỉ các trạm trung gian. Các gói tin riêng biệt không phải luôn luôn đi theo một con đường duy nhất, điều này được gọi là chọn đường độc lập (independent routing).\nƯu điểm là dải thông có thể được quản lý bằng cách chia nhỏ dữ liệu vào các đường khác nhau trong trường hợp kênh truyền bận; nếu một liên kết bị sự cố trong quá trình truyền thông thì các gói tin còn lại có thể được gửi đi theo các con đường khác; điểm khác nhau cơ bản giữa kỹ thuật chuyển mạch thông báo và kỹ thuật chuyển mạch gói là trong kỹ thuật chuyển mạch gói các gói tin được giới hạn về độ dài tối đa điều này cho phép các trạm chuyển mạch có thể lưu giữ các gói tin vào bộ nhớ trong mà không phải đưa ra bộ nhớ ngoài do đó giảm được thời gian truy nhập và tăng hiệu quả truyền tin.\nNhược điểm là khó khăn của phương pháp chuyển mạch gói cần giải quyết là tập hợp các gói tin tại nơi nhận để tạo lại thông báo ban đầu cũng như xử lý việc mất các gói tin.\nMô hình ứng dụng mạng.\nMô hình mạng ngang hàng (Peer–to–Peer Network).\nMạng peer–to–peer là một ví dụ rất đơn giản của các mạng LAN. Chúng cho phép mọi nút mạng vừa đóng vai trò là thực thể yêu cầu các dịch vụ mạng (client), vừa là các thực thể cung cấp các dịch vụ mạng (server). Trong môi trường này, người dùng trên từng máy tính chịu trách nhiệm điều hành và chia sẻ tài nguyên của máy tính mình. Mô hình này chỉ phù hợp với các tổ chức nhỏ và không quan tâm đến vấn đề bảo mật. Phần mềm mạng peer–to–peer được thiết kế sao cho các thực thể ngang hàng thực hiện cùng các chức năng tương tự nhau.\nCác đặc điểm của mạng peer–to–peer là mạng peer–to–peer còn được biết đến như mạng workgroup (nhóm làm việc) và được sử dụng cho các mạng có ≤ 10 người sử dụng (user) làm việc trên mạng đó; không đòi hỏi phải có người quản trị mạng (administrator); trong mạng peer–to–peer mỗ người sử dụng làm việc như người quản trị cho trạm làm việc riêng của họ và chọn tài nguyên hoặc dữ liệu nào mà họ sẽ cho phép chia sẻ trên mạng cũng như quyết định ai có thể truy xuất đến tài nguyên và dữ liệu đó.\nƯu điểm là đơn giản cho việc cài đặt và chi phí tương đối rẻ.\nNhược điểm là Không quản trị tập trung, đặc biệt trong trường hợp có nhiều tài khoản cho một người sử dụng (user) truy xuất vào các trạm làm việc khác nhau; việc bảo mật mạng có thể bị vi phạm với các người sử dụng có chung tên người dùng, mật khẩu truy xuất tới cùng tài nguyên; không thể sao chép dự phòng (backup) dữ liệu tập trung. Dữ liệu được lưu trữ rải rác trên từng trạm.\nMô hình mạng khách chủ (Client – Server Network / Server Based Network).\nMạng khách chủ liên quan đến việc xác định vai trò của các thực thể truyền thông trong mạng. Mạng này xác định thực thể nào có thể tạo ra các yêu cầu dịch vụ và thực thể nào có thể phục vụ các yêu cầu đó.\nCác máy được tổ chức thành các miền (domain). An ninh trên các domain được quản lý bởi một số máy chủ đặc biệt gọi là domain controller. Trên domain có một master domain controller được gọi là PDC (Primary Domain Controller) và một BDC (Backup Domain Controller) để đề phòng trường hợp PDC gặp sự cố.\nMô hình quản lý mạng.\nMô hình mạng Workgroup.\nMô hình mạng Workgroup là một nhóm máy tính mạng cùng chia sẻ tài nguyên như file dữ liệu, máy in. Nó là một nhóm lôgíc của các máy tính mà tất cả chúng có cùng tên nhóm. Có thể có nhiều nhóm làm việc (workgroups) khác nhau cùng kết nối trên một mạng cục bộ (LAN).\nMô hình mạng Workgroup cũng được coi là mạng peer-to-peer bởi vì tất cả các máy trong workgroup có quyền chia sẻ tài nguyên như nhau mà không cần sự chỉ định của Server. Mỗi máy tính trong nhóm tự bảo trì, bảo mật cơ sở dữ liệu cục bộ của nó. Điều này có nghĩa là, tất cả sự quản trị về tài khoản người dùng, bảo mật cho nguồn tài nguyên chia sẻ không được tập trung hóa. Bạn có thể kết nối tới một nhóm đã tồn tại hoặc khởi tạo một nhóm mới.\nƯu điểm là Workgroups không yêu cầu máy tính chạy trên hệ điều hành Windows Server để tập trung hóa thông tin bảo mật; workgroups thiết kế và hiện thực đơn giản và không yêu cầu lập kế hoạch có phạm vi rộng và quản trị như domain yêu cầu; workgroups thuận tiện đối với nhóm có số máy tính ít và gần nhau (≤ 10 máy).\nNhược điểm là mỗi người dùng phải có một tài khoản người dùng trên mỗi máy tính mà họ muốn đăng nhập; bất kỳ sự thay đổi tài khoản người dùng, như là thay đổi mật khẩu hoặc thêm tài khoản người dùng mới, phải được làm trên tất cả các máy tính trong Workgroup, nếu bạn quên bổ sung tài khoản người dùng mới tới một máy tính trong nhóm thì người dùng mới sẽ không thể đăng nhập vào máy tính đó và không thể truy xuất tới tài nguyên của máy tính đó; việc chia sẻ thiết bị và file được xử lý bởi các máy tính riêng, và chỉ cho người dùng có tài khoản trên máy tính đó được sử dụng.\nMô hình mạng Domain.\nMô hình mạng Domain là một nhóm máy tính mạng cùng chia sẻ cơ sở dữ liệu thư mục tập trung (central directory database). Thư mục dữ liệu chứa tài khoản người dùng và thông tin bảo mật cho toàn bộ Domain. Thư mục dữ liệu này được biết như là thư mục hiện hành (Active Directory).\nTrong một Domain, thư mục chỉ tồn tại trên các máy tính được cấu hình như máy điều khiển miền (domain controller). Một domain controller là một Server quản lý tất cả các khía cạnh bảo mật của Domain. Không giống như mạng Workgroup, bảo mật và quản trị trong domain được tập trung hóa. Để có Domain controller, những máy chủ (server) phải chạy dịch vụ làm Domain controller (dịch vụ được tích hợp sẵn trên các phiên bản Windows Server của Microsoft; hoặc trên Linux, ta cấu hình dịch vụ Samba để làm nhiệm vụ Domain controller...).\nMột domain không được xem như một vị trí đơn hoặc cấu hình mạng riêng biệt. Các máy tính trong cùng domain có thể ở trên một mạng LAN hoặc WAN. Chúng có thể giao tiếp với nhau qua bất kỳ kết nối vật lý nào, như: Dial-up, Integrated Services Digital Network (ISDN), Ethernet, Token Ring, Frame Relay, Satellite, Fibre Channel.\nƯu điểm là cho phép quản trị tập trung. Nếu người dùng thay đổi mật khẩu của họ, thì sự thay sẽ được cập nhật tự động trên toàn Domain; Domain cung cấp quy trình đăng nhập đơn giản để người dùng truy xuất các tài nguyên mạng mà họ được phép truy cập; Domain cung cấp linh động để người quản trị có thể khởi tạo mạng rất rộng lớn.\nCác miền điển hình trong Windows Server có thể chứa các kiểu máy tính sau:\nKhông giống như Workgroup, Domain phải tồn tại trước khi người dùng tham gia vào nó. Việc tham gia vào Domain luôn yêu cầu người quản trị Domain cung cấp tài khoản cho máy tính của người dùng tới domain đó. Tuy nhiên, nếu người quản trị cho người dùng đúng đặc quyền, người dùng có thể khởi tạo tài khoản máy tính của mình trong quá trình cài đặt.\nThông số mạng.\nBăng thông (Bandwidth - B).\nTrong công nghệ máy tính, băng thông là đại lượng được dùng để chỉ một khối lượng dữ liệu có thể truyền tải được trong một thời gian nhất định. Đối với các thiết bị kỹ thuật số, băng thông được tính với đơn vị bps (bit mỗi giây) hay Bps (byte mỗi giây).\nĐộ trễ (Latency - L).\nĐộ trễ là khoảng thời gian chuyển một thông điệp từ nút này đến nút khác trong hệ thống mạng.\nThông lượng (Throughput – T).\nThông lượng là lượng dữ liệu đi qua đường truyền trong một đơn vị thời gian. Hay thông lượng là băng thông thực sự mà các ứng dụng mạng được sử dụng trong một thời gian cụ thể (thông lượng có thể được biến đổi theo thời gian).\nThông lượng thường nhỏ hơn nhiều so với băng thông tối đa có thể có của môi trường truyền dẫn được sử dụng (Throughput ≤ Bandwidth).\nThông lượng của mạng máy tính phụ thuộc vào các yếu tố như khoảng cách liên kết, môi trường truyền dẫn, các công nghệ mạng, dạng dữ liệu được truyền, số lượng người dùng trên mạng, máy tính người dùng, máy chủ, …\nCác mô hình mạng điển hình.\nCác mô hình dưới đây, TCP/IP và OSI là các tiêu chuẩn, không phải là các bộ lọc hay phần mềm tạo giao thức.\nOSI.\nOSI, hay còn gọi là \"Mô hình tham chiếu kết nối các hệ thống mở\", viết ngắn là OSI Model hoặc OSI Reference Model là thiết kế dựa trên sự phát triển của ISO (Tổ chức Tiêu chuẩn Quốc tế) và IUT-T. \nMô hình bao gồm 7 tầng:\nTCP/IP.\nTCP/IP cũng giống như OSI nhưng kiểu này có ít hơn ba tầng:\nCác công nghệ mạng.\nFDDI.\nVề bản chất FDDI giống như Token Ring, nhưng là double Token Ring. Nghĩa là FDDI có 2 vòng Token Ring, nhưng thật ra chỉ có 1 vòng hoạt động, còn 1 vòng dùng để dự phòng trong trường hợp vòng kia down.\nFDDI bảo đảm LAN hoạt động hiệu quả, và kô xảy ra tình trạng down, và security cao hơn.\nMạng chuyển mạch.\nATM.\nATM(Asynchronous Transfer Mode) là công nghệ chuyển mạch gói tương thích với mọi loại hình dịch vụ hiện nay. Nó được dùng trong cả mạng truy nhập lẫn mạng lõi. Hoạt động ở tầng 2 datalink của OSI\n-Dữ liệu cần gởi được chia thành các gói có độ dài cố định là 53 bytes, được gọi là một tế bào (cell).\nX.25.\nX.25 là một giao thức đã được công nhận bởi CCITT (viết tắt từ tiếng Anh: \"Consultative Committee for International Telegraph and Telephone\", nghĩa là Hội đồng Tham Vấn về Điện Thoại và Điện Tín Quốc tế). Giao thức này là giao thức rất phổ biến được đưa ra nhằm bảo đảm sự nguyên vẹn của dữ liệu khi di chuyển trong mạng. Nó định nghĩa sự kết nối với nhau của nhiều mạng dùng kỹ thuật nối chuyển gói với các máy tính liên hệ hoặc các đầu ra. X.25 cho phép các máy tính của nhiều mạng công cộng khác nhau có thể liên lạc xuyên qua một máy tính trung gian ở tầng network.\nFrame relay.\nFrame relay là một giao thức về nối chuyển gói dùng cho việc nối các thiết bị trong WAN. Giao thức này được tạo ra để dùng trong môi trường có vận tốc rất nhanh và khả năng bị lỗi ít. Ở Mỹ, nó hỗ trợ vận tốc T-1 (hay DS1) lên đến 1.544 Mbps. Thực ra, frame relay cơ bản dựa trên giao thức cũ là X.25. Sự khác nhau ở đây, frame relay là kỹ thuật \"gói nhanh\" (\"fast-packet\") và kỹ thuật này sẽ không tiến hành điều chỉnh lỗi. Khi lỗi tìm ra, thì nó chỉ đơn giản huỷ bỏ gói có lỗi đi. Các đầu cuối chịu trách nhiệm cho việc phát hiện lỗi và yêu cầu gửi lại gói đã hủy bỏ.\nARPANET.\nARPANET là mạng kiểu WAN, nse\") khởi xướng đầu thập niên 1960 nhằm tạo ra một mạng có thể tồn tại với chiến tranh hạt nhân lúc đó có thể xảy ra giữa Mỹ và Liên Xô. Chữ ARPANET là từ chữ \"Advance Research Project Agency\" và chữ \"NET\" viết hợp lại. Đây là một trong những mạng đầu tiên dùng kỹ thuật nối chuyển gói, nó bao gồm các mạng con và nhiều máy chính. Các mạng con thì được thiết kế dùng các minicomputer gọi là các IMP, hay Bộ xử lý mẫu tin giao diện, (từ chữ \"Interface Message Processor\") để bảo đảm khả năng truyền thông, mỗi IMP phải nối với ít nhất hai IMP khác và gọi các phần mềm của các mạng con này là giao thức IMP-IMP. Các IMP nối nhau bởi các tuyến điện thoai 56 Kbps sẵn có. ARPANET đã phát triển rất mạnh bởi sự ủng hộ của các đại học. Nhiều giao thức khác đã được thử nghiệm và áp dụng trên mạng này trong đó quan trọng là việc phát minh ra giao thức TCP/IP dùng trong các LAN nối với ARPANET. Đến 1983, ARPANET đã chứng tỏ sự bền bỉ và thành công bao gồm hơn 200 IMP và hàng trăm máy chính. Cũng trong thập niên 1980, nhiều LAN đã nối vào ARPANET và thiết kế DNS, hay \"'hệ thống đặt tên miền\", (từ chữ \"Domain Naming System\") cũng ra đời trên mạng này trước tiên. Đến 1990 thì mạng này mới hết được sử dụng. Đây được xem là mạng có tính cách lịch sử là tiền thân của Internet.\nNFSNET.\nVào 1984 thì tổ chức National Science Foundation của Hoa Kỳ (gọi tắt là NSF) đã thiết kế nhằm phục vụ cho nhu cầu nghiên cứu và thông tin giữa các đại học bao gồm 6 siêu máy tính từ nhiều trung tâm trải rộng trong Hoa Kỳ. Đây là mạng WAN đầu tiên dùng TCP/IP. Cuối thập niên 1990 thì kĩ thuật sợi quang (\"fiber optics\") đã được áp dụng. Tháng 12 năm 1991 thì mạng National Research and Educational Network ra đời để thay cho NSFNET và dùng vận tốc đến hàng giga bit. Đến 1995 thì NSFNET không còn cần thiết nữa.\nInternet.\nSố lượng máy tính nối vào ARPANET tăng nhanh sau khi TCP/IP trở thành giao diện chính thức duy nhất vào ngày 1 tháng 1 năm 1983. Sau khi ARPANET và NSFNET nối nhau thì sự phát triển mạng tăng theo hàm mũ. Nhiều nơi trên thế giới bắt đầu nối vào làm thành các mạng ở Canada, Châu Âu và bên kia Đại Tây Dương đã hình thành Internet. Từ 1990, Internet đã có hơn 300 mạng và 2000 máy tính nối vào. Đến 1995 đã có hàng trăm mạng cỡ trung bình, hàng chục ngàn LAN, hàng triệu máy chính, và hàng chục triệu người dùng Internet. Độ lớn của nó nhân đôi sau mỗi hai năm.\nChất liệu chính giữ Internet nối mạng với nhau là giao thức TCP/IP và chồng giao diện TCP/IP. TCP/IP đã làm cho các dịch vụ trở nên phổ dụng. Đến tháng 1 năm 1992, thì sự phát triển tự phát của Internet không còn hữu hiệu nữa. Tổ chức Internet Society ra đời nhằm cổ vũ và để quản lý nó. Internet có các ứng dụng chính sau:\nMạng không dây.\nCác thiết bị cầm tay hay bỏ túi thường có thể liên lạc với nhau bằng phương pháp không dây và theo kiểu LAN. Một phương án khác được dùng cho điện thoại cầm tay dựa trên giao thức CDPD (\"Cellular Digital Packet Data\") hay là dữ liệu gói kiểu cellular số.\nCác thiết bị không dây hoàn toàn có thể nối vào mạng thông thường (có dây) tạo thành mạng hỗn hợp (trang bị trên một số máy bay chở khách.\nLiên mạng.\nCác mạng trên thế giới có thể khác biệt nhau về phần cứng và phần mềm, để chúng liên lạc được với nhau cần phải có thiết bị gọi là cổng nối (\"gateway\") làm nhiệm vụ điều hợp. Một tập hợp các mạng nối kết nhau được gọi là \"liên mạng\". Dạng thông thường nhất của liên mạng là một tập hợp nhiều LAN nối nhau bởi một WAN.\nISDN.\nISDN từ chữ \"Integrated Services Digital Network\" nghĩa là \"mạng kỹ thuật số các dịch vụ tổng hợp\". Một cách tổng quát thì ISDN là loại mạng sử dụng kỹ thuật nối chuyển mạch. ISDN là một tiêu chuẩn quốc tế về truyền thông bằng âm thanh, dữ liệu, tín hiệu và hình ảnh kỹ thuật số. Một thí dụ là nó có thể dùng cho các buổi hội thảo truyền hình (\"videoconference\") cùng lúc trao đổi hình ảnh, âm thanh, và chữ giữa các máy cá nhân có nối kết với nhóm các hệ thống hội thảo truyền hình. Hệ thống ISDN sử dụng các nối kết qua đường dây điện thoại số cho phép nhiều kênh truyền hoạt động đồng thời qua cùng một tiêu chuẩn giao diện duy nhất. Người dùng ở nhà và các cơ sở kinh tế muốn có ISDN qua hệ thống dường dây điện thoại số cần phải cài thêm các trang bị đặc biệt về phần cứng gọi là bộ tiếp hợp (\"adapter\"). Vận tốc tối đa hiện tại của ISDN lên đến 128 Kbps. Nhiều địa phương không trang bị đưòng dây điện thoại số thì sẽ không cài đặt được kỹ thuật ISDN.\nCác tổ chức ảnh hưởng tới quá trình tiêu chuẩn hoá mạng.\nCác tổ chức ảnh hưởng lớn hay có thẩm quyền đến việc tiêu chuẩn hoá mạng máy tính:\nCác vấn đề xã hội.\nQuan hệ giữa người với người trở nên nhanh chóng, dễ dàng và gần gũi hơn cũng mang lại nhiều vấn đề xã hội cần giải quyết như:\nViệc phát triển các hệ thống mạng máy tính đem đến nhiều lợi ích cho xã hội như:\nLiên kết ngoài.\n ", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Kiến thức hoặc thông tin về Cernotina obliqua", "role": "user" }, { "content": "Cernotina obliqua là một loài Trichoptera trong họ Polycentropodidae. Chúng phân bố ở vùng Tân nhiệt đới.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Peyziwat?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Peyziwat (âm Hán Việt: Già Sư huyện, chữ Hán giản thể: 伽师县) là một huyện thuộc địa khu Kashgar, Tân Cương, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện này có diện tích 6528 ki-lô-mét vuông, dân số năm 2002 là 320.000 người. Mã số bưu chính là 844300. Chính quyền huyện đóng ở trấn Ba Nhân. Về mặt hành chính, huyện này được chia thành 2 trấn, 11 hương.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Hjarnø từ bách khoa toàn thư không ?", "role": "user" }, { "content": "Hjarnø là 1 đảo nhỏ của Đan Mạch nằm ở cửa Vịnh hẹp Horsens Fjord, khoảng giữa bờ phía đông của bán đảo Jutland. Đảo tương đối bằng phẳng (điểm cao nhất chỉ hơn mặt biển 7 m) và có diện tích là 3,2 km² với 108 cư dân (năm 2008). Có tuyến tàu phà nối giao thông với đảo từ Snaptun (bán đảo Jutland) mỗi ngày 29 chuyến (mất khoảng 7 phút).\nCác nông trại nằm dọc theo con đường đông - tây của đảo. Gần bến phà, có 1 nhà thờ được xây từ năm 1500. Có 1 nhà hội họp ở bên đường chính ở giữa đảo bên cạnh xưởng chế biến sữa cũ. Gian phòng lớn của nhà này chứa được 100 người ngồi ăn uống và gian nhỏ chứa được 20 người.\nNghề nghiệp.\nCách đây 200 năm, phần lớn các đàn ông của đảo làm nghề đi biển. Ngày nay dân chúng chủ yếu làm nghề nông. Có 11 người trồng nho tập thể trên cánh đồng rộng khoảng 4.000 m² với 1.200 gốc nho trên phần đất phía nam đảo. Một số khác làm việc trên đất liền.\nLịch sử.\nCó nhiều vật được tìm thấy của các người săn bắt thời xưa, cách 9.500 năm trước Công nguyên. Ở phía đông nam đảo có một mộ đá lớn từ thời Viking.\nTừ năm 1914-18, người ta đã dựng 1 cối xay kiêm máy sản xuất điện bằng sức gió. Sau đó có 1 động cơ sản xuất điện để thay thế, khi gió yếu. Năm 1841, đảo được kéo điện về từ đất liền. Từ năm 1820, đảo có 1 trường tiểu học.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Hệ thống Dahlgren ?", "role": "user" }, { "content": "Một trong các hệ thống phân loại thực vật hiện đại là hệ thống Dahlgren, được chuyên gia về thực vật một lá mầm là Rolf Dahlgren (1932-1987) công bố. Vợ của ông, bà Gertrude, đã tiếp tục công việc này sau khi ông chết.\nTheo danh sách có phạm vi rộng do Reveal, giáo sư danh dự của Phòng sưu tập cây Norton Brown ở Maryland, Hoa Kỳ (xem 1 \n2 \n3 \n4 , lưu ý tới các từ đồng nghĩa theo cả danh pháp và phân loại, cho mỗi tên gọi trong hệ thống), nó tương tự như sau:", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Nguyễn Văn Sâm?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Nguyễn Văn Sâm (27 tháng 9 năm 1898 -10 tháng 10 năm 1947) là một nhà báo và chính khách Việt Nam. Ông được vua Bảo Đại đề cử làm khâm sai Nam Kỳ thời Đế quốc Việt Nam, đại diện triều đình Huế ở miền Nam sau khi Liên bang Đông Dương của Pháp bị Đế quốc Nhật Bản đảo chánh tước quyền.\nThân thế.\nÔng quê ở Bang Long, tỉnh Sóc Trăng, có tiếng thông minh học giỏi từ nhỏ. Nguyễn Văn Sâm sau theo học Trường Công chánh (École des Travaux Publics) ở Hà Nội. Ông lấy vợ nhà giàu, Vương Hồng Sển ghi là hạng tỉ phú.\nNghiệp làm báo.\nTên của Nguyễn Văn Sâm được biết đến đầu tiên trong làng báo chí với bài vở đóng góp trên báo \"La Tribune Indigène\" của Nguyễn Phú Khai rồi làm chủ nhiệm báo \"Đuốc Nhà Nam\" (tiếng Pháp: \"Flambeau d'Annam\") nơi ông hoạt động với Bùi Quang Chiêu và Đảng Lập hiến Đông Dương. Năm 1937 Nguyễn Văn Sâm nhân danh Hội trưởng Nghiệp đoàn báo giới Nam Kỳ (tiếng Pháp: \"Amicale des Journalistes Annamites de Cochinchine\", viết tắt AJAC) ra Hà Nội họp Hội nghị báo giới Bắc Kỳ. Sau đó ông ra tranh cử Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ và đắc cử nhưng vì lập trường chống Pháp ông bị bắt giam lỏng ở Sóc Trăng năm 1939 sau khi nhà chức trách Pháp mở cuộc truy lùng lục soát trụ sở của AJAC vào tháng 10 năm 1939 và ra lệnh đình chỉ hoạt động của hội này.\nHoạt động chính trị.\nTừ trước năm 1945 Nguyễn Văn Sâm đã tham gia lập ra Việt Nam Quốc gia Độc lập Đảng. Có một thời ông hoạt động với bí danh Dương Sĩ Kỳ.\nKhi Đế quốc Nhật đảo chính thực dân Pháp ngày 9 tháng 3 năm 1945 và Thủ tướng Trần Trọng Kim nhân danh vua Bảo Đại đứng ra lập chính phủ của Đế quốc Việt Nam thì Nguyễn Văn Sâm được chọn là khâm sai Nam Kỳ theo dụ 108, tức đại diện của nhà vua ở miền Nam kể từ ngày 14 tháng 8. Phe cộng sản thì tổ chức chống đối, kêu gọi tẩy chay việc đón tiếp vị khâm sai ở Sài Gòn. Chỉ được 10 ngày thì vua Bảo Đại thoái vị, Nguyễn Văn Sâm phải trao quyền lại cho lực lượng Việt Minh của Lâm ủy hành chánh Trần Văn Giàu. Tuy nhiên thực dân Pháp mở cuộc tái chiếm Nam Kỳ bằng võ lực vào tháng 9, 1945 khiến Nguyễn Văn Sâm cùng Chủ tịch Hội đồng Nam Kỳ Trần Văn Ân, Phó Khâm sai Hồ Văn Ngà và Đô trưởng Sài Gòn-Chợ Lớn Kha Vạng Cân phải rút lui khỏi thành phố và lập Ủy ban Phong toả Sài Gòn-Chợ Lớn để cố cầm chân quân đội Pháp.\nSang năm 1946 ông đại diện Việt Nam Quốc gia Độc lập Đảng đến họp ở Bà Quẹo, ngoại ô Sài Gòn vào ngày 20 tháng 4 để cùng các đảng phái và đoàn thể tôn giáo khác ở Nam Kỳ lập Mặt trận Quốc gia Liên hiệp hầu tranh thủ với đảng Cộng sản Việt Nam trong việc chống Pháp.\nKhi Đảng Quốc gia Độc lập suy thoái với nhiều thành viên ngã theo cộng sản thì Nguyễn Văn Sâm là một trong những người sáng lập ra Đảng Dân Xã Việt Nam vào năm 1946, chủ yếu với thành phần Phật giáo Hòa Hảo; sau ông lên làm chủ tịch Đảng.\nKhi chính phủ Nam Kỳ Quốc của Nguyễn Văn Thinh hình thành năm 1947 thì đảng viên Dân xã Nguyễn Văn Sâm được chọn làm Đại diện Ngoại giao. Ông là người đứng ra lập Mặt trận Thống nhứt Toàn quốc, tức Mặt trận Quốc gia Thống nhứt vào tháng 8 ủng hộ việc đưa cựu hoàng Bảo Đại lên thống lĩnh các lực lượng không cộng sản để đòi độc lập từ tay người Pháp. Tuy tham chính trong chính phủ Nam Kỳ Quốc, ông cùng Tổng trưởng Thông tin Trần Văn Ân muốn thống nhất Nam Kỳ vào với Trung và Bắc Kỳ nên có người cho là Pháp đã cho người ám sát ông trên đường Cây Mai, Chợ Lớn. Thuyết khác thì cho là lực lượng Việt Minh do Nguyễn Văn Trấn và Cao Đăng Chiếm ra lệnh giết ông vì cả hai phe, Pháp lẫn Việt Minh đều thù ghét ông.\nTrần Trọng Kim trong cuốn \"Một cơn gió bụi\" nhận xét Nguyễn Văn Sâm là người \"ôn hòa trầm tĩnh, ngay chính và hết lòng lo việc nước\".\nTên của ông thời Việt Nam Cộng hòa được đặt cho một con đường ở Sài Gòn (thay thế rue d'Ayot thời Pháp thuộc) và cây cầu \"Ba cẳng\" ở đường Phùng Hưng. (19).Sau năm 1975 con đường Nguyễn Văn Sâm được thay tên mới là Nguyễn Thái Bình", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Ecnomina mesembria không ?", "role": "user" }, { "content": "Ecnomina mesembria là một loài Trichoptera trong họ Ecnomidae. Chúng phân bố ở miền Australasia.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Hòa Bình, Đài Trung?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": " \nHòa Bình () là một khu (quận) của thành phố Đài Trung, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Đây là một quận miền núi và có diện tích chiếm đến một nửa toàn thành phố. Quận có một khu vui chơi giải trí trên đỉnh Bát Tiên Sơn. Hòa Bình là nơi phát triển lĩnh vực nông nghiệp xứ lạnh do có ưu thế về khí hậu, đây là nơi sản xuất rau ôn đới hàng đầu tại Đài Loan cùng với nghề nuôi cá hồi. Trên địa bàn huyện có nhiều đỉnh núi cao từ 2000-3000 mét, cá biệt có một số cao trên 3000 mét và cũng xuất hiện một số ruộng bậc thang. Hòa Bình cũng phát triển về du lịch gắn với suối nước nóng Cốc Quan. Hòa Bình có diện tích 1037,8192 km², dân số vào tháng 8 năm 2011 là 10.711 thuộc 4.434 hộ gia đình, mật độ cư trú đạt 10,32 người/km². Trước ngày 25 tháng 12 năm 2011, Hòa Bình là một hương của huyện Đài Trung.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho xin thông tin về Lissomus lacordairei nhé", "role": "user" }, { "content": "Lissomus lacordairei là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Laporte miêu tả khoa học năm 1840.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Lê Cung Bắc từ bách khoa toàn thư nha ?", "role": "user" }, { "content": "Lê Cung Bắc (11 tháng 6 năm 1946 – 13 tháng 6 năm 2021) tên thật Lê Hữu Ty, là một diễn viên và đạo diễn nổi tiếng người Việt Nam. Năm 2001 ông được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú vì những đóng góp của mình cho nền điện ảnh Việt Nam.\nCuộc đời và sự nghiệp.\nÔng sinh ngày 11 tháng 6 năm 1946, quê quán tại làng Xuân Thành, xã Triệu Độ, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông đã từng theo học tại các trường trung học Nguyễn Hoàng (Quảng Trị), Quốc học Huế. Sau khi đỗ tú tài toàn phần ông theo học Đại học Chính trị Kinh doanh ngành Bang giao Quốc tế tại Viện Đại học Đà Lạt. Sau khi tốt nghiệp, ông tiếp tục theo học Cao học Quản trị Kinh doanh tại Sài Gòn.\nLúc còn là sinh viên, ông thành lập Ban kịch Thụ Nhân, khá nổi danh trong giới sinh viên các trường đại học miền Nam. Ông cũng tham gia viết báo trên các nhật báo như Công Luận, Bút Thép, Sóng Thần, Tin Sáng, tuần báo Đời và bán nguyệt san Văn. Trước năm 1975, ông tham gia một số ban kịch truyền hình Sài Gòn như các ban kịch Vũ Đức Duy, Quê Hương, Sông Thao... và được đánh giá là một diễn viên tài năng. Ông từng được cử đi nghiên cứu ngành kịch nói tại Pháp và Canada năm 1974.\nSau năm 1975, ông tham gia Đoàn kịch nói Bông Hồng một thời gian ngắn và sau đó chính thức chuyển qua lĩnh vực điện ảnh từ năm 1982. Trong khoảng 10 năm ông đã có trên 200 vai diễn điện ảnh và truyền hình. Cuối năm 1992 ông được Hãng phim Giải Phóng trao làm một số phim truyện video đầu tiên như \"Trên cả hận thù\", \"Ta tắm ao ta\", \"Giọt lệ chưa khô\"...\nNăm 1994, ông được Hãng phim Giải Phóng giao làm bộ phim nhựa đầu tiên \"Nhịp đập trái tim\" và với bộ phim này ông được Hội Điện ảnh Việt Nam trao giải thưởng \"Đạo diễn phim nhựa đầu tay\".\nNăm 1995, ông được Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh mời về làm bộ phim \"Người đẹp Tây Đô, là phim truyền hình nhiều tập đầu tiên của hãng phim TFS. Bộ phim đã gây tiếng vang lớn. Trong những năm sau đó, ông làm bộ phim \"Không thể rẽ trái\" được nhận Huy chương Vàng LHP Truyền hình toàn quốc năm 1996. Cũng với bộ phim này, Võ Sông Hương nhận được giải \"Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất\".\nSau thành công của hai bộ phim này, ông tiếp tục làm bộ phim truyền hình \"Dòng đời\" (52 tập). Bộ phim này đã mang lại 3 giải thưởng Đạo diễn, Quay phim và Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho Đạo diễn Lê Cung Bắc, Đồng Anh Quốc và Võ Sông Hương trong cuộc bình chọn của khán giả do HTV tổ chức năm 2001. Cũng trong năm đó ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú.\nSau những thành công đó, ông tiếp tục làm các bộ phim \"Cõi tình\", \"Xóm cũ\" (Hãng phim TFS), \"Vì một ngày mai\", \"Họ từng chung kẻ thù\", \"Duyên phận\" (Hãng phim truyền hình Bình Dương, huy chương bạc LHP Truyền hình 2006), \"Những chiếc lá thời gian\" (Hãng phim Sena, giải Đặc biệt của Ban giám khảo trong LHP quốc gia), \"Bẫy tình\" (Hãng Viet Film)...\nNăm 2005, ông thực hiện bộ phim nhựa \"Duyên trần thoát tục\", một bộ phim được ghi vào Kỷ lục Phật giáo Việt Nam. Năm 2008, ông trở lại với hãng phim TFS với bộ phim \"Vó ngựa trời Nam\", một bộ phim truyền hình lịch sử hoành tráng và đã nhận được nhiều giải thưởng trong LHP Truyền hình 2010. Bộ phim này được 3 huy chương Vàng dành cho Phim xuất sắc nhất, Quay phim xuất sắc nhất và Nam diễn viên chính xuất sắc nhất. Và trong giải Cánh Diều của Hội Điện ảnh Việt Nam, bộ phim này cũng giành được 3 giải: Cánh Diều Vàng Đạo diễn xuất sắc nhất phim truyền hình, Nam diễn viên chính xuất sắc nhất và Cánh Diều Bạc cho bộ phim.\nTiếp đó ông làm các bộ phim Những Đóa Hoa Tình Yêu (32 tập) cho hãng Midi, Nơi Trái Tim Ở Lại (24 tập, TFS), và mới đây nhất là bộ phim chính luận Ngược Sóng (38 tập, hãng phim Cát Tiên Sa) đã được Hội đồng thẩm định Nghệ thuật của VTV đánh giá rất cao và khán giả rất thích thú.\nVào đúng 1h53 ngày 13/6/2021, Lê Cung Bắc được xác nhận là đã qua đời vì ung thư phổi. Ông được phát hiện khi đang nằm bất động tại nhà riêng nơi ông sống ở Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, không lâu sau lễ mừng thọ 75 tuổi.\nĐời tư.\nÔng lập gia đình với bà Bùi Thị Giang, một cựu giáo sư Anh văn và là chị của diễn viên Đơn Dương. Hai người có với nhau hai con trai. Người con trai đầu tốt nghiệp kỹ sư Tin học tại Hoa Kỳ và con trai út tốt nghiệp Kiến trúc sư tại Việt Nam.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho tôi thông tin về Hydromanicus makareus từ wiki nha", "role": "user" }, { "content": "Hydromanicus makareus là một loài Trichoptera trong họ Hydropsychidae. Chúng phân bố ở miền Ấn Độ - Mã Lai.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Diplectrona taprobanes từ bách khoa toàn thư không ?", "role": "user" }, { "content": "Diplectrona taprobanes là một loài Trichoptera trong họ Hydropsychidae. Chúng phân bố ở miền Ấn Độ - Mã Lai.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "867 Kovacia, bạn có thông tin nó ?", "role": "user" }, { "content": "867 Kovacia là một tiểu hành tinh ở vành đai chính, thuộc nhóm tiểu hành tinh Hygiea. Nó được xếp loại tiểu hành tinh kiểu B. Tiểu hành tinh này do Johann Palisa phát hiện ngày 25.2.1917 ở Viên, và được đặt theo tên Friedrich Kovacs, thầy thuốc chữa trị bệnh cho vợ của Johann Palisa.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Mình cần thông tin của San Demetrio Corone á", "role": "user" }, { "content": "San Demetrio Corone là một đô thị và cộng đồng (\"comune\") ở tỉnh Cosenza trong vùng Calabria miền nam nước Ý.\nĐô thị San Marco Argentano có diện tích 57 ki lô mét vuông, dân số thời điểm năm 2007 là 3748 người.\nĐô thị này có các đơn vị dân cư (\"frazioni\") sau:\nCác đô thị giáp ranh: Acri, Corigliano Calabro, San Cosmo Albanese, Vaccarizzo Albanese, Santa Sofia d'Epiro, Tarsia và Terranova da Sibari.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Tôi cần thông tin về Ilybius chalconatus ở Wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Ilybius chalconatus là một loài bọ cánh cứng bản địa của Cổ bắc giới, bao gồm châu Âu, Cận Đông và Bắc Phi. Ở châu Âu, nó được tìm thấy ở Áo, Bỉ, Bosna và Hercegovina, Britain, Bulgaria, Corse, Kríti, Croatia, Cộng hòa Séc, mainland Đan Mạch, Estonia, Phần Lan, Chính quốc Pháp, Đức, Hy Lạp lục địa, Hungary, Ireland, Chính quốc Ý, Kaliningrad, Latvia, Litva, Luxembourg, Cộng hòa Macedonia, Moldova, Ba Lan, Chính quốc Bồ Đào Nha, Nga (miền trung, East và tây bắc), Sardegna, Sicilia, Slovakia, Slovenia, Chính quốc Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Hà Lan, Ukraina, và Nam Tư.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Mình cần thông tin của Triepeolus kathrynae á", "role": "user" }, { "content": "Triepeolus kathrynae là một loài Hymenoptera trong họ Apidae. Loài này được Rozen mô tả khoa học năm 1989.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Setodes argentatus ?", "role": "user" }, { "content": "Setodes argentatus là một loài Trichoptera trong họ Leptoceridae. Loài xuất hiện ở Nhật Bản.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin của Acanthoclita ở wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Acanthoclita là một chi bướm đêm thuộc phân họ Olethreutinae, họ Tortricidae Tortricidae.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Cordillera Oriental (Colombia) từ bách khoa toàn thư không ?", "role": "user" }, { "content": "Cordillera Oriental (nghĩa là \"dãy núi Đông\") là một trong ba dãy núi chính chia tách ra từ dãy núi Andes tại Colombia.\nNó trải dài từ tây nam tới đông bắc, từ Nudo de Almaguer, hay \"khối núi Colombia\" trong khu hành chính (tỉnh) Cauca tới dãy núi Perijá trong khu hành chính La Guajira.\nPhần phía tây của Cordillera Oriental thuộc về lưu vực sông Magdalena, trong khi phần phía đông thuộc lưu vực các sông như Amazon, Orinoco và Catatumbo.\nTrong phạm vi địa hình của nó là các cao nguyên Altiplano Cundiboyacense với độ cao trung bình khoảng 2.600 m trên mực nước biển và Sierra Nevada del Cocuy. Cao nguyên Sierra Nevada del Cocuy cũng là nơi có các đỉnh núi cao bị tuyết che phủ quanh năm thuộc dãy núi này như Pan de Azúcar (5.120 m), Diamante (4.800 m), el Púlpito del Diablo (5.100 m), Toti (4.800 m), Portales (4.800 m), Cóncavo (5.200 m), Concavito (5.100 m), San Pablines Nam (5.180 m) và Bắc (5.200 m), Ritacuba Blanco (5.330 m), Picacho (5.030 m), Puntiagudo (5.200 m), Ritacuba Negro (5.300 m), el Castillo (5.100 m), đỉnh không tên (5.000 m), Sirara (5.200 m).\nCordillera Occidental là một đặc trưng chính khác trong địa hình của các khu hành chính Cundinamarca, Boyacá, Santander và Norte de Santander. Nó tạo thành giới hạn phía đông và đông nam của Huila, Tolima, Cesar và La Guajuira, với phần kéo dài phía nam của nó đạt tới khu vực phía tây của các khu hành chính Caquetá, Meta, Casanare và Arauca.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Ilma?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Ilma là một chi bướm ngày thuộc họ Bướm nâu.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về Các thuốc sử dụng phối hợp trong thở máy sơ sinh không ?", "role": "user" }, { "content": " \nThuốc an thần và giảm đau.\nMorphine.\n Morphine là một ankaloit thuốc phiện nổi tiếng có các tác dụng chính trên hệ thần kinh trung ương và các cơ quan chứa cơ trơn như là đường tiêu hóa và đường tiết niệu. Cơ chế tác dụng giảm đau của thuốc là sự kích thích các receptor opiate trong hệ thần kinh bắt chước các tác dụng của các endorphin tự nhiên. An thần, giảm đau, ức chế hô hấp và giảm nhiệt độ cơ thể được tạo ra khi chỉ định morphine theo các liều quy ước. Ức chế hô hấp do các tác dụng trên các trung tâm hô hấp ở cuống não, có thể rõ rệt nhưng thường không có ý nghĩa lâm sàng ở những bệnh nhân thở máy trừ trường hợp dự kiến sẽ cai máy thở. Morphine có thể gây ra giảm sự đề kháng ngoại vi có thể không có hoặc ít ảnh hưởng đến chỉ số tim, gây hạ huyết áp, nhưng thường được chịu đựng tốt ở sơ sinh. Thường có giải phóng histamine, co thắt phế quản có thể xảy ra hoặc do phản ứng đặc ứng hoặc do liều quá lớn. Morphine giảm nhu động dạ dày và tăng trương lực cơ vòng hậu môn và trương lực cơ trơn đường tiết niệu.\n Morphine được hấp thu tốt bằng mọi đường dùng, kể cả đường uống, nhưng thường được cho bằng đường tiêm ở những trẻ sơ sinh bị bệnh. Khởi phát tác dụng nhanh và đạt đỉnh khoảng 1 giờ sau khi tiêm. Thời gian tác dụng ở sơ sinh có thể 2 đến 4 giờ. Morphine được khử độc đầu tiên bằng cách kết hợp tại gan với glucuronide, sau đó được bài tiết trong nước tiểu và mật. Nửa đời bài tiết có thể đến 9 giờ ở những trẻ đẻ non.\n Liều thông thường của morphine sulfat ở trẻ sơ sinh là 0,05 đến 0,2 mg/kg. Khi cần có thể lặp lại liều, thường mỗi 2 đến 6 giờ. Morphine cũng có thể được cho bằng đường chuyền tỉnh mạch liên tục tốc độ 10 đến 15 µg/kg/giờ sau liều tấn công ban đầu 100 µg/kg trong giờ đầu tiên. Khi chỉ định kéo dài, sự dung nạp thuốc phát triển, cần tăng liều. Sau quá trình này, cần khuyến cáo giảm liều 10% đến 20% mỗi ngày để đề phòng sự cai thuốc.\n Cần phải lường trước sự ức chế hô hấp, giảm nhu động dạ dày và ứ đọng nước tiểu và xem xét điều trị cho những bệnh nhân đã điều trị morphine. Các tác dụng của morphine có thể bị đảo ngược bằng naloxone 0,1 mg/kg\nFentanyl.\n Fentanyl là một chất tổng hợp giống thuốc phiện đã được sử dụng cho gây mê và là một thuốc giảm đau phổ biến cho sơ sinh. Nó tác dụng mạnh hơn morphine 80 lần khi tính theo cân nặng nhưng ít có tác dụng tim mạch và ức chế hô hấp hơn. Những đặc tính sau được xem như do ít tác dụng giải phóng histamine hơn. Nó cũng được chứng tỏ ít có tác dụng phụ về tiêu hóa. Những bất lợi của fentanyl, so với morphine, bao gồm thiếu các đặc tính an thần và nguy cơ làm thành ngực kém linh động. Rất may, tác dụng này cũng như các tác dụng khác của nó có thể được đảo ngược bằng chỉ định naloxone. Fentanyl giảm phản ứng stress với phẫu thuật và ức chế một số phản xạ nhự phản xạ cảm áp (baroreflex) kiểm soát tần số tim và các receptor kích thích trên đường thở.\nFentanyl có khởi phát tác dụng nhanh; tuy nhiên, nó có thời gian tác dụng ngắn hơn so với morphine (1 đến 2 giờ). Sự dung nạp xảy ra dễ dàng hơn với fentanyl so với morphine và cách giảm liều thuốc tương như đã được mô tả cho morphine được khuyến cáo cho tất cả trẻ được điều trị nhiều ngày. Fentanyl có thể được cho định kỳ bằng bolus tĩnh mạch, 1 đến 4 µg/kg, khi cần giảm đau thời gian ngắn. Nếu tiên liệu sử dụng kéo dài, cần bắt đầu chuyền dịch tốc độ 1 đến 2 µg/kg/giờ và được tăng liều tùy theo sự giảm triệu chứng. Độ thanh thải liên quan trực tiếp với tuổi thai và trọng lượng lúc sinh, vì vậy cần điều chỉnh tốc độ chuyền dịch tùy từng cá nhân của trẻ đẻ non. Nhưng thở ít hơn nhiều khi chỉ định fentanyl chuyền tĩnh mạch so với bolus; tuy nhiên, nó có thể kéo dài thời gian thở máy và chúng ta phải biết khả năng xảy ra sự cai thuốc.\nDiazepam.\n Diazepam có các tác dụng giảm lo âu, gây ngủ, chống co giật và giãn cơ là đặc tính của các benzodiazepine và giống như các benzodiazepine khác, thuốc không có các đặc tính giảm đau. Diazepam được hấp thu nhanh chóng sau khi uống nhưng thất thường sau khi tiêm bắp. Nửa đời bài tiết xấp xỉ 75 giờ ở sơ sinh đẻ non và 30 giờ ở trẻ đủ tháng. Thuốc được chuyển hóa qua gan và cùng với các chất chuyển hóa của nó được bài tiết chậm qua nước tiểu. Không có mối tương quan giữa nồng độ trong plasma và đáp ứng lâm sàng. Diazepam có thể gây ức chế hô hấp, thuốc có thể thật sự giúp trẻ ổn định khi thở máy. Thuốc này có thể hữu ích như thuốc an thần có tác dụng kéo dài khi được cho bằng các liều từ 0,10 đến 0,25 mg/kg mỗi 6 giờ.\nMidazolam.\n Midazolam là một benzodiazepine tan được trong nước có pH acid. Thuốc có khởi phát tác dụng nhanh (5 đến 6 phút) vì với pH sinh lý thuốc có tính ái lực với mỡ. Thuốc mạnh gấp hai lần diazepam, khởi phát nhanh hơn và thời gian tác dụng ngắn hơn. Vì những lý do này, midazolam trở thành một thuốc an thần phổ biến, đặc biệt khi truyền liên tục. Thuốc được chuyển hóa trong gan và các chất chuyển hóa được bài tiết qua nước tiểu. Tiêm nhanh có thể gây ngưng thở và giảm huyết áp, tuy nhiên, khi chuyền tĩnh mạch chậm hơn, những tác dụng phụ này ít được thông báo hơn so với diazepam. Ở bệnh nhân người lớn, midazolam có nhiều đặc tính gây quên hơn so với các benzodiazepine khác. Người ta không rõ sử dụng midazolam kéo dài có ảnh hưởng đến sự phát triển của sơ sinh không.\n Sử dụng thang điểm đánh giá đau ở trẻ đẻ non, các trẻ sơ sinh được điều trị bằng midazolam chịu đựng được các thủ thuật đau (như hút nội khí quản), cũng như các trẻ sơ sinh được điều trị bằng morphine và cả hai nhóm này chịu đựng được các can thiệp này tốt hơn so với các nhóm chứng không được điều trị. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu của Anand và cộng sự, các trẻ được điều trị bằng midazolam cho thấy có tỷ lệ mắc phải các biến chứng thần kinh cao hơn (tử vong, xuất huyết não thất độ III đến IV, nhuyễn chất trắng quanh não thất), so sánh với các nhóm khác, đặc biệt là morphine. Hơn nữa, trong nhóm được điều trị bằng midazolam có thời gian nằm tại phòng săn sóc tích cực nhi sơ sinh lâu hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm điều trị bằng giả dược.\n Midazolam thường được cho bằng đường tĩnh mạch hoặc tiêm bắp với liều 0,1 mg/kg, thuốc có thể được lặp lại mỗi 2 đến 4 giờ khi cần hoặc chuyền tĩnh mạch liên tục. Độ thanh thải clearance liên quan trực tiếp đến trọng lượng lúc sinh và nên xác định liều để đạt được hiệu quả mong muốn. Ở những trẻ sơ sinh bị bệnh nặng, nửa đời bán hủy của midazolam kéo dài (6,5 đến 12 giờ) và độ thanh thải clearance bị giảm (0,07 đến 0,12 L/giờ/kg) so với những người trưởng thành khỏe mạnh hoặc những nhóm bệnh nhân nhi khác. Người ta không thể xác định được những sự khác biệt này là do tuổi, chức năng cơ quan chưa trưởng thành hoặc các con đường chuyển hóa hoặc do các bệnh lý kèm theo.\n Ngộ độc do quá liều thường hiếm và có khả năng biểu hiện tình trạng ngủ quá mức. Giao tiếp kém và các vận động rối loạn trương lực đã được báo cáo ở một số bệnh nhân sau 4 đến 11 ngày an thần với sự kết hợp của midazolam và fentanyl. Các triệu chứng biến mất sau khi ngưng sử dụng thuốc.\nLorazepam.\n Lorazepam là một benzodiazepine có hoạt tính chống co giật và vì thuốc có ái lực với lipid nên khởi phát tác dụng nhanh. Tác dụng an thần của lorazepam thay đổi theo thời gian (3 đến 24 giờ). Thuốc được kết hợp trong gan thành một glucuronide bất hoạt được gan bài tiết. Ngưng thở, ngủ nhiều và những rối loạn vận động có thể xảy ra.\n Lorazepam thường được chỉ định đường tiêm với liều từ 0,05 đến 0,1 mg/kg và có thể được lặp lại mỗi 4 đến 12 giờ tùy thuộc vào tác dụng. Thuốc có thể được kết hợp với morphine hoặc fentanyl.\nChloral Hydrate.\n Chloral hydrate là một thuốc an thần gây ngủ có những tác dụng tương tự như các barbiturate. Thuốc không ức chế hô hấp đáng kể; tuy nhiên, thuốc không có những đặc tính giảm đau và là một chất kích thích đường tiêu hóa. Chloral hydrate được hấp thu tốt ở đường tiêu hóa và được biến đổi thành trichloroethanol nhờ gan. Cả hai trichloroethanol và một chất chuyển hóa bất hoạt, acid tricholoacetic được kết hợp và bài tiết như glucuronide, ban đầu ở nước tiểu và một phần trong mật.\n Nửa đời của trichloroethanol là 9 đến 40 giờ và của acid trichloroacetic lâu hơn, độ thanh thải clearance không đánh giá được sau 6 ngày được điều trị bằng một liều duy nhất 50 mg/kg chloral hydrate. Sử dụng kéo dài và lặp lại, trichloroethanol có thể tích lủy đến nồng độ gây độc và có thể gây kích thích hệ thần kinh trung ương nghịch lý, rối loạn nhịp tim và hạ huyết áp.\n Acid trichloroacetic có thể thay thế vị trí các thuốc gắn protein và bilirubin ở sơ sinh. Tăng bilirubin máu trực tiếp do chloral hydrate có thể xảy ra, do đó, thuốc được sử dụng thận trọng ở trẻ vàng da. Liều 25 mg/kg mỗi 6 giờ đã được báo cáo có hiệu quả, nhưng cần thận trọng khi chỉ định kéo dài nhiều ngày. Liều lớn hơn an thần cho một lần duy nhất dường như được dung nạp tốt.\nThuốc giãn cơ.\n Sử dụng các thuốc giãn cơ không được chỉ định thường quy trong thông khí cơ học của sơ sinh, mặc dù việc sử dụng dường như phổ biến trong một số bệnh như là tăng áp phổi tồn tại ở trẻ sơ sinh (PPHN). Mặc dù liệt cơ có thể cải thiện oxy hóa và thông khí của những trẻ đủ tháng bị tăng áp phổi tồn tại giảm oxy máu nặng, thuốc có thể có các tác dụng phụ cho trẻ đẻ non bị bệnh màng trong. Sử dụng thông khí đồng bộ có tần số thở cao hơn tần số tự phát của bệnh nhân thường sẽ đạt được mục đích gây liệt cơ. Thuốc có thể hữu ích ở những trẻ đẻ non chọn lọc khi sự gắng sức của chính bệnh nhân làm cản trở sự thông khí và có thể giảm tỷ lệ mắc phải tràn khí màng phổi trong nhóm bệnh nhân này.\n Perlman và cộng sự đã chứng minh rằng loại trừ sự dao động của vận tốc lưu lượng máu qua não bằng thuốc liệt cơ đã làm giảm tỷ lệ mắc phải xuất huyết não thất ở những trẻ đẻ non bị bệnh màng trong. Người ta cũng đã đề nghị rằng thuốc liệt cơ có thể làm giảm sự tiêu thụ oxy; điều này thuận lợi cho những bệnh nhân bị tổn thương sự oxy hóa. Sử dụng thuốc liệt cơ kéo dài trên 2 tuần làm chậm phát triển cơ xương sau đó. Điều quan trọng, về mặt cơ học phổi, Bhutani và cộng sự đã cho thấy giảm sự đàn hồi phổi động và tăng sức đề kháng phổi toàn bộ chỉ sau 48 giờ liệt cơ liên tục bằng pancuronium. Cả hai chỉ số này cải thiện 41% đến 43% lúc 6 đến 18 giờ sau khi ngừng sử dụng liệt cơ.\n Sự gắng sức hô hấp tự phát dường như góp phần rất ít đến thông khí phút ở những trẻ đẻ non bị bệnh rất nặng có đàn hồi phổi thấp. Những bệnh nhân này có nguy cơ giảm dung tích cặn chức năng sau khi dùng thuốc giãn cơ, có thể thông qua sự mất cơ chế hãm của đường hô hấp trên. Ở những bệnh nhân có độ đàn hồi phổi ít bị tổn thương và ở những bệnh nhân lớn hơn, sự gắng sức hô hấp tự phát góp phần đáng kể cho thông khí toàn bộ. Như vậy, điều chỉnh máy thở (thường tăng tần số) cần thiết để dự phòng giảm thông khí đáng kể khi chỉ định thuốc liệt cơ. Theo dõi khí máu, áp lực dioxide carbon cuối kỳ thở ra, hoặc cả hai, được khuyến cáo. Mặc dù mất trương lực cơ gian sườn có thể dẫn đến sự gia tăng áp lực trong lòng ngực, điều này dường như không gây ra sự tăng sự đề kháng hô hấp.\n Nguy hiểm chính trong khi sử dụng thuốc giãn cơ là tụt ống nội khí quản kín đáo. Trẻ sơ sinh được sử dụng thuốc giãn cơ phụ thuộc hoàn toàn vào thông khí cơ học và cần phải giám sát kỹ. Cũng vậy, sự liệt cơ làm mờ đi nhiều dấu hiệu lâm sàng mà sự thể hiện phụ thuộc vào trương lực cơ và sự vận động, như là co giật. Cuối cùng, thuốc liệt cơ không thay đổi cảm giác đau, như vậy, nên chỉ định thuốc giảm đau giống như được chỉ định cho những bệnh nhân không được điều trị thuốc liệt cơ.\n Trong thực hành, quyết định chỉ định một thuốc giãn cơ hầu như dựa vào quan sát lâm sàng một bệnh nhân kết hợp với đo khí máu động mạch. Các thuốc giãn cơ được sử dụng thường làm thuận lợi liệu pháp tăng thông khí. Phân tích các dạng sóng máy thở và áp lực thực quản là một phương pháp khách quan hơn để đánh giá bệnh nhân trong giai đoan thở máy và áp lực trong lồng ngực trung bình có tăng hay không. Tuy nhiên, không có cách tin cậy nào tiên đoán những bệnh nhân nào trong trường hợp như vậy sẽ có lợi nhờ thuốc liệt cơ. Như vậy, các thuốc giãn cơ nên được chỉ định như là một thử nghiệm điều trị và tiếp tục sử dụng nếu các giá trị khí máu động mạch cải thiện, nếu sự chăm sóc của điều dưỡng được đơn giãn hoặc nếu sự dễ chịu của bệnh nhân rõ ràng. Nếu các biến chứng của sử dụng thuốc liệt cơ kéo dài đã được dự phòng, cần thiết phải đánh giá định kỳ bệnh nhân trong giai đoan không dùng thuốc liệt cơ.\n Thuốc giãn cơ khử cực tác dụng ngắn succinylcholine hiếm khi được sử dụng trong điều trị sơ sinh, ngoại trừ khi cần thiết liệt cơ để đặt nội khí quản; do đó, trong phần này chỉ bàn luận đến những thuốc không khử cực được sử dụng phổ biến. Các liều khuyến cáo được liệt kê trong bảng 2.\nPancuronium.\n Pancuronium bromide, thuốc cạnh tranh thần kinh cơ, tác dụng kéo dài là thuốc giãn cơ được sử dụng phổ biến cho sơ sinh. Gallamine và D-tubocurarine hiếm được sử dụng vì tác dụng tim mạch đáng kể, phong tỏa hạch giao cảm và galamine bắt buộc đào thải qua thận. Tất cả các thuốc này ngăn cản sự dẫn truyền tại chỗ nối thần kinh cơ bằng cách cạnh tranh với acetylcholine tại các vị trí receptor tại màng sau chỗ nối. Pancuronium có các tác dụng phân ly dây thần kinh phế vị và thường thấy tăng tần số tim trong quá trình sử dụng. Pancuronium, được chỉ định đường tĩnh mạch, tạo tác dụng gây liệt tối đa trong 2 đến 4 phút. Thời gian ngưng thở sau một liều duy nhất là thay đổi và được kéo dài ở trẻ sơ sinh và có thể kéo dài từ 1 đến nhiều giờ. Các liều tăng dần làm tăng thời gian liệt cơ hô hấp. Thêm vào đó, thời gian liệt bị kéo dài do tình trạng nhiễm toan, hạ kali máu, sử dụng kháng sinh aminoglycoside và chức năng thận giảm. Tình trạng nhiễm kiềm làm trung hòa sự phong tỏa. Mặc dù thận là con đường bài tiết chính của pancuronium, một phần đáng kể của thuốc được bài tiết qua gan mật và sự chuyển hóa.\n Liều khuyến cáo ở trẻ sơ sinh thay đổi từ 0,06 đến 0,1 mg/kg (xem bảng 2). Mặc dù theo thói quen, chỉ định liều lặp lại bằng với liều đã cho lần đầu, những liều tiếp theo bằng nửa liều ban đầu có thể có hiệu quả gây liệt kéo dài khi hoạt động cơ hoặc hô hấp tự phát trở lại. Chuyền dịch liên tục pancuronium ở trẻ sơ sinh thường kết hợp với khả năng tích lũy vì tốc độ bài tiết chậm ở những bệnh nhân này; như vậy, phương pháp chỉ định này tốt nhất nên tránh trừ khi có sẵn sự theo dõi điện sinh lý.\n Các lợi ích kéo dài của liệt hô hấp cần phải cân bằng với các biến chứng tiềm tàng. Sử dụng kéo dài pancuronium đã có liên quan đến sự mất thính lực thần kinh cảm giác ở những bệnh nhân bị thoát vị cơ hoành bẩm sinh sống sót.\n Các tác dụng của pancuronium có thể được đảo ngược nhanh chóng khi sử dụng thuốc anticholinesterase neostigmine 0,08 mg/kg tĩnh mạch, sau khi đã chỉ định glycopyrrolate 2,5 đến 5 µg/kg, thuốc ngăn cản các tác dụng phụ muscarinic. Mặc dù hiếm khi cần tác dụng ngược lại nhanh chóng vì lý do thuốc ở trẻ sơ sinh đang được thông khí hỗ trợ, đôi khi có thể hữu ích về mặt chẩn đoán ở những bệnh nhân đang được xem xét có tổn thương hệ thần kinh trung ương trong khi gây liệt.\nVecuronium.\n Vecuronium là một thuốc giãn cơ không khử cực có tác dụng ngắn, thuốc có liên quan về mặt cấu trúc với pancuronium. Khởi phát tác dụng 1,5 đến 2 phút sau khi chuyền bolus tĩnh mạch, nhưng thời gian tác dụng chỉ 30 đến 40 phút. Thuốc ít có tác dụng phụ trên tim mạch và được bài tiết nhanh chónh qua mật. Như vậy, thuốc an toàn hơn pancuronium khi có suy thận. Nhiễm toan làm tăng sự phong tỏa thần kinh cơ của vecuronium và nhiễm kiềm làm trung hòa nó.\n Vecuronium thường được cho bằng cách chuyền tĩnh mạch liên tục với tốc độ 0,1 mg/kg/giờ sau liều bolus gây liệt ban đầu 0,1 mg/kg. Người ta thích sử dụng chuyền liên tục trong một số bệnh nhân sau phẫu thuật tim mạch khi sự cử động hô hấp hoặc các cơ khác có thể hủy hoại sự thành công của sửa chữa phẫu thuật. Các tác dụng của vecuronium có thể bị đảo ngược bằng chỉ định neostigmine, như đã được mô tả với pancuronium\nThuốc trợ tim.\n Hạ huyết áp phổ biến ở trẻ sơ sinh đẻ non bị bệnh màng trong. Ở những trẻ sơ sinh 23 đến 27 tuần tuổi thai, từ 47% đến 67% sẽ cần hỗ trợ co bóp cơ tim vì hạ huyết áp. Các dấu hiệu của choáng tim và các dấu hiệu báo trước cũng có thể được nhận thấy ở những trẻ sơ sinh đủ tháng sau ngạt chu sinh, trong quá trình thiếu oxy máu nặng hoặc các rối loạn chuyển hóa, một số trường hợp bệnh tim bẩm sinh và trong quá trình nhiễm trùng huyết. Khi những cố gắng làm giảm nhu cầu oxy và hỗ trợ tuần hoàn không đầy đủ, sử dụng các thuốc trợ tim có thể cứu sống bệnh nhân.\n Sự phát triển điều trị hợp lý và đặc thù cần phải có kiến thức về các tác dụng quan trọng của các thuốc có sẵn cho trẻ sơ sinh, cũng như các kỹ thuật đánh giá và theo dõi chức năng tim mạch của bệnh nhân. Các áp lực đổ đầy tĩnh mạch trung tâm và cung lượng tim có thể khó xác định ở trẻ sơ sinh và không được đo thường quy. Khi có thể, những biện pháp này nên kết hợp với xác định tần số tim thông thường, huyết áp hệ thống và các giá trị khí máu động mạch có thể cung cấp một cơ sở khách quan hơn để chọn lựa và thao tác các thuốc tăng co bóp cơ tim. Siêu âm tim có thể cung cấp nhiều chỉ số của chức năng tim có thể hữu ích để hướng dẫn điều trị với các thuốc vận mạch. Chẳng hạn, Lopez và cộng sự đã sử dụng siêu âm tim đã chứng minh rằng các trẻ sơ sinh đẻ non bị bệnh màng trong được điều trị kết hợp dopamine và doputamine có chức năng tim rất bình thường mặc dù có huyết áp thấp hơn so với những bệnh nhân nhóm chứng. Bác sĩ cần sử dụng siêu âm tim để quyết định khi nào một trẻ sơ sinh cần sự hỗ trợ của thuốc trợ tim và đánh giá sự đáp ứng với thuốc.\n Tình trạng phát triển của hệ tim mạch và sự chuyển tiếp từ tình trạng thai sang sơ sinh đã làm sự quyết định về điều trị ở sơ sinh phức tạp hơn, đặc biệt là những bệnh nhân sinh non tháng. Cơ tim chưa trưởng thành có nhiều yếu tố không co bóp hơn so với người trưởng thành và sự định hướng của các yếu tố co bóp dường như chưa được tổ chức tốt. Cũng vậy, các receptor tim mạch đối với các amine kích thích giao cảm có thể khác về số lượng, sự phân bố và sự nhạy cảm hơn so với của người trưởng thành. Bình thường, tim của trẻ sơ sinh dường như không có chức năng ở các mức độ co bóp gần cực đại; như vậy, các phản ứng đảo ngược và co bóp cơ tim có thể bị hạn chế. Hậu tải dường như là một yếu tố quyết định quan trọng của cung lượng tim trong tình trạng sơ sinh. Thêm vào đó, tuần hoàn phổi phản ứng của sơ sinh và khả năng có shunt qua các con đường thai có thể làm tổn thương sự cung cấp oxy và tăng nhu cầu của cơ tim.\n Những nỗ lực tăng cung lượng tim bằng thuốc nên được xử lý trước đó bằng các chiến lược điều chỉnh tình trạng giảm oxy máu, nhiễm toan máu, hạ đường máu, hạ calci máu, giảm thể tích máu và giảm các nhu cầu chuyển hóa. Cung lượng tim là tích của thể tích một lần bóp của thất trái và tần số tim (cung lượng tim = thể tích nhát bóp x tần số tim). Tần số tim có thể tăng tạm thời bằng phân ly thần kinh phế vị bởi atropin hoặc, phổ biến hơn, bằng các thuốc điều nhịp như là isoproterenol hoặc epinephrine đường chuyền liên tục. Tăng tần số tim 30% thường có thể đạt được sự tăng tương tự cung lượng tim. Thể tích mỗi nhát bóp có thể được tăng bằng cách tăng tiền tải (hồi lưu tĩnh mạch), giảm hậu tải (đề kháng mao mạch hệ thống), hoặc tăng sự co bóp cơ tim. Các thuốc có khả năng tăng sự co bóp (hiệu quả co bóp dương tính) bao gồm một số amine kích thích giao cảm, các glycoside tim, glucagon và các xanthine. Chỉ có các amine kích thích giao cảm hiện tại có tầm quan trọng lâm sàng thực hành trong điều trị choáng.\n Các amine kích thích giao cảm là những thuốc co bóp cơ tim dương tính mạnh nhất hiện có. Những thuốc này có các tác dụng phức tạp tùy thuộc vào sự tương tác của chúng với các receptor đặc hiệu và sự phân bố của các receptor này ở vật chủ. Các nghiên cứu rộng rãi đã đưa đến sự phân loại các receptor như là alpha-adrenergic, beta-adrenergic hoặc dopaminergic. Những receptor này nằm ở tim và các mạch máu cũng như ở gan, thận, tụy và tận cùng thần kinh. Các receptor dopaminergic làm trung gian giãn các tiểu động mạch thận, mạc treo, vành và não đã được mô tả. Các tác dụng của receptor liên quan đến các vị trí ở hệ tim mạch được liệt kê trong bảng 3.\nChuyển hóa của tất cả các catecholamine giống nhau. Catechol-O-methyltransferase (CMOT) chịu trách nhiệm thoái giáng của hầu hết các thuốc chỉ định ngoại sinh và monoamine oxidase tham gia một phần nhỏ. Hoạt tính của COMT có sự thay đổi lớn giữa các bệnh nhân và tăng từ hai đến sáu lần trong quá trình điều trị dopamine. Tất cả các catecholamine đều có nữa đời ngắn xấp xỉ 2 phút; do đó, cần chuyền tĩnh mạch liên tục để đạt được hiệu quả kéo dài. Tuy nhiên, ở các trẻ sơ sinh non tháng bị bệnh, nữa đời và độ thanh thải clearance có thể kéo dài và có thể tăng đáp ứng khi chuyền dịch. Các chất chuyển hóa và có thể 20% các chất không thay đổi được bài tiết qua nước tiểu.\n \nCác thuốc điều trị hiện nay có phạm vi hoạt động từ tác dụng alpha đơn thuần đến tác dụng beta đơn thuần. Các tác dụng dược lý của các catecholamine epinephrine, norepinephrine, dopamine, dobutamine và isoproterenol liên quan đến tính chọn lọc của thuốc và hiệu lực kích thích các receptor adrenergic, như được tóm tắt trong bảng 4.\n+ Mức độ kích thích tương đối; - không kích thích\n Vì norepinephrine có lợi ích lâm sàng hạn chế trong sơ sinh, ở đây chỉ bàn luận đến dopamine, dobutamine, isoproterenol và epinephrine. Các liều khuyến cáo của các thuốc này được liệt kê trong bảng 5.\nDopamine.\n Dopamine là một catecholamine tìm thấy trong tự nhiên. Chỉ định ngoại sinh, thuốc có các tác dụng tim mạch phức tạp liên quan đến liều (xem bảng 5). Với liều thấp (<4 µg/kg/phút), thuốc có các tác dụng giãn mạch ban đầu trên các tiểu động mạch thận, mạc treo, vành và não. Tuy nhiên, ở trẻ sơ sinh đẻ non, thuốc có thể gây tăng huyết áp ngay cả với liều thấp này, có thể do độ thanh thải clearance giảm. Liều lớn hơn (5 đến 10 µg/kg/phút) có tác dụng có bóp cơ dương tính trên cơ tim thông qua sự giải phóng norepinephrine từ các tận cùng thần kinh và thông qua tác dụng trực tiếp trên các receptor beta1-adrenergic trong cơ tim. Các liều lớn hơn 10 µg/kg/phút gây tăng sự đề kháng mạch máu hệ thống thông qua sự kích thích của các receptor alpha-adrenergic. Các liều lớn hơn 20 µg/kg/phút có thể gây tăng sự đề kháng mạch máu phổi.\n Dopamine có hiệu quả trong điều trị hạ huyết áp ở các trẻ đẻ non bị bệnh màng trong. Trong nhóm bệnh này, liều thấp 2 µg/kg/phút có khuynh hướng tăng huyết áp, mặc dù các nghiên cứu cho thấy liều trung bình có hiệu quả là 7,5 đến 12,5 µ/kg/phút để điều trị hạ huyết áp.\n Dopamine thường được sử dụng trong điều trị trẻ sơ sinh bị rối loạn chức năng cơ tim. Thuốc được sử dụng phổ biến cho trẻ sơ sinh bị suy thận để cải thiện lượng nước tiểu. Thuốc cũng được sử dụng để dự phòng các tác dụng hạ huyết áp của các thuốc giãn mạch phổi trong điều trị tăng áp phổi ở trẻ sơ sinh. Các biến chứng như là loạn nhịp và bong da hoại thư (do dịch chuyền dopamine rỉ ra) thường được thấy.\n Tóm lại, tốc độ của chuyền dịch dopamine phải xác định tùy thuộc từng bệnh nhân, tùy thuộc vào những thay đổi cung lượng tim, lượng nước tiểu, huyết áp và tưới máu ngoại vi mong muốn. Ờ các trẻ đẻ non, ngay cả liều thấp của dopamine có thể ảnh hưởng đến huyết áp thông qua tăng hậu tải.\nDobutamine.\n Dobutamine là một dẫn xuất của isoproterenol và có cấu trúc tương tự như cấu trúc của dopamine. Tuy nhiên, thuốc không có các đặc tính dopaminergic và dường như kích thích tim chính thông qua các receptor beta1. Với liều lớn hơn (>10 µg/kg/phút), sự kích thích của các receptor mạch máu xảy ra, sự kích thích beta2 ưu thế hơn so với kích thích alpha1. Sự giãn mạch ngoại vi xảy ra, ngược lại sự co mạch do sử dụng liều tương tự như dopamine.\n Tác dụng co bóp cơ tim của dobutamine dường như tương tự như tác dụng của dopamine ở trẻ sơ sinh. Tuy nhiên, ở trẻ sơ sinh đẻ non, dobutamine dường như có hiệu quả hơn tăng cung lượng thất trái, trong khi dopamine dường như có hiệu quả hơn tăng huyết áp trung bình. Liệu pháp kết hợp dobutamine với liều thấp của dopamine có nhiều triển vọng hơn so với điều trị mỗi loại thuốc đơn độc. Loạn nhịp là tác dụng phụ ít gặp, nhưng tăng shunt của máu trong phổi có thể xảy ra với dobutamine cũng như với dopamine và isoproterenol.\nIsoproterenol.\n Isoproterenol là một catecholamine tổng hợp hầu như chỉ có các tác dụng beta-adrenergic. Vì các receptor beta1- và beta2-adrenergic bị kích thích, hoạt động cơ tim tăng và giãn mạch ngoại vi xảy ra. Tần số tim tăng và huyết áp thấp có thể xảy ra khi sử dụng ở sơ sinh. Khi tần số tim tăng, sự tiêu thụ oxy của cơ tim tăng, đồng thời, sự cung cấp oxy cho cơ tim giảm do có hạ huyết áp.\n Đối với sơ sinh, isoproterenol dường như là một thuốc thứ yếu để điều trị choáng. Thuốc có thể được áp dụng trong trường hợp cần giảm hậu tải và khi có thể chịa đựng được sự tăng tần số tim. Thuốc có thể có lợi ích ngắn ở những bệnh nhân bị block tim hoàn toàn và đã được sử dụng để làm giảm áp lực động mạch phổi ở bệnh nhân bị bất thường Ebstein. Liều thay đổi từ 0,05 đến 0,5 µg/kg/phút.\nEpinephrine.\n Epinephrine là một catecholamine nội sinh có cả hai tác dụng alpha- và beta-adrenergic. Các tác dụng tương đối phụ thuộc vào liều. Ở liều thấp, tác dụng beta-adrenergic chiếm ưu thế, kết quả sự co bóp và cung lượng tim tăng. Ở liều cao hơn, các tác dụng alpha-adrenergic phát triển và kết quả co mạch ngoại vi có thể bù lại các tác dụng beta-adrenergic mong muốn. Liều thay đổi từ 0,05 đến 0,50 µg/kg/phút.\nTóm tắt\n Rối loạn chức năng cơ tim do giảm cung lượng tim có thể kèm với sự kết hợp tăng hoặc giảm sự đề kháng ngoại vi, giảm thể tích máu, hoặc tăng thể tích máu và do tăng hoặc giảm các tốc độ chuyển hóa. Như vậy, sự đánh giá lâm sàng hợp lý và đo huyết động là cần thiết để chọn lựa và tính liều của các thuốc trợ tim. Tóm tắt các thuốc tăng co bóp cơ tim được sử dụng trong điều trị choáng được cho trong bảng 5.\nThuốc giãn mạch phổi.\n Tăng áp phổi tồn tại ở sơ sinh (PPHN) có shunt máu phải qua trái qua ống động mạch, lỗ bầu dục, hoặc cả hai có thể gây giảm oxy máu nặng ở trẻ sơ sinh có bị hoặc không bị bệnh phổi. Mặc dù PPHN có nhiều nguyên nhân và một số những nguyên nhân này là thoát vị hoành bẩm sinh, sự đóng sớm của ống động mạch và sự giảm oxy máu trong tử cung mạn tính, biểu hiện sự thay đổi cấu trúc trong cơ trơn mạch máu phổi. Các thuốc làm giảm sự đề kháng mạch máu phổi có thể là điều trị có ích PPHN khi tình trạng giảm oxy máu khó chữa với thông khí cơ học và liệu pháp O2. Các chất làm giảm sự đề kháng mạch máu phổi được miêu tả bằng biểu đồ trên hình 1. Kinh nghiệm lâm sàng với adenosine, magie sulfat, các thuốc chẹn kênh calcium, prostaglandin E1, prostaglandin D2 và prostacyclin còn hạn chế. Mặc dù tolazoline vẫn còn được sử dụng hiếm hoi, thuốc có tác dụng giãn mạch không mong muốn trên hệ mạch máu hệ thống. Sử dụng oxy nồng độ cao và các thuốc kiềm hóa để tăng pH máu, đôi khi kết hợp với tăng thông khí, hiện nay vẫn còn là chiến lược giãn mạch chủ yếu ở trẻ sơ sinh bị PPHN. Nitric oxit hít đã được FDA chấp nhận sử dụng cho trẻ sơ sinh.\nCác chất gây kiềm.\n Các chất kiềm máu để tạo ra pH máu từ 7,5 đến 7,6 dường như là liệu pháp giãn mạch phổ biến nhất, cùng với liệu pháp O2, hiện nay được sử dụng để điều trị PPHN. Cơ chế không được thiết lập rõ ràng nhưng dường như phụ thuộc trực tiếp vàp pH của máu và không phụ thuộc vào sự giải phóng nitric oxide. Không có áp lực riêng phần của CO2 tồn tại (Paco2). Như vậy, nhiềm kiềm hô hấp, nhiễm kiềm chuyển hóa, hoặc sự kết hợp cả hai có thể được sử dụng để tạo sự tăng mong muốn pH.\n Bicarbonate natri, acetate natri và tromethamine (THAM) tất cả được sử dụng để tạo kiềm, có các kết quả tương tự; do đó, sự chọn lựa một trong những thuốc gây kiềm này thường hay phụ thuộc vào các trường hợp lâm sàng. Acetate natri cần phải trao đổi bicarbonate trong gan và không nên sử dụng khi có giảm oxy máu kéo dài, giảm tưới máu hoặc rối loạn chức năng gan. Khi tăng Paco2 đáng kể hoặc quá tải natri, một số bác sĩ thích dùng THAM hơn. THAM kết hợp với các ion hydrogen, gây ra sự tăng các ion bicarbonate. Mặc dù THAM có thể thay đổi pH nội bào nhanh hơn bicarbonate natri, đặc tính này dường như không là một yếu tố có ý nghĩa trong hiệu quả giãn mạch phổi. THAM có thể gây tăng kali máu và hạ đường máu; do đó sự chỉ định của nó không được chỉ định cho các bệnh nhân bị vô niệu hoặc hạ đường máu.\n Điều trị bắt đầu bằng chuyền bolus 1 đến 2 mEq/kg bicarbonate natri hoặc 1 đến 2 mmol/kg THAM. Sau đó bắt đầu chuyền dịch liên tục để đạt được pH mong muốn. Mặc dù mỗi bệnh nhân có thể có pH riêng biệt mà bệnh nhân phản ứng, pH thông thường giữa 7,50 và 7,60. Sau khi đã đạt được pH mong muốn, có thể giảm tốc độ chuyền kiềm. Sự chuyền có thể được ngừng sau khoảng 48 giờ và bệnh nhân vẫn còn nhiễm kiềm trong nhiều ngày khi bicarbonate hoặc THAM được đào thải chậm qua thận.\n \nHình 1. Các chất khác nhau làm giảm sự đề kháng mạch máu phổi được minh họa bằng biểu đồ. Nitric oxide và các chất ức chế phosphodiesterase (PDEI) làm trung gian giãn mạch bằng cách tăng số lượng guanosine monophosphate vòng (cGMP). Các chất chẹn kênh calcium và magnesium (bằng cách ức chế cạnh tranh) cản trở đường vào của calcium vào cơ trơn mạch máu, làm giảm sự dự trữ calcium nội bào và dẫn đến giãn mạch. Prostacyclin tạo ra sự giảm số lượng của adenosine monophosphate vòng (cAMP), cũng giảm calcium nội bào. Các cơ chế tác dụng của adenosine, tolazoline và oxy (O2) đưa đến giãn mạch cũng được mô tả.\n Các tác dụng phụ của nhiễm kiềm, bao gồm tăng ái lực của hemoglobin với O2, giảm nồng độ calcium ion hóa và giảm lưu lượng máu qua não đã không được báo cáo là những vấn đề trong khi điều trị bệnh nhân bị PPHN. Tỷ lệ mắc phải thấp của điếc thần kinh cảm giác đã được quan sát ở những bệnh nhân bị PPHN sống sót. Chuyền nhanh bicarbonate natri ưu trương có thể đóng vai trò trong xuất huyết nội sọ ở trẻ sơ sinh đẻ non và khuyến cáo rằng nồng độ bicarbonate natri không vượt quá 0,5 mEq/mL và không được chuyền với tốc độ lớn hơn 1 mEq/mL/phút. Chuyền bicarbonate sẽ tăng thoáng qua Paco2 nhưng dường như không quan trọng về mặt lâm sàng ở những bệnh nhân được thông khí cơ học hiệu quả.\n Các thuốc gây kiềm hóa, đặc biệt THAM, chỉ nên cho bằng đường tĩnh mạch, vì chỉ định đường động mạch của những dung dịch này đã kết hợp những biến chứng mạch máu đáng kể.\nTolazoline.\n Tolazoline hydroclorua đã được sử dụng rộng rãi như là thuốc giãn mạch máu phổi. Tolazoline, được phân loại như thuốc chẹn alpha-adrenergic, cũng được biết các tác dụng kích thích giao cảm, kích thích phó giao cảm và giống histamine. Nhiều tác dụng giãn mạch máu phổi của tolazoline là do tương tác với các receptor H1 và H2 trong tuần hoàn phổi và không làm trung gian qua sự sản xuất nitric oxide. Tolazoline được bài tiết không thay đổi trong nước tiểu bằng các phương tiện kết hợp lọc cầu thận và bài tiết ống thận bằng hệ thống vận chuyển tích cực cho các base hữu cơ. Ở trẻ sơ sinh, nửa đời thay đổi từ 3,3 đến 33 giờ và phụ thuộc lớn vào lượng nước tiểu.\n Tolazoline thường được chỉ định tiêm tĩnh mạch trong các mạch máu đưa máu về tĩnh mạch chủ trên. Liều ban đầu 1 đến 2 mg/kg được tiêm trong nhiều phút, sau đó chuyền 1 đến 2 mg/kg/giờ. Tùy thuộc vào sự đáp ứng, thuốc có thể được tăng 4 đến 6 mg/kg/giờ, nhưng cần phải thận trọng vì nữa đời có khả năng dài của tolazoline. Hiện nay không rõ rằng chuyền tĩnh mạch liên tục của thuốc này có an toàn hay không, đặc biệt khi có thiểu niệu. Đáp ứng dương tính với tolazoline, được chứng tỏ bởi sự tăng Pao2 15 mm Hg hoặc hơn trong 15 đến 60 phút đã chỉ định thuốc, xảy ra 30% đến 60% số bệnh nhân bị PPHN. Khi phân suất khí O2 thở vào đã được làm giảm đến 0,6, tốc độ chuyền của tolazoline có thể được làm giảm mỗi 6 đến 12 giờ nếu Pao2 không diễn tiến xấu đi.\n Khi có rối loạn chức năng cơ tim hoặc hạ huyết áp toàn thân, cần sử dụng thuốc trợ tim trước khi chuyền tolazoline. Chuyền dịch dopamine được liên tục trong khi chuyền tolazoline dường tỏ ra có ích trong trường hợp này, Cần chú ý rằng tolazoline cũng có các tác dụng kích thích tim, có thể có ích lợi khi có rối loạn chức năng cơ tim.\n Các tác dụng phụ liên quan đến chuyền tolazoline đã được thấy từ 30% đến 80% bệnh nhân. Khi có giãn mạch da (da ửng đỏ) cho bằng chứng liều điều trị đã đạt. Hạ huyết áp toàn thân đáp ứng tốt với chuyền máu, dung dịch keo hoặc muối. Tăng huyết áp hiếm và được giải quyết khi tốc độ chuyền tolazoline được giảm. Thường thấy chướng bụng và cần sử dụng đúng hút qua mũi dạ dày. Nếu có xuất huyết dạ dày, sử dụng thuốc kháng acid có thể có ích. Thiểu niệu thường xày ra; như vậy, khuyến cáo cần chỉ định dịch cẩn thận. Với liều cao hơn (4 đến 6 mg/kg/giờ), người ta đã ghi nhận có sự kích thích hệ thần kinh trung ương. Vì nhiều tác dụng của thuốc, tolazoline cần phải được sử dụng thận trọng sau khi đã cân nhắc cẩn thận giữa các nguy cơ và các lợi ích của điều trị.\n Do tác dụng toàn thân của tolazoline và sự ra đời của nitric oxide, sử dụng tolazoline đã giảm đáng kể.\n Chỉ định tolazoline nội khí quản là phương pháp để ngăn chặn các vấn đề khi chỉ định đường toàn thân trong khi cũng đạt các kết quả giãn mạch phổi dương tính. Parida và cộng sự chỉ định nội khí quản tolazoline cho 12 trẻ sơ sinh có tuổi thai từ 25 đến 42 tuần và bị tăng áp phổi tồn tại (PPHN). Các bệnh nhân đã biểu hiện sự tăng đáng kể độ bão hòa oxy động mạch, giảm chỉ số oxy và không có hạ huyết áp toàn thân.\nCác thuốc khác.\n Các thuốc khác đã thể hiện giá trị trong điều trị PPHN trong các thử nghiệm lâm sàng nhỏ. Sự thật là các thử nghiệm ngẫu nhiên lớn của nitric oxide đã không cho thấy sự cải thiện rõ rệt về tỷ lệ tử vong hoặc giảm thời gian nằm viện, nhiều thuốc này có thể được thử nghiệm kết hợp với nitric oxide trong tương lai.\nAdenosine.\n Adenosine là một purine nucleoside có nửa đời ngắn (< 10 giây) và gây giãn mạch do kích thích các receptor A2 nhạy cảm theophylline trong các tế bào nội mô mạch máu và tiếp đến giải phóng nitric oxide từ các tế bào nội mô. Adenosine nội sinh đã được chứng minh đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự giảm sự đề kháng mạch máu phổi sau khi sinh.\n Hai nghiên cứu nhỏ đã đánh giá các tác dụng của chuyền dịch adenosine cho trẻ sơ sinh bị PPHN. Trong một nghiên cứu mù ngẫu nhiên có đối chứng với placebo, Konduri và Woodard đã chuyền adenosine với liều 25 đến 50 µg/kg/phút trong thời gian 24 giờ và so sánh các tác dụng trên Pao2 với các trẻ sơ sinh được chuyền bằng dung dịch muối. Các kết quả đã cho thấy sự cải thiện Pao2 từ 69 ± 19 lên 94 ± 15. Huyết áp động mạch và tần số tim không thay đổi trong quá trình chuyền adenosine. Patole và cộng sự đã sử dụng adenosine để điều trị sáu trẻ sơ sinh bị PPHN không có đáp ứng với điều trị thông thường. Tăng Pao2 lớn hơn 20 mm Hg xảy ra 5 trong 6 trường hợp sau 30 bắt đầu chuyền dịch. Không có các tàc dụng phụ (chậm nhịp tim, hạ huyết áp, thời gian chảy máu kéo dài) nào được ghi nhận.\nMagnesium Sulfate.\n Magie Sulfate là một thuốc điều trị gây giãn mạch bằng cách cản trở calci đi vào các tế bào cơ trơn. Thuốc cũng có tác dụng do tác động vào cơ chế của prostagladin, ức chế sự giải phóng của các catecholamines, hoạt hóa adenyl cyclase và giảm tác dụng của cơ trơn với các thuốc co mạch. Magnesium cũng có các tác dụng khác bao gồm chống huyết khối, an thần, giãn cơ và giảm tổn thương mô qua trung gian các chất oxy hóa sau sự thiếu máu cục bộ-giảm oxy máu.\n Nhiều nghiên cứu đã báo cáo các tác dụng có lợi của điều trị magnesium sulfate cho các bệnh nhân bị PPHN. Những nghiên cứu này nhỏ, không ngẫu nhiên. Tolsa và cộng sự đã chỉ định liều tải 200 mg/kg magnesium sulfate trong 20 phút, sau đó chuyền dịch 20 đến 150 mg/kg/giờ để duy trì nồng độ huyết thanh từ 3,5 đến 5,5 mmol/L ở các trẻ sơ sinh bị PPHN. Chỉ số oxy và áp lực đường thở trung bình giảm đáng kể sau 72 giờ điều trị, không có hạ huyết áp toàn thân hoặc các tác dụng phụ khác được ghi nhận.\nCác thuốc chẹn kênh Calci.\n Thiếu tính đặc hiệu trên phổi, tỷ lệ các tác dụng phụ cao và thiếu đáp ứng có thể dự đoán được ở người lớn đã cho thấy cần phải thận trọng khi sử dụng các thuốc chẹn kênh calci cho các trẻ sơ sinh bị PPHN và các bệnh liên quan. Cho dù những lo âu này, các thuốc chẹn kênh calci có thể có một vai trò trong một số bệnh nhân bị PPHN. Islam và cộng sự sử dụng diltiazem hydroclorua cho năm trẻ sơ sinh bị tăng áp phổi tái phát kết hợp với giảm sản phổi không cải thiện với điều trị thông thường tối đa. Những trẻ sơ sinh này biểu hiện sự giảm đáng kể áp lực thất phải không có các tác dụng phụ rõ hoặc hạ huyết áp toàn thân.\nProstacyclin (Prostagladin I2).\nProstacyclin là một chất trung gian giãn mạch phổi quan trọng. Tăng sản xuất protacyclin sau khi sinh xảy ra do sự giãn nhịp nhàng của các phế nang. Tăng sản xuất prostacyclin gây giãn mạch phổi là một yếu tố quan trọng trong sự chuyển tiếp bình thường sang đời sống ngoài tử cung. Những bệnh nhân bị tăng áp phổi nặng cho thấy cho sự thiếu prostacyclin synthase trong các mạch máu tiền mao mạch phổi.\n Một thử nghiệm sử dụng liều lặp lại hoặc chuyền liên tục prostacyclin qua ống nội khí quản cho bốn trẻ đẻ non bị PPHN cho thấy có sự cải thiện sự oxy hóa. Không có các tác dụng phụ nào rõ được ghi nhận. Các nghiên cứu khác đã cho thấy sự cộng lực với các thuốc khác, kể cả các chất ức chế phosphodiesterase. Như vậy, prostacyclin là một phương thức triển vọng để điều trị PPHN ở trẻ sơ sinh.\nNitric Oxide.\n Điều trị Nitric Oxide đã cho bác sĩ một thuốc giãn mạch phổi chọn lọc mạnh.\nGiãn phế quản.\n Trong nhiều năm, người ta đã nghĩ rằng các trẻ đẻ non có quá ít cơ trơn tiểu phế quản để gây co thắt phế quản. Quan niệm sai lầm này đã được chứng minh là sai. Các thuốc giãn phế quản đã được chứng minh làm giảm sức đề kháng đường thở và tăng sự đàn hồi phổi ở các trẻ sơ sinh đẻ non đến 28 tuần tuổi thai bị loạn sản phổi, cũng như những trẻ khác chỉ 2 ngày tuổi bị bệnh màng trong. Các thuốc giãn phế quản sử dụng được chỉ định đường tiêm, đường ruột hoặc dưới dạng khí dung. Cùng với tác dụng giãn phế quản, một số thuốc như aminophylline đã được chứng minh cải thiện chức năng co bóp của cơ hoành và cơ hít vào, có thể đem lại kết quả cả cải thiện thông khí và khả năng rút ống nội khí quản thành công hơn. Theophyline và caffeine, các chất methylxanthine có tác dụng giãn phế quản cũng được sử dụng như các chất kích thích hô hấp. Các liều điển hình của các thuốc khí dung thường được sử dụng được liệt kê trong bảng 6.\nAlbuterol (Salbutamol).\n Albuterol (cũng được biết như salbutamol) là một chất đối kháng beta2-adrenergic chọn lọc. Thuốc thúc đẩy sự sản xuất adenosine monophosphate vòng (cAMP), làm tăng sự kết hợp của calcium nội bào vào màng tế bào. Tác dụng này làm giảm nồng độ calci trong các tế bào và kết quả gây giãn cơ trơn và giãn phế quản. Denjean và cộng sự đã nghiên cứu các tác dụng của albuterol trên cơ học phổi của các trẻ đẻ non có tuổi sau khi sinh trung bình 13,3 ± 4,9 ngày và bị loạn sản phổi bán cấp. Albuterol 100 mg, được chỉ định qua khí dung định liều có buồng hít, kết quả cải thiện đáng kể cả sự đề kháng và sự đàn hồi phổi xấp xỉ 65% trong các trẻ được nghiên cứu; những trẻ còn lại cần 200 mg. Đáp ứng đỉnh xảy ra sau 30 phút và được duy trì xấp xỉ 3 giờ. Một số tác dụng toàn thân xuất hiện do tăng tần số tim. Một nghiên cứu khác nghiên cứu các trẻ sơ sinh phụ thuộc vào máy thở có trọng lượng lúc sinh nhỏ hơn 1500 g và tuổi từ 1 đến 4 tuần, albuterol cải thiện sự đàn hồi phổi; tuy nhiên, sự đề kháng đường thở không thay đổi đáng kể.\nAcetylcysteine.\n Các thuốc long đàm thường không cần để bảo vệ đường thở trong thông khí nhân tạo ở các trẻ sơ sinh. Tuy nhiên, acetylcysteine, một thuốc long đàm mạnh, đã có lợi ở một số trung tâm. N-Acetylcysteine, là một nhóm sulfhydryl tự do, làm lỏng chất đàm bằng cách mở các cầu nối disulfide trong mucoprotein. Thuốc không ảnh hưởng đến fibrin, các cục máu đông hoặc các mô sống. Ở một trung tâm, người ta đã sử dụng 0,1 hoặc 0,2 mL acetylcysteine cho vào ống nội khí quản hàng giờ để duy trì sự thông thương đường thở; sau đó hút các chất tiết sau 30 phút. Không thấy biến đổi về mô học trên khí quản hoặc phế quản khi xét nghiệm ở bệnh nhân tử vong. Bibi và cộng sự đã chứng minh trong 10 trẻ phụ thuộc vào máy thở (tuổi thai 27 tuần; tuổi sau sinh 22 ngày) điều trị bằng N-acetylcysteine tăng sức đề kháng đường thở đáng kể. Như vậy, sử dụng thuốc long đàm cần phải thận trọng vì các tác dụng phụ có thể lớn hơn các lợi ích của thuốc. Khi chỉ định vì mục đích long đàm, thuốc thường được kết hợp với các thuốc giãn phế quản khác như vậy các tác dụng phụ không mong muốn này được giảm đi.\nAcid Cromoglycic.\n Acid cromoglycic (cromolyn natri) ngăn ngừa sự giải phóng các chất trung gian gây viêm từ các dưỡng bào, ức chế sự giải phóng các bạch cầu trung tính và ức chế sự kết hợp của nicotin-amide dinucleotide phosphate oxidase hoạt động (NADPH) trong bạch cầu trung tính, do đó ngăn ngừa sự tổn thương mô do các gốc oxy gây ra. Trong một nghiên cứu các trẻ sơ sinh đẻ non lúc 29 tuần tuổi thai, bị các triệu chứng hô hấp tái pháp, bao gồm ho và thở khò khè, sử dụng acid cromoglycic khí dung dự phòng có kết quả cải thiện dung tính cặn chức năng. Mặc dù các kết quả từ nhóm nghiên cứu Cromolyn sơ sinh không chứng minh sự giảm bệnh loạn sản phổi mạn tính ở các trẻ sơ sinh được điều trị bằng cromolyn natri, sự giảm các chất chỉ điểm viêm kết hợp với bệnh loạn sản phổi mạn tính có thể được biểu hiện khi cromolyn natri được sử dụng kết hợp với surfactant, thuốc lợi tiểu và steroid.\nRacemic Epinephrine (triệt quang).\n Dưới thanh môn là phần nhỏ nhất của đường thở của trẻ sơ sinh. Sự xuất hiện dị vật đường thở, xảy ra khi đặt nội khí quản kéo dài, gây phù vị trí dưới thanh môn có thể gây hẹp hơn đường thở khi trẻ sơ sinh được rút ống nội khí quản. Racemic epinephrine kích thích cả hai receptor alpha- và beta-adrenergic. Thuốc tác dụng trên cơ trơn mạch máu để gây co mạch, giảm đáng kể lưu lượng máu ở mức mao mạch. Tác dụng này làm co niêm mạc hô hấp trên và giảm phù. Racemic epinephrine là một thuốc có ích cho các bệnh nhân có thở rít sau khi rút ống nội khí quản. Hiệu quả của racemic epinephrine để ngừa thở rít sau khi rút ống nội khí quản chưa được chứng minh. Khi sử dụng racemic epinephrine, chúng ta nên biết các tác dụng phụ, bao gồm tần số tim nhanh, rối loạn nhịp, tăng huyết áp, co mạch ngoại vi, tăng đường máu, tăng kali máu, nhiễm toan chuyển hóa và tăng bạch cầu máu.\nThuốc tiểu lợi.\n Các thuốc lợi tiểu được sử dụng để điều trị sự ứ dịch toàn thân và để làm giảm phù trong mô kẽ phổi, phù mô kẽ phổi có thể gây bất thường sự oxy hóa và thông khí và có liên quan đến sinh bệnh học của bệnh loạn sản phổi. Thuốc lợi tiểu có thể giúp làm sạch dịch kẽ phổi bằng cách di chuyển dịch này sang khoang plasma sau khi lợi tiểu nước trong khoang nội bào.\nFurosemide.\n Furosemide là một thuốc lợi tiểu được sử dụng phổ biến nhất cho trẻ sơ sinh bị bệnh. Liều thông thường là 1 đến 2 mg/kg tĩnh mạch. Cách thức tác dụng là ức chế sự tái hấp thu của Chlor ở nhánh lên của quai Henle. Các tác dụng phụ chính là rối loạn điện giải, bao gồm hạ natri máu, hạ kali máu, hạ chlor máu và nhiễm kiềm cũng như mất nước và giảm thể tích máu. Thêm vào đó, tăng calci máu có thể dẫn đến nhiễm calci thận. Furosemide có khả năng gây độc cho tai, nên sử dụng thận trọng cho các bệnh nhân có điều trị aminoglycoside.\n Điều trị furosemide đã có kết quả cải thiện ngắn hạn sự đề kháng đường thở và sự đàn hồi phổi động ở những trẻ bị bệnh màng trong. Furosemide cũng đã được chứng minh cải thiện sự đàn hồi phổi ở những bệnh nhân bị bệnh màng trong hồi phục. Tác dụng sau dường như có kết quả do các tác dụng phổi trực tiếp và không phụ thuộc vào các tác dụng lợi tiểu của thuốc. Ở những bệnh nhân bị loạn sản phổi, điều trị kéo dài có kết quả cải thiện các đặc tính cơ học của phổi không có sự thay đổi đáng kể sự trao đổi khí.\n Khi hít, furosemide có thể có tác dụng trực tiếp trên phổi, khi đó các tác dụng phổi có thể xảy ra nhưng không có tác dụng lợi tiểu. Ở các trẻ sơ sinh bị bệnh màng trong, sự đàn hồi và sự đề kháng cải thiện. Cách cho thuốc này có lợi làm giảm các tác dụng phụ toàn thân trong khi vẫn duy trì các tác dụng phổi mong muốn. Tuy nhiên, do thiếu các số liệu từ các thử nghiệm ngẫu nhiên về các tác dụng của thuốc lợi tiểu quai khí dung trên các kết quả lâm sàng quan trọng, sử dụng cách cho thuốc này thường quy và kéo dài không thể được đánh giá dựa trên bằng chứng hiện tại.\n Furosemide có thể giảm dịch chảy qua thành mạch trong mô kẽ thông qua các cơ chế không lợi tiểu. Những thay đổi này có thể được qua trung gian sự giải phóng prostaglandin E, có tác dụng giãn phế quản và giãn mạch phổi. Sự giải phóng prostaglandin E có thể giải thích sự liên quan của điều trị furosemide gây tăng nguy cơ còn ống động mạch.\nThiazide và các thuốc lợi tiểu giữa kali.\n Chlorothiazide, một thuốc lợi tiểu mạnh đường uống, có vị trí tác dụng chính là đoạn gần của ống lượn xa bằng cách ức chế sự tái hấp thụ của chlor. Hơn nữa, thuốc giảm sự bài tiết calci từ thận so với các thuốc lợi tiểu quai. Spironolactone, thuốc lợi tiểu giữ kali, cạnh tranh với aldosterone ở ống lượn xa. Do đặc tính tác dụng của aldosterone, phụ thuộc vào sự tổng hợp protein, khởi phát tác dụng của spironolactone chậm. Khi kết hợp, các thuốc này tăng sự bài tiết natri, kali và phospho qua nước tiểu trong khi làm giảm bài tiết calci qua nước tiểu. Liều thông thường của chlorothiazide và spironolactone là 10 đến 20 mg/kg và 1 đến 2 mg/kg, tương ứng. Sự kết hợp này, cho đường uống, cho kết quả cải thiện chức năng phổi ở những bệnh nhân bị bệnh phổi mạn tính. Rối loạn điện giải (đặc biệt giảm kali và phospho) có thể xảy ra; như vậy, cần phải theo dõi các chất điện giải này.\n Vì những báo cáo về các biến chứng thần kinh nặng khi sử dụng steroid toàn thân, điều trị lợi tiểu được xem như là điều trị đầu tiên cho bệnh phổi mạn giai đoạn sớm. Chỉ định kéo dài thiazide-spironolactone dẫn đến chức năng phổi cải thiện và giảm sự cần thiết dùng furosemide cho các trẻ sơ sinh lớn hơn 3 tuần tuổi bị bệnh phổi mạn. Hơn nữa, thiazide-spironolactone có thể giảm nguy cơ tử vong và giảm tỷ lệ đặt nội khí quản liên tục trên 8 tuần ở những trẻ sơ sinh không có điều trị corticosteroid, các thuốc giãn phế quản hoặc aminophylline.\nSTEROID.\n Corticosteroid đã được thử nghiệm trong ba nhóm bệnh lý hô hấp khác nhau ở sơ sinh: bệnh màng trong cấp, thở rít sau rút ống nội khí quản và bệnh phổi mạn phát triển. Thuốc đã không được chứng minh có ích trong điều trị bệnh màng trong ở trẻ sơ sinh.\n Steroid có thể có ích làm giảm phù thanh môn và dưới thanh môn trong các thử nghiệm rút nội khí quản. Tạp chí Cochrane đã kết luận rằng dexamethasone giảm nhu cầu đặt nội khí quản lại sau một giai đoạn thông khí cơ học. Tuy nhiên, tạp chí cũng cảnh báo rằng các tác dụng phụ của thuốc, sự sử dụng dexamethasone cần phải được hạn chế ở những bệnh nhân tăng nguy cơ tắc nghẽn và phù nề đường thở, như những bệnh nhân được đặt nội khí quản lặp lại hoặc kéo dài.\n Cho dù sự sử dụng corticosteroid trước sinh và điều trị surfactant sau sinh, tỷ lệ bệnh phổi mạn tính đã gia tăng. Hai điểm kết hợp có thể đề nghị sự giải thích một phần cho sự gia tăng tỷ lệ của bệnh phổi mạn tính: tỷ lệ mắc phải bệnh phổi mạn tính có liên quan nghịch với trọng lượng lúc sinh và tuổi thai, và sự sống của các trẻ sơ sinh có trọng lượng lúc sinh cực thấp đã tăng. Steroid đã được sử dụng rộng rãi trong điều trị bệnh phổi mạn tính của trẻ đẻ non, cũng được gọi là loạn sản phổi. Bệnh phổi mạn tính là biến chứng thường gặp được thấy ở những bệnh nhân sống tại phòng săn sóc tích cực sơ sinh, và tình trạng viêm đóng một vai trò quan trọng trong sinh bệnh học của bệnh. Điều trị bằng corticosteroid là một điều trị hấp dẫn do các đặc tính kháng viêm mạnh của thuốc.\n Glucocorticosteroid có nửa đời tương đối dài (cortisol 8 đến 12 giờ; prednisone 12 đến 36 giờ; dexamethasone 36 đến 72 giờ). Các thuốc này được chuyển hóa ở gan thành các hợp chất bất hoạt được bài tiết qua thận. Điều trị liều cao dexamethasone hoặc prednisone có kết quả giảm nhanh chóng nhu cầu O2 và các cài đặt máy thở và cải thiện sự đàn hồi phổi và sự trao đổi khí trong hơn nữa số bệnh nhân được điều trị. Trong hầu hết các trường hợp, sự cải thiện xảy ra trong 5 ngày điều trị đầu tiên. Tác dụng tích cực chính là rút ngắn thời gian rút ống nội khí quản từ 1 đến 3 tuần.\n Corticosteroid toàn thân có các tác dụng phụ mạnh bao gồm hạ đường huyết, tăng huyết áp, bệnh cơ tim tắc nghẽn phì đại, thủng và xuất huyết đường tiêu hóa, chậm phát triển và ức chế trục dưới đồi-tuyến yên-thượng thận. Các nghiên cứu ở súc vật cũng đã chứng minh steroid có thể ảnh hưởng lâu dài sự phân chia tế bào não, sự biệt hóa và sự myelin hóa, cũng như sự phát triển vỏ não. Các nghiên cứu theo dõi ở người cũng thêm vào nguyên nhân để cảnh báo. Những trẻ sơ sinh đã được cho dexamethasone 12 giờ sau sinh đã chứng tỏ có sự gia tăng gấp hai lần sự tổn thương thần kinh vận động so với nhóm chứng lúc 2 tuổi.\n Thời gian bắt đầu điều trị là một vấn đề phân tích của Cochrane, đã thực hiện một loại các phân tích meta về liệu pháp corticosteroid tiến hành vào ba thời điểm khác nhau: sớm (<96 giờ ở những trẻ sơ sinh có nguy cơ), sớm vừa phải (7 đến 14 ngày ở những trẻ sơ sinh có nguy cơ) và muộn (> 3 tuần). Ở thời điểm sớm, nghiên cứu meta đã chứng minh các lợi ích liên quan đến rút ống nội khí quản sớm, giảm các nguy cơ của bệnh phổi mạn tính, tử vong hoặc bệnh phổi mạn tính lúc 28 ngày tuổi, còn ống động mạch và các dò khí phổi. Xuất huyết tiêu hóa và thủng ruột là các tác dụng phụ quan trọng vào thời điểm này. Quan trọng hơn, người ta thấy nhiều các tác dụng phụ thần kinh khi khám theo dõi các trẻ sơ sinh được điều trị bằng liệu pháp steroid sớm: các triệu chứng thần kinh bất thường, bại não và chậm phát triển.\n Các kết quả khi chỉ định vào thời điểm sớm vừa phải (7 đến 14 ngày) đã chứng minh hầu hết các tác dụng tích cực được thấy vào thời điểm sớm. Chỉ một nghiên cứu theo dõi nhỏ được thực hiện vào thời điểm này đã không phát hiện bất kỳ sự tăng về tác dụng phụ về thần kinh. Vào thời điểm muộn hơn, steroid đã không làm giảm tỷ lệ tử vong, bệnh phổi lúc 36 tuần hoặc nhu cầu cần điều trị cấp cứu muộn bằng dexamethasone.\n Do những quan tâm về các hậu quả thần kinh, chúng tôi điều trị steroid cho trẻ sơ sinh 12 đến 14 ngày không được cai máy thở tích cực. Thời gian điều trị ngắn 7 ngày, bao gồm 0,25 mg/kg/liều mỗi 12 giờ trong 4 ngày tiếp theo bằng 0,05 mg/kg/liều mỗi 12 giờ trong 3 ngày. Sau đó ngưng điều trị. Nếu bệnh nhân biểu hiện tăng đáng kể các thông số máy thở sau khi ngưng điều trị steroid, điều trị được bắt đầu lại và thời gian bắt đầu giảm liều lâu hơn.\n Steroid dạng hít là cách hấp dẫn để cản trở các đợt viêm của bệnh phổi mạn tính trong khi giảm thiểu các tác dụng phụ và bệnh tật lâu dài.Ngày nay, steroid dạng hít đã chứng tỏ giảm nhu cầu steroid đường toàn thân nhưng đã không chứng minh có sự giảm tỷ lệ mắc phải bệnh phổi mạn tính. Mặc dù không có một nghiên cứu đặc biệt nào chứng tỏ lợi ích rõ ràng so với steroid toàn thân, steroid dạng hít là một liệu pháp hấp dẫn đối với bệnh phổi mạn tính. Liều lượng chính xác, thời gian bắt đầu điều trị, thuốc, quá trình và khả năng kết hợp với steroid toàn thân cần được làm sáng tỏ trước khi cách cho thuốc này thay thế steroid toàn thân.\nCÁC THUỐC KÍCH THÍCH HÔ HẤP.\n Các thuốc kích thích hô hấp có thể có ích trong điều trị cơn ngưng thở của trẻ đẻ non. Sau khi đánh giá và điểu trị những bệnh nhân này những bệnh lý kèm theo đặc hiệu, chữa được như là nhiễm trùng hoặc hạ đường huyết, các phác đồ điều trị ngưng thở thường bao gồm kích thích xúc giác, giảm nhiệt độ môi trường xung quanh, thở áp lực dương liên tục (CPAP) hoặc thông khí ngắt quãng bắt buộc (IMV). Một số bệnh nhân đáp ứng thuận lợi với các thuốc kích thích hô hấp như một điều trị đơn độc hoặc phối hợp. Trong thực hành, quyết định chỉ định thuốc kích thích hô hấp phụ thuộc vào mức độ nặng của cơn ngưng thở và đáp ứng của bệnh nhân với các can thiệp khác. Nếu cơn ngưng thở nặng và thường xảy ra, thường thiết lập thông khí hỗ trợ đầu tiên. Khi cơn ngưng thở ít nặng, thuốc kích thích hô hấp có thể được sử dụng mà không cần đến thông khí cơ học.\n Đôi khi, những trẻ bị bệnh màng trong có cơn ngưng thở tái phát trong khi cố gắng cai thông khí hỗ trợ. Một số cai hiệu quả nhanh hơn trong khi được điều trị bằng các thuốc kích thích hô hấp. Cai hỗ trợ hô hấp bằng cách sử dụng các thuốc kích thích hô hấp đã được báo cáo ở số lượng nhỏ trẻ bị bệnh màng trong và ở những trẻ đang được cài thông khí thấp. Lợi ích của việc sử dụng theophylline dự phòng để giảm tỷ lệ suy hô hấp sau rút ống nội khí quản và nhu cầu đặt lại nội khí quản đã được chứng minh trong một nghiên cứu trước đây, nhưng một phân tích meta gần đây hơn trong y văn không thể chứng minh hiệu quả về mặt này. Tuy nhiên, ở những trẻ đẻ non hậu phẫu, caffeine dường như dự phòng ngưng thở/nhịp tim chậm và các cơn giảm bão hòa oxy.\n Các methylxanthine theophylline và caffeine là những thuốc kích thích hô hấp thường được sử dụng nhất. Những thuốc này tăng sự nhạy cảm của các receptor hóa học với carbon dioxide và tăng sức mạnh co bóp của cơ hoành. Hai thuốc này có thể không có chính xác cùng cơ chế tác dụng. Thể tích khí lưu thông dường như được tăng nhờ theophylline nhưng thuốc có tác dụng tối thiểu trên tần số hô hấp. Ngược lại, chính tần số hô hấp, chứ không phải thể tích khí lưu thông, được tăng nhờ caffeine. Các liều thông thường của các methylxanthine được liệt kê trong bảng 7. Các tác dụng sinh hóa và sinh lý của các xanthine được liệt kê trong bảng 8.\nTheophylline.\n Theophylline (1,3-dimethylxanthine) có nửa đời xấp xỉ 30 giờ. Ở người trưởng thành, theophylline được bài tiết nhờ biến đổi sinh học tại gan và bài tiết qua nước tiểu. Ở trẻ sơ sinh, tuy nhiên, sự biến đổi sinh học ở gan nhờ N-demethyl hóa không có, thay vào đó N-7-methyl hóa tạo ra caffeine. Nồng độ huyết tương điều trị khoảng 7 đến 20 mg/L. Trong một nghiên cứu, nồng độ lớn hơn 6,6 mg/L kiểm soát được các cơn ngưng thở, trong khi độc tính tim mạch như tim nhanh đã được ghi nhận chỉ với nồng độ lớn hơn 13,0 mg/L. Một số trẻ sơ sinh biểu hiện độc tính ở nồng độ 9,0 mg/L do theophylline mắc phải qua nhau. Nồng độ mong muốn đạt là 10 mg/L. Các dấu hiệu của ngộ độc bao gồm dễ kích thích, toát mồ hôi, tiêu chảy, co giật, trào ngược dạ dày thực quản và tim nhanh. Liều tải tĩnh mạch thông thường của theophylline là 4,0 đến 6,0 mg/kg, với liều duy trì 1 mg/kg mỗi 8 giờ hoặc 2 mg/kg mỗi 12 giờ. Nồng độ trong huyết thanh phải được đánh giá 48 đến 72 giờ sau khi bắt đầu liều duy trì.\nCaffeine.\n Caffeine (1,3,7-trimethylxanthine) có nửa đời huyết thanh khoảng 100 giờ ở trẻ sơ sinh. Nửa đời cực kỳ dài là do tốc độ bài tiết chậm. Ở người lớn, hầu hết caffeine được chuyển sang dạng xathine khử methyl (demethylated) và acid methyluric nhờ gan. Ở sơ sinh, tuy nhiên, hầu hết caffeine được bài tiết không thay đổi qua nước tiểu. Điều này có thể do thiếu hệ thống enzyme cytochrome P-450, chịu trách nhiệm chuyển hóa methylxanthine. Nồng độ huyết thanh điều trị khoảng 8 đến 20 mg/L. Nồng độ thấp 3 đến 4 mg/L kiểm soát được cơn ngưng thở và không có độc tính tim mạch, HTKTW hoặc đường tiêu hóa được ghi nhận khi nồng độ lên đến 50 mg/L. Liều tấn công thông thường của caffeine là 10 mg/kg, với liều duy trì hàng ngày 2,5 đến 5 mg/kg. (Dạng thông thường của caffeine, dung dịch citrate 20 mg/mL, tương đương với dung dịch căn bản 10 mg/mL).\n Các biểu hiện độc tính của những thuốc này liên quan đến hoạt động của mỗi loại thuốc trên những vị trí khác nhau. Theophylline có nhiều hoạt tính trên tim mạch hơn HTKTW. Do đó, các dấu hiệu ngộ độc sớm có nguồn gốc tim mạch, tiếp theo là co giật. Caffeine có nhiều tác dụng đáng kể trên HTKTW hơn so với tim mạch nhưng độc tính hiếm khi được thấy vì nồng độ cần để biểu hiện ngộ độc là cực kỳ cao. Vì những đặc điểm điều trị tương tự kết hợp với ít độc tính hơn, chúng tôi thích sử dụng caffeine hơn như một thuốc kích thích hô hấp đầu tay.\nCÁC THUỐC KHÍ DUNG.\n Các thuốc khí dung có lợi về mặt lý thuyết cách cho thuốc trực tiếp đến đường thở và phổi, thường cần với liều nhỏ và ít các tác dụng phụ hơn khi so sánh với liệu pháp tĩnh mạch hoặc đường uống. Tuy nhiên, cách cho thuốc khí dung vẫn là một nỗ lực rất phức tạp. Những vấn đề đó là các yếu tố liên quan bệnh nhân, các đặc tính của thuốc (kích thước hạt, hình dạng, đậm độ), dụng cụ tạo khí dung hiệu quả nhất (máy khí dung, bình hít định liều nén áp suất), dụng cụ cho thuốc (mặt nạ, ống nội khí quản) và liều thuốc cần được đánh giá đầy đủ.\nCác yếu tố liên quan người bệnh.\n Giải phẫu phổi của trẻ sơ sinh (kích thước đường thở, thở bằng mũi, phát triển của phổi), sinh lý (kiểu thở, thể tích khí lưu thông, cơ học phổi) và sinh lý bệnh (sự viêm, chất nhầy, xẹp phổi, sự xơ hóa) thể hiện nhiều thách thức đến cách cho thuốc khí dung đến đường thở xa so với người lớn. Các yếu tố liên quan đến bệnh nhân thường đòi hỏi bác sĩ sử dụng các chiến lược sau đây để đưa thuốc đầy đủ cho trẻ sơ sinh: tăng số lượng khí dung, sử dụng các kỹ thuật tỉ mỉ để cho khí dung và cung cấp thở chậm hơn với thể tích khí thở vào lớn hơn qua mặt nạ hoặc ống nội khí quản trong quá trình đưa khí dung.\nCác yếu tố iên quan khí dung.\n Các đặc tính khí dung bao gồm kích thước hạt, hình dạng, độ nhớt và đậm độ. Một trong những đặc tính này, kích thước hạt có lẽ là yếu tố quan trọng nhất. Các hạt từ 2 đến 6 µm kết tủa trong đường thở trung tâm. Những hạt nhỏ hơn, ít đậm độ hơn có nhiều khả năng hơn để phân bố đến các đường thở ngoại vi và các vùng xa của phổi, do đó đến được các receptor phổi mong muốn hoặc được hấp thu đường toàn thân.\n Hệ thống đưa khí dung là yếu tố quan trọng tiếp theo để đảm bảo cách cho thuốc đầy đủ khi sử dung đường hô hấp.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về 163 Erigone nha ?", "role": "user" }, { "content": "Erigone (định danh hành tinh vi hình: 163 Erigone) là một tiểu hành tinh khá lớn và có màu sáng ở vành đai chính. Tên nó được dùng để đặt cho nhóm tiểu hành tinh họ Erigone. Ngày 26 tháng 4 năm 1876, nhà thiên văn học người Pháp Henri J. A. Perrotin phát hiện tiểu hành tinh Erigone khi ông thực hiện quan sát tại Đài quan sát Toulouse và đặt tên nó theo một trong hai tên Erigone trong thần thoại Hy Lạp.\nErigone là một tiểu hành tinh tương đối lớn và tối với kích thước ước tính 73 km. Dựa trên phổ của nó, nó được phân loại là một tiểu hành tinh kiểu C, cho thấy nó có thể có thành phần cacbon.\nSự kiện che khuất Regulus vào năm 2014.\nVào những giờ đầu buổi sáng ngày 20 tháng 3 năm 2014, Erigone đã che khuất một ngôi sao cấp một Regulus như dự đoán đầu tiên của A. Vitagliano năm 2004. Đây là một trường hợp hiếm hoi của việc che khuất một ngôi sao sáng đang nhìn thấy từ một khu vực đông dân, vì con đường bóng tối di chuyển qua bang New York và Ontario, bao gồm cả năm quận thuộc thành phố New York. Những người quan sát trên con đường bóng tối có thể nhìn thấy chớp chớp trong chớp mắt chỉ trong 14 giây.\nTuy nhiên, những đám mây nặng và mưa ngăn không cho tất cả mọi người xem trên con đường bóng tối. Trang web của Hiệp hội Thời gian Che khuất Quốc tế không liệt kê bất kỳ quan sát thành công nào cả.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Rheden, Hildesheim from the encyclopedia?, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Rheden là một đô thị ở huyện Hildesheim trong bang Niedersachsen, Đức. Đô thị Rheden, Hildesheim có diện tích 15,14 km², dân số thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2006 là 1242 người.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Lasionycta brunnea ?", "role": "user" }, { "content": "Lasionycta brunnea là một loài bướm đêm thuộc họ Noctuidae. Nó có ở dãy núi Rocky của Alberta phía bắc đến núi Pink ở đông bắc British Columbia, và ở dãy núi Purcell và Selkirk ở tây nam British Columbia và đông bắc Washington.\nNó thường gặp ở đài nguyên anpơ và hay gặp nhất gần bìa rừng.\nSải cánh dài 30–35 mm đối với con đực và 34–36 mm đối với con cái. Con trưởng thành bay từ giữa tháng 7 qua tháng 8.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về (24832) 1995 SU5 nha ?", "role": "user" }, { "content": "(24832) 1995 SU5 là một tiểu hành tinh vành đai chính. Nó được phát hiện qua chương trình tiểu hành tinh Beijing Schmidt CCD ở trạm Xinglong ở tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc ngày 25 tháng 9 năm 1995.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Mình cần thông tin của Hylaeus boninensis á", "role": "user" }, { "content": "Hylaeus boninensis là một loài Hymenoptera trong họ Colletidae. Loài này được Yasumatsu mô tả khoa học năm 1955.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Inga megalobotrys không ?", "role": "user" }, { "content": "Inga megalobotrys là một loài rau đậu thuộc họ Fabaceae.\nLoài này chỉ có ở Peru.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Nomada waltoni không ?", "role": "user" }, { "content": "Nomada waltoni là một loài Hymenoptera trong họ Apidae. Loài này được Cockerell mô tả khoa học năm 1910.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho tôi thông tin về Glyphipterix idiomorpha từ wiki nha", "role": "user" }, { "content": "Glyphipterix idiomorpha là một loài bướm đêm thuộc họ Glyphipterigidae. Nó được tìm thấy ở Nam Phi.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Information of Athetis pallustris is on wikipedia, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Athetis pallustris là một loài bướm đêm thuộc họ Noctuidae. Loài này có ở hầu hết châu Âu, miền nam Urals, miền nam Nga, Ukraina, miền đông Thổ Nhĩ Kỳ, Siberia, vùng Amur, Mông Cổ và miền bắc Trung Quốc.\nSải cánh dài 18–34 mm. Con đực khá lớn hơn. Con trưởng thành bay từ tháng 5 đến tháng 6. Ấu trùng ăn các loại cây lớn chậm như loài \"Plantago\" (bao gồm \"Plantago major\").", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Anthurium albidum?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Anthurium albidum là một loài thực vật thuộc họ Araceae. Đây là loài đặc hữu của Ecuador. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về Hylaeus frederici không ?", "role": "user" }, { "content": "Hylaeus frederici là một loài Hymenoptera trong họ Colletidae. Loài này được Cockerell mô tả khoa học năm 1905.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Give me information about Lakshmi Mittal from the wiki, in vn language", "role": "user" }, { "content": "Lakshmi Narayan Mittal (hay Lakshmi Nivas Mittal) (लक्ष्मी िनवास मित्तल) (sinh 15 tháng 6 năm 1950) là một nhà công nghiệp, tỷ phú người Ấn Độ. Ông là người giàu thứ 70 trên thế giới với số tài sản lên đến 14,4 tỷ USD theo công bố của tạp chí \"Forbes\".\nTờ \"Thời báo Tài chính\" (The Financial Times) chọn Mittal là nhân vật của năm 2006. Tháng 5 năm 2007, ông được tạp chí Time chọn vào danh sách 100 người có tầm ảnh hưởng nhất thế giới.\nMittal sinh ở làng Sadulpur thuộc quận Rajasthan, Ấn Độ và hiện đang sinh sống tại Kensington, London.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin của Euphorbia bemarahaensis ở wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Euphorbia bemarahaensis là một loài thực vật thuộc họ Euphorbiaceae. Đây là loài đặc hữu của Madagascar. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin của Ramillies, Nord ở wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Ramillies là một xã của tỉnh Nord, thuộc vùng Hauts-de-France, miền bắc nước Pháp.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Nguyễn Thế Vinh?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Nguyễn Thế Vinh (sinh 1970), biệt danh \"Quái kiệt\" Nguyễn Thế Vinh, là một nghệ sĩ Việt Nam.\nVài nét về tiểu sử.\nNguyễn Thế Vinh (sinh 1970) tại làng quê nghèo xứ cát Bắc Bình, Bình Thuận. Khi lên 8 tuổi, Nguyễn Thế Vinh bị ngã gãy tay và phải cưa cụt tay phải. Với một tay còn lại, anh có thể hòa tấu guitar và thổi Harmonica một cách nhuần nhuyễn. Để có thể điều chỉnh từng nốt nhạt trên cung đàn, anh đã mất hơn ba năm để tìm ra một cách riêng khi mình chỉ có một cánh tay.\nĐầu năm 2004, Thế Vinh tình cờ gia nhập hội quán Hội ngộ, nơi lưu giữ nhiều kỷ niệm của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Với Vinh thì \"Nghệ thuật không có sự thông cảm, dù khi bị khuyết tật\".\nNhà báo, Nhạc sĩ Hữu Trịnh nhận xét:\nNhững người bạn tâm giao của Thế Vinh là Hà Chương và Thủy Tiên. Họ cùng nhau lập nhóm hát - ban nhạc \"Món quà của sóng\" và cho ra mắt album đầu tay cùng tên. Hà Chương lúc đó là sinh viên khiếm thị, được biết đến là một nhạc sĩ có tài. Thủy Tiên bị khuyết tật ở miệng vẫn hát hay những ca khúc Trịnh Công Sơn và đã ra mắt album \"Xin cho tôi\".\nNhạc phẩm quen thuộc.\nNhững nhạc phẩm mà Vinh thường diễn tấu đa số là của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn:", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "19419 Pinkham", "role": "user" }, { "content": "19419 Pinkham (1998 FO49) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 20 tháng 3 năm 1998 bởi nhóm nghiên cứu tiểu hành tinh gần Trái Đất phòng thí nghiệm Lincoln ở Socorro.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Kiến thức hoặc thông tin về Latirus elegans", "role": "user" }, { "content": "Latirus elegans là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Fasciolariidae.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Mình cần thông tin của Distorsio decussata á", "role": "user" }, { "content": "Distorsio decussata là một loài ốc biển kích thước trung bình-nhỏ, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Personidae.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Coleostoma from the encyclopedia?, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Coleostoma là một chi bướm đêm thuộc họ Gelechiidae.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Winterbach, Rems-Murr from the encyclopedia?, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Winterbach là một thị xã ở huyện Rems-Murr thuộc bang Baden-Württemberg nước Đức. Đô thị này có diện tích 17,1 km², dân số thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2006 là 7837 người.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Give me information about Pietrabbondante from the wiki, in vn language", "role": "user" }, { "content": "Pietrabbondante là một đô thị ở tỉnh Isernia trong vùng Molise, có cự ly khoảng 30 km về phía tây bắc của Campobasso và khoảng 20 km về phía đông bắc của Isernia. Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2004, đô thị này có dân số 940 và diện tích là 27,3 km².\nĐô thị Pietrabbondante có các \"frazioni\" (các đơn vị trực thuộc, chủ yếu là các làng) Arco, Macere, Ortovecchio, Ragusa-San Vincenzo, Sant'Andrea, Troilo, và Vigna La Corte.\nPietrabbondante giáp các đô thị: Agnone, Castelverrino, Chiauci, Civitanova del Sannio, Pescolanciano, Poggio Sannita.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Aeshna caerulea?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "(Aeshna caerulea là một loài chuồn chuồn ngô nhỏ trong họ Aeshnidae. Chúng bay vào cuối tháng 5 đến tháng 8.\nNó có cơ thể màu nâu, dài 62 mm. Cả hai giới có các đốm màu xanh ở bụng và ngực cũng có các vết màu xanh. Vết trên con đực sáng hơn và dễ thấy hơn so với con cái.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho xin thông tin về Saint-Georges-de-Montaigu nhé", "role": "user" }, { "content": "Saint-Georges-de-Montaigu là một xã ở tỉnh Vendée trong vùng Pays de la Loire, Pháp. Xã này có diện tích 33,61 km², dân số năm 2006 là 3687 người. Xã này nằm ở khu vực có độ cao trung bình 40 mét trên mực nước biển.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Information of Daphnella intercedens is on wikipedia, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Daphnella intercedens là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Conidae.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Hành hương từ bách khoa toàn thư không ?", "role": "user" }, { "content": "Hành hương có thể đề cập đến:", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Thalassery từ bách khoa toàn thư không ?", "role": "user" }, { "content": "Thalassery là một thành phố và khu đô thị của quận Kannur thuộc bang Kerala, Ấn Độ.\nNhân khẩu.\nTheo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Thalassery có dân số 99.386 người. Phái nam chiếm 47% tổng số dân và phái nữ chiếm 53%. Thalassery có tỷ lệ 86% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 86%, và tỷ lệ cho phái nữ là 86%. Tại Thalassery, 10% dân số nhỏ hơn 6 tuổi.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Nhất Biến ?", "role": "user" }, { "content": "Nhất Biến (zh. 一遍, ja. \"ippen\"), 1234 - 1289, là Cao tăng Nhật Bản, được xem là vị tổ của Thời tông (時宗), một nhánh của Tịnh độ Phật giáo, có chùa chính là Du Hành tự (zh. 遊行寺) ở thành phố Fujisawa (Đằng Trạch thị 藤沢市).\nNhất Biến sinh ra tại Ehime (Ái Viện huyện 愛媛県) và tu tập rất sớm với một đệ tử của Pháp Nhiên. Sư xuất gia rồi hoàn tục một lần, nhưng sau đó thay đổi ý định. Sau khi hành hương đến Thiện Quang tự (zh. 善光寺, ja. \"zenkōji\"), huyện Nagano (Trường Dã huyện 長野県), Sư đến một ngôi chùa hẻo lánh ở Ehime, thực hành pháp tu rất nghiêm mật và cuối cùng, đạt được sự an trú toàn vẹn nơi Phật A-di-đà. Qua kinh nghiệm của mình, Sư trở nên rất tự tin cho rằng với bất kì tầng bực thiết tha tu tập của bất cứ căn cơ nào của chúng sinh, dù nam hay nữ, họ đều có thể được vãng sinh ở Tịnh độ, dù chỉ bằng công đức trì niệm một danh hiệu đức Phật A-di-đà. Sau đó, sư đi khắp nơi trong nước, phát cho mọi người những tờ giấy ghi chép lời chỉ dạy căn bản cho pháp tu Tịnh độ. Có đến hàng ngàn người hành trì theo sự khuyến giáo của sư. Khi biết mình sắp viên tịch vào năm 51 tuổi, sư đốt tất cả những gì sư đã trước tác, nên nay chẳng còn tác phẩm nào của sư được lưu hành.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Đông Oregon từ bách khoa toàn thư không ?", "role": "user" }, { "content": "Đông Oregon là phần phía đông của tiểu bang Oregon của Hoa Kỳ. Nó không phải là một vùng địa lý được công nhận chính thức vì vậy ranh giới của nó biến đổi theo ngữ cảnh. Đôi khi nó được hiểu là bao gồm chỉ 8 quận cận đông nhất trong tiểu bang; theo ngữ cảnh khác thì nó gồm toàn thể khu vực nằm bên phía đông Dãy núi Cascade.\nĐịa lý.\nTheo Hội Du khách Đông Oregon thì Đông Oregon bao gồm chỉ các quận sau đây: Morrow, Umatilla, Union, Wallowa, Grant, Baker, Harney, và Malheur. Có các định nghĩa về vùng này đôi khi hạn chế hơn, có định nghĩa bao gồm 8 quận căn bản nói trên cộng một vài quận giáp ranh, trong khi có các định nghĩa tính cả khu vực phía đông Dãy núi Cascade; điều này có nghĩa là các quận sau đây cũng được tính vào: Sherman, Crook, Deschutes, Gilliam, Jefferson, Klamath, Lake, Wasco và Wheeler.\nBốn trong các trung tâm dân số lớn nhất phía đông Dãy núi Cascade – Bend, Redmond, Klamath Falls, và The Dalles – nằm bên ngoài ranh giới hạn chế. Các trung tâm dân số lớn khác còn có Hermiston, Pendleton, La Grande, Baker City, và Ontario.\nPhần cực đông của Oregon trong Thung lũng Sông Snake, bao gồm Ontario, là một phần của Thung lũng Treasure kéo dài về phía đông đến Boise, Idaho; không như phần còn lại của tiểu bang, phần đất này nằm trong Múi giờ Miền núi.\nKhí hậu và sinh thái.\nSo sánh với khí hậu mưa ôn hòa Tây Oregon nằm kề cận Thái Bình Dương, khí hậu của Đông Oregon là khí hậu lục địa khô hơn, có nhiều thay đổi về nhiệt độ theo mùa lớn hơn. Không như Thung lũng Willamette, Đông Oregon có một lượng tuyết rơi đáng kể trong mùa đông. Một số nơi của Đông Oregon nhận ít hơn 10 in (250 mm) lượng mưa hàng năm và chúng được xếp loại là sa mạc. Những phần khô nhất là ở đông nam và khu vực gần Redmond. Khí hậu sa mạc này là do một phần bị hiệu ứng án mưa bởi Dãy núi Cascade. Rừng thông và cối phủ 35% Đông Oregon, đặc biệt trong các ngọn núi phía đông Klamath Falls và trong Dãy núi Xanh.\nKinh tế.\nKinh tế của vùng chủ yếu là nông nghiệp. Lâm nghiệp và khai khoáng từng là công nghiệp hàng đầu nay đã giảm tầm quan trọng trong những năm gần đây. Du lịch tìm hiểu lịch sử đang trên đà gia tăng. Vùng trồng lúa mì của Đông Oregon gồm có phần đông bắc Oregon trong Cao nguyên Columbia. Hoạt động nông nghiệp phía nam của khu vực trồng lúa mì chỉ hạn chế cho chăn nuôi gia súc, trừ nơi có nước tưới tiêu. Những khu vực có nước tưới tiêu thường được sử dụng để sản xuất cỏ linh lăng.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Give me information about Cargèse from the wiki, in vn language", "role": "user" }, { "content": "Cargèse là một xã trong vùng hành chính Corse, thuộc tỉnh Corse-du-Sud, quận Ajaccio (quận), tổng Deux-Sevi. Cargèse nằm trên độ cao trung bình là 60 mét trên mực nước biển, có điểm thấp nhất là 0 mét và điểm cao nhất là 705 mét. Xã có diện tích 45,99 km², dân số vào thời điểm 1999 là 982 người; mật độ dân số là 21 người/km². Cargèse nằm 50 km về phía bắc của Ajaccio.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "La Gonfrière ?", "role": "user" }, { "content": "La Gonfrière là một xã thuộc tỉnh Orne trong vùng Normandie tây bắc nước Pháp. Xã này nằm ở khu vực có độ cao trung bình 221 mét trên mực nước biển.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Tôi cần thông tin về Gibberula nebulosa ở Wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Gibberula nebulosa là một loài ốc biển rất nhỏ, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Cystiscidae.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Give me information about Abd al-Basat Muhammad Ali al-Maqrahi from the wiki, in vn language", "role": "user" }, { "content": "Abd al-Basat Muhammad Ali al-Maqrahi (, \"`Abd al-Bāsaṭ Muḥammad ʿAlī al-Maqraḥī\") (sinh 1 tháng 4 năm 1952) được cho là một cựu sĩ quan tình báo Libya, trưởng an ninh cho Libyan Airlines, và giám đốc của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược tại Tripoli, Libya. Ông bị bắt và bị buộc tội đánh bom trên một chuyến bay, và lãnh án chung thân. Sau đó, chính phủ Scotland phóng thích ông trở về Libya vì có tin ông bị ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn cuối và không sống quá ba tháng.\nBị bắt.\nAl-Maqrahi, một nhân viên tình báo của Libya, là can phạm duy nhất bị một tòa án quốc tế kết án tù chung thân tại Scotland do vụ làm nổ chiếc máy bay của hãng hàng không Pan Am năm 1988 trên không phận Lockerbie làm 270 người chết kể cả 11 người dưới đất.\nPhóng thích.\nTrung tâm của những tranh luận là nghi vấn Liên hiệp Vương quốc Anh muốn phóng thích al-Maqrahi để có ưu đãi của Muammar al-Qadafi trong việc bán dầu lửa Libya và ký hợp đồng mua vũ khí trị giá hàng tỷ đô la. Chính quyền Luân Đôn phủ nhận lập luận này và nói quyết định hoàn toàn do Scotland căn cứ trên yếu tố nhân đạo vì al-Maqrahi mắc chứng ung thư tuyến tiền liệt sẽ chỉ còn sống sót được ít tháng nữa.\nNhưng một doanh gia Anh có quan hệ mật thiết với Libya nói dù không thấy bằng chứng rõ ràng về những thương lượng hậu trường giữa những giới chức hai nước nhưng Anh hiểu rõ là Libya sẽ trả đũa nếu để al-Maqrahi chết trong nhà tù. Theo nhận định của đương sự yêu cầu không tiết lộ danh tánh này thì nếu al-Maqrahi chết trong tù, Libya sẽ ngưng tất cả mọi hợp đồng thương mại.\nBộ trưởng Tư pháp Kenny MacAskill khẳng định đây là quyết định của riêng ông không có sự can thiệp của giới chức nào từ Anh. Nhưng điều lấn cấn là mặc dầu thủ tướng Anh đã viết thư yêu cầu, Libya không hoàn toàn thực hiện đề nghị tránh việc tổ chức đón tiếp al-Maqrahi trở về, và al-Maqrahi sẽ là \"khách mời chính\" của Qadafi trong ngày 1 tháng 9 năm 2009, lễ kỷ niệm 40 năm cuộc đảo chính đưa nhà lãnh đạo này lên nắm chính quyền ở Libya.\nSeif al-Islam, con trai của Muammar al-Qadafi, lãnh đạo của Libya, không có chức vụ nào trong chính quyền nhưng được coi sẽ là người kế vị bố, nói với Al-Maqrahi trên chuyến bay về nước là \"anh ở trên bàn thương lượng về mọi vấn đề mậu dịch, dầu khí hiện nay\", theo lời ghi lại từ cuốn băng ghi âm trên máy bay do nhật báo Daily Telegraph ở Luân Đôn loan tải. Bộ trưởng Thương mại Anh, Peter Mandelson, xác nhận gần đó có gặp Seif hai lần, sinh nhật thứ 37 của Seif tổ chức ở Montenegro vào tháng 6/2009 và một lần khác đầu tháng 8 trên đảo Cofu ngoài khơi Hy Lạp khi cả hai người cùng đến nghỉ hè. Nhưng Mandelson khẳng định đã nói với Seif là chuyện al-Maqrahi hoàn toàn thuộc quyền hạn Scotland.\nViệc phóng thích Abd al-Basat Muhammad Ali al-Maqrahi từ nhà tù trên danh nghĩa từ bi là một quyết định của Bộ trưởng Tư pháp Scotland Kenny MacAskill. Maqrahi bị kết án ngày 31 tháng 1 năm 2001 bởi một Tòa án Scotland đặc biệt ở Hà Lan vì vụ đánh bom trên chuyến bay 103 của Pan Am ngày 21 tháng 12 năm 1988 (\"vụ đánh bom Lockerbie\"). Ngày 20 tháng 8 năm 2009, thụ án được 8 năm rưỡi cho mức án chung thân, việc phóng thích ông được MacAskill ủy quyền. Quyết định này thu hút được làn sóng tin tức đáng kể, đưa đến một lễ kỷ niệm rộng rãi tại Libya, một phản ảnh thù địch phần lớn ở Hoa Kỳ và phản ảnh bằng nhau hơn-chia ở Anh.\nBáo cáo ngày 21 tháng 10 năm 2009 rằng Maqrahi đã chết bị luật sư của ông bác bỏ.\nQuyết định phóng thích.\nTheo Tạp chí Time, dư luận quần chúng ở Anh và Hoa Kỳ tiếp tục đặt vấn đề về việc thả al-Maqrahi, trở thành chuyện tai tiếng cho các giới chức Anh và sẽ còn theo đuổi nhà lãnh đạo Libya trong chuyến đến New York dự Đại hội Đồng Liên Hợp Quốc tháng 9/2009.\nPhản ứng của Hoa Kỳ.\nViệc trả tự do cho al-Maqrahi và chuyện hàng ngàn dân chúng Libya tiếp đón ở phi trường Tripoli làm Hoa Kỳ khó chịu vì hầu hết nạn nhân chuyến máy bay Pan Am là dân Mỹ và gia đình họ chưa quên nỗi mất mát đau khổ. Phát ngôn viên Nhà Trắng Robert Gibbs gọi hành động này là \"đáng kinh tởm.\" Giám đốc Cục Điều tra Liên bang Robert Mueller gởi thư cho Bộ trưởng Tư pháp MacAskil của Scotland nói rằng việc phóng thích al-Maqrahi là \"sự khinh nhờn với luật pháp.\"\nTuy vậy theo Time, biến cố này sẽ không đưa đến rạn nứt sâu sắc giữa Washington và Luân Đôn vì cả Anh và Hoa Kỳ từ 5 năm trước đó đã nỗ lực khuyến dụ Qadafi nhằm đạt được thỏa thuận béo bở về tiềm lực dầu khí khổng lồ cùng những hợp đồng bán vũ khí và xây dựng hạ tầng cơ sở ở Libya. Những công ty dầu lửa vẫn nhiệt thành cải thiện các hợp đồng với chính quyền Libya, nơi đã đặt ra nhiều điều kiện khắt khe nhất về chia sẻ quyền lợi. Chỉ một tuần trước khi al-Maqrahi được ân xá, Thượng Nghị sĩ John McCain đã cầm đầu một phái đoàn Quốc hội Hoa Kỳ đến thăm Libya trong chuyến công du mậu dịch và sau đó tuyên bố, \"Cuộc gặp gỡ buổi tối trong trang trại của Qadafi là một buổi hội kiến thú vị với một con người thú vị.\"\nPhản ứng của châu Âu.\nCác nhà lãnh đạo châu Âu cũng như Hoa Kỳ đều cần \"con người thú vị\" này làm đồng minh chính trị của mình. Các giới chức Thụy Sĩ ngày 21/8/2009 xin lỗi Muammar al-Qadafi, lãnh đạo trên thục tế của Libya, về việc \"bắt giữ không chính đáng\" một trong bảy người con trai của ông ta, Hannibal và vợ, vào tháng 6 năm 2008, vì tội hành hung các nhân viên một khách sạn tại Genève. Sau vụ đó Qadafi trả đũa bằng cách ngưng xuất cảng dầu lửa và rút tiền khoảng $6 tỷ khỏi các ngân hàng Thụy Sĩ.\nChâu Âu và Hoa Kỳ cũng nỗ lực hạn chế mối quan hệ giữa Qadafi với Nga trở nên quá chặt chẽ, điện Kremli đang thương lượng đặt một căn cứ hải không quân tại Libya. Các quốc gia Liên Âu hết sức cần có sự cộng tác của Libya để ngăn chặn làn sóng di dân bất hợp pháp, nhiều nhóm người này vượt qua Địa Trung Hải xuất phát từ bờ biển Libya.\nCân nhắc tất cả những lợi ích đó thì việc trả tự do cho al-Maqrahi là một khoan nhượng có thể hiểu được.\nPhát hành hồ sơ kháng cáo.\nVào ngày 18 tháng 9 năm 2009, Maqrahi phát hành một trang hồ sơ 300 về các bằng chứng thách thức trong trường hợp bị truy tố chống lại ông, và rằng ông tin rằng đã có thể bảo đảm việc phóng thích mình trong lời kháng cáo. Việc tung ra các hồ sơ chứng cứ bị Chúa Advocate Elish Angiolini lên án, người cho rằng, Maqrahi đã bị bỏ lời kháng cáo của mình trước khi được phóng thích trên cơ sở từ bi.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về Corneuil không ?", "role": "user" }, { "content": " Corneuil là một xã thuộc tỉnh Eure trong vùng Normandie miền bắc nước Pháp.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Phrynobatrachus cornutus from the encyclopedia?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Phrynobatrachus cornutus là một loài ếch trong họ Petropedetidae.\nNó được tìm thấy ở Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Congo, Guinea Xích Đạo, và Gabon.\nCác môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng ẩm ướt đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, đầm nước, đầm nước ngọt, đầm nước ngọt có nước theo mùa, và các khu rừng trước đây bị suy thoái nặng nề. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin về Sô-cô-la thỏi", "role": "user" }, { "content": "Thanh sô-cô-la hay thỏi sô-cô-la là một loại bánh kẹo Sô-cô-la ở dạng thanh, trong thanh sô-cô-la có thể bao gồm một số hoặc tất cả các thành phần gồm ca cao, bơ ca cao, đường, sữa... Sự tồn tại hay thiếu của các thành phần này hình thành các loại sô-cô-la như sô-cô-la đen, sô-cô-la sữa và sô-cô-la trắng. Ngoài những thành phần chính, nó có thể chứa chất nhũ hoá như lecithin đậu nành và hương liệu như vani.\nCó nhiều loại thỏi sô-cô-la như sô-cô-la sữa, sô cô la đen, sô cô la trắng, sô cô la bơ đậu phộng và nhiều hơn nữa. Sô-cô-la dạng thỏi là một trong những hình thức sô-cô-la thông dụng và phổ biến trên thế giới. Ngày nay, một thanh sô-cô-la là một loại bánh kẹo thường được đóng gói trong thành phần của nó có thể có một lớp bánh xốp để định hình và thường được bọc bằng sô cô la, ngoài ra nó có thể rắc thêm đậu phộng... Một thanh sô-cô-la như thế có thể có giá trị năng lượng tương đương cho một bữa ăn nhẹ cho một người.\nTổng quan.\nVào thế kỷ 19, hầu như tất cả các loại bánh kẹo thường được bán theo trọng lượng (bán theo cân, ký, lạng...), bề ngoài ít được quan tâm, thường là đóng thành các bao, bịch lớn. Sự ra đời của những thỏi sô-cô-la được sử dụng để làm đồ uống hay món tráng miệng và có thể bảo quản tốt. Ban đầu nó có nhiều hình thức như sau này hình thức thỏi đầu tiên và viên nén trở nên phổ biến.\nHình thức thanh kẹo đã phát triển từ tất cả các cuối thế kỷ 19 như là một cách đóng gói và bán kẹo thuận tiện hơn, cho cả người mua và người bán. Năm 1847, nhà máy sản xuất sô cô la của Fry ở Anh đã đúc thanh sô-cô-la đầu tiên phù hợp với thị hiếu và phục vụ cho tiêu dùng rộng rãi. Nhiều công ty bắt đầu sản xuất thanh Chocolate vào năm 1866.\nTrên 220 sản phẩm đã được giới thiệu trong những thập kỷ sau đó. Tại Mỹ, hầu hết các thanh kẹo tung ra thị trường với giá mười xu, năm xu trong cuộc Đại suy thoái, và quay trở lại đến mười xu sau khi chiến tranh thế giới thứ II. Mức giá này vẫn ổn định cho đến cuối những năm 1960. Trong nửa đầu của thế kỷ 20 ở Mỹ, đã có hàng ngàn thanh kẹo khác nhau được sản xuất và phân phối tại địa phương hoặc khu vực trên thế giới.\nMột số kỷ lục.\nNăm 2010, Công ty Grand Candy của Armenia ra mắt thanh socola dài tới 560 cm, rộng 275 cm, dày 25 cm. Thanh socola khổng lồ này được làm hoàn toàn bằng chất liệu tự nhiên và chứa tới 70% lượng cacao. Theo đo đạc của Hội đồng Kỷ lục thế giới Guinness, thanh socola này nặng tới 4.410 kg và được coi là nặng nhất từ trước đến nay. Công ty Grand Candy cho hay mục đích sản xuất ra thanh socola này là để kỷ niệm 10 năm thành lập công ty bánh kẹo hàng đầu ở Armenia này.\nNăm 2011,cửa hàng bánh kẹo lớn nhất nước Anh Thorntons đã làm ra thanh sô-cô-la hình vuông có khối lượng gần 5.800 kg (gần 6 tấn), tương đương với khối lượng của hai con voi. Trong khi đó, cạnh của nó 4 mét, dài hơn 2 lần chiều cao trung bình của một người đàn ông. Để làm nên thanh kẹo khổng lồ này, Thorntons đã phải mất 50 người cùng đổ sô-cô-la vào khuôn trong vòng 10 giờ và phải mất tiếp 3 ngày để làm lạnh.\nCác nhà sản xuất.\nSau đây là danh sách một số nhà sản xuất sô cô la thanh có tiếng trên thế giới.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Mình cần thông tin của Sân bay General José Francisco Bermúdez á", "role": "user" }, { "content": "Sân bay General José Francisco Bermúdez là một sân bay ở Carupano, Venezuela. Sân bay này có 1 đường băng dài 2015 m bề mặt nhựa đường.\nCác hãng hàng không và các tuyến bay.\nHiện có các hãng hàng không sau đang hoạt động tại sân bay này:", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Mình cần thông tin của (9404) 1994 UQ11 á", "role": "user" }, { "content": "(9404) 1994 UQ11 là một tiểu hành tinh vành đai chính. Nó được phát hiện bởi Seiji Ueda và Hiroshi Kaneda ở Kushiro, Hokkaidō, Nhật Bản, ngày 16 tháng 10 năm 1994.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Information of Melanotus ghilarovi is on wikipedia, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Melanotus ghilarovi là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Dolin & Atamuradov miêu tả khoa học năm 1989.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Máy phát điện không ?", "role": "user" }, { "content": "Máy phát điện là thiết bị biến đổi cơ năng thành điện năng thông thường sử dụng nguyên lý cảm ứng điện từ. Nguồn cơ năng sơ cấp có thể là các động cơ tua bin hơi, tua bin nước, động cơ đốt trong, tua bin gió hoặc các nguồn cơ năng khác.\nMáy phát có hai loại chính là máy phát điện xoay chiều (alternator) và một chiều (dynamo).\nMáy phát điện đầu tiên được sáng chế vào năm 1831 là đĩa Faraday, do nhà khoa học người Anh Michael Faraday.\nĐể chuyển đổi ngược điện năng sang cơ năng, người ta dùng động cơ điện. Máy phát điện và động cơ điện có rất nhiều đặc điểm giống nhau, vậy nên một số loại động cơ có thể biến thành máy phát điện để tạo ra điện năng.\nMáy phát điện giữ một vai trò then chốt trong các thiết bị cung cấp điện. Nó thực hiện ba chức năng: phát điện, chỉnh lưu, hiệu chỉnh điện áp.\nLịch sử phát triển.\nTrước khi từ tính và điện năng được khám phá, các máy phát điện đã sử dụng nguyên lý tĩnh điện. Máy phát điện Wimshurst đã sử dụng cảm ứng tĩnh điện. Máy phát Van de Graaff đã sử dụng một trong hai cơ cấu sau:\nMáy phát tĩnh điện được sử dụng trong các thí nghiệm khoa học yêu cầu điện áp cao. Vì sự khó khăn trong việc tạo cách điện cho các máy phát tạo điện áp cao, cho nên máy phát tĩnh điện được chế tạo với công suất thấp và không bao giờ được sử dụng cho mục đích phát điện thương mại.\nĐĩa Faraday.\nNguyên lý hoạt động của máy phát điện được khám phá vào khoảng năm 1831-1832 bởi Michael Faraday. Nguyên lý như sau: một sức điện động được tạo ra trong một cuộn dây dẫn bởi từ thông biến thiên bao quanh nó. Nguyên lý này sau này được gọi là Định luật cảm ứng Faraday.\nSau đó, Ông ta cũng đã chế tạo máy phát điện từ đầu tiên được gọi là \"đĩa Faraday\", nó dùng một đĩa bằng đồng quay giữa các cực của một nam châm hình móng ngựa. Nó đã tạo ra một điện áp một chiều nhỏ và dòng điện lớn.\nDynamo.\nDynamo là máy phát điện đầu tiên có khả năng cung cấp điện năng cho công nghiệp. Dynamo sử dụng nguyên lý cảm ứng điện từ để biến đổi năng lượng quay cơ học thành dòng điện một chiều. Cấu tạo của dynamo bao gồm một kết cấu tĩnh mà nó tạo ra từ trường mạnh và một cuộn dây quay. Ở các máy phát dynamo nhỏ, từ trường được tạo ra bằng các nam châm vĩnh cửu, đối với các máy lớn, từ trường được tạo ra bằng các nam châm điện.\nMáy phát dynamo đầu tiên dựa trên nguyên lý Faraday được chế tạo vào năm 1832 do Hippolyte Pixii - một nhà chế tạo thiết bị đo lường. Máy này đã sử dụng một nam châm vĩnh cửu được quay bằng một tay quay. Nam châm quay được định vị sao cho cực Nam và cực Bắc của nó đi ngang qua một mẫu sắt được quấn bằng dây dẫn. Pixii phát hiện rằng nam châm quay đã tạo ra một xung điện trong dây dẫn mỗi lần một cực đi ngang qua cuộn dây. Ngoài ra, các cực Bắc và Nam của nam châm đã tạo ra một dòng điện có chiều ngược nhau. Bằng cách bổ sung một bộ chuyển mạch, Pixii đã có thể biến đổi dòng điện xoay chiều thành dòng điện một chiều.\nKhông giống như đĩa Faraday, nhiều vòng dây được nối nối tiếp được sử dụng trong cuộn dây chuyển động của dynamo. Điều này cho phép điện áp đầu cực của máy cao hơn so với đĩa Faraday tạo ra, do đó điện năng có thể phân phối ở mức điện áp thích hợp.\nMối quan hệ giữa chuyển động quay cơ học và dòng điện trong dynamo là quá trình thuận nghịch, nguyên lý về mô tơ điện đã được phát hiện khi người ta thấy rằng một máy dynamo có thể tạo ra cho một máy dynamo thứ hai quay nếu cấp dòng điện qua nó.\nJedlik dynamo.\nNăm 1857, Anyos Jedlik bắt đầu thử nghiệm với các thiết bị quay có từ tính mà ông gọi là các rotor tự từ hóa. Trong mẫu vật đầu tiên của một bộ khởi động đơn cực, (đã được hoàn tất trong khoảng 1852 và 1854) cả phần tĩnh lẫn phần quay đều là nam châm điện. Ông đã trình bày nguyên lý của dynamo ít nhất là 6 tháng trước Ernst Werner von Siemens và Charles Wheatstone. Trên thực chất nguyên lý của nó là thay vì sử dụng nam châm vĩnh cửu, thì dùng 2 nam châm điện đối xứng nhau để tạo ra từ trường bao xung quanh rotor.\nGramme dynamo.\nCả hai thiết kế trên đều tồn tại một vấn đề như nhau: Chúng tạo ra những xung dòng điện nhọn đầu không mong muốn. Antonio Pacinotti, một nhà khoa học người Ý đã tìm cách giải quyết vấn đề bằng cách thay các cuộn dây tròn bằng các cuộn dây hình xuyến, tạo ra bằng cách quấn trên một vòng thép. Như vậy luôn có một số vòng của cuộn dây sẽ thông qua từ trường, và làm cho điện áp, dòng điện có dạng phẳng hơn. Zénobe Gramme đã thực hiện lại thiết kế này vài năm sau đó khi thiết kế một số nhà máy điện ở Paris trong thập niên 1870. Thiết kế này bây giờ được gọi là Gramme dynamo. Những phiên bản khác nhau đã được phát triển, và chế tạo từ dây, nhưng nguyên lý cơ bản về những cuộn dây xếp theo vòng đã trở thành trái tim của tất cả các dynamo hiện nay.\nKhái niệm.\nMáy phát điện làm di chuyển dòng điện nhưng không tạo ra điện tích. Những điện tích này sẵn có trong phần dẫn điện của dây quấn. Một cách nào đấy, nó có thể ví với một cái bơm, tạo ra dòng nước chảy nhưng không tự tạo ra nước.\nCũng có những máy phát điện kiểu khác, đưa trên những hiện tượng điện tự nhiên khác như hiệu ứng áp điện, hiệu ứng từ thủy động. Kết cấu của dynamo tương tự với các động cơ điện, và các loại dynamo thông dụng đều có thể hoạt động như một động cơ.\nThuật ngữ.\nCác bộ phận của máy phát điện và các thiết bị liên quan có thể được gọi bằng những thuật ngữ cơ khí hoặc thuật ngữ điện. Mặc dù đã được phân loại riêng biệt, hai bộ thuật ngữ này thường được sử dụng thay thế lẫn nhau hoặc kết hợp một thuật ngữ cơ với một thuật ngữ điện. Điều này gây ra những xáo trộn lớn khi làm việc với những máy hỗn hợp như máy phát xoay chiều kích từ không chổi than, hoặc khi trao đổi với những người đã thường làm việc với những máy được chế tạo theo kiểu khác.\nMạch tương đương.\nMạch tương đương của máy phát và tải được hiển thị trên hình bên phải. Để có thể xác định được những thông số formula_1 và formula_2 của máy phát, vần thực hiện theo những bước dưới đây:\nLưu ý 1: Tổng trở nội xoay chiều của máy phát điện khi đang chạy thường hoi cao hơn tổng trở nội một chiều của nó khi tĩnh. Nguyên lý trên cho phép bạn đo được cả hai giá trị. Khi tính toán thô, người ta có thể bỏ qua bước đo formula_8 và giả định rằng formula_8 và formula_3 bằng nhau.\nLưu ý 2: Nếu máy phát là máy phát điện xoay chiều thì phải dùng vôn kế xoay chiều để đo.\nCông suất định mức.\nCông suất định mức là công suất mà máy phát điện có thể phát ra an toàn liên tục mà không gây xáo trộn trong máy. Thông thường công suất định mức của một máy phát điện phụ thuộc vào các yếu tố sau:\nCông suất khả dụng.\nCông suất khả dụng là công suất tối đa mà máy phát có thể phát được an toàn liên tục mà không vi phạm các thông số kỹ thuật khác.\nThông thường, công suất định mức được tính toán ở các điều kiện tiêu chuẩn. Trong thực tế, các điều kiện vận hành của thiết bị có thể không đúng với điều kiện tiêu chuẩn. Vì thế công suất khả dụng thường thấp hơn công suất định mức.\nCác điều kiện ảnh hưởng đến công suất khả dụng của máy là:\nMáy phát điện công suất thấp.\nNhững chiếc xe có gắn động cơ đầu tiên có khuynh hướng lắp đặt các máy phát điện một chiều với bộ điều hòa điện thế bằng cơ khí. Kiểu này không được tin cậy hoàn toàn, và hiệu suất thấp, nên sau này đã được thay thế bằng các máy phát điện xoay chiều với những mạch chỉnh lưu lắp trong. Công suất của hệ thống điện này trên xe sẽ nạp lại cho các bình ắc quy sau khi khởi động. Ngõ ra định mức của nó thường trong khoảng 50 -100 A ở điện thế 12 V, tùy thuộc vào thiết kế tải phần điện bên trong xe. Một số xe hiện nay có hệ thống trợ động dùng điện, và hệ thống điều hòa nhiệt độ cũng bằng điện. Những thiết bị này này làm tăng tải của hệ thống điện. Các xe tải nặng hơn sẽ sử dụng nguồn 24 volt để có đầy đủ lực cho động cơ khởi động để có thể quay được các động cơ diesel lớn, mà không cần những sợi cáp điện lớn hơn, vốn ít tin cậy hơn. Các máy phát của xe thường không sử dụng nam châm vĩnh cửu; chúng có thể đạt được hiệu suất đến 90% ở trong một dải tốc độ rất rộng bằng cách điều khiển điện áp kích từ. Các máy phát dùng trong xe hai bánh lại sử dụng nam châm vĩnh cửu. Phần cảm của nó là các nam châm đất hiếm, vì thế có thể chế tạo nhỏ và nhẹ hơn các loại khác.\nMột số máy phát điện nhỏ nhất có thể thấy là các máy phát điện cho đèn xe đạp. Các máy này thường là các máy phát nam châm vĩnh cửu, 0,5 A, cung cấp một công suất 3 đến 6 w ở điện thế 6 đến 12 V. Để có thể quay được bằng sức người đạp, vấn đề hiệu suất phải đặt ra hàng đầu, và phải được thiết kế và chế tạo rất tinh xảo, với những nam châm vĩnh cửu đất hiếm. Tuy nhiên, hiệu suất của nó chỉ có thể đạt được đến 60% với những máy phát tốt nhất, và 40% với loại thông thường, do phải sử dụng nam châm vĩnh cửu. Nhưng nếu muốn dùng máy phát điều chỉnh được kích từ, lại phải dùng bình ắc quy. Điều này không thể chấp nhận được, vì nó làm tăng trọng lượng và kích thước.\nNhững thuyền buồm thường sử dụng các máy phát kéo bằng sức nước hoặc sức gió, để nạp điện từ từ cho các bình ắc quy. Những chiếc chân vịt, các tua bin gió hoặc các bánh xe công tác sẽ được kết nối với các máy phát công suất thấp và bộ chỉnh lưu để có dòng điện đến 12 A ở tốc độ nhỏ nhất.\nMáy phát điện - động cơ nổ.\nMột máy phát điện - động cơ nổ là tổ hợp một máy phát điện và một động cơ nổ kéo nó thành một khối thiết bị. Tổ hợp này có khi được gọi là bộ máy phát điện - động cơ (\"engine-generator set\") hoặc bộ máy phát (\"gen-set\"). Trong nhiều ngữ cảnh khác nhau, người ta có thể quên đi cái động cơ nổ, mà chỉ gọi đơn thuần cả tổ hợp là máy phát điện (\"generator\").\nĐi kèm với máy phát điện và động cơ nổ, các bộ máy phát điện - động cơ nổ thường có kèm theo một bồn chứa nhiên liệu, một bộ điều tốc cho động cơ nổ và một bộ điều thế cho máy phát điện. Nhiều khối máy còn kèm theo bình ắc quy và bộ động cơ điện khởi động. Những tổ máy dùng làm máy phát dự phòng thường bao gồm cả hệ thống tự động khởi động và một bộ chuyển mạch đảo nguồn transfer switch để tách tải ra khỏi nguồn điện dịch vụ và nối vào máy phát.\nCác bộ máy phát điện - động cơ nổ cung cấp công suất điện xoay chiều sao cho nó có thể được sử dụng thay thế nguồn điện lưới thường phải mua từ các trạm phân phối của công ty điện lực. Các thông số điện áp (volt), tần số (Hz) và công suất (watt) định mức của máy phát được lựa chọn sao cho phù hợp với tải cần nối vào máy phát. Có cả hai loại máy một pha và ba pha. Rất ít loại máy ba pha là máy xách tay di động. Thường máy xách tay người ta chỉ làm máy một pha và hầu hết các máy ba pha là loại máy lớn dùng trong công nghiệp.\nbộ máy phát điện - động cơ nổ thường được chế tao trong một dải công suất khá rộng. Nó có thể bao gồm từ các máy di động quay tay có thể cấp điện cỡ vài trăm watt, loại xách tay như hình vẽ trên, có thể cấp điện cỡ vài nghìn watt và loại tĩnh hoặc loại đặt trên rơ moóc có thể cấp điện đến vài triệu watt. Các máy nhỏ thường dùng nhiên liệu là xăng, và các máy lớn hơn sử dụng nhiều nguyên liệu khác nhau, từ dầu diesel, khí tự nhiên hay khí propane.\nKhi sử dụng máy phát điện - động cơ nổ, bạn có thể phải quan tâm đến chất lượng của dạng sóng ra của nó. Điều này rất quan trong khi sử dụng những thiết bị điện tử nhạy cảm. Một bộ điều hòa điện năng power conditioner có thể lấy những sóng vuông do máy phát điện - động cơ nổ phát ra, và làm cho nó đẹp đẽ lại bằng cách cho nó chạy qua một mạch điện trong đó có phần trung gian là một bình ắc quy. Sử dụng một bộ nghịch lưu cao cấp thay thế máy phát điện có thể tạo ra điện áp có dạng sóng thuần sin hơn. Một vài loại nghịch lưu chạy rất êm, tạo ra điện áp sin rất sạch sẽ, phù hợp với máy tính điện tử và các thiết bị điện tử nhạy cảm. Tuy nhiên một số bộ nghịch lưu rẻ tiền không phát ra được điện áp sin hoàn hảo, và có thể làm hư hỏng một số thiết bị điện tử.\nCác máy phát điện động cơ nổ thường được sử dụng để cung cấp điện cho các vùng mà nguồn điện lưới không kéo đến được, và trong những tình huống phải cấp điện ngắn hạn tạm thời. Các máy phát nhỏ đôi khi có thể dùng để cấp điện cho các dụng cụ tại các công trường xây dựng. Các máy phát điện loại rơ moóc có thể dùng cấp điện cho chiếu sáng, và các trò chơi giải trí trong các hội chợ di động.\nCác máy phát điện dự phòng thường được lắp đặt cố định và luôn sẵn sàng hoạt động để cấp điện cho những tải quan trọng khi nguồn điện lưới bị gián đoạn. Bệnh viện, các cơ sở thông tin liên lạc, các trạm bơm và rất nhiều các dịch vụ quan trọng đều được lắp đặt máy phát điện dự phòng.\nCác máy phát điện cỡ nhỏ hoặc cỡ trung đặc biệt phổ biến ở các nước trong thế giới thứ ba, nơi nguồn điện lưới không tin cậy. Các máy phát điện đặt trên rơ moóc có thể được kéo đến những vị trí thiên tai khi nguồn điện lưới bị gián đoạn.\nMáy phát điện cũng có thể được vận hành bằng sức người để tạo ra nguồn điện tức thời trong lĩnh vực thông tin liên lạc.\nMáy phát điện - động cơ nổ công suất trung bình.\nMáy phát điện - động cơ nổ công suất trung bình như hình vẽ dưới đây là một bộ máy có công suất 100 kVA cấp điện áp 415 V với dòng điện khoảng 110 A per phase. Nó được kéo bằng một máy Perkins Phaser, sê ri 1000 dung tích xy lanh 6,7l có hệ thống nạp gió kiểu turbo. Máy này tiêu thụ khoảng 27l nhiên liệu mỗi giờ, có bồn chứa 400 l. Các máy phát điện tĩnh có thể được thiết kế đến hàng nghìn kW và thường quay ở tốc độ 1500 vòng/phút với tần số 50 Hz, và 1800 vòng/phút với tần số 60 Hz. Các bộ máy sử dụng động cơ diesel ở công suất tối ưu có thể phát được khoảng 3 kWh với mỗi kG nhiên liệu, và có thể có hiệu suất thấp hơn khi làm việc ở các tải khác. \nMáy phát điện tua bin nước.\nThông thường, các tua bin nước có tốc độ thấp. Vì thế các máy phát điện kéo bằng tua bin nước cũng có tốc độ rất thấp. Các máy này thường có nhiều đôi cực, trục ngắn, đường kính lớn, chế tạo theo kiểu cực lồi. Tùy theo thể loại, và tùy theo tốc độ của tua bin nước, các máy này có thể được đặt đứng hay nằm ngang.\nĐối với những máy phát điện nhỏ, có đường kính ngoài nhỏ hơn 1 m, mạch từ của stator chỉ là một khối hình xuyến làm bằng các lớp lá thép kỹ thuật điện có sơn cách điện ghép lại. Đối với các máy có đường kính lớn hơn 1 m, thường phải làm từ nhiều khối dạng vòng cung.\nRotor của máy phát điện thường làm bằng nhiều khối thép rèn ghép lại với nhau thành nhiều cực từ. Trên mỗi cực từ có các cuộn dây kích thích quấn tập trung.\nMáy phát điện tua bin hơi và tua bin khí.\nCác tua bin hơi và tua bin khí có tốc độ cao hơn tua bin nước. Các máy phát điện tua bin hơi hoặc tua bin khí thường được chế tạo với tốc độ cao nhất (3000 vòng/phút đối với máy có tần số 50 Hz, và 3600 vòng/ phút đối với máy 60 Hz). Hầu hết các máy phát điện tua bin hơi và máy phát điện tua bin khí là loại trục nằm ngang, chế tạo theo kiểu cực ẩn. Loại này có rotor dài hơn nhiều so với đường kính.\nStator của máy cũng giống như máy phát cực lồi. Thông thường với đa số các máy có đường kính lớn hơn 1 m, lõi thép stator được chế tạo thành nhiều cung, bằng thép silicon cao cấp, có tính định hướng, phủ chất cách điện để giảm thiểu tổn thất điện năng. Người ta thường không ghép thành một khối như các máy điện cỡ nhỏ, mà làm thành nhiều lớp, có khe hở ở giữa để thông gió làm mát.\nCuộn dây stator được làm từ các thanh dẫn đồng xếp nằm trong các rãnh, hai đầu nối lại với nhau thành các vòng dây. Các thanh dẫn thường không phải là thanh đặc nguyên khối, mà được làm từ các dây dẹp quấn bện theo kiểu Roebel, sao cho mỗi thanh nhỏ trong bó đều có một chiều dài bằng nhau, dù có phải uốn lượn theo nhiều hướng khác nhau. Các dây nối ra ngoài và dây nối giữa các pha, các vòng dây với nhau được cố định chắc chắn hai đầu bằng các vật liệu cách điện có độ bền điện và độ bền cơ học cao.\nĐiện áp ra của stator thường nằm trong khoảng vài kV đến 14,4 kV. Muốn truyền đi xa hơn, người ta thường phải dùng một máy biến áp tăng áp. Để lấy điện đưa xuống sử dụng cho các thiết bị điện phục vụ cho tổ máy vận hành, người ta dùng một máy biến áp hạ áp, trong trường hợp này gọi là máy biến áp tự dùng.\nRotor của nó có dạng trụ có xẻ rãnh, quấn nhiều cuộn dây kích từ đồng tâm. Hai đầu chỗ các mối hàn nối các thanh và các cuộn dây với nhau được bảo vệ bằng một vòng thép hình trụ, gọi là vòng hộ hoàn. Các dây dẫn ra ngoài được dẫn xuyên qua dọc theo trục máy để đưa ra phía đầu rotor. Từ đó có thể nối vào các vành nhận điện, để có thể đưa dòng điện từ bên ngoài vào qua các chổi than. Dòng điện đưa vào rotor máy phát điện thường là dòng điện một chiều, gọi là dòng kích thích.\nThông thường, hai đầu của rotor đều có lắp đặt cánh quạt để thổi chất khí đi vào theo các dường dẫn đặt sẵn, để làm mát máy. Chất khí đó có thể là không khí tự nhiên, thông với môi trường bên ngoài, hoặc khí hydro, tuần hoàn kín. Trong trường hợp tuần hoàn kín, có thể phải lắp đặt thêm một số bộ trao đổi nhiệt, để làm mát chất khí đó bằng nước.\nCác máy phát điện tua bin hơi và máy phát điện tua bin khí có thể chế tạo từ một vài MW đến 700 MW.\nMột số kỹ thuật mới.\nTrong khoảng 40, 50 năm gần đây, có nhiều kỹ thuật mới được sử dụng để chế tạo máy phát điện. Có thể kể như sau:\nCác chế độ vận hành.\nMáy phát điện có thể có các chế độ vận hành khác nhau như sau:", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về Chất Bình nha ?", "role": "user" }, { "content": "Chất Bình là xã thuộc huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, Việt Nam.\nĐịa lý.\nXã Chất Bình cách trung tâm thành phố Ninh Bình 26 km, có vị trí địa lý:\nXã Chất Bình có diện tích 5,92 km², dân số năm 2019 là 5.658 người, mật độ dân số đạt 956 người/km².\nLịch sử.\nĐây là một xã thuộc vùng đồng bằng, có lịch sử hình thành từ việc khai mở đất hoang ven biển cùng với huyện Kim Sơn năm 1829. Xã này được thành lập theo quyết định số 199/QD-NV ngày 22/7/1964 trên cơ sở xã Hồng Thái.\nKinh tế.\nChợ Chất Bình - Thôn Quyết Bình - Xã Chất Bình là một trong 11 chợ trên địa bàn Kim Sơn trong danh sách các chợ loại 1, 2, 3 ở Ninh Bình.\nĐây cũng là xã được công nhận Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ở Ninh Bình.\nVăn hóa.\nNhà thờ Giáo xứ Quân Triêm và Nhà thờ Giáo xứ Quyết Bình thuộc giáo phận Phát Diệm nằm trên địa bàn xã Chất Bình, Kim Sơn, Ninh Bình\nĐình Chất Thành - Thôn Chất Thành - Xã Chất bình được công nhận là Di tích danh thắng cấp Quốc gia.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Nasugbu từ bách khoa toàn thư không ?", "role": "user" }, { "content": "Nasugbu là một đô thị cấp một ở tỉnh Batangas, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2015, đô thị này có dân số 134.113 người trong.\nCác đơn vị hành chính.\nNasugbu, về mặt hành chính, được chia thành 42 khu phố (barangay). The 12 barangays located in the poblacion are classified as urban, and the rest are classified as rural.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho xin thông tin về Hưng Long, Thừa Đức nhé", "role": "user" }, { "content": "Hưng Long (chữ Hán giản thể: 兴隆县) là một huyện thuộc địa cấp thị Thừa Đức, tỉnh Hà Bắc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện này có diện tích 3116 ki-lô-mét vuông, dân số 320.000 người. Mã số bưu chính là 067300. Huyện lỵ đóng tại trấn Hưng Long. Về mặt hành chính, huyện được chia thành 7 trấn, 11 hương và 2 hương dân tộc.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Tưởng tượng from the encyclopedia?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Tưởng tượng là khả năng hình thành các hình ảnh, cảm giác, khái niệm trong tâm trí khi không nhận thức đối tượng đó thông qua thị giác, thính giác hoặc các giác quan khác. Tưởng tượng là công việc của tâm trí, giúp cung cấp ý nghĩa cho kinh nghiệm và tri thức, là cơ sở cho việc nhận thức thế giới, nó cũng đóng một vai trò quan trọng trong quá trình học tập. Phương pháp rèn luyện trí tưởng tượng thường gặp là nghe kể chuyện (kể chuyện), trong đó ngôn từ là yếu tố cơ bản để \"sáng tạo thế giới\".\nTưởng tượng là khả năng mà qua đó chúng ta nhận thức thế giới. Những gì chúng ta sờ, nghe, thấy được tổng hợp bằng tưởng tượng để tạo ra một \"bức tranh toàn cảnh\".\nTưởng tượng được coi là khả năng bẩm sinh\nTrí tưởng tượng cũng có thể được thể hiện qua những câu chuyện chẳng hạn như truyện cổ tích hay hình ảnh tưởng tượng. Hầu hết các phát minh nổi tiếng hoặc các sản phẩm giải trí được tạo ra từ cảm hứng của trí tưởng tượng của một người nào đó.\nVề việc sự tiến hóa khả năng tưởng tượng ở nhân loại, có một giả thuyết cho rằng: \"Cơ sở của tiến hóa tưởng tượng là tưởng tượng cho phép ý thức có thể mô phỏng giải quyết vấn đề trong tâm trí\"\nTrẻ em rèn luyện trí tưởng tượng khi nghe kể chuyện hoặc trò chơi giả vờ. Trong trò chơi, trẻ em chơi với những gì chúng tạo ra bằng trí tưởng tượng, hoặc chơi trong một bối cảnh tưởng tượng mà chính chúng tạo ra hoặc đã tồn tại như thần thoại, truyền thuyết.\nĐọc thêm.\nTwo philosophers for whom imagination is a central concept are John Sallis và Richard Kearney. See in particular:", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Kiến thức hoặc thông tin về 9142 Rhesus", "role": "user" }, { "content": "9142 Rhesus (5191 T-3) là một thiên thể Troia của Sao Mộc, trong nhóm Troia.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Give me information about Empusada from the wiki, in vn language", "role": "user" }, { "content": " \nEmpusada là một chi bướm đêm thuộc họ Noctuidae.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về Yura (tàu tuần dương Nhật) nha ?", "role": "user" }, { "content": "Yura (tiếng Nhật: 由良) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp \"Nagara\" của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Yura gần Kyoto của Nhật Bản. Nó từng được sử dụng rộng rãi trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, và đã tự đánh đắm ngày 25 tháng 10 năm 1942 sau khi bị máy bay Không lực Mỹ đánh trúng ngoài khơi đảo Savo thuộc quần đảo Solomon.\nThiết kế và chế tạo.\n\"Yura\" là chiếc thứ ba được hoàn tất trong lớp tàu tuần dương hạng nhẹ \"Nagara\", và giống như những chiếc cùng lớp, nó được dự định sử dụng như soái hạm của hải đội tàu khu trục.\n\"Yura\" được đặt lườn tại xưởng hải quân Sasebo vào ngày 21 tháng 5 năm 1921. Nó được hạ thủy vào ngày 15 tháng 2 năm 1922 và đưa vào hoạt động ngày 20 tháng 3 năm 1923.\nLịch sử hoạt động.\nCác hoạt động ban đầu.\nNăm 1930, \"Yura\" hoạt động như một nền tảng thử nghiệm máy phóng máy bay trang bị phía trước cầu tàu, và đến những năm 1933- 1934 nó được trang bị một bệ xoay phóng máy bay ở giữa tàu cũng như một cột ăn-ten chính mới nhằm hỗ trợ cho sàn phóng máy bay. Trong thời gian xảy ra sự kiện Mãn Châu, \"Yura\" được bố trí đến Thượng Hải thuộc Trung Quốc vào đầu năm 1932, và một lần nữa trong những năm 1937 – 1939, để hỗ trợ cho các cuộc đổ bộ lực lượng Nhật Bản tại miền Trung và Nam Trung Quốc.\nGiai đoạn mở đầu của chiến tranh Thái Bình Dương.\nVào ngày 1 tháng 9 năm 1941, \"Yura\" trở thành soái hạm của Hải đội Tàu ngầm 5 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Daigo Tadashige và được phân về lực lượng Khu vực Phương Nam đặt căn cứ tại Hải Nam. Vào lúc xảy ra cuộc Tấn công Trân Châu Cảng, \"Yura\" hỗ trợ cho đợt đầu tiên của cuộc tấn công chiếm đóng Malaya xuất phát từ phía Nam mũi Cà Mau tại Đông Dương thuộc Pháp.\nVào ngày 9 tháng 12 năm 1941, \"Yura\" và hải đội của nó được lệnh săn đuổi và đánh chìm Lực lượng Z của Hải quân Hoàng gia Anh bao gồm thiết giáp hạm HMS \"Prince of Wales\", tàu chiến-tuần dương HMS \"Repulse\" và các tàu khu trục hộ tống). Mặc dù \"Yura\" nhận được tin tức từ tàu ngầm \"I-65\" về việc phát hiện các tàu chiến Anh, việc thu sóng vô tuyến quá kém khiến cho nội dung bức điện không rõ ràng, và hạm đội Anh chỉ bị lấn áp và đánh chìm bởi những máy bay ném bom-ngư lôi thuộc Không đoàn 22 đặt căn cứ tại Đông Dương trước khi \"Yura\" và các tàu ngầm của nó có thể tác chiến.\nSau đó \"Yura\" được phân công tham gia cuộc xâm chiếm Sarawak từ ngày 13 đến ngày 26 tháng 12 năm 1941, hỗ trợ cho các cuộc đổ bộ lên Brunei, Miri, Seria, Lutong và Kuching. Lực lượng 2.500 người thuộc \"Đơn vị Kawaguchi\" và Lực lượng Đổ bộ Đặc biệt Hải quân Số 2 Yokosuka nhanh chóng chiếm được sân bay Miri cùng các giếng dầu. Sau khi chiến dịch hoàn tất, \"Yura\" quay trở về căn cứ của nó tại vịnh Cam Ranh thuộc Đông Dương vào cuối năm.\nVào tháng 2 năm 1942, \"Yura\" được phân về Lực lượng Phương Nam thuộc Hạm đội 3 Nhật Bản của Phó Đô đốc Ibo Takahashi và hỗ trợ cho cuộc chiếm đóng Sumatra, cũng như bảo vệ cho các cuộc đổ bộ lực lượng Nhật lên Palembang, đảo Banka, vịnh Bantam và Merak trên đảo Java.\nVào ngày 1 tháng 3 năm 1942, khi ở gần Euretan Wetan, tàu ngầm Hà Lan \"K-XIV\" trông thấy \"Yura\" và đã tấn công bằng ngư lôi từ khoảng cách 2.500 – 3.000 m, nhưng tất cả đều trượt hoặc tịt ngòi. Phía Nhật phản công bằng sáu đợt tấn công với khaỏng 25 mìn sâu, nhưng \"K-XIV\" thoát được rút lui ngang qua eo biển Sunda về Colombo thuộc Ceylon. Ngày 4 tháng 3, \"Yura\" cứu thoát thủy thủ đoàn của chiếc tàu chở dầu \"Erimo\" vốn bị tàu ngầm USS \"S-39\" đánh chìm. Ngày 6 tháng 3, \"Yura\" được phân về Đơn vị Hộ tống Số 1 và tiếp tục hỗ trợ cho việc đổ bộ lực lượng lên Sumatra và quần đảo Andaman cho đến hết tháng.\nKhông kích Ấn Độ Dương.\nVào tháng 4, \"Yura\" được phân công tham gia cuộc không kích Ấn Độ Dương tiến hành bởi Hạm đội Viễn chinh 2 dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Jisaburo Ozawa. \"Yura\" được tháp tùng bởi các tàu khu trục \"Ayanami\", \"Yūgiri\", \"Asagiri\" và \"Shiokaze\", đã rời Mergui di chuyển vào vịnh Bengal cùng các tàu tuần dương \"Chōkai\", \"Suzuya\", \"Kumano\", \"Mikuma\" và \"Mogami\" cùng tàu sân bay hạng nhẹ \"Ryūjō\" để tấn công các tàu buôn.\nNgày 6 tháng 4 năm 1942, ở vị trí 22,5 km (14 dặm) về phía Đông Kalingapatam trong vịnh Bengal, \"Yura\" và \"Yugiri\" đã đánh chìm chiếc tàu buôn Hà Lan \"Batavia\" đang trên đường từ Calcutta đến Karachi. \"Yura\" và \"Yūgiri\" còn đánh chìm chiếc tàu Hà Lan \"Banjoewangi\" và tàu hơi nước Anh \"Taksang\". Đến cuối tháng 4, \"Yura\" quay trở về xưởng hải quân Sasebo để được tái trang bị.\nTrận Midway.\nNgày 10 tháng 5 năm 1942, \"Yura\" trở thành soái hạm của Hải đội Khu trục 4 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Shoji Nishimura. Trong trận Midway, \"Yura\" nằm trong thành phần Hạm đội 2 của Phó Đô đốc Nobutake Kondo, thuộc Lực lượng Tấn công với bảy tàu khu trục thuộc các Hải đội Khu trục 2 và 9 và Chuẩn Đô đốc Tamotsu Takama chỉ huy Hải đội Khu trục 4. \"Yura\" đã không tham gia tác chiến trong trận Midway.\nChiến dịch quần đảo Solomon.\nNgày 7 tháng 8 năm 1942, lực lượng Mỹ bắt đầu \"Chiến dịch Watchtower\" để tái chiếm Guadalcanal và quần đảo Solomon. \"Yura\" được gửi đến Truk cùng với hạm đội 2 của Phó Đô đốc Kondo để bắt đầui các hoạt động tăng cường, và đã tham gia vào Trận Đông Solomons vào ngày 24 tháng 8 năm 1942. Mặc dù chiếc tàu sân bay hạng nhẹ \"Ryujo\" bị đánh chìm và chiếc tàu chở thủy phi cơ \"Chitose\" bị hư hại, \"Yura\" thoát được mà không bị hư hại, và quay về đến Truk vào ngày 5 tháng 9 năm 1942.\nTrong thời gian còn lại của tháng 9, \"Yura\" tuần tra giữa Truk, Guadalcanal và quần đảo Shortland. Ngày 25 tháng 9 năm 1942, trong khi đang ở tại Shortland, nó bị hai máy bay ném bom Boeing B-17 Flying Fortress thuộc Liên đội Ném bom 11 của Không lực Mỹ đặt căn cứ tại Espiritu Santo tấn công, và bị hư hại nhẹ bởi một quả bom nhỏ.\nNgày 11 tháng 10 năm 1942, tàu ngầm Mỹ \"Sculpin\" báo cáo đánh trúng \"Yura\" ở phía trước cầu tàu gây hư hại nhẹ, nhưng các phân tích sau chiến tranh không thể xác nhận cuộc tấn công này, và \"Yura\" rõ ràng không bị hư hại vào ngày hôm đó.\nNgày 12 tháng 10 năm 1942, \"Yura\" khởi hành từ Shortland để hộ tống các tàu chở thủy phi cơ \"Nisshin\" và \"Chitose\" quay trở về sau một chuyến đi vận chuyển từ Guadalcanal; và vào ngày 14 tháng 10 năm 1942, \"Yura\" hỗ trợ cho việc đổ bộ lực lượng 1.100 người lên mũi Esperance thuộc Guadalcanal. Một chuyến đi vận chuyển binh lính \"Tốc hành Tokyo\" khác đến Guadalcanal được thực hiện vào ngày 17 tháng 10 năm 1942 đã đưa 2.100 binh lính, pháo dã chiến và vũ khí chống tăng ra được mặt trận.\nNgày 18 tháng 10 năm 1942, trên đường quay lại Shortland, \"Yura\" bị tàu ngầm \"Grampus\" tấn công ngoài khơi đảo Choiseul. \"Grampus\" đã bắn bốn quả ngư lôi Mark 14 nhắm vào \"Yura\". Một quả đã đánh trúng nhưng không phát nổ, và \"Yura\" rời khu vực với một vết lỏm bên mạn trái.\nNgày 24 tháng 10 năm 1942, \"Yura\" rời Shortland để tiến hành bắn phá Guadalcanal cùng Đơn vị Tấn công Số 2 bao gồm soái hạm của Chuẩn Đô đốc Takama là tàu khu trục \"Akizuki\" cùng các tàu khu trục \"Harusame\", \"Murasame\" và \"Yudachi\".\nỞ lối vào phía Bắc của eo biển Indispensable ngoài khơi Guadalcanal, vào ngày 25 tháng 10 năm 1942 (một ngày trước Trận chiến quần đảo Santa Cruz), \"Yura\" dẫn đầu một đội tấn công gồm các tàu khu trục ngoài khơi đảo Santa Isabel thuộc quần đảo Solomons, và bị tấn công bởi năm chiếc máy bay ném bom bổ nhào SBD Dauntless thuộc Phi đội VS-71, và \"Yura\" bị trúng hai quả bom phía sau tàu gần phòng động cơ, khiến nó bị ngập nước và nghiêng về phía đuôi. Khi nhận được báo cáo về cuộc tấn công, Phó Đô đốc Mikawa của Hạm đội 8 ra lệnh hủy bỏ nhiệm vụ bắn phá của Chuẩn Đô đốc Takama, và cho Đơn vị Tấn công Số 2 quay trở lại Shortland. Trên đường rút lui, \"Yura\" bị tấn công một lần nữa bởi ba chiếc P-39 Airacobra của Không lực Mỹ và bốn chiếc SBD của Thủy quân Lục chiến, nhưng các đợt tấn công này không gây thêm thiệt hại nào khác cho nó. Thuyền trưởng Sato dự định cho mắc cạn chiếc \"Yura\" nhưng nó lại bị tấn công một lần nữa bởi bốn chiếc SBD, ba chiếc F4F Wildcat và bốn chiếc P-39. Không lâu sau đó \"Yura\" bị sáu máy bay ném bom B-17 Flying Fortress của Không lực Mỹ xuất phát từ Espiritu Santo tấn công. Những đợt tấn công này làm bùng phát trở lại các đám cháy trên chiếc \"Yura\".\nLúc 18 giờ 30 phút, sau khi thủy thủ đoàn đã rời tàu, các tàu khu trục \"Harusame\" và \"Yudachi\" đã phóng ngư lôi vào \"Yura\". Nó bị vỡ làm đôi và phần mũi chìm xuống biển. Đến 19 giờ 00, phần đuôi của nó bị đánh chìm ngoài khơi đảo Savo bởi hải pháo của \"Yudachi\" ở tọa độ .\n\"Yura\" được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 20 tháng 11 năm 1942.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Nowzar?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Tham khảo.\nNowzar () là một nhân vật trong thiên sử thiShahnameh. Ông là con của Manuchehr và lên làm vua xứ Iran sau khi cha mất. Triều đại ông kéo dài 7 năm, và kết thúc khi ông hi sinh trong cuộc chiến chống Afrasiab.\nTrong kinh Avesta, ông được ghi nhận là một người anh hùng, một chiến binh vĩ đại. Sau này, nhiều chiến binh tự xem mình là Nowzarian, hậu thân của Nowzar.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Give me information about Quickborn, Dithmarschen from the wiki, in vn language", "role": "user" }, { "content": "Quickborn là một đô thị thuộc huyện Dithmarschen, trong bang Schleswig-Holstein, nước Đức. Đô thị Quickborn, Dithmarschen có diện tích 6,95 km², dân số thời điểm 31 tháng 12 năm 2006 là 229 người.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Indi không ?", "role": "user" }, { "content": "Indi (tiếng Latinh: Indium) là một nguyên tố hóa học với ký hiệu In và số nguyên tử 49. Nó là một kim loại yếu hiếm, mềm, dễ uốn và dễ dàng nóng chảy, về mặt hóa học là tương tự như nhôm và gali, nhưng tương tự nhiều hơn với kẽm (các quặng kẽm cũng là nguồn chủ yếu chứa kim loại này). Ứng dụng chủ yếu của nó hiện nay là để tạo ra các điện cực trong suốt từ oxide thiếc indi (tức Indium tin oxide (ITO)) dùng trong các màn hình tinh thể lỏng (LCD). Nó cũng được sử dụng rộng rãi trong các màng mỏng để tạo ra các lớp bôi trơn (trong Đại chiến thế giới lần thứ hai nó được sử dụng nhiều để che phủ các vòng bi trong một số loại tàu bay). Nó cũng được dùng để tạo một số hợp kim cụ thể có nhiệt độ nóng chảy thấp và là thành phần trong một vài dạng thiếc hàn không chứa chì.\nĐặc trưng.\nIndi là một kim loại thật sự, tương đối hiếm, rất mềm, màu trắng hay xám bạc với ánh sáng màu. Khi ở dạng kim loại nguyên chất và bị uốn cong thì nó phát ra các tiếng kêu răng rắc, tựa như thiếc. Cả gali và indi đều có thể làm ướt thủy tinh.\nMột tính chất bất thường của indi là phần lớn các đồng vị thông thường của nó đều có tính phóng xạ nhẹ; nó phân rã rất chậm theo bức xạ beta để trở thành thiếc. Tính phóng xạ này không bị coi là nguy hiểm, chủ yếu là do chu kỳ bán rã rất dài của nó (4,41×1014 năm hay 441 nghìn tỷ năm), cao khoảng gấp 10.000 lần tuổi của vũ trụ và gần 50.000 lần lâu dài hơn của thori tự nhiên. Không giống như nguyên tố chu kỳ 5 cận kề là cadmi, indi không phải là chất độc tích lũy nguy hiểm trong cơ thể.\nỨng dụng.\nỨng dụng quy mô lớn đầu tiên của indi là làm lớp bôi trơn cho các vòng bi của một số tàu bay trong thời kỳ Đại chiến thế giới lần thứ hai. Sau đó, sản xuất indi dần dần tăng lên các ứng dụng mới được tìm thấy trong các hợp kim dễ nóng chảy, thiếc hàn và trong ngành điện tử. Trong thập niên 1950, các hạt indi nhỏ được dùng làm cực phát và cực thu của các tranzito biên hợp kim kiểu PNP. Vào giữa và cuối thập niên 1980, sự phát triển các chất bán dẫn từ phosphide indi và các màng mỏng từ oxide thiếc indi cho LCD đã gây ra nhiều sự chú ý. Vào năm 1992, ứng dụng màng mỏng đã trở thành ứng dụng lớn nhất của indi. Các ứng dụng khác có:\nLịch sử.\nIndi (đặt tên theo vạch chàm trong phổ bức xạ nguyên tử của nó, trong tiếng Đức từ \"indigo\" là để chỉ màu chàm) được hai nhà hóa học người Đức là Ferdinand Reich và Hieronymous Theodor Richter phát hiện năm 1863 khi họ kiểm tra quặng kẽm bằng quang phổ kế để nghiên cứu tali. Richter cô lập được kim loại này năm 1867.\nPhổ biến và tiêu thụ.\nIndi đứng thứ 61 về độ phổ biến trong lớp vỏ Trái Đất ở hàm lượng khoảng 0,25 ppm , nghĩa là nó có nhiều gấp ba lần bạc (hàm lượng 0,075 ppm). Cho tới năm 1924, chỉ có khoảng 1 gam indi đã cô lập được trên Trái Đất. Indi được sản xuất chủ yếu từ các cặn bã còn lại sau khi tinh chế quặng kẽm, nhưng nó cũng có trong các quặng sắt, chì và đồng.\nCanada là nhà sản xuất hàng đầu về indi. Nhà máy tinh chế của Công ty khai thác mỏ Teck Cominco ở Trail (British Columbia) là nơi cung cấp lớn nhất, với sản lượng là 32,5 tấn năm 2005, 41,8 tấn năm 2004 và 36,1 tấn năm 2003.\nLượng indi được tiêu thụ chủ yếu trong sản xuất LCD khắp thế giới. Sản lượng toàn thế giới hiện nay khoảng 476 tấn/năm từ khai thác mỏ và 650 tấn/năm từ tái chế . Nhu cầu sử dụng indi đã gia tăng nhanh chóng trong những năm gần đây với sự phổ biến của màn hình máy tính/ti vi bằng LCD, hiện tại chiếm tới 50% lượng indi được tiêu thụ. Hiệu suất sản xuất tăng lên cùng tái chế (đặc biệt tại Nhật Bản) giúp duy trì sự cân bằng tạm thời giữa cung và cầu. Nhu cầu thì tăng lên do sử dụng trong LCD, còn cung thì giảm do một số công ty khai thác mỏ tại Trung Quốc đã dừng việc chiết tách indi từ căn bã quặng kẽm. Năm 2002, giá của indi trên thị trường là 94 USD mỗi kilôgam, nhưng các thay đổi gần đây trong cung-cầu đã làm giá của indi tăng lên và dao động mạnh, trong giai đoạn từ năm 2005 tới năm 2007 giá của nó nằm trong khoảng 700-1.000 USD/kg. Nhu cầu về indi có thể còn tiếp tục gia tăng với việc sản xuất ở quy mô lớn các màng mỏng dựa trên CIGS trong công nghệ năng lượng mặt trời do một số công ty, như Nanosolar và Miasole, bắt đầu triển khai trong năm 2008.\nDựa trên hàm lượng indi trong các nguồn dự trữ quặng kẽm thì dự trữ toàn thế giới là khoảng 6.000 tấn indi có thể khai thác quy mô thương mại. Điều này cho thấy, với tốc độ tiêu thụ như hiện tại thì chỉ còn đủ indi cho 13 năm. Tuy nhiên, ước tính như vậy thường được coi như là gieo hoang mang hay phao tin đồn nhảm. Indium Corporation, nhà chế biến indi lớn nhất, cho rằng dựa trên cơ sở của hiệu suất phục hồi đang tăng lên trong quá trình chiết tách, sự phục hồi từ khoảng rộng hơn các kim loại cơ sở (như trầm tích thiếc, đồng và các trầm tích đa kim khác) cũng như các đầu tư khai thác mỏ mới, thì cung dài hạn về indi là ổn định, tin cậy và đủ để đáp ứng cho nhu cầu đang gia tăng trong tương lai. Kết luận này dường như là hợp lý với thực tế là bạc, một kim loại ít phổ biến hơn, nhưng hiện tại đang được khai thác ở ngưỡng khoảng 18.300 tấn mỗi năm, gấp khoảng 40 lần so với tốc độ khai thác indi hiện nay.\nPhòng ngừa.\nIndi tinh khiết ở dạng kim loại được nhiều nguồn tài liệu cho là không độc hại. Trong công nghiệp bán dẫn và hàn kim loại, những nơi mà độ phơi nhiễm indi là tương đối cao, vẫn chưa có báo cáo nào cho thấy nó gây ra các hiệu ứng phụ độc hại.\nNhưng điều này có thể không đúng đối với các hợp chất của indi: có một số chứng cứ chưa được xác nhận cho rằng indi có độc tính thấp. Ví dụ, Indi(III) chloride khan (InCl3) là hoàn toàn độc hại, trong khi Indi(I) phosphide (InP) là độc hại và bị nghi ngờ là chất gây ung thư.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Calcatoggio?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": " Calcatoggio là một xã của tỉnh Corse-du-Sud, thuộc vùng Corse, trên đảo Corse ở Pháp.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about USS Maryland?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Bốn tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt tên USS \"Maryland\" nhằm vinh danh tiểu bang Maryland:", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Bettendorf, Rhein-Lahn from the encyclopedia?, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Bettendorf là một đô thị thuộc huyện Rhein-Lahn, bang Rheinland-Pfalz, phía tây nước Đức. Đô thị này có diện tích 3,24 km², dân số thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2006 là 353 người.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Thaisella dubia?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Thaisella dubia là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Muricidae, họ ốc gai.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Give me information about Bulbophyllum mastersianum from the wiki, in vn language", "role": "user" }, { "content": "Bulbophyllum mastersianum là một loài phong lan.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về Varzy không ?", "role": "user" }, { "content": "Varzy là một xã của tỉnh Nièvre, thuộc vùng Bourgogne-Franche-Comté, miền trung nước Pháp.\nDân số.\nTheo điều tra dân số 1999 có dân số là 1303. Vào ngày 1-1-2005, xấp xỉ là 1359.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Hydropsyche dolosa từ bách khoa toàn thư nha ?", "role": "user" }, { "content": "Hydropsyche dolosa là một loài Trichoptera trong họ Hydropsychidae. Chúng phân bố ở miền Ấn Độ - Mã Lai.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Santibáñez de Esgueva, bạn có thông tin nó ?", "role": "user" }, { "content": "Santibáñez de Esgueva là một đô thị trong tỉnh Burgos, Castile và León, Tây Ban Nha. Theo điều tra dân số 2004 (INE), đô thị này có dân số là 148 người.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Rhyacophila ngawang nha ?", "role": "user" }, { "content": "Rhyacophila ngawang là một loài Trichoptera trong họ Rhyacophilidae. Chúng phân bố ở miền Ấn Độ - Mã Lai.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "It's a Wonderful Life ?", "role": "user" }, { "content": "It's a Wonderful Life (1946) là một bộ phim Mỹ sản xuất và đạo diễn bởi Frank Capra và được phát triển từ truyện ngắn \"The Greatest Gift\" của Philip Van Doren Stern.\nBộ phim lấy bối cảnh một thị trấn hư cấu - Bedford Falls - sau Thế chiến II. Nhân vật nam chính George Bailey (James Stewart), một người đàn ông có ý định tự sát vào đêm Giáng sinh, đã gặp thiên thần hộ mệnh Clarence Odbody (Henry Travers), người được phái xuống để giúp đỡ George những lúc anh cần. Phần lớn bộ phim xoay quanh cuộc sống trước đó của George qua sự thuật lại của Franklin và Joseph, thiên thần vô hình đang chuẩn bị cho Clarence thực hiện sứ mệnh cứu rỗi George. Qua đó khán giả có thể thấy tất cả những người có liên quan tới George và những thay đổi do anh đem đến cho cuộc đời.\nBộ phim được xếp vào hàng kinh điển và là một phần chủ yếu của truyền hình giáng sinh trên toàn thế giới, nhưng mặc dù chi phí sản xuất lớn và được đánh giá rất cao trong các bảng xếp hạng nhưng lại thất bại về mặt doanh thu, chỉ thu về được một nửa so với chi phí bỏ ra.. \"It's a Wonderful Life\" cho đến nay đã thất lạc bản quyền, và đã được coi như tài sản chung của nhân loại.\n\"It's a Wonderful Life\" được 5 đề cử Oscar, tuy không đoạt được giải nào nhưng bộ phim được Viện phim Mỹ xếp vào hàng 100 phim Mỹ hay nhất trong 100 năm qua, và đứng ở vị trí thứ nhất trong số những bộ phim truyền cảm nhất mọi thời đại.\nNội dung.\nGiáng sinh năm 1946, George Bailey (James Stewart) tuyệt vọng và có ý định tự tử. Lời cầu nguyện của George đã thấu đến những ngôi sao. Clarence Odbody, một nhị đẳng thiên thần, được gửi đến Trái đất để cứu George. Thiên thần trưởng lão Joseph cùng với Clarence tái hiện lại cuộc đời George.\nNăm 1919, 12 tuổi, George nhảy xuống cứu cậu em Harry trong tảng băng bị sụp và bị hỏng tai trái do nhiễm lạnh. Một lần trong lúc làm việc tại một nhà thuốc trong thị trấn, phát hiện ra ông chủ Gower (H.B. Warner) đưa nhầm thuốc độc cho người mua, George đã giúp ông chủ thoát khỏi 20 năm tù.\nLớn lên ở thị trấn Bedford Falls, cậu bé George Bailey tốt bụng có rất nhiều hoài bão và ước mơ. Mơ ước của cậu là được đi khắp châu Âu và trở thành một kiến trúc sư giỏi, kiếm được nhiều tiền. Trong một lần họp mặt bạn bè cũ, George đã thổ lộ với cô bạn Mary Hatch (Donna Reed) những tâm sự của mình: \"Tôi sẽ rũ bỏ đất của thị trấn Bedford Falls già cỗi này khỏi ống quần tôi. Tôi sẽ đi khắp thế giới, xây dựng những tòa nhà chọc trời, những chiếc cầu dài 100 m, những phi trường rộng bát ngát...\" thế nhưng ước vọng lớn nhất đời anh đã không thực hiện được. Cha mất một ngày trước khi anh đi, và George đành phải tiếp quản công việc quản lý tiệm \"Buiding & Loan\", một tiệm chuyên cho người nghèo vay tiền. George đã dùng tất cả những số tiền tiết kiệm của mình cho đứa em harry đi học đại học\nBốn năm trôi qua, cậu em trai Harry trở về với một người vợ và một công việc đầy hứa hẹn. Hy sinh vì hạnh phúc của em, George phải chấp nhận tiếp tục công việc của gia đình và từ bỏ ước mơ vẫn hằng nung nấu. Anh biết là cuộc đời anh cuối cùng sẽ bị chôn vùi trong thị trấn Bedford Falls ảm đạm này.\nCuối cùng, George cũng cưới Mary, mối tình mà mãi sau này anh mới nhận ra và giành được nó. Nhưng ngay cả ngày tân hôn của họ cũng không được trọn vẹn. Tất cả số tiền 2000 đô la dành cho tuần trăng mật đã cho tất cả mọi người trong thị trấn vay vì ngân hàng xiết nợ.\nTrong thị trấn có một lão già độc tài tên là Henry Potter (Lionel Barrymore). Bằng tiền bạc của mình, lão chiếm lĩnh gần như toàn bộ thị trấn Bedford Falls. Không muốn Bedford Falls rơi vào tay của lão, George Bailey cùng \"Building & Loan\" giúp mọi người trong thị trấn thoát khỏi khu ổ chuột.\nTrong con người của George Bailey luôn có hai thái cực đấu tranh quyết liệt, một bên là những khát vọng của bản thân, một bên là trách nhiệm của một người trong gia đình và trong cộng đồng. Cả cuộc đời George đã hy sinh cho mọi người xung quanh nhưng lại hụt hẫng và đau khổ vì những ước muốn không bao giờ thành hiện thực. Từ khi 4 đứa con lần lượt ra đời, George hiểu rằng anh không bao giờ có thể ra khỏi Bedford được nữa.\nNỗi ám ảnh về khát vọng tuổi trẻ luôn đeo đẳng và dằn vặt George cho đến khi một biến cố xảy ra. Ông chú đãng trí của George để quên số tiền đặt cọc ngân hàng 8.000 đô trong một tờ báo, và tờ báo lại lọt vào tay lão Potter. Mất tiền đồng nghĩa với việc sẽ phải vào tù, George tuyệt vọng lang thang khắp Bedford Falls và đến một quán bar. Anh khóc cho số phận bất hạnh của mình. George cầu chúa cứu rỗi, nhưng những gì anh nhận được ngay sau đó là một cú đấm vào mặt của một tên côn đồ. Tin rằng đó chính là những gì mình nhận được sau khi cầu nguyện, George đi tới chiếc cầu, hoàn toàn mất niềm tin ở đời, ở Chúa, George nhìn xuống dòng sông và quyết định nhảy xuống...\nĐúng lúc ấy, thiên thần Clarence hiện ra ở cây cầu và nhảy xuống nước trước cả George. Quên mất ý định tự tử, George cứu Clarence. Clarence nảy ra ý tưởng làm cho George tin cuộc đời của anh không phải là một thất bại: Clarence đã hóa phép làm cho George trở thành một người chưa từng có mặt trong đời... George của trước kia hoàn toàn biến mất.\nThị trấn Bedford Falls bỗng nhiên thay đổi, những ngôi nhà ấm cúng biến thành vũ trường, quán nhậu, tiệm cầm đồ, nhà thổ... gái làng chơi và những bợm nhậu lang thang đầy đường, tất cả thị trấn được bọc bởi những ánh đèn mờ đồi bại. Tên thị trấn Bedford Falls cũng đổi tên thành Pottersville, chứng tỏ sự thâu tóm của Potter. Vẫn không tin vào mắt mình, George chạy đi tìm những người thân. Căn nhà nhỏ của anh và bốn đứa con đã biến thành đống gạch vụn, ông Gower trở thành kẻ ăn xin, em trai chết vì không được George cứu, mẹ anh bây giờ là một bà già hám tiền, cô vợ Mary giờ là một bà cô thủ thư không chồng vô hồn. Lúc đó, Clarence hiện ra trước mặt George và nói: \"Cuộc sống của mỗi con người chạm đến cuộc sống của rất nhiều người khác. Nếu anh ta không xuất hiện trên đời thì sẽ để lại một lỗ hổng lớn không bao giờ bù đắp được...\" George chợt hiểu và nhận ra được ý nghĩa của mình trong cuộc sống...\nLúc này George hối hận chạy đến cây cầu mà mình từng có ý định tự sát, cầu xin thiên thần Clarence khiến mọi thứ trở lại như cũ. Điều ước được thiên thần Clarence nghe thấy và thực hiện, thế giới mà anh từng sống trở về như cũ. Trở về nhà anh ôm chầm ba người con của mình, đồng thời Mari trở về cùng ông Billy cho biết họ được người dân trong thị trấn cùng chung tay quyên góp một số tiền vô cùng lớn, đủ giúp cho anh trả nợ số tiền 8000 USD, đồng thời trở nên giàu có, một số người dân trong thị trấn nữa chạy đến nhà của George để quyên góp tiền, sau đó cùng nhau hát bài hát mừng giáng sinh ấm cúng hạnh phúc tại gia đình George.\nCâu cuối của phim: \"No man is failure who has friends\". Kết lại bộ phim với tinh thần yêu thương, đoàn kết của người dân cùng với gia đình George\nGiải thưởng và vinh dự.\nĐề cử Oscar.\n\"It's a Wonderful Life\" nhận được 5 đề cử Oscar:\nCapra giành được giải Quả cầu vàng cho đạo diễn xuất sắc nhất.\nVinh dự.\nXếp hạng của Viện phim Mỹ", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Margao không ?", "role": "user" }, { "content": "Margao () là thành phố đứng thứ hai về dân số, và là trung tâm văn hóa-thương mại của bang Goa, Ấn Độ. Nó là thủ phủ của phó huyện Salcete và huyện Nam Goa.\nTên gọi.\n\"Margão\" là cách viết trong tiếng Bồ Đào Nha, còn \"Madugão\" dùng trong tiếng Konkan. Trong tiếng Marathi, nơi đây có tên \"Madgaon\". Tất cả các tên này đều bắt nguồn từ \"Maṭhagrām\" tiếng Phạn nghĩa là \"ngôi làng lan về phía đông\".", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho xin thông tin về Rồng nhé", "role": "user" }, { "content": "Rồng hay còn gọi là Long (giản thể: 龙; phồn thể: 龍; Tân tự thể: 竜) là một loài vật xuất hiện trong thần thoại phương Đông và phương Tây. Trong kinh Phật, Rồng là một trong tám bộ Thiên Long. Ở cả phương Đông và phương Tây, hình ảnh loài rồng đều được biểu thị cho loài linh vật huyền thoại có sức mạnh phi thường. Nhưng ở phương Tây thì Rồng được miêu tả là loài bò sát to lớn giống như Khủng Long, nhiều khi là sự tượng trưng cho cái ác chứ không phải là linh vật mang điều tốt lành như quan niệm của người châu Á. \nRồng ở các nước châu Á có nhiều khác biệt với rồng ở các nước châu Âu và châu Mỹ. Tại một số nước châu Á, rồng được mô tả có mình rắn, vảy cá, bờm sư tử, sừng hươu, không có cánh nhưng biết bay, trong khi rồng ở châu Âu được mô tả giống như một con thằn lằn khổng lồ, có cánh như dơi và biết phun lửa. Đa số các nước châu Á coi rồng là con vật linh thiêng trong khi các nước châu Âu lại coi rồng là biểu tượng của cái ác và sự hung dữ. Tại Trung Quốc và các nước lân cận khác, rồng là một trong bốn linh vật mà Lễ Ký 禮記 (thiên Lễ Vận 禮運) chép: \"Long, lân, quy, phụng vị chi tứ linh\" (Rồng, kỳ lân, rùa, phượng hoàng gọi là tứ linh). Bốn linh vật này chỉ có rùa là có thực. \nLoài rồng châu Phi là một trong những loại rồng không được biết đến nhiều như rồng châu Âu hay rồng phương Đông. Trên thực tế, hầu hết những con rồng này thậm chí không được công nhận hoặc nghĩ là rồng. Hầu hết những con rồng châu Phi giống như con rắn lớn hoặc rắn khổng lồ, đôi khi chỉ sở hữu hai chân, nếu có. Những con rồng giống như con rắn này đã được nhìn thấy nhiều lần trên khắp văn hóa châu Phi, bao gồm văn hóa dân gian, tôn giáo, thần thoại và các câu chuyện bộ lạc. Những câu chuyện về những con rồng này đã được tìm thấy ở các bộ lạc, thành phố và thị trấn trên khắp châu Phi bao gồm cả Ai Cập.\nTrên thực tế, một số loài sinh vật cũng được gọi cho cái tên \"rồng\" dù chúng chỉ là loài bò sát như loài Rồng Komodo. Về khía cạnh sinh học, theo hình dáng và cách sinh sống thì đó có thể đây là những con khủng long của thời kỳ tiền sử còn sót lại, là loài thằn lằn khổng lồ sống trong hang động, vùng biển hay các thung lũng, cánh rừng mà con người ít đặt chân đến, rồng có thể xuất phát từ một loài sinh vật có thật rồi trí tưởng tượng của loài người tô vẽ thêm nhưng cũng có thể chỉ là sản phẩm thuần túy của trí tưởng tượng khi người ta trực tiếp đối diện với sức mạnh siêu nhiên trong tự nhiên như bão tố, núi lửa phun trào, động đất, lũ lụt và họ đã gán ghép hiện tượng thiên nhiên này với hình ảnh các con Rồng nổi giận.\nTheo một số nước Á Đông rồng cơ bản có bốn loại mang 4 sức mạnh của thiên nhiên là 4 yếu tố tạo nên vũ trụ: Gió, Lửa, Đất và Nước. Từ bốn loại chính này mà người ta tưởng tượng ra nhiều loại rồng khác nhau:\nCác loại.\nRồng Việt.\nCon rồng Việt Nam là vật tổ của người Việt theo truyền thuyết \"Con Rồng cháu Tiên\", trong trang trí kiến trúc, điêu khắc và hội họa hình rồng mang bản sắc riêng, theo trí tưởng tượng của người Việt. Nó khác với rồng trong trang trí kiến trúc và hội họa Trung Hoa và ở quốc gia khác. Con rồng ở Việt Nam cũng tùy theo thời kỳ. Con rồng thời Lý, thể hiện sự nhẹ nhàng, mỏng manh, giống như đang uốn lượn trong mây, thích hợp với các lễ cầu mưa. Còn con rồng thời Trần thì mạnh mẽ hơn, thân hình to và khoẻ khoắn...\nRồng Việt Nam thường có một mô-típ rõ ràng đặc trưng đó là:\nRồng Trung Hoa.\nVì đứng đầu trong tứ linh nên rồng có ảnh hưởng không nhỏ trong đời sống tâm linh của người dân Trung Hoa. Cuối năm 1987 tại huyện Bộc Dương (濮陽) tỉnh Hà Nam, người ta khai quật được một con rồng bằng gốm, giám định là có 6 ngàn năm tuổi. Điều này càng chứng minh thêm sự sùng bái rồng trong xã hội nguyên thủy chiếm địa vị trọng yếu trong tín ngưỡng linh vật hay vật tổ (totemism: Đồ đằng sùng bái) và liên quan mật thiết đến chính trị, kinh tế, văn học nghệ thuật, phong tục dân gian từ đời Hạ, đời Thương và ảnh hưởng này kéo dài mấy ngàn năm không suy giảm. Rồng luôn hiện hữu trong các truyện thần thoại Trung Quốc, trong các cổ vật, tranh vẽ, lời bói trên mai rùa xương thú khai quật được, và trong các thư tịch cổ như Chu Dịch, Sơn Hải Kinh, Tả Truyện, Rồng chữ Hán viết là 龍 với các cách phiên thiết như:\nTheo các cách phiên thiết trên thì chữ 龍 nên đọc là «lung». Nhưng từ trước đến nay người Việt vẫn đọc là «long», có lẽ căn cứ vào thanh phù đồng 童 (giản lược thành chữ lập 立 trên đầu). Thuyết Văn Giải Tự giảng về rồng (long) là: «Lân trùng chi trưởng, năng u năng minh, năng tế năng cự, năng đoản năng trường, xuân phân nhi đăng thiên, thu phân nhi tiềm uyên.»(Rồng đứng đầu các loài có vẩy, có thể ẩn hiện, có thể biến hóa nhỏ hoặc lớn, dài hoặc ngắn; tiết xuân phân thì bay lên trời, tiết thu phân thì lặn sâu đáy vực).\nĐoàn Ngọc Tài chú: «Mao Thi - Liệu Tiêu truyện viết: Long sủng dã. Vị long tức sủng chi giả tá dã. Chước truyện viết: Long hòa dã. Trường phát đồng. Vị long vi ung hòa chi giả tá tự dã.» (Truyện Liệu Tiêu trong Mao Thi viết: Long tức là sủng (bằng vinh diệu, yêu mến). Nói long tức là nói chữ giả tá của sủng. Chước truyện nói: Long tức là hòa. Đồng nghĩa với trường phát (bằng phát triển lâu dài). Nói long tức là nói chữ giả tá của ung hòa (bằng hòa mục, hòa hiệp). Theo lời chú của Đoàn Ngọc Tài, trong cổ văn, chữ long ngoài ý nghĩa là một linh vật còn được dùng như chữ giả tá của sủng và hòa với các ý nghĩa đã nêu).\nHình tượng của rồng Trung Hoa bao gồm các loài:có mào, cựa gà, thân rắn, đùi thằn lằn, móng vuốt của chim ưng, đuôi rắn, sừng hươu, vẩy cá. Có người cho rằng sau khi Hoa Hạ thống nhất các bộ tộc trung nguyên đã kết hợp vật tổ của mình cùng với vật tổ của các bộ tộc đó thành con rồng. Rồng có chín đứa con (Long Sinh Cửu Tử), là chín loài thần thú nhưng không phải rồng. tùy vào tính cách của mỗi con mà người ta dùng trang trí ở những nơi khác nhau như mái hiên, nóc nhà, lan can, vũ khí, chiến thuyền... Là con thứ 9 của con Rồng theo quan niệm phương Đông. Đây là con vật rất trung thành với chủ, dù chủ nó làm nghề gì nên được rất nhiều người Trung Quốc và cả người Việt Nam rước về (để lấy may mắn).\nRồng Châu Âu.\nTrong truyện cổ tích Nga hay của một số dân tộc ở châu Âu, rồng thường được miêu tả như một loài bò sát có vảy, cổ và đuôi dài, có 4 chân và có cánh, thường có đầu thổi ra lửa và biết bay. Các đầu này có khả năng tự mọc ra nếu bị chặt mất đầu cũ. Một số rồng chỉ có 1 đầu và có một cái mõm ngắn, quặp như mỏ đại bàng. Cũng theo những truyện cổ phương Tây: rồng thường được giao nhiệm vụ canh giữ kho báu, lâu đài hay người đẹp, song thường tỏ ra là loài \"hữu dũng vô mưu\" vì thường chịu thua và thiệt mạng dưới tay một tráng sĩ.\nKhác với rồng phương Đông được coi là linh vật mang điềm lành, rồng phương Tây bị coi là loài quái vật, tượng trưng cho sức mạnh nhưng nghiêng về ý nghĩa độc ác, hung dữ. Nó có hình dáng của khủng long ăn thịt đi bằng 2 chân; đôi lúc nó cũng có thể bò bằng 4 chân với 2 tay khá lớn có thể cầm nắm, có 2 sừng nhọn, cặp cánh lớn và rộng đủ sức nâng trọng lượng của nó lên không trung, có vảy lưng dài đến tận đuôi và có thể phun ra lửa hoặc nước hoặc các nguyên tố khác… Da của nó rắn chắc và dẻo dai, không loại vũ khí nào có thể sát thương được nhưng lại có điểm yếu nằm ở mắt và lưỡi, thường sống nơi hẻo lánh, con người ít đặt chân đến.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Today, I consider myself the luckiest man on the face of the earth.?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "\"Today, I consider myself the luckiest man on the face of the earth.\" (\"Ngày hôm nay, tôi tự coi mình là người may mắn nhất trên Trái Đất này.\") là câu nói nổi tiếng của Lou Gehrig trong diễn văn từ giã sự nghiệp của ông đọc tại Sân vận động Yankee, thành phố New York, Mỹ ngày 4 tháng 7 năm 1939. Câu nói này sau đó đã được lặp lại trong bộ phim tiểu sử làm về cuộc đời ông, \"The Pride of the Yankees\" (1942), với Gary Cooper vào vai Lou Gehrig. Câu thoại này đã được bình chọn ở vị trí 38 trong Danh sách 100 câu thoại đáng nhớ trong phim của Viện phim Mỹ.\nBối cảnh.\nNgày 4 tháng 7 năm 1939, sau một thời gian chịu đựng căn bệnh xơ cứng cơ bên (Amyotrophic lateral sclerosis, sau còn gọi là Bệnh Lou Gehrig), Lou Gehrig, huyền thoại bóng chày của đội New York Yankees, buộc phải chính thức chia tay sân đấu. Buổi lễ chia tay của ông được tổ chức tại Sân vận động Yankees chật cứng 61.808 khán giả đến để tạm biệt Gehrig. Sau khi đích thân thị trưởng New York Fiorello LaGuardia, quản lý đội Yankees Joe McCarthy đọc diễn văn ca ngợi, Lou được trao tặng một cúp lưu niệm bạc nhỏ trên đó có chữ ký của toàn đội Yankees và một bài thơ của John Kieran, nhà báo của tờ \"The New York Times\". Tiếp đó, một huyền thoại bóng chày khác là Babe Ruth đã giới thiệu Gehrig đọc bài diễn văn chia tay người hâm mộ nổi tiếng:\n\"Fans, for the past two weeks you have been reading about a bad break. Today, I consider myself the luckiest man on the face of the earth. I have been in ballparks for seventeen years and have never received anything but kindness and encouragement from you fans.<br><br>\n\"Look at these grand men. Which of you wouldn’t consider it the highlight of his career just to associate with them for even one day? Sure I’m lucky. Who wouldn’t consider it an honor to have known Jacob Ruppert? Also, the builder of baseball’s greatest empire, Ed Barrow? To have spent six years with that wonderful little fellow, Miller Huggins? Then to have spent the next nine years with that outstanding leader, that smart student of psychology, the best manager in baseball today, Joe McCarthy? Sure, I'm lucky.\"\n<br><br>\"When the New York Giants, a team you would give your right arm to beat, and vice versa, sends you a gift — that’s something. When everybody down to the groundskeepers and those boys in white coats remember you with trophies — that’s something. When you have a wonderful mother-in-law who takes sides with you in squabbles with her own daughter — that's something. When you have a father and a mother who work all their lives so that you can have an education and build your body — it's a blessing. When you have a wife who has been a tower of strength and shown more courage than you dreamed existed - that's the finest I know.\"\n<br><br>\"So I close in saying that I might have been given a bad break, but I've got an awful lot to live for. Thank you.\"\nSau khi Gehrig kết thúc bài diễn văn, đám đông khán giả đã đứng cả dậy và vỗ tay trong gần 2 phút, còn bản thân Lou thì bật khóc. Babe Ruth tới ôm lấy ông trong khi cả đội Yankees đồng thanh \"I Love You Truly\" (\"Tôi yêu quý anh\") còn đám đông thì la lớn \"We love you, Lou\" (\"Chúng tôi yêu quý anh, Lou\"), thời khắc này đã được \"The New York Times\" mô tả như là một trong những khoảnh khắc cảm động nhất trong lịch sử bóng chày. 2 năm sau khi từ giã sự nghiệp, Lou qua đời ở tuổi 37 ngày 2 tháng 6 năm 1941.\nKhác biệt giữa diễn văn và phim.\nTrong bộ phim \"The Pride of the Yankees\" (1942), Gary Cooper là người vào vai Lou Gehrig. Cảnh chia tay được lặp lại tương tự như buổi lễ diễn ra 3 năm trước đó, và câu nói đáng nhớ của Gehrig cũng được lặp lại, tuy nhiên đoạn diễn văn có thay đổi nội dung và \"Today, I consider myself the luckiest man on the face of the earth.\" được chuyển xuống cuối cùng:\nTạm dịch:\nCâu thoại này đã được bình chọn ở vị trí 38 trong Danh sách 100 câu thoại đáng nhớ trong phim của Viện phim Mỹ.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Alasmidonta marginata from the encyclopedia?, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Alasmidonta marginata, tên tiếng Anh: \"elktoe\", là một loài trai nước ngọt, là động vật thân mềm hai mảnh vỏ sống dưới nước thuộc họ Unionidae.\nPhân bố.\nLoài này có ở Bắc Mỹ.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về J-Melo từ bách khoa toàn thư nha ?", "role": "user" }, { "content": "J-Melo là một chương trình truyền hình âm nhạc được phát sóng hàng tuần do NHK sản xuất. Chương trình được phát sóng trên kênh NHK World và hoàn toàn sử dụng tiếng Anh. Chương trình bắt đầu được lên sóng từ ngày 7 tháng 10 năm 2005.\nLịch sử và chương tình.\nNgười dẫn chương trình đầu tiên là Takematsu Mai, một nhạc công đàn hạc người Nhật. Tên gọi chương trình, \"J-Melo\" xuất phát từ, \"Japan\" [Nhật Bản], \"Melody\" [giai điệu], và \"Mellow\" [êm dịu hay vui vẻ]. Đây là chương trình về âm nhạc Nhật Bản đầu tiên của NHK được thể hiện hoàn toàn bằng tiếng Anh và được truyền đi khắp thế giới thông qua kênh truyền hình quốc tế của đài là NHK World. Ngoài ra, chương trình cũng được trình chiếu trên một số kênh truyền hình tại Nhật Bản với phụ đề bằng tiếng Nhật. Vào tháng 3 năm 2007, Takematsu Mai đã rút khỏi chương trình để ưu tiên cho nghề nghiệp y khoa của cô, vào tháng 4 năm 2007, chương trình có người dẫ mới với nghệ danh là melody. Cô đảm nhận vị trí này cho đến tháng 9 năm 2008 và người kế tiếp cô là May J.. Người dẫn mới của J-Melo đã ra mắt vào tháng 10 năm 2008, cùng với May J. còn có Shanti cũng có mặt trong chương trình, ngoài ra website của chương trình cũng được cấp nhật thường xuyên hơn và một bảng xếp hạng mở cũng đã xuất hiện. Sau đó, chương trình lần đầu tiên xuất hiện hai người dẫn chương trình cùng một lúc với sự góp mặt của Enka, một nghệ sĩ nhạc cổ điển của Nhật Bản. Bên cạnh việc trình chiếu các ca khúc, chường tình cũng thực hiện các buổi phỏng vấn hay phóng sự về các nghệ sĩ.\nPhân đoạn.\nJ-Melo xây dựng chương trình theo các đề tài khác nhau mỗi tuần, và hầu hết các bản nhạc tập trung vào chủ đề đó. Các chủ đề có thể được nói đến như \"\"Summer Favorites\" [Mùa hè thú vị], \"Musicians from Okinawa\" [Nhạc sĩ đến từ Okinawa] hay \"Summer Rock Festivals\"\" [Lễ hội nhạc Rock Mùa hè]. Trong các tháng, chương trình cũng phát các só đặc biệt, khi đó khán giả có thể gửi yêu cầu về âm nhạc thông qua website của J-Melo.\nThư điện tử đặc biệt.\nVào tháng 12 năm 2007, chương tình bắt đầu cho hoạt động một địa chỉ thư điện tử đặc biệt. Nó sẽ đếm lùi các quốc gia mà chương trình nhận được nhiều thư nhất cũng như những nghệ sĩ được yêu cầu nhiều nhất.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Natica fulminea, bạn có thông tin nó ?", "role": "user" }, { "content": "Natica fulminea là một loài ốc biển săn mồi, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Naticidae, họ ốc mặt trăng.", "role": "assistant" } ]