text
stringlengths
1
2.91k
bàng quang tiết niệu của chuột lang và chuột lang Dạ dày chuột và túi mật của chuột lang Bốn cơ quan biệt lập có độ nhạy cao với bomesin được sử dụng để mô tả đặc điểm của thụ thể bomesin ở các cơ quan ngoại vi. Thứ tự hiệu lực của chất chủ vận được xác định bằng một số MMP xuất hiện tự nhiên của dòng bomesin là bomesin bbs litorin thắp sáng NB nmb peptide giải phóng gastrin grp Neuromedin c nmc và với một số mảnh Bombesin, người ta phát hiện ra rằng Bombesin NMC litorin và hai mảnh Bombesin bbs và acbbs có MIC tương tự trong bốn S9 trong khi NB và pheneuromedin c hoạt động mạnh hơn trên bàng quang của chuột so với trên các mô khác, thứ tự hiệu lực của chất chủ vận được xác định trong bàng quang tiết niệu của chuột như sau bbs nmb lớn hơn lit lớn hơn nmc lớn hơn phenmc grp và nó được phát hiện là khác với hiệu lực được quan sát thấy ở S9 bbs khác lớn hơn grp lit lớn hơn hoặc bằng nmc lớn hơn nhiều so với nmb lớn hơn phenmc cho thấy sự tồn tại của hai thụ thể Bombesin khác nhau bbs và bbs. Cách giải thích này được củng cố bằng phát hiện rằng các chất đối kháng Bombesin là acgrpoch và acgrpoch đã làm giảm hoặc ngăn chặn tác động của MMP liên quan đến bomesin lên thụ thể bbs trong khi hoàn toàn không hoạt động trên hệ thống bbs chuột
trẻ em mắc chứng rối loạn tăng động giảm chú ý adhd có khối lượng tổng thể chất não và các vùng dưới vỏ não nhỏ hơn nhưng không rõ liệu những điều này biểu hiện sự trưởng thành chậm hay tồn tại đến tuổi trưởng thành. Ngoài ra, chúng tôi đã nghiên cứu tác động của điều trị kích thích giới tính và PH của trầm cảm L1 mdd không có tác dụng chính nào của adhd đối với các phép đo thể tích cũng như không có bất kỳ tác động nào được quan sát thấy trong phân tích AA VBM vbm của toàn bộ BB, tuy nhiên trong phân tích thể tích, giới tính đáng kể theo tương tác chẩn đoán đã được tìm thấy đối với thể tích Cd, bệnh nhân nam cho thấy thể tích Cd bên phải giảm so với đối chứng nam và thể tích đuôi tương quan với các triệu chứng tăng động, hơn nữa bệnh nhân sử dụng điều trị bằng chất kích thích có thể tích hồi hải mã bên phải nhỏ hơn so với bệnh nhân chưa dùng thuốc và đối chứng bệnh nhân adhd có mdd trước đó cho thấy thể tích hồi hải mã nhỏ hơn so với bệnh nhân adhd không có mdd trong khi những dữ liệu này được lấy trong một mẫu cắt ngang và cần được sao chép theo chiều dọc T0. thể tích ở bệnh nhân nam có thể chỉ ra sự thiếu hụt sinh học thần kinh rõ rệt tiềm ẩn ở adhd ở cả hai giới thể tích hồi hải mã nhỏ hơn ở bệnh nhân adhd có mdd trước đó phù hợp với những thay đổi sinh học thần kinh được quan sát thấy ở mdd
Công dụng thuốc Acyclolife Acyclolife có thành phần chính là Aceclofenac 100mg, thuộc nhóm thuốc giảm đau, hạ sốt. Thuốc được chỉ định trong việc giảm đau kháng viêm nguyên nhân do đau răng, viêm khớp. 1. Acyclolife là thuốc gì? Thuốc được bác sĩ khuyến cáo sử dụng để làm giảm đau và viêm nguyên nhân do viêm xương khớp, viêm khớp dạng thấp và viêm đốt sống dạng thấp.Chống chỉ định thuốc với các trường hợp sau:Bệnh nhân bị dị ứng với thành phần Aceclofenac hoặc mẫn cảm bất kỳ thành phần nào của thuốc. Các thuốc thuốc nhóm NSAID chống chỉ định sử dụng cho bệnh nhân đã có tiền sử bị phản ứng quá mẫn với các thuốc như thuốc ibuprofen, aspirin hoặc các thuốc khác thuộc nhóm chống viêm không steroid.Không dùng cho bệnh nhân bị bệnh suy gan và tim nặng. Thuốc cũng không dùng cho bệnh nhân bị suy thận vừa đến nặng.Phụ nữ mang thai đang trong thời gian tam cá nguyệt thứ 3 ( 3 tháng cuối thai kỳ).Loét dạ dày, loét tá tràng, tiền sử chảy máu hoặc thủng đường tiêu hóa trên có liên quan với việc điều trị với thuốc NSAID.Không sử dụng đồng thời với thuốc Acyclolife với các thuốc ức chế đặc hiệu cyclooxygenase 2. 2. Liều lượng và cách dùng 2.1. Cách dùng. Thuốc được bào chế dưới dạng viên nén và sử dụng qua đường uống. Để thuốc phát huy công dụng tối đa người bệnh nên uống 1 viên không nên nhai hoặc hòa tan thuốc trước khi dùng. Thời gian uống thuốc tốt nhất trong lúc ăn hoặc sau khi ăn.2.2. Liều lượngĐối với người lớn: Liều khuyến cáo là 200 mg mỗi ngày, chia uống làm 2 lần, một viên buổi sáng và một viên buổi chiều.Đối với trẻ em: Chưa có dữ liệu lâm sàng về việc sử dụng thuốc Aceclofenac cho người bệnh là trẻ em, Bác sĩ khuyến cáo không dùng thuốc này cho trẻ em.Đối với người cao tuổi: Sử dụng liều thông thường như trên, do
dược động học của Aceclofenac không thay đổi ở bệnh nhân cao tuổi, do đó không cần phải thay đổi liều lượng thuốc.Suy thận: Không cần phải thay đổi liều lượng của Aceclofenac.Suy gan: Cần phải giảm liều Aceclofenac ở bệnh nhân suy gan và liều lượng có thể dùng một liều hàng là 100 mg trong thời gian đầu điều trị.Lưu ý: Acyclolife có thể dùng cho người cao tuổi, thông thường với các thuốc thuộc nhóm thuốc chống viêm không steroid, khi áp dụng liều lượng cho bệnh nhân cao tuổi, người bệnh cần phải thận trọng vì nguy cơ gây ra một số tác dụng không mong muốn như gây suy giảm chức năng thận, tim mạch hoặc gan. Trong trường hợp cần phải dùng thuốc thì sẽ được khuyến cáo dùng với liều thấp nhất và sử dụng trong thời gian ngắn nhất. Hơn nữa trong quá trình điều trị, phải theo dõi thường xuyên về các phản ứng có thể xảy ra như chảy máu đường tiêu hóa.Các triệu chứng quá liều của thuốc bao gồm: Nhức đầu, buồn nôn, nôn, đau thượng vị, chảy máu đường tiêu hóa... Một số trường hợp sử dụng quá liều lượng thuốc sẽ gặp phản ứng nặng hơn như ngộ độc nặng, suy thận cấp và tổn thương gan có thể xảy ra.Khi đó, bệnh nhân sẽ được điều trị theo triệu chứng gặp phải. Trong vòng một giờ sau khi uống lượng thuốc có khả năng gây độc, có thể xem xét việc dùng than hoạt để loại bỏ độc tố ra khỏi cơ thể. Hoặc ở người lớn, có thể chỉ định bằng việc rửa dạ dày nếu có nguy cơ đe dọa tính mạng.Bệnh nhân cần lưu ý đến các yếu tố sau:Cần theo dõi chặt chẽ các chức năng gan và thận.Phải theo dõi cơ thể trong ít nhất 4 giờ sau khi uống lượng thuốc có khả năng gây độc.Điều trị các cơn co giật bằng thuốc diazepam tiêm tĩnh mạch.Bác sĩ có thể chỉ định các biện pháp khác tùy theo tình
trạng lâm sàng của bệnh nhân.Các liệu pháp thường xuyên sử dụng như thẩm tách hoặc truyền máu có thể không giúp thải trừ thuốc NSAID. 3. Tác dụng phụ Đa số các phản ứng phụ không mong muốn của thuốc có thể hồi phục nhanh chóng và ít xảy ra nghiêm trọng.Một số phản ứng thường gặp như rối loạn tiêu hóa, khó tiêu; đau bụng, buồn nôn và tiêu chảy và đôi khi gặp triệu chứng chóng mặt.Ảnh hưởng về da bao gồm biểu hiện ngứa và các mức độ khác thường của enzym gan và creatinin huyết thanh .Ảnh hưởng về huyết học như thiếu máu không tái tạo. Một số phản ứng khác như ù tai, nhạy cảm ánh sáng, làm tăng nguy cơ mắc bệnh viêm ruột kết và bệnh crohn, phù mạch, viêm màng não lympho bào lành tính (đặc biệt hay gặp ở bệnh nhân đang có rối loạn về miễn dịch, bệnh mô liên kết hỗn tạp)... 4. Tương tác thuốc Khi sử dụng đồng thời với các thuốc lợi tiểu tiết kiệm kali, cần phải theo đối nồng độ kali trong huyết thanh do thuốc lợi tiểu có thể làm tăng nguy cơ độc tính với thận.Thuốc chống đông: Tương tự như các thuốc thuộc nhóm NSAID khác, Aceclofenae có thể làm tăng hoạt tính của thuốc chống đông như warfarin. Do vậy, người bệnh cần được theo dõi chặt chẽ về sức khỏe trong thời gian sử dụng Aceclofenac phối hợp với thuốc chống đông.Thuốc chống đái tháo đường: Các nghiên cứu lâm sàng đã chứng minh diclofenac dùng đồng thời với thuốc chống đái tháo đường sẽ không ảnh hưởng đến hiệu quả lâm sàng. Tuy vậy vẫn có trường hợp bệnh nhân bị hạ đường huyết và tăng đường huyết trong thời gian dùng thuốc Acyclolife. Do đó cần thay đổi liều lượng thuốc chống đái tháo đường khi cần thiết.Methotrexat: Nếu dùng Acyclolife với ethotrexat thì nên tách thời gian uống 2 loại thuốc trên, nên sử dụng cách nhau 24 giờ, vì thuốc thuộc nhóm NSAID
có thể làm tăng nồng độ methotrexat trong huyết tương.Mifepriston: Thuốc Acyclolife không được dùng trong khoảng thời gian 8 -12 ngày sau khi sử dụng mifepriston vì thuốc NSAID có thể làm giảm tác dụng của mifepriston.Ciclosporin: Làm tăng độc tính ảnh hưởng với thận của thuốc ciclosporin.Thuốc kháng vi sinh vật quinolon: Tương tác giữa các thuốc nhóm quinolon và thuốc NSAID gây phản ứng co giật, thường xảy ra ở bệnh nhân có tiền sử về động kinh hoặc co giật.Các thuốc giảm đau khác: Tránh việc dùng đồng thời hai hoặc nhiều hơn thuốc NSAID (kể cả aspirin) nó làm tăng nguy cơ các tác dụng không mong muốn.Thuốc chống tăng huyết áp: Làm giảm tác dụng chống tăng huyết áp.Corticosteroid: Làm tăng phản ứng phụ gây nguy cơ chảy máu đường tiêu hóa.Tacrolimus: Làm tăng độc tính trên thận khi dùng đồng thời với thuốc thuộc nhóm NSAID với tacrolimus. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng My. Vinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.
Triệu chứng thoái hóa cột sống theo từng vị tríTriệu chứng thoái hóa cột sống thường gặp là đau nhức xương khớp. Tùy thuộc vào các vị trí nhất định, người bệnh sẽ có biểu hiện và cảm nhận không giống nhau. Khi xuất hiện các triệu chứng nghi ngờ thoái hóa, người bệnh nên chủ động thăm khám sớm để được điều trị kịp thời. Triệu chứng thoái hóa cột sống thường gặp là đau nhức xương khớp. Tùy thuộc vào các vị trí nhất định, người bệnh sẽ có biểu hiện và cảm nhận không giống nhau. Khi xuất hiện các triệu chứng nghi ngờ thoái hóa, người bệnh nên chủ động thăm khám sớm để được điều trị kịp thời. 1. Thoái hóa cột sống là gì? Thoái hóa đốt sống là tình trạng lớp sụn khớp bị hao mòn dần dần, trong quá trình hoạt động thể chất, các đầu đốt sống sẽ cọ xát trực tiếp vào nhau gây viêm nhiễm, dẫn đến màng hoạt dịch sưng tấy và dịch khớp bị khô do dịch khớp bị hạn chế. bài tiết. Ngoài ra, ma sát ở các đầu xương cũng góp phần hình thành các gai xương tại đây. Các gai xương phát triển quá mức cọ sát vào đốt sống, rễ thần kinh và các mô mềm xung quanh. Thoái hóa đốt sống là tình trạng lớp sụn khớp bị hao mòn dần dần, cọ xát vào nhau gây viêm nhiễm. 2. Triệu chứng thoái hóa cột sống theo vị trí khởi phát Hầu hết bệnh nhân đều cảm thấy đau và khó chịu. Cơn đau ở mỗi trường hợp sẽ khác nhau tùy theo vị trí đốt sống bị thoái hóa, cụ thể như: 2.1. Triệu chứng thoái hóa cột sống thắt lưng cần lưu ý Triệu chứng của bệnh ở giai đoạn này không rõ ràng, thường chỉ đau nhẹ hoặc không đau, chỉ có cảm giác đau nhẹ ở lưng, do sụn khớp mới bắt đầu có dấu hiệu bào mòn nên rất dễ nhầm lẫn với bệnh đau lưng đơn
thuần. nỗi đau. Vì vậy, có xu hướng chủ quan hướng tới các giai đoạn bệnh nặng hơn. Tiếp theo là cơn đau xuất hiện dưới dạng đau âm ỉ, đau khi làm việc và biến mất khi nghỉ ngơi, đặc biệt là khi nằm trên sàn cứng (nệm cứng). Đồng thời có dấu hiệu giảm khả năng vận động, thường xuyên bị đau nhức, khó chịu khi mang vác vật nặng. Khi thức dậy vào buổi sáng, bệnh nhân có thể cảm thấy cứng khớp và đôi khi có tiếng kêu lách cách khi di chuyển, xoay người. Đau thắt lưng có thể kéo dài nhiều ngày, cường độ đau tăng dần khi cử động và giảm dần khi bệnh nhân nằm ngửa trên sàn cứng (nệm cứng). Về sau cơn đau kéo dài hơn trước, lan xuống mông, cẳng chân và mõm bàn chân do thoát vị đĩa đệm chèn ép dây thần kinh tọa. Triệu chứng rõ ràng nhất là đau thắt lưng, lan xuống hông và chi dưới khiến người bệnh không thể cúi người xuống, khiến người bệnh mất thăng bằng, đi lại khó khăn, thậm chí có thể bị tàn tật. 2.2. Triệu chứng thoái hóa cột sống cổ thường gặp Đau, mệt mỏi và khó cử động cổ là những triệu chứng điển hình nhất. Hầu hết bệnh nhân thoái hóa đốt sống cổ đều cảm thấy đau nhói, khó chịu khi cử động, ngay cả khi nghỉ ngơi. Cử động của cổ trở nên rối rắm và đau đớn, đôi khi dẫn đến chứng vẹo cổ. Đau cổ và lưng lan đến tai và cổ, ảnh hưởng đến tư thế đầu và cổ. Cơn đau lan lên đầu. Nhức đầu có thể xảy ra ở vùng chẩm và trán. Đau cổ và lưng lan đến một hoặc cả hai bả vai và cánh tay. cả hai mặt. Đau, mệt mỏi và khó cử động cổ là những triệu chứng điển hình nhất Do cột sống bị chèn ép và thoái hóa sụn khớp nên thoái hóa đốt sống cổ ảnh hưởng trực
tiếp đến dây thần kinh vận động của bàn tay. Bệnh làm hạn chế khả năng vận động của bàn tay, khiến bàn tay khó cảm thấy nóng hoặc lạnh, thậm chí có thể dẫn đến suy nhược nếu không được điều trị kịp thời. Bệnh nhân có thể bị cứng cổ khi thức dậy vào buổi sáng. Ngoài ra, bệnh nhân còn cảm thấy đau nhức vùng gáy, sau đầu, nửa đầu bên phải khiến bệnh nhân khó quay đầu sang hai bên. Dấu hiệu này còn được gọi là triệu chứng của bệnh đa xơ cứng cột sống cổ: Khi bệnh thoái hóa đốt sống cổ ở mức độ nặng, người bệnh có thể phải đối mặt với tình trạng thoái hóa bệnh đa xơ cứng rất nguy hiểm. Lúc này, người bệnh sẽ cảm nhận được một dòng điện chạy từ cổ xuống cột sống rồi đến tay, chân, ngón tay, ngón chân. Biểu hiện này rõ rệt hơn khi bệnh nhân cúi cổ về phía trước. 2.3. Nhận biết triệu chứng thoái hóa cột sống ngực Trên thực tế, các triệu chứng của bệnh thoái hóa đốt sống ngực không phải lúc nào cũng rõ ràng. Tuy nhiên, hầu hết bệnh nhân đều cảm thấy đau và cứng lưng dai dẳng, đặc biệt là ở vùng giữa lưng. Cơn đau thường giảm đi khi bệnh nhân nghỉ ngơi nhưng có thể trở nên trầm trọng hơn nếu bệnh nhân không hoạt động trong thời gian dài. Không những vậy, người bệnh còn có thể gặp phải các triệu chứng thoái hóa cột sống ngực khác như: – Co thắt cơ lưng giữa – Thay đổi tư thế bất thường khi bị đau lưng – Không thể di chuyển – Gặp khó khăn hoặc thậm chí là không thể thực hiện được một các động tác như ngả người, xoay thân trên hay đứng thẳng. – Sưng khớp cục bộ 2.4. Một số triệu chứng khác Mặt khác, cơn đau liên quan đến bệnh thoái hóa cột sống cũng có một số đặc điểm chung, chẳng hạn
như: – Cơn đau có xu hướng trầm trọng hơn khi bệnh nhân di chuyển (đặc biệt là vặn, uốn, nâng, v.v.) và giảm dần khi nghỉ ngơi. – Nếu người bệnh nằm nghỉ quá lâu cơn đau sẽ quay trở lại. 3. Chẩn đoán sau khi xác định triệu chứng Sau khi xác định các triệu chứng, để chẩn đoán chính xác tình trạng thoái hóa cột sống, bác sĩ sẽ kiểm tra các triệu chứng hiện tại của bệnh nhân và thực hiện các xét nghiệm sau: – Chụp X-quang: Giúp kiểm tra khoảng trống khớp, tình trạng đĩa đệm và sự hiện diện của gai xương Chụp X-quang giúp kiểm tra khoảng trống khớp, tình trạng đĩa đệm và sự hiện diện của gai xương. – Chụp CT: Cung cấp hình ảnh chi tiết hơn về cột sống, đĩa đệm và gai xương so với chụp X-quang – Chụp MRI: giúp bác sĩ quan sát được các mô mềm, bao gồm cơ, đĩa đệm, dây chằng và gân – Chụp cắt lớp vi tính một lần (SPECT): thường kết hợp với chụp CT để xác định chính xác vị trí tổn thương ở cột sống – Xét nghiệm máu toàn diện
Hướng dẫn mẹ cách trị cảm lạnh cho trẻ nhỏ và những điều cần lưu ý Cảm lạnh là một trong những bệnh lý thường gặp ở trẻ nhỏ, đặc biệt là vào mùa lạnh hoặc khi thời tiết thay đổi thất thường. Cách điều trị bệnh này cho trẻ nhỏ khá đơn giản. Bên cạnh đó, mẹ cũng cần lưu ý một vài biện pháp phòng ngừa bị cảm do lạnh hiệu quả để bé yêu luôn khỏe mạnh. 1. Thế nào là cảm lạnh? cảm lạnh, hay còn gọi là cúm, là bệnh gây ra bởi 1 trong hơn 200 loại virus khác nhau, trong đó loại virus phổ biến nhất chính là Rhinovirus. Vì là bệnh lý do virus gây ra nên việc sử dụng kháng sinh để điều trị là không hiệu quả. Đối những trẻ có thể trạng khỏe mạnh mà bị cảm lạnh thì có thể không cần đến bác sĩ mà sẽ tự khỏi sau vài ngày. Tuy nhiên, với những trường hợp trẻ có sức đề kháng và hệ miễn dịch yếu thì cần được điều trị kịp thời để tránh dẫn đến biến chứng không mong muốn. Trẻ bị cảm do lạnh thường xuất hiện các dấu hiệu như sau: - Hắt xì hơi nhiều. - Sổ mũi. - Chảy nước mắt. - Ngứa, đau họng. - Ho. - Cơ thể khó chịu, mệt mỏi. - Sốt (có thể có hoặc không). - Có thể nôn mửa hoặc tiêu chảy. Trong một năm, trẻ có thể bị cảm do lạnh nhiều lần, đặc biệt là trong mùa lạnh hoặc khi thời tiết thay đổi thất thường. 2. Cảm lạnh có thể dẫn đến những biến chứng gì? Khi trẻ bị cảm do lạnh, trong nhiều trường hợp có thể gặp phải những biến chứng như: Viêm họng: trẻ từ 6 - 15 tháng tuổi bị cảm do lạnh có thể dẫn đến viêm họng với những dấu hiệu cảnh báo như sưng họng đỏ amidan, đau họng, vùng vòm họng xuất hiện những nốt đỏ,... Viêm tai cấp tính: đây là
một trong những biến chứng thường gặp của cảm lạnh nếu không được điều trị đúng cách và kịp thời. Viêm xoang: khi trẻ bị cảm do lạnh có thể gặp phải tình trạng tắc nghẽn xoang mũi, điều này khiến virus có điều kiện phát triển và dẫn tới nhiễm trùng xoang mũi, viêm xoang. Viêm phổi: đây là dạng biến chứng tương đối nguy hiểm. Do đó, nếu trẻ có bất kỳ triệu chứng nào như sốt cao, thở nhanh, ho nhiều,... thì nên đưa trẻ đến bác sĩ ngay để được chẩn đoán và điều trị. 3. Điều trị cảm lạnh cho trẻ: Nên làm thế nào? 3.1. Cho trẻ nghỉ ngơi Thông thường khi bị cảm, cơ thể trẻ luôn trong trạng thái mệt mỏi, khó chịu do đó rất cần được nghỉ ngơi. Nếu trẻ đang trong độ tuổi đi học thì mẹ nên cho trẻ nghỉ học vài hôm để nghỉ ngơi, đồng thời cũng hạn chế việc lây lan virus cảm lạnh cho các bạn. 3.2. Cải thiện các triệu chứng, hạ sốt Nếu trẻ chỉ sốt nhẹ (dưới 38 độ C) thì không cần thiết phải sử dụng đến thuốc hạ sốt. Trường hợp trẻ sốt cao hoặc rất cao thì cha mẹ cần lưu ý không được tự ý chọn thuốc kháng sinh mà cần đưa trẻ đến các cơ sở y tế để hạn chế tình trạng sốt cao dẫn đến co giật. Bên cạnh đó, mẹ cũng có thể giúp trẻ giảm ho bằng cách sử dụng bạc hà, mật ong hoặc chanh. Riêng với mật ong, chỉ an toàn khi sử dụng cho trẻ từ 2 tuổi trở lên. 3.3. Bổ sung nhiều nước cho trẻ Bổ sung nhiều nước cho trẻ và cho trẻ ăn các thức ăn dạng lỏng, dễ tiêu như súp, cháo,... Tuy nhiên, cần kiêng các loại đồ uống có ga. 3.4. Vệ sinh mũi cho trẻ Khi trẻ bị cảm lạnh, đôi khi sẽ gặp phải tình trạng nghẹt mũi hay khó thở, khi đó mẹ có thể sử dụng nước muối
sinh lý để vệ sinh mũi cho trẻ. Lưu ý không khuyến khích sử dụng thuốc thông mũi và thuốc xịt mũi cho trẻ em. Nhỏ từ 2 - 3 giọt nước muối sinh lý vào mỗi bên mũi của trẻ và để trong 5 phút. Sau đó, hút sạch mũi cho trẻ với dụng cụ hút mũi. Cuối cùng, nhỏ thêm 1 lần nữa nước muối sinh lý (2 - 3 giọt) để sát khuẩn. 3.5. Cho trẻ ngủ đủ giấc Trẻ cần được ngủ đủ giấc mỗi ngày để cơ thể có thể nhanh chóng phục hồi. Tùy thuộc vào độ tuổi nhưng thông thường trẻ cần ngủ từ ít nhất 8 - 12 tiếng mỗi đêm. 4. Các biện pháp phòng ngừa cảm lạnh ở trẻ nhỏ hiệu quả “Phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Cha mẹ nên tham khảo các biện pháp dưới đây để giúp trẻ phòng tránh được bệnh cảm do lạnh một cách hiệu quả nhất. 4.1. Giúp trẻ giữ vệ sinh sạch sẽ Cha mẹ nên nhắc nhở trẻ giữ vệ sinh sạch sẽ, rửa tay với xà phòng trước khi ăn hoặc sau khi hắt hơi. Điều này có thể giúp ngăn ngừa sự lây lan của bệnh và giúp trẻ luôn khỏe mạnh. 4.2. Hạn chế cho trẻ đến nơi đông người Virus cảm lạnh có thể dễ dàng lây lan qua không khí. Do đó, việc hạn chế đưa trẻ đến nơi đông người sẽ giúp phòng ngừa cảm do lạnh. Ngoài ra, virus cảm lạnh cũng có khả năng lây lan qua vật trung gian và có thể sống tồn tại trên vật trung gian trong vài tiếng. Vì vậy, cha mẹ cần nhắc nhở và tránh để trẻ động vào những vật dụng tại nơi công cộng như tay nắm cửa, lan can cầu thang,... 4.3. Chú ý theo dõi nhiệt độ cơ thể của trẻ Đây là điều quan trọng trong việc theo dõi sức khỏe của con. Khi thấy trẻ lạnh, mẹ cần nhanh chóng giúp con làm ấm cơ thể bằng cách mặc thêm áo
hoặc tăng nhiệt độ phòng. Trẻ không nên mặc quần áo quá mỏng hoặc quá dày. Đặc biệt khi đi ngủ, nếu mặc quần áo quá dày sẽ khiến bé đổ nhiều mồ hôi trộm và dễ bị cảm lạnh hơn. 4.4. Chú ý đến thông gió và độ ẩm trong phòng ngủ của trẻ Virus rất dễ thâm nhập khi niêm mạc mũi của trẻ bị khô. Do đó, độ ẩm hợp lý cần duy trì là ở mức 60%. Đồng thời, mẹ cũng không nên quá lạm dụng máy điều hòa bởi việc sử dụng điều hòa thường xuyên có thể khiến không khí bẩn và tạo điều kiện cho virus sinh sôi, phát triển. Vì vậy, mẹ nên mở cửa sổ để lưu thông không khí sau mỗi 3 giờ. Khi thời tiết đẹp, mẹ cũng nên cho trẻ ra ngoài để hít thở không khí ngoài trời nhiều hơn, giúp tăng cường sức đề kháng và hệ miễn dịch. 4.5. Chế độ dinh dưỡng Một trong những yếu tố quan trọng giúp ngăn ngừa cảm do lạnh hiệu quả ở trẻ chính là chế độ dinh dưỡng hợp lý. Để giúp trẻ có một cơ thể khỏe mạnh, mẹ nên cho trẻ ăn nhiều trái cây, rau xanh và các loại thực phẩm giàu vitamin C. Ngoài ra, mẹ cũng nên hạn chế cho trẻ uống hoặc ăn đồ để trong tủ lạnh.
có rất ít dữ liệu về PR sắt ở trẻ sơ sinh PT khỏe mạnh 24 nghiên cứu về cân bằng trao đổi chất đã được thực hiện ở trẻ PT giữa và ngày tuổi trong các trường hợp cân bằng được thực hiện d. lượng sắt đưa vào là mgkg ngày sd ít hơn mgkgd thường được khuyến nghị cho trẻ sinh non khả năng giữ sắt dương trong phần lớn các cân bằng đầu tiên và trong tất cả các cân bằng thứ hai, khả năng giữ sắt tăng đáng kể giữa hai cân bằng từ mgkgd sd đến sd sắt PR có liên quan đáng kể đến thời gian trẻ sơ sinh được cho ăn EN tại thời điểm cân bằng được thực hiện, lượng sắt lưu giữ lớn hơn đáng kể so với nhu cầu ước tính cần thiết để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng và mở rộng lượng sắt RCM đưa vào tuần hoàn khoảng mgkgd dường như đủ để hỗ trợ các yêu cầu tăng trưởng ở trẻ non tháng trong khoảng thời gian này nhưng thấp hơn đáng kể so với tốc độ tích tụ trong tử cung ước tính của thai nhi
Hỗ trợ điều trị ung thư vòm họng giai đoạn cuốiUng thư vòm họng giai đoạn cuối hay còn gọi là giai đoạn IV. Đây là giai đoạn các tế bào ung thư đã phát triển và di căn sang nhiều cơ quan khác nhau trong cơ thể. Chính vì thế, việc hỗ trợ điều trị ung thư vòm họng giai đoạn cuối cần phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau. Ung thư vòm họng giai đoạn cuối hay còn gọi là giai đoạn IV. Đây là giai đoạn các tế bào ung thư đã phát triển và di căn sang nhiều cơ quan khác nhau trong cơ thể. Chính vì thế, việc hỗ trợ điều trị ung thư vòm họng giai đoạn cuối cần phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau. 1. Các phương pháp điều trị ung thư vòm họng giai đoạn cuối Ở giai đoạn cuối, các tế bào ung thư đã di căn sang nhiều cơ quan khác nhau trong cơ thể như não, xương, hạch, phổi… Vì thế việc điều trị sẽ gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, thể trạng người bệnh yếu nên khó đáp ứng được phương pháp điều trị và hiệu quả cũng không cao. Ở giai đoạn cuối, phương pháp điều trị chính là hóa trị và xạ trị. Phương pháp phẫu thuật thường không được áp dụng bởi vùng họng hẹp gây khó khăn cho phẫu thuật. Ung thư vòm họng giai đoạn cuối chưa di căn xa có thể áp dụng phương pháp xạ trị. Bác sĩ sẽ chiếu tia có năng lượng cao vào vị trí có tế bào ung thư nhằm giảm kích thước, ngăn chặn và tiêu diệt hoàn toàn tế bào ung thư. Xạ trị và hóa trị là phương pháp thường được áp dụng trong điều trị ung thư vòm họng giai đoạn cuối Khi áp dụng phương pháp này, người bệnh có thể gặp phải một số tác dụng phụ như mệt mỏi, buồn nôn, tiêu chảy, khô miệng, chán ăn. Những triệu chứng này sẽ mất dần sau khi
kết thúc liệu trình điều trị xạ trị. Khi tế bào ung thư vòm họng giai đoạn cuối đã di căn thì hóa trị thường được ưu tiên sử dụng. Các loại thuốc hóa trị được tiêm vào cơ thể qua đường tĩnh mạch hoặc đường uống và truyền đi khắp cơ thể nhằm ngăn chặn, tiêu diệt các tế bào ung thư. Ở giai đoạn cuối, người bệnh ung thư vòm họng cần kết hợp các phương pháp điều trị với nhau. Bên cạnh đó, phương pháp chăm sóc giảm nhẹ sau điều trị cũng được áp dụng để giúp người bệnh thoải mái, giảm triệu chứng đau đớn và kéo dài cơ hội sống cho người bệnh. 2. Sau điều trị ung thư vòm họng giai đoạn cuối sống được bao lâu? Tỷ lệ sống sau điều trị ung thư vòm họng giai đoạn cuối phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như độ tuổi, tình trạng sức khỏe, mức độ di căn của bệnh trong cơ thể, phương pháp điều trị, khả năng đáp ứng với phương pháp điều trị… Ung thư vòm họng giai đoạn cuối tỷ lệ chữa khỏi không cao vì khối u đã phát triển to và di căn sang nhiều cơ quan khác nhau trong cơ thể. Nếu được chăm sóc và điều trị đúng cách sẽ giúp người bệnh kéo dài cơ hội sống. Cụ thể ở giai đoạn VI, tỷ lệ sống sau 5 năm của người bệnh là khoảng 38%. Tiên lượng sống của người bệnh ở giai đoạn cuối cũng có thể cao hơn tùy vào sức khỏe và tâm lý của mỗi người. Ngoài ra, tỷ lệ sống của người bệnh còn phụ thuộc vào phác đồ điều trị của bác sĩ. Nếu bác sĩ điều trị có trình độ chuyên môn giỏi, phác đồ chuẩn, phương pháp điều trị phù hợp sẽ giúp người bệnh kiểm soát và đẩy lùi sớm bệnh ra khỏi cơ thể. 3. Người bệnh ung thư vòm họng giai đoạn cuối cần lưu ý gì? Trong quá trình điều trị ung
thư vòm họng giai đoạn cuối, ngoài việc tuân thủ theo đúng phác đồ điều trị của bác sĩ, người bệnh cũng cần chú ý: Người bệnh cần chú ý áp dụng chế độ dinh dưỡng phù hợp, khoa học và tuân thủ theo đúng phương pháp điều trị của bác sĩ sẽ giúp kéo dài cơ hội sống Trên đây là những thông tin về điều trị ung thư vòm họng giai đoạn cuối: tỷ lệ sống và những lưu ý sau điều trị. Người bệnh cần giữ tinh thần lạc quan, vui vẻ và tin tưởng vào bác sĩ sẽ giúp tăng tỷ lệ chữa trị thành công.
Điều trị bệnh giãn phế quản sớm ngăn bệnh tiến triển nặngĐiều trị giãn phế quản giúp giảm triệu chứng và tiến triển bệnh, ngăn ngừa vòng luẩn quẩn nhiễm trùng tái phát và cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Điều trị giãn phế quản giúp giảm triệu chứng và tiến triển bệnh, ngăn ngừa vòng luẩn quẩn nhiễm trùng tái phát và cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. 1. Giãn phế quản là gì? Giãn phế quản (GPQ) đề cập đến tình trạng đường kính của một hoặc nhiều phế quản tăng liên tục, vĩnh viễn và không thể đảo ngược đến đường kính vượt quá 2 mm. Bệnh có đặc điểm là ho mãn tính, phế quản tiết nhiều đờm và các đợt cấp tính do nhiễm trùng tái phát. Bệnh gây ra do sự phá hủy thành phế quản do nhiễm trùng đường hô hấp mãn tính, sau một số bệnh nhiễm trùng phổi hoặc bệnh xơ nang bẩm sinh. Giãn phế quản (GPQ) là tình trạng đường kính của một hoặc nhiều phế quản tăng liên tục. 2. Triệu chứng giãn phế quản Các triệu chứng giãn phế quản chỉ xảy ra nếu bệnh nhân bị nhiễm trùng phổi nhiều lần. Khi khởi phát, bệnh tiến triển nhanh và có xu hướng nặng dần theo thời gian, trở thành bệnh mãn tính. Khi xuất hiện dấu hiệu giãn phế quản, người bệnh cần được xét nghiệm và điều trị sớm. Các triệu chứng người bệnh có thể gặp khi mắc bệnh giãn phế quản là: – Ho nhiều, ho có đờm đặc kéo dài. – Đờm có mủ màu vàng hoặc xanh, có thể lẫn máu. – Sản xuất đờm nặng hơn khi xảy ra bội nhiễm. – Không ho, ho khan kèm theo giãn phế quản. – Có dấu hiệu viêm đa xoang và tiến triển thành hội chứng xoang phế quản (một số trường hợp). 3. Biến chứng từ bệnh giãn phế quản Khi bệnh giãn phế quản lan rộng và kéo dài có thể gây ra những
biến chứng nguy hiểm như áp xe phổi, mủ màng phổi, xơ phổi, khí thũng, mủ phế quản, viêm mủ phổi… gây khó thở, suy hô hấp, suy hô hấp nặng, thậm chí ảnh hưởng đến chức năng tim và gây suy tim. – Suy hô hấp: Xảy ra khi phổi không thể cung cấp đủ oxy cho cơ thể ngay cả khi nghỉ ngơi. – Suy tim phải: Bệnh nhân thường khó thở, tình trạng ngày càng nặng hơn. – Viêm phổi tái phát. – Ho ra máu nặng, thậm chí có thể nguy hiểm đến tính mạng do cục máu đông lấp đầy đường hô hấp. 4. Điều trị giãn phế quản Tổn thương do giãn phế quản là không thể phục hồi, vì vậy mục tiêu điều trị là ngăn chặn hoặc làm chậm sự tiến triển của bệnh. 4.1. Biện pháp điều trị chung – Duy trì chế độ ăn uống và tập luyện lành mạnh, đảm bảo cung cấp đủ năng lượng. – Nếu người bệnh hút thuốc thì phải ngừng hút thuốc ngay và hỗ trợ các biện pháp cai thuốc lá. Bên cạnh đó cần tránh tiếp xúc với khói thuốc lá. – Tiêm vắc xin cúm và phế cầu khuẩn theo chỉ dẫn của bác sĩ chuyên khoa hô hấp. 4.2. Phương pháp tống đờm và phục hồi chức năng hô hấp – Hỏi bác sĩ chuyên khoa hô hấp để được hướng dẫn cách ho, khạc đờm, rung lồng ngực kết hợp dẫn lưu tư thế. Tùy theo vị trí vết thương mà chọn tư thế thích hợp, thường yêu cầu người bệnh nằm nghiêng để đờm và mủ trong phế quản có thể dễ dàng thoát ra ngoài. – Kết hợp vỗ ngực và lắc. Nên thực hiện 2-3 lần một ngày với số lượng tăng dần, mỗi lần 5-10-20 phút, trước bữa ăn.- Đây là phương pháp dẫn lưu đơn giản, có hiệu quả tốt và cần được người bệnh thực hiện thường xuyên hàng ngày ngay cả khi không có nhiễm trùng phế quản. – Soi phế quản
ống mềm nếu có, tiến hành hút dịch phế quản trong quá trình soi để làm xét nghiệm vi sinh vật, bơm rửa lòng phế quản, giải phóng đờm bít tắc. 4.3. Điều trị giãn phế quản với thuốc Nếu xuất hiện các triệu chứng của cơn cấp tính như ho có đờm xanh, đờm nhiều mủ, sốt, khó thở, ho ra máu… bạn nên đến gặp bác sĩ chuyên khoa ngay để có cách điều trị thích hợp. Giãn phế quản là kết quả của tổn thương đường hô hấp (phế quản). Thuốc giãn phế quản chủ yếu tác động lên cơ trơn phế quản, làm giảm co thắt ở các cơ này, từ đó cải thiện tình trạng khó thở. Thuốc giãn phế quản không làm tổn thương hoặc phá hủy cấu trúc của phế quản và do đó không gây giãn phế quản. Thuốc thậm chí có thể cải thiện các triệu chứng ở những người bị giãn phế quản bằng cách giảm co thắt phế quản và tăng thoát đờm. Sử dụng thuốc điều trị theo hướng dẫn của bác sĩ. 4.4. Phẫu thuật điều trị giãn phế quản Cắt thùy, thùy hoặc toàn bộ phổi được chỉ định trong trường hợp giãn phế quản cục bộ; giãn phế quản liên quan đến ho ra máu nặng hoặc tái phát. 5. Giãn phế quản chữa được không? Giãn phế quản là tình trạng cấu trúc của thành phế quản bị tổn thương khiến chúng dễ bị viêm và xẹp. Điều này đi kèm với việc giảm thông khí và giảm khả năng thải chất nhầy ra khỏi lòng phế quản. Sự tích tụ chất nhầy tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều loại vi khuẩn xâm nhập, cư trú tại phế quản và gây nhiễm trùng tái phát. Nhiễm trùng phế quản làm tình trạng giãn phế quản trở nên trầm trọng hơn và tạo thành một vòng xoáy bệnh lý. Giãn phế quản là tổn thương không thể phục hồi nhưng việc điều trị có thể giúp giảm triệu chứng, hạn chế chức năng hô
hấp và tiến triển bệnh. Điều trị giãn phế quản giúp kiểm soát bệnh và ngăn chặn chu kỳ nhiễm trùng tái phát. Trong một số trường hợp, bệnh nhân chỉ bị giãn phế quản ở một vùng phổi và phẫu thuật cắt bỏ phần phổi đó có thể chữa khỏi bệnh. Người bệnh nên thăm khám và điều trị cùng bác sĩ chuyên khoa. 6. Cách hiệu quả giúp phòng ngừa giãn phế quản Vì virus gây bệnh qua đường hô hấp nên bệnh có thể truyền từ người bệnh sang người khỏe mạnh. Ngăn chặn mầm bệnh giúp giảm nguy cơ mắc bệnh đồng thời tiết kiệm chi phí vì việc điều trị khá phức tạp và tốn kém. Một số biện pháp giúp phòng bệnh hiệu quả bao là: – Tiêm vắc xin phòng cúm, phế cầu mỗi năm. – Không hút thuốc lá, thuốc lào, tránh khói thuốc lá và môi trường nhiều khói bụi. – Vệ sinh cá nhân tai mũi họng, răng miệng sạch sẽ. – Điều trị sớm nếu mắc bệnh lý nhiễm khuẩn tai mũi họng, răng miệng, các bệnh đường hô hấp như viêm phế quản, áp xe phổi. – Tập luyện thể dục thể thao nhằm tăng sức đề kháng cho cơ thể, giữ ấm cổ, ngực… đề phòng các đợt bội nhiễm với những người bệnh có tiền sử mắc bệnh. – Đề phòng và lấy ra sớm các dị vật trong phế quản.
Hướng dẫn nhận biết và điều trị bệnh sởi ở trẻ nhỏSởi là bệnh truyền nhiễm cấp tính có thể ảnh hưởng đến cả người trưởng thành lẫn trẻ nhỏ. Tuy nhiên, với hệ miễn dịch chưa hoàn thiện, trẻ nhỏ là nhóm đối tượng dễ biến chứng khi mắc sởi hơn. Trong bài viết sau, Thu Cúc TCI xin hướng dẫn bố mẹ nhận biết và điều trị bệnh sởi ở trẻ nhỏ. Đây là những thông tin rất cần thiết để đảm bảo trẻ mắc sởi không biến chứng, đọc ngay bố mẹ nhé! 1. Do đâu mà trẻ bị sởi? Sởi là bệnh truyền nhiễm cấp tính, phát sinh do Measles virus. Measles virus thuộc giống Morbillivirus của họ Paramyxoviridae. Đây là loại virus lây từ người sang người chủ yếu thông qua giọt bắn mũi, miệng mà người bệnh giải phóng ra không khí khi ho hoặc hắt hơi. Measles virus thuộc giống Morbillivirus của họ Paramyxoviridae. 2. Dấu hiệu nhận biết trẻ bị sởi là gì? Bệnh sởi ở trẻ em có thể được nhận biết bằng một loạt các dấu hiệu. Dưới đây là các dấu hiệu nhận biết phổ biến của sởi: – Sốt cao (từ 39 độ C): Khi nhiễm Measles virus và phát sinh sởi, trẻ thường sốt. Đây là một trong những dấu hiệu đầu tiên của bệnh truyền nhiễm cấp tính này. – Ho và sổ mũi: Sởi thường đi kèm với ho và sổ mũi, giống như các bệnh truyền nhiễm cấp tính khác là cúm, tay chân miệng, thủy đậu…. – Phát ban: Một trong những dấu hiệu quan trọng nhất có thể được sử dụng để nhận biết sởi là các ban, xuất hiện sau một vài ngày kể từ khi trẻ bắt đầu sốt. Các ban này mọc trên mặt rồi lan xuống cơ thể. Chúng mịn, không nổi trên bề mặt da như các tổn thương da tay chân miệng hay thủy đậu. – Chảy nước mắt, đau mắt, nhức mắt: Sởi có thể kích thích mắt, làm cho mắt chảy nước, đau và
nhức. – Sưng tai, đau tai: Một số trẻ có thể có dấu hiệu sưng tai, đau tai. – Mệt mỏi: Trẻ có thể uể oải, mệt mỏi, kém linh hoạt do sởi. 3. Bệnh truyền nhiễm cấp tính sởi có nguy hiểm không? Sởi có nguy hiểm. Bệnh truyền nhiễm cấp tính này có thể gây ra nhiều biến chứng nghiêm trọng ở trẻ nhỏ. Dưới đây là một số biến chứng phổ biến của sởi: – Viêm phổi (Pneumonia trong tiếng Anh): Viêm phổi là một trong những biến chứng nghiêm trọng của sởi, có thể gây tử vong ở trẻ nhỏ. – Nhiễm trùng đường hô hấp trên (Tracheobronchitis trong tiếng Anh): Sởi có thể gây nhiễm trùng đường hô hấp trên, tạo điều kiện cho các vấn đề hô hấp nguy hiểm như suy hô hấp xuất hiện. – Viêm tai giữa (Otitis media trong tiếng Anh): Sởi có thể dẫn đến viêm tai giữa, đặc biệt là ở trẻ nhỏ. – Viêm kết mạc (Conjunctivitis trong tiếng Anh): Sởi cũng có thể gây viêm kết mạc. – Viêm não (Encephalitis trong tiếng Anh): Một trong những biến chứng nghiêm trọng nhất của sởi là viêm não, có thể dẫn đến tử vong hoặc gây ra các tác động tiêu cực lâu dài đối với chức năng não. Sởi có thể biến chứng đến viêm phổi. 4. Điều trị sởi cho trẻ như thế nào? Hiện tại, chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu cho bệnh truyền nhiễm cấp tính sởi. Điều trị sởi chủ yếu là tập trung hạn chế triệu chứng, hỗ trợ cơ thể trẻ trong quá trình tự phục hồi. Dưới đây là một số lưu ý quan trọng trong điều trị sởi ở trẻ nhỏ: 4.1. Điều trị triệu chứng bệnh sởi ở trẻ nhỏ dùng thuốc – Hạ sốt, giảm đau: Sử dụng các thuốc hạ sốt như paracetamol hay còn gọi là acetaminophen theo hướng dẫn của bác sĩ để hạ sốt, giảm đau. – Điều trị các triệu chứng khác: Các triệu chứng khác như ho, sổ
mũi… có thể được điều trị bằng các thuốc long đờm, siro ho… 4.2. Điều trị triệu chứng bệnh sởi ở trẻ nhỏ không dùng thuốc – Nghỉ ngơi: Trẻ cần được nghỉ ngơi đầy đủ để giúp cơ thể “chiến đấu” chống lại virus và phục hồi. – Dinh dưỡng và nước: Bảo đảm trẻ được cung cấp đủ nước và dinh dưỡng. Tránh cho trẻ tiêu thụ thức ăn nhiều gia vị và thức ăn khó tiêu. 5. Dự phòng sởi ra sao cho hiệu quả? Để dự phòng bệnh truyền nhiễm cấp tính sởi cho trẻ, quan trọng nhất là bố mẹ phải tiêm vắc xin và thực hiện các biện pháp hạn chế nguy cơ phát tán Measles virus trong cộng đồng. Cụ thể, dưới đây là một số biện pháp chi tiết để bảo vệ trẻ trước bệnh truyền nhiễm cấp tính này: – Tiêm vắc xin: Tiêm vắc xin là biện pháp dự phòng bệnh truyền nhiễm cấp tính sởi hiệu quả nhất (dự phòng trên 95% nguy cơ). Tại Việt Nam, vắc xin sởi đã được đưa vào chương trình tiêm chủng mở rộng cho trẻ nhỏ. Tiêm đúng liều, tiêm đúng thời điểm theo lịch là rất quan trọng để đảm bảo hiệu quả dự phòng bệnh truyền nhiễm cấp tính sởi. – Không cho trẻ tiếp xúc với người bệnh: Không cho trẻ tiếp xúc với người bệnh là một biện pháp quan trọng để giảm nguy cơ mắc bệnh. Nếu trẻ tiếp xúc với người bệnh hoặc người có triệu chứng bệnh, bố mẹ hãy trao đổi với bác sĩ. – Giữ vệ sinh cá nhân cho trẻ: Giáo dục trẻ về các quy tắc vệ sinh cá nhân, bao gồm cách rửa tay và quy tắc không chạm tay lên mắt, mũi, miệng khi tay chưa được rửa. Hướng dẫn trẻ cách rửa tay đúng đắn. – Cách ly nếu trẻ có triệu chứng sởi: Nếu trẻ có các triệu chứng sởi như sốt hoặc phát ban, bố mẹ hãy cách ly trẻ để ngăn chặn sự lây lan
của Measles virus. Như vậy, bài viết đã hướng dẫn nhận biết và điều trị bệnh sởi ở trẻ nhỏ. Theo đó, nếu trẻ có các triệu chứng sốt, ho, chảy mũi, phát ban…, bố mẹ nên nghĩ đến việc trẻ đã nhiễm Measles virus và phát sinh sởi. Sởi có thể biến chứng và biến chứng nguy hiểm nhất của sởi là viêm não, có thể khiến trẻ tử vong. Hiện tại, sởi chưa có phương pháp điều tri đặc hiệu. Điều trị sởi chủ yếu là hạn chế triệu chứng.
Dấu hiệu ung thư vòm họng vùng đầu – mặt – cổUng thư vòm họng là bệnh đứng đầu trong các loại ung thư vùng đầu – mặt – cổ, diến tiến nhanh và có thể gây tử vong cao nếu không điều trị sớm. Thông qua những dấu hiệu ung thư vòm họng sau đây chúng ta sẽ phát hiện và điều trị kịp thời bệnh. Ung thư vòm họng là bệnh đứng đầu trong các loại ung thư vùng đầu – mặt – cổ, diến tiến nhanh và có thể gây tử vong cao nếu không điều trị sớm. Thông qua những dấu hiệu ung thư vòm họng sau đây chúng ta sẽ phát hiện và điều trị kịp thời bệnh. Các dấu hiệu ung thư vòm họng Đa phần các dấu hiệu ung thư vòm họng khó xác định được ở giai đoạn đầu của bệnh bởi có nhiều triệu chứng giống với các bệnh liên quan đến tai, mũi họng như cảm cúm thông thường. Vì thế mà người bệnh chủ quan lơ là khi có dấu hiệu bệnh. Khi bệnh tiến triển sẽ xuất hiện các triệu chứng sau: Nổi hạch ở cổ Nổi hạch ở cổ là một trong những dấu hiệu ung thư vòm họng thường gặp Khi xuất hiện tế bào ung thư ở vòm họng, chúng sẽ nhanh chóng lây lan khắp vùng cổ. Khi các tế bào ung thư phát triển, nó sẽ hình thành các hạch cứng ở cổ, không gây đau. Khó nuốt Tình trạng khó nuốt, đau họng cũng hay gặp phải ở người bệnh ung thư vòm họng. Lúc này có thể có một khối u phát triển trong cổ họng. Khối u sẽ ngăn chặn thực phẩm đi qua cổ họng gây ra tình trạng khó nuốt, đau họng. Thay đổi trong giọng nói Đây cũng là dấu hiệu ung thư vòm họng. Nếu bệnh phát triển xung quanh các dây thanh âm, nó sẽ gây ra tình trạng thay đổi giọng nói. Ho kéo dài Tình trạng ho kéo dài có thể cảnh báo
dấu hiệu ung thư vòm họng. Nếu bạn bị ho dai dẳng và khi khỏi, giọng bạn bị khàn đi thì cần hết sức lưu ý. Ù tai Nếu ung thư vòm họng xâm lấm ra các vị trí xung quanh có thể khiến người bệnh thường xuyên bị ù một bên. Lúc này người bệnh sẽ có cảm giác trầm như tiếng ve kêu bên trong tai. Chảy máu cam Người bệnh bị ung thư vòm họng còn có thể gặp tình trạng chảy máu cam, ù tai, khó nuốt… Đây là dấu hiệu thường gặp khi bị ung thư vòm họng. Người bệnh sẽ thấy nước mũi 1 bên chảy ra và có kèm theo máu. Biểu hiện ở mắt Khu khố u vòm họng lan rộng có thể gây liệt các dây thần kinh chi phối hoạt động mắt dẫn tới tình trạng lác mắt, lồi mắt, sụp mi, giảm thị lực… Khi thấy các dấu hiệu nghi ngờ mắc ung thư vòm họng, người bệnh không nên chủ quan. Cần tới ngay các bệnh viện có khoa Ung bướu để bác sĩ thăm khám, chẩn đoán và điều trị sớm bệnh. Phương pháp điều trị ung thư vòm họng Tùy vào từng giai đoạn và mức độ bệnh cụ thể, các bác sĩ sẽ đưa ra phương pháp chữa trị phù hợp. Người bệnh có thể được chỉ định áp dụng các biện pháp điều trị sau: Xạ trị Ở giai đoạn đầu khi ung thư vòm họng không di căn thì người bệnh thường được chỉ định điều trị xạ trị. Đây là phương pháp sử dụng các tia năng lượng cao để tiêu diệt các tế bào ung thư. Xạ trị chỉ tác động tới khu vực điều trị mà không ảnh hưởng tới các vị trí khác trong cơ thể. Xạ trị kết hợp hóa trị Đối với các bệnh nhân vào giai đoạn ung thư muộn (đã có sự xâm lấn đáy hộp sọ hoặc sự hiện diện của thiếu hụt dây thần kinh sọ) hoặc các hạch đã to lên lan
rộng tới đáy cổ thì được chỉ định xạ trị kết hợp với hóa trị để cải thiện tình trạng bệnh. Người bệnh cần đi khám và tuân thủ theo đúng phương pháp điều trị của bác sĩ chuyên khoa Ung bướu Phẫu thuật Với những bệnh nhân có khối u tái phát thì có thể được chỉ định làm phẫu thuật Hóa trị Đây là phương pháp điều trị chính cho các bệnh nhân bị ung thư di căn hoặc những bệnh nhân bị ung thư tái phát sau bức xạ. Những phương pháp điều trị ung thư vòm họng vừa nêu trên chỉ mang tính chất tham khảo. Tùy vào tình trạng và giai đoạn bệnh cụ thể của mỗi người, bác sĩ sẽ chỉ định phương pháp chữa trị phù hợp.
chúng tôi đã thử nghiệm khả năng của độc tố nấm fusicoccin để tạo ra một số tác dụng đặc trưng của nó, axit hóa sự kích thích môi trường của k và sự hấp thu omethyldglucose trong huyền phù tế bào của parthenocissus tricuspidata siebold et zucc planchon acer pseudoplatanus l và oryza sativa l và trong huyền phù tế bào trần đã được chuẩn bị từ lá của cây nicotiana tabacum l và spinacia oleracea l hoặc từ nuôi cấy p tricuspidata, bằng chứng cho thấy rằng tất cả các vật liệu sinh học được thử nghiệm đều phản ứng với việc bổ sung FC. Quan sát cho thấy độc tố này cũng là AS trên các tế bào trần cho thấy rằng thành tế bào không liên quan đến cơ chế hoạt động của FC
peptide hormone đường ruột yy pyy thuộc họ polypeptide tuyến tụy pp cùng với pp và NPY-LI npy, những MMP này điều hòa tác dụng của chúng thông qua các thụ thể npy, trong đó có một số phân nhóm y y y và y, các tế bào l của đường tiêu hóa là nguồn chính của pyy tồn tại ở hai dạng nội sinh pyy và pyy, pyy được tạo ra do hoạt động của enzyme dipeptidyl peptidaseiv dppiv pyy liên kết và kích hoạt ít nhất ba phân nhóm thụ thể y y y và y trong khi pyy có tính chọn lọc cao hơn đối với thụ thể y năm vòng cung Thy nhân một vùng BB quan trọng điều chỉnh sự thèm ăn có khả năng tiếp cận các chất dinh dưỡng và hormone trong vòng tuần hoàn ngoại vi npy SN trong nhân vòng cung biểu hiện theo năm để đáp ứng với việc ăn vào thực phẩm nồng độ pyy trong huyết tương tăng trong khoảng tối thiểu và cao nguyên khoảng tối thiểu mức pyy đỉnh đạt được tỷ lệ thuận với lượng calo ăn vào cho thấy rằng pyy có thể báo hiệu quá trình tiêu hóa thức ăn từ ruột đến các mạch điều chỉnh sự thèm ăn trong BB, chúng tôi nhận thấy rằng việc sử dụng pyy ở ngoại vi đã ức chế FI ở loài gặm nhấm và tăng khả năng phản ứng miễn dịch của cfos trong nhân vòng cung, hơn nữa, chúng tôi đã chỉ ra rằng việc sử dụng pyy trực tiếp trong vòng cung của thực phẩm bị ức chế pyy chuột null năm đó có khả năng chống lại tác dụng gây tê của po pyy ngoại biên cho thấy rằng pyy ức chế FI trong suốt năm ở người khi truyền pyy ngoại vi ở liều tạo ra nồng độ PP bình thường làm giảm đáng kể sự thèm ăn và giảm NI thức ăn trong hơn một giờ. Những phát hiện này cho thấy rằng pyy được giải phóng để đáp
ứng với bữa ăn, hoạt động qua năm trong nhân vòng cung để điều chỉnh sinh lý lượng thức ăn ăn vào
T0 về mặt lâm sàng và tâm lý này liên quan đến những bệnh nhân ở độ tuổi nhiều năm mắc hội chứng PFs các bằng sáng chế cho thấy các biểu hiện lâm sàng của rối loạn thần kinh mức độ kiểm soát chủ quan thấp thái độ không thích ứng với bệnh và một loạt các cơ chế tâm lý bảo vệ mạnh mẽ các biểu hiện lâm sàng chính của pfs tương quan với trạng thái tâm lý của bệnh nhân, người ta kết luận rằng DUE khách quan của tình trạng lâm sàng của bệnh nhân pfs đòi hỏi phải đánh giá tâm lý tổng hợp về tình trạng sức khỏe của họ
Công dụng thuốc bôi bantet Thuốc bôi ngoài da Bantet được sử dụng ngoài da đối với những nhiễm khuẩn trên da. Để biết thêm công dụng cụ thể và sử dụng có hiệu quả thuốc bôi Bantet. Cùng đọc thêm bài viết dưới đây để có thêm những thông tin về thuốc bôi Bantet. 1. Công dụng thuốc bôi Bantet Thuốc bôi ngoài da Bantet được chỉ định sử dụng cho các bệnh nhân đang mắc các bệnh ngoài da do nhiễm khuẩn thứ phát hay có nghi ngờ nguy cơ nhiễm phải các bệnh lý liên quan về da khác như viêm da thần kinh, viêm da tiết bã nhờn, mẩn ngứa, viêm da tiếp xúc, vảy cá, vảy nến (không lan rộng, có diện tích nhỏ, không dùng khi vẩy nến đã lan rộng), vết côn trùng cắn, chàm.Đặc biệt, thuốc bôi Bantet cream còn được dùng trong điều trị eczema hình đĩa hay eczema dị ứng ở đối tượng là người lớn hay trẻ em lớn hơn 2 tuổi.Ngoài ra, thuốc bôi da Bantet còn sử dụng để chữa trị hăm hay ngứa bộ phận sinh dục hoặc hậu môn. 2. Cách dùng và liều dùng của thuốc bôi Bantet 2.1. Cách dùng của thuốc bôi Bantet Trước khi tiến hành bôi thuốc, người bệnh cần vệ sinh tay sạch sẽ và vệ sinh vùng da đang bị bệnh một cách nhẹ nhàng để có thể loại bỏ được các tạp chất bẩn và vi khuẩn. Sau đó lấy một lượng kem vừa đủ, bôi lên vết thương một lớp mỏng, đều và nhẹ. Bôi thuốc xong, cần đóng nắp của tuýp kem một cách cẩn thận giúp cho việc bảo quản thuốc, không để thuốc bị nhiễm bẩn bởi các tác nhân khác ở bên ngoài môi trường.Thuốc bôi Bantet là một loại thuốc dùng để bôi ngoài da, tuyệt đối không được phép nuốt hoặc để thuốc dính vào mắt hoặc miệng trong quá trình sử dụng. Ngoài ra, để giúp làm tăng được hiệu quả của việc dùng thuốc, vào ngày đầu tiên
sau khi đã bôi thuốc, bệnh nhân có thể sử dụng băng sạch để băng kín quanh vùng da cần được điều trị trong một đêm, vào những ngày tiếp theo đó có thể sử dụng thuốc bôi Bantet bình thường mà không cần phải băng lại nữa. 2.2. Liều dùng của thuốc bôi Bantet Thuốc bôi Bantet chỉ được sử dụng trên đối tượng là người lớn và trẻ nhỏ lớn hơn 2 tuổi, tuyệt đối không được sử dụng cho đối tượng là trẻ nhỏ dưới 2 tuổi.Liều dùng của thuốc phụ thuốc vào tuổi tác và đối tượng dùng.Đối với liều bình thường có thể tham khảo: bôi thuốc từ 2 - 3 lần một ngày, cần duy trì sử dụng thuốc liên tục. Sau khi thấy tình trạng bệnh đã giảm, sử dụng liều 1 lần/ ngày.Thuốc bôi Bantet chỉ nên sử dụng trong thời gian ngắn (dưới 7 ngày), nếu không có sự chỉ định của bác sĩ điều trị, người bệnh không được tự ý sử dụng thuốc trong thời gian dài.Đối với đối tượng là trẻ em: không dùng thuốc kéo dài quá 5 ngày.Đối tượng là bệnh nhân suy thận: cần tiến hành giảm liều và tuân thủ theo chỉ định của bác sĩ đối với mỗi trường hợp bệnh cụ thể.Đối với người cao tuổi: cần sử dụng thuốc bôi Bantet với liều thấp hơn bình thường, cần có sự chỉ định của bác sĩ trước khi sử dụng. 3. Tác dụng không mong muốn của thuốc bôi Bantet Bên cạnh những tác dụng điều trị, trong quá trình sử dụng thuốc bôi Bantet, người bệnh có thể gặp phải một số tác dụng không mong muốn như sau:Hoạt chất Betamethason trong thuốc bôi Bantet là một corticoid có hoạt tính cao, nên khi điều trị kéo dài có thể gây tình trạng teo da tại chỗ, mỏng da, giãn các mạch máu bề mặt, xuất hiện các vết nứt da, đặc biệt là khi điều trị ở các vùng được băng kín hoặc vùng có nếp gấp da.Khi sử dụng
chỉ với một lượng đủ trong thời gian kéo dài, thuốc bôi Bantet có thể hấp thụ toàn thân gây ra các biểu hiện của tình trạng vỏ thượng thận.Việc sử dụng thuốc bôi Bantet lên vùng da có thể gây ra tình trạng nóng rát, kích ứng da, dị ứng, vết thương rỉ dịch, tróc da vảy cá, phát ban.Mặc dù, thông thường thuốc bôi Bantet dung nạp khá tốt, tuy nhiên khi có xuất hiện các triệu chứng của hiện tượng quá mẫn, người bệnh nên dùng sử dụng thuốc ngay và báo ngay với bác sĩ để được hướng dẫn xử lý và hỗ trợ điều trị. 4. Tương tác thuốc bôi Bantet Khả năng xuất hiện sự tương tác giữa các loại thuốc bôi dùng ngoài da với các loại thuốc khác trong quá trình sử dụng là rất ít. Tuy nhiên, người bệnh không nên dùng bất cứ một loại thuốc bôi ngoài da nào khác mà không thông báo trước với bác sĩ điều trị. Đồng thời, khuyến cáo bệnh nhân cần liệt kê tất cả các loại thuốc kể cả thuốc kê đơn, không kê đơn, thực phẩm chức năng và thảo dược với bác sĩ trước khi có chỉ định sử dụng thuốc bôi Bantet. 5. Chống chỉ định của thuốc bôi Bantet Không chỉ định sử dụng thuốc bôi Bantet đối với bệnh nhân có tiền sử quá mẫn với bất cứ thành phần nào của thuốc bao gồm thành phần chính và các loại tá dược.Chống chỉ định sử dụng trên đối tượng là trẻ em nhỏ hơn 2 tuổi.Không được chỉ định sử dụng thuốc bôi Bantet đối với bệnh nhân đang bị nhiễm vi khuẩn, nhiễm nấm toàn thân, vết thương có dấu hiệu nhiễm trùng, vết thương hở, mắc phải lao da, mưng mủ, nhiễm trùng thứ cấp do các loài Proteus hoặc Pseudomonas, viêm da quanh miệng, viêm da mãn tính, mụn trứng cá.Không sử dụng thuốc bôi Bantet cho người bệnh đang điều trị viêm tai giữa khi bị thủng màng nhĩ vì thuốc có
nguy cơ gây độc tính trên tai. 6. Thận trọng khi sử dụng thuốc Bantet Việc sử dụng thuốc Bantet để điều trị dài ngày có thể gây ra tình trạng ức chế tuyến thượng thận. Vì vậy, bệnh nhân không tự ý sử dụng thuốc trong thời gian dài khi không có sự chỉ định của bác sĩ.Thận trọng khi dùng trên vùng gần mắt miệng hoặc vùng da mỏng.Khi dùng thuốc bôi Bantet trong điều trị vảy nến thì cần phải theo dõi chặt chẽ tình trạng của người bệnh do corticoid có thể gây ra các nguy cơ như nhờn thuốc, vẩy nến dạng mụn mủ toàn thân, tái phát ngược và khả năng gây độc tại chỗ hoặc trên toàn thân do hàng rào bảo vệ da đã bị tổn thương.Tránh việc sử dụng thuốc bôi Bantet trên diện rộng hoặc dùng lặp đi lặp lại vì có thể làm tăng nguy cơ mẫn cảm.Hiện đã có những chứng minh corticosteroid gây hiện tượng quái thai ở trên động vật khi dùng liều tương đối thấp dùng cho toàn thân. Tuy nhiên ở trên phụ nữ có thai lại chưa có các nghiên cứu đầy đủ. Nên cần thận trọng trên đối tượng là phụ nữ đang mang thai và cả trên đối tượng là bà mẹ đang cho con bú. 7. Bảo quản thuốc bôi Bantet Thuốc bôi ngoài da Bantet nên bảo quản ở những nơi khô ráo, thoáng mát, tránh ánh nắng trực tiếp chiếu vào hoặc những nơi có nhiệt độ cao. Nhiệt độ bảo quản thích hợp nên từ 25 đến 30 độ C. Tránh để thuốc ở khu vực vui chơi của trẻ nhỏ.Trước khi sử dụng thuốc bôi ngoài da Bantet, cần xem kỹ hạn sử dụng, nếu đã quá hạn sử dụng so với ngày in trên bao bì sản phẩm hoặc có xuất hiện những dấu hiệu lạ như đổi màu thì người bệnh không nên sử dụng thuốc đó nữa.
Giả thuyết về gastrin. Ý nghĩa của việc lựa chọn thuốc chống tiết. Các chất ức chế bài tiết axit mạnh hơn và tác dụng kéo dài hơn, chẳng hạn như thuốc ức chế bơm proton omeprazole, đang được sử dụng rộng rãi. Những loại thuốc này hứa hẹn kiểm soát bệnh acid-peptic một cách hiệu quả ở những bệnh nhân không đáp ứng đầy đủ với thuốc đối kháng thụ thể H2 tác dụng ngắn thông thường. Tuy nhiên, sự an toàn của việc sử dụng lâu dài các loại thuốc này đã bị nghi ngờ. Sự ức chế tiết axit sâu suốt đời ở chuột gây ra bởi các chất ức chế tiết axit siêu mạnh hoặc cắt bỏ toàn bộ cơ thể có liên quan đến sự phát triển các khối u carcinoid của các tế bào giống enterochromaffin (ECL) trong thể dạ dày. Bằng chứng sẵn có ủng hộ vai trò của gastrin, chất này tăng cao mãn tính ở động vật bị hạ clohydria kéo dài và nghiêm trọng. Ở người, các tình trạng tăng đường huyết như hội chứng Zollinger-Ellison và viêm teo dạ dày có liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các khối u carcinoid tế bào ECL. Những quan sát như vậy đã làm dấy lên mối lo ngại rằng con người cũng có thể dễ bị hình thành khối u carcinoid để đáp ứng với các chất ức chế bài tiết axit mạnh. Tuy nhiên, cho đến nay, không có trường hợp u carcinoid nào được cho là do sử dụng omeprazole ở người. Nếu không sử dụng liều achlorhydric, có thể tránh được tình trạng tăng gastrin máu đáng kể trong khi hiệu quả điều trị vẫn được duy trì. Các biện pháp như vậy sẽ giảm thiểu mọi nguy cơ mắc khối u carcinoid tế bào ECL ở người dùng thuốc kháng tiết mạnh lâu dài.
Nghiên cứu này được thực hiện để xem xét kinh nghiệm phẫu thuật của chúng tôi trong việc xử trí chấn thương thận ở trẻ em trong khoảng thời gian một năm từ tháng 8 đến tháng 8 ở trẻ em được phẫu thuật cắt bỏ bụng bị chấn thương thận kéo dài có các bé trai và 3 bé gái trong độ tuổi từ đến 84% là nạn nhân của vết thương do đạn bắn phần trăm bị đâm và phần trăm bị chấn thương nặng trẻ em bị thương bị tổn thương toàn bộ các cơ quan riêng lẻ chỉ phần trăm cần phẫu thuật cắt thận trong khi đại đa số được điều trị bằng các thủ thuật bảo tồn thận khi chúng tôi so sánh những người sống sót với những người không sống sót có nhiều tổn thương ở ngực và mạch máu hơn với nhiều yêu cầu ABT hơn ở những người không sống sót, không có sự khác biệt thống kê về bệnh nhân PTS giữa những người sống sót và những người không sống sót so với chụp bể thận qua tĩnh mạch trước phẫu thuật ivps được thực hiện ở phần trăm tất cả các bệnh nhân cho thấy vị trí tổn thương hiện diện của CF đối bên cũng như vị trí giải phẫu của thận mà chúng tôi kết luận tổn thương thận thường xảy ra sau chấn thương xuyên thấu ABD ở trẻ em tuy nhiên những tổn thương này có thể được kiểm soát bằng T0 sớm bằng các thủ thuật bảo tồn thận có tỷ lệ tổn thương IA liên quan cao ở những người bị chấn thương thận xuyên thấu kéo dài nhưng tỷ lệ tử vong phổ biến hơn ở những bệnh nhân duy trì liên quan chấn thương ngực và V1, nên thực hiện ivp ngay cả khi không có tiểu máu khi quỹ đạo chấn thương gợi ý rõ ràng chấn thương tiết niệu, T0 này cũng minh họa sự gia tăng mạnh mẽ của bạo lực đô thị liên quan đến
ma túy cùng với sự gia tăng chấn thương thận ở trẻ em
Giải đáp sau khi tiêm vacxin có nên tập thể dụcNhiều người thắc mắc sau khi tiêm vacxin có nên tập thể dục ngay không và nên luyện tập như nào cho phù hợp? Liệu những phản ứng sau tiêm có gây ảnh hưởng đến việc luyện tập hay không? Cùng TCI giải đáp dưới đây. Nhiều người thắc mắc sau khi tiêm vacxin có nên tập thể dục ngay không và nên luyện tập như nào cho phù hợp? Liệu những phản ứng sau tiêm có gây ảnh hưởng đến việc luyện tập hay không? Cùng TCI giải đáp dưới đây. 1. Những phản ứng thường gặp sau tiêm vacxin Vacxin tạo ra đáp ứng miễn dịch thông qua phản ứng của cơ thể người sử dụng với kháng nguyên có trong vacxin. Những phản ứng phụ gồm phản ứng tại chỗ và phản ứng hệ thống (đau, sưng, sốt,…) có thể xảy ra như một phần của đáp ứng miễn dịch. Như vậy, ngay cả khi một vacxin đã đáp ứng đủ những tiêu chuẩn an toàn, bảo quản, vận chuyển, chỉ định tiêm phòng thì trường hợp xảy ra phản ứng sau khi dùng vacxin là không thể tránh khỏi. Những phản ứng phụ này có thể xảy ra ở cấp độ khác nhau từ nhẹ cho đến nặng. Tuy nhiên cần ghi nhớ rằng vacxin là phương pháp an toàn và hiệu quả hơn rất nhiều so với mạo hiểm trước những căn bệnh truyền nhiễm đáng lẽ có thể được phòng ngừa. Phản ứng sau khi dùng vacxin có thể chia thành 2 nhóm gồm: 1.1. Phản ứng nhẹ Những phản ứng này có đặc điểm như: – Phản ứng tại chỗ gồm đau, sưng đỏ tại vết tiêm. – Phản ứng toàn thân gồm sốt nhẹ, khó chịu, ớn lạnh, mệt mỏi, đau cơ khớp, đau đầu, chán ăn. – Xảy ra sau khi dùng vacxin vài giờ hoặc vào ngày hôm sau, trừ trường hợp nổi mề đay do vacxin sởi có thể xuất hiện sau 6-12 ngày. – Biến mất sau một
vài ngày, ít gây nguy hiểm. 1.2. Phản ứng nặng Những phản ứng này có đặc điểm như: – Bao gồm tình trạng co giật, động kinh, giảm tiểu cầu, giảm trương lực giảm phản ứng, dị ứng gây ra bởi phản ứng của cơ thể với các thành phần trong vacxin. – Có thể gây khuyết tật. – Thường không để lại hậu quả lâu dài, ngay cả phản ứng phản vệ tuy có thể gây nguy hiểm đến mạng sống nhưng nếu can thiệp điều trị kịp thời sẽ không để lại di chứng. Sốt là một trong những phản ứng phụ thường gặp sau tiêm chủng. 2. Sau khi tiêm vacxin có nên tập thể dục hay không? 2.1. Giải đáp thắc mắc sau khi tiêm vacxin có nên tập thể dục không Theo các chuyên gia y tế, việc vận động nhẹ nhàng sau tiêm có thể giúp tăng cường phản ứng miễn dịch của cơ thể, nâng cao hiệu quả vacxin. Ngay cả khi bạn gặp phải các phản ứng phụ đã nêu trên, bạn vẫn có thể vận động nhẹ nhàng. Tuy nhiên những phản ứng phụ này có thể gây ảnh hưởng ít nhiều đến kết quả luyện tập của bạn. Cơ chế hoạt động của vacxin là đưa kháng nguyên vào cơ thể nhằm kích thích hệ thống miễn dịch tạo kháng thể và tế bào T. Đây là hai yếu tố được sử dụng để nhận biết và chống lại tác nhân gây bệnh khi chúng xâm nhập cơ thể trong tương lai. Hiệu quả của một vacxin phụ thuộc vào số lượng kháng thể và tế bào T được tạo ra. Theo đó, kháng thể và tế bào T càng nhiều, phản ứng miễn dịch càng mạnh, khả năng bảo vệ của vacxin càng tốt. Tập thể dục sau tiêm có thể kích thích hệ miễn dịch tạo ra nhiều kháng thể hơn, giúp cải thiện hệ miễn dịch nói chung và phản ứng của cơ thể với vacxin nói riêng. Ngoài ra tập thể dục còn giúp tăng lưu
lượng máu, giảm tình trạng viêm và cứng cơ, từ đó làm giảm cảm giác đau và khó chịu sau tiêm. Tuy nhiên bạn không cần ép buộc bản thân phải tập thể dục sau tiêm vacxin. Đối với những người gặp các phản ứng phụ như mệt mỏi, suy nhược, uể oải không nên cố gắng luyện tập mà hãy dành thời gian nghỉ ngơi hồi sức. Nhìn chung, hãy cân nhắc luyện tập dựa vào tình trạng của bản thân và hạn chế những bài tập với cường độ quá cao. Thay vào đó, những bài tập được khuyến nghị là các bài có cường độ nhẹ đến trung bình như đi bộ, đạp xe,… hoặc các bài tăng sức bền như squat, lunge, hít đất,… Vận động nhẹ nhàng sau tiêm có thể giúp tăng cường phản ứng miễn dịch của cơ thể, nâng cao hiệu quả vacxin. 2.2. Lập kế hoạch chăm sóc sức khỏe hợp lý Ngoài chú ý đến tập luyện thể dục thể thao, bạn cũng cần cung cấp thêm các chất dinh dưỡng cần thiết sau tiêm phòng để củng cố sức khỏe, tăng sức đề kháng. Một chế độ dinh dưỡng hợp lý sẽ cung cấp đầy đủ những nền tảng cần thiết cho nhu cầu hoạt động của cơ thể. Bên cạnh việc lựa chọn đa dạng thực phẩm, bạn cũng cần lưu ý các vấn đề sau: – Ăn đủ nhu cầu của cơ thể và phối hợp đa dạng các món ăn, thường xuyên thay đổi thực phẩm trong ngày và tuần. – Khẩu phần ăn cần có sự cân đối về tỉ lệ đạm động thực vật. – Tăng cường các thực phẩm tốt như vừng, hoa quả chín, rau củ xanh. – Trong khẩu phần ăn chỉ nên có khoảng 55 – 65% năng lượng từ ngũ cốc, chất béo chiếm khoảng 25% còn lại là chất đạm. – Trong ngày một người nên bổ sung khoảng 300 gram rau xanh và 200 gram quả chín. – Khi chọn thực phẩm nên ưu tiên đồ tươi
sống, tránh ăn thịt động vật chết bệnh. Nên ăn chín uống sôi, hạn chế ăn tiết canh, đồ tái,… – Vệ sinh sạch sẽ dao thớt, rửa tay trước trong và sau quá trình chế biến. – Sau tiêm nên ưu tiên thức ăn chín kĩ, mềm dễ tiêu hóa. Bên cạnh việc tìm hiểu sau khi tiêm có nên tập thể dục không và xây dựng chế độ dinh dưỡng hợp lý thì việc bổ sung nước cũng rất quan trọng. Bởi một phản ứng phụ rất thường gặp sau tiêm là sốt, tình trạng này khiến cơ thể tỏa nhiệt làm mất nước và điện giải. Do đó, cần đáp ứng đủ lượng nước cho cơ thể, đặc biệt trong thời tiết nắng nóng. Bạn có thể sử dụng thêm Oresol để bổ sung thêm chất điện giải và năng lượng cho cơ thể, tránh mệt mỏi suy nhược. Khi uống nước, bạn không cần uống quá nhiều trong một lần mà có thể chia nhỏ trong ngày. Nếu uống quá nhiều nước trong thời gian ngắn, bạn có thể cảm thấy khát hơn. Ngoài ra bổ sung nhiều nước một lúc làm mồ hôi tiết nhiều hơn, từ đó mất điện giải. Uống nước từ từ sẽ hiệu quả và làm dịu cơ thể tốt hơn. Bạn cũng có thể thay nước lọc bằng nước ép trái cây để bổ sung vitamin cho cơ thể. Bạn nên tham khảo thêm ý kiến của bác sĩ về phương pháp cân bằng dưỡng chất trong khẩu phần ăn hàng ngày. Hi vọng những thông tin trên đã giải đáp được thắc mắc của bạn về vấn đề tập luyện sau tiêm phòng. Nhìn chung, luyện tập nhẹ nhàng đem lại nhiều lợi ích cho người mới tiêm chủng nhưng hãy lắng nghe cơ thể và lựa chọn những bài tập phù hợp để thu được hiệu quả tối đa.
sự hiện diện của NP purine thứ hai trong các chủng e coli k T3 hoang dã tăng trưởng trên xanthosine đã được chứng minh giống như PNPase khác, nó có thể thực hiện cả quá trình phosphoryl hóa và tổng hợp purine deoxy và ribonucleoside trong khi các nucleoside pyrimidine không thể hoạt động như cơ chất tương phản với PNPase đặc trưng của e coli k được mã hóa bởi gen deod, enzyme mới này có thể hoạt động trên xanthosine và do đó được gọi là xanthosine phosphorylase. Các nghiên cứu về tính đặc hiệu cơ chất của nó cho thấy xanthosine phosphorylase giống như nucleoside phosphorylase của chuột purine không có hoạt tính đối với adenine và việc xác định nucleoside tương ứng km và hành vi của GF được thực hiện trên các dịch chiết đã thẩm tách thô. Sự hiện diện của xanthosine phosphorylase cho phép e coli phát triển trên xanthosine vì xanthosine nguồn carbon là hợp chất duy nhất được tìm thấy có tác dụng tạo ra xanthosine phosphorylase. Không có enzyme dị hóa nucleoside nào được biết đến được tạo ra bởi xanthosine. Động học cảm ứng phi tuyến của xanthosine phosphorylase được thảo luận
Độc tố ciguatera là một chất độc thần kinh biển được tạo ra bởi các vi sinh vật tập trung trong độc tính của cá săn mồi ở người do ăn phải cá bị ô nhiễm được đánh bắt ở vùng nước nhiệt đới. Các biểu hiện lâm sàng của bệnh bao gồm PS đường tiêu hóa BẬT nhanh và các bất thường về thần kinh do PS BẬT nhanh chóng. và khả năng xuất hiện các cụm ca bệnh do ăn phải cá bị ô nhiễm từ một nguồn thông thường có khả năng là ngộ độc ciguatera ban đầu có thể giống các bệnh do các tác nhân sinh học và hóa học phản nhân lực gây ra. dị cảm và được chẩn đoán ngộ độc chất độc ciguatera, chúng tôi cũng trình bày tổng quan tài liệu về ngộ độc ciguatera, nhấn mạnh vào các đặc điểm phân biệt giữa CTX và các chất độc thần kinh khác có ý nghĩa quân sự
chất ức chế có trong MS khi mang thai tuy nhiên sự hiện diện của chất ức chế trong các khoang xung quanh thai nhi trong giai đoạn đầu của thai kỳ không được xác định rõ bằng cách sử dụng các xét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết với enzyme cụ thể mới, chúng tôi đã chứng minh rằng chất ức chế dimeric có hoạt tính sinh học hình thành chất ức chế và chất ức chế và các dạng INH chứa pro và Trình tự alpha c hiện diện với số lượng khác nhau trong khoang ngoài phôi, dịch ối và huyết thanh của mẹ giữa các tuần mang thai của các chất ức chế dimeric có hoạt tính sinh học, cả hai chất ức chế sem pgml trung bình và pgml ức chế đều có trong khoang ngoài phôi trong khi không có chất ức chế dimeric trong nước ối. và chỉ có inhibina pgml hiện diện trong MS. Hơn nữa, khả năng phản ứng miễn dịch liên quan đến proalpha hiện diện ở nồng độ cao trong dịch màng ối pgml và MS pgml ngoài phôi thai. Những phát hiện này cho thấy rằng ở giai đoạn này của thai kỳ việc sản xuất chất ức chế ức chế inhibina inhibinb và pro alpha c phản ứng miễn dịch có khả năng xảy ra. phát sinh từ các nguồn khác nhau bao gồm nhau thai và màng bào thai và nguồn từ mẹ bao gồm các chất ức chế buồng trứng có thể là những yếu tố điều chỉnh quan trọng đối với OD của thai nhi và nhau thai và liên quan đến việc hình thành thai kỳ
nicotinic AChR achr gating là một chuỗi chuyển động phân tử có tổ chức kết hợp NC trong ái lực với phối tử tại hai vị trí liên kết chất dẫn truyền với sự thay đổi trong độ dẫn ion của vòng lỗ l là phân đoạn chín phần tử alpha tiểu đơn vị chuột liên kết các sợi beta và beta của miền ngoại bào và trong phân đơn vị alpha chứa phân đoạn IB a dựa trên cấu trúc của protein IB acetylcholine chúng tôi suy đoán rằng trong các dự án achrs l từ vị trí IB của chất dẫn truyền về phía màng dọc theo giao diện tiểu đơn vị chúng tôi đã sử dụng động học kênh đơn để định lượng tác động của đột biến đối với alphad và các phần tử l khác liên quan đến liên kết chủ vận với cả kênh achrs mở và đóng gating đối với cả achrs chưa phối tử và đã phối tử hoàn toàn và khử nhạy cảm hầu hết các đột biến alphad làm tăng gating lên gấp bội nhưng ít hoặc không ảnh hưởng đến IB phối tử hoặc tỷ lệ khử nhạy cảm phân tích mối quan hệ SE tự do cân bằng chỉ ra rằng alphad di chuyển sớm trong phản ứng gating đồng bộ với chuyển động của vị trí liên kết chất dẫn truyền phi ngụ ý một đặc tính giống như mở tại các đột biến trạng thái chuyển tiếp alphad trong hai tiểu đơn vị alpha có hậu quả năng lượng không bằng nhau đối với gating nhưng đóng góp của chúng là độc lập, chúng tôi kết luận rằng hậu quả PET cơ bản chính của nhiễu loạn alphad là làm tăng hằng số cân bằng gating không phối tử l nổi lên như một liên kết quan trọng và sớm trong phản ứng gating achr, khi không có chất chủ vận sẽ giúp tăng độ ổn định tương đối của cấu hình đóng của protein
Bệnh Gút Bệnh gút là một bệnh rối loạn do tăng axit uric máu (urat huyết thanh > 6,8 mg/dL [> 0,4 mmol/L]) dẫn đến kết tủa các tinh thể monosodium urat trong và xung quanh khớp, thường gây viêm khớp cấp tính hoặc mạn tính tái phát. Gút cấp thường xảy ra ở một khớp và hay gặp ở khớp bàn ngón chân 1. Các triệu chứng của bệnh gút bao gồm đau cấp tính, nóng, đỏ và sưng. Chẩn đoán xác định khi tìm thấy các tinh thể trong dịch khớp. Điều trị cơn bộc phát cấp tính bằng các thuốc chống viêm. Tần suất bùng phát có thể giảm bằng cách sử dụng thường xuyên thuốc chống viêm không steroid (NSAID), colchicine hoặc cả hai cộng với việc giảm liên tục nồng độ urat huyết thanh dưới mức bão hòa (< 6,8 mg/dL [< 0,4 mmol/L) với allopurinol, febuxostat, hoặc thuốc uricosuric như probenecid. (Xem thêm Tổng quan về bệnh khớp do tinh thể.) Gút thường gặp ở nam giới hơn nữ giới. Thông thường, gút khởi phát ở nam giới trung niên và nữ giới sau mãn kinh. Bệnh gút hiếm gặp ở người trẻ nhưng thường nặng hơn ở những người khởi phát bệnh trước 30 tuổi. Gút thường có yếu tố gia đình. Những bệnh nhân mắc hội chứng chuyển hóa có tăng nguy cơ mắc bệnh gút. Sinh lý bệnh của bệnh Gút Mức độ và thời gian tăng axit uric máu càng lớn, khả năng xảy ra bệnh gút càng cao. Nồng độ urat có thể tăng do Giảm bài tiết qua thận (phổ biến nhất) hoặc qua đường tiêu hóa Tăng sản xuất (hiếm gặp) Tăng lượng purin ăn vào (thường kết hợp với giảm bài tiết) Tại sao chỉ có một số người có nồng độ axit uric huyết thanh cao (urat) xuất hiện cơn bộc phát của bệnh gút không được biết đến. Giảm bài xuất qua thận là nguyên nhân phổ biến nhất gây ra chứng tăng axit uric máu. Nó có thể do di truyền (ví dụ,
do sự thay đổi trong hiệu quả vận chuyển axit uric) và cũng xảy ra ở những bệnh nhân dùng thuốc lợi tiểu và những người bị các bệnh làm giảm mức lọc cầu thận (GFR). Rượu làm tăng chuyển hóa purin ở gan và làm tăng hình thành axit lactic, chất ngăn cản sự bài tiết urat bởi các ống thận, rượu cũng có thể kích thích gan tổng hợp urat. Ngộ độc chì và cyclosporine, thường ở liều cao hơn cho bệnh nhân cấy ghép, làm thay đổi chức năng ống thận dẫn đến ứ đọng urat. Tăng sản xuất urat có thể là do sự gia tăng lượng nucleoprotein trong các bệnh lý huyết học (ví dụ như u lympho, bạch cầu cấp, thiếu máu tan máu) và trong các tình trạng gây tăng tốc độ chu trình tế bào (ví dụ, bệnh viêm khớp vẩy nến, liệu pháp độc tế bào ung thư, xạ trị). Tăng sản xuất urat cũng có thể do bất thường về di truyền nguyên phát và ở người béo phì, bởi vì việc sản xuất urat có mối tương quan với diện tích bề mặt cơ thể. Trong hầu hết các trường hợp, nguyên nhân của việc sản xuất quá nhiều urat vẫn chưa được biết, nhưng hiếm khi có thể quy cho sự bất thường của enzym; thiếu hụt hypoxanthine-guanine phosphoribosyltransferase (thiếu hụt hoàn toàn là hội chứng Lesch-Nyhan) là một nguyên nhân có thể xảy ra, cũng như hoạt động quá mức của phosphoribosylpyrophosphate synthetase. Tăng tiêu thụ các loại thực phẩm giàu purin (ví dụ như gan, thận, cá cơm, măng tây, cá trích, thịt nướng, nước luộc thịt, nấm, trai, cá mòi, lá lách) có thể góp phần làm tăng nồng độ axit uric máu. Bia, kể cả bia không cồn, đặc biệt giàu guanosine, một nucleoside purine. Tuy nhiên, chế độ ăn ít purine nghiêm ngặt làm giảm urat huyết thanh chỉ khoảng 1 mg/dL (0,1 mmol/L) và do đó hiếm khi là liệu pháp điều trị đủ cho bệnh nhân gút. Urat kết tủa là
tinh thể hình kim monosodium urat (MSU), được lắng đọng bên ngoài tế bào trong các mô không có mạch máu (ví dụ như sụn) hoặc trong các mô ít mạch máu (ví dụ, gân, bao gân, dây chằng, thành túi thanh dịch) và da xung quanh các khớp ngoại vi và các mô có nhiệt độ thấp (ví dụ như tai, đệm ngón tay). Trường hợp nặng, tăng uric máu kéo dài, tinh thể MSU có thể bị lắng đọng vào các khớp trung tâm lớn hơn và trong nhu mô của các cơ quan như thận. Ở pH axit của nước tiểu, urat kết tủa dễ dàng như dạng khối nhỏ hoặc hình kim cương có thể kết hợp để tạo thành cặn hoặc sỏi, có thể gây cản trở đường bài xuất nước tiểu. Tophi là các khối tinh thể MSU thường xuất hiện trong khớp và mô da. Chúng thường được bọc trong một cấu trúc hạt dạng sợi, giúp bảo vệ chúng khỏi nguyên nhân gây viêm cấp. Viêm khớp cấp do gút có thể bị khởi phát bởi chấn thương, những căng thẳng do bệnh tật (ví dụ, viêm phổi hoặc các bệnh nhiễm trùng khác), phẫu thuật, sử dụng thuốc lợi tiểu thiazid hoặc các thuốc có tác dụng hạ uric máu (ví dụ, allopurinol, febuxostad) probenecid, nitroglycerin) hoặc sử dụng nhiều thức ăn giàu purin hoặc rượu. Các cơn bộc phát gút cấp thường do sự gia tăng đột ngột hoặc, thông thường hơn, là một sự giảm đột ngột nồng độ urat huyết thanh. Tại sao các cơn bộc phát gút cấp sau một trong những tình trạng này lại không được biết. Tophi ở trong và xung quanh khớp có thể gây hạn chế vận động và gây biến dạng khớp, gọi là viêm khớp mạn tính do gút. Bệnh gút làm tăng nguy cơ xuất hiện thoái hóa khớp thứ phát. Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh Gút Viêm khớp bàn ngón chân cái Viêm khớp do gút cấp thường bắt đầu với đau đột ngột (thường
là về đêm). Khớp bàn ngón chân của ngón chân cái là thường gặp nhất (gọi là khớp bàn ngón chân cái), nhưng mu bàn chân, mắt cá chân, gối, cổ tay và khuỷu tay cũng là các vị trí thường gặp. Hiếm gặp hơn là khớp háng, khớp vai, khớp cùng chậu, khớp ức đòn, hoặc các khớp cột sống cổ. Cơn đau trở nên trầm trọng hơn, thường là trong vài giờ, và thường rất dữ dội. Sưng, nóng, đỏ, và nhạy cảm đau có thể gợi ý nhiễm trùng. Da phía ngoài có thể trở nên căng, nóng, bóng, và đỏ hoặc hơi tím. Sốt, nhịp tim nhanh, ớn lạnh và mệt mỏi đôi khi xảy ra. Vài cơn bộc phát đầu tiên thường chỉ ảnh hưởng đến một khớp và chỉ kéo dài vài ngày. Các cơn bộc phát về sau có thể ảnh hưởng đến nhiều khớp cùng lúc hoặc tuần tự và kéo dài đến trên 3 tuần nếu không được điều trị. Các cơn bộc phát tiếp theo phát triển tăng dần xen kẽ những đợt không triệu chứng ngắn. Cuối cùng, nhiều đợt bộc phát có thể xảy ra mỗi năm. Nếu không bắt đầu điều trị hạ urat liên tục, bệnh nhân có thể bị viêm khớp biến dạng mạn tính do bệnh gút có hạt do lắng đọng urat liên tục. Tophaceous Gout in Fingers Tophi Các hạt tophi có thể sờ thấy xuất hiện ở những bệnh nhân bị bệnh gút và hiếm khi có thể xảy ra ở những bệnh nhân chưa từng bị viêm khớp gút cấp tính. Chúng thường có màu vàng hoặc trắng, dạng nhú hoặc hạt, đơn độc hoặc nhiều hạt. Chúng có thể xuất hiện ở các vị trí khác nhau, thường là các ngón tay, bàn tay, bàn chân, và xung quanh gân mỏm khuỷu hoặc gân Achille. Hạt tophi cũng có thể hình thành ở thận, các cơ quan khác và dưới da vành tai. Các bệnh nhân có hạt Heberden thoái hóa khớp có thể xuất hiện hạt tophi bên
trên. Sự phát triển này xảy ra thường xuyên nhất ở phụ nữ cao tuổi dùng thuốc lợi tiểu, và những người này có thể bị viêm nghiêm trọng và bị chẩn đoán nhầm là viêm xương khớp. Thông thường hạt tophi không đau, có thể bị viêm và đau dữ dội, đặc biệt là ở túi thanh dịch mỏm khuỷu, thường là sau khi bị chấn thương nhẹ hoặc không. Hạt tophi có thể vỡ qua da, chảy ra ngoài các tinh thể urat trắng như phấn. Các xoang này có thể bị nhiễm trùng. Hạt tophi trong và quanh khớp có thể gây ra biến dạng khớp và thoái hóa khớp thứ phát. Viêm khớp do gút có thể gây ra đau, biến dạng, và hạn chế vận động khớp. Viêm có thể bùng phát ở một số khớp trong khi đó lại thuyên giảm ở các khớp khác. Bệnh nhân mắc gút có thể xuất hiện sỏi tiết niệu với các sỏi axit uric hoặc sỏi canxi oxalat. Các biến chứng của gút bao gồm tắc nghẽn thận và nhiễm trùng, với bệnh ống thận kẽ thứ phát. Rối loạn chức năng thận tiến triển không được điều trị, hầu hết liên quan đến đồng mắc cao huyết áp hoặc ít gặp hơn đó là một số nguyên nhân khác của bệnh thận, làm giảm bài tiết urat, dẫn đến làm tăng sự lắng đọng tinh thể trong các mô. Bệnh tim mạch, ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn, bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu và các thành phần của hội chứng chuyển hóa thường gặp ở bệnh nhân gút. Chẩn đoán bệnh Gút Tiêu chuẩn lâm sàng Xét nghiệm dịch khớp Chẩn đoán bệnh gút nên được đặt ra ở bệnh nhân viêm một khớp hoặc viêm vài khớp cấp tính, đặc biệt là người lớn tuổi hoặc những người có các yếu tố nguy cơ khác. Viêm khớp ngón chân cái và mu chân tái phát là yếu tố gợi ý. Tiền sử có các cơn bộc phát cấp tính khởi đầu dữ
dội và tự khỏi trong vòng 7 đến 10 ngày cũng là đặc trưng của bệnh. Các triệu chứng tương tự có thể là gặp trong tình huống sau đây: Bệnh lắng đọng canxi pyrophosphat dihydrat (CPPD) cấp tính (tuy nhiên, canxi pyrophosphat dihydrat thường xảy ra ở các khớp lớn hơn, không biểu hiện hạt tophi, và diễn biến lâm sàng thường nhẹ hơn nhưng kéo dài) Bệnh sốt thấp khớp (thấp tim) có biểu hiện tại khớp và viêm khớp tự phát thiếu niên (tuy nhiên, những bệnh này xảy ra chủ yếu ở những người trẻ tuổi, những người hiếm khi bị bệnh gút) Viêm khớp dạng thấp (RA) (tuy nhiên, RA có xu hướng đối xứng và dai dẳng, với nhiều khớp bị ảnh hưởng hơn trong đợt bùng phát, các đợt bùng phát kéo dài trong thời gian dài hơn và các đợt bùng phát ở tất cả các khớp giảm dần; trong khi ở bệnh gút, tình trạng viêm thường bùng phát ở một số khớp khớp trong khi giảm ở những khớp khác) Gãy xương giai đoạn cấp tính ở những bệnh nhân không thể cung cấp tiền sử chấn thương (đặc biệt là gãy xương cổ chân) Viêm khớp nhiễm khuẩn cấp hoặc mạn tính; viêm khớp nhiễm trùng: chẩn đoán phân biệt dựa vào xét nghiệm dịch khớp) Các bệnh khớp tương tự Viêm quanh khớp canxi hóa cấp tính do lắng đọng tinh thể canxi phosphat cơ bản hoặc canxi oxalat Bệnh khớp tương tự được đặc trưng bởi các cơn viêm cấp tính, tái phát ở trong hoặc cạnh một hoặc đôi khi là vài khớp hoặc bao gân với khả năng tự ổn định; đau và đỏ khớp có thể nặng như ở bệnh gút. Các cơn bộc phát thường tự giảm dần và khỏi hoàn toàn trong 1 đến 3 ngày. Các cơn bộc phát như vậy có thể báo trước sự khởi phát của viêm khớp dạng thấp, và xét nghiệm yếu tố dạng thấp có thể giúp phân biệt; chúng dương tính ở khoảng 50%
số bệnh nhân (các xét nghiệm này cũng dương tính ở 10% bệnh nhân gút). Nếu nghi ngờ viêm khớp cấp do gút, chọc hút và xét nghiệm dịch khớp nên được làm ngay khi nhập viện. Tái phát điển hình ở bệnh nhân mắc bệnh gút đã được ghi nhận trước đây không bắt buộc phải chọc dò khớp, nhưng nên thực hiện nếu có bất kỳ câu hỏi nào về chẩn đoán hoặc nếu các yếu tố nguy cơ của bệnh nhân hoặc bất kỳ đặc điểm lâm sàng nào gợi ý viêm khớp nhiễm trùng. Trong một số trường hợp, chẩn đoán bệnh gút có thể được suy đoán hợp lý dựa trên bệnh sử và các đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân hoặc dựa trên kết quả hình ảnh trong trường hợp không thể lấy được dịch khớp; tuy nhiên, mọi nỗ lực nên được thực hiện để ghi lại sự hiện diện của tinh thể MSU trong dịch khớp từ khớp bị ảnh hưởng. Các tinh thể gút Xét nghiệm dịch khớp có thể xác định chẩn đoán bằng cách tìm ra tinh thể hình kim, tinh thể urat lưỡng chiết phân cực mạnh nằm tự do trong dịch khớp hoặc bị thực bào bởi các bạch cầu. Dịch khớp trong đợt bùng phát có đặc điểm viêm (xem bảng ), thường là 2.000 đến 100.000 bạch cầu/mcL, với 80% bạch cầu đa nhân. Những đặc điểm này chồng lấp đáng kể với viêm khớp nhiễm khuẩn, vì vậy cần phải được loại trừ bằng nhuộm Gram (không nhạy) và nuôi cấy vi khuẩn. Nồng độ urat huyết thanh tăng cao gợi ý cho chẩn đoán bệnh gút nhưng không đặc hiệu cũng không nhạy; ít nhất 30% bệnh nhân có nồng độ urat huyết thanh bình thường khi có cơn bộc phát gút cấp tính một phần do đặc tính axit uric của cytokine tiền viêm, interleukin-6 (IL-6) hoặc do urat huyết thanh giảm đột ngột gây bùng phát. Tuy nhiên, nồng độ urat huyết thanh nền giữa các cơn bộc phát phản
ánh lượng urat hòa tan của dịch ngoại bào. Nồng độ nên được đo trong 2 hoặc 3 lần ở những bệnh nhân bị bệnh gút mới được chứng minh để thiết lập đường cơ sở. Định lượng bài tiết axit uric niệu để phân biệt giữa sản sinh quá mức và thải trừ quá mức không còn được khuyến khích; nó không dự đoán được đáp ứng của bệnh nhân với allopurinol hoặc febuxostat (cả hai làm giảm sản sinh axit uric). Nồng độ urat huyết thanh có thể thấp sau khi bắt đầu điều trị, nhưng các đợt bùng phát có thể tiếp tục xảy ra miễn là vẫn còn lắng đọng mô. Việc hòa tan các chất lắng đọng urat có thể mất nhiều tháng sau khi bắt đầu điều trị. Chụp X-quang khớp bị ảnh hưởng có thể được thực hiện để tìm các vết bào mòn xương hoặc tophi, nhưng chúng không cần thiết nếu chẩn đoán bệnh gút cấp tính đã được thiết lập bằng phân tích dịch khớp và hiếm khi cho thấy các vết ăn mòn ở thời điểm bùng phát đầu tiên. Trong viêm khớp canxi pyrophosphate, lắng đọng cản quang đôi khi có thể xuất hiện trong sụn sợi, sụn khớp trong suốt (đặc biệt là đầu gối), hoặc cả hai, nhưng có thể thấy canxi hóa khi không có đợt bùng phát cấp tính. Siêu âm có độ nhạy cao hơn (mặc dù phụ thuộc vào người làm) hơn là chụp X-quang để chẩn đoán bệnh gút. Sự lắng đọng urat trên sụn khớp (dấu hiệu đường đôi) và các hạt tophi trên lâm sàng là những thay đổi đặc trưng. Những triệu chứng trên rõ ràng ngay cả trước cơn bộc phát gút đầu tiên. Chụp CT năng lượng kép (DECTs) cũng có thể phát hiện lắng đọng axit uric và có thể hữu ích nếu chẩn đoán không rõ ràng dựa trên đánh giá và xét nghiệm lâm sàng tiêu chuẩn, đặc biệt nếu không thể thực hiện hút và phân tích dịch khớp. Tophus có mòn
khớp Bệnh gút của ngón chân giữa Viêm khớp gút mãn tính nên được xem xét ở những bệnh nhân mắc bệnh khớp dai dẳng không rõ nguyên nhân hoặc cục tophi dưới da hoặc xương. X-quang thường khớp bàn ngón chân 1 hoặc khớp bị tổn thương khác có thể hữu ích. Trên X-quang có thể thấy tổn thương khuyết xương vùng xương dưới sụn, thường gặp nhất ở khớp bàn ngón chân 1; các tổn thương phải có đường kính 5 mm mới có thể quan sát được trên X-quang. Diện khớp được bảo vệ một cách đặc biệt cho đến giai đoạn muộn trong quá trình diễn biến của bệnh. Phát hiện dịch khớp từ tràn dịch mãn tính của các khớp bị ảnh hưởng thường được chẩn đoán. Siêu âm chẩn đoán ngày càng được sử dụng nhiều để phát hiện dấu hiệu đường đôi điển hình gợi ý việc lắng đọng tinh thể urat, nhưng độ nhạy phụ thuộc vào người siêu âm và việc phân biệt với lắng đọng của tinh thể canxi pyrophosphat có thể rất khó khăn để kết luận. Tiên lượng về bệnh Gút Với chẩn đoán bệnh gút sớm, liệu pháp hạ urat suốt đời cho phép hầu hết bệnh nhân sống một cuộc sống bình thường. Đối với nhiều bệnh nhân bị bệnh tiên tiến, can thiệp làm giảm nồng độ urat huyết thanh có thể giúp tan các hạt tophi và cải thiện chức năng khớp. Bệnh gút thường nghiêm trọng hơn ở những bệnh nhân có triệu chứng khởi phát xuất hiện trước tuổi 30 và ở những người có nồng độ uric máu nền > 9 mg/dL (> 0,5 mmol/L). Sự phổ biến của hội chứng chuyển hóa và bệnh tim mạch có thể làm tăng tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân bị gút. Một số bệnh nhân đáp ứng không đầy đủ với điều trị. Các lý do thông thường bao gồm hướng dẫn không đầy đủ cho bệnh nhân, không tuân thủ, nghiện rượu và chủ yếu là do bác sĩ không điều
trị tăng axit uric máu. Điều trị bệnh gút Chấm dứt đợt bùng phát cấp tính bằng thuốc chống viêm không steroid (NSAID), colchicine, corticosteroid hoặc thuốc đối kháng interleukin-1 (IL-1) Ngăn ngừa sự lắng đọng thêm của các tinh thể monosodium urat (MSU), giảm tỷ lệ cơn bộc phát và phân giải các hạt tophi hiện có bằng cách giảm nồng độ urat trong huyết thanh (bằng cách giảm sản sinh urat bằng allopurinol hoặc febuxostat, hòa tan lắng đọng bằng liệu pháp thay thế uricase, hoặc tăng bài tiết urat bằng probenecid) Phòng ngừa các cơn bộc phát gút cấp tái phát bằng colchicin hoặc một NSAID uống hàng ngày. Điều trị đồng thời cao huyết áp, tăng lipid máu, béo phì và tránh chế độ ăn dư thừa purin. (Xem thêm 2020 American College of Rheumatology Guideline for the Management of Gout.) Thuốc chống viêm không steroid (NSAID) có hiệu quả trong điều trị các cơn bộc phát cấp tính và thường được dung nạp tốt. Tuy nhiên, chúng có thể có các tác dụng không mong muốn, bao gồm trào ngược hoặc chảy máu đường tiêu hóa, tăng kali máu, tăng creatinin và giữ nước. Bệnh nhân cao tuổi và mất nước có nguy cơ cao, đặc biệt nếu có tiền sử bệnh thận. Hầu như bất kỳ NSAID nào được sử dụng ở liều kháng viêm (liều cao) đều có hiệu quả và có hiệu quả giảm đau bắt đầu trong vài giờ. Điều trị nên được tiếp tục trong vài ngày sau khi cơn đau và các dấu hiệu của viêm đã được giải quyết để ngăn ngừa tái phát. Colchicin đường uống, một liệu pháp kinh điển, đạt hiệu quả đáp ứng ấn tượng ở một số bệnh nhân nếu được bắt đầu sớm ngay sau khi khởi phát các triệu chứng; nó hiệu quả nhất nếu bắt đầu trong vòng 12 đến 24 giờ của cơn bộc phát gút cấp. Liều 1,2 mg có thể được theo sau với 0,6 mg 1 giờ sau đó; Đau khớp có xu hướng giảm sau
12 đến 24 giờ và đôi khi chấm dứt trong vòng 3 đến 7 ngày, nhưng thường cần tiếp tục dùng thuốc để đạt được hiệu quả có thể mất thời gian. Nếu dung nạp colchicine, có thể tiếp tục dùng 0,6 đến 1,2 mg mỗi ngày một lần khi cơn bộc phát thuyên giảm. Bệnh nhân có suy thận và tương tác thuốc, đặc biệt với clarithromycin và một số statin, phải giảm liều hoặc sử dụng các phương pháp điều trị khác. Khó chịu ở đường tiêu hóa và tiêu chảy là những tác dụng phụ thường gặp. Colchicine đường tĩnh mạch không còn có sẵn ở Mỹ. Các corticosteroid được sử dụng để điều trị các cơn bộc phát cấp. Hút dịch các khớp bị tổn thương, sau đó tiêm corticosteroid dạng este tinh thể là rất hiệu quả, đặc biệt đối với các triệu chứng một khớp; prednisolon tebutat 4 đến 40 mg hoặc prednisolon acetat 5 đến 25 mg có thể được sử dụng, với liều tùy thuộc vào kích thước của khớp bị ảnh hưởng. Prednison đường uống (khoảng 0,5 mg/kg một lần/ngày), corticosteroid tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch, hoặc một liều duy nhất hormone vỏ thượng thận (ACTH) 80 U tiêm bắp có hiệu quả, đặc biệt là trường hợp tổn thương nhiều khớp. Cũng như NSAID, corticosteroid nên được dùng tiếp trong một vài ngày sau khi cơn bộc phát hết hoàn toàn để ngăn ngừa tái phát. Nếu đơn trị liệu không có hiệu quả hoặc liều (ví dụ, NSAID) bị giới hạn bởi độc tính, colchicine có thể được kết hợp với NSAID hoặc corticosteroid. Ngoài NSAID hoặc corticosteroid, phối hợp thêm các thuốc giảm đau, nghỉ ngơi, chườm đá và nẹp cố định khớp bị viêm có thể có hiệu quả. Nếu bệnh nhân đang dùng các thuốc hạ urat máu mà khởi phát cơn bộc phát cấp tính thì nên dùng tiếp tục với liều cũ; việc chỉnh liều cần được trì hoãn cho đến khi cơn bộc phát cấp tính đã thuyên giảm. Không có chống
chỉ định bắt đầu điều trị hạ urat trong đợt bùng phát cấp tính nếu điều trị chống viêm thích hợp được đưa ra. Nếu corticosteroid, colchicine và NSAID bị chống chỉ định hoặc không hiệu quả, có thể sử dụng thuốc đối kháng IL-1, chẳng hạn như anakinra. Anakinra có thể giải quyết nhanh chóng cơn bộc phát và rút ngắn thời gian nằm viện của một bệnh nhân có nhiều bệnh phối hợp mà việc sử dụng các thuốc khác bị hạn chế. Anakinra thường được dùng dưới dạng 100 mg tiêm dưới da, 1 lần/ngày, cho đến khi hết triệu chứng. Anakinra có ưu điểm là không ảnh hưởng đến nồng độ glucose hoặc chức năng thận hoặc gây giữ nước và có thể được sử dụng cho bệnh nhân bị nhiễm trùng đang được điều trị thích hợp. Do những cân nhắc thực tế (ví dụ: chi phí), anakinra thường không được sử dụng để điều trị các đợt bùng phát bệnh gút cấp tính ở bệnh nhân ngoại trú. Tần suất bùng phát cấp tính giảm bằng cách uống 0,6 mg colchicine một lần hoặc hai lần mỗi ngày (tối đa 1,2 mg mỗi ngày tùy thuộc vào khả năng dung nạp và chức năng thận). Uống thêm hai viên colchicin 0,6 mg khi có dấu hiệu gợi ý đầu tiên của cơn có thể ngăn ngừa được cơn bộc phát. Nếu bệnh nhân đang dùng liều dự phòng colchicin và đã dùng colchicin liều cao để điều trị đợt bộc phát cấp tính trong vòng 2 tuần qua, nên thay thế bằng NSAID hoặc corticosteroid để cắt cơn bộc phát. Bệnh lý thần kinh và hoặc bệnh lý cơ (có khả năng hồi phục) có thể xảy ra khi uống colchicin kéo dài. Tình trạng này có nhiều khả năng xảy ra ở bệnh nhân suy thận và ở những bệnh nhân cũng đang dùng một số statin hoặc macrolid, nhưng có thể hiếm khi xảy ra ở những bệnh nhân không có các yếu tố nguy cơ này. Tần suất bùng phát cũng
có thể giảm khi dùng NSAID liều thấp hàng ngày nếu chức năng thận cho phép. Sử dụng corticosteroid lâu dài không phải là một liệu pháp dự phòng lý tưởng vì khả năng gây tác dụng phụ của nó. Colchicin, NSAID và corticosteroid không làm chậm quá trình tổn thương khớp do tophi gây ra vì chúng không làm giảm nồng độ urat trong huyết thanh. Các tổn thương khớp có thể được ngăn ngừa và có thể đẩy lùi với các thuốc hạ urat máu. Các chất lắng đọng topha được tái hấp thu bằng cách hạ thấp urat huyết thanh hoặc hòa tan bằng liệu pháp thay thế uricase. Duy trì nồng độ urat huyết thanh dưới điểm bão hòa (mục tiêu thường là < 6 mg/dL [< 0,35 mmol/L]) cuối cùng sẽ làm giảm tần suất của các đợt bùng phát khớp cấp tính khi các chất lắng đọng được hòa tan. Việc giảm tần suất các cơn đau khớp cấp tính được là do Ngăn chặn sản xuất urat bằng ức chế xanthine oxidase (XOI) (allopurinol or febuxostat) Tăng bài tiết urat qua nước tiểu bằng thuốc uricosuric (probenecid or losartan) Sử dụng cả hai loại thuốc cùng nhau trong bệnh gút cấp tính nặng hoặc ở những bệnh nhân không dung nạp với liều cao hơn của XOI Tăng bài tiết urat bằng cách chuyển urat thành allantoin, dễ hòa tan và bài tiết hơn, với liệu pháp thay thế uricase ở những bệnh nhân như bệnh gút có hạt tophi hoặc không đáp ứng với liệu pháp hạ urat khác Liệu pháp hạ urat được chỉ định cho những bệnh nhân bị Hạt tophi Bằng chứng về tổn thương khớp do bệnh gút trên các nghiên cứu hình ảnh Các đợt bùng phát thường xuyên hoặc gây tàn phế (ví dụ: > 2 đợt bùng phát một năm) của bệnh viêm khớp do gút Sỏi tiết niệu Bệnh nhân không thường xuyên bị cơn bộc phát nhưng có nồng độ axit uric huyết thanh > 9 mg / dL (> 0,5 mmol/L) hoặc
những người bị cơn bộc phát gây khó khăn đặc biệt Nhiều bệnh kèm theo (ví dụ bệnh loét dạ dày, bệnh thận mạn tính) là các chống chỉ định tương đối đối với các thuốc điều trị cơn bộc phát đau cấp tính tái phát (NSAID hoặc corticosteroid) Tăng axit uric máu thường không được điều trị trong trường hợp không có đợt bùng phát bệnh gút hoặc sỏi thận axit uric. Mục tiêu của liệu pháp hạ axit uric máu là làm giảm nồng độ urat huyết thanh. Nếu không có hạt tophi, mức mục tiêu hợp lý là < 6 mg/dL (< 0,35 mmol/L), thấp hơn mức bão hòa (> 6,8 mg/dL [0,4 mmol/L] ở nhiệt độ cơ thể và pH bình thường). Dữ liệu thuyết phục cho thấy tần suất bùng phát giảm khi nồng độ urat huyết thanh giảm xuống < 6 mg/dL với chiến lược điều trị theo mục tiêu này. Hai thử nghiệm chọn ngẫu nhiên có đối chứng đã xác định rằng bệnh nhân có nồng độ urat huyết thanh < 6 mg/dL bị bùng phát bệnh gút ít hơn đáng kể so với những bệnh nhân có nồng độ urat huyết thanh cao hơn. Những bệnh nhân có urat huyết thanh mục tiêu (< 6 mg/dL) đã bùng phát có ít đợt bùng phát bệnh gút hơn so với những bệnh nhân trên ngưỡng urat huyết thanh này (1). Nếu có thể sờ thấy hạt tophi hoặc nếu có khuyết tật rõ rệt do lắng đọng tophi, mục tiêu hợp lý là làm tan chúng nhanh hơn và điều này đòi hỏi mức mục tiêu thậm chí còn thấp hơn. Nồng độ urat huyết thanh càng thấp, tophi càng nhanh hết. Sau khi được cho là đã hòa tan hoàn toàn cặn lắng, urat huyết thanh có thể được phép tăng đến mức < 6 mg/dL. Các thuốc có hiệu quả trong việc giảm urat máu; chế độ ăn hạn chế nhân purin ít hiệu quả hơn, nhưng việc ăn uống thực phẩm giàu purin, rượu (bia nói riêng) và bia
không cồn là nên tránh. Hạn chế carbohydrate (đặc biệt là xi-rô ngô có hàm lượng fructose cao) và giảm cân có thể làm giảm nồng độ urat huyết thanh, đặc biệt ở những bệnh nhân kháng vì nồng độ cao ức chế bài tiết urat. Nên khuyến khích dùng các chế phẩm sữa ít béo. Vì các cơn bộc phát cấp tính có xu hướng phát triển trong những tháng đầu điều trị hạ axit uric máu, liệu pháp như vậy nên được bắt đầu kết hợp với colchicine hoặc NSAID một hoặc hai lần một ngày. Điều trị loại bỏ hạt tophi có thể mất nhiều tháng nhờ việc duy trì nồng độ urat huyết thanh ở mức thấp. Urat huyết thanh nên được đánh giá định kỳ, thường là hàng tháng trong quá trình điều chỉnh liều thuốc và sau đó ít nhất là hàng năm để đánh giá hiệu quả của liệu pháp hoặc thường xuyên hơn nếu có thay đổi thuốc hoặc tăng cân. Không nên ngừng liệu pháp hạ urat nếu bệnh nhân bị cơn bộc phát. Allopurinol, xanthine oxidase, chất ức chế tổng hợp urat, là liệu pháp hạ urat ban đầu thường được kê đơn và ưu tiên nhất. Các sỏi hoặc cặn axit uric có thể mất đi khi điều trị bằng . Điều trị thường bắt đầu với 50 đến 100 mg đường uống, 1 lần/ngày và có thể tăng dần liều lên đến 800 mg đường uống, 1 lần/ngày. Liều có thể được chia ra nếu liều duy nhất hàng ngày gây ra rối loạn đường tiêu hóa. Một số nhà lâm sàng khuyến cáo giảm liều khởi đầu ở bệnh nhân suy thận (ví dụ, 50 mg uống một lần/ngày nếu độ thanh thải creatinine < 60 mL/phút/1,73 m2) để giảm tỷ lệ phản ứng quá mẫn hệ thống hiếm gặp nhưng nặng; tuy nhiên, dữ liệu lâm sàng cho thấy hiệu quả của can thiệp này là rất hạn chế. Liều duy trì nên được xác định dựa vào nồng độ urat huyết thanh mục tiêu. Liều
dùng hàng ngày là 300 mg, nhưng liều này có hiệu quả trong việc giảm nồng độ axit uric huyết thanh xuống < 6 mg/dL (< 0,35 mmol/L) ở ít hơn 40% bệnh nhân bị bệnh gút. Sự hấp thu của allopurinol có thể giảm ở liều cao hơn 300 mg, vì vậy nên cân nhắc chia liều (ví dụ: dùng hai lần mỗi ngày). Các tác dụng không mong muốn của allopurinol bao gồm rối loạn tiêu hóa nhẹ và phát ban, có thể là dấu hiệu báo hiệu cho hội chứng Stevens-Johnson, viêm gan đe dọa đến mạng sống, viêm mạch hoặc giảm bạch cầu. Tác dụng không mong muốn gặp nhiều hơn ở những bệnh nhân có suy thận. Người mang HLA-B*5801 có nguy cơ phản ứng với cao hơn và tỷ lệ nhiễm HLA-B*5801 khác nhau tùy theo chủng tộc (2). Do đó, Hướng dẫn Xử trí Bệnh gút năm 2020 của Đại học Thấp khớp Hoa Kỳ khuyến nghị xét nghiệm HLA B*5801 cho bệnh nhân gốc Đông Nam Á (ví dụ: người Hán, Hàn Quốc, Thái Lan) và bệnh nhân Mỹ da đen và sử dụng một loại thuốc thay thế nếu dấu hiệu di truyền đó là hiện nay. bị chống chỉ định ở những bệnh nhân dùng azathioprine hoặc mercaptopurine vì nó có thể làm giảm chuyển hóa của những thuốc này và do đó làm tăng tác dụng ức chế miễn dịch và tiêu tế bào của các thuốc này. Nồng độ transaminase trong gan có thể tăng cao và nên được đo định kỳ. Febuxostat là một thuốc ức chế xanthine oxidase tổng hợp urat đắt tiền hơn (ở Mỹ). Nó đặc biệt hữu ích ở những bệnh nhân không dung nạp allopurinol, những người có chống chỉ định với allopurinol, hoặc những người dùng allopurinol mà không giảm urat như mong đợi. dường như ngăn chặn các cơn bùng phát cấp tính hiệu quả như (3). được bắt đầu với liều 40 mg uống mỗi ngày một lần và tăng lên 80 đến 120 mg uống mỗi ngày một
lần nếu urat không giảm xuống < 6 mg/dL (< 0,35 mmol/L). (tương tự ) bị chống chỉ định ở bệnh nhân dùng azathioprin hoặc mercaptopurin vì nó có thể làm giảm chuyển hóa của các thuốc này. So với , làm tăng nguy cơ tử vong trong một nghiên cứu trên bệnh nhân đã biết mắc bệnh tim mạch (4), nhưng một số nghiên cứu bổ sung đã không xác nhận quan sát này (5). Men gan có thể bị tăng và nên được theo dõi định kỳ. Pegloticase là một dạng pegylated của uricase tái tổ hợp. Uricase là một loại enzyme không có ở người, giúp chuyển đổi urat thành allantoin, chất dễ hòa tan hơn. đắt tiền và được sử dụng chủ yếu ở những bệnh nhân bị bệnh gút mà các phương pháp điều trị khác đã không thành công trong việc giảm nồng độ urat huyết thanh. cũng có thể được sử dụng ở những bệnh nhân có nhiều chất lắng đọng tophi mà không có khả năng bị hòa tan trong một khoảng thời gian hợp lý bằng các liệu pháp hạ urat khác. Nó được cho dùng theo đường tĩnh mạch, 2 đến 3 tuần một lần trong nhiều tháng (thường ít nhất là 6 đến 9 tháng) để làm cạn kiệt hoàn toàn lắng đọng urat dư thừa; nó thường làm giảm nồng độ urat huyết thanh xuống < 1 mg/dL (< 0,1 mmol/L). bị chống chỉ định ở những bệnh nhân bị thiếu G6PD vì nó có thể gây tan máu và chứng methemoglobin huyết. Truyền có thể liên quan đến các triệu chứng phù hợp với phản vệ. Hiệu quả của chế phẩm hiện có bị hạn chế bởi tốc độ phát triển cao của các kháng thể trung hòa thuốc. Nồng độ urat không giảm xuống < 6 mg/dL (< 0,35 mmol/L) sau khi truyền cho thấy khả năng có sự hiện diện của kháng thể kháng polyetylen glycol (chống PEG) và tăng nguy cơ phản ứng dị ứng trong tương lai; truyền thông thường sau đó được
dừng lại. Để ngăn các loại thuốc hạ urat khác che lấp tính không hiệu quả của , không nên sử dụng các thuốc hạ urat khác cùng với . Tuy nhiên, việc sử dụng đồng thời thuốc ức chế miễn dịch (ví dụ methotrexate) với có thể ngăn chặn sự phát triển của các kháng thể trung hòa. Điều trị bằng thuốc tăng thải acid uric rất hữu ích ở những bệnh nhân bài tiết axit uric dưới mức (phần lớn bệnh nhân tăng axit uric máu), có chức năng thận bình thường và không bị sỏi thận. Probenecid là thuốc uricosuric duy nhất có sẵn ở Hoa Kỳ. Probenecid có thể được sử dụng như đơn trị liệu nếu cả hai allopurinol và febuxostat bị chống chỉ định hoặc không dung nạp. mất hiệu quả với giảm chức năng thận và thường không hữu ích với mức lọc cầu thận 50 mL/phút/1,73 m2. Điều trị bằng bắt đầu với liều 250 mg uống 2 lần/ngày, tăng liều lên nếu cần, tối đa là 1 g uống 3 lần/ngày. Nó cũng có hiệu quả khi được thêm vào thuốc ức chế xanthine oxidase. Thuốc hạ huyết áp và thuốc hạ huyết áp fenofibrate fenofibrate đều có tác dụng giảm uric và có thể được sử dụng để giảm axit uric ở những bệnh nhân có các lý do khác. Liều salicylat thấp có thể làm giảm bài tiết axit uric và làm trầm trọng thêm tình trạng tăng axit uric máu, nhưng chỉ ở mức độ nhẹ và không nên tránh nếu có chỉ định khác như trong phòng ngừa thứ phát bệnh tim mạch. Lượng dịch nạp vào cơ thể 3 L/ngày là mức mong muốn đối với tất cả các bệnh nhân, đặc biệt là những người bị sỏi hoặc sỏi urat mạn tính. Kiềm hóa nước tiểu (với kali cytrat 20-40 mEq uống 2 lần/ngày hoặc acetazolamid 500 mg uống trước khi đi ngủ) đôi khi cũng có hiệu quả đối với bệnh nhân có sỏi axit uric dai dẳng mặc dù điều trị hạ axit
uric máu và bổ sung nước đầy đủ. Tuy nhiên, kiềm hóa nước tiểu quá mức có thể gây lắng đọng các tinh thể canxi phosphat và oxalat. Tán sỏi ngoài cơ thể với sóng xung kích có thể cần thiết để phá vỡ sỏi thận. Những hạt tophi lớn ở những vùng da khỏe mạnh có thể được phẫu thuật; còn tất cả những hạt tophi ở vùng da khác nên giải quyết một cách từ từ bằng liệu pháp hạ axit uric đầy đủ. 1. Stamp LK, Frampton C, Morillon MB, et al: Association between serum urate and flares in people with gout and evidence for surrogate status: a secondary analysis of two randomised controlled trials. Lancet Rheumatol 4: e53-e60, 2022. doi.org/10.1016/S2665-9913(21)00319-2 2. Jutkowitz E, Dubreuil M, Lu N, et al: The cost-effectiveness of HLA-B*5801 screening to guide initial urate-lowering therapy for gout in the United States. Semin Arth Rheum 46:594-600, 2017. doi: 10.1016/j.semarthrit.2016.10.009 3. O'Dell JR, Brophy MT, Pillinger MH, et al: Comparative effectiveness of and in gout management. NEJM Evid 1(3):10.1056/evidoa2100028, 2022. doi: 10.1056/evidoa2100028. Xuất bản điện tử ngày 3 tháng 2 năm 2022. PMID: 35434725; PMCID: PMC9012032. 4. White WR, Saag KG, Becker MA, et al: Cardiovascular safety of febuxostat or allopurinol in patients with gout. N Engl J Med 378:1200-1210, 2018. doi: 10.1056/NEJMoa1710895 5. Mackenzie IS, Ford I, Nuki G, et al: Long-term cardiovascular safety of compared with in patients with gout (FAST): a multicentre, prospective, randomised, open-label, non-inferiority trial. 396(10264):1745-1757, 2020. doi: 10.1016/S0140-6736(20)32234-0 Những điểm chính Mặc dù tăng lượng purin đưa vào cơ thể và tăng sản xuất có thể gây ra tăng axit uric máu, nhưng nguyên nhân phổ biến nhất của bệnh gút là do giảm bài tiết urat thứ phát do bệnh thận hoặc sự biến đổi di truyền trong hiệu quả vận chuyển axit uric. Nghi ngờ bệnh gút ở những bệnh nhân bị viêm khớp một khớp hoặc một vài khớp cấp tính đột ngột, không rõ nguyên nhân, đặc biệt nếu ngón chân cái hoặc bàn chân giữa bị ảnh hưởng hoặc có tiền sử các
đợt viêm khớp cấp tính đột ngột, không rõ nguyên nhân tự thuyên giảm trong 7 đến 10 ngày. Xác định chẩn đoán khi tìm thấy các tinh thể hình kim, các tinh thể urat lưỡng chiết phân cực mạnh ở trong dịch khớp; hoặc bằng chụp CT năng lượng kép hoặc hình ảnh siêu âm. Tài liệu về tăng axit uric máu không đủ để xác định chẩn đoán viêm khớp do gút. Điều trị các cơn bộc phát gút cấp bằng uống colchicin, một NSAID,một corticosteroid hoặc kết hợp colchicine với một NSAID hoặc một corticosteroid hoặc thuốc đối kháng interleukin-1 (IL-1). Giảm nguy cơ bùng phát trong tương lai bằng cách kê đơn colchicine, NSAID và sử dụng thuốc suốt đời để giảm nồng độ urat huyết thanh. Cho thuốc làm giảm nồng độ urat huyết thanh nếu bệnh nhân có cục tophi, > 2 đợt gút mỗi năm, sỏi niệu, hoặc nhiều bệnh đi kèm chống chỉ định dùng thuốc giảm đợt cấp; cá nhân hóa việc sử dụng liệu pháp hạ urate đang diễn ra ở những bệnh nhân khác. Giảm nồng độ urat thông thường bằng allopurinol hoặc febuxostat đơn trị liệu hoặc kết hợp với thuốc uricosuric. Tăng axit uric máu không triệu chứng Tăng uric máu không triệu chứng là tăng urat huyết thanh > 7 mg/dL (> 0,4 mmol/L) nhưng không có biểu hiện lâm sàng bệnh gút. Nói chung, việc điều trị tăng axit uric máu không triệu chứng là không bắt buộc. Hầu hết bệnh nhân tăng axit uric máu không triệu chứng với nồng độ urat huyết thanh cao tới 10 mg/dL (0,6 mmol/L) không phát triển các đợt bùng phát bệnh gút trong hơn 10 năm. Tuy nhiên, những bệnh nhân bài tiết quá nhiều urat và tái phát sỏi thận do axit uric mặc dù đã kiềm hóa nước tiểu và đủ nước có thể dùng allopurinol. Dữ liệu quan sát cho thấy tăng axit uric máu có thể góp phần vào sự tiến triển của bệnh thận mạn tính, bệnh tim mạch và ở thanh
thiếu niên, tăng huyết áp nguyên phát. Tuy nhiên, các nghiên cứu can thiệp đã không chứng minh được rằng việc giảm nồng độ urat huyết thanh làm giảm sự tiến triển của bệnh thận.
Bài viết này là phần thứ hai của loạt bài giáo dục thường xuyên xem xét các số liệu thống kê cơ bản mà các nhà công nghệ hình ảnh phân tử và NM nên hiểu. Trong bài viết này, số liệu thống kê để đánh giá tầm quan trọng và phương sai của độ chính xác trong diễn giải được thảo luận trong suốt bài viết. giải thích các phương pháp định lượng độ chính xác trong diễn giải của độ tin cậy PA giữa các trình đọc nội bộ và trình đọc nội bộ giữa các độc giả có thể được biểu thị đơn giản bằng phần trăm tuy nhiên thống kê cohen là thước đo thống nhất mạnh mẽ hơn, giải thích cho cơ hội thống kê ÎÎ càng cao thì PA giữa các độc giả càng cao khi hoặc nhiều hơn người đọc đang được so sánh fleiss Thống kê được sử dụng kiểm tra ý nghĩa xác định liệu sự khác biệt giữa các điều kiện hoặc các biện pháp can thiệp có ý nghĩa thống kê hay không thường được biểu thị bằng cách sử dụng một con số gọi là xác suất
mặc dù việc áp dụng phương pháp chụp nhũ ảnh sàng lọc ở Nhật Bản được kỳ vọng sẽ làm giảm tỷ lệ tử vong do CA vú, phương thức sàng lọc tối ưu xét về mặt hiệu quả chi phí vẫn chưa rõ ràng, chúng tôi đã so sánh tỷ lệ hiệu quả chi phí được xác định là chi phí cần thiết cho một năm tiết kiệm được trong số ba chiến lược sau đây CBE hàng năm kết hợp với chụp nhũ ảnh và khám vú lâm sàng hai năm một lần kết hợp với chụp nhũ ảnh cho phụ nữ ở độ tuổi sử dụng một đoàn hệ giả thuyết về độ đặc hiệu độ nhạy và tỷ lệ EBC được rút ra từ các nghiên cứu được thực hiện từ quận Miyagi, chi phí điều trị dựa trên khảo sát bảng câu hỏi được thực hiện tại các cơ sở ở Nhật Bản, chúng tôi đã sử dụng các thông số cập nhật cần thiết trong phân tích mặc dù hiệu quả của điều trị xét về số năm sống sót dự kiến ​​là cao nhất đối với phương thức kết hợp hàng năm phương thức kết hợp hai năm một lần có CER cao hơn, tiếp theo là phương thức kết hợp hàng năm và khám vú lâm sàng hàng năm ở tất cả các nhóm tuổi ở phụ nữ ở độ tuổi theo độ tuổi phương thức kết hợp hàng năm đã cứu được mạng sống và thời gian sống sót chi phí là yên năm trong khi đối với phương thức kết hợp hai năm một lần, các số liệu tương ứng lần lượt là yên năm và yên năm khám vú lâm sàng hàng năm không mang lại bất kỳ lợi thế nào về hiệu quả cứu sống hoặc hiệu quả chi phí yên năm trong khi phương thức kết hợp hàng năm là hiệu quả nhất xét về số năm được cứu sống ở phụ nữ ở độ tuổi phương thức kết hợp hai năm một lần được cho là
mang lại hiệu quả chi phí cao nhất
sức khỏe tự đánh giá được sử dụng thường xuyên như thước đo sức khỏe trong dân chúng nói chung và ngày càng nhiều với người khuyết tật, tuy nhiên ý nghĩa và mối quan hệ của nó với các thước đo khác về tình trạng sức khỏe tự báo cáo và tình trạng AA không được hiểu rõ đối với nhóm này, mục đích của T0 hiện tại là sử dụng MM khái niệm để kiểm tra cấu trúc SRH ở những người bị chấn thương tủy sống
VSV-G vsv đã được sử dụng làm virus mẫu để nghiên cứu các quá trình liên quan đến quá trình quang hoạt bằng nhôm phthalocyanine tetrasulfonate alpcs hoặc Si phthalocyanine hosipcosichchnch pc và CS đỏ trước đây. Người ta đã quan sát thấy sự giảm tổng hợp rna của virus nội bào T3 PDT rất nhanh, sự giảm này có liên quan đến các bước khác nhau trong chu trình sao chép IB của vsv sang tế bào chủ và quá trình nội hóa chỉ bị suy giảm nhẹ và có thể được nhìn thấy bằng kính hiển vi điện tử. Khả năng virus kết hợp với màng trong môi trường nội sinh có tính axit đã được nghiên cứu bằng cách sử dụng cả liposome gắn nhãn pyrene và xét nghiệm tan máu như a MM những thử nghiệm này cho thấy công suất F0 giảm nhanh sau khi xử lý bằng alpcs tương quan với sự giảm tổng hợp rna đối với xử lý bằng pc không tìm thấy mối tương quan như vậy quy trình F0 là bước đầu tiên trong chu trình sao chép bị ảnh hưởng bởi việc xử lý bằng alpcs cũng như trong ống nghiệm rna Hoạt tính polymerase trước đây đã được chứng minh là có tác dụng ức chế sự bất hoạt của vsv bằng cách xử lý bằng máy tính, rõ ràng là do sự phá hủy nhiều thành phần vi rút PDT của huyền phù vi rút với cả hai chất nhạy cảm gây ra sự hình thành oxodihydroguanosine trong rna của vi rút được đo bằng hplc với phát hiện EC, thiệt hại này có thể là chịu trách nhiệm một phần trong việc ức chế hoạt động RNA polymerase của virus in vitro bằng phương pháp xử lý quang động
Bốn mươi gia đình đã được nghiên cứu với các tiêu chuẩn chẩn đoán nghiêm ngặt về bệnh thận đã được chứng minh là AS kèm tiểu máu ảnh hưởng đến ít nhất hai người thân. Mất thính lực thần kinh ở ít nhất một cá thể bị ảnh hưởng và tiến triển thành suy thận ở ít nhất một cá thể bị ảnh hưởng. Tỷ lệ con cái bị ảnh hưởng của con cái bị ảnh hưởng là như nhau không khác biệt đáng kể so với tỷ lệ được mong đợi đối với một đặc điểm trội, dòng dõi của những con đực bị ảnh hưởng cho thấy thiếu con đực bị ảnh hưởng trong bốn gia đình có quan hệ họ hàng với cha mẹ và cha mẹ không bị ảnh hưởng. các cặp anh em, chú cháu và cả gia đình cho thấy sự giống nhau rõ ràng trong nội bộ gia đình, chúng tôi kết luận rằng hội chứng alport dường như là một trạng thái không đồng nhất bao gồm một số hội chứng khác biệt về mặt di truyền với một AD là một dạng trội liên kết x và một dạng lặn nhiễm sắc thể thường
escherichia coli sta được bổ sung vào niêm mạc làm tăng sự tiết cl mang điện được đo khi SCC được phân bố trên các cơ bị cô lập ở giữa chuột đã được cắt bỏ và không bị tước cơ được ủ trong ống nghiệm i.c.v. với serosal lname n omeganitrolarginine methyl ester hoặc tetrodotoxin ttx làm giảm đáng kể isc tối đa và thời gian tác dụng của sta trong ilea không bị tước bỏ nhưng không bị tước bỏ. isc của sta và thời gian tác dụng của nó ở hồi tràng chưa được tước bỏ larginine gây ra sự gia tăng lớn hơn đáng kể về isc trên hồi tràng chưa được tước bỏ so với trên hồi tràng bị tước, điều này có thể giảm đáng kể bởi lname huyết thanh hoặc ttx mặc dù những điều này không hiệu quả trong việc xử lý trước hồi tràng bị tước bỏ của chuột được gây mê bằng ip lname ức chế sự tiết dịch do sta ở lòng ruột ở hồi tràng in vivo nhưng không có tác dụng đối với sự tiết dịch do sta carbachol niêm mạc ở lòng chuột gây ra làm tăng tiết cl mang điện qua IN chuột hồi tràng in vitro bằng cách kích hoạt phản xạ giây qua trung gian đám rối thần kinh cơ ruột phụ thuộc oxit nitric nhạy cảm với capsaicin bằng lname của sta gây ra sự tiết dịch hồi tràng in vivo có thể liên quan đến việc ức chế phản xạ này
Tuy nhiên, tất cả các pid PID của con người được công nhận như vậy trong thế kỷ 20 đều là các đặc điểm mendel và dù nhiễm sắc thể thường hay liên kết x có biểu hiện tính di truyền lặn thì mã gen lặn ad pid HAE nhiễm sắc thể thường đầu tiên đã được công nhận kể từ ID đầu tiên của gen lặn nhiễm sắc thể thường ar xr liên kết xr và các gen gây ra gen ad trong ada suy giảm miễn dịch kết hợp nghiêm trọng cybb CGD và serping HAE tương ứng số lượng ad pid được xác định về mặt di truyền đã tăng nhanh hơn bất kỳ loại pid ad nào khác hiện nay giải thích cho các tình trạng đã biết, tất cả các ar pid đã biết đều do các alen có một số mất chức năng lof a gây ra pid xr đơn được gây ra bởi các đột biến tăng cường chức năng gof. Giảm bạch cầu trung tính có liên quan, ngược lại, các khiếm khuyết quảng cáo là do các alen lof gây ra sự thống trị bởi sự đơn bội hoặc sự thống trị tiêu cực do các rối loạn quảng cáo thuộc loại thứ ba do các alen gof đã được mô tả đáng chú ý là sáu trong số các các gen có liên quan cũng chứa các alen stat song song đơn alen c cfb pikr hoặc cả các alen stat đơn alen và song song ở những bệnh nhân có kiểu hình lâm sàng khác, hầu hết các alen gof dị hợp tử dẫn đến tự miễn dịch tự viêm hoặc cả hai với nhiều dạng miễn dịch và lâm sàng, một số cũng là nguyên nhân gây nhiễm trùng và ít hơn dị ứng bằng cách làm suy yếu hoặc tăng cường khả năng miễn dịch đối với các khối u ác tính không phải của bản thân cũng rất hiếm. Sự đa dạng to lớn của các kiểu hình miễn dịch và lâm sàng được cho là
kích thích và phản ánh sự đa dạng và tính đa dạng của các kiểu gen cơ bản.
trong khi hoạt động ghi lại từ các sợi cơ riêng lẻ bằng SFEMG sfemg được kích thích thông qua các sợi trục của chúng hoặc trực tiếp thì chiều dài của sợi cơ được ghi lại bị kéo dài hoặc làm ngắn lại bằng cách thao tác với kim ghi hoặc bằng chuyển động khớp thụ động, điều này dẫn đến những thay đổi đáng kể của RL tương ứng với sự gia tăng tốc độ lan truyền khi rút ngắn sợi cơ và làm chậm quá trình kéo dài của nó, mức tăng vận tốc tối đa được ước tính và làm chậm lại khoảng những thay đổi phụ thuộc vào chiều dài này của tốc độ lan truyền sợi cơ được cho là góp phần vào giai đoạn siêu thường của chức năng phục hồi vận tốc truyền và để chịu trách nhiệm về một phần quan trọng của sự dao động phụ thuộc vào khoảng thời gian phóng điện của cơ
VC là một đặc điểm nổi bật của chứng xơ vữa động mạch nhưng các cơ chế cơ bản của VC vẫn chưa được biết rõ vì các protein liên quan đến xương như Osteonectin Osteocalcin và MGP đã được phát hiện trong các mô mạch máu bị vôi hóa. Sự vôi hóa được coi là một quá trình điều hòa có tổ chức tương tự như quá trình khoáng hóa trong mô xương cơ trơn V1. tế bào vsmcs hiện được coi là nguyên nhân hình thành vôi hóa mạch máu. apoptosis của vsmcs dường như là yếu tố chính trong quá trình này trong khi các yếu tố khác bao gồm tương tác tế bào, đại thực bào và vsmcs lipid và photphat vô cơ trong huyết tương C2 điều chỉnh quá trình vôi hóa, trọng tâm của tổng quan này là về vai trò của vsmcs trong OD của vôi hóa trong mảng AS
Nguyên nhân hình thành khớp cắn ngược loại 3 là gì? Điều này có hại không? Sở hữu một hàm răng có khớp cắn chuẩn sẽ đem lại tác dụng thẩm mỹ cao và đảm bảo sức khỏe cho răng miệng. Tuy nhiên nếu ngược khớp cắn thì không chỉ làm mất đi vẻ đẹp của khuôn mặt mà còn gây nên nhiều vấn đề bệnh lý nguy hiểm. Trong đó, khớp cắn ngược loại 3 được coi là một trong những trường hợp ngược khớp cắn nghiêm trọng. Bài viết dưới đây sẽ phân tích các nguyên nhân dẫn đến tình trạng này và cung cấp các giải pháp điều trị phù hợp. 1. Khái niệm và nguyên nhân dẫn đến khớp cắn ngược loại 3 là gì? Khớp cắn ngược loại 3 còn hay được gọi là móm xảy ra khá phổ biến. Bất kể ai trong độ tuổi nào cũng có thể gặp phải hiện tượng này. Khi răng bị móm sẽ làm mất cân đối giữa hàm dưới và và hàm trên do răng hàm trên bị bao phủ bởi các răng cửa hàm dưới. Những ca móm nặng còn bị đưa cả xương hàm dưới ra phía trước, ở góc độ nghiêng sẽ thấy hình dáng của mặt bị gãy ảnh hưởng nghiêm trọng tới tính thẩm mỹ. Khớp cắn loại 3 được chia thành 2 dạng theo mức độ nặng nhẹ: Khớp cắn ngược do cấu trúc của răng: là khi cấu trúc của xương hàm hoàn toàn bình thường nhưng vấn đề là nằm ở cấu trúc răng cửa mọc sai hướng. Về lâu dài nếu không điều trị sớm thì tình trạng này cũng sẽ tác động đến xương hàm, nhất là khi trẻ đang trong thời kỳ phát triển về thể chất; Khớp cắn ngược do cấu tạo của xương: là khi xương hàm trên phát triển kém hay xương hàm dưới phát triển quá mức làm cụp sâu các răng cửa hàm trên so với hàm dưới. Khớp cắn ngược loại 3 có thể xuất phát từ nhiều nguyên do
khác nhau, trong đó 70% là bắt nguồn từ yếu tố di truyền. Nếu người thân trong gia đình (thế hệ trước) có đặc điểm này thì trẻ sinh ra có nguy cơ rất cao là cũng gặp phải tình trạng tương tự. Ngoài ra còn một nguyên nhân ít ai biết đó là thói quen xấu từ nhỏ cha mẹ không phát hiện ra sớm. Cụ thể đó là thói quen chống cằm, đẩy lưỡi răng cửa hàm dưới, thở bằng miệng, mút tay, nghiến răng, cai ti giả muộn,... trong giai đoạn trẻ đang phát triển cấu trúc xương và răng thì những tác động nêu trên nếu duy trì trong thời gian dài sẽ dẫn đến khớp cắn ngược loại 3. 2. Khớp cắn ngược loại 3 để lại hậu quả như thế nào? Ngay từ lúc quan sát hình thức bên ngoài chúng ta đã thấy được sự sai lệch này tác động không nhỏ tới tính thẩm mỹ của gương mặt. Ngoài ra bệnh nhân sẽ gặp khó khăn trong quá trình nhai, cắn, nghiền nát thức ăn do độ chênh lệch giữa hai hàm. Thêm vào đó, sức khỏe răng miệng cũng bị ảnh hưởng không nhỏ. Một số tác hại điển hình khi gặp phải tình trạng khớp cắn ngược loại 3 đó là: Ảnh hưởng đến vẻ bề ngoài, tự ti khi giao tiếp: không những phá vỡ cấu trúc của hàm mà còn làm mất đi vẻ đẹp của nụ cười và hình dáng gương mặt. Khi đó bệnh nhân sẽ có khuôn mặt lưỡi cày do phần cằm bị đưa ra trước quá mức, nhìn tổng thể trông rất mất cân đối. Vì mặc cảm về ngoại hình nên người bệnh thường tự ti trong giao tiếp, cản trở đến công việc và các mối quan hệ xã hội; Khó phát âm, nói ngọng: khả năng phát âm khi bị ngược khớp cắn sẽ hạn chế hơn. Người bệnh nói ngọng, nói không rõ chữ do không khép kín được miệng. Điều này không những khiến người nghe cảm thấy
khó chịu mà còn cản trở hoạt động giao tiếp thường ngày; Giảm khả năng nhai: chức năng nhai cắn sẽ không hoạt động bình thường vì hai hàm bị lệch nhau. Đôi khi điều này sẽ gây chán ăn cho người bệnh; Đau răng và khớp thái dương hàm: ngược khớp cắn loại 3 còn khiến áp lực khớp hàm gia tăng, dẫn tới rối loạn và đau mỏi khớp thái dương hàm, nguy cơ bào mòn, lung lay và gãy rụng răng; Nguy cơ mắc các bệnh lý về răng miệng: tình trạng khớp cắn ngược gây khó khăn trong việc vệ sinh răng miệng, thức ăn dễ bị dắt lại trong các kẽ hở tạo cơ hội để vi khuẩn tích tụ và sinh sôi. Từ đó các bệnh lý răng miệng có thể xuất hiện và người bệnh phải chịu nhiều đau đớn, bao gồm viêm lợi, sâu răng, viêm nha chu,... Thêm vào đó, lệch khớp cắn cùng hệ lụy ăn nhai kém kéo dài còn làm tăng nguy cơ mắc các bệnh liên quan đến dạ dày và tiêu hóa. Do thức ăn chưa kịp được nghiền nát đã đi thẳng xuống dạ dày, khiến cơ quan này phải hoạt động vất vả hơn, hệ tiêu hóa vì thế mà chịu áp lực lớn hơn làm ảnh hưởng tới sức khỏe đường ruột. 3. Đâu là giải pháp tối ưu nhất trong điều trị khớp cắn ngược loại 3? Tình trạng móm răng hay ngược khớp cắn loại 3 hoàn toàn có cơ hội chữa khỏi thông qua can thiệp bằng các biện pháp nha khoa. Phụ thuộc và mức độ sai lệch của hai hàm mà bác sĩ sẽ chỉ định giải pháp phù hợp, đó có thể là niềng răng hoặc phẫu thuật xương hàm. 3.1. Phương pháp niềng răng Chỉnh nha niềng răng là biện pháp được ưu tiên hàng đầu đối với những trường hợp người bệnh bị khớp cắn ngược do răng mọc không đúng hướng. Chỉnh răng bằng khí cụ niềng sẽ giúp điều chỉnh và sắp xếp
lại răng một cách ngay ngắn, về lại đúng vị trí như mong muốn. Bạn có thể tự đưa ra lựa chọn vật liệu chỉnh nha sẽ là mắc cài kim loại, mắc cài sứ hoặc khay niềng trong suốt sao cho phù hợp với tình trạng răng mà mình đang gặp phải và khả năng đáp ứng tài chính của bản thân. Mỗi phương pháp sẽ đem lại sự khác biệt về hiệu quả sử dụng, thời gian điều trị cũng như tính thẩm mỹ trong quá trình niềng. 3.2. Phẫu thuật xương hàm móm Nếu nguyên nhân dẫn đến ngược khớp cắn loại 3 là do cấu trúc xương hàm thì biện pháp chỉnh nha niềng răng sẽ ít đem lại hiệu quả rõ rệt. Thay vào đó bác sĩ sẽ chỉ định nên thực hiện phẫu thuật để cải thiện tình trạng này. Chỉ những bệnh nhân đã đủ 18 tuổi trở lên mới áp dụng được vì đây là độ tuổi đã ổn định về cấu trúc xương hàm. Đối với trường hợp bị nặng thì cần phối hợp cả 2 phương pháp là niềng răng và phẫu thuật thì mới khắc phục được tình trạng khớp cắn ngược loại 3. Trong đó, niềng răng là phương pháp được áp dụng trước để việc phẫu thuật chỉnh hàm sẽ thuận lợi hơn. Như vậy, để kiểm tra và xác định nguyên nhân gây sai khớp cắn loại 3 là do răng hay do xương hàm thì tốt hơn hết bạn nên đi khám trực tiếp tại cơ sở Nha khoa uy tín, chất lượng. Bạn có thể tham khảo Chuyên khoa Răng Hàm Mặt của Bệnh viện Đa khoa MEDLATEC là lựa chọn của rất nhiều khách hàng trong thời gian gần đây. MEDLATEC quy tụ các chuyên gia đầu ngành giàu kinh nghiệm về chăm sóc sức khỏe răng miệng, kết hợp cùng với đó là hệ thống máy móc, trang thiết bị được MEDLATEC nhập khẩu trực tiếp từ các quốc gia có trình độ nha khoa tiên tiến giúp hỗ trợ hiệu quả
trong việc chẩn đoán và điều trị. Hãy liên hệ ngay với MEDLATEC qua Tổng đài 1900 56 56 56 để được tư vấn trực tiếp và kỹ lưỡng hơn bạn nhé! Để được tư vấn trực tiếp cùng bác sĩ và hiểu rõ tình trạng răng - miệng của mình, Quý khách hàng cũng có thể liên hệ ngay đội ngũ tiến sĩ, bác sĩ trên 15 năm kinh nghiệm của Hệ thống nha khoa Med Dental - Medlatec tại: - Tổng đài: 1900 4000 66 | Đường dây nóng: 0985 01 8688 (Gọi điện - Zalo) - Website: meddental. vn : 87 Bùi Thị Xuân, Hai Bà Trưng, Hà Nội : 03 Khuất Duy Tiến, Thanh Xuân, Hà Nội : 99 Trích Sài, Tây Hồ, Hà Nội : 42-44-66 Nghĩa Dũng, Ba Đình, Hà Nội : 31 Ngõ 23 Lê Văn Lương, Thanh Xuân, Hà Nội
Dịch chiết etanolic của loài Elephantopus mollis tạo ra ba chất chống ung thư gây độc tế bào mới là germanacranolides molephantin molephantinin và phantomolin. Dịch chiết cũng tạo ra ba loại triterpenes không hoạt động đã biết là betaamyrin axetat lupeol axetat và epifriedelanol cũng như stirysterol cấu trúc và hóa học lập thể của các chất chống ung thư gây độc tế bào molephantin molephantinin và ph Phantomolin đã được xác định trên Cơ sở của các biến đổi hóa học và bằng chứng quang phổ sơ bộ Các xét nghiệm RT in vivo chỉ ra rằng molephatinin và ph Phantomolin là những chất ức chế mạnh EAC và carcinosarcoma molephantinin của walker cũng cho thấy hoạt động chống thiếu máu đáng kể ở một màn hình tế bào lympho p
Bài báo này đánh giá sự điều hòa của các tế bào thần kinh tiết vasopressin và oxytocin ở vùng dưới đồi trong phản ứng thần kinh với PVE nhiều câu hỏi vẫn chưa được trả lời liên quan đến cách tăng thể tích ảnh hưởng đến tiết hormone thần kinh tuyến yên thụ thể nào quan trọng trong việc trung gian phản ứng này và con đường thần kinh nào chịu trách nhiệm truyền tín hiệu từ các thụ thể đó đến vùng dưới đồi PVE kích hoạt các vùng của NS trung tâm liên quan đến ức chế giải phóng vasopressin tiết oxytocin và ức chế SNA thụ thể tim không phải thụ thể áp suất động mạch chủ yếu chịu trách nhiệm kích hoạt các vùng liên quan đến điều hòa tiết vasopressin và dòng chảy giao cảm các kích thích khác chưa được xác định là nguyên nhân kích hoạt các tế bào thần kinh tiết oxytocin Các thí nghiệm EP đã đo lường sự ức chế của các tế bào thần kinh tế bào lớn tiết vasopressin ở nhân trên thị bằng cách kích thích chọn lọc các thụ thể tim ở khớp nối tĩnh mạch chủ nhĩ các thí nghiệm tiếp theo cho thấy rằng vùng quanh nhân một quần thể tế bào thần kinh bao quanh SO là một phần cần thiết của con đường mà qua đó sự kéo dài tĩnh mạch chủ nhĩ làm giảm khả năng kích thích của các tế bào thần kinh vasopressin vùng quanh nhân cũng là một khớp thần kinh cần thiết cho sự ức chế trung gian của thụ thể áp suất động mạch của các tế bào thần kinh vasopressin điều này cho thấy các con đường thần kinh ức chế vasopressin PR để đáp ứng với sự gia tăng huyết áp và sự gia tăng thể tích máu có thể chồng chéo ở vùng quanh nhân của SO cuối cùng sự tích hợp của nhiều con đường thần kinh được kích hoạt bởi nhiều thụ thể để cuối cùng xác định hoạt động
của các tế bào thần kinh lớn và tiết vasopressin được thảo luận
Biểu hiện của tắc ống dẫn tinh thế nào?Tắc ống dẫn tinh là tình trạng ống dẫn tinh trùng của nam giới bị chặn ở vị trí nào đó, khiến tinh trùng không thể thoát ra ngoài khi xuất tinh như bình thường. Đây là hiện tượng liên quan trực tiếp đến khả năng sinh sản của nam giới. Biểu hiện của tắc ống dẫn tinh cùng những kiến thức liên quan sẽ được cung cấp sau đây. Tắc ống dẫn tinh là tình trạng ống dẫn tinh trùng của nam giới bị chặn ở vị trí nào đó, khiến tinh trùng không thể thoát ra ngoài khi xuất tinh như bình thường. Đây là hiện tượng liên quan trực tiếp đến khả năng sinh sản của nam giới. Biểu hiện của tắc ống dẫn tinh cùng những kiến thức liên quan sẽ được cung cấp sau đây. Tắc ống dẫn tinh ảnh hưởng đến chức năng sinh sản khiến các cặp vợ chồng lo lắng. 1. Biểu hiện của tắc ống dẫn tinh – Nam giới bị tắc ống dẫn tinh thì tinh hoàn có thể bị thu hẹp nhẹ. – Sờ nắn mào tinh hoàn hoặc ống dẫn tinh sẽ có cảm giác bất thường. – Kiểm tra xét nghiệm tinh dịch không thấy tinh trùng hoặc là tinh trùng rất ít. – Kiểm tra nồng FSH thấy bình thường hoặc hơi cao. – Nam giới tắc ống dẫn tinh dẫn đến tình trạng không thể sinh con dù vẫn quan hệ bình thường không sử dụng biện pháp tránh thai. 2. Nguyên nhân của tắc ống dẫn tinh – Do dị tật bẩm sinh: Cơ quan sinh sản nam giới có thể gặp phải một số dị tật như không có thân và đuôi mào tinh hoàn, ống dẫn tinh bị khiếm khuyết một đoạn hoặc toàn bộ; ống dẫn tinh với mào tinh hoàn không kết nối nhau… gây ra các rối loạn tắc tại ống dẫn tinh. Một số dị tật ở cơ quan sinh dục nam giới có thể gây tắc ống dẫn tinh.
– Do mắc các bệnh viêm nhiễm cơ quan sinh dục: Những người mắc các bệnh viêm nhiễm cơ quan sinh dục như viêm tuyến tiền liệt, viêm mào tinh hoàn, viêm túi tinh… thường bị tắc ống dẫn tinh. – Tắc ống dẫn tinh còn là biến chứng nặng của các bệnh lây qua quan hệ tình dục như giang mai, lậu, tạp khuẩn, kí sinh trùng… – Do có các khối u : Việc hình thành các khối u như ung thư túi tinh, ung thư mào tinh hoàn, ung thư tuyến tiền liệt… cũng có thể là nguyên nhân gây tắc ống dẫn tinh. – Chấn thương: Đây là nguyên nhân thường gặp gây ra tắc ống dẫn tinh ở nam giới. Chấn thương đáy chậu, chấn thương vùng bẹn bìu, nếu như không được điều trị đúng phương pháp sẽ dẫn đến hậu quả tắc ống dẫn tinh. – Do tổn thương trong quá trình tiểu phẫu: Những nam giới tiến hành các tiểu phẫu điều trị thoát vị, tiểu phẫu giãn mạch thừng tinh, ung thư thừng tinh, tiểu phẫu tại tuyến tiền liệt, thắt ống dẫn tinh triệt sản hay can thiệp chụp ống dẫn tinh không an toàn … cũng làm tăng nguy cơ tổn thương ống dẫn tinh, gây ra các tổn thương và để lại sẹo ở ống dẫn tinh làm tắc ống dẫn tinh. 3. Cách xử trí tắc ống dẫn tinh thế nào? Tắc ống dẫn tinh gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng chức năng sinh sản, hạnh phúc gia đình cần phát hiện và điều trị ngay khi phát hiện bệnh. Cần phát hiện và điều trị ngay khi phát hiện bệnh tại cơ sở y tế uy tín. Tại cơ sở y tế, bác sĩ sẽ thăm khám và chỉ định phương pháp điều trị tùy thuộc tình trạng:
Tại sao lại ho có đờm? có thể dẫn đến tắc thở, tử vongHo có đờm thường là triệu chứng nhiều người gặp phải, bệnh gây nguy hiểm hơn ho khan. Nếu đờm tích tụ quá nhiều trong cổ họng mà không được lấy ra ngoài có thể dẫn đến tắc thở, tử vong. Vậy tại sao lại ho có đờm và điều trị như thế nào? Ho có đờm thường là triệu chứng nhiều người gặp phải, bệnh gây nguy hiểm hơn ho khan. Nếu đờm tích tụ quá nhiều trong cổ họng mà không được lấy ra ngoài có thể dẫn đến tắc thở, tử vong. Vậy tại sao lại ho có đờm và điều trị như thế nào? 1. Ho do viêm họng cấp Ho có đờm thường là triệu chứng nhiều người gặp phải, bệnh gây nguy hiểm hơn ho khan. Khi bị viêm họng cấp, người bệnh có thể ho có đờm hoặc ho khan, sốt cao, nhưng có khi không sốt, nuốt vướng và có cảm giác rát họng. Bên cạnh đó họng người bệnh có thể đỏ, có hạt hoặc có mủ. amidan sưng. 2. Viêm khí quản, phế quản cấp Người bệnh thường có triệu chứng sốt cao, giai đoạn đầu ho khan, giai đoạn sau có thể xuất hiện đờm. Đờm đặc hoặc loãng, màu trắng hoặc vàng. Bệnh nếu được điều trị sớm sẽ nhanh khỏi. 3. Viêm phế quản mạn 75% người viêm phế quản mạn là do hút thuốc lá. Lúc này người bệnh thường ho có nhiều đờm, mỗi năm ho khạc 3 tháng, kéo dài trong hai năm liền. Bệnh hay tái phát do những đợt bội nhiễm hoặc tiếp xúc với các tác nhân gây viêm chẳng hạn như không khí lạnh, độ ẩm cao, hít phải hơi độc. 4. Giãn phế quản Ho thường xuất hiện nhiều vào buổi sáng và có rất nhiều đờm. Nếu nhu để đờm vào cốc sẽ thấy lắng thành 3 lớp: dưới là mủ, giữa là chất nhày, lớp trên cùng là bọt lẫn dịch. Giãn phế quản
đôi khi còn ho ra máu. Hay tái phát do đợt bội nhiễm. 5. Hen phế quản Hen phế quản thường gặp người trẻ tuổi và trung niên. Người bệnh không sốt. Khó thở từng cơn, cơn thường gặp về ban đêm, trong lúc khó thở thường thấy tiếng rít cò cử. Sau cơn người bệnh thường ho và khạc ra nhiều đờm trắng, loãng. Hay tái phát nhiều lần do bội nhiễm, lúc này đờm có màu vàng. Sau cơn hen phế quản người bệnh thường ho và khạc ra nhiều đờm trắng, loãng. 6. Viêm phổi Người bệnh thường sốt cao, rét run, đau ngực, ho có đờm quánh, dính, màu rỉ sắt. Bạch cầu trong máu thường tăng cao. Chụp Xquang phổi có hình ảnh viêm phổi. 7. Lao phổi Sốt về chiều, người gầy, sút cân, chán ăn. Bên cạnh đó người bệnh còn ho dai dẳng, ra đờm đặc, đôi khi lẫn máu hoặc ho ra máu tươi. Tìm thấy vi khuẩn lao trong đờm. 8. Áp-xe phổi Người áp xe phổi thường có triệu chứng sốt cao, đau ngực, ho khan hoặc có đờm. Khi ổ áp-xe vỡ thông vào phế quản thì người bệnh ho ra nhiều đờm như mủ, mùi tanh hoặc rất thối. 9. Bệnh bụi phổ Nếu ho có đơm kéo dài bạn cần đến cơ sở chuyên khoa để thăm khám và điều trị Người tiếp xúc với bụi ở công trường, hầm mỏ, làm đường, công nhân nhà máy dệt, may, xi-măng… thường có nguy cơ cao mắc bệnh phủi phổi. Bệnh nhân thường ho kéo dài, ra đờm màu đen, đục. Những đợt bội nhiễm thì ho tăng hơn. Bệnh thường kéo dài, làm ảnh hưởng đến toàn thân. 10. Bệnh màng phổi Viêm màng phổi có dịch, ho do màng phổi bị kích thích, ho khi thay đổi tư thế. 11. Ung thư phế quản Bệnh thường gặp ở người già, người hút thuốc lá. Người bệnh thường có triệu chứng gầy sút nhanh, ăn uống kém, đau ngực, ho ra máu. U chèn ép nhiều
gây khó thở, xẹp phổi. Người bệnh cần chụp Xquang, chụp cắt lớp vi tính lồng ngực để xác định.
Cách phát hiện sớm trẻ bị suy dinh dưỡng 1. Suy dinh dưỡng là gì? Suy dinh dưỡng được định nghĩa là sự thiếu hụt, mất cân bằng hoặc dư thừa trong khẩu phần ăn của một người. Nó bị ảnh hưởng bởi số lượng tuyệt đối nhưng cũng có thể do chất lượng của khẩu phần ăn.Suy dinh dưỡng có thể dẫn đến thấp cân so với chiều cao (thể gầy còm), thấp so với tuổi (suy dinh dưỡng thể thấp còi) và thấp cân so với tuổi (thể nhẹ cân). Thiếu dinh dưỡng là kết quả của việc tiêu thụ thức ăn kém về số lượng và chất lượng hoặc bệnh tật thường xuyên.Các dấu hiệu và triệu chứng của suy dinh dưỡng có thể khác nhau, tùy thuộc vào loại. Biểu hiện trẻ suy dinh dưỡng phổ biến nhất là giảm cân không chủ ý, nhưng trẻ cũng có thể có một hoặc một số triệu chứng sau:Giảm mỡ và khối lượng cơMá hóp và đôi mắt trũng sâu. Bụng chướng to. Chậm lành vết thương. Tóc và da khô. Mệt mỏi. Khó tập trung. Trầm cảm và lo âu. Có một số dấu hiệu và triệu chứng khác, nhưng những dấu hiệu và triệu chứng này thay đổi tùy theo loại suy dinh dưỡng và giai đoạn của vòng đời bị ảnh hưởng. Sự phát triển thể chất bị cản trở, khả năng miễn dịch bị suy giảm, bệnh tật thường xuyên, thay đổi niêm mạc ruột, thay đổi tóc và da, hạn chế phát triển trí não, xương yếu là một số triệu chứng khác.Thiếu dinh dưỡng dẫn đến hạn chế tăng trưởng thể chất nghiêm trọng và các vấn đề sức khỏe, làm tăng nguy cơ nhiễm trùng cũng như tử vong. Do đó, cần phát hiện trẻ suy dinh dưỡng sớm để kịp thời chăm sóc và điều trị. 2. Cách phát hiện trẻ suy dinh dưỡng Để đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ một cách toàn diện nhất cần có 3 chỉ số như sau:Cân nặng theo tuổi. Chiều cao
theo tuổi. Cân nặng theo chiều cao. Khi đã có được các chỉ số này, các chuyên gia dinh dưỡng hoặc các bác sĩ sẽ so sánh nó với quần thể tham khảo NCHS (National Centre of Health Statistics) được Tổ chức Y tế Thế giới khuyến nghị áp dụng cho trẻ dưới 5 tuổi (năm 2006) và cho trẻ trong độ tuổi đi học (năm 2007).Dưới đây là bảng đánh giá tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ:A - Trẻ dưới 5 tuổi. Bảng 1: Chỉ số cân nặng theo tuổi với Z - core Chỉ số Z - core Đánh giá < - 3SD Trẻ bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, mức độ nặng < - 2SD Trẻ bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, mức độ vừa - 2SD <=Z- core<= 2SD Trẻ bình thường > 2SD Trẻ bị thừa cân > 3 SD Trẻ bị béo phì Bảng 2: Chỉ số chiều cao theo tuổi với Z - core Chỉ số Z - core Đánh giá < - 3SD Trẻ bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, mức độ nặng < - 2SD Trẻ bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, mức độ vừa - 2SD <=Z- core<= 2SD Trẻ bình thường > 2SD > 3 SD Bảng 3: Chỉ số cân nặng theo chiều cao với Z - core Chỉ số Z - core Đánh giá < - 3SD Trẻ bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, mức độ nặng < - 2SD Trẻ bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, mức độ vừa - 2SD <=Z- core<= 2SD Trẻ bình thường > 2SD Trẻ bị thừa cân > 3 SD Trẻ bị béo phì Bảng 4: Chỉ số BMI theo tuổi với Z - core Chỉ số Z - core Đánh giá < - 3SD Trẻ bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, mức độ nặng < - 2SD Trẻ bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, mức độ vừa - 2SD <=Z- core<= 2SD Trẻ bình thường > 2SD Trẻ bị thừa cân > 3 SD Trẻ bị béo phì Phát hiện
trẻ suy dinh dưỡng qua các chỉ số B - Trẻ từ 5 - 9 tuổi. Bảng 5: Chỉ số cân nặng theo tuổi với Z - core Chỉ số Z - core Đánh giá < - 3SD Trẻ bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, mức độ nặng < - 2SD Trẻ bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, mức độ vừa - 2SD <=Z- core<= 2SD Trẻ bình thường > 2SD Trẻ bị thừa cân > 3 SD Trẻ bị béo phì Bảng 6: Chỉ số chiều cao theo tuổi với Z - core Chỉ số Z - core Đánh giá < - 3SD Trẻ bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, mức độ nặng < - 2SD Trẻ bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, mức độ vừa - 2SD <=Z- core<= 2SD Trẻ bình thường > 2SD > 3 SD Bảng 7: Chỉ số BMI theo tuổi với Z - core Chỉ số Z - core Đánh giá < - 3SD Trẻ bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, mức độ nặng < - 2SD Trẻ bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, mức độ vừa - 2SD <=Z- core<= 2SD Trẻ bình thường > 2SD Trẻ bị thừa cân > 3 SD Trẻ bị béo phì C - Trẻ từ 10 - 19 tuổi. Bảng 8: Chỉ số chiều cao theo tuổi với Z - core Chỉ số Z - core Đánh giá < - 3SD Trẻ bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, mức độ nặng < - 2SD Trẻ bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, mức độ vừa - 2SD <=Z- core<= 2SD Trẻ bình thường > 2SD > 3 SD Bảng 9: Chỉ số BMI theo tuổi với Z - core Chỉ số Z - core Đánh giá < - 3SD Trẻ bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, mức độ nặng < - 2SD Trẻ bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, mức độ vừa - 2SD <=Z- core<= 2SD Trẻ bình thường > 2SD Trẻ bị thừa cân > 3 SD Trẻ bị béo phì Dựa vào các bảng
trên sẽ phân loại được tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em trên lâm sàng bằng cách sau:Suy dinh dưỡng: Chỉ số cân nặng theo tuổi < –2SD so với quần thể tiêu chuẩn NCHS. Chỉ số này biểu hiện tình trạng thiếu hụt về dinh dưỡng, tuy nhiên không thể đánh giá được tình trạng thiếu hụt đó xảy ra trong khoảng thời gian hiện tại hay trước đó. Nhưng đây vẫn được coi là chỉ số dễ áp dụng nhất trong cộng đồng nên nó vẫn thường được các bác sĩ sử dụng như một chỉ số chuẩn để đánh giá tình trạng thiếu hụt dinh dưỡng của cộng đồng trong tất cả các cuộc điều tra về dinh dưỡng. Chỉ số này cũng được dùng để phát hiện sớm tình trạng thiếu hụt vi chất dinh dưỡng ở trẻ nhỏ. Sau khi đã có được hướng chẩn đoán suy dinh dưỡng dựa trên các chỉ số còn lại để đánh giá tình trạng suy dinh dưỡng cụ thể.Suy dinh dưỡng cấp: Biểu hiện chỉ số chiều cao theo tuổi bình thường, nhưng chỉ số cân nặng/chiều cao < -2SD cho thấy tình trạng suy dinh dưỡng mới diễn ra và chế độ ăn hiện tại chưa phù hợp với nhu cầu của trẻ.Suy dinh dưỡng mãn đã phục hồi: Biểu hiện chỉ số chiều cao theo tuổi < -2SD nhưng chỉ số cân nặng theo chiều cao lại bình thường. Cho thấy sự thiếu hụt dinh dưỡng đã xảy ra trong một khoảng thời gian dài, tình trạng nặng nề và xảy ra sớm vì đã gây ảnh hưởng trên sự phát triển tầm vóc của trẻ. Nhưng tình trạng dinh dưỡng hiện nay đã được phục hồi, ở những đối tượng này cần thận trọng với nguy cơ béo phì do ảnh hưởng của biến chứng suy dinh dưỡng là chiều cao thấp.Suy dinh dưỡng mạn tiến triển: Biểu hiện chỉ số chiều cao theo tuổi < -2SD và chỉ số cân nặng theo chiều cao cũng < -2SD cho thấy tình trạng thiếu hụt
dinh dưỡng đã xảy ra trong quá khứ và vẫn tiếp tục tái diễn ở hiện tại.Suy dinh dưỡng bào thai: Mọi đánh giá đều phải dựa vào cân nặng khi sinh < 2500 gam, chiều dài trẻ mới sinh < 48cm và chu vi vòng đầu < 35cm.Với tất cả các phân loại suy dinh dưỡng kể trên, khi có một chỉ số < -2SD là suy dinh dưỡng vừa, < -3SD là suy dinh dưỡng nặng.Đối với suy dinh dưỡng bào thai, chỉ giảm cân nặng là suy dinh dưỡng nhẹ, giảm cân nặng và chiều cao là suy dinh dưỡng vừa; giảm cả cân nặng, chiều cao, vòng đầu là suy dinh dưỡng nặng. Phát hiện trẻ suy dinh dưỡng để có biện pháp khắc phục kịp thời 3. Một số xét nghiệm hình ảnh trẻ suy dinh dưỡng cần thiết Chẩn đoán phát hiện trẻ suy dinh dưỡng kịp thời là rất quan trọng để ngăn ngừa hậu quả nguy hiểm. Các quy trình chẩn đoán để xác định suy dinh dưỡng ở trẻ em bao gồm:Đo đường kính giữa cánh tay trên: Nếu chu vi của phần giữa cánh tay dưới 110 mm, đó là dấu hiệu rõ ràng của tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ. Xét nghiệm máu: Các xét nghiệm máu cụ thể như công thức máu, đường huyết, nồng độ protein trong máu hoặc albumin và các xét nghiệm máu thông thường khác để chẩn đoán được tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em.Các xét nghiệm khác: Bác sĩ cũng chỉ định các xét nghiệm, hình ảnh trẻ suy dinh dưỡng khác như chức năng tuyến giáp; xét nghiệm xác định hàm lượng canxi, kẽm và vitamin,... vì chúng giúp xác định tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ.Trong trường hợp trẻ bị suy dinh dưỡng, điều quan trọng là phải tìm ra nguyên nhân gốc rễ, phát hiện sớm các triệu chứng và có những biện pháp khắc phục ngay để tránh những tổn thương kéo dài và không thể phục hồi cho trẻ.Để trẻ khỏe mạnh, phát triển
tốt cần có một chế độ dinh dưỡng đảm bảo về số lượng và cân đối chất lượng. Nếu trẻ không được cung cấp các chất dinh dưỡng đầy đủ và cân đối sẽ dẫn đến những bệnh thừa hoặc thiếu chất dinh dưỡng ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển toàn diện của trẻ cả về thể chất, tâm thần và vận động.Cha mẹ nên bổ sung cho trẻ các sản phẩm hỗ trợ có chứa lysine, các vi khoáng chất và vitamin thiết yếu như kẽm, crom, selen, vitamin nhóm B giúp đáp ứng đầy đủ nhu cầu về dưỡng chất ở trẻ. Đồng thời các vitamin thiết yếu này còn hỗ trợ tiêu hóa, tăng cường khả năng hấp thu dưỡng chất, giúp cải thiện tình trạng biếng ăn, giúp trẻ ăn ngon miệng.
Top 5 cách trị viêm amidan tại nhà dễ dàng áp dụngViêm amidan là tình trạng tổn thương ở khu vực tai mũi họng phổ biến. Đây là tình trạng viêm do vi khuẩn, virus tấn công ồ ạt làm amidan quá tải dẫn đến sưng viêm. Lúc này người bệnh thường cảm thấy đau họng, ho khan, khó thở và thường xuyên mệt mỏi. Với viêm amidan cấp tính thì người bệnh có thể dễ dàng áp dụng 5 cách trị viêm amidan tại nhà sau để cải thiện triệu chứng. Viêm amidan là tình trạng tổn thương ở khu vực tai mũi họng phổ biến. Đây là tình trạng viêm do vi khuẩn, virus tấn công ồ ạt làm amidan quá tải dẫn đến sưng viêm. Lúc này người bệnh thường cảm thấy đau họng, ho khan, khó thở và thường xuyên mệt mỏi. Với viêm amidan cấp tính thì người bệnh có thể dễ dàng áp dụng 5 cách trị viêm amidan tại nhà sau để cải thiện triệu chứng. 1. Khi nào bị viêm amidan? Amidan sưng viêm là do sự tấn công mạnh mẽ và gây nhiễm trùng bởi các nhân tố vi khuẩn, virus có hại. Ngoài ra bệnh lý khởi phát cũng có thể do một số yếu tố khác như: – Khói bụi, ô nhiễm môi trường. – Sức đề kháng yếu kém không thể chống lại vi khuẩn, virus gây bệnh. – Mắc các bệnh lý về đường hô hấp: viêm họng, cúm,… Tùy vào trường hợp hoặc dạng viêm amidan mà người bệnh có thể gặp phải các triệu chứng khác nhau. Với viêm amidan cấp tính sẽ xuất hiện các dấu hiệu như: – Đau rát cổ họng do amidan bị sưng viêm. – Sốt cao 38-39 độ. – Cơ thể mệt mỏi. – Có biểu hiện chán ăn, không muốn ăn do nuốt khó. Với viêm amidan mãn tính, các triệu chứng phổ biến sẽ bộc lộ: – Sốt cao. – Đau họng, có cảm giác ngứa ở cổ họng. – Hơi thở có mùi hôi. – Khó