text
stringlengths
11
48.2k
Lá cờ chữ thập màu vàng từng là quân kỳ của hải quân Hoàng gia Thuỵ Điển.
Ngày 22/06/1906 chính thức quy định lá quốc kỳ này.
Lai lịch quốc huy Thuỵ Điển có thể truy nguyên về những năm 1408–1470.
Phía trên tấm áo choàng là chiếc vương miện, mặt tấm lá chắn trong tấm áo choàng có màu lam.
Một chữ thập màu vàng chia mặt tấm lá chắn thành 4 phần: phần trên bên trái và phần dưới bên phải mỗi phần có 3 phần chiếc vương miện màu vàng, phần trên bên phải và phần dưới bên trái có con sư tử vàng đội vương miện vàng thè lưỡi đỏ.
Trung tâm lá chắn lớn có một lá chắn tương đối nhỏ, mặt tấm lá chắn chia 2 phần phải và trái: mặt bên trái do các sọc chéo 3 màu lam, trắng bạc, đỏ và một chiếc bình vàng tạo thành, mặt bên phải có vẽ một tháp chuông kiểu lô cốt và một con chim ưng vàng.
Hình trên tấm lá chắn nhỏ là phù hiệu của Hoàng gia Thụy Điển khoảng năm 1200.
Phía trên tấm lá chắn là một chiếc vương miện, 2 bên là hai con sư tử vàng đầu đội vương miện ngoảnh về phía sau đỡ lấy.
Sư tử đứng trên đế tấm lá chắn, đuôi cong hướng lên trên, thè lưỡi đỏ.
Xung quanh tấm lá chắn là huân chương trang trí.
Năm 1908 chính thức chế định quốc huy dạng tấm áo choàng này.
- Truyền thanh và truyền hình tại Thụy Điển - Danh sách các trường Đại học tại Thụy Điển - Quan hệ quốc tế của Thụy Điển - Quân đội Thụy Điển - Danh sách các cuộc chiến tranh của Thụy Điển - Viện Hàn lâm Hoàng gia Thụy Điển - Giao thông tại Thụy Điển - Danh sách các công ty Thụy Điển - Danh sách báo chí Thụy Điển - Người nói tiếng Thụy Điển ở Phần Lan Liên kết ngoài.
- Trang web chính thức của chính phủ Thụy Điển - Trang web chính thức của Quốc hội Thụy Điển - - Học tập và nghiên cứu tại Thụy Điển - Du lịch Thụy Điển - Sweden Info - Kingdom of Sweden (ENG) - Sách tài liệu của CIA về Thụy Điển - Thông tin về Thụy Điển của Bộ Ngoại giao Mỹ
Thành phố Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh, còn gọi bằng tên cũ phổ biến là Sài Gòn, là thành phố lớn nhất ở Việt Nam về dân số và quy mô đô thị hóa.
Đây còn là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa và giáo dục tại Việt Nam.
Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố trực thuộc trung ương thuộc loại đô thị đặc biệt của Việt Nam cùng với thủ đô Hà Nội.
Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, thành phố này hiện có 16 quận, 1 thành phố và 5 huyện, tổng diện tích .
Theo kết quả điều tra dân số chính thức vào thời điểm ngày 1 tháng 4 năm 2009 thì dân số thành phố là 7.162.864 người (chiếm 8,34% dân số Việt Nam), mật độ dân số trung bình 3.419 người/km².
Đến năm 2019, dân số thành phố tăng lên 8.993.082 người và cũng là nơi có mật độ dân số cao nhất Việt Nam.
Tuy nhiên, nếu tính những người cư trú không đăng ký hộ khẩu thì dân số thực tế của thành phố này năm 2018 là gần 14 triệu người.
Thành phố Hồ Chí Minh năm 2011 chiếm 21,3% tổng sản phẩm (GDP) và 29,38% tổng thu ngân sách của cả Việt Nam.
Năm 2020, thành phố có GRDP theo giá hiện hành ước là 1.372 nghìn tỷ đồng, theo giá so sánh 2010 đạt 991.424 tỷ đồng (số liệu địa phương cung cấp, Tổng cục Thống kê sẽ công bố GRDP đánh giá lại), tăng 1,39% so với năm 2019, đóng góp trên 22% GDP và 27% tổng thu ngân sách cả nước.
GRDP bình quân đầu người ước năm 2020 là 6.328 USD/người, xếp thứ 4 trong số các tỉnh thành cả nước, nhưng so với năm 2019 là giảm.
Thu nhập bình quân đầu người năm 2019 sơ bộ là 6,758 triệu VN đồng /tháng, cao thứ hai cả nước.
Nhờ điều kiện tự nhiên, Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một đầu mối giao thông của Việt Nam và Đông Nam Á, bao gồm cả đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không.
Vào năm 2019, thành phố đón khoảng 8,6 triệu khách du lịch quốc tế.
Các lĩnh vực giáo dục, truyền thông, thể thao, giải trí, Thành phố Hồ Chí Minh đều giữ vị thế nhất định.
Vùng đất này ban đầu được gọi là Prey Nokor theo tiếng Khmer của người dân bản địa, có nghĩa là "thành trong rừng".
Vì sự sụp đổ của đế chế Khmer, vùng Nam Bộ trở thành đất vô chủ, về sau đã sáp nhập vào Đại Việt nhờ công cuộc khai phá miền Nam của chúa Nguyễn.
Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập huyện Tân Bình thuộc phủ Gia Định, đánh dấu sự ra đời thành phố.
Phủ Gia Định khi đó bao gồm Sài Gòn và các tỉnh xung quanh hiện nay (Tây Ninh, Long An...), còn huyện Tân Bình là chỉ vùng đất Sài Gòn.
Địa danh Sài Gòn có trên 300 năm và từng được dùng để chỉ một khu vực với diện tích khoảng 1 km² ("Chợ Lớn") có đông người Hoa sinh sống trong thế kỷ 18.
Địa bàn đó gần tương ứng với khu Chợ Lớn ngày nay.
Năm 1747, theo danh mục các họ đạo trong Launay, "Histoire de la Mission Cochinchine", có ghi chép "Rai Gon Thong" (Sài Gòn Thượng) và "Rai Gon Ha" (Sài Gòn Hạ).
Theo "Phủ biên tạp lục" của Lê Quý Đôn viết năm 1776, năm 1674, Thống suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên và phá vỡ "Lũy Sài Gòn" (theo chữ Hán viết là 柴棍 - "Sài Côn").
Đây là lần đầu tiên chữ "Sài Gòn" xuất hiện trong tài liệu Việt Nam.
Vì thiếu chữ viết nên chữ Hán 棍 - "Côn" được dùng thế cho "Gòn".
Nếu đọc theo chữ Nôm là "Gòn", còn đọc theo chữ Hán thì là "Côn".
Trong tiếng Trung thì Sài Gòn còn được gọi là "Tây Cống" (chữ Hán: 西貢, bính âm: "Xī Gòng", Việt bính: "SaiGung").
Sau đó, danh xưng Sài Gòn được dùng để chỉ các khu vực nằm trong "lũy Lão Cầm" (năm 1700), "lũy Hoa Phong" (năm 1731) và "lũy Bán Bích" (năm 1772), chỉ với diện tích 5 km².
Ngoài ra theo một số nhà nghiên cứu thì Thụ Nại cũng từng là tên gọi của vùng đất Sài Gòn xưa trước khi Nguyễn Hữu Cảnh đến khai phá.
Khi Pháp vào Đông Dương, để phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa, thành phố Sài Gòn được thành lập và nhanh chóng phát triển, trở thành một trong hai đô thị quan trọng nhất Việt Nam.
Địa giới Sài Gòn lúc này bao gồm vùng đất Sài Gòn và Bến Nghé cũ.
Sài Gòn cũng là thủ đô của Liên bang Đông Dương giai đoạn 1887–1901 (về sau, Pháp chuyển thủ đô Liên bang Đông Dương ra Hà Nội).
Năm 1931 Khu Sài Gòn - Chợ Lớn được thành lập, bao gồm Thành phố Sài Gòn và Thành phố Chợ Lớn.
Năm 1941 Chợ Lớn được sáp nhập vào Sài Gòn.
Năm 1949, Sài Gòn trở thành thủ đô của Quốc gia Việt Nam, một chế độ chống cộng liên minh với Pháp trong thời kỳ chiến tranh Đông Dương, và sau này là thủ đô của Việt Nam Cộng hòa (chế độ kế tục Quốc gia Việt Nam).
Kể từ đó, Sài Gòn được xem là thủ đô và trở thành một trong những đô thị quan trọng nhất của miền Nam Việt Nam sau khi bị chia cắt vào năm 1954.
Sau khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ trong sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản chính quyền và quyết định hợp nhất Đô thành Sài Gòn và tỉnh Gia Định thành Thành phố Sài Gòn – Gia Định.
Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Việt Nam tái thống nhất và Quốc hội nước Việt Nam thống nhất quyết định đổi tên "Sài Gòn – Gia Định" thành "Hồ Chí Minh", theo tên Chủ tịch nước đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Hiện nay trong văn bản hành chính thì thành phố luôn được gọi đầy đủ là "Thành phố Hồ Chí Minh" (viết tắt là "Tp.
HCM") thay vì chỉ gọi "Hồ Chí Minh", để tránh nhầm lẫn với chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tương tự với tiếng Anh là "Ho Chi Minh City" (viết tắt là "HCMC").
Tên "Sài Gòn" vẫn được sử dụng thường xuyên vì sự ngắn gọn.
Con người xuất hiện ở Sài Gòn từ khá sớm.
Các cuộc khai quật khảo cổ trên địa phận Sài Gòn và khu vực lân cận cho thấy, ở đây đã tồn tại nhiều nền văn hóa từ thời kỳ đồ đá cho tới thời kim khí.
Những cư dân cổ từ nhiều thiên niên kỷ về trước đã biết đến kỹ thuật canh tác nông nghiệp.
Văn hóa Sa Huỳnh từng tồn tại trên khu vực này với những nét rất riêng.
Thời kỳ văn hóa Óc Eo, từ đầu Công Nguyên cho tới thế kỷ 7, khu vực miền Nam Đông Dương có nhiều tiểu quốc và Sài Gòn khi đó là miền đất có quan hệ với những vương quốc này.
Sau khi Đế quốc Khmer hình thành, lãnh thổ miền Nam Đông Dương thuộc quyền kiểm soát của đế chế này.
Tuy nhiên, dân cư của Đế quốc Khmer sống ở vùng này rất thưa thớt, không có khu dân cư lớn nào hình thành tại đây.
Cho đến trước thế kỷ 16, vị trí tiếp giáp với các quốc gia cổ cũng khiến Sài Gòn trở thành nơi gặp gỡ của nhiều cộng đồng dân cư như Khmer, Châu Ro, S’Tiêng.
Sài Gòn – Gia Định vẫn là địa bàn của một vài nhóm dân cư cổ cho tới khi người Việt xuất hiện.
Những người Việt đầu tiên tự động vượt biển tới khai phá vùng đất này hoàn toàn không có sự tổ chức của nhà Nguyễn.
Nhờ cuộc hôn nhân giữa Công nữ Ngọc Vạn với vua Chân Lạp Chey Chetta II từ năm 1620, mối quan hệ giữa Đại Việt và Chân Lạp trở nên êm đẹp, dân cư hai nước có thể tự do qua lại sinh sống.
Khu vực Sài Gòn, Đồng Nai bắt đầu xuất hiện những người Việt định cư.
Trước đó, người Khmer, người Chăm, người Man cũng sinh sống rải rác ở đây từ xa xưa.
Giai đoạn từ 1623 tới 1698 được xem như thời kỳ hình thành của Sài Gòn sau này.
Năm 1623, chúa Nguyễn sai một phái bộ tới yêu cầu con rể là vua Chey Chettha II cho lập đồn thu thuế tại Prey Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobei (Bến Nghé).
Tuy đây là vùng rừng rậm hoang vắng, nhưng lại nằm trên đường giao thông của các thương nhân Việt Nam, Trung Quốc... qua Campuchia và Xiêm.
Hai sự kiện quan trọng tiếp theo của thời kỳ này là lập doanh trại và dinh thự của Phó vương Nặc Nộn và lập đồn dinh ở Tân Mỹ (gần ngã tư Cống Quỳnh – Nguyễn Trãi ngày nay).
Có thể nói Sài Gòn hình thành từ 3 cơ quan chính quyền này.
Năm 1679, chúa Nguyễn Phúc Tần cho một số nhóm người Hoa tị nạn triều Mãn Thanh tới Mỹ Tho, Biên Hòa và Sài Gòn để lánh nạn.
Đến năm 1698, chúa Nguyễn sai tướng Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý miền Nam.
Trên cơ sở những lưu dân Việt đã tự phát tới khu vực này trước đó, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia Định và hai huyện Phước Long, Tân Bình.
Vùng Đông Nam Bộ được sáp nhập vào cương vực Việt Nam.
Thời điểm ban đầu này, khu vực Biên Hòa, Gia Định có khoảng 10.000 hộ với 200.000 khẩu.
Công cuộc khai hoang được tiến hành theo những phương thức mới, mang lại hiệu quả hơn.
Cuối thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18, Mỹ Tho và Cù lao Phố là hai trung tâm thương mại lớn nhất Nam Bộ.
Tuy nhiên, cuối thế kỷ 18, sau các biến loạn và chiến tranh, thương nhân dần chuyển về vùng Chợ Lớn.
Khu vực Sài Gòn dần trở thành trung tâm kinh tế lớn nhất Nam Bộ.
Năm 1788, chúa Nguyễn Ánh tái chiếm Sài Gòn, lấy nơi đây làm cơ sở để chống lại Tây Sơn.
Năm 1790, với sự giúp đỡ của hai sĩ quan công binh người Pháp là kỹ sư Theodore Lebrun và Victor Olivier de Puymanel (1768–1799), Chúa Nguyễn Ánh cho xây dựng Thành Bát Quái làm trụ sở của chính quyền mới.
"Gia Định thành" khi đó được đổi thành "Gia Định kinh".
Năm 1802, sau khi chiến thắng Tây Sơn, vua Gia Long lên ngôi và đẩy mạnh công cuộc khai khẩn miền Nam.
Miền Nam được chia thành 5 trấn, gọi là "Gia Định ngũ trấn".
Các công trình kênh đào Rạch Giá – Hà Tiên, Vĩnh Tế... được thực hiện.
Qua 300 năm, các trung tâm nông nghiệp phát triển bao quanh những đô thị sầm uất được hình thành.
Sáu năm sau, 1808, "Gia Định trấn" lại được đổi thành "Gia Định thành".
Trong khoảng thời gian 1833 đến 1835, Lê Văn Khôi khởi binh chống lại nhà Nguyễn, Thành Bát Quái trở thành địa điểm căn cứ.
Sau khi trấn áp cuộc nổi dậy, năm 1835, vua Minh Mạng cho phá Thành Bát Quái, xây dựng Phụng Thành thay thế.
Ngay sau khi chiếm được thành Gia Định vào năm 1859, thực dân Pháp gấp rút quy hoạch lại Sài Gòn thành một đô thị lớn nhằm phục vụ mục đích khai thác thuộc địa và làm nơi cư trú cho quan chức Pháp.
Đồ án thiết kế được Phó Đô đốc Pháp là Page (về sau là Charner) cử trung tá công binh Pháp là Paul Florent Lucien Coffyn (1810 – 1871), nguyên Lãnh sự Pháp ở Hoa Kỳ, thiết kế.
Theo bản đồ của Coffyn được công bố vào ngày 13/5/1862, quy hoạch ban đầu của Sài Gòn bao gồm cả tỉnh Chợ Lớn với khoảng 500.000 dân (Saigon ville de 500.000 âmes), tức khoảng 20.000 dân/km².
Quy hoạch này tương ứng với quy hoạch khu vực phòng thủ của tướng Nguyễn Cửu Đàm năm 1772, khi dân số Sài Gòn chỉ khoảng 20.000–30.000 người.
Nhưng đến 1864, nhận thấy diện tích dự kiến của thành phố quá rộng, khó bảo đảm về an ninh, Soái phủ Pháp ở Nam Kỳ "(Gouverneur Amiral de la Cochinchine)" lúc đó là Chuẩn đô đốc Pierre Rose quyết định tách Chợ Lớn khỏi Sài Gòn.
Ngày 3 tháng 10 năm 1865, Pierre Rose ra lệnh quy hoạch lại Sài Gòn chỉ còn là khu vực nằm giữa rạch Thị Nghè, sông Sài Gòn, rạch Bến Nghé và đường mới khu cầu Ông Lãnh hiện nay.
Toàn bộ quy hoạch chỉ còn rộng khoảng 3 km².Rất nhanh chóng, các công trình quan trọng của thành phố, như Dinh Thống đốc Nam Kỳ, Dinh Toàn quyền, được Pháp thiết kế và huy động nhân công xây dựng.
Sau 2 năm người Pháp xây dựng và cải tạo, khu quy hoạch rộng khoảng 3 km² nói trên đã hoàn toàn thay đổi.
Thành phố Sài Gòn khi đó được thiết kế theo mô hình châu Âu, nơi đặt văn phòng nhiều cơ quan công vụ như: dinh thống đốc, nha giám đốc nội vụ, tòa án, tòa thượng thẩm, tòa sơ thẩm, tòa án thương mại, tòa giám mục...