text
stringlengths
11
48.2k
Một số lính VC xâm nhập vòng vây nhưng bị pháo binh đánh lui.
Quân trú phòng được sự yểm trợ từ trực thăng chiến đấu, các cuộc không kích và máy bay gunship AC-47 "Spooky".
Khi trận chiến vẫn tiếp tục, một đơn vị thuộc Trung đoàn 11 Thiết giáp đã đến đối đầu với quân VC.
Giao tranh tiếp tục cho đến 6 giờ sáng khiến 24 lính VC và 14 lính Mỹ thiệt mạng.
Sư đoàn 18 Bộ binh VNCH đặt sở chỉ huy tại đây, căn cứ và sân bay nằm ở khu trung tâm trận Xuân Lộc vào tháng 4 năm 1975.
Sau khi chiến tranh chấm dứt ngày 30 tháng 4 năm 1975, căn cứ này hiện nay đã bị bỏ hoang và được chuyển đổi thành nhà ở và đất nông nghiệp.
Căn cứ Lai Khê Căn cứ Lai Khê là căn cứ cũ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa và Quân đội Mỹ đóng tại ấp Lai Khê, xã Lai Hưng, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, dọc theo Quốc lộ 13 về phía Tây Bắc Sài Gòn và cách Thủ Dầu Một khoảng 20 km về phía bắc tỉnh này.
Trong chiến tranh Việt Nam, Lai Khê là một thị trấn đồn trú do Sư đoàn 5 Bộ binh QLVNCH đóng tại đó trong hầu hết thập niên 1960/1970.
Lai Khê cũng là Sở chỉ huy Sư đoàn 1 Bộ binh của Lục quân Mỹ từ tháng 10 năm 1967 đến tháng 1 năm 1970.
Các đơn vị quân đội Mỹ khác đóng tại Lai Khê bao gồm: - Tiểu đoàn Tín hiệu 121 (1965 – 1970) - Bệnh viện Phẫu thuật số 2 (1968 – Tháng 3, 1970) - Tiểu đoàn 2, Thiết đoàn 5 Kỵ binh (Tháng 4 – Tháng 12 năm 1969) - Tiểu đoàn 5, Sư đoàn 7 Kỵ binh (Tháng 4 – Tháng 12 năm 1969) - Trung đoàn 11 Thiết giáp (Tháng 2 năm 1969) - Tiểu đoàn 6, Pháo binh 15 (Tháng 5, 1967 - Tháng 7, 1968) - Bệnh viện Phẫu thuật số 18 (Tháng 12, 1967 – Tháng 2, 1968) - Tiểu đoàn 2, Pháo binh 33 (Tháng 7, 1967 – Tháng 4, 1970) - Đại đội Trực thăng Tấn công 173 (1966 – Tháng 3, 1972) - Tiểu đoàn Công binh 554 (Tháng 10, 1969 – 1971) - Đại đội Nghiên cứu Vô tuyến 337, Tiểu đoàn Nghiên cứu Vô tuyến 303, Liên đoàn Nghiên cứu Vô tuyến 509 (ASA) - Trung đội 4 Đại đội Y tế 45 (cứu thương trên không) [AKA "Dustoff"] (Tháng 6, 1966 – Tháng 2, 1969) - Phi đội 1, Thiết đoàn 9 Kỵ binh - Binh đoàn Bravo - Binh đoàn Echo - thành lập tại đây vào ngày 1 tháng 9 năm 1970 Ngày 28 tháng 7 năm 1971, một cuộc tấn công của đặc công QĐNDVN/VC vào căn cứ này đã phá hủy bốn trực thăng Mỹ và làm hư hỏng chiếc thứ năm.
Sau khi chiến tranh chấm dứt ngày 30 tháng 4 năm 1975, Phần lớn khu căn cứ này đều được chuyển sang làm nhà ở và đất canh tác trong lúc một phần căn cứ vẫn được Quân đội Nhân dân Việt Nam sử dụng cho đến nay.
Elisabeth Glantzberg Elisabeth Margareta Glantzberg (1873–1951) là một nghệ nhân dệt may, giáo viên và nhà thiết kế thời trang người Thụy Điển.
Sau vài năm dạy dệt và quảng cáo hàng dệt của Thụy Điển ở Boston, Massachusetts, bà trở lại Thụy Điển vào năm 1909.
Cùng với Emy Fick, bà thành lập trường Birgittaskolan ở Stockholm .
Ngoài việc cung cấp các khóa học về dệt may, trường Birgitta còn là xưởng dệt hàng đầu sản xuất các loại hàng dệt may.
Bà tiếp tục thiết kế quần áo ở đó cho đến giữa những năm 1930, dựa trên xu hướng thời trang cao cấp và trang phục hàng ngày của Paris.
Elisabeth Glantzberg sinh ngày 20 tháng 10 năm 1873 tại Dalarna, miền Trung Thụy Điển.
Bà là con gái của một giáo sĩ tên Christian Magnus Glantzberg và Hilda Dorotea Glantzberg, nhũ danh Arborelius.
Bà có ba chị gái và một anh trai.
Mặc dù không được đào tạo bài bản, Glantzberg và các chị gái của cô đã tự tay may vá và sản xuất đồ dệt may tại nhà, giống như bao đứa trẻ khác thời bấy giờ.
Khoảng năm 1900, cô và chị gái Ellen chuyển đến Boston, nơi anh trai Ernst của cô di cư đến vào năm 1891.
Hai chị em đã thành lập một doanh nghiệp có tên The Misses Glantzberg, vừa là một trường dệt may vừa là một doanh nghiệp bán lẻ trưng bày đồ thủ công và đồ đạc trong nhà của Thụy Điển.
Từ năm 1903, với tư cách là thành viên tích cực của Hiệp hội Nghệ thuật và Thủ công Boston, bà đã nhiều lần tổ chức trưng bày các tác phẩm của mình .
Bà trở lại Thụy Điển vào năm 1909.
Làm việc ở cửa hàng bách hóa Nordiska Kompaniet ở Stockholm, bà gặp Emy Fick.
Năm 1910, họ cùng nhau thành lập Birgittaskolan ở trung tâm Stockholm.
Trung tâm là nơi cung cấp các khóa học về may, thêu và ren.
Ngoài ra, đây cũng là nơi săn xuất các đơn đặt hàng đồ lót, hàng dệt trang trí và thảm.
Tuy nhiên, Glantzberg mong muốn đào tạo phụ nữ học dệt may để họ có thể làm việc chuyên nghiệp, còn Fick lại muốn đào tạo những phụ nữ muốn sản xuất hàng dệt tại nhà.
Do khác biệt trong đường lối đào tạo, họ ngừng hợp tác và chia doanh nghiệp thành hai công ty riêng biệt.
Glantzberg giữ lịa tên Birgittaskolan trong khi Fick đặt tên công ty của mình là Sankta Birgittaskolan hoặc trường Saint Birgitta.
Năm 1917, Glantzberg chuyển sang lĩnh vực thời trang.
Bà tuyển dụng hai nhà thiết kế theo xu hướng Paris để tạo ra những bộ sưu tập táo bạo đáng chú ý.
Công việc kinh doanh của Glantzberg phát triển mạnh cho đến giữa những năm 1930.
Sau đó bà trở về quê hương Dalarna, nơi bà điều hành một trường dạy dệt.
Bà qua đời tại Älvdalen vào ngày 10 tháng 12 năm 1951.
Kia Carnival Kia Carnival () là dòng xe minivan được sản xuất bởi Kia từ năm 1998.
Dòng xe này được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau; tiêu biểu là cái tên Kia Sedona hiện không còn được sử dụng.
Kia Sonet Kia Sonet là dòng xe SUV crossover cỡ nhỏ được sản xuất bởi Kia từ năm 2020.
Dòng xe đã được tiếp thị ở các thị trường mới nổi bao gồm Ấn Độ, Indonesia, Nam Phi, Việt Nam, Trung Đông và một số quốc gia Mỹ Latinh.
- Trang web chính thức (Ấn Độ)
Thiện nguyện Thiện nguyện là một dạng chủ nghĩa vị tha bao gồm "các sáng kiến cá nhân, dành cho hàng hóa công cộng, tập trung vào chất lượng cuộc sống".
Hoạt động thiện nguyện đối lập với các sáng kiến kinh doanh, vốn là những sáng kiến cá nhân dành cho hàng hóa tư nhân, tập trung vào lợi ích vật chất; và cùng với các nỗ lực của chính phủ, vốn là các sáng kiến công dành cho hàng hóa công cộng, tập trung chủ yếu vào việc cung cấp các dịch vụ công.
Người chuyên làm công việc thiện nguyện được gọi là "nhà từ thiện" hoặc "nhà thiện nguyện".
Châu Á. Hoạt động từ thiện có một lịch sử lâu đời tại khu vực châu Á, việc thiện nguyện hay cách tiếp cận có hệ thống để làm việc thiện đã có từ thuở sơ khai.
Triết gia Trung Quốc là Xem thêm.
- Danh sách các quỹ từ thiện lớn mạnh nhất thế giới - Tổ chức từ thiện Đọc thêm.
"Philanthropy, Patronage, and Civil Society: Experiences from Germany, Great Britain, and North America" (2008) - Burlingame, D.F.
"Philanthropy in America: A comprehensive historical encyclopaedia" (3 vol.
"American philanthropy abroad: a history" (Rutgers UP, 1963).
"Notable American Philanthropists: Biographies of Giving and Volunteering" (2002) excerpt - Hitchcock, William I.
(2014) "World War I and the humanitarian impulse."
"The Tocqueville Review/La revue Tocqueville" 35.2 (2014): 145–163.
- Ilchman, Warren F. et al.
"Philanthropy in the World's Traditions" (1998) Examines philanthropy in Buddhist, Islamic, Hindu, Jewish, and Native American religious traditions and in cultures from Latin America, Eastern Europe, the Middle East, Africa, and Asia.
"Philanthropy in England, 1480–1660: A Study of the Changing Pattern of English Social Aspirations" (1959) online - Kiger, Joseph C.
"Philanthropists and foundation globalization" (Transaction Publishers, 2011).
- Petersen, Jørn Henrik, Klaus Petersen, and Søren Kolstrup.
Christian Philanthropy and State Welfare in Denmark."
"Journal of Church and State" 56#1 (2014): 81–104.
- Reich, Rob, Chiara Cordelli, and Lucy Bernholz, eds.
"Philanthropy in democratic societies: History, institutions, values" (U of Chicago Press, 2016).
"Philanthropy in America: A history" (Princeton UP, 2014).
- History of Philanthropy, 1601–present compiled and edited by National Philanthropic Trust
Oxalinh Oxalinh là đại diện đầu tiên của Việt Nam tại Hoa Hậu hoàn vũ 2002 tổ chức tại Puerto Rico tại thời điểm đó, Oxalinh gây ra nhiều tranh cãi vì sự có mặt của Oxalinh không được bất kì ai công nhận ngoài đại diện Nga-Oksana Fyodorova.
Ngoài ra vào cuối năm 2021 cô bất ngờ bị tố giác ăn chặn từ thiện ngay chính quê hương Việt Nam của cô.
Cô là niềm kiêu hãnh của Việt Nam.Vì là người giữ danh vị cao nhất của Việt Nam tại đấu trường nhan sắc quốc tế Miss Universe 2002 là á hậu 2.
Và đặc biệt cô chính là một trong những á hậu có điểm S"wimsuit" cao nhất trong lịch sử Miss Universe.
Alessia Rovegno Alessia Rovegno Cayo (sinh ngày 20 tháng 1 năm 1998) là một người mẫu, diễn viên, ca sĩ và hoa hậu người Peru đã đăng quang cuộc thi Hoa hậu Peru 2022.
Với tư cách là Hoa hậu Peru, Rovegno sẽ đại diện cho Peru tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2022.
Rovegno sinh ra và lớn lên ở Lima, Peru.
Cô là con gái của Lucho Rovegno và Bárbara Cayo.
Rovegno nhỏ hơn 2 tuổi so với chị gái Arianna Celeste Rovegno Cayo, người sáng lập ra "La Bambina de Rovegno".
Dì của họ là Fiorella Cayo, Stephanie Cayo và chú của họ là Macs Cayo đều là diễn viên.
Vào ngày 6 tháng 10 năm 2021, cô phát hành bài hát "Un Amor Como el Nuestro".
Vào ngày 14 tháng 6 năm 2022, Rovegno cạnh tranh với 9 ứng cử viên khác trong cuộc thi Hoa hậu Peru 2022.
Vào cuối sự kiện, Rovegno đã được trao danh hiệu bởi Yely Rivera của Arequipa với tư cách tân Hoa hậu Hoàn vũ Peru 2022.
Với tư cách là Hoa hậu Peru, Rovegno sẽ đại diện cho Peru tại Hoa hậu Hoàn vũ 2022.
Vào ngày 12 tháng 12 năm 2021, cô xác nhận mối quan hệ lãng mạn của mình với vận động viên người Peru Hugo García.
Matija Šarkić Matija Sarkic (; sinh ngày 23 tháng 7 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá người Montenegre hiện đang chơi cho Wolverhampton Wanderers và đội tuyển quốc gia Montenegro.
Sarkic được sinh ra tại Anh, có bố là người Montenegro và mẹ là người Anh.
Sông Neckar Neckar là một con sông dài 362 kilômét (225 mi) ở Đức, chủ yếu chảy qua khu vực tây nam của bang Baden-Württemberg, với một đoạn ngắn qua Hessen .
Sông Neckar là một phụ lưu bên phải chính của sông Rhein.
Nguồn nằm ở Schwarzwald-Baar-Kreis gần Schwenningen trong khu bảo tồn Schwenninger Moos ở độ cao 706 m (2.316 ft) trên mực nước biển, nó đi qua Rottweil, Rottenburg am Neckar, Kilchberg, Tübingen, Wernau, Nürtingen, Plochingen, Esslingen, Stuttgart, Ludwigsburg, Marbach, Heilbronn và Heidelberg, trước khi xả trung bình 145 m3 / s (5.100 cu ft / s) nước vào sông Rhein tại Mannheim, ở độ cao 95 m (312 ft) trên mực nước biển, khiến Neckar là phụ lưu lớn thứ 4, và là sông lớn thứ 10 ở Đức.
Kể từ năm 1968, tàu Neckar có thể điều hướng cho các tàu chở hàng qua 27 âu tàu dài khoảng 200 kilômét (120 mi) ngược dòng từ Mannheim đến cảng sông Plochingen, tại nơi hợp lưu với sông Fils.
Từ Plochingen đến Stuttgart, thung lũng Neckar tập trung đông dân cư và được công nghiệp hóa mạnh, với một số công ty nổi tiếng.
Giữa Stuttgart và Lauffen, Neckar có một cảnh đẹp, quanh co, và ở nhiều nơi, thung lũng có dốc núi bằng đá vôi Trias nguyên thạch và Pleistocen.
Dọc theo thung lũng của Neckar trên các ngọn đồi Odenwald, nhiều lâu đài có thể được thấy, bao gồm Lâu đài Hornberg và Lâu đài Guttenberg ở Haßmersheim; Nhà máy điện hạt nhân Obrigheim hiện đã ngưng hoạt động và Nhà máy điện hạt nhân Neckarwestheim còn hoạt động cũng nằm ở đó.
Theo truyền thống, các vùng đồng bằng màu mỡ được sử dụng nhiều cho nông nghiệp và các sườn thung lũng dốc của nó làm vườn nho.
Kia Soul Kia Soul là dòng ô tô SUV crossover cở nhỏ được sản xuất bởi Kia.
Ra mắt tại Paris Motor Show 2008, tính đến nay đã có ba phiên bản được phát hành.
Tính đến năm 2015, Kia đã sản xuất hơn một triệu chiếc Kia Soul.
Tại Hoa Kỳ, hơn 100.000 chiếc đã được bán ra mỗi năm từ năm 2011 đến năm 2018.
Lưu vong (phim) Lưu vong (tiếng Trung: "放‧逐", tiếng Anh: "Exiled", Hán-Việt: "Phóng trục") là một bộ phim điện ảnh thuộc thể loại hành động - tội phạm - chính kịch của điện ảnh Hồng Kông công chiếu năm 2006 do Đỗ Kỳ Phong làm đạo diễn kiêm nhà sản xuất, với phần kịch bản do tổ sáng tác Ngân Hà biên soạn.
Tác phẩm có sự tham gia của các diễn viên gồm Huỳnh Thu Sinh, Ngô Trấn Vũ, Trương Gia Huy, Hà Siêu Nghi, Trương Diệu Dương, Lâm Tuyết, với Nhậm Đạt Hoa và Nhậm Hiền Tề.
Bộ phim có buổi công chiếu lần đầu tại Liên hoan phim quốc tế Venezia vào ngày 6 tháng 9 năm 2006, sau đó chính thức phát hành tại các cụm rạp ở Hồng Kông từ ngày 19 tháng 10 cùng năm.
Tác phẩm cũng được chọn là một trong những tác phẩm của điện ảnh Trung Quốc đi tranh giải Sư tử vàng cũng tại liên hoan phim danh giá ấy, dù không được nhận giải.
Lấy bối cảnh vào thập niên 90 của thế kỉ XX, có một nhóm sát thủ gồm năm người gồm Hòa, Miêu, Ba, Hỏa và Thái cùng chơi thân với nhau thì bất ngờ thay, Hòa đã quyết định bỏ nghề và đã có gia đình riêng với người vợ là A Tĩnh, kể từ đó Hòa cùng vợ con chuyển sang Ma Cao và sinh sống lặng lẽ tại đây.
Tuy vậy, Đại Phi - ông chủ của băng nhóm - có ý định trả thù Hòa sau vụ ám sát hắn bất thành từ Hòa.
Vì thế, hắn liền cử một đôi sát thủ tìm tới để thực hiện nhiệm vụ, và không ai khác đó chính là Hỏa và Ba.