text
stringlengths
1
809k
XIII.16 Diệp công vấn chính. Tử viết: “Cận giả duyệt, viễn giả lai.” Dịch. – Quan lệnh doãn huyện Diệp (nước Sở) hỏi về phép trị dân. Khổng tử đáp: “Phải làm sao cho người ở gần vui lòng, người ở xa qui phục.” XIII.17 Tử Hạ vi Cử Phủ tể, vấn chính. Tử viết: “Vô dục tốc, vô kiến tiểu lợi. Dục tốc tắc bất đạt. Kiến tiểu lợi tắc đại sự bất thành.” Dịch. – Tử Hạ làm quan tể ấp Cử Phủ[155], hỏi về phép trị dân. Khổng tử đáp: “Đừng muốn mau thành, đừng chỉ nhìn cái lợi nhỏ. Muốn mau thành thì không đạt mục đích, chỉ nhìn cái lợi nhỏ thì việc lớn không thành.” XIII.18 Diệp công ngứ Khổng tử viết: “Ngô đảng hữu Trực Cung giả, kì phụ nhương đương nhi tử chứng chi”. Khổng tử viết: “Ngô đảng chi trực giả dị ư thị. Phụ vị tử ẩn, tử vị phụ ẩn, trực tại kì trung hĩ.” Dịch. – Quan lệnh doãn huyện Diệp nói với Khổng tử: “Làng tôi có một người ngay thẳng tên là Trực Cung[156], cha bắt trộm cừu, con đi tố cáo” [157]. Khổng tử nói: “Người ngay thẳng ở làng tôi khác vậy. Cha giấu tội cho con, con giấu tội cho cha, sự ngay thẳng ở chỗ đó.” XIII.19 Phàn Trì vấn nhân. Tử viết: “Cư xử cung, chấp sự kính, dữ nhân trung. Tuy chi di địch, bất khả khí dã.” Dịch. – Phàn Trì hỏi về đức nhân. Khổng tử đáp: “Khi nhàn cư phải nghiêm cung, khi làm việc phải nghiêm trang, cẩn thận, giao thiệp với ai phải trung thực. Dù tới nước di dịch chưa khai hoá, cũng không thể bỏ ba điều ấy.” XIII.20 Tử Cống vấn viết: “Hà như tư khả vị chi sĩ hĩ?” Tử viết: “Hành
kì hữu sỉ, sứ ư tứ phương, bất phục quân mệnh, khả vị sĩ hĩ”. Viết: “Cảm vấn kì thứ”. Viết: “Tôn tộc xưng hiếu yên, hương đảng xưng đễ yên”. Viết: “Cảm vấn kì thứ”. Viết: “Ngôn tất tín, hành tất quả, khanh khanh nhiên tiểu nhân tai! Ức diệc khả dĩ vi thứ hĩ”. Viết: “Kim chi tòng chính giả hà như?” Tử viết: “Y! Đẩu sao chi nhân, hà túc toán dã” [158]. Dịch. – Tử Cống hỏi: “Thế nào đáng gọi là kẻ sĩ (kẻ đã ra làm quan)”. Khổng tử đáp: “Hành vi của mình thì biết hổ thẹn (không làm điều xấu); đi bốn phương thì không làm nhục mệnh vua; như vậy có thể gọi là kẻ sĩ”. Lại hỏi: “Xin thầy cho hạng thấp hơn nữa”. Khổng tử nói: “Họ hàng khen là hiếu, làng xóm khen là đễ”. Lại hỏi: “Xin thầy cho hạng thấp hơn nữa”. Khổng tử nói: “Lời nói nhất định phải tín thực, hành vi nhất định phải quả quyết (không xét xem là có nên không), như vậy tuy sắc cạnh, cố chấp, hẹp hòi, nhưng cũng đáng là kẻ sĩ bậc thấp”. Lại hỏi: “Những người tòng chính hiện nay ra sao?” Khổng tử nói: “Ôi! Hạng người khí độ nhỏ nhen như cái đấu, cái sao (một phần năm hay một nửa cái đấu) ấy, đáng kể gì!” XIII.21 Tử viết: “Bất đắc trung hạng[159] nhi dữ chi, tất dã cuồng quyến hồ! Cuồng giả tiến thủ, quyến giả hữu sở bất vi dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Không được hạng người trung chính (theo trung đạo) để truyền đạo (hoặc để giao thiệp) thì tìm hạng người cuồng phóng hoặc cẩn hậu giữ tiết tháo vậy. Người cuồng phóng có tinh thần tiến thủ, người cẩn hậu giữ tiết tháo
thì không chịu làm điều xấu.” XIII.22 Tử viết: “Nam nhân hữu ngôn viết: “Nhân nhi vô hằng, bất khả dĩ tác vu y”. Thiện phù! “Bất hằng kì đức, hoặc thừa chi tu”. Tử viết: “Bất chiêm nhi dĩ hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người phương Nam có câu: “Người nào không có hằng tâm (tâm tính hay thay đổi) thì không thể làm thầy cúng, thầy thuốc được”. Lời đó phải lắm! Quẻ Hằng (trong Kinh Dịch, hào 3), có câu: “Không giữ được đức hằng (mà hay thay đổi tâm ý, tháo thủ) thì thường bị hổ thẹn” [160]. Khổng tử nói: “(Câu đó có ý khuyên người nào không có đức hằng tâm thì) đừng nên coi quẻ là hơn” [161]. XIII.23 Tử viết: “Quân tử hòa nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất hòa.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử hoà hợp nhưng không a dua, kẻ tiểu nhân a dua mà không hoà hợp.” Chú thích. – Chữ “Hoà” [和] (hoà hợp) có nghĩa là đưa ý kiến của mình ra, góp với ý kiến của người để bàn bạc với nhau rồi tiến tới sự thống nhất. “Đồng” [同] là: phụ hoạ với người, người nói sao mình cũng nói theo, chứ không dám đưa ý kiến của mình ra để cùng nhau bàn bạc. Có người hiểu khác: “Người quân tử giao tiếp với người thì giữ niềm hoà lạc nhưng chẳng đồng tình trong việc quấy, kẻ tiểu nhân giao tiếp với người thì đồng tình trong việc quấy nhưng chẳng giữ niềm hoà lạc”. Hiểu như vậy cũng có lí, nhưng nghĩa không sâu sắc như trên. Chúng ta lại nên chú ý: ngày nay từ ngữ “hoà nhi bất đồng” thường dùng một nghĩa hơi khác: chủ trương (chẳng hạn về
chính trị, tôn giáo…) của mình với người khác nhau thì mình cũng không đả kích người, vẫn tìm cách hợp tác với người được, vẫn “hoà” với người (vì hai bên cùng theo đuổi một mục đích cả) mà vẫn không thay đổi chủ trương của mình (bất đồng). XIII.24 Tử Cống vấn viết: “Hương nhân giai hiếu chi, hà như?” Tử viết: “Vị khả dã”. – “Hương nhân giai ố chi, hà như?” Tử viết: “Vị khả dã, bất như hương nhân chi thiện giả hiếu chi, kì bất thiện giả ố chi.” Dịch. – Khổng tử nói: “Mọi người trong làng đều ưa, người đó ra sao?” Khổng tử đáp: “Chưa hẳn là người tốt”. (Lại hỏi): “Mọi người trong làng đều ghét, người đó ra sao?” Khổng tử đáp: “Chưa hẳn là người xấu. Không bằng người mà tốt trong làng đều ưa, những người xấu trong làng đều ghét.” Chú thích. – Có người hiểu: “Mọi người trong làng, ta đều ưa, hoặc mọi mình trong làng ta đều ghét, không bằng lựa những người tốt trong làng mà ưa, những người xấu trong làng mà ghét”. Cách hiểu này vô lí: ghét mọi người trong làng thì ở với ai? Không thể có trường hợp đó được. XIII.25 Tử viết: “Quân tử dị sự nhi nan duyệt dã. Duyệt chi bất dĩ đạo, bất duyệt dã; cập kì sử nhân dã, khí chi. Tiểu nhân nan sự nhi dị duyệt dã. Duyệt chi tuy bất dĩ đạo duyệt dã; cập kì sử nhân dã, cầu bị yên.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử dễ phụng sự mà khó làm cho vui lòng. Không dùng chính đạo để lấy lòng họ thì họ không vui lòng; đến khi sai khiến người thì họ tuỳ theo tài năng mỗi người mà giao việc. Kẻ tiểu nhân khó phụng sự mà dễ làm
vui lòng. Không dùng chính đạo để lấy lòng họ, họ cũng vui lòng; đến khi sai khiến người thì họ trách bị cầu toàn.” XIII.26 Tử viết: “Quân tử thái nhi bất kiêu, tiểu nhân kiêu nhi bất thái.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử thư thái mà không kiêu căng, kẻ tiểu nhân kiêu căng mà không thư thái.” XIII.27 Tử viết: “cương nghị, mộc nột, cận nhân.” Dịch. – Khổng tử nói: “Cương cường, quả cảm, chất phác, ăn nói chậm chạp thì gần với đức nhân.” XIII.28 Tử Lộ vấn viết: “Hà như tư khả vị chi sĩ hĩ”. Tử viết: “Thiết thiết, tư tư, di di như dã, khả vị sĩ hĩ. Bằng hữu thiết thiết, tư tư, huynh đệ di di.” Dịch. – Tử Lộ hỏi: “Thế nào thì có thể gọi là kẻ sĩ?” Khổng tử đáp: “Thiết tha khuyên nhủ, và hoà vui, thì có thể gọi là kẻ sĩ. Bạn bè thì thiết tha khuyên nhủ nhau, anh em thì hoà vui với nhau.” Chú thích. – Kẻ sĩ trong bài XIII.20 là kẻ sĩ ra làm quan. Kẻ sĩ trong bài này có thể chưa ra làm quan. XIII.29 Tử viết: “Thiện nhân giáo dân thất niên, diệc khả dĩ tức nhung hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Bậc thiện nhân (người cầm quyền tốt) dạy dân bảy năm thì có thể dùng dân vào việc chiến đấu được.” XIII.30 Tử viết: “Dĩ bất giáo dân chiến, thị vị khí chi.” Dịch. – Khổng tử nói: “Đưa dân không được dạy dỗ ra đánh giặc, tức là bỏ dân.” Chú thích. – Trong hai bài cuối này, chữ “giáo” [ 教] có nghĩa là dạy dân về chiến thuật, canh nông, nhất là đạo làm người, làm dân nữa, cho nên mới lâu tới bảy năm. Dân có biết yêu người thân, hi sinh cho người trên thì mới hăng hái chiến đấu;
có biết làm ruộng khi không phải giao chiến thì mới tự túc được, không thiếu thốn (thời đó dùng chính sách ngụ binh ư nông). Một nhà văn Ý, Alberto Moravia, trong cuốn La Révolution culturelle de Mao (Flammarion – 1968) hiểu khác hẳn: Phải dạy dân bảy năm để cho dân bẩm sinh hiếu hoà thành hiếu chiến, vốn hiền lành thành tàn bạo, rồi mới cho dân ra chiến đấu được. Thật là bôi nhọ Khổng tử. THIÊN XIV HIẾN VẤN XIV.1 Hiến[162] vấn sỉ. Tử viết: “Bang hữu đạo, cốc; bang vô đạo, cốc, sỉ dã”. “Khắc, phạt, oán, dục, bất hành yên, khả dĩ vi nhân hĩ”. Tử viết: “Khả dĩ vi nan hĩ, nhân tắc ngô bất tri dã.” Dịch. – Hiến hỏi thế nào là điều xấu hổ. Khổng tử đáp: “Nước có đạo (chính trị tốt) thì có thể làm quan được; nước vô đạo (chính trị xấu) mà làm quan thì xấu hổ”. (Hiến lại hỏi): “Hiếu thắng, khoe khoang, oán hận, tham dục, những việc đó không làm, thì có thể gọi là nhân được chứ?” Khổng tử đáp: “Như vậy là làm được những việc khó, còn nhân hay không thì ta chưa biết.” XIV.2 Tử viết: “Sĩ nhi hoài cư, bất túc dĩ vi sĩ hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Kẻ sĩ nào mà nghĩ đến việc ở cho được an dật, thì chưa phải là kẻ sĩ.” XIV.3 Tử viết: “Bang hữu đạo, nguy ngôn nguy hành; bang vô đạo, nguy hành ngôn tốn.” Dịch. – Khổng tử nói: “Nước có đạo (chính trị tốt), ngôn ngữ chính trực, hành vi chính trực; nước vô đạo thì hành vi chính trực, ngôn ngữ khiêm tốn.” Chú thích. – Chữ [行], có người đọc là hạnh, nghĩa cũng đại khái như vậy.
XIV.4 Tử viết: “Hữu đức giả tất hữu ngôn, hữu ngôn giả bất tất hữu đức. Nhân giả tất hữu dũng, dũng giả bất tất hữu nhân.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người có đức thì tất có lời nói hay, người có lời nói hay chưa hẳn đã có đức. Người nhân tất dũng cảm, người dũng cảm chưa hẳn đã có đức nhân.” XIV.5 Nam Cung Quát vấn ư Khổng tử viết: “Nghệ thiện xạ, Ngạo (hay Nghiệu) đãng chu, câu bất đắc kì tử nhiên. Vũ, Tắc cung giá nhi hữu thiên hạ”. Phu tử bất đáp. Nam Cung Quát xuất. Tử viết: “Quân tử tai nhược nhân! Thượng đức tai nhược nhân!” Dịch. – Nam Cung Quát hỏi Khổng tử: “Nghệ bắn giỏi, Ngạo dùng thuyền mà xung sát (thuỷ chiến), rồi đều bất đắc kì tử. Ông Vũ, ông Tắc đều cấy lúa mà sau có thiên hạ”. Khổng tử không đáp. Nam Cung Quát ra rồi, ông bảo: “Người ấy thật quân tử, người ấy thật biết trọng đạo đức!” Chú thích. – Nghệ là vua nước Hữu Cùng, bắn cung giỏi, diệt vua Hạ Hầu Tướng mà cướp ngôi; sau bị bề tôi là Hàn Trác giết để cướp. Ngạo là con của Hàn Trác giỏi thuỷ chiến (có sách giảng “đãng chu” là đẩy được thuyền trên cạn – Chúng tôi theo chú thích của Triệu Thông), sau bị vua Thiếu Khang nhà Hạ giết. Ông Vũ có công dẹp nạn nước lụt, được vua Thuấn nhường ngôi cho. Ông Tắc tự gieo lúa giống, dạy dân cày cấy, là thuỷ tổ của nhà Chu cho nên cũng gọi là có thiên hạ. Nam Cung Quát có ý chê các vua đương thời không trọng đức mà chỉ trọng võ lực, nên Khổng tử không tiện trả lời.
XIV.6 Tử viết: “Quân tử nhi bất nhân giả hữu hĩ phù! Vị hữu tiểu nhân nhi nhân giả dã” [163]. XIV.7 Tử viết: “Ái chi, năng vật lao hồ? Trung yên, năng vật hối hồ?” Dịch. – Khổng tử nói: “Yêu ai mà không dạy người đó chịu khó nhọc ư? Trung với ai mà không khuyên người đó theo điều chính ư?” XIV.8 Tử viết: “Vi mệnh, Tì Thầm thảo sang chi, Thế Thúc thảo luận chi, hành nhân Tử Vũ tu sức chi, Đông Lý Tử Sản nhuận sắc chi.” Dịch. – Khổng tử nói: “Khi (nước Trịnh) làm từ lệnh ngoại giao thì giao Tì Thầm khởi thảo, Thế Khúc thảo luận thêm, quan coi việc đi sứ là Tử Vũ sửa chữa, Tử Sản ở Đông Lý nhuận sắc lại.” XIV.9 Hoặc vấn Tử Sản. Tử viết: “Huệ nhân dã”. Vấn Tử Tây. Viết: “Bỉ tai! Bỉ tai!” Vấn Quản Trọng. Viết: “Nhân dã. Đoạt Bá Thị Biền ấp tam bách phạn sơ tự, một xỉ, vô oán ngôn.” Dịch. – Có người hỏi về Tử. Khổng tử đáp: “Một người nhân từ, yêu dân”. Hỏi về Tử Tây. Đáp: “Con người ấy! con người ấy!” (có ý chê). Hỏi về Quản Trọng. Đáp: “Một người đặc biệt (các sách giảng là một người có công lớn với nước Tề). Vua (Hoàn Công) nước Tề lấy ấp Biền gồm ba trăm hộ của Bá Thị thưởng cho ông ấy, Bá Thị (hoá nghèo) phải ăn uống đạm bạc, vậy mà tới chết không hề oán hận. Chú thích. – Các sách xưa chú thích Tử Tây là một lệnh doãn của nước Sở; nhưng các nhà gần đây cho là một đại phu nước Trịnh nối chức Tử Sản, khi Tử Sản chết. Thuyết sau có phần đúng. Vì người hỏi chắc có ý muốn so sánh ba vị tướng quốc: Quản Trọng tướng quốc nước Tề, hai người kia là tướng
quốc nước Trịnh. XIV.10 Tử viết: “Bần nhi vô oán, nan; phú nhi vô kiêu, dị.” Dịch. – Khổng tử nói: “Nghèo mà không oán hận, điều đó khó; giàu mà không kiêu căng, dễ hơn.” XIV.11 Tử viết: “Mạnh Công Xước vi Triệu, Ngụy lão tắc ưu, bất khả dĩ vi Đằng,Tiết đại phu.” Dịch. – Khổng tử nói: “Mạnh Công Xước làm gia thần cho họ Triệu, họ Nguỵ thì rất tốt, làm đại phu nước Đằng, nước Tiết thì không được.” Chú thích. – Triệu và Nguỵ là hai đại phu nước Tấn. Tiết, Đằng là hai nước nhỏ thời đó. Khổng tử cho Mạnh Công Xước là có đức mà thiếu tài. XIV.12 Tử Lộ vấn thành nhân. Tử viết: “Nhược Tang Võ Trọng chi trí, Công Xước chi bất dục, Biện Trang tử chi dũng, Nhiễm Cầu chi nghệ, văn chi dĩ lễ nhạc, diệc khả dĩ vi thành nhân hĩ”. Viết: “Kim chi thành nhân giả, hà tất nhiên? Kiến lợi tư nghĩa, kiến nguy thụ mệnh, cửu yếu bất vong bình sinh chi ngôn, diệc khả dĩ vi thành nhân hĩ?” Dịch. – Khổng tử nói: “Tử Lộ hỏi thế nào là người hoàn toàn. Khổng tử đáp: “Thông minh sáng suốt như Tang Võ Trọng, không tham lam mà liêm khiết như (Mạnh) Công Xước, dũng cảm như Trang tử ấp Biện, tài nghệ như Nhiễm Cầu, lại học thêm lễ nghĩa, thấy nguy thì không tiếc tánh mệnh, ước hẹn với ai từ lâu mà vẫn không quên, như thế cũng có thể thành người hoàn toàn được.” Chú thích. – Tang Võ Trọng là con của Tang Văn Trọng trong bài V.17. Trang tử là dũng sĩ nước Lỗ. XIV.13 Tử vấn Công Thúc Văn Tử ư Công Minh Giả viết: “Tín hồ?
Phu tử bất ngôn, bất tiếu, bất thủ hồ?” Công Minh Cổ đối viết: “Dĩ cáo giả quá dã. Phu tử thời nhiên hậu ngôn, nhân bất yếm kì ngôn, lạc nhiên hậu tiếu, nhân bất yếm kì tiếu, nghĩa nhiên hậu thủ, nhân bất yếm kì thủ. Tử viết: “Kì nhiên? Khởi kì nhiên hồ?” Dịch. – Khổng tử hỏi Công Minh Giả (người Vệ) về Công Thúc Văn Tử (một đại phu nước Vệ): “Có thực là Công Thúc Văn Tử không nói, không cười, không nhận vật tặng, phải không?” Công Minh Giả đáp: “Người nào nói vậy là quá đáng. Ông Công Thúc Văn Tử khi đáng nói mới nói nên người ta nghe mà không chán; có vui mới cười nên người ta thấy cười mà không chán; đáng nhận vật gì thì mới nhận nên người ta thấy ông nhận mà không chê”. Khổng tử nói: “Thật vậy ư? Có thể thật như vậy được ư?” XIV.14 Tử viết: “Tang Võ Trọng dĩ Phòng cầu vi hậu ư Lỗ, tuy viết bất yêu quân, ngô bất tín dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Tang Võ Trọng lấy ấp Phòng để xin vua Lỗ cho con cháu mình làm chủ ấp đó, tuy là nói là không yêu sách vua, ta cũng không tin.” XIV.15 Tử viết: “Tấn Văn Công quyệt nhi bất chính, Hoàn công chính nhi bất quyệt.” Dịch. – Khổng tử nói: “Tấn Văn Công xảo quyệt mà không chính đại; Tề Hoàn Công chính đại mà không xảo quyệt.” Chú thích. – Tấn Văn Công và Tề Hoàn Công đều là những “Bá” đời Xuân Thu. XIV.16 Tử Lộ viết: “Hoàn Công sát công tử Củ, Triệu Hốt tử chi, Quản Trọng bất tử”. Viết: Vị nhân hồ?” Tử viết: “Hoàn Công cửu
hợp chư hầu, bất dĩ binh xa, Quản Trọng chi lực dã. Như kì nhân, như kì nhân?” Dịch. – Tử Lộ bảo: “(Tề) Hoàn Công giết công tử Củ, Thiệu Hốt chết theo công tử Củ, Quản Trọng thì không”. Rồi lại nói: “Như vậy Quản Trọng chưa đáng gọi là nhân chăng?” Khổng tử nói: “Hoàn Công chín lần họp chư hầu mà không phải dùng võ lực uy hiếp họ, đó là tài sức của Quản Trọng. Nhân đức của ông ấy ở đó, nhân đức của ông ấy ở đó.” Chú thích. – Thiệu Hốt và Quản Trọng đều thờ công tử Củ, em Tề Hoàn Công. Công tử Củ bị Hoàn Công giết vì tranh quyền với mình. Thiệu Hốt chết theo chúa. Quản Trọng đã không chết theo chúa, lại còn làm tướng quốc giúp cho Hoàn Công nữa. Vì vậy Tử Lộ chê là bất nhân. Khổng tử cho việc chết theo chúa đó là cái tiết tháo nhỏ, mà khen Quản Trọng không dùng võ lực mà dân được yên ổn, nhân đức của Quản Trọng ở đó. Quan niệm trung quân của ông rộng rãi chứ không hẹp hòi như đời sau. Giúp dân giúp nước, điều đó quan trọng hơn giữ tiết với vua. “Cửu hợp chư hầu”: chín lần họp chư hầu; thực ra là mười một lần, có lẽ chữ cửu [九] (chín) nên sửa là chữ c ủ [糾][164] (kết hợp) thì phải hơn. Câu cuối có người dịch là: “Ai mà nhân đức được bằng ông ấy.” XIV.17 Tử Cống viết: “Quản Trọng phi nhân giả dư? Hoàn Công sát công tử Củ, bất năng tử, hựu tướng chi?” Tử viết: “Quản Trọng tướng Hoàn Công, bá chư hầu, nhất khuông thiên hạ, dân đáo vu kim thụ kì tứ. Vi Quản Trọng, ngô kì bí phát, tả nhẫm hĩ. Khởi nhược thất phu, thất phụ chi vi lượng dã, tự kinh ư câu độc nhi mạc chi tri dã?”
Dịch. – Tử Cống bảo: “Quản Trọng không phải là người nhân chăng? Hoàn Công giết công tử Củ, Quản Trọng không chết theo mà còn làm tướng quốc cho Hoàn Công”. Khổng tử nói: “Quản Trọng giúp Hoàn Công, khiến Hoàn Công làm bá (lãnh tụ) các chư hầu, thiên hạ qui về một mối, nhân dân đến nay còn mang ơn ông. Nếu không có ông thì chúng ta ngày nay phải gióc tóc, mặc áo có vạt bên trái (như Di, Địch)[165] rồi. Ông há phải như bọn thất phu, thất phụ tầm thường, tự treo cổ nơi ngòi, rảnh mà chẳng ai biết tới ư?” XIV.18 Công Thúc Văn Tử chi thần đại phu Soạn, dữ Văn tử đồng thăng chư công. Tử văn chi, viết: “Khả dĩ vi văn hĩ.” Dịch. – Đại phu Soạn là gia thần của Công Thúc Văn tử, nhờ Văn tử tiến cử mà cùng Văn tử được thăng làm đại phu ở triều đình. Khổng tử hay tin đó, bảo: “(Công Thúc Văn tử) đáng được đặt tên thuỵ là Văn” [166]. XIV.19 Tử ngôn Vệ Linh Công chi vô đạo dã. Khang Tử viết: “Phù như thị, hề nhi bất táng?” Khổng tử viết: “Trọng Thúc Ngữ trì tân khách, Chúc Đà trì tôn miếu, Vương Tôn Giả trì quân lữ. Phù như thị, hề kì táng?” Dịch. – Khổng tử nói về chuyện vua Vệ Linh Công là người vô đạo. Khang tử hỏi: “Như vậy sao không mất ngôi vua?” Khổng tử đáp: “Có Trọng Thúc Ngữ coi việc ngoại giao, Chú Đà coi việc tế tự, Vương Tôn Giả coi việc quân. Dùng người như vậy, sao mất ngôi được?” Chú thích. – Khang tử là Quí Khang tử, đại phu nước Lỗ. XIV.20 Tử viết: “Kì ngôn chi bất tạc tắc vi chi dã nan.”
Dịch. – Khổng tử nói: “Nói khoác lác mà không thẹn thì khó làm được như lời mình nói.” XIV.21 Trần Thành tử thí Giản Công. Khổng tử mộc dục nhi triều, cáo ư Ai Công viết: “Trần Hằng thí kì quân, thỉnh thảo chi?” Công viết: “Cáo phù tam tử!” Khổng Tử viết: “Dĩ ngô tòng đại phu chi hậu, bất cảm bất cáo dã. Quân viết: “Cáo phu tam tử giả!” Chi tam tử cáo bất khả. Khổng tử viết: “Dĩ ngô tòng đại phu chi hậu, bất cảm bất cáo dã.” Dịch. – Trần Thành tử (tên Hằng, đại phu nước Tề) giết Giản Công (vua Tề). Khổng tử (đã về trí sĩ ở Lỗ) tắm gội rồi vào triều tâu với Lỗ Ai Công: “Trần Hằng giết vua, xin xuất binh hỏi tội hắn”. Ai Công nói: “Ông nên nói với ba nhà (tức ba quyền thần Mạnh Tôn, Thúc Tôn, Quí Tôn)”. Khổng tử ra đi, nói: “Vì tôi đi sau hàng đại phu nên không dám tâu việc ấy với vua. Vua bảo nên nói với ba nhà”. Đi nói với ba nhà, không ai chịu. Khổng tử đi về nói: “Vì tôi theo sau hàng đại phu, nên không dám không báo cáo việc ấy.” XIV.22 Tử Lộ vấn sự quân. Tử viết: “Vật khi dã, nhi phạm chi.” Dịch. – Tử Lộ hỏi về việc thờ vua. Khổng tử đáp: “Không nên lừa gạt vua, nhưng không ngại xúc phạm vua (mà phải dám can gián).” XIV.23 Tử viết: “Quân tử thượng đạt, tiểu nhân hạ đạt.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử hướng lên cao (đạo đức) mà mong đạt tới; kẻ tiểu nhân hướng xuống thấp (tài lợi) mà mong đạt được.” XIV.24 Tử viết: “Cổ chi học giả vị kỉ, kim chi học giả vị nhân.”
Dịch. – Khổng tử nói: “Người xưa học vì mình, người đời nay học vì người (nghĩa là cho người ta biết tới mình). XIV.25 Cừ Bá Ngọc sử nhân ư Khổng tử. Khổng tử dữ chi tọa nhi vấn yên, viết: “Phu tử hà vi?” Đối viết: “Phu tử dục quả kì quá nhi vị năng dã”. Sứ giả xuất, Tử viết: “Sứ hồ! Sứ hồ!” Dịch. – Cừ Bá Ngọc (đại phu nước Vệ, tuổi cao, đức lớn, khi Khổng tử tới Vệ, thường ở nhà ông ấy) sai người lại thăm Khổng tử. Khổng tử mời người đó ngồi, rồi hỏi: “Cừ phu tử lúc này làm gì?” Người đó đáp: “Phu tử muốn bớt lầm lỗi đi mà chưa được”. Khi người đó ra về, Khổng tử khen: “Người đi sứ đó giỏi! Người đi sứ đó giỏi!” XIV.26 Tử viết: “Bất tại kì vị, bất mưu kì chính”. (Đoạn này trùng với bài VIII.14, không dịch lại). Tăng tử viết: “Quân tử tư bất xuất kì vị.” Dịch. – Tăng tử nói: “Người quân tử nghĩ ngợi trong chức vụ của mình.” Chú thích. – Câu này có ý nghĩa như câu trên nên sắp chung một bài. XIV.27 Tử viết: “Quân tử sỉ kì ngôn nhi quá kì hành.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử thẹn rằng nói nhiều mà làm ít.” Chú thích. – Có người hiểu rằng: “Người quân tử hổ thẹn, rụt rè về lời nói mà cố gắng gỏi, cố sức về việc làm.” XIV.28 Tử viết: “Quân tử đạo giả tam, ngã vô năng yên: nhân giả bất ưu, trí giả bất hoặc, dũng giả bất cụ”. Tử Cống viết: “Phu tử tự đạo dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Đạo người quân tử gồm có ba mà ta chưa làm được: người nhân không lo buồn, người trí không nghi
hoặc, người dũng không sợ hãi”. Tử Cống nói: “Thầy tự nói khiêm như vậy đấy. (Thầy nói về thầy đấy).” XIV.29 Tử Cống phương nhân. Tử viết: “Tứ dã, hiền hồ tai? Phù ngã tắc bất hạ.” Dịch. – Tử Cống hay so sánh người này với người khác. Khổng tử nói: “Anh Tứ giỏi thế ư? Ta thì không rảnh để so sánh người.” XIV.30 Tử viết: “Bất hoạn nhân chi bất kỉ tri, hoạn kì bất năng dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Đừng lo không ai biết mình, chỉ lo mình không có tài đức để người ta biết đến.” XIV.31 Tử viết: “Bất nghịch trá, bất ức bất tín, ức diệc tiên giác giả, thị hiền hồ!” Dịch. – Khổng tử nói: “Không tiên liệu rằng người ta gạt mình, đừng ức đoán người ta không tin mình, nhưng khi gặp những người như vậy, mình biết được ngay, như vậy là hiền đấy!” XIV.32 Vi Sinh Mẫu[167] vị Khổng tử viết: “Khâu hà vi thị thê thê giả dư? Vô nãi vi nịnh hồ?” Khổng tử viết: “Phi cảm vi nịnh dã, tật cố dã.” Dịch. – Vi Sinh Mẫu nói với Khổng tử: “Này Khâu, sao ông không ở yên mà cứ lăng xăng đi du thuyết như vậy? Ông muốn tỏ cái khẩu tài của mình chăng?” Khổng tử đáp: “Tôi không dám tỏ khẩu tài, chỉ ghét hạng người ngoan cố thôi.” XIV.33 Tử viết: “Kí bất xưng kì lực, xưng kì đức dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người ta khen con ngựa Kí không phải vì nó có sức mà vì nó thuần lương.” XIV.34 Hoặc viết: “Dĩ đức báo oán, hà như?” Tử viết: “Hà dĩ báo đức? Dĩ trực báo oán, dĩ đức báo đức.” Dịch. – Có người nói: “Lấy đức mà báo oán, nên không?”
Khổng tử đáp: “Thế thì lấy gì báo đức? Cứ chính trực mà báo oán, và lấy đức mà báo đức (lấy ân huệ để đáp ân huệ).” XIV.35 Tử viết: “Mạc ngã tri dã phù!” Tử Cống viết: “Hà vi kì mạc tri tử dã?” Tử viết: “Bất oán thiên, bất vưu nhân, hạ học nhi thượng đạt, tri ngã giả kì thiên hồ!” Dịch. – Khổng tử than: “Không có ai hiểu ta cả!” Tử Cống hỏi: “Sao thầy lại than không ai hiểu thầy?” Khổng tử đáp: “Ta không oán trời, không trách người, học từ việc thấp là nhân sự mà đạt lên tới thiên lí. Hiểu ta chỉ có trời chăng?” Chú thích. – Theo Sử kí của Tư Mã Thiên thì Khổng tử than như vậy sau khi xảy ra việc bắt được con lân, ông biết rằng đạo ông không dùng được. XIV.36 Công Bá Liêu tố Tử Lộ ư Quí Tôn. Tử Phục Cảnh Bá dĩ cáo viết: “Phu tử cố hữu hoặc chí ư Công Bá Liêu, ngô lực do năng tứ chư thị triều”. Tử viết: Đạo chi tương hành dã dư, mệnh dã; đạo chi tương phế dã dư, mệnh dã. Công Bá Liêu kì như mệnh hà!” Dịch. – Công Bá Liêu (một đại phu nước Lỗ) gièm pha Tử Lộ với Quí Tôn (quyền thần của Lỗ). Tử Phục Cảnh Bá nói với Khổng tử: “Phu tử (tức Quí Tôn) nghi ngờ Tử Lộ vì lời gièm pha của Công Bá Liêu. Tôi có đủ sức (biện oan cho Tử Lộ) làm cho Công Bá Liêu bị giết chết, bị bêu thây ở chợ hoặc triều đình”. Khổng tử nói: “Đạo (tôi) mà thi hành được là do mệnh trời, hay bị bỏ phế cũng do mệnh trời. Công Bá Liêu làm sao đổi được mệnh trời?”
Chú thích. – Tử Lộ giúp Quí Tôn để thi hành đạo của Khổng. XIV.37 Tử viết: “Hiền giả tị thế, kì thứ tị địa, kì thứ tị sắc, kì thứ tị ngôn” [168]. Dịch. – Khổng tử nói: “Bậc hiền nhân tránh đời mà ở ẩn, hạng thấp hơn tránh nước loạn mà qua nước khác, hạng thấp hơn nữa tránh những kẻ không có lễ độ, hạng cuối tránh những lời nói không hợp ý mình.” Chú thích. – Khổng tử tuy nói theo thứ tự trước sau, nhưng không có ý phân biệt cao thấp, chỉ là tuỳ cảnh ngộ mà thôi. Như câu “bang vô đạo tắc ẩn” là trường hợp thứ nhất; câu “loạn bang bất cư” là trường hợp thứ nhì; câu “lễ mạo suy bất khứ chi” trong Mạnh tử – Cáo tử hạ – là trường hợp thứ ba; trường hợp cuối cùng như khi Tề Cảnh Công báo với Khổng tử rằng mình già rồi, không thi hành được chính sách của Khổng tử và Khổng tử bỏ đi – bài XVIII.3 ở sau. XIV.38 Tử viết: “Tác giả thất nhân hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “(Nước Lỗ đã có) bảy người hành động như vậy rồi (tức đi ở ẩn).” Chú thích. – Bài này nối tiếp với bài ở trên. Có người giảng “tác” [作] là đứng dậy (bỏ đi ở ẩn) – Không rõ bảy người đó là ai, mỗi thuyết một khác. XIV.39 Tử Lộ túc ư Thạch Môn. Thần môn viết: “Hề tự?” Tử Lộ viết: “Tự Khổng thị”. Viết: “Thị tri kì bất khả nhi vi chi giả dữ?” Dịch. – Tử Lộ nghỉ đêm ở Thạch môn (ở ngoại thành nước Lỗ). Người mở cửa thành buổi sáng hỏi: “Ông ở đâu đến đây?”
Tử Lộ đáp: “Từ nhà họ Khổng đến”. Người đó nói: “Có phải cái ông biết không thể làm được mà vẫn cứ làm không?” XIV.40 Tử kích khánh ư Vệ, hữu hà quĩ nhi quá khổng thị chi môn giả, viết: “Hữu tâm tai, kích khánh hồ”. Kí nhi viết: “Bỉ tai! Khanh khanh hồ! Mạc kỉ tri dã, tư dĩ nhi dĩ hĩ”. Thâm tắc lệ, thiển tắc khê[169]. Tử viết: “Quả tai! Mạt chi nạn hĩ.” Dịch. – Khổng tử đang đánh cái cái khánh (bằng đá) ở nước Vệ, có người vác sọt cỏ đi qua cửa, bảo: “Có hảo ý thay, người đánh khánh đó!” Rồi người ấy lại nói: “Bỉ lậu thay! Tiếng khánh lanh lảnh ấy! Người ta đã không biết mình thì thôi, đi cho xong. (Kinh Thi, Bội phong có câu): “Lội nước sâu thì để cả áo, lội nước cạn thì vén áo lên”. Khổng tử nghe được bảo: “Ý người ta kiên quyết thật! Ta cũng chẳng cãi người đó làm gì.” Chú thích. – Nhiều sách cho chữ [難] đọc là nan và giảng câu cuối như sau: “Quả thật là người quên đời (hoặc: Quả thật như vậy ư?). Muốn như thế thì không khó gì”; hoặc: “Người ấy quả quyết, gắt gỏng thay! Đã chẳng nghĩ đến nhân tâm thế đạo thì đời sống có khó gì?” XIV.41 Tử Trương viết: “Thư vân: “Cao tôn lượng âm, tam niên bất ngôn. Hà vị dã?” Tử viết: Hà tất Cao Tôn? Cổ chi nhân giai nhiên. Quân hoăng, bách quan tổng kỉ, dĩ thính ư trủng tể, tam niên.” Dịch. – Tử Trương hỏi: “Kinh Thư có câu: “Ông Cao Tôn để tang, ở cái nhà tang, ba năm không nói đến việc nước”. Thế nghĩa là sao?” Khổng tử đáp: “Nào riêng gì vua Cao Tôn, người
xưa đều như vậy cả. Vua cũ mất, trăm quan đều lo chức vụ của mình dưới lệnh của tể tướng, như vậy ba năm (trong khi vua mới cư tang).” Chú thích. – Coi việc Đằng Văn Công để tang cho cha theo đạo Nho, trong Mạnh tử – Đằng Văn Công thượng, bài 2). XIV.42 Tử viết: “Thượng hiếu lễ tắc dân dị sử dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người trên ham lễ nghĩa thì dân dễ sai khiến.” XIV.43 Tử Lộ vấn quân tử, Tử viết: “Tu kỉ dĩ kính” – Viết: “Như tư nhi dĩ hồ?” Viết: “Tu kỉ dĩ an nhân”. Viết: “Như tư nhi dĩ hồ?” Viết: “Tu kỉ dĩ an bách tính. Tu kỉ dĩ an bách tính, Nghiêu Thuấn kì do bệnh chư?” Dịch. – Tử Lộ hỏi thế nào là quân tử. Khổng tử đáp: “Sửa mình thành kính cẩn”. Tử Lộ lại hỏi: “Chỉ có vậy thôi ư?” Khổng tử đáp: “Sửa mình cho người khác được yên trị”. Lại hỏi: “Chỉ có vậy thôi ư?” Đáp: “Sửa mình để cho trăm họ yên trị. Sửa mình mà trăm họ yên trị, dẫu Nghiêu, Thuấn e cũng khó làm được thay.” XIV.44 Nguyên nhưỡng di sĩ. Tử viết: “Ấu nhi bất tốn đễ, trưởng nhi vô thuật yên, lão nhi bất tử, thị vi tặc”. Dĩ trượng khấu kì hĩnh.” Dịch. – Nguyên Nhưỡng (một bạn già của Khổng tử) ngồi xoạc chân ra đợi Khổng tử. Khổng tử nói: “Hồi nhỏ anh không biết kính thuận người lớn; lớn lên không làm được gì đáng khen; già rồi mà không chết. Như vậy chỉ báo hại người ta thôi”. Nói rồi lấy gậy gõ vào ống chân của Nguyên Nhưỡng.” Chú thích. – Nguyên Nhưỡng là con người phóng túng, bỏ
cả lễ phép. XIV.45 Khuyết đảng đồng, tử tương mệnh. Hoặc vấn chi viết: “Ích giả dư?” Tử viết: “Ngô kiến kì cư ư vị dã, kiến kì dư tiên sinh tịnh hành dã. Phi cầu ích giả dã, dục tốc thành giả dã.” Dịch. – Một đứa trẻ làng Khuyết được Khổng tử sai trong việc truyền đạt lời ông, mỗi khi có khách khứa. Có người hỏi: “Thằng bé đó học đã tấn ích ư?” Khổng tử đáp: “Tôi thấy nó ngồi cùng chỗ với người lớn. Như vậy là nó không tiến bộ lần lần, mà muốn mau thành người lớn, nên tôi sai nó vậy cho nó biết lễ phép.” THIÊN XV VỆ LINH CÔNG XV.1 Vệ Linh Công vấn trận ư Khổng tử. Khổng tử đối viết: “Trở đậu chi sự, tắc thường văn chi hĩ, quân lữ chi sự, vị chi học dã”. Minh nhật toại hành. Tại Trần tuyệt lương, tòng giả bệnh, mạc năng hưng. Tử Lộ uấn hiện, viết: “Quân tử diệc hữu cùng hồ?” Tử viết: “Quân tử cố cùng, tiểu nhân cùng tư lạm hĩ.” Dịch. – Vua Vệ Linh Công hỏi Khổng tử về chiến trận. Khổng tử đáp: “Về việc tế tự, lễ khí thì tôi đã từng nghe được, còn về quân lữ thì tôi chưa học”. Sáng hôm sau, ông rời nước Vệ. Ở nước Trần ông bị hết lương, các môn sinh theo hầu bị bệnh, không ngồi dậy được. Tử Lộ uất hận, hỏi ông: “Người quân tử cũng có khi cùng khốn ư?” Khổng tử đáp: “Người quân tử có khi cùng khốn cũng là lẽ cố nhiên (hoặc: người quân tử có khi khốn cùng thì cố giữ tư cách của mình); kẻ tiểu nhân khốn cùng thì phóng túng, làm càn.”
Chú thích. – Không hiểu tại sao hai việc trên các sách đều sắp chung vào một bài. So sánh bài này với bài IV.15. XV.2 Tử viết: “Tứ dã, nhữ dĩ dư vi đa học nhi chí chi giả dư?” Đối viết: “Nhiên. Phi dư?” Viết: “Phi dã, dư nhất dĩ quán chi.” Dịch. – Khổng tử nói: “Anh Tứ, anh cho ta học nhiều mà nhớ hết chăng?” Tử Cống đáp: “Vâng. Không phải vậy sao?” Khổng tử nói: “Không phải vậy, ta tìm một điều căn bản mà khái quát, thông suốt cả.” Chú thích. – Có người bảo chữ “quán” [貫] ở đây có nghĩa là làm, tập. Nhất dĩ quán chi là ghi nhớ điều tai nghe rồi lấy “thực tiễn” (tức quán) làm căn bản. Thuyết này khó tin được. XV.3 Tử viết: “Do, tri đức giả tiển hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Anh Do (Tử Lộ) người biết đạo đức (nghĩa lí) ít lắm.” XV.4 Tử viết: “Vô vi nhi trị giả, kì Thuấn dã dư! Phù hà vi tai? Cung kí chính Nam diện nhi dĩ hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Không làm gì mà thiên hạ bình trị, là vua Thuấn đấy chăng? Chỉ kính cẩn, đoan chính quay mặt về phương Nam (ngồi trên ngai) thế thôi”. (Nhờ khéo giáo hoá và có bề tôi hiền). XV.5 Tử Trương vấn hành. Tử viết: “Ngôn trung tín, hành đốc kính, tuy Man, Mạch chi bang, hành hĩ. Ngôn bất trung tín, hành bất đốc kính, tuy châu lí, hành hồ tai? Lập, tắc kiến kì tham ư tiền dã, tại dư tắc kiến kì ỷ ư hành dã, phù nhiên hậu hành”. Tử Trương thư chư thân. Dịch. – Tử Trương hỏi làm cách nào đi đâu cũng trót lọt.
Khổng tử đáp: Lời nói trung thực, đáng tin, hành vi phải thân thiết, kính cẩn, như vậy dù đến nước Man, nước Mạch (các nước lạc hậu ở phương Nam, phương Bắc) cũng trót lọt. Lời nói không trung thực, đáng tin, hành vi không thân thiết, kính cẩn, thì dù ở trong làng, trong châu (một châu gồm 2500 nhà) của mình cũng làm sao trót lọt được? Khi đứng, thấy cái ta mới nói đó như trước mặt; khi ngồi xe, thấy nó dựa trên cái ách. Phải như vậy rồi mới trót lọt”. Tử Trương chép ngay vào dây đai. XV.6 Tử viết: “Trực tai, Sử Ngư! Bang hữu đạo như thỉ, bang vô đạo như thỉ. Quân tử tai, Cừ Bá Ngọc! Bang hữu đạo tắc sĩ, bang vô đạo tắc khả quyển nhi hoài chi.” Dịch. – Khổng tử nói: “Ngay thẳng như ông Sử Ngư, nước có đạo, ông thẳng như mũi tên, nước vô đạo ông cũng thẳng như mũi tên. Quân tử thay ông Cừ Bá Ngọc! Nước có đạo thì làm quan, nước vô đạo thì lui về ở ẩn (dịch từng chữ là thu cái tài của mình mà cất đi).” Chú thích. – Sử Ngư là một đại phu của nước Vệ. – Cừ Bá Ngọc cũng là một đại phu của nước Vệ, coi bài XIV.25. XV.7 Tử viết: “Khả dữ ngôn, nhi bất dữ chi ngôn, thất nhân; bất khả dữ ngôn nhi dữ chi ngôn, thất ngôn. Trí giả bất thất nhân, diệc bất thất ngôn.” Dịch. – Khổng tử nói: “Đáng nói chuyện với ai mà không nói, là mất một người (tốt). Không đáng nói chuyện với ai mà nói, là phí lời. Người sáng suốt không bỏ mất người, cũng không phí lời.”
XV.8 Tử viết: “Chí sĩ, nhân nhân, vô cầu sinh dĩ hại nhân, hữu sát thân dĩ thành nhân.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người sĩ có chí và người có đức nhân không cầu sống mà làm hại điều nhân, mà có khi hi sinh tính mạng để thành điều nhân.” XV.9 Tử Cống vấn vi nhân. Tử viết: “Công dục thiện kì sự, tất tiên lợi kì khí. Cư thị bang dã, sự kì đại phu chi hiền giả, hữu kì sĩ chi nhân giả.” Dịch. – Tử Cống hỏi về sự tu dưỡng đức nhân. Khổng tử đáp: “Người thợ muốn làm việc cho khéo thì trước hết phải có đồ dùng tốt. (Cũng vậy, muốn tu dưỡng đức nhân, cần có thầy, bạn). Ở nước nào thì tìm ông đại phu nào hiền mà thờ, tìm người nhân mà làm bạn.” XV.10 Nhan Uyên vấn vi bang. Tử viết: “Hành Hạ chi thời, thừa Ân chi lộ, phục Chu chi miện, nhạc tắc Thiều Vũ[170]. Phóng Trịnh thanh, viễn nịnh nhân. Trịnh thanh dâm, nịnh nhân đãi.” Dịch. – Nhan Uyên hỏi về phép trị nước. Khổng tử đáp: “Theo lịch nhà Hạ, ngồi xe nhà Ân, đội mũ miện nhà Chu, nhạc thì theo nhạc Thiều và Vũ. Cấm giọng hát nước Trịnh, xa kẻ nịnh. Giọng hát nước Trịnh dâm, kẻ nịnh nguy hiểm.” XV.11 Tử viết: “Nhân vô viễn lự tất hữu cận ưu.” Dịch. – Khổng tử nói: “Không lo xa thì tất có cái buồn gần” [171]. XV.12 Tử viết: “Dĩ hĩ hồ, ngô vị kiến hiếu đức như hiếu sắc giả dã.” (Bài này trùng với bài IX.17, chỉ thêm ba chữ: Dĩ hĩ hồ nghĩa là: Thôi đi hết mong rồi) XV.13 Tử viết: “Tang Văn Trọng, kì thiết vị giả chi [172]? Tri Liễu Hạ
Huệ chi hiền nhi bất dữ vị[173] dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Tang Văn Trọng đã trộm chức vị đó chăng? (Không xứng, không làm tròn chức vị). Biết ông Liễu Hạ Huệ là người hiền mà không tiến cử ông ấy đứng ở triều đình với mình.” Chú thích. – Liễu Hạ Huệ, người Lỗ, họ Triển, tên Hoạch, ở xứ Liễu Hạ, có nhân đức. XV.14 Tử viết: “Cung tự hậu nhi bạc trách ư nhân, tắc viễn oán hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Trách mình thì nghiêm, trách người thì nhẹ, như vậy tránh được oán. (Người không oán mình mà mình cũng không oán người).” XV.15 Tử viết: “Bất viết: “Như chi hà, như chi hà” giả, ngô mạt như chi hà dã dĩ hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người nào không tự hỏi: “Làm sao đây, làm sao đây?” thì ta chẳng biết phải đối xử với người đó làm sao (chẳng có cách nào chỉ bảo cho người đó được). XV.16 Tử viết: “Quần cư chung nhật, ngôn bất cập nghĩa, hiếu hành tiểu tuệ, nan hĩ tai!” Dịch. – Khổng tử nói: “Túm tụ với nhau suốt ngày, không bàn về đạo lí mà thích làm những điều khôn vặt, thật là khó sử được (hoặc là khó tiến được).” XV.17 Tử viết: “Quân tử nghĩa dĩ vi chất, lễ dĩ hành chi, tốn dĩ xuất chi, tín dĩ thành chi, quân tử tai!” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử lấy nghĩa làm gốc, theo lễ mà làm, nói năng khiêm tốn, nhờ thành tín mà nên việc, như vậy thật là người quân tử.” XV.18 Tử viết: “Quân tử bệnh vô năng yên, bất bệnh nhân chi bất kỉ tri dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử buồn vì mình không có tài năng chứ không buồn vì người ta không biết mình.”
XV.19 Tử viết: “Quân tử tật một thế nhi danh bất xưng yên.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử hận rằng tới chết mà không ai biết tiếng mình”. (Không làm gì để người ta khen mình). XV.20 Tử viết: “Quân tử cầu chư kỉ, tiểu nhân cầu chư nhân.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử cầu ở mình, kẻ tiểu nhân cầu ở người.” XV.21 Tử viết: “Quân tử căng nhi bất tranh, quần nhi bất đảng.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử nghiêm trang giữ lập trường mà không tranh với ai, hoà hợp (cộng tác) với mọi người mà không bè đảng.” XV.22 Tử viết: “Quân tử bất dĩ ngôn cử nhân, bất dĩ nhân phế ngôn.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử không vì lời nói phải của một người mà đề cử người đó (vì còn xét đức hạnh của người đó nữa), không vì phẩm hạnh của người mà không nghe lời nói phải của người đó.” XV.23 Tử Cống vấn viết: “Hữu nhất ngôn, nhi khả dĩ chung thân hành chi giả hồ?” Tử viết: “Kì thứ hồ! Kỉ sở bất dục, vật thi ư Dịch. – Tử Cống hỏi: “Có một chữ nào suốt đời làm theo được không?” Khổng tử đáp: “Có lẽ là chữ “thứ” chăng? Cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người.” XV.24 Tử viết: “Ngô chi ư nhân dã, thùy hủy, thùy dự? (Có người đọc là dư). Như hữu sở dự giả, kì hữu sở thí hĩ. Tư dân dã, tam đại chi sở dĩ trực đạo nhi hành dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Ta đối với người có chê ai, khen ai (quá đáng) đâu? Khen ai thì ta nghiệm trước đã (xem người đó
có tốt không), còn chê người đời nay thì ta cứ theo đạo thẳng của ba đời (Hạ, Thương, Chu).” XV.25 Tử viết: “Ngô do cập sử chi khuyết văn dã, hữu mã giả, tá nhân thừa chi. Kim vô hĩ phù.” Dịch. – Khổng tử nói: “Ta còn được thấy (đời xưa) trong sách sử bỏ trống chữ để tồn nghi, và người có ngựa cho người khác mượn cưỡi (để huấn luyện giùm cho), ngày nay không còn thấy những việc ấy nữa.” XV.26 Tử viết: “Xảo ngôn loạn đức. Tiểu bất nhẫn tắc loạn đại mưu.” Dịch. – Khổng tử nói: “Lời nói khéo thì làm bại hoại đạo đức. Việc nhỏ không nhịn được thì làm hỏng mưu lớn.” XV.27 Tử viết: “Chúng ố chi, tất sát yên; chúng hiếu chi, tất sát yên.” Dịch. – Khổng tử nói: “Một người bị mọi người ghét thì ta phải xét xem có thật đáng ghét không; được mọi người ưa, ta cũng phải xét xem có đáng ưa không?” XV.28 Tử viết: “Nhân năng hoằng đạo, phi đạo hoằng nhân.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người ta có thể làm cho đạo[174] rộng lớn lên, đạo không làm cho con người rộng lớn được.” Chú thích. – Ý muốn nói: con người chủ động, làm cho đạo sáng thêm, rộng thêm được; nếu con người bị động, cứ cố chấp, giữ đúng đạo thì đạo chỉ làm cho con người hoá hẹp hòi thôi. Trách nhiệm ở người chứ không phải đạo. XV.29 Tử viết: “Quá nhi bất cải, thị vị quá hĩ!” Dịch. – Khổng tử nói: “Có lỗi mà không sửa, như vậy mới thật là có lỗi!” XV.30 Tử viết: “Ngô thường chung nhật bất thực, chung dạ bất tẩm, dĩ tư[175], vô ích, bất như học dã.”
Dịch. – Khổng tử nói: “Ta có lần suốt ngày không ăn, trọn đêm không ngủ, để suy nghĩ nhưng vô ích, không bằng học.” XV.31 Tử viết: “Quân tử mưu đạo bất mưu thực. Canh dã, nỗi tại kì trung hĩ. Học dã, lộc tại kì trung hĩ. Quân tử ưu đạo bất ưu bần.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử mưu cầu đạt đạo, chứ không mưu cầu chuyện ăn. Cày ruộng (vốn để mưu cầu việc ăn) mà có khi gặp năm mất mùa, không có ăn; còn học đạo (vốn không phải mưu cầu việc ăn) nhưng có lúc được bổng lộc. Người quân tử lo không đạt đạo chứ không lo nghèo.” XV.32 Tử viết: “Trí cập chi, nhân bất năng thủ chi, tuy đắc chi, tất thất chi. Trí cập chi, nhân năng thủ chi, bất trang dĩ lị chi, tắc dân bất kính. Trí cập chi, nhân năng thủ chi, trang dĩ lị chi, động chi bất dĩ lễ, vị thiện dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Tài trí đủ để trị dân (có người hiểu là đủ để biết mọi lẽ) mà không biết dùng đức nhân để giữ dân, thì mất dân. Tài trí đủ để trị dân, biết dùng nhân nghĩa giữ dân, mà đối đãi với dân không trang nghiêm thì dân không kính. Tài trí đủ để trị dân, biết dùng nhân đức giữ dân, biết trang nghiêm đối đãi với dân, mà không biết dùng lễ cổ vũ dân theo thì chưa hoàn toàn tốt.” Chú thích. – Bài này nói về cách trị dân: phải có tài trí, có đức nhân, thái độ trang nghiêm, giáo hoá bằng lễ. XV.33 Tử viết: “Quân tử bất khả tiểu tri, nhi khả đại thụ dã. Tiểu nhân bất khả đại thụ nhi khả tiểu tri dã.”
Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử có thể không biết việc nhỏ nhặt, nhưng có thể đảm đương được việc lớn; kẻ tiểu nhân không thể đảm đương được việc lớn, nhưng có thể biết được việc nhỏ nhặt.” Chú thích. – Có người hiểu là: “Lấy việc nhỏ nhặt mà xét thì không biết được tài cán của người quân tử, nhưng người quân tử có thể đảm đương được việc lớn; kẻ tiểu nhân không đảm đương được việc lớn, nhưng lấy việc nhỏ nhặt mà xét thì biết được tài cán của họ.” XV.34 Tử viết: “Dân chi ư nhân dã, thậm ư thủy hỏa. Thủy hỏa ngô kiến đạo nhi tử giả hĩ, vị kiến đạo nhân nhi tử giả dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Nhân dân đối với đạo nhân, coi đạo nhân cần thiết hơn nước lửa. Mà (nước lửa còn có khi nguy hiểm) đã có người sa xuống nước, dẫm vào lửa mà chết, (chứ đạo nhân tuyệt nhiên không nguy hiểm), chưa thấy ai theo đạo nhân mà chết.” XV.35 Tử viết: “Đương nhân, bất nhượng ư sư.” Dịch. – Khổng tử nói: “Làm điều nhân thì dẫu thành mình, mình cũng không nhường.” Chú thích. – Nhân là điều ai cũng nên làm, hết sức mà làm, không có sự tranh chấp, mà cũng không có sự nhường nhau. XV.36 Tử viết: “Quân tử trinh, nhi bất lượng.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử giữ vững chính nghĩa, không cố chấp điều tín nhỏ nhặt.” XV.37 Tử viết: “Sự quân, kính kì sự nhi hậu kì thực.” Dịch. – Khổng tử nói: “Thờ vua thì phải cẩn trọng trong công việc rồi sau mới nghĩ đến bổng lộc.” XV.38 Tử viết: “Hữu giáo vô loại.”
Dịch. – Khổng tử nói: “Bất luận hạng người nào (giàu nghèo, sang hèn, thông minh, đần độn…) ta cũng dạy.” Chú thích. – Có người dịch: Kẻ thiện hay ác, ta cũng dạy – Hiểu như vậy nghĩa quá hẹp. XV.39 Tử viết: “Đạo bất đồng, bất tương vi mưu.” Dịch. – Khổng tử nói: “Đạo (hay chí hướng[176]) không giống nhau, thì không mưu tính với nhau được.” XV.40 Tử viết: “Từ đạt nhi dĩ hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Lời cốt diễn đạt đủ ý thì thôi.” XV.41 Sư Miện hiện. Cập giai, Tử viết: “Giai dã”. Cập tịch, Tử viết: “Tịch dã”. Giai tọa, Tử cáo chi viết: “Mỗ tại tư, mỗ tại tư”. Sư Miện xuất. Tử Trương vấn viết: Dữ sư ngôn chi đạo dư?” Tử viết: “Nhiên. Cố tướng sư chi đạo dã.” Dịch. – Nhạc sư (mù) tên Miện đến thăm. Bước gần đến thềm, Khổng tử nói: “Đây là thềm”. Bước gần tới chiếu, Khổng tử nói: “Đây là chiếu”. Mọi người đều ngồi rồi, Khổng tử nói với nhạc sư: “Ông mỗ ngồi kia, ông mỗ ngồi kia”. Nhạc sư ra về rồi, Tử Trương hỏi: “Phép nói với nhạc sư như vậy phải không?” Khổng tử đáp: “Phải. Đó là phép giúp, dắt dẫn nhạc sư (mù loà).” THIÊN XVI QUÍ THỊ XVI.1 Quí thị tương phạt Chuyên Du. Nhiễm Hữu, Quí Lộ kiến ư Khổng tử viết: “Quí thị tương hữu sự ư Chuyên Du”. Khổng tử viết: “Cầu, vô nãi nhĩ thị quá dư? Phù Chuyên Du, tích giả tiên vương dĩ vi Đông Mông chủ, thả tại bang vực chi trung hĩ, thị xã tắc chi thần dã. Hà dĩ phạt vi? Nhiễm Hữu viết: “Phu tử dục chi, ngô nhị thần giả giai bất dục dã”. Khổng tử viết: “Cầu, Chu Nhâm hữu ngôn viết: “Trần lực tựu liệt, bất năng giả chỉ”. Nguy nhi bất trì, điên nhi bất phù, tắc tương yên dụng bỉ tướng hĩ.
Thả nhĩ ngôn quá hĩ, hổ tỉ[177] xuất ư hạp, qui ngọc hủy ư độc trung, thị thùy chi quá dư?” Nhiễm Hữu viết: “Kim phù Chuyên Du, cố nhi cận ư Phí, kim bất thủ, hậu thế tất vi tử tôn ưu”. Khổng tử viết: “Cầu, quân tử tật phù xả viết dục chi nhi tất vi chi từ. Khâu dã, văn hữu quốc hữu gia giả, bất hoạn quả[178], nhi hoạn bất quân, bất hoạn bần[179], nhi hoạn bất an. Cái quân vô bần, hòa vô quả, an vô khuynh. Phù như thị, cố viễn nhân bất phục, tắc tu văn đức dĩ lai chi. Lí lai chi, tắc an chi. Kim Do dữ Cầu dã, tướng phu tử, viễn nhân bất phục nhi bất năng lai dã bang phấn băng li tích nhi bất năng thủ dã, nhi mưu động can qua ư bang nội. Ngô khủng Quí Tôn chi ưu, bất tại Chuyên Du, nhi tại tiêu tường chi nội dã.” Dịch. – Họ Quí sắp đánh Chuyên Du (một nước phụ dung của nước Lỗ, tức một nước nhỏ phụ thuộc vào Lỗ). Nhiễm Hữu và Quí Lộ (tức Tử Lộ) vào yết kiến Khổng tử, thưa: “Họ Quí sắp đánh Chuyên Du”. Khổng tử nói: “Cầu (Nhiễm Hữu), đó là cái lỗi của anh chăng? Nước Chuyên Du, tiên vương (nhà Chu) đã làm chủ tế ở núi Đông Mông, mà lại ở trong khu vực nước nhà, vậy là bề tôi của xã tắc, sao lại đem quân đánh người ta” [180]. Nhiễm Hữu thưa: “Thầy Quí (Tôn) muốn vậy, chứ hai chúng con là gia thần không muốn”. Khổng tử mắng: “Sử thần Chu Nhâm hồi xưa bảo: “Tận lực làm chức vụ mình, nếu không được thì nên từ chức đi”. Nước nguy biến mà không biết bảo vệ, nước
nghiêng ngả mà không biết chống đỡ, thì ai dùng mình giúp đỡ làm gì? Vả lại, anh nói bậy rồi, (thử hỏi) con hổ, con trâu rừng (hoặc con tê ngưu) xổ củi, mai rùa và ngọc quí bể nát trong rương thì thuộc về ai”. Nhiễm Hữu thưa: “Nước Chuyên Du đó thành quách kiên cố mà lại gần ấp Phí (của họ Quí). Nay họ Quí không chiếm lấy thì sẽ thành mối lo cho con cháu đời sau”. Khổng tử nói: “Này Cầu, người quân tử rất ghét kẻ viện lẽ này lẽ khác để biện hộ cho lòng tham của mình. Khâu này, nghe nói người có nước có nhà (tức ấp phong của đại phu) không lo nghèo thiếu mà lo sự phân phối không quân bình, không lo ít dân mà lo xã tắc không yên[181]. Phân phối quân bình thì dân không nghèo; hoà thuận thì dân sẽ không ít, xã tắc yên ổn thì chính quyền không nghiêng đổ. Như vậy mà người ở xa không phục thì sửa văn đức để người ta đến với mình, họ đến với mình rồi làm sao cho họ được yên ổn. Nay anh Do (Tử Lộ) và anh Cầu giúp phu tử họ Quí, người ở xa không phục mà không biết làm cho người ta đến với mình, nước chia rẽ lìa tan mà không biết bảo vệ, lại tính gây chiến ở trong nước, ta e rằng mối lo con cháu họ Quí không phải ở nước Chuyên Du đâu mà ở ngay sau bức bình phong (tức ngay trong nhà) đấy.” Chú thích. – Bài này chúng tôi dịch trong cuốn Nhà giáo họ Khổng (Cảo Thơm, 1972), nay dịch lại. Coi lời phê bình vắn tắt của chúng tôi trong Nhà giáo họ Khổng, tr.63. [182]
XVI.2 Khổng Tử viết: “Thiên hạ hữu đạo, tắc lễ nhạc, chinh phạt tự thiên tử xuất; thiên hạ vô đạo, tắc lễ nhạc, chinh phạt tự chư hầu xuất. Tự chư hầu xuất, cái thập thế hi bất thất hĩ. Tự đại phu xuất, ngũ thế hi bất thất hĩ; bồi thần chấp quốc mệnh, tam thế hi bất thất hĩ. Thiên hạ hữu đạo, tắc chính bất tại đại phu! Thiên hạ hữu đạo, tắc thứ nhân bất nghị.” Dịch. – Khổng tử nói: “Thiên hạ có đạo (chính trị tốt) thì thiên tử định lễ nhạc, ra lệnh chinh phạt; thiên hạ vô đạo (chính trị xấu) thì vua chư hầu định lễ nhạc, ra lệnh chinh phạt. Chư hầu quyết định, ra lệnh thì được khoảng mười đời, ít khi không mất nước. Đại phu quyết định, ra lệnh thì được khoảng năm đời, ít khi không mất nước; gia thần nắm quốc chính thì được khoảng ba đời, ít khi không mất nước. Thiên hạ có đạo thì chính quyền không ở trong tay đại phu. Thiên hạ có đạo thì dân thường không bàn riêng việc nước. XVI.3 Tử viết: “Lộc chi khứ công thất ngũ thế hĩ, chính đãi ư đại phu tứ thế hĩ, cố phu Tam Hoàn chi tử tôn vi hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Quyền ban tước lộc không thuộc về công thất (nhà vua nước Lỗ) đã năm đời rồi, quốc chính ở trong tay đại phu đã bốn đời rồi, nên con cháu Tam Hoàn đã suy vi rồi.” Chú thích. – Tam Hoàn trỏ Quí thị, Mạnh thị, Thúc thị: ba họ đều là hậu duệ của Lỗ Hoàn Công, cho nên gọi là Tam Hoàn. XVI.4 Khổng tử viết: “Ích giả tam hữu, tổn giả tam hữu. Hữu trực,
hữu lượng, hữu đa văn, ích hĩ. Hữu biền[183] tịch, hữu thiện nhu, hữu biền nịnh, tổn hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Có ba hạng bạn có ích, ba hạng bạn có hại. Bạn chính trực, bạn thành tín, bạn biết nhiều là có ích. Bạn đón ý mình, bạn khéo nịnh mình, bạn không có thực học là bạn có hại.” XVI.5 Khổng tử viết: “Ích giả tam nhạo, tổn giả tam nhạo. Nhạo tiết, lễ, nhạc, nhạo đạo nhân chi thiện, nhạo đa hiền hữu, ích hĩ. Nhạo kiêu lạc, nhạo dật du, nhạo yến lạc, tổn hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Có ba sự ưa thích có ích, có ba sự ưa thích có hại. Thích dùng lễ nhạc để điều tiết đời sống, thích khen chỗ hay của người, thích có nhiều bạn hiền, ba cái đó có ích. Thích kiêu sa, dâm lạc, thích đãng phóng tứ[184], thích yến tiệc vui chơi, ba cái đó có hại.” XVI.6 Khổng tử viết: “Thị ư quân tử hữu tam khiên; ngôn vị cập chi nhi ngôn, vị chi táo; ngôn cập chi nhi bất ngôn, vị chi ẩn; vị kiến nhan sắc nhi ngôn, vị chi cổ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Hầu chuyện người quân tử dễ mắc ba lỗi này: chưa đến lúc mình nói đã nói, gọi là nóng nảy; đến lúc mình nói mà không nói, gọi là giấu giếm; chưa nhìn thấy sắc mặt mà nói, gọi là mù quáng.” XVI.7 Tử viết: “Quân tử hữu tam giới: thiểu chi thời, huyết khí vị định, giới chi tại sắc; cập kì tráng dã, huyết khí phương cương, giới chi tại đấu; cập kì lão dã, huyết khí kí suy, giới chi tại đắc.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử có ba điều răn: Khi còn trẻ khí huyết chưa định (thân thể chưa phát triển đủ), nên răn
về sắc dục; tuổi tráng niên, khí huyết cương cường, nên răn về tranh đấu; về già, khí huyết đã suy, nên răn về tính tham.” XVI.8 Tử viết: “Quân tử hữu tam úy: úy thiên mệnh, úy đại nhân, úy thánh nhân chi ngôn. Tiểu nhân bất tri thiên mệnh nhi bất úy dã, hiệp đại nhân, vũ thánh nhân chi ngôn.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử có ba điều sợ: sợ mệnh trời, sợ bậc đại nhân, sợ lời nói của thánh nhân. Kẻ tiểu nhân không biết mệnh trời nên không sợ, khinh nhờn đại nhân, giễu cợt lời nói của thánh nhân.” XVI.9 Tử viết: “Sinh nhi tri chi giả, thượng dã; học nhi tri chi giả, thứ dã; khốn nhi học chi, hựu kì thứ dã. Khốn nhi bất học, dân tư vi hạ hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Sinh ra mà đã biết là bậc trên; học rồi mới biết, là bậc thứ; gặp cảnh khốn nạn rồi mới chịu học, lại còn thấp hơn nữa. Thấp nhất là gặp cảnh khốn nạn rồi mà vẫn không chịu học.” Chú thích. – Chữ khốn [困], có người dịch là dốt; chúng tôi nghĩ nên hiểu là gặp cảnh khốn nạn, chẳng hạn khi thất bại rồi, mà vẫn không chịu học để tránh thất bại sau thì mới là ngu nhất. XVI.10 Tử viết: “Quân tử hữu cửu tư: thị tư minh, thính tư thông, sắc tư ôn, mạo tư cung, ngôn tư trung, sự tư kính, nghi tư vấn, phẫn tư nan, kiến đắc tư nghĩa.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử có chín điều xét nét: Khi trông thì chú ý để thấy cho minh bạch, khi nghe thì lắng tai nghe để nghe cho rõ, sắc mặt thì giữ cho ôn hoà, diện mạo thì
giữ cho đoan trang, lời nói thì giữ cho trung thực, làm thì giữ cho kính cẩn, có điều nghi hoặc thì hỏi han, khi giận thì nghĩ tới hậu quả tai hại sẽ xảy ra, thấy mối lợi thì nghĩ đến điều nghĩa.” XVI.11 Tử viết: “Kiến thiện như bất cập, kiến bất thiện nhi thám thang; ngô kiến kì nhân hĩ, ngô văn kì ngữ hĩ. Ẩn cư dĩ cầu kì chí, hành nghĩa dĩ đạt kì đạo; ngô văn kì ngữ hĩ, vị kiến kì nhân dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Thấy việc thiện thì vội vàng như đuổi theo không kịp, thấy việc bất thiện thì như nhúng tay vào nước sôi (sợ mà lánh); ta đã thấy người như vậy, đã nghe thấy lời nói như vậy. Ở ẩn để mong giữ được chí của mình, làm việc nghĩa để đạt được đạo của mình; ta đã nghe thấy lời nói như vậy, mà chưa thấy ai như vậy.” XVI.12 Cảnh công hữu mã thiên tứ, tử chi nhật, dân vô đức nhi xưng yên. Bá Di, Thúc Tề ngạ vu Thú Dương chi hạ, dân đáo vu kim xưng chi. [Kì tư chi vị dư?]. Dịch. – Tề Cảnh Công có bốn ngàn con ngựa, khi chết không có đức gì cho người dân khen. Bá Di, Thúc Tề chết đói ở núi Thú Dương, dân dến nay còn khen. [Là muốn nói như vậy ư?] Chú thích. – Câu cuối đặt trong dấu […] đứng chơ vơ, ngờ rằng: hoặc ở bài khác, đặt lầm vô đây, hoặc thiếu một vài câu gì ở trên đó. XVI.13 Trần Cang vấn ư Bá Ngư viết: “Tử diệc hữu dị văn hồ?” Đối viết: “Vị dã. Thường độc lập. Lí xu nhi quá đình. Viết: “Học Thi hồ?” Đối viết: “Vị dã”. – “Bất học Thi vô dĩ ngôn”. Lí thoái nhi học Thi. Tha nhật, hựu độc lập, Lí xu nhi quá đình. Viết: “Học Lễ hồ?” Đối viết: “Vị dã”. – “Bất học Lễ, vô dĩ lập”. Lí thoái nhi học Lễ. Văn tư nhị giả”. Trần Cang thoái nhi hỉ viết: “Vấn nhất đắc tam: văn Thi, văn Lễ, hựu văn quân tử chi viễn kì tử dã.”
Dịch. – Trần Cang hỏi Bá Ngư: “Anh có nghe thầy dạy điều gì lạ không?” Bá Ngư đáp: “Chưa. Có lần cha tôi đứng một mình, Lí tôi đi nhanh qua sân. Cha tôi hỏi: “Học kinh Thi chưa?” Tôi đáp chưa. Cha tôi bảo: “Không học kinh Thi thì không biết nói năng ra sao”. Lí tôi lui về học kinh Thi. Hôm khác, cha tôi đứng một mình, Lí tôi đi nhanh qua sân. Cha tôi hỏi: “Học kinh Lễ chưa?” Tôi thưa chưa, cha tôi bảo: “Không học kinh Lễ thì không biết cách đi đứng ở đời (có người dịch là: không biết dịch thân)”. Lí tôi lui về học kinh Lễ. Tôi chỉ nghe được hai điều đó[185]. Trần Cang lui ra, mừng rằng: “Hỏi một điều mà biết được ba: phải học kinh Thi, phải học kinh Lễ, lại biết rằng người quân tử không hay gần con (có người dịch là: đối với con cũng như đối với học trò, không khác gì nhau).” Chú thích. – Trần Cang, tự là Tử Cầm, (coi bài I.10). XVI.14 Bang quân tử chi thê, quân xưng chi viết phu nhân, phu nhân tự xưng viết tiểu đồng; bang nhân xưng chi viết quân phu nhân, xưng chư dị bang viết quả tiểu quân; dị bang nhân xưng chi diệc viết quân phu nhân. Dịch. – Vợ vua chư hầu, vua chư hầu gọi là phu nhân; phu nhân tự xưng là tiểu đồng; người trong nước gọi bà là phu nhân của vua; nói với người nước khác thì gọi là “quả tiểu nhân” (quả là tiếng khiêm tốn, tiểu quân là vua nhỏ, tức vợ vua); người nước khác cũng gọi là phu nhân của vua. Chú thích. – Bài này như bài 12 ở trên, có phần chắc là lời Khổng tử, không hiểu vì sao mất mấy chữ “viết”, ở đầu bài.
THIÊN XVII DƯƠNG HOÁ XVII.1 Dương Hóa dục kiến Khổng tử, Khổng tử bất kiến; qui Khổng tử đồn. Khổng tử thời kì vô dã nhi vãng bái chi. Ngộ chư đồ. Vị Khổng tử viết: “Lai, dự dữ nhĩ ngôn”. Viết: “Hoài kì bảo nhi mê kì bang, khả vị nhân hồ?” Viết: “Bất khả. Hiếu tòng sự nhi cức thất thì, khả vị trí hồ?” Viết: “Bất khả. Nhật nguyệt thệ hĩ, tuế bất ngã dự”. Khổng tử viết: “Nặc. Ngô tướng sĩ hĩ.” Dịch. – Dương Hoá muốn gặp Khổng tử[186], nhưng Khổng tử không đến thăm y, nên y biếu Khổng tử một con heo sữa (luộc chín). Khổng tử rình lúc Dương Hoá đi vắng, lại nhà y tạ ơn. Không ngờ trên đường về gặp y. Y gọi Khổng tử: “Lại đây, tôi muốn nói chuyện với ông”. Rồi nói: “Giấu tài đức quí báu mà không cứu nước đang mê loạn, có thể gọi là người nhân được không?” (Khổng tử làm thinh). Dương Hoá nói tiếp: “Không gọi là nhân được[187]. Muốn ra làm quan mà nhiều lần bỏ lỡ cơ hội, có thể gọi là trí được không?” (Khổng tử lại làm thinh). Dương Hoá lại nói tiếp: “Không gọi là trí được. Ngày tháng trôi qua, tuổi chẳng đợi ta”. Khổng tử nói: “Vâng. Tôi sẽ ra làm quan.” XVII.2 Tử viết: “Tính tương cận dã, tập tương viễn dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Bản tính con người gần giống nhau, do tập nhiễm mới khác xa nhau.” XVII.3 Tử viết: “Duy thượng tri dữ hạ ngu bất di.” Dịch. – Khổng tử nói: “Chỉ có bậc thượng trí và kẻ hạ ngu là không thay đổi.” Chú thích. – Bài này tiếp bài trên. Bậc thượng trí tức bậc
“sinh nhi tri chi”, còn kẻ hạ ngu tức hạng “khốn nhi bất học” trong bài XVI.9. XVII.4 Tử chi Võ thành, văn huyền ca chi thanh. Phu tử hoàn nhĩ nhi tiếu viết: “Cát kê yên dụng ngưu đao?” Tử Du đối viết: “Tích giả, Yển dã văn chư phu tử viết: “Quân tử học đạo tắc ái nhân, tiểu nhân học đạo tắc dị sử dã”. Tử viết: “Nhị tam tử, Yển chi ngôn thị dã. Tiền ngôn hí chi nhĩ.” Dịch. – Khổng tử tới Võ Thành (nơi Tử Du làm quan tể), nghe tiếng hát đàn. Ông mỉm cười bảo: “Mổ gà cần chi đến dao mổ bò?” Tử Du thưa: “Ngày trước, Yển con nghe thầy dạy: “Người quân tử học đạo (lễ nhạc) thì yêu người, kẻ tiểu nhân học đạo thì dễ sai khiến”. Khổng tử nói: “Này các trò, lời anh Yển đúng, lời ta mới nói chỉ là đùa thôi.” Chú thích. – Tử Du theo lời thầy dạy, dùng lễ nhạc để giáo hoá và trị dân. Khổng tử tiếc rằng Võ Thành nhỏ quá, Tử Du có thể trị một cõi lớn hơn nhiều. XVII.5 Công Sơn Phất Nhiễu dĩ Phí bạn, triệu, tử dục vãng. Tử Lộ bất duyệt, viết: “Mạt chi dã dĩ, hà tất Công Sơn dân chi chi dã?” Tử viết: “Phù triệu ngã giả, nhi khởi đồ tai? Như hữu dụng ngã giả, ngô kì vi Đông Chu hồ?” Dịch. – Công Sơn Phất Nhiễu (gia thần họ Quí, làm tể tướng đất Phí) chiếm cứ đất Phí làm phản (họ Quí), cho người mời Khổng tử, ông muốn tới. Tử Lộ không vui lòng, bảo: “Không có nơi nào hành đạo thì thôi, hà tất phải đến với họ Công Sơn?” Khổng tử nói: “Người ta vời ta, hẳn có ý dùng ta. Nếu dùng ta
thì ta sẽ phục hưng đạo nhà Chu ở phương Đông.” Chú thích. – Họ Quí lấn vua Lỗ. Công Sơn Phất Nhiễu phản họ Quí. Khổng tử mong có thể thuyết Phất Nhiễu lập lại uy quyền của vua Lỗ, khiến cho theo đạo nhà Chu. Nhưng sau ông nghe lời Tử Lộ, không đi. Việc này chép trong Sử kí của Tư Mã Thiên, nhưng không chép trong Tả Truyện cho nên Lương Khải Siêu cho là không đáng tin. Theo Sử kí thì hồi này Khổng tử 50 tuổi. XVII.6 Tử Trương vấn nhân ư Khổng tử. Khổng tử viết: “Năng hành ngũ giả ư thiên hạ, vi nhân hĩ” – “Thỉnh vấn chi”. Viết: “Cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung tắc bất vũ, khoan tắc đắc chúng, tín tắc nhân nhiệm yên, mẫn tắc hữu công, huệ tắc túc dĩ sử nhân[188]. ” Dịch. – Tử Trương hỏi Khổng tử về đạo người. Khổng tử đáp: “Làm được năm đức trong thiên hạ thì gọi là nhân”. Tử Trưởng nói: “Xin thầy cho con biết năm đức ấy”. Khổng tử đáp: “Cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung kính thì không bị khinh nhờn, khoan hậu thì được lòng mọi người, thành tín thì được người tín nhiệm, cần mẫn thì thành công, từ huệ thì sử dụng được người.” XVII.7 Bật Hật triệu, tử dục vãng. Tử lộ viết: “Tích giả Do dã văn chư phu tử viết: “Thân ư kì thân vi bất thiện giả, quân tử bất nhập dã. Bật Hật dĩ Trung Mâu bạn, tử chi vãng dã, như chi hà?” Tử viết: “Nhiên, hữu thị ngôn dã. Bất viết kiên hồ, ma nhi bất lân? Bất viết bạch hồ niết nhi bất truy? Ngô khởi bào qua dã tai? Yên năng hệ nhi bất thực?”
Dịch. – Bật Hật mời, Khổng tử muốn qua. “Trước kia Do con nghe thầy dạy: “Người quân tử không vào đảng với kẻ nào gây điều bất thiện”. Bật Hật chiếm đất Trung Mâu làm phản mà thầy muốn qua với y thì sao phải lẽ?” Khổng tử nói: “Đúng, ta có nói vậy. Nhưng ta chẳng từng nói rằng cái gì cứng rắn thì mài cũng không mòn sao? Ta chẳng từng nói rằng [189] cái gì thực trắng thì nhuộm cũng không đen sao? Ta đâu phải trái bầu khô người ta treo mà không ăn được ư?” Chú thích. – Bật Hật (có người đọc là Phật Hật), là gia thần của Phạm Trọng Hành, một đại phu nước Tấn, và làm chức tể ở Trung Mâu. Người cầm quyền nước Tấn là Triệu Giản tử đánh Phạm Trọng Hành; Bật Hật chiếm Trung Mâu làm phản. Tử Lộ sợ Khổng tử qua giúp Bật Hật thì sẽ ô danh, nên Khổng tử trả lời như vậy. Nhưng rồi ông cũng không đi. Bài này cũng như bài 5 ở trên, Lương Khải Siêu cho là không đáng tin. XVII.8 Tử viết: “Do dã, nhữ văn lục ngôn lục tế hĩ hồ?” Đối viết: “Vị dã” – “Cư, ngô ngữ nhữ. Hiếu nhân bất hiếu học, kì tế dã ngu. Hiếu trí bất hiếu học, kì tế dã đãng. Hiếu tín bất hiếu học, kì tế dã tặc. Hiếu trực bất hiếu học, kì tế dã giảo. Hiếu dũng bất hiếu học, kì tế dã loạn. Hiếu cương bất hiếu học, kì tế dã cuồng.” Dịch. – Khổng tử nói: “Này Do (Tử Lộ), anh có nghe nói đến sáu đức và sáu điều che lấp không?” Tử Lộ đáp: “Thưa chưa” – “Ngồi đó, ta nói cho nghe. Ham đức nhân mà không ham học thì bị sự che lấp là ngu muội; ham đức trí mà không ham học thì bị sự che lấp là sự phóng đãng; ham đức tín mà không ham
học thì bị sự che lấp là bị tổn hại; ham ngay thẳng mà không ham học thì bị sự che lấp là gắt gao, mất lòng người[190]; ham dũng mà không ham học thì bị sự che lấp là loạn động; ham cương cường mà không ham học thì bị sự che lấp là sự cuồng bạo.” XVII.9 Tử viết: “Tiểu tử, hà mạc học, phù Thi? Thi khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán. Nhĩ chi sự phụ, viễn chi sự quân, đa thức ư điểu thú thảo mộc chi danh.” Dịch. – Khổng tử nói: “Các trò[191] sao không học Kinh Thi? Kinh Thi có thể khiến người ta phấn chấn, có thể khiến người ta quan sát phong tục, có thể khiến người ta hợp quần, có thể khiến người ta phúng thích chính trị đương thời. Gần thì biết đạo thờ cha, xa thì biết đạo thờ vua, lại biết được nhiều tên chim muông cỏ cây.” XVII.10 Tử vị Bá Ngư viết: “Nhữ vi Chu Nam, Chiêu[192] Nam hĩ hồ? Nhân nhi bất vi Chu Nam, Chiêu Nam, kì do chính tường diện nhi lập dã dư.” Dịch. – Khổng tử nói: “Khổng tử bảo Bá Ngư: “Con đã học Chu Nam, Chiêu Nam chưa? Người nào không học Chu Nam, Chiêu Nam thì không khác đứng quay mặt sát vào tường.” Chú thích. – Chu Nam, Chiêu Nam là hai thiên đầu trong Kinh Thi chỉ cách tu thân, tề gia. XVII.11 Tử viết: “Lễ vân, lễ vân, ngọc bạch vân hồ tai? Nhạc vân, nhạc vân, chung cổ vân hồ tai?” Dịch. – Khổng tử nói: “Nói về lễ, về lễ, đâu chỉ có ngọc và lụa? Nói về nhạc, về nhạc, đâu phải chỉ có chuông và trống.”
Chú thích. – Khổng tử chê nhà cầm quyền đương thời chỉ chú trọng tới hình thức của lễ, nhạc. XVII.12 Tử viết: “Sắc lệ nhi nội nhẫm, thí chư tiểu nhân, kì do xuyên du chi đạo dã dữ?” Dịch. – Khổng tử nói: “Sắc mặt uy nghiêm mà trong lòng nhu nhược (kẻ giả dối) thì ví như kẻ tiểu nhân mà lại còn (tệ hơn nữa) như kẻ khoét vách trèo tường nữa.” XVII.13 Tử viết: “Hương nguyện, đức chi tặc dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Kẻ hương nguyện (giả đạo đức, làm bộ cao thượng, chìu đời để được mọi người trong làng khen) là kẻ làm hại đạo đức.” XVII.14 Tử viết: “Đạo thính nhi đồ thuyết, đức chi khí dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Nghe người ta đồn ở ngoài đường rồi đi đâu cũng loan truyền là bỏ mất đức hạnh của mình.” Chú thích. – Tức như hạng người ta gọi là ngồi lê đôi mép. XVII.15 Tử viết: “Bỉ phu khả dữ sự quân dã dữ tai? Kì vị đắc chi dã, hoạn đắc chi. Kí đắc chi, hoạn thất chi. Cẩu hoạn thất chi, vô sở bất chí hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Kẻ bỉ lậu có thể thờ vua được không? Khi chưa được chức vị bổng lộc thì lo cho được. Được rồi lại lo mất. Đã lo mất thì không có việc gì xấu mà không làm.” XVII.16 Tử viết: “Cổ giả dân hữu tam tật, kim dã hoặc thị chi vô dã. Cổ chi cuồng dã tứ, kim chi cuồng dã đãng. Cổ chi căng dã liêm, kim chi căng dã phẫn lệ. Cổ chi ngu dã trực, kim chi ngu dã trá nhi dĩ hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Đời xưa, người ta thường có ba tật, nay hoặc giả không có nữa. Đời xưa người cuồng thì không câu
nệ tiểu tiết, nay cuồng thì phóng đãng. Đời xưa người giữ mình rất nghiêm thì liêm chính, nay người giữ mình rất nghiêm thì dễ giận. Đời xưa người ngu thì ngay thẳng, nay ngu thì chỉ dối trá thôi.” XVII.17 Bài này trùng với bài I.3[193] XVII.18 Tử viết: “Ố tử chi đoạt chu dã, ố Trịnh thanh chi loạn nhã nhạc dã, ố lợi khẩu chi phúc bang gia giả.” Dịch. – Khổng tử nói: “Ghét màu tía cướp mất sắc đỏ, ghét nhạc nước Trịnh làm loạn chính nhạc, ghét kẻ bẻm mép làm nghiêng đổ nước nhà.” XVII.19 Tử viết: “Dư dục vô ngôn”. Tử Cống viết: “Tử như bất ngôn, tắc tiểu tử hà thuật yên?” Tử viết: “Thiên hà ngôn tai? Tứ thời hành yên, vạn vật[194] sinh yên, thiên hà ngôn tai?” Dịch. – Khổng tử nói: “Ta không muốn nói gì cả”. Tử Cống hỏi: “Thầy không nói thì bọn chúng con có gì để truyền thuật lại cho đời sau?” (Có sách dịch là: chúng con sao được truyền thuật? Hoặc: chúng con noi theo vào đâu?) Khổng Tử nói: “Trời có nói gì đâu? Bốn mùa qua lại, vạn vật sinh trưởng, Trời có nói gì đâu?” XVII.20 Nhụ Bi[195] dục kiến Khổng tử. Khổng tử từ dĩ tật. Tương mệnh giả xuất hộ, thủ sắc[196] nhi ca, sử chi văn chi. Dịch. – Nhụ Bi (người nước Lỗ, trước có học Khổng Tử) muốn yết kiến Khổng Tử. Ông từ chối, lấy cớ là đau. Người ông sai ra đáp, mới ra tới cửa, ông cầm ngay cây đàn sắt gảy và hát, (cố ý) cho Nhụ Bi nghe thấy. Chú thích. – Không hiểu vì lẽ gì ông không muốn tiếp Nhụ Bi. XVII.21 Tể Ngã vấn tam niên chi tang: “Kì dĩ cửu hĩ! Quân tử tam niên bất vi lễ, lễ tất hoại, tam niên bất vi nhạc, nhạc tất băng.
Cựu cốc kí một, tân cốc kí thăng, toản toại cải hỏa, kì khả dĩ hĩ”. Tử viết: “Thực phù đạo, y phù cẩm ư nhĩ an hồ?” Viết: “An!” – “Nhữ an tắc vi chi! Phù quân tử chi cư tang, thực chỉ bất cam, văn nhạc bất lạc, cư xử bất an, cố bất vi dã. Kim nhữ an, tắc vi chi”. Tể Ngã xuất. Tử viết: “Dư chi bất nhân dã. Tử sinh tam niên, nhiên hậu miễn ư phụ mẫu chi hoài. Phù tam niên chi tang, thiên hạ chi thông tang dã. Dư dã hữu tam niên chi ái ư kì phụ mẫu hồ?” Dịch. – Tể Ngã hỏi về phép để tang cha mẹ ba năm, bảo: “Một năm cũng đã lâu rồi. Người quân tử (để tang) ba năm không học tập lễ, lễ nghi tất phải đổ nát, ba năm không tấu nhạc, âm nhạc tất thất truyền. (Đủ một năm) lúa cũ đã ăn hết, lúa mới đã chín, cây dùi cây đe lấy lửa đã dùi hết một vòng (Mỗi mùa dùi một loại cây để lấy lửa, hết bốn mùa là hết một vòng), để tang một năm là được rồi”. Khổng Tử nói: (Chưa hết ba năm) mà ăn cơm gạo thơm, mặc áo gấm thì trò có yên lòng không?” Tể Ngã đáp: “Yên”. Khổng Tử nói: “Yên lòng thì cứ làm! Người quân tử cư tang, ăn đồ ngon không biết mùi, nghe nhạc không thấy vui, ở nhà của mình không thấy yên ổn (thời đó cất một nhà xấu ở gần mộ để cư tang), cho nên không làm như vậy (không ăn gạo ngon, mặc áo tốt…). Nếu trò thấy yên lòng, thì cứ làm!” Tể Ngã ra rồi, Khổng Tử nói: “Dư là đứa bất
nhân? Đứa trẻ sinh ra, sau ba năm cha mẹ mới thôi bồng bế, (cho nên) để tang ba năm là lệ phổ biến trong thiên hạ. Dư nó được cha mẹ bồng bế ba năm hay không?” (Có sách dịch là: Dư nó có yêu thương cha mẹ được ba năm hay không?). XVII.22 Tử viết: “Bão thực chung nhật vô sở dụng tâm, nan hĩ tai! Bất hữu bác dịch giả hồ? Vi chi, do hiền hồ dĩ.” Dịch. – Khổng Tử nói: “Ăn nói suốt ngày mà chẳng dụng tâm vào việc gì thì khó nên người lắm. Sao không đánh cờ đi? Đánh cờ còn hơn ở không.” Chú thích. – Bác dịch [博弈] có người dịch là đánh bạc, đánh cờ. Thực ra bác [博] thời đó cũng chỉ là một trò chơi như vây cờ. XVII.23 Tử Lộ viết: “Quân tử thượng dũng hồ?” Tử viết: “Quân tử nghĩa dĩ vi thượng, quân tử hữu dũng nhi vô nghĩa vi loạn, tiểu nhân hữu dũng nhi vô nghĩa vi đạo.” Dịch. – Tử Lộ hỏi: “Người quân tử có trọng dũng không?” Khổng Tử đáp: “Người quân tử trọng nghĩa lí hơn hết. Người quân tử chỉ dũng cảm mà không hợp nghĩa lí thì làm loạn; kẻ tiểu nhân chỉ dũng cảm mà không hợp nghĩa lí thì làm trộm cướp.” XVII.24 Tử Cống viết: “Quân tử diệc hữu ố hồ?” Tử viết: “Hữu ố. Ố xưng nhân chi ác giả, ố cư hạ lưu nhi sán thượng giả, ố dũng nhi vô lễ giả, ố quả cảm nhi trất giả”. Viết: “Tứ dã diệc hữu ố hồ?” “Ố kiêu dĩ vi trí giả, ố bất tốn dĩ vi dũng giả, ố kiết dĩ vi trực giả.” Dịch. – Tử Cống hỏi: “Người quân tử có ghét ai không?”
Khổng Tử đáp: “Có. Ghét người nói điều xấu của kẻ khác, ghét kẻ dưới mà huỷ báng người trên, ghét kẻ dũng mà vô lễ, ghét người quả cảm mà cố chấp”. Khổng Tử hỏi lại Tử Công: “Tứ, anh có ghét ai không?” (Tử Cống thưa): “Con ghét kẻ ăn cắp sáng kiến của người khác mà tự cho là mình tìm ra (hoặc tự cho là khôn), ghét kẻ không khiêm tốn mà tự cho là dũng, ghét kẻ bới móc việc riêng của người mà tự cho là ngay thẳng.” XVII.25 Tử viết: “Duy nữ tử dữ tiểu nhân vi nan dưỡng dã. Cận chi tắc bất tôn, viễn chi tắc oán.” Dịch. – Khổng Tử nói: “Chỉ hạng tì thiếp và tôi tớ là khó cư xử với họ. Thân cận với họ thì họ nhờn, xa cách họ thì họ oán.” XVII.26 Tử viết: “Niên tứ thập nhi kiến ố yên, kì chung dã dĩ.” Dịch. – Khổng Tử nói: “Bốn chục tuổi mà (hành vi xấu xa) ai cũng ghét thì hết hi vọng rồi.” THIÊN XVIII VI TỬ XVIII.1 Vi tử khứ chi, Cơ tử vi chi nô, Tỉ Can gián nhi tử. Khổng tử viết: “Ân hữu tam nhân yên.” Dịch. – Vi tử bỏ đi. Cơ tử phải làm nô lệ, Tỉ Can chết vì can vua (Trụ). Khổng Tử nói: “Nhà Ân có ba ông ấy là người nhân.” Chú thích. – Vua Trụ tàn ác và hoang dâm. Vi tử là anh vua Trụ, thấy vậy bỏ nước mà đi để bảo tồn dòng họ. Cơ tử và Tỉ Can đều là chú vua Trụ, đều can Trụ, Trụ bỏ tù Cơ tử và bắt làm nô lệ. Cơ tử giả điên mà sống khổ nhục; còn Tỉ Can thì bị
Trụ giết, moi tim. Hành vi của ba người đó khác nhau, nhưng đều nhằm một mục đích là làm cho nước yên, cho dân khỏi khổ, cho nên Khổng tử khen là nhân. XVIII.2 Liễu Hạ Huệ vi sĩ sư, tam truất. Nhân viết: “Tử vị khả dĩ khứ hồ?” Viết: “Trực đạo nhi sự nhân, yên vãng nhi bất truất? Uổng đạo nhi sự nhân, hà tất khứ phụ mẫu chi bang.” Dịch. – Liễu Hạ Huệ làm pháp quan, ba lần bị biếm. Có người bảo: “Sao ông chưa đi qua nước khác?” Liễu Hạ Huệ đáp: “Dùng đạo chính trực mà thờ người thì đi nước nào cũng bị biếm? Dùng đạo cong queo mà thờ người thì hà tất phải bỏ tổ quốc?” XVIII.3 Tề Cảnh Công đãi Khổng Tử, viết: “Nhược Quí thị tắc ngô bất năng. Dĩ Quí, Mạnh chi gian đãi chi”. Viết: “Ngô lão hĩ, bất năng dụng dã”. Khổng tử hành. Dịch. – Tề Cảnh Công nói về cách đối đãi với Khổng Tử: “Ta không thể đãi Khổng Tử như vua Lỗ đãi họ Quí (đãi là thượng khanh), có thể đãi ông ấy vào bậc giữa họ Quí và họ Mạnh (họ Mạnh là hạ khanh). (Mới định vậy, bị triều thần phản đối, nên Cảnh Công ít lâu sau lại nói): “Ta già rồi, không thể dùng Khổng Tử được”. Khổng Tử bèn đi. Chú thích. – Theo Sử kí của Tư Mã Thiên thì lúc đó Khổng tử ngoài ba mươi lăm tuổi, nhân Lỗ có nội loạn, Khổng tử bỏ Lỗ qua Tề, Tề Cảnh Công muốn dùng nhưng bị triều thần phản đối, lại thôi. Và Khổng tử trở về Lỗ. XVIII.4 Tề nhân quĩ[197] nữ nhạc, Quí Hoàn tử thụ chi, tam nhật bất triều, Khổng tử hành.
Dịch. – Người nước Tề tặng nữ nhạc (ca nữ, vũ nữ). Quí Hoàn tử (đại phu nước Lỗ) nhận, ba ngày không ra triều. Khổng Tử bỏ đi. Chú thích. – Theo Sử kí, lúc này Khổng tử 56 tuổi, làm tư khấu, kiêm tể tướng nước Lỗ. Sau ông qua Vệ. Bài 2, Liễu Hạ Huệ cứ ở lại tổ quốc; bài này Khổng tử không hành đạo được thì bỏ đi. XVIII.5 Sở Cuồng Tiếp Dư ca nhi quá Khổng tử viết: “Phượng hề, phượng hề, hà đức chi suy? Vãng giả bất khả gián, lai giả do khả truy. Dĩ nhi, dĩ nhi! Kim chi tòng chính giả đãi nhi!” Khổng tử hạ, dục dữ chi ngôn. Xu nhi tị chi, bất đắc dữ chi ngôn.” Dịch. – Tiếp Dư, người cuồng nước Sở đi ngang chiếc xe của Khổng Tử, hát: “Phượng hoàng ơi, phượng hoàng ơi[198], đức sao mà suy đồi! Việc đã qua, không thể vãn hồi, việc chưa tới, còn kịp sửa đổi. Thôi đi, thôi đi, làm quan thời này chỉ nguy hiểm thôi!” Khổng Tử xuống xe, muốn nói chuyện. Nhưng Tiếp Dư rảo bước tránh mặt, Khổng Tử không nói chuyện được. Chú thích. – Tiếp Dư không phải là tên. Vì người cuồng nước Sở đó đi ngang qua xe của Khổng tử nên Luận ngữ gọi như vậy. Cũng như người giữ cửa gọi là Thần môn (bài XIV.39), những người cày ruộng trong bài sau, gọi là Trường Thư, Kiệt Nịch (Thư là chỗ đất thấp có nước, Nịch là chân nhúng ở dưới nước). XVIII.6 Trường Thư, Kiệt Nịch ngẫu nhi canh. Khổng tử quá chi, sử Tử Lộ vấn tân yên. Trường Thư viết: “Phù chấp dư giả vi thuỳ?” Tử Lộ viết: “Vi Khổng Khâu”. Viết: “Thị Lỗ Khổng Khâu dư?”
Viết: “Thị dã”. Viết: “Trần [199] tri tân hĩ”. Vấn ư Kiệt Nịch. Kiệt Nịch viết: “Tử vi thùy?” Viết: “Vi Trọng Do”. Viết: “Thị Lỗ Khổng Khâu chi đồ dư?” Đối viết: “Nhiên”. Viết: “Thao thao giả thiên hạ giai thị dã, nhi thuỳ dĩ dịch chi? Thả nhi dữ kì tòng tị[200] nhân chi sĩ dã, khởi nhược tòng tị thế chi sĩ tai?” Ưu nhi bất xuyết. Tử Lộ hành, dĩ cáo. Phu tử vũ nhiên viết: Điểu thú bất khả dữ đồng quần, ngô phi tư nhân chi đồ dữ, nhi thuỳ dữ? Thiên hạ hữu đạo, Khâu bất dữ dịch dã.” Dịch. – Trường Thư và Kiệt Nịch cùng cày ruộng. Khổng Tử đi ngang qua, sai Tử Lộ lại hỏi bến đò ở đâu. Trường Thư hỏi: “Người cầm cương trên xe đó là ai?” Tử Lộ đáp: “Là thầy Khổng Khâu”. Hỏi: “Phải Khổng Khâu nước Lỗ không?” Đáp: “Phải”. Trường Thư nói: “Vậy thì ông ấy tự biết bến đò rồi mà”. Tử Lộ lại hỏi Kiệt Nịch. Kiệt Nịch hỏi lại: “Thầy là ai?” Tử Lộ đáp: “Là Trọng Do”. Lại hỏi: “Phải học trò ông Khổng Khâu nước Lỗ không?” Đáp: “Phải”. Kiệt Nịch nói: “Khắp thiên hạ đâu đâu cũng là dòng nước (đục) cuồn cuộn, ông Khổng Khâu sẽ cùng với ai mà sửa thiên hạ? Còn thầy, đi theo kẻ sĩ tránh người vô đạo (theo Khổng Tử) sao bằng theo (ta là) kẻ sĩ tránh đời ô trọc?” Nói rồi tiếp tục bừa phủ lên cho đất bằng. Tử Lộ về xe kể lại với Khổng Tử. Khổng Tử bùi ngùi hỏi: “Người ta không thể sống chung với cầm thú; ta không sống chung với người trong xã hội thì sống chung với ai? Nếu thiên hạ thịnh trị thì Khâu này cần gì phải sửa đổi nữa?”
XVIII.7 Tử Lộ tòng nhi hậu, ngộ trượng nhân, dĩ trượng hà điệu. Tử Lộ vấn viết: “Tử kiến phu tử hồ”. Trượng nhân viết: “Tứ thể bất cần, ngũ cốc bất phân, thục vi phu tử?” Thực kì trượng nhi vân, hiện kì nhi tử yên. Tử Lộ củng nhi lập, chỉ Tử Lộ túc, sát kê vi thử nhi thực chi, kiến kì nhị tử yên[201]. Minh nhật, Tử Lộ hành dĩ cáo. Tử viết: “Ẩn giả dã”. Sử Tử Lộ phản kiến chi. Chí tắc hành hĩ. Tử Lộ[202] viết: “Bất sĩ vô nghĩa. Trưởng ấu chi tiết, bất khả phế dã; quân thần chi nghĩa, như chi hà kì phế chi? Dục khiết kì thân, nhi loạn đại luân! Quân tử chi sĩ dã, hành kì nghĩa dã. Đạo chi bất hành, dĩ tri chi hĩ.” Dịch. – Tử Lộ đi (theo Khổng Tử mà) lạc lại phía sau, gặp ông già quảy gánh cào cỏ ở đầu một cây gậy. Tử Lộ hỏi: “Ông có thấy thầy tôi không?” Ông già đáp: “Tay chân chẳng làm việc gì cả, không phân biệt được năm giống lúa. Ai là thầy chú?” Nói xong ông già chống gậy xuống đất cào cỏ. Tử Lộ chắp tay đứng (đợi). (Công việc cào cỏ xong) ông già đưa Tử Lộ về nhà nghỉ đêm, giết gà làm cơm đãi, lại cho hai đứa con ra chào. Hôm sau Tử Lộ đi, gặp được Khổng Tử, kể lại chuyện đó. Khổng Tử nói: “Ông già ấy là một ẩn sĩ”, rồi sai Tử Lộ trở lại kiếm. Tới nơi thì ông già đi khỏi. Tử Lộ nói (với hai người con của ông già): “Không ra làm quan (mà ở ẩn) là không hợp đạo nghĩa. Cái thứ tự giữa người lớn và kẻ nhỏ đã không bỏ được (ám chỉ ông lão
đã cho con ra chào Tử Lộ), thì sao lại bỏ nghĩa vua tôi đi? Muốn cho thân mình trong sạch mà (hoá ra) làm loạn cái luân thường lớn nhất. Người quân tử ra làm quan là làm nghĩa vụ của mình. Còn đạo mà không thi hành được, thì đã biết vậy rồi.” XVIII.8 Dật dân: Bá Di, Thúc Tề, Ngu Trọng, Di Dật, Chu Trương, Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên. Tử viết: “Bất giáng kì chí, bất nhục kì thân, Bá Di, Thúc Tề dư?” Vị Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên: “Giáng chí, nhục thân hĩ, ngôn trúng luân, hành trúng lự, kì tư nhi dĩ hĩ”. Vị Ngu Trọng, Di Dật: “Ẩn cư, phóng ngôn, thân trúng thanh, phế trúng quyền. Ngã tắc dị ư thị. Vô khả, vô bất khả.” Dịch. – Bàn về người ẩn dật: Bá Di, Thúc Tề, Ngu Trọng, Di Dật, Chu Trương, Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên, Khổng Tử nói: “Không khuất chí mình, không để nhục thân mình, là Bá Di, Thúc Tề chăng?” Bảo Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên: “Chịu khuất chí mình, nhục thân mình, nhưng lời nói hợp nghĩa lí, hành vi đắn đo (có người dịch là hợp ý dân), chỉ được vậy thôi”. Bảo Ngu Trọng, Di Dật: “Ở ẩn, không nói gì cả (chúng tôi theo Triệu Thông, có người dịch là ăn nói phóng túng), giữ thân được trong sạch, không làm quan là hợp quyền nghi”. Rồi Khổng Tử lại nói: “Ta thì khác các ông ấy: Chẳng có gì nhất định phải làm, chẳng có gì nhất định không nên làm.” Chú thích. – Chúng ta để ý Khổng tử không nhận xét gì về Chu Trương. – Bá Di, Thúc Tề, Liễu Hạ Huệ chúng ta biết rồi. Còn Ngu Trọng, Di Dạt, ít ai nhắc tới, không cần biết.
XVIII.9 Thái sư Chí thích Tề, á phạn Can thích Sở, tam phạn Liêu thích Thái, tứ phạn Khuyết thích Tần, cổ Phương Thúc nhập ư Hà, bá đào Võ nhập ư Hán, thiếu sư Dương, kích khánh Tương nhập ư Hải. Dịch. – Quan thái sư Chí qua Tề, quan á phạn Can qua Sở, quan tam phạn Liêu qua Thái, quan tứ phạn Khuyết qua Tần, người đánh trống tên là Phương Thúc vào ở bờ sông Hoàng Hà, người vỗ trống nhỏ tên Võ[203] vô ở bờ sông Hán, thiếu sư Dương và người đánh khánh tên là Tương vô ở bờ Đông Hải. Chú thích. – Bài này chép tên và chức (thái sư, thiếu sư, tam phạn, tứ phạn…) của tám nhạc sư ở Lỗ đã tứ tán hết; á phạn[204], tam phạn, tứ phạn là những chức quan coi về nhạc mời vua dùng cơm bữa thứ hai, thư ba, thứ tư. XVIII.10 Chu công vị Lỗ công viết: “Quân tử bất thỉ kì thân, bất sử đại thần oán hồ bất dĩ. Cố cựu vô đại cố, tắc bất khí dã. Vô cầu bị ư nhất nhân.” Dịch. – Chu Công khuyên con là Lỗ Công (tức Bá Cầm, được phong ở đất Lỗ): “Người quân tử không bỏ người thân thích, không để cho đại thần oán vì không trọng dụng. Người cố cựu nếu không có lỗi lớn thì không nên bỏ. Không cầu toàn trách bị một người nào.” XVIII.11 Chu hữu bát sĩ: Bá Đạt, Bá Quát, Trọng Đột, Trọng Hốt, Thúc Dạ, Thúc Hạ, Quí Tùy, Quí Oa. Dịch. – Nhà Chu có tám kẻ sĩ: Bá Đạt, Bá Quát, Trọng Đột, Trọng Hốt, Thúc Dạ, Thúc Hạ, Quí Tùy, Quí Oa. Chú thích. – Không rõ tám kẻ sĩ đó là ai. Nên để ý: tám người chia làm bốn cặp: Bá, Trọng, Thúc, Quí, và mỗi cặp có tên vần với nhau: Đạt, Quát, Đột, Hốt v.v… Do đó có người ngờ
là những cặp sinh đôi của một gia đình. [Và cũng do đó thân sinh văn hào Cao Bá Quát của nước ta đặt cho hai người con đầu lòng sinh đôi là: Bá Đạt, Bá Quát; và Bá Quát lấy tên tự là Chu Thần (bề tôi nhà Chu) cũng vì vậy]. THIÊN XIX TỬ TRƯƠNG XIX.1 Tử Trương viết: “Sĩ kiến nguy trí mệnh, kiến đắc tư nghĩa, tế tư kính, tang tư ai, kì khả dĩ hĩ. Dịch. – Tử Trương nói: “Kẻ sĩ mà thấy nguy thì không tiếc sinh mạng, thấy được giàu sang thì nghĩ đến nghĩa lí, khi tế tự, nghĩ đến thành kính, gặp việc tang, nghĩ đến xót thương, như vậy là khá rồi.” XIX.2 Tử Trương viết: “Chấp đức bất hoằng, tín đạo bất đốc, yên năng vi hữu? Yên năng vi vô?” Dịch. – Tử Trương nói: “Người giữ đức mà không kiên cường[205], tin nghĩa lí (đạo) mà không dốc lòng, thì đời có họ hay không có họ cũng vậy thôi.” XIX.3 Tử Hạ chi môn nhân vấn giao ư Tử Trương. Tử Trương viết: “Tử Hạ vân hà?” Đối viết: “Tử Hạ viết: “Khả giả dữ chi, kì bất khả giả, cự chi”. Tử Trương viết: “Dị hồ ngô sở văn: Quân tử tôn hiền nhi dong chúng, gia thiện nhi căng bất năng. Ngã chi đại hiền dư, ư nhân hà sở bất dung? Ngã chi bất hiền dư, nhân tương cự ngã, như chi hà, kì sự nhân dã.” Dịch. – Học trò Tử Hạ hỏi Tử Trương về việc kết bạn. Tử Trương hỏi: “Thầy Tử Hạ dạy như thế nào?” Đáp: “Thầy Tử Hạ bảo: “Nếu là người khá thì mình kết bạn. Không khá thì nên cự tuyệt”. Tử Trương nói: “Tôi nghe khác vậy: Người quân tử tôn trọng người hiền mà dung nạp mọi người, khen người lương thiện mà thương kẻ bất tài. Ta là bậc đại hiền ư thì ai mà không dung nạp được? Còn như ta mà bất hiền thì người ta cự tuyệt ta, chứ đâu cự tuyệt được người?”
XIX.4 Tử Hạ viết: “Tuy tiểu đạo, tất hữu khả quan giả yên. Trí viễn khủng nệ, thị dĩ quân tử bất vi dã.” Dịch. – Tử Hạ nói: “Tuy làm nghề nhỏ, cũng đáng xem xét. Nhưng nếu đi sâu vào nghề đó thì e hoá ra câu nệ, cho nên người quân tử không làm.” XIX.5 Tử Hạ viết: “Nhật tri kì sở vô, nguyệt vô vong kì sở năng, khả vị hiếu học dã dĩ hĩ.” Dịch. – Tử Hạ nói: “Mỗi ngày biết thêm được điều chưa biết, mỗi tháng không quên những điều mình đã biết, như vậy có thể gọi là ham học.” XIX.6 Tử Hạ viết: “Bác học nhi đốc chí, thiết vấn nhi cận tư, nhân tại kì trung hĩ.” Dịch. – Tử Hạ nói: “Học rộng mà vẫn giữ chí hướng, hỏi điều thiết thực mà nghĩ đến việc gần (việc thực hành những điều đó), đạo nhân ở trong đó.” XIX.7 Tử Hạ viết: “Bách công cư tứ dĩ thành kì sự, quân tử học dĩ trí kì đạo.” Dịch. – Tử Hạ nói: “Thợ trăm nghề phải ở tại chợ (chỗ có xưởng thợ) mới làm được đồ vật. (Cũng vậy) người quân tử phải học tập rồi mới thấy được đạo.” XIX.8 Tử Hạ viết: “Tiểu nhân chi quá dã tất văn.” Dịch. – Tử Hạ nói: “Kẻ tiểu nhân tất dùng văn sức bề ngoài để che lỗi của mình.” XIX.9 Tử Hạ viết: “Quân tử hữu tam biến: Vọng chi nghiễm nhiên, tức chi dã ôn, thính kì ngôn dã lệ.” Dịch. – Tử Hạ nói: “Người quân tử có ba vẻ biến hoá: Ở xa thì có vẻ trang trọng, đến gần thì có vẻ ôn hoà, nghe lời nói thấy nghiêm.” XIX.10 Tử Hạ viết: “Quân tử tín nhi hậu lao kì dân, vị tín tắc dĩ vi lệ
kỉ dã. Tín nhi hậu gián, vị tín, tắc dĩ vi báng kỉ dã.” Dịch. – Tử Hạ nói: “Người quân tử phải được dân tin rồi sau mới bắt dân làm việc khó nhọc được, nếu chưa được dân tin thì họ cho là làm khổ họ. Phải được người trên tin rồi mới can ngăn, nếu chưa được người trên tin thì họ cho là huỷ báng họ.” XIX.11 Tử Hạ viết: “Đại đức bất du nhàn, tiểu đức xuất nhập khả Dịch. – Tử Hạ nói: “Không được vượt qua đại tiết[206], còn tiểu tiết thì tuỳ tiện, ở trong phạm vi hay ra ngoài cũng được” (vì không phạm đến đại tiết). XIX.12 Tử Du viết: “Tử Hạ chi môn nhân tiểu tử đương sái tảo, ứng đối, tiến thoái, tắc khả hĩ, ức mạt dã, bổn chi tắc vô, như chi hà?” Tử Hạ văn chi, viết: “Y! Ngôn du quá hĩ. Quân tử chi đạo, thục tiên truyền yên? Thục hậu quyện yên? Thí chư thảo mộc, khu dĩ biệt hĩ. Quân tử chi đạo, yên khả vu dã? Hữu thủy hữu tốt giả, kì duy thánh nhân hồ?” Dịch. – Tử Du nói: “Học trò thầy Tử Hạ, làm việc vẩy nước, quét tước, ứng đối, tới lui thì được, nhưng đó chỉ là cái ngọn, còn gốc không có, thì sao học nên được?” Tử Hạ nghe vậy, bảo: “Ngôn Du (Tử Du) nói sai rồi. Đạo của người quân tử, cái gì nên dạy trước? Cái gì để sau mà không dạy[207]? Ví như cây cỏ, có nhiều loại khác nhau. Đạo của người quân tử đâu có thể vu hoặc được?” (giấu điều chánh mà dạy điều phụ). Biết theo thứ tự, điều nào dạy trước, điều nào dạy sau, chứ nếu cùng dạy một lúc cả ngọn lẫn gốc thì chỉ thánh nhân mới theo được[208]. ”
XIX.13 Tử Hạ viết: Sĩ nhi ưu tắc học, học nhi ưu tắc sĩ.” Dịch. – Tử Hạ nói: “Làm quan mà thừa thì giờ, sức khoẻ thì nên học, học mà thừa thì giờ, sức khoẻ thì nên làm quan.” XIX.14 Tử Du viết: “Tang trí hồ ai nhi chỉ.” Dịch. – Tử Du nói: “Tang lễ mà (biểu lộ) hết lòng thương xót là đủ rồi.” Chú thích. – Có thể hiểu là không nên bày vẽ loè loẹt, hoặc không nên thương xót đến mức huỷ hoại thân thể. XIX.15 Tử Du viết: “Ngô hữu Trương dã, vi nan năng dã, nhiên nhi vị Dịch. – Tử Du nói: “Bạn tôi là Tử Trương (đức đã cao) khó mà giữ được như anh ấy, nhưng chưa phải là bậc nhân”. (Có lẽ vì tính phóng khoáng, thiên lệch, thái quá – Coi cuốn Khổng tử – chương IV). XIX.16 Tăng Tử viết: “Đường đường hồ Trương dã. Nan dữ tịnh vi nhân hĩ.” Dịch. – Tăng tử nói: “Tử Trương thật có vẻ đàng hoàng, nhưng khó làm chung việc nhân với anh ấy được.” XIX.17 Tăng Tử viết: “Ngô văn chư phu tử: Nhân vị hữu tự trí giả dã, tất dã thân tang hồ?” Dịch. – Tăng tử nói: “Ta nghe thầy ta nói: Người ta trong các việc khác chưa biểu lộ được hết tình cảm tự nhiên, chỉ trong việc tang cha mẹ là biểu lộ được hết thôi.” XIX.18 Tăng Tử viết: “Ngô văn chư phu tử: Mạnh Trang tử chi hiếu dã, kì tha khả năng dã; kì bất cải phụ chi thần dữ phụ chi chính, thị nan năng dã.” Dịch. – Tăng tử nói: “Ta nghe thầy ta nói: Ông Mạnh Trang tử (một đại phu nước Lỗ) có những điều hiếu khác mà người ta
làm được, chỉ có điều này là không thay bề tôi và chính trị của cha là khó mà làm được.” XIX.19 Mạnh thị sử Dương Phu vi sĩ sư, vấn ư Tăng tử. Tăng tử viết: “Thượng thất kì đạo, dân tán cửu hĩ. Như đắc kì tình, tắc ai căng nhi vật hỉ.” Dịch. – Họ Mạnh dùng Dương Phu (một môn sinh của Tăng tử) làm pháp quan. Dương Phu đến hỏi Tăng tử. Tăng tử bảo: “Người trên bỏ chính đạo, dân chúng đã phóng túng, không giữ phép từ lâu rồi. Nếu xét được thực tình của người phạm tội thì nên thương xót họ chứ đừng nên mừng” (về tài minh quyết của mình). XIX.20 Tử Cống viết: “Trụ chi bất thiện, bất như thị chi thậm dã. Thị dĩ quân tử ố cư hạ lưu, thiên hạ chi ác giai qui yên.” Dịch. – Tử Cống nói: “Những tội ác của vua Trụ không đến nỗi quá lắm như người ta truyền. Sở dĩ người quân tử không muốn ở chung với đám hạ lưu (mà mang tiếng) vì bao nhiêu tội ác trong thiên hạ đều dồn về đó.” XIX.21 Tử Cống viết: “Quân tử chi quá dã, như nhật nguyệt chi thực yên: Quá dã, nhân giai kiến chi; canh dã nhân giai ngưỡng chi.” Dịch. – Tử Cống nói: “Người quân tử có lỗi thì như nhật thực, nguyệt thực: có lỗi thì ai cũng thấy, mà khi sửa lỗi thì ai cũng ngưỡng vọng.” XIX.22 Vệ Công tôn Triều vấn ư Tử Cống, viết: “Trọng Ni yên học?” Tử Cống viết: “Văn Võ chi đạo, vị trụy ư địa, tại nhân. Hiền giả chí kì đại giả, bất hiền giả, chí kì tiểu giả, mạc bất hữu Văn Vũ
chi đạo yên. Phu tử yên bất học? Nhi diệc hà thường sư chi hữu?” Dịch. – Công tôn Triều (đại phu nước Vệ) hỏi Tử Cống: “Ông Trọng Ni học với ai?” Tử Cống đáp: “Đạo của vua Văn vua Võ (nhà Chu) chưa mất, còn có người bảo tồn được. Người hiền ghi được những điều trọng đại, người bất hiền nhớ được những điều nhỏ nhặt, không đâu không có đạo của vua Văn vua Võ. Thầy tôi gặp đâu mà không học, hà tất phải học riêng một thầy XIX.23 Thúc tôn Võ Thúc ngứ đại phu ư triều viết: “Tử Cống hiền ư Trọng Ni”. Tử Phục Cảnh Bá dĩ cáo Tử Cống. Tử cống viết: “Thí chi cung tường. Tứ chi tường dã cập kiên khuy kiến thất gia chi hảo. Phu tử chi tường sổ nhận, bất đắc kì môn nhi nhập, bất kiến tôn miếu chi mĩ, bách quan chi phú. Đắc kì môn giả hoặc quả hĩ. Phu tử chi vân, bất diệc nghi hồ?” Dịch. – Thúc tôn Võ Thúc (một đại phu nước Lỗ) nói với các quan đại phu ở triều: “Ông Tử Cống tài giỏi hơn ông Trọng Ni”. Tử Phục Cảnh Bá thuật lại lời đó với Tử Cống. Tử Cống nói: “Lấy bức tường cung thất làm thí dụ. Bức tường của Tứ tôi cao tới vai, nên người ở ngoài thấy được những cái đẹp trong nhà. Bức tường của thầy tôi cao mấy nhận (mỗi nhận thời đó bảy tám thước, mỗi thước một gang tay), nếu không qua cửa mà vào thì không thấy được những cái đẹp trong tôn miếu, sự kiến trúc các điện phong phú ra sao. Hoặc giả ít người qua được cửa. Vậy lời của ông Thúc tôn Võ Thúc không hợp rồi (sai rồi).”
XIX.24 Thúc tôn Võ Thúc hủy Trọng Ni. Tử Cống viết: “Vô dĩ vi dã. Trọng Ni bất khả hủy dã. Tha nhân chi hiền giả, khâu lăng dã, do khả du dã. Trọng Ni nhật nguyệt dã, vô đắc nhi du yên. Nhân tuy dục tự tuyệt, kì hà thương ư nhật nguyệt hồ? Đa. Kiến kì bất tri lượng dã.” Dịch. – Thúc tôn Võ Thúc chê Trọng Ni. Tử Cống nói: “Đừng nên làm vậy. Thầy Trọng Ni không thể huỷ báng được. Tài đức của người khác cao như cái gò, cái đống, còn có thể qua được. Người ta dù muốn tự cách tuyệt (mà huỷ báng) thì có hại gì cho mặt trời, mặt trăng đâu! Chỉ tỏ rằng mình không biết lượng cao thấp mà thôi.” XIX.25 Trần Tử Cầm vị Tử Cống viết: “Tử vi cung dã? Trọng Ni khởi hiền ư tử hồ?” Tử Cống viết: “Quân tử nhất ngôn dĩ vi trí, nhất ngôn dĩ vi bất trí, ngôn bất khả bất thận dã. Phu tử chi bất khả cập dã, do thiên chi bất khả giai nhi thăng dã. Phu tử chi đắc bang gia giả, sở vị lập chi tư lập, đạo chi kì hành, tuy chi tư lai, động chi tư hòa. Kì sinh dã vinh, kì tử dã ai, như chi hà kì khả cập dã?” Dịch. – Trần Tử Cầm (Trần Cang) nói với Tử Cống: “Anh khiêm cung đấy thôi. Thầy Trọng Ni làm sao tài đức hơn anh được?” Tử Cống bảo: “Người quân tử nói ra một lời mà người ta cho mình là khôn, hay không khôn, cho nên không thể không thận trọng lời nói. Thầy chúng ta không ai bì kịp được, cũng như trời không thể bắt thang mà lên được. Nếu thầy chúng ta
được cầm quyền một nước hay một nhà (ấp của đại phu), thì như người xưa nói, gây dựng cho dân, dân sẽ tự lập, dắt dẫn dân, dân sẽ biết đường mà đi, vỗ yên dân, dân sẽ qui phục, cổ võ dân, dân sẽ hiệp lực với nhau. Khi sống được mọi người tôn kính. Khi chết được mọi người thương xót. Ai có thể bì kịp với thầy chúng ta được?” THIÊN XX NGHIÊU VIẾT XX.1 Nghiêu viết: “Tư! Nhĩ Thuấn, thiên chi lịch số tại nhĩ cung, doãn chấp kì trung. Tứ hải khốn cùng, thiên lộc vĩnh chung”. Thuấn diệc dĩ mệnh Vũ. Viết: “Dư tiểu tử Lí, cảm dụng huyền mẫu, cảm chiêu cáo vu hoàng hoàng hậu Đế: Hữu tội bất cảm xá. Đế thần bất tế, giản tại Đế tâm. Trẫm cung hữu tội, vô dĩ vạn phương; vạn phương hữu tội, tội tại trẫm cung.” Chu hữu đại lại, thiện nhân thị phú. Tuy hữu chu thân, bất như nhân nhân. Bách tính hữu quá, tại dư nhất nhân.” Cẩn quyền lượng, thẩm pháp độ, tu phế quan, tứ phương chi chính hành yên. Hưng diệt quốc, tu phế quan, kế tuyệt thế, cử dật dân, thiên hạ chi dân qui tâm yên. Sở trọng: Dân, thực, tang, tế. Khoan tắc đắc chúng, tín tắc dân nhiệm yên, mẫn tắc hữu công, công tắc duyệt.” Dịch. – (Khi nhường ngôi cho ông Thuấn) vua Nghiêu bảo: “Hỡi ông Thuấn, mệnh trời tuần hoàn, nay ngôi vua về ông; ông nên thành thực giữ đạo trung chính. Nếu dân trong bốn bể khốn cùng, thì lộc trời (ban cho ông) sẽ mất hẳn đấy. (Về sau) vua Thuấn lại truyền những lời đó cho vua Vũ. Chú thích. – Vua Nghiêu, nhà Đào Đường: 2356 2255; vua Thuấn, nhà Hữu Ngu: 2255 2205; vua Vũ: 2205 2197, sáng lập
nhà Hạ, (cho nên cũng gọi ông là Hạ Vũ). Sau, nhà Hạ suy, bị chư hầu ông Lí đánh đuổi, lên ngôi, hiệu là Thành Thang (1766 1753), lập nhà Thương (cũng gọi là nhà Ân: 1766 1122). Chúng ta nhận thấy câu đầu có vần: cung, trung, cùng, chung; chắc viết khá trễ vào giữa thời Chiến Quốc. (Khi lên ngôi – có sách giảng là nhân một lần đảo vũ) vua Thành Thang cáo với Trời: “Đứa tiểu tử (con nhỏ) này tên là Lí, mạo muội dùng con bò đực đen để tế, mạo muội cáo bạch với Thượng Đế chí tôn chí cao rằng: “Kẻ có tội (có sách bảo đây ám chỉ vua Kiệt), tiểu tử không dám tha. Nhưng kẻ bề tôi của Thượng Đế ai thiện, ai ác, tiểu tử không dám giấu, vì lòng Thượng Đế rõ rồi. Bản thân trẫm[209] (Sau khi Võ vương diệt Trụ) nhà Chu được trời thưởng lớn, nên có nhiều người thiện[210]. (Và những người này được Võ vương phong làm vua chư hầu). Khi phong Tề Thái công[211], Võ vương bảo: “Tuy có người thân thích rất gần, cũng không bằng có người nhân đức. Trăm họ có lỗi, đều tại một mình ta (không biết giáo hoá).” (Võ vương) định lại cẩn thận cái cân và đồ đo lường, chế định pháp độ, khôi phục lại những quan chức đã bị (vua Trụ) bãi bỏ, chính lệnh trong thiên hạ được thi hành. Ông phục hưng những nước chư hầu đã bị diệt, cho người nối tiếp những dòng họ đã bị tuyệt, đề bạt những người ẩn dật có tài đức nên nhân dân khắp nơi qui phục. Ông coi trọng những việc này nhất: Thương dân[212], lương thực, tang lễ, tế tự. Ông khoan hậu nên được lòng người, thành thực nên được trăm họ tín nhiệm, cần
mẫn nên thành công, công bình nên mọi người vui vẻ. Chú thích. – Bài này có thể là ý của Khổng tử, người sau chép lại, thiếu liên lạc mà đoạn cuối có mấy câu: “Khoan tắc đắc chúng, tín đắc dân nhiệm, mẫn tắc hữu công” trùng với bài XVII.6. XX.2 Tử Trương vấn ư Khổng Tử viết: “Hà như, tư khả dĩ tòng chính hĩ”. Tử viết: “Tôn ngũ mĩ, bính tứ ác, tư khả dĩ tòng chính hĩ”. Tử trương viết: “Hà vị ngũ mĩ?” Tử viết: “Quân tử huệ nhi bất phí, lao nhi bất oán, dục nhi bất tham, thái nhi bất kiêu, uy nhi bất mãnh”. Tử Trương viết: “Hà vị huệ nhi bất phí?” Tử viết: “Nhân dân chi sở lợi nhi lợi chi, tư bất diệc huệ nhi bất phí hồ? Trạch khả lao nhi lao chi, hựu thùy oán? Dục nhân nhi đắc nhân, hựu yên tham? Quân tử vô chúng quá, vô tiểu đại, vô cảm mạn, tư bất diệc thái nhi bất kiêu hồ? Quân tử chính kì y quan, tôn kì chiêm thị, nghiễm nhiên nhân vọng nhi uy chi, tư bất diệc uy nhi bất mãnh hồ?” Tử Trương viết: “Hà vị tứ ác?” Tử viết: “Bất giáo nhi sát, vị chi ngược; bất giới thị thành, vị chi bạo; mạn lệnh trí kì, vị chi tặc; do chi dữ nhân dã, xuất nạp chi lận, vị chi hữu ti.” Dịch. – Tử Trương hỏi Khổng tử: “Thế nào thì có thể tòng chính (gánh việc được) được?” Khổng tử đáp: “Phải trọng năm điều tốt, trừ bốn điều xấu thì có thể tòng chính được”. Tử Trương hỏi: “Thế nào là năm điều tốt?” Khổng tử đáp: “Người quân tử ban ân huệ cho dân mà không hao tốn, khiến dân làm
việc khó nhọc mà dân không oán, có lòng muốn mà dân không tham, thư thái mà không kiêu căng, uy nghiêm mà không dữ tợn”. Tử Trương hỏi: “Thế nào mà ban ân huệ cho dân mà không hao tốn?…”. Khổng tử đáp: “Nhân cái lợi của dân mà làm lợi cho dân (chẳng hạn dân ở miền núi, miền biển… cái lợi của núi, của biển, khuếch trương những lợi đó cho dân) thì chẳng phải là ban ân huệ cho dân mà không hao tốn ư? Chọn việc phải làm và lúc nào đáng làm mà khiến cho dân làm, như vậy thì ai oán? Muốn có điều nhân mà được điều nhân thì còn gì mà tham? Người quân tử đối với dân, chẳng kể là đám đông hay ít, người lớn hay người nhỏ (có người dịch là chẳng kể việc lớn hay việc nhỏ), không dám khinh thường, trễ biếng, như vậy chẳng phải là thư thái mà không kiêu căng ư? Người quân tử mũ áo chỉnh tề, nhìn ngó đoan chính, dáng mạo trang trọng, ai trông thấy cũng kính sợ, như vậy chẳng phải uy nghiêm mà không dữ tợn ư?” Tử Trương hỏi: “Thế nào là bốn điều xấu?” Khổng tử đáp: “Không giáo hoá dân, để dân phạm tội rồi giết, như vậy là tàn ngược; không cắt đặt, răn bảo trước mà muốn có thành tích, như vậy là hung bạo; khi ra lệnh thì không bảo là cấp bách rồi đột nhiên bắt dân phải làm xong trong một kì hạn gấp, như vậy là hại dân; khi cho dân cái gì mà so đo bỏn xẻn với dân, như vậy là có thói nhỏ nhen của một viên chức thấp (hữu ti)” XX.3 Tử viết: “Bất tri mệnh, vô dĩ vi quân tử dã; bất tri lễ, vô dĩ lập dã; bất tri ngôn, vô dĩ tri nhân dã.”
Dịch. – Khổng tử nói: “Không biết mệnh trời thì không phải là người quân tử; không biết lễ thì không biết cách đi đứng ở đời (hoặc không biết lập thân trong chính đạo); không biết phân biệt lời nói của người thì không hiểu người.” PHỤ LỤC Gồm các bảng phân loại, hai bảng nhân danh, địa danh và một bảng những câu thường dẫn. KHỔNG TỬ ĐỜI SỐNG II.4. (Lập chí học). – 19. Bàn về chính trị với Ai công. III.21. Nói về việc lập đàn xã. – 23. Bàn về nhạc với nhạc trưởng nước Lỗ. V.21 Muốn về Lỗ hướng dẫn thanh niên. VI.26. Vô yết kiến Nam tử ở Vệ. VII.13. Học nhạc Thiều. – 14. Không vị vua Vệ. – 16. Học Dịch. – 17. Dùng ngôn ngữ tiêu chuẩn của Chu. – 18. Diệp công hỏi Tử Lộ về Khổng tử. – 22. Ở Tống, Hoàn Khôi muốn hại. IX.5. Bị vây ở đất Khuông (có mệnh trời). IX.6. Hồi trẻ làm nhiều nghề. – 8. Chán vì chim phượng không hiện. – Thờ trời. – 13. Chán, muốn đi Cửu Di. – 14. Về Lỗ đính chính nhạc. – 17. Phàn nàn người ta trọng sắc hơn đức. XI.2. Ở Trần, Thái. – 7, 8, 9. 10. (Nhan Hồi chết). – 12. Đoán Tử Lộ bất đắc kì tử. – 22. Gặp Nhan Hồi ở Khuông. XII.11. Tề Cảnh công vấn chính. – 17, 18, 19. Bàn về chính trị với Quí Khang tử. XIII.3. Ở Vệ, nói về chính danh. – Ở Vệ, nói về thứ, phú, giáo. – 16. Diệp công vấn chính. – 18. Diệp công hỏi về con tố cáo cha. XIV.5. Không chê vua nước mình ở. – 19. Bàn về chính trị với Quí Khang tử. – 21. Đề nghị đánh loạn thần Trần Thành tử ở
Tề. – Ở Thạch Môn. – 40. Đánh khánh ở Vệ. XV.1. Vệ Linh công hỏi về chiến – Tuyệt Lương ở Trần. – 41. Đối với nhạc sư mù. XVI.13. Dạy Bá Ngư. XVI.1. Dương Hoá dụ không được. – 5. Muốn tới với Phất Nhiễu. – 7. Muốn tới với Bật Hật. – 10. Dạy Bá Ngư. – 20. Không tiếp Nhụ Bi. XVIII.3. Tề Cảnh công không dùng. – 4. Bỏ Lỗ qua Vệ vì đoàn nữ nhạc. – 5. Gặp Sở Cuồng. – 6. Gặp Trường Thư, Kiệt Nịch. – 7. Gặp trượng nhân. LỐI SỐNG Cả thiên X. Bài 1 5 sinh hoạt ở triều đình. – Bài 6 9, 13 sinh hoạt ở nhà. – 8 ăn, 6 mặc, 16 ở. – Bài 10 sinh hoạt ở làng xóm. – Bài 11, 15 bạn bè. – Bài 17 khi ngồi xe. – Bài 12 chuồng ngựa cháy. NHÂN CÁCH, TÍNH TÌNH (coi cả hai mục trên Đời sống, Lối sống và mục dưới Dạy học). I.10. Ôn, lương, cung, kiệm. III.13. Tế như tại. – 14. Không nịnh. – 15. Hỏi lễ ở thái miếu. – 18. Tận lễ với vua. – 25. Không ưa võ lực, cách mạng. V.25. Chí hướng – (lão giả an chi). – 27. Trung tín, ham học. VI.8. Đối với học trò (Bá Ngưu). – 24. Nhân và trí. – 26. Gặp Nam tử. VII.2, 3. Dạy không mỏi, dạy không chán. – 4. Khi nhàn cư, vui vẻ. – 9. Với người có tang. –10. Không bạo hổ bằng hà. – 11, 25. Không ham phú quí. – 12. Thận trọng: trai, chiến, tật. – 13. Thích nhạc Thiều. – 18. Học quên già. – 20. Không nói về quái, lực, loạn, thần. – 21. Tam nhân hành. – 22. Bình tĩnh, tin mệnh. – 23. Không giấu học trò. – 26. Khi câu, bắn. – 28. Khoan dung, quên dĩ vãng xấu của người. – 31. Hát. 32. Nhũn. – 34.
Không cầu đảo. – 37. Ôn, uy, cung. IX.2. Nói đùa: chuyên nghề đánh xe. – 3. Trọng lễ, tuỳ thời. – 4. Tuyệt tứ. – 5. Tin mệnh. – 6. Nhũn. – 9. Đối với người có tang, người mù. – Trách Tử Lộ muốn táng mình như đại phu. DẠY HỌC VII.7. Dạy mọi hạng người. – 28. Không xét dĩ vãng xấu. – 2, 33. Hối nhân bất quyện. XV.38. Hữu giáo vô loại. CÁCH DẠY II.11. Ôn cố tri tân. VI.10. Thúc học trò tiến. – 11. Chú trọng đạo đức. – 12. Theo dõi hành vi học trò. – 19. Tuỳ hạng người cao thấp. VII.8. Bắt suy nghĩ (cử nhất ngung). – 20. Không giảng quái, lực, loạn, thần. – 23. Không giấu giếm gì cả. IX.1. Ít nói lợi, mệnh, nhân. – Tuần tự dẫn dụ. 23. Sửa tật, suy xét. XIV.45. Dạy trẻ lễ phép (làng Khuyết). XV.15. Bắt suy nghĩ (như chi hà). XVII.19. Dư dục vô ngôn (coi thêm lời Tử Hạ XIV.12 [213]). Đối chứng hạ dược[214] như giảng về hiếu (IV), về nhân (XII), nhất là bài XI.21 (văn tư hành chư). KHỔNG TỬ TỰ XÉT MÌNH II.4. Mỗi tuổi 15, 30, 40, 50, 60, 70. V.27. Ham học. VII.1. Thuật nhi bất tác, hiếu cổ. – 2. Học bất yểm, hối nhân bất quyện. – 3. Lo học, hành, tu thân. – 5. Than thở vì sức suy, không mộng thấy Chu công. – 18. Học quên già. – Phi sinh nhi tri chi. – 22. Trời cho có đức. IX.6. Ngô thiếu tiện. XIII.10. Cẩu hữu dụng ngã. XIV.28. Chưa được đạo quân tử. – 32. Ghét người ngoan cố. – 35. Bất oán thiên, bất vưu nhân, chỉ trời biết mình. XVIII.8. Vô khả vô bất khả.
KHỔNG TỬ XÉT NGƯỜI XƯA VÀ NGƯỜI ĐƯƠNG THỜI III.22. Quản Trọng. V.14. Khổng Văn tử (bất sỉ hạ vấn). – 15. Tử Sản. – 16. Án Bình Trọng. – 17. Tang Văn Trọng nuôi rùa bói. – Tử Văn, Trần Văn tử. – 19. Quí Văn tử. – 20. Ninh Vũ tử. – 22. Bá Di, Thúc Tề. – 23. Vi Sinh Cao. – 24. Tả Khâu Minh. VI.4. (người đương thời ưa nịnh), 15. (không theo chính đạo) – 13. Mạnh Chi Phản. – 22. Xét Tề, Lỗ. – 23. Cô bất cô. VIII.1. Thái Bá. – 12. (người ta học vì bổng lộc). – 18. Thuấn, Vũ. – 19. Thuấn, Nghiêu. 20. Thuấn, Văn vương, Võ vương. – 21. Vũ (Hạ). IX.17. (Người ta hiếu sắc hơn hiếu đức). XIII.7. Xét Vệ, Lỗ. XIX.9. Quản Trọng, Tử Sản, Tử Tây. – 11, 12. Mạnh Công Xước. – 12, 14. Tang Vũ Trọng, Trang tử. – 13. Công Thúc Văn tử. – 15. Tấn Văn công, Tề Hoàn công. 16, 17. Quản Trọng. – 19. Vệ Linh công vô đạo mà biết dùng người nên không mất nước. – 21. Trần Thành tử. 26. Khen một sứ giả. – 44. Nguyên Nhưỡng. XV.3. Ít người biết đạo đức. – 13. Tang Văn Trọng, Liễu Hạ Huệ. – 25. Người nay kém xưa. XVI.11. Than thời thế[215]. XVI.12. Chê Tề Cảnh công. XVII.2. Tính tương cận. – 3. Thượng trí, hạ ngu. – 16. Cổ giả dân hữu tam tật. – 25. Tiểu nhân và đàn bà. XVIII.1. Vi tử, Cơ tử, Tỉ Can. – 8. Các ẩn sĩ, Bá Di, Thúc Tề… NGƯỜI ĐƯƠNG THỜI XÉT KHỔNG TỬ (Không kể lời môn sinh xét – sẽ ghi trong mục sau). III.24. (Nghi Phong nhân: cho Khổng tử là mộc đạc)
IX.2. (Đạt Hạng đảng: chê Khổng tử là bác học mà vô thành danh). IX.6. (Một viên thái tể: khen là thánh, đa năng). XIV.32. (chê Khổng tử muốn tỏ khẩu tài). – 39. (Người giữ cửa chê là biết không làm được mà vẫn làm). – 40. (Người vác sọt ở Vệ chê là không thức thời, khi Khổng tử đánh khánh ở Vệ). XVIII.5. (Sở Cuồng: không thức thời). – 6. (Trường Thư, Kiệt Nịch: không thức thời). – 7. (Trượng nhân chê là chẳng làm gì cả, không biết năm giống lúa). XIV.23, 24 (Thúc tôn Võ Thúc chê Khổng tử kém Tử Cống. Tử Cống đáp). – 25. Trần Tử Cầm cho Khổng tử không hơn Tử Cống. MÔN SINH KHỔNG TỬ Lời nói Khổng tử xét môn sinh, gạch dưới[216] – Lời môn sinh xét Khổng tử, đặt trong dấu ngoặc. Châm ngôn của môn sinh đặt riêng ở cuối và có dấu * ở trước. Còn những bài khác có nhắc tới môn sinh thì in như thường. Tên họ môn sinh sắp theo thứ tự a, b, c – Những tên tự thường dùng, in chữ hoa cho dễ kiếm. Bá Ngưu (coi Nhiễm Canh). Bốc Thương – TỬ HẠ – II.8; III.8; VI.11; XI.12, 15 – XII.22, XIII.17. * (châm ngôn). I.7; XII.5 – XIX. 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13. Cao Sài – TỬ CAO – XI.17, 24. Công Dã Tràng – TỬ TRÀNG – V.1 (con rể). Công Tây Xích – TỬ HOA – V.7; VI.3; XI.21, 25. Chuyên Tôn Sư – TỬ TRƯƠNG – II.18, 23; XI.15, 17, 19; XII.6, 10, 20; XIV.5 – XX.2. * XIX.1, 2, 3. Đoan Mộc Tứ – TỬ CỐNG – (I.10), I.15; V.3, 8, 11, 14; VI.6, 28; VII.14; IX.12, (6); XI.2, 12, 15, 18. buôn bán. XII.6, 7, 8, 23; XIII.20, 24; XIV.17, (28), 29, 35; XV.2, 9, 23; XVII.19, 24; (XIX.22, 23, 24, 25).
* XIV.20, 21. Hữu Nhược, HỮU TỬ – XII.9 (đáp Ai công về thu thuế). * I.1, 12, 13. Khổng Lí – BÁ NGƯ (con Khổng tử) XI.17; XVI.13; XVI.10. Lao (không biết họ) IX.6. Mẫn Tổn – MẪN TỬ KHIÊN – VI.7; XI.2, 4, 12, 13. Mật Bất Tề – TỬ TIỆN – V.2. Nam Dung – Nam Cung Quát – cháu rễ – TỬ DUNG – V.1; XI.5; XIV.5. Nguyên Hiến – Nguyên Tư – TỬ TƯ – VI.3; XIV.1. Ngôn Yển – TỬ DU – II.7; VI.12; XVII.4 dùng dao mổ bò mà mổ gà. * IV.26, XIX.12, 14, 15. Nhan Hồi – NHAN UYÊN, TỬ UYÊN – II.9; V.8, 25; VI.2, 5, 9 một bầu nước VII.10; IX.19, 20; XI.2, 3, 6, 7, 8, 9, 10, 18, 22; (IX.10); XV.10. Nhan Lộ – XI.7. Nhiễm Canh – BÁ NGƯU (cùi) VI.8; XI.2. Nhiễm Cầu – NHIỄM HỮU, NHIỄM TỬ – III.6; V.7; VI.3, 6, 10; VII.14; XI.2, 12, 16, đuổi Nhiễm Hữu 21, 23, 35; XIII.9, 14; XIV.12; XVI.1. Nhiễm Ung – TRỌNG CUNG – V.4 bất ninh; VI.1, 4, khả nam diện XI.2; XII.2; XIII.2. Nhụ Bi – XVII.20. Phàn Tu – Phàn Trì – TỬ TRÌ – II.5 vấn hiếu. XII.21, 22. sùng đức XIII.4, 10. đi Di Địch. Tăng Tích – ĐIỂM – XI.25. Tăng Sâm – TỬ DƯ, TĂNG TỬ – IV.15; XI.17; XIX.18. * I.4, 9; VIII.3, 4, 5, 6, 7; XII.24; XIV.26 – XIX.16, 17, 19. Tất Điêu Khai V.5. Tể Dư – TỂ NGÃ – III.21; V.9 ngủ ngày. VI.24; XI.2 ăn nói giỏi XVII.21 để tang. Tư Mã Canh – TỬ NGƯU – XII.3, 4, 5. Trần Cang – TỬ CẦM – I.10; XVI.13 (XIX.25). Trọng Do – TỬ LỘ – QUÍ LỘ – II.17; V.6, 7, 13, 25; VI. 6, 26;
VII.10; IX.11, 26, bận áo xấu. X.18; XI.2, 11, 12, 14, 17, 21, 23, 34, 25; XII.12; XIII.1, 3; XIV.12, 16, 36, 39, 43; VI.1; XV.5, 7, 23; XVIII.6, 7. HỌC VÀ TU DƯỠNG Nên coi thêm lời của một số môn sinh: Tử Hạ, Tử Trương, Tăng tử, Tử Cống v.v… ở trên. Mục đích – Thái độ XVII.2 tính tương cận, tập tương viễn. Học vì mình I.1, 16; IV.14; XIV.30 bất hoạn mạc kỉ tri. Không cầu lộc VII.12; XIV.24; XV.31. Học đạo VII.3 tu đức – XII.10, 21 sùng đức, bất hoặc, IV.9, VIII.13 chí ư đạo, giữ đạo. XIVII.8 lục tế – học cần cho mọi đức, nhưng nên nhớ: XV.28 nhân năng hoằng đạo. Học để sửa mình I.8, I.4 xét mình – (lời Tăng Sâm), IX.23, XV.29, V.26 tự trách mình. XIV.10 quân tử hữu cửu tư. Vui học – I.1 – học nhi thời cập chi, bất diệc duyệt hồ. I.14 hiếu học IV.8 triêu văn học. I.8 – vui đạo còn hơn thích đạo. Cách học Nhất quán: IV.15, XV.2 – tổng hợp lấy một mối. Suy nghĩ: II.15 học nhi bất tư… VII.8 cử nhất ngung. XV.15 như chi hà, 30 suy nghĩ không bằng học. IX.4 tuyệt tứ – IX.7 tìm hiểu vấn đề. II.17 tri chi vi tri chi. II.11 ôn cố tri tân. I.15 cáo vãng tri lai. Gắng sức: VIII.17 học như bất cập. IX.18, 30 kiên tâm như đắp núi. Học mọi người: IV.17 học người hiền. VII.21 tam nhân hành. V.14 bất sỉ hạ vấn. IV.25 đức bất cô. (coi thêm lời Tử Hạ XIX. 4, 5). Học gì? Học đạo, văn, nghệ I.6, VII.6, VII.24, VI.25 bác ư văn – VI.16 văn ngang chất – XII.8 (lời Tử Cống) – III.16 học bắn – XIII.4
không dạy nông. Văn thì có: Thi II.2 tư vô tà – VIII.8 hưng ư thi. XIII.5 tụng thi tam bách. XVI.13 bất học thi vô dĩ ngôn – XVII.9 khả dĩ hưng, 10. (Những bài dẫn Thi: I.14 như thiết như tha. III.3 thơ Ung, III.8 xảo tiếu thiến hề, III.20 Quan thư, VIII.1 chiến chiến căng căng như lâm thâm uyên. IX.26 bất chí bất cầu… IX. 30 đường lệ chi hoa. X.15 thơ Bạch Khuê – XIV.40 thâm tắc lệ, thiển tắc khê), I.12 lễ để hoà (Hữu Nhược), II.5 hiếu với lễ[217]. Lễ, nhạc: III.24 nhạc lí. III.25 nhạc Thiều, nhạc Võ. VI.25 ước chi dĩ lễ. VIII.12 lễ với cung, dũng, trực. IX.3 thuỳ thời. VIII.8 lập ư lẽ, thành ư nhạc. IX.14 nhã, tụng. XVI.13 bất học lễ vô dĩ lập. III.4, XVII.11 không trọng hình thức. XVII. 18 ghét Trịnh thanh[218]. Tang, tế: I.9 thận chung truy viễn – (Tăng tử) II.24 phi kì quỉ nhi tế chi. III.10, 11, 12 tế như tại. III.1 Vũ Bát dật. III.6 tế Lữ. III.10, 11, 12 tế Đế. II.21 đàn Xã. VI.2 lễ phải tuỳ thời. XI.7, 10 táng. XI.11 yên năng sự quỉ. XIV.41 vua cư tang. XIV.42 lễ – XVII.21 tang ba năm. XIX.14, 17 tang, táng (Tăng tử). Thư: XIV.41 (dẫn kinh Thư)[219]. Dịch: VII.16 gia ngã sổ niên… XIII.22 (dẫn quẻ Hằng). Không giảng về quái, lực, loạn, thần VII.20, tính, thiên mạng V.12, quỉ, sinh tử XI.11. CÁC ĐỨC Nhân III.3 gốc của lễ nhạc – IV.6 người yêu nhân. VI.20 tiên nan hậu hoạch – VI.21 kỉ dục lập; IV.6, VII.29 muốn nhân thì được nhân – IX.28 nhân giả bất ưu – XII.22 ái nhân. IV.5 không lúc nào quên nhân. I.2 hiếu đễ là gốc của nhân (lời Hữu Nhược). XII.2, XV.23 kỉ sở bất dục – XII.3, XIII.19 cung, kính, trung. XIII.27 gần được đức nhân. IX.28 nhân, trí, dũng. XII.1
nhân với lễ. XIV.1 không chắc là nhân – XIV.4 nhân với dũng – XV.8 sát thân dĩ thành nhân – XV.9, 34, 35 – XVII.6 năm đức để thành nhân – XIX.6 (lời Tử Hạ). VI.24 nhân giả nhạo sơn – VI.24 nhân giả khả thi, bất khả võng dã. Nghĩa, lợi IV.10, 16. VII.15 phú quí như phù vân – IV.12 lợi sinh oán. IX.1 tử hãn ngôn lợi. XIII.17 tiểu lợi. XVII.23 nghĩa, dũng. Trí IV.2 người nhân, người trí – V.17 bất trí. V.20 bang hữu đạo… VI.20 trí là nhân; Kính nhi viễn chi – VI.21 trí giả nhạo thuỷ. IX.28 nhân trí dũng. XII.22 tri nhân. Dũng II.24 vô dũng. IX.25 giữ vững chí – IX.27 giữ tư cách: tuế hàn, tùng bách hậu điêu – IX.28 nhân trí dũng – XIV.4 dũng với nhân – XVII.23 dũng, nghĩa. Trung tín, thành I.4 (lời Tăng tử). I.8 quân tử chủ trung tín. I.1 (lời Hữu Nhược). II.22 tín. V.24 không thành thực. VII.24. VIII.16 người bất tín. VII.12 (Tử Lộ tín). XV.36 tiểu tín. XVII.12, 13 (hương nguyện). XIX.10. Ngôn hành I.3, V.24 xảo ngôn – I.24 thận ngôn – II.13, 18. IV.22, 24 thận ngôn, mẫn hành. V.19 tam tư nhi hậu hành? XI.20. XIII.3 danh chính, ngôn thuận. XIII.15 nhất ngôn khả dĩ hưng bang. XIV.3 kính. XIV.4 ngôn và đức. XIV.27 ngôn hành. XV.5, XV.7 thất ngôn, thất nhân, XV.26, XV.40 từ đạt nhi dĩ. XVI.6 nói với vua. XVII.14. Hiếu đễ I.2 gốc của nhân (lời Hữu Nhược). I.11. II.5 hiếu với lễ. II.6 con đau cha mẹ lo. II.7 hiếu = kính. II.8 hiếu = hoà. IV.18 can cha mẹ. IV.20 khi cha mẹ còn, mất. IV.19 con đi xa. IV.21 biết tuổi cha mẹ. VIII.4 giữ trọn thân thể (lời Tăng Sâm).
XIII.18 hiếu với trực. XIX.18 Mạnh Trang tử có hiếu. Trung thứ IV.15 nhất quán. Ba lần nói tới thứ: V.11, XII.2 và XV.23 đều: kỉ sở bất dục… Trung dung, trung chính II.16 công hồ dị đoan. VI.1 thế nào là quá giản? VI.27 trung dung. IX.3, 29 tuỳ thời – XI.15 quá do bất cập. XIII.21 không trung chính: cuồng, quyến. Các đức khác I.4 thực vô cầu bão. IV.23 tự tiết chế – V.10 cương cường – VI.17 trực – VII.25 hằng, thành thực. VII.35 kiệm phát. IX.29 quyền biến – XIII.32 hằng tâm. XIII.23 hoà nhi bất đồng. XIII.26 thư thái, nhũn. XIV.1 không khắc, phạt, oán, dục. XVI.4 ba hạng bạn tốt, – 5 ba điều thích, 6 ba lỗi về nói, 7 ba điều răn, 8 ba điều sợ. (coi thêm mục Quân tử). XỬ THẾ Đối với trời, quỉ thần, mệnh trời. (coi thêm Lễ). V.12 (ít nói thiên đạo). VI.20 (kính nhi viễn chi). VII.22, IX.5 (tin mệnh trời). IX.11 (bất khi thiên) – XI.11 (năng sự nhân). XII.5 (tử sinh hữu mệnh) – XIV.36 (mệnh). XVII.19 (thiên hà ngôn tai). Đối với cha mẹ, anh em (coi hiếu đễ). Coi thêm lời Tử Hạ I.7 đối với vua (lời Tử Hạ). Đối với vua I.7 (lời Tử Hạ) – III.18 (tận lễ). III.19 (trung), IV.26 (can gián), XIV.22 (vật khi dã, nhi phạm chi) – XV.37 (thờ vua). Lựa bạn và đối với bạn I.7 (lời Tử Hạ). IV.26 (can gián) – V.16 (cửu nhi kính chi). IX.29 (bạn học đạo). XII.23 (can răn). XII.24 (dĩ văn hội hữu). XIII.28 (bạn bè thiết tha khuyên nhau). XV.39 (đạo bất đồng). XV.4 (ba hạng bạn tốt). XIX.3 (lựa bạn). XIX.20 (lời Tử Cống: không ở chung với đám hạ lưu). Đối với mọi người IV.6 (yêu người nhân). VI.3 (chu cấp, trả
lương). VI.4 (dùng người). VIII.10 (đừng ghét người quá). XII.5 (tứ hải giai huynh đệ). XIII.25 (đối với quân tử, tiểu nhân). XIV.7 (yêu, trung). XIV.31 (không đoán trước người ta xấu). XIV.34 (dĩ trực báo oán) – XV.24 (trách nhiệm). XV.27 (mọi người yêu, ghét). XV.41 (nhạc sư mù) – XVII.18 (ghét kẻ bẻ, mép). XVII.24 (quân tử ghét những hạng người nào). XVII.25 (đối với đàn bà và tiểu nhân). XIII.19 (đối với Di, Dịch). Có xét người I.3 (xảo ngôn lệnh sắc, ít nhân). II.10 (xét việc làm). III.26 (người xấu: không khoan hồng, nghiêm túc, có tang không buồn). IV.7 (xét người bằng lỗi). V.9 (nghe lời nói rồi xét việc). VIII.10 (kẻ loạn). VIII.11 (kiêu, lận). VIII.16 (những người bỏ đi). IX.22 (hậu sinh khả uý). IX.29 (bạn học tập). XI.20 (coi chừng bề ngoài). XIII.24 (mọi người trong làng đều ưa…). XV.16, 24 (khen chê ai). Xuất xử IV.1 (lựa chỗ ở cá nhân). V.1, 2, 20, VIII.13, XIV.1, 3 (bang hữu đạo…). VIII.14 (bất tại kì vị). XIV.37 (ở ẩn). XVIII.3 (bỏ vua mà đi). Đối với phú quí I.15 (nghèo nên vui, giàu nên có lễ). IV.5 (phải hợp với nhau). XIV.16 (nghèo không oán, giàu không kiêu), XV.3 (bất ưu bần). VII.15 (không ham phú quí – phú quí như phù vân). CÁC HẠNG NGƯỜI Thánh VI.28 (Nghiêu, Thuấn). VII.25 (Thánh, quân tử, thiện nhân, hữu hằng). VIII.18 (Thuấn, Vũ). IX.6 (Khổng tử không nhận là thánh) – XVI.9 (sinh nhi tri chi). Nhân VI.21 (nhân giả nhạo sơn). VI.28 (kỉ dục lập). XVI.9, 16, 17 (Quản Trọng). VI.5 (Nhan Hồi gần được nhân). Người hoàn toàn (thành nhân) XIV.12. Thiện (bẩm sinh tốt) XI.19 – XIII.11, 29. Hiền VI.9 (Nhan Hồi). Sĩ IV.9 (chí ư đạo). VIII.7 (lời Tăng tử – nhiệm vụ kẻ sĩ).
XII.20 (thế nào là đạt sĩ?) – XIII.20 (ba hạng sĩ) – XIII.28, XIX.1. Quân tử (hoặc kèm với tiểu nhân) I.1 (không buồn vì người ta không biết mình) – I.2 (vụ gốc). I.8 (trung tín, sữa lỗi) – I.14 (thực vô cầu bão). II.12 (bất khí). II.13 (ngôn hành) – II.14 (chu nhi bất tị). III.7 (vô sở tranh, tất dã xạ hồ). IV.5 (quân tử với nhân). IV.10 (vô thích, vô mạc, chỉ theo nghĩa) – IV.24 (ngôn hành). V.5 (Tử Tiện) – V.14 (Tử Sản) – VI.11 (nho quân tử). VI.16 (văn ngang chất) – VI.24 (khả thi, bất khả võng). VI.25 (văn, lễ). VII.36 (thản đãng đãng). XI.20 (đốc kính khi bàn luận, chưa đủ là quân tử). XII.4 (cung, kính, lễ). XII.8 (văn và chất). XII.16 (thành nhân chi mĩ). XII.19 (quân tử chi đức phong). XIII.3 (không biết thì bỏ trống) – XIII.23 (hoà nhi bất đồng). XIII.25 (dị sự nhi nan duyệt). XIII.26 (thái nhi bất kiêu). XIV.23 (thượng đạt). XIV.27 (sĩ kì ngôn nhi quá kì hành). XIV.28 (bất ưu, bất hoặc, bất cụ). XIV.43 (tu kỉ). XV.1 (cố cùng) – XV.17 (nghĩa dĩ vi chất). XV.18 (bệnh vô năng yên) – XV.21 (căng nhi bất tranh). XV.22 (bất dĩ ngôn cử nhân) – XV.31 (bất ưu bần). XV.33 (khả đại thụ). XV.36 (trinh nhi bất lượng). XVI.7, 8 (hữu tam uý). XVI.10 (hữu cửu tư). XX.2 (huệ nhi bất phí). XX.3 (tri mệnh, tri lễ, tri ngôn). Hương nguyện – XVII.13. Tiểu nhân – XVII.15 (vô sở bất chí). XVII.22 (ăn no suốt ngày mà không dụng tâm). Tiểu nhân và đàn bà XVII.25 (nan dưỡng). XVII.26 (40 tuổi mà ai cũng ghét). Coi thêm các bài XIX.7, 8, 9, 19, 21 Tử Hạ và Tử Cống bàn về quân tử, tiểu nhân.
CHÍNH TRỊ Tư tưởng chính trị rải rác trong khắp các thiên, lượm ra hết thì rườm lắm, nên ở đây chúng tôi chỉ lựa những bài chính. Nên coi những lời Khổng tử đáp các nhà cầm quyền, các môn sinh, coi đời sống của ông và cả những lời giáo huấn của ông nữa. Chính sách – Cải cách. III.14 Ngô tòng Chu. XVII.5 Phục hưng Chu nhưng IX.3 tuỳ thời. XV.10 lịch Hạ, xe Ân, mũ Chu. II.23 bách thế khả tri. III.25 không thích cách mạng, trọng nhạc Thiều hơn nhạc Võ. VII.20 ghét sức mạnh[220]. – Lo cho dân sống yên vui, ở xa qui phụ XIII.16. Phú, thứ, giáo XIII.9. Thực, binh, tín XII.7. Chiến đấu XIII.29, 30. Dạy dân XV.1 [221]. – Ít can thiệp vào đời sống của dân: VI.1 hành giản. I.5 sử dân dĩ thời. XV.4 vô vi nhi trị. – Kính vua nhưng không trung quân hẹp hòi XIV.22 – XIV.16, 17 khen Quản Trọng cơ hồ như không tôn Chu. Các ông thánh (Nghiêu, Thuấn, Vũ, Võ) VIII.18, 19, 20, 21, XX.1. – Các tể tướng giỏi: Quản Trọng, Tử Sản… Đức trị – II.1 sao Bắc Đẩu. II.21 hiếu đễ. XV.34 nhân. Chính danh – VI.23 cô bất cô. XII.11 quân quân. XIII.19 quân tử chi đức phong. Trọng lễ hơn trọng hình pháp – II.3, 23, III.19. IV.13, XV.19, XII.13 tất dã sử vô tụng hồ. IV.42, XV.10 nhạc Thiều. XVI.12 lễ nhạc, XVII.4 Tử Du dùng nhạc. Dùng người – VI.4 Trọng Cung. XI.1 tiên tiến ư lễ nhạc. II.19 trực – XI.23, 24 đại thần. XII.22 đề bạt người tốt. XIII.2, XIV.19 bề tôi tốt. XVIII.10 Chu Công khuyên Bá Cầm. Tư cách người trị dân – (coi thêm mục Quân tử). Phải học mới trị dân được XI.24. Làm gương, dạy dân XII.17, 18, 19.
XIII.6, 13. VIII.2 (hiếu thảo). XIII.1 tiên chi lao chi. VI.1 cư kính hành giản – III.19 lễ với bề tôi. V.15 kính, huệ, nghĩa. XII.2 nhân, XII.11 quân nhân – XII.18 không tham. I.5 kính, tín, dụng. II.18 ngôn hành. XII.14 vô quyện. XIII.4 lễ, nghĩa, tín. XX.2 ngũ mĩ, tứ ác. XV.32 trí, nhân, lễ. VIII.14 bất tại kì vị. XV.37 thờ vua. XVI.2 không lấn vua. Trị nước phải bao lâu? XIII.10 (3 năm), XIII.12 (30 năm), XIII.111 (100 năm). TÊN NGƯỜI – TÊN ĐẤT – TÊN TRIỀU ĐẠI Để dễ kiếm, chúng tôi gom tất cả các tên đất và cho in ngã[222] ở cuối mục A, B, C… chúng tôi bỏ bớt một số tên không quan trọng, chẳng hạn tên tám kẻ sĩ đời Chu trong bài XVIII.11 – Tên các triều đại có dấu * ở trước. Tên các môn sinh của Khổng tử đã lập một bản riêng ở trên, ở đây không chép lại. A. Ai công (Lỗ) II.9 chính trị, III.21, VI.2, XII.9, XIV.21. Án Bình Trọng V.16. * Ân II.23. III.9, 21, VIII.20, XV.10. B. Bá Cầm XVIII.10 Bá Di, Thúc Tề V.22, VII.14, XVI.12, XVIII.8. (Bát sĩ: tám kẻ sĩ đời Chu: XVIII.11). (Bát nhạc sư nước Lỗ: XVIII.9). Bật Hật XVII.7 Biện XIV.12 C. Cao Dao XII.22. Cảnh công (Tề) XII.11 vấn chính, XVI.12 không đáng khen, XVIII.3. Công Bá Liễu XVI.36. Công Minh Giả XIV.13. Công thúc Văn tử XIV.13, 18 (khen). Công Sơn Phất Nhiễu (coi Phất Nhiễu). Công tôn Triều (Vệ) XIX.22. Cơ tử XVIII.1. Củ (công tử) XIV.16, 17. Cừ Bá Ngọc XIV.25. Cúc Tử Thành XII.8. Cử Phủ XIII.17. CH. Chí (nhạc sư) VIII.15, XVIII.9. Chu công VII.5 (mộng), VIII.11, XI.16, XVIII.10. Chu Nhâm (sử thần) XVI.1. Chu Trương XVIII.8 Chúc Đà VI.14, XIV.19.
Chuyên Du XVI.1. * Chu II.23, III.14, 21, VIII.20, XV.10. D. Di Dật XVIII.8. Diệp công XIII.16, 18. Dương Hoá XVII.1. Di, Địch III.5, IX.13. Đ. Đam Đài Diệt Minh VI.12. Định công (Lỗ) III.19, XIII.15. Đằng XIV.11. * Đường VIII.20. G. Giản công (Tề) XIV.21. H. Hoàn công (Tề) XIV.15[223], 16, 17. Hoàn Khôi VII.22. Hoa Hạ III.5. Hỗ (làng) VII.28. Hà đồ IX.8. * Hạ (nhà Hạ) II.23, III.9, 21, XV.10. K. Kiệt Nịch XVIII.6. Khổng Văn tử V.14. Kỉ III.9. Khuông IX.5 người Khuông làm gì được ta. XI.22. Khuyết (làng) XIV.45. L. Lâm Phỏng III.4, 6. Liễu Hạ Huệ XV.13, XVIII.2, 8. Linh công (Vệ) XV.1. Lỗ công (con Chu công) tức Bá Cầm XVIII.10. Lỗ V.2, VI.22, IX.14, XIII.7. M. Mạnh Công Xước XIV.11. Mạnh Chi Phản VI.13. Mạnh Kính tử VIII.5 Mạnh Trang tử XIX.18. Mạnh Võ Bá II.6, V.7. Mạnh Ý tử II.5. Miện (nhạc sư) mù XV.41. N. Nam tử VI.26. Ninh Võ tử V.20. NG. Ngạo XIV.5. Nghệ XIV.5. Nghi Phong nhân III.24. Nghiêu VI.28, VIII.19, XX.1. Ngu Trọng XVIII.8. Nguỵ XIV.11. Nguyên Nhưỡng XIV.44. Nghi (ấp) III.24. * Ngu XIII.20 PH. Phất Nhiễu XVII.5. Q. Quản Trọng III.22, XIV.9, 16, 17. Quí Khang tử II.20, VI.6, XI.6, 16, XII.17, 18, 19 vấn chính, XIV.19. Quí thị (Quí Tôn) III.1, 2, 6, VI.7, XVI.1, XVIII.3. Quí tử Nhiên XI.23. Quí Văn tử V.19 tam tư nhi hậu hành. Quí Hoàn tử XVIII.4. S. Soạn XIV.18. Sở cuồng XVIII.5. Sử Ngư XV.6. T. Tam gia hay Tam Hoàn (ba họ Mạnh, Quí, Thúc của Lỗ) III.2, XVI.3. Tả Khâu Minh V.24. Tang Võ Trọng XIV.12, 14. Tắc XIV.5. Tì Thầm XIV.8. Tỉ Can XVIII.1. Tống Triều (công tử) VI.14. Tử Phục Cảnh Bá XIV.36, XIX.23. Tử Sản V.15 huệ, XIV.8, 9 ngoại giao, huệ.
Tử Tang Bá tử VI.1. Tử Tây XIV.9. Tử Văn V.18. Tử Vũ XIV.8. Tề VI.22, VII.13, XVIII.3, 4. Tiết XIV.11. Tống III.9. TH. Thang XII.22, XX.11. Thế, Thúc XIV.8. Thiếu Liên XVIII.8. Thiệu Hốt XIV.16. Thôi tử V.18. Thuấn VI.28, VIII.18, 19, 20, XII.22, XV.4, XX. 1[224]. Thúc tôn Võ Thúc XIX.23, 24. Thúc Tề (coi Bá Di). Thúc Thị III.2. Thạch môn XIV.39. Thái Sơn III.6. TR. Trang tử (ở ấp Biện) XIV.12. Trần Thành tử (tên Hằng) XIV.21. Trần Văn tử V,18. Triệu (họ) XIV.11. Trọng Thúc Ngư XIV.19. Trực Cung XIII.18. Trường Thư XVIII.6. Trần V.21, XI.2, XV.1. Trâu (ấp) III.15. Trịnh XIV.8 ngoại giao. Trung Mâu XVII.7. V. Văn công (Tấn) XIV.15. Văn vương VIII.20, IX.15. Vi Sinh Cao V.23. Vi Sinh Mẫu XIV.32. Vi tử XVIII.1. Võ vương (Chu) VIII.20, XX.1. Vũ (Hạ) VIII.18, 21, XIV.5, XX.1. Vương tôn Giả III.13, XIV.19. Vệ VII.14, IX.14, XIII.3, 7, 9, XIV.19, 40, XV.1. Võ Thành VI.12. Vũ Vu XI.25, XII.21. Y. Y Doãn XII.22. NHỮNG CÂU THƯỜNG DẪN I. 1. Hữu bằng tự viễn phương lai… 3. xảo ngôn lệnh sắc. 4. nhất nhật tam tĩnh ngô thân. 14. thực vô cầu bão… 16. bất hoạn nhân chi bất kỉ tri. II. 1. vi chính dĩ đức, thí như Bắc thần… 2. tư vô tà 4. thập ngũ chí ư học… 11. ôn cố tri tân 12. quân tử bất khí 15. học nhi bất tư tắc võng… 17. Tri chi vi tri chi… 24. kiến nghĩa bất vi, vô dũng dã. III. 1. thị khả nhẫn, thục bất khả nhẫn (bát dật) 4. lễ dữ kì xa ninh kiệm. 7. quân tử vô sở tranh, tất dã xạ hồ. 12. tế như tại. 13. hoạch tội ư thiên, vô sở cầu đảo. 14. Ngô tòng Chu.
21. Kí vãng bất cữu. IV. 8. triêu văn đạo, tịch tử khả hĩ. 14. bất hoạn mạc tri kỉ. 15. ngô đạo nhất dĩ quán chi. 16. quân tử dụ ư nghĩa. 19. phụ mẫu tại, bất viễn du. 25. đức bất cô, tất hữu lân. 9. hủ mộc bất khả điêu dã. 14. bất sỉ hạ vấn. 19. tam tư nhi hậu hành? Tái tư khả hĩ. 25. lão giả an chi. VI. 19. trung nhân dĩ hĩ thượng khả hĩ ngứ thượng. 20. kính nhi viễn chi. 21. trí giả nhạo thuỷ… 23. cô bất cô… 28. kỉ dục lập nhi lập nhân năng cận thủ thí. VII. 1. thuật nhi bất tác. 8. cử nhất ngung bất dĩ tam ngung phản. 11. tòng ngô sở hiếu. 15. phú quí như phù vân. 16. gia ngã sổ niên… 18. bất tri lão chi tương chí. 19. sinh nhi tri chi. 21. tam nhân hành tất hữu ngã sư. 34. Khâu chi đảo dã cửu dĩ hĩ. 36. quân tử thản đãng đãng. VIII. 4. nhân chi tương tử, kì ngôn dã thiện. 9. dân khả sử do chi. 13. nguy bang bất nhập – bang vô đạo phú thả quí yên sỉ dã. 14. bất tại kì vị bất mưu kì chính. IX. 4. Tử tuyệt tứ: vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã. 12. cầu thiện giá nhi cô chư. 13. hà lậu chi hữu. 16. thệ giả như tư phù. 17. vị kiến hiếu đức như hiếu sắc. 22. hậu sinh khả uý. 25. thất phu bất khả đoạt chí. 27. tri tùng bách chi hậu điêu. XI. 11. vị năng sự nhân yên năng sự quỉ. 14. thăng đường, vị nhập thất… 15. quá do bất cập. XII. 2. kỉ sở bất dục, vật thi ư nhân.
5. tử sinh hữu mệnh – tứ hải chi nội giai huynh đệ. 7. dân vô tín bất lập. 8. tứ bất cập thiệt (như: nhất ngôn kí xuất tứ mã nan truy). 9. bách tín bất túc, quân thục dữ túc? 13. tất dã sử vô tụng hồ. 24. dĩ văn hữu hội, dĩ hữu phụ nhân. XIII. 3. danh chính ngôn thuận. 15. nhất ngôn khả dĩ hưng bang. 17. dục tốc bất đạt, kiến tiểu lợi… 23. hoà nhi bất đồng. XIV. 33. kí bất xưng kì lực, xưng kì đức dã. 39. tri kì bất khả vi nhi vi chi. XV. 1. quân tử cố cùng. 2. vô vi nhi trị. 7. thất nhân thất ngôn. 8. sát thân dĩ thành nhân. 11. vô viễn lự tất hữu cận ưu. 19. tật một thế nhi danh bất xưng. 23. kỉ sở bất dục. 26. tiểu bất nhẫn tất loạn đại mưu. 28. nhân năng hoằng đạo… 38. hữu giáo vô loại. 39. đạo bất đồng bất tương vi mưu. 40. từ đạt nhi dĩ hĩ. XVI. 1. bất hoạn quả nhi hoạn bất quân – dục chi nhi tất vi chi từ. 7. lão giới chi tại đắc. 9. sinh nhi tri chi. 13. bất học Thi vô dĩ ngôn. XVII. 1. nhật nguyệt thệ hĩ, tuế bất ngã dư. 2. tính tương cận, tập tương viễn. 3. thượng trí, hạ ngu bất di. 4. cát kê, yên dụng ngưu đao. 14. vô sở bất chí. 19. thiên hà ngôn tai. 25. nữ tử nan dưỡng. XVIII. 7. đạo chi bất hành dĩ tri chi hĩ. 8. vô khả vô bất khả. 10. vô cầu bị. XIX. 20. quân tử ố cư hạ lưu. 25. quân tử nhất ngôn dĩ vi trí. XX. 1. doãn chấp kì trung; vạn phương hữu tội, tội tại trẫm cung.
2. huệ nhi bất phí, lao nhi bất oán. Bất giáo nhi sát, vị chi ngược. Đánh máy: Thuocvien Sửa lỗi và bổ sung: Goldfish Triết thuyết nào cũng chỉ để cứu cái tệ của một thời thôi. Muốn đánh giá một triết thuyết thì phải đặt nó vào thời của nó, xem nó giải quyết được những vấn đề của thời đó không, có là một tiến bộ so với các thời trước, một nguồn cảm hứng cho các đời sau không. Và nếu sau mươi thế hệ, người ta thấy nó vẫn còn làm cho đức trí con người được nâng cao thì phải coi nó là một cống hiến lớn cho nhân loại rồi. Lời nói đầu 1. Từ Nghiêu Thuấn tới Khổng Tử Nghiêu Thuấn Hạ Vũ Thương (Ân) – Thành Thang Nhà Chu – Chế độ phong kiến Võ Vương và Chu Công Chu suy – Đông Chu Xuân Thu và Chiến Quốc Khổng Tử – Đời sống Tiểu sử theo Tư Mã Thiên Tổ tiên – thời kỳ thơ ấu và tráng niên (551 523) Từ ba mươi tuổi tới năm mươi tuổi (522 503) Thời kỳ tham chính tại Lỗ (502 546) Bốn năm lưu lạc (496 492) Tuyệt lương ở Trần và Thái (491 489) Lại lang thang (488 484) Về Lỗ – Những năm cuối (484 479) Con người Tư cách, tính tình Môn sinh Hai lớp môn sinh Nhan Hồi, Tử Lộ, Tử Cống Tư tưởng chính trị Hoàn cảnh Tòng Chu Không thích cách mạng Bảo thủ nhưng cải thiện Chính danh Đức trị Phải tu thân Phải học Những đức cần có Chính sách trị dân Dưỡng dân Giáo dân Chính hình Võ bị Ngoại giao Dùng người Xã hội lí tưởng của Khổng Tử Đạo làm người Kẻ sĩ Quân tử Trời Thiên mệnh
Quỉ thần Kết LỜI NÓI ĐẦU Từ xưa tới nay hầu hết các học giả viết về học thuyết Khổng tử đều dùng cả tứ thư lẫn Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Khổng tử gia ngữ… làm tài liệu, như vậy theo tôi không phải là tìm hiểu Khổng giáo trong suốt thời Chiến Quốc, vì trong những sách dẫn trên, ngoài bộ Luận ngữ là đáng tin nhất, còn thì bộ nào cũng chứa nhiều tư tưởng của người sau, không phải của Khổng tử. Tôi lấy thí dụ cuốn Đại học của Tăng Tử (một môn sinh được trực truyền) ngay trong đoạn đầu nói về việc tu thân để tề gia, trị quốc…, cũng đã có một ý tôi cho không phải là của Khổng tử mà của Tăng tử, tức “trí tri tại cách vật”, vì trong Luận ngữ ông không hề nói tới sự cách vật. Sách Trung dung của Tử Tư, cháu nội Khổng tử, cũng có những tư tưởng siêu hình, mà Khổng tử tránh phần siêu hình. Rồi những câu “cương nhu tương thôi nhi sinh biến hóa”, “nhất hạp nhất tịch vị chi biến, vãng lai bất cùng vị chi đạo” [225] (trong Kinh Dịch – Hệ từ thượng) mà nhiều người dẫn (chẳng hạn Trần Trọng Kim trong Nho giáo) và cho là quan niệm về thiên lí, về đạo của Khổng tử, thì sao tôi thấy có màu sắc của Lão giáo quá. Ngay như Lễ Kí, thiên Tăng tử vấn (Tiểu Đái Kí) phần lớn không tin được vì xuất hiện sau Khổng tử bảy trăm năm (thế kỷ II sau Tây lịch) và do người đời Hán viết. Căn cứ vào những bộ đó thì không khác gì tô xanh tô đỏ lên học thuyết của Khổng tử, còn đâu chân diện mục của nó nữa.
Từ lâu tôi vẫn bất mãn về điều đó và chỉ thấy mỗi một học giả ở Pháp, ông Etiemble, trong cuốn Confucius (Gallimard 1966) là không dùng phương pháp đó mà chỉ căn cứ vào mỗi hệ Luận ngữ thôi. Bộ này cô động quá không ghi hết được lời dạy của Khổng tử, và nhiều bài không cho biết trong hoàn cảnh nào Khổng tử đã thốt những lời này lời khác, thành thử chỉ dùng nó thì thế nào cũng không tránh khỏi lỗi thiếu sót; nhưng thà cứ biết tới đâu ghi tới đấy, không biết thì tồn nghi, còn hơn là gán cho Khổng tử những tư tưởng của người đời sau, những tư tưởng có thế ông không bao giờ nghĩ tới hoặc không muốn bàn tới. Năm 1972, tôi đã theo chủ trương chỉ dùng Luận ngữ mà tìm hiểu Khổng tử, để viết cuốn Nhà giáo họ Khổng. Viết xong, tôi đã có ý sẽ viết tiếp hai tập như vậy nữa về Nhà chính trị họ Khổng và Nhà luân lý họ Khổng, nhưng vì mắc nhiều công việc khác (viết cuốn Mặc học, viết chung với ông Giản Chi cuốn Tuân Tử và cuốn Hàn Phi…) mãi đến cuối năm ngoài (1977) tôi mới trở lại viết về Khổng tử được. Tôi đã bỏ ra hơn hai tháng đọc lại những sách về Khổng tử tưởng chính trị Trung Quốc; Hầu Ngoại Lư: Tư tưởng cổ đại Trung Quốc; Quan Phong và Lâm Duật Thời: Bàn về Khổng Tử – đều do ngoài Bắc dịch); đọc lại các bản dịch và chú giải Luận ngữ của mình, và của Trung Hoa (như Luận ngữ độc bản của Thẩm Tri Phương và Tưởng Bá Tiềm, Luận ngữ dịch chú của Triệu Thông; lại bỏ ra hơn hai tháng nữa để dịch lại bộ Luận ngữ, vừa dịch vừa phân loại theo đề tài lập bảng tra tên người
tên đất. Xong cả rồi tôi mới bắt đầu viết, mất ba tháng nữa. Chưa cuốn nào tôi viết mệt nhọc như cuốn này: sức đã suy, bệnh bao tử trở đi trở lại hoài, cứ ít ngày ăn cơm lại ít ngày ăn cháo, rồi cảm cúm, đau chân…, khách khứa gần như không ngày nào không có, có ngày bốn năm lần, mới cầm bút viết được mấy hàng đã phải đặt xuống để tiếp bạn; thư từ phải hồi âm cũng nhiều, giấy mực lại thiếu: chỉ có mấy trăm trang mà phải dùng ba mẫu giấy, ba màu mực; đó là về vật chất. Về tinh thần thì từ sau Tết Mậu ngọ (1978) ít ngày được yên tĩnh vì những tin tức về cải tạo thương nghiệp (không liên quan gì tới tôi nhưng cũng có ảnh hưởng xa gần đến cuộc sống), về kiểm kê hành chánh, cải tạo văn hóa; rồi đến vụ đổi tiền (cũng may yên cả), nhất là tin tức chiến tranh với Campuchia, xích mích với Trung Hoa… Vậy là trước sau mất hơn bảy tháng, hôm nay mới ghi vội xong bản sơ thảo. Còn phải coi lại, sửa lại khoảng một tháng nữa. Và phải để một hai năm sau, lúc nào thật rảnh và bình tĩnh sửa lại một lần nữa mới có thể coi là xong được. Ngày 1 7 1978. Trong tập này có nhiều chỗ dẫn chứng ở Luận ngữ, nhưng tôi chỉ ghi xuất xứ (thiên nào, bài nào) chứ không chép lại hết được, vì vậy độc giả cần có bản Luận ngữ tôi dịch và để tra cho tiện. CHƯƠNG 1. TỪ NGHIÊU THUẤN TỚI KHỔNG TỬ NGHIÊU THUẤN Dân tộc Trung hoa tin rằng hoàn kim thời đại của họ là thời
Nghiêu, Thuấn, hai ông vua mà họ coi là những bậc thánh (Nghiêu: 2356 – 2255; Thuấn 2255 – 2205) rất bình dân, sống trong nhà lá, ăn mặc đạm bạc, giản dị như dân rất yêu dân và giỏi trị nước: người dân nào cũng sung sướng, đủ ăn; không có trộm cướp (của không phải đóng, không ai nhặt của rơi ngoài đường, không có giặc giã), cha thì từ, con thì hiếu, người già được kính trọng, không ai cô độc, muộn vợ muộn chồng… Đáng quí nhất là hai ông thánh đó không coi ngôi vua là của mình, khi gần chết, không truyền tử mà truyền hiền: Nghiêu truyền cho Thuấn, Thuấn cho Vũ. Đó chỉ là một huyền thoại, dĩ nhiên. Nội một điều vua Nghiêu làm vua đúng một trăm năm, cũng đủ cho ta không tin được rồi. Các học giả cho rằng Khổng tử tạo ra huyền thoại đó để “chống đỡ” tư tưởng chính trị của ông. Có thể như vậy. Bộ sử cổ nhất của Trung Hoa là Kinh Thư có chép về Nghiêu, Thuấn trong Ngu thư; nhưng Ngu thư lại bị các học giả ngày nay ngờ là ngụy thư, do nhà Nho đời Hán viết vào khoảng thế kỷ thứ 2 sau Tây lịch. Vậy thì tác phẩm đầu tiên đáng tin được nói về Nghiêu, Thuấn là bộ Luận ngữ chép những lời của Khổng tử trong thiên VIII, bài 19, 18, thiên XV, bài 4, và thiên XX bài 1, (coi bản dịch Luận ngữ in riêng). Bài XX.1 (tuy không ghi rõ là lời Khổng tử, nhưng có thể tạm tin được là tư tưởng của ông) chép lời Nghiêu khuyên Thuấn giữ đạo trung chính khi nhường ngôi cho Thuấn, và sau Thuấn cũng khuyên lại Vũ như vậy khi
nhường ngôi cho Vũ. Còn hai bài thiên VIII thì khen sự nghiệp của Nghiêu vòi vọi, vĩ đại như trời (bài 19) và đức của Thuấn, Vũ rất cao vì được nhường ngôi mà chẳng lấy vậy làm vui (chẳng hưởng vinh hoa, phú quí). Theo thiển kiến, Khổng tử không thể tạo nên một huyền thoại, và có thể huyền thoại đó đã mờ mờ có từ cả ngàn năm trước, khi chế độ thị tộc chuyển qua chế độ phong kiến, chế độ công hữu nguyên thủy chuyển qua chế độ tư hữu, mẫu hệ chuyển qua phụ hệ, mà kinh tế từ săn, hái chuyển qua nông nghiệp. Trong lịch sử nhân loại, mỗi khi có một biến chuyển toàn diện, lớn lao thì luôn luôn có rất nhiều người tiếc thời ổn định cũ và tạo ra một hoàng kim thời đại trong dĩ vãng. Nghiêu và Thuấn chỉ là những tù trưởng của một thị tộc. Có thể Nghiêu được nhiều bộ lạc liên hợp bầu làm thủ lãnh; mỗi bộ lạc gồm nhiều thị tộc. Nghiêu, Thuấn lên ngôi cách nhau cả trăm năm như truyền thuyết chép lại, thì không thể có sự Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn được. Có lẽ Thuấn là thủ lãnh nhiều bộ lạc khác, sau đã chiếm được đất đai của Nghiêu, rồi thay Nghiêu mà làm “thiên tử”. Khổng tử sống cách thời Nghiêu khoảng 1.800 năm, mà thời Nghiêu Thuấn chưa có tín sử, chưa có chữ viết, thì muốn tô điểm cho Nghiêu Thuấn sao cũng được. HẠ VŨ Thuấn nhường ngôi cho Vũ ( 2205 – 2197), cũng gọi là Đại Vũ, hoặc Hạ Vũ (vì Vũ là thủy tộ nhà Hạ). Vũ vốn là bề tôi của Thuấn, có công trị thủy. Tương truyền thời đó Trung Hoa bị một
trận đại hồng thủy, và Mạnh tử, trong chường Đằng Văn công – thượng – bài 4, bảo Vũ đào chín con sông, vét bốn con sông khác để cho nước chảy ra biển; luôn tám năm mới xong, ba lần đi qua nhà minh mà không vào. Thời đó, đâu có đủ dân, đủ khí cụ để làm công việc thủy lợi vĩ đại như vậy; bất quá Vũ chỉ “sửa sang ngòi lạch” như Khổng tử nói trong bài Luận ngữ VIII.21 để cho bớt úng thủy thôi. Nhưng Khổng cũng khen Vũ lắm, bảo không chê Vũ vào đâu được về cách sống đạm bạc mà cúng tế quỉ thần thì trọng hậu. Khi chết, Vũ không truyền ngôi cho người hiền mà truyền cho con là Khải. Mạnh tử trong chương Vạn chương thượng, bài 4, bảo không phải vậy; thực ra Vũ truyền ngôi cho một bề tôi mà ông cho là hiền, tức Ích; nhưng Ích lại tự nhường ngôi cho con vua Vũ, là Khải mà đi ở ẩn ở chân núi Kì Sơn; chư hầu và bách tính đều ca tụng Khải chứ không ca tụng Ích như vậy là lòng dân đều hướng về Khải, mà ý dân là trời; trời cho Khải được làm vua, chứ không phải vua Vũ cho. Khổng tử không hề nói như vậy. Sự thực, Trung Hoa lúc đó có lẽ đã chuyển từ chế độ mẫu hệ qua chế độ phụ hệ; mà Vũ đã sáng lập nhà Hạ, từ đó ngôi vua truyền cho con, hoặc cho em, được khoảng 440 năm (2205 1766), tới vua Kiệt (19 đời sau thì mất nước. THƯƠNG (ÂN) – THÀNH THANG Kiệt tàn bạo hoang dâm, bị Thành Thang đánh bại, rồi thành lập nhà Thương, đóng đô ở Bạc (Thiểm Tây ngày nay). Nhà Thương khá dài, non 650 năm (1766 1122 trước Công nguyên),
năm 1401 đổi quốc hiệu là Ân. Thành Thang được Khổng tử khen là biết dùng người hiền là Y Doãn, bài (XII.22) và có tinh thần trách nhiệm cao: dân chúng mà có tội thì nhận là lỗi tại mình vụng cai trị chứ không phải tại dân (bài XX.1). Bắt đầu từ đời Thương, Trung Quốc mới có thể gọi là có tín sử (từ Hạ trở về trước, toàn là truyền thuyết cả). Những vụ khai quật ở An Dương đã phát hiện được rất nhiều miếng xương loài vật, mai rùa (giáp cốt trên khắc chữ tượng hình, chẳng hạn như tửu là rượu thì vẽ ba giọt rượu với cái bình). Có tới 2000 chữ, đã diễn được gần đủ tư tưởng của người thời đó. Đồ đồng, đồ gốm cũng đã phát triển; có tiền bằng đồng, bình đồng trên mặt khắc chữ. Lại biết dệt lụa và vải. Căn bản kinh tế là nông nghiệp. Gia súc có bò, cừu, heo, chó, ngựa. Có ngựa thì có chiến xa. Về chính trị, vẫn theo chế độ nhà Hạ: ngôi vua truyền cho em, em chết rồi mới truyền cho con. Vua vừa là vua, vừa là giáo chủ thờ Thượng Đế, thần đất, núi sông… cơ hồ dân trọng vua vì tư cách giáo chủ hơn. Các lãnh chúa chỉ phục tòng thiên tử trên danh nghĩa thôi, trong thực tế họ hoàn toàn độc lập. Cuối đời Ân, vua Trụ cũng tàn bạo, hoang dâm như Kiệt, bị ông Cơ Phát nhà Chu diệt. NHÀ CHU – CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN Cơ Phát diệt nhà Ân rồi, sáng lập nhà Chu, trị vì dài nhất (900 năm: 1122 221 trước Công nguyên), rực rỡ nhất trong số “ba nhà” (tam đại: Hạ, Thương, Chu) và có công tạo nên nền văn minh Trung Quốc.
Theo các nhà Nho, nhà Chu có ba ông “thánh”: Văn Vương, Võ Vương và Chu công. Văn Vương, tức Cơ Xương, cha của Cơ Phát. (Cơ Phát lên ngôi, hiệu là Võ vương, phong cha là Văn vương). Khổng tử khen Văn vương có đức. Thời vua Trụ, ông làm Tây bá, nghĩa là chư hầu lớn nhất ở phía Tây của nhà Ân, Trụ nghi ngờ ông điều gì đó, giam ông trong ngục Dữu Lí hai năm mà ông không oán Trụ. Trong khi bị giam, ông theo hình từng quẻ dịch (có 64 quẻ, đặt ra từ đời Ân hay trước nữa) mà cắt nghĩa toàn lí của quẻ. (Lời giải nghĩa đó gọi là Thoán từ). Võ Vương, có công sáng lập nhà Chu, tổ chức chính quyền lúc ban đầu, vỗ về dân chúng, làm cho nhà Chu vững mạnh. Nhưng công đó là một phần của Chu công, và chính Chu công mới làm cho văn minh Trung Quốc tiến mau. Ông tên là Đán, em ruột Võ Vương. Khi Võ Vương chết, con Võ vương là Thành vương còn nhỏ, Chu công hết lòng phụ chính, giữ ngôi cho cháu, dẹp bọn phản động trong họ muốn cướp ngôi của Thành vương. Khổng tử phục ông gần bằng Nghiêu, Thuấn. Trong bài VII.5 ông phàn nàn: “Ta đã suy lắm rồi! Từ lâu không còn mộng thấy Chu công”. Nghĩa là suốt đời Khổng tử chỉ ước ao lập được sự nghiệp như Chu công, người mà đời sau đều nhận là chính trị gia đại tài, có công rất lớn với nhà Chu, với Trung Quốc, hơn hẳn Văn vương và Võ vương. Sợ người Ân còn nhớ chủ cũ, mà có thể nổi loạn, Chu công phân tán họ tại Lạc Ấp (tức Lạc Dương – Hà Nam ngày nay), để
họ ra ở xa Kinh đô Cao (tức Tây An – Thiểm Tây ngày nay). Mặt khác, ông phong đất cho người thân thích và công thân, mỗi người làm chư hầu một nơi để trấn áp và khai hóa cho những dân tộc chưa thuần phục, chẳng hạn phong cho con ông là Bá Cầm ở Lỗ (Lỗ công), phong Thái công Vọng ở Tề để đề phòng phía Đông, phong hai vị đại thần khác, một ở Yên (phương Bắc), một ở Sở (phương Nam). Thời đó, sử chép Chu có tới 1.600 chư hầu, chắc đại đa số là những thủ lãnh nhỏ, lần lần qui phục Chu. Đông như vậy mà muốn cho khỏi loạn thì phải qui định chế độ phong kiến. Phong kiến có nghĩa là chia cắt đất cho để lập nước. Chế độ này thời Nghiêu, Thuấn chưa có, vì hai ông ấy là những người được các tù trưởng khác bầu lên. Qua thời Thương có thể có lần lần thành hình, nhưng chưa được qui định hẳn hòi; cũng chưa có tên nữa. Theo Mạnh tử (Vạn Chương hạ – bài 2) thì đại khái phép phong đất có 4 hạng: đất của thiên tử vuông vức 1.000 dặm, đất của công và hầu vuông vức 100 dặm, đất của bá vuông vức 70 dặm, đất của tử và nam 50 dặm. Binh lực cũng tùy theo nước lớn, nhỏ. Nước thiên tử có van chiến xa (vạn thặng), nước của công và hầu có ngàn chiến xa (thiên thặng), dưới nữa là trăm chiến xa. Mỗi chiến xa có bốn ngựa, một người đánh xe ở giữa, hai bên là một quân bắn cung và một quân cầm thương. Chư hầu có bổn phận tuân lệnh, trung thành với thiên tử; ngược lại thiên tử có bổn phận che chở, giúp đỡ chư hầu. Đúng
một kì hạn nào đó các chư hầu phải tới triều cống thiên tử; và theo lệ, cứ năm năm một lần, thiên tử đi thăm khác các nước chư hầu, xem xét chính tích của họ, tình hình trong xứ: đời sống của dân chúng, lễ nhạc và ca dao vì nỗi vui buồn, lo lắng của dân hiện rõ trong ca dao, biết ca dao tức là biết sự cai trị của vua chúa có tốt không[226]. Nguyên tắc là vậy, thực tế không thể theo đúng được: Thiên tử muốn giữ bao nhiêu đất cho mình mà chẳng được, ai đâu mà đo đất; chư hầu nào mạnh lên thì khai thác, xâm chiếm thêm đất, đóng thêm chiến xa, dễ gì mà cấm? Thiên tử không thể đi thăm hết các nước chư hầu năm năm một lần vì chư hầu nhiều quá, đất rộng quá: trọn lưu vực Hoàng Hà tới sông Dương Tử; và có nhiều chư hầu cả mấy chục năm không lại triều cống thiên tử một lần. Đó là quan hệ giữa thiên tử và chư hầu; quan hệ giữa các chư hầu với nhau thì có minh ước, chẳng hạn thề với nhau không được phá hoại, xâm lấn biên giới của nhau, không được thu nạp những kẻ đào vong có tội của nước bạn, và phải giúp đỡ lẫn nhau. Chư hầu lớn lại có chư hầu nhỏ gọi là nước phụ dung (như Lỗ có Chuyên Du) và quan hệ giữa chư hầu và phụ dung cũng gần như giữa thiên tử và chư hầu. Minh ước chỉ có hiệu lực khi cả hai bên đều thực tâm giữ đúng. Vì vậy phải đề cao đức “tín”. Không có dân tộc nào đề cao đức thành và đức tín như dân tộc Trung Hoa; và Khổng tử
có lẽ là triết gia đầu tiên coi “tín” là một trong những đức quan trọng nhất của con người, nhất là của hạng người trị dân. Trong bộ Luận ngữ, ông nói đến đức tín có tới mấy chục lần. Đó là do hoàn cảnh của thời đại: thời đó mà thiếu đức tín thì thiên hạ sẽ Qui chế phong kiến đó chưa chắc đã thành hình ngay trong đời Chu công vì ông chỉ cầm quyền, giúp Thành vương trong khoảng mười năm, từ năm Thành vương lên ngôi (1115) đến khi ông mất (1104); nhưng có thể tin rằng những nét chính đã được ông vạch ra rồi. Một chế độ nữa, ảnh hưởng rất lớn tới xã hội thời đó và cả những thời sau, mãi cho tới ngày nay, là chế độ “tôn pháp”. Như trên chúng ta đã nói, các vua nhà Thương, khi chết thì truyền ngôi cho con em, không có em mới truyền cho con. Người em lên ngôi, khi chết truyền lại cho con của vua anh trước. Do đó mà gây nhiều âm mưu phản loạn, anh em, chú cháu tranh nhau ngôi vua, dân chúng không được sống yên ổn. Văn vương bỏ lệ đó, truyền ngôi cho Võ vương, mặc dầu ông có mấy người em. Chu công đã theo lệ đó, chẳng những không tranh ngôi của cháu, mà còn che chở cho cháu, diệt những kẻ phản loạn, muốn giành ngôi của cháu nữa. Khổng tử trọng ông một phần vì đức đó. Chế độ lập đích tử đó không làm giảm sự tranh ngôi vua được bao nhiêu, vì khi có cả mấy chục người con trai, thì cũng có cả chục kẻ ngấp nghé ngôi báu, và ngay đời Chu đã có ba vụ
con giết cha, anh em giết nhau trong các triều đình vua chúa rồi; mà suốt mấy ngàn năm sau cũng vậy; nhưng nó được áp dụng trong hoàng gia, trong công tộc, mà cả trong gia đình các khanh, đại phu, thứ nhân nữa, khiến cho xã hội Trung Hoa có những nét rất đặc biệt. Chế độ đó cũng thành hình lần lần, khá rắc rối, thời Chu phải cải thiện, bổ túc nhiều lần, đại khái như sau: Vua (thiên tử hay chư hầu) lựa một người con mà truyền ngôi cho – theo nguyên tắc là người con trưởng – chỉ người đó được làm thiên tử hay vương, còn những người khác thì lãnh những tước nhỏ hơn, những lãnh địa nhỏ hơn, hoặc làm chư hầu, hoặc làm khanh, đại phu. Người con kế vị gọi là tự vương hay tự quân, làm chủ tế trong tôn miếu, các người con khác chỉ làm bồi tế. Các gia đình đại phu cũng vậy: người con kế nghiệp làm chủ tế, gọi là “đại tôn”, các người khác làm bồi tế, gọi là “tiểu tôn”. Có những thể chế qui định từng chi tiết trong các cuộc tế đó. Trong gia đình thường dân, luôn luôn người con trưởng được hưởng gia tài, giữ việc hương khói. Địa vị người đó quan trọng nhất trong nhà nhưng trách nhiệm cũng lớn nhất: lo cho mọi người trong nhà đủ ăn đủ mặc, dạy dỗ người dưới; chịu sự chê trách của gia đình và của xã hội nữa, nếu trong gia đình có kẻ nghèo đói hoặc hư hỏng, bị tội, làm nhục tổ tiên. Ngược lại, người đó và cả vợ nữa được người trên nể, người dưới tuân lời. Khi em còn nhỏ, ở chung nhà thì anh có quyền thay cha (đã mất); em lớn rồi, ra ở riêng, may mà giàu có, sang trọng hơn anh, thì về nhà vẫn phải lễ phép với anh, và có bổn
phận phải giúp đỡ anh, mà không được khoe giàu sang trước mặt anh. Con gái không được quyền kế thừa, ra ở riêng rồi thì không còn địa vị gì trong nhà nữa, thành ra người của gia đình bên chồng. Tổ chức đại gia đình đó rất thích hợp với chế độ nông nghiệp để cho đất đai của gia đình khỏi bị phân tán, vào tay người ngoài, và để cho sự khai thác chung được dễ dàng, sự tiêu xài đỡ tốn kém. Nó lại tạo nên tinh thần gia tộc: giúp đỡ lẫn nhau, giữ danh dự chung cho nhau. Muốn cho chế độ “tôn pháp” được vững, đời Chu tạo ra chữ hiếu và đề cao hiếu, để: con phải hiếu với cha mẹ, kẻ nhỏ tuổi phải tôn trọng, vâng lời người trên. Và ai cũng nhận rằng dân tộc Trung Hoa là dân tộc coi trọng chữ hiếu nhất. Vì coi trọng chữ hiếu, nên họ cũng rất chú trọng đến tang lễ, tế tự. VÕ VƯƠNG VÀ CHU CÔNG Đoạn cuối bài XX.1 trong Luận ngữ khen công của Võ vương: “(Võ vương) định lại cẩn thận cái cân và đồ đo lường, chế độ pháp độ, khôi phục lại những quan chức đã bị (vua Trụ) bãi bổ, chính lệnh trong thiên hạ được thi hành. Ông phục hưng những nước chư hầu đã bị diệt, cho người nối tiếp những dòng họ đã bị tuyệt, đề bạt những người ẩn dật có tài đức, nên nhân dân khắp nơi qui phục. Ông coi trọng những việc này nhất: lương thực, tang lễ, tế tự. Ông khoan hậu nên được lòng mọi người, thành thực nên được trăm họ tín nhiệm, cần mẫn nên thành công, công bình nên mọi người vui vẻ”.
Chúng ta có thể tin rằng công đó phần lớn là của Chu công. Ở trên chúng tôi đã xét hai cải cách lớn của ông: Chế độ phong kiến và chế độ tôn pháp. Chắc ông cũng đã qui định thể thức về tang lễ. Về việc “tế đế” ông đã sửa đổi chế độ của nhà Ân. Nhà Ân chỉ có tổ đế (nghĩa là vua Ân thờ chung tiên vương với Thượng đế), nhà Chu tách làm hai: Thờ tiên vương riêng, Thượng đế riêng, như vậy việc thờ trời hoá long trọng hơn. Còn quan niệm Vua là con của trời, nhận đất của trời trao cho, nhân dân của trời trao cho, do đó phải trọng ý dân, quan điểm đó có từ thời Thương, Ân, không có gì thay đổi. Có thay đổi chăng chỉ là riêng thiên tử được thờ Thượng đế, còn các chư hầu chi được thờ thần núi sông, thần xã tắc của nước mình, các khanh, đại phu chỉ đóng vai dự tế hay bồi tế, kẻ sĩ và thứ nhân chỉ được thờ tổ tiên mình thôi. Chu gốc ở phương Tây, không văn minh bằng Ân, không thạo việc tế lễ bằng Ân, cho nên hồi mới diệt Ân, Võ vương và Chu công phải dùng lại những bề tôi giỏi của Ân trong việc tế và bói. Có thể Chu công cũng đã nghĩ tới việc sửa hình pháp của nhà Ân cho hợp thời. Tương truyền Chu có cửu hình (chín hình phạt) nhưng không biết từ thời nào, và đời Chu công chắc chắn là chưa có hình thư, triều đình vẫn giữ cái tục “Lễ bất hạ thứ nhân, hình bất thượng đại phu” (Lễ Kí) nghĩa là trong giới quí tộc, có kẻ nào phạm pháp thì theo pháp điển bất thành văn mà dàn xếp; còn
đối với dân thường họ mới dùng hình mà chỉ họ được biết thôi. Nguyên tắc là vậy; trong thực tế có nhiều quí tộc cũng bị chặt chân, chặt tay hoặc xử trảm. Lẽ đó dễ hiểu: hễ làm loạn, muốn chiếm ngôi chẳng hạn, thì chẳng kể quí hiển, thân nhân cũng phải trừng trị. Về việc lo lương thực cho dân, không nhà cầm quyền nào không đưa lên hàng đầu các nhiệm vụ. Chính sách “tỉnh điền” chia đất cày cho dân (một khoảng đất vuông chia thành chín ô vuông, mỗi ô chung quanh cấp cho một gia đình; ô ở giữa, tám gia đình phải chung nhau cày cấy, nộp lúa cho nhà vua) có người còn cho là một nghi vấn, vì trong các Kinh Thi, Kinh Thư không thấy nói tới; nhưng cũng có người tin là có (như Maspéro). Có thể Chu công không dùng chế độ đó, nhưng thế nào cũng có một biện pháp phân phối đất cho dân, để dân giải quyết được sinh kế. Ông cũng định lại đồ đo lường và thuế ruộng gọi là “triệt” (có sách bảo là “trợ”). Khoảng một phần mười huê lợi của dân. Về giáo dục, đời Tây Chu chỉ có “quan học”, tức những trường công gọi là “trường” dạy con các quí tộc; mãi đến đời Khổng tử mới có tư học, tức trường tư dạy trẻ và thanh niên trong mọi giai cấp. Không rõ Chu công có qui định lại nhạc không. Chỉ biết trong Luận ngữ bài III.26, Khổng tử nói: “nhà Chu châm chước lễ chế của hai triều đại trước (tức Hạ và Ân) nên văn vẻ rực rỡ biết bao! Ta theo Chu.” Công châm chước lễ chế của hai triều đại trước đó phần lớn
là của Chu công. Khổng tử muốn theo Chu (Ngô tòng Chu) tức là muốn giữ chế độ của Chu công, muốn làm được sự nghiệp của Chu công, phục hồi lại cái “văn vẻ rực rỡ” của đầu đời Chu. Ông theo đuổi mục đích đó suốt đời, cho nên thường mộng thấy Chu công, và khi nào lâu không mộng thấy Chu công thì ông buồn rằng sức mình suy rồi. CHU SUY – ĐÔNG CHU Nhà Chu chỉ thịnh trong thế kỉ đầu rồi suy lần. Ngoài nguyên nhân chung cho bất kì triều đại nào từ cổ tới kim là chỉ ông vua sáng nghiệp với một hai đời sau là có tư cách, nghị lực, tiếp theo là những vua quen sống trong cảnh xa hoa, dâm dật, mỗi ngày một thêm đồi trụy, ngoài nguyên nhân chung đó còn ba nguyên nhân này nữa: Chế độ phong kiến có nhược điểm là nền tảng không vững lâu được, phải dựa trên uy quyền của quí tộc. Uy quyền đó mà suy nhược hoặc bọn cầm quyền mà tham nhũng là nội loạn nổi lên liền: Chư hầu không tuân lệnh thiên tử, dân không tuân lệnh các quan, kẻ mạnh hùng cứ một phương, thôn tính kẻ yếu ở chung quanh mà làm bá chủ. Số bộ lạc nhỏ cứ giảm lần từ 1.600 xuống 1.000, 500, vài trăm, một trăm…, mà các chư hầu hùng cường đất đai mỗi ngày mỗi rộng, dân chúng mỗi ngày một đông, gấp năm gấp mười của thiên tử. Những chư hầu nhỏ bị chư hầu lớn ức hiếp, cầu cứu với thiên tử, thiên tử không cứu nổi, thế là chế độ chỉ còn cái danh mà không có cái thực. Một lẽ nữa là đế quốc rộng quá, sự cai trị khó quá. Các chư
hầu lo giải quyết những khó khăn của chính họ, khuếch trương thế lực của họ, không quan tâm tới chính quyền trung ương nữa, cho nên có chư hầu hàng trăm năm không triều cống thiên tử. Lẽ thứ ba là Chu bị các dân tộc du mục hiếu chiến phía Tây quấy phá. Khi mới lập quốc, Võ vương và Chu công đã tính xa, đưa con cháu, bề tôi giỏi đi trấn các phía Đông (ở Tề, Lỗ), Bắc (ở Yên), Nam (ở Sở)…, còn phía Tây thì Chu tự đảm đương lấy. Những dân tộc phía Tây đó cày cấy rất ít, thường đổi sản phẩm của họ – ngựa, bò, cừu, các loại da… – lấy lúa của Chu; khi nào thấy Chu yếu thì họ xâm nhập để cướp lúa. Trong suốt lịch sử của họ, dân tộc Trung Hoa phải chống đỡ với các dân tộc du mục phương Tây và phương Bắc, chỉ được yên ở phía Đông (biển) và phía Nam (từ nước ta). Nhà Chu chỉ thịnh từ đời Võ vương đến hết đời Chiêu vương, nghĩa là trong bốn đời (gần khoảng 120 năm); qua đời Mục vương (1001 946) đã bắt đầu suy, tới đời U vương (thế kỉ thứ 8 trước Tây lịch) thì triều đình loạn, U vương bị rợ Khuyển Nhung giết, thái tử lên nối ngôi là Bình vương sợ các rợ phía Tây (Tây Nhung) lại uy hiếp nữa, phải dời đô qua Lạc ấp ở phía Đông ( 770), đất mà Chu công đã nhìn xa cho mở mang từ trước. Thế là chấm dứt đời Tây Chu (kinh đô ở Cảo, phía Tây) mà bắt đầu đời Đông Chu (770 221 trước Tây lịch). XUÂN THU VÀ CHIẾN QUỐC Các sử gia Trung Hoa chia thời Đông Chu này thành hai thời
kì nữa; thời Xuân Thu (772 479) và thời Chiến Quốc (479 221 trước Tây lịch). Sự phân chia đó chỉ dựa trên một bộ sử biên niên của Khổng tử, bộ Xuân Thu. Bộ này chép sử nước Lỗ từ năm thứ nhất đời Lỗ Ấn công (722) đến năm thứ 14 đời Lỗ Ai công (481) gồm 242 năm, năm 479 là năm Khổng tử mất. Lối phân chia đó không hợp lý, vì những năm 722 và 481 không đánh dấu một biến chuyển nào lớn lao trong lịch sử cả. Nên có người đã chia lại: Thời Xuân Thu 770 403 từ đời Chu Bình vương tới cuối đời Chu Uy Liệt vương; thời Chiến Quốc 403 221 từ đời Chu Ân vương đến khi Tần diệt Tề và thống nhất Trung Quốc. Từ khi dời đô qua phương Đông, nhà Chu suy lần lần, chế độ phong kiến lung lay, vua Chu vẫn giữ cái danh thiên tử nhưng mất hết quyền hành. Đất đai thì phải chia cắt để phong cho các vương hầu công khanh, nên mỗi ngày một thu hẹp lại, chỉ trông vào sự cống hiến của chư hầu mà chư hầu thì như nước Lỗ, trong 242 năm chỉ triều cống có ba lần; không những vậy vì cái danh nghĩa thiên tử, đôi khi còn phải giúp lương thực cho chư hầu những năm họ mất mùa hoặc có chiến tranh. Chu càng suy thì một số chư hầu càng mạnh lên. Họ lộng quyền, tranh giành nhau không ngớt, mượn danh nghĩa tôn Chu để sát phạt nhau. Số chư hầu trước kia trên một ngàn, tới đầu Đông Chu chỉ còn lại trên một trăm, vì nhiều nước nhỏ đã bị nước lớn thôn tính. Nhưng trong số trên trăm đó, thời Xuân Thu chỉ có mười bốn nước là đáng kể: Tấn, Tần, Tề, Ngô, Việt, Sở, Lỗ, Vệ, Yên, Tào, Tống, Trần, Thái, Trịnh. Trong số mười bốn nước đó, chỉ có năm nước là hùng cường, kế tiếp nhau làm minh chủ, tức là ngũ bá: