text
stringlengths
465
7.22k
Thời Tây Hán, vùng thuộc quyền quản lý của Nội Sử thời Tần, tức lưu vực Vị Hà, được phân làm 3: kinh triệu duẫn quản lý khu vực phía nam Vị Hà; tả bằng dực quản lý khu vực phía bắc Vị Hà, trung hạ du Lạc Hà; hữu phù phong quản lý khu vực phía tây Hàm Dương ngày nay. Lịch sử gọi đây là "Tam phụ", trị sở đều ở thành Trường An. Thành Trường An, kinh đô của Tây Hán, nằm ở ngay phía tây bắc của Tây An ngày nay. Theo sử liệu ghi lại, chu vi thành Trường An là 65 lý (ước tính tương đương với 26 km), tường thành cao trên dưới 12 m, rộng 12-16 mét, việc thành cao và rộng như vậy được cho là để đối phó với lũ lụt do Vị Hà gây ra. Thành Trường An có 16 cổng thành. Theo Hán thư-Địa lý chí, vào năm 2 SCN, nhân khẩu trong thành Trường An có "80.800 hộ, 246.200 người". Một số chuyên gia hữu quan cho rằng con số này thấp so với thực tế, nếu lấy mỗi hộ có năm người thì dân trong thành phải trên 400 nghìn người. Thành Trường An là thành thị đại quy mô đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, trên thế giới khi đó chỉ có thành La Mã là có thể so sánh được.
Thời Tây Hán là khoảng thời gian hưng thịnh của Thiểm Tây. Thời Hán Vũ Đế (140 TCN-88 TCN), quốc thế của triều Hán lên đến đỉnh cao. Ngoài sự phồn hoa của kinh thành Trường An, kinh tế nông nghiệp của Thiểm Tây cũng phát triển, chủ yếu là do phát triển sự nghiệp thủy lợi, cải thiện kỹ thuật nông nghiệp. Ở Quan Trung, trước sau đã đào các kênh Tào, Long Thủ, Lục Phụ, Bạch, Linh Chỉ và Thành Quốc, cũng như các đường dẫn nước tưới tiêu khác, hình thành một mạng lưới tưới tiêu ruộng đồng ở bình nguyên Quan Trung. Thời Hán Vũ Đế, đô úy Triệu Quá đã sáng tạo ra "đại điền pháp", sáng chế ra "lâu xa" (một loại công cụ gieo hạt có ba chân), ngẫu lê (một loại cày theo phương thức canh tác ba người hai trâu, thâm canh, lật đất, đắp bờ).
Năm 9 SCN, Vương Mãng phế Nhũ Tử Anh, lập ra nhà Tân. Vương Mãng mang hoài bão phục cổ, tái tạo nền văn minh cổ xưa, xây dựng một thế giới lý tưởng. Ông đã thực hiện hàng loạt cải cách ảnh hưởng toàn diện đến xã hội Trung Quốc khi đó. Tháng 2 năm 23, Lục Lâm quân ủng hộ Lưu Huyền lên làm hoàng đế, đến tháng 9 thì công nhập Trường An, Vương Mãnh bị giết. Tháng 2 năm 24, Lưu Huyền thiên đô đến Trường An. Tháng 6 năm 25, Xích Mi quân tại Hoá Âm đã ủng hộ lập Lưu Bồn Tử làm hoàng đế, đến tháng 9 cùng năm công nhập Trường An, lật đổ Lưu Huyền. Sau khi Xích Mi quân làm chủ Trường An, do quân sĩ và số đông tướng sĩ của lực lượng này là nông dân thuần phác, nên bị lực lượng địa chủ rất thù địch, đóng kín cửa không nghênh đón và cấp lương. Xích Mi quân sau đó lại đầu hàng Lưu Tú.
Cuối thời Đông Hán, năm 190, Quan Đông quân phiệt suy tôn Viên Thiệu làm minh chủ, thảo phạt Đổng Trác. Đổng Trác đem Hán Hiến Đế Lưu Hiệp chạy về phía tây, đến Trường An. Tháng 4 năm 192, trong lúc chư hầu đang xung đột ở phía đông thì trong triều đình Trường An, Vương Doãn và Lã Bố mưu sát Đổng Trác. Tháng 6 năm đó, bộ tướng của Đổng Trác là Lý Quyết, Quách Dĩ, Phàn Trù công nhập Trường An. Năm 195, Lý Quyết, Quách Dĩ, Phàn Trù lại công sát lẫn nhau. Trong thời gian này, Thiểm Tây đã phải trải qua đại họa, "trong thành Trường An, không thể ngăn chặn đạo tặc, cướp bóc giữa ban ngày... người ăn thịt nhau, xương trắng lũy tích, xú uế đầy đường".
Mùa xuân năm 228, Gia Cát Lượng thống lĩnh 10 vạn đại quân xuất phát từ Hán Trung đi về hướng Bắc để chinh phạt Ngụy. Ông loan tin rằng đại quân của Thục sắp sửa theo đường hẻm Tà Cốc đánh vào My Thành, đồng thời cử Triệu Vân, Đặng Chi đem một bộ phận binh lục đi chiếm Kỳ Cốc[chú 31] và làm ra vẻ như muốn đi theo đường Tà Cốc để tiến lên phía bắc, nhằm thu hút sự chú ý của quân Tào, trong khi đó Gia Cát Lượng tự mình dẫn quân chủ lực tiến phát theo đường Kỳ Sơn về hướng tây bắc. Trong chiến dịch này, quân Thục dụ hàng được danh tướng Ngụy là Khương Duy gây xôn xao cả miền Quan Trung.
Sau khi Gia Cát Lượng mất trong khi đang đem quân đánh Tào Ngụy, tướng Khương Duy tiếp tục tiếp hành 9 lần chinh phạt Trung Nguyên trong các năm 247-262, chiến trường chính là hai tỉnh Cam Túc và Thiểm Tây ngày nay. Năm 263-264, khi quân Ngụy tiến hành chiến dịch tiêu diệt Thục, họ phân thành ba mặt trận quân, trong đó mặt phía đông là cánh công kích chính, ban đầu tấn công Hán Trung từ Tà Cốc (斜谷)[chú 32], Lạc Cốc (駱谷), và Tử Ngọ Cốc (子午谷)[chú 33]. Sau đó, ba đội quân của mặt trận phía đông hội quân và tiếp tục tiến sâu vào đất Thục.
Cuối năm 311, sau khi con trai của Lưu Thông là Lưu Xán chiếm Trường An, Lưu Diệu được giao phụ trách cai quản vùng Trường An, mặc dù vậy, sau đó ông đã để mất thành vào tay quân Tấn do Khúc Doãn (麴允) chỉ huy. Năm 313, Tấn Hoài Đế bị quân Hung Nô giết, tướng nhà Tấn là Diêm Đỉnh bàn với mọi người quyết định lập Tư Mã Nghiệp làm hoàng đế tại Trường An, tức là Tấn Mẫn Đế. Tháng 8 năm 316, Lưu Diệu cho quân tiến vào Quan Trung, đến tháng 11, Tấn Mẫn Đế bị bắt, triều Tây Tấn cũng diệt vong. Nhờ công trạng này, Lưu Diệu được Lưu Thông phong làm Tần vương.
Năm 350, tận dụng thời cơ Hậu Triệu có nội loạn, thủ lĩnh người Đê là Phù Hồng đã tiến quân vào Quan Trung. Năm 351, con trai của Phù Hồng là Phù Kiện đã xưng làm "Thiên vương" tại Trường An, chính thức đoạn tuyệt với Tấn cùng Hậu Triệu và lập nước Tiền Tần. Năm 354, tướng Hoàn Ôn của Đông Tấn phối hợp cùng quân Tiền Lương để mở một chiến dịch lớn chống lại Tiền Tần. Hoàn Ôn đã tiến được đến vùng lân cận của Trường An, đánh bại mọi toán quân Tiền Tần trên đường hành quân. Tuy nhiên, do Phù Kiện đã dự đoán được cuộc tấn công của Tấn nên đã cho thu hoạch lúa mì, quân Đông Tấn bắt đầu cạn nguồn lương thảo và buộc phải rút lui vào cuối mùa hè cùng năm.
Năm 357, Phù Kiên trở thành Thiên vương Tiền Tần sau khi giết chết Phù Sinh, trị vì với sự giúp đỡ của Vương Mãnh. Năm 370, sau khi Tiền Tần diệt được nước Tiền Yên của người Tiên Ti, nghe theo kiến nghị của Vương Mãnh, Phù Kiên đã buộc các vương công của Tiền Tần và hơn 4 vạn người Tiên Ti đến vùng Trường An. Năm sau, Phù Kiên lại buộc các cường hào ở Quan Đông (tức bình nguyên Hoa Bắc) và 15 vạn hộ các dân tộc phi Hán khác đến Trường An và vùng Quan Trung, kinh tế Quan Trung vì thế được khôi phục rõ rệt so với trước.
Tháng 3 năm 384, một thành viên hoàng tộc Tiền Yên là Mộ Dung Hoằng trú tại Hoá Âm đã tự xưng làm Ung châu mục, Tế Bắc vương, đến tháng 4, Mộ Dung Hoằng cải niên hiệu thành Yên Hưng, lịch sử gọi thế lực của Mộ Dung Hoằng là Tây Yên. Sau khi người Tiên Ti nổi dậy, Phù Kiên đã cho thảm sát người Tiên Ti trong thành Trường An. Năm 385, sau khi Mộ Dung Hoằng bị giết, Mộ Dung Xung kế vị và đã cho quân Tây Yên bao vây được Trường An, và thành này nhanh chóng rơi vào một nạn đói khủng khiếp. Ông cũng cho phép các binh sĩ của mình đi cướp phá vùng Quan Trung theo ý muốn. Trong năm, quân Tây Yên sau đó đã đánh bại được quân Tiền Tần và chiếm được Trường An. Mặc dù những người dân Tiên Ti của ông mong muốn được trở về quê hương ở phía đông, Mộ Dung Xung lại quyết định định cư tại Trường An do ông thích thành này và cũng do ông lo sợ trước thúc phụ Mộ Dung Thùy, người khi đó đã lập ra nước Hậu Yên. Năm 386, người dân Tiên Ti của Tây Yên, dưới sự lãnh đạo của Mộ Dung Nghĩ, gồm 40 vạn người cả nam lẫn nữ, đã từ bỏ Trường An và tiến về phía đông để trở về quê hương.
Diêu Trường vốn là một tướng của Tiền Tần, sau khi bại trận trước Tây Yên, do sợ bị trách phạt nên ông đã tập hợp những người Khương trong vùng và bắt đầu nổi loạn, Diêu Trường tự xưng tước hiệu "Vạn Niên Tần Vương" (萬年秦王), lập nước Hậu Tần. Diêu Trường sau đó tạm thời định đô tại Bắc Địa (北地)[chú 36], chiếm được các thành ở bắc bộ Thiểm Tây hiện nay. Sau khi quân Tây Yên dời đi, Trường An đã lọt vào tay một tộc trưởng Hung Nô là Hác Nô (郝奴) trong một thời gian ngắn, song Hác Nô đã đầu hàng khi Diêu Trường tiến đến Trường An. Diêu Trường định đô tại Trường An và xưng làm hoàng đế. Trong thời gian tồn tại của Hậu Tần, Quan Trung và Thiểm Bắc thuộc quyền quản lý của nước này, còn vùng Thiểm Nam thì do triều đình Đông Tấn chiếm giữ.
Năm 407, một người Hung Nô là Hách Liên Bột Bột đã phản lại Hậu Tần, lập ra nước Hồ Hạ tại Cao Bình (高平)[chú 37]. Năm 409, Diêu Hưng đích thân dẫn quân đi đánh Hách Liên Bột Bột, song khi đến Nhị Thành (貳城)[chú 38], Diêu Hưng đã gần như rơi vào bẫy của Lưu Bột Bột, và trốn thoát sau khi quân Hậu Tần phải chịu thương vương lớn. Đến tháng 3 năm 413, Hách Liên Bột Bột đã xây dựng quốc đô tại thành Thống Vạn (統萬)[chú 39]. Năm 418, Hách Liên Bột Bột đem đại quân tiến xuống phía nam, công hãm Hàm Dương, chiếm cứ Trường An, xưng làm hoàng đế và cải niên hiệu thành Xương Vũ. Năm 419, Hách Liên Bột Bột hoàn đô về Thống Vạn, để thái tử Hách Liên Hội trấn giữ Trường An.
Sau khi Cao Hoan tiếp cận kinh thành Lạc Dương, Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế đã chạy trốn về phía tây, gặp được quân của Vũ Văn Thái trên đường và được hộ tống đến đại bản doanh của Vũ Văn Thái tại Trường An, định đô luôn tại đây. Khoảng tết năm 535, ông uống phải rượu có pha thuốc độc rồi qua đời và có vẻ chuyện này do các sát thủ của Vũ Văn Thái tiến hành. Năm 535, Vũ Văn Thái đã tôn Nam Dương vương Bảo Cự làm hoàng đế, sử coi Bảo Cự là hoàng đế đầu tiên của Tây Ngụy. Thời Tây Ngụy, Quan Trung và vùng thượng du Hán Giang của Thiểm Tây ngày nay do triều đại nay khống chế.
Đầu năm 589, quân Tùy tiêu diệt Nam triều Trần, thống nhất toàn cõi Trung Quốc. Tùy Văn Đế sau khi lên ngôi, muốn xây dựng lại thành Trường An như dưới thời nhà Hán. Năm 582, theo thiết kế của thành viên hoàng tộc Bắc Chu cũ là Vũ Văn Khải (宇文愷), bắt đầu từ ven phía nam của Long Thủ Nguyên (龙首原)[chú 40] triều Tùy cho xây dựng thành mới Đại Hưng thành[chú 41]. Cung thành là hạng mục được xây dựng trước của Đại Hưng thành, năm 583 thì triều Tùy thiên đô đến đó. Năm Đại Nghiệp thứ 9 thời Tùy Dạng Đế (613), triều Tùy cho xây thành ngoại quách, Đại Hưng thành có bố cục rất quy chuẩn. Thành ngoại quách có hình dạng gần như hình vuông, dài 9.721 mét theo chiều đông-tây, dài 8.556 mét theo chiều bắc-nam, chu vi là 36,7 km, tổng diện tích thành nội là 84 km². Đại Hưng thành có 9 cổng thành ở ba mặt đông, tây, nam. Trong thành nội có 14 đường phố theo hướng đông-tây và 11 đường phố theo hướng bắc-nam.
Thời Tùy, Tùy Văn Đế bỏ quận giữ lại châu, Tùy Dạng Đế sau đó lại đổi châu thành quận. Khi đó, Thiểm Tây được phân thành 17 quận (châu). Trong đó có 9 quận (châu) nằm hoàn toàn trên địa bàn Thiểm Tây ngày nay: Kinh Triệu (Ung châu)[chú 42], Bằng Dực (Đồng châu)[chú 43], Phù Phượng (Kì châu)[chú 44], Thượng quận (Phu châu)[chú 45], Điêu Âm (Thượng châu)[chú 46], Diên An (Diên châu)[chú 47], Thượng Lạc (Thương châu)[chú 48], Hán Trung (Lương châu)[chú 49], Tây Thành (Kim châu)[chú 50] Có 8 quận (châu) có một bộ phận nằm trên địa bàn Thiểm Tây ngày nay: Du Lâm (Thắng châu)[chú 51], Sóc Phương (Hạ châu)[chú 52], Diêm Xuyên (Diêm châu)[chú 53], Hoằng Hóa (Khánh châu)[chú 54], Bắc Địa (Bân châu)[chú 55], Hà Trì (Phượng châu)[chú 56], Thuận Chính (Hưng châu)[chú 57], Nghĩa Thành (Lợi châu)[chú 58].
Năm 604, Dương Quảng giết phụ hoàng và hoàng huynh, đoạt lấy ngai vàng, tức Tùy Dạng Đế. Tùy Dạng Đế thi hành chính sách tàn bạo, khiến các cuộc khởi nghĩa nông dân bùng nổ. Tháng 9 năm 617, Lý Uyên từ nơi khởi binh tại Thái Nguyên đã vượt qua Hoàng Hà, công chiếm Triều Ấp (朝邑)[chú 59], đến tháng 11 thì công chiếm Trường An. Lý Uyên lập Đại vương Dương Hựu làm hoàng đế, tức Tùy Cung Đế, và tự lập mình làm đại thừa tướng. Tháng 5 năm 618, Lý Uyên bức Cung Đế phải thoái vị, bản thân xưng đế, lập ra triều Đường, vẫn định đô tại Trường An.
Nhà Đường vẫn sử dụng Đại Hưng thành ở Trường An từ thời Tùy, không ngừng xây dựng thêm. Vào tháng 3 và tháng 11 năm Vĩnh Huy thứ 5 đời Đường Cao Tông (654), công bộ thượng thư Diêm Lập Đức (閻立德) đã cho người trùng tu thành ngoại quách. Theo hệ thống đo lường ngày nay, thành ngoại quách của Trường An đời Đường kéo dài 9.500 mét từ đông sang tây, 8.470 mét từ bắc xuống nam, chu vi 35,5 km. Thành nội bao gồm cung thành, hoàng thành và khu cư trú của thị dân. Cung thành nằm ở phía bắc của chính giữa toàn thành, đầu thời Đường chỉ có một Thái Cực cung (Đại Hưng cung của Tùy trước đây), là nơi Đường Cao Tổ Lý Uyên và Đường Thái Tông Lý Thế Dân cư trú trên 30 năm. Năm Trinh Quán thứ 8 (634), trên Long Thủ Nguyên thuộc Cấm Uyển ở góc đông bắc Cung thành, Đường Thái Tông đã cho xây dựng Vĩnh An cung, nhường cho Thái thượng hoàng (Lý Uyên) cư trú, năm sau đổi tên thành Đại Minh cung. Năm Long Sóc thứ 2 (662) thời Đường Cao Tông, triều đình bắt đầu mở rộng thêm Đại Minh cung, năm sau, Đường Cao Tông chuyển từ Thái Cực cung đến Đại Minh cung cư trú và xử lý chính sự. Kể từ đó, các hoàng đế nhà Đường trú tại Đại Minh cung. Năm Khai Nguyên thứ 2 (714) thời Đường Huyền Tông, vị hoàng đế này đã đổi nơi cư trú trước đây của ông thành Hưng Khánh cung, tiến hành vài lần mở rộng. Hoàng thành nằm ở mặt nam của Cung thành, chiều đông-tây tương đương với Cung thành, phía bắc có Thừa Thiên môn với Cung thành, phía nam có Minh Đức môn với thành ngoại quách.
Thời Đường, triều đình lập thêm cấp đạo trên các đơn vị châu (quận). Toàn lãnh thổ Đại Đường lúc đầu được chia thành 10 đạo, khi đó khu vực Quan Trung và Thiểm Bắc của Thiểm Tây ngày nay thuộc Quan Nội đạo, Thiểm Nam thuộc địa giới của Sơn Nam đạo. Đến trung kỳ nhà Đường, toàn quốc được chia thành 15 đạo, Thiểm Tây khi đó phân thuộc quyền quản lý của 4 đạo. Kinh Kỳ đạo tách khỏi Quan Nội đạo, quản lý khu vực ở phía nam của một đường từ Trường Vũ đến Hàn Thành, khu vực phía đông của Phượng Tường, có trị sở đặt tại Trường An. Quan Nội đạo do quan ở kinh thành quản lý từ xa. Khu vực phía đông An Khang thuộc Sơn Nam Đông đạo, trị sở đặt tại Tương Phàn của Hồ Bắc ngày nay. Khu vực từ An Khang về phía tây thuộc về Sơn Nam Tây đạo, trị sở đạo này đặt tại Hán Trung ngày nay. Thời Đường, có ba phủ nằm trên địa phận Thiểm Tây ngày nay, đó là Kinh Triệu phủ (trị sở tại Trường An), Phượng Tường phủ (trị sở tại huyện Phường Tường ngày nay), Hưng Nguyên phủ (trị sở tại Hán Trung ngày nay).
Thời Đường là khoảng thời gian cực thịnh của Trung Quốc cổ đại, cũng là khoảng thời gian phồn vinh nhất của Thiểm Tây trong thời cổ. Thời Đường, theo sử sách Trung Quốc thì nhân khẩu Trường An ở lúc cao nhất đã vượt quá 1 triệu người, trong khi các ước tính hiện đại cho rằng trong thành nội có 800.000–1.000.000 người. là thành thị lớn nhất thế giới lúc bấy giờ. Thủ công nghiệp trong thành Trường An rất phát triển. Năm 1970, tại thôn Hà Gia ở Tây An, đã phát hiện được hai cái vại được chôn giấu, có trên cả nghìn vật phẩm, trong đó có 270 đồ vật bằng vàng hay bạc, được chế tác rất tinh xảo. Thời Đường, sản xuất đồ sứ đã trở thành một ngành sản xuất độc lập, tam thải (三彩) là một loại sản phẩm mới của nền công nghiệp gốm sứ, gốm xanh Diệu châu của Thiểm Tây rất có danh tiếng, được tìm thấy nhiều khi khai quật các lăng hoàng tộc và mộ quý tộc đời Đường.
Năm 755, bắt đầu nổ ra loạn An Sử. Tháng 6 năm 756, quân An Lộc Sơn công phá Đồng Quan, Đường Huyền Tông cùng thừa tướng Dương Quốc Trung hốt hoảng, cùng Dương Quý Phi với 1.000 cấm binh bỏ Trường An rút về đất Thục. Quân phản loạn của An Lộc Sơn sau khi vào Trường An, đã tiến hành đốt phá, giết người, cướp của bừa bãi trong suốt ba ngày đêm, thành Trường An trở nên trống rỗng. Tháng 9 năm 757, danh tướng Quách Tử Nghi (người Thiểm Tây) của Đường đã tái chiếm Trường An. Sau loạn An Sử, quốc thế Đại Đường dần dần suy giảm. Năm 881, Hoàng Sào dẫn quân khởi nghĩa nông dân đánh chiếm Trường An, tại Hàm Nguyên điện của Đại Minh cung, Hoàng Sào lên ngôi hoàng đế, đặt quốc hiệu là "Đại Tề". Tháng 2 năm 883, quý tộc Sa Đà là Lý Khắc Dụng đã dẫn quân tiến vào Quan Trung, họ đánh bại tướng Hoàng Nghiệp của Hoàng Sào ở Thạch Đê cốc, đến tháng 3 lại đánh bại Triệu Chương và Thượng Nhượng ở Lương Điền Pha, đến tháng 4 thì Hoàng Sào phải đưa quân rút khỏi Trường An. Nhờ công lao của Lý Khắc Dụng, triều Đường đã lấy lại được Trường An, song đến năm 904, Chu Ôn đã ép Đường Chiêu Tông phải thiên đô đến Lạc Dương.
Năm 907, Chu Ôn tiếm vị nhà Đường, lập ra nhà Hậu Lương. Lý Mậu Trinh vẫn dùng niên hiệu Thiên Hữu của Đường Ai Đế, đối kháng với Hậu Lương. Lý Mậu Trinh lấy Phượng Tường làm trung tâm, lập ra chính quyền cát cứ tại một phần Thiểm Tây, Cam Túc và Tứ Xuyên hiện nay, sử gọi là nước Kỳ. Vì thế, Thiểm Tây khi đó phân thuộc hai chính quyền khác nhau. Nhà Hậu Lương đổi Kinh Triệu phủ thành Ung châu, thiết lập Đại An phủ tại Thiểm Tây. Năm 924, sau khi Hậu Đường diệt Hậu Lương, Lý Mậu Trinh hướng Hậu Đường xưng thần, được hoàng đế Hậu Đường phong làm Tần vương. Từ đó đến hết thời Ngũ Đại, Thiểm Tây nằm trong quyền quản lý của các vương triều Trung Nguyên: Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu. Hậu Đường đã đổi lại Đại An phủ thành Kinh Triệu phủ. Ngoài ra, trong thời Ngũ Đại, một bộ phận phía nam Thiểm Tây cũng từng nằm dưới quyền quản lý của nước Tiền Thục và sau đó là nước Hậu Thục.
Triệu Khuông Dận sau đó đã tái thống nhất Trung Quốc, lập ra nhà Tống. Thời Bắc Tống, triều đình đổi đạo thành lộ, trong đó, Thiểm Tây lộ đã được thành lập vào đầu thời Tống. Sau đó, phân chia hành chính lại có thay đổi, đại bộ phận Thiểm Tây quy thuộc quyền quản lý của Vĩnh Hưng quân lộ[chú 60]. phía tây, nam của Lân Du và Chu Chí đến Phượng và Lưu Bá thuộc Tần Phượng lộ[chú 61]. Từ Phật Bình, Trấn Ba về phía tây thuộc quyền quản lý của Lợi Châu lộ[chú 62]. Khu vực phía đông của Ninh Thiểm, Thạch Tuyền thuộc về Kinh Tây Nam lộ[chú 63]. Khu vực Thần Mộc, Phủ Cốc, Giai thuộc về Hà Đông lộ[chú 64]. Nhiều huyện nay thuộc Du Lâm do Tây Hạ chiếm hữu.
Năm 1038, người Đảng Hạng dưới sự lãnh đạo của Lý Nguyên Hạo đã thiết lập nên triều Tây Hạ, khống chế một bộ phận Thiểm Bắc. Trong nhiều thập kỷ, Tống và Hạ khi chiến khi hòa, Thiểm Bắc là một chiến trường chủ yếu. Từ năm 1040 đến 1042, Phạm Trọng Yêm đã đứng đầu Vĩnh Hưng quân, cùng Hàn Kỳ đảm nhận nhận chức vụ kinh lược an phủ chiêu thảo phó sứ Thiểm Tây, trợ giúp Hạ Tủng đánh Hạ, cai trị Diên châu (nay là Diên An); ngày nay ở dưới núi Gia Lĩnh tại Diên An vẫn còn nhiều di tích liên quan đến ông. Từ năm 1078 trở đi, Thẩm Quát (沈括), một khoa học gia nổi tiếng, đã cai trị Doanh châu trong 4 năm, cai quản biên phòng Thiểm Bắc.
Năm 1127, Kim diệt Bắc Tống, đến tháng 12 năm đó, quân Kim tiến công Quan Trung, rồi rút đi sau khi đã cướp bóc trên quy mô lớn. Tháng 8 năm 1128, quân Kim lại tấn công Quan Trung, từ đó, phần lớn Thiểm Bắc và phía đông Quan Trung thuộc quyền cai quản của Kim. Triều đình Kim đã thiết lập Kinh Triệu phủ lộ[chú 65], Phu Diên lộ[chú 66], ngoài ra còn có Phượng Tường lộ[chú 67], Khánh Nguyên lộ[chú 68], Hà đông bắc lộ[chú 69], Lợi Châu Tây lộ[chú 70], Lợi Châu Đông lộ[chú 71] Trong khi đó, khu vực nay thuộc Hoành Sơn, Tĩnh Biên, Định Biên và Du Dương của Du Lâm thuộc về Tây Hạ.
Năm 1206, hãn quốc Mông Cổ được thành lập, đến tháng 11 năm 1222, tướng Mộc Hoa Lê của Mông Cổ suất quân lần lượt chiếm lĩnh Đồng Châu[chú 72], Bồ Thành. Tháng 6 năm 1230, quân Mông Cổ công phá Kinh Triệu (nay là Tây An) của Kim, đến tháng 10 thì chiếm Lĩnh Đồng (nay là Đại Lệ), Hoa và những nơi khác tại tây bắc Thiểm Tây. Tháng 4 năm sau, quân Mông Cổ đánh chiếm Phượng Tường, đến tháng 8 thì công phá Phượng Châu[chú 73], chiếm Hưng Nguyên (nay là Hán Trung) và Dương Châu (nay là Dương). Năm 1234, Kim bị tiêu diệt.
Năm 1253, đại hãn Mông Cổ phân phong chư vương, Quan Trung trở thành đất phong của Hốt Tất Liệt. Năm 1271, Hốt Tất Liệt thiên đô về Yên Kinh, đổi quốc hiệu thành "Nguyên". Năm 1272, Hốt Tất Liệt phong cho con trai thứ ba là Mang Ca Lạt (忙哥剌) làm An Tây vương, lập phiên tại Thiểm Tây. Thời Nguyên, Trung Quốc phân thành các hành tỉnh, Thiểm Tây hành tỉnh có trị sở đặt tại Tây An ngày nay, quản lý toàn bộ Thiểm Tây ngày nay, cũng như khu vực phía đông Lan Châu của Cam Túc ngày nay và phía nam trung bộ Ngạc Nhĩ Đa Tư của Nội Mông hiện nay. Đến giữa thời Nguyên, An Tây vương phủ bị phế trừ, An Tây lộ đổi tên thành Phụng Nguyên lộ.
Từ thời Tống đến thời Nguyên, kinh tế Thiểm Tây, đặc biệt là nông nghiệp, đã khôi phục và phát triển tương đối, điểm nổi bật là sự nghiệp thủy lợi. Những năm Khánh Lịch (1041-1048) thời Tống Nhân Tông, diện tích ruộng được tưới đã tăng lên 6.000 khoảng từ mức 2.000 khoảnh vào đầu thời Tống, đạt mức thời kỳ giữa nhà Đường. Việc sử dụng dầu mỏ và khai mỏ tại Thiểm Tây cũng bắt đầu trong thời Tống-Nguyên. Trong thời gian làm quan tại Thiểm Bắc, Thẩm Quát đã tiến hành khảo sát tường tận và kết luận "dầu mỏ rất nhiều, được tạo ra vô cùng trong lòng đất, không như gỗ tùng có thời kỳ và có thể cạn kiệt".
Trên cơ sở hệ thống hành tỉnh của triều Nguyên, ngoại trừ Bắc Kinh và Nam Kinh ra, triều Minh chia Trung Quốc thành 13 bố chính sứ ti. Thiểm Tây thừa tuyên bố chính sứ ti thời Minh quản lý toàn bộ tỉnh Thiểm Tây ngày nay, cộng thêm vùng phía đông Gia Dục quan của tỉnh Cam Túc ngày nay, đại bộ phận Ninh Hạ và Ngạc Nhĩ Đa Tư của Nội Mông hiện nay, khu vực phía đông hồ Thanh Hải của tỉnh Thanh Hải ngày nay. Triều đình nhà Minh cũng tiến hành phong vương lập phiên, trên địa phận của Thiểm Tây bố chính sứ ti có 7 phiên vương, trong đó có 3 phiên vương nằm trên địa bàn tỉnh Thiểm Tây ngày nay: năm Hồng Vũ thứ 10 (1378), phong Tần vương ở khu vực Tây An; năm Tuyên Đức thứ 9 (1429), phong Trịnh vương ở khu vực Phượng Tường; năm Thiên Khải thứ 7 (1627), phong Thụy vương ở khu vực Hán Trung.
Sau khi Đường Chiêu Tông thiên đô về Lạc Dương, thành ngoại quách và Cung thành của Trường An đã bị Chu Ôn phá hủy triệt để, đóng ba cổng thành của Hoàng thành, chỉ để lại Huyền Vũ môn ở phía bắc. Thời Minh, triều đình tiến hành xây dựng thành Tây An với quy mô lớn. Trong khoảng 1374-1378, đô đốc Bộc Anh (濮英) đã chủ trì việc mở rộng thành của thành Tây An. Tường thành hai mặt tây và nam được gia cố trên cơ sở tường thành của hoàng thành từ thời Đường, xây mới tường thành hai mặt đông và bắc, thành Tây An vì thế dài và rộng hơn so với Phụng Nguyên lộ thành của triều Nguyên.
Cuối thời Minh, triều đình trở nên hủ bại, đất nước mất mùa đói kém, người dân nhiều nơi nổi loạn, trong đó có Thiểm Tây. Tháng 11 năm 1628, Vương Gia Dận cùng bọn Ngô Duyên Quý tổ chức nạn dân ở Phủ Cốc khởi nghĩa, trước đó Vương Nhị cũng tổ chức một cuộc khởi nghĩa nông dân tại huyện Bạch Thủy. Đồng thời, Vương Tả Quải cũng kêu gọi hơn vạn người nổi dậy ở Nghi Xuyên. Ở huyện An Tắc, có cuộc khởi nghĩa của Cao Nghênh Tường. Năm 1636, Cao Nghênh Tường rơi vào ổ mai phục của Thiểm Tây tuần phủ Tôn Truyện Đình ở Hắc Thủy Dục thuộc huyện Chu Chí, thua trận bị bắt, giải về Bắc Kinh, bị xử lăng trì. Tàn dư của cuộc khởi nghĩa Cao Nghênh Tường tôn Lý Tự Thành làm Sấm vương. Tháng 1 năm 1643, Lý Tự Thành lập chính quyền tại Tương Dương của Hồ Bắc, đến tháng 10 cùng năm, quân của Lý Tự Thành phân làm hai lộ tấn công Quan Trung, công phá thành Tây An, đến tháng 11 thì chiếm được Quan Trung và Thiểm Bắc. Tháng 1 năm 1644, Lý Tự Thành đổi Tây An thành Trường An, đặt hiệu là Tây Kinh, chính thức kiến quốc, đặt quốc hiệu là "Đại Thuận". Tháng 6 năm 1644, Lý Tự Thành thất bại trước liên quân giữa quân Thanh và quân Ngô Tam Quế nên đã phải rút từ Bắc Kinh về lại Tây An. Tháng 12 năm 1644, quân Thanh chiếm được Thiểm Bắc, đến tháng 1 năm sau thì công phá Đồng Quan, Lý Tự Thành phải đưa quân qua Lam Điền, Thương Châu để rút đến Hồ Quảng. Sau khi đánh bại quân của Lý Tự Thành, quân Thanh chiếm cứ toàn bộ Thiểm Tây vào tháng 2 năm 1645.
Thời nhà Thanh, triều đình phế bỏ xưng hiệu "bố chính sứ ti" của triều Minh, đổi sang gọi là hành tỉnh hoặc gọi tắt là tỉnh. Đầu thời Thanh, Thiểm Tây hành tỉnh quản lý toàn bộ Thiểm Tây ngày nay, cộng thêm các vùng phía đông của Cam Túc, Ninh Hạ và Thanh Hải ngày nay. Năm Khang Hy thứ 2 (1663), tách Thiểm Tây hữu chính sứ trú tại Củng Cương[chú 74], ba năm sau lại đổi thành Cam Túc bố chính sứ và dời đến trú tại Lan Châu. Tả bố chính sử ti vẫn trú tại Tây An, quản lý bốn phủ Tây An, Diên An, Phượng Tường, Hán Trung cùng Hưng An châu. Trong suốt thời Thanh, Tây An là thủ phủ của Thiểm Tây. Vào năm Đồng Trị thứ 6 (1649), triều Thanh lấy đông bắc bộ thành Tây An thời Minh để hình thành một thành phòng thủ, gọi là Mãn thành.
Nhiều người Hán đã từ Thiểm Tây di cư đến Tân Cương trong thời Thanh. Họ được phân loại là thương nhân nếu không mang thân phận nô lệ. Do Thiểm Nam còn nhiều đất trống, vùng đã thu hút người nhập cư trên quy mô lớn sau khi Hồ Bắc và Tứ Xuyên xảy ra nạn đói nghiêm trọng và mùa màng thất bát trong thập niên 1770. Đến đầu thế kỷ XIX, những người nhập cư đến từ Trung và Nam Trung Quốc đã chiếm đến 90% tại một số nơi ở Thiểm Nam. Trong khoảng thời gian 1796–1804, những người bất mãn với triều đình đã tiến hành Khởi nghĩa Bạch Liên giáo ở vùng giáp ranh giữa Tứ Xuyên-Thiểm Tây-Hồ Bắc-Hà Nam, song bị quân Thanh đàn áp.
Sau khi cuộc nổi loạn Hồi giáo kết thúc, Thiểm Tây lại bị một nạn đói nghiêm trọng do hạn hán kéo dài, tỉnh hầu như không có mưa từ năm 1876 đến năm 1878, và khi triều đình nhà Thanh cố gắng khắc phục tình hình vào năm 1877 thì những yếu kém về hạ tầng giao thông đã cản trở hoạt động cứu trợ. Có thể đã có từ 4 đến 5 người chết đói chỉ tính riêng ở Thiểm Tây, một số huyện trong thung lũng Vị Hà màu mỡ mất trên 100.000 người mỗi huyện. Do các tai họa vào cuối thế kỷ XIX, Thiểm Tây đã trở thành nơi nhập cư của những người mong muốn có ruộng đất từ Tứ Xuyên và Hà Bắc.
Đầu thế kỷ XX, Thiểm Tây cũng bị thiệt hại từ những nạn đói định kỳ, diễn ra vào các năm 1915, năm 1921, và cuối cùng là năm 1928. Nạn đói cuối cùng cũng có tính chất nghiêm trọng giống như nạn đói 1877–78, người ta ước tính rằng Thiểm Tây đã có tới 3 triệu người chết vì đói, các dịch bệnh sau đó càng khiến số người chết tăng thêm hơn nữa. Tuy nhiên, trong lúc này đã có một số hoạt động cứu giúp, Tổ chức cứu trợ quốc tế về nạn đói đã phục hồi hệ thống thủy lợi bỏ hoang ở thung lũng Vị Hà, trong khi đường sắt Lũng Hải được kéo dài vào trong địa phận của tỉnh Thiểm Tây sẽ giúp vận chuyển đồ cứu trợ được nhanh hơn khi nạn đói tiếp tục xảy ra.
Sau thất bại của Cộng hòa Xô viết Trung Hoa, từ tháng 10 năm 1934 đến tháng 10 năm 1935, lực lượng của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã phải tiến hành Vạn lý Trường chinh gian khổ từ Giang Tây đến Thiểm Tây để lập căn cứ mới. Khi khởi đầu cuộc rút lui, Hồng quân Trung Quốc có hơn 86 nghìn người , nhưng khi kết thúc cuộc Vạn lý Trường chinh, số Hồng quân sống sót chỉ còn ít hơn 7 nghìn. Từ năm 1937, Diên An đã trở thành nơi đặt trụ sở các cơ quan đầu não của lực lượng cộng sản Trung Quốc. Nơi này đã trở thành trung tâm đào tạo chuyên sâu của các đảng viên và quân đội cộng sản.
Diện tích Thiểm Tây là khoảng 205.800 km², chiều dài bắc-nam là khoảng 870 km, chiều dài đông-tây là khoảng 200–500 km. Thiểm Tây có hình dạng lãnh thổ hẹp và dài, địa thế cao ở nam và bắc, thấp ở trung gian. Thiểm Tây có nhiều loại địa hình: cao nguyên, núi non, đồng bằng, bồn địa. Có thể phân Thiểm Tây thành vùng cao nguyên Hoàng Thổ ở Thiểm bắc, đồng bằng Quan Trung, vùng núi Tần-Ba và thung lũng Hán Giang ở Thiểm Nam. Trong đó, diện tích cao nguyên là 92.600 km², diện tích vùng núi là 74.100 km², diện tích vùng đồng bằng là 391.000 km². Các dãy núi chủ yếu tại Thiểm Tây là Tần Lĩnh và Đại Ba Sơn. Đoạn Tần Lĩnh trên địa phận Thiểm Tây có độ cao từ 1000-3000 mét với nhiều đỉnh núi nổi tiếng tại Trung Quốc như: Hoá Sơn, Thái Bạch Sơn, Chung Nam Sơn, Ly Sơn. Đại Ba Sơn nằm ở cực nam của Thiểm Tây với độ cao từ 1.500-2.000 mét. Vùng cao nguyên Hoàng Thổ ở Thiểm Bắc có độ cao từ 800-1.300 mét. Vùng đồng bằng Quan Trung kéo dài từ Bảo Kê về phía đông đến Đồng Quan với độ cao trung bình là 520 mét.
Khu vực phía bắc Tần Lĩnh của Thiểm Tây thuộc lưu vực Hoàng Hà, chiếm 63,3% diện tích và 29% tổng lượng tài nguyên nước của Thiểm Tây. Các chi lưu của hệ thống Hoàng Hà tại Thiểm Tây chủ yếu có hướng bắc-nam: Quật Dã Hà, Vô Định Hà, Diên Hà, Lạc Hà, Kính Hà (chi lưu của Vị Hà), Vị Hà. Khu vực phía nam Tần Lĩnh của Thiểm Tây thuộc lưu vực Trường Giang, chiếm 36,7% diện tích và 71% tổng lượng tài nguyên nước của Thiểm Tây. Các sông lớn thuộc hệ thống Trường Giang trên địa phận Thiểm Tây là Gia Lăng Giang, Hán Giang, Đan Giang. Tổng lượng tài nguyên nước trung bình năm của Thiểm Tây là 41,649 tỷ m³, có năm lên đến 84,7 tỷ m³ song có năm chỉ được 16,8 tỷ m³.
Tần Lĩnh, dãy núi phân định khí hậu phía bắc và Nam Trung Quốc, chạy dọc theo chiều đông-tây của Thiểm Tây. Thiểm Tây được phân thành ba vùng khí hậu, có sự khác biệt lớn giữa bắc và nam. Khu vực Thiểm Nam thuộc vùng khí hậu cận nhiệt đới gió mùa, Quan Trung và đại bộ phận Thiểm Bắc thuộc vùng khí hậu ôn đới ấm, khu vực dọc theo Vạn Lý Trường Thành ở bắc bộ của Thiểm Bắc thuộc vùng ôn đới lạnh (ôn đới trung). Nhìn chung, khí hậu Thiểm Tây có đặc điểm là: mùa xuân ấm và khô ráo, lượng giáng thủy khá thấp, nhiệt độ tăng nhanh song bất ổn định, nhiều gió cát; mùa hè có nhiệt độ cao và nhiều mưa, song cũng có lúc tái khô hạn; mùa thu mát dễ chịu với độ ẩm tương đối thấp, nhiệt độ hạ nhanh chóng; mùa đông rét lạnh lẽo và khô hanh, nhiệt độ thấp, có rất ít mưa tuyết. Nhiệt độ trung bình năm của Thiểm Tây là 13,7 °C, giảm dần từ nam đến bắc, từ đông sang tây: nhiệt độ trung bình năm của Thiểm Bắc là 7 °C-12 °C, nhiệt độ trung bình năm của Quan Trung là 12 °C-14 °C, nhiệt độ trung bình năm của Thiểm Nam là 14 °C-16 °C. Nhiệt độ trung bình tháng 1 của Thiểm Tây là -11 °C đến 3 °C, nhiệt độ trung bình tháng 7 là 21 °C-28 °C. Mỗi năm, Thiểm Tây có từ 160-250 ngày không có sương giá, nhiệt độ thấp kỷ lục là -32,7 °C, nhiệt độ cao kỷ lục là 42 °C. Lượng giáng thủy bình quân hàng năm của Thiểm Tây là 702,1 mm, biến đổi từ 340–1240 mm. Khoảng 60-70% lượng giáng thủy tập trung vào khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 10, thường gây nên lũ lụt, còn hai mùa xuân và hè thường bị hạn hán. Lượng giáng thủy tại Thiểm Tây giảm từ nam lên bắc: Thiểm Nam là vùng ẩm ướt, Quan Trung là vùng bán ẩm còn Thiểm Bắc là vùng bán khô hạn.
Thiểm Tây cũng có sự phong phú và đa dạng về chủng loại thực vật, Thiểm Tây có 12.266.700 ha đất rừng, tỷ lệ che phủ rừng đạt 41,4%. Diện tích rừng tự nhiên của Thiểm Tây là 5.494.300 ha, chủ yếu phân bố tại vùng núi Tần Lĩnh-Đại Ba Sơn, Quan Sơn, Hoàng Long Sơn và Kiều Sơn. Vùng núi Tần Lĩnh-Đại Ba Sơn còn được gọi là "ngân hàng gen sinh vật" với 3.300 loài thực vật có hạt tự nhiên, chiếm 10% toàn Trung Quốc. Thiểm Tây có 30 loài thực vật quý hiếm và 800 loài cây có thể dùng làm dược liệu, mi hầu đào Trung Hoa (Actinidia chinensis), sa cức (Hippophae), giảo cổ lam, Phú Tây trà là những nguồn tài nguyên thực vật có giá trị lớn. Táo tàu, óc chó, trẩu trơn là các sản phẩm xuất khẩu truyền thống của Thiểm Tây. Các loài cây dùng làm dược liệu trên địa bàn Thiểm Tây như thiên ma (Gastrodia elata), đỗ trọng (Eucommia ulmoides), khổ hạnh nhân (Semen Armeniacae Amarum), cam thảo (Glycyrrhiza uralensis) có địa vị quan trọng tại Trung Quốc. Đến năm 2012, Thiểm Tây có 78 công viên rừng với tổng diện tích 304.800 ha. Vùng thảo nguyên của Thiểm Tây chủ yếu là thảo nguyên ôn đới, phân bố tại Thiểm Bắc, tạo điều kiện phát triển chăn nuôi gia súc.
Theo số liệu cuối năm 2011, Thiểm Tây có 37,426 triệu nhân khẩu thường trú, tăng 74.000 so với năm trước, trong đó có 19,304 triệu nam giới (51,58%) và 18,122 triệu nữ giới (48,42%), tỷ lệ giới tính đạt 106,52, giảm so với 108,42 vào năm 2000. Số nhân khẩu thành thị của Thiểm Tây là 17,702 triệu người (47,3%), số nhân khẩu nông thôn là 19,724 triệu (52,7%). Số người trong độ tuổi 0-14 chiếm 15,28% tổng dân số, số người trong độ tuổi 15-64 chiếm 75,68% tổng dân số, số người trên 65% chiếm 9,04% tổng dân số của Thiểm Tây, tỉnh phải đối mặt với tình trạng lão hóa dân số nghiêm trọng.
Năm 2011, tổng GDP của Thiểm Tây đạt 1.239,13 tỉ NDT, tăng trưởng 13,9% so với năm trước; cũng trong năm này GDP bình quân đầu người của Thiểm Tây đạt 33.142 NDT, tăng 13,7% so với năm trước. Năm 2011, trong cơ cấu kinh tế của Thiểm Tây khu vực một đạt giá trị 122,09 tỷ NDT, chiếm 9,8%; khu vực hai đạt giá trị 683,627 tỷ NDT, chiếm 55,2%; khu vực ba đạt giá trị 433,413 tỷ NDT, chiếm 35%. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2011 của Thiểm Tây là 14,623 tỷ USD, tăng 20,8% so với năm trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu lên tới 7,011 tỷ USD, tăng 12,9%; kim ngạch nhập khẩu đạt 7,613 tỷ USD, tăng 29,2%, thâm hụt thương mại là 602 triệu USD. Tám ngành công nghiệp trụ cột của Thiểm Tây là năng lượng và hóa chất, sản xuất thiết bị, luyện kim màu, công nghiệp thực phẩm, chế phẩm khoáng sản phi kim, sản phẩm y dược, thiết bị điện tử, dệt may. Năm 2009, Thiểm Tây xếp thứ ba Trung Quốc về sản xuất than đá, khí thiên nhiên và dầu thô. Tận dụng lợi thế có một vài đại học và viện nghiên cứu hàng đầu ở miền Tây Trung Quốc, Thiểm Tây cũng nắm giữ một vai trò lớn trong các ngành hàng không và vũ trụ, phần mềm, vật liệu mới đang nổi lên của Trung Quốc, tạo ra trên 50% R&D và thiết bị cho ngành công nghiệp hàng không thương mại nội địa.
Tần khang, còn gọi là loạn đàn, là một loại hình hí khúc của Trung Quốc bắt nguồn từ khu vực tây bắc của tỉnh Thiểm Tây. Giai điệu của nó có nguồn gốc từ các vùng nông thôn của Thiểm Tây và Cam Túc. Tần khang là thể loại cổ nhất trong số Tứ đại thanh khang của hí kịch Trung Quốc. Tần khang từng bị Khang Hy Đế cấm biểu diễn tại Bắc Kinh do nó được xem là "gợi dục", tuy nhiên người ta cho rằng lý do chính xác của việc này là vì Tần khang có yếu tố phê phán xã hội. Tín thiên du là một loại hình dân ca lưu truyền ở vùng nói tiếng Tấn, bao gồm cả Thiểm Bắc của Thiểm Tây, theo lối đối ứng và lặp lại theo chu kì, câu hát có thể ngắn hay dài.
Ẩm thực Thiểm Tây tận dụng lợi thế về mặt lịch sử khi là đất kinh kỳ của nhiều triều đại, kế thừa kỹ nghệ nấu nước cung đình cổ xưa, thu nhận tinh hoa từ các trường phái ẩm thực trên toàn Trung Quốc. Ẩm thực Thiểm Tây chế biến món ăn một cách tinh tế từ các nguyên liệu thông thường, được biết đến nhiều với các món từ thịt lợn hay thịt cừu non hoặc cừu trưởng thành. Ẩm thực Tứ Xuyên có vị mạnh, nhấn mạnh về các loại gia vị có hương vị gắt như muối, tỏi, hành tây, và giấm; đường hiếm khi được sử dụng. Ẩm thực của vùng Hán Trung có sự tương đồng với ẩm thực Tứ Xuyên.
Thiểm Tây là một tỉnh có tài nguyên du lịch lớn tại Trung Quốc, có 35.800 di tích, 151 bảo tàng, 900.000 văn vật với mật độ dày đặc, đứng đầu cả nước. Thiểm Tây có các tàn tích kiến trúc thành cổ, cung điện cổ, miếu chùa cổ, lăng mộ cổ. Đội quân đất nung trong lăng mộ Tần Thủy Hoàng còn được gọi là "kỳ quan thứ tám". Càn lăng là nơi hợp táng của nữ hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc- Võ Tắc Thiên, và Đường Cao Tông Lý Trị. Chùa Pháp Môn ở Phù Phong là một ngôi chùa nổi tiếng của Phật giáo. Thành Tây An là thành cổ được bảo tồn hoàn chỉnh nhất tại Trung Quốc. Rừng bia Tây An là kho văn kiện bằng đá lớn nhất Trung Quốc. Ngoài ra, Thiểm Tây còn có các phong cảnh đẹp như Tây Nạc Hoá Sơn, thác Hồ Khẩu trên Hoàng Hà, Bát Bách Lý Tần Xuyên rộng vô tận, vùng núi Tần-Ba tươi đẹp ở Thiểm Nam, khu phong cảnh Li Sơn mang sắc thái truyền kì, đỉnh chính Thái Bạch Sơn của Tần Lĩnh có tuyết phủ trong sáu tháng. Đội quân đất nung và lăng Tần Thùy Hoàng là một di sản thế giới của UNESCO, cùng với đó Thiểm Tây còn có 5 khu danh thắng phong cảnh cấp quốc gia: Hoá Sơn, Ly Sơn ở Lâm Đồng, Thiên Thai Sơn ở Bảo Kê, Hoàng Đế lăng ở Diên An, khu danh thắng phong cảnh Hợp Dương Hợp Xuyên. Trong năm 2011, Thiểm Tây đã tiếp đón 184 triệu lượt du khách trong và ngoài nước.
Thiểm Tây có vị trí yết hầu về giao thông, nằm trên tuyến đường từ bình nguyên Hoa Bắc xuống các tỉnh ở Tây Nam như Tứ Xuyên, Trùng Khánh, Vân Nam, Quý Châu, cũng là đầu mối giao thông của khu vực tây bắc. Các tuyến đường sắt trọng yếu trên địa bàn Thiểm Tây: đường sắt chuyên vận chuyển hành khách Trịnh-Tây, đường sắt Lũng-Hải, đường sắt Bảo-Thành, đường sắt Bảo-Trung, đường sắt Ninh-Tây, đường sắt Tây-Khang. Hệ thống đường sắt kéo dài từ bắc xuống nam, từ đông sang tây, nối Thiểm Tây với các tỉnh thành lân cận và với toàn quốc. Năm 2010, tỉnh Thiểm Tây có 8789 km đường sắt, vận chuyển 55.790.000 lượt người và 204.800.000 tấn hàng hóa. Cũng trong năm 2010, tỉnh Thiểm Tây có 147.461 công lộ, thực hiện vận chuyển 874.570.000 lượt khách và 771.230.000 tấn hàng hóa. Thiểm Tây có sân bay quốc tế Hàm Dương Tây An (thay thế sân bay Tây Quan Tây An vào năm 1991), sân bay Ngũ Lý Phố An Khang, sau khi hoàn thành việc nâng cấp thì sân bay Thành Cố Hán Trung sẽ thay thế chức năng hàng không dân dụng của sân bay Tây Quan Hán Trung, sân bay Nhị Thập Lý Bảo Diên An, sân bay Du Dương Du Lâm đã thay thế sân bay Tây Sa Du Lâm từ năm 2008. Năm 2010, Thiểm Tây có 358 đường bay, trong đó có 17 đường bay quốc tế và 9 tuyến đến Hồng Kông và Ma Cao, vận chuyển được 7.830.000 lượt hành khách và 90.000 tấn hàng hóa.
Edward II (25 tháng 4, 1284 – 21 tháng 9, 1327), còn gọi là Edward xứ Caernarfon, là Vua của Anh từ 1307 cho đến khi bị lật đổ vào tháng 1 năm 1327. Là con trai thứ tư của Edward I, Edward trở thành người kế vị sau cái chết của hoàng huynh là Alphonso. Từ năm 1300, Edward cùng phụ thân tham gia vào chiến dịch bình định Scotland, và đến năm 1306 ông được phong tước hiệp sĩ tại Đại yến Thiên nga diễn ra ở Tu viện Westminster. Edward đăng cơ năm 1307, sau khi vua cha băng hà. Năm 1308, ông kết hôn với Isabella của Pháp, con gái của vua Pháp Philippe IV đầy quyền lực, một phần trong kế hoạch lâu dài nhằm giái quyết những căng thẳng vương quyền giữa Anh và Pháp.
Edward có một mối quan hệ gần thân thiết gây nhiều tranh cãi với Piers Gaveston, người vào hầu trong gia đình ông từ năm 1300. Bản chất mối quan hệ giữa Edward và Gaveston không rõ ràng, có thể là bạn bè, tình nhân hoặc huynh đệ kết nghĩa. Trở thành sủng thần của Edward, Gaveston kiêu ngạo và nắm nhiều quyền lực, ông khiêu khích và gây bất mãn với các nam tước và đến cả hoàng gia Pháp, khiến Edward buộc phải lưu đày ông ta. Khi Gaveston trở về, các nam tước tạo sức ép buộc Nhà vua phải đồng ý với những cải cách sâu rộng qua việc ban bố Sắc lệnh năm 1311. Các nam tước được trao quyền trục xuất Gaveston, và Edward đáp lại bằng cách thu hồi sắc lệnh cải cách và triệu hồi sủng thần của mình. Được dẫn dắt bởi người em con chú Bá tước Lancaster (thân phụ của Edward II là Edward I, trong khi cha của Bá tước xứ Lancaster là Edmund Crouchback, em trai của Edward I), một nhóm các nam tước bắt giữ và xử tử Gaveston năm 1312, mở đầu nhiều năm đối đầu vũ trang. Lực lượng Anh bị đẩy lui ở Scotland, nơi Edward chiến bại trước Robert the Bruce trong trận Bannockburn năm 1314. Liền tiếp là nạn đói lan rộng cùng với chỉ trích đối với vương quyền Nhà vua.
Gia đình Despenser, đặc biệt là Hugh Despenser trẻ, trở thành những người bạn thân và quân sư cho Edward, nhưng vào năm 1321, Lancaster và các nam tước chiếm trang viên của nhà Despenser và ép buộc nhà vua phải lưu đày họ. Để đáp lại, Edward đã lãnh đạo chiến dịch quân sự ngắn, bắt giữ và hành quyết Lancaster. Edward và nhà Despensers tăng cường quyền lực của họ, bãi bỏ cải cách 1311, hành quyết kẻ thù của họ và tịch thu nhiều tài sản. Nhận thấy không thể chiến thắng ở Scotland, Edward cuối cùng phải ký lệnh hưu chiến với Robert. Phản đối chế độ ngày càng hà khắc, nhân dịp Isabella được gửi đến Pháp để đàm phán hiệp ước hòa bình năm 1325, bà quay lưng lại với Edward và từ chối trở về. Isabella lập liên minh với Roger Mortimer đang bị lưu đày, và xâm lược Anh bằng một đội quân nhỏ năm 1326. Vương quyền của Edward sụp đổ và ông đào tẩu sang xứ Wales, để rồi bị bắt vào tháng 11 cùng năm. Edward buộc phải thoái vị vua vào tháng 1 năm 1327 và truyền ngôi cho người con trai 14 tuổi, Edward III, và ông mất ở Lâu đài Berkeley ngày 21 tháng 9, rất có thể là bị các hiệp sĩ của vương triều mới ám sát.
Mối quan hệ giữa Edward và Gaveston truyền cảm hứng cho vở kịch trình diễn năm 1592 của Christopher Marlowe mang tên Edward II, cùng với các vở kịch khác, phim ảnh, tiểu thuyết và các loại hình nghệ thuật khác. Nhiều trong số này là các tác phẩm khai thác mối quan hệ đồng tính luyến ái đồn đoán của hai người đàn ông. Nhiều chỉ trích Edward từ những người đương thời về vai trò quân vương của ông, nhấn mạnh những thất bại của ông ở Scotland và những năm cuối đầy áp bức của triều đại, dù cho các học giả cuối thể kỉ XIX lập luận rằng sự tiến triển triển của các tổ chức Quốc hội trong triều đại của ông là sự chỉ dấu tích cực cho đất nước Anh mà trong thời gian dài chưa đạt được. Tranh luận tiếp tục và dai dẳng đến tận thế kỉ XXI là liệu Edward là vị vua lười nhác và thiếu năng lực, hay đơn giản chỉ là một nhà cai trị bất đắc dĩ và hoàn toàn thất bại.
Edward II là con trai thứ tư của Edward I và người vợ thứ nhất, Eleanor xứ Castile. Thân phụ của ông là vua nước Anh, và cũng là người thừa kế vùng Gascony ở miền tây nam nước Pháp, điều này khiến ông phải giữ chức vụ chư hầu của vua nước Pháp và quyển tể trị Ireland. Thân mẫu ông có xuất thân hoàng tộc từ Vương quốc Castile và nắm giữ Lãnh địa Bá tước Ponthieu ở miền bắc nước Pháp. Edward I đã chứng tỏ ông là một nhà lãnh đạo quân sự tài năng, ông đã chỉ huy quân đội của mình để đàn áp thành công cuộc nổi dậy của các nam tước trong thập niên 1260 và tham gia vào cuộc Thập tự chinh lần thứ chín. Trong những năm 1280, ông chinh phục Bắc Wales, tước quyền cai trị của hoàng thân bản bản xứ Wales và trong những năm 1290, ông đã can thiệp vào cuộc nội chiến ở Scotland, tuyên bố bá quyền đối với nước này. Ông được những người đương thời coi là một nhà cai trị rất thành công, khi ông thể hiện khả năng kiểm soát quyền hành rộng lớn của các bá tước trong hàng ngũ giới quý tộc Anh. Nhà sử học Michael Prestwich miêu tả Edward I là "một vị vua đáng sợ và đáng kính", trong khi John Gillingham lại cho rằng ông là một tên côn đồ hữu dụng.
Tuy gặt hái nhiều thành tựu, Edward I cũng để lại nhiều vấn đề cho hoàng đế kế vị khi ông băng hà vào năm 1307. Một trong những việc quan trọng nhất cần giải quyết đó là sự thống trị của Anh ở Scotland, nơi các chiến dịch quân sự do Edward tiến hành diễn ra từ lâu nhưng vẫn chưa tới hồi kết. Việc Edward cai trị vùng Gascony làm mâu thuẫn nảy sinh giữa ông với các vua Pháp. Các vua Pháp nhấn mạnh rằng quốc vương Anh trên cương vị chư hầu cần tỏ lòng thần phục họ, tuy nhiên ông cho rằng yêu cầu đó là một sự lăng mạ đến lòng kiêu hãnh của nhà vua và vấn đề này vẫn chưa được giải quyết triệt để. Edward I cũng đối mặt với nhiều chống đối ngày càng tăng từ các nam tước do ông đánh thuế nặng và yêu cầu cung cấp nhiều nguồn lực phục vụ chiến tranh, khiến vị vua con phải xử lý khoản nợ xấp xỉ 200.000 bảng Anh khi ông qua đời.[nb 1]
Edward II chào đời ngày 25 tháng 4 năm 1284 tại Lâu đài Caernarfon ở miền Bắc xứ Wales, chưa đầy một năm sau khi Edward I chinh phục miền đất này, và hệ quả là đôi khi ông được gọi là Edward xứ Caernarfon. Nhà vua có lẽ đã có chủ ý khi chọn lâu đài này làm nơi hạ sinh Edward, bởi nó là một địa điểm có tính biểu tượng quan trọng đối với người Wales bản địa, gắn liền với lịch sử đế quốc La Mã, và lâu đài Caernarfon cũng là nơi đặt vương quyền mới ở miền Bắc xứ Wales. Sự chào đời của Edward mang theo những tiên đoán mang tính trọng đại của các nhà tiên tri khi ấy, rằng Ngày tận thế sắp đến, và ông là hậu thân của Vua Arthur, người sẽ đưa nước Anh đến bục vinh quang. David Powel, một mục sư thế kỉ XVI, cho rằng hoàng tử bé, người được dâng hiến cho dân xứ Wales, "đã được sinh ra ở Wales và không nói một từ tiếng Anh nào", nhưng không có bằng chứng chứng minh lối biện luận này.
Tên Edward có xuất xứ từ tiếng Anh, liên tưởng đến Thánh người Anglo-Saxon là Edward xưng tội, và được lựa chọn bởi cha ông thay cho truyền thống dùng tên tiếng Norman và Castilla đã được đặt cho các anh trai của Edward: Edward có ba vị hoàng huynh: John và Henry chết trước khi Edward chào đời, và Alphonso, qua đời vào tháng 8 năm 1284, để lại cho Edward quyền kế vị ngai vàng. Mặc dù lúc mới sinh, Edward là một đứa trẻ tương đối khỏe mạnh, vẫn có những mối lo ngại trong những năm đầu đời của ông rằng ông có thể chết yểu khiến vương triều cha ông không có hoàng nam kế vị. Sau khi sinh ra, Edward được một nhũ mẫu có tên Mariota hoặc Mary Maunsel chăm sóc trong vài tháng trước khi bà ta phát bệnh, và Alice de Leygrave trở thành dưỡng mẫu của ông. Ông có thể hoàn toàn không biết mặt người mẹ ruột Eleanor đã ở Gascony với cha ông trong những năm đầu đời của ông. Một cung điện mới được hoàn thành với đội ngũ gia nhân dưới sự chỉ huy của mục sư Giles xứ Oudenarde được dùng làm nơi cư ngụ cho hoàng tử bé.
Edward lớn lên, các chi tiêu trong tư thất của Edward cũng tăng theo, năm 1293 William xứ Blyborough trở thành quản gia của Edward. Edward có thể đã tiếp nhận nền giáo dục Công giáo từ các tu sĩ dòng Đa Minh, những người được thân mẫu ông mời đến vào năm 1290. Ông được giao một người hầu của bà nội, Guy Ferre, làm quân sư cho riêng ông, với trách nhiệm rèn luyện, huấn luyện cưỡi ngựa và kỹ năng quân sự cho Edward. Trình độ văn hóa của Edward vẫn còn là dấu chấm hỏi; không có nhiều tài liệu chứng minh cho khả năng đọc và viết của ông, tuy rằng mẫu thân ông đã từng chua chát khi nói những người con khác của bà đều được giáo dục tốt, và rằng Ferre là một nhà thông thái trong thời kỳ đó.[nb 2] Edward chủ yếu nói tiếng Pháp Anglo-Norman trong đời sống hàng ngày, và một ít tiếng Anh và có thể là tiếng La Tinh.[nb 3]
Edward hưởng sự giáo huấn bình thường đối với một thành viên hoàng tộc.[nb 4] Hoàng tử thích thú với ngựa và nhân giống ngựa, và thực sự là một tay cưỡi ngựa giỏi; ông cũng thích chó, đặc biệt là giống Greyhound. Trong những bức thư của mình, ông đùa về việc gửi những vật nuôi không làm ông hài lòng tới bạn bè ông, như những con ngựa không thích cho người ta cưỡi, những con chó săn lười biếng bắt thỏ chậm chạp. Ông không có mối quan tâm đặc biệt gì đến săn thú hay nuôi chim săn mồi, những thú vui phổ biến trong thế kỷ XIV. Ông thích âm nhạc, gồm nhạc Wales và đàn crwth mới vừa được phát minh, và phong cầm. Edward không tham gia đấu thương, có thể do ông không có năng khiếu hoặc là tại ông không được phép tham gia để đảm bảo an toàn, nhưng ông ủng hộ nhiệt thành cho môn thể thao này.
Năm 1290, phụ thân của Edward kí vào Hiệp ước Birgham, khẳng định hôn sự con trai sáu tuổi của ông và Margaret của Na Uy, người có khả năng bước lên ngai vàng Scotland. Kế hoạch tan vỡ khi Margaret tạ thế cùng năm. Mẫu thân của Edward, Eleanor, chết không lâu sau đó, rồi đến bà của ông, Eleanor xứ Provence. Edward I đau đớn vì sự ra đi của người vợ, tang sự của bà được vua Edward I tổ chức trọng thể, con trai ông được thừa hưởng Lãnh địa Ponthieu của Eleanor sau cái chết của bà. Tiếp đó, hôn ước với Pháp được chuẩn bị cho cậu trẻ Edward, để giúp duy trì nền hòa bình lâu dài giữa Anh với Pháp, nhưng chiến sự đã nổ ra năm 1294. Kế hoạch bị thay đổi, Edward trẻ được dàn xếp hôn nhân với ái nữ của Bá tước Flanders, nhưng bị Vua Philippe IV của Pháp ngăn chặn.
Từ 1297 đến 1298, Edward làm nhiếp chính ở Anh trong khi Nhà vua tham gia chiến dịch Flanders chống lại Philippe IV, người đã chiếm đóng một phần các lãnh địa của vua Anh ở Gascony. Sau chuyến trở về, Edward I ký hiệp định hòa bình, theo đó ông cưới em gái của Philippe, Margaret, làm vợ và tán thành rằng hoàng tử Edward sẽ hứa hôn với con gái của Philippe, Isabella, lúc đó mới có 2 tuổi. Theo lý thuyết, cuộc hôn nhân này có nghĩa là công quốc đang bị tranh chấp Gascony sẽ được thừa hưởng bởi một hậu duệ của cả Edward và Philippe, mở ra một con đường kết thúc cho những căn thẳng lâu năm. Cậu bé Edward dường như có quan hệ tốt đẹp với mẹ kế, người sinh ra hai em trai của ông, Thomas xứ Brotherton và Edmund xứ Woodstock, năm 1300 và 1301. Là quốc vương, Edward về sau đã trao tặng cho các em trai sự hỗ trợ về tài chính và các chức danh.[nb 6]
Edward I trở lại Scotland một lần nữa vào năm 1300, và lần này ông đem con trai đi theo, khiến cho Edward trở thành chỉ huy hậu quân trong cuộc bao vây Caerlaverock. Mùa xuân năm 1301, Nhà vua tuyên bố Edward là Hoàng tử xứ Wales, cấp cho ông Lãnh địa Bá tước Chester và những vùng đất trên khắp Bắc Wales; dường như Nhà vua hi vọng rằng điều này sẽ giúp bình định vùng đất kia, và sẽ cung cấp cho con trai ông sự độc lập về tài chính. Edward nhận sự thần phục từ các thần dân Wales và sau đó cùng phụ thân tham gia chiến dịch năm 1301, ông dẫn một đội quân 300 binh sĩ miền bắc và chiếm giữ Lâu đài Turnberry. Hoàng tử Edward cũng tham gia chiến dịch năm 1303 tại đó ông bao vây Lâu đài Brechin, triển khai cuộc bao vây thành công. Mùa xuân năm 1304, Edward tiến hành đàm phán với những nhà lãnh đạo cuộc nổi dậy tại Scotland trên danh nghĩa của Nhà vua, và thất bại, ông lại cùng phụ thân tham gia chiến dịch bao vây Lâu đài Stirling.
Cuộc xung đột ở Scotland bùng lên một năm nữa năm 1306, khi Robert the Bruce giết chết đối thủ của ông ta John Comyn và tự xưng là Vua của người Scot. Edward I đã huy động một lực lượng quân viễn chinh mới, nhưng quyết định rằng thời gian này con trai ông sẽ đảm nhận cuộc chinh phạt. Hoàng tử Edward được tiến phong Quận công Aquitaine và sau đó, cùng với nhiều thanh niên khác, ông được phong hàm hiệp sĩ trong một buổi lễ xa hoa tại Tu viện Westminster gọi là Lễ Thiên Nga. Giữa một bữa tiệc lớn trong hội trường, gợi nhớ đến truyền thuyết vua Authur và các sự kiện thập tự chinh, và tuyên thệ sẽ đánh bại Bruce. Không rõ về vai trò của lực lượng Hoàng tử Edward trong chuyến dịch vào mùa hạ, trong đó, theo lệnh của Edward I, đã có một sự trừng phạt, sự trả thù khủng khiếp đối với phe của Bruce ở Scotland.[nb 7] Edward trở lại Anh vào tháng 9, nơi các cuộc đàm phán về ngày cưới của ông với Isabella tiếp tục.
Trong thời gian đó, Edward trở nên thân thiết với Piers Gaveston. Gaveston là con trai của một hiệp sĩ trong gia trang của Nhà vua có đất phong giáp với Gascony, và tự ông bước vào gia trang của Hoàng tử Edward vào năm 1300, có thể do hướng dẫn của Edward I. Hai người trở nên gần gũi hơn; Gaveston trở thành một địa chủ và sớm trở thành một người bạn thân thiết với Edward, trước khi được nhà vua tấn phong tước Hiệp sĩ trong Lễ Thiên nga năm 1306. Sau đó, nhà vua đuổi Gaveston ddeens Gascony năm 1307 mà không rõ lý do. Theo như một quyển lịch sử biên niên, Edward đề nghị phụ thân cho phép ông trao lãnh địa bá tước Ponthieu cho Gaveston, và Nhà vua đáp lại một cách giận dữ, đánh đập và giật tóc con trai mình, trước khi đưa Gaveston đi lưu đày. Biên bản của vụ việc được triều đình ghi chép rõ ràng, tuy nhiên, lúc đó Gaveston chỉ tạm thời bị lưu vong, được cung cấp một khoản thu nhập nhàn nhã; không có lý do gì được đưa ra cho mệnh lệnh này, được cho rằng đây có thể là một hành động trừng phạt hoàng tử theo một cách nào đó.
Khả năng Edward có quan hệ kê gian với Gaveston hoặc những kẻ sủng thần sau này đã được các nhà sử học tranh luận rộng rãi, và rất phức tạp bởi những bằng chứng xác định về mối quan hệ chi tiết thực sự còn khá ít ỏi.[nb 8] Giáo hội Anh vào thế kỷ XIV lên án quyết liệt về việc đồng tính luyến ái, coi nó như dị giáo, nhưng quan hệ tình dục với một người đàn ông khác không nhất thiết được xác định như cách xác định tương đương trong thế kỷ thứ XXI. Cả Edward và Gaveston đều có quan hệ với vợ họ, và đều có con; Edward cũng có một đứa con ngoại hôn, và có thể đã có cuộc tình với cô cháu gái, Eleanor de Clare.
Những bằng chứng hiện nay ủng hộ quan hệ đồng tính giữa họ xuất phát từ một biên niên sử những năm 1320 mô tả cách mà Edward "cảm thấy như tình yêu" dành cho Gaveston, rằng "ông dính dáng vào một giao ước không thay đổi, và ràng buộc chính ông với ông ta trước tất cả những người khác với một tình yêu bất khả phân li, vững bền quyến rũ và buộc chặt bằng một mối ràng". Những gợi ý cụ thể đầu tiên rằng Edward có quan hệ với đàn ông được ghi nhận vào năm 1334 khi Adam Orleton, Giám mục Winchester, bị buộc tội vào năm 1326 đã ghi là Edward là một "người kê gian", mặc dù Orleton tự bào chữa bằng cách nói rằng ý của ông là cố vấn của Edward, Hugh Despenser trẻ, là người kê gian, chứ không phải là vị vua quá cố. Meaux Chronicle từ những năm 1390 chỉ ghi đơn giản rằng Edward tự ông có "quá nhiều hành vi kê gian."
Ngoài ra, Edward và Gaveston có thể chỉ là hai người bạn thân thiết. Biên niên sử đương thời chép những bình luận khá mơ hồ; cáo buộc của Orleton xuất phát một phần từ lý cho chánh trị, và rất giống với những cáo buộc kê gian nhắm vào Giáo hoàng Boniface VIII và Hiệp sĩ Templar tương ứng vào các năm 1303 và 1308. Những giải thích sau này bởi nhà biên niên sử trong những hành động của Edward có thể là sao lại những cáo buộc ban đầu của Orleton, và chắc chắn bị ảnh hưởng bởi những sự kiện chính trị vào cuối thời Edward. Các sử gia như Michael Prestwich và Seymour Phillips đã lập luận rằng bản chất công khai trong triều đình hoàng gia Anh sẽ khó có thể làm cho những hành vi đồng tính được giữ kín đáo, không chỉ giáo hội đường thời, cha và cha vợ của Edward dường như cũng có những ý kiến chống đối những hành vi tình dục của Edward.
Một giả thuyết gấn đây hơn, bởi nhà sử gia Pierre Chaplais đề xuất, cho rằng Edward và Gaveston có mối quan hệ anh em kết nghĩa. Thực hiện hiệp ước kết nghĩa anh em, theo đó những người tham gia nó cam kết sẽ gắn bó với nhau như "tình anh em thực sự" có thể không được ai biết trong số những người bạn nam với nhau thời Trung Cổ. Nhiều biên niên sử miêu tả quan hệ của Edward và Gaveston như anh em, và những chú thích dứt khoát rằng Edward coi Gaveston là người anh nuôi của ông. Chaplais lập luận răng hai người này có thể đã có một thỏa thuận chính thức trong năm 1300 hoặc 1301, và họ lập ra những lời luyên thệ và về sau, họ bị chia cắt hoặc rời nhau vì bị ép buộc, và vì thế không có hiệu lực. Đó là một tuyên thệ, tuy nhiên, không loại trừ quan hệ của họ có thiên hướng tình dục.
Edward I đã huy động một đội quân khác tham gia chiến dịch ở Scotland năm 1307, trong lần đó hoàng tử Edward tham gia chiến dịch mùa hạ, nhưng Edward I đã già và ngày càng yếu đi và đã qua đời ngày 7 tháng 7 tại Burgh by Sands. Edward khởi hành từ London ngay sau khi tin tức đến tai ông, và ngày 20 tháng 7 ông đã tuyên bố là một quốc vương. Ông tiếp tục chinh phạt Scotland và ngày 4 tháng 8 ông được những người Scotland ủng hộ hoàng gia tuyên thệ xưng thần tại Dumfries, trước khi ông chấm dứt chiến dịch và trở về phía nam. Edward ngay lập tức triệu hồi Piers Gaveston, người đang bị lưu đày, và tấn phong anh ta làm Bá tước Cornwall, trước khi sắp xếp hôn sự của anh ta với một phụ nữ giàu cóm Margaret de Clare.[nb 9] Edward cũng bắt giữ kẻ cựu thù là Giám mục Langton, và cách chức thủ quỹ của ông ta. Di thể của Edward I được quàn tại Waltham Abbey trong nhiều tháng trước khi được đưa đi an táng ở Westminster, tại đây Edward cho xây dựng một ngôi mộ đơn giản bằng đá cẩm thạch cho thân phụ.[nb 10]
Năm 1308, hôn sự của Edward và Isabella của Pháp được tiến hành. Edward qua eo biển Anh đến Pháp và tháng 1, để lại Gaveston làm custos regni nắm quyền nhiếp chính trong vương quốc khi ông vắng mặt. Sự sắp xếp này là bất bình thường, và dính dáng đến những quyền hạn chưa từng thấy dành cho Gaveston, ông ta được trao một vật đặc biệt Đại Ấn tín. Edward hi vọng rằng cuộc hôn nhân sẽ gia tăng thế lực của ông tại Gascony và mang lại cho ông những khoản tiền ông cần. Tuy nhiên, những thỏa thuận sau cùng, chứng kiến quá nhiều thử thách: Edward và Philippe IV không ưa nhau, và Nhà vua của người Pháp mặc cả về lượng của hồi môn của Isabella và những chi tiết về việc quản lý đất đai của Edward ở nước Pháp. Như một phần của thỏa thuận, Edward làm lễ phiên thần với Philippe đổi lại Công quốc Aquitaine và đồng ý hoàn thành việc thực thi Hiệp ước Paris, 1303.
Hai người kết hôn ở Boulogne ngày 25 tháng 1. Edward tặng cho Isabella một sách thánh thi làm quà cưới, và cha bà cho bà những món quà trị giá tổng cộng hơn 21,000 livre và một mảnh bội tinh thực. Họ trở về Anh quốc vào tháng 2, nơi Edward hạ lệnh trùng tu một cách hoang phí cho Cung điện Westminster để tổ chức lễ đăng qua và đám cưới của họ, đủ bàn đá cẩm thạnh, 40 cái lò và một cái vòi phun rượu vang và ớt Gia-mai-ca, một thức uống gia vị thời Trung Cổ. Sau một số chậm trễ, buổi lễ diễn ra ngày 25 tháng 2, dưới sự chủ trì của Robert Winchelsey, Tổng Giám mục Canterbury. Như một phần của lễ đăng quang, Edward đã thề sẽ suy trì "những điều luật hợp pháp và phong tục mà người dân của vương quốc đã lựa chọn". Không chắc chắn về nghĩa của những lời này: nó có thể là những dự định nhằm buộc Edward chấp nhận những điều luật trong tương lai, cũng có thể nó được đưa ra để việc ngăn chặn việc nếu trong tương lại ông đảo lộn bất cứ thề nguyện nào mà ông từng thề, hoặc cũng có thể là một nỗ lực của Nhà vua nhằm lấy lòng các nam tước.[nb 11] Sự kiện bị phá hỏng bởi đám đông lớn quần chúng đang háo hức đổ xô vào cung điện, làm đổ một bức tường và buộc Edward phải chạy trốn bằng cửa sau.
Isabella chỉ mới 12 tuổi vào lúc bà thành hôn, khá trẻ so với tiêu chuẩn của thời này, và Edward có thể đã có quan hệ tình cảm với các tình nhân trong những năm đầu hôn nhân của họ. Trong thời gian đó Edward cũng có một đứa con ngoại hôn, Adam, ông ta chào đời sớm nhất là vào năm 1307. Hoàng trưởng tử của Edward và Isabella, tương lai là vua Edward III, chào đời năm 1312 trong một buổi lễ kỉ niệm lớn, và ba người con tiếp theo thứ tự là: John năm 1316, Eleanor năm 1318 và Joan năm 1321.
Gaveston trở về từ nơi bị tù đày vào năm 1307 khi được các nam tước đồng ý, nhưng nhiều sự chống đối đã nhanh chóng xuất hiện. Ông ta xuất hiện và đã tạo ra nhiều ảnh hưởng lên chính sách của hoàng gia, dẫn tới những lời than phiền trong một biên niên sử "hai vị vua cai trị một vương quốc, một người trên danh nghĩa và người kia trong những hành vi". Những lời buộc tội, có thể chưa đúng sự thực, đã được gán cho Gaveston rằng ông đã đánh cắp tiền của hoàng gia và những món quà cưới của Isabella. Gaveston có một vai trò quan trọng trong lễ đăng quang của Edward, làm bùng lên sự giận dữ của cả người Anh và người Pháp về việc ưu tiên những lễ nghi và trang phục lộng lẫy cho một bá tước, và về sự ưu ái lộ liễu của Edward dành cho Gaveston còn hơn cả dành cho Isabella tại bữa tiệc.
Nghị viện họp vào tháng 2 năm 1308 trong bầu không khí căng thẳng. Edward háo hức thảo luận về khả năng cải cách chính quyền, nhưng các nam tước không sẵn lòng bắt đầu những cuộc tranh luận như vậy cho đến sau khi vấn đề liên quan tới Gaveston được giải quyết. Nguy cơ bạo lực xuất hiện, nhưng tình hình được giải quyết thông qua trung gian Henry de Lacy, Bá tước Lincoln, người thuyết phục được các nam tước lùi một bước. Nghị viện mới được lập vào tháng 4, nơi các nam tước một lần nữa chỉ Gaveston, đòi lưu đày anh ta, lần này họ nhận được ủng hộ từ Isabella và quốc vương nước Pháp. Edward đã phản đối, nhưng cuối cùng bằng lòng, đồng ý gửi Gaveston đến Aquitaine, dưới sự đe dọa rút phép thông công của Tổng Giám mục Canterbury. Vào giờ chót, Edward thay đổi ý định và gửi Gaveston đến Dublin, bổ nhiệm ông ta làm Trung úy Ireland.
Edward triệu tập một chiến dịch quân sự mới chinh phạt Scotland, nhưng ý kiến này bị bác bỏ trong lặng lẽ, và thay vào đó Nhà vua cùng các nam tước họp vào tháng 8, 1308 để thảo luận cải cách. Phía sau hậu trường, Edward bắt đầu đàm phán nhằm thuyết phục Giáo hoàng Clement V và Philippe IV cho phép Gaveston trở về Anh, để đổi lại việc ông sẽ ngăn chặn các hiệp sĩ dòng Đền ở Anh, và phóng thích Giám mục Langton khỏi nhà lao. Edward kêu gọi một cuộc họp mới của các thành viên Giáo hội và các quý tộc lớn vào tháng 1 năm 1309, và các bá tước hàng đầu tụ họp vào tháng 3 và tháng 4, có thể là dưới sự lãnh đạo của Thomas, Bá tước Lancaster. Một nghị viện khác theo sau đó, từ chối không cho Gaveston trở về Anh, nhưng đồng ý cấp cho Edward những thứ thuế bổ sung nếu ông đồng tình với chương trình cải cách.
Edward gửi những đảm bảo đến đức Giáo hoàng rằng những cuộc xung đột về vai trò của Gaveston đã kết thúc rồi. Dựa trên những lời hứa, và mối quan tâm về việc những thủ tục được thực hiện như thế nào, đức Giáo hoàng đồng ý bỏ lời đe dọa của Tổng giám mục là rút phép thông công của Gaveston, mở ra khả năng trở về của ông này. Gaveston trở lại Anh vào tháng 6, và ông gặp Edward. Trong phiên họp Quốc hội tháng sau, Edward tuyên bố một loạt các nhượng bộ để xoa dịu những người chống đối Gaveston, bao gồm cả đồng ý giới hạn quyền hành của tổng quản và thống chế của gia đình hoàng gia, để điều hòa sự mất tín nhiệm của ngôi vua đối với người dân và tiếp đó là hủy bỏ những diều luật hải quan mới được ban hành; đổi lại, Nghị viện đồng ý thu các loại thuế mới cho cuộc chiến tranh ở Scotland. Ít nhất, trong tạm thời, Edward và các nam tước có vẻ như đã đi đến một thỏa thuận thành công.
Sau khi quay trở lại, quan hệ giữa Gaveston với các nam tước đứng đuầ trở nên căng thẳng hơn. Ông ta bị coi là kiêu ngạo và ông đã nhắc đến các bá tước một cách xúc phạm, bao gồm cả cách gọi một trong số những thành viên có quyền lực là "con chó xứ Warwick". Bá tước Lancaster và những kẻ thù của Gaveston từ chối tham dự hội Nghị viện năm 1310 vì Gaveston có mặt ở đó. Edward phải đối mặt với những vấn đề tài chính, còn nợ địa chủ Frescobaldi ở Italia 22 000 bảng, và đối mặt với các cuộc biểu tình về việc ông sử dụng quyền lực của ông như đòn bẩy để có được nguồn cung cấp cho cuộc chiến ở Scotland. Những nỗ lực của ông nhằm xây dựng một đội quân thường trực ở Scotland sụp đổ và các bá tước đình chỉ thu các loại thuế mới.
Nhà vua và Nghị viện họp một lần nữa vào tháng 2 năm 1310, và những cuộc thảo luận về chính sách ở Scotland được thay thế bằng các cuộc tranh luận về những vấn đề trong nước. Edward được kiến nghị phải bãi chức cố vấn của Gaveston và thay vào đó làm theo lời khuyên của 21 nam tước sẽ được bầu cử ra, gọi là Ordainers, thực hiện những cải cách sâu rộng đối với cả chính phủ và gia đình hoàng gia. Dưới áp lực rất lớn, Edward đồng ý với đề xuất này và Ordainers được bầu ra, có sự phân chia đồng đều giữa những người cải cách và những người bảo thủ. Trong khi những người Ordainers bắt đầu kế hoạch cải cách của họ, Edward và Gaveston dẫn một đội quân mới của họ gồm 4,700 người đến Scotland, nơi mà tình hình quân sự tiếp tục xấu đi. Robert the Bruce từ chối tham chiến và chiến dịch tiến triển không có hiệu quả qua mùa đông cho đến khi quân nhu và tài chính cạn kiệt năm 1311, buộc Edward trở về miền nam.
Đến lúc này Ordainers đã phác họa kế hoạch pháp lệnh của họ và Edward có không có nhiều sự lựa chọn và chấp nhận nó vào tháng 10. Pháp lệnh 1311 có những điều khoản giới hạn quyền lực của Nhà vua khi gây chiến tranh và phong đất nếu không có sự đồng ý của Nghị viện, đem đến cho Nghị viện quyền kiểm soát chính quyền của hoàng gia, bãi bỏ hệ thống đòn bẩy không bao gồm nhà cái Frescobaldi, và ban hành một hệ thống giám sát việc tuân thủ pháp lệnh. Thêm vào đó, Pháp lệnh một lần nữa lưu đày Gaveston once again, lần này có thêm những chỉ dẫn rằng ông ta không được phép sống ở bất cứ nơi nào bên trong các lãnh địa của Edward, gồm cả Gascony và Ireland, và tước hết các danh hiệu của ông. Edward rút về những bất động sản của ông, Windsor và Kings Langley; Gaveston rời Anh quốc, có thể là đến phía bắc nước Pháp hay Flanders.
Quan hệ giữa Edward và các nam tước vẫn rất căng thẳng. Các bá tước chống đối việc ông giữ lại quân đội của họ vốn được huy động chiến tranh vào cuối năm 1311. Lúc này Edward trở nên lạnh nhạt với em họ của ông, Bá tước Lancaster, người cai trị Lãnh thổ bá tước Lancaster, Leicester, Lincoln, Salisbury và Derby, với thu nhập khoảng 11 000 bảng mỗi năm từ những vùng đất của mình, gần gấp đôi so với nam tước giàu thứ hai. Được các bá tước Arundel, Gloucester, Hereford, Pembroke và Warwick ủng hộ, Lancaster dẫn đầu một phe phái sừng sỏ ở Anh, nhưng ông không quan tâm đến chính quyền thực tế, ông cũng không phải là một chính trị gia sáng tạo và có năng lực.
Edward đáp lại mối đe dọa của các nam tước bằng cách hủy bỏ Pháp lệnh và triệu tập Gaveston trở về Anh, yết kiến Nhà vua tại York vào tháng 1 năm 1312. Các nam tước giận dữ và họp với nhau ở London, nơi Gaveston bị Tổng Giám mục Canterbury rút phép thông công và một kế hoạch bắt giữ Gaveston cũng như ngăn chặn ông ta chạy tới Scotland được đặt ra. Edward, Isabella và Gaveston rời khỏi Newcastle, bị Lancaster và phe cánh của ông ta truy đuổi. Vứt bỏ nhiều đồ đạc của mình, phe hoàng gia bỏ chạy bằng đường tàu và cập bến tại Scarborough, nơi Gaveston ở lại đó trong khi Edward và Isabella trở về York. Sau một cuộc bao vây ngắn hạn, Gaveston đầu hàng các bá tước Pembroke và Surrey, với lời hứa là ông ta sẽ không bị tổn hại. Ông ta có một rương chứa đầy vàng, bạc và đá quý, có thể một phần trong số đó lấy từ kho bạc của hoàng gia, vì thế về sau ông bị Edward buộc tội ăn cắp.
Trên đường trở về ở miền bắc, Pembroke dừng chân tại ngôi làng Deddington ở Midlands, để lại Gaveston đang được bảo vệ ở đó trong khi ông ta ghé thăm vợ của mình. Bá tước Warwick chớp lấy cơ hội có thể khống chế được Gaveston, dẫn ông ta tới Lâu đài Warwick, nơi Lancaster và những người còn lại tập hợp vào ngày 18 tháng 6. Trong một phiên tòa diễn ra gấp rút, Gaveston bị tuyên bố là phạm tội phản loạn theo như các điều khoản của Pháp lệnh; và bị xử tử tại Blacklow Hill ngay ngày hôm sau, dưới sự giám sát của Bá tước Lancaster. Thi thể của Gaveston đến năm 1315 mới được an táng. Tang lễ được tổ chức ở Tu viện của vua Langley.
Những phản ứng sau cái chết của Gaveston đã thay đổi đáng kể. Edward rất tức giận và đau buồn sâu sắc vì thứ mà ông cảm thấy như là vụ mưu hại Gaveston; ông thiện đãi gia đình của Gaveston, và dự định trả thù các nam tước tham gia vào vụ này. Bá tước Pembroke và Surrey đều hổ thẹn và giận dữ với hành động của Warwick, và kết quả là họ chuyển sang ủng hộ Edward. Đối với Lancaster và những người cốt lõi ủng hộ ông ta, vụ hành quyết là hợp pháp và cần thiết cho sự ổn định của vương quốc. Khả năng nội chiến một lần nữa xuất hiện, nhưng vào tháng 12, Bá tước Pembroke tiến hành đàm phán về một hiệp định hòa bình giữa hai bên, theo đó sẽ tha thứ cho các nam tước đối lập về vụ giết Gaveston, đổi lại đó là sự ủng hộ của họ cho một chiến dịch mới ở Scotland. Lancaster và Warwick, tuy nhiên, đã không thống nhất về các điều khoản của hiệp ước, và cuộc đàm phán vẫn tiếp tục trong hầu hết năm 1313.
Trong khi đó, Bá tước Pembroke cũng đã đàm phán với Pháp để giải quyết những tranh cãi lâu dài về sự quản trị Gascony, và một phần trong sự kiện đó, Edward và Isabella đồng ý đến Paris vào tháng 6 năm 1313 để gặp vua Philippe IV. Edward đã hi vọng vừa giải quyết được những vấn đề ở miền nam Pháp và tranh thủ sự ủng hộ của Philippe trong vụ tranh chấp với các nam tước; về Philip đó là một cơ hội để chứng tỏ quyền lực và sự giàu có của ông trước mặt con rể. Đó là một chuyến thăm thu hút nhiều sự chú ý, bao gồm cả một đại lễ mà hai vị vua đã phong hiệp sĩ cho các con trai của Philippe và hơn 200 người khác tại Notre Dame, dự một buổi tiệc lớn dọc bờ sông Seine, và một tuyên bố công khai rằng hai vua và hoàng hậu của họ sẽ tham gia vào một cuộc viễn chinh đến Levant. Philippe đã tỏ ra nhân nhượng trong vấn đề Gascony, và sự kiện này chỉ bị trắc trở do một trận hỏa hoạn nghiêm trọng tại nơi đóng quân của Edward.
Trong chuyến trở về từ nước Pháp, Edward nhận thấy địa vị chính trị của ông đã được tăng cường đáng kể. Sau các cuộc đàm phán căng thẳng, các bá tước, bao gồm Lancaster và Warwick, đi đến một thỏa hiệp vào tháng 10 năm 1313, cơ bản là rất giống với bản dự luật thỏa thuận vào tháng 12 năm trước. Tài chính của Edward được cải thiện, nhờ vào việc Nghị viện đồng ý tăng thuế, một khoản vay 160,000 florin (25,000 bảng) từ đức Giáo hoàng, 33,000 bảng ông mượn của Philippe, và các khoản vay mượn thêm bởi giám đốc ngân hàng mới của Edward ở Italia, Antonio Pessagno. Lần đầu tiên trong triều đại của mình, ngân quỹ của Edward ở trong tình trạng ổn định.
Năm 1314, Robert the Bruce chiếm lại gần hết các lâu đài ở Scotland đã từng bị Edward chiếm cứ, và cố gắng cử những nhóm quân tiến vào những vùng đất nằm sâu vào miền bắc nước Anh như Carlisle. Đáp lại, Edward lên kế hoạch cho một chiến dịch quân sự với sự ủng hộ của Lancaster và các nam tước, tập trung một đội quân lớn khoảng từ 15,000 đến 20,000 quân khỏe mạnh. Trong khi đó, Robert vây hãm lâu đài Stirling, một thành trì then chốt của Scotland; viên chỉ huy người Anh tuyên bố rằng nếu Edward không đến trước ngày 24 tháng 6, ông ta sẽ đầu hàng. Những tin tức này đến tai Nhà vua vào cuối tháng 5, và ông quyết định tăng tốc độ bắc phạ từ Berwick để giải vây tòa lâu đìa. Robert, với khoảng 5,500 đến 6,500 quân, chủ yếu là quân cầm thương, đã chuẩn bị để ngăn chặn lực lượng của Edward ở Stirling.
Trận chiến bắt đầu ngày 23 tháng 6 khi quân đội Anh cố gắng kiểm soát vùng núi cao Bannock Burn, được vây quanh bởi các đầm lầy. Giao tranh giữa hai bên nổ ra, dẫn đến cái chết của Sir Henry de Bohun, người bị Robert sát hại trong trận giao đấu của hai người. Edward tiếp tục tiến quân vào ngày hôm sau, và gặp phải một lực lượng lớn quân Scotland khi họ xông ra những khu rừng ở New Park. Edward dường như không lường trước rằng người Scot lại dàn trận ở đó, và do đó ông đưa lực lượng của ông đi với mục đích hành quân chứ không phải là chiến đấu, và các cung thủ - những người thường có nhiệm vụ phá vỡ hệ thống giàn giáo của kẻ thù - lại đứng ở phía sau thay vì phía trước. Các kị binh của ông rất khó khăn khi phải hoạt động trong một địa hình chật hẹp và cuối cùng bị lính cầm thương của Robert nghiền nát. Quân Anh bị choáng váng và những người lãnh đạo không thể nào lấy lại sự kiểm soát.
Edward vẫn ở lại để chiến đấu, nhưng Bá tước Pembroke biết rõ ràng rằng thế cục đã mất và ông ta kéo Nhà vua ra khỏi chiến trường, giữa một lượng lớn quân đội Scotland đuổi bắt gắt gao. Edward chỉ vừa chật vật thoát khỏi trận chiến lớn, thề nguyện rằng ông sẽ xây dựng một nhà thờ dòng Carmelite tại Oxford nếu ông sống sót. Sử gia Roy Haines miêu tả thất bại này là "tai họa choáng váng" đối với người Anh, thiệt hại của họ trong trận chiến là rất lớn. Hậu quả sau thất bại, Edward lui về Dunbar, sau đó lên tàu đi đến Berwick, rồi trở lại York; khi ông vắng mặt, Lâu đài Stirling nhanh chóng thất thủ.
Sau thất bại ở Bannockburn, Bá tước Lancaster và Warwick nhận thấy ảnh hưởng chính trị của họ đã tăng lên, và họ ép Edward thực hiện lại Pháp lệnh năm 1311. Lancaster trở thành người đứng đầu hội đồng hoàng gia năm 1316, hứa hẹn sẽ thực hiện Pháp lệnh thông qua một ủy ban cải cách mới, nhưng ông dường như bị loại khỏi vai trò này ngay sau đó, một phần vì những bất đồng với các nam tước khác, và một phần vì tình trạng sức khỏe. Lancaster từ chối họp với Edward tại Nghị viện trong 2 năm tiếp theo, khiến cho chính quyền bị bế tắc. Chuyện này cản trở mọi hi vọng cho chiến dịch mới ở Scotland và gây ra lo ngại về cuộc nội chiến. Sau nhiều một cuộc đàm phán, một lần nữa dưới sự dàn xếp của Bá tước Pembroke, Edward và Lancaster cuối cùng chấp thuận Hiệp ước Leake vào tháng 8 năm 1318, ân xá Lancaster và phe cánh của ông ta đồng thời thành lập một hội đồng hoàng gia mới, nhằm tránh cuộc xung đột sắp xảy đến.
Những khó khăn của Edward càng trầm trọng thêm bởi vấn đề nông nghiệp của Anh, một phần của một tai họa lan tràn khắp miền bắc châu Âu được gọi là Nạn đói lớn. Nó bắt đầu bằng những trận mưa không ngớt vào cuối năm 1314, tiếp sau là mùa đông vô cùng khắc nghiệp rồi những cơ mưa lớn vào mùa xuân năm sau đã giết chết rất nhiều cừu và ngựa. Thời tiết tiếp tục diễn biến xấu, không hề giảm sút chút nào, đến năm 1321, kết quả là một chuỗi liên tục những năm mất mùa. Những nguồn thu từ xuất khẩu len giảm mạnh và giá lương thực tăng, bất chấp những nỗ lực điều chỉnh mức giá của chính phủ Edward. Edward kêu gọi những kẻ tích trữ xuất lương thực ra, và cố gắng khuyến khích của nội thương và nhập khẩu ngũ cốc, nhưng không có nhiều thành công. Lệnh trung dụng thực phẩm dự trữ cho hoàng tộc suốt những năm đói kém chỉ làm trầm trọng thêm tình hình.
Trong lúc đó, Robert the Bruce thừa dịp mới chiến thắng ở Bannockburn để tấn công miền bắc nước Anh, ban đầu là đánh Carlisle và Berwick, và sau đó tiến đến sâu hơn về phía nam, vào Lancashire và Yorkshire, thậm chí đe dọa cả thành York. Edward chiến hành một chiến dịch tốn kém nhưng không thành công nhằm ngăn chặn quân xâm lược năm 1319, nhưng nạn đói gây ra nhiều khó khăn trong việc cung cấp lương thực cho các đơn vị đồn trú của ông. Giữa lúc này, một đoàn thám hiểm người Scot dẫn đầu bởi em trai của Robert đã xâm chiếm được Ireland năm 1315, và Edward Bruce tự xưng là Vua của Ireland. Cuối cùng ông ta bị đánh bại năm 1318 bởi Quan chánh án tối cao Ireland dưới quyền Edward II, Edmund Butler, tại Trận Faughart, đầu Edward Bruce bị chặt xuống và gửi đến cho Nhà vua. Các cuộc nổi dậy cũng diễn ra ở Lancashire và Bristol năm 1315, và ở Glamorgan thuộc xứ Wales năm 1316, nhưng đều bị đán áp.
Nạn đói và căng thẳng ở Scotland bị cho là sự trừng phạt của Chúa, và người ta phàn nàn về Edward, một trong những bài thơ đương đại đã mô tả về "Thời đại quỷ dữ của Edward II". Nhiều người chỉ trích Edward "không thích hợp" và ti tiện trong vấn đề nông nghiệp. Năm 1318, một bệnh nhân tâm thần tên là John xứ Powderham xuất hiện của Oxford, tuyên bố ông là Edward II thực sự, và Edward là đứa trẻ thay thế, họ bị tráo đổi lúc chào đời. John bị hành hình đúng lúc, nhưng tuyên bố của ông gây được tiếng vang lớn đối với những ai chỉ trích Edward về việc ông thiếu cử chỉ vương giả và khả năng lãnh đạo vững vàng. Sự chống đối cũng tăng nhanh quanh những cận thần của Edward.
Mối đe dọa về một cuộc nội chiến cuối cùng cũng trở thành sự thực ở Anh vào năm 1321, được khuất động bởi căng thẳng giữa các nam tước với sủng thần của hoàng gia, gia tộc Despenser. Hugh Despenser Già đã phục vụ cả hai cha con Edward, trong khi Hugh Despenser trẻ đã kết hôn với một thành viên nhà de Clare giàu có, trở thành quan thị vệ của Nhà vua, và giành được Glamorgan ở Welsh Marches năm 1317. Hugh trẻ mở rộng vị thế và quyền lực của ông ta khắp xứ Wales, chủ yếu là tại chức danh Lãnh chúa Marcher. Bá tước Lancaster và nhà Despensers là kẻ thù không đội chung trời, và ác cảm của Lancaster được đồng thuận bởi hầu hết các chư hầu láng giềng của Despensers, bao gồm Bá tước Hereford, gia tộc Mortimer và tiếp sau có cả Hugh Audley và Roger Damory. Tuy nhiên, Edward, càng lúc càng dựa vào lời tư vấn và sự hỗ trợ của Despensers, và ông đặc biệt gần gũi với Hugh trẻ, người mà một biên niên sử đã ghi nhận rằng ông "thương ... quý mến bằng cả trái tim và tấm lòng".
Đầu năm 1321, Lancaster huy động một liên minh gồm các kẻ thù của Despensers trên các lãnh thổ Marcher. Edward và Hugh trẻ nhận thức được kế hoạch vào tháng 3 và tiến về phía tây, hi vọng các cuộc đàm phán do Bá tước trung lập Pembroke tổ chức có thể xoa dịu khủng hoảng. Lần này, Pembroke từ chối can thiệp, và chiến tranh nổ ra vào tháng 5. Những vùng đất của Despensers nhanh chóng bị khống chế bởi một liên minh của các lãnh chúa Mancher và quý tộc địa phương, và Lancaster tổ chức cuộc gặp cấp cao giữa các nam tước cùng các giáo sĩ vào tháng 6 và lên án Despensers phá hủy Pháp lệnh. Edward đã cố gắng hòa giải, nhưng vào tháng 7 phe đối lập chiếm London và yêu cầu loại bỏ vĩnh viễn nhà the Despensers. Sợ rằng sẽ bị lật đổ nếu như từ chối, Edward đồng ý lưu đày Despensers và ân xá hành động của các lãnh chúa Marcher.
Edward bắt đầu kế hoạch trả thù. Với sự giúp sức của Pembroke, Nhà vua thành lập mộ liên minh nhỏ với các anh em khác mẹ của ông, một vài bá tước và một số giáo sĩ cao cấp, chuẩn bị chiến tranh. Edward bắt đầu bằng Bartholomew xứ Badlesmere, và Isabella được gửi đến thành trì của Bartholomew, Lâu đài Leeds, cố ý tạo ra một casus belli (biện minh cho hành động chiến tranh). Vợ của Bartholomew, Margaret, cắn câu và người của bà đã giết chết nhiều tùy tùng của Isabella, đem lại cho Edward một cái cớ để gây chiến. Lancaster từ chối giúp Bartholomew, kẻ thù riêng của ông ta, và Edward nhanh chóng nắm quyền kiểm soát miền đông nam. Hoảng hốt, Lancaster huy động quân đội của mình ở miền bắc nước Anh, và Edward tập trung lực lượng chính của ông ở phía tây nam. Despensers trở về từ nơi lưu đày và được ân xá bởi hội đồng hoàng gia.
Tháng 12, Edward dẫn quân dọc Sông Severn và tiến về Welsh Marches, nơi lực lượng đối lập đã tụ tập lại. Liên minh của các lãnh chúa Marcher sập đổ và Mortimers đầu hàng Nhà vua, nhưng Damory, Audley và Bá tước Hereford hành quân về phía bắc vào tháng 1 và gia nhập lực lượng với Lancaster, người đã bao vây lâu đài của Nhà vua ở Tickhill. Được ủng hộ bởi quân tiếp viện từ các lãnh chúa Marcher, Edward truy kích họ, giáp chiến với quân Lancaster vào ngày 10 tháng 3 tại Burton-on-Trent. Lancaster, có nhiều quân hơn, lại rút lui mà không chiến đấu, về phía bắc. Andrew Harclay dồn Lancaster vào đường cùng ở Trận Boroughbridge, và bắt được Bá tước. Edward và Hugh trẻ gặp Lancaster ở Pontefract, nơi mà, sau một phiên tòa ngắn, bá tước bị kết tội phản quốc và bị chặt đầu.
Edward trừng phạt những người ủng hộ Lancaster bằng việc lập ra một hệ thống tòa án đặc biệt trên toàn quốc, theo đó thẩm phán được làm theo mệnh lệnh kết án bị cáo như thế nào, và các bị cáo không được phép nói chuyện trong phòng riêng của họ. Phần nhiều những bản án như thế này gọi là "Contrariants" đơn giản chỉ là những vụ hành quyết, và những người may mắn hơn cũng bị giam giữ và phạt tiền, đất đai bị tịch thu và người thân bị quản thúc. Bá tước Pembroke, Edward lúc này không còn tin tưởng ông, đã bị bắt và chỉ được phóng thích sau khi giao hết toàn bộ gia tài như là tài sản thế chấp cho lòng trung thành của ông. Edward đã tưởng thưởng cho những người ủng hộ trung thành với ông, đặc biệt là gia đình Despenser, bằng những tài sản tịch thu được và những chức vị mới. Việc phạt tiền và sung công khiến Edward trở nên giàu có: khoảng £15,000 bảng được nhập vào ngân khố trong những tháng đầu tiên, và năm 1326, kho bạc của Edward chứa tới 62,000 bảng. Một Nghị viện được lập ra ở York vào tháng 3 năm 1322 mà tại đó Pháp lệnh chính thức bị thu hồi bằng Quy chế York, và các loại thuế mới được chấp nhận để phục vụ cho chiến dịch mới chống người Scot.
Chiến dịch của người Anh chống Scotland được lên kế hoạch với quy mô lớn, với một lực lượng 23,350 người. Edward tiến qua Lothian đến Edinburgh, nhưng Robert the Bruce từ chối gặp mặt ông trên chiến trận, làm Edward tiến xa hơn vào Scotland. Kế hoạch tiếp tế cho quân viễn chinh qua đường biển thất bại, và quân đội đông đúc giờ cạn kiệt lương thực. Edward buộc phải rút về phía nam biên giới, và bị lực lượng Scotland truy đuổi phía sau. Người con ngoại hôn của Edward, Adam, chết trong chiến dịch, và quân truy kích suýt bắt được Isabella, người đang ở Tynemouth và buộc phải đào tẩu bằng đường biển. Nhà vua lập ra một chiến dịch mới, được hỗ trợ bởi những loại thuế mới, nhưng sự tự tin trong chính sách ở Scotland của Edward đã suy giảm. Andrew Harclay, nhân tố vững chắc trong chiến thắng của Edward năm trước vừa gần đây được phong Bá tước Carlisle, đã đơn phương đàm phán một hiệp ước hòa bình với Robert the Bruce, đề xuất rằng Edward sẽ công nhận Robert là Vua của Scotland và, đáp lại, Robert sẽ dừng can thiệp vào Anh quốc. Edward nổi cơn thịnh nộ và lập tức chém đầu Harclay, nhưng đồng ý một thỏa thuận đình chiến 13 năm với Robert.
Hugh Despenser Trẻ sống và nắm những chức vụ lớn, nắm vai trò hàng đầu trong chính phủ Edward, và thực hiện các chính sách thông qua lực lượng hậu thuẫn lớn trong gia đình. Được ủng hộ bởi Robert Baldock và Walter Stapledon, Đại pháp quan và Đại thủ quỹ của Edward, Despensers tích lũy nhiều đất đai và tài sản, sử dụng địa vị của họ trong chính phủ để che đậy cho những gì mà nhà sử hậu Seymour Phillips miêu tả là "thực tế lừa đảo, đe dọa bạo lực và lạm dụng pháp lý". Trong khi đó, Edward đối mặt với sự chống đối gia tăng. Những điều thần bí được tường thuật lại ở khu vực quanh ngôi mộ của Bá tước Lancaster quá cố, và giá treo cổ được sử dụng để xử tội những người đối lập ở Bristol. Luật pháp và trật tự bị phá vỡ, do những cuộc bạo động được gây nên bởi sự chiếm đoạt các vùng đất. Phe chống đối cũ bao gồm các cộng sự của các lãnh chúa Marcher tìm cách giải thoát cho những tù nhân của Edward trong Lâu đài Wallingford, và Roger Mortimer, một trong những lãnh chúa Marcher bị bắt giam, trốn thoát khỏi Tháp London và chạy sang Pháp quốc.
Những bất đầu giữa Edward và Vương quốc Pháp xung quanh Lãnh địa Công tước Gascony dẫn đến Chiến tranh Saint-Sardos năm 1324. Charles IV, anh rể của Edward, kế tự vua nước Pháp năm 1322, và tỏ ra tích cực hơn so với người tiền nhiệm. Năm 1323, ông khăng khăng đòi Edward đến nước Pháp trên địa vị chư hầu Gascony, và yêu cầu người trông coi Gascony cho Edward cho phép các quan chức Pháp ở đó truyền đạt những mệnh lệnh từ Paris. Mọi chuyện lên đỉnh điểm vào tháng 10 khi một nhóm binh sĩ của Edward treo cổ một trung úy người Pháp vốn đang tìm cách dựng lên một tòa thành phòng thủ ở Agenais, một phần thuộc vùng biên giới đang tranh chấp Gascony. Edward từ chối tuyên bố trách nhiệm nào về vụ việc này, nhưng quan hệ giữa Edward và Charles trở nên xấu đi. Năm 1324, Edward cử Bá tước Pembroke tới Paris để dàn xếp một giải pháp, nhưng bá tước bất ngờ qua đời vì bệnh trên đường đi. Charles huy động quân đội của ông và tiến hành xâm chiếm Gascony.
Lực lượng của Edward ở Gascony khoảng 4,400 lính, nhưng quân Pháp, được chỉ huy bởi Charles xứ Valois, lên đến 7,000. Valois vào được Agenais và sau đó tiến xa hơn rồi cô lập thành trì quan trọng Bordeaux. Đáp lại, Edward ra lệnh bất giữ bất cứ người Pháp nào ở Anh và phong tỏa đất đai của Isabella, trên căn cứ bà là người Pháp. Tháng 1 năm 1324 ông gặp các Bá tước và các Giám mục Anh, những người này khuyên rằng Edward nên dẫn một đội quân 11,000 người tới Gascony. Edward quyết định không thân chinh, thay vào đó là Bá tước Surrey. Trong khi đó, Edward mở một cuộc đàm phán mới với vua Pháp. Charles yêu cầu thêm những điều khoản khác, chủ yếu trong số đó là đề nghị Isabella và Hoàng tử Edward đến Paris, và hoàng tử phải làm lễ phiên thần với vua Pháp cho vùng Gascony, thì ông sẽ ngừng cuộc chiến và trả lại Agenais. Edward và các cố vấn đã lo ngại về việc đưa hoàng tử sang Pháp, nhưng đồng ý gửi Isabella đi sứ một mình vào tháng 3 năm 1325.
Isabella, đặc sứ của Edward, tiến hành đàm phán với Pháp vào cuối tháng 3. Cuộc đàm phán có vẻ khó khăn, và họ chỉ đi đến thỏa thuận được sau khi Isabella đích thân ra nói chuyện với anh trai bà, Charles. Các điều khoản tương đối có lợi cho Vương quốc Pháp: đặc biệt, Edward sẽ làm lễ phiên thần với cá nhân Charles vì vùng đất Gascony. Lo ngại về những hậu quả có thể có nếu chiến tranh nổ ra lần nữa, Edward đồng ý hiệp ước nhưng quyết định trao Gascony cho con trai mình, Edward, và gửi hoàng tử đến Paris làm lễ chư hầu. Hoàng tử Edward con vượt eo biển Anh và đến nơi vào tháng 9.[nb 13]
Edward dự định là Isabella và con trai họ trở về nước Anh, nhưng thay vào đó bà vẫn ở Pháp và không cho thấy là có ý định quy trở lại. Cho đến năm 1322, hôn nhân của Edward và Isabella dườnng như là mĩ mãn, nhưng vào thời điểm hoàng hậu xuất ngoại đến Pháp năm 1325, thì nó đã xấu đi. Isabella có vẻ rất ghét Hugh Despenser trẻ, ít nhất không phải vì lời gièm của những phụ nữ có địa vị cao. Isabella lúng túng vì bà đã đào thoát khỏi quân đội Scotland ba lần trong cuộc hôn nhân với Edward, và bà đổ lỗi cho Hugh về sự kiện lần cuối năm 1322. Khi Edward ký hiệp ước ngừng bắn mới đấy với Robert the Bruce, ông bị thiệt thòi một loạt các gia đình quý tộc nắm giữ đất đai thuộc Scotland, bao gồm nhà Beaumonts, những người thân thiết với Isabella. Hoàng hậu cũng giận dữ về chuyện gia trang và đất đai của bà bị cầm giữ năm 1324. Cuối cùng, Edward cướp đi những đứa con của bà và đặt họ dưới sự giám hộ của vợ Hugh Despenser.
Những người chống Edward tụ tập xung quanh Isabella và Mortimer ở Paris, và Edward ngày càng trở nên lo lắng về khả năng Mortimer có thể xâm lược nước Anh. Isabella và Mortimer tìm kiếm sự giúp đỡ của William, Bá tước Hainaut, và hứa hôn cho Edward con với con gái của William, Philippa. Đáp lại một liên minh có vẻ khá có lợi với người kế vị ngai vàng Anh, và tài sản khá lớn dành cho cô dâu sau này, William cung cấp 132 tàu vận chuyển và 8 tàu chiến để hỗ trợ cho cuộc xâm lược nước Anh. Hoàng tử Edward và Philippa đính hôn vào 27 tháng 8, rồi Isabella cùng Mortimer chuẩn bị cho chiến dịch.