title
stringlengths
14
74
link
stringlengths
84
183
content
stringlengths
0
54.1k
Milky Way chịu cả lực kéo và đẩy
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=1173:milky-way-chiu-ca-luc-keo-va-day-1&catid=27&Itemid=135
Mặc dù không thể cảm nhận trực tiếp, chúng ta đang liên tục chuyển động: Trái Đất tự quay quanh trục với vận tốc 1.600 km/h và chuyển động quanh Mặt Trời với vận tốc 100.000 km/h; Mặt Trời chuyển động trên quỹ đạo quanh thiên hà Milky Way với vận tốc 850.000 km/h và thiên hà Milky Way cùng bạn đồng hành của nó là thiên hà Andromeda đang chuyển động theo sự giãn nở của vũ trụ với vận tốc khoảng 2 triệu km/h (630 km/s). Nhưng thứ gì thực sự gây ra chuyển động của Milky Way trong không gian? Cho tới nay, các nhà khoa học giả định rằng có một khu vực đậm đặc của vũ trụ kéo chúng ta về phía nó, theo cùng cách mà lực hấp dẫn đã kéo cho quả táo của Newton rơi xuống đất. "Nghi phạm chính" ban đầu được gọi là "Nguồn hấp dẫn lớn" (Great Attractor), một vùng có khoảng nửa tá cụm thiên hà lớn cách Milky Way 150 triệu năm ánh sáng. Khá nhanh sau đó, sự chú ý được chuyển sang một vùng khác với hơn 20 cụm thiên hà lớn như vậy, được gọi là "Vùng tập trung Shapley" (Shapley Concentration), nằm xa hơn 600 triệu năm ánh sáng so với Nguồn hấp dẫn lớn. Mới đây, các nhà nghiên cứu đứng đầu bởi Giáo sư Yehuda Hoffman tại Đại học Hebrew ở Jerusalem đã thông báo rằng thiên hà của chúng ta không chỉ bị kéo, mà còn bị đẩy. Trong một nghiên cứu mới sẽ đăng trên Nature Astronomy, họ mô tả một vùng lân cận rất rộng lớn ngoài thiên hà chưa được biết tới trước đây. Gần như không có thiên hà trong đó, vùng không gian lớn này tạo nên một lực đẩy về phía Cụm địa phương của chúng ta (Local Group). "Với việc lập bản đồ 3D dòng dịch chuyển của các thiên hà trong không gian, chúng tôi tìm ra rằng thiên hà Milky Way của chúng ta đang di chuyển nhanh ra khỏi một vùng rất rộng mật độ thấp chưa được xác định trước đây. Vì nó đẩy nhiều hơn là kéo, chúng tôi gọi vùng này là "Vùng xô đẩy lưỡng cực" (Dipole Repeller)," Hoffman nói. "Cùng với việc bị kéo về phía Vùng tập trung Shapley, chúng ta cũng bị đẩy ra xa từ Vùng xô đẩy lưỡng cực vừa được phát hiện. Do đó thật rõ ràng rằng kéo và đẩy có tầm quan trọng tương đương trong việc quyết định vị trí của chúng ta." Sự có mặt của vùng mật độ thấp này đã được gợi ý trước đây, nhưng việc xác nhận sự vắng mặt của các thiên hà bằng quan sát thực sự là một thách thức. Nhưng trong nghiên cứu mới này, Hoffman - người đang làm việc tại Viện Vật lý Racah thuộc đại học Hebrew đã cùng các đồng nghiệp tại Mỹ và Pháp thực hiện một cách tiếp cận khác. Sử dụng các kính thiên văn lớn, trong đó có kính thiên văn không gian Hubble, họ đã dựng nên bản đồ 3D của dòng dịch chuyển thiên hà. Dòng dịch chuyển này tác động trực tiếp tới sự phân bố vật chất, nó dịch chuyển theo hướng ra xa khỏi khu vực gần như trống rỗng và tiến về khu vực có sự tập trung cao của khối lượng; cấu trúc qui mô lớn của vũ trụ được mã hóa trong chính dòng dịch chuyển của các thiên hà. Họ nghiên cứu những vận tốc đặc biệt - những vận tốc vượt quá tốc độ giãn nở của vũ trụ - của các thiên hà quanh Milky Way, kết hợp với những dữ liệu khác về các vận tốc đặc biệt qua thống kê chi tiết. Từ đó họ suy ra sự phân bố khối lượng cơ bản bao gồm vật chất tối và các thiên hà sáng. Với việc xác nhận được Vùng xô đẩy lưỡng cực, các nhà nghiên cứu đã có thể dung hòa được cả hướng chuyển động của Milky Way với độ lớn của nó. Họ trông đợi các khảo sát cực nhạy trong tương lai ở dải sóng biểu kiến, cận hồng ngoại và vô tuyến sẽ trực tiếp xác định được vài thiên hà trong khu vực này, và trực tiếp xác nhận được khoảng không gian trống của Vùng xô đẩy lưỡng cực.
Máy quang phổ của Voyager1 lạnh dần
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=408:may-quang-pho-cua-voyager1-lanh-dan&catid=27&Itemid=135
Để giảm tiêu thụ năng lượng, các nhà quản lý đã tắt một thiết bị làm nóng trên tàu Voyager1 của NASA, làm nhiệt độ của máy quang phổ tử ngoại trên tàu giảm đi 41 độ F (23 độ C). Nhiệt độ lúc này chỉ còn dưới -110 độ F (-79 độ C), nhiệt độ thấp nhất mà thiết bị này từng trải qua. Đây là một bước thận trọng trong việc tiết kiệm năng lượng để Voyager1 có thể tiếp tục thu thập và truyền dữ liệu cho tới năm 2025.   Vào lúc này, máy quang phổ vẫn tiếp tục thu và phát dữ liệu. Nó được thiết kế ban đầu để có thể hoạt động ở nhiệt độ -31 độ F (-35 độ C), nhưng nó đã có thể hoạt động tiếp khi các thiết bị làm nóng bắt đầu được tắt từ 17 năm trước. Đến năm 2005, nhiệt độ của máy quang phổ đã là -69 độ F (-54 độ C), các kĩ sư tin rằng nó sẽ vẫn có thể tiếp tục hoạt động sau việc tắt thiết bị làm nóng gần đây nhất hồi tháng 12. Cho tới thời điểm này, máy quang phổ đang hoạt động ở nhiệt độ dưới -110 độ F (-79 độ C) (không chính xác do thiết bị đo không chạy xuống thấp hơn). Các nhà khoa học và quản lý dự án sẽ tiếp tục theo dõi hiệu suất của máy quang phổ. Nó đã hoạt động rất tốt khi Voyager1 đi qua Sao Mộc và Sao Thổ, và kể từ đó một nhóm dẫn đầu bởi các nhà khoa học tại Pháp bắt đầu phan tích dữ liệu thu được. Thiết bị làm nóng mới tắt gần đây thật ra là một phần của máy quang phổ hồng ngoại đã dừng hoạt động từ năm 1998. (Theo Astronomy)  
Giải thích sự dư thừa gamma ở trung tâm thiên hà
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=982:giai-thich-su-du-thua-gamma-o-trung-tam-thien-ha&catid=27&Itemid=135
Sự dư thừa các tia gamma từ trung tâm thiên hà Milky Way hầu như chắc chắn bắt nguồn từ những sao neutron quay nhanh, hay các pulsar mili giây, không phải từ sự hủy của vật chất tối như trước đây chúng ta vẫn nghĩ. Đây là kết luận từ các phân tích dữ liệu mới tiến hành bởi hai nhóm nghiên cứu đến từ Đại học Amsterdam (UvA), Hà Lan, và Đại học Princeton/Viện Công nghệ Massachusetts (MIT). Năm 2009, các quan sát với Kính thiên văn phạm vi rộng Fermi đã cho thấy sự dư thừa các photon năng lượng cao, hay nói cách khác là tia gamma, ở trung tâm thiên hà chúng ta. Trong một thời gian dài sự dư thừa các tia gamma này đã được suy đoán là dấu hiệu của sự hủy vật chất tối. Nếu điều này đúng, nó sẽ thiết lập một bước đột phá trong vật lý cơ bản và một bước tiến lớn cho sự hiểu biết của chúng ta về thành phần vật chất của vũ trụ. Tuy nhiên, nhiều giả thuyết khác ra đời trong những năm gần đây, gợi ý rằng sự dư thừa tia gamma ở trung tâm thiên hà chúng ta có thể có nhiều nguyên nhân khác, có thể đến từ hoạt động của một lỗ đen siêu nặng ở trung tâm Milky Way, sự hình thành sao ở vùng trung tâm mây phân tử,  hay là sự phát xạ kết hợp tới từ tập hợp các nguồn bức xạ mới không rõ ràng trong chỗ phình thiên hà. Các phân tích thống kê mới từ dữ liệu của Fermi bởi Christoph Weniger từ UvA và nhóm nghiên cứu đến từ Princeton/MIT hiện nay đã cho thấy chắc chắn rằng sự phát xạ dư thừa quả thực bắt nguồn từ các nguồn điểm chưa xác định. Ứng viên tốt nhất là các pulsar mili-giây, các nhà nghiên cứu kết luận. Pulsar mili-giây, hay là các sao neutron quay nhanh, được hình thành từ hàng tỷ năm trước. Chúng là một trong những đối tượng đặc biệt nhất trong thiên hà. Một tập hợp hàng trăm hàng ngàn những pulsar mili-giây như vậy chắc hẳn đang ẩn náu ở trung tâm thiên hà và không phát hiện được với độ nhạy của các thiết bị hiện nay. Những cuộc khảo sát trong tương lai với các kính thiên văn đã có và sắp tới, ví dụ như Kính thiên văn vô tuyến Green Bank, Tổ hợp kính thiên văn vô tuyến một kilomet vuông, sẽ có khả năng kiểm tra kĩ hơn các giả thuyết này trong những năm tới. Trong các phân tích của mình, các nhà nghiên cứu đến từ UvA và Princeton/MIT đã dùng những kĩ thuật thống kê khác nhau, “sự nhiễu không-Poisson” và “phép biến đổi wavelet”, để phân tích dữ liệu từ Fermi. Những gì họ phát hiện là sự phân bố các photon tạo thành những đám lộn xộn thay vì đều đặn, cho thấy các tia gamma không có vẻ như được gây ra bởi sự va chạm của các hạt vật chất tối. Theo Weniger, đây là một tình huống mà cả hai trường hợp đều có lợi: “Hoặc chúng ta tìm thấy hàng trăm hay hàng ngàn pulsar mili-giây trong các thập kỉ tới, góp phần làm sáng tỏ lịch sử của Milky Way, hoặc chúng ta không tìm thấy gì cả. Trong trường hợp này, lời giải thích dựa trên vật chất tối cho sự dư thừa tia gamma càng trở nên rõ ràng hơn”. Mariangela Lisanti từ Đại học Princeton nói rằng: “Kết quả từ các phân tích hầu như chắc chắn có nghĩa là những gì chúng ta quan sát được là bằng chứng cho một tập hợp các nguồn bức xạ mới ở trung tâm thiên hà. Điều đó tự bản thân nó đã là một điều mới và bất ngờ”.
Tinh vân
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=102:tinh-van&catid=16&Itemid=149
Tinh vân hiểu đơn giản là các đám mây khí và bụi trong không gian. Do trước đây với các kính thiên văn quang học còn kém, các nhà thiên văn đã xác định và đặt tên cho một số tinh vân mà thực chất chúng không phải các đám khí bụi mà là cả một thiên hà. Vậy ngày nay tinh vân được hiểu chi tiết ra sao? Có bao nhiêu loại tinh vân đã được biết tới? Ví dụ như M31 thường được gọi là tinh vân tiên nữ (Andromeda) thực chất không phải một tinh vân theo định nghĩa trên mà là một thiên hà, thiên hà Andromeda là thiên hà lớn nhất trong cụm thiên hà địa phương của chúng ta. thiên hà của chúng ta chỉ lớn thứ hai và thứ 3 là một thiên hà nữa cũng bị hiểu nhầm là tinh vân - M33. Do vậy, hiện nay khái niệm tinh vân như nhắc đến ở trên được áp dụng đối với các tinh vân mới phát hiện, còn các thiên hà đã từng bị hiểu nhầm là tinh vân thì đôi khi vẫn tiếp tục bị gọi nhầm bằng cái tên là "tinh vân". Tinh vân có thể là những đám bụi tập hợp lại với nhau do hấp dẫn (khối lượng chưa đủ để tạo thành một ngôi sao hay một thiên thể lớn) như trên đã nói, cũng có thể là vật chất được phóng ra do sự kết thúc của một ngôi sao. < Đây là loại tinh vân phổ biến nhất. Chúng là những đám khí bụi không có ranh giới rõ ràng, thường được chia làm hai loại là phát xạ và phản xạ. - (emission nebula): loại tinh vân mà thành phần khí và bụi của nó khi ở gần các ngôi sao lớn bị kích thích mạnh dẫn đến bị ion hoá và phát ra ánh. Nhiệt độ ở tâm các tinh vân này có thể lên đến 8000 - 10000K, đường kính khoảng vài chục đến vài trăm LY (Light Year - năm ánh sáng). Một số tinh vân loại này tương đối nổi tiếng là tinh vân Orion (M42), tinh vân đại bàng (Eagle Nebula - M16). (reflection nebula) Đây là những tinh vân  có được ánh sáng so với xung quanh do phản xạ ánh sáng đến từ các ngôi sao gần đó. Loại tinh vân này gồm các khí và bụi có khả năng phản xạ tốt ánh sáng. Ánh sáng của loại tinh vân này không mạnh như của các tinh vân phát xạ. Tuy nhiên loại tinh vân này có quang phỏ kiên tục (do ánh sáng là ánh sáng phản xạ) còn tinh vân phát xạ thì quang phổ có các vạch phát xạ (do sự phát xạ kích thích) Ví dụ: tinh vân Pleiades - M45 > Một số tinh vân phản xạ nằm chắn ánh sáng từ ngôi sao gần nó tới chúng ta, do vậy khi quan sát chúng ta chỉ có thế thấy bóng đen hoặc mờ của nó. Khi đó tinh vân được gọi là (dark nebula)   Các ngôi sao đều có đời sống hữu hạn. Khi chúng đốt đi về cuối đời của mình, các phản ứng nhiệt hạch giảm dần làm nó không còn khả năng tự chống lại hấp dẫn hướng tâm nữa. Cái lõi khi đó co lại còn vỏ ngoài bị thổi phồng ra, tiến sang giai đoạn sao khổng lồ đỏ. Trong lần giải phóng năng lượng lần cuối ở lõi ngôi sao, vỏ ngoài của ngôi sao bị phá vỡ và ném các mảnh vụ của nó vào không gian xung quanh. Với các sao có khối lượng lớn, một được tạo ra, phần được ném vào không gian này nằm rải rác và tạo thành một đám mây khí bụi lớn bao quanh ngôi sao, phát ra bức xạ ở dải X và vô tuyến mạnh mẽ, gọi là . Trong khi đó các sao khối lượng nhỏ đám khí bụi tàn dư do lớp vỏ sao khổng lồ đỏ bị phá vỡ thường mờ hơn, qua các kính thiên văn phần được quan sát rõ nhất là vùng khí có dạng gần với hình cầu thoát ra từ cái lõi co lại của ngôi sao. Đám khí này được gọi là . Tinh vân ngoài các dạng trên còn có thể là một đám khí bụi rất lớn, nơi ra đời của các ngôi sao (các vùng tạo sao/star-form region). Bản thân Hệ Mặt Trời của chúng ta cũng ra đời từ một tinh vân tiền sao.   Với sự hỗ trợ của kính thiên văn nghiệp dư hoặc một chiếc ống nhòm, bạn hoàn toàn có thể quan sát một số tinh vân đã được xác định vị trí. Tham khảo thêm bài " "   Vui lòng ghi rõ tên tác giả và nguồn trích dẫn khi bạn sử dụng bài viết này!
Hiện tượng thiên văn có thể quan sát năm 2015
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=861:hien-tuong-thien-van-co-the-quan-sat-nam-2015&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Năm 2014 đã hết và năm mới lại tới. Năm 2015 đã được chọn là Năm ánh sáng quốc tế để kỉ niệm rất nhiều sự kiện khoa học liên quan tới ánh sáng - một đối tượng cơ bản của vậ lý và thiên văn học. Cũng như mọi năm, năm 2015 sẽ cho phép người yêu thích bầu trời quan sát được nhiều hiện tượng thiên văn thú vị. Dưới đây là danh sách và lịch trình xảy ra các hiện tượng có thể quan sát tại Việt Nam. 1. có cực điểm vào đêm và rạng sáng ngày 3-4 tháng 1. Đây là trận mưa sao băng trung bình với mật độ lúc cực điểm khoảng 40 sao băng mỗi giờ. Nó có vùng trung tâm là chòm sao Bootes. 2. với Mặt Trời vào tối mùng 6 tháng 1. Đây là thời điểm Sao Mộc nằm ở vị trí đối diện với Mặt Trời mà Trái Đất nằm ở giữa, do đó đây là lúc người từ Trái Đất có thể thấy rõ nhất phần bề mặt được chiếu sáng của nó. Một chiếc kính thiên văn nghiệp dư có thể giúp bạn theo dõi hành tinh này. 3. ngày 22 tháng 2. Hai hành tinh sáng này sẽ nằm rất gần nhau trên bầu trời phía Tây sau lúc Mặt Trời lặn. 4. ngày 4 tháng 4. Hiện tượng xảy ra khi Mặt Trăng đi vào vùng bóng tối của Trái Đất do Mặt Trời gây nên. Việt Nam có thể quan sát toàn bọ pha toàn phần của hiện tượng này. 5. ngày 22, 23 tháng 4. Mưa sao băng loại nhỏ , chỉ với khoảng 20 sao băng mỗi giờ vào lúc cực điểm. Tuy vậy, do rơi vào đêm đầu tháng âm lịch, nếu điều kiện thời tiết thuận lợi người quan sát vẫn có thể thấy rõ hiện tượng này. 6. ngày 5, 6 tháng 5. Mưa sao băng cỡ trung bình với mật độ lúc cực điểm khoảng hơn 30 sao băng mỗi giờ. Mặc dù vậy, do rơi vào gần thời điểm Trăng tròn nên số sao băng có thể được nhìn thấy ngay cả khi thời tiết lý tưởng bị giảm đáng kể. 7. ngày 23 tháng 5. Sao Thổ sẽ nằm ở vị trí thuận tiện nhất để quan sát do nó nằm phía bên kia so với Mặt Trời đối với người quan sát từ Trái Đất. Bạn có thể quan sát nó cùng vành sánh rất đẹp (Saturn's ring) bằng một chiếc kính thiên văn nghiệp dư. 8. có cực điểm ngày 28, 29 tháng 7. Đây là mưa sao băng nhỏ với mật độ lúc cực điểm khoảng 20 sao băng mỗi giờ. Do cực điểm nằm rất gần thời điểm Trăng tròn nên về cơ bản nó chỉ có thể được quan sát với mật độ nhỏ ở những nơi có điều kiện khí quyển và thời tiết lý tưởng. 9. có cực điểm ngày 12, 13 tháng 8. Một trong những mưa sao băng lớn nhất hàng năm, được gây ra bởi những mảnh vụn còn sót lại của sao chổi Swift-Tuttle trên quĩ đạo Trái Đất. Nó có thể đạt trên 60 sao băng mỗi giờ vào lúc cực điểm. Năm 2015, nếu không có biến cố về thời tiết mưa sao băng này sẽ rất thuận lợi để quan sát vì nó có cực điểm vào lúc không Trăng. 10. cực điểm ngày 21, 22 tháng 10. Mưa sao băng loại trên trung bình với cực điểm có thể đạt 20 đến 30 sao băng mỗi giờ. Rạng sáng khi Trăng đã lặn sẽ là thời điểm tốt nhất để quan sát hiện tượng này. 11. giao hội lúc rạng sáng ngày 26 tháng 10. Hai hành tinh sáng nhất trên bầu trời sẽ nằm ở gần sát nhau trên bầu trời. Hãy nhìn về bầu trời phía Đông khi trời còn tối, trước lúc Mặt Trời mọc lên để thấy rõ hiện tượng này. 12. giao hội rạng sáng ngày 28 tháng 10. Hai ngày sau hiện tượng giao hội ngày 26, Sao Hỏa sẽ tham gia vào cuộc gặp gỡ của các hành tinh này. Hãy nhìn về bầu trời phía Đông trước lúc Mặt Trời mọc. Với một chiếc kính thiên văn nhỏ, bạn cũng sẽ dễ dàng hơn để quan sát các hành tinh này. 13. có cực điểm ngày 17, 18 tháng 11. Mưa sao băng Leonids năm 2015 sẽ là trận mưa sao băng trung bình, không còn lớn như trước đây. Nó cho phép bạn quan sát vào lúc cực điểm khoảng 20 sao băng mỗi giờ. Rạng sáng ngày 18/11 sẽ là thời điểm quan sát lý tưởng nhất. Khi Mặt Trăng đã lặn, nếu thời tiết thuận lợi đây vẫn sẽ là hiện tượng  rất đáng chú ý. 14. rạng sáng ngày 7 tháng 12. Hãy nhìn về bầu trời phía Đông trước lúc Mặt Trời mọc để quan sát hai thiên thể sáng nhất bầu trời đêm này khi chúng nằm rất gần nhau. 15. có cực điểm ngày 13, 14 tháng 12. Mưa sao băng lớn nhất trong năm, với cực điểm có thể lên tới hơn 100 sao băng mỗi giờ. Nó có vùng trung tâm là chòm sao Gemini (Song Tử).  Rơi vào thời điểm không Trăng, nếu không có biến cố thời tiết thì đây sẽ là điều kiện lý tưởng nhất để bạn quan sát trận mưa sao băng lớn nhất này. Ngoài 15 sự kiện nêu trên, còn nhiều trận mưa sao băng nhỏ và một số thời điểm quan sát các hành tinh xa, tuy nhiên chúng tôi xin tạm bỏ qua vì về cơ bản các hiện tượng này không có ý nghĩa đáng kể và gần như không thể quan sát đối với người quan sát nghiệp dư. Chúc quí độc giả năm mới nhiều sức khỏe và thành công. (Chủ tịch VACA) Vui lòng ghi rõ tên tác giả và nguồn trích dẫn khi sử dụng thông tin trong bài viết này. Độc giar cũng có thể tham khảo ấn phẩm của VACA để dễ dàng theo dõi các hiện tượng thiên văn trong năm.
Proxima b có thể có đại dương
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=1121:proxima-b-co-the-co-dai-duong&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Một hành tinh đá ngoài Hệ Mặt Trời với khối lượng tương đương Trái Đất gần đây đã được phát hiện chuyển động quanh sao Proxima Centauri - ngôi sao gần Mặt Trời nhất. Hành tinh này được gọi là Proxima b, nó có quỹ đạo phù hợp để có thể có nước lỏng trên bề mặt, đồng nghĩa với việc xuất hiện câu hỏi về khả năng có sự sống của nó.   Trong một nghiên cứu đã công bố trên Astrophysical Journal Letters, một nhóm nghiên cứu quốc tế đứng đầu bởi các nhà nghiên cứu tại phòng thí nghiệm vật lý thiên văn Marseille (thuộc CNRS, đại học Aix-Marseille - Pháp) đã xác định kích thước và đặc tính bề mặt của hành tinh này, cho thấy nó thực sự có thể phù hợp cho sự sống. Nhóm nghiên cứu cho biết Proxima b có thể là một "hành tinh đại dương", với đại dương bao phủ toàn bộ bề mặt, nước của nó có lẽ tương tự với các đại dương ngầm phía dưới bề mặt của các vệ tinh băng quanh Sao Mộc và Sao Thổ. Các nhà nghiên cứu cũng cho thấy thành phần cấu tạo của hành tinh này có thể tương tự Sao Thuỷ, với lõi kim loại chiếm 2/3 khối lượng hành tinh. Những kết quả này cung cấp cơ sở cho những nghiên cứu trong tương lai để xác định khả năng sống được của Proxima b. Proxima Centauri, ngôi sao gần Mặt Trời nhất, có hệ hành tinh chứa ít nhất một hành tinh. Nghiên cứu mới đã phân tích và bổ sung các quan sát trước đây. Các phép đo mới cho thấy hành tinh có tên Proxima b này có khối lượng gần với Trái Đất (chính xác là khoảng 1,3 lần khối lượng Trái Đất) và chuyển động quanh sao mẹ của nó ở khoảng cách 0,05 đơn vị thiên văn (chỉ bằng 1/10 khoảng cách từ Mặt Trời tới Sao Thuỷ). Trái với những gì mà bạn có thể nghĩ, rằng khoảng cách nhỏ như vậy đồng nghĩa với nhiệt độ bề mặt rất cao. Trên thực tế, sao mẹ là Proxima Centauri chỉ là một sao lùn đỏ với khối lượng và bán kính chỉ khoảng một phần mười của Mặt Trời, còn độ sáng thì nhỏ hơn Mặt Trời khoảng 1.000 lần. Do đó Proxima b vẫn nằm trong vùng sống được của sao này và có thể có nước lỏng trên bề mặt của nó. Tuy nhiên, chúng ta mới biết rất ít về Proxima b, đặc biệt là bán kính của nó. Điều đó khiến chúng ta không thể biết chính xác nó trông ra sao, được tạo thành từ những gì. Việc đo bán kính của một ngoại hành tinh thường được thực hiện khi xảy ra hiện tượng quá cảnh (hiện tượng hành tinh lướt qua phía trước của sao mẹ). Nhưng Proxima b không hề lướt qua như vậy. Có một cách khác để ước tính bán kính của hành tinh. Nếu chúng ta biết khối lượng của nó, chúng ta có thể mô phỏng hành vi của vật chất thành phần. Đây là phương pháp đã được nhóm nghiên cứu Pháp-Mỹ đến từ Phòng thí nghiệm vật lý thiên văn Marseille và Khoa thiên văn học Đại học Cornell sử dụng. Với sự hỗ trợ của mô hình cấu trúc trong, họ đã khám phá ra những dạng thành phần khác nhau có thể phù hợp với Proxima b và suy ra được bán kính của hành tinh. Họ khống chế nghiên cứu của mình ở trường hợp đối với các hành tinh có khả năng sống được, giả lập các hành tinh rắn và đặc được tạo thành với lõi kim loạ và vỏ đá giống như các hành tinh rắn trong Hệ Mặt Trời. Họ cũng cho phép sự kết hợp của một lượng nước lớn trong mô phỏng này. Những giả định đó dẫn tới một loạt những dạng thành phần của Proxima b. Bán kính của hành tinh có thể dao động từ 0,94 đến 1,4 lần bán kính Trái Đất (bán kính Trái Đất là 6371 km). Nghiên cứu cho thấy Prxima b có bán kính tối thiểu là 5.990km và cách duy nhất để có thể có kích thước này là nó phải là một hành tinh rất đặc với lõi kim loại chiếm khoảng 65% khối lượng hành tinh, còn lại là lớp vỏ đá. Ranh giới giữa hai lớp vật chất này là khoảng 1,500km. Với sự kết hợp như vậy, Proxima b rất giống với Sao Thuỷ. Trường hợp đầu tiên này không loại trừ sự có mặt của nước trên bề mặt hành tinh, giống như đối với Trái Đất nơi mà nước chỉ chiếm không quá 0,05% khối lượng hành tinh. Ngược lại, Proxima b cũng có thể có bán kính 8.920km, đồng nghĩa với việc nó tạo thành từ 50% đá và bao quanh bởi 50% còn lại là nước. Trong trường hợp này, Proxima b được bao phủ bởi một đại dương có độ sâu tới 200 km. Dưới đó, áp suất nước sẽ đủ lớn để nước lỏng bị nén thành băng mật độ cao trước khi chạm tới lớp vỏ ở độ sâu 3.100km. Trong những trường hợp như vậy, một lớp khí quyển mỏng có thể tồn tại bao quanh hành tinh giống như Trái Đất và điều này cho phép sự tồn tại của sự sống. Những phát hiện này cung cấp thông tin quan trongh về những kịch bản cấu tạo khác nhau của Proxima b. Một số trong đó dẫn tới một hành tinh hoàn toàn khô cằn, trong khi một số khác cho phép sự tồn tại của nước lỏng. Nghiên cứu này cũng đưa ra ước đoán về bán kính của hành tinh đối với mỗi kịch bản, cũng như ước tính được giới hạn của lượng nước có thể có trên bề mặt hành tinh do sự bay hơi của chúng dưới tác dụng của bức xạ tử ngoại và tia X từ sao mẹ, vốn mạnh hơn Mặt Trời rất nhiều. Các quan sát trong tương lai sẽ hoàn chỉnh thêm nghiên cứu này. Đặc biệt, việc đo chính xác hơn thành phần các nguyên tố nặng của sao mẹ Proxima Centauri sẽ làm giảm số lượng các kịch bản cấu tạo của Proxima b để ước tính được chính xác hơn bán kính của hành tinh này.
Manh mối cho sự sống trên Sao Hỏa từ hố thiên thạch
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=491:manh-moi-cho-su-song-tren-sao-hoa-tu-ho-thien-thach&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Các miệng núi tạo thành do va chạm của các tiểu hành tinh với Trái Đất có thể là một nơi lý tưởng để tìm hiểu về sự sống ngoài Trái Đất, một nghiên cứu mới đây đã gợi ý như vậy. Các vi sinh vật đã được phát hiện nằm sâu trong một vùng ở Mỹ nơi một tiểu hành tinh đã rơi xuống khoảng 35 triệu năm trước. Các nhà khoa học tin rằng các vi sinh vật này là bằng chứng cho việc các miệng núi do va chạm cung cấp nơi ở cho vi khuẩn, bảo vệ chúng khỏi các hiệu ứng xảy ra do sự biến đổi khí hậu, sự nóng lên toàn cầu hay thậm chí là kỉ băng hà. Các dạng sống Nghiên cứu gợi ý rằng các miệng núi như vậy trên Sao Hỏa cũng có thể ẩn giấu sự sống, và nếu khoan sâu xuống thì có thể dẫn đến bằng chứng cho các dạng sống tương tự. Các nhà nghiên cứu tại đại học Edinburgh đã khoan gần 2km xuống một lỗ thiên thạch lớn trên Trái Đất tại vịnh Chesapeake, Mỹ. Các mẫu thu được cho thấy sự có mặt không đồng đều của vi khuẩn lan ra trong đá, gợi ý rằng sự biến đổi vẫn tiếp tục sau 35 triệu năm từ lúc va chạm. Dinh dưỡng cho vi khuẩn Các nhà khoa học cho biết nhiệt sinh ra khi va chạm đủ để giết chết tất cả các loài sinh vật có mặt. Tuy nhiên, những phần bị vỡ sâu trong đá cho phép nước và các chất dinh dưỡng chảy trong đó và hỗ trợ sự sống tồn tại. Một số vi sinh vật có thể tồn tại và lớn lên nhờ hấp thụ một số nguyên tố chẳng hạn như sắt trong các lớp đá. Nghiên cứu này đã được công bố trên tạp chí Astrobiology (Sinh học thiên văn) "Những vùng nứt sâu quanh miệng các lỗ va chạm có thể cung cấp nơi ẩn náu an toàn mà tại đó vi sinh vật có thể phát triển trong thời gian dài. Phát hiện của chúng tôi gợi ý rằng các lớp dưới của hố va chạm trên Sao Hỏa có thể là một địa điểm lý tưởng cho việc tìm kiếm bằng chứng của sự sống" - cho biết của giáo sư Charles Cockell tại tại trường Vật lý và Thiên văn học, đứng đầu nhóm nghiên cứu. (theo Science Daily)
The Brightest Stars (pdf)
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=423:the-brightest-stars-pdf&amp;catid=29&amp;Itemid=178
Cuốn sách là một tài liệu tuyệt vời cho bất cứ ai quan tâm tới những tính chất và những điều kì diệu quanh các ngôi sao. Nó đưa người đọc đến với những khái niệm đầu tiên, những tính chất vật lý, cấu trúc và quá quá trình tiến hóa của ngôi sao cho tới những hướng dẫn tỉ mỉ về việc quan sát các sao bằng mắt thường cũng như qua các ống nhòm, kính thiên văn...   Cũng trong cuốn sách này, độc giả sẽ được tìm hiểu chi tiết hơn về các ngôi sao sáng nhất mà chúng ta có thể quan sát trên bầu trời. Cuốn sách có tên đầy đủ là The Brightest Stars: Discovering the Universe Through the Sky's Most Brilliant Stars Sách của tác giả Fred Schaaf, phát hành năm 2008 và được các nhà quan sát thiên văn đánh giá rất cao. Sách gồm 290 trang, kiểu file: pdf, ngôn ngữ: tiếng Anh Download: Password: thienvanvietnam.org  
Tổ chức thành công Ngày hội thiên văn học Việt Nam
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=458:to-chuc-thanh-cong-ngay-hoi-thien-van-hoc-viet-nam&amp;catid=34:hoat-dong&amp;Itemid=136
Chiều nay 25/3/2012, khoảng 60 bạn trẻ đã có mặt tại hội trường Liên hiệp các hội khoa học và kí thuật Việt Nam (VUSTA) số 53 Nguyễn Du, Hà Nội để tham gia hội thảo "Ngày hội thiên văn học Việt Nam" do Câu lạc bộ thiên văn học trẻ Việt Nam tổ chức.   Kỉ niệm 10 năm ngày thành lập của mình (ngày 29 tháng 3 năm 2002), CLB Thiên văn học trẻ Việt Nam (VACA) tổ chức sự kiện này với mong muốn nhìn lại chặng đường 10 năm hoạt động của mình đồng thời cũng là dịp để các bạn trẻ yêu thiên văn có cơ hội tham gia học hỏi thêm những kiến thức về lĩnh vực khoa học này, giao lưu và trò chuyện với các nhà khoa học có uy tín của Việt Nam. Hội thảo được thực hiện sự phối hợp thực hiện của phòng nghiên cứu không gian F-Space, đại học FPT. Buổi nói chuyện có sự tham gia của Giáo sư Chu Hảo - giám đốc NXB Tri thức, Thạc sĩ Đặng Vũ Cảnh Linh - phó trưởng ban thông tin và phổ biến kiến thức Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật Việt Nam, cùng đại diện của Hội thiên văn nghiệp dư Hà Nội (HAS) và nhiều tổ chức, báo chí khác.           Hội thảo bắt đầu đúng 14 giờ 30 chiều nay, ba bài thuyết trình chính gồm: 1- Sự kì diệu của vũ trụ và mục đích của Vật lý thirn văn hiện đại (Đặng Vũ Tuấn Sơn) 2- Dự án F-1 của FPT và tương lai ngành hàng không vũ trụ Việt Nam (Vũ Trọng Thư) 3- Ngày tận thế dưới cái nhìn của Thiên văn học (Phạm Vũ Lộc) Các bạn trẻ có mặt cũng được nghe những chia sẻ, suy nghĩ của giáo sư Chu Hảo và thạc sĩ Đặng Vũ Cảnh Linh về thiên văn học nói riêng và khoa học nói chung tại Việt Nam. Sau các bài thuyết trình và phát biểu, ban tổ chức dành ít phút cho việc trao giải thưởng cuộc thi The Best of Vietnamese Young Astronomers 2012 cho giải nhất là Hà Đắc Long. Hội thảo kết thúc bằng phàn câu hỏi có thưởng và các hỏi đáp thiên văn dành cho các bạn trẻ. Ban tổ chức xin gửi lời cám ơn chân thành tới các vị đại biểu: giáo sư Chu Hảo và thạc sĩ Đặng Vũ Cảnh Linh; sự phối hợp tổ chức của anh Vũ Trọng Thư từ phòng nghiên cứu F-Space (FPT); các anh chị và các bạn thành viên của VACA đã nhiệt tình tham gia giúp buổi hội thảo thành công tốt đẹp. Xin cám ơn tất cả các anh chị và các bạn đã có mặt tham gia buổi hội thảo ngày hôm nay. Chúng tôi hi vọng sẽ tiếp tục nhận được sự tham gia nhiệt tình của tất cả các anh chị và các bạn trong các hoạt động tiếp theo của VACA. Thay mặt ban tổ chức (Hình ảnh chi tiết cũng video quay lại toàn bộ hội thảo hôm nay sẽ được upload chi tiết trong 1-3 ngày tới. Các anh phía trên chụp bởi 'Tuấn Dũng' (VACA))
Đón xem nguyệt thực nửa tối ngày 28/11
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=631:don-xem-nguyet-thuc-nua-toi-28-11&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Tối ngày 28 tháng 11 sắp tới, người quan sát trên toàn lãnh thổ Việt Nam sẽ có cơ hội quan sát trọn vẹn hiện tượng nguyệt thực nửa tối, hiện tượng thiên văn đáng chú ý nhất cuối năm 2012 này.   Ngày mùng 4 tháng 6 năm nay, chúng ta đã có cơ hội quan sát nguyệt thực một phần, tuy nhiên do thời tiết cản trở nên chỉ rất ít vùng tại Việt Nam quan sát được. Lần nguyệt thực cuối tháng 11 này sẽ là cơ hội cuối cùng trong năm nay cho người quan sát, mặc dù lần này nguyệt thực chỉ là nửa tối. Chúng ta đã biết rằng nguyệt thực xảy ra khi Mặt Trăng đi vào nón bóng tối của Trái Đất tạo thành do ánh sáng Mặt Trời (hình dưới). Vùng nón bóng tối chính (umbra) là vùng tối hoàn toàn không nhận được ánh sáng Mặt Trời trong khi bao quanh nó là vùng nửa tối (penumbra) nhận được một phần ánh sáng Mặt Trời. Nguyệt thực toàn phần hay một phần là khi toàn bộ hay một phần của Mặt Trăng đi vào phần bóng tối hoàn toàn, trở nên tối và đỏ sẫm. Trong khi đó nguyệt thực nửa tối là hiện tượng khi Mặt Trăng chỉ đi vào vùng bóng nửa tối, nó cũng tối lại và chuyển sang màu đỏ nhưng nhạt hơn so với nguyệt thực toàn phần hoặc một phần. Mặc dù vậy nguyệt thực nửa tối vẫn là một hiện tượng rất thú vị, nhất là với người quan sát có sự hỗ trợ của ống nhòm hay kính thiên văn, vì họ có thể quan sát rõ hơn bề mặt Mặt Trăng so với ngày thường.   Hiện tượng nguyệt thực sẽ diễn ra vào tối ngày 28 tháng 11 sắp tới là một nguyệt thực nửa tối kéo dài tới 4 giờ 37 phút. Tuy nhiên khoảng thời gian lý tưởng nhất để quan sát hiện tượng này chỉ kéo dài khoảng 1 giờ từ 21h00 tới 22h00 ngày 28 tháng 11 theo giờ Việt Nam. Trong hình ảnh mô phỏng bên dưới, bạn có thể thấy quá trình xảy ra nguyệt thực nửa tối từ khi nó bắt đầu vào bóng nửa tối (P1), tới cực đại (Greatest) cho tới khi thoát hẳn khỏi bóng nửa tối (P2). Hình ảnh do website Timeanddate.com thực hiện, giờ ghi chú trên hình là giờ UT (Universal Time), giờ của Việt Nam chúng ta là UT+7 (giờ UT gần như trùng khít với giờ GMT)
Vài hình ảnh nguyệt thực nửa tối 21/12/2010
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=211:vai-hinh-nh-nguyt-thc-na-ti-21122010&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Một số bức ảnh do VACA chụp hiện tượng nguyệt thực nửa tối hôm này (ngày 21 tháng 12). Do điều kiện thời tiết không tốt cũng như điều kiện không khí ô nhiễm tại Hà Nội nên những bức ảnh có phần còn chưa thật sự rõ nét, các độc giả bỏ lỡ hiện tượng vừa rồi do không có thời gian hay do điều kiện địa điểm, thời tiết ... có thể tham khảo.     Địa điểm chụp: bán đảo Linh Đàm (Hà Nội), chụp hướng về phía cầu Pháp Vân Thời gian: 17h50 - 18h00 ngày 21/12/2010   Còn hình ảnh cuối này là lúc 18h06 khi hiện tượng nguyệt thực đã qua   Dụng cụ sử dụng:   Thảo luận và chia sẻ những hình ảnh bạn đã chụp về hiện tượng này tại diễn đàn:
Milky Way - thiên hà của chúng ta
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=917:milky-way-thien-ha-cua-chung-ta&amp;catid=40:thien-has&amp;Itemid=150
Vào những đêm mùa hè hay mùa thu khi trời quang đãng, chúng ta thường nhìn thấy một dải sáng màu trắng nhạt vắt ngang qua bầu trời. Ở Việt Nam, người xưa đã sớm gọi dải sáng đó là Ngân Hà (dòng sông bạc), còn theo thần thoại Hy Lạp thì dải sáng đó là dòng sữa bất tử của nữ thần Hera tuôn chảy trên bầu trời do sức hút của người anh hùng Hercules, đó là câu chuyện giải thích cho cái tên của nó là Milky Way (con đường sữa)... Ngày nay, chúng ta biết rằng dải sáng này chính là phần đĩa sáng chính của thiên hà chúng ta. Thiên hà của chúng ta có tên là Milky Way, một trong số ít nhất là 100 tỷ thiên hà trong vũ trụ (theo như ước tính gần đây của các nhà thiên văn học), nhưng đối với chúng ta nó vô cùng đặc biệt bởi vì nó là thiên hà chứa Hệ Mặt Trời của chúng ta – ngôi nhà của tất cả chúng ta. Hiểu về thiên hà của chúng ta chính là để hiểu thêm về vị trí, về quá khứ và cả tương lai của chính chúng ta. Sở dĩ chúng ta nhìn thấy thiên hà Milky Way như một dải sáng rất mờ nhạt và có màu trắng sữa bởi vì nó được tập hợp từ rất nhiều ngôi sao mà chúng ta không thể phân biệt được bằng mắt thường. Từ xưa, khi chưa có kính viễn vọng để quan sát bầu trời, các nhà thiên văn chỉ có thể đưa ra những suy đoán và cũng có một số người đã nghĩ nó được tạo thành từ vô số các sao. Nhưng bằng chứng thực tế cho suy đoán này chỉ được đưa ra vào năm 1610 khi Galileo Galilei sử dụng kính thiên văn của mình để quan sát bầu trời và nhận thấy rất nhiều đốm sáng nhỏ tạo nên dải sáng. Năm 1755, Immanuel Kant, trong luận thuyết của mình rút ra từ công trình của Thomas Wright, suy đoán (chính xác) rằng Milky Way có thể là một đối tượng quay chứa một số lượng rất lớn các sao, được kết nối với nhau bởi lực hấp dẫn, cũng giống như Hệ Mặt Trời của chúng ta nhưng ở quy mô lớn hơn nhiều. Kant cũng phỏng đoán rằng một số tinh vân nhìn thấy trên bầu trời cũng có thể là những thiên hà riêng biệt, tương tự như thiên hà của chúng ta. Kant gọi Milky Way và những “tinh vân ngoài thiên hà” là những “hòn đảo vũ trụ” và thuật ngữ này tồn tại cho đến những năm 1930. Những nỗ lực đầu tiên để mô tả hình dạng của Milky Way và vị trí của Mặt Trời trong nó được thực hiện bởi William Herschel vào năm 1785. Bằng cách đếm cẩn thận số lượng các sao ở các vùng khác nhau trên bầu trời, ông đã đưa ra biểu đồ hình dạng của Milky Way với hệ Mặt Trời nằm gần trung tâm. Năm 1917, Heber Curtis bằng việc quan sát các nova đã ước tính được khoảng cách đến tinh vân Andromeda là 150.000 parsec. Từ đó, ông cho rằng tinh vân xoắn chính là những thiên hà độc lập. Cho đến đầu những năm 1920 phần lớn các nhà thiên văn vẫn nghĩ Milky Way chứa tất cả các sao trong vũ trụ. Năm 1920 đã diễn ra cuộc tranh cãi lớn giữa Harlow Shapley và Heber Curtis về bản chất của Milky Way và kích thước của vũ trụ. Cuộc tranh cãi chỉ kết thúc khi Edwin Hubble quan sát các sao biến quang Cepheid và sử dụng chúng để đo khoảng cách đến Andromeda. Ông tính được rằng Andromeda cách Mặt Trời chúng ta 275.000 parsec, một khoảng cách quá xa để có thể là một phần của Milky Way. Điều này cho thấy rằng thiên hà của chúng ta chỉ là một trong số hàng tỉ thiên hà trong vũ trụ. Nhìn từ Trái Đất, thiên hà Milky Way như một dải sáng màu trắng nhạt rộng khoảng 30 độ vắt ngang nền trời. Ánh sáng của dải sáng này bắt nguồn từ sự tích tụ ánh sáng của các ngôi sao mà chúng ta không phân biệt được và những vật chất nằm ở hướng mặt phẳng thiên hà. Vùng tối trong dải sáng là những vùng mà ánh sáng từ những ngôi sao xa bị chặn lại do bụi giữa các vì sao. Tất cả các ngôi sao mà chúng ta nhìn thấy bằng mắt thường trên bầu trời đều thuộc thiên hà Milky Way (các sao thuộc thiên hà khác quá xa để có thể nhìn thấy độc lập). Vùng nhìn thấy được của mặt phẳng thiên hà chiếm một khu vực trên bầu trời bao trải dài trên phạm vi của 30 chòm sao. Trung tâm thiên hà nằm ở hướng chòm sao Sagittarius và là phần sáng nhất. Từ Sagittarius, dải sáng này đi về hướng tây đến điểm đối diện với trung tâm thiên hà trong chòm sao Auriga, rồi tiếp tục đi hướng tây vòng qua bầu trời và về lại Sagittarius, chia bầu trời thành hai bán cầu gần bằng nhau. Mặt phẳng thiên hà nghiêng khoảng 60 độ so với mặt phẳng quỹ đạo Trái Đất. Nó đi qua chòm sao Cassiopeia gần phía bắc và chòm sao Crux gần phía nam. Milky Way có độ sáng bề mặt tương đối thấp do đó rất dễ bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm ánh sáng hay ánh sáng từ Mặt Trăng. Điều này làm cho việc quan sát trở nên khó khăn đối với thành phố và các vùng ngoại ô, nhưng ở nông thôn thì ngược lại, Milky Way có thể được nhìn thấy khi Mặt Trăng nằm phía dưới đường chân trời.   Milky Way là một thiên hà xoắn dạng thanh (barred spiral galaxy) thuộc cụm thiên hà Địa Phương (Local Group), lớn hơn là siêu cụm thiên hà Virgo, siêu cụm Virgo lại là một phần của siêu cụm Laniakea. Milky Way là thiên hà lớn thứ hai trong Cụm Địa Phương (cụm gồm hơn 50 thiên hà), với đường kính đĩa thiên hà khoảng 100.000 năm ánh sáng và dày khoảng 100 năm ánh sáng. Để dễ hình dung hơn, ta có thể tưởng tượng nếu Hệ Mặt Trời tính đến Sao Hải Vương có kích thước là 25mm thì Milky Way có kích thước xấp xỉ nước Mĩ. Còn có một dải sao bao quanh Milky Way có khả năng thuộc về thiên hà này, nên kích thước của thiên hà có thể là 150 đến 180 nghìn năm ánh sáng.            Theo quan sát và đo đạc mới nhất vào năm 2014, khối lượng của toàn bộ thiên hà Milky Way ước tính là 850 tỉ khối lượng Mặt Trời, tức bằng khoảng một nửa thiên hà Andromeda. Phần lớn khối lượng này là vật chất tối, một dạng vật chất không nhìn thấy được và cũng chưa được hiểu rõ nhưng có tương tác hấp dẫn với các dạng vật chất thông thường, do vậy nó được phát hiện thông qua việc nghiên cứu chuyển động của khí và sao trong thiên hà. Theo nghiên cứu, có một quầng vật chất tối trải rộng tương đối đều ở khoảng cách lớn hơn 100kpc tính từ trung tâm thiên hà. Tổng khối lượng của các sao trong thiên hà nằm trong khoảng từ 46 tỷ khối lượng Mặt Trời đến 64,3 tỷ khối lượng Mặt Trời, trong đó 10% đến 15% là khí, với 2/3 là dạng nguyên tử và 1/3 là dạng phân tử, còn khối lượng bụi giữa các vì sao thì chỉ bằng 1% khối lượng khí đó. Nếu không tính những chuyển động ngẫu nhiên, mang tính cục bộ, thì toàn bộ thiên hà Milky Way đang di chuyển với vận tốc khoảng 630 km/s do sự dãn nở của vũ trụ. Có hai thiên hà nhỏ hơn và nhiều thiên hà lùn trong Cụm Địa Phương quay quanh thiên hà Milky Way, trong đó lớn nhất là Đám mây Magellan Lớn với đường kính khoảng 14000 năm ánh sáng. Thiên hà này có một bạn đồng hành là Đám mây Magellan Nhỏ. Một số thiên hà vệ tinh của Milky Way là thiên hà lùn Canis Major (thiên hà gần nhất), Sagittarius, Ursa Minor, Sculptor, Sextans, Fornax, và Leo I. Những thiên hà lùn nhỏ nhất có đường kính chỉ khoảng 500 năm ánh sáng, bao gồm thiên hà Carina, Draco, và Leo II. Có lẽ vẫn còn nhiều thiên hà lùn chưa được tìm thấy là vệ tinh của Milky Way, năm 2015 đã có 9 trong số đó đã được tìm thấy. Cũng có những thiên hà lùn vừa bị bắt giữ bởi Milky Way, như Omega Centauri. Thiên hà của chúng ta chứa khoảng từ 200 đến 400 tỷ sao. Con số chính xác phụ thuộc vào số lượng của các sao lùn, loại sao rất khó phát hiện, đặc biệt ở khoảng cách lớn hơn 300 năm ánh sáng tính từ Mặt Trời. Trong khi đó, thiên hà hàng xóm của chúng ta là Andromeda chứa khoảng 1000 tỷ sao. Lấp đầy không gian giữa các sao là môi trường liên sao gồm khí và bụi. Theo kết quả quan sát của kính thiên văn không gian Kepler về hệ sao với năm hành tinh có tên là Kepler-32 vào tháng 1 năm 2013, Milky Way chứa ít nhất là một hành tinh trên một sao (tức là có tất cả khoảng 100-400 tỷ hành tinh trong thiên hà). Tháng 11 năm 2013, cũng theo dữ liệu từ Kepler, các nhà thiên văn học ước tính có khoảng 40 tỷ hành tinh có kích thước gần giống Trái Đất nằm trong “vùng sống được” (khu vực có khoảng cách tới sao mẹ đủ để nước có thể tồn tại ở dạng lỏng trên bề mặt hành tinh) quanh các sao tương tự Mặt Trời hoặc các sao lùn đỏ trong thiên hà. Hành tinh gần nhất trong số đó cách chúng ta khoảng 12 năm ánh sáng. Số lượng các hành tinh có kích thước tương tự Trái Đất còn nhiều hơn các hành tinh khí khổng lồ. Bên cạnh các hành tinh, các sao chổi có lẽ cũng rất phổ biến trong Milky Way. Milky Way gồm vùng nhân thiên hà có dạng thanh được bao quanh bởi khí, bụi và những ngôi sao phân bố trong những cấu trúc được gọi là những cánh tay xoắn (spiral arm). Các cánh tay xoắn này chứa bụi và khí với mật độ cao hơn so với mật độ trung bình của thiên hà, cũng như là nơi tập trung các hoạt động hình thành sao. Các cánh tay đều có khởi điểm ở gần trung tâm của thiên hà và toả ra xung quanh theo đường xoắn. Hệ Mặt Trời của chúng ta nằm trên cánh tay Orion – một cánh tay phụ (nhở hơn các cánh tay chính) của thiên hà. Bên ngoài những cánh tay xoắn là Vành đai Monoceros (hay Vành đai ngoài), một vành đai khí và sao bị xé ra từ một thiên hà khác hàng tỷ năm trước. Tuy nhiên gần đây cũng có ý kiến cho rằng cấu trúc của Monoceros là kết quả của sự bóp méo và mở rộng của đĩa thiên hà. Trung tâm thiên hà là một nguồn phát song vô tuyến mạnh, có tên là Sagittarius A*, được cho rằng có sự tồn tại của một lỗ đen siêu nặng với khối lượng từ 4,1 đến 4,5 triệu khối lượng Mặt Trời. Trong vòng bán kính khoảng 10.000 năm ánh sáng tính từ tâm thiên hà là vùng tập trung dày đặc các ngôi sao già gọi là chỗ phình thiên hà. Nhân thiên hà còn được bao quanh bởi một vành đai gọi là “Vành 5kpc” chứa phần lớn hydro phân tử hiện có cũng như hầu hết các hoạt động hình thành sao trong thiên hà. Đĩa thiên hà của Milky Way được bao quanh bởi một quầng (halo) gồm những sao già và các cụm sao cầu, 90% trong số đó nằm trong khoảng 100.000 năm ánh sáng tính từ tâm thiên hà. Các hoạt động hình thành sao diễn ra trong đĩa (đặc biệt ở các cánh tay xoắn, là vùng có mật độ cao), nhưng không diễn ra trong quầng, bởi vì có rất ít khí đủ lạnh để co lại thành các ngôi sao. Những cụm sao mở cũng nằm chủ yếu trong đĩa.   Milky Way được hình thành từ một hoặc một số vùng nhỏ với mật độ cao trong vũ trụ một thời gian ngắn sau Big Bang, một số trong những vùng này là hạt giống của các cụm sa. Trong vòng khoảng vài tỷ năm kể từ khi các sao đầu tiên hình thành, khối lượng của Milky Way đã đủ lớn để nó quay tương đối nhanh. Khí trong môi trường liên sao với tác dụng của lực li tâm đã định hình lại từ một hình dạng cầu thành hình đĩa và các thế hệ sao tiếp theo đều hình thành trong đĩa xoắn này. Hầu hết các sao trẻ, bao gồm cả Mặt Trời, đều thuộc đĩa thiên hà. Khi những ngôi sao đầu tiên bắt đầu hình thành, Milky Way đã trải qua quá trình sáp nhập thiên hà (đặc biệt vào giai đoạn sớm) và bồi tụ khí trực tiếp từ quầng thiên hà. Nó còn được bồi thêm vật chất từ hai trong số các thiên hà vệ tinh của mình, Đám mây Magellan Lớn và Nhỏ. Các tính chất của thiên hà cho thấy nó không sáp nhập với những thiên hà lớn khác trong khoảng 10 tỷ năm gần đây, trong khi ở thiên hà Andrmeda quá trình đó vẫn diễn ra. Nghiên cứu gần đây cho thấy cả Milky Way và Andromeda đều là thiên hà đang trong giai đoạn chuyển tiếp từ thiên hà với hoạt động hình thành sao tích cực sang thiên hà với ít hoạt động hình thành sao, bởi vì chúng đang cạn kiệt khí cho quá trình này. Hệ Mặt Trời của chúng ta nằm trong đĩa thiên hà, gần rìa bên trong của cánh tay xoắn Orion, cách tâm thiên hà khoảng 27.200 năm ánh sáng và cách mặt phẳng chính của đĩa thiên hà khoảng 16-98 năm ánh sáng. Mặt Trời cũng như cả Hệ Mặt Trời, đều nằm trong vùng sống được của thiên hà. Hệ Mặt Trời chuyển động quanh tâm thiên hà theo qũy đạo hình elip với một chút dao động bởi những cánh tay xoắn và sự phân bố khối lượng không đồng đều. Hiện tại nó đang di chuyển hướng về sao Vega (sao sáng nhất của chòm sao Lyra, gần chòm sao Hercules). Phải mất đến 240 triệu năm để Hệ Mặt Trời hoàn thành một vòng quanh thiên hà (gọi là năm thiên hà). Mặt Trời được cho là đã hoàn thành 18-20 chu kì quanh tâm thiên hà, và kể từ khi con người xuất hiện cho đến nay nó đã đi được 1/1250 vòng, với tốc độ là 220 km/s. Những số liệu đo đạc gần đây gợi ý rằng thiên hà Andromeda đang tiến lại gần chúng ta với tốc độ từ 100 đến 140 km/s. Trong vòng 3 đến 4 tỷ năm nữa, có thể có một vụ va chạm giữa Andromeda và Milky Way. Nếu vụ va chạm này xảy ra, hai thiên hà sẽ hợp nhất lại để tạo thành một thiên hà elip duy nhất hoặc là một thiên hà có đĩa lớn trong vòng khoảng hơn 1 tỷ năm. Tháng 9 năm 2015
Vùng sống được mới cho các hành tinh
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=1085:vung-song-duoc-moi-cho-cac-hanh-tinh&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Việc tìm kiếm sự sống, nền văn minh ngoài Trái Đất cần nhường chỗ cho một vùng Goldilocks (hay vùng sống được) thứ hai, theo một nhà nghiêm cứu của Đại học Yale. Trong nhiều thập kỷ, người ta đã nghĩ rằng yếu tố then chốt trong việc xác định một hành tinh có thể tồn tại sự sống hay không là khoảng cách từ nó tới sao mẹ. Ví dụ như trong Hệ Mặt Trời của chúng ta, Sao Kim nằm quá gần Mặt Trời và Sao Hỏa thì nằm ở quá xa, còn Trái Đất nằm ở vị trí vừa đủ. Khoảng cách đó được các nhà khoa học gọi là “vùng sống được” hay “vùng Goldilocks”. Người ta cũng từng cho rằng các hành tinh có thể tự điều chỉnh nhiệt độ bên trong của nó qua sự đối lưu của lớp vỏ - sự chuyển dịch của đá dưới bề mặt được gây ra bởi sự nung nóng và làm mát bên trong. Một hành tinh có thể khởi đầu quá lạnh hoặc quá nóng, nhưng cuối cùng nó sẽ ổn định ở một nhiệt độ nào đó. Một nghiên cứu mới, được đăng tên tạp chí Science Advances ngày 19 tháng 8, cho thấy chỉ nằm trong vùng sống được là không đủ để tồn tại sự sống. Một hành tinh còn cần khởi đầu với một nhiệt độ vừa phải bên trong nó. “Nếu bạn tập hợp tất cả các dữ liệu khoa học về sự phát triển của Trái Đất trong vài tỷ năm qua, và hiểu được ý nghĩa của chúng, bạn sẽ nhận ra rằng sự đối lưu của lớp vỏ khá ít bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ bên trong”, theo Jun Korenaga, tác giả của nghiên cứu và là giáo sư Địa chất và Vật lý địa chất của Yale. Korenaga trình bày một khung lý thuyết tổng quát giải thích sự tự điều chỉnh nhiệt độ được dự đoán do sự đối lưu của lớp vỏ và chỉ ra rằng sự tự điểu chỉnh nhiệt độ này là không có khả năng với các hành tinh như Trái Đất. “Việc thiếu cơ chế tự điều chỉnh có ảnh hưởng lớn tới sự sống của hành tinh” Korenaga cho biết “Các nghiên cứu về sự hình thành hành tinh cho thấy các hành tinh như Trái Đất được tạo thành từ những va chạm lớn, và kết quả của quá trình mang tính ngẫu nhiên đó là rất đa dạng.” Sự đa dạng về kích thước và nhiệt độ bên trong sẽ không cản trở sự phát triển của hành tinh nếu có sự tự điều chỉnh lớp vỏ đối lưu, Korenaga cho biết thêm “Những gì chúng ta cho là hiển nhiên trên hành tinh, như các đại dương và lục sẽ không tồn tại nếu nhiệt độ bên trong của Trái Đất ở trong một phạm vi nhất định, điều đó có nghĩa là lịch sử khởi đầu của Trái Đất không thể quá nóng hoặc quá lạnh”. Viện Sinh học thiên văn NASA đã hỗ trợ nghiên cứu. Korenaga là một điều tra viên của nhóm nghiên cứu  "Alternative Earths" của NASA, được thực hiện dựa trên các nguyên lý về cách Trái Đất đã duy trì một sinh quyển kéo dài hầu hết lịch sử của nó, cách bầu sinh quyển biểu hiện trong sinh học tự nhiên trên qui mô hành tinh và cách tái hiện lại lịch sử này có thể báo hiệu khả năng tồn tại sự sống trong và ngoài Hệ Mặt Trời.
Khám phá trung tâm tinh vân Lagoon
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=894:kham-pha-trung-tam-tinh-van-lagoon&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Rất nhiều trong số những cảnh tượng ngoạn mục nhất của vũ trụ được tạo nên bởi các tinh vân - những đám mây khí nóng và sáng. Bức ảnh mới này của kính thiên văn không gian Hubble cho thấy vùng trung tâm của tinh vân Lagoon (tinh vân đầm nước), một đối tượng với cái tên tưởng như yên bình. Khu vực của nó được lấp đầy bởi gió dữ dội từ các sao nóng, các luồng khí, và sự tạo sao mạnh mẽ, tất cả đặt trong một đám phức tạp của bụi và khí. Các tinh vân thường được đặt tên dựa trên các đặc điểm cơ bản của chúng - chẳng hạn những tinh vân tuyệt đẹp như Ring Nebula (Tinh vân hình nhẫn), Horsehead Nebula (Tinh vân đầu ngựa) và Butterfly Nebula (tinh vân con bướm). Bức ảnh mới này của kính thiên văn không gian Hubble ghi lại hình ảnh vùng trung tâm của tinh vân Lagoon, còn được biết tới với tên gọi khác là Messier 8 (M8) - một tinh vân trong chòm sao Sagittarius (Cung Thủ). Cảm hứng cho việc đặt tên tinh vân này không thật rõ ràng vì bức ảnh này chỉ chụp lại phần trung tâm của tinh vân. Cái tên "đầm nước" tỏ ra phù hợp hơn khi quan sát ở góc nhìn rộng - vùng bụi có hình như một cái đầm (hay hồ) lan rộng ra xung quanh giữa phần khí phát sáng của nó. Một điểm khác nhau nữa giữa bức ảnh này và những hình ảnh trước đây là hình ảnh này được kết hợp kết quả quan sát ở hai dải sóng hồng ngoại và biểu kiến, trong khi các hình ảnh trước đây chỉ ghi lại hình ảnh ở bước sóng biểu kiến. Bức xạ hồng ngoại có thể xuyên qua những vùng bụi-khí mỏng và tối, hé lộ nhiều điều hơn về câu trúc bên trong của tinh vân và giúp chúng ta dựng nên bức tranh mới hoàn toàn khác biệt. Tuy nhiên, ngay cả với ánh sáng biểu kiến, cái tên có vẻ yên bình này cũng vẫn không được phù hợp lắm nếu như so sánh với hoạt động dữ dội bên trong tinh vân này. Ngôi sao sáng nằm giữa vùng mây tối ở trung tâm bức ảnh này có tên là Herschel 36. Nó là nguyên nhân gây ra đám mây xung quanh, ném vật chất ra xa và gây ảnh hưởng lên hình dạng của nó. Herschel 36 là nguồn chính của bức xạ ion hóa trong khu vực này của tinh vân Lagoon. Theo Science Daily
Quan sát mưa sao băng Orionids 2015
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=928:quan-sat-mua-sao-bang-orionids-2015&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Rạng sáng các ngày 21 và 22 tháng 10 tới đây, người yêu thích quan sát bầu trời sẽ có cơ hội chứng kiến cực điểm của mưa sao băng Orionids. Đây là mưa sao băng được coi là tương đối lớn hàng năm. Năm nay, nếu thời tiết cho phép, chúng ta sẽ có thể thấy nhiều sao băng dài và sáng với mật độ khoảng 20 sao băng mỗi giờ. Lần đầu tiên mưa sao băng này được quan sát là vào các năm 1839 và 1940 bởi nhà quan sát E. C. Herrick. Lần đầu quan sát vào năm 1839 ông đã kết luận rằng trận mưa sao băng kéo dài từ mùng 8 tới 15 tháng 10. Lần quan sát năm 1840 ông đính chính rằng nó bắt đầu mùng 8 và kết thúc vào 25 tháng 10. Tuy nhiên, người đầu tiên quan sát chính xác trận mưa sao băng này là nhà thiên văn Herschel, ông đã quan sát được 14 sao băng của trận này xuất phát từ khu vực của chòm sao Orion vào ngày 18 tháng 10 năm 1864 và năm tiếp theo, ông đã kết luận cực điểm của nó chính là là 20 tháng 10 (năm 1965). Khi đó Orionids đã là một trong số những trận mưa sao băng lớn nhất hàng năm có thể quan sát. 1,5 thế kỉ trôi qua, các thiên thạch của Orionids vẫn còn rất nhiều trên khí quyển Trái Đất và chúng ta vẫn có thể quan sát trận mưa sao băng này dù với mật độ sao băng nhỏ hơn trước khá nhiều. Nó không còn là một trận mưa sao băng thật sự lớn khi so sánh với các trận Perseids, Geminids hay thậm chí Leonids, nhưng vẫn là một hiện tượng thiên văn đáng chú ý với những người yêu thích quan sát bầu trời với mật độ những năm gần đây từ 25 tới 30 sao băng mỗi giờ. (trích lại đoạn giới thiệu về hiện tượng này trong bài viết cũ của VACA) Năm 2015 này, hai đêm cực điểm của Orionids rơi vào thời gian nửa đầu tháng âm lịch. Do đó Trăng khá sáng nhưng sẽ lặn sớm, và khi ánh sáng của Mặt Trăng hoàn toàn không ảnh hưởng tới bầu trời nữa thì đó là lúc phù hợp nhất để quan sát. Như vậy, thời điểm lý tưởng nhất cho việc theo dõi hiện tượng này là vào rạng sáng ngày 21 và 22 tháng 10, trong khoảng từ 2h đến trước lúc bình minh. Bạn nên chọn cho mình vị trí quan sát có góc nhìn rộng, ít bị cản trở bởi cây cối hay các toà nhà cao, đồng thời hạn chế những nơi có nhiều ánh sáng nhân tạo, vì khi một bóng đèn chiếu vào mắt bạn thì nó sẽ làm bạn khó quan sát được bầu trời tối phía trên hơn nhiều (tất nhiên, đừng quên lưu ý bảo đảm an toàn cho bạn khi ra ngoài vào giữa đêm) Vào thời điểm như nêu trên, hãy nhìn về bầu trời phía Đông, hơi chếch sang Đông Nam và tìm chòm sao Orion. Chòm sao này rất dễ nhận ra bởi ba ngôi sao sáng nằm thẳng hàng và cách đều nhau tạo thành thắt lưng của Orion, ngoài ra độ sáng nổi bật của các sao Betelgeuse, Rigel và Ballatrix cũng là những điểm khiến bạn không khó khăn gì để tìm thấy chòm sao này. Hầu hết các sao băng của Orionids đều xuất phát từ khu vực lân cận của chòm sao Orion, như bạn có thể thấy trong hình dưới. Hãy hết sức lưu ý rằng bạn chỉ có thể quan sát hiện tượng này khi trời không mây hoặc rất ít mây. Mặt khác, những khu vực đô thị có mức độ ô nhiễm cao cũng làm ảnh hưởng rất lớn tới việc quan sát. Một phép thử đơn giản là hãy đứng ngoài trời tối từ 3 tới 5 phút để mắt bạn thích nghi, rồi quan sát bầu trời phía trên, nếu bạn không thể đếm được ít nhất vài chục ngôi sao (những chấm sáng bình thường trên bầu trời) thì bạn gần như không có cơ hội nào để quan sát mưa sao băng. Một chiếc ống nhòm hay kính thiên văn nhỏ có thể giúp bạn ngắm dải sáng của Milky Way nếu muốn, nhưng chúng hoàn toàn vô ích đối với việc quan sát mưa sao băng. Cái bạn nên mang theo là một chiếc ghế, giường gấp hay chiếu để có tư thế thoải mái nhất khi quan sát, ngoài ra nếu trời lạnh cũng đừng quên áo ấm, và bất cứ thứ gì khác mà bạn thấy có thể bảo vệ an toàn cho bạn nếu không phải bạn đang quan sát tại ngay ban công nhà mình. Chúc các bạn may mắn! (Chủ tịch Hội thiên văn học trẻ Việt Nam - VACA)
Tuyển sinh lớp học thiên văn tháng 11/2012
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=616:tuyen-sinh-lop-thien-van-thang-11-2012&amp;catid=34:hoat-dong&amp;Itemid=136
Lớp học thiên văn cơ bản thông báo tuyển sinh tháng 11 năm 2012 tại Hà Nội. Đây là khóa học được tổ chức do sự hợp tác giữa Tổ chức Giáo dục Khai Sáng và CLB Thiên văn học trẻ Việt Nam (VACA).   Đây là khóa học ngắn ngày gồm 8 buổi học lý thuyết, 1 hoặc 2 buổi thực hành cùng một số hoạt động ngoại khóa, giao lưu nhỏ (địa điểm linh động). Đối tượng khóa học là các bạn: -Tuổi tối thiểu: 15 (đã tốt nghiệp chương trình THCS) -Tuổi tối đa: không giới hạn (áp dụng với mọi độ tuổi và ngành nghề) -Lịch sử thiên văn học và cách hiểu đúng về thiên văn cũng như các mũi nhọn hiện nay -Các qui ước cơ bản sử dụng trong thiên văn -Sự phân định các chòm sao trên bầu trời và cách xác định các chòm sao cơ bản -Sự ra đời của Trái Đất và Hệ Mặt Trời -Sự sống trên Trái Đất -Tiến hóa của các ngôi sao và thiên hà -Các lực và các hạt cơ bản trong tự nhiên, các mô hình vũ trụ -Kính thiên văn: cấu tạo, thực hành làm kính và sử dụng kính quan sát bầu trời -Tương quan giữa thiên văn phương Đông và phương Tây -Nguồn gốc và cơ sở của tử vi, chiêm tinh học và tương quan của chúng với thiên văn ngày nay   (hai phần cuối là nội dung bổ sung so với các khóa đã tổ chức trước đây) - Chủ tịch CLB Thiên văn học trẻ Việt Nam - Cố vấn Vật lý thiên văn tổ chức Giáo dục Khai Sáng - Nguyên phó trưởng ban thông tin khoa học Hội trí thức trẻ Việt Nam Trong phạm vi không quá 10 buổi, khóa học trang bị cho học viên không quá nhiều các thông tin, số liệu hay các phương trình phức tạp mà thay vào đó là các qui ước, các cách nhìn nhận chính xác về các vấn đề trong thiên văn học và các kĩ năng cơ bản trong quan sát cũng như tìm kiếm và tra cứu các tài liệu thiên văn. Khóa học cũng sử dụng nhiều hình ảnh và dụng cụ minh họa cùng các buổi thực hành trực quan để tạo điều kiện cho học viên tiếp thu tri thức một cách gần gũi và sâu sắc hơn. Xin tham khảo một số hình ảnh của khóa học này đã được tổ chức bằng cách Download giáo trình sử dụng trong khóa học: - Thời gian học tập: mỗi tuần 2 buổi, từ 15h00 tới 17h00, ngayf thứ bảy và chủ nhật hàng tuần, riêng buổi học đầu tiên bắt đầu vào tối ngày 15 tháng 11, buổi thứ hai ngày chủ nhạt 18 tháng 11 và tiếp tục hoạt động theo dự kiến nêu trên. - Địa điểm: 12, N6 ngõ 90 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội (bản đồ dưới)   Nhân dịp kỉ niệm thành lập Tổ chức Giáo dục Khai Sáng (ngày 11 tháng 11), học phí cho khóa học này được giảm chỉ còn: 400.000 VND (học viên không phải đóng thêm bất cứ khoản phí nào như in tài liệu, cấp chứng chỉ cuối khóa) * . Việc đăng kí trực tuyến sẽ giúp ban tổ chức xác minh số lượng học viên và chủ động liên lạc để qua đó hỗ trợ các bạn tốt hơn. * và đóng học phí tại tọa đàm ngày mùng 2 tháng 11 như đã thông báo * : Cách 1: Liên hệ trực tiếp và đóng học phí tại: Tổ chức Giáo dục Khai Sáng: Số 10 ngõ 84 phố Chùa Láng, Đống Đa, Hà Nội Điện thoại: 04.66728504 CLB Thiên văn học trẻ Việt Nam: Số 90c phố Khương Đình, Thanh Xuân, Hà Nội Điện thoại: 091.530.1116 (Bạn vui lòng liên hệ trước qua điện thoại trước khi tới đăng kí) Cách 2: Thanh toán học phí bằng chuyển khoản Học viên đăng kí thông tin trực tuyến theo mẫu trên rồi chuyển học phí qua tài khoản ngân hàng sau. Ngân hàng Vietinbank Chủ tài khoản: Đặng Vũ Tuấn Sơn Số CMND: 162704037 Số tài khoản: 711A08575485 Sau khi gửi thành công, bạn vui lòng gửi mail hoặc nhắn tin tới số điện thoại 0915301116 thông báo việc chuyển tiền (trong mail/tin nhắn bao gồm tên của bạn và số tiền đã chuyển) để giảng viên kiểm tra tài khoản và xác minh thông tin của bạn. : Giảm học phí cho các bạn đăng kí trực tiếp tại tọa đàm hoặc đăng kí trước ngày 12 tháng 11 theo một trong hai cách trên. Học phí khuyến mại cho các hình thức đăng kí này là 350.000VND , tức là bạn chỉ cần đóng 350.000VND khi đăng kí hoặc chuyển khoản trước ngày 10/11. Đặng Vũ Tuấn Sơn - giảng viên chính Điện thoại: 0915301116 E-mail: Y!M: darkknight_r2000
Dự đoán các vụ nổ tiểu hành tinh
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=1199:du-doan-cac-vu-no-tieu-hanh-tinh&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Thiên thạch Chelyabinsk hồi năm 2013 đã chứng minh một điều. Đó là một tiểu hành tinh hoặc thiên thạch không cần thiết phải va chạm trực tiếp với Trái Đất mới có thể gây ra thiệt hại đáng kể.   Thiên thạch Chelyabinsk đã cháy sáng như một quả cầu lửa sáng hơn cả Mặt Trời khi nó lao vào khí quyển Trái Đất ở khu vực nước Nga và phát nổ ở độ cao 30km trên bầu trời vùng Chelyabinsk Oblast với sức nổ của 500.000 tấn thuốc nổ TNT. Sóng xung kích từ vụ nổ này đã làm vỡ hàng nghìn cửa sổ và khiến hàng trăm người phải nhập viện. Hiện nay, các nhà khoa học ở Phòng thí nghiệm quốc gia Lawrence Berkeley (Mỹ) đang cố gắng nâng cao khả năng dự đoán đe dọa từ những vụ nổ tương tự. Những nỗ lực của họ là một phần của Dự án đánh giá mối đe dọa từ tiểu hành tinh do Văn phòng điều phối phòng thủ hành tinh thuộc NASA thực hiện. Harold Barnard, một nhà khoa học tại Berkeley, đã thiết kế một căn phòng có thể tái tạo lại áp lực lên tiểu hành tinh khi nó lao thẳng qua khí quyển. Các nhà khoa học lên kế hoạch sử dụng tia X để ghi hình các mảnh của tiểu hành tinh dưới áp lực cực cao và phân tích tương tác của lực với các thành phần hóa học và cấu trúc khác nhau của tiểu hành tinh hoặc thiên thạch. "Chúng tôi muốn hiểu được cơ chế vỡ ra của các thiên thạch," Barnard nói. Mặc dù mục tiêu của nghiên cứu tương đối mới, phương pháp này khá quen thuộc đối với NASA. Nó đã được sử dụng để nghiên cứu các hiệu ứng của các lực khí quyển và dao động tác dụng lên các vật liệu khác nhau trong nhiều thế kỷ qua. "Nó là một phương pháp khoa học phức tạp, nhưng nó có nhiều điểm chung với việc chế tạo tàu không gian. Chúng tôi sẽ sử dụng những công cụ đã được sử dụng để dựng mô hình tàu không gian cho các tiểu hành tinh" - Francesco Panerai tại Trung tâm nghiên cứu Ames của NASA cho biết. Nhưng những tảng đá từ không gian không giống các kim loại công nghệ cao và những vật liệu tổng hợp khác được dùng để chế tạo tên lửa và tàu không gian. Việc hiểu được đặc trưng cấu trúc của các mảnh thiên thạch, cách mà chúng gãy vỡ và phân tách, là một câu đố khó giải quyết. Những hình ảnh chụp ở tia X sẽ cho phép các nhà khoa học dựng mô hình 3D của những tảng đá không gian này và nghiên cứu hiệu ứng của sự thay đổi áp suất và nhiệt độ cực cao tác động lên các vi cấu trúc của vật thể. Các nhà khoa học cho biết công nghệ ghi hình và các mô hình máy tính đang được phát triển để nghiên cứu của họ có thể giải quyết được các vấn đề.
Chúa có chơi súc sắc không?
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=335:chua-co-choi-suc-sac-khong&amp;catid=32&amp;Itemid=189
Xin giới thiệu cùng độc giả bản dịch bài viết nổi tiếng của Stephen Hawking "Does Dod play dice" (Chúa có chơi súc sắc không). Bài viết này được Hawking thực hiện năm 1999, lưu ý rằng từ đó đến nay chúng ta đã biết thêm nhiều điều về vũ trụ.   Dịch giả trẻ Phạm Quỳnh Chi dịch bài viết này vào năm 2011, khi đang là học sinh trường THPT Hanoi Amsterdam. Tuy là bản dịch của một học sinh, nhưng bản dịch đạt chất lượng khá tốt, chúng tôi chỉ hiệu chỉnh rất ít, không sửa chữa để giữ nguyên văn phong của dịch giả. Xin trân trọng giới thiệu! Bài giảng này là về liệu chúng ta có thể dự đoán được tương lai, hay tương lai là ngẫu hứng và không thể đoán biết. Vào thời cố đại, thế giới chắc chắn có vẻ khá khó đoán biết. Thảm hoạ như bão hoặc bệnh dịch xảy ra không có báo trước, và không có nguyên nhân rõ ràng. Người cổ đại quy những hiện tượng tự nhiên như vậy cho các vị thần, những nhân vật hành xử một cách rất ngẫu hứng và thất thường. Không có cách nào để dự đoán họ sẽ làm gì, và niềm hi vọng duy nhất là lấy lòng họ với quà cáp hoặc hành động. Ngày nay, nhiều người vẫn phần nào ủng hộ niềm tin này, và họ cố gắng thoả hiệp với vận may. Họ tình nguyện làm một số điều nhất định để hi vọng họ có thể có một điểm A trong một khoá học, hay đỗ kì thi lái xe. Tuy nhiên, dần dần con người đã để ý một số quy tắc nhất định của thiên nhiên. Những quy tắc này thể hiện rõ nhất qua sự chuyển động của những vật thể trên bầu trời. Vì vậy, thiên văn học là ngành khoa học đầu tiên được phát triển. Hơn 300 năm trước, Newton đã chứng minh một nền tảng toán học vững chắc của thiên văn học, và ngày hôm nay chúng ta vẫn sử dụng định luật vạn vật hấp dẫn của ông để dự đoán sự chuyển động của hầu hết các hành tinh. Tiếp sau thiên văn học, các hiện tượng tự nhiên khác cũng đã được chứng minh là tuân theo một số quy tắc khoa học nhất định. Điều này đã dẫn tới sự phát triển của thuyết khoa học tiền định, lý thuyết đã được phát biểu công khai đầu tiên bời nhà khoa học người Pháp, Laplace. Ông đã nói, nếu tại một thời điểm, chúng ta biết vị trí và vận tốc của tất cả các hạt của vũ trụ, vậy chúng ta có thể tính toán hoạt động của chúng tại bất kì một thời điểm nào khác, trong quá khứ hay tương lai. Đã có một câu chuyện vui, rằng khi Napoleon hỏi Laplace Chúa đóng vai trò gì trong mối quan hệ này, Laplace đã trả lời: “Thưa ngài, tôi chưa bao giờ quan tâm tới giả thiết đó.” Tôi không nghĩ rằng Laplace ý nói rằng Chúa không tồn tại. Chỉ là Chúa đứng ngoài, để không phá vỡ các quy tắc của khoa học. Đó chắc chắn là quan điểm của mọi nhà khoa học. Một định luật khoa học sẽ không còn là một định luật khoa học, nếu nó chỉ áp dụng khi một đấng tối cao nào đó quyết định không can thiệp và để mặc mọi việc diễn ra. Ý tưởng rằng trạng thái của vũ trụ tại một thời điểm quyết định trạng thái của tất cả các thời điểm  còn lại đã trở thành một nguyên lí trung tâm của khoa học, kể từ thời của Laplace. Nó gợi ý rằng chúng ta có thể đoán được tương lai, ít ra là trên lý thuyết. Tuy nhiên, trong thực tế, khả năng dự đoán tương lai của chúng ta đã bị hạn chế một cách nghiêm trọng bởi độ phức tạp của các phương trình, và bởi việc các phương trình thường có một thành phần gọi là sự mất trật tự. Như những người đã xem bộ phim Công viên kỉ Jura sẽ hiểu, điều này có nghĩa là một sự rối loạn nhỏ ở một nơi có thể gây ra một thay đổi lớn ở một nơi khác. Một con bướm vỗ cánh cũng có thể gây mưa ở Công viên Trung tâm, New York. Vấn đề là, điều này không có tính lặp lại. Lần tiếp theo con bướm vỗ cánh, rất nhiều các yếu tố khác sẽ trở nên khác biệt, và những điều này cũng sẽ gây ảnh hưởng. Đó là lí do tại sao dự báo thời tiết lại không đáng tin cậy như vậy. Bất chấp những khó khăn thực tiễn, thuyết khoa học tiền định vẫn là niềm tin chính thức xuyên suốt thế kỉ XIX. Tuy nhiên, vào thế kỉ XX, đã có hai sự phát triển chỉ ra rằng giấc mơ của Laplace để dự đoán trọn vẹn tương lai, không thể được thực hiện. Phát triển thứ nhất là ở cơ học lượng tử. Lý thuyết này lần đầu tiên được đề xuất bởi nhà vật lý học người Đức, Max Planck, như một giả thiết để giải thích một nghịch lý nổi tiếng. Theo những quan niệm của thời Laplace vào thế kỉ XIX, một vật thể nóng, ví dụ như một mảnh kim loại nóng đỏ, sẽ phát ra phóng xạ. Nó sẽ mất năng lượng ở dạng sóng vô tuyến, tia hồng ngoại, ánh sáng nhìn thấy, tia cực tím, tia X và tia gamma voi cùng một vận tốc không thay đổi. Điều này không chỉ có nghĩa là tất cả chúng ta sẽ cùng chết vì ung thư da, nó còn có nghĩa là tất cả mọi vật thể trong vũ trụ có cùng chung nhiệt độ, và điều này hiển nhiên sai. Tuy nhiên, Planck đã chứng minh chúng ta có thể thoát khỏi thảm hoạ này, nếu chúng ta từ bỏ quan niệm rằng lượng phóng xạ có thể mang bất cứ giá trị nào, và thay vào đó phát biểu rằng phóng xạ tồn tại duy nhất theo phần hay định lượng của một định mức nhất định. Điều này gần giống như việc nói bạn không thể mua đường bừa bãi trong siêu thị, mà phải mua theo từng cân. Năng lượng ở trong từng phần hay định lượng này sẽ cao hơn đối với tia cực tím và tia X, và thấp hơn đối với tia hồng ngoại và ánh sáng nhìn thấy. Vì vậy, trừ khi một vật thể có nhiệt độ rất cao, ví dụ như Mặt Trời, nó sẽ không có bao giờ có đủ năng lượng để phát ra một chút năng lượng nào ở dạng tia cực tím hoặc tia X. Đây là lí do vì sao chúng ta không bị cháy nắng vì một tách cà phê. Planck coi ý tưởng về những phần hoặc định lượng này đơn thuần chỉ là một mẹo toán học mà không có bất cứ giá trị nào trong thực tế. Tuy nhiên, các nhà vật lý đang bắt đầu tìm thấy những hiện tượng khác chỉ có thể được giải thích dưới dạng các đại lượng mang các giá trị hằng số nhất định, chứ không phải những đại lượng biến thiên. Ví dụ, nghiên cứu đã chứng minh các hạt cơ sở hoạt động giống như những con quay, quay xung quanh một trục nhất định. Tuy nhiên vận tốc quay không thể nhận một giá trị bất kì. Nó phải là một bội số của một đơn vị nhất định. Vì đơn vị này là rất nhỏ, chúng ta thường không để ý một con quay thường quay chậm lại qua một chuỗi các hành động diễn ra rất chóng vánh gồm các bước riêng biệt, thay vì một quá trình liên tiếp. Nhưng với những con quay rất nhỏ như các nguyên tử, bản chất gián đoạn của sự quay này là rất quan trọng. Chỉ một thời gian sau mọi người mới nhận ra mối liên hệ giữa lý thuyết về đơn vị năng lượng ở trên và thuyết khoa học tiền định. Năm 1926, Werner Heisenberg, một nhà vật lý học người Đức khác, đã chứng minh rằng chúng ta không thể xác định đồng thời vị trí và vận tốc của một hạt một cách chính xác. Để biết được một hạt đang ở đâu, nó phải được chiếu sáng. Nhưng theo kết quả nghiên cứu của Planck, chúng ta không thể dùng một lượng ánh sáng bất kì. Chúng ta phải sử dụng ít nhất một đơn vị năng lượng ánh sáng. Nhưng việc này sẽ làm ảnh hưởng tới hạt chúng ta đang nghiên cứu, và khiến nó thay đổi vận tốc một cách không thể đoán trước. Nó là một tình huống khá bất lực: chúng ta càng cố đo đạc vị trí của hạt một cách càng chính xác, chúng ta sẽ càng không thể đo được vận tốc của hạt, và ngược lại. Điều này đã được trình bày ở Nguyên lý bất định của Heisenberg; tích của tính bất định trong vị trí của hạt và tính bất định trong vận tốc của nó sẽ luôn luôn lớn hơn thương số giữa khối lượng của hạt và một đại lượng được gọi là hằng số của Planck. Laplace hoài bão về thuyết khoa học tiền định đòi hỏi chúng ta phải biết tất cả các vị trí và vận tốc của tất cả các hạt trong vũ trụ vào bất cứ thời điểm nào. Vì vậy, nó đã bị phản chứng một cách nghiêm trọng bởi nguyên lý bất định của Heisenberg. Làm sao chúng ta có thể dự đoán được tương lai, khi chúng ta không thể đo đạc một cách chính xác vị trí và vận tốc của tất cả các hạt vào thời điểm hiện tại. Dù chúng ta có một hệ thống máy móc hiện đại đến đâu, nếu chúng ta chỉ có những dữ liệu sai lệch, chúng ta sẽ luôn nhận được những dự đoán sai lệch. Einstein rất không hài lòng về tính bất định này của tự nhiên. Quan điểm của ông đã được thể hiện rất rõ qua câu nói nổi tiếng: “Chúa không chơi súc sắc.” Ông cảm thấy sự khó đoán biết chỉ là tạm thời: nhưng còn một kha năng ẩn đằng sau, khi tất cả các hạt sẽ được xác định chính xác vị trí và vận tốc, và khả năng này sẽ phát triển dựa trên thuyết khoa học tiền định của Laplace. Chúa có thể đã biết về thực tế này, nhưng bản chất lượng tử của ánh sáng sẽ cản trở chúng ta nhìn thấy nó, trừ khi là xuyên qua một thấu kính mờ mịt. Quan điểm của Einstein đã trở thành điều mà ngày nay được gọi là một thuyết biến số ẩn. Thuyết biến số ẩn có lẽ là cách rõ ràng nhất để áp dụng nguyên lý bất định vào vật lý. Thuyết này dựng lên nền tảng của vũ trụ nhìn qua con mắt của nhiều nhà khoa học và triết gia khoa học. Nhưng thuyết biến số ẩn này là sai. John Bell, nhà vật lý người Anh người vừa qua đời cách đây không lâu đã chế tạo một thí nghiệm có thể nhận biết được các biến số ẩn. Khi thí nghiệm được tiến hành rất kĩ lưỡng, kết quả không phù hợp với sự tồn tại của các biến số ẩn. Vì vậy, nó trở nên rất rõ ràng rằng kể cả Chúa cũng nằm trong tầm ảnh hưởng  của nguyên lý bất định, và Người không thể biết vị trí và vận tốc của một hạt. Vậy nên Chúa không thể không chơi súc sắc với vũ trụ. Tất cả các bằng chứng đều chỉ ra rằng Người là một con bạc không biết mệt mỏi, liên tục ném súc sắc bất cứ khi nào có cơ hội. Các nhà khoa học khác có một quan điểm khá thoải mái so với Einstein trong việc thay đổi quan điểm khoa học tiền định của thế kỉ XIX. Một lý thuyết mới, được gọi là cơ học lượng tử, đã được giới thiệu bởi Heisenberg, nhà vật lí học người Úc Erwin Schroedinger và nhà vật lý người Anh Paul Dirac. Dù cơ học lượng tử đã có mặt gần 70 năm, thuyết này vẫn không được hiểu rõ hay được tôn trọng, kể cả từ phía những người sử dụng nó để tính toán các phương trình. Tuy vậy, tất cả chúng ta đều nên chú ý đến thuyết này, vì nó mang lại một bức tranh hoàn toàn khác biệt về vũ trụ hữu hình, và về thực tế. Trong cơ học lượng tử, vận tốc và vị trí của các hạt không được xác định rõ. Thay vào đó, chúng được biểu diễn bởi các hàm sóng. Đại lượng này mang một giá trị khác nhau tại mỗi điểm của vũ trụ. Độ lớn của hàm sóng cung cấp xác suất hạt đang nghiên cứu sẽ được tìm thấy tại một điểm. Vận tốc hàm sóng biến thiên từ điểm này tới điểm khác cung cấp vận tốc của hạt đó. Một hạt có thể có một hàm sóng đột ngột đạt cực đại trong một vùng nhỏ. Điều này nghĩa là tính khó đoán biết được tại vị trí đó là rất nhỏ. Nhưng hàm sóng sẽ biến thiên rất nhanh chóng ở gần đỉnh, lên ở một bên, và  xuống ở bên còn lại. Vì thế tính khó đoán biết được của vận tốc sẽ trở nên rất lớn. Tương tự, một hạt khác có thể có một hàm sóng với tính bất định ở vận tốc rất nhỏ, nhưng tính bất định ở vị trí rất lớn. Một hàm sóng cung cấp tất cả những điều chúng ta cần biết về một hạt: vị trí và vận tốc của nó. Nếu chúng ta biết hàm sóng tại một thời điểm, vậy giá trị của nó tại các thời điểm khác có thể được xác định bằng phương trình Schroedinger. Vì vậy, vẫn tồn tại một yếu tố tiền định nhất định, nhưng không chính xác như điều Laplace đã hình dung. Thay vì có thể dự đoán vị trí và vận tốc của các hạt, tất cả những gì chúng ta có thể dự đoán chỉ là hàm sóng. Điều này có nghĩa là chúng ta chỉ có thể dự đoán một nửa những gì chúng ta có thể dự đoán, theo như quan điểm của thế kỉ XIX. Dù cơ học lượng tử dẫn đến sự không chắc chắn, khi chúng ta cố gắng dự đoán cả vị trí và vận tốc, chúng ta vẫn có thể dự đoán một cách chắn chắn một sự kết hợp của vận tốc và vị trí. Tuy nhiên, ngay cả khả năng chắc chắn này vẫn bị đe doạ bởi những phát hiện gần đây. Vấn đề nảy sinh vì trọng lực có thể làm cong không gian và thời gian, vì vậy sẽ tồn tại những khu vực chúng ta không thể quan sát. Năm 1799, Laplace cũng đã viết một bài nghiên cứu về việc một số ngôi sao có thể có một trọng trường mạnh tới mức tới ánh sáng cũng không thể thoát ra ngoài, mà sẽ bị kéo trở về phía ngôi sao. Ông thậm chí còn tính toán được rằng một ngôi sao với kích thước tương đương với Mặt Trời, nhưng 250 lần lớn hơn, vẫn sẽ có tính chất này. Nhưng dù Laplace có nhận ra hay không, ý tưởng tương tự cũng đã được đề xuất 16 năm trước bởi một giáo sư từ Cambridge, John Mitchell. Cả Mitchell và Laplace nghĩ rằng ánh sáng được tạo nên bởi các hạt, giống như các quả đạn đại bác, vì vậy có thể bị làm giảm vận tốc bởi trọng lực, và bị kéo về phía các ngôi sao. Nhưng một thí nghiệm nổi tiếng tiến hành bởi hai người Mỹ, Michelson và Morley vào năm 1887 đã chứng minh rằng ánh sáng luôn luôn đi với một vận tốc là 186000 dặm một giây, không kể nó xuất phát từ đâu. Vì vậy trọng lực không thể làm ánh sáng di chuyển chậm lại, hay thậm chí là di chuyển ngược lại. Điều này là bất khả thi, theo như những quan điểm được chấp nhận thời bấy giờ về không gian và thời gian. Nhưng vào năm 1915, Einstein đưa ra Thuyết Tương đối rộng. Ông chứng minh rằng không gian và thời gian không phải là những chủ thể tồn tại riêng rẽ và độc lập, thay vào đó, chúng chỉ là nhữg hướng đi khác nhau của một chủ thể chung gọi là không - thời gian. Không - thời gian không phẳng, mà bị bẻ cong bởi các vật chất và năng lượng ở trong nó. Để hiểu được điều này, chúng ta hãy hình dung một tấm cao su với một quả cân được đặt trên nó để đại diện cho một ngôi sao. Quả cân này sẽ tạo ra một chỗ lõm ở trên tấm cao su, và sẽ khiến những vùng gần quả cân bị bẻ cong, thay vì phẳng. Nếu chúng ta thả những hòn bi ở trên tấm cao su, hướng dịch chuyển của chúng sẽ bị cong, thay vì là những đường thẳng. Vào năm 1919, một đoàn thám hiểm người Anh đã tới Tây Phi đã quan sát ánh sáng từ các ngôi sao từ xa, băng qua Mặt trời trong một dịp nhật thực. Họ đã tìm ra rằng hình ảnh của các ngôi sao đã bị dịch chuyển nhẹ khỏi vị trí bình thường của chúng. Điều này phản ánh rằng đường đi của ánh sáng từ các ngôi sao đã bị bẻ cong bởi vùng không gian - thời gian bị bẻ cong xung quanh Mặt trời. Thuyết tương đối đã được chứng minh là đúng. Hãy hình dung rằng chúng ta tiếp tục đặt thêm nhiều quả cân nặng hơn trên tấm cao su. Chúng sẽ làm tấm cao su tiếp tục bị oằn xuống. Cuối cùng, tới một trọng lượng và kích thước nhất định, chúng sẽ tạo thành một cái hố không đáy ở tấm cao su, một cái hố mà tất cả các hạt đều có thể đi vào, nhưng không hạt nào có thể đi ra. Điều xảy ra trong không - thời gian theo Thuyết Tương đối cũng tương tự. Một ngôi sao sẽ bẻ cong và làm biến dạng không gian - thời gian xung quanh nó, và độ biến dạng sẽ tỉ lệ thuận với trọng lượng và độ rắn của ngôi sao. Nếu một ngôi sao khổng lồ, với tất cả nguyên liệu hạt nhân của nó đã bị đốt cháy, hạ nhiệt độ và co lại quá một kích thước nhất định, nó sẽ tạo ra một cái hố không đáy giữa không gian - thời gian, và ánh sáng không thể thoát khỏi cái lỗ này. Những cái hố này được gọi là Hố đen bởi nhà vật lý người Mỹ John Wheeler, một trong những nhà khoa học đầu tiên nhận ra tầm quan trọng cũng như những vấn đề hố đen mang lại. Cái tên này đã được lưu truyền nhanh chóng. Với những người Mỹ, nó gợi về một thứ gì đó tối tăm và bí ẩn, trong khi với người Anh, có một chút gì đó dư âm về Hố đen của Calcutta. Nhưng người Pháp nghĩ rằng cái tên này mang một chút gì đó khiếm nhã. Hàng năm trời, họ từ chối không sử dụng cái tên này, lấy lí do rằng nó quá thô tục. Nhưng cuối cùng, họ cũng phải đầu hàng. Ai có thể tảng lờ một cái tên nổi tiếng như vậy? Ngày hôm nay, chúng ta đã thu thập được nhiều quan sát chứng minh sự tồn tại của hố đen trong nhiều sự vật, từ những hệ sao đôi, tới trung tâm những thiên hà. Vì vậy hôm nay số đông chúng ta chấp nhận rằng hố đen có tồn tại. Nhưng ngoài nguồn tài nguyên dồi dào cho các phim khoa học viễn tưởng, hố đen còn có một tầm quan trọng lớn đối với thuyết tiền định. Câu trả lời nằm trong một cái hình dán tôi có trong cánh cửa trước phòng làm việc: Không ai có thể quan sát hố đen. Không chỉ các hạt và các nhà du hành bất hạnh bị hút vào một hố đen không bao giờ ra ngoài nữa, cả những thông tin họ mang lại cũng bị thất lạc vĩnh viễn, ít nhất là đối với địa phận của chúng ta trong vũ trụ. Chúng ta có thể ném những ti vi, nhẫn kim cương, và kể cả những kẻ thù đáng ghét nhất của chúng ta vào một hố đen, và tất cả những gì cái hố đen sẽ ghi nhớ là tổng khối lượng, và trạng thái quay. John Wheeler gọi điều này là: “Một cái hố đen không có tóc.” Đối với người Pháp, câu nói này chỉ khẳng định những nghi ngờ của họ là đúng. Khi chúng ta nghĩ rằng hố đen sẽ tồn tại mãi mãi, không mấy ai để tâm đến sự thất lạc thông tin này. Một người có thể nói rằng các thông tin vẫn tồn tại bên trong một hố đen. Vấn đề chỉ là chúng ta không thể xác định được nó từ bên ngoài. Tuy nhiên bức tranh đã thay đổi hoàn toàn, khi tôi phát hiện ra là hố đen không hoàn toàn đen. Cơ học lượng tử đã chứng minh chúng phải phát ra bức xạ và các hạt ở một tốc độ nhất định. Kết quả này là một ngạc nhiên hoàn toàn cho tôi và tất cả mọi người. Nhưng khi suy nghĩ lại, nó thật rõ ràng. Khi chúng ta nghĩ tới một khoảng không gian trống, nó không hẳn trống, mà chứa đầy những cặp hạt và phản hạt. Hai loại này tồn tại đồng thời ở một số điểm của không gian và thời gian, di chuyển ra xa nhau, sau đó đâm vào nhau và huỷ diệt lẫn nhau. Các hạt và phản hạt này xảy ra bởi vì một trường, ví dụ như trường có chứa ánh sáng và trọng lực, không thể mang giá trị bằng không. Điều này có nghĩa là giá trị của một trường sẽ có một vị trí nhất định (tại không) và một vận tốc nhất định của dịch chuyển (cũng là không). Điều này sẽ phản chúng lại nguyên lý bất định, cũng như một hạt không thể có đồng thời một vị trí nhất định và một vận tốc nhất định. Bởi vậy tất cả các trường đều phải có sự dao động chân không. Bởi vì bản chất lượng tử của tự nhiên, chúng ta có thể hiểu những dao động chân không này dưới dạng các hạt và phản hạt như tôi vừa miêu tả. Những cặp hạt và phản hạt này xảy ra với mọi sự biến thiên của các hạt cơ bản. Chúng được gọi là các hạt ảo, bởi vì chúng xảy ra cả ở trong khoảng chân không, và chúng không thể được chính xác đo đạc bởi các thiết bị dò hạt..Tuy nhiên, kết quả gián tiếp của các hạt ảo, hoặc của các dao đọng chân không đã được quan sát thấy qua nhiều thí nghiệm, và sự tồn tại của chúng được chứng minh. Với một cái hố đen ở gần, một phần tử của cặp hạt - phản hạt có thể bị hút vào hố, để lại phần tử kia không còn là một cặp. Phần tử này cũng có thể rơi vào hố, nhưng nó cũng có thể trốn một quãng xa khỏi cái hố, nơi nó sẽ trở thành một hạt thật, có thể được nhận dạng bởi các thiết bị dò hạt. Đối với một người ở rất xa hố đen, hạt này sẽ được coi như đã bị hố đen thải ra. Giải thích về việc hố đen thực chất không thực sự đen này đã làm sáng tỏ rằng sự thải các hạt sẽ phụ thuộc vào độ lớn của hố đen, và tốc độ quay của nó. Nhưng bởi vì hố đen không có tóc, theo cách nói của Wheeler, phóng xạ sẽ không phụ thuộc vào những vật thể gì bị hút vào hố đen. Nó không tạo ra sự khác biệt nếu chúng ta ném vào đó ti vi, nhẫn kim cương, hoặc kẻ thù của chúng ta. Những thứ được thải ra sẽ luôn luôn giống nhau. Mối liên hệ giữa những lập luận này và thuyết tiền định là những gì bài giảng này xoay quanh. Điều nó chỉ ra là có rất nhiều giai đoạn ban đầu, chứa ti vi, nhẫn kim cương, và cả con người, và chúng tiến hoá để trở thành cùng một trạng thái ban đầu, ít nhất ở bên ngoài hố đen. Nhưng ở trong Laplace viễn cảnh của thuyết khoa học tiền định, có một mối quan hệ một một giữa giai đọan đầu tiên và giai đoạn cuối cùng. Nếu chúng ta biết trạng thái của vũ trụ vào một thời điểm trong quá khứ, chúng ta có thể dự đoán tương lai. Tương tự, nếu chúng ta biết trạng thái của nó ở tương lai, chúng ta cũng có thể dự đoán trạng thái của nó trong quá khứ. Sự phát triển của thuyết lượng tử vào những năm 1920 đã giảm thiểu những khả năng chúng ta có thể dự đoán xuống một nửa, nhưng nó vẫn để lại một mối liên hệ giữa các trạng thái của vũ trụ ở những thời điểm khác nhau. Nếu chúng ta biết hàm sóng ở một thời điểm, chúng ta có thể tính toán nó tại bất kì thời điểm nào. Tuy nhiên, với hố đen, mọi việc đều thay đổi. Chúng ta sẽ luôn kết thúc với cùng một trạng thái ở bên ngoài hố đen, bất chấp chúng ta ném vật gì vào, chỉ cần chúng có chung trọng lượng. Vì vậy, không tồn tại một mối quan hệ một một nào giữa giai đoạn đầu tiên, và giai đoạn cuối cùng bên ngoài hố đen. Nhưng vẫn tồn tại một mối quan hệ một một giữa trạng thái đầu tiên và trạng thái cuối cùng ở cả bên ngoài và bên trong hố đen. Nhưng điều đáng chú ý là sự phát ra các hạt và phóng xạ của các hố đen sẽ khiến cái hố này mất dần khối lượng, và trở nên nhỏ hơn. Cuối cùng, cái hố đen sẽ đạt mức không khối lượng, và sẽ biến mất hoàn toàn. Tới lúc đó điều gì sẽ xảy ra với tất cả những vật thể đã rơi vào bên trong hố, và tất cả những người đã nhảy vào, hay bị đẩy vào? Họ không thể ra ngoài được, bởi vị không còn đủ khối lượng hay năng lượng bên trong hố đen để gửi họ ra ngoài. Họ có thể được tới một vũ trụ khác, nhưng điều này không tạo ra một khác biệt lớn lao đối với chúng ta, những người đủ sáng suốt để không nhảy vào một hố đen. Ngay cả thông tin về việc những gì đã rơi vào bên trong hố đen, cũng không thể được tiết lộ khi hố đen biến mất. Thông tin không thể được vận chuyển một cách miễn phí, những người phải trả hoá đơn điện thoại sẽ hiểu điều này. Thông tin đòi hỏi năng lượng để lưu thông, và sẽ không còn đủ năng lượng còn lại khi hố đen biến mất. Điều việc này chỉ ra là thông tin sẽ bị thất lạc khỏi miền của chúng ta trong vũ trụ khi hố đen được tạo ra và biến mất. Sự thất lạc thông tin này có nghĩa là chúng ta chỉ dự đoán được còn ít hơn chúng ta nghĩ, dựa trên thuyết lượng tử. Trong thuyết lượng tử, không ai có thể dự đoán một cách chắc chắn cả vị trí và vận tốc của một hạt. Nhưng vẫn còn một sự kết hợp của vị trí và vận tốc có thể được dự đoán. Trong trường hợp của một hố đen, sự dự đoán này đòi hỏi cả hai phần tử của một cặp hạt. Nhưng chúng ta chỉ có thể đo đạc hạt được thải ra. Không có cách nào trên lý thuyết để chúng ta có thể đo đạc được hạt đã rơi vào bên trong hố đen. Vì vậy, với tất cả những dự đoán của chúng ta, nó có thể mang bất kì hình dạng nào. Điều này có nghĩa là chúng ta không thể có một dự đoán chắc chắn nào về hạt được thải ra khỏi hố. Chúng ta có thể tính toán xác suất hạt này có vị trí này hay vận tốc nọ. Nhưng chúng ta không thể dự đoán một sự kết hợp nào của vị trí và vận tốc của chỉ một hạt, vì vị trí và vận tốc của hạt này sẽ dựa vào hạt còn lại, hạt mà chúng ta không thể quan sát. Vì vậy, có vẻ Einstein đã rất sai lầm khi ông nói Chúa không chơi súc sắc. Chúa không chỉ chắc chắn chơi súc sắc, ông còn thỉnh thoảng làm chúng ta hoang mang bằng cách ném những quân súc sắc vào những nơi chúng không thể bị nhìn thấy. Rất nhiều nhà khoa học cũng giống như Einstein, ở việc họ có một sự gắn bó tình cảm sâu sắc  với thuyết tiền định. Khác Einstein, họ chấp nhất sự giảm thiểu khả năng dự đoán của chúng ta đã được chứng minh bởi thuyết lượng tử. Nhưng điều đó đã là quá đủ. Họ không thích giảm thiểu hơn nữa, như những gì hố đen hàm ý. Vì vậy, họ nói rằng thông tin không thực sự bị thất lạc ở sâu bên trong hố đen. Nhưng họ cũng chưa tìm ra bất kì một cách thức nào để mang thông tin đó trở lại. Nó chỉ là một hi vọng phù phiếm khi tin rằng vũ trụ là tiền định theo cách Laplace đã nghĩ. Tôi cảm thấy những nhà khoa học này đã không học tập được từ những bài học kinh nghiệm của lịch sử. Vũ trụ không bao giờ hoạt đọng dựa trên những quan điểm chúng ta đã tiếp nhận. Nó luôn luôn làm chúng ta ngạc nhiên. Một người có thể không nghĩ việc thuyết tiền định bị phản chứng ở gần hố đen là một việc có tầm quan trọng lớn. Chúng ta đã chắc chắn về ít nhất một vài năm ánh sáng từ một hố đen ở bất kì độ lớn nào. Nhưng Thuyết không thể biết hàm ý rằng mọi miền của vũ trụ đều chứa đấy những hố đen ảo tí hon, những vật biến mất rồi lại tái sinh liên tục. Một người có thể sẽ nghĩ rằng hạt và thông tin có thể rơi vào bên trong những hố đen này, và bị thất lạc. Vì những hố đen ảo này quá nhỏ bé, một trăm tỉ tỉ lần nhở hơn hạt nhân của một nguyên tử, tốc độ thông tin bị thất lạc sẽ rất nhỏ. Nhưng ở trong những điều kiện khắc nghiệt, ví dụ như ở vũ trụ sơ khai, hoặc ở trong một sự va chạm giữa các hạt mang lại nguồn năng lượng cao, có thể tồn tại những sự mất mát và thất lạc lớn về thông tin. Điều này sẽ dẫn tới việc sự tiến hoá của vũ trụ không thể dự đoán được. Tóm lại, những điều tôi đang trình bày, là liệu vũ trụ sẽ tiến hoá ở một cách bất kì, hay nó là tiền định. Quan điểm cổ, đề xuất bởi Laplace, là những chuyển động trong tương lai của các hạt là hoàn toàn được định trước, nếu chúng ta biết vị trí và vận tốc của nó vào một thời điểm. Quan điểm này phải được sửa đổi, khi Heisenberg đề xuất Nguyên lý bất định, chỉ ra rằng chúng ta không thể biết cả vị trí và vận tốc của hạt một cách chính xác. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể dự đoán một sự kết hợp của vận tốc và vị trí. Nhưng ngay cả khả năng dự đoán nhỏ hẹp này cung đã biến mất, khi những hệ quả của hố đen được đưa vào vấn đề. Sự mất mát của các hạt và thông tin sâu bên trong hố đen có nghĩa là các hạt bị thải ra ngoài là hoàn toàn ngẫu nhiên. Chúng ta có thể tính toán các xác suất, nhưng chúng ta không thể có một dự đoán chính xác nào. Vì vậy, tương lai của vũ trụ không hoàn toàn bị kiểm soát bởi các quy tắc khoa học hay trạng thái hiện tại của nó như Laplace đã nghĩ. Chúa vẫn còn một số mẹo nữa trong tay Người. Đó là tất cả những gì tôi muốn nói cho ngày hôm nay. Xin cảm ơn. Vui lòng ghi rõ tên dịch giả cũng như nguồn khi bạn sử dụng bài viết này!
440 năm ngày sinh Kepler
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=384:440-nam-ngay-sinh-kepler&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Hôm nay, ngày 27 tháng 12 là kỉ niệm 440 năm ngày sinh của nhà thiên văn học người Đức Johannes Kepler. Ông là nhà thiên văn tiên phong đã chứng minh những quan điểm của Galileo Galilei bằng các định luật mô tả chính xác quĩ đạo của các hành tinh, và suốt nhiều ngày của năm 2011 này chúng ta đã luôn nghe thấy cái tên của ông ...   Johanne Kepler sinh ngày 27 tháng 12 năm 1571 trong một gia đình nghèo, tuy nhiên niềm say mê Thiên văn đã dẫn ông trở thành một nhà khoa học. Ông làm thầy giáo về toán học, vật lý tại Áo từ năm 1593. Từ năm 1594, Kepler bắt đầu giảng về Thiên văn và luôn là người ủng hộ mô hình nhật tâm của Nicolas Copernics. Năm 1600, Kepler làm việc với Tycho Brahe khi đó là một nhà Thiên văn rất nổi tiếng. Năm 1601, Brahe mất và Kepler tiếp tục các nghiên cứu do Brahe để lại. Các nghiên cứu và quan sát của Brahe về chuyển động của Sao Hỏa đã giúp Kepler đưa ra 3 định luật chuyển động hành tinh, đặt nền móng đầu tiên cho môn cơ học Thiên thể (Celestial Mechanics). Tháng 3 năm 2009, NASA đưa lên quĩ đạo một kính thiên văn mới với nhiệm vụ quan sát hơn 160.000 ngôi sao trong thiên hà của chúng ta để tìm kiếm các hành tinh có quĩ đạo và các điều kiện gần giống Trái Đất. Để vinh danh nhà khoa học đã có công tìm ra các qui luật đầu tiên về chuyển động hành tinh, chương trình này đã được lấy theo tên của ông. Những ngày cuối năm 2011 này khi gần tới ngày sinh của nhà bác học, chúng ta đã không ngừng thấy những thông tin về các phát hiện của kính thiên văn không gian Kepler, việc tìm kiếm những hành tinh gần giống Trái Đất dù chưa thành công nhưng cái đích có vẻ như đã không còn là quá xa nữa. Nhân kỉ niệm 440 năm ngày sinh của Johannes Kepler, chúng ta hãy dành 1 phút để tưởng nhớ tới ông!  
Có phải ngày tận thế của chúng ta sẽ đến vào năm 2012?
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=116&amp;Itemid=178
Khó quan sát mưa sao băng Lyrids
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=878:kho-quan-sat-mua-sao-bang-lyrids-1&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Mưa sao băng Lyrids là trận mưa sao băng nhỏ diễn ra trong khoảng từ 16 đến 25 tháng 4 hàng năm với cực điểm rơi vào khoảng đêm 22, 23 cùng tháng. Ở các khu vực ít ô nhiễm khí quyển và thời tiết thuận lợi, người yêu thích thiên văn sẽ có cơ hội quan sát hiện tượng này. Mặc dù vậy, với điều kiện thời tiết hiện tại, hầu hết Việt Nam chúng ta khó quan sát được Lyrids năm 2015 này. Mưa sao băng Lyrids có nguồn gốc từ các mảnh vụn của sao chổi Thatcher, một sao chổi có chu kì khoảng 415 năm trên quỹ đạo quanh Mặt Trời, khi nó đi ngang qua quĩ đạo Trái Đất nhiều năm trước. Tháng 4 hàng năm khi Trái Đất đi qua vùng quĩ đạo có chứa những mảnh vụn này, các thiên thạch lao vào khí quyển Trái Đất và bốc cháy thành những vệt sáng dài trên bầu trời mà chúng ta gọi là sao băng. Lyrids là một trận mưa sao băng nhỏ, ngay cả với điều kiện thời tiết tốt và ở các vùng có điều kiện khí quyển ít ô nhiễm thì người quan sát cũng chỉ có thể thấy khoảng 20 sao băng mỗi giờ. Vì lí do này, hiện tượng trên sẽ khó được quan sát tại các thành phố lớn hoặc gần các khu dân cư, khu công nghiệp, công trường xây dựng ..., độc giả nên lưu ý để dựa vào vị trí địa lý của mình cũng như theo dõi thời tiết trước khi quyết định theo dõi hiện tượng. Thời điểm lý tưởng nhất để quan sát hiện tượng này là sau nửa đêm ngày 22, tức rạng sáng ngày 23 tháng 4. Dù vậy, như đã nói trên, thời tiết đóng vai trò rất quan trọng. Mặc dù Trăng đầu tháng tạo điều kiện rất thuận lợi cho việc quan sát nhưng những ngày này một phần diện tích rất lớn ở Việt Nam chúng ta có lượng mây lớn, ngăn cản việc quan sát. Do vậy, về cơ bản hiện tượng này không có khả năng quan sát ở các đô thị lớn mà chỉ có thể được nhìn thấy ở các vùng ngoại ô, nông thôn, ... có mức độ ô nhiễm ánh sáng rất thấp. Và tất nhiên dù ở nông thôn hay núi cao, hiện tượng cũng không thể quan sát được nếu trời có mây mù. Đúng như cái tên của nó, mưa sao băng Lyrids có trung tâm là khu vực chòm sao Lyra (cây đàn lire, một số tài liệu tiếng Việt dịch là "thiên cầm"). Vào thời điểm như nêu trên, chòm sao này đã nằm cao trên bầu trời phía Đông. Nếu chưa quen với việc xác định chòm sao này, bạn có thể nhận ra nó bằng cách tìm 3 ngôi sao sáng nhất bầu trời phía Đông, lập thành một tam giác lớn gồm ba đỉnh là các sao Vega, Altair và Deneb như trong hình dưới. Tam giác này được gọi là tam giác mùa hạ, nó rất dễ nhận ra khi trời ít mây. Đỉnh cao nhất của tam giác là sao Vega (gọi là sao Chức Nữ trong tiếng Việt), ngôi sao sáng nhất của chòm sao Lyra. Hầu hết các sao băng của Lyrids tập trung quanh khu vực này. Để việc quan sát hiệu quả, xin chú ý vài điều sau: - Bạn không cần (và không nên dùng) kính thiên văn hay bất cứ dụng cụ nào, hãy dùng mắt thường để quan sát. - Lưu ý điều kiện thời tiết, bạn chỉ có thể thấy sao băng nếu trời không mây. Một chú ý nhỏ như sau có thể giúp bạn: hãy đứng khoảng 5 phút ngoài trời cho mắt bạn quen dần với bóng tối. Khi đó bạn sẽ dễ dàng thấy các sao trên bầu trời. Nếu bạn có thể đếm được trên 50 ngôi sao, và có thể thấy chòm sao Lyra hoặc tối thiểu là ngôi sao Vega như hướng dẫn trên thì bạn sẽ có thể dễ dàng quan sát các sao băng của hiện tượng. Ngược lại nếu bạn không thể thấy những ngôi sao bình thường thì có nghĩa là mây và khí quyển ô nhiễm đã cản tầm nhìn của bạn, và bạn sẽ không thấy được sao băng. - Chọn địa điểm phù hợp, hạn chế ô nhiễm không khí và không bị ánh sáng mạnh chiếu thẳng vào mắt (Ví dụ như đèn trên các cột đèn đường, đèn từ các công trường xây dựng ...) và tất nhiên vẫn phải bảo đảm an toàn cho bản thân bạn - Cuối cùng khi đã chuẩn bị đầy đủ các điều kiện, hãy thật kiên nhẫn, đừng rời mắt khói bầu trời, ngay cả vào lúc cực điểm có thể bạn sẽ phải nhìn liên tục tới 10 phút mới thấy một vệt sao băng lao qua. (Chủ tịch Hội thiên văn học trẻ Việt Nam)
Danh sách 88 chòm sao trong thiên văn học
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=177:danh-sach-88-chom-sao-trong-thien-van-hoc&amp;catid=9&amp;Itemid=148
Danh sách chính thức của thiên văn học hiện đại hiện nay gồm 88 chòm sao. Đây là các chòm sao được qui ước bởi Hiệp hội thiên văn quốc tế, và được sử dụng rộng rãi trong thiên văn học và vật lý thiên văn hiện đại. Khác với trước kia cũng như nhiều người còn hiểu nhầm, 88 chòm sao này không đơn giản chỉ là đường nối giữa các ngôi sao mà chúng tương ứng với 88 vùng trời có diện tích xác định trên thiên cầu, mỗi vùng trời chứa một chòm sao. Tên các chòm sao được thống nhất dung trên toàn thế giới là tên bằng tiếng Latin.   Dưới đây là danh sách 88 chòm sao của thiên văn học hiện đại, bên cạnh tên nguyên bản Latin là tên thường gọi thông dụng ở Việt Nam (Hán - Việt) và tên tiếng Việt với ý nghĩa chính xác (do nhiều tên Hán-Việt thông dụng phản ánh không đúng ý nghĩa ban đầu của chòm sao). Độc giả đọc thêm bài viết sau về cách sử dụng tên các chòm sao để tránh các nhầm lẫn đáng tiếng: " "   (Theo phát âm tiếng Anh) 1 And Tiên nữ (công chúa) Andromeda 2 Ant Máy bơm Máy bơm 3 Aps Chim trời Chim trời 4 Aqr Bảo bình Người cầm bình 5 Aql Thiên ưng Đại bang 6 Ara Đàn tế Đàn tế 7 Ari Bạch Dương Con cừu 8 Aur Ngự Phu Người đánh xe 9 Boo Mục Phu Thợ săn gấu 10 Cae Điêu cụ Dao khắc/cái đục 11 Cam Lộc báo Hươu cao cổ 12 Cnc Cự giải Con Cua 13 CVn Lạp Khuyển Chó săn 14 CMa Đại Khuyển Chó lớn 15 CMi Tiểu Khuyển Chó nhỏ 16 Cap Ma Kết Dê biển 17 Car Sống thuyền Sống thuyền 18 Cas Tiên Hậu (hoàng hậu) Cassiopeia 19 Cen Bán Nhân Mã Nhân Mã 20 Cep Tiên Vương (vua) Cepheus 21 Cet Kình Ngư Cá voi/quái vật Cetus 22 Cha Tắc Kè Tắc kè 23 Cir Viên Qui Com-pa 24 Col Thiên Cáp Bồ câu 25 Com Tóc Tiên Mái tóc (của Berenices) 26 CrA Nam Miện Vương miện phương Nam 27 CrB Bắc Miện Vương miện phương Bắc 28 Crv Điểu Nha Con quạ 29 Crt Cự Tước Ly rượu 30 Cru Nam Thập Tự Chữ thập phương Nam 31 Cyg Thiên Nga Thiên nga 32 Del Cá Heo Cá heo 33 Dor Cá Vàng Cá Nục Heo (còn được coi là Cá Kiếm hoặc Cá Vàng) 34 Dra Thiên Long Con rồng 35 Equ Ngựa Con Ngựa con 36 Eri Sông Cái Sông Eridanus 37 For Lò Luyện Lò luyện 38 Gem Song Tử Cặp song sinh 39 Gru Thiên Hạc Chim sếu 40 Her Vũ Tiên (dũng sĩ) Hercules/Heracles 41 Hor Đồng hồ Đồng hồ quả lắc 42 Hya Trường Xà (rắn nhiều đầu) Hydra 43 Hyi Thủy Xà Rắn nước 44 Ind Anh-điêng Người Anh-điêng (Da đỏ) 45 Lac Thằn Lằn Thằn lằn 46 Leo Sư Tử Sư tử 47 LMi Sư Tử nhỏ Sư tử nhỏ 48 Lep Con Thỏ Con thỏ 49 Lib Thiên Bình Cái cân 50 Lup Chó Sói Chó sói 51 Lyn Linh Miêu Mèo rừng 52 Lyr Thiên Cầm Đàn Lyr 53 Men Sơn Ấn Núi Mặt Bàn 54 Mic Kính Hiển Vi Kính hiển vi 55 Mon Kì Lân Ngựa một sừng 56 Mus Con Ruồi Con ruồi 57 Nor Thước Thợ Thước đo 58 Oct Kính bát phân Kính bát phân 59 Oph Xà Phu Người giữ rắn 60 Ori Lạp Hộ (thợ săn) Orion 61 Pav Khổng Tước Con công 62 Peg Phi Mã (ngựa bay) Pegaseus 63 Per Anh Tiên (dũng sĩ) Perseus 64 Phe Phượng Hoàng Phượng Hoàng 65 Pie Giá Vẽ Giá vẽ 66 Pse Song Ngư Hai con cá 67 PsA Nam Ngư Cá Phương Nam 68 Pup Đuôi thuyền Đuôi thuyền 69 Pyx La Bàn La bàn 70 Ret Mắt lưới Kính chia vạch 71 Sge Thiên Tiễn Mũi tên 72 Sgr Nhân Mã Cung Thủ 73 Sco Bọ Cạp Bọ Cạp 74 Scl Ngọc Phu Nhà điêu khắc 75 Sct Lá Chắn Lá chắn 76 Ser Cự Xà Con rắn 77 Sex Kính lục phân Kính lục phân 78 Tau Kim Ngưu Con bò 79 Tel Kính thiên văn Kính thiên văn 80 Tri Tam Giác Tam giác 81 TrA Nam Tam giác Tam giác phương Nam 82 Tuc Mỏ chim Chim mỏ lớn (chim Tucan) 83 UMa Đại Hùng Gấu lớn 84 UMi Tiểu Hùng Gấu nhỏ 85 Vel Thuyền Phàm Cánh buồm 86 Vir Thất Nữ Trinh nữ 87 Vol Cá Chuồn Cá chuồn 88 Vul Cáo con Con cáo 1- Nhiều chòm sao có nhiều tên gọi khác nhau, do giới hạn của bảng ngắn này tôi chỉ có thể nêu ra tên thường gọi phổ biến nhất. 2- Một số tên trong mục Tên/ý nghĩa chính xác có dấu ngoặc đơn, chẳng hạn như chòm sao Orion được chú thích là "(thợ săn) Orion" có nghĩa là tên chòm sao vốn là tên riêng của nhân vật trong thần thoại (do đó không thể dịch), còn từ trong ngoặc chỉ mang mục đích mô tả. 3- Độc giả nên chủ động đối chiếu tên thường gọi và ý nghĩa chính xác của các chòm sao trong bảng. Trong trường hợp ý nghĩa gần tương đương nhau thì tên thường gọi vẫn có thể sử dụng bình thường, còn với những ý nghĩa quá khác nhau chẳng hạn như chòm sao Sagittarius vốn có nghĩa là Cung Thủ, thường bị gọi sai là Nhân Mã, đây là cách gọi sai do các dịch giả trước đây chỉ nhìn vào hình dạng chòm sao, vì thế ngày nay không thể tiếp tục sử dụng, mà phải gọi là Cung Thủ 4- Chòm sao Scorpius nhiều tài liệu do tác giả thiếu kiến thức căn bản thường gọi là Thần Nông, trong khi Thần Nông là 1 chòm sao của người Việt cổ không được khoa học thừa nhận và rất khác so với Scorpius, nên tôi không tính Thần Nông là một "tên thường gọi" trong bảng trên 5- Chòm sao Monoceros theo tiếng Anh là Unicorn. Nhiều từ điển dân dụng của Việt Nam đã dịch từ này là "kì lân", đây cũng là cách dịch sai vì Unicorn là con ngựa có một sừng không giống chút nào với con Kì lân theo quan niệm phương Đông, do đó trong bảng trên ở phần tên chính xác tôi đặt tên nó là "Ngựa một sừng". 6- Để xác định vị trí và cách quan sát các chòm sao, độc giả nên chủ động tìm hiểu các bản đồ sao hoặc sử dụng các phần mềm hỗ trợ. Một phần mềm được chúng tôi khá tin tưởng là Stellarium ( ). Độc giả cũng có thể trực tiếp tham gia hỏi đáp và thảo luận trên diễn đàn của chúng tôi tại website này. 7- Phiên âm trong bảng là phiên âm quốc tế  theo cách phát âm tiếng Anh hiện đại của các chòm sao. Phát âm Latin nguyên gốc của những tên gọi này có nhiều khác biệt do các tên gọi này hầu hết có nguồn gốc từ tiếng Latin. Để dễ dàng hơn trong việc phát âm, độc giả cũng có thể tham khảo các phát âm tiếng Anh mẫu của  bao gồm phát âm của tên chòm sao (Nominative Pronunciation) và phát âm của biến thể trong tên các ngôi sao (Genitive Pronunciation). Cám ơn độc giả  đã góp ý và hỗ trợ bổ sung phần phiên âm IPA cho bài biết này thêm chi tiết. Chỉnh sửa và bổ sung lần cuối tháng 4 năm 2020.
Bản đồ đầu tiên về tuổi sao trong Milky Way
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=972:ban-do-dau-tien-ve-tuoi-sao-trong-milky-way&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Bằng những cách hoàn toàn mới trong việc suy đoán tuổi của các sao khổng lồ đỏ, các nhà thiên văn học đã xây dựng bản đồ qui mô lớn đầu tiên cho thấy tuổi của các sao trong Milky Way. Xác định tuổi của gần 100 000 sao khổng lồ đỏ ở những khoảng cách lên đến 50.000 năm ánh sáng từ trung tâm thiên hà, các nhà thiên văn dẫn đầu bởi Melissa Ness và Marie Martig của viện thiên văn Max Planck, đã có thể thử nghiệm những ý tưởng chính về sự phát triển của Milky Way. Đáng kể nhất là bản đồ xác nhận rằng thiên hà của chúng ta đã phát triển từ trong ra ngoài: trong giai đoạn hiện nay, hầu hết các sao già có thể tìm thấy ở giữa, những sao hình thành gần đây nằm ở phía ngoài. Trong những thập kỷ qua, những cuộc khảo sát thiên văn lớn đã cung cấp cho các nhà thiên văn dữ liệu về hàng triệu thiên thể, cho phép thống kê phân tích trên qui mô lớn. Nhưng những dữ liệu này cũng chỉ như những công cụ sẵn có để phân tích. Giờ đây, Melissa Ness và Marie Martig của viện thiên văn Max Planck đã bổ sung thêm 2 công cụ mạnh mẽ mới cho kho công cụ thiên văn. Sử dụng những dữ liệu mẫu từ khảo sát APOGEE (một phần của khảo sát bầu trời kỹ thuật số Sloan) và kính thiên văn không gian Kepler của NASA, Ness và Martig đã tìm ra hai phương pháp độc lập để xác định tuổi của một sao khổng lồ đỏ từ quang phổ của nó (nghĩa là từ các tính chất bức xạ của nó). Bằng những phương pháp này, các nhà thiên văn học đã có thể ước tính tuổi của gần 100.000 sao quan sát được trong khảo sát APOGEE. Kết quả là một bản đồ tuổi Milky Way, cho biết chính xác những khu vực trong thiên hà tập trung sao trẻ, già hay có tuổi trung bình. Bản đồ cung cấp một mặt cắt tiêu biểu từ trung tâm Milky Way tới vùng ngoài ở khoảng cách 65.000 năm ánh sáng từ trung tâm thiên hà. Với một bản đồ tuổi như vậy, các mô hình hiện có về cách thiên hà của chúng ta hình thành và phát triển có thể được đưa vào thử nghiệm Chẳng hạn, các mô hình này dự đoán các đĩa sao, vùng chứa sao chủ yếu của các thiên hà như Milky Way, đã hình thành từ trong ra ngoài: như vậy, chúng ta sẽ mong đợi tìm thấy những sao già ở gần trung tâm thiên hà, và các sao trẻ ở phía ngoài. Bản đồ vừa công bố đã xác nhận sự phân bố này. Ngoài ra, với những bán kính xác định, các sao trẻ hơn thường được phát hiện ở gần mặt phẳng thiên hà hơn so với những “họ hàng lớn tuổi của” mình. Điều này cũng được xác nhận bởi bản đồ tuổi của Ness và các đồng nghiệp. Cuối cùng, nó có thể giúp các nhà thiên văn tái hiện lại toàn bộ lịch sử hình thành sao trong Milky Way: có bao nhiêu sao trong thiên hà được hình thành ở những thời điểm khác nhau trong lịch sử thiên hà, ở những khu vực nào, và cách những sao này làm phong phú cho nguyên liệu của thiên hà, với những nguyên tố khác nhau chúng tạo ra qua phản ứng tổng hợp hạt nhân (nhờ đó tổng hợp ra các nguyên tố nặng hơn, các hành tinh, và cuối cùng là sự sống).
Cực điểm mưa sao băng Perseids 2011
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=290:mua-sao-bang-perseids-2011&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Tháng 8 này, hiện tượng thiên văn đáng chú ý nhất mà bạn có thể quan sát trên bầu trời đêm là mưa sao băng Perseids - mọt trong những trận mưa sao băng lớn nhất trong năm với cực điểm sẽ diễn ra vào rạng sáng 13 và 14 tháng 8 tới.     Cùng với mưa sao băng Geminids giữa tháng 12, Perseids là 1 trong 2 trận mưa sao băng lớn nhất hàng năm trên khí quyển của chúng ta. Nguồn gốc của trận mưa sao băng này là sao chổi Swift–Tuttle, một sao chổi phát độc lập bởi Lewis Swift và Horace Parnell Tuttle năm 1862 và đã quay lại năm 1992. Những gì để lại của sao chổi đường kính 27km này khi nó đi ngang quĩ đạo Trái Đất là một đám lớn các mảnh thiên thạch nhỏ. Hàng năm vào tháng 8 khi Trái Đất đi qua khu vực quĩ đạo chứa đám thiên thạch này, một phần trong số chúng lao vào khí quyển Trái Đất, cọ xát với không khí và bốc cháy tạo thành các vệt sáng mà ta gọi là sao băng. Tại cực điểm của mình, mưa sao băng Perseids cho phép bạn có thể quan sát hơn 60 sao băng mỗi giờ, một phần không nhỏ trong số đó là sao băng dài và sáng. Trên thực tế, các sao băng của trận mưa sao băng này xuất hiện kéo dài suốt từ 23 tháng 7 tới 22 tháng 8, tuy nhiên chỉ ở mật độ khá nhỏ, trừ thời gian cực điểm là rạng sáng ngày 13 và 14 tháng 8. Trong thời gian những ngày vừa qua, thời tiết tại phần lớn lãnh thổ Việt Nam khá thất thường, hay có mây mù hoặc mưa vào ban đêm. Do đó chúng ta chỉ còn cách chờ đợi đến ngày cực điểm của trận mưa sao băng này. Nếu thời tiết cho phép, như trên đã nói, đây sẽ là 1 trong số 2 trận mưa sao băng lớn nhất trong năm mà bạn có thể quan sát. Vào rạng sáng các ngày 13 và 14 tháng 8 tới (khoảng 1h-3h sáng) bạn hãy nhìn về phía bầu trời Đông Bắc và xác định chòm sao Perseus (theo dõi hình dưới đấy, chụp từ phần mềm Stellarium) Tuy gần ngày rằm và Mặt Trăng sáng là một bất lợi không nhỏ với những người quan sát bầu trời, nhưng bạn không cần quá lo lắng, vì vào khoảng thời gian từ đến 3h giờ sáng nêu trên, Mặt Trăng đang lặn dần về phía bầu trời phía Tây, Tây Nam nên không gây ảnh hưởng nhiều đến việc quan sát trận mưa sao băng của bạn, tất cả chỉ còn là vấn đề của thời tiết. Và một lần nữa, đừng quên các ghi nhớ quen thuộc của VACA luôn lưu ý bạn về việc quan sát mưa sao băng. (vui lòng ghi rõ nguồn Thienvanvietnam.org khi copy bài viết này)
Nga thừa nhận thất bại Phobos-Grunt
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=368:nga-thua-nhan-that-bai-phobos-grunt&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Tàu không gian Phobos-Grunt của Nga đã đi sai quĩ đạo được một tháng và vẫn kẹt trong đó, nó không thể hoàn thành nhiệm vụ của mình. Đây là tuyên bố của Viktor Khartov, lãnh đạo cơ quan tài không gian Lavochkin của Nga vào thứ ba vừa rồi. "Chúng tôi phải thừa nhận rằng Phobos-Grunt đã thất bại trong việc hoàn thành nhiệm vụ tới Sao Hỏa của nó, sự thật là chương trình đã thất bại" Khartov nói. Phobos-Grunt là tàu không gian mới được phóng hôm mùng 9 tháng 11 với nhiệm vụ mang về các mẫu đá trên bề mặt của Phobos (một trong 2 vệ tinh của Sao Hỏa). Tuy nhiên, tàu không gian này đã rơi vào một quĩ đạo khác với dự kiến ban đầu khi nó tiến tới gần hành tinh đỏ. Khartov cho biết ước tính rằng nó sẽ quay trở lại Trái Đất vào giữa tháng 1/2012 sắp tới. Đứng đầu cơ quan không gian Liên bang Nga là Vladimir Popovkin cho biết tàu này sẽ bốc cháy và vỡ vụn khi chạm khí quyển Trái Đất, không mảnh vụn nào có thể chạm đất như lo ngại của nhiều người do 7,5 tấn nhiên liệu của nó sẽ nổ tung khi va chạm với khí quyển. Tuy nhiên Khartov lại cho rằng một phần nào đó chịu nhiệt tốt nhất vẫn có thể rơi xuống tới mặt đất. Một ủy ban được lập ra để tìm hiểu nguyên nhân của việc sai lệch quĩ đạo gồm các chuyên gia của Nga và châu Âu nhưng mọi liên lạc đều thất bại, Khartov cho biết họ sẽ tiếp tục cố liên lạc với Phobos-Grunt cho tới trước khi nó lao vào khí quyển Trái Đất. (Theo SpaceDaily)
Chúng ta đang mất dần cơ hội tìm hiểu vũ trụ
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=513:chung-ta-dang-mat-dan-co-hoi-tim-hieu-vu-tru&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Vũ trụ là một nơi kì diệu và phức tạp lấp đầy bởi các thiên hà và các cấu trúc lớn luôn phát triển suốt hơn 13,7 tỷ năm lịch sử của nó. Sự nhiễu loạn của vật chất tăng dần theo thời gian tồn tại của nó giống như những làn sóng trên mặt hồ cùng với sự giãn nở của vũ trụ. Bằng cách quan sát vũ trụ ở qui mô lớn, chúng ta có thể tìm hiểu các điều kiện ban đầu của vũ trụ. Tuy nhiên liệu rằng hiện nay có phải thời điểm lý tưởng để nghiên cứu vũ trụ hay thời điểm đó nằm ở hàng tỷ năm trong tương lai hay quá khứ? Các tính toán mới bởi nhà lý thuyết Avi Loeb cho biết thời điểm phù hợp nhất để tìm hiểu vũ trụ là vào hơn 13 tỷ năm trước, chỉ khoảng 500 triệu năm sau . Càng xa thời điểm này, thông tin về giai đoạn đầu của vũ trụ sẽ càng mất mát. "Tôi rất vui mừng là nhà vũ trụ học vào thời điểm mà chúng ta vẫn còn có thể tái hiện lại những đầu mối về sự khởi đầu của vũ trụ", Loeb nói. Có một mâu thuẫn trong việc xác minh thời điểm phù hợp nhất để nghiên cữu vũ trụ. Đó là vào thời điểm sớm của vũ trụ, chân trời của nó nhỏ hơn và bạn sẽ thấy được ít thông tin hơn, trong khi đó vào giai đoạn sau của nó thì thông tin được trải rộng chi tiết hơn nhưng nhiều thông tin có thể bị mất do sự nở ra của vũ trụ. Khi xem xét tất cả các điều kiện, Loeb thấy rằng khoảng 500 triệu năm sau Big Bang, tức là thời điểm hình thành các sao và thiên hà đầu tiên là thời điểm phù hợp nhất để thu thập các thông tin về vũ trụ. Đây là thời kì các thông tin trong vũ trụ sớm bắt đầu bị thất thoát, cũng là lúc các sao bắt đầu hình thành, nó đưa lại khả năng quan sát lớn nhất qua sóng vô tuyến 21cm của hydro trong giai đoạn này. Giãn nở gia tốc làm tương lai sẽ ngày càng ảm đạm hơn đối với các nhà khoa học. Các thiên hà ngày càng rời xa nhau và ánh sáng từ nhiều nơi trong vũ trụ không bao giờ có thể tới được Trái Đất để người ta có thể quan sát nó. "Nếu chúng ta muốn tìm hiểu về giai đoạn sớm của vũ trụ, chúng ta tốt nhất là làm nó ngay bây giờ trước khi quá muộn" Loeb nói. (theo Space Daily)
Big Bang và bức tranh của chúng ta về vũ trụ
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=103&amp;Itemid=178
Vũ trụ tồn tại và tiến hoá! Điều này thật đơn giản.Nhưng để những kiến thức này trở nên quen thuộc với một bộ phận nhân loại như ngày nay thì đã phải trải qua một khoảng thời gian khá dài. Ngày nay mô hình Big Bang (vụ nổ lớn) như chúng ta sẽ nhắc tới dưới đây được thừa nhận rộng rãi, và thông qua đó chúng ta hiểu được phần nào sự ra đời của vũ trụ, hiểu được tại sao chúng ta có mặt trên thế giới này. Trước đây, người ta luôn mặc định rằng không gian và thời gian là vô hạn. Dù trải qua nhiều giai đoạn nhận thức trong đó Trái Đất từ chỗ là trung tâm vũ trụ đã trở thành một thiên thể chuyển động quanh Mặt Trời trung tâm, rồi Mặt Trời cũng chỉ là một bộ phận của thiên hà Milky Way, và Milky Way cũng chỉ là một bộ phận vô cùng nhỏ bé trong vũ trụ; thì ngay trong những giai đoạn lịch sử kéo dài đến hơn 2000 năm đó, không gian và thời gian luôn là vô hạn và bất biến. Có vẻ như không gian và thời gian là 2 khái niệm tự nhiên và quá cơ bản đến mức không ai được phép nói rằng chúng phải tuân theo các định luật vật lí. Cho đến thế kỉ 20, với sự ra đời của thuyết tương đối rộng mà hằng số vũ trụ học bao hàm bởi phương trình trường của nó mô tả một vũ trụ đang nở rộng thì người ta mới nghĩ ra rằng hẳn không gian và thời gian cũng có kích thước, hình dạng và lịch sử của nó. -- Năm 1927, một linh mục đồng thời là nhà vật lý người Bỉ là Georges Lemaître là người đầu tiên đề xuất rằng vũ trụ đã ra đời từ một vụ nổ phát sinh từ một cái tâm nguyên thuỷ. Hơn 1 năm sau đó, Edwin Hubble với những quan sát chi tiết về độ dịch bước sóng của các thiên hà ở xa đã nhận ra rằng tất cả các thiên hà đều đang chạy ra xa chúng ta theo mọi hướng. Trong khi đó chúng ta thì hẳn không phải trung tâm của vũ trụ, như vậy là vũ trụ đang giãn nở theo mọi hướng, không gian có kích thước và nó đang ngày càng tăng lên cùng với chiều tăng của thời gian. Hubble được coi là người đầu tiên đặt nền tảng cho thuyết Big Bang. Tuy nhiên đến tận năm 1948, George Gamov mới biến Big Bang thành một lí thuyết cho biết vũ trụ ra đời từ một vụ nổ lớn nóng (the hot big bang). Tất nhiên có rất nhiều sự hoài nghi về lí thuyết này cho đến năm 1964, khi Arno Penzias và Robert Wilson phát hiện ra sự tồn tại của bức xạ nền vũ trụ (cosmic background radiation) - và họ đã nhận giải Nobel cho phát hiện này. Sự tồn tại của loại bức xạ này đã chứng minh rằng vũ trụ phải ra đời từ một vụ nổ lớn cách đây khoảng 10 - 20 tỉ năm. Như vậy là theo thuết Big Bang nói trên, tất cả chúng ta (vũ trụ) đã ra đời cách đây 13,9 tỷ năm (con số tương đối chính xác được tính cho tới thời điểm hiện nay) bởi một vụ nổ. Ta không thể nói gì về nó vì ngoài phạm vi của Big Bang thì không tồn tại vật chất và bức xạ, do đó không tồn tại khái niệm không gian và thời gian, từ duy nhất ta có thể dùng để chỉ nó là "không gì cả". Chúng ta không thể có khái niệm không gian và thời gian vào trước khi Big Bang xảy ra. Vì sao lại như vậy? Như trên đã nói, toàn bộ vật chất (các hạt) chỉ được tạo thành bởi vụ nổ lớn (Big Bang). Vậy có nghĩa là trước Big Bang không hề có sự tồn taị của các hạt mà chúng ta đã biết. Như vậy là không có một sự khác biệt nào để phân biệt 2 điểm, như vậy là không gian không hề tồn tại. Mặt khác ta lại biết rằng thời gian chỉ là một đại luợng biểu diễn các quá trình. Vậy ở đây ta sẽ sử dụng thời gian để làm gì khi không có sự biến đổi, sự chuyển động của các hạt. Vậy ta có thể đi đến kết luận thời gian cũng không tồn tại ngoài phạm vi của Big Bang. Như thế thì chúng ta lại có một lưu ý nhỏ là không bao giờ được phép nói rằng Big Bang đã bùng phát tại "một điểm" vì đơn giản là điểm thì phải được xác định trong một không gian hình học nào đó trong khi ở đây ta không có không gian. - : Kỷ nguyên Planck. Đây là giai đoạn đầu tiên của vũ trụ theo mô tả của thuyết Big Bang, khi tuổi của vũ trụ là dưới 10 s (thời gian Planck). Ở giai đoạn đầu tiên này, các xác suất lượng tử là không thể dự đoán và do đó vật lý không thể mô tả bất cứ điều gì cụ thể về giai đoạn này của vũ trụ. - : Kỷ nguyên thống nhất lớn - ngay sau kỷ nguyên Planck. Giai đoạn này được gọi tên như vậy bởi đây là lúc ba tương tác cơ bản của thuyết thống nhất lớn là tương tác điện từ, tương tác mạnh và tương tác yếu vẫn còn thống nhất, chưa tách khỏi nhau. - : Kỷ nguyên điện yếu và . Trong giai đoạn rất ngắn này, tương tác mạnh đã tách ra nhưng tương tác yếu và tương tác điện từ vẫn chưa tách khỏi nhau, được gọi là tương tác điện yếu. Cũng trong giai đoạn này, vũ trụ có sự giãn nở lạm phát, trong đó tốc độ giãn nở của vũ trụ mới hình thành khi đó được đẩy lên cực đại, nhanh hơn rất nhiều tốc độ giãn nở ngày nay mà chúng ta có thể quan sát. Đây là thời điểm các hạt tạo thành vật chất, quark và lepton hình thành cùng với các của chúng, nhiều cặp phản hạt gặp nhau tự hủy giải phóng năng lượng dưới dạng photon, quá trình lạm phát không gian làm các hạt phóng đi mọi hướng mà không bị kéo lại với nhau với lực hấp dẫn. - , bắt đầu kỷ nguyên quark. Đây là khi tương tác điện yếu đã tách ra thành tương tác điện từ và tương tác yếu. Vũ trụ được lấp đầy bởi các quark, lepton cùng các phản hạt của chúng. Ở giai đoạn này, vũ trụ còn đủ nóng để các quark có vận tốc đủ cao khiến khi va chạm chúng không thể kết hợp với nhau thành các meson hay baryon. Kỷ nguyên quark kết thúc vào thời điểm tuổi của vũ trụ là 10-6s, lúc này vũ trụ đã đủ nguội và tương tác mạnh có thể liên kết các quark với nhau. Vũ trụ được tràn ngập bởi các hadron mới tạo thành và bước vào kỷ nguyên hadron. - : kỷ nguyên hadron. Đây là giai đoạn nhiệt độ đã giảm đủ để các quark kết hợp với nhau. Các quark và phản quark cùng photon mang năng lượng tập hợp lại với nhau tạo thành các hadron và phản hadron. Khi toàn bộ các quark đã mất trạng thái tự do và lượng photon đã đủ cân bằng để không gây ra những phản ứng kết hợp thêm nữa, thời kì hadron kết thúc. - : kỷ nguyên lepton. Các hadron và phản hadron huỷ nhau gần hết ngay sau khi kết thúc thời kỳ hadron. Tiếp đến các lepton và phản hạt của chúng cũng huỷ nhau cho tới khi vũ trụ đủ nguội để các cặp hạt này không còn được tiếp tục tạo ra nữa và chỉ còn lại một lượng nhỏ là các lepton còn lại. Vũ trụ rất đậm đặc và photon chưa thể di chuyển tự do trong vũ trụ. - : kỷ nguyên photon. Các photon tràn ngập vũ trụ nhưng chúng chưa thể di chuyển hoàn toạ tự do mà liên tục tương tác với các lepton và hadron tràn ngập trong vũ trụ. Quá trình tương tác này kéo dài trong khoảng 380.000 năm, trải dài qua cả giai đoạn tổng hợp hạt nhân ở thời điểm 3 phút sau Big Bang và giai đoạn thống trị của vật chất, kết thúc vào thời điểm bắt đầu của sự tái tổ hợp. - : giai đoạn tái tổ hợp. Đây là giai đoạn trong vũ trụ sớm bắt đầu vào khoảng 377.000 (hoặc 380.000) năm sau Big Bang. Trong giai đoạn tái tổ hợp, mật độ và nhiệt độ của vũ trụ đã giảm đủ để các proton bắt giữ được electron tạo thành các nguyên tử hydro trung hoà, giải phóng các photon có thể bắt đầu di chuyển tự do trong vũ trụ và tạo nên nền vi ba vũ trụ như được quan sát ngày nay. - : thời kỳ tối. Giai đoạn khá dài này bắt đầu ngay cuối tái tổ hợp (vốn diễn ra khá nhanh). Trong giai đoạn này, các photon đã được giải phóng trong giai đoạn tái tổ hợp nhưng chúng còn ít và tất cả đều bị tương tác với các hạt tràn ngập vũ trụ khi đó, do đó vũ trụ không được "chiếu sáng". Khoảng 100 triệu năm sau Big Bang, các sao và thiên hà đầu tiên hình thành và bức xạ chúng phát ra đưa vũ trụ vào giai đoạn tái ion hoá, các photon được giải phóng di chuyển tự do trong vũ trụ và đó là thời điểm thời kỳ tối kết thúc. - : Các sao đầu tiên hình thành do liên kết hấp dẫn. - : Các thiên hà đầu tiên hình thành. - : hiện tại. Lý thuyết Big Bang về một vũ trụ đặc, nóng cho chúng ta 3 khả năng về một tương lai cho vũ trụ. Rất nhiều người nhìn chung là thấy thích thú với khả năng thứ nhất. Khả năng này được gọi là "Vũ trụ đóng" (Close Universe), theo đó gia tốc giãn nở của vũ trụ sẽ giảm dần trong khoảng 10-15 tỷ năm nữa, dần nhỏ dần và về đến âm, tức là vũ trụ sẽ giãn nở chậm dần, rồi sau đó sẽ đến một thời điểm gia tốc đó không còn đủ lớn đẻ chống lại hấp dẫn giữa các vật thể trong vũ trụ. Lực hấp dẫn sẽ thay sự ở ra của vũ trụ bằng sự co lại. Các thiên hà chạy lại gần nhau hơn làm mật độ vật chất tăng dần. Quá trình này có vẻ giống cái chết của một ngôi sao nặng. Sao càng nặng khi về già sẽ càng co lại mạnh mẽ do hấp dẫn, thậm chí có thể co lại đến mức trở thành một sao neutron với hấp dẫn hết sức khủng khiếp hoặc một lỗ đen với hấp dẫn không thể chống lại. Vũ trụ tương lai sẽ đậm đặc dần và tại một kích thước đủ nhỏ, tất cả vật chất sẽ cùng rơi vào một cuộc sụp đổ vĩ đại, đưa tất cả về ZERO (như trước khi Big Bang bùng phát). Khả năng này làm nhiều người yên tâm và có phần thích thú vì nó mở ra một cơ hội khả dĩ cho ý tưởng về một vũ trụ luân hồi. Với lòng tin vào một vũ trụ đóng (sẽ co lại trong tương lai), những người theo đuổi lí thuyết về một vũ trụ luân hồi giải thích rằng có thể có nhiều vũ trụ tồn tại trước vũ trụ của chúng ta và cũng có thể có những vũ trụ khác tồn tại sau vũ trụ của chúng ta. Chính các vụ bùng nổ hoặc suy sụp là các thời điểm tại đó vật chất cùng không gian và thời gian ra đời hoặc chấm dứt. Ý nghĩ này củng cố một niềm tin rằng những vận động vật chất tuy có biến đổi nhưng là vĩnh cửu. Loài người có thể tuyệt diệt, vũ trụ có thể sẽ biến mất nhưng thay vào đó sẽ là một vũ trụ khác ra đời. Và rồi lại các thiên hà, các ngôi sao, các hành tinh ... nối nhau ra đời. Đó ... có thể là một cơ hội cho sự sống phát sinh. Viễn cảnh này có vể rất sáng sủa, nhưng chúng ta hãy nên tìm hiểu thêm kĩ hơn về các khả năng tương lai khác do lý thuyết Big Bang đưa lại. Theo lý thuyết này, một tham số quan trong quyết định số phận của vũ trụ là thông số mật độ (hoặc Ω ), được tính bằng tỷ lệ giữa mật độ trung bình  của vũ trụ và mật độ tới hạn . Phương trình Friedmann cho biết mật độ tới hạn là  (Trong đó H là hằng số Hubble, G là hằng số hấp dẫn). Khi đo được mật độ trung bình của vũ trụ, chúng ta sẽ tính ra được giá trị Ω và từ đó xác định được dạng hình học của vũ trụ: Ở trên đã trình bày về vũ trụ đóng, còn hai trường hợp còn lại thì sao? Nếu vũ trụ là phẳng thì có thể coi như mọi việc sẽ tiếp tục diễn biến như hiện nay, kích thước vũ trụ tăng chậm và nó có vẻ hơi giống với một vũ trụ tĩnh định mà trước đây nhiều người từng tin tưởng. Và như vậy thì thời gian sẽ là dài vô tận. Nó có điểm khởi đầu nhưng không có điểm kết thúc. Thế còn một vũ trụ mở? Trước hết thì bạn đọc nên biết rằng những quan sát tỉ mỉ nhất cho tới nay đã cho một kết quả chính xác là Ω < 1, tức là điều kiện để vũ trụ là mở. Tuy nhiên một vài thắc mắc về phép đo này cũng như sự hoài nghi độ chính xác của hằng số Hubble đã giúp củng cố niềm tin cho 2 khả năng về vũ trụ đóng và vũ trụ phẳng để nó tiếp tục đứng vững cho đén những năm cuối cùng của thế kỉ 20. Những quan sát tỉ mỉ nhất vào những năm cuối cùng của thế kỉ 20 đã khẳng định rằng vũ trụ đang giãn nở với gia tốc hết sức nhanh, nhanh hơn bao giờ hết. Sự giãn nở gia tốc này là do sự có mặt của như dự đoán của phương trình Einstein. Nó sẽ giãn nở mạnh mẽ như thế và hơn thế nữa vĩnh viễn, điều đó một lần nữa khẳng định cho sự chính xác của phép đo mật độ trước đây. Vũ trụ là mở, nó sẽ dãn nở nhanh dần mãi mãi!   Nếu như người ta mong muốn một vũ trụ luân hồi với điều kiện đóng của vũ trụ hiện tại thì ít ra người ta cũng vẫn sẽ được an ủi nếu như vũ trụ là phẳng. Một vũ trụ phẳng sẽ cho phép các ngôi sao tiếp tục hình thành cùng các hành tinh của chúng. Sự sống có thể biến mất trong hệ Mặt Trời nhưng vẫn có thể phát sinh và phát triển tại một nơi xa xôi nào đó. Nhưng với một vũ trụ mở ngày nay chúng ta đã biết thì cơ may cho một khả năng như thế là không hề tồn tại. Thể tích không gian tăng dần sẽ làm mật độ vật chất trong vũ trụ tương lai giảm nhanh đáng kể. Khoảng cách trung bình giữa 2 hạt bất kì sẽ là lớn hơn hiện nay nhiều dần, có nghĩa là chúng sẽ ngày càng ít cơ hội để tương tác với nhau. Nhiều triệu năm sau khi trí tuệ và văn minh của chúng ta biến mất, vũ trụ sẽ "loãng" đến mức các tương tác hấp dẫn và điện từ không còn phát huy được nhiều tác dụng của nó. Không còn sự hình thành các đám tinh vân, các ngôi sao và các hành tinh mới. Trong khi đó thì các ngôi sao cũ như Mặt Trời của chúng ta sẽ già và chết dần, co lại và phân rã trong sự nở ra của vũ trụ. Hơn 10 tỷ năm nữa, vũ trụ sẽ chỉ còn là một nghĩa địa hoang tàn, không một dấu vết của sự sống. Các tương tác nhỏ nhất cũng đã mất hết tác dụng. Sẽ đến một thời điểm mà tương tác hấp dẫn (loại tuơng tác có tầm tác dụng xa nhất) giữa 2 hạt gần nhau nhất cũng sẽ nhỏ đến mức không còn đủ sức gây ra một tương tác nào đáng kể giữa 2 hạt đó nữa. Và như vậy, ta có thể coi đó là điểm kết thúc của thời gian. Mặc dù sau đó vũ trụ vẫn tiếp tục giãn nở nhưng mọi tương tác đã mất tác dụng, mọi quá trình lý - hoá đều đã biến mất. Thời gian cuối cùng vẫn chấm hết và chúng ta đành chấp nhận một kết cục đáng sợ - cái đáng sợ của sự vô tận! Bài viết được thực hiện lần đầu năm 2006, đã được đính chính và bổ sung thêm thông tin. Vui lòng ghi rõ tên tác giả và nguồn Thienvanvietnam.org khi bạn sử dụng bài viết này.
Hình ảnh nguyệt thực tại Việt Nam
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=364:hinh-anh-nguyet-thuc-tai-viet-nam&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Đây là một số hình ảnh về hiện tượng nguyệt thực tối 10 tháng 12 vừa qua ghi lại tại Việt Nam. Các hình ảnh này do thành viên và những người bạn của VACA ghi lại tại khu vực miền Nam do miền Bắc và miền Trung đều không thể quan sát hiện tượng này.   Các hình ảnh này được chụp đều bằng máy ảnh cá nhân, không qua các kính thiên văn nên tất nhiên hình ảnh không được rõ nét như mong muốn. Chúng tôi đã để nickname hoặc địa chỉ e-mail của các bạn gửi hình ngay trên mỗi hình ảnh.          
Chúng ta rất có thể là những người Sao Hỏa
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=747:chung-ta-rat-co-the-la-nhung-nguoi-sao-hoa&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Sự sống trên Trái Đất đã được khởi đầu nhờ có một khoáng chất cốt yếu mang tới bởi một thiên thạch đến từ Sao Hỏa, theo một nghiên cứu mới được công bố hôm thứ năm ngày 29 tháng 8 vừa qua. Thành phần quan trọng ở đây là khoáng chất đã được oxy hóa của molybden  ( Mo), có tác dụng ngăn không cho các phân tử carbon - những viên gạch xây nên sự sống - phân hủy và biến đổi thành dạng nhớt giống như nhựa đường. Ý tưởng này đến từ Steven Benner, giáo sư Viện khoa học và công nghệ Westheimer ở Gainesville, Florida - người đã trình bày nó tại một hội nghị địa hóa học quốc tế ở Florence, Italy. "Chỉ khi molybden bị oxy hóa mạnh nó mới gây ảnh hưởng tới sự hình thành sự sống ban đầu", Benner nói trong một thông cáo báo chí, "Dạng này của molybden không thể tồn tại trên Trái Đất vào thời điểm sứ sống bắt đầu, vì ba tỷ năm trước về mặt Trái Đất có rất ít oxy, nhưng Sao Hỏa thì lại có nhiều.". Trong giai đoạn "bạo lực" này của Hệ Mặt Trời, Trái Đất sơ sinh bị tấn công liên tiếp bởi các sao chổi và tiểu hành tinh. Sao Hỏa cũng vậy, nó đã bị "dội bom", và các va chạm hẳn đã ném một đống những mảnh vỡ của hành tinh nào vào không gian, nơi chúng nán lại cho tới khi bị lực hấp dẫn của Trái Đất tóm lấy. Các phân tích gần đây về thiên thạch của Sao Hỏa đã cho thấy sự có mặt của molybden, cũng như bo ( B), một nguyên tố cũng tham gia việc tạo thành sự sống qua việc bảo vệ RNA - một anh em nguyên thủy của DNA - từ những tác động ăn mòn của nước. "Bằng chứng này có vẻ như cho thấy chúng ta thật ra là những người Sao Hỏa, sự sống đã bắt đầu ở Sao Hỏa và tới Trái Đất trên một tảng đá", Benner nói, "Thật may mắn vì chúng ta đã dừng chân ở đây, Trái Đất là nơi tốt hơn trong số hai hành tinh có thể hỗ trợ sứ sống. Nếu như tổ tiên của chúng ta (theo lý thuyết này) đã ở lại Sao Hỏa, thì có lẽ đã không có một câu chuyện để kể lại lúc này." Các lý thuyết khác về việc sự sống đã bắt đầu trên Trái Đất ra sao gợi ý rằng nước, yếu tố thiết yếu, đã được mang tới từ các sao chổi, thường được gọi là "những bóng tuyết bẩn" (dirty snowball), gồm băng và bụi sót lại từ sự tạo thành Hệ Mặt Trời. Một giả thuyết khác, gọi là panspermia, gợi ý rằng vi khuẩn đã nằm ngay trên các thiên thạch bắn phá Trái Đất, chúng rơi xuống đại dương và phát triển thành sự sống ngày nay. Theo Space Daily
Thiên thể mới mở ra bí ẩn của Hệ Mặt Trời
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=1079:thien-the-moi-mo-ra-bi-an-cua-he-mat-troi&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Có rất nhiều thiên thể kỳ lạ trong Hệ Mặt Trời, nhưng thiên thể vừa mới phát hiện trong nhóm các thiên thể bên ngoài Sao Hải Vương (các TNO) với cái tên Niku có thể là một trong những đối tượng kỳ lạ nhất.     Thành phần của Niku không phải là thứ khiến nó khác thường. Nó có vẻ như giống một tảng băng với đường kính 200 km, nằm ở ngưỡng thấp hơn ngưỡng của các thiên thể được xem là hành tinh lùn. Có rất nhiều thiên thể ở khích thước và cấu tạo tương tự ở vành đai Kuiper và xa hơn. Điều kỳ lạ nhất về Niku là mặt phẳng quỹ đạo của nó có độ lệch rất lớn so với mặt phẳng hoàng đạo, hay mặt phẳng quỹ đạo của Trái Đất và cũng là mặt phẳng chứa hầu hết các hành tinh trong Hệ Mặt Trời. Trái Đất nằm trên mặt phẳng Hoàng đạo, nên nó có độ lệch là 0 độ, vậy độ lệch của Niku là bao nhiêu? 110 độ. Hay nói cách khác, quỹ đạo của nó là quỹ đạo ngược. Hành tinh có quỹ đạo lệch lớn nhất là Sao Thủy với độ lệch 7 độ. Hành tinh lùn Pluto và Eris là 17 và 44 độ và rất nhiều hành tinh lùn khác nằm trong phạm vi này. Nhiều thiên thể trong Hệ Mặt Trời có quỹ đạo lệch bao gồm cả tiểu hành tinh và sao chổi. Nhưng Niku chắc chắn là thiên thể lớn nhất có quỹ đạo như vậy. Vậy làm sao nó tới đó được? Đó là điều mà các nhà thiên văn học đang cố gắng tìm hiểu. Trong một báo cáo mới, có nhiều khả năng đã được khám phá. Nhưng thiên thể này không đủ xa để rơi vào nhóm các thiên thể Sedna - nhóm thiên thể đã cung cấp lập luận chắc chắn cho hành tinh thứ chín trong Hệ Mặt Trời. Còn có những thiên thể nhỏ hơn với quỹ đạo tương tự, vậy dường như có gì đó kéo chúng ở đó. Nhưng dù là gì, nó không thể hiện một cách thật sự rõ ràng mà thay vào đó, thiên thể được phát hiện bởi đài quan sát Pan-STARRS 1 này tỏ ra rất kỳ quái và bí ẩn. Câu trả lời có thể sẽ đòi hỏi việc tìm kiếm nhiều hơn nữa các đối tượng giống như vậy.  
Tại sao Trái Đất dường như quá khô cằn?
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=556:tai-sao-trai-dat-duong-nhu-qua-kho-can&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Với đại dương rộng lớn, những con sông chạy khắp nơi tới hàng trăm dặm và những khối băng khổng lồ ở hai cực của mình, Trái Đất chẳng có vẻ gì là thiếu nước. Nhưng sự thật là chỉ có chưa tới 1% khối lượng của hành tinh chúng ta được lấp đầy bởi nước, và thậm chí chúng còn đến từ các sao chổi và tiểu hành tinh khi chúng tới với Trái Đất khi mới hình thành. Các nhà thiên văn học từng gặp khúc mặc với sự thiếu nước của Trái Đất. Mô hình chuẩn giải thích cách mà Hệ Mặt Trời đã hình thành từ một đĩa tiền hành tinh, một đĩa gồm toàn khí và bụi quay tít xung quanh Mặt Trời ở trung tâm hàng tỷ năm trước, mô hình này dự đoán rằng hành tinh của chúng ta phải toàn nước. Trái Đất có thể đã được tạo thành từ những vật chất đóng băng ở khu vực quanh Mặt Trời nơi mà nhiệt độ đủ thấp để đóng băng vùng ngoài đĩa. Như vậy Trái Đất phải tạo thành bởi một lượng nước lớn, vậy tại sao chúng ta lại "khô cằn" như vậy? Một phân tích mới dẫn đần bởi Rebecca Martin và Mario Livio tại Viện khoa học kính thiên văn không gian Baltimore đã cho thấy Trái Đất đã được hình thành trong một vùng gồm toàn đá khô và nóng, phía trong một vùng gọi là "dòng băng". Dòng băng trong Hệ Mặt Trời hiện nằm ở khoảng giữa vành đai tiểu hành tinh, một tập hợp các thiên thể nhỏ nằm giữa Sao Hỏa và Sao Mộc. Xa hơn nơi này, ánh sáng Mặt Trời không đủ mạnh để làm tan chảy băng trên đĩa tiền hành tinh. Mô hình trước đây về sự bồi đắp tạo thành các hành tinh cho rằng trước đây dòng băng này nằm gần Mặt Trời hơn, vào khoảng 4,5 tỷ năm trước khi Trái Đất hình thành. "Không giống với mô hình chuẩn về đĩa bồi đắp, dòng băng trong các phân tích của chúng tôi chưa bao giờ nằm phía trong quĩ đạo Trái Đất," Livio nói, "Thay vào đó, nó nằm xa Mặt Trời hơn nhiều so với quĩ đạo Trái Đất, giải thích tại sao Trái Đất chúng ta là một hành tinh khô cằn. Trên thực tế, mô hình của chúng tôi dự đoán rằng các hành tinh nhóm trong khác gồm Sao Thủy, Sao Kim và Sao Hỏa cũng tương đối khô" Kết quả này đã được chấp nhận công bố trên tạo chí Báo cáo hàng tháng cyar Hội thiên văn Hoàng gia. Trong mô hình thông thường, đĩa tiền hành tinh quanh Mặt Trời hoàn toạn bị ion hóa và chuyển các vật chất vào ngôi sao, đốt nóng đĩa lên. Dòng băng ban đầu nằm ở xa ngôi sao (Mặt Trời), có lẽ ít nhất là một tỷ dặm. Theo thời gian, đĩa này mất vật chất và trôi dần về phái trong, vượt qua quĩ đạo của Trái Đất trước khi Trái Đất được tạo thành. "Nếu dòng băng đã nằm phía trong quỹ đạo Trái Đất khi hành tinh chúng ta hình thành, thì nó đã phải là một thiên thể băng", Martin giảithichs "Hành tính như Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương được tạo thành phía người dòng băng có tới 10% khối lượng là nước. Nhưng Trái Đất lại không có nhiều nước, và đó luôn là một bài toán khó." Nghiên cứu của Martin và Livio đã tìm ra một vấn đề đối với mô hình chuẩn về đĩa bồi đắp cho sự tiến hóa của dòng băng. "Chúng tôi đã nói rằng, đợi một chút, đĩa quanh các sao trẻ không hoàn toàn ion hóa", Livio cho biết "Chúng không phải một đĩa chuẩn vì không có đủ nhiệt và bức xạ để làm ion hóa đĩa" "Những thiên thể rất nóng như các sao lùn hay các nguồn X-ray bức xạ ra đủ năng lượng để ion hóa đĩa của chúng" Martin nói thêm "Nhưng các sao trẻ không có đủ bức xạ hay là đủ nhiên liệu cần thiết đêt tạo ra những cú tác động năng lượng cần thiết để ion hóa đĩa" Như vậy, nếu đĩa không được ion hóa, sẽ không có cơ chế đưa vật chất từ phía ngoài vào ngôi sao. Thay vào đó, khí và bụi chuyển động quanh ngôi sao mà không di chuyển vào phía trong, tạo thành một vùng gọi là "vùng chết" Vùng chết trải rộng từ 0,1 đơn vị thiên văn tới vài đơn vị thiên văn tính từ ngôi sao. Vùng chết này ngăn cản vật chất phía ngoài tiến vào gần ngôi sao. Vật chất vì vậy tích dần ở rìa của vùng và đậm đặc dần. Vật chất đậm đặc bắt đầu nóng lên do sự nén của lực hấp dẫn. Quá trình này làm nóng toàn bộ vùng phía ngoài, làm bay hơi các chất đóng băng và làm chúng trở nên khô. Trái Đất hình thành trong vùng nóng này, trải rộng vài đơn vị thiên văn quanh Mặt Trời, nó được tạo thành từ các vật chất khô. Sự chỉnh sửa của Martin và Livio so với mô hình chuẩn giải thích tại sao Trái Đất không tràn ngập nước. Martin khuyến cáo rằng mô hình này không phải một mẫu chuẩn cho tất cả các đĩa quanh các sao. "Các điều kiện của đĩa khác nhau giữa các sao", Livio cho biết "và cơ hội, nhiều hơn bất cứ điều gì khác, xác định cho tính chính xác của kết quả đối với Trái Đất chúng ta". Theo Space Daily
Mặt Trời
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=49:mat-troi&amp;catid=38:he-mat-troi&amp;Itemid=146
  Quá trình tiến hóa của Mặt Trời tuân theo qui luật chung của vòng đời một ngôi sao. Sau khi lượng hydro phản ứng gần hết (với sao như Mặt Trời là khoảng 10 tỷ năm và nó đã đi được nửa quãng đường đó) thì các phản ứng nhiệt hạch sinh ra yếu dần không còn đủ sức chống lại lực hấp dẫn hướng tâm. Các lớp trong của Mặt Trời khi đó sẽ co lại do hấp dẫn. Quá trình co lại làm giải phóng một phần khí ra phía ngoài cùng với năng lượng tiếp tục sinh ra do các hạt nhân heli tiếp tục phản ứng để tạo thành các hạt nhân nặng hơn nên lớp vỏ ngoại bị thổi căng lên. Đây là giai đoạn sao khổng lồ đỏ, vỏ ngoài nguội dần nhưng nở rộng rất nhanh, nó sẽ nghiền nát các hành tinh ở gần gồm Sao Thủy, Sao Kim, Trái Đất và thậm chí cả Sao Hỏa. Năng lượng giải phóng từ quá trình co lại của lõi trong phá vỡ lớp vỏ sao khổng lồ đỏ phía ngoài. Vụ nổ này ném các tàn dư của nó ra không gian xung quanh, chỉ còn lại một đám khí lớn dạng cầu bao quanh ngôi sao gọi là tinh vân hành tinh. Phần trong của Mặt Trời tiếp tục co lại, các phản ứng tạo ra một số hạt nhân nặng hơn cho tới khi các lực liên kết hạt nhân chống lại được lực hấp dẫn không cho nó co lại thêm nữa. Các phản ứng chậm dần và ngôi sao nguội đi, Mặt Trời lúc này trở thành sao lùn trắng - một thiên thể phát ra ánh sáng rất mờ nhạt do những phản ứng cuối cùng. Mặt Trời giống như một cỗ máy phát nhiệt có cấu tạo phức tạp gồm nhiều lớp. Trong cùng là (core) của ngôi sao. nó là một khối có mật độ rất đặc trải rộng từ tâm ngôi sao ra một khoảng chiếm 25% bán kính của Mặt Trời. Nhiệt độ của lõi Mặt trời là hơn 15 triệu K, nóng hơn rất nhiều so với bề mặt chỉ khoảng 6000K. Phản ứng tổng hợp hạt nhân giải phóng ra năng lượng chống lại hấp dẫn và làm ngôi sao tỏa sáng được thực hiện tại phần lõi này, mật độ cao và lực hấp dẫn hướng tâm từ các lớp phài ngoài làm sinh ra phản ứng tổng hợp các proton mà chúng ta thường gọi là phản ứng nhiệt hạch. Phía ngoài lõi sao là (radiative zone) - khu vực chiếm thể tích lớn nhất, nó trải dài từ biên giới của lõi ra đến 70% bán kính Mặt Trời (tính từ tâm). Vùng này có mật độ thấp hơn nhiều so với lõi, nhưng đủ đặc để truyền các bức xạ sinh ra từ các phản ứng nhiệt hạch và làm chúng nguội đi đáng kể trước khi ra ngoài. Nhiệt độ của vùng bức xạ này giảm nhanh từ trong ra ngoài, từ 7 triệu giảm xuống 2 triệu K. (convective zone) nằm kế tiếp vùng bức xạ và trải rộng ra cho tới sát bề mặt của Mặt Trời. Tại đây nhiệt độ và mật độ đều thấp hơn nhiều so với vùng bức xạ, cho phép tạo nên các dòng đối lưu vận chuyển nhiệt và bức xạ ra bề mặt của Mặt Trời. Các dòng đối lưu mang các nguyên tử khí nóng lên bề mặt và làm chúng nguội dần, khi lên tới nơi và đã nguội xuống nhiệt độ chỉ còn gần 6000K chúng lại chìm xuống dưới theo dòng chuyển dịch và lại được làm nóng khi tới gần vùng bức xạ.   Lớp bề mặt của Mặt Trời, chính là phần vỏ sáng mà chúng ta có thể trực tiếp nhìn thấy từ Trái Đất gọi là (photosphere). Đây là vùng nguội nhất trên mặt trời với nhiệt độ khoảng 5800-6000K. Độ dày của nó dao động từ vài chục tới vài trăm kilomet, tức là còn mỏng hơn khí quyển của Trái Đất. Chính qua nghiên cứu các vạch quang phổ hấp thụ của quang cầu mà năm 1868 một nguyên tố mới đã được phát hiện, đó là heli. Heli là cái tên được đặt theo tên của thần Mặt Trời Helios như đã nói qua bên trên, ngụ ý rằng đó là nguyên tố đến từ Mặt Trời. Ngay phía trên quang cầu là lớp khí quyển thấp nhất bao quanh bề mặt Mặt Trời, dày khoảng 500km với nhiệt độ chỉ khoảng hơn 4000K. Đây là vùng nguội nhất Mặt Trời. Lớp ngay phía ngoài của nó là một lớp khí nóng dày gọi là (chromosphere) dày khoảng 2000km. Lớp này có sự chuyển dịch không ngừng giống như sự dịch chuyển khí quyển trên bề mặt Trái Đất, vì thế nhiệt độ của nó có sự dao động, có thể lên tới 20.000K, tức là nóng hơn quang cầu rất nhiều, các nhà khoa học cho rằng đó là kết quả của sự ion hóa do nhận bức xạ thoát ra từ bề mặt. Phía trên sắc cầu là lớp cuối cùng của Mặt Trời, gọi là (corona), hay gọi cách khác là hào quang của Mặt Trời. Nó ngăn cách với sắc cầu bởi một lớp trung gian mỏng nơi khí bị ion hóa mạnh và nhiệt độ tăng lên rất cao. Nhiệt độ của nhật hoa có thể lên hơn 1 triệu K. Tuy nhiên nhật hoa phát ra bức xạ ở dải sóng biểu kiến khá yếu so với quang cầu nên thường không được quan sát thấy bằng mắt thường từ Trái Đất. Người ta chỉ thường nhận thấy sự có mặt của nhật hoa khi xảy ra nhật thực toàn phần do khi đó phần sáng nhất của Mặt Trời là quang cầu đã bị che khuất. Nhật hoa cũng là nơi phát sinh ra gió Mặt Trời ném các hạt mạng điện vào không gian. Toàn bộ vùng bị ảnh hưởng của gió Mặt Trời trải dài ra 50AU (quĩ đạo Sao Hải Vương chỉ có 30AU) được gọi là (heliosphere).      
Sao chổi đá mang manh mối về hình thành Hệ Mặt Trời
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=1021:sao-choi-da-mang-manh-moi-ve-hinh-thanh-he-mat-troi&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Một sao chổi mới được xác định có thể mang lại những cái nhìn mới về sự ra đời của Hệ Mặt Trời. Các nhà khoa học tin rằng sao chổi chứa các vật chất đã tạo thành vùng trong của Hệ Mặt Trời trong thời gian Trái Đất hình thành. Những vật liệu độc nhất này đã được lưu giữ trong đám mây Oort suốt hàng tỷ năm.       Sao chổi đặc biệt này giống một tiểu hành tinh hơn, nó khá mờ với nhiều đá và không có đuôi. Các nhà khoa học gọi những sao chổi không đuôi như vậy - thứ làm mờ đi ranh giới giữa và tiểu hành tinh - là các sao chổi "Manx" (tên chỉ loài mèo không đuôi - Manx cat). Mặc dù có thành phần tương tự như các tiểu hành tinh ở vùng trong Hệ Mặt Trời - những thứ đã được quĩ đạo đẩy tới gần Mặt Trời trong hàng triệu năm, sao chổi mới phát hiện có tên C/2014 S3 (PANSTARRS) này mới chỉ được làm ấm lên gần đây. Các quan sát bởi kính VLT (kính thiên văn cực lớn) của ESO và kính thiên văn Canada-Pháp-Hawaii gợi ý rằng nó mới chỉ được đẩy ra khỏi mây Oort trong thời gian gần đây. "Chúng tôi đã biết nhiều tiểu hành tinh, nhưng tất cả chúng đều đều đã được nung nóng bởi hàng tỷ năm," Karen Meech, nhà nghiên cứu ở Viện thiên văn học thuộc Đại học Hawaii nói. "Cái này là tiểu hành tinh đầu tiên không bị "nấu chín" mà chúng tôi quan sát được. Nó được bảo quản trong thứ tủ đông tốt nhất." Meech là tác giả chính của nghiên cứu mới đã công bố vừa qua trên tạp chí Science Advances. Các nhà khoa học đã xây dựng nhiều mô hình mô phỏng sự tạo thành và tiến hóa của Hệ Mặt Trời. Hầu hết có chung các điểm chính, nhưng một khác biệt cơ bản của các dự đoán là tỷ lệ của các thiên thể đá so với băng trong mây Oort. C/2014 S3 là mảnh đá đầu tiên đi ra từ đám mây này. Các nhà khoa học hi vọng sẽ tiếp tục quan sát đối tượng này khi vật chất của nó thăng hoa khi tới gần Mặt Trời, điều đó sẽ mang lại cái nhìn mới vào bản chất của vùng trong Hệ Mặt Trời. Nhưng các nhà nghiên cứu cho biết họ sẽ cần định vị được nhiều sao chổi Manx hơn nữa để xác định xem mô hình nào là chính xác nhất. "Chúng tôi đã tìm thấy sao chổi đá đầu tiên, và đang tìm kiếm những cái tiếp theo," đồng tác giả nghiên cứu là Olivier Hainaut nói."Tùy thuộc vào số lượng chúng tôi tìm được, chúng tôi sẽ biết các hành tinh khổng lồ đã nhảy múa khắp nơi trong Hệ Mặt Trời khi chúng còn trẻ, hay chúng đã lớn lên một cách âm thầm mà không dịch chuyển nhiều."
Sao chổi: nguồn gốc và đặc điểm
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=884:sao-choi-nguon-goc-va-dac-diem&amp;catid=38:he-mat-troi&amp;Itemid=146
Sao chổi là thiên thể chuyển động quanh Mặt Trời. Chúng ta có thể quan sát sao chổi lớn khi chúng đến đủ gần Trái Đất mà không cần đến sự hỗ trợ của các thiết bị quang học, một số sao chổi có khoảng cách xa hơn hoặc mờ hơn có thể được quan sát bằng các kính thiên văn hay ống nhòm nghiệp dư. Những quan sát sao chổi đã có từ rất lâu, nhưng quá trình nhận thức và tìm hiểu đối tượng này đã trải qua một loạt những biến chuyển. Ở đây chúng ta sẽ nhắc tới một số nét chính về nhận thức lịch sử và các đặc điểm vật lý của sao chổi.   Sao chổi từng là một cơn ác mộng, là nỗi sợ hãi trong nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới trong suốt quãng thời gian dài. Trong các nền văn hóa cổ đại, sao chổi được coi  là điềm báo chẳng lành từ các vị thần. Sự xuất hiện của sao chổi là báo hiệu cho chết chóc, bệnh dịch..... Đặc biệt, có những trùng hợp càng làm tăng thêm nỗi sợ hãi hiện tượng này. Chẳng hạn năm 1664 khi một sao chổi rất sáng xuất hiện trên bầu trời, trùng với thời điểm thành phố London (Anh) phải gánh chịu bệnh dịch hạch vào năm 1665  khiến hơn 100.000 người chết (bệnh dịch khi đó đã nổi tiếng với tên gọi là “cái chết đen”). Sau đó là đại hỏa hoạn tại thành phố London vào năm 1666 đã thiêu trụi gần như toàn bộ thành phố. Vậy từ đâu mà các nền văn minh cổ xưa lại cảm thấy sợ hãi hiện tượng này như vậy? Khi quan sát bầu trời đêm, người ta nhận thấy rằng sao chổi không giống bất kì thiên thể nào. Trong khi những thiên thể khác có thể được dự đoán chu kì khá chính xác thì sao chổi luôn luôn không thể dự đoán trước được. Điều này đã khiến cho các nền văn minh cổ đại tin rằng các vị thần đã quyết định chuyển động của sao chổi và đã gửi thông điệp tới cho con người qua chúng. Những quan sát đầu tiên. Những quan sát về sao chổi từ lâu đã được người Trung Quốc ghi chép lại một cách rất tỉ mỉ. Những ghi chép cổ nhất được xác định có niên đại khoảng 1000 năm trước Công nguyên (TCN). Trong đó những quan sát đầu tiên về sự xuất hiện của sao chổi Halley vào năm 239 TCN được ghi chép lại bởi Shih Chi và Wen Hsien Thung Khao. Những ý tưởng về bản chất của sao chổi đã xuất hiện với sư phát triển của triết học tự nhiên Hy Lạp vào khoảng năm 550 TCN khi trường phái Pythagoras coi sao chổi là một hành tinh thường xuyên xuất hiện tại chân trời vào buổi sáng hoặc buổi tối. Trong khi đó Aristotle cho rằng sao chổi là một thiên thể bay ở quỹ đạo thấp hơn Mặt Trăng. Quan điểm của Aristole về sao chổi đã được công nhận trong một thời gian dài. Nhà thiên văn học đầu tiên có quan sát và nghiên cứu tỉ mỉ về sao chổi là Edmond Halley, ông coi nó là một hiện tượng kì thú. Halley đã có những quan sát rất chi tiết về một sao chổi xuất hiện vào năm 1680. Khi tìm hiểu các ghi chép cũ về sao chổi ông nhận thấy các sao chổi xuất hiện vào năm 1531, 1607 và 1682 có rất nhiều điểm chung và ông khẳng định 3 sao chổi đó là một. Ông đã tính toán chính xác được sự trở lại của sao chổi này vào năm 1758. Mặc dù ông không còn sống để quan sát sự trở lại của sao chổi này nhưng sự xác thực của nó đã là khởi đầu cho việc quan sát và nghiên cứu đặc tính của sao chổi sau này. Sao chổi đó đã được đặt theo tên của ông và đến nay chúng ta vẫn coi sao chổi Halley là sao chổi nổi tiếng nhất. Trước Halley, vào 1577 khi một sao chổi xuất hiện trên bầu trời, bằng phương pháp thị sai Tycho Brahe đã cho thấy rằng khoảng cách từ sao chổi này đến Trái Đất lớn gấp 4 lần khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trăng.   Sao chổi được chia làm 2 loại theo đặc điểm chu kỳ là sao chổi chu kỳ ngắn và sao chổi chu kì dài. Những sao chổi chu kỳ ngắn có nguồn gốc từ vành đai Kuiper nằm ngoài quỹ đạo của Sao Hải Vương. Những sao chổi có chu kỳ dài được cho là có nguồn từ đám mây Oort - một khối dạng cầu bao quanh biên giới Hệ Mặt Trời gồm tập hợp các vật thể chủ yếu là băng với đường kính khoảng 2 năm ánh sáng. Những sao chổi quỹ đạo dài từ mây Oort bị đẩy về phía Mặt trời với quỹ đạo parabol hoặc hyperbol do sự nhiễu loạn hấp dẫn từ các ngôi sao có quĩ đạo gần Hệ Mặt Trời và các biến động hấp dẫn của thiên hà.   Nhân sao chổi (core/nucleus) là một khối vật chất rắn có kích thước từ vài kilomet đến vài chục kilomet. Thành phần chủ yếu của nó là đá, bụi, khí và nước đóng băng, trong đó khoảng 80% là  nước đóng băng, khoảng 15% là carbon monoxide (CO), còn lại là carbon dioxide (CO2), methane (CH4) và ammonia (NH3). Sâu bên trong nhân của sao chổi có chứa một thành phần nhỏ gồm các hợp chất hữu cơ như methanol, hydrogen cyanide, formaldehyde, ethanol, ethane và có thẻ cả các phân tử phức tạp hơn như axit amin. Phần bao phủ (coma) là một lớp khí bao quanh phần nhân ở giữa. Nó chỉ xuất hiện khi sao chổi đến đủ gần để bức xạ Mặt Trời gây ra quá trình thăng hoa tại nhân. Khi đó một lớp khí được giải phóng từ lớp băng đá tại trung tâm sao chổi. Kích thước lớp phủ tăng dần khi đến gần Mặt Trời và có thể lớn bằng đường kính của Sao Mộc dù mật độ rất thấp. Vào tháng 12 năm 2007 một cuộc bùng phát bức xạ Mặt Trời đã làm cho đường kính phần đầu sao chổi 17P/ Holmes lớn hơn cả Mặt trời. Mặc dù lớn nhưng nó giảm dần khi đi qua quỹ đạo của Sao Hỏa vì ở khoảng cách này, gió Mặt trời đã đủ mạnh để thổi dạt lớp khí bụi này tạo thành đuôi sáng. Đuôi sao chổi (tail) là điểm đặc trưng của thiên thể khi chúng ta quan sát từ Trái Đất. Nó là dòng khí do sự bay hơi các thành phần của nhân sao chổi, bị thổi dạt về một hướng do áp lực của gió Mặt Trời. Sự phân chia dòng khí bởi gió Mặt Trời làm cho đuôi của các sao chổi có thể khác nhau và về cơ bản được chia thành sao chổi một đuôi, hai đuôi, ba đuôi, ... Khác với phán đoán thông thường, đuôi của sao chổi không hướng dọc theo chiều chuyển động như một ống phản lực mà có hướng ngược lại với hướng đi vào tâm của Mặt Trời, bất kể sao chổi đang di chuyển theo hướng nào, đó là do nó vốn được tạo thành từ áp lực của gió Mặt Trời.   Mỗi sao chổi có một vòng đời khác nhau tính từ khi nó bắt đầu di chuyển vào Hệ Mặt Trời. Các sao chổi đều xuất phát từ những nơi rất xa Mặt Trời nên khi ở điểm viễn nhật chúng rất lạnh. Lúc này, các phân tử khí và nước đều bị đóng băng. Tại thời điểm xuất phát chúng ta không thể quan sát được chúng vì kích thước của chúng rất nhỏ và lại ở quá xa. Sao chổi bắt đầu được quan sát khi nó tới đủ gần Mặt Trời và phát sáng do sự thăng hoa các vật chất trên bề mặt. Dưới tác động của bức xạ Mặt Trời, lớp băng tại bề mặt sao chổi không tan ra mà nó biến đổi trực tiếp từ băng thành khí. Khi quá trình thăng hoa diễn ra, các phân tử nước bị tách qua quá trình quang phân (Photodissciation – sự phân tách hợp chất hóa học do tác động của photon) Trong tất cả các sao chổi đã được quan sát thì chỉ có khoảng 10% số sao chổi tồn tại sau 50 lần đi qua điểm cận nhật và chỉ 1% sống sót qua 2.000 lần. Những sao chổi may mắn sẽ thoát khỏi áp suất cao từ Mặt trời và tiếp tục lặp lại chu kỳ quỹ đạo của mình. Tuy nhiên một số khác lại không được may mắn như vậy. Một số sẽ đâm vào Mặt Trời hoặc bị phá tan bởi áp suất của Mặt Trời. Ngoài ra một số khác bị va chạm với các hành tinh như sao chổi Shoemaker-Levy 9 va chạm với Sao Mộc vào năm 1994.   Các sao chổi, như đã nói trên, đều có quĩ đạo dạng elip dẹt (tâm sai lớn), tức là điểm cận nhật và điểm viễn nhật cách rất xa nhau, khác với các hành tinh có quĩ đạo đều gần tròn.   Những sao chổi chu kỳ ngắn được quy ước là có chu kỳ quỹ đạo ít hơn 200 năm. Điểm viễn nhật nằm tại khu vực các hành tinh nhóm ngoài. Ngoài ra còn có các sao chổi có chu kỳ cực ngắn như sao chổi Encke có điểm viễn nhật không đến quỹ đạo của Sao Mộc. Nó có quỹ đạo ngắn hơn 20 năm. Những sao chổi như thế được xếp vào nhóm JFCs (Jupiter-Family comets – sao chổi có viễn nhật lân cận quĩ đạo Sao Mộc). Những sao chổi có quỹ đạo từ 20 đến 200 năm thuộc sao chổi loại Halley. Tính đến năm 2014, chỉ có 74 sao chổi loại Halley được phát hiện trong khi có đến 492 sao chổi loại JFCs.   Sao chổi chu kỳ dài có quỹ đạo và chu kỳ rất khác nhau, từ 200 năm đến hàng nghìn năm. Quỹ đạo của chúng vượt xa quỹ đạo của các hành tinh nhóm ngoài và mặt phẳng quỹ đạo của chúng không hẳn nằm trên mặt phẳng Hoàng đạo. Một số sao chổi đơn (là những sao chổi chỉ qua điểm cận nhật 1 lần) cũng có quỹ đạo parabol nhưng bị nhiễu loạn hấp dẫn từ các hành tinh lớn như Sao Mộc đã làm thay đổi quỹ đạo từ parabol thành hyperbol khiến chúng vĩnh viễn ra khỏi Hệ Mặt Trời sau khi rời xa khỏi cận nhật. Đến nay chỉ một vài sao chổi được quan sát có thể đạt được quỹ đạo hyperbol (với tâm sai e>1) để có thể thoát ra khỏi HMT.   Khi đến gần Mặt Trời, áp suất từ Mặt Trời và tương tác hấp dẫn làm vỡ lớp đá trên bề mặt của sao chổi. Khi đó các mảnh vỡ bị bắn ra và có thể để lại trên đường đi của nó rất nhiều mảnh nhỏ - các thiên thạch. Vì đa số các sao chổi di chuyển trên mặt phẳng hoàng đạo nên khi đi ngang qua quỹ đạo Trái Đất, chúng để lại những đám thiên thạch do sự tham gia của hấp dẫn Trái Đất, là nguyên nhân gây là các trận mưa sao băng. Ví dụ, mưa sao băng Perseids từ ngày 09 đến 13 tháng 8 khi Trái Đất đi qua đám thiên thạch để lại bởi sao chổi Swift-Tuttle hay mưa sao băng Orionids vào tháng 10 có nguồn gốc từ sao chổi Halley. Như trên đã nói, các hợp chất hữu cơ – yếu tố tiên quyết của sự sống có mặt trong nhân của các sao chổi. Trong giai đoạn mới hình thành, có rất nhiều sao chổi và các tiểu hành tinh va chạm vào Trái đất. Các nhà khoa học tin rằng các vụ va chạm với Trái Đất khoảng 4 tỷ năm trước đang đưa một lượng nước lớn đến cho Trái Đất. Việc phát hiện ra các phân tử hữu cơ như Polycyclic aromatic hydrocarbons (PAHs) với một lượng lớn sao chổi khiến một số người cho rằng sao chổi hoặc thiên thạch đã mang các phân tử hữu cơ ban đầu đến Trái Đất. Chính từ những hợp chất đầu tiên này, sự sống trên hành tinh của chúng ta đã hình thành và phát triển tới ngày nay.   Chỉ những sao chổi sáng và có điểm cận nhật rất gần Mặt Trời mới có thể được chúng ta quan sát bằng mắt thường. Mặc dù vận tốc của thiên thể này trên quĩ đạo khá cao (hàng chục hay hàng trăm kilomet mỗi giây), nhưng với khoảng cách của chúng khi quan sát từ Trái Đất thì chúng ta thấy các sao chổi di chuyển rất chậm, thậm chí trong nhiều trường hợp không thể nhận ra sự thay đổi vị trí trên nền trời trong đêm. Điều này khác với nhiều hiểu nhầm cho rằng sao chổi cũng lướt qua bầu trời giống như sao băng. Với một chiếc kính thiên văn nghiệp dư hay một ống nhòm, chúng ta có thể quan sát các sao chổi khi chúng tới tương đối gần Mặt Trời. (VACA) Vui lòng ghi rõ tên tác giả và nguồn trích dẫn khi sử dụng bài viết này
Cuộc thi VAC2017 - 11/03/2017
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=1204:cuoc-thi-vac2017-11032017&amp;catid=21&amp;Itemid=136
Như đã thông báo, cuộc thi mang tên Vietnam Astronomy Contest 2017 do VACA tổ chức được bắt đầu lúc 20h30 tối 11 tháng 3 năm 2017. Xin mời các độc giả yêu thiên văn tham gia cuộc thi bằng cách thực hiện đề thi dưới đây.   Đề thi của cuộc thi gồm hai phần trắc nghiệm và tự luận, trong đó có 30 câu trắc nghiệm, mỗi câu 2 điểm nếu trả lời đúng và 3 câu tự luận với tổng số điểm là 40. Nhưng vậy điểm tối đa của cuộc thi là 100 điểm. Người tham gia cuộc thi cần thực hiện đúng hướng dẫn trong đề thi, điền đầy đủ thông tin cá nhân và gửi bài thi dưới dạng file *.doc hoặc *.docx về địa chỉ . Thời gian làm bài của cuộc thi là 60 phút. Để bảo đảm người dự thi tại những khu vực có tốc độ internet thấp hoặc gặp rắc rối với việc gửi file qua email không bị mất quyền lợi, thời hạn cuối cùng để Ban tổ chức nhận được email là lúc 21h45 cùng ngày. (Chúng tôi khuyến cáo rằng hãy cẩn thận với việc cố gắng tận dụng thêm thời gian, nếu 21h44 bạn gửi email và vì lý do nào đó 21h46 chúng tôi mới nhận được thì bài thi sẽ không được tính bởi thời gian làm bài thực tế đã kết thúc lúc 21h30).       Nếu chưa đọc các thông báo trước, mời bạn đọc thêm: Sau tối đa 1 tuần kể từ ngày thi, kết quả cuộc thi sẽ được chính thức công bố. Giải thưởng sẽ được trao tại sự kiện mang tên "Ngày hội thiên văn Việt Nam 2017" do VACA tổ chức cuối tháng này (nếu người đoạt giải ở Hà Nội) hoặc gửi qua đường bưu điện (nếu người đoạt giải ở ngoài Hà Nội). Sau thời gian làm bài qui định, đề thi sẽ được xóa khỏi địa chỉ nêu trên.
Lở băng lớn trên Iapetus gợi ý về các vụ lở khác trong Hệ Mặt Trời
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=563:lo-bang-lon-tren-iapetus-goi-y-cac-vu-lo-khac-trong-he-mat-troi&amp;catid=27&amp;Itemid=135
“Chúng ta gặp lở đất mọi nơi trong Hệ Mặt Trời,” theo phát biểu của Kelsi Singer, sinh viên cao học về Trái Đất và khoa học hành tinh, khoa Nghệ thuật & Khoa học tại Đại học Washington, St.Louis, “nhưng vệ tinh lạnh giá Iapetus của Sao Thổ có nhiều vụ lở đất khổng lồ hơn bất kì thiên thể nào khác, trừ Sao Hỏa.” Theo thạc sĩ William McKinnon, giáo sư giảng dạy về Trái Đất và khoa học hành tinh, lí do là vì địa hình đặc biệt của Iapetus. “Vệ tinh này không chỉ không tròn đều, mà các bồn va chạm khổng lồ của nó cũng rất sâu, và còn có cả rặng núi cao 20km (12 dặm), cao hơn nhiều so với dãy Everest. “Vậy nên có rất nhiều dạng địa hình ở đây và ở các dạng địa hình cao, vật chất nằm yên nhưng thỉnh thoảng, chúng rơi xuống.” Rơi từ độ cao lớn như vậy, băng đạt tốc độ rất lớn – và sau đó một điều kì lạ xảy ra. Bằng cách nào đó, hệ sộ ma sát của nó giảm, và nó bắt đầu chảy thay vì rơi, đi nhiều dặm trước khi nó tiêu thụ hết năng lượng của cú ngã và cuối cùng dừng lại. Trong số ngày 29/7 của Nature Geoscience, Singer, McKinnon và các đồng nghiệp Paul N.Schenk của Học viên Mặt Trằng và Hành tinh, cùng Jeffrey M. Moore của Trung tâm nghiên cứu Ames NASA, đã mô tả lại các vụ  lở đá lớn này. Họ thách thức các nhà vật lý thực nghiệm đo lực ma sát khi đá đang trượt xuống, và gợi ý một cách thức có thể khiến băng và đá trơn, không chỉ trong các vụ sạt lở, mà cả trong các trận động đất các vụ chấn động lớn của các vệ tinh lạnh giá. Quá nhiều giả thiết Các vụ lở băng trên Iapetus không chỉ lớn, chúng còn lớn hơn bình thường nhiều, dựa trên các lực mà các nhà khoa học nghĩ đã khiến chúng chuyển  động và dừng lại. Bản sao của các vụ lở băng trên Iapetus ở Trái Đất là các vụ lở đá lớn, hay sturzstrom (tiếng Pháp cho “dòng chảy xuống”_. Hầu hết các vụ lở đi một khoảng cách ngang nhỏ hơn hai lần khoảng cách các tảng đá đã rơi. Tuy nhiên, trong một vài dịp hiếm hoi, một vụ lở  đất sẽ đi 20 hay 30 lần xa hơn khoảng cách nó  rơi, di chuyển một quãng đường dài theo chiều ngang hay thậm chí lăn ngược lên cao. Những vụ lở đất cực kì linh động này có tính chất tràn giống như chất lỏng hơn là tính lăn của đá, đã khiến các nhà khoa học tò mò từ lâu. Cách thức của một sự lăn bình thường khá đơn giản. Các mảnh vụn đi ra ngoài cho đến khi lực ma sát bên trong khối lượng mảnh vỡ và với mặt đất tiêu thụ hết lượng năng lượng hòn đá tích lũy được trong quá trình rơi, và khối đá dừng lại. Nhưng để giải thích các sự lăn cực kì dài, một vài cách thức khác phải được đưa ra. Một thứ gì đó đang phải hoạt động để giảm lực ma sát trong sự lăn, theo Singer. Vấn đề là, không có sự đồng ý chung nào về việc thứ này là gì. Các đề xuất gồm có một cái đệm không khí, sự bôi trơn bởi nước hay bột đá hay một lớp mỏng bị tan chảy. “Có nhiều cách thức được đưa ra về sự giảm ma sát hơn lượng tôi có thể cho vào một slide Powerpoint,” McKinnon đùa. “Các vụ lở đất ở Iapetus là một thí nghiệm ở quy mô hành tinh mà chúng ta không thể tiến hành trong phòng thí nghiệm hay quan sát trên Trái Đất,” Singer nói. “Chúng cung cấp cho chúng ta ví dụ về các vụ lở lớn bằng băng, thay vì đá, với trọng lực khác hẳn, và không tồn tại bầu khí quyển. Vậy nên bất cứ giả thuyết nào về các sự lăn dài trong các vụ lở đất ở Trái Đất cũng phải ứng dụng được cho các vụ lở băng trên Iapetus. Một thí nghiệm tình cờ McKinnon, với những nghiên cứu tập trung vào các vệ  tinh băng giá của các hành tinh phía ngoài Hệ Mặt Trời, đã nghiên cứu Iapetus từ khi vệ tinh Cassini bay qua nó vào 12/2004 và 9/2007 và mang về  Trái Đất rất nhiều tấm ảnh của vệ tinh băng này. Hầu như tất cả mọi thứ về Iapetus đều kì lạ. Nó nên mang hình cầu, nhưng nó lại to hơn ở xích đạo hơn là ở cực, có thể vì nó đã đóng băng trong khi tốc độ quay của nó nhanh hơn hiện tại. Và nó có một rặng núi cực kì cao và thẳng với nguồn gốc bí ẩn mà bao phủ phần lớn xích đạo của nó. Vì sự phình to và rặng núi khổng lồ, vệ tinh này trông như một quả óc chó khổng lồ. Nếu bề mặt Iapetus bị đông cứng trước khi nó quay đủ mạnh để tạo thành một hình cầu, vậy thì phải có những áp lực trên bề mặt của nó, McKinnon suy luận. Vậy nên ông đề nghị Singer kiểm tra các tấm hình từ Cassini cho các sự đứt gãy do áp lực trên băng. Cô đã kiểm tra rất cẩn thận từng tấm hình Cassini và không tìm ra nhiều bằng chứng về việc  đứt gãy. Thay vào đó, cô liên tục tìm thấy các vụ lở lớn. Singer cuối cùng đã xác định được 30 vụ lở  băng khổng lồ trong các tấm hình Cassini – 17 đã  lao thẳng xuống các hố tường và 13 đã cuốn xuống băng của rặng núi xích đạo. Các số liệu đo đạc cẩn thận của  độ cao băng rơi xuống và các sự lăn của vụ lở không phù hợp với các giả thuyết phổ biến nhất về các tính linh động của các sự lăn của vụ lở đất. Các nhà khoa học nói các dữ liệu này cũng không hề phủ định chúng. “Chúng ta không có các phạm vi đo đạc cho các vụ lở trên Iapetus giống như cho các vụ lở đất trên Trái Đất và Sao Hỏa,” Singer giải thích. Tuy nhiên, nó lại rất rõ ràng là hệ  số ma sát của các vụ lở (như được  đo bởi tỉ lệ giữa độ cao rơi và khoảng cách lăn) lại không phù hợp với hệ số ma sát của băng cực lạnh được đo trong phòng thí nghiệm. Các hệ số ma sát biến thiên từ gần 0 đến lớn hơn 1. Các đo đạc phòng thí nghiệm của hệ số này nằm giữa 0,55 và 0,7 “Các mảnh vụn đá cực lạnh cũng mang tính ma sát giống như cát ở bãi biển,” McKinnon nói. Hệ số ma sát của các vụ lở Iapetus lại ở giữa khoảng 0,1 và 0,3. Có một sự mâu thuẫn ở đây. Một giả thuyết có thể được kiểm chứng Trong một thí nghiệm điển hình để đo hệ  số ma sát của băng, các tảng băng hình trụ được quay tròn và lực chống lại sự quay được  đo lại. Nếu tảng băng di chuyển chậm, tính ma sát của nó rất lớn. Nhưng nếu nó đang di chuyển nhanh hơn, lực ma sát có thể sẽ thấp hơn. Liệu chuyển động nhanh có khiến cả các tảng băng cực lạnh trở thành trơn? Đây là một giả thiết có thể được kiểm chứng, các nhà khoa học chỉ ra, và một giả thiết họ hi vọng các nhà vật lý thực nghiệm sẽ sớm thử. Lực ma sát rất quan trọng Nếu băng trở nên kém ma sát khi có vận tốc di chuyển, vậy đá thì sao? “Nếu bạn có  một chuyển động nhanh, kể cả đó là  một vụ lở hay là sự trượt dọc  theo một phay, điều tương tự cũng có thể xảy ra,” Singer nói. Các nhà địa chất nay đã nhận ra các phay lớn  đã yếu dần qua các vụ động đất hơn là các số liệu phòng thí nghiệm về hệ số  ma sát của đá đem lại, Singer phát biểu. Nhưng trong trường hợp này, các thí nghiệm vận tốc lớn đã được thực hiện. Ở tốc độ trượt chậm, hệ số ma sát của đá ở vào khoảng 0,6 đến 0,85. Nhưng khi các hòn đá lăn đủ nhanh, hệ số ma sát là gần 0,2. Đây là ở cùng khoảng với hệ số ma sát của các vụ lở băng trên Iapetus. Không ai chắc chắn điều gì bôi trơn các phay khi chúng được đưa vào hoạt động bởi một vụ động đất, nhưng một trong những giả thuyết  đơn giản nhất là sự nung tạm thời. Ý tưởng là khi các hòn đá lăn qua nhau, asperites (các tiếp xúc điểm nhỏ) trên bề mặt của chúng bị nung nóng bởi lực ma sát. Trên một vận tốc cố định, lượng nhiệt này sẽ  không có thời gian để thoát khỏi các tiếp xúc  điểm này, và chúng sẽ được tạm thời nung nóng tới nhiệt độ đủ cao để làm yếu dần hay thậm chí làn tay chảy tảng đá. Sự làm yếu dần này có thể giải thích tỉ lệ trượt cao và các tính chất trượt khoảng cách lớn trong các vụ động đất. Giả thuyết về sự nung tạm thời cũng được  ủng hộ bởi sự khám phá các tảng đá có  vẻ đã trải qua sự nung ma sát, thường được gọi là frictionites, hay pseudotachylites dọc theo các phay và được liên hệ với nhiều vụ lở đá, Singer nói. “Bạn có thể nghĩ lực ma sát không hề quan trọng,” McKinnon nói, “nhưng điều ngược lại mới là chính xác. Và điều này áp dụng cả cho lực ma sát giữa các tảng băng và lực ma sát giữa các tảng đá. Điều này rất quan trọng không chỉ cho các vụ sạt lở, mà còn cho cả các vụ động đất và cả sự ổn định của một vùng đất. Và đó là lí do tại sao các quan sát về một vệ tinh băng này thật thú vị và tò mò. Theo Science Daily
IAU quyết định chủ đề đặt tên cho hệ Pluto
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=1192:iau-quyet-dinh-chu-de-dat-ten-cho-he-pluto&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Năm 2015, hợp tác với nhiệm vụ New Horizons của NASA, Hiệp hội thiên văn quốc tế (IAU) đã thông qua việc cho phép nhóm dự án New Horizons chủ động đề xuất tên cho các đối tượng trên bề mặt hành tinh lùn Pluto cũng như các vệ tinh chưa được khám phá của nó.   Hàng ngàn cái tên đã được đề xuất theo chủ đề phù hợp đã được đề ra cũng như đề xuất thêm những cái tên không nằm trong nhóm chủ đề được chấp nhận. Sau khi làm việc với nhóm dự án New Horizons, IAU đã đồng ý việc mở rộng chủ đề đặt tên cho Pluto và vệ tinh lớn nhất của nó là Charon. Ngoài ra, bốn vệ tinh nhỏ hơn là Styx, Nix, Kerberos và Hydra chưa có sự thay đổi và mở rộng chủ đề. Chủ đề ở đây, nói một cách dễ hiểu là nhóm nghiên cứu có thể đề xuất tên gọi cho những đối tượng được tìm thấy trên bề mặt các thiên thể như các đồng bằng, thung lũng, núi hay lỗ thiên thạch nhưng phải thuộc nhóm chủ đề được đưa ra. Dưới đây là các chủ đề đặt tên của từng thiên thể. Nói chung chủ đề của mỗi thiên thể này đều liên quan đến chính cái tên của chúng, và hầu hết đều liên quan tới Pluto - vị thần cai quản âm phủ trong thần thoại La Mã, một vài chủ đề liên quan đến khám phá của con người. - Các vị thần/nữ thần và mọi nhân vật có liên quan đến Underworld (rất khó dịch ra tiếng Việt vì nó có nghĩa rất rộng: âm phủ, địa ngục, thế giới dưới lòng đất, thế giới ngầm của tội phạm,... Do đó sau đây tạm giữ nguyên) trong thần thoại và văn học. - Tên các địa danh của Underworld hay tên của chính thế giới đó trong thần thoại và văn học. - Các anh cùng và các nhà thám hiểm Underworld. - Các nhà khoa học và kĩ sư nghiên cứu Pluto và vành đai Kuiper. - Những nhiệm vụ và tàu không gian tiên phong. - Những nhà thám hiểm tiên phong trong lịch sử khám phá Trái Đất, đại dương và bầu trời. - Các điểm đến và mốc sự kiện của những thám hiểm giả tưởng không gian và các lĩnh vực khác. - Các tàu thám hiểm giả tưởng - Các nhà du hành và thám hiểm giả tưởng hoặc trong thần thoại. - Các tác giả và nghệ sĩ liên quan đến việc thám hiểm không gian, đặc biệt là Pluto và vành đai Kuiper. - Các vị thần sông. - Các vị thần của đêm tối. - Những con chó trong văn học, thần thoại và lịch sử. - Những con rồng hoặc rắn trong truyền thuyết, thần thoại. Dựa trên những chủ đề này, nhóm dự án New Horizons sẽ đề xuất tên gọi cho các đối tượng được phát hiện trên bề mặt các thiên thể và sau đó IAU sẽ quyết định chọn tên chính thức cho mỗi đối tượng.
Xuất hiện sợi khổng lồ trên Mặt Trời
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=842:xuat-hien-soi-khong-lo-tren-mat-troi&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Một sợi dài của vật chất Mặt Trời vừa xuất hiện ngay mặt phía trước của Mặt Trời, kéo dài khoảng 1 triệu dặm. Các sợi này là những đám mây vật chất bay lơ lửng phía trên bề mặt của Mặt Trời bởi từ trường mạnh. Dù có tính không ổn định nhưng chúng có thể kéo dài nhiều ngày hay nhiều tuần. Đài quan sát động lực học Mặt Trời của NASA (SDO) luôn quan sát Mặt Trời 24/24, đã ghi nhận được sợi khổng lồ này trong nhiều ngày khi nó quay cùng với Mặt Trời. Nếu được kéo thẳng ra, sợi này sẽ chạy xuyên suốt Mặt Trời, khoảng 1 triệu dặm - tức là gấp 100 lần kích thước Trái Đất. SDO ghi hình sợi này ở nhiều bước sóng khác nhau, mỗi bước sóng giúp làm nổi rõ vật chất ở một nhiệt độ khác nhau trên Mặt Trời. Bằng cách quan sát mọi thứ của Mặt Trời ở những bước sóng và nhiệt độ khác nhau, các nhà khoa học có thể tìm hiểu nhiều hơn về nguyên nhân tạo nên cấu trúc như vậy, cũng như cái gì tạo nên những đợt phun trào khổng lồ vào không gian. Hãy nhìn vào những bức ảnh để xem sợi trông thế nào ở các bước sóng khác nhau. Bức ảnh màu nâu được tạo ra bằng cách kết hợp hai bước sóng tử ngoại 193 và 335 Angstrom. Bức ảnh màu đỏ cho thấy bước sóng 304 Angstrom ở dải tử ngoại. Theo Science Daily
Vũ trụ sớm ít bụi hơn chúng ta nghĩ
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=774:vu-tru-som-it-bui-hon-chung-ta-nghi&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Bụi có thể ít hơn nhiều so với những gì chúng ta nghĩ trong các thiên hà của vũ trụ sơ khai, theo một nhóm nghiên cứu quốc tế, đứng đầu là tiến sĩ David Fisher, nhà vật lý thiên văn tại Đại học Công nghệ Swinburne. Trong một thiên hà có tên IZw 18, nhóm nghiên cứu đã đo được khối lượng bụi thấp nhất trong số các thiên hà từng được đo. "Nó không phải chỉ là khối lượng bụi thấp. Chúng tôi thấy rằng khối lượng bụi nhỏ hơn 100 lần so với dự đoán dựa trên những học thuyết đã được thừa nhận", tiến sĩ Fisher cho biết. Thiên hà IZw 18 cách chúng ta không xa, điều đó làm cho nó dễ dàng hơn để nghiên cứu, nhưng nó có những tính chất rất giống với những thiên hà có mức dịch chuyển đỏ cao (là các thiên hà đang dịch chuyển ra xa khỏi chúng ta với vận tốc lớn, đồng nghĩa với việc chúng ở rất xa). “Đây là một thiên hà rất đặc biệt trong khu vực, nhưng nó cho chúng ta biết rất nhiều về một giai đoạn mà hầu như tất cả các thiên hà đều đã trải qua, do đó nó cho chúng ta thấy một bức tranh về những thiên hà đầu tiên sẽ như thế nào” Tiến sĩ Fisher cho biết kết quả hàm ý rằng các thiên hà của vũ trụ sơ khai có thể có ít bụi hơn so với những dự đoán. "Điều này, trước hết có nghĩa là các thiên hà sẽ khác hơn nhiều so với những gì chúng ta trông đợi, cũng có nghĩa là việc tạo sao của chúng cũng khác những gì chúng ta trông đợi. Và thứ hai, chúng sẽ rất khó khăn để có thể quan sát, ngay cả với những thiết bị tinh xảo đang được xây dựng như là hệ thống kính thiên văn vô tuyến milimet/hạ-milimet Atacama (ALMA) phía Bắc Chile." "IZw 18 là điển hình của các thiên hà có mức dịch chuyển đỏ cao, bởi vì hoạt động tạo sao của nó diễn ra mạnh mẽ. Và nó có thành phần hóa học giống như những thiên hà của vũ trụ sơ khai, với sự có mặt rất ít của các loại kim loại và chứa rất nhiều hydro" ông nói. "Kết quả của chúng tôi ngụ ý rằng các lý thuyết hiện nay để mô tả sự hình thành của các ngôi sao khi vũ trụ còn rất trẻ là chưa đầy đủ, và chúng được xây dựng bởi những giả thuyết không chính xác". Theo tiến sĩ Fisher, lượng bụi là rất quan trọng cho sự hình thành của các ngôi sao. "Những gì chúng tôi nghĩ rằng đang xảy ra, đó là môi trường khắc nghiệt bên trong thiên hà, theo như chúng tôi đã kiểm tra, nó có tác động rất xấu đến lượng bụi có trong nó.” “Trường bức xạ đo được trong IZW 18 mạnh hơn 200 lần so với những gì chúng ta đo được ở đây, trong thiên hà Milky Way.” Tiến sĩ Fisher cho rằng, dựa trên những phát hiện đó, các lý thuyết về môi trường hình thành nên các ngôi sao cần được sửa đổi. Nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nature. Nhóm nghiên cứu bao gồm các nhà nghiên cứu từ Đại học Maryland, Đại học Công nghệ Swinburne, Đại học Princeton, Viện thiên văn học Max-Plank, Đức; Đài quan sát thiên văn vô tuyến quốc gia Virginia; Khoa Vật lý và Thiên văn, Macalester College, Saint Paul, Minnesota. Theo Space Daily
Thế giới hạt cơ bản
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=73:the-gioi-hat-co-ban&amp;catid=13&amp;Itemid=151
Như chúng ta đều biết, vật lý hạt ngày nay là một trong những mũi nhọn hàng đầu của khoa học hiện đại. Nhờ nghiên cứu cấu tạo của vật chất, tương tác giữa các hạt cơ bản mà nhân loại đã tiến rất xa không chỉ trong thế giới quan của mình mà còn trong vô số ứng dụng thiết thực không thể thiếu ngày nay. Chúng ta hãy thử tìm hiểu đôi chút về thế giới của các hạt cơ bản ngày nay đã được biết tới.   (Elementary particle) là những hạt vật chất được coi là nhỏ nhất cấu tạo nên vũ trụ, gồm cả các hạt trực tiếp cấu thành vật chất và những hạt truyền tương tác. Đó là các hạt mà nói một cách dễ hiêu là phải đạt yêu cầu cơ bản là không thể phân chia thêm. Giống như xây một ngôi nhà bằng các viên gạch thì các viên gạch được coi là cơ bản, không ai ghép các mẩu nhỏ hơn không phải gạch để thành gạch cả. Bạn có thể nói bạn sẽ đập vỡ nó ra, nhưng các mảnh vỡ đó chẳng qua cũng là gạch thôi, và sẽ đến lúc có đập mãi nó cũng không thể vỡ thêm được. Các hạt cơ bản chính là cái thành phần nhỏ đến mức không thể đập vụn thêm của vật chất, nó không cấu thành từ cái gì cả mà chính nó cấu thành mọi thứ khác. Về định nghĩa và diễn giải thì là như thế, còn trong thực tế thì loài người đã mất không biết bao nhiêu thời gian để truy tìm các hạt cơ bản. Lịch sử của nó nay đã kéo dài đến hơn 2.000 năm. Vào thời phát triển thịnh vượng của nền văn minh Hi Lạp, một số nhà khoa học ngày đó đưa ra một khái niệm goi là yếu tố cơ bản (element). Quan niệm về cái gọi là yếu tố nay cũng nhiều. Chẳng hạn như Thales cho rằng tất cả chỉ đều là nước (tất cả sẽ phải về hết với nước). Aristotle lại cho rằng phải có tới 4 yếu tố là đất, không khí, nước và lửa (mô hình này phức tạp hơn và vì vậy cũng phổ biến hơn, nó được đưa khá nhiều vào các tác phẩm từ thần thoại tới viễn tưởng sau này). Tuy vậy, rất nhiều năm sau, khái niệm nguyên tử mới ra đời khi Dalton (John Dalton 1766 - 1844) phát hiện và đưa ra ý tưởng rằng toàn bộ vật chất cấu tạo từ các phân tử, mỗi phân tử lại do một hoặc nhiều nguyên tử cấu tạo thành. Thuật ngữ Atom (nguyên tử) ra đời do người ta cho rằng đó chính là hạt cơ bản của tự nhiên, các nguyên tử là không thể phân chia thêm. Vậy nhưng sau này người ta lại phát hiện ra rằng nguyên tử cũng được cấu tạo từ các hạt nhỏ hơn. Vậy nên nguyên tử không phải hạt không thể phân chia nữa, và người ta phải thêm vào định nghĩa của nó là nó không thể phân chia "trong các phản ứng hóa học". Mặc dù vậy, thuật ngữ vẫn được giữ nguyên, và thực ra sau này số lượng các hạt được tìm thấy ngày càng nhiều và mặt khác chúng lại thuộc các nhóm độc lập với nhau nên khi nói "hạt cơ bản" thì người ta không còn nhất thiết chúng phải là nhỏ nhất nữa mà là chỉ chung các hạt hạ nguyên tử. Nguyên tử không phải hạt nhỏ nhất, nó được cấu tạo bởi một hạt nhân trung tâm và các electron (điện tử) chuyển động xung quanh trên các quĩ đạo có năng lượng xác định (mẫu nguyên tử của Borh). Hạt nhân nguyên tử được cấu tạo bởi các hạt baryon gồm hai loại là proton và neutron. Trong một thời gian dài, 3 loại hạt nêu trên (neutron, proton, electron) được coi là thành phần cơ bản của vật chất. Nhưng sau đó thì được cho rằng đều được truyền bởi các loại hạt truyền gọi chung là các boson và dần dần các loại hạt này cũng lần lượt được xác minh bằng thực nghiệm (trừ hạt graviton như sẽ nói dưới đây). Hiện nay người ta cũng biết rằng proton và neutron cũng được cấu tạo từ các hạt nhỏ hơn, mỗi proton hoặc neutron được tạo thành bởi 3 hạt quark. Và tất nhiên, cho tới ngày nay việc có hạt nào nho hơn quark hay không thì không thể hoàn toàn chắc chắn, nhiều nhà vật lý tin vào lý thuyết dây (string theory) mà theo đó có một dây cơ bản khi dao động khác nhau thì sẽ biểu hiện khác nhau tương ứng với các hạt và tương tác khác nhau (lưu ý rằng "dây" ở đây được dùng theo nghĩa liên tưởng đến dao động của sợ dây, không có nghĩa là nó có hình dạng như sợi dây trong đời sống hàng ngày). Tuy nhiên lý thuyết này tới nay cũng chưa được chứng minh cụ thể. Hiện nay, các hạt cơ bản cùng các tương tác được mô tả trong một mô hình tổng quát và thống nhất gọi là Mô hình chuẩn, hay gọi tên đầy đủ hơn là Mô hình chuẩn của vật lý hạt. Mô hình chuẩn này được coi là rất gần với "thuyết về mọi thứ" (theory of everything) vì nó đã mô tả được mọi tương tác của tự nhiên, chỉ trừ tương tác hấp dẫn.   Các hạt cơ bản được chia làm 2 nhóm chính là fermion (các hạt tạo nên vật chất trong vũ trụ) và boson (các hạt truyền tương tác) gồm các hạt truyền tương tác, có spin nguyên (0, 1, ...) - - hạt truyền tương tác điện từ - - tương tác hấp dẫn (riêng hạt này là hạt giả thuyết, chưa được tìm thấy trong thực nghiệm và đó cũng là lí do tương tác hấp dẫn không được đưa vào Mô hình chuẩn) - - tương tác mạnh - và - tương tác yếu. * - loại boson không tham gia truyền tương tác cơ bản, nó là loại hạt có thời gian sống cực ngắn, tràn ngập vũ trụ và gây ra khối lượng cho vật chất qua một cơ chế gọi là trường Higgs. Khác với các boson khác có spin 1, Higgs boson có spin 0. (spin có thể tạm hiểu là một thông số cơ bản của các hạt mô tả xung lượng góc nội tại của hạt). gồm 12 loại chia làm 2 nhóm là quark và lepton, tất cả đều có spin bán nguyên (1/2). gồm 6 loại là và (thường được gọi là 6 mùi, mặc dù thực ra chúng không liên quan gì đến mùi mà mũi của chúng ta cảm nhận). Quark là loại hạt tạo thành các hadron gồm baryon và meson. Trong đó vật chất chúng ta thấy hàng ngày có hạt nhân gồm hai loại baryon bền là neutron và proton, ở đó neutron được tạo thành bởi 3 quark, 1 up và 2 down còn proton là 2 up và 1 down. về cơ bản là những hạt rất nhẹ so với quark, chúng gồm 6 loại, trong đó có 3 hạt tham gia tạo thành vật chất trực tiếp và tương ứng với chúng là 3 neutrino tương ứng. Tất cả những hạt nêu trên còn có một số kết hợp khác nữa để tạo thành một số loại hạt khác, tuy nhiên giới hạn của bài viết không tiện để nêu ra, mặt khác các sự kết hợp đó cũng đương nhiên không được tính là hạt cơ bản, cũng như proton và neutron vậy. Một số loại hạt khác là các hạt không bền hoặc không đóng vai trò trực tiếp trong các tương tác hàng ngày chúng ta bắt gặp cũng được tạm không nhắc chi tiết.   ( )
FRB giúp thăm dò vật chất ẩn trong vũ trụ
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=1131:frb-giup-tham-do-vat-chat-an-trong-vu-tru&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Những vụ nổ vô tuyến nhanh (viết tắt là FRB) là những vụ bùng sáng bí ẩn của sóng vô tuyến có nguồn gốc từ ngoài thiên hà Milky Way của chúng ta. Một nhóm các nhà khoa học, đứng đầu bởi nhà nghiên cứu sau tiến sĩ Vikram Ravi ở Caltech và Ryan Shannon ở Đại học Curtin vừa quan sát được FRB sáng nhất từng thấy, được đặt tên là FRB 150807.     Mặc dù các nhà thiên văn vẫn không biết rõ những sự kiện hay vật thể như thế nào có thể gây ra FRB, khám phá này là một bước đệm để họ hiểu đươc thêm về mạng lưới vật chất mờ nhạt lan khắp giữa các thiên hà, vẫn được gọi là mạng vũ trụ. Phát hiện này đã được mô tả trong bài báo đăng trên tạp chí Science ngày 17 tháng 11 vừa qua. "Vì những FRB như cái mà chúng tôi vừa quan sát xảy ra cách chúng ta hàng tỷ năm ánh sáng, chúng giúp chúng tôi nghiên cứu vùng vũ trụ giữa chúng và chúng ta," Ravi nói. "Gần một nửa tổng số vật chất có thể quan sát được cho rằng trải rộng khắp nơi trong không gian liên thiên hà. Mặc dù vật chất này không thể quan sát theo cách bình thường qua các kính thiên văn, nó có thể được nghiên cứu thông qua các FRB." Khi FRB di chuyển trong không gian, chúng đi qua các vật chất liên thiên hà và bị tác động bởi những vật chất đó, giống như việc các ngôi sao nhấp nháy biểu kiến do ánh sáng của chúng phải đi xuyên qua khí quyển Trái Đất. Bằng cách quan sát những vụ bùng nổ này, các nhà thiên văn học có thể tìm hiểu chi tiết về những vùng vũ trụ mà chúng đi qua trên quãng đường chúng tới với Trái Đất. FRB 150807 dường như chỉ bị làm biến dạng rất yếu do vật chất từ thiên hà mà nó xuất phát, điều này cho thất môi trường liên thiên hà ở hướng của nó không gây ra biến động như các nhà lý thuyết dự đoán ban đầu. Đây là cái nhìn trực tiếp đầu tiên vào sự biến động trong môi trường liên thiên hà. Các nhà nghiên cứu đã quan sát FRB này trong khi theo dõi một pulsar ở gần trong thiên hà của chúng ta bằng kính thiên văn vô tuyến Parkes ở Australia. (một pulsar là một sao neutron quay nhanh phát xạ ra một luồng sóng vô tuyến và các bức xạ khác). "Nhờ có hệ thống xác định thời gian thực được phát triển bởi Đại học công nghệ Swinburne, chúng tôi tìm ra rằng dù FRB ở cách chúng ta xa hơn pulsar hàng triệu lần, từ trường đến từ hướng của chúng là giống nhau," Ryan Shannon cho biết. Điều này bác bỏ một số ý kiến cho rằng các FRB được sinh ra trong môi trường đậm đặc với từ trường mạnh. Kết quả nghiên cứu cung cấp một cách đo từ trường trong không gian giữa các thiên hà - một bước quan trọng trong việc xác định cách mà từ trường vũ trụ được sinh ra. Tới nay, mới chỉ có 18 FRB được xác định. Điều bí ẩn là hầu hết chúng chỉ loé sáng một lần không lặp lại. Ngoài ra, hầu hết FRB đã được xác định bằng những kính thiên văn có trường nhìn rộng nhưng độ phân giải thấp, khiến cho việc xác định chính xác vị trí của chúng trở nên khó khăn. Độ sáng chưa từng có của FRB 150807 cho phép Ravi và nhóm của ông xác định vị trí chính xác hơn nhiều, đây là FRB được định vị chính xác nhất đến nay. Vào tháng hai năm 2017, việc xác định vị trí của các FRB sẽ dễ dàng hơn nhiều đối với các nhà thiên văn học với việc đưa vào vận hành tổ hợp kính có tên Deep Synoptic Array - một tổ hợp gồm 10 kính vô tuyến của Đài quan sát thung lũng Owens của Caltech đặt tại California. "Chúng tôi ước tính rằng có từ 2.000 đến 10.000 FRB xảy ra mỗi ngày," Ravi nói. "Một phần mười trong số chúng có thể sáng như FRB, và Deep Synoptic Array sẽ có thể xác định vị trí của chúng đối với các thiên hà riêng biệt. Việc đo khoảng cách của các thiên hà này cho phép chúng tôi sử dụng FRB để ước tính lượng vật chất mỏng giữa các thiên hà."  
Nhật thực và nguyệt thực
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=207
Đoạn bài viết này được tôi viết vào năm 2005, sau này được đăng lại trên website chính thức của VACA sau khi nâng cấp vào năm 2008. Do nhiều yếu tố, tôi chưa có điều kiện chỉnh sửa thật chi tiết, mặc dù vậy tin rằng những thông tin dưới đây sẽ giúp các độc giả giải đáp được nhiều thắc mắc quanh hai hiện tượng thiên văn thú vị này. Nhật thực và nguyệt thực là hiện tượng xảy ra khi Mặt Trời, Trái Đất và Mặt Trăng cùng nằm trên một đường thẳng và che khuất lẫn nhau. Thời xưa, khi chưa có nhiều nhận thức về vũ trụ, con người không hiểu về 2 hiện tượng này và thường đưa ra các cách giải thích khác nhau. Người phương Đông thường biết tới một câu chuyện thần thoại phương đông kể rằng 2 nữ thần Mặt Trời và Mặt Trăng là do Ngọc Hoàng sinh ra có nhiệm vụ thay nhau đi giám sát dân cư từng vùng.Chồng của 2 nữ thần này là một con Gấu. Khi gấu đi với một trong hai người vợ thì khi đó dưới hạ giới người ta thấy Mặt Trời hoặc Mặt Trăng bại che khuất và người ta phải đuổi gấu đi bằng cách gõ mạnh vào chiêng, trống hay cối giã gạo.v.v.... Cũng có chuyyện cho rằng đó là khi Mặt Trăng hoặc Mặt Trời đã bị gấu ăn mất. Đến nay chúng ta có thể giải thích hiện tượng này như sau: Nhật thực và nguyệt thực xảy ra khi Mặt Trời, Trái Đất và Mặt Trăng nằm trên một đường thẳng và che khuất lẫn nhau. Do mặt phẳng tạo bởi quĩ đạo của Trái Đất quanh Mặt Trời và mặt phẳng tạo bởi quĩ đạo của Mặt Trăng quanh Trái Đất lệch nhau khoảng 5 độ, nên chúng cắt nhau theo một giao tuyến. Nhật thực hoặc nguyệt thực xảy ra khi ba thiên thể cùng nằm trên giao tuyến đó. Dưới ánh sáng Mặt Trời, Trái Đất và Mặt Trăng tạo ra phía sau mình một nón bóng tối khổng lồ. Mỗi chu kỳ của mình, Mặt Trăng đều đi qua giao tuyến của hai quỹ đạo hai lần – có nghĩa là có hai giao điểm giữa hai quĩ đạo mà mỗi tháng Mặt Trăng sẽ đi qua. Nếu thời điểm Mặt Trăng đi qua giao điểm nằm giữa Trái Đất và Mặt Trời trùng với thời điểm Mặt Trời đang nằm trên giao tuyến nêu trên, nón bóng tối của Mặt Trăng quét qua Trái Đất, tạo thành một bóng đen. Những khu vực bị bóng đen bao phủ khi đó sẽ diễn ra nhật thực. Thêm vào đó, vì Mặt Trăng có đường kính nhỏ hơn khoảng 400 lần so với Mặt Trời và khoảng cách từ nó đến Trái Đất cũng nhỏ hơn khoảng 400 lần so với khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời, nên Mặt Trăng có thể che vừa khít đĩa sáng Mặt Trời. Sự tình cờ này của tự nhiên đã mang tới may mắn cho loài người khi có những cơ hội chiêm ngưỡng nhật thực toàn phần. Tuy vậy, nhật thực toàn phần thường diễn ra trong một phạm vi nhỏ, vì bóng của Mặt Trăng in xuống Trái Đất chỉ tạo thành một vết rất nhỏ và lướt đi rất nhanh. Những khu vực lân cận còn lại có thể quan sát nhật thực một phần. Hai lần Nhật thực toàn phần liên tiếp xảy ra tại cùng một vị trí thường cách nhau khá lâu. Nhờ nhật thực, một phần lớn ánh sáng của Mặt Trời chiếu trực tiếp tới vị trí của người quan sát trên Trái Đất bị che khuất. Đó là cơ hội để các nhà khoa học quan sát được ánh sáng từ các sao hoặc thiên hà ở xa phía sau Mặt Trời, nhờ đó mà từ năm 1919, lần đầu tiên một dự đoán của thuyết tương đối rộng của Albert Einstein đã được kiểm chứng: Ánh sáng từ các thiên thể ở xa bị bẻ cong khi đi qua gần rìa của Mặt Trời do trường hấp dẫn của Mặt Trời gây ra. Độc giả nên đọc bài viết sau để bảo đảm an toàn cho mình: . Trái lại với nhật thực, nguyệt thực xảy ra khi Mặt Trăng đi qua giao điểm phía đối diện với Mặt Trời trùng vào ngày Mặt Trời đang nằm trên giao tuyến của hai quỹ đạo. Do nón bóng tối của Trái Đất lớn hơn rất nhiều so với Mặt Trăng, nên nguyệt thực thường diễn ra trong một thời gian dài và vùng quan sát được nguyệt thực toàn phần thường trải trên một diện tích khá lớn trên mặt đất. Một khu vực khá lớn khác cũng có thể quan sát nguyệt thực một phần hoặc nguyệt thực nửa tối (Mặt Trăng chỉ đi vào vùng bóng nửa tối của Trái Đất). Mỗi năm, hiện tượng này có thể xảy ra từ hai đến bốn lần, tương đối phổ biến. Trong khi nhật thực là sự che khuất trực tiếp do Mặt Trăng chen vào giữa Trái Đất và Mặt Trời thì ở nguyệt thực Mặt Trăng không bị che khuất trực tiếp khi quan sát từ Trái Đất, nó chỉ nhận được ít ánh sáng hơn so với thông thường, do đó nó không tối đen lại như Mặt Trời lúc nhật thực mà chỉ tối đi và chuyển thành đỏ đậm (với nguyệt thực toàn phần, một phần) hoặc đỏ nhạt (với nguyệt thực nửa tối). Nguyệt thực hoàn toàn an toàn với mắt và có thể quan sát trực tiếp bằng mắt thường hoặc qua các dụng cụ phóng đại như kính thiên văn, ống nhòm. Vui lòng ghi rõ tên tác giả và nguồn trích dẫn Thienvanvietnam.org khi bạn sử dụng bài viết này
Hành tinh thứ 9 có thể gây tai hoạ cho Hệ Mặt Trời
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=1092:hanh-tinh-thu-9-co-the-gay-tai-hoa-cho-he-mat-troi&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Hệ Mặt Trời có thể bị rơi vào thảm họa khi Mặt Trời chết đi nếu hành tinh thứ 9 thực sự tồn tại, theo nghiên cứu từ đại học Warwick.     Tiến sỹ Dimitri Veras ở khoa Vật lý đã phát hiện ra rằng sự có mặt của Hành tinh thứ 9 - một hành tinh theo giả thuyết có thể tồn tại ở vùng phía ngoài của Hệ Mặt Trời - có thể gây ra sự hủy diệt của ít nhất một hành tinh khổng lồ sau khi Mặt Trời chết đi, quăng chúng vào không gian liên sao thông qua một hiệu ứng giống như trò chơi pinball. Khi Mặt Trời bắt đầu chết đi trong khoảng 7 tỷ năm tới, nó sẽ giải phóng một nửa khối lượng vật chất của mình và tự phồng lên - nuối chửng cả Trái Đất - trước khi co lại thành một sao lùn trắng. Sự giải phóng vật chất này sẽ đẩy Sao Mộc, Sao Thổ, Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương tới một khoảng cách vốn được giả định là an toàn. Mặc dù vậy, tiến sỹ Veras đã phát hiện ra rằng sự tồn tại của hành tinh thứ 9 có thể thay đổi đoạn kết có hậu này. Ông nhận thấy rằng hành tinh thứ 9 có thể sẽ không bị đẩy ra xa theo cùng một cách thức tương tự, và trong thực tế, nó có thể bị đẩy vào phía trong và tham gia vũ điệu tử thần cùng với 4 hành tinh khổng lổ của Hệ Mặt Trời - đặc biệt là Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương. Hệ quả có thể xảy ra nhất là việc giải phóng khỏi Hệ Mặt Trời một cách vĩnh viễn của những hành tinh này. Sử dụng một đoạn mã duy nhất có thể mô phỏng cái chết của các hệ hành tinh, tiến sỹ Veras đã đánh dấu nhiều vị trí khác nhau mà ở đó hành tinh thứ 9 có thể thay đổi số phận của Hệ Mặt Trời. Khoảng cách đối với Mặt Trời càng xa, khối lượng của hành tinh này càng lớn và đi kèm với nó là một sự gia tăng đáng kể về nguy cơ mà Hệ Mặt Trời phải đối mặt với một tương lai dữ dội. Phát hiện này có thể làm sáng tỏ về những kết cấu hành tinh trong những hệ mặt trời khác nhau. Gần một nửa những sao lùn trắng đang tồn tại có chứa đá, một dấu hiện tiềm năng của những mảnh vỡ được tạo ra từ một thảm họa tương tự tại một hệ hành tình khác với một "Hành tinh thứ 9 cách xa sao mẹ" của riêng chúng. Thực tế, cái chết trong tương lai của Mặt Trời có thể giải thích về sự tiến hóa của các hệ hành tinh khác. Tiến sỹ Veras giải thích về sự nguy hiểm mà Hành tinh thứ 9 có thể tạo ra: "Sự tồn tại của một hành tinh khổng lồ cách xa sao mẹ có thể, về cơ bản, thay đổi số phận của Hệ Mặt Trời. Cụ thể, Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương sẽ không còn an toàn khi Mặt Trời chết đi. Số phận của Hệ Mặt Trời sẽ phụ thuộc và khối lượng và tính chất quỹ đạo của Hành tinh thứ 9, nếu nó tồn tại". "Tương lai của Mặt Trời có thể được báo trước bởi các sao lùn trắng bị 'ô nhiễm' bởi những mảnh vụn đá. Hành tinh thứ 9 có thể đóng vai trò như một chất xúc tác cho sự ô nhiễm này. Danh tính tương lai của Mặt Trời dưới dạng sao lùn trắng có nguy cơ bị 'ô nhiễm' bởi các mảnh vụn đá có thể được phản ánh thông qua việc quan sát các sao lùn trắng khác trong khắp thiên hà Milky Way", tiến sỹ Veras bổ sung thêm. Bài báo mang tên "Số phận của Hệ Mặt Trời liên quan tới một hành tinh xa xôi" sẽ được đăng trong Thông báo hàng tháng của Hiệp hội Thiên văn Hoàng gia.  
Sao - Cấu tạo và tiến hóa
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=65:sao-cau-tao-va-tien-hoa&amp;catid=39:sao-tinh-van&amp;Itemid=149
Các ngôi sao trên bầu trời xa xôi luôn gây cho con người một sự hấp dẫn khó tả. Có người cho rằng mỗi ngôi sao là tượng trưng cho một số mệnh, cũng có người lại bảo rằng các ngôi sao là các thiên thần nhỏ bé được giao nhiệm vụ thắp sáng màn đêm. Còn tất nhiên, ngày nay khoa học đã có thể mang lại cho chúng ta lời giải chính xác nhất và ngày càng chi tiết hơn. Dù với ý nghĩa nào thì các ngôi sao hàng đêm vẫn mang lại cho mỗi người những cảm giác dễ chịu khi được ngắm nhìn chúng và một điều còn tuyệt vời hơn mà chúng mang lại cho con người là sự say mê được tìm hiểu, khám phá chúng bởi vì khi tìm hiểu chúng cũng chính là khi chúng ta đang tìm hiểu về thế giới của chúng ta! Người ta từng có nhiều quan niệm về các ngôi sao... đến bây giờ những quan niệm đó vẫn còn lại trong nhiều người, nó phản ánh quan niệm sống, cách nghĩ của từng giai đoạn, từng tầng lớp người. Thế nhưng thật sự thì những ngôi sao là gì? Những ngôi sao, chúng không phải những quả cầu lửa khổng lồ đính trên mặt cầu bao bọc vũ trụ của Ptolemy, cũng không phải những thiên thể cố định trên thiên cầu như Copernicus - cha đẻ của mô hình Nhật Tâm đã đề cập mà mỗi trong số chúng đều là một Mặt Trời như Mặt Trời của chúng ta . Đúng như thế, Mặt Trời, thiên thể đã mang lại cho chúng ta sự sống cũng là một ngôi sao, như bao nhiêu ngôi sao khác hàng đêm lấp lánh trên đầu chúng ta. Với những thành tựu khoa học tuyệt vời con người đã có trong suốt 2 thế kỉ qua, đến nay chúng ta đã có thể biết rất nhiều về các ngôi sao. Nếu như bạn là một người yêu bầu trời và những vì sao nhấp nhánh thì bạn có thể sẽ quan tâm đến những thông tin dưới đây:   Sao (star) (trước đây còn đôi khi được gọi là hằng tinh) là tất cả các thiên thể có khả năng tự phát ra ánh sáng của mình. Tất cả chúng đều là những khối cầu khí khổng lồ có khối lượng lớn hơn Trái Đất hàng chục đến hàng trăm ngàn lần hay thậm chí là lớn hơn nhiều nữa và chỉ có nhờ một khối lượng lớn như thế mới giúp chúng tự tạo ra ánh sáng của bản thân mình. Một thiên thể để có thể tự phát ra ánh sáng của mình cần có khối lượng tối thiểu là lớn gấp 70 lần khối lượng của Sao Mộc - hành tinh lớn nhất Hệ Mặt Trời, tức là khoảng 7% khối lượng của Mặt Trời.   Tại sao các thiên thể có khối lượng 8% khối lượng Mặt Trời lại có thể phát ra ánh sáng? Trái Đất của chúng ta có khối lượng khoảng 6x10 kg (6 triệu tỷ tỷ tấn) trong khi Mặt Trời nặng hơn Trái Đất 330.000 lần, tức là một sao có khối lượng 7% khối lượng Mặt Trời sẽ nặng hơn Trái Đất khoảng 23.000 lần. Mỗi vật thể đều có lực hấp dẫn hướng tâm hướng vào lòng nó. Ngày thường không ai để ý nhưng bản thân chúng ta, chúng ta cũng luôn chịu hấp dẫn của chính mình vì mỗi phần trong cơ thể đều hấp dẫn lẫn nhau và tổng tất cả chúng tạo thành một lực hấp dẫn hướng vào một khối tâm trong cơ thể chúng ta (trọng tâm của vật thể). Cái bàn, cái ghế, Trái Đất cũng vậy, tất cả đều luôn tự hấp dẫn chính nó bằng một lực gọi là lực hấp dẫn hướng tâm. Nhưng tại sao cái bàn, cái ghế, con người và cả Trái Đất của chúng ta và rất nhiều hành tinh khác nữa không cháy sáng? Đấy là vì khối lượng của những vật thể chúng ta tiếp xúc hàng ngày không đủ khả năng để xảy ra điều đó bởi lực hấp dẫn là một lực tỷ lệ với khối lượng, hấp dẫn ở các vật thể thường ngày nhỏ tới mức chúng không gây ra bất cứ hiệu ứng đáng kể nào. Với các vật thể rất lớn như các hành tinh, cụ thể mà chúng ta tiếp xúc hàng ngày là Trái Đất, lực hấp dẫn tỏ ra đáng kể bởi nó tạo ra một sức hút rõ ràng kéo mọi vật về phía nó, chẳng hạn khi nhảy lên cao bạn sẽ rơi rất nhanh xuống là vì lực kéo từ Trái Đất. Còn ở các thiên thể có khối lượng lớn như trên đã nói (nặng hơn Trái Đất của chúng ta hàng chục nghìn lần) thì hấp dẫn lớn làm cho áp suất ở tâm thiên thể tăng lên rất cao, áp suất này cung cấp gia tốc rất lớn cho các nguyên tử khí (chủ yếu là hydro). Chúng va đập mạnh với nhau ở vận tốc cao, phá vỡ lớp vỏ điện tử, tách các electron khỏi hạt nhân nguyên tử. Ở lõi của ngôi sao không còn là chất khí thông thường mà là một trạng thái gồm các hạt nhân (cụ thể ở đây là các proton - hạt nhân hydro) và electron chuyển động hỗn độn. Trạng thái này gọi là plasma. Ở trạng thái plasma, các hạt nhân hydro có cơ hội va chạm trực tiếp với nhau ở vận tốc lớn, chúng gây ra hiện tượng mà chúng ta gọi là phản ứng nhiệt hạch, kết hợp các hạt nhân hydro thành hydro nặng và cuối cùng là hạt nhân heli. Phản ứng này được biết tới trên Trái Đất ở bom khinh khí (H bomb) - loại bom có kharnawng giải phóng ra năng lượng lớn gấp hàng nghìn lần bom nguyên tử (A bomb) có cùng khối lượng. Phản ứng nhiệt hạch ở lõi ngôi sao giải phóng ra năng lượng lớn dưới dạng nhiều bức xạ, mà một phần trong đó là bức xạ ánh sáng nhìn thấy. Bức xạ này được chuyển dịch lên bề mặt ngôi sao và khiến cho ngôi sao phát sáng. Các ngôi sao có thành phần chính là hydro (trên 70%), còn lại một phần lớn là heli, một phần nhỏ không đáng kể khác là các khí nặng hơn. Nhiệt độ bề mặt của 1 ngôi sao thường trong khoảng 3000 đến 50000K còn nhiệt độ ở tâm là khoảng vài triệu cho đến vài chục triệu K. Thậm chí có thể lên tới 100 triệu K đối với các sao khổng lồ đỏ và vài tỷ K với các sao siêu khổng lồ đỏ. Cấu tạo các lớp của một ngôi sao: Để biết về cấu tạo cơ bản của các ngôi sao, chúng ta hãy xem xét cấu tạo của ngôi sao gần chúng ta nhất là Mặt Trời. Vui lòng đọc phần cấu tạo Mặt Trời trong bài viết sau (lưu ý rằng số liệu về kích thước thay đổi đối với các sao có khối lượng và kích thước khác, click để đọc bài):   Độc giả cũng có thể theo dõi video dưới đây, một bài giảng ngắn để có cái nhìn trực quan hơn về sự hình thành sao:   Theo khối lượng, sao được chia thành hai loại cơ bản là sao lùn (dwarf) và sao khổng lồ (giant). Ngày nay, cách phân chia hiện đại dựa trên biểu đồ quang phổ trong đó ngôi sao có quang phổ thu được thuộc vị trí nào trên biểu đồ thì sẽ được xác định thuộc nhóm nào với các đặc điểm cụ thể về khối lượng và nhiệt độ. Biểu đồ quang phổ được sử dụng rộng rãi ngày nay là biểu đồ Hertzsprung-Russell. Biểu đồ này biểu thị độ sáng, kích thước và nhiệt độ của một ngôi sao bất kì khi thu được quang phổ của nó. Theo nhiệt độ, biểu đồ chia thành 7 cấp với kí hiệu lần lượt là O, B, A, F, G, K, M trong đó sao càng gần phía O thì càng nóng và càng gần phí M thì càng lạnh. Bản thân mỗi cấp này lại có thể được chia thành nhiều cấp nhỏ. Trong hình trên, chúng ta có thể thấy hầu hết các sao trong vũ trụ tập trung ở dãy chính của biểu đồ (main sequence), dãy này là dãy các sao lùn và cận khổng lồ. Mặt Trời của chúng ta cũng nằm trên dãy này, nò nằm ở vị trí của nhóm G, có kí hiệu quang phổ chi tiết là G2V (sao lùn vàng/Yellow dwarf). Phía dưới dãy chính là nhóm các sao lùn trắng còn phía trên là các sao khổng lồ (giant), siêu khổng lồ (supergiant) và siêu siêu khổng lồ (hypergiant).   Ngoài cách phân chia theo đặc tính cơ bản nêu trên thì chúng ta còn bắt gặp một số loại sao không thuộc cách phân loại sao theo quang phổ hay khối lượng mà được đặt tên theo một vài đặc điểm đặc biệt như:     Tất cả các sao đều hình thành từ các đám bụi và khí lớn gọi là các tinh vân tiền sao (prototype-star nebula hay protostar nebula). Do lực hấp dẫn chúng tập hợp lại với nhau và co dần lại tới khi thành một khối cô đặc. Như chúng ta đã biết, mọi vật thể mang khối lượng thì đều mang lực hấp dẫn. Bản thân cùng một vật thể cũng có lực hấp dẫn giữa các phần khác nhau trong nó. Tuy vậy lực hấp dẫn giữa các khối lượng nhỏ là không đáng kể và chúng ta thường khó mà nhận ra. Chỉ các lực đáng kể, chẳng hạn như lực hấp dẫn của Trái Đất tác động lên con người và các vật mới đủ để nhận thấy. Ở các ngôi sao (chẳng hạn như Mặt Trời), lực hấp dẫn là rất mạnh (do khối lượng lớn). Khi lực hấp dẫn lớn quá giới hạn chịu lực của các nguyên tử, chúng phá vỡ lớp vỏ nguyên tử và gia tốc cho hạt nhân của chúng. Các hạt nhân hydro (gồm 1 proton) khi va chạm ở vận tốc cao thì kết hợp với nhau thành hydro nặng, rồi tiếp đó là Heli. Phản ứng này giải phóng năng lượng làm ngôi sao cháy sáng. Đây là phản ứng nhiệt hạch (hay còn gọi là sự nổ hạt nhân, phản ứng này được ứng dụng trong bom khinh khí (H bomb), loại vũ khí hủy diệt có sức tàn phá nhất mà loài người đã chế tạo được) Nhờ năng lượng lớn giải phóng từ sự tổng hợp hạt nhân trong lõi ngôi sao, quá trình co lại do hấp dẫn bị dừng lại do năng lượng giải phóng ra cân bằng được lực hấp dẫn. Ngôi sao cháy sáng như vậy trong vài chục, vài trăm triệu hay hàng tỷ năm. Các sao có khổi lượng càng nhỏ thì càng có tuổi thọ cao. Ví dụ như Mặt Trời của chúng ta là một sao lùn, có khối lượng trung bình, nó có thể sống được khoảng 10 tỷ năm, trong khi đó các sao lớn hơn nhiều (sao khổng lồ), đôi khi chỉ sống được vài trăm hay thậm chí vài chục triệu năm do khối lượng lớn tạo ra áp lực lớn hơn hướng vào tâm, khiến phản ứng kết hợp hạt nhân xảy ra nhanh hơn và ngôi sao cạn kiệt năng lượng nhanh hơn. Sau khi cháy hết năng lượng hydro, ngôi sao không còn sản sinh ra năng lượng chống lại được hấp dẫn hướng tâm nữa. Nó lại một lần nữa co lại. Lúc này các hạt nhân Heli lại kết hợp với nhau tạo thành các hạt nhân của nguyên tố nặng hơn như carbon, oxy và các nguyên tố nặng hơn cho tới sắt. Quá trình này giải phóng ra một lượng năng lượng làm phồng to lớp vỏ của ngôi sao trong khi lõi ngôi sao vẫn tiếp tục co lại. Đây là giai đoạn sao khổng lồ đỏ (red giant). Đối với các sao cỡ trung bình (khối lượng từ 0,5 đến 10 lần khối lượng Mặt Trời), lớp vỏ sao khổng lồ đỏ khi phồng lên đủ lớn sẽ phát nổ và bị phá vỡ tạo thành tinh vân hành tinh. Trong khi đó, các sao khối lượng lớn có lớp vỏ sao phồng lên rất lớn, trở thành các sao siêu khổng lồ đỏ. Trong giai đoạn này lõi sao tiếp tục co lại do hấp dẫn, nhiệt độ và áp suất đều tăng hơn nhiều lần so với giai đoạn trước cho phép hạt nhân của các nguyên tố nặng hơn được tổng hợp thành (từ các kim loại quen thuộc như đồng, bạc, vàng cho tới các nguyên tố phóng xạ). Tới giới hạn nhất định, năng lượng giải phóng ra từ lõi tạo ra một vũ nổ lớn phá vỡ lớp vỏ ngoài. Đây là vụ nổ (một số tài liệu tiếng Việt dịch một cách không chính xác là siêu tân tinh). Sau khi lớp vỏ bị phá vỡ, lõi ngôi sao vẫn còn lại đối với cả các sao nặng cũng như nhẹ. Với các sao có khối lượng nhỏ và vừa như Mặt Trời, lõi sẽ ngừng co lại, trở thành sao lùn trắng, phát ra ánh sáng rất mờ nhạt. Sau hàng tỷhay hàng chục tỷ năm, những phát ứng tạo bức xạ cuối cùng cũng kết thúc, sao không phát ra ánh sáng nữa, nó được gọi là sao lùn đen, một khối vật chất chết, tối tăm (trên thực tế quá trình để một sao lùn trắng trở thành sao lùn đen lâu tới mức cho tới nay sao lùn đen chỉ là dự đoán lý thuyết, chưa có sao lùn trắng nào trong vũ trụ đủ thời gian để trở thành sao lùn đen). Với các sao nặng mà phần lõi còn lại sau vụ nổ supernova có khối lượng lớn hơn Mặt Trời tối thiểu là 1,4 lần, khối lượng quá lớn làm chúng tiếp tục co lại, các hạt nhân lại phản ứng với nhau thành các hạt nhân nặng. Sự co lại vẫn chưa kết thúc, chúng làm các electron tự do bị ép chặt vào proton, kết hợp với nhau thành neutron. Ngôi sao trở thành một khối vật chất đặc, gồm toàn neutron, do vậy nó có khối lượng riêng cực lớn và vận tốc quay cự nhanh. Thiên thể này gọi là sao neutron (neutron star), trước đây khi mới quan sát được thiên thể này, các nhà thiên văn thấy nó phát xạ ra một lượng xung điện từ rất mạnh (do vận tốc quay quá nhanh) nên gọi chúng là các pulsar. Các sao lớn hơn nữa, với khối lượng của lõi gấp ít nhất hơn 2 hoặc 3 lần Mặt Trời, sau khi đạt tới giai đoạn sao neutron vẫn chưa dừng lại, chúng ép toàn bộ vật chất lại tới một mật độ lớn vô hạn, tập trung tại một vị trí gọi là một điểm kì dị (singularity). Điểm kì dị này làm uốn cong không gian xung quanh nó, một vùng không gian bị uốn tới độ cong vô hạn (khép kín), đường biên của vùng không gian này gọi là chân trời sự kiện (event horizon). Do không gian bị uốn cong vào phía trong nên bất cứ thứ gì đi vào sẽ không thể thoát ra nữa, kể cả ánh sáng. Toàn bộ vùng không gian giới hạn bởi chân trời sự kiện này gọi là lỗ đen (black hole) (Đọc thêm bài: )   Dưới đây là video bài giảng trực quan về sự kết thúc của các sao:   Vui lòng ghi rõ tên tác giả và nguồn Thienvanvietnam.org khi bạn sử dụng bài viết này
Cơ hội quan sát một phần mưa sao băng Eta Aquarids
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=499:co-hoi-quan-sat-mot-phan-mua-sao-bang-eta-aquarids&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Ngày mùng 5, mùng 6 tháng 5 tới, hiện tượng thiên văn đầu tiên của tháng 5 sẽ diễn ra, đó là cực điểm cua mưa sao băng Eta Aquarids. Đây là một trận mưa sao băng nhỏ  hàng năm (nhỏ hơn cả mưa sao băng Lyrids cuối tháng 4 vừa qua), lại thêm sự cản trở của ánh Trăng những ngày giữa tháng nên việc quan sát trọn vẹn hiện tượng này là không thể. Tuy nhiên nếu may mắn người quan sát vẫn có thể bắt gặp một số sao băng sáng nhất của trận mưa sao băng này. Mưa sao băng Eta Aquarids như tên gọi của nó, có trung tâm là chòm sao Aquarius (thường được gọi trong tiếng Việt là Bảo Bình). Nó có nguyên nhân đầu tiên trong một lần sao chổi Halley đi ngang qua quĩ đạo của Trái Đất. Các mảnh vụn của sao chổi này để lại trên quĩ đạo Trái Đất mỗi năm lại lao qua khí quyển của chúng ta khi Trái Đất đi tới khu vực quĩ đạo này và tạo thành mưa sao băng Eta Aquarids. Chúng ta còn biết tới một trận mưa sao băng khác cũng có nguồn gốc từ sao chổi Halley nhưng lớn hơn và nổi tiếng hơn nhiều so với Eta Aqurids là mưa sao băng Orionids diễn ra vào tháng 10 hàng năm. Nhìn chung mưa sao băng Eta Aquarids là mưa sao băng rất nhỏ, với lượng sao băng ở thời gian cực điểm chỉ khoảng 10 sao băng mỗi giờ. mặt khác thời điểm diễn ra cực điểm của hiện tượng này là vào những ngày Trăng tròn (15-16 âm lịch), ánh Trăng sẽ phủ sáng lên bầu trời đêm và rất khó để quan sát các ngôi sao cũng như các sao băng chạy qua bầu trời. Có thể khẳng định rằng, việc quan sát trọn vẹn hiện tượng này là không thể. Tuy vậy, những người yêu thích quan sát bầu trời vẫn còn một hi vọng vì lúc này đã vào đầu mùa hè, thời tiết nhìn chung khá lý tưởng cho việc quan sát bầu trời (nếu như không có những biến cố nhỏ). Đặc biệt tại các khu vực và địa phương có mức độ ô nhiễm khí quyển nhỏ, bầu trời về đêm những ngày này khá trong và người quan sát có thể nhìn rõ các chòm sao nổi bật trên nền trời. Thời điểm tốt nhất để có thể quan sát một số sao băng của Eta Aquarids (xin nhấn mạnh: một số sao băng chứ không phải "mưa sao băng") là khoảng từ 4h00 đến 5h00 sáng ngày mùng 6 tháng 5 (tức rạng sáng ngày chủ nhật tới). Tại thời điểm này Mặt Trăng đã xuống rất thấp gần chân trời phía Tây và gây không nhiều ảnh hưởng tới khu vực quanh chòm sao Aquarius lúc này đang nằm khá cao trên chân trời phía Đông. Nếu thời tiết đẹp (không mây), vào thời điểm nêu trên hãy hướng cái nhìn của bạn về bầu trời phía Đông. Bạn có thể nhận ra chòm sao này qua hình ảnh đưa dưới đây. Trên thực tế, chòm sao này không có nhiều nét dặc biệt nên sẽ khó xác định đối với người quan sát chưa có kinh nghiệm, do vậy bạn không cần quá chú trọng hình dạng của nó, chỉ đơn giản là chăm chú quan sát khu vực các ngôi sao nằm phía cao trên bầu trời phía Đông. 1- Như trên đã nói, bạn chỉ có cơ hội quan sát được một phần nhỏ của trận mưa sao băng này, do vậy hãy thật kiên nhẫn để chờ những sao băng sáng nhất có thể xuất hiện 2- Hãy để mắt bạn quen dần với bóng tối trong 5 tới 10 phút thì bầu trời sẽ hiện ra rõ hơn so với khi bạn mới quan sát. Nếu bạn nhìn rõ các ngôi sao ở phía Đông như hướng dẫn trên thì có nghĩa hoàn toàn có khả năng quan sát một số sao băng của Eta Aquarids. 3- Hãy tự sắp xếp cho mình tư thế thoải mái nhất như nằm hay ngồi ngả lưng trên một chiếc ghế dài thay vì đứng ngước nhìn lên sẽ rất mỏi cho xương cổ của bạn 4- Bạn không cần bất cứ thiết bị nào để quan sát (kính thiên văn, ống nhòm ...) vì bản thân mắt thường là cách quan sát hiệu quả nhất với sao băng. 5- Nếu bạn không quan sát trực tiếp tại nhà (nóc nhà, ban công...) mà tới một địa điểm phù hợp hơn, đừng quên lưu ý an toàn cá nhân cho bản thân mình. Chúc các bạn may mắn (CLB Thiên văn học trẻ Việt Nam - VACA) Vui lòng ghi rõ tên tác giả và nguồn trích dẫn Thienvanvietnam.org khi bạn sử dụng bài viết này
Lỗ đen khổng lồ của thiên hà "từ chối thức ăn"
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=750:lo-den-khong-lo-cua-thien-ha-qtu-choi-thuc-anq&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Các nhà thiên văn học tại Đài quan sát tia X Chandra của NASA đã thực hiện một bước tiến quan trọng trong việc giải thích lý do tại sao vật chất xung quanh lỗ đen khổng lồ ở trung tâm của Milky Way là cực kỳ mờ nhạt dưới tia X. Phát hiện này có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự hiểu biết của chúng ta về các . Hình ảnh mới của Chandra về Sagittarius A * (Sgr A *), nằm cách Trái Đất khoảng 26.000 năm ánh sáng, chỉ ra rằng chỉ có ít hơn một phần trăm khí ban đầu nằm trong phạm vi hấp dẫn của Sgr A *   đạt được đến điểm không thể quay lại, còn gọi là chân trời sự kiện. Thay vào đó, phần lớn các khí được đẩy ra trước khi nó được gần chân trời sự kiện và có cơ hội để bừng sáng lên, dẫn đến phát ra tia X yếu. Những phát hiện mới này là kết quả của một trong những chiến dịch quan sát dài nhất từng được thực hiện với của Chandra. Tàu không gian đã thu thập dữ liệu về Sgr A* trong vòng năm tuần trong năm 2012. Các nhà nghiên cứu sử dụng thời gian quan sát này để chụp những bức ảnh tia X rất nhạy và chi tiết về sự bất thường, và dấu hiệu năng lượng của khí siêu nóng cuộn xoáy xung quanh Sgr A *, có khối lượng khoảng 4 triệu lần Mặt Trời. "Chúng tôi nghĩ rằng hầu hết các các thiên hà lớn có một lỗ đen siêu lớn ở tâm của mình, nhưng chúng quá xa để chúng ta có thể nghiên cứu làm thế nào vật chất chảy gần nó", Q. Daniel Wang của Đại học Massachusetts tại Amherst, người đứng đầu một nghiên cứu công bố vào thứ năm trên tạp chí Science nói. "Sgr A * là một trong rất ít các lỗ đen đủ gần để chúng ta thực sự được chứng kiến quá trình này." Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng các dữ liệu của Chandra về Sgr A * không ủng hộ mô hình lý thuyết trong đó các tia X phát ra từ một tập hợp sao có khối lượng nhỏ xung quanh lỗ đen. Thay vào đó, các dữ liệu X-quang cho thấy khí gần lỗ đen có thể có nguồn gốc từ gió được tạo ra bởi một phân bố hình đĩa của các ngôi sao trẻ lớn. "Những hình ảnh mới này của Chandra là một trong những hình ảnh tuyệt vời nhất mà tôi từng thấy", đồng tác giả Sera Markoff của Đại học Amsterdam, Hà Lan cho biết. "Chúng tôi đang theo dõi Sgr A * bắt lấy khí nóng phun ra từ ngôi sao gần đó, và đưa tới chân trời sự kiện của nó." Để đi qua chân trời sự kiện, vật chất bị bắt giữ bởi một lỗ đen phải mất nhiệt và động lượng. Sự phóng vật chất cho phép điều này xảy ra. "Hầu hết các khí phải  được ném ra ngoài để một lượng nhỏ có  thể tiếp cận lỗ đen" đồng tác giả  Feng Yuan của Đài thiên văn Thượng Hải ở Trung Quốc, cho biết. "Trái với những gì một số người nghĩ, các lỗ đen không thực sự ăn tươi nuốt sống tất cả mọi thứ bị kéo về phía chúng. Sgr A * dường như tìm được nhiều thức ăn rất khó nuốt." Khí có sẵn tới Sgr A * rất khuếch tán và siêu nóng, vì vậy khó khăn cho các lỗ đen để bắt giữ và nuốt nó. Các lỗ đen háu ăn gây ra quasar và tạo ra một lượng lớn các bức xạ có chứa khí mát hơn và dày đặc hơn Sgr A *. Chân trời sự kiện của Sgr A * đã phủ bóng đen chống lại các vật chất sáng xung quanh lỗ đen. Nghiên cứu này có thể hỗ trợ những nỗ lực sử dụng kính thiên văn vô tuyến để quan sát và hiểu được bóng tối. Nó cũng sẽ hữu ích cho sự hiểu biết tác động các ngôi sao quay quanh và những đám mây khí có vật chất chảy vào và ra từ lỗ đen. Theo Space Daily
Băng trong Hệ Mặt Trời, nguồn gốc nước trên Trái Đất
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=551:bang-trong-he-mat-troi-nguon-goc-nuoc-tren-trai-dat&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Các nhà khoa học từ lâu đã tin rằng sao chổi và/hoặc một dạng thiên thạch cổ được gọi là các chondrite cacbon là nguồn gốc của các nguyên tố dễ bay hơi trên Trái Đất sơ khai - bao gồm hidro, nito, và cacbon – và có thể cuả cả các vật chất hữu cơ. Hiểu được những chất bay hơi đến từ đâu là tối quan trọng cho việc xác định nguồn gốc của nước và sự sống trên hành tinh của chúng ta. Một nghiên cứu mới dẫn đầu bởi Conel Alexander của Carnegie tập trung vào nước đóng băng phân bố ở xuyên suốt hầu hết Hệ Mặt Trời trước kia, nhưng có lẽ lượng băng này không nằm trong các vật liệu tích tụ lại để tạo ra Trái Đất sơ khai. Bằng chứng về lớp băng này được chứa trong các vật thể như sao chổi và các chondrite cacbon chứa nước. Nhóm nghiên cứu đã tìm ra các số liệu đi ngược lại với các lí thuyết chiếm ưu thế về mối quan hệ giữa hai dạng vật thể này và gợi ý rằng các thiên thạch, và các tiểu hành tinh sản sinh ra chúng, là những nguồn khả thi nhất cho nước trên Trái Đất. Công trình của họ được đã công bố trên tờ Science Express vào ngày 12 tháng7. Nhờ việc nghiên cứu về tỉ lệ hidro với đồng vị nặng hơn deuterium trong nước đóng băng (H2O), các nhà khoa học đã đoán được khoảng cách tương đối giữa nơi các vật thể chứa nước này được hình thành và Mặt Trời. Các vật thể được hình thành ở xa thường có trữ lượng deuterium ở trong băng lớn hơn so với các vật thể hình thành ở gần Mặt Trời, và các vật thể được hình thành trong cùng một khu vực thường có cấu trúc đồng vị hidro giống nhau. Vậy nên, bằng cách so sánh trữ lượng deuterium ở nước trong các chondrite cacbon với trữ lượng deuterium của các sao chổi, chúng ta có thể biết liệu chúng có được hình thành trong cùng một vùng của Hệ Mặt Trời. Các nhà khoa học còn gợi ý cả sao chổi và các chondrite cacbon đã được hình thành ngoài vòng quỹ đạo của Sao Mộc, thậm chí ngay ở rìa Hệ Mặt Trời của chúng ta. Nếu giả thuyết này là đúng, lượng băng tìm thấy ở sao chổi và phần còn lại của băng được giữ ở các chondrite cac bon ở dạng hidro silicon, ví dụ như đất sét cũng sẽ có cấu trúc đồng vị tương tự nhau. Nhóm nghiên cứu của Alexander bao gồm các nhà khoa học của Carnegie: Larry Nitler, Marilyn Fogel, và Roxane Bowden, cùng với Kieren Howard từ Bảo tàng Lịch sử tự nhiên ở London và Cao đẳng Kingsborough của Đại học thành phố New York, và Christopher Herd từ Đại học Alberta. Họ đã nghiên cứu các mẫu vật từ 85 chondrite cacbon và có thể chứng minh rằng các chondrite cacbon có lẽ không được hình thành ở khu vực hình thành sao chổi, vì chúng có trữ lượng deuterium thấp hơn hẳn. Nếu vậy, kết quả này đi ngược lại với hai mô hình thông dụng nhất hiện nay để lí giải việc Hệ Mặt Trời có cấu trúc ngày hôm nay. Nhóm gợi ý rằng các chondrite cacbon được hình thành ở vùng đai các tiểu hành tinh giữa quỹ đạo của Sao Hỏa và Sao Mộc. Hơn nữa, họ đưa ra giả thuyết rằng phần lớn các nguyên tố bay hơn của Trái Đất đến từ nhiều chondrite, không phải từ các sao chổi. “Kết quả của chúng tôi mang lại nhiều giới hạn quan trọng cho nguồn gốc chất bay hơn bên trong Hệ Mặt Trời, kể cả Trái Đất”, Alexander phát biểu. “Và chúng cũng có ảnh hưởng lớn tới các mô hình hiện tại về sự hình thành và tiến hóa quỹ đạo của các hành tinh và các vật thể tương tự trong Hệ Mặt Trời của chúng ta.” Theo Science Daily
Mưa sao băng Leonids giữa tháng này
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=943:mua-sao-bang-leonids-giua-thang-nay&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Giữa tháng 11 này, một hiện tượng thiên văn đáng chú ý với những người yêu thích quan sát sẽ diễn ra. Mưa sao băng Leonids - một mưa sao băng lớn có định kỳ hàng năm - sẽ có cực điểm vào rạng sáng 17 và 18 tháng này. Nếu thời tiết thuận lợi, Leonids năm nay sẽ là một hiện tượng rất đáng để quan sát trong mùa đông này.   Mưa sao băng Leonids là tàn dư để lại trên quĩ đạo Trái Đất của sao chổi 55P Tempel-Tuttle. Khi sao chổi này đi qua quĩ đạo Trái Đất, nó để lại nhiều mảnh vụn bị xé ra bởi hấp dẫn từ hành tinh chúng ta. Hàng năm khi Trái Đất đi qua khu vực của đám tàn dư này, những mảnh vịn với kích thước của những viên đá đó lao qua khí quyển và cháy sáng tạo thành các sao bằng của Leonids. Cái tên Leonids là xuất phát từ việc vùng trung tâm tập trung hầu hết các sao băng của hiện tượng này là phần đầu của chòm sao Leo (Sư tử). Trong quá khứ, Leonids là một mưa sao băng lớn và đã từng có lần có số lượng sao băng cao bất thường - hàng nghìn sao băng mỗi giờ, được những người quan sát gọi là "bão sao băng" hay còn được ví von là tiếng gầm của con sư tử. Dù vậy, năm nay sẽ không có "bão", sư tử cũng không "gầm" và số lượng sao băng cũng giảm đi so với trước đây. Năm nay vào lúc cực điểm Leonids sẽ chỉ có thể cho bạn nhìn thấy khoảng 20 sao băng mỗi giờ. Dù vậy, nó vấn được đánh giá là một mưa sao băng đáng chú ý bởi các sao băng của nó thường dài và sáng.     Điểm thuận lợi của Leonids năm nay là bạn sẽ không bị ảnh hưởng bởi ánh Trăng do Mặt Trăng đã lặn từ sớm. Thời điểm lý tưởng nhất để bạn quan sát sẽ là rạng sáng ngày 17 và 18 tháng này, nhất là sau hai giờ sáng vì khi đó chòm sao Leo đã ở khá cao trên bầu trời. Hãy tìm chòm sao này ở bầu trời phía Đông, bạn có thể nhận ra nó bởi các ngôi sao sáng và hình dạng khá đặc trưng như hình ảnh dưới đây. Điều thú vị nữa là bạn sẽ có thể quan sát Sao Mộc - hành tinh lớn nhất của Hệ Mặt Trời - rất sáng ngay gần Leo, và muộn hơn chút nữa (sau 3 giờ sáng) thì Sao Hoả và Sao Kim cũng sẽ ở rất gần đó. Bạn không cần bất cứ thiết bị gì để quan sát mưa sao băng vì mắt thường là cách quan sát tốt nhất (tất nhiên, một chiếc kính thiên văn cá nhân sẽ giúp ích cho việc quan sát các hành tinh, nhất là Sao Mộc). Dù vậy, hãy lưu ý rằng bạn cần chọn địa điểm có góc nhìn rộng, không có hoặc rất ít ánh sáng từ các bóng đèn và tất nhiên cũng đừng quên bảo đảm sức khoẻ và an ninh cho bản thân (thường thì ban công hay nóc nhà của bạn có thể là những nơi khá lý tưởng). Một điểm nữa rất cầu lưu ý là thời tiết, nếu trời nhiều mây hoặc có mưa bạn sẽ không có cơ hội quan sát hiện tượng này. Nếu thời tiết thuận lợi và có một góc nhìn tốt, hãy mang theo áo ấm, một chiếc ghế dài và sẵn sàng cho một đêm quan sát thú vị!
NASA phóng tàu nghiên cứu khí quyển Mặt Trăng
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=748:nasa-phong-tau-nghien-cuu-khi-quyen-mat-trang&amp;catid=27&amp;Itemid=135
NASA vừa phóng tàu thăm dò không người lái với mục đích tìm hiểu khí quyển Mặt Trăng, đây là tàu không gian thăm dò Mặt Trăng thứ ba của Hoa Kỳ trong 5 năm qua. Sáng đỏ trên bầu trời đêm, tàu không gian bay lên lúc 3h27 theo giờ GMT hôm thứ bảy ngày 7/9 trên tên lửa vận chuyển Air Force được có tên Minotaur V từ bãi phóng của NASA ở Virginia. “Tàu ở trạng thái tốt và  đúng quỹ đạo tại thời điểm này” nhà phát ngôn của NASA George Diller phát biểu nửa giờ sau khi phóng. Chương trình cho thiết bị thám hiểm môi trường bụi và khí quyển Mặt Trăng (viết tắt LADEE) mong tìm hiểu nhiều hơn về khí quyển và bụi khi quay quanh Mặt Trăng. Điều hành phóng Doug Voss cho biết nhiệm vụ trước tiên cho tên lửa năm giai đoan này đặt ra bởi Tập Đoàn Khoa học quỹ đạo là "hoàn thành bức tranh". “Nó là một kết thúc tuyệt cho một sứ mệnh phi thường, một sứ mệnh độc nhất” Khi những nhà du hành Hoa Kỳ cuối cùng đi trên Mặt Trăng bốn thập kỉ trước, họ nhận ra rằng bụi có thể là vấn đề lớn tới tiếp nhận của tàu thăm dò và các thiết bị, chuyên gia không gian John Logsdon nói. “Nếu chúng ta từng đi tới đó trong một thời gian dài, bụi sẽ bám vào mọi thứ. Nó không phải những hạt bụi mịn như hạt cát trên bãi biển mà chúng tạo nên từ những mảnh vỡ rất rất nhỏ.” Logsdon, một lãnh đạo NASA và cựu giám đốc viện chính sách không gian đại học George Washington, cho biết. “Tất cả các phi hành đoàn Apollo phàn nàn về bụi Mặt Trăng thấy ở khắp nơi.” Phi hành gia Hoa Kỳ đầu tiên bước đi trên Mặt Trăng năm 1969, và cuộc thám hiểm cuối cùng thời kì Apollo diễn ra năm 1972. Khí quyển Mặt Trăng quá mỏng nên các phân tử khí không thể va chạm với nhau và được biết đến là ngoại quyển (hay ngoại khí quyển). Khám phá ngoại quyển này sẽ là tàu không gian chạy bằng pin Mặt Trời và Liti trị giá 280 triệu đô la có kích thước như một chiếc xe nhỏ- cao gần 8 feet(2,4m) và rộng 5 feet. Cuộc hành trình này trên Mặt Trăng sẽ  kéo dài khoảng một tháng. Khi lần đầu tiên tàu không gian đi vào quỹ đạo quanh Mặt Trăng vào ngày 6 tháng 10 tới, nó sẽ  ở độ cao khoảng 155 dặm( 250 km) trong 40 ngày rồi sau đó xuống thấp ở độ cao 12,4 đến 37,3 dặm so với bề mặt Mặt Trăng cho sứ mệnh khoa học trong nhiệm vụ lần này. Nó mang theo một thiết bị phóng chùm laser giữa Trái Đât và Mặt Trăng công nghệ mới với 3 cơ cấu chính bao gồm máy quang phổ khối lượng trung tính để xác định các thành phần hóa học của khí quyển Mặt Trăng cùng các dụng cụ khác để phân tích khí và bụi ngoại quyển. “Những đo đạc này sẽ giúp các nhà khoa học thu thập các bí ẩn về bụi Mặt Trăng, tích điện do tia cực tím của Mặt Trời, trả lời cho hiện tượng chói sáng khi Mặt Trời mọc mà các phi hành gia Apollo thấy?”, NASA cho biết. Các thiết bị khác sẽ tìm kiếm các phân tử nước trong khí quyển Mặt Trăng. Trong một trăm ngày với sứ mệnh khoa học của nhiệm vụ này, LADEE sẽ thực hiện một cú đâm nguy hiểm xuống bề mặt Mặt Trăng. Tàu không gian được thiết kế theo mô hình với mục đích “giảm quá trình sản xuất và lắp ráp” và “giảm đáng kể giá thành tàu”, NASA cho biết. Mô hình này sẽ mở đường cho các máy thăm giò không người lái tới các tiểu hành tinh hoặc Sao Hỏa cũng như tàu thăm dò Mặt Trăng trong tương lai mặc dù bây giờ vẫn chưa có kế hoạch cụ thể nào. LADEE được hình thành khi NASA có kế hoạch đưa con người lần nữa lên Mặt Trăng như là một phần của chương trình mang tên Constellation đã bị tổng thống Barack Obama đóng lại năm 2010 do vượt quá ngân sách với những mục tiêu của nó. Dự án lớn kế tiếp của NASA về thám hiểm bằng con người dự định sẽ đưa người lên Sao Hỏa vào năm 2030. Các chương trình tự hành gần đây của NASA bao gồm cả vệ tinh quỹ đạo thăm dò Mặt Trăng (Lunar Reconnaissance Orbiter) đã cho những bức ảnh chi tiết về bề mặt đầy lỗ của Mặt Trăng, và Gravity Recovery and Interior Laboratory (GRAIL) phát hiện ra những cuộc bắn phá của các thiên thạch là kết quả của những phần không đồng đều trọng lực trên Mặt Trăng. Vệ tinh trước đó của NASA, vệ tinh  Lunar Crater Observation and Sensing (LCROSS), khám phá ra nước đóng băng khi va chạm năm 2009, cơ quan không gian này cho biết. Theo Space Daily
Có thể đã có phát hiện tín hiệu của vật chất tối
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=860:co-the-da-co-phat-hien-tin-hieu-cua-vat-chat-toi&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Các nhà nghiên cứu ở Cơ quan không gian châu Âu (ESA) cho biết họ đã phát hiện một tín hiệu lạ ở dải X-ray đến từ thiên hà Andromeda và cụm thiên hà Perseus. Các nhà thiên văn học cho rằng những phát xạ lạ này có thể là dấu hiệu của vật chất tối. Nếu được xác nhận, nó sẽ là bằng chứng trực tiếp đầu tiên của vật chất tối.   Các nhà thiên văn học tin rằng vật chất tối có tồn tại, nhưng nó vẫn hoàn toàn chỉ là giả thuyết. Không có nó, mọi thứ các nhà khoa học biết về vũ trụ sẽ nằm ngoài các tính toán của họ và mô hình của các vận động khác nhau giữa các thiên thể sẽ không còn giá trị. Theo ước tính, cấu tạo của vũ trụ có tới 80% là vật chất tối – gây ra trường hấp dẫn xung quanh nó. Do vật chất tối không phát xạ và cũng không hấp thụ ánh sáng, nên nó gần như không thể quan sát. Giờ đây, các nhà nghiên cứu tại Trường bách khoa liên bang Lausanne (EFPL), Thụy Sĩ cho biết đã có tín hiệu của vật chất tối. Tín hiệu được mô tả là “phát xạ photon yếu và không điển hình” – không thể đến từ bất kỳ loại hạt hay vật chất nào đã biết. “Sự phân bố của các tín hiệu bên trong thiên hà tương ứng chính xác với những điều chúng tôi mong đợi ở vật chất tối – đó là tập trung và cường độ mạnh ở trung tâm của các thiên thể và yếu, khuếch tán ở phía dìa” nhà nghiên cứu Oleg Ruchayskiy, một giáo sư Thiên văn học tại đại học Leiden, giải thích trên báo chí. Các nhà khoa học đã đưa ra một loạt các giả thuyết về loại hạt thực sự tạo nên vật chất tối, gồm các hạt nặng tương tác yếu (WIMPs) và các axion. Nhưng lý thuyết phổ biến nhất liên quan đến giả thuyết “neutrino tinh khiết”, cái có liên quan tới neutrino “bình thường” – một hạt hạ nguyên tử cơ bản gây ra tương tác yếu và không mang điện. Nó giả thuyết rằng một neutrino tinh khiết phân hủy có thể phát ra các photon – do đó, nó phát xạ ra các tia X kì quái và được phát hiện bởi kính thiên văn XMM-Newton của ESA “Sự xác nhận của phát hiện này có thể dẫn tới viêc xây dựng các kính thiên văn mới được thiết kế đặc biệt để nghiên cứu các tín hiệu đặc biệt của vật chất tối” đối tác nghiên cứu của Ruchayskiy, Alexey Boyarsky, cho biết. “Chúng tôi sẽ biết nơi để theo dõi các cấu trúc tối trong không gian và sẽ có thể tái tạo lại sự hình thành của vũ trụ”. Theo Space Daily  
VACA: Sóng hấp dẫn và những say mê
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=1008:vaca-song-hap-dan-va-nhung-say-me&amp;catid=21&amp;Itemid=136
Sáng 27 tháng 3, với sự tham gia nhiệt tình của người yêu khoa học thuộc nhiều lứa tuổi tại Hà Nội, tọa đàm "Sóng hấp dẫn và 100 năm thuyết tương đối rộng" được tổ chức nhân kỷ niệm 14 năm thành lập VACA đã diễn ra thành công, mang lại nhiều thông tin khoa học cũng như nhiều chia sẻ giữa người yêu khoa học.       Sóng hấp dẫn được ghi nhận tháng 9 năm 2015 và đã được công bố chính thức vào tháng 2 vừa qua mở ra nhiều viễn cảnh mới cho khoa học. Thông tin về khám phá này đã trở thành mộ đề tài được rất nhiều người quan tâm. Tuy nhiên, thực chết sóng hấp dẫn là gì, nó sinh ra từ đâu, có những đặc tính ra sao và bằng cách nào nó đã được phát hiện thì dường như vẫn còn chưa được làm rõ đối với đa phần người yêu khoa học tại Việt Nam bởi sự "mới lạ" của nó có lẽ vẫn chưa được làm rõ bởi các bài báo và thông tin còn sơ lược. Để đưa tới thông tin chính xác cho người yêu khoa học về đối tượng vật lý này, VACA đã tổ chức buổi tọa đàm nêu trên. Tọa đàm được tổ chức ngày 27/03/2016 cũng đồng thời là một sự kiện kỷ niệm 14 năm thành lập VACA - tổ chức thiên văn học phi lợi nhuận và hoạt động phổ biến, giáo dục thiên văn đầu tiên của Việt Nam (thành lập ngày 19 tháng 03 năm 2002). Trong sự kiện này, người tham gia ngoài việc nghe thuyết trình và cùng thảo luận các nội dung có liên quan, còn có cơ hội gặp gỡ, giao lưu với những người cùng sở thích ở nhiều lứa tuổi, hội viên nhiều thế hệ của VACA. Đặc điểm chung của những người tới tham dự sự kiện nằm ở chỗ đều là những người quan tâm tới những vấn đề khoa học thực sự thay vì thú vui ngắm trăng sao. Chính vì vậy buổi gặp gỡ ngoài các trao đổi mang tính học thuật còn là những giờ phút giao lưu thú vị và chân thành của những người yêu khoa học.         Trân trọng cám ơn sự tham gia và cùng chia sẻ của tất cả các anh chị và các bạn. VACA hi vọng tiếp tục được gặp gỡ và chia sẻ với các bạn ở thêm nhiều sự kiện về vật lý thiên văn trong chặng đường khoa học rất dài vẫn còn chờ đợi tới đây.
Tạo sao cực nhanh trong vũ trụ sơ khai
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=1263:tao-sao-cuc-nhanh-trong-vu-tru-so-khai&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Một nhóm các nhà thiên văn học do Roberto Decarli ở Viện thiên văn học Max Planck đứng đầu đã khám phá ra một loại thiên hà đặc biệt. Mặc dù là những thiên hà rất già, được tạo thành sau Big Bang chưa tới một tỷ năm, nhưng chúng có tốc độ tạo sao nhanh gấp hàng trăm lần so với Milky Way của chúng ta.   Phát hiện này đã được công bố trên Nature. Khám phá nêu trên có thể giúp giải quyết một bí ẩn của vũ trụ, đó là sự có mặt của rất nhiều thiên hà lớn ngay từ khi vũ trụ mới có tuổi bằng khoảng 10% số tuổi hiện tại của nó. Sau khi lần đầu tiên quan sát thấy những thiên hà này ít năm trước, các nhà thiên văn học đã đề xuất rằng chúng hẳn phải được tạo thành từ tiền thân là những thiên hà có hoạt động cực mạnh, điều đó mới giải thích được cho tốc độ tạo sao cực cao của chúng. Nhưng cho tới trước khám phá này, các nhà thiên văn học chưa bao giờ quan sát thấy được những thiên hà tiền thân khớp với dự đoán. Những thiên hà mới được phát hiện có thể giải quyết được bí ẩn về cách mà những thiên hà cực lớn này có yowis hành trăm tỷ sao khi chúng hình thành chỉ 1,5 tỷ năm sau Big Bang - có nghĩa là chúng cần tạo sao rất nhanh. Nhóm nghiên cứu phát hiện ra những thiên hà này một cách tình cờ khi nghiên cứu các quasar - những lỗ đen siêu nặng nằm ở trung tâm những thiên hà khổng lồ đang bồi tụ vật chất. Mục tiêu của họ khi đó là nghiên cứu sự tạo sao trong các thiên hà có chứa các quasar đó. Fabian Walter - nhà nghiên cứu thuộc viên Max Planck - bổ súng: "Rất có thể việc tìm thấy những thiên hà hoạt động mạnh này gần các quasar sáng không phải là trùng hợp. Quasar được cho rằng hình thành trong những vùng vũ trụ nơi mật độ vật chất xét trên qui mô lớn cao hơn nhiều so với mức độ trung bình. Những điều kiện như vậy cũng thuận lợi cho các thiên hà trong việc tạo sao với tốc độ rất cao." "Cho dù những thiên hà chúng tôi mới phát hiện có chính xác là tiền thân của những thiên hà lớn được quan sát thấy vàinawm trước hay không thì vẫn cần tiếp tục nghiên cứu để xác định xem mức độ phổ biến của chúng," Eduardo Bañados ở viện Carnegie, đồng tác giả của nghiên cứu giải thích. Nhóm nghiên cứu đã thực hiện những cuộc điều tra tiếp theo để tìm lời giải cho câu hỏi về những thiên hà này. Họ cũng tìm thấy thứ dường như là ví dụ điển hình cho những vụ sáp nhập thiên hà sớm nhất trong giai đoạn sắp diễn ra. Đây cũng là một cơ chế cơ bản của quá trình lớn lên của các thiên hà. Những quan sát mới cung cấp bằng chứng trực tiếp đầu tiên về những vụ sáp nhập như vậy thậm chí cho thấy chúng xảy ra ở những giai đoạn sớm nhất của quá trình tiến hoá thiên hà, sau Big Bang chưa tới một tỷ năm.
Xem xét lại quan điểm về thời gian
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=981:xem-xet-lai-quan-diem-ve-thoi-gian&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Nghiên cứu mới từ Trung tâm động lực học lượng tử của Đại học Griffith đang mở rộng những quan điểm về không gian và thời gian. Trong một bài báo đã đăng trên tạp chí Proceedings of the Royal Society A, Phó giáo sư Joan Vaccaro thách thức giả định lâu nay về việc tiến hóa thời gian - sự tiến triển không ngừng của vũ trụ theo thời gian - là một phần thuộc tính của Tự nhiên.   Trong bài báo với tiêu đề "Bất đối xứng giữa thời gian và không gian", Vaccaro gợi ý rằng có thể có một nguồn gốc sâu hơn đối với sự khác biệt giữa hai hướng của thời gian: tương lai và quá khứ. "Nếu bạn muốn biết vũ trụ tới từ đâu và nó đang đi về đâu, bạn cần biết về thời gian," bà nói. "Các thí nghiệm trên các hạt hạ nguyên tử trong suốt hơn 50 năm qua cho thấy Tự nhiên không đối xử với hai hướng của thời gian giống nhau. Đặc biệt, các hạt hạ nguyên tử được gọi là các meson K và B có hành vi hơi khác nhau tùy thuộc vào chiều thời gian." "Khi những hành vi rất nhỏ này được bao gồm trong một mô hình vũ trụ, cái chúng ta thấy là vũ trụ biến đổi từ lúc được cố định ở một điểm trong thời gian cho tới tiến hóa. Nói cách khác, các hành vi nhỏ này chịu trách nhiệm về việc khiến cho vũ trụ tiến tới theo thời gian. Hiểu được cách mà thời gian tiến triển theo cách này mở ra một cách nhìn hoàn toàn mới về bản chất cơ bản của chính thời gian. Nó thậm chí có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn những ý tưởng kì lạ như là du hành ngược thời gian." Theo bài báo, một bất đối xứng tồn tại giữa thời gian và không gian với nghĩa rằng hệ thống vật lý chắc chắn có tiến triển theo thời gian, nhưng không hề có tương ứng đối với không gian. Bất đối xứng này, từ lâu vẫn được coi là cơ bản, đại diện bởi các phương trình chuyển động và các định luật bảo toàn khác nhau theo không gian và thời gian. Tuy nhiên, phó giáo sư Vaccaro đx sử dụng một "phương pháp tính tổng đường đi" để chưng minh khả năng của đối xứng thời gian và không gian, nghĩa là quan điểm thông thường về tiến hóa thời gian cần được xem lại. "Trong mối liên hệ giữa thời gian và không gian, không gian dễ hiểu hơn bởi vì nó đơn giản ở ngay đây. Nhưng thời gian thì luôn luôn hướng chúng ta tới tương lai", Vaccaro nói. "Tuy nhiên dù chúng ta đang di chuyển về phía trước với thời gian, vẫn luôn có những bước lùi, một dạng hiệu ứng đung đưa, và tôi muốn sử dụng các meson K và B để đo những dịch chuyển đó." Phó giáo sư Vaccaro cho biết nghiên cứu này cung cấp một giải pháp cho nguồn gốc của động lực học, một vấn đề hóc búa lâu nay trong khoa học.
Sao có thể bắt giữ các hành tinh lang thang
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=492:sao-co-the-bat-giu-cac-hanh-tinh-lang-thang&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Nghiên cứu mới cho biết có hàng tỷ sao trong thiên hà của chúng ta đã bắt giữ những hành tinh lang thang đi qua gần chúng để đưa vào hệ thống của mình. Các hành tinh này giống như những kẻ bất hảo bị tống cổ khỏi gia đình nơi chúng sinh ra, và rồi một lúc nào đó có thể rơi vào một mái nhà khác với một ngôi sao khác. Phát hiện này có thể giải thích sự tồn tại của một số hành tinh với quĩ đạo xa đến đáng ngạc nhiên từ sao mẹ, và thậm chí cả sự tồn tại của các hệ hành tinh kép.   "Các ngôi sao mua bán hành tinh của mình như các đội bóng mua bán cầu thủ vậy", Hagai Perets tại trung tâm vật lý thiên văn Havard-Smithsonian nói. Nghiên cứu được thực hiện bởi hai đồng tác giả là Perets và Thijs Kouwenhoven tại đại học Bắc Kinh, Trung Quốc sẽ xuất hiện trong số ra ngày 20 tháng 4 của tạp chí Vật lý thiên văn. Để đi tới kết luận này, Perets và Kouwenhoven đã sử dụng các mô hình giả lập các quần sao có sự có mặt của các hành tinh trôi tự do. Họ thấy rằng nếu số lượng hành tinh lang thang này bằng với số sao thì từ 3 tới 6 phần trăm số sao sẽ sớm bắt giữ lấy một hành tinh như vậy. Sao càng nặng, càng nhiều khả năng sẽ có hành tinh bị nó giữ lại. Họ nghiên cứu các quần sao trẻ vì khả năng bắt giữ xảy ra cao hơn khi sao và hành tinh trôi tự do nằm trong cùng một khoảng không nhỏ. Theo thời gian, các sao trong quần bị phân tán và sẽ khó xảy ra việc một hành tinh bị giữ lại hơn. Các hành tinh dạng này là hệ quả tự nhiên của quá trình tạo thành các hệ hành tinh. Khi hai hành tinh chưa nằm cố định va chạm với nhau,  một trong số chúng có thể bị đẩy khỏi hệ hành tinh ban đầu và nếu sau đó nó gặp một ngôi sao di chuyển với cùng hướng và vận tốc, nó có thể gia nhập vào thành một hành tinh của sao mới này. Hành tinh bị giữ lại có thể nằm cách ngôi sao trung tâm của hệ gấp hàng trăm hay thậm chí hàng nghìn lần so với khoảng cách giữa Trái Đất và Mặt Trời và cũng có thể có quĩ đạo và trục quay giống như các hành tinh sẵn có quanh sao mẹ mới này. Các nhà thiên văn không phát hiện bất cứ trường hợp nào như trên trong thực tế vì để quan sát và xác minh liệu một hành tinh ở xa sao mẹ có chắc là do bị bắt giữ hay không là điều rất khó. Các nhà thiên văn đang cố gắng quan sát các hệ hành tinh quanh các sao nhỏ, vì với lực hấp dẫn nhỏ thì một hành tinh ở xa sẽ có nhiều khả năng hơn là từ nơi khác tới. Bằng chứng rõ nhất đã có là kết quả từ công bố năm 2006 cho thấy hai hành tinh với khối lượng là 14 lần và 7 lần khối lượng của Sao Mộc chuyển động quanh nhau mà không có sự có mặt của sao. Liệu bản thân Hệ Mặt Trời của chúng ta có một kẻ tị nạn nào đó nằm xa hơn rất nhiều so với Pluto hay không? Đến nay các nhà thiên văn vẫn đang thử tìm câu trả lời. (theo Science Daily)  
Phi thuyền Rosetta tiếp cận tiểu hành tinh Lutetia
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=186:phi-thuyn-rosetta-tip-cn-tiu-hanh-tinh-lutetia&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Những bức ảnh mới chụp một tiểu hành tinh ‘nguyên thủy’ đồ sộ thực hiện bởi một sứ mệnh vũ trụ đặc biệt đang ở xa 280 triệu dặm trong không gian ngoài kia có thể giữ trong chúng chìa khóa mở ra cánh cổng nhìn vào lịch sử của hệ mặt trời, Cơ quan Vũ trụ châu Âu cho biết như vậy trong ngày hôm nay. Cơ quan Vũ trụ châu Âu đã thu được những hình ảnh đầu tiên, qua phi thuyền săn đuổi sao chổi Rosetta, của tiểu hành tinh lớn nhất từng được thăm viếng bởi một vệ tinh trên. Rosetta bay trong cự li cách Lutetia 1900 dặm, giữa Hỏa tinh và Mộc tinh, để truyền về những hình ảnh của tiểu hành tinh đã được phát hiện ra cách đây 150 năm trước. Tiểu hành tinh nguyên thủy: Một trong những ảnh cận cảnh của Lutetia do phi thuyền Rosetta truyền về ‘Đây là những bức ảnh tuyệt vời và khó tưởng nổi’, phát biểu của Rita Schulz, một nhà khoa học ở Darmstadt, Đức. Sẽ mất vài tuần trước khi toàn bộ 400 bức ảnh và dữ liệu từ các thiết bị chính xác cao gắn trên tàu Rosetta được đối chiếu trên trái đất nhưng sứ mệnh đặc biệt trên đã được xem là một thành công lớn. Ảnh chụp cực gần của một chỗ lở đất và các tảng đá lăn có thể có trên tiểu hành tinh Lutetia. Mô hình phi thuyền săn đuổi sao chổi Rosetta tại Trung tâm Điều hành Vũ trụ của ESA ở Darmstadt, Đức. Sự bí ẩn của tiểu hành tinh Lutetia khiến nó quá cuốn hút đối với các nhà khoa học, họ muốn nghiên cứu tiểu hành tinh trên đã biến đổi bao nhiêu theo dòng thời gian. Họ hi vọng bộ dữ liệu mới sẽ làm sáng tỏ xem nó có chứa các vật chất ban sơ còn sót lại từ lúc hình thành hệ mặt trời cách nay 4,6 tỉ năm trước hay không. Lutetia được tin rằng có đường kính 83,3 dặm với ‘độ dẹt lớn’, nhưng các nhà khoa học lâu nay bối rối không biết tiểu hành tinh trên thuộc loại nào – một tiểu hành tinh ‘nguyên thủy’ chứa các hợp chất carbon hay là một tiểu hành tinh kim loại. Đối với Rosetta, việc khảo sát Lutetia và các tiểu hành tinh khác chỉ là một nhiệm vụ phụ trên hành trình của nó tiến đến sao chổi 67P/Churyumov-Gerasimenko – mục tiêu tối hậu của nó. Rosetta được phóng lên hồi năm 2004 và dự kiến sẽ đến mục tiêu của nó vào năm 2014. Loạt ảnh thể hiện sự tiếp cận tiểu hành tinh Lutetia trên thực tế. Nguồn: thuvienvatly.com
Các thiên hà trong Cụm Thiên hà Địa phương
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=232:cac-thien-ha-trong-cm-thien-ha-a-phng&amp;catid=40:thien-ha&amp;Itemid=150
Cụm địa phương (The Local Group) là một quần thiên hà nhỏ trong siêu quần thiên hà Virgo, nó là một nhóm gồm trên 50 thiên hà nhỏ và 3 thiên hà lớn (mà thiên hà của chúng ta là một trong số 3 đó). Dưới đây là danh sách các thiên hà trong quần thiên hà này của chúng ta.             - Các thiên hà sắp xếp theo thứ tự khoảng cách so với chúng ta, do đó trong bảng dưới khoảng cách của Milky Way (Ngân Hà, thiên hà của chúng ta) là 0 - 3 thiên hà lớn của Cụm Địa phương có thể thấy rõ qua đường kính là thiên hà Andromeda (M31), Milky Way (Andromeda có kích thước lớn hơn nhưng Milky Way có khối lượng lớn hơn) và thiên hà Triangulum (M33) (cần phân biệt tên 2 thiên hà Andromeda và Triangulum với tên 2 chòm sao có tên tương ứng) - Nhiều thiên hà được đặt tên liên quan đến chòm sao tương ứng với vị trí của chúng, tham khảo tên các chòm sao . - Danh sách trên tính tới năm 2006, sẽ tiếp tục tham khảo và bổ sung. - Dwarf: theo nghĩa thông thường là người lùn, khi đứng một mình trong thiên văn hiểu là sao lùn, trong trường hợp này hiểu là thiên hà lùn - kly: kilo light-year - nghìn năm ánh sáng - IC: Index Catalogue - NGC: New General Catatalogue - UGC: Uppsala General Catalogue - PGC: Principal Galaxies Catalogue - DDO: David Dunlap Observatory (còn gọi là Catalogue of Dwarf Galaxies) - ESO: European Southern Observatory Tham khảo từ:
Lỗ đen siêu nặng lớn lên nhờ nuốt các sao gần
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=483:lo-den-sieu-nang-lon-len-nho-nuot-cac-sao-gan&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Hầu hết các thiên hà, trong đó có Milky Way (thiên hà của chúng ta), có một lỗ đen siêu nặng tại trung tâm của nó với khối lượng hàng triệu lần khối lượng của Mặt Trời. Nhưng làm cách nào mà các lỗ đen này có thể lớn lên tới mức đó. Có giả thuyết cho rằng chúng đã được sinh ra như thế, cũng có giả thuyết đề xuất rằng chúng là sự hợp nhất của nhiều lỗ đen hoặc do cuốn lấy khí trong thiên hà.   Nghiên cứu mới thực hiện bởi các nhà thiên văn hoạc tại đại hịc Utah và trung tâm vật lý thiên văn Havard-Smithsonian (CfA) cho thấy các lỗ đen siêu nặng có thể lớn lên bằng cách tách rời các cặp sao đôi và sau đó nuốt chửng một trong số chúng. Scott Kenyon, nhà khoa học tại CfA cho biết "Các lỗ đen là những cỗ máy ăn rất hiệu quả. Chúng có thể tăng gấp đôi khối lượng trong vòng chưa tới một tỷ năm. Con số này có vẻ là thời gian rất dài đổi với con người, nhưng với tuổi thọ của thiên hà thì đây là một khoảng thời gian khá ngắn." "Tôi tin rằng đây là cơ chế chính cho sự lớn lên của các lỗ đen siêu nặng" - Benjamin Bromley tại đại học Utah bổ sung. Nghiên cứu này đã được công bố vào ngày 2 tháng 4 vừa qua trên tạp chí Astrophysics. Nghiên cứu này được thực hiện là nối tiếp của khám phá vào năm 2005 của nhóm nghiên cứu CfA do Warren Brown đứng đầu về các sao siêu tốc (hypervelocity star) - các ngôi sao bị ném văng ra xa khỏi trung tâm thiên hà bởi lực hấp dẫn và đang chuyển động đủ nhanh để thoát khỏi Milky Way. Các sao siêu tốc khởi nguồn từ các cặp sao kép (sao đôi vật lý) nằm ở quá gần lỗ đen trung tâm thiên hà. Lực hấp dẫn từ lỗ đen trung tâmtacs động lên hệ sao không đều nên nó cuốn lấy một sao và đẩy văng sao còn lại ra phía xa trung tâm của thiên hà. Ngôi sao bị giữ lại sau đó sẽ trở thành thức ăn cho con quái vật khổng lồ này. "Chúng tôi quan sát cùng lúc nhiều sao siêu tốc và các bằng chứng khác, và tìm ra rằng tỷ lệ các sao kép gần tâm thiên hà trở thành đối tượng của lỗ đen siêu nặng cho thấy phần lớn khối lượng của lỗ đen này đến từ các cặp sao kép", Bromley nói. "Chúng tôi ước tác động dạng này cho lỗ đen siêu nặng ở các thiên hà khác và thấy rằng chúng thậm chí có thể lớn tới khối lượng hàng tỷ lần Mặt Trời bằng cách này" Có tới một nửa số sao trong Milky Way cũng như các thiên hà khác là sao kép, vì vậy việc này xảy ra thường xuyên ở các thiên hà. Nghiên cứu mới theo dõi từng bước một trong quá trình lớn lên của lỗ đen siêu nặng khi chúng nuốt lấy các sao, và tính toán sao cho các quá trình này khớp với quan sát thực tế. Mô phỏng của họ dự đoán chính xác tỷ lệ xuất hiện sao siêu tốc (mỗi chu kì từ 1.000 đêbs 100.000 năm). Lý thuyết cũng phù hợp với tính gián đoạn của sóng quan sát được ở các thiên hà khác khi có một ngôi sao bị xé rách và cuốn vào trong lỗ đen siêu nặng. Lý thuyết của họ cho thấy lỗ đen siêu nặng của Milky Way đã tăng khối lượng gấp 2 hoặc 4 lần trong vòng 5 tới 10 tỷ năm qua nhờ "ăn thịt" các ngôi sao. "Khi chúng tôi cố gắng quan sát xem các sao làm thế nào tập trung lại ở trung tâm thiên hà của chúng ta, rõ ràng rằng phần lớn khối lượng của lỗ đen siêu nặng dường như đến từ các cặp sao kép đã bị tách rời", Bromley nói. (theo Space Daily)  
10 năm qua với thiên văn học thế giới
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=475:10-nam-qua-voi-thien-van-hoc-the-gioi&amp;catid=32&amp;Itemid=189
Đây là bài viết trích từ cuốn kỷ yếu mang tên "10 năm Thiên văn học Việt Nam" đã được chúng tôi giới thiệu vào hội thảo thiên văn học ngày 25 tháng 3 vừa qua. Bài viết của tác giả Trần Thanh Hải, thành viên CLB Thiên văn học trẻ Việt Nam (VACA) với nội dung tổng kết những sự kiện lớn của thiên văn học thế giới trong 10 năm hoạt động vừa qua của VACA.     Bài viết có bổ sung một số hình ảnh so với bản in trong cuốn kỷ yếu. Do bài viết mang một vài nét nhận định cá nhân nên chúng tôi đặt nó trong mục "Bài viết/Ý kiến" thay vì mục "Kiến thức" như nhiều bài viết khác. Độc giả cũng có thể download đầy đủ bản pdf của toàn bộ cuốn sách "10 năm thiên văn học Việt Nam" bằng cách ------------------------------------------------- Với thế giới, thiên văn học đã phát triển rất lâu rồi. Với Việt Nam, sự xuất hiện của nó trong tri thức của mọi người mới ít năm gần đây, một trong những bước ngoặt lớn của môn khoa học này ở Việt Nam là sự ra đời của VACA vào 10 năm trước. 10 năm này cũng có thể tạm coi là một thập kỉ đầu tiên của thế kỉ 21. Trong khi ở Việt Nam có VACA và các câu lạc bộ, tổ chức thiên văn góp phần nâng cao tầm nhận thức của nhân dân về vũ trụ và bầu trời thì 10 năm này cũng là một quãng thời gian có sự phát triển ghê gớm của ngành nghiên cứu vũ trụ thế giới. Tôi xin điểm qua những thành tựu và sự kiện thiên văn học cơ bản của thế giới 10 năm qua trong bài viết ngắn này nhân dịp kỷ niệm 10 năm ngày thành lập VACA. Khám phá thiên văn nhất là với những kính thiên văn và thiết bị hiện đại ngày nay thì phải nói là rất nhiều, nhiều tới nỗi nếu vào các báo điện tử về tin thiên văn của thế giới thì chẳng ngày nào là không có tin mới, chẳng tuần nào không có khám phá mới. Dưới đây tôi chỉ liệt kê những sự kiện mà ít ra là theo cảm tính chủ quan của tôi là đáng ghi nhớ và có ý nghĩa nào đó với tiến trình phát triển của thiên văn và vũ trụ học thế giới. , năm đầu tiên VACA bắt đầu hoạt động. Sự kiện đáng chú ý nhất năm này của thiên văn học thế giới là việc phát hiện ra thiên thể được đặt tên Quaoar. Đây là một thiên thể nằm trên vành đai Kuiper, thuộc nhóm TNOs tức là nhóm các thiên thể được xác định có quĩ đạo xa hơn Sao Hải Vương. Quaoar được phát hiện bởi các nhà thiên văn tại viện công nghệ California. Do có kích thước tương đối lớn (khoảng hơn 1000km đường kính) nên nó được nhiều nhà thiên văn chú ý. Năm 2006 khi có qui ước mới về nhóm hành tinh lùn nhiều ý kiến đã đề nghị coi Quaoar là một hành tinh lùn, tuy vậy đề nghị này không được số đông chấp thuận. , thế giới đến tận bây giờ vẫn còn nhớ thảm họa xảy ra với tàu con thoi Columbia ngày 1 tháng 2. Trong chuyến trở về kết thúc nhiệm vụ của mình, một miếng cách nhiệt nhỏ bung ra đã va chạm mạnh làm vỡ lớp vỏ của khoang nhiên liệu chính làm nó không chịu nổi nhiệt độ do ma sát với khí quyển khi trở về Trái Đất. Vụ nổ đã lấy đi mạng sống của toàn bộ phi hành đoàn 7 người trên tàu. Cũng trong năm này, Trung Quốc phóng thành công tàu không gian đầu tiên đưa người lên vũ trụ. Dù sao, có lẽ với người Việt Nam ta thì sự kiện này thôi thì ... thây kệ các anh Trung Quốc.   là một năm có nhiều sự kiện đáng nhớ với thiên văn học thế giới. Trước hết là việc lần đầu tiên kính Hubble chụp ảnh được vũ trụ ở khoảng cách hơn 13 tỷ năm ánh sáng. Điều này có nghĩa là những thiên hà mà người ta có thể nhìn thấy mờ nhạt trong hình đang ở giai đoạn chỉ vài trăm triệu năm sau khi vụ nổ big bang hình thành vũ trụ. Một sự kiện đáng chú ý khác là 2 thiết bị tự hành của NASA tên là Spirit và Opportunity đã đáp xuống Sao Hỏa trong năm 2004 này và đến nay chúng là những thiết bị thành công nhất mà loài người từng có trên Sao Hỏa với rất nhiều ảnh chụp và phân tích các mẫu đất đá trên bề mặt của hành tinh đỏ. Một sự kiện khác là tháng 6 năm 2004, một nhà du hành không chuyên là Mike Melvill đã trở thành người đầu tiên bay lên không gian trong một chuyến bay tư nhân. Sự kiện này đã trở thành một trong những bước ngoặt lớn của lịch sử du hành không gian. đánh dấu trước tiên bởi bức ảnh đầu tiên của con người chụp bề mặt vệ tinh Titan, vệ tinh lớn và bí ẩn nhất của Sao Thổ. Bức ảnh được chụp bởi tàu không gian Huygens của ESA. Và cũng trong năm này, sự kiện thiên văn học lớn nhất của Việt Nam là "Ngày hội thiên văn Việt Nam" của VACA, đây là hội thảo thiên văn nghiệp dư đầu tiên trong lịch sử khoa học Việt Nam. được chú ý bởi sự ra đời của nhóm hành tinh lùn trong Hệ Mặt Trời. Xét thấy sự khác biệt về khối lượng và quĩ đạo của hành tinh thứ 9 là Sao Diêm Vương (Pluto), các nhà thiên văn trong hội nghị năm 2006 của IAU đã loại thiên thể này khỏi nhóm hành tinh và kết nạp nó vào nhóm hành tinh lùn cùng một vài thiên thể khác. Đây là nhóm thiên thể có quĩ đạo giống hành tinh nhưng có kích thước và khối lượng nằm giữa hai nhóm hành tinh và tiểu hành tinh. Thay đổi này làm các tài liệu thiên văn của nhân loại phải đính chính nhiều, tuy nhiên thực tế nó không ảnh hưởng đáng kể tới hiểu biết của con người chúng ta về vũ trụ. Cũng trong năm này, dự án WMAP (Wilkinson Microwave Anisotropy Probe) của NASA sau mấy năm chờ đợi đã mang về kết quả bằng bản đồ sóng vi ba của vũ trụ, cho phép dự đoán và kiểm chứng các mô hình về cấu trúc và tuổi vũ trụ. có lẽ là năm tẻ nhạt nhất về các phát hiện và các dự án liên quan đến thiên văn. Ngoài việc tàu không gian Phoenix được phóng tới Sao Hỏa thì chỉ có một điều nhỏ đáng chú ý nữa là đây là năm đã được chọn làm năm quốc tế về vật lý học Mặt Trời. , ngoài những sự kiện nhỏ như bức ảnh rõ nét đầu tiên về bề mặt Sao Thủy được tàu Messenger chụp được hay là tàu con thoi Atlantis được phóng lên ISS thì cái đáng quan tâm nhất với giới khoa học thế giới nói chung cũng như thiên văn học nói riêng là việc đưa vào hoạt động máy gia tốc lớn nhất trong lịch sử LHC (Large Hadron Collide). Việc sử dụng cỗ máy khổng lồ này cho phép các nhà khoa học nghiên cứu được rõ hơn phản ứng của các hạt khi va chạm ở tốc độ cao, thông qua đó có thể tìm thấy thêm manh mối về những quá trình trong vũ trụ như sự tạo thành các sao, các vụ nổ supernova, quá trình hút vật chất của các lỗ đen .v.v... , được chọn là năm thiên văn học quốc tế. Đáng ghi nhận nhất là việc triển khai chương trình tìm kiếm các hành tinh ngoài Trái Đất có khả năng cho phép sự sống mà công cụ chính là kính thiên văn không gia Kepler. Ngay trong cuối năm này, Kepler đã phát hiện hành tinh đầu tiên tiềm năng cho việc có tồn tại nước lỏng trên bề mặt của nó. Từ đó tới nay, tiếp tục có thêm nhiều hành tinh tiềm năng như vậy đã được phát hiện bởi chương trình này dù chưa có bất cứ cái nào trong số đó được quan sát đủ chi tiết để có thể khẳng định liệu có mộ cơ hội nào cho sự sống trên đó hay không. là những năm người ta liên tiếp nhận được tin tức về các quan sát của Kepler. Đến nay chương trình này đã xác định hơn 500 ngôi sao có tiềm năng cho sự tồn tại hành tinh dạng Trái Đất trên quĩ đạo quanh nó. Trong khi đó ngay gần Trái Đất, hành tinh đỏ luôn được đặt dấu hỏi về khả năng tồn tại của sự sống cũng đã hé lộ phần nào bí mật của mình. Rover Opportunity của NASA đã công bố bằng chứng đầu tiên khẳng định có sự tồn tại của nước trên Sao Hỏa. Có thể thấy rằng trong vài năm gần đây việc nghiên cứu không gian của con người, mà cụ thể là các tổ chức hàng đầu thế giới đi sâu vào các mũi nhọn nhiều hơn hẳn so với trước kia vốn vẫn có tính chất nghiên cứu tổng quát. Khi các cấu trúc từ lớn như thiên hà và siêu quần thiên hà tới nhỏ như Hệ Mặt Trời đã được tìm hiểu khá rõ ràng thì người ta dành nhiều sự đầu tư hơn cho những nghiên cứu không chỉ vượt không gian mà còn vượt cả thời gian. Đấy là quá khứ của vũ trụ, nguồn gốc sự tạo thành các thiên hà, sao, hành tinh và sự sống. Đấy là tương lai của chúng ta khi hướng về những thế giới mới xa xôi, giống như trong các truyện và phim viễn tưởng người ta vẫn tới các hành tinh xa lạ và chiêm ngưỡng sự kì lạ của nó. Trong thời điểm của sự phát triển cực kì nhanh các nghiên cứu vũ trụ như vậy, VACA đã ra đời tại Việt Nam vào năm 2002 có lẽ là rất đúng lúc, có thể là hơi muộn nhưng cũng đủ để góp công lớn vào thay đổi tư duy nhận thức của nhân dân ta về khoa học thiên văn. Nhân dịp kỷ niệm 10 năm này, tôi muốn cám ơn VACA vì tất cả những đóng góp âm thầm cho khoa học nước nhà, tôi cũng là một trong các trí thức trẻ đã có cơ hội học hỏi và trao đổi những mối quan tâm của mình khi mà thế hệ những người đầu 8x trở về trước chúng tôi không hề được dạy ngày còn đi học. (Vui lòng ghĩ rõ tên tác giả và nguồn trích dẫn Thienvanvietnam.org khi bạn sử dụng lại bài viết này)
Perseids 2016: bùng nổ sao băng
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=1072:perseids-2016-bung-no-sao-bang&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Perseids, một trong hai trận mưa sao băng lớn nhất hàng năm, sẽ đạt cực điểm vào rạng sáng ngày 12 tháng 8 tới đây. Đặc biệt hơn mọi năm, rất, rất có thể năm nay chúng ta sẽ được chứng kiến một cuộc bùng nổ bất thường của hiện tượng này với mật độ sao băng gấp đôi thông thường.     Mưa sao băng Perseids là hiện tượng diễn ra vào tháng 8 hàng năm với cực điểm rơi vào khoảng rạng sáng ngày 12, 13. Các sao băng của nó là những mảnh vụn còn sót lại khi sao chổi 109P/Swift-Tuttle tiến về phía Mặt Trời. Nhiều năm qua, đây luôn là hiện tượng đáng chú ý đối với người yêu thích quan sát bầu trời đêm, một trong hai mưa sao băng lớn nhất trong năm cùng với Geminids. Riêng năm nay, Perseids chắc chắn là mưa sao băng lớn nhất của năm với số lượng sao băng tăng vọt - một cuộc bùng nổ như dự đoán của các nhà thiên văn.   Theo Bill Cooke, người đứng đầu cơ quan nghiên cứu thiên thạch của NASA thì mỗi khi tới gần Mặt Trời, sao chổi Swift-Tuttle để lại một dải dài chứa rất nhiều mảnh vụn (các thiên thạch) nhỏ, gọi là các dòng thiên thạch. Theo thời gian, dưới tác động của lực hấp dẫn từ Sao Mộc và các hành tinh khí khổng lồ khác (Sao Thổ, Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương - nhưng chủ yếu vẫn là Sao Mộc), quĩ đạo của các mảnh vụn này bị thay đổi và khoảng cách gần nhất của chúng với Trái Đất hàng năm do đó không cố định. Nếu sự thay đổi một cách ngẫu nhiên làm cho dòng thiên thạch hướng thẳng vào quĩ đạo Trái Đất, số lượng thiên thạch đi vào khí quyển của chúng ta khi Trái Đất đi qua vùng quĩ đạo này sẽ tăng lên rất nhiều so với mọi khi. Năm nay (2016) là một năm như vậy. Theo dự kiến, mật độ sao băng của Perseids năm nay sẽ tăng gấp đôi so với cực điểm mọi năm. Vào khoảng thời gian cực điểm, Perseids năm nay cho phép bạn có thể quan sát tới 200 sao băng mỗi giờ!   Cực điểm vụ bùng nổ sao băng sẽ rơi vào đêm 11, rạng sáng ngày 12 tháng 8. Mặt Trăng sẽ lặn vào khoảng ngay giữa đêm (0 giờ) và cũng thời điểm này chòm sao Perseus (trung tâm của mưa sao băng Perseids) mới vừa mọc lên ở bầu trời phía Đông. Do vậy thời điểm thực sự lý tưởng để bạn quan sát hiện tượng sẽ là từ khoảng 1h00 cho tới trước khi Mặt Trời mọc ngày 12 tháng 8. Tất nhiên, cũng như những mưa sao băng khác, Perseids không chỉ diễn ra trong một đêm nên bạn vẫn có thể quan sát thấy nhiều sao băng của nó vào đêm trước và sau thời điểm này. Vào thời điểm nêu trên, hãy nhìn về bầu trời phía Đông và tìm chòm sao Perseus như hình ảnh dưới đây. Trên thực tế, nếu bạn không phải người quen với việc quan sát và xác định các chòm sao thì chỉ đơn giản là nhìn lên bầu trời phía Đông ở góc thấp (hơn 20 độ) so với chân trời vào lúc bắt đầu quan sát và lên cao dần khi gần sáng hơn. Đơn giản hơn nữa, nếu có một chiếc ghế dài để ngả lưng, hãy làm sao để mắt bạn luôn hướng về bầu trời phía Đông, và kiên nhẫn chờ đợi.   Hãy lưu ý những điểm dưới đây 1- Bạn cần theo dõi tình hình thời tiết. Nếu trời có mây mù hay mưa thì không có bất cứ hi vọng nào. Nếu không mưa, để kiểm tra một cách tốt nhất, trước thời điểm quan sát vài phút hãy ra nơi bạn định quan sát và nhìn lên bầu trời phía Đông từ 2 đến 3 phút để mắt bạn quen với bóng tối. Nếu bạn có thể thấy khá nhiều các ngôi sao trên bầu trời thì tức là bạn chắc chắn thấy được sao băng. 2- Bạn không cần ống nhòm hay kính thiên văn hoặc bất cứ dụng cụ nào để nhìn thấy sao băng. Mắt thường chính là cách quan sát tốt nhất. 3- Hãy kiên nhẫn! Dù đây là một vụ bùng nổ, không có nghĩa là nó giống như ...pháo hoa như nhiều người tưởng. 200 sao băng mỗi giờ đối với những khu vực không khí trong nhất và còn khoảng một nửa đối với các đô thị, có nghĩa là trung bình là trên 30 giây bạn mới thấy một sao băng, có lúc dày đặc hơn và cùng có lúc phài đợi nhiều phút. 4- Hãy chọn góc nhìn rộng hướng về phía Đông và tư thế nằm hoặc ngồi dễ chịu nhất vì bạn sẽ không muốn đứng ở tư thế ngửa mặt lên trời hàng giờ liền. Những khu vực có quá nhiều ánh đèn đô thị hay khói bụi từ các công trường sẽ gặp nhiều cản trở hơn đối với việc quan sát. 5- Nếu muốn chụp ảnh một sao băng bất kỳ, bạn cần có máy ảnh có chế độ phơi sáng, đặt thời gian phơi sáng tối thiểu 30 giây. Và ngay cả như vậy thì việc chụp được một bức ảnh sao băng cũng vẫn khá may rủi. 6- Đừng quên chú ý bảo vệ sức khoẻ và các vấn đề an ninh khi bạn quan sát ngoài trời vào sau nửa đêm. Chúc bạn may mắn! Chủ tịch Hội thiên văn học trẻ Việt Nam (VACA) Tham khảo: NASA, Earthsky Đọc thêm:
Sự tương đồng của hệ hành tinh xa với chúng ta
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=562:su-tuong-dong-cua-he-hanh-tinh-xa-voi-chung-ta&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Hệ Mặt Trời của chúng ta có một sự sắp xếp có trật tự một cách đáng kinh ngạc: Tám hành tinh quay quanh Mặt Trời giống như các vận động viên chạy trên đường đua theo vòng tròn trong những đường chạy của họ và luôn ở trong cùng một mặt phẳng. Ngược lại, hầu hết các hành tinh ngoài Hệ Mặt Trời được phát hiện trong những năm gần đây – đặc biệt là các hành tinh khổng lồ với cái tên “Sao Mộc nóng” – có các quỹ đạo đặc biệt hơn nhiều. Hiện nay, các nghiên cứu tại MIT, Đại học California Santa Cruz và các học viện khác đã phát hiện ra hệ hành tinh đầu tiên, cách chúng ta 10000 năm ánh sáng, với các quỹ đạo được sắp xếp trật tự giống như Hệ Mặt Trời của chúng ta. Tại trung tâm của hệ thống xa xôi này là Kepler-30, một ngôi sao sáng và khổng lồ giống Mặt Trời. Sau khi phân tích các dữ liệu từ Kính thiên văn không gian Kepler của NASA, các nhà khoa học tại MIT đã phát hiện ra ngôi sao này – giống như Mặt Trời – quay quanh một trục thẳng đứng và ba hành tinh của nó có các quỹ đạo đồng phẳng. “Trong Hệ Mặt Trời của chúng ta, các quỹ đạo của các hành tinh song song với sự quay của Mặt Trời, điều này cho thấy có thể chúng đã được hình thành từ một đĩa quay,” theo phát biểu của Roberto Sanchis-Ojeda, sinh viên vật lý tốt nghiệp tại MIT, người dẫn đầu nhóm nghiên cứu. “Trong hệ thống này, chúng ta quan sát được hiện tượng tương tự.” Các phát hiện này, được công bố ngày 25/7 trong tạp chí Nature, có thể giúp giải thích nguồn gốc của một số hệ sao xa xôi trong khi mang lại hiểu biết mới về hệ hành tinh của chúng ta. “Phát hiện mới này chứng minh rằng Hệ Mặt Trời của chúng ta không phải một sự may mắn nào đó,” theo phát biểu của Josh Winn, giáo sư vậy lý tại MIT và đồng tác giả của công trình. “Việc sự quay của Mặt Trời thẳng hàng với quỹ đạo các hành tinh khác, đó có thể không phải một sự trùng hợp.” Đính chính lại về sự nghiêng quỹ  đạo Winn nói rằng phát hiện của nhóm có  thể kiểm chứng một giả thuyết gần đây về cách các "Sao Mộc nóng" được hình thành. Các thiên thể khổng lồ này có cái tên của chúng vì chúng ở cực gần các ngôi sao trắng nóng, hoàn thành một vòng quỹ đạo chỉ trong vài giờ hay vài ngày. Các quỹ đạo của các Sao Mộc nóng thường không có thứ tự, và các nhà khoa học nghĩ rằng sự mất trật tự đó có thể là một gợi ý về sự hình thành của chúng. Các quỹ đạo của chúng có thể đã bị lệch từ một giai đoạn rất sớm và rất dễ thay đổi trong quá trình hình thành một hệ hành tinh, trong khi một vài hành tinh lớn đã tới đủ gần để đẩy vài hành tinh khác ra khỏi hệ sao trong khi mang một vài hành tinh khác lại gần ngôi sao của chúng hơn. Gần đây, các nhà khoa học  đã xác định được một số hệ Sao Mộc nóng, tất cả đều có quỹ đạo lệch. Nhưng để thực sự chứng minh thuyết “gieo hành tinh” này, Winn nói các nhà nghiên cứu đã phải xác định một hệ "Sao Mộc không nóng", một hệ có các hành tinh quay ở khoảng cách xa hơn từ ngôi sao trung tâm. Nếu hệ này được sắp xếp giống Hệ Mặt Trời của chúng ta với không có sự nghiêng quỹ đạo nào, điều này sẽ mang lại bằng chứng là chỉ các hệ Sao Mộc nóng không thẳng hàng được tạo thành như một hệ quả của việc gieo hành tinh. Tìm thấy các vệt Mặt Trời ở  một mặt trời xa xôi Để trả lời câu hỏi hóc búa này, Sanchis-Ojeda đã nghiên cứu toàn bộ dữ liệu từ kính thiên văn không gian Kepler, một kính quan sát 150000 ngôi sao để tìm ra các hành tinh xa xôi. Ông tập trung vào Kepler-30, một hệ Sao Mộc không nóng với ba hành tinh, cả ba đều với quỹ đạo lớn hơn nhiều của một Sao Mộc nóng thông thường. Để đo sự thẳng hàng của ngôi sao, Sanchis-Ojeda đã nghiên cứu các vệt mặt trời của nó, các mảng tối trên bề mặt của các ngôi sao sáng như Mặt Trời. “Những mảng nhỏ màu đen này đi quanh ngôi sao khi nó quay,” Winn phát biểu. “Nếu chúng ta có thể chụp lại hình điều đó sẽ thật tuyệt, vì chúng ta sẽ có thể thấy chính xác cách ngôi sao quay bằng cách đi theo các mảng này.” Nhưng các ngôi sao như Kepler-30 là cực kì xa xôi, vì vậy chụp lại một bức hình của nó gần như là bất khả thi. Cách duy nhất để theo dõi những ngôi sao như vậy là đo từng lượng ánh sáng nhỏ chúng truyền đi. Vậy nên nhóm nghiên cứu đa tìm cách để dõi theo các vệt mặt trời sử dụng ánh sáng của những ngôi sao này. Mỗi lần một hành tinh đi ngang qua – hay đi trước mặt – một ngôi sao như vậy, nó sẽ chắn một ít ánh sáng, và các nhà thiên văn học có thể phát hiện điều này qua một sự suy giảm trong cường độ ánh sáng. Nếu một hành tinh đi ngang qua một vệt mặt trời tối, lượng ánh sáng bị chắn sẽ giảm, tạo nên một sự thay đổi rõ rệt trong dữ liệu. “Nếu bạn có một tín hiệu của một vệt mặt trời, lần tiếp theo hành tinh quay, vệt này sẽ có thể di chuyển tới nơi khác, và bạn sẽ nhận được tín hiệu ở đó,” Winn nói. “Vậy nên việc đo khoảng thời gian giữa các tín hiệu này là cách chúng tôi xác định sự thẳng hàng của ngôi sao.” Từ các tín hiệu của dữ liệu, Sanchis-Ojeda kết luận rằng Kepler-30 quay quanh một trục vuông góc với mặt phẳng quỹ đạo của hành tinh lớn nhất của nó. Các nhà khoa học sau đó đã xác định được sự thằng hàng của quỹ đạo các hành tinh bằng cách giải bài toán về hiệu ứng trọng lực của các hành tinh lên lẫn nhau. Bằng sự khác nhau giữa các khoảng thời gian các hành tinh đi ngang qua ngôi sao, nhóm đã dựng lên cấu trúc quỹ đạo của chúng, và chứng minh được cả ba hành tinh thẳng hàng trên cùng một mặt phẳng. Cấu trúc hành tinh tổng thể, theo nghiên cứu của Sanchis-Ojeda, khá giống với Hệ Mặt Trời. James Lloyd, trợ lí giáo sư thiên văn học tại Đại học Cornell, người không thuộc nhóm nghiên cứu, nói rằng các khám phá mới về quỹ đạo hành tinh có thể giải thích cách sự sống hình thành trong vũ trụ - vì để có một khí hậu ổn định thích hợp cho sự sống, một hành tinh phải có một quỹ đạo thích hợp. “Để hiểu sự sống có thường gặp trong vũ trụ hay không, chúng ta cần phải hiểu các hệ sao ổn định có thường gặp hay không,” Lloyd phát biểu. “Chúng ta có thể dựa vào các hệ hành tinh ngoài Mặt Trời để giải câu hỏi của Hệ Mặt Trời, và ngược lại.” Các kết quả từ nghiên cứu đầu tiên về  sự thằng hàng của một hệ Sao Mộc không nóng này gợi ý rằng các hệ Sao Mộc nóng có  thể đã hình thành từ sự gieo hành tinh. Để chắc chắn hơn nữa, Winn nói ông và các đồng nghiệp sẽ đo đạc quỹ đạo của các Hệ  Mặt Trời xa xôi khác. “Chúng tôi đã chờ một hệ như thế này từ lâu, một hệ không giống hệt Hệ Mặt Trời, nhưng ít ra việc các hành tinh và ngôi sao thẳng hàng với nhau cũng là một hiện tượng bình thường hơn,” Winn nói. “Đây là trường hợp đầu tiên chúng tôi có thể khẳng định hiện tượng ấy, ngoài Hệ Mặt Trời.” Theo Science Daily
Có gì ở Mặt Trăng đêm Trung thu 27/9?
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=920:co-gi-o-mat-trang-dem-trung-thu-279&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Gần đây, nhiều tờ báo và phương tiện tuyên truyền thông tin về việc đêm Trung thu này (đêm 27/09), chúng ta sẽ có cơ hội quan sát nguyệt thực toàn phần kết hợp với "siêu trăng", và thậm chí còn đặt cho nó một tên gọi là "siêu Trăng máu". Điều này đã gây chú ý của rất nhiều độc giả quan tâm. Trên thực tế, chúng ta không thể quan sát được nguyệt thực lần này. Còn hiện tượng gọi là "siêu Trăng", về bản chất cũng không phải một điều kì thú như nhiều người tưởng tượng. Dưới đây là một số khuyến cáo mà VACA muốn gửi tới độc giả yêu thích thiên văn học: Trước hết, xin lưu ý là nguyệt thực lần này không hề diễn ra vào đêm Trung thu của chúng ta (27/09), mà diễn ra vào khoảng từ 7h11 đến 12h22 (nếu tính cả pha nửa tối) sáng ngày 28/09 theo giờ Việt Nam. Đó là buổi sáng của chúng ta, nên tất nhiên chúng ta không thể quan sát được. Nguyệt thực này chỉ có thể được quan sát tại châu Mỹ, châu Âu, châu Phi và Trung Đông. : hiện nay rất nhiều người hiểu sai rằng nguyệt thực toàn phần còn có tên gọi là " ". Đây là cách hiểu sai! Nhiều báo chí và độc giả hiểu nhầm khi nghe cụm từ này và cho rằng tên gọi đó xuất phát từ màu đỏ của Mặt Trăng khi có nguyệt thực. Nhưng thực ra thì nguyệt thực bao giờ Mặt Trăng cũng đỏ như nhau cả, và thuật ngữ này không hề dùng để chỉ chung hiện tượng nguyệt thực. Thuật ngữ "Mặt Trăng máu" xuất phát từ Thiên Chúa giáo cho biết đó là điềm báo của ngày tận thế. Tuy nhiên, như đã nói, Mặt Trăng thường xuyên có màu đỏ như máu vào mọi lần nguyệt thực, nên "điềm báo" này không có tác dụng trong nhận thức của nhân loại. Cho tới đầu thế kỉ 21, hai linh mục là John Hagee and Mark Biltz bắt đầu tuyên truyền rằng điềm báo thực sự xảy ra khi có một bộ bốn nguyệt thực toàn phần liên tiếp, mỗi lần cách nhau đúng 6 tuần trăng. Tuyên bố này của họ trùng với 4 nguyệt thực trong thời điểm này. Ba lần nguyệt thực trước đã xảy ra lần lượt vào ngày 15/04/2014, 08/10/2014 và 04/04/2015; lần 28/09 tới đây là lần cuối cùng. Như vậy, về mặt tên gọi khi tạm bỏ qua tính chính xác của khoa học thì nguyệt thực tới đây (mà như chúng ta biết không quan sát được tại Việt Nam) được gọi là "Mặt Trăng máu" cũng không sai. Tuy nhiên xin khuyến cáo để bạn đọc được rõ rằng, sau lần này những nguyệt thực khác không thể được gọi bằng cái tên đó. Siêu Trăng là gì? Khái niệm này vốn không phải một thuật ngữ chính thống trong thiên văn học, tuy nhiên do được sử dụng nhiều nên về cơ bản nó được chấp nhận. Dù vậy cái tên khá là ..."kêu" của nó khiến nhiều người đặt hơi nhiều kì vọng vào hiện tượng này. Do Mặt Trăng chuyển động trên quĩ đạo có dạng elip quanh Trái Đất, nên khoảng cách của nó tới Trái Đất không phải là cố định. Điểm xa nhất gọi là viễn điểm và điểm gần nhất gọi là cận điểm. Nếu Mặt Trăng đi tới cận điểm của quĩ đạo trùng hoặc gần trung (chênh lệch một vài giờ) với điểm không Trăng hoặc điểm Trăng tròn thì khi đó người ta gọi nó là "siêu Trăng". (Cũng xin lưu ý rõ là thời điểm Trăng tròn là một điểm cụ thể khi đĩa sáng Mặt Trăng tròn hoàn hảo nhất, nó không đồng nghĩa với đêm 15 âm lịch) Tất nhiên, nếu siêu Trăng rơi vào thời điểm không Trăng thì bằng mắt thường chúng ta không quan sát được và như vậy nó không có ý nghĩa gì với người quan sát nghiệp dư. Do đó người ta chỉ quan tâm tới siêu Trăng lúc Trăng tròn. Lần siêu Trăng sắp tới sẽ diễn ra một cách tương đối chính xác là khoảng 9-10h sáng ngày 28/09. Có nghĩa là đúng thời điểm này thì chúng ta cũng không quan sát được. Tất nhiên, nếu bạn quan sát vào đêm Trung thu, tức là đêm 27/09 thì Mặt Trăng đúng là có lớn và sáng hơn bình thường. Dù vậy, hãy đừng nên đặt nhiều kì vọng vì ngay cả khi điểm được coi là siêu Trăng rơi vào nửa đêm thì đĩa sáng Mặt Trăng cũng chỉ lớn hơn khoảng 14%, khó nhận ra bằng mắt thường nếu Mặt Trăng đang ở trên cao. Mặt khác, riêng đối với các thành phố lớn có mức độ ô nhiễm khí quyển rất cao, trong đó một phần đáng kể là ô nhiễm ánh sáng, thì việc Mặt Trăng sáng hơn cũng không gây ra khác biệt nào đáng kể khi quan sát. Như vậy, việc cho rằng đêm Trung thu 27/09 này có siêu Trăng cũng không sai, và tất nhiên như tôi có trả lời câu hỏi của nhiều người thì quan sát nó rất an toàn dù bằng mắt hay qua thiết bị nào, vì thực tế cái mà bạn quan sát vẫn chỉ là Trăng tròn mà thôi. Ngày 26 tháng 09 năm 2015 Chủ tịch Hội thiên văn học trẻ Việt Nam - VACA
Vết đen Mặt Trời tăng gấp đôi kích thước
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=426:vet-den-mat-troi-tang-gap-doi-kich-thuoc&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Khu vực vết đen gần đây nhất đang chuyển động về phía trước của Mặt Trời đã tăng kích thước lên gấp 2 lần và đang hướng về phía Trái Đất. Điều này có thể thấy rõ trong bức hình bên dưới của đài quan sát hoạt động Mặt Trời của NASA. Đây là ngày thứ hai liên tiếp vết đen được quan sát thấy đang lớn dần. Theo SpaceWeather.com, khu vực 1416 đang hoạt đôgj trên Mặt Trời có năng lượng từ để có thể tạo ra những quầng lửa cỡ trung bình (M-class flare (m = medium)) về hướng của chúng ta. Hình dưới là hình ảnh chuyển động ghép liên tiếp các hình chụp trong mấy ngày qua của đài quan sát hoạt động Mặt Trời của NASA, nó cho thấy vết đen đã không ngừng lớn thêm. Hiện tượng này có thể gây ra những cơn bão vô tuyến nhỏ và gây rắc rối cho hệ thống vô tuyến trên Trái Đất nhất là ở vùng cực. Nếu các quầng lửa nêu trên được giải phóng trong 24 giờ tới thì đầu tuần sau những người ở vĩ độ cao (gần cực) sẽ được thấy sự xuất hiện mạnh mẽ của cực quang. (Nguồn: Universe Today)
Ngày tận thế
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=101&amp;Itemid=178
  Đó là một ngày bình thường như mọi ngày, chẳng có gì khác biệt so với ngày hôm qua hay là ngày mai. Tại đó bỗng các tiểu hành tinh của Mặt Trời bắt đầu tấn công Trái Đất từ mọi phía. Mọi việc ngày càng trở nên tồi tệ. Rồi một thiên thạch to hơn cả Texas xuất hiện (dù cư dân Texas có thể phản đối điều này). Harry Stamper bước lên gánh lấy trách nhiệm với thế giới. Anh ta cùng các bạn của mình ra ngoài để phá hủy các tiểu hành tinh đang đe dọa Trái Đất, như giai điệu du dương trong bài hát "I don't want to miss a thing" của Aerosmith. Con người bị mê hoặc bởi việc làm thế nào mà thế giới có thể kết thúc. Bằng chứng của vấn đề này là một số lượng rất lớn các bộ phim nói về sự kết thúc của thế giới. Chỉ trong buổi trình chiếu cuối tuần mà bộ phim Ngày tận thế đã thu lại những 36,1 triệu đô la. Phim Zombie cũng là một tác phẩm nổi tiếng với ý tưởng về những xác chết di chuyển. Những phim gần đây như Dawn of the Dead hay Resident Evil cũng thu lại những số tiền khổng lồ tương ứng là 58 và 106 triệ đô la. Từ thiên thạch hủy diệt tới sự kết thúc của lịch Mayan, rồi cho tới những lời sấm truyền trong kinh thánh, ngày tận thế của Trái Đất đã được đưa ra màn bạc rất nhiều lần, nhưng đâu thật sự là khả năng thực sự của một thiên thạch hủy diệt? Những ngày tháng lờ mờ về sự hủy diệt hiện ra trong một tương lai không xa, khi lịch của người Mayan kết thúc vào tháng 12 năm 2012, rồi còn một tiểu hành tinh sẽ lao qua quĩ đạo Trái Đất vào năm 2029. Năm 2029 một tiểu hành tinh mang tên 2004 MN4  sẽ nằm ở vị trí cách Trái Đất 18.600 dặm. Nó sẽ bay qua vùng giữa Trái Đất và Mặt Trăng, cho biết của giáo sư John S. Lewis tại đại học Arizona. Tiểu hành tinh 2004 MN4  sẽ gần TRái Đất hơn cả các vệ tinh của chúng ta, nó đủ gần để có thể bị hấp dẫn của Trái Đất kéo lại và va chạm với hành tinh của chúng ta. Kích thước chính xác của tiểu hành tinh này rất khó xác định trực tiếp. Tuy nhiên có thể biết một cách tương đối về nó qua độ sáng của nó, Lewis nói. Có khoảng 1200 tiểu hành tinh đã đến gần Trái Đất hay thậm chí là đi qua quĩ đạo Trái Đất. Cứ khoảng 1 triệu năm lại có một tiểu hành tinh có thể va chạm với Trái Đất. Chúng rất đa dạng, có thể là một khối thép, cũng có thể là đất sét hay một số khoáng chất khác, tốc độ của chúng vào khoảng 25-30km/s. Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể cứu được tương lai, quĩ đạo của một tiểu hành tinh có thể bị thay đổi nếu tạo ra một vụ nổ hạt nhân ở một phía của nó. Việc thay đổi đường chuyển động trên quĩ đạo sẽ tránh được việc tiểu hành tinh va chạm với Trái Đất. Gần hơn rất nhiều sự kiện tiểu hành tinh năm 2029, lịch của người Mayan kết thúc báo trước sự kết thúc của thế giới sẽ diễn ra vào ngày 21 tháng 12 năm 2012. Tức là chúng ta chỉ còn 5 năm nữa. Nhà nghiên cứu lịch Mayan John Major Jenkins cho biết lịch là phần quan trọng nhất trong văn hóa Mayan. Ông đã viết nhiều sách như Maya Cosmogenesis 2012: Ý nghĩa ngày cuối cùng của lịch Mayan và Sự thẳng hàng của thiên hà: Sự biến đổi ý thức trong văn hóa Mayan, Ai Cập. Tuy nhiên, Jenkins cho biết điều này có thể lí giải được. Trong một thời đại của bóng tối tinh thần, các tác giả lịch có thể dự báo một ngày tận thế vào năm 2012 trong khi đang sợ hãi. "Sự khẳng định chi tiết về tương lai là không thể giải đáp được" Jenkins nói. "Sự tiết lộ của Jesus Christ, qua đó Đức Chúa truyền lời đến những bề tôi của mình, lời của Chúa được truyền đi và đưa đến cho thiên thần của Chúa là thánh John" Đó là câu đầu tiên trong cuốn Book of Revelations, tập cuối cùng của kinh tân ước, cuốn sách mô tả sự tận cùng của thế giới trong kinh thánh. Cuốn sách giống như một sách giáo khoa mô tả lại thế giới. Trong đó mô tả những nỗi đau đớn của loài người ở thời điểm cuối, và chỉ có những tín đồ trung thành mới sống sót và sẵn sàng lên thiên đường. Cụm từ "The End of the world" được hiểu theo cách hiểu của mội người. Có người hiểu đó là sự kết thúc của văn minh nhân loại, có người hiểu đó là kết thúc của cả hành tinh. Và mỗi chúng ta đều có thể hiểu theo cách riêng của mình.
Hà Nội: Đào tạo Thạc sỹ Công nghệ Vũ trụ
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=729:ha-noi-dao-tao-thac-sy-cong-nghe-vu-tru&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Để thực hiện “Chiến lược nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ đến năm 2020” do nhà nước ta đặt ra, bên cạnh việc tập trung phát triển cơ sở hạ tầng, điển hình là Dự án xây dựng Trung tâm Vũ trụ Việt Nam, nhu cầu cấp thiết hiện nay là cần có đội ngũ nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực khoa học vũ trụ. Do đó, năm 2012 trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội đã quyết định thành lập Khoa Vũ trụ và Ứng dụng liên kết với các trường đại học của Pháp với nhiệm vụ đào tạo các nhà khoa học, các chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ vũ trụ. Toàn bộ chương trình được giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh với 80% giảng viên của Khoa là các giáo sư đến từ các trường Đại học của Pháp như Đại học Paris Diderot, Obervatoire de Paris, Đại học Montpellier 2 : 1. Khoa học Vũ trụ và Ứng dụng  (Space Sciences and Applications) 2. Kỹ sư vũ trụ (Space Engineering) Chương trình đào tạo Thạc sỹ ngành Vũ trụ và Ứng được thực hiện trong 2 năm và chia làm 4 học kỳ (mỗi học kỳ 30 tín chỉ). Tất cả các môn học sẽ được giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh, ngoài ra học viên được học ngoại ngữ 2 là tiếng Pháp. (Giao lưu với Giám đốc NASA) Trong năm học thứ 2, học viên có thành tích học tập xuất sắc sẽ có cơ hội nhận học bổng toàn phần cho chuyến đi thực tập kéo dài 6 tháng tại Pháp. Học viên sau khi tốt nghiệp sẽ được cấp bằng Thạc sỹ quốc tế được cấp bởi Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội và một trường Đại học liên kết của Pháp, được công nhận rộng rãi tại Việt Nam và trên thế giới. (Thực hành Quan sát thiên văn tại ĐH Sự phạm Hà Nội) Đặc biệt, sinh viên tốt nghiệp ngành Công nghệ Vũ trụ và Ứng dụng sẽ có cơ hội được làm việc tại Trung tâm Vệ tinh Quốc gia (VNSC). Theo như thỏa thuận giữa VNSC và Nhà trường được ký hồi cuối tháng 7 năm 2012 mỗi năm VNSC sẽ dành ít nhất 5 vị trí làm việc tại VNSC cho các sinh viên tốt nghiệp chương trình Thạc sỹ ngành Công nghệ Vũ trụ và Ứng dụng tại USTH. Ngoài ra, VNSC cũng tạo điều kiện để các sinh viên theo học chương trình Thạc sỹ ngành Vũ trụ và Ứng dụng được trực tiếp tham gia thực tập, nghiên cứu và làm đề tài tại VNSC trong quá trình học. Những học viên có nguyện vọng học tiếp sẽ được giới thiệu tham gia Chương trình 400 Tiến sỹ làm giảng viên-nghiên cứu cho USTH đi làm tiến sỹ tại Pháp trong 3 năm. Thí sinh qua sơ loại sẽ được phỏng vấn trực tiếp với hội đồng tuyển sinh quốc tế tại một trong 3 địa điểm: Hà Nội, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh. Các thông tin chi tiết về chương trình đào tạo, học bổng và các thông tin khác có thể tham khảo tại website của trường http://www.usth.edu.vn hoặc liên hệ trực tiếp qua địa chỉ: Địa chỉ:       Nhà 2H, số 18 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội Điện thoại: +84-4 37 91 77 47 (liên hệ Ms. Hà) Email:          Website:      (Thực hành tại Viện Khoa học và kỹ thuật hạt nhân) (Thăm quan Trung tâm viễn thám)
Đôi lời nhân dịp đầu xuân
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=778:doi-loi-nhan-dip-dau-xuan&amp;catid=21&amp;Itemid=136
Một năm lại qua đi và năm mới lại đến. Trong khi mỗi năm dương lịch tới chúng ta lại hiểu rằng Trái Đất vừa bắt đầu một hành trình mới trên quỹ đạo chuyển động quanh Mặt Trời thì mỗi năm âm lịch xác lập 12 chu kì của Mặt Trăng khi nó chuyển động quanh Trái Đất (13 chu kì đối với năm nhuận âm lịch). Nhân dịp năm mới, xin dành đôi lời chia sẻ cùng các độc giả của website Thiên văn Việt Nam. Kính thưa quí độc giả, Hội thiên văn học trẻ Việt Nam (VACA) được thành lập từ một ngày tháng ba năm 2002, với tiền thân là một câu lạc bộ của những người trẻ tuổi (đa phần là sinh viên các ngành khoa học, kĩ thuật), hoạt động dưới hình thức một diễn đàn nhỏ trên internet xen kẽ một số buổi họp mặt, thảo luận chuyên môn. Gần 12 năm trôi qua, VACA đã đạt được khong ít thành tựu trên con đường phổ biến kiến thức thiên văn tại Việt Nam. Hơn 10 năm trước, nhắc từ "thiên văn học" trước mặt một sinh viên ngành kĩ thuật, nhiều người còn chưa hình dung được đó là cái gì, số khác nhầm tưởng với khí tượng, dự báo thời tiết hay thậm chí tệ hơn là chiêm tinh, bói toán ... Ngày nay, thiên văn học đã được nhắc tới rộng rãi, tên và lịch trình các hiện tượng thiên văn như nhật thực, nguyệt thực, mưa sao băng, ... được đưa lên khắp các trang báo, được người người nhắc đến. Thông tin và kiến thức thiên văn học bằng tiếng Việt nếu như trước đây chỉ có những mảnh rời rạc trong vài ba chục cuốn sách cũ được xuất bản với số lượng hạn chế thì ngày nay có thể dễ dàng tìm thấy trên rất nhiều website hay chỉ đơn giản là một thao tác tìm kiếm đơn giản trên Google; ... Chúng tôi, những người đã và đang xây dựng VACA. tự hào vì đã đóng góp một phần không hề nhỏ vào toàn bộ công cuộc đó. Những gì mà VACA đã làm không được, và cũng không cần được, ghi nhận bởi những vinh quang hào nhoáng như huân chương, giấy khen, danh hiệu hay những sự kiện vang dội. Bản thân khoa học vốn giản dị như vậy, và vinh quang của người làm khoa học là ở tri thức và lương tri chứ chẳng lúc nào là những ánh hào quang đó... Đã có lần, có bạn trẻ hỏi tôi rằng tại sao tôi không đặt cho VACA hay cho bản thân mình mục tiêu phải được danh hiệu này, giải thưởng kia. Khi đó tôi chỉ cười, nhưng điều mà tôi đã luôn tâm niệm là: Nếu làm khoa học mà đặt việc người ta vinh danh mình là cái đích thì bản thân tôi đã chẳng còn là nhà khoa học nữa. Cũng có lần, một nhà khoa học lớn tuổi và cũng rất nhiều uy tín ở Việt Nam bảo tôi rằng tôi nên đi theo con đường nghiên cứu chuyên sâu, vì làm khoa học mà không nghiên cứu được cái gì, cứ đi làm anh thầy giáo thì tầm thường quá. Thực lòng, tôi vô cùng kính trọng nhà khoa học đó, ở một khía cạnh nào đó tôi cũng coi ông là thầy, và vì thế, tôi cũng chỉ cười. Trong suy nghĩ của tôi, ở Việt Nam, nếu chỉ nghiên cứu để thấy mình không "tầm thường" thì phải chăng là quá ích kỉ? Ở một đất nước mà trong khi thế giới đã đặt chân xuống đáy đại dương, lên tới Mặt Trăng và nhìn sâu vào cấu tạo của từng nguyên tử hàng chục năm nay thì người dân chúng ta vẫn xa lạ với khoa học, mê tín dị đoan vẫn tràn ngập khắp mọi nơi, người ta vẫn tin vào những lời mê hoặc chỉ bằng đôi ba cái uốn lưỡi của những kẻ trục lợi hơn là tin vào những thứ được thực nghiệm chứng minh ..., tôi thấy người làm khoa học có nhiệm vụ quan trọng hơn nhiều là thay đổi những nhận thức đó thông qua con đường giáo dục và phổ biến. Chúng ta đã có những cá nhân vang danh thế giới ư? Chúng ta đã có người được nhận Fields cao quí ư? Đáng tự hào lắm, đáng "vênh mặt" với thế giới lắm... Nhưng ... chẳng nghĩa lý gì nếu có tới 50 triệu người không cả biết Mặt Trời là một ngôi sao mà Trái Đất đang chuyển động quanh nó... Vậy nên, làm khoa học nói chung và thiên văn học nói riêng ở Việt Nam, tôi và các cộng sự của mình, chúng tôi chọn con đường của những người làm giáo dục! Nếu quan sát kĩ một chút thôi, chúng ta sẽ thấy rằng những năm gần đây, thông tin và kiến thức thiên văn tới được với người dân ngày càng nhiều, như tôi đã nhắc ở bên trên. Đó thực sự là điều hết sức đáng mừng. Thế những, sự phát triển nhận thức của chúng ta cho tới tận lúc này, xét theo khía cạnh nào đó, cũng giống như một đứa trẻ nhỏ. Sự phát triển cần được định hướng theo từng giai đoạn. Ở giai đoạn đầu tiên khi bắt đầu biết nhận thức thế giới, đứa trẻ được tự do tiếp thu bất cứ thông tin nào, miễn rằng về mặt tổng quát thì ... nó không sai. Lượng thông tin cứ tiếp tục nhiều lên và cho tới một ngày đứa trẻ sẽ phải chọn lọc chúng để biết những thông tin nào đúng và những thông tin nào chưa chính xác, phần nào cần giữ lại và phần nào cần loại bỏ. Nếu thát bại trong quá trình này vì thiếu sự hướng dẫn (mà chúng ta vẫn gọi là giáo dục) thì thế giới quan của đứa trẻ sẽ sai lạc, khiếm khuyết hay thậm chí là vô giá trị. Việc tiếp nhận kiến thức của một môn khoa học còn mới mẻ ở đất nước chúng ta cũng như vậy. Chúng ta đã có những năm để kiến thức được đưa tới khắp mọi người theo cái cách mà người ta để cho những đứa trẻ tự do tiếp nhận thông tin. Nhưng rồi, khi mọi thông tin và kiến thức đó đều đã trở nên phổ biến và dễ dàng, nếu không có sự định hướng và chọn lọc, nhiều người trong chúng ta sẽ tiếp nhận những thông tin sai, và thậm chí mất đi sự sáng suốt của mình. Trong một vài lần tổ chức quan sát các hiện tượng thiên văn, tôi có dịp thấy rất nhiều người, hầu hết là các bạn trẻ tới tham gia, và người ta lại nói với chúng tôi rằng đó là những tín hiệu thật tuyệt diệu. Tôi không hẳn phủ nhận điều đó, nhưng bên cạnh đó tôi lại nhận ra một điều đáng tiếc là: Hầu hết người ta chỉ mới coi thiên văn học là một trò chơi hay một hoạt động giải trí thú vị để đổi không khí. Xét theo một khía cạnh nào đó, chúng tôi vẫn may mắn với điều đó vì đã thông qua đó truyền tải được tri thức của mình tới nhiều người hơn. Nhưng trên hết, chúng tôi không có ý định để thiên văn học mãi là một thú vui của những người trẻ. Thiên văn học là một khoa học, mỗi khoa học đều vô cùng cần thiết với sự cấu thành một thế giới quan đầy đủ, một tư duy có trình tự, hơn thế nữa, chắc nhiều độc giả đã biết rằng thiên văn học là một khoa học không thể thiếu trong những tiện nghi chúng ta sử dụng ngày nay. Bản thân tôi, tác giả của bài viết này, vốn không học chuyên ngành về Vật lý hay Thiên văn học. Tôi say mê khoa học từ nhỏ và dù không theo nó theo cái cách mà xã hội hay gọi là "chính thống" nhưng tôi hiểu sâu sắc rằng để xây dựng một quốc gia vững mạnh, một xã hội đầy những đam mê và những con người sáng suốt thì việc đưa thế giới quan khoa học tới với mỗi người là không thể không làm. VACA khác với các tổ chức hoạt động trên cơ sở tìm kiếm lợi nhuận hay danh tiếng, cũng không phải một "sân chơi" cho những người thích ngắm bầu trời, chúng tôi xây dựng VACA để mang lại tri thức cho chính mình và cho mỗi người cần đến chúng. Trên con đường chẳng hề dễ dàng đó, chúng tôi đã có nhiều thành công nhưng cũng nhiều lần không được như mong muốn. Trên hết, để tồn tại và tiếp tục mục tiêu của mình tới ngay hôm nay, ngoài ý chí và đam mê vô tận của mỗi con người đang cùng chung sức xây dựng, chúng tôi không thể không cám ơn tất cả các quý độc giả, các bạn bè và đồng nghiệp đã luôn dõi theo và ủng hộ. Một năm mới lại đến và VACA sắp kỉ niệm 12 năm ngày thành lập, xin chúc quý độc giả một năm sức khỏe và tri thức cùng nhiều niềm vui trong cuộc sống và những đam mê trong công việc và học tập. Mong tiếp tục nhận được sự ủng hộ của quý độc giả trên những chặng đường tiếp theo của VACA. Ngày 30 tháng 01 năm 2014 Thay mặt VACA Chủ tịch
Hình ảnh hoạt động 4/6/2012
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=517:hinh-anh-hoat-dong-4-6-2012&amp;catid=34:hoat-dong&amp;Itemid=136
Đúng 18h00 tối ngày 4 tháng 6 năm 2012, khoảng 50 bạn trẻ đã có mặt tại công viên Yên Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội để tham gia buổi quan sát nguyệt thực và trao đổi kiến thức thiên văn do CLB Thiên văn học trẻ Việt Nam (VACA) tổ chức. Tuy nhiên với điều kiện trời khá nhiều mây, người tham gia chỉ ó thể tập trung chính vào hoạt động trao đổi và hỏi đáp kiến thức. Dưới đây là một số hình ảnh của hoạt động này   Thời điểm Mặt Trăng ló ra khỏi mây nhiều nhất ghi lại được VACA
VACA: Quan sát cuối tháng 5
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=881:vaca-quan-sat-cuoi-thang-5&amp;catid=21&amp;Itemid=136
Quan sát và ghi nhận những đặc điểm, ,chuyển động của bầu trời là cơ sở đầu tiên của việc hình thành và nghiên cứu thiên văn học. Với sự phát triển của khoa học và kĩ thuật nhiều thế kỷ qua, việc khảo sát các thiên thể và hiện tượng trong vũ trụ đã vượt ra ngoài phạm vi của các kính thiên văn dân dụng. Mặc dù vậy, để phục vụ mục tiêu phổ biến kiến thức của mình, VACA vẫn tiếp tục tổ chức hoạt động quan sát cho các hội viên. Giữa những ngày nắng nóng oi bức tháng năm, ban điều hành Hội thiên văn học trẻ Việt Nam (VACA) đã tổ chức buổi thực hành quan sát bầu trời qua kính thiên văn và thực hành sử dụng các dụng cụ quang học cho các hội viên trẻ. Để tránh khói bụi và ô nhiễm ánh sáng của khu vực trung tâm nội thành, VACA đã chọn địa điểm quan sát là bán đảo Linh Đàm. Mặc dù đường xa, giao thông không thuận lợi, nhiều bạn trẻ là học sinh, sinh viên vẫn không quản ngại khó khăn tới tham gia. Đối tượng quan sát chính của buổi tối này là Mặt Trăng, Sao Mộc và Sao Thổ. Buổi quan sát diễn ra vào thời điểm Trăng quá bán nguyệt, là điều kiện lý tưởng nhất để quan sát trong mỗi tuần trăng. Hai hành tinh lớn nhất Hệ Mặt Trời cũng có vị trí thuận lợi để có thể quan sát qua kính thiên văn. Ngoài việc quan sát hình ảnh của các thiên thể, các bạn trẻ còn tham gia chia sẻ kĩ năng và kinh nghiệm quan sát, cách xác định các chòm sao, ... và trực tiếp thực hành sử dụng kính thiên văn, ống nhòm, các ứng dụng di động liên quan, ... Mặc dù cái nóng gay gắt còn chưa tan hết, nhưng buổi quan sát đã mang lại nhiều kiến thức, kinh nghiệm và cả nhiều cảm hứng, như một luồng gió mới cho mỗi bạn trẻ để bắt đầu một mùa hè mới. Buổi quan sát này là một trong số những hoạt động được VACA thực hiện với mục tiêu đào tạo và bồi dưỡng thế hệ hội viên trẻ - những người đang và sẽ tiếp tục tham gia công cuộc giáo dục và phổ biến kiến thức thiên văn ở Việt Nam.
Mặt Trăng làm động đất đáng sợ hơn?
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=1102:mat-trang-lam-dong-dat-dang-so-hon&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Một trận động đất là hệ quả của sự dồn nén địa chất trong nhiều năm, đôi khi là hàng thập kỷ hay hàng thế kỷ. Ở một chỗ nào đó trên vết nứt gãy, đất đá không thể tiếp tục chịu đựng thêm sự dồn nén này gây ra hàng loạt dao động co thắt.   Những yếu tố quyết định địa điểm và thời gian động đất xảy ra là rất nhiều, và chúng ta sẽ còn mất nhiều thời gian mới tìm được cách để dự đoán được chúng một cách chính xác. Tuy nhiên, có một điều  đã được xác định là một trong số các yếu tố gây nên động đất đến từ ngoài Trái Đất. Trong một nghiên cứu công bố tuần trước trên Nature Geosciences (tạp chí Địa khoa học tự nhiên), một nhóm các nhà nghiên cứu Nhật Bản cho biết họ đã tìm ra mối tương quan về mặt thống kê giữa các đợt thuỷ triều mạnh và các trận động đất lớn. Thuỷ triều như chúng ta đều biết là hệ quả gây ra bởi lực hấp dẫn của Mặt Trăng. Khi Mặt Trăng chuyển động trên quĩ đạo quanh Trái Đất, nó kéo một lượng nước đi cùng nó, làm đại dương bị kéo về phía nó rồi lại bị đẩy ra. Không chỉ có đại dương bị di chuyển bởi Mặt Trăng mà cả đất liền cũng vậy. Lớp vỏ Trái Đất dịch chuyển khoảng 30cm mỗi ngày do chuyển động của Mặt Trăng, một hiện tượng chúng ta tạm gọi là "thạch triều" (sự dịch chuyển của thạch quyển). Sự uốn cong của lớp vỏ Trái Đất do tương tác hấp dẫn từ Mặt Trăng là một yếu tố quan trọng trong việc xác định các điểm mấu chốt có thể xảy ra nứt gãy. Khi Mặt Trăng tác động lên lớp vỏ Trái Đất, nó cung cấp thêm một lực không nhỏ để thúc đẩy sự đứt gãy và dao động của các lớp đá, qua đó gây ra động đất. Các nhà nghiên cứu cho viết nhiều trận động đất lớn trong những năm gần đây đã xảy ra vào thời điểm Trăng tròn hoặc không Trăng, đó là những lúc Trái Đất, Mặt Trời và Mặt Trăng (gần như) thẳng hàng. Ở những thời điểm này thuỷ triều là mạnh nhất. Đồng thời, tỷ lệ các trận động đất lớn so với những địa chấn nhỏ tăng lên trong những thời điểm như thế. Tuy nhiên, điều thú vị là dường như không có liên hệ giữa thuỷ triều và những cơn địa chấn nhỏ - mối liên hệ đó chỉ xuất hiện trong những dao động mạnh. Chín trong số mười hai trận động đất lớn được ghi nhận trong giai đoạn tương đối gần đây xảy ra gần thời điểm Trăng tròn hoặc không Trăng, một tỷ lệ vượt ra ngoài sự trùng hợp ngẫu nhiên. Trong số những trận động đất này có động đất lớn tại Indonesia năm 2004 và trận động đất lớn tại Nhật Bản năm 2011 đã gây ra thảm hoạ hạt nhân Fukushima. Ý tưởng về việc lực hấp dẫn của Mặt Trăng có thể gây ra động đất không hề mới. Các nhà nghiên cứu đã trích dẫn những bài báo từ tận thế kỷ 19 nói về mối liên hệ giữa Mặt Trăng và động đất. Gầy đây hơn, một bài báo của các nhà nghiên cứu tại cơ quan khảo sát địa chất Mỹ đã cho biết việc tìm ra rằng một dạng động đất dưới sâu trong các vết đứt gãy ở San Andreas nhiều khả năng đã xảy ra cùng sự tăng của thuỷ triều trong chu kỳ hai tuần của nó. Tuy nhiên các nhà khoa học chưa tìm được bằng chứng thực sự thuyết phục nào về mối liên hệ này. Các bài báo đều không trực tiếp khẳng định rằng Mặt Trăng gây ra động đất mà thay vào đó có vẻ như lực thuỷ triều từ Mặt Trăng có thể làm cho các động đất nhỏ trở nên lớn hơn. Thực tế, cơ chế của việc này vẫn chưa rõ ràng. Lực thuỷ triều chỉ là một trong số rất nhiều yếu tố cùng tham gia vào sự kéo, đẩy và làm xoắn lớp vỏ Trái Đất. Tất cả chúng kết hợp cùng lúc để tạo nên một trận động đất. Ở đây đó giữa chuỗi sự kiện đó, Mặt Trăng có thể cung cấp thêm một tác động cần thiết để làm Trái Đất rung chuyển. Việc tiếp tục nghiên cứu để hiểu rõ được tác động của các chuyển động Mặt Trăng lên các trận động đất sẽ cho chúng ta  một cơ sở quan trọng để dự đoán được thời gian và địa điểm mà động đất diễn ra.
Khí quyển nguyên thuỷ của Sao Hoả ít CO2
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=1184:khi-quyen-nguyen-thuy-cua-sao-hoa-it-co2&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Nồng độ CO trong bầu khí quyển nguyên thủy của Sao Hỏa 3,5 tỷ năm trước là rất thấp, thể hiện qua các trầm tích được tìm thấy bởi thiết bị thăm dò Curiosity của NASA ở các khu vực như hố Gale, trên xích đạo của hành tinh.   Điều này và các kết luận khác được rút ra từ bài báo được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu của Hội đồng nghiên cứu quốc gia Tây Ban Nha (CSIC), được công bố trên tạp chí Proceedings of the National Academy of Sciences (PNAS). Khu vực mà Curiosity phân tích từ năm 2012 là một phần của nhiệm vụ Phòng thí nghiệm khoa học trên Sao Hỏa của NASA, gồm chủ yếu các chuỗi trầm tích lắng đọng dưới đáy một hồ nước từ 3,5 tỷ năm trước. Những trầm tích này chứa các khoáng chất thứ cấp khác nhau, như đất sét hoặc sulphate. Điều này cho thấy bề mặt nguyên thủy của khu vực này từng tiếp xúc với nước ở dạng lỏng. Sự tồn tại của nước lỏng đòi hỏi một nhiệt độ bề mặt ấm áp được tạo ra bởi một lượng CO tối thiểu trong bầu khí quyển. Tuy nhiên, điều này không đúng với trường hợp của Sao Hỏa trong giai đoạn đầu của nó. “Mâu thuẫn này có thể do hai khả năng. Hoặc chúng ta chưa phát triển những mô hình khí hậu để lý giải các điều kiện môi trường trên Sao Hỏa ở lúc khởi điểm trong lịch sử của nó, hoặc các chuỗi trầm tích ở Gale được hình thành trong điều kiện rất lạnh”, nhà nghiên cứu Alberto Fairén của CSIC cho biết. “Tuy nhiên, thiết bị thăm dò đã không tìm thấy các hợp chất carbonate, qua đó xác nhận kết quả của tất cả các nghiên cứu từ các thiết bị thăm dò trước đó: carbonate là rất khan hiếm trên bề mặt Sao Hỏa và do đó, nồng độ CO trong khí quyển là rất thấp” Fairén cho biết thêm. Cụ thể, những phân tích trực tiếp của các mẫu trên bề mặt Sao Hỏa được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu đã cho thấy nồng độ CO2 trong khí quyển ở giai đoạn hình thành các trầm tích ở Gale là ít hơn 10 đến 100 lần mức tối thiểu cần thiết để nhiệt độ đủ giữ cho nước lỏng không đóng băng. Trên Trái Đất, các nguồn carbonate được hình thành trên sông và biển khi CO trong khí quyển tương tác với nước lỏng. CO là chất khí có khả năng tạo ra hiệu ứng nhà kính, làm nóng hành tinh. Theo các nhà khoa học, hố Gale trong giai đoạn đầu của Sao Hỏa có thể là một hồ băng, được bao quanh bởi các khối băng khổng lồ. “Môi trường sẽ giống như Bắc Cực ở Canada hay Greenland ngày nay” - theo các nhà nghiên cứu của CSIC. Ngoài ra, mặc dù băng chiếm ưu thế, nó cũng cho thấy sự đa dạng trong nước lỏng. Sự tạo thành của đất sét và sulphate đã diễn ra ở địa điểm và thời gian cụ thể, theo mùa hoặc dưới một chỏm băng trong các hồ nước lỏng.
Mưa sao băng Quadrantids rạng sáng 4/1
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=967:mua-sao-bang-quadrantids-rang-sang-41&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Hiện tượng thiên văn đầu tiên mà bạn có thể quan sát trong năm 2016 này là mưa sao băng Quadrantids, với thời điểm lý tưởng nhất là rạng sáng ngày mùng 4 tháng 1. Đây là một mưa sao băng cỡ trung bình diễn ra định kì hàng năm từ cuối tháng 12 đến đầu tháng 1 với cực điểm vào khoảng rạng sáng mùng 3, mùng 4 tháng 1.   Mưa sao băng Quadrentids có nguồn gốc từ những mảnh vụn của tiểu hành tinh 2003 EH1 - một tiểu hành tinh có quĩ đạo chuyển động quanh Mặt Trời với chu kì khoảng 5,5 năm. Hiện tượng này được đặt tên theo tên của chòm sao Quadrans Muralis. Tới năm 1922, chòm sao này đã không còn được qui ước trog bảng danh mục các chòm sao của thiên văn học hiện đại, dù vậy cái tên Quadrantids vẫn được giữ nguyên cho tới nay. Ngày nay khu vực trung tâm của mưa sao băng này thuộc về phần trên của chòm sao Bootes, lân cận khu vực chòm sao Ursa Major. Vào thời điểm cực điểm, mưa sao băng Quadrantids có thể cho người quan sát thấy tới hơn 50 sao băng mỗi giờ - một con số không hề kèm các mưa sao băng lớn nhất như Persieds hay Geminids. Dù vậy, nó vẫn chỉ được coi là mưa sao băng cỡ trung bình do các sao băng của Quadrantids thường không sáng như hai lần mưa sao băng vừa nêu, và cực điểm của nó xảy ra rất nhanh, ngoài thời gian cực điểm đó người quan sát thường chỉ thấy khoảng 20 sao băng mỗi giờ. Để quan sát hiện tượng này, rạng sáng ngày mùng 4 tháng 1 (thứ hai), khoảng từ sau 2 giờ cho tới trước khi trời sáng, hãy quan sát bầu trời phía Đông, hơi chếch về Đông Bắc và xác định vị trí chòm sao Bootes (như hình dưới), ngôi sao sáng nhất của nó sẽ giúp bạn nhận ra là sao Arcturus. Hầu hết các sao băng của Quadrantids sẽ xuất phát từ khu vực này. Đừng quên chú ý theo dõi thời tiết vì chỉ khi trời không mây bạn mới có cơ hội quan sát hiện tượng này. Ngoài ra hãy chọn vị trí có góc nhìn rộng, ít ô nhiễm, ít ánh đèn. Bạn không cần bất cứ dụng cụ quang học nào để quan sát, nhưng hãy nhớ lưu ý sức khỏe và an toàn cá nhân khi quan sát ngoài trời đêm.
Phát hiện ba hành tinh có khả năng sống được
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=1023:phat-hien-ba-hanh-tinh-co-kha-nang-song-duoc&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Các nhà thiên văn học sử dụng kính thiên văn TRAPPIST ở đài quan sát La Silla của ESO (Đài quan sát tại Nam bán cầu của châu Âu) đã phát hiện ra ba hành tinh chuyển động trên quỹ đạo quanh một sao lùn "cực lạnh" cách Trái Đất chỉ 40 năm ánh sáng. Các hành tinh này có kích thước và nhiệt độ tương tự với Sao Kim và Trái Đất, chúng là những mục tiêu tốt nhất cho tới nay để tìm kiếm sự sống ngoài Hệ Mặt Trời. Chúng là những hành tinh đầu tiên từng được phát hiện quanh một sao nhỏ và mờ như vậy. Kết quả nghiên cứu này được công bố ngày mùng 2 tháng 5 trên tạp chí Nature.     Một nhóm các nhà thiên văn học do Michaël Gillon ở Viện Vật lý thiên văn và Địa vật lý thuộc đại học Liège (Bỉ) đứng đầu đã sử dụng kính thiên văn TRAPPIST của Bỉ để quan sát sao 2MASS J23062928-0502285 mà nay đã có tên mới là TRAPPIST-1. Họ nhận thấy ngôi sao mờ và lạnh này có độ sáng thay đổi đều đặn, cho thấy có nhiều vật thể di chuyển qua giữa nó và Trái Đất. Phân tích chi tiết cho thấy sự có mặt của ba hành tinh với kích thước tương tự Trái Đất. TRAPPIST-1 là một sao lùn cực lạnh (lạnh so với các sao khác, bản thân nó vẫn là nơi xảy ra các phản ứng tổng hợp hạt nhân). Nó lạnh hơn và đỏ hơn nhiều so với Mặt Trời và chỉ lớn hơn Sao Mộc. Các sao như vậy rất phổ biến trong Milky Way và có đời sống rất dài, nhưng đây là lần đầu tiên các hành tinh được tìm thấy quanh một trong số chúng. Bất chấp việc ở rất gần Trái Đất, ngôi sao này quá mờ và quá đỏ để có thể nhìn thấy bằng mắt thường hay thậm chí ngay cả với những kính thiên văn nghiệp dư lớn. Nó nằm trong vị trí chòm sao Aquarius. Emmanuël Jehin, một đồng tác giả của nghiên cứu mới, tỏ ra rất phấn khích: "Đây thực sự là một thay đổi về mô hình đối với số lượng hành tinh và con đường tới việc tìm kiếm sự sống trong vũ trụ. Hơn thế, sự tồn tại của những "thế giới đỏ" chuyển động quanh các sao cực lạnh từng chỉ có trên lý thuyết, nhưng giờ đây chúng tôi đã tìm ra không chỉ một hành tinh duy nhất quanh một sao đỏ mờ nhạt mà là cả một hệ ba hành tinh!" Michaël Gillon, tác giả chính của bài báo công bố khám phá này giải thích ý nghĩa của phát hiện mới: "Tại sao chúng tôi cố gắng xác định các hành tinh dạng Trái Đất chuyển động quanh những sao nhỏ và lạnh nhất lân cận Mặt Trời? Lí do rất đơn giản: các hệ quanh các sao nhỏ này là những nơi duy nhất chúng ta có thể xác định sự sống trên một ngoại hành tinh cỡ Trái Đất với công nghệ hiện nay. Vậy nên nếu chúng ta muốn tìm kiếm sự sống ở nơi nào đó trong vũ trụ thì đây là nơi chúng ta cần bắt đầu tìm kiếm." Các nhà thiên văn học sẽ tìm kiếm tín hiệu của sự sống bằng cách nghiên cứu hiệu ứng mà khí quyển của hành tinh gây ra đối với ánh sáng tới Trái Đất khi hành tinh đi qua phía trước sao mẹ của nó. Với các hành tinh dạng Trái Đất chuyển động quanh hầu hết các sao, hiệu ứng này bị che lấp bởi ánh sáng mạnh mẽ của sao. Chỉ trong trường hợp của các sao lùn mờ cực lạnh như TRAPPIST-1 là hiệu ứng có thể đủ để quan sát được. Tiếp tục quan sát bằng các kính thiên văn lớn hơn đã cho thấy các hành tinh chuyển động quanh TRAPPIST-1 có kích thước tương tự Trái Đất. Hai hành tinh trong số đó có chu kỳ quĩ đạo là 1,5 và 2,4 ngày còn hành tinh thứ ba có chu kỳ được xác định nằm trong khoảng 4,5 tới 73 ngày. "Với chu kỳ quĩ đạo ngắn như vậy, các hành tinh này nằm gần sao mẹ gấp 20 đến 100 lần so với khoảng cách của Trái Đất tới Mặt Trời. Cấu trúc của hệ hành tinh này giống với hệ vệ tinh của Sao Mộc hơn là giống Hệ Mặt Trời," Michaël Gillon giải thích. Mặc dù chúng có quĩ đạo rất gần sao mẹ, hai hành tinh phía trong chỉ nhận được lần lượt là bốn lần và hai lần bức xạ so với lượng mà Trái Đất nhận từ Mặt Trời, vì sao mẹ của chúng mờ hơn Mặt Trời rất nhiều. Điều này đẩy chúng vào gần sao mẹ hơn so với vùng sống được của hệ, mặc dù có thể chúng vẫn có những khu vực có thể sống được trên bề mặt. Hành tinh thứ ba, nằm ngoài cùng, có quĩ đạo chưa được biết rõ, nhưng có lẽ nó nhận được ít bức xạ hơn so với Trái Đất, nhưng có thể vẫn đủ để nằm trong vùng sống được. "Nhờ có những kính thiên văn khổng lồ đang được xây dựng, trong đó có E-ELT của ESO và kính thiên văn không gian James Webb của NASA/ESA/CSA sẽ hoạt động từ năm 2018, chúng tôi sẽ sớm có thể nghiên cứu thành phần khí quyển của các hành tinh này và tìm kiếm trước hết là nước, và sau đó là những dấu hiệu của hoạt động sinh học. Đó là một bước tiến khổng lồ trong việc tìm kiếm sự sống trong vũ trụ." - Julien de Wit, một đồng tác giả đến từ Viện công nghệ Massachusetts (MIT) (Mỹ) kết luận.
Perseids 2012, trận mưa sao băng lớn nhất trong năm
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=568:perseids-2012-tran-mua-sao-bang-lon-nhat-trong-nam&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Mưa sao băng Perseids (Perseids meteor shower), trận mưa sao băng lớn nhất trong năm đang chờ đợi những người thích quan sát bầu trời vào tháng 8 này. Với sự hỗ trợ của thời tiết, chúng ta sẽ có cơ hội rất lớn để quan sát hiện tượng thú vị này.   Cùng với mưa sao băng Geminids giữa tháng 12, Perseids là 1 trong 2 trận mưa sao băng lớn nhất hàng năm trên khí quyển của chúng ta. Nguồn gốc của trận mưa sao băng này là sao chổi Swift–Tuttle, một sao chổi phát độc lập bởi Lewis Swift và Horace Parnell Tuttle năm 1862 và đã quay lại năm 1992. Những gì để lại của sao chổi đường kính 27km này khi nó đi ngang quĩ đạo Trái Đất là một đám lớn các mảnh thiên thạch nhỏ. Hàng năm vào tháng 8 khi Trái Đất đi qua khu vực quĩ đạo chứa đám thiên thạch này, một phần trong số chúng lao vào khí quyển Trái Đất, cọ xát với không khí và bốc cháy tạo thành các vệt sáng mà ta gọi là sao băng. Tại cực điểm của mình, mưa sao băng Perseids cho phép bạn có thể quan sát hơn 70 hay thậm chí 100 sao băng mỗi giờ, một phần không nhỏ trong số đó là sao băng dài và sáng. Trên thực tế, các sao băng của trận mưa sao băng này xuất hiện kéo dài suốt từ 23 tháng 7 tới 22 tháng 8, tuy nhiên chỉ ở mật độ khá nhỏ, trừ thời gian cực điểm là đêm 12 và 13 tháng 8. Trong thời gian những ngày vừa qua, thời tiết tại phần lớn lãnh thổ Việt Nam khá thất thường, có những ngày nắng nóng kéo dài xen lẫn những đợt mưa dai dẳng. Do đó chúng ta chỉ còn cách chờ đợi đến ngày cực điểm của trận mưa sao băng này. Nếu thời tiết cho phép, tức là ngày 12 và 13 tháng 8 này sẽ là những ngày nắng, như trên đã nói, đây sẽ là 1 trong số 2 trận mưa sao băng lớn nhất trong năm mà bạn có thể quan sát. để quan sát hiện tượng này là vào tối 12, rạng sáng 13 tháng 8 (bạn cũng có thể quan sát vào tối 13, rạng sáng ngày 14). Khác với năm ngoái 2011, năm nay người quan sát có một thuận lợi rất lớn, đó là rất ít bị cản trở bởi ánh sáng từ Mặt Trăng. Tối 12 tháng 8 tới tương ứng với ngày 25 trong tháng âm lịch. Do vậy Mặt Trăng có độ sáng nhỏ và mọc lên rất muộn, tới 1h30 sáng mới bắt đầu ló khỏi chân trời. Vì lí do này, khoảng thời gian phù hợp nhất trong 2 đêm nêu trên để bạn có thể quan sát các sao băng của Perseids là từ 23h30 (khi chòm sao Perseus bắt đầu mọc lên) tối cho tới 1h30 sáng. Hãy hướng cái nhìn của bạn về bầu trời phía Đông, Đông Bắc nơi chòm sao Perseus mọc lên như hình dưới đây, đó là nơi tập trung hầu hết các sao băng của trận mưa sao băng này. Chòm sao Perseus vào thời điểm 00h30 ngày 13 tháng 8 năm 2012, Hình ảnh chụp từ phần mềm Stellarium Mặc dù chòm sao Perseus là tâm điểm của hầu hết các sao băng, nhưng nếu việc thức khuya có thể gây mệt mỏi cho bạn, bạn hoàn toàn có thể bắt đầu quan sát trận mưa sao băng này từ trước khi Perseus mọc lên (từ 19 hay 20h tối) với mật độ sao băng thấp hơn.   Câu lạc bộ Thiên văn học trẻ Việt Nam (VACA) sẽ tổ chức quan sát hiện tượng này. Chúng tôi sẽ có thông tin chi tiết vào giữa tuần này. Chúc các bạn may mắn! (VACA)
Những ngôi sao "lạnh"
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=294:nhung-ngoi-sao-lanh&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Bạn nghĩ sao khi biết một ngôi sao có thể có nhiệt độ như của cơ thể người? Trước hết xin khẳng định rằng điều này là có thật, nó là những sao thuộc nhóm sao lùn nâu có tên riêng là sao lùn Y. Trong hơn 10 năm qua các nhà thiên văn đã tìm kiếm các vật thể lạnh này một cách vô vọng, tuy nhiên đến nay 6 trong số chúng đã được phát hiện bởi thiết bị khảo sát hồng ngoại WISE của NASA, chúng cách chúng ta chưa tới 40 năm ánh sáng. "WISE quét toàn bộ bầu trời gồm các thiên thể này và cả các thiên thể khác, phát hiện ra tín hiệu yếu ớt của chúng với thiết bị quan sát rất nhạy cảm với sóng hồng ngoại", John Morse, giám đốc phòng thiên văn vật lý tại trụ sở NASA tại Washington cho biết, "chúng sáng hơn 5000 lần khi quan sát ở dải sóng hồng ngoại dài so với khi quan sát bình thường trên mặt đất" Các sao dạng này thường được gọi là các sao thất bại (failed star), do chúng không đủ khối lượng để tạo ra các phản ứng hạt nhân đủ để tạo ra bức xạ ánh sáng nhìn thấy. Theo thời gian, chúng mờ dần đi trong vũ trụ và dấu hiệu duy nhất còn lại là các sóng có bước sóng dài ở dải hồng ngoại. Các sao lùn nâu đặc biệt được các nhà thiên văn quan tâm do chúng cho phép họ nghiên cứu chi tiết về tính chất của ngôi sao cũng như sự hình thành và tiến hóa của khí quyển hành tinh, chúng không đủ sáng để gây chói cho các nhà khoa học như các sao khác. "Sao lùn nâu giống với hành tinh theo một cách nhìn nào đó, nhưng chúng bị cô lập", cho biết của Daniel Stern, nhà thiên văn đồng tác giả của báo cáo, "Điều này làm chúng trở nên hấp dẫn với các nhà khoa học, chúng chính là những phòng thí nghiệm hoàn hảo để nghiên cứu về các thiên thể có khối lượng cỡ hành tinh" WISE đã quan sát tỉ mỉ hơn 100 ứng viên là các sao lùn nâu được cho là có nhiệt độ thấp. Trong kết quả thu được, ngôi sao có nhiệt độ thấp nhất được biết tới là WISE 1828+2650, nó có nhiệt độ chỉ khoảng 80 độ F (tức là khoảng 25 độ C) Theo Peter Eisenhardt, nhà khoa học thuộc dự án WISE thì thậm chí có thể họ sẽ còn tìm ra một ngôi sao còn gần chúng ta hơn cả Proxima Centauri. Chúng ta nên biết rằng Proxima Centauri luôn được coi là ngôi sao gần chúng ta nhất với khoảng cách là 4 năm ánh sáng. Do vậy nếu có thể phát hiện ra sao lùn nâu Y như dự đoán này, nhiều thông tin chúng ta đã biết đến có thể sẽ thay đổi. (Một điều nữa chúng ta cũng cần biết rằng ngay trong Hệ Mặt Trời của chúng ta, Sao Mộc cũng được coi là một hành tinh rất gần với giới hạn để trở thành một sao lùn nâu) Theo NASA (đã có chỉnh sửa và rút gọn)
Alpha Centauri: điểm đến đầu tiên ngoài Hệ Mặt Trời
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=992:alpha-centauri-diem-den-dau-tien-ngoai-he-mat-troi&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Với việc New Horizons đã hoàn thành sứ mệnh chính của mình là bay qua gần Pluto, liệu bây giờ chúng ta có nên đặt ra tầm nhìn lớn hơn, tham vọng hơn nhắm tới các hệ sao khác? Nếu vậy, Alpha Centauri có lẽ sẽ là mục tiêu tốt nhất cho tàu không gian liên sao bởi vì nó là hệ sao nằm rất gần Trái Đất.   Hệ sao này gồm ba ngôi sao và có thể có các hành tinh đồng hành, là hệ sao gần Trái Đất nhất, cách chúng ta “chỉ” khoảng 4,3 năm ánh sáng. Vấn đề là, việc đến được đó trong thời gian đời người chúng ta vẫn đang là một nhiệm vụ bất khả thi, hay có thể không phải như vậy? Hệ sao lân cận này chứa một cặp sao đôi có tên là Alpha Centauri A và Alpha Centauri B. Alpha Centauri C, còn gọi là Proxima Centauri là một “sao lùn đỏ” nhỏ và mờ - một ngôi sao nhỏ và tương đối lạnh – và có thể có liên kết hấp dẫn với cặp sao đôi. Tuy nhiên, điều vẫn đang gây trở ngại cho các nhà thiên văn là sự tồn tại của các ngoại hành tinh trong hệ sao này. Năm 2012, người ta đã phát hiện ra một hành tinh chuyển động quanh Alpha Centauri B, nhưng ba năm sau một nghiên cứu mới đã chỉ ra sai sót của lý thuyết này và gọi khám phá trước đó là “bóng ma qua thời gian”. Ngoài ra, vào năm 2015, một nghiên cứu khác cũng đã đề xuất khả năng có sự tồn tại của một ngoại hành tinh khác chuyển động quanh ngôi sao “B”. Điều thú vị là, cả hai ngoại hành tinh như giả thuyết sẽ là hành tinh dạng Trái Đất nếu chúng thực sự tồn tại. Điều này có thể là động lực khác thúc đẩy chúng ta đưa tàu vũ trụ đến đó. Nhưng trước khi chuẩn bị bất cứ ý tưởng nào cho nhiệm vụ này, một cái nhìn sâu hơn vào trong hệ sao là rất có ích. Điều trớ trêu là hiện tại chúng ta còn không có cả một chiếc kính thiên văn có khả năng chụp ảnh trực tiếp một hành tinh trong hệ này. “Điều này phải được thực hiện từ ngoài không gian – mặc dù thế, nó cũng sẽ rất khó. Chúng ta không có một chiếc kính thiên văn có thể làm điều này hiện nay, đặc biệt là đối với các hành tinh nhỏ. Không có các hành tinh khí khổng lồ ở đó, nếu có, chúng ta đã phải tìm được chúng”, Debra Fischer, một nhà thiên văn đồng thời là một thợ săn ngoại hành tinh ở đại học Yale, nói với Astrowatch.net. 4,3 năm ánh sáng tương đương với 25 nghìn tỷ dặm (khoảng 40 nghìn tỷ km), vậy nên việc biết được ít nhất một số thông tin cơ bản về điểm đến là điều cần thiết trước khi bắt đầu một cuộc hành trình đầy thử thách. Với công nghệ hiện nay, một tàu thăm dò robot được gửi đi từ Trái Đất sẽ cần khoảng 40.000 năm để đến được Alpha Centauri, khiến cho việc này hoàn toàn trở nên vô ích đối với chúng ta. Tàu không gian New Horizons của NASA, con tàu không gian di chuyển nhanh nhất từng được phóng đi từ Trái Đất, hiện nay đang di chuyển khoảng 36.400 dặm mỗi giờ (tương đương khoảng 58.000 km/h). Nếu tàu thăm dò này nhắm đến hệ Alpha Centauri, nó sẽ tới đó sau khoảng 78.000 năm kể từ khi được phóng! Sự tiến bộ lớn trong công nghệ là điều cần thiết để những cuộc hành trình giữa các vì sao có thể trở thành hiện thực. Nếu như cơ chế đẩy mới không được phát triển, các ý tưởng về việc đi đến những ngôi sao khác có thể sẽ thất bại. “Một khi chúng ta có khả năng tăng tốc tàu thăm dò lên tới 10% vận tốc ánh sáng, đó sẽ là nơi đầu tiên chúng ta đến! Nó là hệ sao gần nhất và vì thế là một mục tiêu tuyệt vời”, Fischer nói. Trong quá khứ, đã có các dự án tính đến việc phóng tàu không gian liên sao không người lái với vận tốc 4,5% hay thậm chí 7,1% vận tốc ánh sáng. Giữa năm 1973 và 1978, một nghiên cứu đã được chỉ đạo bởi Hội Liên hành tinh Vương quốc Anh với mục đích phóng một tàu thăm dò sử dụng tên lửa nhiệt hạch tới ngôi sao Barnard cách chúng ta 5,9 năm ánh sáng. Nghiên cứu này, có tên là “Dự án Daedalus” với mục tiêu phát triển một tàu không gian có khả năng đạt tới 7,1% vân tốc ánh sáng, như vậy toàn bộ chuyến đi sẽ chỉ kéo dài khoảng 50 năm. Một nghiên cứu tương tự, “Dự án Longshot” được phát triển bởi Học viện Hải quân Hoa Kỳ và NASA, từ năm 1987 đến 1988. Dự án sẽ sử dụng một tàu không gian chạy bằng lực đẩy hạt nhân để đạt đến vận tốc trung bình khoảng 30 triệu dặm mỗi giờ (4,5% tốc độ ánh sáng). Điều này cho phép nó đi đến Alpha Centauri sau khoảng 100 năm kể từ khi được phóng. Thực tế vẫn còn một danh sách dài những ý tưởng và dự án với nhiệm vụ thiết kế một cơ chế đẩy của tương lai cho phép những chuyến du hành giữa các vì sao. Khác với các ý tưởng dựa vào cơ chế đẩy thông thường, nhiều ý tưởng đưa vào việc sử dụng các tên lửa phản vật chất, công nghệ warp drive (di chuyển dựa vào độ cong của không-thời gian) hay các lỗ sâu. Một chiếc thuyền buồm không gian chạy bằng laser là một ý tưởng rất độc đáo có vẻ như có thể thực hiện được trong tương lai gần. Nó được đưa ra bởi Geoffrey A. Landis của Trung tâm Nghiên cứu Glenn của NASA vào năm 2002. Landis mô tả một con tàu không gian với buồm hình thoi, dày vài nanomet, hoạt động bằng năng lượng Mặt Trời, có thể đạt tới được 10% vận tốc ánh sáng. Sử dụng cơ chế đẩy loại này, sẽ mất khoảng 43 năm để đến được Alpha Centauri nếu nó đi xuyên qua hệ sao. Việc giảm tốc độ và dừng lại tại hệ sao này có thể kéo dài chuyến đi tới 100 năm. Vì thế, sẽ thích hợp hơn khi chỉ bay ngang qua hệ này với tàu thăm dò không người lái. Khi nào chúng ta mới có thể phát triển một cơ chế đẩy cho phép di chuyển ít nhất với vận tốc bằng 10% vận tốc ánh sáng? Điều đó vẫn còn gây tranh cãi. “Chúng ta phải có một tàu thăm dò di chuyển nhanh hơn 10% tốc độ ánh sáng và cần có ăng ten thu tín hiệu mạnh ở vùng ngoài Hệ Mặt Trời để bắt được tín hiệu tàu thăm dò gửi về. Hiện nay đó là một chân trời công nghệ có vẻ như xa vời. 50 năm? 100 năm? Rất khó nói!” Fischer kết luận.
Hubble quan sát NGC 411
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=669:hubble-quan-sat-ngc-411&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Quần (hay cụm) sao cầu là các ngôi sao rất già tập hợp lại thành mô hình có dạng gần cầu, và  có khoảng 150 quần sao cầu trải khắp thiên hà của chúng ta. Hubble là một trong những kính thiên văn tốt nhất để quan sát cấu trúc này, vì độ phân giải cực cao của nó cho phép các nhà thiên văn học nhìn thấy từng ngôi sao đơn lẻ, kể cả trong phần lõi rất đặc. Các cụm này trông đều khá giống nhau, và trong những bức hình của Hubble chúng ta khá khó để phân biệt chúng – và trông chúng đều giống NGC 411, vừa được chụp trong một bức ảnh gần đây. Tuy vậy bề ngoài cũng có thể đánh lừa chúng ta: NGC411 thực ra không phải một quần sao cầu, và những ngôi sao của nó cũng không hề già. Nó thậm chí còn không ở trong Milky Way. NGC 411 được xếp loại là một quần sao mở ở gần Mây Magellan nhỏ (SMC), một thiên hà nhỏ gần chúng ta. Những ngôi sao trong quần mở ít gắn kết hơn trong một quần cầu, và theo thời gian thường trôi ra xa nhau, trong khi những cụm cầu đã hiện diện trong suốt hơn 10 tỉ năm lịch sử của thiên hà. NGC 411 là một quần sao khá trẻ, chỉ hơn 1/10 quãng thời gian đang nói tới. Những ngôi sao của NGC 411 không thể được coi là một di chứng từ những năm nguyên thủy của vũ trụ, mà thậm chí chỉ bằng một phần tuổi thọ Mặt Trời của chúng ta. Những ngôi sao trong NGC 411 có tuổi thọ  ngang nhau, đều được hình thành cùng lúc từ cùng một đám mây khí. Nhưng chúng không có cùng kích thước. Bức hình của Hubble cho thấy các ngôi sao của cụm có rất nhiều màu và độ sáng khác nhau; và điều này cho các nhà thiên văn học biết thêm nhiều điều về những ngôi sao, bao gồm khối lượng, nhiệt độ và pha tiến hóa của chúng. Ví dụ, các ngôi sao xanh sẽ có nhiệt độ bề mặt cao hơn các ngôi sao đỏ. Bức hình này được chụp từ các quan sát ánh sáng cực tím, ánh sáng nhìn thấy và  ánh sáng hồng ngoại từ Ống kính trường rộng 3 của Hubble. Màng lọc của ống kính này giúp kính thiên văn có thể nhìn thấy các màu sắc hơi vượt qua dải đỏ và tím của quang phổ ánh sáng. Theo Science Daily
Quan sát nhật thực một phần sáng 21/5/2012
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=509:quan-sat-nhat-thuc-mot-phan-sang-21-5-2012&amp;catid=21&amp;Itemid=136
Sáng ngày mai 21/5/2012, người dân Việt Nam có thể quan sát nhật thực một phần khi Mặt Trời bắt đầu mọc lên ở phía chân trời Đông. Đây là hiện tượng nhật thực hình khuyên có thể quan sát tại một phần Đông Á và Bắc Mĩ, đáng tiếc rằng tại Việt Nam chúng ta chỉ có thể quan sát nhật thực này dưới dạng một phần. Như chúng tôi đã thông tin, nhật thực một phần lần này khá khó quan sát tại Việt Nam mặc dù chúng ta nằm trong dải có thể quan sát được. Lí do chính là thời điểm xảy ra nhật thực lần này theo giờ Việt Nam là lúc sáng sớm (bắt đầu lúc gần 5h30 sáng và kết thúc sau đó chưa đầy một giờ), người quan sát ngoài việc theo dõi thời tiết cần chọn góc nhìn rộng và cho phép nhìn đến rất gần chân trời phía Đông. Lợi thế của người quan sát trong lần nhật thực này là Mặt Trời lúc sáng sớm có ánh sáng dịu, không chói do ánh sáng đi qua lớp khí quyển dày hơn hẳn những giờ muộn hơn, điều này cũng đồng nghĩa với mật độ các bức xạ gây nguy hiểm cho mắt nhỏ hơn rất nhiều. Vì vậy người quan sát có thể nhìn trực tiếp vào Mặt Trời bằng mắt thường qua kính đen hoặc các vật liệu màu đen đặc cho phép nhìn xuyên qua, tuy nhiên với cách này chúng tôi khuyến cáo người quan sát không nhìn Mặt Trời liên tục quá 30 giây mà cần cho mắt nghỉ giữa chừng để bảo vệ an toàn tuyệt đối cho đôi mắt. Các thiết bị quang học như kính thiên văn, ống nhòm hay các camera có độ phóng đại lớn tuyệt đối không được sử dụng và đặt mắt trực tiếp phía sau. Nếu sử dụng máy ảnh để ghi hình, cần đặt phía trước ống kính các dụng cụ lọc bớt ánh sáng như nilon đen, phim x-quang ... Câu lạc bộ Thiên văn học trẻ Việt Nam sẽ tổ chức một buổi quan sát không chính thức vào sáng sớm mai tại Hà Nội. : từ 5h00 tới 6h30 : Điểm nghỉ giữa cầu Long Biên Các độc giả yêu thiên văn có thể trực tiếp tham gia, không chỉ để quan sát nhật thực mà còn để giao lưu và trao đổi thêm về thiên văn. Liên hệ: 0915301116 (Mr. Sơn) Các quí độc giả ở bất cứ nơi đầu nếu quan sát và chụp được ảnh hiện tượng này xin gửi hình ảnh về địa chỉ e-mail với chú thích chi tiết tên người chụp và địa điểm ghi hình để chúng tôi có dịp giới thiệu tới đông đảo độc giả yêu thiên văn trong nước. Xin cám ơn!
Tinh vân Veil qua ống kính nghiệp dư
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=435:tinh-van-veil-qua-ong-kinh-nghiep-du&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Bức ảnh tuyệt đẹp này được Nick Howes chụp vào ngày 19 tháng9 năm 2012. Tinh vân Veil như ta thấy trong hình là kết quả của một vụ nổ supernova trong chòm sao Cygnus, nó là một phần của một cấu trúc lớn hơn gọi là vòng Cygnus. Nick sử dụng một kính thiên văn khúc xạ đường kính 4 inch  để chụp bức ảnh này (kính khúc xạ 4 inch là loại kính khá phổ biến, thậm chí rẻ tiền dành cho dân nghiệp dư).    
Toạ đàm: Sóng hấp dẫn và 100 năm thuyết tương đối rộng
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=1003:thong-tin-toa-dam-song-hap-dan-va-100-nam-thuyet-tuong-doi-rong&amp;catid=21&amp;Itemid=136
VACA xin thông báo và trân trọng mời người yêu thiên văn tới tham dự toạ đàm "Sóng hấp dẫn và 100 năm thuyết tương đối rộng" do VACA tổ chức nhân dịp kỉ niệm 14 năm thành lập Hội thiên văn học trẻ Việt Nam (VACA), cũng như nhân sự kiện một dự đoán quan trọng của thuyết tương đối rộng đã được xác nhận trong thời gian gần đây.       Buổi toạ đàm là nơi gặp gỡ của người yêu thích thiên văn tại Hà Nội nói riêng cũng như từ mọi nơi có điều kiện tới tham dự nói chung. Toạ đàm vừa là nơi gặp mặt và trao đổi, hỏi đáp, cũng là chương trình với mong muốn giới thiệu một cách tổng quát, dễ hiểu nhưng cũng rõ nét nhất về thành tựu lớn mới đây của vũ trụ học nói riêng và khoa học nói chung - Quan sát trực tiếp sóng hấp dẫn.   Chương trình sẽ được tổ chức nhân dịp kỉ niệm 14 năm thành lập VACA (29/03/2002 - 29/03/2016) với thông tin chi tiết như sau: - 7h50: Tiếp đón người tới tham gia và ổn định chỗ ngồi - 8h00: Giới thiệu sự kiện; sơ lược quá trình hoạt động và tôn chỉ của VACA - 8h20: Trao giải cuộc thi tìm và giới thiệu ấn phẩm, DVD của VACA - 8h30: Thuyết trình: Sóng hấp dẫn và 100 năm thuyết tương đối rộng của Albert Einstein - 9h45: Hỏi đáp tự do - 10h15: Giao lưu và chia sẻ của các thế hệ hội viên VACA với người cùng sở thích - 10h45: Kết thúc sự kiện - Mọi người yêu thích thiên văn và quan tâm tới nội dung của thuyết trình đều có thể tham gia - Người tham gia không cần đăng kí trước, không cần mua vé vào cửa. Để hỗ trợ ban tổ chức nắm bắt số lượng, người tham gia có thể hồi âm tại thông báo trên website hoặc fanpage và event tại Facebook của VACA - Tất nhiên, người không hồi âm vẫn có thể tham gia sự kiện mà không cần báo trước. - Người tham gia tự thanh toán tiền đồ uống cá nhân theo yêu cầu của nhà hàng (nếu có sử dụng) Mọi hỏi đáp về thông tin sự kiện, liên hệ: (Mr. Đặng Vũ Tuấn Sơn - Chủ tịch VACA, Trưởng ban tổ chức) Hân hạnh được đón tiếp! Bản đồ địa điểm sự kiện Địa điểm tổ chức là khu vực giao của 3 mũi tên trên bản đồ,, góc phải phía trên (hướng Đông Bắc) là hướng đi từ ngã tư Sở.
Camelopardalids, sẽ có "bão sao băng"?
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=795:camelopardalids-se-co-qbao-sao-bangq&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Một trận mưa sao băng hoàn toàn mới sẽ xuất hiện cuối tháng 5 này, theo nhiều dự đoán, đây sẽ là một trận mưa sao băng lớn của năm nay. Liệu chúng ta có thể quan sát đầy đủ hiện tượng này, và liệu nó sẽ là một cơn mưa hay ... "bão" sao băng? Khác với các mưa sao băng khác vẫn diễn ra hàng năm và đã được tính toán thời gian tương đối chính xác bởi vị trí của các đám thiên thạch trên quĩ đạo của Trái Đất, mưa sao băng cuối tháng 5 này là một hiện tượng hoàn toàn mới chưa từng xảy ra trên khí quyển của chúng ta. Các sao băng sẽ có vùng trung tâm là chòm sao Camelopardalis (Hươu cao cổ), do đó mưa sao băng được gọi là Camelopardalids hay Camelopardalids tháng Năm. Mưa sao băng Camelopardalids được tạo thành từ các mảnh vụn của sao chổi 209P/LINEAR được để lại trên quỹ đạo Trái Đất. 209P/LINEAR là một sao chổi chu kì ngắn với chu kì quỹ đạo quanh Mặt Trời chỉ hơn 5 năm. Nó tới điểm cận nhật trên quĩ đạo của mình lần gần nhất ngày 6 tháng 5 vừa qua và sẽ tới điểm gần Trái Đất nhất vào ngày 29 tháng 5. Tuy vậy, điều đáng nói là mưa sao băng sắp diễn ra vào ngay tháng 5 này không phải do những mảnh vụn của sao chổi này trong lần tiến gần chúng ta này mà lại đến từ những mảnh vụn mà nó để lại từ một lần nào đó trong những năm 1800. Từ năm 2012, nhiều dự đoán của các nhà thiên văn về mật độ các mảnh vụn của 209P/LINEAR đã gợi ý rằng mưa sao băng Camelopardalids năm 2014 này sẽ cho phép chúng ta chứng kiến một lượng sao băng lớn vô cùng hiếm có, có thể lên tới 800 hay 1000 sao băng mỗi giờ, hoặc có thể hơn nữa. Trong khi đó, những mưa sao băng vẫn được biết tới là lớn nhất hàng năm như Perseids, Geminids thường có mật độ từ 100 đến 200 sao băng mỗi giờ, còn những lần số sao băng mỗi giờ lớn hơn 200 thường được coi là rất lớn và hiếm khi xảy ra. Do vậy, để nhấn mạnh qui mô được dự đoán vừa nêu, một số nhà thiên văn đã gọi hiện tượng này là "bão sao băng". Gần tới hiện tượng này, các phương tiện truyền thông càng thường xuyên sử dụng cụm từ "bão sao băng" này để thu hút sự chú ý của người theo dõi. Trên thực tế, dự đoán chính xác hơn từ cuối năm 2013 đã cho biết mưa sao băng sắp diễn ra sẽ có mật độ ước tính khoảng 200 sao băng mỗi giờ, có nghĩa là tương đương với một trận mưa sao băng loại rất lớn, nhưng có lẽ ... chưa đủ để gọi là "bão". Mặc dù vậy, như đã nói, 200 sao băng mỗi giờ tương đương với một mưa sao băng rất lớn và hết sức đáng chú ý. Nếu thời tiết tương đối thuận lợi, người yêu thích thiên văn sẽ có cơ hội quan sát một hiện tượng hấp dẫn và không hề xảy ra thường xuyên. Mưa sao băng Camelopardalids sẽ có thời gian cực điểm rơi vào khoảng ngày 23 đến 24 tháng 5 này. Theo dự đoán chính xác tới nay thì khoảng thời gian đẹp nhất của hiện tượng sẽ rơi vào từ 6 đến 8 UTC, tương đương với từ 13 đến 15h theo giờ Việt Nam. Như vậy, tại Việt Nam chúng ta sẽ không quan sát được đúng cực điểm của hiện tượng này. Tuy nhiên, đêm 23 và 24 vẫn là khoảng thời gian tuyệt vời để quan sát mưa sao băng với mật độ vẫn lên tới trên dưới 200 sao băng mỗi giờ. Rạng sáng ngày 24 và 25 tháng 5, trong khoảng từ 2 đến 4 giờ sáng là thời điểm lý tưởng nhất để bạn quan sát hiện tượng này. Mưa sao băng sẽ có vùng trung tâm là chòm sao Camelopardalids (Hươu cao cổ). Đây là một chòm sao nằm trên bầu trời phía Bắc, khá gần sao Bắc Cực (Polaris), nó chuyển động quanh sao Polaris do sự tự quay của Trái Đất. Mặc dù các sao của nó không được thật sáng để có thể dễ dàng xác định nhất là khi nếu bạn là người quan sát ở các thành phố bị ô nhiễm ánh sáng, bạn vẫn có thể dễ dàng tìm ra khu vực cần quan sát bằng cách xác định sao Polaris, ngôi sao nằm ngay hướng chính Bắc, các chòm sao Cassiopeia hay Draco (như trong hình) cũng là những chòm sao rất dễ xác định để bạn tìm được hướng quan sát cho mình. Hay đơn giản hơn, vùng trời hướng chính Bắc (mà bạn có thể xác định bằng bản đồ hay thiết bị định vị GPS) là nơi sẽ diễn ra hiện tượng này. Thời gian này, thời tiết tại Việt Nam tương đối thất thường với nắng và mưa xen kẽ. Mặc dù vậy, với những ngày nắng nóng kéo dài và được dự đoán sẽ còn tiếp diễn, chúng ta sẽ có nhiều cơ hội để có bầu trời không mây trong đêm diễn ra hiện tượng này. Để bảo đảm hơn cho việc quan sát của bạn, xin vui lòng đọc thêm các chú ý dưới đây. - Bạn không cần (và không nên dùng) kính thiên văn hay bất cứ dụng cụ nào, hãy dùng mắt thường để quan sát. - Khác với đa số các trận mưa sao băng nhỏ hơn, với hiện tượng này bạn có thể quan sát trước nửa đêm nếu không muốn phải thức đêm, nhất là với đêm 24 vì tối 24 sẽ gần cực điểm hơn rạng sáng ngày 25. - Lưu ý điều kiện thời tiết, bạn chỉ có thể thấy sao băng nếu trời không mây. Một chú ý nhỏ như sau có thể giúp bạn: hãy đứng khoảng 5 phút ngoài trời cho mắt bạn quen dần với bóng tối. Khi đó bạn sẽ dễ dàng thấy các sao trên bầu trời. Nếu bạn có thể đếm được trên 50 ngôi sao thì bạn sẽ có thể dễ dàng quan sát các sao băng của hiện tượng. Ngược lại nếu bạn không thể thấy những ngôi sao bình thường thì có nghĩa là mây và khí quyển ô nhiễm đã cản tầm nhìn của bạn, và bạn sẽ không thấy được sao băng. - Chọn địa điểm phù hợp, hạn chế ô nhiễm không khí và không bị ánh sáng mạnh chiếu thẳng vào mắt (Ví dụ như đèn trên các cột đèn đường, đèn từ các công trường xây dựng ...) và tất nhiên vẫn phải bảo đảm an toàn cho bản thân bạn - Chuẩn bị trang phục mũ áo đầy đủ để bảo vệ sức khỏe bản thân và đừng quên sáng hôm sau bạn sẽ còn nhiều việc cần làm. - Cuối cùng khi đã chuẩn bị đầy đủ các điều kiện, hãy thật kiên nhẫn, đừng rời mắt khói bầu trời, đôi khi có thể bạn sẽ phải nhìn liên tục tới 5 hay 10 phút hoặc hơn nữa mới thấy một vệt sao băng lao qua. Chúc bạn may mắn! Chủ tịch VACA
Mưa sao băng Perseids sẽ đạt cực điểm đầu tuần tới
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=735:mua-sao-bang-perseids-se-dat-cuc-diem-dau-tuan-toi&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Nếu thời tiết thuận lợi, người yêu thích bầu trời sẽ có cơ hội quan sát một trong những hiện tượng thiên văn hấp dẫn nhất năm nay vào đêm 12, 13 tháng 8: mưa sao băng Perseids. Diễn ra vào ngay đầu tháng âm lịch, Perseids sẽ rất dễ được quan sát với nhiều sao băng sáng và dài tại những nơi ít ô nhiễm ánh sáng. Cùng với mưa sao băng Geminids giữa tháng 12, Perseids là 1 trong 2 trận mưa sao băng lớn nhất hàng năm trên khí quyển của chúng ta. Nguồn gốc của trận mưa sao băng này là sao chổi Swift–Tuttle, một sao chổi phát độc lập bởi Lewis Swift và Horace Parnell Tuttle năm 1862 và đã quay lại năm 1992. Những gì để lại của sao chổi đường kính 27km này khi nó đi ngang quĩ đạo Trái Đất là một đám lớn các mảnh thiên thạch nhỏ. Hàng năm vào tháng 8 khi Trái Đất đi qua khu vực quĩ đạo chứa đám thiên thạch này, một phần trong số chúng lao vào khí quyển Trái Đấ và cháy sáng tạo thành các vệt sáng mà ta gọi là sao băng. Tại cực điểm của mình, mưa sao băng Perseids cho phép bạn có thể quan sát hơn 70 hay thậm chí 100 sao băng mỗi giờ, một phần không nhỏ trong số đó là sao băng dài và sáng. Trên thực tế, các sao băng của trận mưa sao băng này xuất hiện kéo dài suốt từ 23 tháng 7 tới 22 tháng 8, tuy nhiên chỉ ở mật độ khá nhỏ, trừ thời gian cực điểm là đêm 12 và 13 tháng 8. Trong thời gian những ngày vừa qua, thời tiết tại phần lớn lãnh thổ Việt Nam khá thất thường, đặc biệt tại các tỉnh miền Bắc mưa khá nhiều và khó dự đoán chính xác. Do đó chúng ta chỉ còn cách chờ đợi đến ngày cực điểm của trận mưa sao băng này. Nếu thời tiết cho phép, tức là ngày 12 và 13 tháng 8 này sẽ là những ngày nắng, như trên đã nói, đây sẽ là một trong số hai trận mưa sao băng lớn nhất trong năm mà bạn có thể quan sát. Thời điểm lý tưởng nhất để quan sát hiện tượng này là vào tối 12, rạng sáng 13 tháng 8 (bạn cũng có thể quan sát vào tối 13, rạng sáng ngày 14). Năm nay ngoài yếu tố thời tiết thì người quan sát có một thuận lợi rất lớn, đó là không bị cản trở bởi ánh sáng từ Mặt Trăng. Tối 12 tháng 8 tới tương ứng với ngày mùng 6 trong tháng âm lịch. Mặt Trăng lặn từ rất sớm và việc quan sát hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi ánh trăng. Vì lí do này, khoảng thời gian phù hợp nhất trong 2 đêm nêu trên để bạn có thể quan sát các sao băng của Perseids là từ 00h30 (khi chòm sao Perseus bắt đầu mọc lên đủ cao) tối cho tới tận trước khi trời sáng. Hãy hướng cái nhìn của bạn về bầu trời phía Đông, Đông Bắc nơi chòm sao Perseus mọc lên như hình dưới đây, đó là nơi tập trung hầu hết các sao băng của trận mưa sao băng này. Mặc dù chòm sao Perseus là tâm điểm của hầu hết các sao băng, nhưng nếu việc thức khuya có thể gây mệt mỏi cho bạn, bạn hoàn toàn có thể bắt đầu quan sát trận mưa sao băng này từ trước khi Perseus mọc lên (từ 20 hay 22h tối) với mật độ sao băng thấp hơn. - Hãy theo dõi thời tiết trước khi tiến hành buổi quan sát của mình. Một cách dễ dàng là tự kiểm tra bằng cách quan sát bầu trời đêm lúc chưa có sao băng, nếu mắt bạn có thể nhìn thấy các ngôi sao thông thường trên bầu trời thì bạn sẽ có thể thấy được sao băng. (Nhớ rằng mắt bạn cần thời gian làm quen với bóng tối nên khi bước ra và ngắm nhìn bầu trời sẽ mất từ 3 tới 5 phút để bạn có thể thấy rõ toàn bộ những ngôi sao không bị che khuất) - Chọn vị trí có góc nhìn càng rộng càng tốt (nóc nhà, các bãi trống ...), nơi không có ánh đèn mạnh chiếu thẳng vào mắt (đèn đường, đèn các phương tiện giao thông, đèn từ các tòa nhà xung quanh). Như vậy, mưa sao băng thường rất khó quan sát với người ở khu vực ô nhiễm không khí như trung tâm các thành phố lớn hay gần khu công nghiệp, công trường đang xây dựng ... - Bạn không cần mang theo bất cứ dụng cụ quan sát nào (kính thiên văn, ống nhòm) vì mắt thường chính là cách quan sát tốt nhất - Nếu ở tại nhà mình, bạn có thể dùng ghế dài hay bất cứ vật dụng gì cho phép bạn ngả lưng quan sát, vì quan sát sao băng đòi hỏi sự kiên nhẫn mà nếu bạn liên tục ngẩng đầu lên bầu trời sẽ rất nhanh mệt mỏi. - Đừng quên lưu ý bảo vệ sức khỏe cũng như an toàn cá nhân cho mình, nhất là khi bạn tới những khu vực vắng người để quan sát. Vui lòng ghi rõ nguồn trích dẫn Thienvanvietnam.org khi bạn sử dụng bài viết này
Biến đổi từ trường quanh tiểu hành tinh Oljato
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=594:bien-doi-tu-truong-quanh-tieu-hanh-tinh-oljato&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Trở lại những năm 1980, sự xuất hiện của tiểu hành tinh 2201 Oljato trong quỹ đạo Sao Kim đã báo trước một loạt các biến động từ trường. Giờ đây, kết quả từ nghiên cứu của tàu không gian Venus Express của ESA gợi ý rằng Oljato đã mất đi tác dụng từ của nó. Tiến sĩ Christopher Russell đưa ra lời giải thích cho hành vi kì lạ của Oljato tại Hội nghị khoa học hành tinh ở Madrid vào thứ năm ngày 25 tháng 9.   Oljato chuyển động theo quĩ đạo quanh Mặt Trời với chu kì 3,2 năm. Trong thời gian hoạt động của mình, vệ tinh Pioneer của NASA đã ghi nhận được ba lần Oljato xuất hiện giữa Sao Kim và Mặt Trời. Mỗi lần như vậy trong khu vực này lại xuất hiện sự tăng cao bất thường các đỉnh từ trường, gọi là sự tăng trường liên hành tinh (IFE), cả phía trước và phía sau tiểu hành tinh. Russell cho biết "Đây không phải việc thường gặp. Sự tăng từ trường này rất hiếm, xuất hiện khoảng 10 năm một lần trong quỹ đạo Sao Kim. Pioneer đã quan sát thấy chỉ khi Oljato ở ngay phía trước hoặc sao Sao Kim, mật độ các IFE mới tăng cao. Nhưng bây giờ với các quan sát của Venus Express thì lượng IFE thấp hơn mức trung bình đo được ở phía ngoài khu vực này" Russel và nhóm của ông tin rằng câu trả lời cho hiện tượng này nằm ở chỗ Oljato có sự va chạm với bụi trên quĩ đạo chuyển động của nó. Những va chạm này làm các hạt bụi được tích điện và chúng được gia tốc bởi gió Mặt Trời. Russel giải thích rằng việc giảm IFE do Venus Express quan sát được cho thấy số va chạm của Oljato với bụi trên đường đi của nó đã giảm nhiều nên số lượng bụi được tích điện bao quanh tiểu hành tinh này cũng đã giảm dẫn đến kết quả quan sát được. Theo Space Daily  
Mọi người đều có thể tự tìm kiếm các hành tinh
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=306:mi-ngi-u-co-th-t-tim-kim-cac-hanh-tinh&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Kể từ tháng 12 năm ngoái khi dự án Planet Hunters online được thực hiện. 40.000 người sử dụng web trên khắp thế giới đã giúp các nhà khoa học phân tích ánh sáng tới từ 150.000 ngôi sao để tìm kiếm các hành tinh dạng Trái Đất chuyển động quanh chúng. Người sử dụng phân tích các dữ liệu khoa học được thu thập bởi tàu không gian Kepler được phóng năm 2009 với mục đích tìm kiếm các hành tinh ngoài Hệ Mặt Trời (exoplanet). Đến nay các nhà thiên văn ở đại học Yale đã công bố 2 hành tinh có tiềm năng trong quá trình tìm kiếm này được phát hiện bởi người sử dụng Planet Hunters, công bố trong tạp chí hàng tháng của Hiệp hội thiên văn Hoàng gia. "Đây là lần đầu tiên cả cộng đồng có thể sử dụng dữ liệu từ dự án của NASA để phát hiện các hành tinh chuyển động quanh các ngôi sao" - cho biết của Debra Fischer, nhà thiên văn học và chuyên gia về hành tinh ngoài hệ tại đại học Yale, người tham gia dự án Planet Hunters. Các ứng viên này chuyển động quanh sao mẹ với chu kì 10 đến 50 ngày, ngắn hơn nhiều độ dài 365 ngày quĩ đạo của Trái Đất và bán kính quĩ đạo chỉ bằng nửa hay 1/8 so với quĩ đạo Trái Đất. Dù vậy, chúng vẫn có thể là các hành tinh đá với kích thước tương tự Trái Đất (khác hẳn với các hành tinh khí khổng lồ như Sao Mộc), tuy nhiên chúng vẫn không cho phép nước lỏng và sự sống có thể tồn tại. Tiếp theo, nhóm nghiên cứu Planet Hunters gồm các nhà khoa học từ đại học Yale, Oxford và Adler Planetarium tại Chicago sử dụng đài quan sát Kech tại Hawaii để phân tích ngôi sao mẹ. Nhóm dự án Kepler đến nay đã công bố 1200 hành tinh ứng viên và đang tiếp tục phân tích kĩ hơn đối với những hành tinh có vẻ nhiều tiềm năng nhất và họ đã loại bỏ bớt được 2 trong số đó nhờ sự tham gia của người sử dụng Planet Hunters. Đây là một dự án mà bất cứ người yêu thiên văn nào trên thế giới đều có thể tham gia để tìm hiểu và đóng góp cho quá trình tìm kiếm những hành tinh và có thể là cả những sự sống như chúng ta trong vũ trụ. Bạn cũng có thể tìm hiểu và tham gia chương trình này tại địa chỉ sau: Theo
Laser cắt siêu thanh sẽ giúp máy bay sớm vượt Mach 10
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=848:laser-cat-sieu-thanh-se-giup-may-bay-som-vuot-mach-10&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Các nhà khoa học và các tác giả viễn tưởng hầu hết đều từng mơ về những con tàu di chuyển nhờ các luồng ánh sáng hơn là sử dụng động cơ chất đốt. Đến nay, một phương pháp mới để cải thiện lực đẩy dưới dạng động cơ laser có thể mang tới một bước tiến gần hơn tới việc đưa điều đó vào thực tế. Phương pháp này được phát triển bởi nhà vật lý Yuri Rezunkov ở viện nghiên cứu thiết bị quang điện và Alexander Schmidt thuộc viện kĩ thuật vật lý Ioffe tại Saint Petersburg, Nga. Hiện nay, vận tốc tối đa của tàu không gian có thể đạt được phụ tuộc vào lượng nhiên liệu rắn hoặc lỏng mà nó có thể mang. Vận tốc càng cao tương đương với lượng nhiên liệu được đốt (trong cùng đơn vị thời gian) càng lớn. Nhiện liệu này cần được mang ngay trên tàu, do đó tất nhiên nó gây ra nhiều khó khăn. Tuy nhiên, nếu nhiên liệu này được thay thế bằng lực đẩy từ xa không nằm trên tàu, chẳng hạn như laser thì khối lượng này sẽ được giải phóng. Nhiều hệ thống đã được đề xuất về việc tạo ra lực đẩy laser như vậy. Một trong những phương pháp hứa hẹn nhất được biết tới với cái tên là phương pháp "đốt laser". Một cách dễ hiểu, phương pháp này dùng một chùm bức xạ laser bắn phá một bề mặt vật chất, đốt nóng nó khiến nó phóng ra chùm plasma tạo thành lực đẩy cho tàu. Trong bài bài công bố của mình, Rezunkov và Schmidt mô tả một hệ thống mới tích hợp hệ thống đẩy bằng laser đốt và các ống phun khí nóng của tàu không gian. Kết hợp hai thứ này lại, các nhà nghiên cứu thấy rằng nó có thể tăng tốc độ của dòng khí phụt ra từ tàu tới vận tốc siêu thanh trong khi giảm được lượng nhiên liệu phải đốt. Các nhà nghiên cứu cho thấy hiệu quả của công nghệ ngày nay bị giởi hạn bởi nhiều yếu tố gồm cả sự bất ổn của dòng khí nóng khi nó đi qua ống phun, cũng như khi tạo ra sóng xung kích ở đầu vào của ống phun, làm giảm lực đẩy. Nhưng những hiệu ứng này có thể được giảm đi với sự tham gia của chòm plasma sinh ra từ phương pháp laser đốt, nó sẽ chuyển hướng dòng khí bên trong ống phun. Như vậy vận tốc của động cơ được cải thiện rất đáng kể. "Tổng kết dữ liệu thu được, chúng tôi có thể dự đoán ứng dụng của công nghệ laser đốt siêu thanh sẽ không chỉ dành cho việc phóng các vệ tinh nhỏ lên quĩ đạo Trái Đất mà còn tăng tốc cho các máy bay hiện nay có thể đạt tới Mach 10* hoặc hơn nữa." Rezunkov nói. Theo Science Daily *Chú thích của người dịch: Mach 10 là giới hạn trên của tốc độ siêu siêu thanh (hyper sonic), có giá trị là 3.415 m/s.
Thiên hà: định nghĩa và phân loại
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=51:thien-ha-dinh-nghia-va-phan-loai&amp;catid=14&amp;Itemid=150
Những đêm mùa hè trời đẹp, ít mây, nếu ngắm nhìn bầu trời, bạn không chỉ thấy các ngôi sao như những đốm sáng bé nhỏ được rải một cách ngẫu nhiên, chúng cũng có khu vực riêng của mình và mỗi đêm, bạn đều thấy một dải sáng trắng như sữa vắt ngang bầu trời. Dải sáng đó là gì? Liệu nó có phải duy nhất trong vũ trụ? Nếu có trong tay một chiếc kính thiên văn hay chỉ một chiếc ống nhòm nhỏ, bạn sẽ thấy vô vàn các đốm sáng nhỏ phân bố dày đặc trong dải sáng đó, và tất nhiên chính nhờ vô vàn các đốm sáng đó mà chúng ta mới có thể quan sát một dải sáng tuyệt vời như vậy. Ở Việt Nam, người xưa đã sớm gọi dải sáng đó là Ngân Hà (dòng sông bạc), còn theo thần thoại Hy Lạp thì dải sáng đó là dòng sữa bất tử của nữ thần Hera tuôn chảy trên bầu trời do sức hút của người anh hùng Hercules và từ đó mà cái tên Milky Way (con đường sữa) ra đời. Ngày nay, chúng ta vẫn sử dụng những cái tên Ngân Hà, Milky Way nhưng cả 2 cái tên đó đều chỉ để chỉ dải sáng mà chúng ta vừa nhắc tới, và chúng ta biết rằng khi nhìn vào dải sáng đó là nhìn vào vùng trung tâm thiên hà của chúng ta, thiên hà Milky Way. Chúng ta đã biết về Trái Đất, về Mặt Trời, và bây giờ chúng ta cũng biết rằng dải sáng rực rỡ mà chúng ta ván quan sát hàng đêm kia, bản thân chúng ta cũng là một phần của nó. Trong vũ trụ không chỉ tồn tại một nhóm sao khổng lồ hợp thành thiên hà như Milky Way của chúng ta mà còn có hàng triệu triệu, hàng tỷ hay hàng triệu tỷ thiên hà khác, mỗi thiên hà đều là một tập hợp khổng lồ các ngôi sao với khối lượng và kích thước khác nhau. Vậy  thực chất thiên hà cấu tạo ra sao chúng ta đã biết hay chưa? Có bao nhiêu loại thiên hà và chúng ta có thể quan sát thấy gì và kết luận được những gì về những điều quan sát được?   Thiên hà (galaxy) là một tập hợp lớn gồm các ngôi sao cùng các hành tinh, tiểu hành tinh ... của chúng, các đám bụi và khí liên kết với nhau trong một hệ thống chung bởi lực hấp dẫn. Kích thước và khối lượng của thiên hà khá đa dạng. Các thiên hà lùn (dwarf galaxy) nhỏ nhất có đường kính chỉ vài nghìn năm ánh sáng và chứa khoảng vài hay vài chục triệu ngôi sao. Trong khi đó những thiên hà lớn nhất từng được biết tới có thể chứa hàng trăm nghìn tỷ ngôi sao, chẳng hạn thiên hà IC 1101 được ước tính có khoảng 100.000 tỷ sao. Các thiên hà lớn như vậy thường có đường kính vài trăm nghìn năm ánh sáng. Trong thiên hà, ngoài các sao và các hệ hành tinh của chúng còn có những đám khí và bụi khổng lồ trong không gian giữa các sao. Một số đám khí bụi lớn là các vùng tạo sao trong thiên hà (thường phổ biến ở các thiên hà trẻ), nơi các ngôi sao ra đời từ lực hấp dẫn giữa bụi và khí. Ở trung tâm của thiên hà, các nhà khoa học cho rằng tất cả đều có một lỗ đen với khối lượng rất lớn (hàng nghìn tới hàng triệu lần khối lượng của Mặt Trời) là trung tâm của lực hấp dẫn, các sao cùng khí và bụi đều chuyển động xung quanh lỗ đen trung tâm này. Theo mô hình hiện đại, các thiên hà không chỉ gồm những đối tượng được tạo thành từ những dạng vật chất thông thường, mà còn có một lượng rất lớn khối lượng đến từ vật chất tối, loại vật chất tràn ngập trong môi trường giữa các sao.     Cách phân loại thiên hà phổ biến nhất là phân loại dựa trên hình dạng của chúng. Về cơ bản, thiên hà được chia thành ba nhóm chính là thiên hà xoắn, thiên hà elip và thiên hà không định hình. (Spiral Galaxy) Tập hợp của sao, khí và bụi dưỡi dạng một đĩa xoắn lớn quay xung quanh một tâm chung. Các sao trong thiên hà này nằm rải trên các cánh tay xoắn (spiral arm). Trung tâm của thiên hà xoắn phồng to dày hơn hẳn các cánh tay, đó là nơi tập trung khí và bụi nhiều nhất trong thiên hà. Thiên hà xoắn kí hiệu là S và được chia thành ba cấp là a, b và c dựa theo độ khép kín của các cánh tay. Sa là thiên hà xoắn với các cánh tay còn quấn chặt vào vùng trung tâm, chưa phân hóa thật rõ còn Sc là các cánh tay mở rộng nhất, xòe rộng ra không gian. Một lượng lớn (khoảng hơn 60%) số thiên hà xoắn đã được biết tới có vùng phồng ở trung tâm có dạng thanh chứ không phải dạng cầu, chúng được thêm chữ B vào trong kí hiệu bên cạnh kí hiệu của thiên hà xoắn, trở thành các thiên hà SB (Barred-Spiral galaxy), và cũng được chia thành SBa, SBb, SBc (có cách chia còn mở rộng ra loại d nhưng hiện nay không được phổ biến). Milky Way, thiên hà của chúng ta cũng thuộc dạng này, nó là một thiên hà loại SBc Đa số các thiên hà có kích thước cỡ Milky Way là các thiên hà xoắn, chúng là loại thiên hà phổ biến nhất trong phần vũ trụ đã được quan sát. (elliptical galaxy) Sao cùng khí và bụi tập hợp và liên kết thành một khối có dạng cầu dẹt (mặt cắt giống như hình elip), không có sự phân tán vật chất thành các cánh tay giống như thiên hà xoắn. Thiên hà elip được kí hiệu là E và phân thành 8 cấp từ E0 đến E7 thể hiện mức độ thuôn dài của elip. E0 là thiên hà có hình dạng gần tròn nhất, càng đến các cấp sau elip càng thuôn dài. Thiên hà loại này chiếm khoảng 15% số thiên hà đã được quan sát. Đặc biệt, hầu hết các thiên hà lớn nhất từng được quan sát thuộc loại thiên hà này, chúng hầu hết là các thiên hà già với ít vùng tạo sao. Tuy nhiên có một số thiên hà elip lớn lại được cho rằng được tạo thành từ những vụ va chạm và hợp nhất giữa các thiên hà. Một ví dụ điển hình của thiên hà loại này là IC 1101 như đã nêu trên, nó là một thiên hà elip loại E3. (lenticular galaxy) Loại thiên hà trung gian giữa thiên hà elip và thiên hà xoắn. Chúng gồm nhiều sao già, có vùng trung tâm phồng to và đĩa gồm các sao trẻ phía ngoài nhưng không có sự xuất hiện hoặc sự xuất hiện không rõ nét các cánh tay xoắn. Thiên hà này được kí hiệu là S0 và chia dựa theo mật độ bụi hấp thụ ở đĩa chính thành S01, S02 và S03 hoặc SB0 , SB0 và SB0 nếu vùng trung tâm có dạng thanh. (irregular galaxy) Thiên hà có hình dạng không xác đinh, không có điểm đặc biệt chung nào. Chúng thường có quá khứ là thiên hà xoắn hoặc thiên hà elip, bị biến dạng do va chạm hoặc do sự mất cân bằng của lực hấp dẫn. Thiên hà loại này kí hiệu là Irr. Điển hình nhất có thể keertowis là hai thiên hà vệ tinh của Milky Way: Mây Magellan lớn (LMC) và Mây Magellan nhỏ (SMC) Ngoài cách phân chia theo hình dạng nêu trên, các thiên hà có khối lượng nhỏ, gồm chỉ khoảng vài tỷ sao hoặc ít hơn còn được gọi là các (dwarf galaxy). Mây Magellan lớn, thiên hà không định hình gần chúng ta chứa khoảng 30 tỷ sao đôi khi cũng được coi là một thiên hà lùn.   Quasar là nguồn bức xạ vô tuyến được phát hiện lần đầu tiên vào đầu những năm 1960. Qua các thiết bị ghi nhận được, những nguồn này phát ra bức xạ điện từ ở cường độ rất cao và có độ dịch chuyển đỏ trong quang phổ rất lớn cho thấy chúng ở rất xa và đang dịch chuyển rất nhanh. Bản chất của những nguồn bức xạ này gây nhiều tranh cãi trong suốt mấy thập kỉ đầu tiên khi chúng được phát hiện. Ngày nay, khoa học đã xác định được nguồn gốc của quasar. Chúng là các thiên hà ở rất xa, hầu hết là trên 3 tỷ năm ánh sáng - điều đó cho thấy chúng phải ra đời ngay từ những giai đoạn sớm của vũ trụ, phát ra lượng năng lượng dưới dạng bức xạ mạnh khác thường do sự bồi tụ mạnh mẽ của vật chất vào lỗ đen siêu nặng ở trung tâm.   (cluster of galaxies) là tập hợp của hàng chục tới hàng nghìn thiên hà liên kết và ràng buộc chuyển động với nhau bởi lực hấp dẫn. Một số cách phân loại chia ra các tập hợp nhỏ (dưới 50 thiên hà) lafcaaps dưới cuart quần/cụm và gọi là nhóm (group), tuy nhiên không có ranh giới cụ thể nào cho cách phân chia này. Quần thiên hà chứa thiên hà Milky Way của chúng ta là một nhóm gồm hơn 50 thiên hà với nhiều kích thước khác nhau được gọi là (hay Cụm Địa phương/the Local Group). Trong Cụm Địa phương, thiên hà M31 (Andromeda) là thiên hà lớn nhất về kích thước, nhưng về khối lượng thì Milky Way là thiên hà nặng nhất. Cả hai thiên hà lớn này đều là các thiên hà xoắn. Quần thiên hà lớn gần chúng ta nhất là quần thiên hà Virgo (Virgo cluster), với khoảng 1.500 thiên hà thành viên, nó nằm ở vị trí của chòm ao Virgo khi nhìn trên bầu trời. Đây cũng là trung tâm của siêu quần thiên hà Virgo. (supercluster) là tập hợp lớpn gồm nhiều quần, nhóm thiên hà và các thiên hà riêng rẽ, thường chứa nhiều nghìn thiên hà và hàng nghìn tới hàng chục nghìn tỷ sao, đường kính trải rộng hàng trăm nghìn năm ánh sáng. Thiên hà Milky Way của chúng ta cùng Cụm Địa Phương chứa nó nằm trong siêu quần thiên hà Virgo (Virgo supercluster) - một tập hợp của hơn 100 quần hoặc nhóm thiên hà với đường kính hơn 100 triệu năm ánh sáng. Danh mục đầu tiên về các tinh vân có kèm số liệu đầy đủ được đưa ra bởi Charles Messier vào năm 1781, danh sách này gồm 110 tinh vân được đánh số theo thứ tự từ M1 - M110 (M=Messier), sau này, người ta xác định được một số trong số này không phải các tinh vân mà chính là các thiên hà, và một phát hiện nữa là M101 và M102 thực chất là 1. Tuy nhiên danh mục Messier vẫn được giữ nguyên giá trị sử dụng và ngày nay vẫn được áp dụng khá phổ biến. Ngày nay, số thiên hà cũng như các cụm sao được phát hiện ngày càng nhiều nên tất nhiên cần có những danh mục khác. Hiện nay có khá nhiều danh mục được sử dụng để liệt kê các thiên hà, tinh vân và cụm sao, chẳng hạn như: - IC: Index Catalogue - NGC: New General Catatalogue - UGC: Uppsala General Catalogue - PGC: Principal Galaxies Catalogue - DDO: David Dunlap Observatory (còn gọi là Catalogue of Dwarf Galaxies) - ESO: European Southern Observatory Trong đó danh mục NGC là chi tiết nhất và được sử dụng nhiều nhất ngày nay. Độc giả có thể tham khảo danh mục tinh vân - thiên hà Messier qua .   Viết lần đầu vào tháng 6 năm 2005 và đính chính lại vào năm 2013 Vui lòng ghi rõ tên tác giả và nguồn trích dẫn Thienvanvietnam.org khi bạn sử dụng bài viết này.
Tìm lời giải cho sự giãn nở của vũ trụ
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=1254:tim-loi-giai-cho-su-gian-no-cua-vu-tru&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Các nhà vật lý tại Đại học British Columbia (UBC) đã giải quyết được một trong những bài toán lớn nhất của tự nhiên: Điều gì gây ra sự giãn nở gia tốc của vũ trụ? Nghiên cứu sinh PhD Qingdi Wang đã nêu ra vấn đề này trong một nghiên cứu với cố gắng giải quyết mâu thuẫn chủ yếu giữa hai trong số những lý thuyết thành công nhất trong lịch sử về cách mà vũ trụ của chúng ta vận hành, đó là cơ học lượng tử và thuyết tương đối rộng của Einstein. Nghiên cứu mới gợi ý rằng nếu chúng ta phóng to vũ trụ lên để quan sát sâu vào nó, chúng ta sẽ thấy nó được tạo thành bởi không gian và thời gian biến động không ngừng. "Không-thời gian không phải là tĩnh dù nó dường như là vậy, nó chuyển động liên tục," Wang nói. "Đây là một ý tưởng mới trong một phạm vi mà không có nhiều ý tưởng được đưa ra để đi tới đích trong vấn đề này," Bill Unruh - giáo sư vật lý và thiên văn học đang giám sát nghiên cứu của Wang - cho biết. Năm 1998, các nhà thiên văn học đã phát hiện ra rằng vũ trụ của chúng ta đang giãn nở với vận tốc tăng nhanh hơn bao giờ hết, điều đó cho thấy không gian không trống rõng mà được lấp đầy bởi năng lượng tối. Chính năng lượng tối đã đẩy cho vật chất ra xa khỏi nhau và làm cho vũ trụ giãn nở gia tốc. Ứng viên tự nhiên sáng giá cho sự tồn tại của năng lượng tối là năng lượng chân không. Khi các nhà vật lý áp dụng lý thuyết của cơ học lượng tử vào năng lượng chân không, nó dự đoán rằng có một mật độ cực lớn của năng lượng chân không, lớn hơn nhiều so với tổng năng lượng của tất cả các hạt cơ bản (tức vật chất mà chúng ta biết) trong vũ trụ. Nếu điều đó là đúng, thuyết tương đối rộng của Einstein gợi ý rằng năng lượng đó cũng có hiệu ứng hấp dẫn mạnh mẽ và hầu hết các nhà vật lý cho rằng điều đó sẽ dẫn tới sự bùng nổ của vũ trụ. May mắn thay, điều đó không xảy ra và vũ trụ vẫn giản nở rất chậm. Nhưng đó là một vấn đề cần được giải quyết đối với sự tiến bộ của vật lý cơ bản. Khác với những nhà khoa học khác cố gắng hiệu chỉnh những lý thuyết của cơ học lượng tử hoặc thuyết tương đối rộng để giải quyết vấn đề này, Wang và các cộng sự của ông là Unruh và Zhen Zhu (cũng là một nghiên cứu sinh PhD của UBC) gợi ý một cách tiếp cận khác. Họ tập trung vào mật độ lớn của năng lượng chân không đã được cơ học lượng tử dự đoán và tìm ra rằng có những thông tin quan trong về năng lượng chân không đã bị bỏ qua trong những tính toán trước đây. Tính toán của họ đưa ra một bức tranh hoàn toàn khác về vũ trụ. Trong bức tranh mới này, không gian mà chúng ta đang sống có sự biến động trên diện rộng. Tại mỗi điểm, nó có sự dao động giữa sự giãn nở và sự co lại. Khi dao động như vậy, hai điểm bất kỳ triệt tiêu sự giãn nở hoặc co lại lẫn nhau. Tuy vậy, vẫn có một hiệu ứng nhỏ khiến cho vũ trụ giãn nở chậm nhưng vẫn có gia tốc (giãn nở ngày càng nhanh). Nhưng nếu không gian và thời gian biến động, tại sao chúng ta không cảm thấy? "Việc này xảy ra ở qui mô cực nhỏ, nhỏ hơn hàng tỷ lần so với kích thước của một electron," Wang nói. "Điều này tương tự như những cơn sóng chúng ta thấy ở biển," Unruh bổ sung. "Chúng không bị ảnh hưởng bởi những chuyển động của từng nguyên tử riêng biệt trong đó." : Đầu năm nay, VACA cũng đã đăng một tin có tựa đề " ". Đây là hai nghiên cứu hoàn toàn độc lập, ngoài ra những ý tưởng này hiện mới chỉ là những cách tiếp cận để giải quyết những vấn đề còn tồn tại trong lý thuyết. Cho tới thời điểm bài viết này được đăng, mô hình về vũ trụ như chúng ta đã biết vẫn đang đứng vững.
Hercules A, nguồn bức xạ vô tuyến ngoài thiên hà
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=640:hercules-a-nguon-buc-xa-vo-tuyen-ngoai-thien-ha&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Những luồng phản lực ngoạn mục được tạo thành từ năng lượng hấp dẫn như bạn thấy trong tấm hình bên cạnh là hình ảnh kết hợp dữ liệu quan sát từ hai thiết bị quan sát hiệu quả: Camera trường rộng số 3 của kính thiên văn không gian Hubble và kính thiên văn vô tuyến mới nâng cấp của hệ thống kính cực lớn Karrl G.Jansky VLA ở New Mexico. Ở khoảng cách khoảng 2 tỷ năm ánh sáng, thiên hà elip này hiện lên ở trung tâm bức ảnh với màu vàng, hoàn toàn bình thường khi quan sát ở bước sóng nhìn thấy của kính Hubble. Thiên hà này có khối lượng gấp khoảng 1.000 lần khối lượng của Milky Way (thiên hà của chúng ta), vói lỗ đen trung tâm có khối lượng khoảng 2,5 tỷ lần khối lượng Mặt Trời, tức là gấp 1000 lần khối lượng của lỗ đen trung tâm Milky Way. Tuy nhiên trên thực tế, thiên hà mà nhìn thoáng có vẻ bình thường này lại được biết tới từ lâu là nguồn bức xạ vô tuyến mạnh nhất trong chòm sao Hercules. Phát ra lượng bức xạ vô tuyến gấp gần một tỷ lần Mặt Trời, thiên hà này là một trong những nguồn phát sóng vô tuyến ngoài thiên hà mạnh nhất trên bầu trời. Dữ liệu vô tuyến của VLA làm lộ ra những dòng phản lực trải rộng 1,5 triệu năm ánh sáng, làm sáng lên những thiên hà mà nó chạm tới. Các luồng phản lực là những dòng plasma năng lượng cao, các hạt hạ nguyên tử và từ trường được phóng đi gần với vận tốc ánh sáng từ vùng lân cận của lỗ đen. Vùng phía ngoài của cả hai luồng phản lực này có sự xuất hiện của các cấu trúc bất thường dạng vòng, gợi ý một lịch sử với nhiều vụ nổ từ lỗ đen siêu nặng ở trung tâm thiên hà. Phần trung tâm của hai luồng phản lực không thể nhìn thấy do tốc độ quá cao của vật chất, nó gây ra hiệu ứng tương đối tính khi tới mắt chúng ta. Ở những vùng đã xa khỏi thiên hà, phần đuôi của các dòng phản lực mất ổn định và chúng phân tách. Toàn bộ nguồn sóng vô tuyến này được bao quanh bởi một đám mây khí rất nóng phát xạ ra tia X, không được nhìn thấy trong bức ảnh tổng hợp bước sóng biểu biến và vô tuyến này. Quan sát của Hubble còn cho thấy một thiên hà elip khác nằm rất gần nguồn vô tuyến, có thể nó đang hợp nhất với thiên hà trung tâm. Nhiều thiên hà elip và xoắn khác được quan sát thấy trong duwxlieeuj của Hubble có thể là các thành viên của một quần thiên hà. Hercules A là thiên hà sáng nhất và nặng nhất trong quần này. (theo Space Daily)
Kính thiên văn không gian lớn nhất đã hoàn thành
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=1124:kinh-thien-van-khong-gian-lon-nhat-da-hoan-thanh&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Sau hai thập kỷ từ khi bắt đầu và xây dựng, kính thiên văn không gian James Webb (JWST) cuối cùng đã hoàn thiện và đang được đặt tại Trung tâm hàng không không gian Goddard của NASA.       James Webb là sự kế thừa phát triển từ kính thiên văn không gian Hubble. Nó sẽ bắt đầu được kiểm tra để bảo đảm nó có thể chịu đựng được những điều kiện ngoài không gian. Những kiểm tra đó sẽ bao gồm những chịu đựng về rung động, nhiệt độ thấp và tiếng ồn, cũng như những mô phỏng việc phóng nó ra ngoài không gian. Sau khi các thử nghiệm hoàn  thành, nó sẽ được gắn vào chắn nhiệt (bộ phận ngăn ánh sáng Mặt Trời và bảo đảm cho gương và các thiết bị luôn ở nhiệt độ dưới 50K) đưa vào tàu không gian để phóng lên theo dự kiến vào năm 2018. Gương chính của JWST được ghép lại từ 18 tấm gương phụ làm từ beryllium mạ vàng. Đây là một vật liệu mới được sử dụng, cho phép gương giữ được nguyên hình dạng và có thể hoạt động trong những điều kiện khắc nghiệt. Gương này có đường kính 6,5 met, trong khi hương của Hubble có đường kính chỉ 2,4 met. Các nhà khoa học sẽ sử dụng kính thiên văn này để nghiên cứu vũ trụ ở hai dải sóng ánh sáng đỏ và hồng ngoại. Đối tượng đầu tiên của nó sẽ là Alpha Centauri. Theo dự kiến, nó sẽ được phóng lên vào tháng 10 năm 2018 và sẽ mất 6 tháng để gửi được về những hình ảnh đầu tiên.
Chùm ảnh hội thảo ngày 25/3/2012 của VACA
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=462:chum-anh-hoi-thao-ngay-25-3-2012-cua-vaca&amp;catid=34:hoat-dong&amp;Itemid=136
Như chúng tôi đã đưa tin, hội thảo thiên văn "Ngày hội thiênvawn học Việt nam 2012" kỷ niệm 10 năm ngày thành lập CLB Thiên văn học trẻ Việt Nam (VACA) đã diễn ra thành công tốt đẹp vào chiều hôm qua ngày 25 tháng 3 năm 2012. Dưới đây là các hình ảnh về buổi hội thảo này.       Bắt đầu hội thảo Đặng Vũ Tuấn Sơn đọc diễn văn khai mạc Thạc sĩ Đặng Vũ Cảnh Linh phát biểu về hoạt động khoa học nghiệp dư và động viên phong trào nghiên cứu khoa học của các bạn trẻ Thuyết trình: Sự kì diệu của Vũ trụ và mục đích của Vật lý thiên văn hiện đại Diễn giả: Đặng Vũ Tuấn Sơn Giáo sư Chu Hảo chia sẻ về thực trạng công tác nghiên cứu khoa học tại Việt Nam. Nhiều bạn trẻ tới dự hội thảo, trong đó đặc biệt có cả người đã bắt xe từ tỉnh khác tới Hà Nội chỉ để tham gia hội thảo (Ban tổ chức rất vui và xin gửi lời cám ơn bạn) Thuyết trình: Dự án F-1 của FPT và tương lai hàng không vũ trụ Việt Nam Diễn giả: Vũ Trọng Thư Thuyết trình: Ngày tận thế dưới cái nhìn của Thiên văn học Diễn giả: Phạm Vũ Lộc Giải nhất cuộc thi "The Best of Vietnamese Young Astronomers 2012" được trao cho Hà Đắc Long Các bạn trẻ tham gia trả lời các câu hỏi thiên văn có thưởng và hỏi đáp kiến thức thiên văn cuối hội thảo Trao phần thưởng cho em Toàn Ngọc Ánh xuất sắc trả lời đúng nhiều câu hỏi của ban tổ chức. Trong hình, Vũ Trọng Thư (trái) đang trao huy hiệu của NASA. ----
Quan sát mưa sao băng Delta Aquarids 2013
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=725:quan-sat-mua-sao-bang-delta-aquarids-2013&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Mưa sao băng Delta Aquarids, hay còn gọi là mưa sao băng nam Delta Aquarids là trận mưa sao băng trung bình, diễn ra trong khoảng thời gian từ giữa tháng 7 đến giữa tháng 8 hàng năm, với cực điểm rơi vào khoảng đêm 27 đến 29. Mưa sao băng Delta Aquarids là một trận mưa sao băng cỡ trung bình, với mật độ khoảng 15 tới 20 sao băng mỗi giờ. Trận mưa sao băng được đặt tên theo tên của chòm sao nơi tập trung hầu hết các sao băng của nó: Aquarius. Tuy cả trận mưa sao băng kéo dài suốt một tháng, nhưng thực tế với mật độ nhỏ của nó người quan sát chỉ có thể thực sự có cơ hội quan sát nhiều sao băng vào thời gian lân cận cực điểm, rạng sáng ngày 28 và 29 tháng 7 này. Mặt Trăng bán nguyệt cuối tháng làm ảnh hưởng đôi chút tới việc quan sát nhưng không nhiều, điều quan trọng hơn là cần theo dõi thời tiết thật kĩ trước khi quan sát ( : nếu mắt bạn không thể nhìn thấy những ngôi sao bình thường trên bầu trời (do mây mù hay quá ô nhiễm khí quyển, ánh sáng) thì cũng có nghĩa bạn không thể nhìn thấy sao băng). Để quan sát, bạn không cần chuẩn bị bất cứ dụng cụ nào, chỉ cần sử dụng mắt thường, chọn nơi có góc nhìn rộng, ít ánh đèn chiếu trực tiếp vào mắt. Chọn tư thế quan sát sao cho mắt luôn hướng lên bầu trời (nằm ngửa, ngả lưng trên ghế dài ...) để quan sát. Tất nhiên, đừng quên quan sát thời tiết vì bạn chỉ có thể nhìn thấy sao băng nếu trời không mây, nhớ bảo vệ sức khỏe và an toàn cá nhân cho bạn khi quan sát vào thời gian như nêu trên. Bắt đầu từ 2h sáng, hãy nhìn lên bầu trời cao trên đầu bạn, chếch về hướng Nam, bạn sẽ thấy chòm sao Aquarius với các ngôi sao khá sáng như hình dưới, đó là tâm điểm của trận mưa sao băng này. Lưu ý rằng đây là trận mưa sao băng cỡ trung bình, nên bạn sẽ cần khá kiên nhẫn để quan sát được các sao băng của nó ngay cả khi thời tiết lý tưởng và ít ô nhiễm ánh sáng. Ngoài ra, nếu các độc giả yêu thiên văn quan tâm tới hiện tượng này, chúng tôi khuyên rằng hãy kiên nhẫn chờ đợi tới giữa tháng 8, chúng ta sẽ có thể quan sát mưa sao băng Perseids, trận mưa sao băng lớn nhất trong năm.
Khám phá mới hé lộ thêm về sự tạo thành thiên hà
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=1133:kham-pha-moi-he-lo-them-ve-su-tao-thanh-thien-ha&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Một nhà thiên văn từ Viện nghiên cứu Vật lý thiên văn thuộc Đại học John Moores - Liverpool (LJMU) đã khám phá ra một tập hợp sao mới ở trung tâm thiên hà Milky Way của chúng ta. Nó mang tới những cái nhìn mới vào những giai đoạn sớm của quá trình tạo thành thiên hà.   Khám phá đã làm sáng tỏ thêm về sự khởi đầu của các cụm sao cầu - những tập hợp khoảng 1 triệu sao, được tạo thành từ giai đoạn đầu của Milky Way. LJMU là một thành viên tham gia trong khảo sát kỹ thuật số bầu trời Sloan (SDSS) - một hợp tác quốc tế của các nhà khoa học đến từ rất nhiều tổ chức. Một trong các dự án của hợp tác này là APOGEE (Apache Point Observatory Galactic Evolution Experiment) - một dự án tập hợp dữ liệu hồng ngoại của hàng trăm nghìn sao trong Milky Way. Thông qua việc quan sát các sao ở dải sóng hồng ngoại trong khu vực trung tâm thiên hà, một lượng lớn sao đã được phát hiện, những sao như vậy trước đây chỉ có thể được nhìn thấy trong các cụm sao cầu. Gia đình sao mới phát hiện này có thể thuộc các cụm sao cầu đã bị phá huỷ trong những sự kiện lớn ở trung tâm thiên hà, trong trường hợp đó thì có thể trước đây Milky Way đã chứa số lượng cụm sao cầu lớn gấp 10 lần ngày nay. Điều này có nghĩa là một phần đáng kể các sau già thuộc vùng trong của thiên hà chúng ta ngày nay có thể đã được hình thành trong các cụm sao cầu đã bị phá huỷ sau đó. Ricardo Schiavon, nhà nghiên cứu chính của dự án nói: "Đây là một phát hiện rất thú vị, nó giúp chúng tôi giải quyết những câu hỏi rất hấp dẫn như bản chất của các sao ở vùng trong của Milky Way là gì, các cụm sao cầu tạo thành như thế nào và chúng có vai trò gì trong quá trình hình thành sớm của Milky Way - và mở rộng ra hơn là sự hình thành của các thiên hà khác." "Trung tâm của Milky Way vẫn còn được biết tới rất ít, vì tầm nhìn của chúng ta bị che khuất bởi sự can thiệp của bụi. Quan sát ở dải hồng ngoại - dải sóng ít bị hấp thụ hơn so với ánh sáng biểu kiến, APOGEE có thể nhìn thấy trung tâm thiên hà rõ ràng hơn so với các nhóm nghiên cứu khác." "Từ những quan sát này, chúng tôi có thể xác định thành phần hoá học của hàng nghìn sao, trong đó chúng tôi phát hiện một lượng đáng kể các sao khác với phần còn lại trong vùng trong của Milky Way, với sự có mặt của rất nhiều ni-tơ. Mặc dù không thể chắc chắn, chúng tôi cho rằng các sao này là hệ quả của sự phát huỷ các cụm sao cầu. Chúng cũng có thể là sản phẩm của những giai đoạn hình thành sao đầu tiên trong lịch sử thiên hà. Chúng tôi đang tiến hành các quan sát chi tiết hơn để kiểm tra những giả thuyết này."
Khó quan sát mưa sao băng Geminids
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=363:kho-quan-sat-mua-sao-bang-geminids&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Mưa sao băng Geminids là một trong hai trận mưa sao băng lớn nhấttrong năm, đồng thời là hiện tượng thiên văn cuối cùng của năm 2011 này. Tuy nhiên, Mặt Trăng sẽ là cản trở lớn cho những người quan sát để có thể thấy được các sao băng của hiện tượng hấp dẫn này.   Mưa sao băng Geminids (Geminids Meteor Shower) là hiện tượng diễn ra hàng năm do hàng loạt các mẩu đá nhỏ (thiên thạch) lao vào khí quyển Trái Đất khi Trái Đất đi qua khu vực quĩ đạo có chứa chúng, những mẩu đá này đều là phần tàn tích để lại trên đường đi của sao chổi 3200 Phaethon khi nó đi vào Hệ Mặt Trời. Đến nay, Geminids là trận mưa sao băng lớn nhất và đáng quan sát nhất mỗi năm, mặc dù ở những vùng có khí hậu lạnh và mây mù thì việc quan sát sẽ thường gặp nhiều khó khăn hơn so với khi quan sát mưa sao băng Perseids vào tháng 8. Năm nay cực điểm của trận mưa sao băng này sẽ rơi vào ngày 14 tháng 12 tới, không phải vào thời gian ban đêm của Việt Nam, do vậy cả đêm 13 và đêm 14 tháng 12 sẽ đều là những thời điểm bạn quan sát được trận mưa sao băng này. Vào hai tối này, từ 10 giờ tối bạn đã có thể thấy chòm sao Gemini (Song Tử) ở cao khoảng 30 độ trên chân trời phía Đông, ngay vị trí của Mặt Trăng. Càng về đêm chòm sao này sẽ càng lên cao và đó chínhlaf khu vực trung tâm của trận mưa sao băng này.   Vào cực điểm, Geminids có thể đạt tới 100-120 sao băng mỗi giờ hoặc thậm chí nhiều hơn. Tuy nhiên năm nay, thật đáng tiếc vì Mặt Trăng sẽ rất sáng ngay vị trí trung tâm của chòm sao này vào đêm 13 và chỉ thấp hơn một chút vào đêm 14 tháng 12, ánh sáng của nó sẽ che mờ các sao băng mà bạn có thể thấy. Do vậy ngay cả với điều kiện tời tiết tốt thì nếu bạn thấy được 15 đến 20 sao băng mỗi giờ vào hai đêm cực điểm nêu trên thì đó đã là một điều may mắn.   Chúc các bạn may mắn!
Vũ trụ đang chết dần
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=899:vu-tru-dang-chet-dan&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Một nhóm các nhà thiên văn học nghiên cứu dữ liệu từ hơn 200.000 thiên hà đã đo được năng lượng sản sinh ra từ một phần lớn của vũ trụ chính xác hơn bao giờ hết. Kết quả này thể hiện rõ ràng mức độ tạo ra năng lượng trong phần vũ trụ quanh chúng ta. Họ nhận thấy rằng năng lượng được hình thành trong vùng vũ trụ này ngày nay chỉ bằng một nửa so với 2 tỷ năm trước và sự suy giảm này thể hiện ở mọi bước sóng từ tử ngoại đến hồng ngoại dài. Vũ trụ đang chết dần. Nghiên cứu sử dụng quan sát của những kính thiên văn mạnh nhất thế giới gồm kính VISTA của ESO và hệ thống kính VST tại đài quan sát Paranal ở Chile. Ngoài ra, dữ liệu còn đến từ các kính thiên văn không gian gồm GALEX và WISE của NASA, và Herschel của ESA. Nghiên cứu là một phần của dự án nghiên cứu thiên hà và khối lượng (GAMA) - khảo sát đa bước sóng lớn nhất từng được thực hiện. "Chúng tôi đã sử dụng tất cả các kính thiên văn không gian cũng như mặt đất có thể để có thể đo năng lượng phát ra từ hơn 200.000 thiên hà ở phạm vi dải sóng rộng nhất có thể" - cho biết của Simon Driver (ICRAR, Đại học Tây Australia), đứng đầu dự án GAMA. Dữ liệu khảo sát đã được công bố với các nhà khoa học khắp thế giới hiện nay, bao gồm những đo đạc về năng lượng phát ra từ các thiên hà ở 21 bước sóng khác nhau, từ dải tử ngoại (cực tím) tới dải hồng ngoại dài. Lượng dữ liệu này giúp các nhà khoa học hiểu rõ hơn về sự hình thành và tiến hóa của các thiên hà. Toàn bộ năng lượng của vũ trụ được tạo ra từ Big Bang (vụ nổ lớn), với một phần trong đó tích lũy và cô đặc lại dưới dạng khối lượng. Các ngôi sao phát sáng bằng cách chuyến hóa khối lượng trở lại thành năng lượng, như mô tả trong phương trình nổi tiếng của Einstein: E=mc² (E là năng lượng, m là khối lượng và c là vận tốc ánh sáng trong chân không). Nghiên cứu của GAMA mang lại những thông tin chính xác về lượng năng lượng sinh ra trong vũ trụ ngày nay và trong những thời điểm trước đây trong quá khứ.   "Trong khi hầu hết năng lượng lan ra trong vũ trụ do hậu quả của Big Bang, các năng lượng bổ sung liên tục đến từ các ngôi sao qua phản ứng nhiệt hạch của hydro và heli", Simon Driver nói, "Năng lượng mới này hoặc bị hấp thụ bởi các hạt bụi trong không gian khi chúng di chuyển trong thiên hà mẹ, hoặc thoát vào không gian giữa các thiên hà và di chuyển cho tới khi chạm vào thứ gì đó, chẳng hạn như một ngôi sao khác, một hành tinh, hay đôi khi là một chiếc kính thiên văn." Thực tế thì việc vũ trụ đang hoạt động yếu dần đã được biết tới từ những năm 1990, nhưng nghiên cứu này chỉ ra rằng việc đó xảy ra là ở mọi bước sóng từ tử ngoại đến hồng ngoại dài, đủ thể hiện toàn bộ mức độ sản sinh năng lượng của vũ trụ. "Vũ trụ sẽ lịm dần, nó đang trôi vào tuổi già. Vũ trụ đã ngồi xuống sofa, kéo chăn lên và sắp trôi vào một giấc ngủ vĩnh viễn", Simon Driver kết luận. Các nhà khoa học hi vọng sẽ mở rộng nghiên cứu để lập nên một bản đồ về sự sản sinh năng lượng trong toàn bộ lịch sữ vũ trụ với việc sử dụng những công cụ mới như kính thiên văn vô tuyến lớn nhất thế giới, Square Kilometre Array (tổ hợp kính rộng 1km²), sắp được xây dựng tại Australia và Nam Phi. Kết quả nghiên cứu này được công bố tại Đại hội Hiệp hội thiên văn quốc tế lần thứ 29 tổ chức hôm thứ hai, ngày 10 tháng 8 năm 2015 tại Honolulu, Hawaii. Theo Science Daily
Manh mối mới về sự hình thành lỗ đen siêu nặng
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=1036:manh-moi-moi-ve-su-hinh-thanh-lo-den-sieu-nang&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Các nhà vật lý thiên văn đã có một bước tiến lớn trong việc hiểu rõ hơn về sự hình thành của các lỗ đen siêu nặng. Sử dụng dữ liệu từ Hubble và hai kính thiên văn không gian khác, các nhà nghiên cứu Italia đã tìm ra bằng chứng tốt nhất từng có về những "hạt giống" đầu tiên của những thiên thể khổng lồ này.   Trong nhiều năm các nhà thiên văn học đã tranh luận về cách mà thế hệ lỗ đen siêu nặng sớm nhất đã hình thành một cách rất nhanh sau Big Bang. Tới nay, một nhóm nghiên cứu Italia đã xác định được hai đối tượng trong vũ trụ sớm có vẻ là khởi điểm của các lỗ đen siêu nặng sớm nhất. Chúng là hai ứng viên tốt nhất cho hạt giống ban đầu của lỗ đen siêu nặng từng được tìm thấy. Nhóm nghiên cứu sử dụng các mô hình máy tính và áp dụng một phương pháp phân tích mới để xử lý dữ liệu từ đài quan sát Chandra X-ray của NASA, kính thiên văn không gian Spitzer của NASA và kính thiên văn không gian Hubble của NASA/ESA để tìm kiếm và xác định hai đối tượng này. Cả hai ứng viên hạt giống lỗ đen đều được quan sát vào thời điểm dưới 1 tỷ năm sau Big Bang và có khối lượng ban đầu khoảng 100.000 lần khối lượng Mặt Trời. "Khám phá của chúng tôi, nếu được xác nhận, sẽ giải thích cách mà những lỗ đen quái vật này hình thành," Fabio Pacucci, tác giả chính của nghiên cứu cho biết. Kết quả mới này giúp cho việc giải thích tại sao chúng ta có thể thấy các lỗ đen siêu nặng ở thời điểm dưới 1 tỷ năm sau Big Bang. Có hai lý thuyết chính giải thích sự hình thành của các lỗ đen siêu nặng trong vũ trụ sớm. Một lý thuyết giả định rằng các hạt giống lỗ đen phát triển từ các lỗ đen có khối lượng khoảng 10 đến 100 lần khối lượng Mặt Trời, xuất phát từ sự sụp đổ của một sao nặng. Sau khi được tạo thành, lỗ đen lớn lên thông qua những vụ sáp nhập với các lỗ đen nhỏ và việc hút khí từ những thiên thể quanh nó. Tuy nhiên, những lỗ đen như thế cần phải lớn lên với một tốc độ khác thường để đạt được khối lượng của các lỗ đen siêu nặng đã được khám phá ra trong một tỷ năm đầu tiên của vũ trụ. Phát hiện mới ủng hộ một kịch bản khác cho rằng có những hạt giống có khối lượng tối thiểu 100.000 lần khối lượng Mặt Trời đã hình thành trực tiếp tự sự sụp đổ hấp dẫn của các đám mây khí. Trong trường hợp này sự lớn lên của các lỗ đen được hậu thuẫn bởi một bước nhảy vọt ngay từ khởi đầu và do đó chúng lớn lên nhanh hơn. Andrea Ferrara, một đồng tác giả của nghiên cứu nói: "Có rất nhiều tranh cãi về con đường phát triển của những lỗ đen này. Nghiên cứu của chúng tôi gợi ý rằng chúng ta đang tập trung được vào một câu trả lời, đó là các lỗ đen khởi đầu rất lớn và lớn lên với tốc độ bình thường thay vì khởi đầu nhỏ và lớn lên với tốc độ rất cao." Một đồng tác giả khác là Andrea Grazian giải thích: "Các hạt giống lỗ đen cực khó để tìm được cũng như xác nhận chúng. Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ rằng nghiên cứu này đã tìm ra hai ứng viên tốt nhất có thể." Mặc dù cả hai ứng viên này đều phù hợp với dự đoán lý thuyết, các quan sát chi tiết hơn vẫn là cần thiết để xác định bản chất thực sự của chúng. Để hoàn toàn tách biệt được hai giả thuyết như đã nêu, việc tìm ra nhiều ứng viên hơn cũng là điều không thể thiếu. Nhóm nghiên cứu dự định tiến hành các quan sát tiếp theo ở bước sóng tia X và hồng ngoại để kiểm tra xem liệu hai đối tượng này có thực sự có những tính chất được dự đoán của các hạt giống lỗ đen hay không. Các đài quan sát sắp được đưa vào hoạt động như kính thiên văn không gian James Webb của NASA/ESA/CSA và Kính thiên văn cực lớn của châu Âu chắc chắn sẽ đánh dấu một bước đột phá trong lĩnh vực này với việc xác định các lỗ đen nhỏ hơn và xa hơn.
Nước đóng băng trên vùng tối của Mặt Trăng
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=400:nuoc-dong-bang-tren-vung-toi-cua-mat-trang&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Vệ tinh nghiên cứu Mặt Trăng LRO (Lunar Reconnaissance Orbiter) của NASA mới đây đã tiết lộ thêm một số điều về những khu vực thuộc Bắc và Nam cực thuộc vùng tối của Mặt Trăng, các nhà nghiên cứu cho biết. Chương trình lập bản đồ Mặt Trăng LAMP (Lyman Alpha Mapping Project) thuộc LRO được phát triển bởi viện nghiên cứu Tây Nam tại San Antonio sử dụng một phương pháp mới để tìm hiểu những khu vực luôn luôn tối trên Mặt Trăng, biến những thứ vô hình thành hữu hình. Các bản đồ được lập bởi LAMP ở dải sóng tử ngoại cho thấy những vùng tối không được chiếu sáng như các vùng nhận được ánh sáng Mặt Trời mà ta có thể thấy bằng mắt thường. Các vùng tối này có những biểu hiện cho thấy có sự có mặt của nước đóng băng trên bề mặt thiên thể. Randy Gladstone, tác giả của nghiên cứu cho biết "Kết quả của chúng tôi gợi ý rằng có khoảng từ 1 tới 2% nước đóng băng tại các vùng luôn tối". Việc tìm thấy nước đóng băng làm giàu thêm sự hiểu biết của chúng ta về lượng nước có mặt trên Mặt Trăng, các nhà nghiên cứu cho biết. Những khám phá của LRO sẽ là cơ sở rất quan trọng cho tương lại về một căn cứ lâu dài của loài người trên Mặt Trăng. Việc có sự tồn tại của nước và các khoáng chất khác sẽ làm giảm hẳn những tốn kém trong việc vận chuyển vật liệu từ Trái Đất tới căn cứ Mặt Trăng. (Theo Spacedaily)
Mô hình cho sự ra đời của Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=838:mo-hinh-cho-su-ra-doi-cua-sao-thien-vuong-va-sao-hai-vuong&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Một nhóm nghiên cứu Pháp - Mỹ đứng đầu bởi viện UTINAM (CNRS/Đại học Franche-Comté) vừa đề xuất một giải pháp cho thành phần hóa học còn nhiều thắc mắc của Sao Thiên Vương và Sao hải Vương, qua đó cung cấp thêm manh mối về sự hình thành của chúng. Các nhà nghiên cứu chú ý tới vị trí của hai hành tinh ngoài cùng này và đề xuất mô hình mới về quá trình chúng được hình thành. Kết quả của họ đã được công bố trên tạp chí Vật lý thiên văn (Astronomical Journal) hôm 20 tháng 9. Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương, các hành tinh ngoài cùng của Hệ Mặt Trời, cả hai đều có khối lượng khoảng 15 lần khối lượng Trái Đất, bao gồm 90% băng và rất giàu carbon. Vì những đặc điểm này, sự ra đời của chúng vẫn còn chưa được hoàn toàn sáng tỏ cho tới ngày nay. Các mô hình trước đây về sự hình thành chúng cũng như các quan sát phần ngoài của Hệ Mặt Trời không thể giải thích tại sao chúng lại được tạo thành tại khu vực mà chúng ta thấy chúng ngày nay. Khu vực này ở rất xa Mặt Trời không có đủ vật chất để tạo thành Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương đủ nhanh trước khi tinh vân tiền-Mặt Trời tan rã. Một khi tinh vân đã tan rã, hai hành tinh này sẽ không còn có thể bồi tụ khí để hình thành. Đài quan sát không gian Herschel gần đây tập trung vào các thành phần đồng vị của Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương, đặc biệt là tỷ lệ deuteri-hidro (DH), một dấu vết được sử dụng trong lĩnh vực hành tinh học để mô phỏng khởi điểmcủa các nguyên tố tạo thành Hệ Mặt Trời. Tỷ lệ đồng vị này phụ thuộc rất nhiều vào nhiệt độ của tinh vân tiền Mặt Trời. Nó thấp khi ở gần Mặt Trời và tăng dần theo khoảng cách. Mô hình động lực học gợi ý rằng Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương được tạo thành ở khu vực có cùng khoảng cách với các sao chổi và do đó có tỷ loeej D/H cao. Thật ngạc nhiên rằng các phép đo của Herschel cho thấy tỷ lệ D/H ở hai hành tinh này thấp hơn nhiều so với tỷ lệ đo được ở các sao chổi. Nghiên cứu này goiair quyết tất cả các vấn đề cùng lúc, bằng cách đề xuất một mô hình mới dựa trên những giả lập chi tiết về sự phân bố và vận chuyển các nguyên tố biến động nhiều nhất trong tinh vân tiền Mặt Trời (H O, CO và N ). Những giả lập này cho thấy sự có mặt của chất rắn trong những khu vực nơi nhiệt độ tinh vân đủ thấp cho sự ngưng tụ khí. Kết quả cho thấy Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương dường như hình thành trên khu vực của CO, điều này giải thích tại sao hai hành tinh này chưa nhiều chất rắn giàu carbon nhưng lại không hề có các khi N. Bồi tụ lượng lớn CO với ít H O khiến cho tỷ lệ D/H như đã đo được trong khí quyển của các hành tinh này. Hơn nữa, do N2 dưới dạng băng nằm ở xa hơn, các hành tinh đều hình thành với lượng N ít. Mô hình được đề xuất cho lượng C và N phù hợp với kết quả quan sát, và xác nhận sự hình thành của Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương ở khu vực xa này. Theo Science Daily
Bài giảng: Sóng hấp dẫn
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=1010:bai-giang-song-hap-dan&amp;catid=58:bai-giang&amp;Itemid=15875
Sóng hấp dẫn là gì? Nó có đặc tính gì? Nó có vai trò ra sao đối với cấu trúc của vũ trụ cũng như đối với sự phát triển của khoa học? Nó đã được phát hiện ra sao? Đó là những câu hỏi được rất nhiều người đặt ra khi sóng hấp dẫn lần đầu tiên được ghi nhận vào tháng 9 năm 2015 và chính thức công bố tháng 2 năm 2016. Đến nay, vẫn còn tồn tại nhiều cách hiểu sai về việc ghi nhận và tính chất của đối tượng vật lý này do nhiều bài báo và tài liệu diễn đạt chưa chính xác và đầy đủ. Bài giảng sau đây được thực hiện ngày 27 tháng 03 năm 2016 nhân dịp kỷ niệm 14 năm thành lập của VACA, đồng thời hơn 1 tháng sau khi quan sát sóng hấp dẫn được công vố từ đài quan sát LIGO. Bài giảng sẽ đưa lại cái nhìn chính xác và rõ nét về đối tượng vật lý này. Để dễ hiểu cho tất cả mọi người, bài giảng đã được cố gắng thể hiện một cách rõ ràng, tránh các công thức toán học phức tạp và khó hiểu. Mặc dù vậy, để mô tả một cách chính xác một vấn đề trong khoa học hiện đại, việc sử dụng các thuật ngữ cũng như lướt nhanh qua các lý thuyết vật lý cơ bản là không tránh khỏi. Do đó có lẽ cũng cần ở người xem sự tập trung nhất định.  
Tuyển sinh lớp học thiên văn tại Hà Nội
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=766:tuyen-sinh-lop-hoc-thien-van-tai-ha-noi&amp;catid=21&amp;Itemid=136
Hội thiên văn học trẻ Việt Nam (VACA) thông báo kế hoạch tổ chức khóa học mang tên "Thiên văn học: Từ bầu trời tới vũ trụ". Đây là chương trình học gồm 8 buổi, mang tới cho người học kiến thức tổng quát nhất về bầu trời và vũ trụ cũng như hoàn thiện hơn thế giới quan khoa học. Khóa học dự kiến tổ chức từ giữa tháng 12 năm 2013.     Khác với sự nhầm tưởng của nhiều người, Thiên văn học không thuần túy là quan sát những vẻ đẹp của bầu trời hay những hiện tượng thú vị quanh nó. Trải qua hàng nghìn năm phát triển cùng nhân loại, Thiên văn học đã chứng minh được vai trò của mình trong chính cuộc sống hàng ngày của mỗi chúng ta. Vô vàn những thiết bị và ứng dụng bạn đang sử dụng mỗi ngày đã được tạo ra nhờ sự đóng góp không nhỏ của quá trình nghiên cứu vũ trụ. Hẳn rằng không phải chỉ vì niềm vui thích mà các cường quốc trên thế giới đều lao đầu vào cuộc đua không gian đầy tốn kém và mạo hiểm. Chương trình giáo dục thiên văn cơ bản đã được VACA bắt đầu thực hiện tại Việt Nam bắt đầu từ năm 2008 và tiếp tục được chỉnh lý, hoàn thiện thêm vào thời gian năm 2012, 2013. Tính từ giữa năm 2012, chương trình này đã tổ chức thành công 6 khóa học, gồm tổng cộng hơn 80 học viên. Để làm phong phú hơn nội dung đào tạo cũng như nâng cao chất lượng với từng bài giảng, chúng tôi đã đưa vào nhiều chỉnh lý, bổ sung trong chương trình và tạo nên khóa học mới với tên gọi như nêu trên. - Trang bị kiến thức tổng quát và chính xác nhất về thiên văn học và vũ trụ học hiện đại. Đặc biệt, khóa học sẽ giúp học viên tránh được rất nhiều hiểu nhầm do sự sai lệch trong nhiều tài liệu ngày nay. - Nâng cao nhận thức khoa học, bổ sung các phương pháp tư duy liên quan: tư duy logic, tư duy phản biện... - Mở rộng và bổ sung thế giới quan một cách đầy đủ và chính xác cho người học. : 8 buổi x 90 phút : Chiều thứ hai và thứ tư hàng tuần từ 15h00 đến 16h30, bắt đầu từ ngày 14/12/2013 : Văn phòng VACA, số 90B phố Khương Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội. : 440.000 VND/khóa Giảng viên: - Chủ tịch VACA - Nghiên cứu và phổ biến kiến thức thiên văn từ năm 2002 Các nội dung chính của khóa học - Thiên văn học: vai trò trong tiến trình lịch sử của con người và các ứng dụng ngày nay - Cơ bản về kĩ năng quan sát bầu trời, sự phân định của các chòm sao. - Bản chất của các chuyển động - Chuyển động của các hành tinh - Trái Đất, Hệ Mặt Trời và vị trí của chúng ta trong vũ trụ - Tiến hóa của một ngôi sao - Thiên hà và các cấu trúc lớn hơn của vũ trụ - Những vấn đề của vật lý và vũ trụ học hiện đại - Vài nét vũ trụ quan phương Đông; Phong Thủy dưới góc nhìn khoa học ngày nay. Hiện khóa học đang bắt đầu tuyển sinh, để đăng kí các bạn vui lòng gửi thư về địa chỉ hoặc gọi điện hẹn trước qua số điện thoại 091.530.1116 (Vui lòng chỉ gọi, vì chúng tôi không thể trả lời tin nhắn). Bạn cũng có thể đăng kí thông tin trực tuyến bằng Khóa học tuyển sinh với số lượng ít, do vậy các bạn có quan tâm nên chủ động liên hệ sớm để chúng tôi có thể sớm sắp xếp việc tổ chức lớp. Trân trọng
Quỷ bụi khổng lồ được chụp trên Sao Hỏa
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=481:con-quy-bui-khong-lo-duoc-chup-tren-sao-hoa&amp;catid=27&amp;Itemid=135
Một cơn lốc bụi (quỷ bụi/dust devil) trên Sao Hỏa cao tới 20km đã được ghi lại cho thấy nó đang quét qua vùng Amazonis Planitia phía Bắc Sao Hỏa vào ngày 14 tháng 3. Bức ảnh đã được chụp bởi camera HiRISE (High Resolution Imaging Science Experiment) trên vệ tinh Mars Reconnaissance Orbiter của NASA.   Lốc bụi trên Trái Đất cũng xảy ra như trên Sao Hỏa. Chúng là các dòng khí nóng chuyển động xoáy, kéo bụi trên mặt đất lên và nhờ đó người ta có thể nhìn rõ hình dạng của nó. Khác với lốc xoáy thông thường (torrnado), lốc bụi xuất hiện khi mặt đất được làm nóng lên dưới ánh Mặt Trời vào những ngày nắng nóng. Khi mặt đất nhận đủ nhiệt và làm cho lớp không khí ngay sát đất quá nóng so với lớp không khíngay phía trên thì không khí bắt đầu chuyển động xoáy lên trên và đưa luôn cát, bụi dưới đất cuốn lên theo. Bức ảnh được chụp vào cuối mùa xuân (ở Bắc bán cầu), chỉ hai tuần trước ngày xuân phân, khoảng thời gian một phần vĩ độ phía Bắc được làm nóng mạnh mẽ nhất bởi ánh Mặt Trời. Mars Reconnaissance Orbiter bắt đầu chụp ảnh hành tinh đỏ từ năm 2006 với 6 thiết bị của nó. Hiện nay trong một nhiệm vụ mở rộng, vệ tinh này tiếp tục tìm hiểu về môi trường lâu năm của hành tinh này cùng các tác động của gió, các va chạm thiên thạch và sự đóng băng theo mùa lên bề mặt của hành tinh. Chương trình này đã đưa lại nhiều thông tin về Sao Hỏa hơn tất cả các tàu thăm dò trước đây cộng lại. Hơn 21.700 bức ảnh đã được chụp bởi HiRISE có thể được xem trực tiếp trên website của chương trình này tại địa chỉ http://hirise.lpl.arizona.edu Mỗi bức ảnh này chụp một diện tích khoảng vài km², nó có thể cho phép nhìn thấy những chi tiết nhỏ cỡ một cái bàn. (theo Science Daily)  
Quan sát bầu trời và mưa sao băng Perseids tối 12/8/2012
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=572:quan-sat-bau-troi-va-mua-sao-bang-perseids&amp;catid=21&amp;Itemid=136
Chúng tôi xin thông báo kế hoạch quan sát bầu trời và mưa sao băng Perseids tại Hà Nội tối ngày 12 tháng 8. Do điều kiện thời tiết không lý tưởng, mong các độc giả quan tâm đọc kĩ các hướng dẫn dưới đây.   Theo dự báo thời tiết những ngày tới. Ngày 12 và 13 tháng 8 này, thời gian cực điểm của trận mưa sao băng Perseids, mây mù và mưa vẫn xuất hiện ở một phần khá lớn lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt là các tỉnh đồng bằng phía Bắc. Như vậy, khả năng quan sát trận mưa sao băng này đã giảm đi đáng kể so với những dự đoán ban đầu của chúng tôi. Mặc dù vậy, theo dự kiến ban đầu và trong chương trình học tập của hai lớp học thiên văn cơ bản do VACA kết hợp cùng Giáo dục Khai Sáng tổ chức, chúng tôi vẫn tiến hành buổi quan sát như đã thông báo. Dưới đây là các nội dung chính. : - Một số sao băng ở giai đoạn sớm của mưa sao băng Perseids - Một số chòm sao cơ bản trên bầu trời - Quan sát Sao Thổ và Sao Hỏa qua kính thiên văn : Công viên Nghĩa Đô (cổng chính tại Nguyễn Văn Huyên, Cầu Giấy, Hà Nội, đối diện bảo tàng dân tộc học) : 18h45 ngày chủ nhật 12 tháng 8 năm 2012 : - Học viên hai lớp thiên văn hè 2012 - Tất cả người yêu thiên văn ở mọi lứa tuổi, ngành nghề có quan tâm (mở cửa tự do, không cần đăng kí trước)   - Do điều kiện thời tiết còn nhiều biến động như đã nêu, các độc giả yêu thiên văn hãy hết sức lưu ý quan sát thời tiết trước khi tham gia sự kiện này. Nếu trời có mây quá mù hoặc có mưa, chúng ta sẽ không có cơ hội quan sát và chúng tôi sẽ hoãn sự kiện này - Trong trường hợp trời ít mây và không có mưa, người tham gia có mặt tại cổng chính Công viên Nghĩa Đô trên phố Nguyễn Văn Huyên (nơi đánh dấu hình tròn đỏ trong hình dưới) theo thời gian như nêu trên. Quá thời gian trên, người tham gia có thể trực tiếp vào công viên, đi theo đường ven hồ tới ngọn đồi ở vị trí có dấu X như trong hình. Với các độc giả không ở tại Hà Nội hoặc không có điều kiện tham gia sự kiện này của chúng tôi, các bạn có thể tự theo dõi thời tiết và quan sát tại nơi mình ở theo các hướng dẫn và lưu ý chúng tôi đã đưa tại địa chỉ sau: để biết thêm chi tiết về hoạt động này, xin gọi số: 0915301116 (Mr.Sơn/ vui lòng gọi trực tiếp, không nhắn tin).
Lịch sử VACA
https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&amp;view=article&amp;id=912:lich-su-vaca&amp;catid=31&amp;Itemid=229
      Cho tới vài năm đầu tiên của thế kỉ 21, sự phát triển của thiên văn học tại Việt Nam vẫn còn ở mức rất thấp. Có thể dễ dàng nhìn thấy những dẫn chứng cho điều này ở việc tổng số đầu sách về thiên văn bằng tiếng Việt từng được xuất bản chỉ khoảng vài chục cuốn, trong đó còn nhiều cuốn đưa thông tin chưa chính xác; một tỷ lệ khá lớn học sinh và sinh viên các ngành kĩ thuật còn chưa từng nghe thấy thuật ngữ "thiên văn học". Trong nước khi đó Hội thiên văn vũ trụ Việt Nam cũng đã được thành lập và cũng có một số nhà thiên văn chuyên nghiệp cũng như nghiệp dư tham gia nhưng các hoạt động còn chưa mang tính phổ biến rộng rãi. Mặt khác vào thời gian này internet và các công cụ của nó còn chưa phát triển nhất là ở Việt Nam nên không có nhiều điều kiện cho việc thu nhận thông tin. Những người yêu thích thiên văn và vũ trụ học trong nước tuy không ít nhưng với những điều kiện nêu trên, việc nghiên cứu và phát triển nhận thức thiên văn gặp rất nhiều khó khăn. Đầu thế kỉ 21 chính là thời gian mà xã hội cũng như công nghệ trong nước phát triển rất nhanh, và đó là thời điểm những người cùng mối quan tâm có nhiều điều kiện hơn để gặp gỡ, trao đổi, và tập hợp lại thành tổ chức. Đầu năm 2002, một nhóm thanh niên gồm hầu hết là sinh viên các ngành khoa học, kĩ thuật đang học tập và công tác tại Hà Nội, sau nhiều trao đổi về vật lý, thiên văn (chủ yếu trên diễn đàn Trí tuệ Việt Nam Online (nay là Trái tim Việt Nam - TTVNOnline) đã đi tới thống nhất lập ra Câu lạc bộ Thiên văn học (tên ban đầu của VACA), tổ chức thiên văn đầu tiên hoạt động trong lĩnh vực giới thiệu và phổ biến kiến thức thiên văn. Trong thời gian đầu, câu lạc bộ (CLB) sử dụng phương tiện hoạt động chính là diễn đàn. Diễn dàn ban đầu của CLB là box "Thiên văn học" thuộc forum TTVNOnline. Ngày thành lập box này cũng được chọn là ngày thành lập chính thức của CLB (29/03/2002). Trong buổi họp đầu tiên, CLB thống nhất bầu ông Nguyễn Tuấn Anh làm chủ tịch* đầu tiên. Sau vài tháng hoạt động dưới hình thức chính là trao đổi online trên forum và một số sinh hoạt offline nhỏ, CLB đã thu hút được hàng chục thanh viên tham gia thuộc nhiều địa phương và tỉnh thành trong cả nước từ Bắc tới Nam. Đây chính là tiền đề quyết định không thể thiếu cho việc phát triển hoạt động thiên văn rộng rãi (nhất là ở phạm vi nghiệp dư) tại Việt Nam trong những năm sau này.     Cuối năm 2002, đầu năm 2003, CLB Thiên văn học đã có thêm sự tham gia của ngày một nhiều thành viên là những thanh niên yêu khoa học nói chung và thiên văn học nói riêng khắp cả nước. Các thảo luận và trao đổi thông tin trên diễn đàn đã ở số lượng khá lớn dù chưa thật sự đầy đủ và chi tiết cũng do điều kiện thông tin còn chưa phát triển như trên đã nêu. Ngoài ra thời gian này CLB cũng tổ chức nhiều hoạt động họp mặt và thảo luận kiến thức.   Đầu năm 2004, với mục đích phát triển rộng rãi hơn việc phổ biến kiến thức thiên văn học và chuẩn hóa các thông tin đưa đến với người yêu thiên văn cả nước, CLB đi sâu vào việc tạo ra những tập tài liệu chuẩn kiến thức bằng tiếng Việt do các thành viên CLB tự biên soạn qua tham khảo nhiều nguồn tài liệu uy tín của các tổ chức thiên văn nước ngoài. Tháng 8 năm 2004, CLB chính thức đổi tên thành Câu lạc bộ Thiên văn học trẻ Việt Nam  và bầu ông Đặng Vũ Tuấn Sơn làm chủ tịch. Đây là những bước đầu tiên cho việc phổ biến kiến thức thiên văn một cách chính xác nhất tới người yêu thiên văn ở Việt Nam.   Tháng 11 năm 2004, VACA phát hành CD thiên văn học đầu tiên tập hợp các thông tin thiên văn cơ bản dành cho những người mới tìm hiểu thiên văn. Tuy còn khá thô sơ do điều kiện thời gian cũng như kĩ thuật nhưng đây đã có thể coi là ấn phẩm thiên văn hữu ích lúc bấy giờ và bước đầu ghi nhận sự trưởng thành của câu lạc bộ. Tháng 8 năm 2005, VACA chính thức đưa vào hoạt động website Thiên văn Việt Nam (http://thienvanvietnam.org*). Có thể khẳng định đây là website đầu tiên về thiên văn học bằng tiếng Việt, và là phương tiện góp phần quan trọng hàng đầu trong việc phổ biến kiến thức thiên văn qua internet tại Việt Nam. Với sự phát triển không ngừng về chất lượng sau khi thành lập website, tháng 10 năm 2005 lần đầu tiên VACA tổ chức "Ngày hội thiên văn Việt Nam" nhân tuần lễ không gian thế giới World Space Week. Sự kiện này sau này tiếp tục được tổ chức vào tháng 10 các năm tiếp theo cho tới năm 2008, với sự tham gia của hàng trăm người yêu thiên văn tại Hà Nội, đánh dấu một bước tiến đáng mừng trong việc nâng cao nhận thức thiên văn học tại Việt Nam. Đặc biệt trong khoảng thời gian từ năm 2005 đến năm 2007, ngoài sự nỗ lực của tất cả những thành viên câu lạc bộ, thành công của các buổi hội thảo, nói chuyện có sự đóng góp không thể thiếu bởi sự giúp đỡ của các nhà vật lý và thiên văn đi trước: Nhà vật lý quá cố Đặng Mộng Lân, Giáo sư-Viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu, Nhà vật lý Phạm Văn Thiều, Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải ...   Như đã nêu trên, trong thời gian này, VACA tiếp tục tổ chức nhiều hoạt động lớn như các buổi hội thảo, nói chuyện, phổ biến và trao đổi kiến thức thiên văn cho người yêu thiên văn trong nước, đặc biệt tại Hà Nội. Những hoạt động này cùng với sự có mặt của website Thienvanvietnam.org đã trở thành phong trào tiên phong cho sự phát triển nhận thức và sự quan tâm tới thiên văn của nhiều người thuộc nhiều thành phần xã hội. Đây cũng là giai đoạn có sự ra đời của nhiều câu lạc bộ thiên văn lớn nhỏ tại nhiều địa phương khắp cả nước qua những tiền đề mà VACA đã tạo ra, một vài CLB trong số đó do các hội viên trưởng thành từ VACA tự thành lập đến nay vẫntiếp tục hoạt động. Đây cũng là một bước tiến đáng ghi nhận với cộng đồng người yêu thích thiên văn trong nước.   Năm 2008, VACA có một số hoạt động kết hợp cùng Hội trí thức Khoa học và Công nghệ trẻ Việt Nam (VAYSE). Với sự hợp tác của các công sự từ VAYSE, hoạt động thành công nhất mà VACA đã thực hiện được là tổ chức lớp học thiên văn cơ bản vào tháng 7 năm 2008. Lớp học có sự tham gia của các học viên trẻ và đã cấp chứng chỉ cho 15 học viên vào Ngày hội thiên văn Việt Nam tháng 10 năm 2008.   Tháng 3 năm 2009, VACA tổ chức hội thảo thiên văn kỉ niệm 7 năm thành lập. Đây cũng là sự kiện đánh dấu tạm ngừng hoạt động offline của câu lạc bộ sau 7 năm, chuyển qua giai đoạn tiếp theo tập trung cho việc hoàn thiện website cũng như các hoạt động trên internet để đưa kiến thức và thông tin thiên văn ngày càng đầy đủ tới phạm vi rộng hơn của những người có quan tâm. Năm 2009 bắt đầu thời gian tạm dừng hầu hết các hoạt động offline của VACA. Câu lạc bộ tập trung vào các hoạt động trên website và diễn đàn. Đây là một khoảng thời gian quan trọng, bổ sung ngày một đầy đủ và chi tiết các thông tin, kiến thức về thiên văn trên trang chủ của website, thêm một lần khẳng định uy tín hàng đầu của website Thienvanvietnam.org trong việc giới thiệu và phổ biến kiến thức thiên văn tại Việt Nam. Trong khoảng thời gian từ đầu năm 2009 đến cuối năm 2011, mặc dù hoạt động offline rất ít được thực hiện nhưng số lượng người quan tâm và tham gia diễn đàn VACA vẫn tăng lên đáng kể, và quan trọng nhất là đối tượng tham gia không còn chỉ là giới trẻ (học sinh/sinh viên) mà còn có rất nhiều người ở nhiều lứa tuổi, ngành nghề khác nhau, từ học sinh cấp 2, cấp 3 cho tới người đã lớn tuổi, không chỉ người hoạt động trong lĩnh vực khoa học kĩ thuật mà còn cả người thuộc các ngành kinh tế, văn hóa, báo chí, pháp luật ... Cũng trong gần 3 năm này, ngoài việc hoàn thiện nội dung của website, VACA cũng đồng thời góp phần phổ biến rộng rãi kiến thức cơ bản về thiên văn qua những tác phẩm như bản đồ Vũ trụ, Thiên hà, DVD kiến thức và phim thiên văn... Cùng với sự phát triển không ngừng của các hoạt động thiên văn trong nước từ các tổ chức tới các cá nhân, đến cuối năm 2011 VACA bắt đầu quay trở lại với các hoạt động trước đây với qui mô lớn hơn và mức độ chuyên môn cao hơn để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu thiên văn của những người có quan tâm ngày một nhiều hơn. Tháng 3 năm 2012, VACA tổ chức kỉ niệm tròn 10 năm thành lập, một chặng đường thật sự rất dài đối vói một tổ chức khoa học phi lợi nhuận. Đây chính là một bước quan trọng để đưa các hoạt động của câu lạc bộ tới một qui mô cao hơn, cũng như ghi nhận lại những gì mà VACA cũng như mỗi người đã và đang gắn bó cùng câu lạc bộ đã đóng góp cho sự phát triển của Thiên văn học Việt Nam trong những bước đi đầu tiên của mình. Năm 2012 là một năm có nhiều hiện tượng thiên văn đáng chú ý, cùng với việc tổ chức quan sát các hiện tượng này VACA đồng thời phát triển mạnh hoạt động giáo dục kiến thức thiên văn. Trong thời gian này, VACA tổ chức nhiều hội thảo, nhiều buổi nói chuyện về thiên văn học và vũ trụ học, nâng cao nhận thức và vũ trụ quan cho người trẻ trong nước, đặc biệt tại Hà Nội. Tháng 7 năm 2012, VACA tổ chức một số lớp học giáo dục kiến thức thiên văn học cơ bản cho học sinh và sinh viên tại Hà Nội với sự tham gia hỗ trợ của một số người trẻ tuổi yêu khoa học và giáo dục.       Từ đó tới nay, VACA tiếp tục đi sâu vào hoạt động giáo dục, phổ biến kiến thức thông qua các buổi hội thảo, lớp học thiên văn, các dự án (Từ điển thiên văn học, tạp chí thiên văn, ...) đúng với mục tiêu và quan điểm ban đầu:   Nửa cuối năm 2014, VACA liên tục tổ chức các buổi chia sẻ kiến thức miễn phí tại Hà Nội với mong muốn phổ biến kiến thức thiên văn học tới đông đảo người yêu khoa học trẻ tuổi. Đồng thời, thông qua chuỗi hoạt động này, VACA cũng tập trung hoàn thiện nội dung các bài giảng để phục vụ việc giáo dục thiên văn theo mô hình lớp học. Cho tới cuối năm 2014, mô hình đã ứng dụng thành công tại Hà Nội với qui mô vừa và nhỏ, làm tiền đề phát triển ra các qui mô lớn hơn và phát triển ra ngoài phạm vi Hà Nội.     Tháng 1 năm 2015, VACA tham gia thành lập CLB Trí thức trẻ Hà Nội (thuộc Liên hiệp các hội KH&KT Hà Nội); Chủ tịch VACA - nhà nghiên cứu Đặng Vũ Tuấn Sơn - được bầu làm ủy viên thường vụ, chánh văn phòng Câu lạc bộ. Cũng trong năm 2015, VACA thực hiện đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ hội viên, tuyển thêm nhiều hội viên trẻ là người có trí tuệ và say mê để cùng góp phần đẩy nhanh mục tiêu giáo dục thiên văn cho cộng đồng.     Tới năm 2016, đội ngũ hội viên của VACA đã được củng cố về chất lượng, có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm đủ để trực tiếp tham gia thực hiện những ấn phẩm cụ thể phục vụ giáo dục và phổ biến kiến thức khoa học. Ngoài việc tiếp tục tổ chức và tham gia các sự kiện khoa học, phổ biến kiến thức, VACA đã có những sản phẩm cụ thể như bộ ấn phẩm bản đồ kích thước lớn (gồm 4 ấn phẩm: Vũ trụ, Thiên hà Milky Way, Hệ Mặt Trời và Các chòm sao - ); các bộ phim khoa học được trực tiếp hội viên VACA dịch sang tiếng Việt với độ chính xác thuật ngữ cao hơn rất nhiều so với các bản dịch từng có ở Việt Nam (Into the Universe withe Stephen Hawking, Wonders of the Solar System, Wonders of the Universe, ...), ... Đặc biệt nhất, có thể coi là thành tựu lớn nhất trong lịch sử hoạt động của VACA tính tới thời điểm cuối năm 2016 là việc xuất bản thành công "Từ điển Thiên văn học và Vật lý thiên văn". Đây là cuốn từ điển tra cứu về thiên văn học và vật lý thiên văn có thể nói là đầu tiên bằng tiếng Việt với hơn 1.000 thuật ngữ được định nghĩa chi tiết. Cuốn sách đã được lên ý tưởng từ năm 2006 và bắt đầu chính thức thực hiện từ giữa năm 2013. Ngày 26 tháng 3 năm 2017, VACA tổ chức "Ngày hội thiên văn Việt Nam 2017" nhân dịp kỷ niệm 15 năm thành lập của mình. Đây là sự kiện có ý nghĩa lớn về giáo dục và phổ biến kiến thức khoa học đã thu hút sự quan tâm của rất nhiều người yêu khoa học tại Hà Nội. Cũng trong năm 2017, VACA hoàn thành cuốn sách chính thức thứ hai của mình có tên "Trái Đất và Hệ Mặt Trời". Sách do NXB Thông tin và Truyền thông phát hành vào tháng 9 năm 2017 và đã được rất nhiều độc giả đón đọc cũng như phản hồi tích cực. Hoạt động phổ biến kiến thức thiên văn dưới dạng lớp học và nhiều hội thảo, sự kiện khác cũng được thực hiện thành công trong thời gian này.     Cho tới đầu năm 2020, VACA đã xuất bản tất cả 4 cuốn sách do các tác giả là hội viên của VACA thực hiện, đồng thời vẫn đang tiếp tục với những dự án mới cùng nhiều ý tưởng mới về nghiên cứu và phổ biến kiến thức thiên văn học cho người yêu khoa học ở mọi nơi và mọi lứa tuổi. 2022 là năm VACA kỷ niệm tròn 20 năm từ ngày thành lập. Để kỷ niệm chặng đường này, VACA đã xuất bản thành công sách "THIÊN VĂN HỌC THẾ KỶ 21: HAI THẬP KÝ ĐÃ QUA, MỘT TƯƠNG LAI PHÍA TRƯỚC" vào tháng 1 năm 2022. Đồng thời, cơ chế kết nạp hội viên cũng như cách thức hoạt động cũng được hiệu chỉnh lại để phù hợp hơn với môi trường hoạt động cũng như những yêu cầu về nghiên cứu và giáo dục.   Trong năm 2022, VACA đã có nhiều hoạt động về giáo dục và hướng tới việc phổ biến tri thức cho cộng đồng. Các lớp học dành cho cả trẻ em và người trưởng thành đã được hoàn thiện về nội dung và mang lại kiến thức cho rất nhiều học viên thuộc nhiều lứa tuổi. Người yêu thích thiên văn và các nhà giáo quan tâm tới việc phổ biến kiến thức cho học sinh có thể tham khảo và .     Cũng trong năm 2022, VACA đã hoàn thành việc bổ sung nội dung cho 4 cuốn sách đã được xuất bản ở những năm trước và biên soạn sách mới " ". Toàn bộ những cuốn sách này được xuất bản vào đầu năm 2023 dưới dạng bộ sách " ". Bộ sách này được sẽ được giới thiệu trong sự kiện kỷ niệm 21 năm thành lập của VACA, cuối tháng 3 năm 2023.     Trong thời gian tiếp theo, VACA tiếp tục nâng cao trình độ hội viên, kết nạp thêm các hội viên có đủ kiến thức và đam mê, đồng thời tiếp tục xây dựng thêm các hoạt động và ấn phẩm mới (mở lớp đào tạo thiên văn học cơ bản, xuất bản thêm các sách phổ biến kiến thức, ..). Một số nghiên cứu phục vụ việc giáo dục và nâng cao nhận thức về khoa học nói chung và vật lý thiên văn nói riêng cũng đang được tiến hành. Để có thể duy trì tổ chức giáo dục phi lợi nhuận trong suốt những năm qua, cũng như tiếp tục phát triển và đi sâu vào các mục tiêu cụ thể, hữu ích hơn cho cộng đồng, VACA có được sự tham gia nhiệt tình và hết sức quí giá của nhiều hội viên thuộc nhiều lứa tuổi và ngành nghề. VACA hi vọng sẽ tiếp tục nhận được sự hỗ trợ hết mình của các hội viên và sự ủng hộ của người yêu khoa học trong những giai đoạn tiếp theo! *Chủ tịch: ban đầu khi lập câu lạc bộ chức danh được sử dụng là "hội trưởng", sau này để phù hợp với hình thức và qui mô hoạt động của tổ chức nên chức danh này mới đổi thành "chủ tịch" *Thienvanvietnam.org: Tháng 8 năm 2005 khi mới lập ra, địa chỉ của website là http://thienvanvietnam.com , sau này do một số sự cố kĩ thuật cũng như để phù hợp hơn với tính chất của website nên VACA sử dụng tên miền là  , cùng website tiếng Anh tại địa chỉ