text
stringlengths
224
381k
id
stringlengths
25
31
metadata
dict
perplexity
float64
21.2
200
talawas | Milovan Djilas - Giai cấp mới trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas Văn học Thơ và Thơ Trẻ Văn học Việt Nam Văn học nước ngoài Các giải thưởng văn học Giải thưởng Bùi Giáng Lý luận phê bình văn học Điểm nóng Chính trị Việt Nam Chính trị thế giới Đại hội X và cải cách chính trị tại Việt Nam Xã hội Giáo dục Kinh tế Đồng tính luyến ái trong xã hội hiện đại Thế hệ @ Pháp luật Đời sống hiện đại Thể thao talaFemina Tủ sách talawas 1 - 20 / 201 bài 31.10.2008 Nguyễn Mộng Giác Bão rớt 27.10.2008 Nhã Ca Đêm dậy thì 16.10.2008 Mai Thảo Gần mười bảy tuổi 11.10.2008 Trùng Dương Lập đông 7.10.2008 Nguyễn Thị Hoàng Bóng lá hồn hoa 1.10.2008 Nguyễn Thị Hoàng Cho những mùa xuân phai 24.9.2008 Duy Lam Cái lưới 17.9.2008 Chân dung Nguyễn Du 1.9.2008 Aleksandr I. Solzhenitsyn Tầng đầu địa ngục 5.8.2008 Aleksandr I. Solzhenitsyn Quần đảo ngục tù 16.7.2008 Tam Ích Ý văn 1 14.7.2008 Tạ Ký Sầu ở lại 11.7.2008 Hồ Hữu Tường Trầm tư của một tên tội tử hình 8.7.2008 Hồ Hữu Tường Kể chuyện 4.7.2008 Trần Tử Alexandre Soljenitsyne: Tác phẩm – Con người và Cuộc đời 30.6.2008 Aleksandr I. Solzhenitsyn Bất ngờ tại nhà ga Krechetovka 24.6.2008 Dương Nghiễm Mậu Tuổi nước độc 21.6.2008 Nguyễn Đức Sơn Cái chuồng khỉ 18.6.2008 Vũ Khắc Khoan Mơ Hương Cảng 9.6.2008 Tạp chí Văn Hoài niệm Nhất Linh 1 - 20 / 201 bài tìm (dùng Unicode hoặc không dấu) tác giả: A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z Tủ sách talawas bản để in Gửi bài này cho bạn bè 4.10.2005 Milovan Djilas Giai cấp mới 10 kì Phạm Minh Ngọc dịch 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 Giai cấp mới 1. Như đã nói ở trên, tại Liên Xô và các nước cộng sản khác, tất cả đã diễn ra không như tưởng tượng của các lãnh tụ nổi tiếng nhất như Lenin, Stalin, cũng như Trotsky và Bukharin. Cứ theo quan niệm của họ thì bộ máy nhà nước Liên Xô sẽ ngày một yếu đi, trong khi nền dân chủ sẽ ngày một mạnh thêm. Đã xảy ra điều hoàn toàn ngược lại. Người ta cho rằng mức sống sẽ được nâng cao nhanh chóng trong một tương lai không xa, nhưng hoá ra đời sống được cải thiện không đáng kể, trong các nước Đông Âu mức sống lại có phần bị sụt giảm: dù sao thì sự cải thiện điều kiện sống cũng không tương xứng với mức độ công nghiệp hoá. Người ta từng tin tưởng rằng mâu thuẫn giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân tay sẽ dần được san bằng, nhưng hoá ra các mâu thuẫn này ngày một sâu sắc thêm. Tình hình cũng xảy ra tương tự trong các lĩnh vực khác, kể cả các dự đoán về sự phát triển của thế giới phi cộng sản. Nhưng ảo tưởng lớn nhất chính là ảo tưởng rằng cùng với việc công nghiệp hoá và tập thể hoá nghĩa là cùng với việc thủ tiêu sở hữu tư bản chủ nghĩa, Liên Xô sẽ trở thành xã hội phi giai cấp. Năm 1936, nhân dịp công bố Hiến pháp mới, Stalin tuyên bố rằng ở Liên Xô đã không còn giai cấp bóc lột, nhưng trên thực tế người ta không chỉ thực hiện xong quá trình thủ tiêu các nhà tư sản và các giai cấp khác của chế độ cũ mà còn thiết lập một giai cấp hoàn toàn mới, chưa từng có trong lịch sử. Dễ hiểu là giai cấp mới này, cũng như mọi giai cấp trước nó trong quá khứ đã tự coi sự thống trị của mình là sự toàn thắng của hạnh phúc và tự do cho tất cả mọi người. Chỉ có một khác biệt duy nhất: thiếu khoan dung hơn, nó không cho phép nghi ngờ những ảo tưởng do nó áp đặt và không cho phép nghi ngờ quyền cai trị của mình. Điều đó lại chứng tỏ rằng sự thống trị của nó toàn triệt hơn mọi chế độ từng được biết đến trong lịch sử, thành kiến và ảo tưởng giai cấp của nó cũng tương đương như thế. Cái giai cấp mới, tầng lớp quan liêu, đúng hơn phải nói tầng lớp chính trị quan liêu, không những mang trong mình nó tất cả đặc thù của các giai cấp bóc lột trước đó mà còn có những đặc trưng riêng biệt, khác hẳn. Ngay sự xuất hiện của nó, tuy có nhiều điểm chung với sự xuất hiện của những giai cấp khác, nhưng vẫn có những khác biệt. Các giai cấp khác, trong đại đa số các trường hợp, cũng giành được tài sản và quyền lực bằng con đường cách mạng, nghĩa là phá bỏ các quan hệ chính trị, xã hội và các quan hệ cũ khác. Nhưng các giai cấp đó giành được chính quyền sau khi các hình thức kinh tế mới đã có thế thượng phong trong lòng xã hội cũ. Giai cấp mới trong hệ thống cộng sản xuất hiện không phải với mục đích hoàn thành các cuộc cải cách mà với ý định đặt nền móng cho các quan hệ kinh tế mới và sự thống trị của chính nó đối với xã hội. Trong các thời đại trước, việc giành chính quyền của một giai cấp, một bộ phận của giai cấp hay của một đảng nào đó chính là hành động cuối cùng trong việc tạo lập và hình thành ý thức của thời đại. Tại Liên Xô tình hình diễn ra khác hẳn: giai cấp mới chỉ thực sự hình thành sau khi đã nắm được quyền lực. Nhận thức về thời đại tiếp tục phát triển - và phải phát triển vì cho đến lúc đó nó chưa ăn sâu, bén rễ vào đời sống của dân tộc – vượt trước cả khả năng kinh tế và khả năng vật lí của nó; còn vai trò của dân tộc và bức tranh của thế giới thì được vẽ ra dưới dạng lí tưởng hoá. Điều này tuy nhiên không làm giảm khả năng thực tế của nó. Ngược lại là khác. Cùng với những ảo tưởng và mặc dù có những ảo tưởng như thế, giai cấp mới chính là hiện thân của xu hướng công nghiệp hoá, một xu hướng đã trở thành đòi hỏi khách quan. Từ đó cũng xuất hiện tính thực dụng của nó. Niềm tin vào một thế giới lí tưởng do chính nó hứa hẹn đã cố kết đội ngũ, đã reo rắc ảo tưởng vào trong quần chúng nhưng cũng kêu gọi và động viên họ hoàn thành những công việc có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Vì giai cấp mới không thoát thai từ cội nguồn của các tiến trình kinh tế-xã hội hiện thực, ta chỉ có thể tìm thấy mầm mống của nó bên trong một tổ chức đặc biệt, một tổ chức dựa trên kỉ luật sắt và sự thống nhất về mặt tư tưởng. Họ phải lấy những nhân tố chủ quan, đấy là sự thống nhất về nhận thức và kỉ luật sắt để bù vào những khiếm khuyết khách quan trong lĩnh vực kinh tế và các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội trong những giai đoạn đầu. Nguồn gốc của giai cấp mới là đảng kiểu mới, đảng bolshevik. Lenin đã hoàn toàn có lí khi cho rằng đảng do ông thành lập là đảng đặc biệt trong lịch sử loài người, nhưng ông không thể nghĩ rằng chính đảng đó lại là cội nguồn của một giai cấp mới. Đúng hơn phải nói rằng mầm mống của giai cấp mới không phải nằm trong toàn bộ đảng bolshevik mà chỉ nằm trong tầng lớp các nhà cách mạng chuyên nghiệp, lực lượng nòng cốt của đảng trước khi đảng giành được chính quyền. Không phải vô tình mà sau thất bại của Cách mạng năm 1905 Lênin đã khẳng định rằng chỉ có các nhà cách mạng chuyên nghiệp, nghĩa là những người lấy hoạt động cách mạng làm nghề nghiệp chính, ngoài ra họ không làm gì khác, mới có thể thành lập được một đảng kiểu mới mà thôi. Stalin, người kiến tạo giai cấp mới là biểu hiện rõ ràng nhất hình ảnh người cách mạng chuyên nghiệp kiểu đó. Nhóm các nhà cách mạng chuyên nghiệp đó đã phát triển dần dần thành một giai cấp cầm quyền mới. Các nhà cách mạng này sẽ còn đóng vai trò hạt nhân của nó trong một thời gian dài nữa. Trotsky đã nhận xét rằng chính các nhà cách mạng chuyên nghiệp đã tạo ra mầm mống của bộ máy quan liêu của Stalin. Nhưng ông đã không hiểu một điều, đây chính là mầm mống của một giai cấp cầm quyền, giai cấp bóc lột mới. Nhưng điều đó không có nghĩa là đảng và giai cấp là một. Đảng chỉ là hạt nhân, là cơ sở. Thật khó, thậm chí không thể xác định được ranh giới của giai cấp mới và không thể liệt kê được tất cả các thành viên của nó. Nói chung, bất cứ người nào nhờ độc quyền trong việc quản lí mà có đặc lợi về kinh tế thì đều có thể coi là thuộc giai cấp mới cả. Đồng thời công tác quản lí cũng là một công việc cần thiết cho xã hội cho nên cá nhân có thể vừa là một người có ích vừa là một kẻ ăn bám. Rõ ràng rằng không phải đảng viên nào cũng nằm trong giai cấp, cũng như không phải bất kì người thợ thủ công hay đảng viên đảng tư sản nào cũng được coi là nhà tư bản vậy. Một cách chung nhất có thể nói rằng: cùng với việc củng cố giai cấp mới, khi bộ mặt của nó ngày càng thể hiện rõ thì vai trò của đảng cũng ngày càng giảm đi. Hạt nhân và cơ sở của giai cấp mới đã hình thành ở bên trong cũng như trên đỉnh quyền lực của đảng cũng như của bộ máy nhà nước. Cái đảng từng có lúc là một tổ chức sinh động, đầy sáng kiến, thì nay, đối với những người cầm đầu của giai cấp mới, họ đã biến thành một vật trang trí, càng ngày chỉ càng kéo vào hàng ngũ của mình những kẻ hãnh tiến, những kẻ muốn nhập vào hàng ngũ của giai cấp mới và đẩy những người vẫn còn tin vào lí tưởng ra. Đảng sinh ra giai cấp. Sau đó giai cấp tự phát triển bằng chính nguồn lực của mình và sử dụng đảng như là cơ sở. Giai cấp thì mạnh lên, trong khi đảng thì yếu đi, đấy là số phận không thể cưỡng lại được của tất cả các đảng cộng sản cầm quyền. Một đảng không quan tâm đến việc tái sản xuất, nghĩa là không mang trong mình nó giai cấp mới và tài sản của giai cấp ấy thì không thể nào trụ vững được về mặt tư tưởng và đạo đức, hơn nữa lại có thể cầm quyền lâu trong một thời gian dài như đảng cộng sản. Sau khi hoàn thành kế hoạch năm năm lần thứ nhất, Stalin hùng hồn tuyên bố rằng nếu không thành lập được bộ máy thì “chúng ta” đã thất bại rồi! Đáng ra phải nói thành lập “giai cấp mới” thì mọi sự đã rõ ràng hơn. Việc một đảng chính trị trở thành mầm mống của một giai cấp mới có vẻ như là một việc không hoàn toàn bình thường. Thường thì đảng là sản phẩm của các giai cấp hay tầng lớp dân cư đã đạt đến một trình độ phát triển kinh tế và tinh thần nhất định. Nhưng nếu xem xét kĩ các bước thăng trầm của nước Nga và các nước khác, nơi mà chủ nghĩa cộng sản đã giành thắng lợi bằng nội lực thì ta sẽ thấy rằng cái đảng kiểu mới đó chính là sản phẩm của những hoàn cảnh cụ thể và không phải là hiện tượng bất thường và vô tình. Mặc dù chủ nghĩa cộng sản có nguồn gốc từ trong sâu thẳm của lịch sử Nga, nó còn là phó sản của hoàn cảnh chính trị mà nước Nga rơi vào trong cuộc chuyển tiếp giữa thế kỉ XIX và thế kỉ XX. Sự phát triển đã buộc nước Nga phải thoát ra khỏi chế độ độc tài chuyên chế, nhưng chủ nghĩa tư bản lại quá yếu, phụ thuộc vào tư bản nước ngoài, không đủ sức thực hiện cách mạng công nghiệp. Việc đó chỉ có thể được thực hiện bởi một giai cấp mới, dĩ nhiên là giai cấp này sẽ thực hiện theo những quan điểm riêng của mình. Giai cấp như vậy chưa tồn tại. Lịch sử không quan tâm đến việc ai làm, quan trọng là điều cần thiết đã được làm. Điều đó đã xảy ra ở Nga và ở các nước đã từng diễn ra các cuộc cách mạng cộng sản khác. Cách mạng đã tạo ra lực lượng: đấy là các lí tưởng, các tổ chức và những lãnh tụ cần thiết. Giai cấp mới đã hình thành từ những điều kiện khách quan, do ý chí, tư tưởng và hành vi của những lãnh tụ cách mạng. 2. Giai cấp mới có nguồn gốc từ những người vô sản. Quí tộc thoát thai từ tầng lớp nông dân, giai cấp tư sản sinh ra từ những người buôn bán, thợ thủ công, các điền chủ thời trung cổ, tương tự như vậy, giai cấp mới được hình thành từ tầng lớp vô sản. Ở đây có thể có một số ý kiền bất đồng là do điều kiện đặc thù của từng dân tộc. Nhưng “vật liệu” hình thành nên giai cấp mới thì vẫn là tầng lớp vô sản ở những nước kém phát triển và chính tầng lớp ấy cũng còn rất lạc hậu Nhưng nguồn gốc không phải là lí do duy nhất, thậm chí chỉ là lí do phụ giải thích vì sao giai cấp mới luôn luôn nói rằng họ là đại diện của giai cấp công nhân. Họ làm điều đó vì những lí do khác. Thứ nhất giai cấp này tuyên bố lập trường chống tư bản cho nên nó phải tìm sự ủng hộ của các tầng lớp lao động, thứ hai nó dựa vào cuộc đấu tranh và niềm tin của giai cấp vô sản về chế độ cộng sản, nơi không còn cảnh người bóc lột người dã man nữa. Ngoài ra giai cấp mới còn phải quan tâm đến việc đảm bảo cho qúa trình sản xuất hoạt động bình thường, đấy cũng là lí do nó phải cố gắng để không bị mất liên hệ với quần chúng lao động. Nhưng quan trọng nhất là giai cấp mới không thể tiến hành công nghiệp hoá và bằng cách đó củng cố sức mạnh của mình nếu không có giai cấp công nhân, những người vẫn coi việc nâng cao vai trò của công nghiệp là con đường thoát khỏi cảnh nghèo nàn và tuyệt vọng mà chính giai cấp này cũng như toàn dân tộc đang lâm vào. Quyền lợi, lí tưởng, hi vọng và niềm tin của giai cấp mới, của một bộ phận giai cấp công nhân và bần cố nông đã song hành với nhau trong một thời gian dài. Sự đồng thuận như vậy cũng đã từng xảy ra giữa các giai tầng của các giai cấp khác nhau trong quá khứ. Chả phải là giai cấp tư sản đã là người đại diện cho tầng lớp nông dân trong cuộc đấu tranh phản phong đấy ư? Con đường đưa giai cấp mới đến với quyền lực là tham gia vào cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và những tầng lớp cùng khổ khác, các tầng lớp này chính là chỗ dựa của đảng, đúng hơn phải nói: của giai cấp mới. Quyền lợi của các lực lượng này liên kết chặt chẽ với nhau cho đến khi giai cấp mới thiết lập được sự thống trị của mình. Sau đó thì giai cấp vô sản và các tầng lớp nghèo khổ khác chỉ còn được quan tâm vì nhu cầu của sản xuất và giữ cho những tầng lớp dễ biến động và nổi loạn trong vòng kìm kẹp mà thôi. Địa vị độc tôn đối với toàn xã hội mà giai cấp mới nhân danh giai cấp công nhân lập nên trước hết là sự độc tôn ngay với giai cấp công nhân, ban đầu là trong lĩnh vực tinh thần, dưới danh nghĩa là đội tiên phong của giai cấp vô sản, sau đó là trong tất cả các lĩnh vực khác, thực chất là một sự lừa dối vĩ đại mà giai cấp mới buộc phải thực hiện. Nhưng điều đó cũng chứng tỏ rằng nguồn sức mạnh và lĩnh vực quan tâm của giai cấp mới chính là công nghiệp. Không có công nghiệp thì giai cấp mới không những không thể ổn định mà cũng không thể khẳng định được địa vị thống trị của mình. Giai cấp mới luôn luôn được bổ sung bằng những người xuất thân từ giai cấp công nhân. Số phận của tầng lớp nô lệ từ xưa đến nay vẫn là như thế, họ phải cống nạp cho các ông chủ những đại diện tài năng nhất, có tầm nhìn xa trông rộng nhất của mình. Trong trường hợp này giai cấp bóc lột mới đã phát sinh và phát triển từ chính giai cấp bị bóc lột. 3. Khi phân tích một cách có phê phán hệ thống cộng sản người ta thường đưa ra đặc trưng cơ bản nhất của hệ thống này, đây là việc toàn dân phải chịu khuất phục trước một tầng lớp đặc biệt, tầng lớp các viên chức quan liêu. Nói chung thì điều đó đúng. Nhưng khi phân tích một cách kĩ hơn thì ta sẽ thấy rằng toàn dân phải chịu khuất phục trước những con người cụ thể, những người trong thực tế không phải là quan chức hành chính, những người hợp thành hạt nhân của bộ máy quan liêu, hay theo cách gọi của tôi là giai cấp mới. Trên thực tế đấy chính là bộ máy quan liêu chính trị, bộ máy của đảng. Tất cả các viên chức khác chỉ là người giúp việc, ở đây có thể là một bộ máy vừa to lớn vừa chậm chạp nhưng cần thiết cho mọi cộng động. Sự phân biệt giữa nhóm thứ nhất và nhóm thứ hai có thể được nhận biết về mặt xã hội học, nhưng trong cuộc sống thì hai nhóm này là không thể tách biệt. Vấn đề không chỉ bởi vì toàn bộ hệ thống cộng sản là một hệ thống có tính chất quan liêu, tầng lớp quan liêu chính trị và hành chính đều có thể náu mình trong đó mà còn vì các đảng viên thường khi cũng thực hiện những nhiệm vụ quản lí có ích nhất định. Ngoài ra, tầng lớp quan chức chính trị không thể nắm hết đặc quyền đặc lợi, nó phải chia bớt một phần cho những quan chức khác nữa. Ngoài ra cần phải nhận rõ sự khác nhau giữa bộ máy quan liêu chính trị đã nói ở trên với bộ máy quan liêu xuất hiện trong quá trình tập trung hoá của nền sản xuất hiện đại (sự độc quyền, các công ty, tài sản nhà nước). Trong các công ty độc quyền tư bản số lượng viên chức cũng đang tăng lên một cách nhanh chóng. Điều đó cũng đúng đối với cả các ngành công nghiệp đã được quốc hữu hoá ở phương Tây nữa. R. Dabin khẳng định rằng các viên chức nhà nước hoạt động trong lĩnh vực sản xuất được coi là một tầng lớp đặc biệt: “Các viên chức thường sống gắn bó với các đồng nghiệp. Quyền lợi chung thường đóng vai trò chất kết dính, gắn bó họ với nhau, đặc biệt là sự cạnh tranh nội bộ ít xảy ra vì sự thăng tiến phụ thuộc vào thâm niên công tác. Khả năng xảy ra xung đột nội bộ như vậy là gần như không có, và người ta cho rằng điều đó có ảnh hưởng tích cực đối với bộ máy quan liêu. Nhưng tinh thần đồng đội và cơ cấu xã hội lại dẫn đến kết quả là cá nhân thường chăm lo đến quyền lợi của mình chứ không còn quan tâm đến khách hàng hay các viên chức cấp cao do bầu cử mà ra” [1] . Mặc dù có nhiều điểm giống nhau, nhất là tinh thần đồng đội, nhưng các viên chức quan liêu cộng sản không phải là các quan chức phương Tây đã được nói tới ở trên. Khác biệt là ở chỗ: tuy cũng là một giai tầng đặc biệt nhưng các viên chức nhà nước trong các nước không cộng sản không có quyền quyết định về tài sản, trong khi các viên chức cộng sản lại làm chính công việc ấy. Bên trên các viên chức phương Tây là các chính trị gia, thường là thông qua bầu cử hoặc là các ông chủ thực sự, trong khi đó bên trên các viên chức cộng sản thì không còn ai, không có chủ nhân cũng chẳng còn người quản lí nào khác, chỉ có họ với nhau mà thôi. Ở phương Tây thì đấy là các công chức trong nhà nước hiện đại hay các viên chức trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, còn ở đây là một hiện tượng hoàn toàn khác, ta thấy một giai cấp mới. Tương tự như các giai cấp hữu sản khác, minh chứng cho sự tồn tại của một giai cấp đặc biệt chính là sở hữu và quan hệ đặc thù của nó với những giai cấp khác. Chỉ cần nhìn vào đặc quyền do cái sở hữu kia mang lại là ta biết ngay một cá nhân cụ thể có thuộc về giai cấp ấy hay không. Nếu xem xét khái niệm “sở hữu” theo quan điểm được khoa học xác định ngay từ thời La Mã, như là quyền chiếm hữu, quản lí và sử dụng (usus, Fructus, abusus) sản phẩm vật chất thì tầng lớp quan liêu cộng sản đã thực hiện chính những quyền ấy đối với tài sản quốc gia. Còn muốn biết một người có thuộc tầng lớp quan liêu, tầng lớp hữu sản hay không, chỉ cần xem người đó được sử dụng những gì do tài sản đó mang lại, trong trường hợp này là tài sản đã được quốc hữu hoá. Một người được coi là thuộc về tầng lớp đảng trị quan liêu, thuộc về giai cấp mới nếu người đó nhận được nhiều hơn cái đáng lẽ xã hội phải trả cho phần công việc mà người đó thực hiện, cũng như trong mọi vị trí xã hội đặc quyền đặc lợi khác, chính vị trí mang lại cho người ta quyền được hưởng mọi ưu đãi. Trên thực tế quyền sở hữu của giai cấp mới được thể hiện trong việc bộ máy quan liêu đảng trị nắm toàn bộ quyền hành trong việc phân phối thu nhập quốc dân, định đoạt mức lương, lựa chọn phương hướng phát triển của nền kinh tế, cũng như quản lí số tài sản đã được quốc hữu hoá cũng như mọi tài sản khác mà trong con mắt một người dân bình thường thì đây là công việc vừa sức, có thu nhập cao chứ hoàn toàn không phải là một công việc quá nặng nề đối với người cán bộ cộng sản. Sau khi đã huỷ bỏ quyền sở hữu tư nhân, về nguyên tắc giai cấp mới không thể dựa vào một kiểu sở hữu tương tự được nữa. Quan hệ sở hữu tư nhân không những không phù hợp đối với việc thiết lập quyền thống trị của giai cấp mới mà việc bãi bỏ quan hệ sở hữu này còn là điều kiện cần thiết về mặt kinh tế để cải tạo toàn bộ dân tộc. Giai cấp mới khai thác sức mạnh, đặc quyền, tư tưởng và thói quen từ một hình thức sở hữu đặc thù. Đấy là sở hữu tập thể, nghĩa là cái sở hữu mà nó có quyền quản lí và phân phối “nhân danh” dân tộc, “nhân danh” xã hội. Hình thức quan hệ sở hữu cộng sản nói trên có xu hướng ràng buộc với những quan hệ xã hội hoàn toàn xác định. Đấy là quan hệ giữa sự quản lí độc quyền, một bên là một nhóm người rất nhỏ làm công việc quản lí và bên kia là đám quần chúng công nhân, nông dân và trí thức chẳng có một chút quyền hành gì. Nhưng mối quan hệ đó vẫn chưa phải là tất cả vì tầng lớp quan liêu cộng sản còn nắm độc quyền trong việc phân phối sản phẩm nữa. Từ đó có thể thấy rằng bất kì sự thay đổi quan hệ xã hội nào, nghĩa là sự thay đổi quan hệ giữa những kẻ giữ độc quyền quản lí và người lao động nhất định sẽ dẫn tới thay đổi trong quan hệ sở hữu. Và ngược lại: sự giảm thiểu hay loại bỏ độc quyền phân phối sản phẩm sẽ làm thay đổi quan hệ xã hội đã nói ở trên, nghĩa là sẽ làm thay đổi tình trạng trong đó một số người được độc quyền quản lí còn số khác thì buộc phải làm việc. Trong chế độ cộng sản quan hệ chính trị - xã hội và sở hữu (chính quyền toàn trị và độc quyền về sở hữu) liên kết và bổ sung cho nhau một cách hữu hiệu hơn bất kì hệ thống xã hội nào khác. Tước bỏ quyền của những người cộng sản đối với sở hữu cũng có nghĩa là thủ tiêu họ như một giai cấp. Đấu tranh để buộc họ cho những lực lượng xã hội khác tham giai quản lí tài sản (giống như các nhà tư sản bị các cuộc đình công và quốc hội buộc phải cho công nhân tham gia vào việc phân chia lợi nhuận) cũng có nghĩa là tước bỏ của họ độc quyền đối với tài sản, độc quyền tư tưởng và độc chiếm chính quyền. Đấy sẽ là khởi đầu của dân chủ và tự do dưới chế độ cộng sản. Vì vậy khi điều đó chưa xảy ra thì việc thuyết phục người ta rằng có thể đạt được những thay đổi sâu sắc và nghiêm túc dưới chế độ cộng sản là một việc bất khả thi. Như vậy, sự thay đổi thật sự sâu sắc chỉ có thể là loại bỏ độc quyền cộng sản về kinh tế và chế độ toàn trị. Hiện tại thì chưa có tín hiệu nào rằng điều đó sẽ xảy ra trong một tương lai gần. Quyền sở hữu của giai cấp mới cũng như việc một người được coi là thuộc vào giai cấp đó, như đã nói ở trên, được thực hiện thông qua đặc quyền quản lí của họ. Đặc quyền này bao trùm lên toàn bộ đời sống xã hội, từ quản lí nhà nước và quản lí kinh tế cho đến các cơ sở thể thao hoặc từ thiện. Lãnh đạo đảng, lãnh đạo chính trị chính là hạt nhân của toàn bộ hệ thống, có khả năng quản lí tất. Chính nó tạo ra đặc quyền đặc lợi. A. Uralov [2] viết rằng lương trung bình của người công nhân Liên Xô vào năm 1935 chỉ có một ngàn tám trăm rub, trong khi bí thư huyện uỷ lĩnh tổng cộng khoảng 45 ngàn rub. Từ đó đến nay vị trí của người công nhân và cán bộ đảng đã có thay đổi. Nhưng thực chất vẫn như xưa. Các tác giả khác cũng đưa ra những số liệu tương tự. Không thể che giấu được những mối quan hệ như thế với ngay cả những người khách viếng thăm Liên Xô và các nước cộng sản khác trong thời gian vừa qua. Các hệ thống khác cũng có các chính khách chuyên nghiệp. Ta muốn nghĩ về tầng lớp này thế nào cũng được, tốt có, xấu có, nhưng họ là một tầng lớp cần thíêt. Xã hội không thể tồn tại mà không có chính quyền, không có nhà nước, cũng như không thể thiếu những người đấu tranh để giành quyền lực. Nhưng các chính khách chuyên nghiệp trong các hệ thống ấy là những người khác hẳn với các chính trị gia cộng sản. Trong trường hợp xấu nhất các chính khách đó có thể sử dụng quyền lực để giành đặc lợi cho mình hoặc cho những kẻ đồng hội đồng thuyền với mình, hoặc bảo vệ quyền lợi kinh tế của những giai tầng nhất định trong xã hội. Xã hội cộng sản thì khác hẳn. Ở đây chính sự quản lí, chính quyền lực đã đồng nghĩa với chiếm hữu, quản lí và sử dụng gần như toàn bộ nguồn lực quốc gia. Giành được chính quyền nghĩa là giành được đặc quyền đặc lợi, và một cách gián tiếp là giành được sở hữu. Cho nên trong chế độ cộng sản quyền lực, chính trị như là một nghề, đã trở thành nếu không phải là nghề lí tưởng của tất cả mọi người (vì đối với số đông thì được làm quan là việc thiên nan vạn nan) thì cũng là nỗi khát khao của những người kẻ muốn được sống ăn bám hoặc cảm thấy rằng có hi vọng “lọt” vào được tầng lớp ăn bám đó. Trước cách mạng, đảng viên cộng sản có nghĩa là nghèo khổ về vật chất, thoát li hoạt động cách mạng là vinh dự, thì giờ đây, khi đảng đã nắm được chính quyền đảng viên đồng nghĩa với thành viên của giai cấp nắm quyền, hoạt động cách mạng đồng nghĩa với việc trở thành những kẻ bóc lột đầy quyền uy. Cách mạng cộng sản và hệ thống cộng sản cố tình che giấu bản chất của mình trong một thời gian dài. Tương tự như vậy, quá trình hình thành giai cấp mới không chỉ được che đậy bằng những thuật ngữ xã hội chủ nghĩa mà quan trọng hơn bằng hình thức sở hữu mới, sở hữu tập thể. Một hình thức sở hữu mới, sở hữu tập thể, hay như thường gọi là sở hữu xã hội xã hội chủ nghĩa là cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá, nhưng thực ra đấy chính là hình thức sở hữu của tầng lớp quan liêu chính trị. Bản chất giai cấp của hình thức sở hữu này được che đậy bằng bình phong quyền lợi của toàn dân tộc. 4. Marx - Lenin - Stalin - Khrushchev: lãnh tụ thay đổi, cách truyền bá tư tưởng cũng thay đổi theo. Marx là người có ý chí, nhưng ông không thể tưởng tượng ra cảnh cấm một người nào đó trình bày tư tưởng của anh ta; Lenin vẫn còn khoan dung với những cuộc thảo luận trong đảng và không cho rằng tổ chức đảng hay lãnh tụ đảng có quyền coi điều này là “đúng đắn” về tư tưởng, điều kia là “sai lầm”; Stalin cấm mọi cuộc thảo luận trong nội bộ đảng và “chuyển” cho trung ương, nghĩa là cho chính mình độc quyền về tư tưởng. Các hình thức của phong trào cũng biến đổi theo: Liên hiệp công nhân quốc tế của Marx (Quốc tế thứ nhất), chưa phải là tổ chức mac-xit về tư tưởng mà chỉ là sự kết hợp của các nhóm khác nhau, cùng ra các nghị quyết với một sự đồng thuận nhất định; đảng của Lenin là một nhóm tiên phong với một sự thống nhất, một tư tưởng và đạo đức của riêng họ và một mức độ dân chủ nhất định; dưới gót giày của Stalin, đảng đã trở thành một đám đông ù lì về tư tưởng (vì tư tưởng được “rót từ trên xuống”), nhưng toàn tâm toàn ý bảo vệ hệ thống, bảo vệ đặc quyền đặc lợi cho họ. Thực ra Marx chưa hề thành lập ra bất kì đảng phái nào; Lenin tiêu diệt mọi đảng phái, kể cả các đảng xã hội chủ nghĩa, chỉ để lại đảng của chính mình; Stalin thì đẩy ngay cả đảng bolsevk vào hậu trường sau khi đã biến hạt nhân của nó thành hạt nhân của giai cấp mới và biến toàn đảng thành một giai tầng đặc quyền đặc lợi vô cảm và phi nhân. Marx đã tạo ra một lí thuyết nhất quán về tác động của các giai cấp và đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hội (mặc dù đây không phải là phát kiến của chính ông), ông đánh giá con người chủ yếu từ thành phần giai cấp của họ. Mặc dù vậy ông vẫn thường nhắc đi nhắc lại lời giáo huấn của Terentius: Nihil a me alienum puto (đúng hơn phải là: Nihil humani a me alienum puto – Không có gì của con người là xa lạ với tôi); Lenin đánh giá con người trên cơ sở quan điểm tư tưởng của người đó chứ không dựa vào thành phần giai cấp nữa; Stalin thì chia loài người thành hai: trung thành và kẻ thù. Marx chết như một người nhập cư nghèo khổ ở London, nhưng ông được cả những nhà tư tưởng lớn cũng như các đồng chí trong phong trào đánh giá rất cao; Lenin chết khi đã là lãnh tụ của một trong những cuộc cách mạnh vĩ đại nhất, và đã là một nhà độc tài vì xung quanh ông đã có một số nịnh thần rồi; Stalin thì đã được người ta biến thành thánh. Sư biến đổi trong những khuôn mặt đại diện nói trên chỉ là phản ánh sự biến đổi của hiện thực khách quan và dĩ nhiên cũng là sự biến đổi của đời sống tinh thần của phong trào nữa. Lenin, người sáng lập đảng bolshevik, một đảng kiểu mới và lí thuyết về vai trò đặc biệt của nó trong việc xây dựng xã hội mới chính là cha đẻ về mặt tinh thần và thực tế của giai cấp mới, mặc dù ông không hề nhận thức được điều đó. Dĩ nhiên đây không phải là trang sử duy nhất trong khối di sản đồ sộ và nhiều mặt của ông. Nhưng nó xuất hiện từ chính những hành động của ông, dù ông không hẳn muốn như thế, và vì vậy giai cấp mới cho đến nay vẫn coi ông là người cha tinh thần của mình. Người sáng lập thật sự giai cấp mới chính là Stalin. Đấy là một người vai so, chân tay quá dài, thân người lại ngắn, bụng bự, khuôn mặt nông dân, khá điển trai, đôi mắt nâu, sáng, tinh ranh và lúc nào cũng như đang cười cợt, tỏ ra khoái trá mỗi khi nói được một lời châm biếm chua cay hay khôn vặt; một người thích những chuyện tiếu lâm thô lậu, thiếu giáo dục và không hẳn có tài về văn chương, một diễn giả kém, nhưng là một nhà tổ chức thiên tài, một người giáo điều thâm căn cố đế, nhưng cũng là một nhà quản lí vĩ đại, một người Gruzia, nhưng lại hiểu rõ hơn ai hết khát vọng của những người Nga mới – ông đã sáng lập ra một giai cấp mới bằng những phương pháp tàn bạo nhất. Dễ hiểu rằng ban đầu ông đã được giai cấp mới đẩy lên để rồi sau đó lại phải cúi rạp mình tuân phục những hành vi tàn bạo và không có ai kiềm chế được của Stalin. Stalin đã là người dẫn đầu, là lãnh tụ xứng đáng trong khi cái giai cấp ấy tiến từng bước một lên đỉnh cao quyền lực của mình. Giai cấp mới đựơc tượng hình trong bão tố của cách mạng, trong lòng của đảng cộng sản, nhưng nó đã có hình hài như ngày nay là nhờ cách mạng công nghiệp: vị trí của nó chẳng thể vững chắc và sức lực của nó chẳng thể được củng cố nếu không có cuộc cách mạng công nghiệp và nền công nghiệp ấy. Hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội cũng đồng nghĩa với việc giai cấp mới đã giành thắng lợi. Hai quá trình đó đã song hành với nhau và do hoàn cảnh đã đan xen, đã xoắn xuýt với nhau một cách chặt chẽ nhất. Giữa cao trào công nghiệp hoá, sau khi đã mở tung cánh cửa của đủ mọi thứ đặc quyền đặc lợi, Stalin bắt đầu đưa ra các mức lương chênh lệch nhau một trời một vực. Ông ta hiểu rằng không thể thực hiện được tiến trình công nghiệp hoá nếu như giai cấp mới không nhận được quyền lợi về mặt vật chất, nếu không cho nó quyền sở hữu tài sản. Nếu không có công nghiệp hoá thì giai cấp mới cũng khó mà sống còn được: không có nguồn sống và cũng chẳng thể tìm được sự biện hộ về mặt lịch sử. Cùng với việc công nghiệp hoá là sự mở rộng đội ngũ của tầng lớp quan liêu, tăng cường số lượng đảng viên của đảng. Khởi đầu công nghiệp hoá, năm 1927 đảng có tổng cộng 887.233 đảng viên, thì năm 1934, nghĩa là sau kế hoạch năm năm lần thứ nhất, đã có 1.847.448 người. Đây là một hiện tượng mới, liên quan trực tiếp đến quá trình công nghiệp hoá: các cơ hội của giai cấp mới đã tăng lên, đặc quyền đặc lợi của những thành viên của nó cũng gia tăng. Hơn thế nữa, đặc quyền đặc lợi và chính cái giai cấp đó đã phình lên nhanh hơn tốc độ công nghiệp hoá. Khó mà đưa ra được các số liệu chứng minh cho điều đó, nhưng một người quan sát bình thường cũng có thể nhận thấy điều đó, hơn nữa nếu ta nhớ rằng sản xuất đã phát triển nhanh hơn khả năng cải thiện điều kiện sống của người dân. Phần lớn thành quả của tiến bộ kinh tế đạt được bằng giá của những mất mát và sự nỗ lực vô bờ bến của quần chúng rõ ràng là đã rơi vào tay giai cấp mới. Chính quá trình hình thành giai cấp mới cũng không diễn ra một cách hoàn toàn suôn sẻ. Sự kháng cự không chỉ xuất phát từ các giai cấp và các đảng phái cũ, mà từ ngay một số người người cách mạng, những người không thể chấp nhận hiện thực nhãn tiền khi so sánh nó với lí tưởng mà họ từng theo đuổi. Tại Liên Xô sự phản kháng của những người cách mạng thể hiện rõ nhất trong cuộc xung đột giữa Trotsky và Stalin. Không phải vô tình mà cuộc tranh chấp giữa Trotsky và Stalin, giữa những người đối lập trong đảng với Stalin, giữa chế độ và tầng lớp nông dân, lại có những hình thức biểu hiện rõ rệt nhất chính vào lúc quyền lực và sự thống trị của giai cấp mới được củng cố. Trotsky, một diễn giả tài ba, một ngòi bút tinh tế, sắc sảo, một người thông minh, có tầm hiểu biết rộng, nhưng lại thiếu một điều: cảm nhận thực tế. Ông muốn tiếp tục là người cách mạng khi mà mọi người đã muốn sống cuộc sống đời thường. Ông muốn làm hồi sinh một đảng cách mạng, trong khi chính nó đã biến thành một giai cấp mới, giai cấp không còn quan tâm tới những lí tưởng cao cả nữa, nhưng lại hoàn toàn không thờ ơ đối với những tiện nghi trong sinh hoạt hàng ngày. Ông chờ đợi phản ứng của quần chúng, cái quần chúng đã bị chiến tranh, đói khát làm cho kiệt quệ ngay đúng vào lúc giai cấp mới đã nắm được trọn vẹn quyền lực. Sau khi đã giành được đặc quyền đặc lợi giai cấp mới bắt đầu ru ngủ quần chúng bắng cách vẽ ra cảnh ấm no mà người ta từng mơ ước bấy lâu. Ánh hào quang mà Trotsky vẽ ra có thể nhuộm hồng những chân trời xa tít, nhưng không thể khơi lên ngọn lửa trong bếp của những con người đói khát. Ông đã cảm thấy một cách rõ ràng mặt trái của những hiện tượng mới, nhưng ông không hiểu được ý nghĩa của chúng. Hơn nữa ông cũng không phải là một người bolshevik, đấy vừa là điểm mạnh và cũng là điểm yếu của ông. Quá khứ “phi” bolshevik làm ông luôn luôn phải hành động với cảm giác thiếu tự tin. Khi nhân danh cách mạng đả phá tầng lớp quan liêu, ông đã không nhận ra rằng mình đang tấn công vào uy tín của đảng, nghĩa là tấn công vào giai cấp mới. Trong khi đó Stalin chẳng thèm quan tâm đến quá khứ cũng như tương lai. Ông ta đã khống chế được lực lượng của một giai cấp mới, của chế độ quan liêu đang định hình, trở thành lãnh tụ và người tổ chức của chính giai cấp đó. Ông ta không tuyên truyền, ông ta ra lệnh. Dĩ nhiên là ông ta cũng hứa hẹn một tương lai tươi sáng, nhưng là tương lai hiện thực đối với tầng lớp quan liêu, để cho tầng lớp ấy hàng ngày hàng giờ cảm thấy sự quan tâm của Stalin đối với sự sung túc trong đời sống và sự ổn định trong vị trí xã hội của họ. Các bài diễn văn của ông ta không thể gọi là có lửa, thực ra phải nói là chán ngắt, nhưng đối với giai cấp mới thì đấy chính là ngôn ngữ của thực tế, gần gũi và dễ hiểu. Trotsky mơ ước nhìn thấy một cuộc cách mạng bao trùm khắp châu Âu và sau đó là toàn thế giới. Stalin không phản đối, nhưng trước khi thực hiện công việc mạo hiểm đó, ông ta phải quan tâm đến nước Nga, đến những người mà ông ta dựa vào để củng cố hệ thống, tạo ra sức mạnh và niềm vinh quang của nhà nước Nga. Trotsky là người của cuộc cách mạng đã trở thành quá vãng, Stalin là người của hôm nay và như vậy cũng có nghĩa là người của ngày mai. Trotsky coi thắng lợi của Stalin là sự phản bội, là sự xuyên tạc chính quyền Xô-viết và thành quả của cách mạng. Ông cho rằng các biện pháp của Stalin là phi luân chính là vì như thế. Mặc dù Trotsky là người đầu tiên gần như hiểu được bản chất của chủ nghĩa cộng sản hiện đại (dù là không cố ý, dù là với ước mong cứu nó) nhưng phải nhận rằng ông không thể đi đến tận cùng bản chất ấy. Cho rằng đấy chỉ là “sự bùng phát” nhất thời của chủ nghĩa quan liêu chà đạp lên đường lối trong sáng của đảng cách mạng, Trotsky tin có thể giải quyết bằng cách thay đổi ban lãnh đạo, tiến hành “đảo chính cung đình” là được. Nhưng khi cuộc đảo chính ấy diễn ra (sau khi Stalin chết) thì người ta mới hiểu rằng bản chất của hệ thống là không thay đổi. Vấn đề hoá ra là có nguồn gốc sâu xa và căn bản hơn nhiều. Stalin đã để lại không chỉ một chính quyền mới, chuyên chế hơn chính quyền trước đó, mà còn để lại một giai cấp mới. Một trong những khía cạnh của cách mạng, khía cạnh bạo lực vẫn tiếp tục; sự sinh thành và củng cố của giai cấp mới đã trở thành hiện tượng đương nhiên. Stalin có thể có nhiều lí do hơn cả Trotsky khi tự xưng là người kế tục của Lenin và con đẻ của cách mạng, dù là đứa con thiếu giáo dục. Lenin là người kiến tạo một trong những cuộc cách mạng vĩ đại nhất của mọi thời đại. Stalin là người đã thực hiện một khối lượng công việc cực kì to lớn để thiết lập nên sự thống trị và quyền sở hữu của một giai cấp mới, giai cấp xuất thân từ trong lòng của một trong những cuộc cách mạng vĩ đại nhất, trong một đất nước rộng lớn nhất. Sau Lenin, một người hoàn toàn sống bằng tư tưởng và lòng say mê, trên sân khấu đã xuất hiện nhân vật Stalin, biểu tượng của những bước chân tàn nhẫn, nặng nề của giai cấp mới trong việc chinh phục đỉnh cao quyền lực của nó. Sau họ, sau Stalin sẽ đến cái điều phải đến cùng với sự trưởng thành của giai cấp mới, đấy là sự tầm thường, đấy là lãnh đạo tập thể và một người chân thật, hiền lành, một người “từ nhân dân” mà ra - đấy là Nikita Khrushchev. Giai cấp mới đã không còn cần những nhà cách mạng hay những kẻ giáo điều nữa. Giai cấp mới có thể chấp nhận những con người “đơn giản” như kiểu Khrushchev, Malenkov, Bulganin hay Shepilov, họ chính là đại diện trung bình của giai cấp đó. Chính giai cấp mới cũng đã mệt mỏi với những cuộc thanh trừng và cải tạo bất tận rồi. Sau khi đã ổn định vị trí, giai cấp mới cần phải tránh ngay cả mối nguy hiểm xuất phát từ chính lãnh tụ của mình. Đấy là do giai cấp đã thay đổi, còn Stalin thì vẫn như cũ, giống như thời giai cấp còn non nớt, những người giao động và những kẻ bị nghi là sẽ giao động đều bị trừng phạt cả. Chính cá nhân Stalin cũng như lí luận về “sự khốc liệt của cuộc đấu tranh giai cấp” sau khi “chủ nghĩa xã hội đã thắng lợi” cũng là điều kiện cần của việc hình thành giai cấp mới. Nhưng bây giờ điều đó đã trở thành thừa. Giai cấp mới không hề phủ nhận những di sản do triều đại Stalin để lại, nó chỉ phê phán thói lộng hành trong những năm cuối đời của ông ta, thực ra cũng không phải hoàn toàn như vậy, nó chỉ phủ nhận những biện pháp đụng chạm đến chính giai cấp, hay nói như Khrushchev là “đụng chạm đến những người cộng sản tốt” mà thôi. Thời đại cách của Lenin được thay bằng thời đại củng cố quyền lực và quyền sở hữu hay thời đại công nghiệp hoá vì cuộc sống ấm nó, hạnh phúc của giai cấp mới do Stalin lãnh đạo. Chủ nghĩa cộng sản cách mạng của Lenin được thay bằng chủ nghĩa cộng sản giáo điều Stalin và đến lượt nó, lại được thay bằng sự lãnh đạo tập thể, nghĩa là quyền lãnh đạo nằm trong tay một nhóm đầu sỏ. Đấy là ba giai đoạn phát triển giai cấp mới ở Liên Xô, ba giai đoạn phát triển của chủ nghĩa cộng sản Nga. Về nguyên tắc đấy cũng là những giai đoạn phát triển của mọi chế độ cộng sản khác. Chủ nghĩa cộng sản Nam Tư cũng có đầy đủ đặc trưng của ba giai đoạn như đã nói ở trên, nhưng lại quyện chặt với vấn đề dân tộc và cá nhân, tập trung vào một con người, đấy là Tito. Là một nhà cách mạng vĩ đại (nhưng thiếu tư tưởng độc đáo), một kẻ tiếm quyền (nhưng không có biểu hiện ngờ vực bệnh hoạn và giáo điều kiểu Stalin), giống như Khrushchev, ông cũng là đại diện của “nhân dân”, nghĩa là tầng lớp cán bộ trung cấp của đảng. Chính ông là người luôn luôn bảo vệ một cách nhất quán (nếu so với những người khác) chủ nghĩa Mác nhưng hành động lại chỉ vì lợi ích (chỉ cần thấp thoáng bóng dáng lợi ích thôi cũng đủ); ông chính là tấm gương phản chiếu toàn bộ con đường của chủ nghĩa cộng sản: cách mạng, rập khuôn chủ nghĩa Stalin và cuối cùng là từ bỏ nó để tìm diện mạo riêng. Ba giai đoạn phát triển của giai cấp mới – Lenin, Stalin, “lãnh đạo tập thể’ – là không tách rời nhau cả về nội dung và tư tưởng. Lenin đã là người giáo điều, còn Stalin đã là nhà cách mạng, theo cách của mình, cũng như “ban lãnh đạo tập thể”, trong trường hợp cần thiết, có thể sử dụng một cách hữu hiệu cả những phương pháp cách mạng cũng như phương pháp giáo điều. Hơn thế nữa, ban lãnh đạp tập thể chỉ không chấp nhận phương pháp giáo điều khi nó đụng chạm quyền lợi của nhóm chóp bu của giai cấp mới mà thôi. Đồng thời nó lại kiên quyết hơn trong việc “giáo dục” quần chúng”, tích cực nhồi sọ giáo điều mac-xit - lenin-nít cho họ. Giai cấp mới sau khi nắm được sức mạnh kinh tế đã tỏ ra mềm dẻo hơn, đã không còn khốc liệt và độc đoán như xưa. Giai đoạn anh hùng của chủ nghĩa cộng sản đã cáo chung. Thời đại của các lãnh tụ vĩ đại đã cáo chung. Bắt đầu giai đoạn của những kẻ thực dụng. Đấy là giai cấp mới. Giai cấp ấy đang đứng trên đỉnh cao của quyền lực và tài sản, nhưng thiếu tư tưởng. Giai cấp ấy không có gì để phát biểu nữa. Chỉ còn một việc là xem xét thực chất chính cái giai cấp đó. © 2005 talawas [1]R. Dabin, Quan hệ giữa người với người trong môi trường hành chính, New York 1951, trang 165-166. [2]A. Uralov, Khi Stalin nắm quyền, Paris.1951, trang 202, 215. Nguồn: Bản tiếng Nga, tại bản để in Ngôn ngữ Dịch thuật Tản văn thứ sáu Tủ sách talawas Nghệ thuật talaGallery Bàn tròn "Mĩ thuật đương đại Việt Nam đang ở đâu" Mĩ thuật Kiến trúc Điện ảnh Sân khấu Âm nhạc Tư tưởng Triết học Lịch sử Tôn giáo Phương Đông và Phương Tây Văn hoá và phát triển Chiến tranh nhìn từ nhiều phía
1614178347293.1.parquet/13440
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 35802, "url": "http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php/%3C/showFile.php?res=5496&rb=08" }
139.2
Có dự án nào đang diễn ra sử dụng Stack Exchange cho máy học không? Trí tuệ nhân tạo Thẻ Account Sign In Signup Có dự án nào đang diễn ra sử dụng Stack Exchange cho máy học không? 22 Có dự án AI nào đang diễn ra sử dụng Stack Exchange cho máy học không? machine-learning ai-design — Công nghệ cao nguồn Câu trả lời: 6 Chắc chắn đã có những dự án nghiên cứu liên quan đến một số hình thức khai thác văn bản / truy xuất thông tin / v.v. và các trang web StackExchange. Một số ví dụ tôi có thể tìm thấy thông qua học giả google / google (không chắc là ở đâu gần danh sách đầy đủ): TACIT: Công cụ phân tích, thu thập thông tin và giải thích văn bản nguồn mở mô tả nhiều trình thu thập văn bản cho nhiều loại trang web (bao gồm các trang web Stack Exchange, nhưng cũng có Twitter, Reddit, v.v.). Thoạt nhìn, điều này dường như chủ yếu là về thu thập thông tin, không phải là làm bất cứ điều gì khác với dữ liệu sau đó. Tìm kiếm các bài viết khác trích dẫn bài này trên Google Scholar có thể mang lại kết quả thú vị, tuy nhiên, điều đó có thể dẫn đến các bài viết đã sử dụng bài này để thu thập thông tin và đã làm nhiều hơn với dữ liệu sau đó. Chaff from the Wheat: Đặc trưng và mô hình hóa các câu hỏi đã xóa trên Stack Overflow mô tả nghiên cứu về chất lượng của các câu hỏi Stack Overflow theo một cách nào đó (cụ thể, dự đoán liệu các câu hỏi sẽ bị xóa chẳng hạn). Tôi không chắc chắn 100% nếu đây cũng là loại nội dung bạn quan tâm; đó là Stack Exchange + Machine Learning theo ngụ ý của tiêu đề câu hỏi của bạn, nhưng không nhất thiết phải giữ lại thông tin từ các câu trả lời như ngụ ý của văn bản trong câu hỏi của bạn. Luồng khai thác văn bản: Một cái nhìn sâu sắc về những thách thức và những khó khăn liên quan đến chủ đề mà những người học khoa học máy tính gặp phải cũng mô tả việc khai thác văn bản trong các câu hỏi và câu trả lời của StackOverflow, mặc dù trong nháy mắt, nó dường như chủ yếu là về phát hiện chủ đề, v.v. trả lời chẳng hạn. Các khía cạnh khác nhau của hệ thống trả lời câu hỏi tự động dựa trên văn bản dường như là một khảo sát tương đối gần đây về chủ đề nghiên cứu trả lời câu hỏi tự động. Stack Exchange được nhắc đến một vài lần như một ví dụ về nguồn dữ liệu cho các hệ thống như vậy, nhưng dường như không được sử dụng theo cách khác. Mở rộng PythonQA với Kiến thức từ StackOverflow đặc biệt là kết hợp Câu hỏi và Câu trả lời từ StackOverflow trong một hệ thống Câu hỏi và Trả lời tự động cho các câu hỏi về ngôn ngữ lập trình Python . Bài viết cung cấp một liên kết đến nhiều chi tiết hơn ( http://pythonqas2.epl.di.uminho.pt ), nhưng liên kết đó dường như bị ngừng hoạt động. Tôi cho rằng bạn luôn có thể thử liên hệ trực tiếp với các tác giả nếu bạn quan tâm đến nhiều thông tin hơn về vấn đề này. Tổng quát hơn, các hệ thống trả lời câu hỏi tự động dường như là một lĩnh vực nghiên cứu khá tích cực, không phải là một vấn đề tầm thường / "giải quyết". StackExchange có thể là một nguồn dữ liệu cho các hệ thống như vậy, nhưng cũng có rất nhiều nguồn dữ liệu khác (Wikipedia, Quora, v.v.). — Dennis Soemers nguồn 3 DuckDuckGo tìm hiểu câu trả lời cho các câu hỏi kỹ thuật từ StackExchange. Nhập một câu hỏi kỹ thuật như "các dự án đang diễn ra sử dụng stackexchange" vào DuckDuckGo và nó sẽ cung cấp một bản tóm tắt nổi bật về câu trả lời ở phía bên tay phải. Và con vịt có một API mở cho nhiều (100 giây) câu hỏi trả lời nguồn dữ liệu. Hoặc bạn có thể truy cập trực tiếp vào api stackexchange . Các dự án có thể sử dụng dữ liệu từ API mở SE miễn là chúng tuân thủ TOU của chúng . Về cơ bản chỉ cần đảm bảo rằng người dùng của bạn có thể nói rằng dữ liệu đến từ Stack Exchange. Giấy phép bản quyền cũng có thể giới hạn khả năng của bạn để thay đổi nội dung của văn bản, với một tóm tắt trừu tượng đã học. Có lẽ đó là lý do tại sao Duck.com chỉ nêu bật các từ khóa. Luật quyền dữ liệu đang thay đổi, đặc biệt là khi nói đến dữ liệu bạn đã gửi đến một trang web và các mô hình học máy có nguồn gốc từ dữ liệu đó. Dữ liệu châu Âu và quy tắc bảo mật mới cho phép bạn tải xuống hoặc xóa tất cả dữ liệu bạn gửi đến một trang web như trao đổi ngăn xếp. — hobs nguồn Khi sử dụng trang web của chúng tôi, bạn xác nhận rằng bạn đã đọc và hiểu Chính sách cookie và Chính sách bảo mật của chúng tôi. Licensed under cc by-sa 3.0 with attribution required.
1614178347293.1.parquet/123729
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 3588, "url": "https://qastack.vn/ai/1963/are-there-any-ongoing-projects-which-use-the-stack-exchange-for-machine-learning" }
138.7
Rối loạn căng thẳng sau sang chấn Phòng khám tâm lý y khoa - Tâm thần kinh Quốc Nam Trang chủ Giới thiệu phòng khám Các rối loạn tâm thần Rối loạn trầm cảm Rối loạn lo âu Rối loạn giấc ngủ Rối loạn nghiện chất Tâm thần phân liệt và các rối loạn liên quan Sa sút tâm thần Rối loạn ăn uống Rối loạn tình dục Rối loạn nhân cách Tâm thần cộng đồng Tâm thần nhi Tâm lý thực hành Động kinh Các vấn đề khác Gia đình Người lớn Trẻ em và thanh thiếu niên Công sở Giới tính Suy ngẫm Trắc nghiệm Hỏi đáp Liên hệ Home Rối loạn Rối loạn lo âu Rối loạn căng thẳng sau sang chấn Đăng ngày 23-06-2020 (VMHLN) - Sang chấn là gì? Rối loạn căng thẳng sau sang chấn là gì? Sang chấn là một phản ứng về mặt cảm xúc về một sự kiện khủng hoảng, đáng sợ hoặc nguy hiểm như một vụ tai nạn, cưỡng hiếp hay thảm họa thiên nhiên. Ngay sau sự kiện đó, cảm giác bàng hoàng và phủ nhận là những phản ứng điển hình. Những phản ứng lâu dài hơn bao gồm những sự thay đổi thất thường trong cảm xúc, những suy nghĩ, kí ức về sự việc gây sang chấn bất ngờ ập đến một cách không kiểm soát, sự căng thẳng trong các mối quan hệ và cả các triệu chứng thể chất như đau đầu hay buồn nôn. Trong khi những cảm xúc này là bình thường, nhiều người gặp khó khăn trong việc vượt qua nó và tiếp tục cuộc sống của mình. Rối loạn căng thẳng sau sang chấn (Post-traumatic Stress Disorder - PTSD) là một rối loạn tâm thần hình thành sau một sự kiện gây sang chấn. Việc cảm thấy sợ hãi trong và sau một tình huống gây sang chấn là hoàn toàn bình thường. Sự sợ hãi kích hoạt rất nhiều thay đổi ngay lập tức trong cơ thể, giúp chúng ta chống lại hoặc tránh được nguy hiểm từ môi trường. Phản ứng chiến-hay-chạy (hay còn gọi là phản ứng căng thẳng cấp tính) là một phản ứng điển hình nhằm thực hiện mục đích đó. Sau khi trải qua một sự kiện gây sang chấn, hầu hết mọi người sẽ có một loạt các phản ứng khác nhau, nhưng đa số sẽ có thể tự phục hồi sau các triệu chứng ban đầu. Với những người vẫn tiếp tục gặp phải vấn đề và không thể tự hồi phục, họ có thể được chẩn đoán mắc PTSD. Những người mắc PTSD có thể cảm thấy căng thẳng hoặc sợ hãi, ngay cả khi họ không ở trong tình huống nguy hiểm. 2. Dấu hiệu và triệu chứng của PTSD Không phải bất kì ai trải qua sự kiện gây sang chấn đều mắc PTSD mãn tính hay thậm chí là cấp tính. Và cũng không phải tất cả những người mắc PTSD đều đã trải qua một sự kiện nguy hiểm. Có một số sự kiện, chẳng hạn như việc một người thân đột ngột qua đời, cũng có thể gây ra PTSD. Các triệu chứng thường bắt đầu từ khá sớm (trong vòng 3 tháng sau sự kiện gây sang chấn) nhưng đôi khi cũng khá muộn (nhiều năm sau đó). Các triệu chứng phải kéo dài hơn một tháng và phải đủ nghiêm trọng, gây ảnh hưởng đến các mối quan hệ xã hội hoặc công việc, để có thể được xem là PTSD. Quá trình tiến triển của rối loạn đối với mỗi người là khác nhau. Một số người có thể phục hồi trong vòng 6 tháng, trong khi một số khác có những triệu chứng sẽ kéo dài hơn. Ở một số người, tình trạng rối loạn sẽ trở nên mãn tính. Các bác sĩ với kinh nghiệm giúp đỡ những người mắc bệnh tâm thần, như bác sĩ tâm thần hoặc nhà tâm lý học, có thể chẩn đoán PTSD. Để được chẩn đoán mắc PTSD, một người (18 tuổi trở lên) phải có tất cả những triệu chứng sau đây kéo dài ít nhất 1 tháng: Ít nhất một triệu chứng trái trải nghiệm lại Ít nhất một triệu chứng tránh né Ít nhất hai triệu chứng kích thích và phản ứng Ít nhất hai triệu chứng về mặt nhận thức và tâm trạng a) Các triệu chứng tái trải nghiệm lại Các triệu chứng mà một người mắc PTSD có thể tái trải nghiệm lại bao gồm: Các hình ảnh, kí ức về sự kiện gây sang chấn đột ngột quay lại/xuất hiện, kèm theo các dấu hiệu về thể chất như tim đập nhanh hoặc đổ mồ hôi Gặp ác mộng Có những suy nghĩ đáng sợ Tái trải nghiệm các triệu chứng này có thể cản trở sinh hoạt hằng ngày của người mắc PTSD. Chúng có thể bắt đầu từ suy nghĩ và cảm xúc của chính người mắc rối loạn. Các từ ngữ, đồ vật hoặc tình huống gợi nhớ về sự kiện sang chấn có thể khiến người mắc rối loạn tái trải nghiệm những triệu chứng này. b) Các triệu chứng tránh né Các triệu chứng tránh né bao gồm: Tránh tiếp xúc với các địa điểm, sự kiện hoặc đồ vật gợi nhớ về những trải nghiệm gây sang chấn Tránh có những suy nghĩ hoặc cảm xúc liên quan đến sự kiện gây sang chấn Những điều khiến một người nhớ về sự kiện tổn thương có thể gây ra các triệu chứng tránh né. Những triệu chứng này có thể khiến một người thay đổi thói quen cá nhân của mình. Ví dụ, sau một tai nạn xe hơi nghiêm trọng, một người thường lái xe có thể tránh lái xe hoặc tránh di chuyển bằng xe hơi. c) Các triệu chứng kích thích và phản ứng: Các triệu chứng kích thích và phản ứng bao gồm: Dễ bị giật mình Cảm thấy căng thẳng Khó ngủ Có những cơn giận bột phát Các triệu chứng kích thích thường xảy ra liên lục thay vì bị kích hoạt bởi những yếu tố gợi nhớ về sự kiện sang chấn. Những triệu chứng này có thể khiến người bệnh cảm thấy căng thẳng, tức giận và cản trở người bệnh thực hiện các công việc hằng ngày như ngủ, ăn hoặc tập trung. c) Các triệu chứng nhận thức và tâm trạng: Các triệu chứng nhận thức và tâm trạng bao gồm: Gặp khó khăn trong việc nhớ lại những chi tiết chính của sự kiện gây sang chấn Có những suy nghĩ tiêu cực về bản thân hoặc thế giới xung quanh Có cảm giác không phù hợp như cảm thấy có lỗi hoặc bản thân có trách nhiệm với sự kiện gây sang chấn đó Mất hứng thú với các hoạt động ưa thích trước đây Các triệu chứng nhận thức và tâm trạng có thể bắt đầu hoặc trở nên tồi tệ hơn sau sự kiện gây sang chấn. Tuy nhiên, chúng không phải do các chấn thương về thể chất hoặc do các chất gây nghiện gây ra. Các triệu chứng này có thể khiến người bệnh cảm thấy xa lạ hoặc tách mình khỏi bạn bè hoặc gia đình. Chúng ta cần phải hiểu rằng, sau một sự kiện nguy hiểm, việc có một số các triệu chứng nêu trên là hoàn toàn bình thường. Nếu các triệu chứng đặc biệt nghiêm trọng biến mất sau một vài tuần, đó được gọi là rối loạn căng thẳng cấp tính (acute stress disorder). Còn nếu các triệu chứng kéo dài hơn một tháng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng hoạt động của một người và không do việc sử dụng các chất gây nghiện, bệnh y khoa hoặc bất cứ điều gì ngoại trừ sự kiện tổn thương gây ra, đó có thể là PTSD. Tuy nhiên, một số người khi mắc PTSD sẽ không thể hiện ra ngoài bất kỳ triệu chứng nào trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng. PTSD thường đi kèm với trầm cảm, lạm dụng chất hoặc ít nhất một chứng rối loạn lo âu khác. Khi nói về PTSD, trẻ em có phản ứng khác với người lớn hay không? Trẻ em và thiếu niên có thể có phản ứng mạnh hơn với sang chấn, nhưng một số triệu chứng ở các em có thể không giống như người lớn. Các triệu chứng thỉnh thoảng được bắt gặp ở trẻ nhỏ (dưới 6 tuổi) có thể bao gồm: Đái dầm sau khi biết cách sử dụng nhà vệ sinh Quên cách hoặc không thể nói chuyện Diễn lại những sự kiện gây sang chấn trong lúc đang chơi đùa Dính lấy ba mẹ hoặc người lớn một cách bất thường Trẻ trên 6 tuổi và thanh thiếu niên thường có xu hướng biểu hiện các triệu chứng tương tự như ở người lớn hơn. Các em cũng có thể phát triển các hành vi gây rối, thiếu tôn trọng hoặc phá hoại từ PTSD, cảm thấy tội lỗi vì không thể ngăn chặn thương vong và có thể có ý nghĩ trả thù. 3. Các phương pháp điều trị và tự trợ giúp Phương pháp trị liệu chính cho những người mắc PTSD là thuốc, trị liệu tâm lý, hoặc cả hai. Ảnh hưởng của PTSD đến mỗi người một khác nhau, vì vậy phương pháp trị liệu phù hợp cho người này chưa chắc đã có tác dụng với người khác. Việc những người mắc PTSD được điều trị bởi những chuyên gia tâm lý đã có kinh nghiệm với rối loạn này là rất quan trọng. Một số người mắc PTSD có thể phải thử vài phương pháp trị liệu khác nhau để tìm được phương pháp phù hợp với họ. Nếu một người mắc PTSD đang phải trải qua một sang chấn vẫn đang tiếp diễn, ví dụ như họ đang ở trong một mối quan hệ bạo hành, thì cả hai vấn đề (PTSD và việc họ đang bị bạo hành) đều phải được nói đến. Những vấn đề đang diễn ra khác có thể bao gồm rối loạn cơn hoảng sợ, trầm cảm, lạm dụng chất, và cảm thấy muốn tự tử. a. Điều trị tâm lý (Psychotherapy) Điều trị tâm lý có thể được thực hiện dưới hình thức một-với-một hay hình thức nhóm. Điều trị tâm lý cho PTSD thường kéo dài từ 6 đến 12 tuần, hoặc có thể kéo dài hơn thế. Nghiên cứu cho thấy sự trợ giúp từ gia đình và bạn bè là một phần quan trọng trong việc phục hồi của những người mắc PTSD. Có nhiều phương pháp điều trị tâm lý để giúp cho những người mắc PTSD. Một số phương pháp nhắm trực tiếp đến những triệu chứng của PTSD. Một số phương pháp điều trị khác tập trung vào những vấn đề xã hội, gia đình và công việc. Bác sĩ hay nhà điều trị có thể phối hợp các hình thức điều trị khác nhau tùy theo nhu cầu của mỗi người. Phương pháp điều trị tâm lý hiệu quả thường nhấn mạnh vào một số những cấu phần chính, bao gồm giáo dục về triệu chứng, dạy cho người mắc rối loạn các kỹ năng để giúp họ nhận diện những yếu tố có thể kích hoạt các triệu chứng, và kỹ năng để quản lý những triệu chứng ấy. Một phương pháp trị liệu được chứng minh là có hiệu quả đối với PTSD là trị liệu nhận thức-hành vi (cognitive-behavioral therapy - CBT). CBT bao gồm: Liệu pháp phơi nhiễm (exposure therapy). Phương pháp này giúp cho những người mắc PTSD đối diện và kiểm soát sự sợ hãi của họ. Họ sẽ được từ từ phơi nhiễm với những sang chấn mà họ đã trải qua bằng một cách an toàn. Phương pháp này sử dụng việc tưởng tượng, viết về những sang chấn, hay đến thăm nơi xảy ra sự kiện sang chấn. Nhà trị liệu tâm lý sẽ sử dụng những công cụ này để giúp những người mắc PTSD đương đầu với những cảm xúc của bản thân. Tái cấu tạo nhận thức (Cognitive restructuring). Phương pháp này giúp những người mắc PTSD có thể hiểu được những ký ức tồi tệ. Thỉnh thoảng, họ sẽ nhớ về biến cố khác với cách mà biến cố ấy diễn ra. Họ có thể cảm thấy tội lỗi và xấu hổ về một số điều mà không phải lỗi của họ. Nhà trị liệu tâm lý giúp những người mắc PTSD nhìn nhận sự việc bằng một cách thực thế hơn. Có nhiều những phương pháp trị liệu khác có thể trợ giúp cho những người mắc PTSD. Những người mắc PTSD nên nói về tất cả những lựa chọn về phương pháp trị liệu với nhà trị liệu tâm lý. Phương pháp điều trị nên trang bị cho những cá nhân mắc PTSD những kỹ năng để quản llys các triệu chứng của họ và giúp họ tham gia vào những hoạt động mà họ cảm thấy hứng thú tới trước khi mắc PTSD. Điều trị tâm lý giúp những người mắc PTSD trải qua rối loạn như thế nào Các phương pháp trị liệu tâm lý dạy cho những người mắc PTSD những cách hữu ích để phản ứng với những sự kiện đáng sợ có thể kích hoạt những triệu chứng PTSD. Dựa trên mục tiêu này, các phương pháp điều trị khác nhau có thể: Dạy người mắc PTSD về những sang chấn và sự ảnh hưởng của chúng Sử dụng các phương pháp thư giãn và các kĩ năng kiểm soát cơn tức giận Cung cấp mẹo để có một giấc ngủ, chế độ ăn, và thói quen thể dục tốt hơn Giúp họ nhận thức và đối phó với sự tội lỗi, xấu hổ, và những cảm xúc khác về biến cố Tập trung vào việc thay đổi cách mà những người mắc rối loạn phản ứng với những triệu chứng PTSD. Ví dụ, điều trị tâm lý giúp họ đối diện với những gợi nhớ về sang chấn. b. Ngoài điều trị: Tôi có thể giúp gì cho bản thân mình? Bước đầu trong việc giúp đỡ bản thân mình có thể sẽ rất khó khăn. Điều quan trọng mà bạn nên nhận ra đó là mặc dù có thể cần nhiều thời gian, nhưng với trị liệu, tình trạng của bạn sẽ trở nên tốt hơn. Nếu bạn không chắc chắn về việc tìm sự giúp đỡ ở đâu, hãy hỏi bác sĩ gia đình của bạn. Bạn cũng có thể tìm online bằng những cụm từ như là “người cung cấp điều trị tâm lý", “dịch vụ xã hội", “đường dây nóng", hay “bác sĩ" để tìm số điện thoại và địa chỉ. Bác sĩ cấp cứu cũng có thể cung cấp sự giúp đỡ tạm thời và cho bạn biết thêm về những địa điểm và cách để có thêm sự giúp đỡ. Để tự giúp đỡ bản thân trong khi tham gia điều trị: Nói chuyện với bác sĩ/nhà trị liệu của bạn về các lựa chọn trị liệu Tham gia vào những hoạt động thể chất hay thể dục nhẹ nhàng để giúp giảm căng thẳng Đặt ra những mục tiêu thực tế cho bản thân Chia nhỏ những công việc lớn thành những công việc nhỏ, đặt ra một số ưu tiên, và làm những gì mà bạn có thể làm được Cố gắng dành thời gian cùng người khác, và tâm sự với người thân và những người bạn mà bạn tin tưởng. Kể cho những người khác về những yếu tố có thể kích hoạt các triệu chứng. Các triệu chứng của bạn sẽ tốt lên từ từ, không phải ngay lập tức Nhận biết và tìm đến những tình huống, địa điểm hay những người tạo cho bạn cảm giác thoải mái Quan tâm đến bản thân và những người khác là một điều đặc biệt quan trọng khi nhiều người bị phơi nhiễm với các sự kiện sang chấn (ví dụ như thảm họa tự nhiên, tai nạn, và hành vi bạo lực). Nguồn: NIMH Post-traumatic Stress Disorder, APA: Trauma Photo credit: Anemone123 from Pixabay Ảnh minh họa: Bùi Tùng Dương. Tag:PTSD, rối loạn căng thẳng sau sang chấn, ác mộng Chia sẻ bài viết này: Các bài viết liên quan: Hội chứng sợ kim tiêm - Rào cản khi tiếp cận tiêm chủng Vượt qua stress trong đại dịch COVID-19 Ảnh hưởng lâu dài của căng thẳng tới sức khỏe Vì sao điều dưỡng trong bệnh viện gặp stress? 10 phút mát xa giúp giải toả stress Stress tâm lý có thể gây ung thư? Căng thẳng, tức giận có thể làm suy tim trầm trọng hơn Sơ cứu tinh thần Xử trí và phòng ngừa kiệt sức về tinh thần Bài được xem nhiều nhất 12 dấu hiệu bạn đang mắc bệnh rối loạn lo âu – Căn bệnh nguy hiểm nhiều người mắc phải Vài khái niệm về một số bệnh tâm thần thường gặp Một số đặc điểm tâm lý của trẻ em có cha mẹ ly hôn Erik Erikson và học thuyết về sự phát triển con người Bạo lực gia đình và ảnh hưởng của nó đến tâm lý và việc hình thành nhân cách của trẻ em Hiểu và vượt qua sang chấn tâm lý Những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi bạo lực học đường Hiện tượng tự tử ở thanh thiếu niên Việt Nam trong những năm gần đây Thuyết J.Piaget về sự phát triển trí tuệ trẻ em (phần 1) Dấu hiệu chậm biết đi Cận cảnh cuộc sống, tình yêu, tình dục người đồng tính Việt Sách nói Tự truyện của bác sĩ Lê Quốc Nam Gọi bình yên quay về Tự truyện của bác sĩ tâm thần Lê Quốc Nam Số trang: 286 trang NXB Trẻ Ấn hành năm 2008 Người đọc: Hướng Dương Được cho phép tải từ Thư viện sách nói dành cho người mù Website:www.sachnoionline.com Giới thiệu: Đọc tự truyện “Gọi bình yên quay về” của bác sĩ chuyên khoa tâm Lê Quốc Nam với những câu chuyện xoay quanh căn bệnh tâm thần, chúng ta mới thấy được những khoảng dừng của con người, những vấn đề của xã hội, từ đó mới có thể cảm thông và chia sẻ hơn với những con người thiệt thòi bởi tạo hóa. Cuộc sống ngày càng số hóa, mối quan hệ dễ dàng mở rộng, nhưng cũng có thể khiến con người ngày càng nhỏ lại và khép kín lòng mình, khó có thể hòa nhập cộng đồng và làm việc bình thường. Bác sĩ Lê Quốc Nam giúp chúng ta hiểu hơn về trầm cảm và những người mắc bệnh trầm cảm - một dạng của tâm thần. Đọc thêm Tự truyện của cô Nguyễn Hướng Dương Đứng dậy và bước đi Tự truyện của cô Nguyễn Hướng Dương - Giám đốc Quỹ từ thiện sách nói dành cho người mù. Số trang: 178 trang NXB Hồng Đức Ấn hành năm 2014 Người đọc: Hướng Dương Được cho phép tải từ Thư viện sách nói dành cho người mù Website:www.sachnoionline.com Giới thiệu: Từ đó, cuộc đời của Hướng Dương đã sang một ngã rẽ khác. Không than van, bi quan, cô đã vượt lên chính mình, không chỉ sống có ích với đời, mà còn nâng đỡ các số phận kém may mắn. Một trong những đóng góp ý nghĩa là ngày 19.5.1998, cô đã cùng các tâm hồn thiện nguyện thành lập Thư viện sách nói dành cho người mù. Nhờ có sách nói, người mù có thể tiếp cận nhiều nguồn tri thức, thông tin, theo đuổi các cấp học... mà không bị lệ thuộc vào chữ nổi, vốn ấn bản có số lượng hạn chế và tốn kém. Sau 18 năm hoạt động, thư viện có trên 270.000 băng cassette và đĩa CD cho hơn 90 Hội người mù và Trường mù trên toàn quốc, phục vụ trực tuyến với gần 1000 sách nói cho hơn 20 triệu lượt người. Đọc thêm PHÒNG KHÁM TÂM LÝ Y KHOA – TÂM THẦN KINH QUỐC NAM © Bản quyền thuộc về Phòng khám tâm lý y khoa - tâm thần kinh Quốc Nam Địa chỉ : 5/35 ( số cũ 3/16A ) Nơ Trang Long, P. 7, Q. Bình Thạnh, TP.HCM Điện thoại: 35. 103. 074 - Di động : 090.38.87.413 - 076.87.87.076 Email: quocnampsy@yahoo.com, gquocnampsy@gmail.com Website: www.suckhoetamthan.net Thiết kế: H3 GROUP - Huỳnh Kim Thanh
1614178347293.1.parquet/159540
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 14543, "url": "https://www.suckhoetamthan.net/roi-loan-lo-au/Roi-loan-cang-thang-sau-sang-chan-2887.html" }
137.8
Căng thẳng Mỹ-Trung có thể thay đổi trật tự kinh tế toàn cầu | chơi bet365 làm thế nào để thắng_link vào bet365 mới nhất_bet365 là gì Search Căng thẳng Mỹ-Trung có thể thay đổi trật tự kinh tế toàn cầu Home / Phân tích / Căng thẳng Mỹ-Trung có thể thay đổi trật tự kinh tế toàn cầu Phân tích 2020-08-262020-08-26admin Sau khi Hoa Kỳ cáo buộc hai tin tặc Trung Quốc tấn công các công ty Trung Quốc để đánh cắp thông tin về vắc-xin Covid-19, căng thẳng giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ gia tăng trong tuần này. Sau đó, Hoa Kỳ đã ra lệnh đóng cửa lãnh sự quán Trung Quốc tại Houston để bảo vệ tài sản trí tuệ và dữ liệu của công dân Mỹ. Các công ty ở Phố Wall vẫn đang nỗ lực để thay đổi mối quan hệ. Ở hai nền kinh tế lớn nhất thế giới, mối quan hệ cộng sinh đã kéo dài hàng thập kỷ. Họ kết luận rằng thế giới ngày càng trở nên phân cực hơn. Nền kinh tế và các doanh nghiệp đang nghiêng về Hoa Kỳ hoặc Trung Quốc. Nhưng nếu chúng ta nhìn vào cách Trung Quốc xử lý dịch bệnh này và thực thi luật pháp, việc sắp xếp lại này có thể phức tạp hơn. An ninh quốc gia của Hồng Kông. Jimmy Chang, chiến lược gia đầu tư tại Rockefeller Asset Management, cho biết: “Hoa Kỳ, phương Tây và Trung Quốc sẽ khó trở lại bình thường. Danh mục đầu tư sẽ thay đổi-Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình Nó sẽ được tổ chức tại hội nghị thượng đỉnh G20 vào năm 2019. Ảnh: Reuters. Thời điểm này căng thẳng chưa tác động nhiều đến thị trường chứng khoán thì hôm qua (22/7), Phố Wall đã tăng trở lại. Hôm nay, chỉ số tổng hợp Thượng Hải và chỉ số tổng hợp Thâm Quyến chỉ giảm nhẹ. Tuy nhiên, Zhang nói, các nhà đầu tư nên chú ý hơn đến mối quan hệ giữa Bắc Kinh và Washington. Chính sách nới lỏng tài khóa đã được hưởng lợi từ thị trường. Việc tổ chức lại chuỗi cung ứng và xu hướng thương mại có thể có tác động lớn đến hoạt động kinh doanh và nền kinh tế. Ed Yardeni, chủ tịch của công ty nghiên cứu Yardeni Research, cho biết mối quan hệ này xấu đi là do ông dự đoán rằng thị trường sẽ Lý do của sự sụt giảm hơn 20%. BlackRock đã nêu trong nửa sau của báo cáo triển vọng rằng bản dịch đã làm cho Hoa Kỳ và Trung Quốc trở nên xung đột hơn. Càng ngày, các quốc gia khác sẽ được yêu cầu lựa chọn cả hai bên. Nền kinh tế tập trung vào lĩnh vực này. Công nghệ, nhưng không có hạn chế ở đây. BlackRock cho biết: “Điều này có nghĩa là nhà đầu tư phải tồn tại đồng thời trên hai thị trường.-Chiến lược gia đầu tư toàn cầu Mike Pyle (Mike Pyle) của BlackRock cho rằng nhà đầu tư nên cân nhắc điều này khi xây dựng danh mục đầu tư. “Danh mục đầu tư phải cân bằng mối quan hệ giữa hai yếu tố này. Động cơ chính của tăng trưởng toàn cầu. Một là Hoa Kỳ, khu vực Bắc Mỹ lớn hơn. Vùng còn lại là Đông Á, với trọng tâm là Trung Quốc. Bạn có thể sở hữu nó trực tiếp. Tài sản của Trung Quốc, hoặc gián tiếp thông qua tài sản ở Đài Loan, Hàn Quốc, Úc hoặc Nhật Bản, “ông nói. Pyle trước đó đã nói rằng iInvest nhằm mục đích hưởng lợi từ toàn cầu hóa. Nhưng xu hướng này đang thay đổi “Các ràng buộc kinh tế ngày càng ít đi. Điều này cũng đúng đối với thị trường tài chính. “Peel cho biết, ví dụ, khi xem xét rằng lợi suất trái phiếu chính phủ Trung Quốc đã tăng trong khi lợi suất của Mỹ giảm. — Ảnh hưởng đến kinh doanh — Các nhà phân tích cho rằng khi cuộc bầu cử ở Mỹ đến gần, Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa cũng sẽ nói rằng từ Theo quan điểm của Trung Quốc, cứng rắn với phương Tây cũng có thể giúp họ có lợi trong nước. Cả hai bên khó có thể thay đổi ý định. Zhang nói: “Cho đến nay, Trung Quốc không nhắm vào các công ty Mỹ. “Cho đến nay, Trung Quốc vẫn đủ thân thiện với các công ty Hoa Kỳ vì chính phủ Trung Quốc có xu hướng coi các công ty Hoa Kỳ như những công ty vận động hành lang cho các công ty Hoa Kỳ ở Washington. Hoa Kỳ đã cấm 11 công ty Trung Quốc mua công nghệ và sản phẩm khác của Hoa Kỳ mà không có sự cho phép đặc biệt. 11 công ty đã và đang là nhà cung cấp của nhiều thương hiệu quốc tế, chẳng hạn như Apple, Alphabet, HP Hugo Boss và Ralph Lauren. Yle nói rằng các công ty đa quốc gia đang thay đổi chuỗi cung ứng bên ngoài Trung Quốc. Xu hướng này sẽ tiếp tục gia tăng. — -Trong một báo cáo gần đây, Morgan Stanley đã nghiên cứu tác động của sự phân chia đối với 35 ngành công nghiệp. Trong đó, 11 ngành sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi chi phí tăng cao và kinh doanh khó khăn, bao gồm ô tô và phụ tùng ô tô toàn cầu, Giao thông vận tải toàn cầu và hàng không vũ trụ, vật liệu sản xuất toàn cầu, phần cứng của Hoa Kỳ và Internet, các sản phẩm bán dẫn của Hoa Kỳ và Châu Á. Đồng thời, ngành sẽ được hưởng lợi từ sự đa dạng hóa chuỗi cung ứng và thị trường. Chúng bao gồm hóa chất, đồ uống và hàng xa xỉ , Dược phẩm, công nghệ sinh học, ngân hàng và bảo hiểm.-Tác động trên thị trường vốn Căng thẳng Mỹ-Trung cũng đang phá vỡ thị trường vốn của cả hai nước. Hoa Kỳ muốn hủy bỏ đăng ký của các công ty Trung Quốc không thể chứng minh rằng họ có thể xác minh được và không thuộc về nước này. Điều này khiến nhiều công ty Trung Quốc đăng ký kinh doanh tại Hoa Kỳ sợ hãi. Vài ngày trước, Ant Group (công ty con của Alibaba) đã lên kế hoạch tiến hành các đợt chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng tại Thượng Hải và Hồng Kông. Đây sẽ là một trong những đợt IPO lớn nhất trong năm nay. Ngày càng phụ thuộc lẫn nhau. Goldman Sachs đã được ủy quyền vào tháng 3 để tăng cổ phần của mình trong liên doanh Goldman Sachs Gao Hua Securities lên 51%. Morgan Stanley cũng đã được chấp thuận để tăng cổ phần của mình tại Morgan Stanley Huaxin Securities lên 51%. Trong báo cáo, Morgan Stanley tuyên bố một số bên sẽ được hưởng lợi từ căng thẳng Trung-Mỹ. Các quốc gia như các công ty Internet Châu Á và các công ty phần mềm Châu Âu. Nhiều lĩnh vực khác thậm chí không bị ảnh hưởng, chẳng hạn như năng lượng, kim loại và khai thác mỏ. “Từ góc độ thương mại thế giới, tôi nghĩ lĩnh vực này sẽ bị ảnh hưởng bất lợi. Công ty nào có giá mạnh nhất hoặc yếu nhất, bạn biết đấy, thay đổi sẽ luôn làm tổn hại đến công ty này nhưng sẽ giúp ích cho công ty khác. Và Giống như các nước khác, ngày càng nhiều nước phương Tây thay đổi chuỗi cung ứng của họ? 0 Thành phố Hồ Yên, Việt Nam – khu đô thị giữa hai hồ có kiểm soát12 giờ đêm con trai tôi phát hiện xem phim khiêu dâm Leave a Reply Cancel Reply Your email address will not be published. Save my name, email, and website in this browser for the next time I comment. Bài viết mới Khó khăn của Obama khi Đảng Dân chủ thất bại Các bà vợ thà để chồng dùng búp bê tình dục còn hơn cặp bồ Ra mắt shophouse Nasha Garden Trung Quốc nối lại tham vọng quốc tế hóa nhân dân tệ Cách giúp trẻ vui Tết tại nhà Phản hồi gần đây chơi bet365 làm thế nào để thắng_link vào bet365 mới nhất_bet365 là gì
1614178347293.1.parquet/120099
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 5447, "url": "https://www.vietnamexplorertours.com/phan-tich/9485.html" }
137.6
Lightbox – BSS2018 (Serene)-169(Imported) | Lightbox – BSS2018 (Serene)-169(Imported) – MAS Brian Tracy (sinh tại Vancouver, Canada vào 5/1/1944) là một tác giả viết về chủ đề tự giúp bản thân. Brian Tracy được biết đến như một bậc thầy trong lĩnh vực tư duy thành công, một diễn giả và chuyên gia đào tạo nổi tiếng thế giới Ông là Chủ tịch và Giám đốc điều hành của Brian Tracy International, một công ty chuyên đào tạo và phát triển cá nhân và các tổ chức. Ông hoạt động trong cộng đồng và quốc gia, và là Chủ tịch của ba công ty có trụ sở tại Solana Beach, California. Mục tiêu của Brian là giúp bạn đạt được các mục tiêu cá nhân và kinh doanh nhanh hơn và dễ dàng hơn những gì bạn tưởng tượng. Brian Tracy đã tư vấn cho hơn 1.000 công ty và giải quyết vấn đề hơn 5.000.000 người trong 5.000 cuộc tọa đàm và hội thảo trên khắp Hoa Kỳ, Canada và 70 nước khác trên toàn thế giới. Ông nói chuyện với hơn 250.000 người mỗi năm. Ông đã nghiên cứu, viết và nói trong 30 năm về các lĩnh vực kinh tế, lịch sử, kinh doanh, triết học và tâm lý học. Ông là tác giả của hơn 70 cuốn sách bán chạy nhất đã được dịch sang hàng chục ngôn ngữ. Ông đã viết và sản xuất hơn 300 chương trình học tập bao gồm cả Tâm lý học thành tựu bán chạy trên toàn thế giới, đã được dịch ra hơn 28 ngôn ngữ. Ông nói với các khán giả trong công ty và công chúng về các chủ đề Phát triển Cá nhân và các Tổ chức lớn, bao gồm cả các giám đốc điều hành và nhân viên của nhiều công ty lớn nhất nước Mỹ. Các cuộc hội thảo thú vị của ông về Lãnh đạo, Bán hàng, Tự tin, Mục tiêu, Chiến lược, Sáng tạo và Thành công Tâm lý mang lại những thay đổi ngay lập tức và kết quả lâu dài. Trước khi thành lập công ty Brian Tracy International, Brian là Giám đốc điều hành của một công ty phát triển đô la trị giá 265 triệu đô la. Ông đã có những sự nghiệp thành công trong bán hàng và tiếp thị, đầu tư, phát triển bất động sản và cung cấp, nhập khẩu, phân phối và tư vấn quản lý. Ông đã thực hiện các công việc tư vấn cấp cao với hàng tỷ đô la cùng với các tập đoàn trong việc lập kế hoạch chiến lược và phát triển tổ chức. Ông đã đi du lịch và làm việc tại hơn 107 quốc gia trên sáu châu lục, và nói bốn thứ tiếng. Brian vui vẻ lập gia đình và có 4 đứa con. x
1614178347293.1.parquet/162572
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 1816, "url": "http://mas.edu.vn/?tcb_lightbox=lightbox-bss2018-serene-169imported-21" }
137.6
CÁC NHÀ KHOA HỌC TRONG HÀNH TRÌNH TÌM KIẾM VACCINE PHÒNG DỊCH TẢ CHÂU PHI (ASF) – JILY PHU KHAI ANIMAL NUTRITION Skip to content JILY PHU KHAI ANIMAL NUTRITION Dinh dưỡng AN TOÀN vì CHẤT LƯỢNG cuộc sống Trang chủ VỀ JPK SẢN PHẨM Gia súc Gia cầm Thủy sản Thú cưng GÓC KỸ THUẬT Chăn nuôi gia súc Chăn nuôi gia cầm Kỹ thuật thủy sản Thức ăn chăn nuôi TIN TỨC HOẠT ĐỘNG BẢO MẬT LIÊN HỆ EMAIL Tìm kiếm cho: Main Menu CÁC NHÀ KHOA HỌC TRONG HÀNH TRÌNH TÌM KIẾM VACCINE PHÒNG DỊCH TẢ CHÂU PHI (ASF) Lời giới thiệu từ JPK Đại diện Học viện Nông nghiệp vừa thông tin tại cuộc họp về “Giải pháp sử dụng vaccine, chế phẩm sinh học trong phòng chống bệnh dịch tả Châu Phi” do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức ngày 02/07/2019 rằng các nhà khoa học thuộc Học viện đã phân lập được tế bào PAM để sản xuất vaccine phòng dịch tả lợn Châu Phi. Ngay lập tức, nhiều bài báo đã thông tin “Việt Nam sản xuất thành công vaccine ASF…”, “Việt Nam đã thử nghiệm thành công vaccine ASF…”,… Liệu đây có phải là tin đáng mừng? Quả thật, đây là một tin đáng mừng. Với mỗi bước tiến khoa học nào, dù nhỏ, đều rất đáng mừng và nên được tạo điều kiện phát triển tiếp. Nhất là những khởi sắc cho các vấn đề khó khăn, vượt ngoài kiểm soát như tình hình dịch tả Châu Phi ở thế giới và Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, người chăn nuôi cũng cần hiểu rõ hơn về tình trạng và các vấn đề để ứng phó tốt nhất, trước hết là tránh để tình trạng dịch lan nhanh. JPK dịch nhanh bài viết gần đây có liên quan đến tình hình tìm kiếm vaccine cho ASF đăng trên trang https://www.the-scientist.com/ ngày 24/06/2019, nhằm góp phần làm rõ bức tranh cuộc chiến chống ASF đang lan rộng. Do bài dịch nhanh nên câu cú có đôi chỗ chưa chuẩn xác. *** Sốt lợn châu Phi, một căn bệnh gây tử vong cho lợn, đã xuất hiện trong nhiều thập kỷ. Dịch bệnh này được cho là có nguồn gốc từ tiểu vùng Sahara châu Phi, và sau đó lan sang các lục địa khác, cụ thể là bùng phát ở Nga, Brazil và nhiều vùng khác nhau của Châu Âu, nơi mà trước đó vẫn duy trì một thành trì trong quần thể lợn rừng. Dịch chỉ leo thang đến mức mà Dirk Pfeiffer, một nhà dịch tễ học thú y tại Đại học Thành phố Hồng Kông (City University of Hong Kong) và Đại học Thú y Hoàng gia Anh (the UK’s Royal Veterinary College), gọi là “dịch bệnh động vật lớn nhất từ ​​trước đến nay” khi đến Trung Quốc vào tháng 8 năm 2018. Sự lây lan được mô tả như “đám cháy trên nôi lợn lớn nhất thế giới”. Pfeiffer cho rằng tình trạng lan rộng vượt kiểm soát này thực chất “chỉ là vấn đề thời gian” ở Trung Quốc, bởi quốc gia này “có quá nhiều lợn”. Căn bệnh này không chỉ đe dọa ngành công nghiệp thịt lợn lớn nhất thế giới, mà còn đe dọa nguồn cung cấp toàn cầu của heparin làm loãng máu, vì phần lớn nguồn này được sản xuất từ lợn của Trung Quốc. Đáng báo động là con số lợn bệnh thực tế rất khó xác định. Các quan chức Trung Quốc đã báo cáo đã tiêu hủy hơn 1,2 triệu con lợn cho đến nay trong nỗ lực ngăn ngừa nhiễm trùng mới, nhưng căn bệnh này đang lan rộng và đã nhảy sang Việt Nam và Campuchia trong những tháng gần đây. Pfeiffer cho rằng cho đến nay, từ 10% đến 40% lợn Trung Quốc có thể đã bị nhiễm virus, mặc dù số liệu thống kê chính thức vẫn chưa được công bố. Trước áp lực về việc tìm kiếm vaccine, Trung Quốc đã đầu tư khoảng 15 triệu USD vào nghiên cứu về loại virus này nhằm thúc đẩy các nhà nghiên cứu tìm ra một cách nhanh chóng (theo theo Nature News). Các nhà nghiên cứu cố gắng đi theo nhiều hướng, nhưng điều đó cũng cho thấy quá trình này có nhiều thách thức một phần vì bản chất của virus. Thất bại sớm của vắc-xin ASFV Sự phức tạp tuyệt đối của virus sốt lợn ở châu Phi (ASFV) là một lý do tại sao nó rất khó để giải quyết. Bộ gen DNA sợi kép của nó có thể vượt qua 190 kilobase và mã hóa cho gần 170 protein, lấn át nhiều loại virus khác, chẳng hạn như Ebola (một số chủng chỉ có 7 protein). ASFV lây nhiễm và sao chép trong các đại thực bào, nhưng cũng gây chết tế bào trong các tế bào lympho B và T không bị nhiễm bệnh. Theo giải thích của Linda Dixon, một nhà virus học tại Viện Pirbright của Vương quốc Anh (UK’s Pirbright Institute), thành viên của Hội đồng nghiên cứu khoa học sinh học và công nghệ sinh học của chính phủ, quá trình này dẫn đến việc virus xóa sạch hệ thống miễn dịch, do đó, không có phản ứng hiệu quả. Cuối cùng, ASFV giết chết lợn bằng cách gây sốt xuất huyết cực độ và phá hủy hàng loạt tế bào lympho trong các mô bạch huyết. Cả hai nghiên cứu đầu tiên vào năm 1967 và những nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng chiến lược phát triển vaccine cổ điển và rõ ràng nhất không có tác dụng với ASFV: tiêu diệt hoặc vô hiệu hóa virus và tiêm vào động vật khỏe mạnh để thúc đẩy hệ thống miễn dịch của chúng tạo ra kháng thể bảo vệ chống lại nhiễm trùng trong tương lai đã cố gắng, nhưng nó đã thất bại. Các kháng thể bảo vệ được tạo ra chỉ là không đủ để tránh nhiễm trùng ASFV. Thay vào đó, các nhà khoa học đã học được rằng một trong những cách hiệu quả nhất để tạo ra khả năng miễn dịch chống lại ASFV là phơi nhiễm động vật với một chủng virus ít độc lực hơn. Điều này có thể được tạo ra thông qua việc truyền virus trong nuôi cấy cho đến khi nó mất độc lực. Đây là một chiến lược đã thành công trong việc ngăn chặn sự lây lan của một loại virus khác gây ra các triệu chứng tương tự ở lợn là sốt lợn cổ điển. Ngoài ra, các virus suy yếu có thể được phân lập từ động vật như ở các quần thể lợn rừng trên khắp châu Âu, nhiều chủng ASFV đã mất tự nhiên để giết chết theo thời gian. Theo giải thích của ông Jose Manuel Sánchez-Vizcaíno, một nhà virus học tại phòng thí nghiệm tham khảo của Tổ chức Thú y Thế giới về ASF ở Madrid, một số nhóm đã chỉ ra rằng tiêm một chủng ASFV yếu hơn được phân lập vào năm 2017 từ một con lợn rừng ở Latvia có thể bảo vệ lợn nhà chống lại một dạng virus độc hại. Gần đây, ông Sánchez-Vizcaíno và các đồng nghiệp đã chứng minh rằng cùng một chủng cũng có thể bảo vệ lợn rừng, một cách tiếp cận mà ông cho rằng có thể hữu ích trong việc ngăn chặn sự lây lan của bệnh cho lợn nhà. Tuy nhiên, điều đáng quan tâm chính là các ứng viên vaccine nói trên vẫn an toàn. Các nhà nghiên cứu thực tế đã nhận ra điều này từ những năm 1960, khi họ cố gắng tiêm vaccine cho một số lượng lớn lợn ở Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha với dạng ASFV bị suy giảm tự nhiên. Mặc dù các loài động vật đã không chết, nhiều người trong số họ đã phát triển một dạng bệnh mãn tính, suy nhược. Đây là vấn đề lớn nhất: nó bảo vệ tốt, nhưng không an toàn. Và Sánchez-Vizcaíno và các đồng nghiệp của mình hiện đang cố gắng đánh giá sự an toàn của virus suy yếu. African swine fever virus THE PIRBRIGHT INSTITUTE Virus biến đổi gen Khi các nhà nghiên cứu tích lũy thêm kiến ​​thức về sinh học ASFV và bộ gen của nó, họ đã áp dụng một phương pháp tập trung vào mục tiêu hơn để làm giảm ASFV: biến đổi gen bằng cách xóa các gen khiến nó trở nên độc hại và sau đó tiêm vaccine cho động vật. Dixon lý giải, một số trường hợp cố gắng vô hiệu hóa virus để vật chủ có cơ hội phản ứng và kiểm soát sự sao chép và tạo ra phản ứng miễn dịch thích nghi sẽ là phản ứng của bộ nhớ. Vào năm 2016, nhóm của Dixon đã xóa một số gen ASFV được cho là ức chế phản ứng interferon loại 1 của nó, gây ra các yếu tố hạn chế sự nhân lên của virus trong các tế bào và kích thích các thành phần khác của hệ thống miễn dịch. Chích ngừa năm con lợn với chủng này không gây ra triệu chứng nào chứng minh rằng virus đã mất độc lực và sau khi được thử thách với liều gây chết của virus ban đầu, tất cả các động vật đều sống sót. Dixon hiện đang làm việc để phát triển một loại vaccine suy yếu sống dựa trên phương pháp này. Manuel Borca, một nhà vi trùng học có trụ sở tại Trung tâm bệnh động vật đảo Plum ở New York, Trực thuộc Cơ quan Nghiên cứu bệnh động vật nước ngoài (FADRU) của Dịch vụ nghiên cứu nông nghiệp của USDA đã thấy thành công tương tự với ba loại vaccine làm suy giảm bằng cách xóa gen. Một số gen bị xóa được cho là có liên quan đến sự điều hòa ASFV của vật chủ gen miễn dịch, mặc dù điều này không rõ liệu có phải việc xóa chúng gây ra suy giảm không. Theo Luis Rodriguez, trưởng nhóm nghiên cứu tại FADRU, những con lợn đã được tiêm một trong những vaccine thử nghiệm được xem là có mức bảo vệ diện rộng đã có thể kháng lại nhiều loại virus gây bệnh nguy hiểm ba tuần sau đó. Các chuyên gia trong lĩnh vực này nói rằng các phương pháp xóa gen như vậy hiện đang là ứng viên vaccine tiên tiến nhất. Nhưng theo Borca và Dixon, nó có thể sẽ là vấn đề trong vài năm trước khi những thứ này có thể được triển khai. Đầu tiên, họ sẽ phải trải qua một loạt các thử nghiệm để đảm bảo rằng họ có hiệu quả và an toàn, và phải được đăng ký với các cơ quan quản lý có liên quan. Các nhà nghiên cứu vaccine tại Viện nghiên cứu thú y Trung Quốc Cáp Nhĩ Tân đã không trả lời bình luận, nhưng Pfeiffer nói rằng họ dường như đang theo đuổi một loại vaccine suy giảm gen dựa trên nghiên cứu mà ông thấy họ đã trình bày tại một hội nghị chuyên đề vào tháng Tư. Borca và Dixon nói rằng những cách tiếp cận này có lợi thế hơn các dạng virus bị suy giảm tự nhiên vì chúng cho phép các nhà nghiên cứu điều chỉnh các chỉnh sửa gen để tạo ra một loại virus vô hại mà vẫn có thể sao chép lại, điều này rất quan trọng trong việc kích hoạt khả năng miễn dịch cũng như khuếch đại virus khi nuôi cấy. Việc xóa các bộ phận của bộ gen cũng khiến virus khó trở lại dạng độc lực hơn. Tuy nhiên, một khó khăn lớn với các loại vaccine suy yếu nói chung – biến đổi gen hay xuất hiện tự nhiên – là khi thực hiện nuôi cấy tế bào, điều rất cần thiết để tạo ra vaccine đồng loạt. Borca giải thích rằng do đại thực bào tồn tại rất lâu trong nuôi cấy, nên ông cần trích xuất tế bào lympho trực tiếp từ động vật để tạo ra nguồn dự trữ virus. Để giải quyết vấn đề này, nhóm của ông hiện đang cố gắng tìm một dòng tế bào ổn định để có thể phát triển virus. Một mối quan tâm chính với các virus bị suy giảm sống như vậy là vì chúng có khả năng sao chép, các động vật được tiêm phòng có thể làm phát tán virus và lây nhiễm sang các động vật khác. Sánchez-Vizcaíno nói rằng trong một số trường hợp có thể giúp chủng ngừa cho những con lợn khác, thứ mà ông đã chứng minh trong nghiên cứu của mình với lợn rừng. Tuy nhiên, nhiều nhà khoa học vẫn lo lắng về nguy cơ tác dụng phụ. Covadonga Alonso, nhà virus học tại Viện nghiên cứu và công nghệ nông nghiệp và thực phẩm quốc gia Tây Ban Nha ở Madrid cho biết, không có nhiều dữ liệu thực nghiệm về sự phát triển của các triệu chứng mãn tính trong vài tuần / tháng sau khi tiêm vaccine. Alonso cho rằng bà cần xem thêm các thí nghiệm để xem liệu các virus bị suy giảm có thể biến đổi trở lại các dạng độc lực sau nhiều thế hệ sao chép ở động vật được tiêm phòng hay không. Còn Dixon cho rằng đây là điều không thể vì virus này rất ổn định về mặt di truyền khi nó được sao chép bởi một DNA polymerase chính xác. Protein cocktail Alonso xem xét một loại vaccine tiểu đơn vị dựa trên việc tiêm vaccine protein virus, chẳng hạn như kháng nguyên hoặc protein liên kết với các thụ thể của virus để trở thành một lựa chọn thay thế tốt nhất cho vaccine trong tương lai, dễ dàng thực hiện với số lượng lớn hơn vaccine suy yếu. Đầu năm 2019, Waithaka Mwangi, một nhà virus học tại Đại học bang Kansas, cùng cộng sự của ông đã phát triển hai loại cocktail kháng nguyên virus khác nhau, được chuyển đến lợn bằng cách vô hiệu hóa một adenovirus bất hoạt ở người. Bằng cách này, virus sẽ lây nhiễm bất kỳ tế bào máu có kháng nguyên nào và bộ máy tổng hợp protein khởi động, từ đó nó đã tổng hợp protein trong tế bào bị nhiễm bệnh. Các protein sau đó được thể hiện trên bề mặt tế bào máu và có thể được hệ thống miễn dịch nhận ra theo cách kích hoạt phản ứng tế bào T cũng như phản ứng kháng thể. Đối với ông, cách tiếp cận này bắt chước một cách hiệu quả cách thức làm suy yếu virus gây ra khả năng miễn dịch, nhưng theo cách an toàn cao hơn. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của ông, cả hai loại cocktail kháng nguyên đều không cho thấy nhiều thành công: Khi được thử thách với một dạng ASFV có độc lực, nhiều động vật đã được tiêm phòng đã không chịu nổi căn bệnh này. Một nghiên cứu của nhóm Dixon sử dụng một cách tiếp cận tương tự, mã hóa kháng nguyên của DNA trong các plasmid DNA và đưa chúng vào lợn bằng cách sử dụng vector virus vaccinia cho thấy rằng tuy việc này có thể làm giảm tải phần nào genome virus, nó vẫn không ngăn được virus gây bệnh, tiếp đó nhân rộng và gây bệnh. Đối với Mwangi, những kết quả này chỉ ra rằng các nhà nghiên cứu vẫn chưa tìm thấy và đạt mục tiêu tìm kiếm các protein virus phù hợp hay tổ hợp phù hợp nhằm tạo ra phản ứng miễn dịch bảo vệ. Nhóm Alonso hiện đang làm việc để tìm các protein kháng virus hoạt động chống lại ASFV – dựa trên các hợp chất tự nhiên hoặc tổng hợp hoặc các loại thuốc hiện có – mà bà nghĩ sẽ giúp tiết lộ các protein virus phù hợp. Ngoài ra, các hợp chất này có thể được đưa vào thức ăn chăn nuôi như chất bổ sung để giúp tăng khả năng miễn dịch chống lại ASFV. An toàn sinh học trong vaccine Đối với Mỹ và châu Âu, phát triển vaccine không phải là ưu tiên cao như ở Trung Quốc đại lục, nơi các nhà khoa học đang làm việc cật lực nhằm nhanh chóng đưa được một loại ra thị trường. Một số nhà nghiên cứu lo lắng rằng các vấn đề an toàn chưa được giải quyết đầy đủ trước khi một ứng viên vaccine được triển khai vào thị trường. Pfeiffer cho biết “Các nhà khoa học đang chịu nhiều áp lực để thực hiện các công đoạn thực nghiệm vaccine một cách đầy đủ nhằm đảm bảo chúng an toàn trước khi được đưa vào sử dụng rộng rãi”. Phần lớn lợn Trung Quốc nằm rải rác trong các trang trại quy mô nhỏ, chứa ít hơn một trăm con lợn. Những trại này thường có cơ chế kiểm soát an toàn sinh học hạn chế, có rất ít hoặc không có cơ chế kiểm soát để đảm bảo rằng virus không lây truyền qua xe tải, trên quần áo của người vào trang trại hoặc trong thức ăn chăn nuôi. Trong khi đó, virus ASF tồn tại trong thời gian dài. Megan Niederwerder thuộc Đại học bang Kansas, người đứng đầu nghiên cứu cho biết, AS ASVV là một trong những loại virus mạnh, có thể nói là rất mạnh ở các cực trị pH cũng như nhiệt độ, vì vậy nó có thể tồn tại trong thời gian dài và duy trì sự lây nhiễm của nó trong các điều kiện môi trường khác nhau. Vì lý do đó, Pfeiffer cho rằng vaccine chỉ có thể là giải pháp một phần cho dịch bệnh ASF của Trung Quốc. Ông nói rằng, thật không thực tế để đạt được phạm vi tiêm chủng cần thiết cho sự lây nhiễm. Sự nỗ lực của vaccine phải đi cùng với việc tăng cường an toàn sinh học quanh các trang trại để có hiệu quả, đặc biệt là nếu ASFV đã trở thành đặc hữu ở đó và đã nhiễm bệnh lợn rừng. Bản tiếng Anh: KATARINA ZIMMER Tiếng Việt: JPK Nguồn: https://www.the-scientist.com/news-opinion/scientists-race-to-build-vaccine-for-african-swine-fever–66034 TaggedASFDịch tả Châu Phi Điều hướng bài viết Previous Article Dự báo ‘sốc’ về thị trường thịt heo Việt Nam Next Article Giá heo hơi hôm nay 9/7/2019: Miền Nam cắt chuỗi ngày giá giảm Tìm kiếm cho: Copyright © 2018 by JPK Animal Nutrition
1614178347293.1.parquet/100948
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 12376, "url": "https://jilyphukhai.com/cac-nha-khoa-hoc-trong-hanh-trinh-tim-kiem-vaccine-phong-dich-ta-chau-phi-asf/" }
137.5
Ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với việc giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ hiện nay | Học viện Chính trị Công an Nhân dân Trang chủ Giới thiệu Cơ cấu - Tổ chức Giới thiệu chung Sứ mạng, tầm nhìn Tin tức Tin tức học viện Tin tức ngành Tin tức khác Đào tạo - Bồi dưỡng Đào tạo LLCT Đào tạo chính quy Đào tạo sau đại học Bồi dưỡng chức danh Nghiên cứu Khoa học NCKH cán bộ, giảng viên NCKH sinh viên Biểu mẫu Trang sinh viên LLCT-XDLL CAND Lý luận chính trị Nghiên cứu trao đổi Bài viết Bộ trưởng Chống diễn biến hòa bình Thư viên video Thư viện ảnh Thư viện tư liệu Liên hệ Trang chủ Giới thiệu Cơ cấu - Tổ chức Giới thiệu chung Sứ mạng, tầm nhìn Tin tức Tin tức học viện Tin tức ngành Tin tức khác Đào tạo - Bồi dưỡng Đào tạo LLCT Đào tạo chính quy Đào tạo sau đại học Bồi dưỡng chức danh Nghiên cứu Khoa học NCKH cán bộ, giảng viên NCKH sinh viên Biểu mẫu Chống diễn biến hòa bình LLCT-XDLL CAND Lý luận chính trị Nghiên cứu trao đổi Bài viết Bộ trưởng Liên hệ Thư viên video Thư viện ảnh Thư viện tư liệu Tin mới Những vấn đề trọng yếu trong việc tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh Bộ trưởng Tô Lâm phát động “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ” tại trụ sở mới của Học viện Chính trị Công an nhân dân “Phi chính trị hóa lực lượng vũ trang”- vấn đề nhìn từ Myanmar Về hội nhập quốc tế và tham gia tiến trình toàn cầu hóa của Việt Nam Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XIII họp phiên đầu tiên Những điểm mới trong chủ đề Đại hội XIII của Đảng LLCT- XDLL CAND Lý luận chính trị | Nghiên cứu trao đổi | Bài viết Bộ trưởng Thứ Tư, 19/8/2020 9:34'(GMT+7) Ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với việc giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ hiện nay Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đưa dân tộc Việt Nam lên một vị trí mới với những ý nghĩa về chính trị, xã hội, nhân văn sâu sắc. Cuộc cách mạng ấy đã để lại nhiều giá trị và bài học vô cùng quý giá đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay và trong tương lai, mà thế hệ trẻ là những người gánh vác trọng trách quan trọng. Bước ngoặt cách mạng chưa từng có trong lịch sử dân tộc Việt Nam Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trang sử vàng trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, một bước ngoặt cách mạng chưa từng có trên con đường phát triển của dân tộc Việt Nam, đã làm nên một sự kiện “long trời, lở đất”, chính thức chấm dứt ách đô hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam. Từ đây, nhân dân Việt Nam đã thật sự làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của quốc gia, dân tộc. Với ý nghĩa của thắng lợi vĩ đại đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”(1). Ngay từ khi ra đời, ngày 3-2-1930, Đảng ta đã đề ra đường lối đúng đắn với mục tiêu xuyên suốt của sự nghiệp cách mạng là “vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, góp phần tích cực vào phong trào cách mạng thế giới”. Vì thế, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ và tin tưởng tuyệt đối. Chỉ trong vòng 15 năm (1930 - 1945), Đảng ta đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành ba cao trào cách mạng: cao trào cách mạng 1930 - 1931, với đỉnh cao là phong trào Xô-viết - Nghệ Tĩnh; cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939) và cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945). Tháng 8-1945, với nghệ thuật lãnh đạo tài tình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chớp thời cơ thuận lợi nhất, lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam tiến hành “tổng khởi nghĩa, đánh đổ đế quốc phong kiến, thành lập nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á… với tinh thần độc lập tự chủ, dựa vào sức mình, chủ động sáng tạo, xóa bỏ xiềng xích nô lệ, tự thay đổi cuộc sống của mình, là thắng lợi mở đầu cho cao trào giải phóng dân tộc sau Chiến tranh thế giới thứ hai”(2). Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã chứng minh rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc. Thực tiễn lãnh đạo của Đảng đã khẳng định rằng, một đảng cách mạng chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, gương mẫu, tận tụy, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân ủng hộ thì đảng có sức mạnh vô địch, không thế lực nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là hội tụ của ý chí độc lập tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng; là thắng lợi vĩ đại của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo để “lựa tình thế, chọn thời cơ”, đưa ra những quyết sách đúng đắn, sáng tạo ở tầm chiến lược. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cũng chứng minh rằng, một dân tộc đất không rộng, người không đông, chưa có nhiều khả năng, tiềm lực về kinh tế, khoa học, quân sự, nhưng nếu có truyền thống nồng nàn yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, cần cù lao động, thông minh, sáng tạo dưới sự lãnh đạo của đảng cách mạng chân chính thì vẫn có thể làm nên những sự kiện vĩ đại có tầm vóc và đi vào lịch sử của dân tộc và thế giới như một địa chỉ đỏ, một cuộc cách mạng xã hội điển hình ở khu vực và trên thế giới. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã tạo bước ngoặt cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; là một chế độ xã hội mới mẻ hoàn toàn đối với dân tộc Việt Nam, hiện hữu đầy đủ bản chất dân chủ, nhân văn vì con người, vì hạnh phúc của nhân dân lao động. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là động lực mạnh mẽ cổ vũ toàn thể dân tộc Việt Nam kiên cường, bất khuất tiếp tục sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đưa nước ta phát triển để có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày hôm nay. Giáo dục giá trị truyền thống của Cách mạng Tháng Tám để cho các thế hệ, mỗi người Việt Nam hiện nay và mai sau nhận thấy công lao trời biển của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự hy sinh xương máu của biết bao chiến sĩ, đồng bào để đổi lấy nền độc lập, tự do của Tổ quốc là một trọng trách to lớn đối với lịch sử. Đồng thời, giáo dục cho mỗi người Việt Nam nhận thức về tính ưu việt, nhân văn, nhân đạo mà Cách mạng Tháng Tám đem lại, ở đó, con người được giải phóng, dân tộc Việt Nam có quyền làm chủ vận mệnh của mình. Giá trị của Cách mạng Tháng Tám là bất diệt, có sức sống trường tồn đối với dân tộc Việt Nam và thế hệ trẻ là những người viết tiếp truyền thống “con Lạc, cháu Hồng” với niềm tự hào của dân tộc Việt Nam trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Với ý nghĩa to lớn đó, giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ là một nội dung đặc biệt quan trọng góp phần thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng ta để mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc. Nhận thức về ý nghĩa sâu sắc của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đối với thế hệ trẻ sẽ góp phần làm cho truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta đi vào đời sống, đi vào thực tiễn của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Nghiên cứu, học tập truyền thống tốt đẹp của dân tộc vừa là bổn phận, vừa là tình cảm với dân tộc của thế hệ trẻ. Theo đó, thế hệ trẻ phải là những người xung kích đem “dòng chảy” truyền thống, hào khí anh hùng của Cách mạng Tháng Tám mãi mãi nhịp bước cùng với sự phát triển trường tồn của dân tộc Việt Nam. Khi giá trị truyền thống đã đi vào con tim, khối óc của thế hệ trẻ, tất yếu nó sẽ là sức mạnh tinh thần, là động lực nội sinh để họ tự tin tiến lên phía trước, cống hiến sức lực, trí tuệ của mình vào thực hiện mục tiêu xuyên suốt là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Những nội dung giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ từ giá trị của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 Thứ nhất, giáo dục cho thế hệ trẻ kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội Đây là mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam, trong đó Cách mạng Tháng Tám năm 1945 được xem là điểm xuất phát của một thời kỳ cách mạng mới đấu tranh cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thế hệ trẻ Việt Nam là những người viết tiếp những trang sử vàng truyền thống của dân tộc, tiếp nối thực hiện nhiệm vụ xây dựng thành công xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa, tạo thành dòng chảy liên tục của lịch sử dân tộc. Giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ trung thành, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh để thế hệ trẻ có niềm tin khoa học vững chắc, niềm tự hào dân tộc tiếp thêm động lực đưa cách mạng nước ta đi đến mục tiêu cuối cùng. Thế hệ trẻ cần nhận thức sâu sắc truyền thống dân tộc, những hy sinh, mất mát không gì so sánh được của đồng bào, đồng chí, chiến sĩ trong đấu tranh cách mạng; sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, Bác Hồ trong xác định đường lối, phương hướng, mục tiêu cách mạng đúng đắn cùng phương pháp đấu tranh linh hoạt, phù hợp từng thời kỳ cách mạng để đánh đuổi đế quốc, lật đổ chế độ phong kiến tay sai…, từ đó không ngừng đổi mới sáng tạo, phấn đấu vươn lên đóng góp tích cực trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 còn chứng minh sự lựa chọn đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào giải quyết vấn đề dân tộc và thuộc địa. Vì thế, cần giáo dục cho thế hệ trẻ nhận thức sâu sắc rằng, để có được thắng lợi vĩ đại đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bôn ba khắp năm châu bốn biển, đúc kết những kinh nghiệm của cách mạng thế giới để lựa chọn con đường cách mạng vô sản cho dân tộc Việt Nam và cho đến nay thực tế đã chứng minh đó là con đường duy nhất đúng. Tuy vậy, các phần tử phản động, thế lực thù địch trong và ngoài nước đã và đang tìm mọi cách chống phá sự nghiệp cách mạng của chúng ta, thậm chí, một số người đã “trở cờ”, trắng trợn phủ nhận thành quả của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Hơn lúc nào hết, thế hệ trẻ cần có bản lĩnh chính trị, lập trường cách mạng noi gương các thế hệ cha anh đi trước, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ thành quả cách mạng của dân tộc Việt Nam, bằng những luận cứ, luận chứng thuyết phục, khẳng định giá trị của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam - cuộc cách mạng của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân để tiến lên một nấc thang mới trong tiến trình phát triển của dân tộc và nhân loại. Thứ hai, giáo dục cho thế hệ trẻ truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần bất khuất, ý thức độc lập và tự cường của dân tộc Truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần bất khuất, ý thức độc lập và tự cường của dân tộc được hội tụ và kết tinh trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”(3). Thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay tự hào mang trong mình truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần bất khuất, ý thức độc lập và tự cường dân tộc. Truyền thống đó là giá trị mà biết bao thế hệ người Việt Nam đã dày công vun đắp, tạo ra những giá trị bất diệt, là nguồn lực nội sinh để phát triển đất nước. Truyền thống yêu nước đó cần được thế hệ trẻ hôm nay thể hiện bằng việc ra sức đóng góp công sức, trí tuệ để góp phần xây dựng quê hương, đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thứ ba, giáo dục cho thế hệ trẻ truyền thống đoàn kết dân tộc, lao động sáng tạo của con người Việt Nam Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã cho thấy những giá trị của tinh thần đoàn kết dân tộc, khắc phục khó khăn, cần cù sáng tạo, đồng tâm hiệp lực để đứng lên đấu tranh giành thắng lợi. Trong Cách mạng Tháng Tám, ở thời điểm khó khăn nhất, toàn thể dân tộc Việt Nam đã phát huy tinh thần đoàn kết, nhất tề đứng dậy khởi nghĩa giành lấy chính quyền trong toàn quốc. Trong Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”(4). Những giá trị đó hiện nay cần tiếp tục được khơi dậy và nhân lên gấp bội, khi một dân tộc đã đoàn kết một lòng thì sẽ làm được những điều to lớn, phi thường. Sự sáng tạo thể hiện ở tư duy và tầm nhìn chiến lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc đánh giá tình hình, phân tích điều kiện khách quan và phát huy nhân tố chủ quan trong việc nhận định những mâu thuẫn, chớp thời cơ cách mạng lãnh đạo nhân dân, kiên trì thực hiện chủ trương “khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa” giành thắng lợi trên phạm vi toàn quốc. Thế hệ trẻ hôm nay cần phát huy tinh thần đổi mới sáng tạo, không ngừng học tập, rèn luyện làm giàu tri thức, sẵn sàng gánh vác trọng trách chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu "đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(5). Thứ tư, giáo dục cho thế hệ trẻ tinh thần nhân văn, nhân đạo, hòa hiếu của dân tộc Việt Nam Vận dụng linh hoạt, sáng tạo về phương pháp cách mạng trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã phản ánh sâu sắc bản chất nhân văn của con người Việt Nam. Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có tên nhiều nhân sĩ, trí thức, có cả quan chức cấp cao trong triều đình Huế và chính phủ Trần Trọng Kim đã cho thấy bản chất nhân văn, nhân đạo, hòa hiếu “không đối đầu” vì mục tiêu, nhiệm vụ chung của cách mạng, của dân tộc. Đây là bài học lớn cho thế hệ trẻ hôm nay, nhất là trong quá trình hội nhập quốc tế cần ứng xử, giải quyết hài hòa các mối quan hệ với các nước và cộng đồng quốc tế, tăng cường tạo dựng lòng tin, không ngừng nâng cao hình ảnh, uy tín, vị thế của Việt Nam nhằm góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định xây dựng và phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng./. PGS, TS. LƯƠNG THANH HÂN Chủ nhiệm Khoa Triết học Mác - Lê-nin, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng Nguồn Tạp chí Cộng sản ---------------------------- (1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 7, tr. 25 (2) Nguyễn Anh Thái (chủ biên): Lịch sử thế giới hiện đại, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2005, tr. 314 (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 38 (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 3 (5) Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, Hà Nội, tháng 2-2020, tr. 3 Tweet Tags: Phản hồi Ý kiến của bạn:(Không quá 1000 ký tự) Còn lại: 1000 ký tự Thông tin người gửi phản hồi Họ và tên* Email* Mã bảo vệ* Các tin khác Một kỳ tích lịch sử Xây dựng Công an nhân dân vững mạnh xứng đáng là “thanh bảo kiếm” bảo vệ Đảng, Nhà nước và Nhân dân Đổi mới công tác cán bộ, thực hiện tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức - kết quả và những vấn đề đặt ra Trung Quốc thay đổi hệ hình quyền lực và bài toán mới cho các nước Á Đông Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay Công tác nghiên cứu lý luận chính trị trong tình hình hiện nay Xây dựng mô hình hệ sinh thái kinh tế tuần hoàn đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư Tập trung khắc phục hậu quả đại dịch COVID-19, nỗ lực cao nhất phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội đất nước Dự báo một số nét chính về chiều hướng vận động của tình hình thế giới trong 5 - 10 năm tới và những vấn đề đặt ra cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Giá trị thời sự từ những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Đại hội Đảng Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác tư tưởng của Đảng và việc vận dụng trong tình hình hiện nay Khẳng định bản lĩnh, năng lực và sức chiến đấu của lực lượng CAND Đặc điểm và xu hướng phát triển của thời đại Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo, sử dụng cán bộ Công an nhân dân với những lời chỉ dạy ân cần, gần gũi Thư viện Video Những dấu mốc phát triển nhìn từ Đại hội VI của Đảng Những dấu mốc phát triển nhìn từ Đại hội VI của Đảng Đại hội của niềm tin và khát vọng phát triển đất nước Gửi gắm niềm tin vào Đại hội Đảng lần thứ XIII Kỳ vọng của các tầng lớp nhân dân vào Đại hội Đảng XIII Thư viện Ảnh Các tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Học viện Chính trị Công an nhân dân tổ chức thành công Đại hội nhiệm kỳ 2020 – 2025 Tọa đàm khoa học “Kiểm soát quyền lực trong bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, chỉ huy Công an nhân dân - Những vấn đề đặt ra” Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến làm việc với Học viện Chính trị Công an Nhân dân Gặp mặt kỷ niệm 110 năm Ngày quốc tế phụ nữ (8/3/1910 - 8/3/2020), 1980 năm Khởi nghĩa Hai Bà Trưng và ngày Quốc tế hạnh phúc (20/3) Tạp chí LLCT CAND Xem nhiều nhất Tinh thần yêu nước sáng lên trong chống “giặc Covid” Đoàn kết sẽ đẩy lùi đại dịch Covid-19 Bộ trưởng Tô Lâm phát động “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ” tại trụ sở mới của Học viện Chính trị Công an nhân dân Vận dụng phương pháp luận triết học Mác - Lênin vào nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị trong công an nhân dân Những cơ sở lịch sử và pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa Nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa tuân theo các quy luật của kinh tế thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa Điều kiện tuyển sinh đại học chính quy các trường CAND năm 2020 Đảng Cộng sản Việt Nam - Nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam Về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ Nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa Liên kết website Liên kết website Báo an ninh thủ đô Báo CAND Báo Nhân dân Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam Cổng thông tin Chính phủ Cổng TTĐT Bộ Công an Cổng TTĐT Bộ Giáo dục - Đào tạo Cổng TTĐT Chính phủ Học viện An ninh nhân dân Học viện Cảnh sát nhân dân Học viện chính trị bộ quốc phòng Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Hội đồng lý luận Trung ương Tạp chí Cộng sản © Bản quyền thuộc về Học viện Chính trị Công an nhân dân. Địa chỉ: Số 29 đường Lê Văn Hiến, phường Đức Thắng, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội.. Điện thoại: 043. 8386977 - Email: webmaster@hvctcand.edu.vn - Website: hvctcand.edu.vn. Giấy phép thông tin số 3933/GP-TTĐT của Sở TTTT Hà Nội cấp ngày 10/8/2016. Tổng biên tập: Thiếu tướng Dương Như Hồng. Thiết kế bởi Acomm
1614178347293.1.parquet/95039
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 17455, "url": "http://hvctcand.edu.vn/llct-xdll-cand/nghien-cuu-trao-doi/y-nghia-cua-cach-mang-thang-tam-nam-1945-voi-viec-giao-duc-truyen-thong-cho-the-he-tre-hien-nay-1661" }
137.4
Trình bày suy nghĩ của em về việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của thế hệ trẻ ngày nay 0973 479 951 lienhe@hocsinhgioi.net Menu Gia sư theo lớp Gia sư lớp 1 Gia sư lớp 2 Gia sư lớp 3 Gia sư lớp 4 Gia sư lớp 5 Gia sư lớp 6 Gia sư lớp 7 Gia sư lớp 8 Gia sư lớp 9 Gia sư lớp 10 Gia sư lớp 11 Gia sư lớp 12 Gia sư theo môn Gia sư môn Toán Gia sư môn Lý Gia sư môn Hóa Gia sư tiếng Anh Gia sư môn Văn Gia sư môn khác Gia sư TPHCM Bảng giá Giới thiệu Quy trình nhận lớp Lý do chọn trung tâm Phương pháp gia sư Quy định học thử 3 buổi Tuyển dụng gia sư Trình bày suy nghĩ của em về việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của thế hệ trẻ ngày nay Tháng Sáu 27, 2020 Văn mẫu lớp 9 Văn mẫu lớp 9: Trình bày suy nghĩ của em về việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của thế hệ trẻ ngày nay được HSG.com tổng hợp và sưu tầm gồm các bài văn mẫu hay cho các bạn học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Chúc các bạn học tốt Bản sắc văn hóa dân tộc là giá trị cốt lõi nhất của nền văn hóa, thể hiện tâm hồn, cốt cách, tình cảm, lý trí, sức mạnh của dân tộc, tạo nên chất keo kết nối các cộng đồng người gắn bó, đoàn kết với nhau để cùng tồn tại và phát triển. Những giá trị của bản sắc văn hóa dân tộc là một trong những động lực to lớn đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững của quốc gia dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được hình thành, phát triển gắn liền với lịch sử dựng nước, giữ nước và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bản sắc văn hóa dân tộc là tổng hòa những giá trị văn hóa bền vững, phản ánh diện mạo, sắc thái, cốt cách, tâm hồn, tâm lý… của một dân tộc, được thường xuyên hun đúc, bổ sung và lan tỏa trong lịch sử dân tộc, trở thành tài sản tinh thần đặc sắc, tạo nên sức mạnh gắn kết cộng đồng và để phân biệt sự khác nhau giữa dân tộc này với dân tộc khác trong cộng đồng nhân loại. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực còn có mặt tiêu cực của nó đó là nguy cơ xói mòn, phai nhạt và biến dạng hệ thống giá trị trong bản sắc văn hóa dân tộc, sự ru nhập của lối sống tư sản, suy giảm thuần phong mỹ tục, sự chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Thanh niên là lực lượng xung kích, sáng tạo có vai trò quan trọng to lớn trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, họ là lực lượng trực tiếp tham gia bảo vệ, giữ gìn, bổ sung, phát triển và quảng bá những giá trị bản sắc văn hóa dân tộc thông qua việc thực hiện nội dung, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, để phát huy vai trò của thanh niên với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay chúng ta phải thực hiện có hiệu quả một số nội dung, biện pháp cơ bản sau: Những giá trị tinh hoa văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc được xây dựng và ghi nhận bởi những chiến công hy sinh thầm lặng của biết bao thế hệ người dân Việt Nam. Nó là kết tinh những gì là tinh túy nhất của dân tộc để rồi chính những giá trị đó lại lung linh tỏa sáng, soi sáng con đường chúng ta đi. Không chỉ bây giờ mà mãi mãi về sau những giá trị tinh hoa văn hóa của dân tộc sẽ là hành trang, động lực để cho thanh niên Việt Nam chúng ta tiến vào kỷ nguyên mới tô thắm nên truyền thống ngàn năm văn hiến của dân tộc. Quá trình hội nhập quốc tế đã có những tác động nhất định, làm thay đổi phương thức tư duy, lối sống của sinh viên theo hướng hiện đại và tích cực, chủ động hơn. Sinh viên nước ta biết thêm nhiều hơn về phong tục, tập quán, văn hóa và con người của các quốc gia trên thế giới. Có điều kiện khám phá thế giới, tiếp thu và làm chủ các tiến bộ khoa học -kỹ thuật hiện đại, tri thức mới… Bên cạnh đó, cũng có những hạn chế cần được nhìn nhận và điều chỉnh kịp thời, như: Một bộ phận sinh viên xa rời truyền thống, lịch sử, văn hóa của dân tộc. Không ít người có thái độ ứng xử, biểu hiện tình cảm thái quá trong các hoạt động giải trí, văn hóa, nghệ thuật; lãng quên, thờ ơ đối với dòng nhạc dân ca, dòng nhạc cách mạng, truyền thống. Bên cạnh đó, chúng ta thấy một hiện tượng đáng báo động của giới trẻ nói chung và sinh viên nói riêng trong việc hội nhập, tiếp thu văn hóa thế giới, du nhập những hoạt động văn hóa tiêu cực, không phù hợp thuần phong, mỹ tục của dân tộc. Không ít sinh viên đang ngày đêm cuốn vào các trò chơi điện tử, online mang nặng tính bạo lực, ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, thời gian học tập. Có những người say mê với các ấn phẩm, văn hóa phẩm không lành mạnh, độc hại, dẫn đến những hành động suy đồi đạo đức, vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, những biểu hiện sai lệch của những người mà giới trẻ coi là thần tượng như ca sĩ, diễn viên điện ảnh… cũng ảnh hưởng không nhỏ đến lối sống của một số sinh viên hiện nay. Ngoài ra, ngôn ngữ dùng trong những cuộc trò chuyện trên các trang mạng xã hội hay tin nhắn cũng bị một bộ phận học sinh, sinh viên “biến tấu” với những từ ngữ khó hiểu, thậm chí dung tục và sử dụng một cách tràn lan, khó chấp nhận, không còn giữ được sự trong sáng của tiếng Việt. Những thực trạng nêu trên xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và những nguyên nhân chủ quan. Trước hết, cần phải khẳng định, bản thân mỗi học sinh, sinh viên chưa thật sự xây dựng cho mình ý thức tự rèn luyện, nâng cao trình độ, học hỏi kỹ năng. Bản lĩnh, ý thức tìm hiểu còn hạn chế của sinh viên trước những loại hình hoạt động văn hóa, nghệ thuật khác nhau cũng là một trong những nguyên nhân đáng chú ý dẫn đến những hạn chế, yếu kém của một bộ phận bạn trẻ trong việc tham gia gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc. Trong thực tế cuộc sống, một số hoạt động văn hóa, nghệ thuật không còn phù hợp với sở thích của tuổi trẻ, cho nên giới trẻ và sinh viên phải tìm đến với những loại hình nghệ thuật du nhập từ nước ngoài. Tuy nhiên, các loại hình này lại chưa được chọn lọc trước khi tràn lan trong xã hội. Công tác quản lý của các ban, ngành chức năng chưa thật sự có hiệu quả trong việc khắc phục thực trạng này. Trước những thách thức và khó khăn mà đất nước đang phải đối mặt, sinh viên phải tự đặt ra cho bản thân mình câu hỏi: Là những trí thức tương lai của đất nước, mình đã, đang và sẽ làm gì để góp phần đưa đất nước phát triển, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc? Để trả lời được câu hỏi nêu trên, mỗi sinh viên phải tự mình phấn đấu, rèn luyện, tự trau dồi cho bản thân những kỹ năng cần thiết, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nỗ lực rèn luyện vì lợi ích chung của cộng đồng và vì chính sự phát triển của cá nhân. Quan trọng hơn, các bạn trẻ cần xây dựng bản lĩnh văn hóa, sẵn sàng đấu tranh với những hoạt động, sản phẩm văn hóa không lành mạnh. Xem thêm: Lập dàn ý Thuyết minh về cây chuối có sử dụng biện pháp nghệ thuật Với trách nhiệm của mình, Hội Sinh viên Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, tác phong sống trong sinh viên và coi đây là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, cần thường xuyên thực hiện tốt. Đẩy mạnh tổ chức các cuộc thi tìm hiểu liên quan lịch sử hào hùng, truyền thống văn hóa của đất nước, của quê hương. Hơn nữa, phải chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong tổ chức các hoạt động định hướng cho sinh viên tiếp thu những mặt tích cực, tiên tiến của văn hóa hiện đại; đồng thời khơi dậy tinh thần tự hào dân tộc, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc. Kiên quyết đấu tranh đối với những biểu hiện vô cảm; khơi dậy tinh thần tương thân, tương ái trong tuổi trẻ. Để đứng vững và phát triển xuyên suốt quá trình dựng nước và giữ nước, bên cạnh việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, mỗi một quốc gia đều phải coi trọng việc gìn giữ bản sắc văn hóa. Vai trò, ý nghĩa to lớn của bản sắc văn hóa đối với sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của mỗi một dân tộc đã đặt ra vấn đề về vai trò của giới trẻ – những chủ nhân tương lai của đất nước đối với việc gìn giữ bản sắc văn hóa. Như chúng ta đã biết, bản sắc văn hóa là điều cốt lõi mang tính đặc trưng, màu sắc riêng của mỗi một quốc gia, dân tộc; được hình thành và được vun đắp song song với quá trình dựng nước và giữ nước theo cả chiều đồng đại và lịch đại. Đó có thể là những giá trị về vật chất, cũng có thể là những giá trị văn hóa về tinh thần như phong tục tập quán, truyền thống văn hóa,…. Đối với dân tộc Việt Nam, những giá trị đó luôn bền vững, trường tồn theo thời gian như nền văn minh lúa nước, trống đồng Đông Sơn, tinh thần yêu nước mạnh mẽ, bền bỉ như sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử dân tộc, tinh thần “tương thân tương ái” giàu giá trị nhân văn, hay truyền thống đạo lí “uống nước nhớ nguồn”, “ân nghĩa thủy chung”,…. Bản sắc văn hóa có ý nghĩa vô cùng sâu sắc đối với mỗi một quốc gia, dân tộc. Trước hết, bản sắc chính là cái gốc, cái hồn cốt lõi khẳng định sự tồn tại của mỗi một quốc gia, dân tộc. Điều này đã được Nguyễn Trãi – tác giả của áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo” sớm khẳng định trong giai đoạn lịch sử trung đại. Trong tác phẩm của mình, để nêu ra một khái niệm hoàn chỉnh về quốc gia, dân tộc, Nguyễn Trãi đã nêu ra năm yếu tố, trong đó có hai yếu tố về nền văn hiến và phong tục tập quán, thể hiện rõ sự ý thức sâu sắc về vai trò của bản sắc văn hóa. Không chỉ dừng lại ở đó, bản sắc còn là cái nôi nuôi dưỡng ý thức về quyền độc lập và ý thức gìn giữ non sông, đất nước đối với mỗi một con người. Trong vô vàn những quốc gia tồn tại bình đẳng với bức tranh đa dạng và muôn màu sắc, bản sắc chính là một trong những yếu tố làm nên đặc trưng riêng, không thể hòa lẫn, hợp nhất giữa các đất nước. Trong bối cảnh hòa nhập vào nền kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập quốc tế hiện nay, vai trò vị trí của bản sắc văn hóa dân tộc càng được khẳng định hơn nữa và gắn bó mật thiết với trách nhiệm của thế hệ trẻ. Là những chủ nhân tương lai của đất nước, thế hệ thanh thiếu niên học sinh Việt Nam đã và đang phát huy bản sắc dân tộc bằng những việc làm tích cực. Mặc dù có sự du nhập và tác động từ văn hóa nước ngoài nhưng không ít bạn trẻ vẫn tìm về với những giá trị truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc như những trò chơi dân gian, những loại hình văn hóa dân gian như ca trù, nhã nhạc cung đình,…, đặc biệt là không ngần ngại quảng bá hình ảnh của Việt Nam ra thế giới. Trong phần thi về Trang phục dân tộc, Hoa hậu H’Hen Niê đã tỏa sáng với bộ quốc phục được lấy cảm hứng từ những chiếc bánh mì, mang theo niềm tự hào về thành tựu nông nghiệp của nước ta trên đấu trường nhan sắc quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó, trong xã hội hiện nay, chúng ta vẫn dễ dàng bắt gặp những thanh niên với lối sống xa rời bản sắc dân tộc. Họ thờ ơ với những giá trị truyền thống ở cả vật chất cũng như tinh thần; và đề cao những giá trị văn hóa du nhập ở nước ngoài qua sự thần tượng, sính ngoại vượt ngưỡng cho phép. Chẳng hạn như việc các bạn trẻ vô tư sử dụng những ngôn từ nước ngoài xen kẽ vào tiếng Việt, tạo nên những cách diễn đạt khó hiểu và ảnh hưởng đến sự trong sáng của tiếng Việt. Những hành động đó đã vô tình tác động xấu đến việc duy trì, phát huy nền văn hóa dân tộc. Thế hệ trẻ cần ý thức được vai trò, ý nghĩa của bản sắc dân tộc để nâng cao tinh thần gìn giữ những giá trị tốt đẹp này. Đồng thời, cần rèn luyện lối sống, những hành động tích cực phù hợp với những truyền thống đạo lí tốt đẹp của dân tộc, bảo lưu, phát huy những giá trị riêng đậm đà bản sắc dân tộc. Chúng ta còn cần lên án, phê phán những hành vi làm mai một bản sắc dân tộc, và có thái độ đấu tranh mạnh mẽ để bài trừ và tẩy chay những hoạt động văn hóa không lành mạnh đang lan truyền với tốc độ chóng mặt trong xã hội hiện nay. Như vậy, thế hệ trẻ là tầng lớp có vai trò, ý nghĩa to lớn trong việc gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Là những học sinh được sinh ra và lớn lên trong cái nôi của bản sắc dân tộc, chúng ta cần nỗ lực, cố gắng trong học tập, lao động để trở thành những công dân tốt, góp phần xây dựng, bảo vệ quê hương, đất nước. HSG đã chia sẻ Trình bày suy nghĩ của em về việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của thế hệ trẻ ngày nay, gồm các bài Văn mẫu giúp các bạn học sinh có thêm tài liệu tham khảo, chuẩn bị tốt cho bài giảng sắp tới Trên đây HSG hướng dẫn các bạn học tốt bài Văn mẫu lớp 9: Trình bày suy nghĩ của em về việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của thế hệ trẻ ngày nay. Ngoài ra các bạn có thể soạn bài Ngữ văn 9 được HSG sưu tầm, chọn lọc để học tốt môn Ngữ văn 9. Related Posts Hãy viết đoạn văn diễn dịch (8 đến 10 câu) chủ đề: Niềm tin là điều quan trọng với con người trong cuộc sống Nghị luận về bài thơ Sang thu Trách nhiệm của thanh niên với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Suy nghĩ của em về trách nhiệm của tuổi trẻ đối với đất nước Thuyết minh về cái quạt điện Phân tích khổ thơ đầu của bài Viếng lăng Bác của Viễn Phương Kể lại một việc tốt mà em đã làm Phân tích ý nghĩa bố cục của đoạn trích Chị em Thúy Kiều Cảm nhận về hình tượng người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến Leave a Reply Hủy Trung tâm gia sư Học Sinh Giỏi luôn cố gắng hoàn thiện hệ thống. Đảm bảo chất lượng gia sư khi dạy kèm tại nhà. Mọi thắc mắc hoặc cần thêm thông tin vui lòng liên hệ thông tin để được hỗ trợ tốt nhất nhanh nhất. ☎ Liên hệ 0973 479 951 Gia Sư Theo Lớp Gia sư lớp 1 Gia sư lớp 2 Gia sư lớp 3 Gia sư lớp 4 Gia sư lớp 5 Gia sư lớp 6 Gia sư lớp 7 Gia sư lớp 8 Gia sư lớp 9 Gia sư lớp 10 Gia sư lớp 11 Gia sư lớp 12 Gia sư Tiếng Hoa Gia sư Tiếng Anh Gia sư Hàn Quốc Gia Sư TPHCM Gia sư quận 1 Gia sư quận 2 Gia sư quận 3 Gia sư quận 4 Gia sư quận 5 Gia sư quận 6 Gia sư quận 7 Gia sư quận 8 Gia sư quận 9 Gia sư quận 10 Gia sư quận 11 Gia sư quận 12 Gia sư quận Thủ Đức Gia sư quận Tân Bình Gia sư quận Bình Tân Gia sư quận Gò Vấp Gia sư quận Phú Nhuận Gia sư quận Bình Thạnh Gia sư quận Tân Phú 2021 © Học Sinh Giỏi. All rights reserved.
1614178347293.1.parquet/934
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 12479, "url": "https://hocsinhgioi.net/trinh-bay-suy-nghi-cua-em-ve-viec-giu-gin-ban-sac-van-hoa-dan-toc-cua-the-he-tre-ngay-nay/" }
137
Bước lùi vĩ đại? — Diễn Đàn Forum Chuyển đến nội dung. | Chuyển đến mục định hướng Các công cụ cá nhân Tìm kiếm chỉ tìm kiếm trong mục hiện tại Tìm kiếm nâng cao... Navigation Trang chủ Việt Nam Thế giới Tài liệu Biên khảo Sáng tác KHKT Dịch thuật Nhân vật Giọt mực, ... Đời sống Bạn đang ở: Trang chủ / Thế giới / Bước lùi vĩ đại? Info Bước lùi vĩ đại? Tweet Tweet Luận văn này đăng vào năm 2007, nhưng đến nay, 2010, vẫn còn nguyên giá trị, cung cấp cái nhìn rộng, sâu, dễ hiểu và khách quan về tình trạng ô nhiễm đất, nước, khí tại Trung Quốc. Luận văn còn gọi đúng tên các đối tượng liên quan, các biện pháp, khó khăn thực sự và hướng để khắc phục. Bước lùi vĩ đại? Elizabeth C. Economy (Foreign Affairs, số tháng 9/10, 2007) Người dịch: Từ Khiêm Ghi chú của người dịch: Luận văn này đăng vào năm 2007, nhưng đến nay, 2010, vẫn còn nguyên giá trị, cung cấp cái nhìn rộng, sâu, dễ hiểu và khách quan về tình trạng ô nhiễm đất, nước, khí tại Trung Quốc. Luận văn còn gọi đúng tên các đối tượng liên quan, các biện pháp, khó khăn thực sự và hướng để khắc phục. Những chú thích trong ngoặc vuông [...] là của người dịch. Xem nguyên văn tại đây. Tóm tắt: Tai họa môi trường tại Trung Quốc ngày càng tăng cao, và nước này đang trở thành một trong những đối tượng gây ô nhiễm hàng đầu thế giới. Tình trạng sẽ còn tệ hơn nữa vì dù Bắc Kinh có đưa ra những mục tiêu đầy tham vọng để bảo vệ môi trường thì các quan chức địa phương nói chung cứ ngoảnh mặt làm ngơ, vì họ chỉ chú trọng làm sao cho kinh tế tăng trưởng hơn nữa. Để thực sự cải thiện môi trường ở Trung Quốc, cần có những cải tổ chính trị và kinh tế có tính cách mạng từ dưới lên. Bà Elizabeth C. Economy là Thành Viên Cấp Cao của C.V Starr [một công ty tư của Mỹ về bảo hiểm và đầu tư trên toàn cầu] và Giám đốc Ban Nghiên Cứu Châu Á tại Hội Đồng Quan Hệ Quốc Tế [Council on Foreign Relations, một think tank độc lập và vô vị lợi lớn của Mỹ]. Bà cũng là tác giả của cuốn “The River Runs Black: The Environmental Challenges to China’s Future (Dòng sông hóa đen: Vấn nạn môi trường cho tương lai Trung Quốc). DẪN NHẬP Những vấn đề môi trường của Trung Quốc ngày càng chồng chất. Nạn ô nhiễm nước và khan hiếm nước đang đè nặng nền kinh tế, mức ô nhiễm không khí gia tăng đang ảnh hưởng tới sức khỏe hàng triệu người dân, nhiều vùng đất đai đang nhanh chóng bị sa mạc hóa. Trung Quốc đã trở thành nước đầu bảng thế giới về ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước, đất đai xuống cấp và là một nước góp phần nhiều nhất trong một số vấn đề môi trường nghiêm trọng nhất thế giới, như khai thác lâm sản trái phép, ô nhiễm thủy sinh và biến đổi khí hậu. Những vấn đề môi trường gia tăng kéo theo sự gia tăng rủi ro về kinh tế, sức khỏe cộng đồng, ổn định xã hội, và uy tính quốc tế của Trung Quốc. Ông Phan Nhạc, phó cục trưởng Tổng Cục Quốc Gia Bảo Vệ Môi Trường (SEPA) của Trung Quốc, đưa ra lời cảnh báo vào năm 2005, rằng “Phép lạ kinh tế sẽ chấm dứt sớm vì môi trường không còn theo kịp.” Khi Thế Vận Hội 2008 sắp diễn ra, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã tuyên bố mạnh miệng hơn, đưa ra những mục tiêu đầy tham vọng về môi trường, công bố những mức đầu tư cao hơn cho môi trường, yêu cầu giới kinh doanh và quan chức địa phương phải làm sạch môi trường tại địa bàn của mình. Thế giới bên ngoài dường như đã đồng tình rằng Bắc Kinh đã vạch ra một đường lối mới: ngay khi Trung Quốc tỏ thái độ thân thiện với môi trường, thì các quan chức của chính quyền Mỹ, Cộng Đồng Châu Âu và Nhật Bản không còn thắc mắc có nên đầu tư vào Trung Quốc hay không, mà là nên đầu tư bao nhiêu. Tuy nhiên, phần lớn những phấn khích này bắt nguồn từ niềm tin, tuy phổ biến nhưng sai lệch, rằng Bắc Kinh nói được thì làm được. Đúng là chính quyền trung ương đưa ra đường lối cho cả nước, nhưng họ lại không kiểm soát được mọi ngóc ngách của việc thực thi đường lối. Trên thực tế, các quan chức địa phương ít khi quan tâm tới những chỉ đạo của Bắc Kinh về môi trường, thay vào đó, họ tập trung sức lực và tài nguyên cho việc phát triển kinh tế hơn nữa. Quả thực, để thay đổi tình trạng môi trường thì Trung Quốc phải thực hiện nhiều việc khó khăn hơn là đơn thuần đưa ra chỉ tiêu và chi tiền, việc này đòi hỏi những cải tổ có tính cách mạng từ dưới lên, cả về chính trị lẫn kinh tế. Một việc cụ thể là các nhà lãnh đạo Trung Quốc cần tạo điều kiện dễ dàng giúp quan chức và chủ nhân xí nghiệp địa phương tuân thủ cách làm ăn đúng đắn để bảo vệ môi trường, bằng cách cho họ những ưu đãi thích hợp. Cùng lúc, họ phải nới lỏng các giới hạn chính trị đang ràng buộc các tòa án, các tổ chức phi chính phủ (NGO) và giới truyền thông, để thúc đẩy các nhóm này trở nên những tác nhân tích cực và độc lập cho việc bảo vệ môi trường. Về phần mình, cộng đồng quốc tế cần tập trung nhiều vào việc hỗ trợ các cải cách, thay vì chú trọng quá nhiều tới việc chuyển giao công nghệ cao hoặc thực hiện các dự án chỉ có tính thử nghiệm. Làm những việc này có nghĩa là phải sẵn lòng xăn tay áo, dấn thân làm việc trực tiếp cùng các cán bộ, chủ xí nghiệp và các NGO về môi trường tại địa phương; cũng có nghĩa là nhờ các NGO quốc tế hỗ trợ trong việc giáo dục và thực thi chính sách, và thuyết phục các tập đoàn kinh tế đa quốc gia (MNC) dùng ảnh hưởng kinh tế mình có để buộc các đối tác Trung Quốc phải tuân thủ cách làm ăn tốt nhất cho môi trường. Nếu không am hiểu tường tận như vậy, không chỉ về những gì Trung Quốc muốn có, mà cả về những gì họ cần có, thì Trung Quốc sẽ tiếp tục là một trong những nước có thành tích xấu nhất về môi trường trên thế giới, và cả người Trung Quốc lẫn loài người sẽ phải trả giá. Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ Sự phát triển nhanh chóng của Trung Quốc, thường được ca tụng như một phép lạ kinh tế, đã trở thành một thảm họa cho môi trường. Để đạt mức tăng trưởng kỷ lục đương nhiên phải tiêu thụ một mức khổng lồ các tài nguyên, nhưng ở Trung Quốc các nguồn lực đã được sử dụng một cách thiếu hiệu quả và không sạch, tác động khôn lường đến chất lượng của không khí, đất và nước tại đây. Chẳng hạn, than cung cấp năng lượng cho kinh tế Trung Quốc phát triển, nhưng than cũng làm người dân ngạt thở. Than cung cấp khoảng 70 phần trăm nhu cầu năng lượng của Trung Quốc: cả nước dùng khoảng 2,4 tỷ tấn than trong năm 2006 – hơn tổng số than dùng tại Mỹ, Nhật Bản và Anh Quốc cộng lại. Vào năm 2000, Trung Quốc dự kiến sẽ tăng gấp đôi mức tiêu thụ than vào năm 2020, nhưng thực tế cho thấy con số này sẽ đạt tới vào cuối năm nay [2007]. Than được tiêu thụ ở Trung Quốc với mức khổng lồ một phần vì nó được dùng thiếu hiệu quả: một quan chức Trung Quốc phát biểu trên tạp chí Der Spiegel vào đầu năm 2006 cho biết “Để sản xuất hàng hóa trị giá 10.000 USD, chúng tôi cần tới bảy lần số tài nguyên được dùng tại Nhật Bản, gần sáu lần tài nguyên được dùng tại Mỹ, và – công nhận điều này cũng chẳng hay ho gì – gần ba lần tài nguyên được dùng tại Ấn Độ.” Cùng lúc đó, việc lệ thuộc vào than đang phá hủy môi trường tại Trung Quốc. Nước này có tới 16 trong số 20 thành phố đông dân nhất thế giới, và bốn thành phố bị tác hại nặng nhất trong số này nằm ở một tỉnh có nhiều than là Sơn Tây, phía đông bắc Trung Quốc. Gần 90 phần trăm khí thải dioxit lưu huỳnh và 50 phần trăm khói bụi tại Trung Quốc là do việc sử dụng than gây nên. Khói bụi, thủ phạm gây nên những vấn đề hô hấp trong dân chúng, và mưa axit, do việc thải khí lưu huỳnh gây ra, rơi xuống trên một phần tư lãnh thổ Trung Quốc và trên một phần ba đất đai nông nghiệp, làm giảm sản lượng nông nghiệp và ăn mòn cả các công trình, dinh thự. Nhưng, việc dùng than sẽ sớm trở thành vấn đề kém nghiêm trọng nhất trong các vấn đề về chất lượng không khí tại Trung Quốc. Bùng nổ giao thông đang đặt ra thách thức ngày càng lớn về chất lượng không khí. Các nhà thầu Trung Quốc hiện thi công 84.812 km đường giao thông mới khắp cả nước. Khoảng 14.000 xe hơi mới xuống đường mỗi ngày tại Trung Quốc. Tới năm 2020, Trung Quốc dự kiến sẽ có 130 triệu xe hơi, và tới 2050 – hoặc có lẽ còn sớm hơn nữa, vào năm 2040 – Trung Quốc sẽ có số lượng xe hơi nhiều hơn cả Mỹ. Bắc Kinh đã phải trả giá cao cho sự bùng nổ này. Một thống kê năm 2006 cho thấy người Trung Quốc đã xếp Bắc Kinh xuống vị trí 15 trong bảng xếp hạng những thành phố có thể sống tốt, so với vị trí thứ 4 vào năm 2005, và sự tụt hạng này chủ yếu là do giao thông và ô nhiễm không khí tăng nhanh. Mật độ khói bụi trong không khí tại Bắc Kinh hiện cao hơn sáu lần so với Thành Phố New York. Các kế hoạch đô thị hóa quy mô lớn của Trung Quốc cũng làm tình hình xấu đi. Lãnh đạo Trung Quốc dự định từ năm 2000 đến 2030 sẽ tái định cư 400 triệu người – hơn cả dân số toàn nước Mỹ – đưa họ đến các trung tâm đô thị mới thành lập. Trong quá trình này, họ sẽ xây cất một nửa tổng số các tòa nhà cao tầng sẽ được xây cất trên toàn thế giới trong cùng thời kỳ. Đây là một viễn cảnh đáng ngại vì các tòa nhà của Trung Quốc sử dụng năng lượng rất kém hiệu quả – thực vậy, chúng kém hiệu quả gấp 2,5 lần so với các tòa nhà tại Đức. Thêm vào đó, người dân Trung Quốc khi về sống trong đô thị mới, họ sẽ dùng máy lạnh, TV và tủ lạnh, sẽ tiêu thụ gấp 3,5 lần năng lượng so với người Trung Quốc ở nông thôn. Và mặc dù Trung Quốc là một trong những nhà sản xuất lớn nhất thế giới các sản phẩm tiết kiệm điện như pin mặt trời, đèn huỳnh quang tiết kiệm, cửa sổ tiết kiệm năng lượng, hầu hết những sản phẩm này làm ra là để xuất khẩu. Trừ khi có thêm nhiều những sản phẩm tiết kiệm năng lượng này được dùng trong nước, tình trạng bùng nổ xây dựng đô thị sẽ đẩy mạnh mức tiêu thụ năng lượng và tình trạng ô nhiễm lên mức phi mã. Đất đai tại Trung Quốc cũng chịu hậu quả tai hại từ việc phát triển tùy tiện và môi trường bị bỏ mặc. Trải nhiều thế kỷ phá rừng, cùng việc khai thác quá mức các đồng cỏ chăn nuôi và canh tác quá mức đất đai trồng hoa màu, phần lớn đất đai tại miền bắc và tây bắc Trung Quốc đã xuống cấp trầm trọng. Thêm vào đó, hơn nửa thế kỷ qua, rừng và ruộng đất đã phải nhường chỗ cho công nghiệp và những thành phố mới mọc lên, dẫn đến việc sút giảm năng xuất trồng trọt, làm mất sự đa dạng sinh học, và làm thay đổi khí hậu tại địa phương. Sa mạc Gobi, hiện bao phủ phần lớn miền tây và miền bắc Trung Quốc, đang lan rộng mỗi năm khoảng 4.921 km vuông. Một số cuộc nghiên cứu cho thấy mặc dù Bắc Kinh có nỗ lực lớn để tái trồng rừng, hiện vẫn có tới một phần tư đất đai cả nước là sa mạc. Cục Lâm Nghiệp Quốc Gia Trung Quốc ước tính việc sa mạc hóa đã tác động tới khoảng 400 triệu người Trung Quốc, biến hàng chục triệu người trong số trở thành những người tị nạn vì môi trường, họ phải bỏ xứ ra đi tìm nơi khác làm ăn sinh sống. Trong khi đó, hầu hết đất đai có thể canh tác được ở Trung Quốc lại bị nhiễm bẩn, gây ra các lo ngại về an toàn vệ sinh thực phẩm. Khoảng gần 10 phần trăm đất ruộng Trung Quốc được cho là đã bị ô nhiễm, và mỗi năm 12 triệu tấn ngũ cốc bị ô nhiễm bởi các kim loại nặng hấp thu từ đất trồng. Ô NHIỄM NƯỚC Thêm vào đó là vấn đề nước sạch. Mặc dù Trung Quốc sở hữu nguồn nước sạch lớn thứ tư trên thế giới (sau Brazil, Nga và Canada), những vấn đề như mức cầu quá lớn, sử dụng quá nhiều, sử dụng kém hiệu quả, ô nhiễm và phân phối không đồng đều đã khiến hai phần ba trong khoảng 660 thành phố tại Trung Quốc có ít nước dùng hơn so với nhu cầu, và 110 thành phố trong số này bị thiếu nước trầm trọng. Theo ông Mã Quân, một chuyên gia về nước hàng đầu của Trung Quốc, một số thành phố gần Bắc Kinh và Thiên Tân ở đông bắc Trung Quốc có thể sẽ cạn nước trong khoảng năm hoặc bảy năm nữa. Dĩ nhiên mức cầu gia tăng là một phần của vấn đề, nhưng một vấn đề lớn không kém chính là sự phí phạm khổng lồ. Khu vực nông nghiệp dùng tới 66 phần trăm nước tại Trung Quốc, hầu hết là để tưới tiêu, và họ đã phí phạm hơn một nửa số đó. Ngành công nghiệp Trung Quốc cũng rất kém hiệu quả: họ thường dùng nhiều nước hơn từ 10 đến 20 phần trăm các đồng nghiệp tại các quốc gia phát triển khác. Đô thị Trung Quốc cũng là một kẻ phí phạm lớn lao khác: họ làm mất tới 20 phần trăm số nước tiêu thụ vì hệ thống ống nước bị rò rỉ, một vấn đề mà Bộ Xây Dựng Trung Quốc đã hứa sẽ giải quyết trong vòng hai hoặc ba năm tới. Cùng với đô thị hóa và mức gia tăng thu nhập, người Trung Quốc, tương tự như người Châu Âu và Mỹ, trở thành những người tiêu thụ nước nhiều hơn: họ tắm rửa lâu hơn, họ dùng máy giặt và máy rửa chén bát, họ mua căn nhà thứ hai có khoảnh vườn cần tưới nước. Mức tiêu thụ nước tại các thành phố Trung Quốc nhảy vọt 6,6 phần trăm trong giai đoạn 2004-2005. Sự lạm dụng nguồn nước ngầm, tạo nên những đường hầm khổng lồ dưới lòng đất, gây ra một hậu quả, đó là một số những thành phố giàu có nhất Trung Quốc đang bị lún xuống – Thượng Hải và Thiên Tân, hai thành phố này bị lún tới hơn 1,8 mét trong vòng 15 năm qua. Tại Bắc Kinh tình trạng đất lún đã làm hư hại các nhà máy, dinh thự, hệ thống cống ngầm và đe dọa phi trường chính của thành phố. Nạn ô nhiễm cũng gây nguy hiểm cho nguồn cấp nước tại Trung Quốc. Nước ngầm ở Trung Quốc, vốn cung cấp 70 phần trăm tổng số nước uống cho dân chúng, đang bị đe dọa bởi nhiều nguyên do khác nhau, chẳng hạn như bởi nước nhiễm bẩn trên mặt đất, bởi các khu rác thải nguy hiểm, các loại thuốc trừ sâu và phân bón. Theo một báo cáo của hãng thông tấn nhà nước Tân Hoa Xã, tầng ngậm nước tại 90 phầm trăm các thành phố Trung Quốc hiện bị ô nhiễm. Hơn 75 phần trăm nước sông chảy qua các khu vực đô thị Trung Quốc được cho là không thể uống, không phù hợp để đánh bắt cá, và chính quyền Trung Quốc cũng xác định khoảng 30 phần trăm nước sông trên toàn quốc là không phù hợp để dùng trong nông nghiệp hoặc công nghiệp. Hậu quả là gần 700 triệu người phải uống nước nhiễm bẩn bởi chất thải từ thú vật hoặc người. Ngân Hàng Thế Giới đã phát hiện ra rằng việc không thể cung cấp đầy đủ nước sạch qua ống dẫn cho hai phần ba dân số nông thôn Trung Quốc là nguyên nhân chính khiến trẻ em dưới năm tuổi chết non, và gây ra ít nhất là 11 phần trăm các trường hợp ung thư dạ dày và đường ruột tại Trung Quốc. Một khó khăn khác nằm ở chỗ mặc dù Trung Quốc có rất nhiều luật lệ và quy định nhằm bảo đảm cho dân có nước sạch nhưng giới chủ xí nghiệp và quan chức địa phương lại không áp dụng chúng. Một nghiên cứu năm 2005 tại 509 thành phố cho thấy chỉ có 23 phần trăm các nhà máy xử lý nước thải đúng quy trình trước khi xả ra môi trường. Theo một báo cáo khác, hiện nay một phần ba tổng số nước thải công nghiệp và hai phần ba nước thải gia dụng đang được xả vào môi trường mà không qua xử lý. Một số nghiên cứu mới đây của Trung Quốc về hai nguồn nước quan trọng nhất của nước này, Sông Dương Tử và Sông Hoàng Hà, cho thấy những thách thức ngày càng lớn. Sông Dương Tử, chảy dài từ Cao Nguyên Tây Tạng tới Thượng Hải, phải nhận 40 phần trăm nước thải của toàn Trung Quốc, 80 phần trăm số này không được xử lý. Năm 2007, một phần vì lý do ô nhiễm, chính quyền Trung Quốc loan báo tạm ngưng triển khai một kế hoạch lên tới 60 tỷ USD nhằm chuyển dòng chảy của con sông để cung cấp nước cho các thành phố đang khát nước là Bắc Kinh và Thiên Tân. Sông Hoàng Hà cung cấp nước cho hơn 150 triệu người và 15 phần trăm đất nông nghiệp của Trung Quốc, nhưng hai phần ba nước sông được cho là không an toàn để uống và 10 phần trăm nước sông được xếp vào loại nước thải. Đầu năm 2007, các quan chức Trung Quốc loan báo rằng hơn một phần ba các loài cá sống ở Sông Hoàng Hà đã bị tiệt chủng vì hậu quả của việc xây đập hoặc vì nạn ô nhiễm. Lãnh đạo Trung Quốc cũng ngày càng lo ngại về tác động của biến đổi khí hậu có thể làm xấu hơn nữa tình trạng môi trường trong nước. Vào mùa xuân năm 2007, Bắc Kinh đã công bố báo cáo đánh giá quốc gia đầu tiên về biến đổi khí hậu, đưa ra dự đoán lượng nước mưa trong vùng nhận nước của ba trong số bảy con sông quan trọng của Trung Quốc – khu vực quanh các con Sông Hoài, Sông Liêu, và Sông Hải – sẽ giảm đi 30 phần trăm,và dự báo mức giảm 37 phần trăm sản lượng lúa mì, lúa gạo, và ngô trong nửa sau của thế kỷ này. Bản báo cáo cũng dự đoán Sông Dương Tử và Sông Hoàng Hà, vì nhận nước từ các băng sơn Tây Tạng, sẽ tràn nước khi băng tan ra và sau đó sẽ khô hạn. Bên cạnh đó, các nhà khoa học Trung Quốc và quốc tế hiện nay cũng cảnh báo rằng do mực nước biển dâng lên, Thượng Hải có thể bị ngập nước vào khoảng năm 2050. TAI HỌA CHUNG Những vấn đề môi trường của Trung Quốc đang ảnh hưởng đến phần còn lại của thế giới. Nhật Bản và Hàn Quốc đã phải chịu những trận mưa axit xuất phát từ những nhà máy điện đốt than, và chịu cả những trận bão bụi xuất phát từ Sa Mạc Gobi thổi qua hướng đông vào mùa xuân, mang theo bụi vàng độc hại đổ xuống đất đai của họ. Các nhà nghiên cứu Mỹ hiện đang theo dõi đường đi của bụi, lưu huỳnh, muội, và những hạt vi lượng kim loại tương tự, xuất phát từ Trung Quốc, bay ngang Thái Bình Dương vào Mỹ. Cơ Quan Bảo Vệ Môi Trường Hoa Kỳ [EPA] ước tính trong một số ngày nhất định, có tới 25 phần trăm những phân tử bụi trong không khí tại Los Angeles là phân tử bụi xuất phát từ Trung Quốc. {Xem ghi chú 1 cuối bài} Các nhà khoa học cũng tìm thấy nguồn gây ra mức gia tăng thủy ngân lắng đọng trong đất đai ở Mỹ là đến từ các nhà máy điện đốt than và nhà máy xi măng ở Trung Quốc. (Nếu hấp thu vào cơ thể với số lượng lớn, thủy ngân có thể gây ra dị tật thai nhi và khiến trẻ chậm phát triển). Có báo cáo cho rằng, 25 đến 40 phần trăm tổng số thủy ngân thải vào không khí trên toàn thế giới xuất phát từ Trung Quốc. Những gì Trung Quốc xả vào hệ thống nước của họ cũng làm ô nhiễm những vùng đất khác trên thế giới. Theo Quỹ Môi Trường Hoang Dã Thế Giới (WWF), một NGO quốc tế, Trung Quốc hiện là nước làm ô nhiễm Thái Bình Dương nhiều nhất. Theo lời ông Lưu Khuyên Phong, một cố vấn của Quốc Hội Trung Quốc thì “Gần như không có bất cứ con sông nào đổ nước vào vịnh biển Bột Hải [vùng biển dọc theo bờ bắc Trung Quốc] là sông sạch.” Trung Quốc xả khoảng 2,8 tỷ tấn nước ô nhiễm vào Bột Hải mỗi năm, và lượng kim loại nặng trong bùn đáy biển Bột Hải hiện ở mức 2000 lần nhiều hơn tiêu chuẩn an toàn được phép chính thức của Trung Quốc. Sản lượng tôm đã giảm 90 phần trăm trong 15 năm qua. Vào năm 2006, tại các tỉnh công nghiệp hóa đứng đầu ở miền đông nam là Quảng Đông và Phúc Kiến, gần 8,3 tỷ tấn nước thải được xả vào biển mà không qua xử lý, tăng 60 phần trăm tính từ năm 2001. Hơn 80 phần trăm Biển Đông Trung Hoa, một trong những vùng cá lớn nhất trên thế giới, hiện được xếp vào loại không phù hợp cho đánh bắt cá, vào năm 2000, tỉ lệ này là 53 phần trăm. Ngoài ra, Trung Quốc cũng khiến dư luận quốc tế quan tâm vì đang nhanh chóng góp phần nhiều hơn gây ra biến đổi khí hậu. Theo một báo cáo năm 2007 của Cơ Quan Đánh Giá Môi Trường Hòa Lan, Trung Quốc đã vượt qua Mỹ trở thành nước thải nhiều thán khí nhất vào bầu khí quyển, loại khí này là thành phần chủ yếu gây hiệu ứng nhà kính. Theo lời cảnh báo của ông Fatih Birol, kinh tế gia chính của Cơ Quan Năng Lượng Thế Giới, đưa ra vào tháng tư vừa qua [2007], thì trừ khi Trung Quốc điều chỉnh cách họ sử dụng các nguồn năng lượng khác nhau và ứng dụng những kỹ thuật vừa tiên tiến nhất vừa thân thiện với môi trường, chỉ trong 25 năm nữa thôi, Trung Quốc sẽ thải nhiều gấp đôi lượng thán khí của tất cả các nước trong Tổ Chức Hợp Tác và Phát Triển Kinh Tế [OECD] cộng lại. Những đối tác kinh tế thân cận với Trung Quốc tại các nước đang phát triển cũng phải đối mặt với gánh nặng môi trường vì hoạt động kinh tế của Trung Quốc. Các công ty đa quốc gia của Trung Quốc, trong quá trình khai thác tài nguyên thiên nhiên tại Châu Phi, Châu Mỹ La Tinh và Đông Nam Á nhằm cung cấp nguyên liệu cho kinh tế Trung Quốc tiếp tục phát triển, cũng đang tàn phá môi trường sinh thái tại những khu vực này. Sự khao khát gỗ của Trung Quốc đã bùng nổ trong hơn 15 năm qua, và đặc biệt từ năm 1998, khi các trận lũ lụt khủng khiếp xảy ra đã khiến Bắc Kinh phải mạnh tay ngăn chặn nạn khai phá rừng trong nước. Mức nhập khẩu gỗ của Trung Quốc tăng hơn ba lần, từ 1993 đến 2005. Theo Quỹ Môi Trường Hoang Dã Thế Giới [WWF], nhu cầu về gỗ, giấy và bột giấy của Trung Quốc sẽ có thể tăng lên tới 33% trong khoảng từ 2005 đến 2010. Trung Quốc hiện đang là nước nhập khẩu lớn nhất lượng gỗ khai thác trái phép trên thế giới: khoảng 50 phần trăm số gỗ nhập khẩu được cho là nhập lậu. Khai thác gỗ trái phép tàn phá nghiêm trọng môi trường vì thường nhắm vào những khu rừng già hiếm quý, làm nguy hại đến sự đa dạng sinh thái và không đếm xỉa gì đến những nguyên tắc bảo vệ và tái tạo rừng. Chẳng hạn, vào năm 2006, chính quyền Campuchia, bất chấp luật pháp của nước mình, đã cho tập đoàn Wuzhishan LS Group của Trung Quốc quyền khai thác trong 99 năm một vùng rừng lớn gấp 20 lần diện tích được luật pháp Campuchia cho phép. Những hoạt động của công ty này, gồm cả việc phun thuốc diệt cỏ với khối lượng lớn, đã khiến người dân Campuchia địa phương nhiều lần phải biểu tình phản đối. Theo NGO quốc tế Global Witness [Nhân chứng địa cầu] các công ty Trung Quốc đã phá hủy phần lớn những khu rừng dọc biên giới Trung Quốc và Miến Điện, và hiện đang di chuyển sâu vào những khu rừng già Miến Điện để khai thác gỗ. Trong nhiều trường hợp, việc phá rừng trái phép diễn ra với sự hỗ trợ đắc lực của các quan chức địa phương tham nhũng. Các quan chức chính quyền trung ương tại các nước Miến Điện, Indonesia và các nước nơi các công ty khai thác gỗ của Trung Quốc hoạt động mạnh, đã phản đối với Bắc Kinh về những lề lối hoạt động này, nhưng kết quả cho đến nay vẫn còn rất giới hạn. Những hoạt động này, cùng với hoạt động của các công ty Trung Quốc khai thác quặng mỏ và năng lượng, đã khiến rất nhiều cư dân tại các nước đang phát triển phải thực sự lo lắng về môi trường nước mình. MẤT VUI NỬA CHỪNG Tuy vậy, theo cách nhìn của lãnh đạo Trung Quốc, thiệt hại gây ra cho môi trường bản thân nó chỉ là mối quan tâm hạng hai. Quan tâm hạng nhất của họ nằm ở những tác động gián tiếp mà ô nhiễm môi trường gây ra: ô nhiễm khiến phép lạ kinh tế ngừng trệ, đe dọa sức khỏe dân chúng, gây bất ổn xã hội và làm xấu uy tín của đất nước tên trường quốc tế. Gộp tất cả lại, những thách thức này có thể đe dọa quyền lực của Đảng Cộng Sản. Lãnh đạo Trung Quốc đang lo lắng về tác động của môi trường đến nền kinh tế. Một số cuộc nghiên cứu, trong và ngoài Trung Quốc, dự đoán rằng sự xuống cấp của môi trường và nạn ô nhiễm khiến kinh tế Trung Quốc mất đi từ 8 đến 12 phần trăm GDP mỗi năm. Các phương tiện truyền thông Trung Quốc thường xuyên công bố những nghiên cứu về tác động của ô nhiễm đối với nông nghiệp, năng xuất công nghiệp và sức khỏe cộng đồng, chẳng hạn như: Có năm ô nhiễm nước làm mất 35,8 tỷ USD, ô nhiễm không khí làm mất 27,5 tỷ USD trong một năm khác, và nhiều hạng mục khác nữa như: tai họa do biến đổi thời tiết (26,5 tỷ), mưa acid (13,3 tỷ), sa mạc hóa (6 tỷ), hoặc mất mùa do ô nhiễm đất (2,5 tỷ). Thành phố Trùng Khánh, nằm vắt qua hai bờ Sông Dương Tử, ước tính việc khắc phục tác hại của ô nhiễm nước trong nông nghiệp và sức khỏe cộng đồng làm tiêu tốn 4,3 phần trăm tổng sản lượng hàng năm của thành phố. Tỉnh Sơn Tây cung cấp than cho cả nước, nhưng lại phải trả giá đậm khi cây cối lụi tàn, không khí bẩn, nước bẩn và đất lún. Chính quyền địa phương tại đây ước tính chi phí của tình trạng môi trường bị hủy hoại và ô nhiễm này ở mức 10,9 phần trăm tổng sản lượng năm của tỉnh, và kêu gọi Bắc Kinh bồi thường thiệt hại vì tỉnh đã phải “cống hiến và hy sinh” cho sự nghiệp chung. Bộ Vệ Sinh của Trung Quốc cũng đang gióng tiếng chuông cảnh báo ngày càng khẩn cấp. Trong một cuộc điều tra tại 30 thành phố và 78 quận huyện, công bố vào mùa xuân [2007], Bộ đã chỉ ra rằng không khí bẩn và nước bẩn chính là thủ phạm gây ra mức tăng đột biến các ca ung thư toàn quốc: tăng 19 phần trăm tại các khu đô thị, và 23 phần trăm tại vùng nông thôn, tính từ năm 2005. Một viện nghiên cứu hợp tác với Tổng Cục Quốc Gia Bảo Vệ Môi Trường (SEPA) cho biết tổng số các vụ chết non tại Trung Quốc do bệnh đường hô hấp, liên quan đến ô nhiễm không khí, lên tới 400.000 mỗi năm. Nhưng dường như đây là ước lượng ở ngưỡng thấp, vì theo một nghiên cứu chung giữa Ngân Hàng Thế Giới và chính quyền Trung Quốc phổ biến năm nay [2007] thì tổng số chết non lên đến 750.000 mỗi năm. (Người ta cho rằng Bắc Kinh không muốn công bố con số này vì lo ngại sẽ gây bất ổn xã hội.) Tác hại của ô nhiễm nước tuy không được thống kê kỹ như ô nhiễm không khí, nhưng thực ra có thể gây những tác hại khủng khiếp hơn lên sức khỏe người dân. Hiện nay, có tới 190 triệu người Trung Quốc mắc bệnh vì uống nước nhiễm bẩn. Dọc tất cả những dòng sông lớn tại Trung Quốc, các xã, ấp đều có báo cáo về mức tăng chóng mặt các bệnh tiêu chảy, ung thư, khối u, bạch cầu, và chậm phát triển. Bất ổn xã hội vì những bức xúc này đang gia tăng. Mùa xuân 2006, quan chức đứng đầu về môi trường tại Trung Quốc, ông Chu Sinh Hiền, loan báo đã có 51.000 vụ biểu tình liên quan tới ô nhiễm vào năm 2005, tức là gần 1.000 vụ biểu tình mỗi tuần. Các khiếu nại của dân chúng, thể hiện qua những cuộc gọi đến đường dây nóng của nhà nước và qua thư gửi chính quyền địa phương, đang gia tăng ở mức 30 phần trăm mỗi năm, và sẽ lên tới 450.000 khiếu nại trong năm 2007. Nhưng chỉ một số ít khiếu nại được giải quyết ổn thỏa mà thôi, thế là tại nhiều nơi trên cả nước dân chúng xuống đường ngày càng nhiều. Trong nhiều tháng vào năm 2006, cư dân của sáu xã trong Tỉnh Cam Túc đã nhiều lần biểu tình chống lại các nhà máy luyện kẽm và sắt vì họ tin rằng chúng đang đầu độc họ. Một nửa trong số 4.000 đến 5.000 cư dân tại đây mắc các chứng bệnh liên quan đến nhiễm độc chì, từ chứng thiếu vitamin D đến những bệnh trạng thần kinh. Nhiều cuộc diễu hành vì môi trường diễn ra là tương đối nhỏ và ôn hòa. Nhưng khi những cuộc biểu tình như thế không mang lại kết quả, người biểu tình đôi khi đã dùng đến cả bạo lực. Sau khi cố gắng suốt hai năm kiến nghị lên chính quyền, từ địa phương đến chính quyền cấp tỉnh và chính quyền trung ương, yêu cầu xử lý tình trạng mùa màng nhiễm bẩn và không khí ô nhiễm, vào mùa xuân 2005, có từ 30.000 đến 40.000 người dân tại Tỉnh Chiết Giang đã tràn ngập 13 nhà máy hóa chất, đập vỡ cửa sổ và lật nhào những chiếc xe buýt, tấn công các cán bộ nhà nước và đốt cháy xe cảnh sát. Chính quyền gửi 10.000 cảnh sát thuộc lực lượng Cảnh Sát Vũ Trang Nhân Dân để đáp trả. Các nhà máy được lệnh đóng cửa, và một số thủ lĩnh hoạt động môi trường, vốn tìm cách giám sát việc chấp hành lệnh đóng cửa của các nhà máy này, sau đó đã bị bắt giam. Lãnh đạo Trung Quốc nói chung đã ngăn chặn được – đôi khi bằng bạo lực – không cho sự bất mãn về vấn đề môi trường lan từ tỉnh này qua tỉnh khác hoặc biến tướng thành các yêu sách lớn hơn đòi hỏi cả những cải tổ chính trị. Đối diện với những vấn đề vừa kể, lãnh đạo Trung Quốc gần đây đã phải lên tiếng với độ khẩn trương hơn về nhu cầu bảo vệ môi trường. Trên giấy tờ, điều này đã được cụ thể hóa thành những chiến lược mạnh dạn để tăng mức đầu tư cho bảo vệ môi trường, đưa ra các mục tiêu tham vọng về cắt giảm ô nhiễm và tỉ trọng năng lượng [tỉ trọng năng lượng là mức năng lượng dùng để sản xuất một đơn vị GDP], và đưa vào sử dụng những kỹ thuật mới thân thiện với môi trường. Năm 2005, Bắc Kinh đưa ra một số những mục tiêu đầy ấn tượng cho kế hoạch năm năm kế tiếp: họ nhắm mục tiêu sao cho tới năm 2010, 10 phần trăm điện năng sẽ được lấy từ những nguồn năng lượng có thể tái tạo được, tỉ trọng năng lượng sẽ giảm xuống 20 phần trăm và những chất thải gây ô nhiễm chính như dioxit lưu huỳnh giảm 10 phần trăm, mức tiêu thụ nước giảm 30 phần trăm, và mức đầu tư để bào vệ môi trường tăng 1,3 đến 1,6 phần trăm GDP. Thủ tướng Ôn Gia Bảo cũng đưa ra lời cảnh báo nghiêm khắc yêu cầu các quan chức địa phương đóng cửa một số nhà máy trong những công nghệ tiêu hao nhiều năng lượng nhất – như các nhà máy điện, sản xuất nhôm, đồng, thép, than cốc, than thường, và sản xuất xi măng – và giảm mức tăng trường của các ngành công nghiệp khác bằng việc ngưng giảm trừ thuế và các khoản ưu đãi sản xuất khác. Những mục tiêu này nghe thì hay – trong vài lĩnh vực còn đáng kinh ngạc nữa là khác – nhưng kinh nghiệm cho thấy rằng sự lạc quan chừng mực thì thực tế hơn; quá khứ cũng cho thấy đạt được những mục tiêu như kể trên thật ra rất khó khăn. Năm 2001, chính quyền Trung Quốc hứa sẽ cắt giảm khí thải dioxit lưu huỳnh xuống 10 phần trăm giữa năm 2002 và 2005. Nhưng thay vì giảm, lượng khí thải này lại tăng thêm 27 phần trăm. Bắc Kinh hiện khó đạt được những mục tiêu mới nhất họ vừa đưa ra: chẳng hạn, họ thất bại trong mục tiêu đầu tiên nhằm cắt giảm tỉ trọng năng lượng và giảm mức ô nhiễm. Bất chấp cảnh báo của Thủ Tướng Ôn, sáu ngành công nghiệp trong danh sách phải giảm tăng trưởng lại có mức tăng đến 20,6 phần trăm năng xuất trong quý đầu của năm 2007 – tăng 6,6 phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Theo một viên chức cao cấp của công ty Ấn Độ khai thác phong điện Suzlon Energy, chỉ có 37 phần trăm những dự án khai thác điện từ năng lượng gió được chính quyền Trung Quốc phê duyệt vào năm 2000 là được xây dựng mà thôi. Có lẽ vì sợ rằng một mục tiêu nữa cũng sẽ sụp đổ do thất bại nửa chừng, nên vào đầu năm 2007, Bắc Kinh đã điều chỉnh mục tiêu đưa ra trước đó là giảm mức tiêu thụ nước 30 phần trăm vào năm 2010, xuống chỉ còn 20 phần trăm. Ngay cả Thế Vận Hội cũng là một thách thức. Ngay từ năm 2001, Bắc Kinh đã hứa sẽ tổ chức một “Thế Vận Hội xanh” vào năm 2008, và Ủy ban Thế Vận Hội Quốc Tế đã dồn mọi nỗ lực cho sự kiện này thành công. Trong thành phố Bắc Kinh xuất hiện rất nhiều những hàng cây xanh mới trồng, các xe taxi và xe buýt cải tiến giảm ô nhiễm cũng xuất hiện trên đường phố (một số đường phố sẽ sớm được trang bị đèn chiếu dùng năng lượng mặt trời), các nhà máy gây ô nhiễm nhiều nhất cũng được di dời ra khỏi phạm vi thành phố, và khu lưu trú Thế Vận Hội được thiết kế như những gương mẫu trong việc sử dụng năng lượng hiệu quả. Tuy vậy, ở những khía cạnh quan trọng, Bắc Kinh lại phải bó tay. Các quan chức chính quyền thành phố đã phải rút lại lời hứa cung cấp nước thủy cục sạch cho toàn bộ cư dân Bắc Kinh nhân dịp Thế Vận Hội; thay vào đó, họ nói sẽ chỉ cung cấp cho cư dân của Làng Thế Vận Hội mà thôi. Họ cũng công bố các biện pháp tình huống mạnh trong thời gian diễn ra Thế Vận Hội, chẳng hạn như cấm không cho xuống đường một triệu trong ba triệu chiếc xe hơi tại thành phố, ngưng sản xuất tại các nhà máy trong và ngoài Bắc Kinh (một số nhà máy đã cưỡng lại quyết định này). Những tiến bộ mà chính quyền thành phố đạt được trong sáu năm trước trước đó – như gia tăng số ngày trong năm thành phố được hưởng không khí sạch – cũng không đủ để bảo đảm không khí sẽ trong lành trong thời gian Thế Vận Hội. Việc chuẩn bị cho Thế Vận Hội đã minh chứng cho tính bất trị của những thách thức môi trường tại Trung Quốc và giới hạn của các biện pháp do Bắc Kinh đưa ra để giải quyết vấn đề. THỬ THÁCH TỪ ĐỊA PHƯƠNG Rõ ràng, có vấn đề cần giải quyết. Cái giá của việc thiếu hành động đang ngày càng ảnh hưởng đến kinh tế, sức khỏe công chúng và uy tín quốc tế của Trung Quốc. Và có lẽ còn quan trọng hơn nữa, đó là bất mãn xã hội đang gia tăng. Quần chúng Trung Quốc rõ ràng đang mất kiên nhẫn với sự bất lực hoặc thiếu quyết tâm lật ngược xu thế của hiện trạng môi trường. Nhà cầm quyền cũng hiểu rõ rằng những bất mãn về môi trường rất có thể sẽ kích hoạt các bất ổn xã hội rộng lớn hơn. Một sự kiện vào mùa xuân này [2007] đặc biệt đã gióng tiếng báo động khiến lãnh đạo Trung Quốc phải quan tâm. Tại thành phố ven biển Hạ Môn, sau nhiều tháng phản đối ngày càng mạnh dự án xây dựng nhà máy hóa dầu trị giá 1,4 tỉ USD gần đó, đến tháng năm, giới sinh viên và giảng viên Đại Học Hạ Môn, cùng các thành phần khác, được cho là đã gửi một triệu tin nhắn qua điện thoại di động đến đồng bào của họ thúc giục mọi người xuống đường vào ngày 1 tháng Sáu. Đúng ngày hẹn, và cả ngày kế tiếp, số người biểu tình được ước tính vào khoảng từ 7.000 đến 20.000 người đã tuần hành trong ôn hòa qua thành phố, một số người tham gia bất chấp việc bị đe dọa đuổi học hoặc khai trừ khỏi Đảng Cộng Sản. Cuộc biểu tình được quay video, và gửi lên YouTube. Một đoạn video dùng cả một lời thoại rất ám ảnh, nối kết cuộc biểu tình tại Hạ Môn với thảm họa môi trường gần Thái Hồ, hồ nước nằm cách đó 660 cây số (một thảm tảo lớn màu lục lam, hình thành từ nước thải công nghiệp và nước cống đổ xuống hồ đã làm nhiễm bẩn nguồn nước cung cấp cho thành phố Vô Tích). Giọng đọc kia cũng nối kết cuộc biểu tình này với cuộc phản kháng tại Thiên An Môn năm 1989. Giọng đọc nói rằng: Cuộc biểu tình tại Hạ Môn, có lẽ là “cuộc biểu tình đúng nghĩa đầu tiên, kể từ biến cố Thiên An Môn” Để đáp trả, chính quyền thành phố đã cho hoãn việc xây cất nhà máy kia, nhưng đồng thời, họ cũng tung ra một chiến dịch rộng khắp nhằm làm mất uy tín của những người biểu tình và tính khách quan của những đoạn video. Dù vậy, một số nhận định về cuộc biểu tình và lời kêu gọi chớ quên Thiên An Môn cũng đã xuất hiện trên các trang mạng khác. Những thông điệp như thế, được phổ biến công khai và bất cứ ai cũng có thể tìm đọc, gợi lên nỗi lo sợ lớn nhất của giới lãnh đạo Trung Quốc, đó là thất bại trong việc bảo vệ môi trường sẽ có ngày trở thành chất xúc tác cho những yêu sách rộng lớn hơn, đòi hỏi cải cách chính trị. Những cuộc biểu tình công cộng như vừa kể cũng là bằng chứng cho thấy các vấn đề môi trường tại Trung Quốc không thể nào được giải quyết chỉ bằng cách đưa ra những mục tiêu to tát và bằng đầu tư nhiều hơn. Chúng phải được giải quyết bằng những thay đổi nền tảng trong cung cách nhà nước làm kinh tế và bảo vệ môi trường. Cho tới nay, Bắc Kinh đã cấu trúc nỗ lực bảo vệ môi trường của họ theo cùng một cách họ theo đuổi tăng trưởng kinh tế, tức là một mặt cho chính quyền địa phương và giới chủ xí nghiệp quyền tự quyết định hoạt động của mình, và mặt khác tích cực ve vãn để thu hút chuyên môn của cộng đồng thế giới và các NGO Trung Quốc nhưng lại kiểm soát chặt chẽ hoạt động của họ. Hãy thử xem xét trường hợp sau đây về cơ quan môi trường quan trọng nhất của Trung Quốc, cơ quan SEPA, trụ sở tại Bắc Kinh. SEPA đã trở thành nơi xuất phát những chính sách môi trường sáng tạo nhất tại Trung Quốc: họ cổ vũ cho đạo luật cho phép đánh giá tác hại môi trường; đưa ra đạo luật buộc quan chức địa phương cung cấp thông tin về các thảm họa môi trường, thống kê ô nhiễm, và tên của thủ phạm gây ô nhiễm cho công chúng biết; đưa ra một thử nghiệm tính toán chi phí của tình trạng hủy hoại môi trường và ô nhiễm đối với GDP quốc gia; và một chiến dịch tổng lực để chặn đứng 100 dự án hạ tầng quy mô lớn được tiến hành mà không thông qua quá trình đánh giá tác hại môi trường theo quy định. Nhưng, SEPA chỉ hoạt động với 300 chuyên viên toàn thời gian tại thủ đô, cùng với vài trăm nhân viên khác trên toàn quốc. (Trong khi đó Cơ Quan Bảo Vệ Môi Trường Mỹ [EPA], riêng chỉ tại thủ đô Washington DC mà thôi, đã có tới gần 9.000 nhân viên.) Và quyền hành để thực thi các quyết định của SEPA lại hoàn toàn nằm trong tay các quan chức địa phương và các cán bộ phụ trách bảo vệ môi trường tại địa phương dưới quyền họ. Trong vài trường hợp, tình trạng này tạo điều kiện cho các thử nghiệm thú vị. Chẳng hạn như tại tỉnh miền đông Giang Tô, Ngân Hàng Thế Giới và Hội Đồng Bảo Vệ Tài Nguyên Thiên Nhiên đã hợp tác tiến hành chương trình Greenwatch [Giám Sát Xanh], nhằm xếp hạng 12.000 nhà máy theo mức tuân thủ tiêu chuẩn xử lý nước thải công nghiệp và sau đó cung cấp những thứ hạng và cả lý do xếp hạng cho những nhà máy này nắm rõ. Tuy vậy, điều thường xuyên xảy ra là hệ thống tản quyền dễ dãi ở Trung Quốc đã làm cản trở nhiều tiến bộ: chỉ có từ bảy đến mười phần trăm trong hơn 660 thành phố Trung Quốc đạt tiêu chuẩn cần thiết để được SEPA công nhận là Thành Phố Môi Trường Kiểu Mẫu Quốc Gia. Theo lời của ông Vương Xán Phát, một trong những luật sư hàng đầu của Trung Quốc về môi trường, chỉ có chưa tới 10 phần trăm các luật lệ và quy định về môi trường của Trung Quốc được thi hành trên thực tế. Một trong những vấn đề là các quan chức địa phương rất ít có động lực cần thiết để đưa việc bảo vệ môi trường lên hàng ưu tiên. Dù Bắc Kinh cổ vũ cho việc bảo vệ môi trường, nhưng Thủ Tướng Ôn Gia Bảo lại kêu gọi phải làm cho nền kinh tế tăng trưởng gấp bốn lần vào năm 2020. Giá nước đang tăng cao tại một số thành phố, như Bắc Kinh, nhưng tại nhiều thành phố khác giá nước lại chỉ bằng 20 phần trăm giá để làm hệ thống nước mới. Điều này khiến các nhà máy và đơn vị hành chính địa phương không có lý do gì để đầu tư vào việc xử lý nước thải hoặc các nỗ lực bảo vệ nguồn nước khác. Tiền phạt dành cho đối tượng gây ô nhiễm lại quá thấp, nên giới giám đốc nhà máy thường chọn cách đóng tiền phạt thay vì đưa vào sử dựng các công nghệ kiểm soát ô nhiễm thường có giá đắt hơn nhiều. Một giám đốc nhà máy phát điện chạy bằng than giải thích với một phóng viên Trung Quốc vào năm 2005 rằng ông ta mặc kệ, không tuân thủ một quy định buộc tất cả các nhà máy điện mới phải sự dụng thiết bị loại bỏ lưu huỳnh, chỉ vì giá của công nghệ này đắt bằng 15 năm tiền phạt cộng lại. Chính quyền địa phương cũng ngoảnh mặt làm ngơ trước những vấn đề ô nhiễm nghiêm trọng vì quyền lợi riêng. Quan chức địa phương đôi khi có những quyền lợi trực tiếp trong các nhà máy hoặc quan hệ cá nhân với chủ nhà máy. Các văn phòng phụ trách bảo vệ môi trường, có nhiệm vụ canh phòng tình trạng tham ô đó, lại nằm dưới quyền của chính quyền địa phương, khiến họ trở thành đối tượng dễ dàng bị áp lực chính trị. Trong vài năm qua, truyền thông Trung Quốc đã phanh phui một số vụ, cho thấy quan chức địa phương đã tạo áp lực đối với tòa án, báo chí và cả bệnh viện nữa, để ém nhẹm không cho đưa ra ánh sáng những vụ sai phạm của các nhà máy. (Chỉ trong năm nay thôi, tại tỉnh Chiết Giang, giới chức địa phương được cho rằng đã hứa với các chủ nhà máy, có năng xuất 1,2 triệu USD hoặc cao hơn, rằng họ sẽ không bị nhà nước thanh tra đột xuất mà không được họ đồng ý trước.) Thêm vào đó, quan chức địa phương lại thường dùng ngân sách bảo vệ môi trường vào những việc không liên quan hoặc những việc râu ria bên lề. Viện Kế Hoạch Môi Trường Trung Quốc, dưới quyền của SEPA, tiết lộ rằng trong năm nay, chỉ có một nửa trong số 1,3 phần trăm của GDP hàng năm trên toàn quốc, được phân bổ cho công tác bảo vệ môi trường trong những năm 2001 đến 2005, là được sử dụng đúng mục đích mà thôi. Theo nghiên cứu này, khoảng 60 phần trăm ngân sách bảo vệ môi trường, được chi ra tại các vùng đô thị trong thời gian vừa kể, đã được dùng để xây dựng nhiều dự án, trong đó có công viên, dây chuyền sản xuất, trạm xăng, và nhà máy xử lý nước cống, thay vì dùng để xây dựng các phương tiện xử lý chất thải hoặc nước thải. Nhiều quan chức địa phương cũng cản trở nỗ lực buộc họ phải chịu trách nhiệm vì sai phạm trong công tác bảo vệ môi trường. Năm 2005, SEPA đưa ra chiến dịch “GDP Xanh”, một dự án nhằm tính toán cái giá do môi trường xuống cấp và ô nhiễm gây ra cho nền kinh tế địa phương, đồng thời cung cấp cơ sở để đánh giá năng lực của quan chức địa phương về cả hai mặt: khả năng điều hành kinh tế và hiệu quả bảo vệ môi trường của họ. Tuy nhiên, một số tỉnh đã chây lỳ trước dự án này, vì lo ngại những con số được tiết lộ sẽ cho thấy mức độ hư hại mà môi trường đang gánh chịu. Cũng vậy, đối tác của SEPA trong chiến dịch, Tổng Cục Thống Kê Trung Quốc, cũng gây khó khăn khi loan báo rằng họ không đủ phương tiện để làm công tác kiểm toán GDP Xanh một cách chính xác, và dù sao đi nữa thì họ cũng không tin các quan chức địa phương cần được đánh giá trên cơ sở vừa kể. Sau khi công bố một báo cáo nửa vời vào tháng 9, 2006, Tổng Cục Thống Kê Trung Quốc đã từ chối cung cấp cho công luận những thống kê cho năm kế tiếp [2007]. Một vấn đề khác là rất nhiều công ty Trung Quốc không thấy giá trị trực tiếp của việc họ phải tăng cường nỗ lực bảo vệ môi trường. Công ty sản xuất máy tính Lenovo, và công ty sản xuất linh kiện Haier, được đánh giá cao vì đã có nhiều biện pháp sáng tạo vì môi trường, công ty năng lượng mặt trời Suntech đã trở thành một nhà xuất khẩu pin mặt trời hàng đầu. Nhưng, một cuộc thăm dò gần đây cho thấy chỉ có 18 phần trăm công ty tại Trung Quốc tin rằng họ có thể vừa gặt hái thành quả kinh tế vừa tích cực bảo vệ môi trường. Một thăm dò khác dành cho giới doanh nhân cho thấy đại đa số đều không thực sự hiểu họ sẽ được quyền lợi gì khi doanh nghiệp của họ hành xử có trách nhiệm, như tham gia bảo vệ môi trường, và họ cho rằng những đòi hỏi đó là quá nặng nề. CHƯA ĐỦ TỐT Giới hạn của những cơ quan nhà nước có trách nhiệm bảo vệ môi trường của Trung Quốc đã khiến giới lãnh đạo nước này phải tìm kiếm sự trợ giúp của những nguồn bên ngoài guồng máy hành chính. Trên 15 năm qua, các tổ chức phi chính phủ (NGO) của Trung Quốc, giới truyền thông Trung Quốc, và cộng đồng quốc tế đã trở thành những nhân tố chính trong nỗ lực cứu vãn môi trường của Trung Quốc. Nhưng, chính quyền Trung Quốc lại nghi ngờ họ. Các nhà hoạt động môi trường tự phát tại Trung Quốc và đồng minh của họ trong giới truyền thông đã trở thành lực lượng có sức mạnh nhất – có cả tiềm năng bùng nổ nữa – trong việc cải thiện môi trường tại Trung Quốc. Chỉ từ bốn hoặc 5 NGO chủ yếu tập trung vào giáo dục ý thức bảo vệ môi trường và bảo vệ sự đa dạng sinh học vào thập niên 1990, phong trào môi trường tại Trung Quốc đã lớn mạnh lên và hiện có hàng ngàn NGO, chủ yếu được những người Trung Quốc rất năng động, ở độ tuổi 30, 40 điều hành. Những nhóm này thường xuyên đưa ra ánh sáng những nhà máy gây ô nhiễm cho chính quyền trung ương nắm rõ, họ cũng giúp đưa ra tòa để đòi quyền lợi cho những dân làng bị đầu độc vì nước bẩn và khí bẩn, cung cấp chi phí khởi đầu cho các NGO nhỏ mới thành lập khắp nơi trên cả nước, và họ cũng sẵn sàng ẩn mình, ẩn danh để đưa ra ánh sáng những công ty đa quốc gia đang phớt lờ tiêu chuẩn quốc tế về môi trường. Họ thường gióng tiếng nói qua những lá thư gửi cho chính quyền, trong những chiến dịch vận động bằng internet, và qua các bài xã luận trên báo chí Trung Quốc. Giới truyền thông cũng là một đồng minh quan trọng trong cuộc chiến này: họ lên án những thủ phạm gây ô nhiễm, khui ra những vụ xâm hại môi trường, và nêu ra những điển hình thành công trong bảo vệ môi trường. Bắc Kinh đã đến mức chấp nhận cho các NGO và báo chí giữ vai trò của những người canh giữ môi trường ở cấp địa phương, nhưng lại cảnh giác không cho họ vượt qua một số giới hạn nhất định, đặc biệt là không được chỉ trích trực tiếp chính quyền trung ương. Hình phạt đối với việc hiểu sai những giới hạn này có thể rất nghiêm trọng. Ông Ngô Lập Hồng làm việc suốt 16 năm để tìm cách giải quyết vụ ô nhiễm ở Thái Hồ (nơi sản sinh thảm tảo độc lục lam), thu thập chứng cớ để buộc đóng cửa 200 nhà máy. Mặc dù vào năm 2005, Bắc Kinh vinh danh ông Ngô như một trong những nhà hoạt động môi trường đứng đầu, nhưng ông cũng đã bị bọn côn đồ địa phương đánh đập nhiều lần trong quá trình điều tra của mình, rồi vào năm 2006 chính quyền của thành phố Nghi Hưng lại bắt ông vì lý do tống tiền, một cáo buộc rất mập mờ. Còn ông Ư Hiểu Cương, người đoạt giải nhất Giải Môi Trường Goldman, một giải thưởng uy tín nhằm vinh danh những nhà hoạt động môi trường tại địa phương, ông lại bị cấm xuất ngoại để trả thù việc ông vạch trần cho dân làng thấy những khuất tất của dự án di dời liên quan đến đập nước tại Tỉnh Vân Nam. Sự cởi mở của chính quyền Trung Quốc trong việc hợp tác với cộng đồng quốc tế để bảo vệ môi trường cũng còn giới hạn. Bắc Kinh mặc dù hoan nghênh những thỏa thuận song phương về phát triển công nghệ hoặc tài trợ các dự án thử nghiệm, nhưng lại lo ngại về những hoạt động khác. Một mặt họ ca tụng những NGO quốc tế về môi trường vì đóng góp cho công cuộc bảo vệ môi trường ở Trung Quốc, nhưng mặt khác, họ lại sợ rằng một số NGO có thể quay sang cổ vũ dân chủ hóa. Chính quyền cũng đặt các công ty đa quốc gia vào một tình huống khó xử. Nhiều tập đoàn tới nay đã đáp ứng kêu gọi của chính quyền, tự lãnh vai trò chủ động trong bảo vệ môi trường bằng cách sử dụng các công nghệ thân thiện với môi trường tiên tiến nhất, tài trợ cho giáo dục về môi trường tại trường học Trung Quốc, tham gia các hoạt động cộng đồng về môi trường, và nâng cao tiêu chuẩn hoạt động trong ngành nghề của họ. Một ví dụ điển hình là Coca-Cola gần đây đã cam kết trờ thành công ty hoàn toàn không phí phạm nước và Wal-Mart sắp tới sẽ tung ra chiến dịch giáo dục và bán hàng toàn quốc để cổ động cho việc dùng bóng đèn huỳnh quang tiết kiệm điện. Cũng có một số trường hợp các công ty đa quốc gia được trao giải thưởng về môi trường và được dư luận khen ngợi. Nhưng trong hai năm qua, các quan chức chính quyền (và cả các NGO địa phương nữa) đã có thái độ cứng rắn hơn nhiều đối với các công ty đa quốc gia, nhiều lần lập luận rằng các công ty đa quốc gia đã biến Trung Quốc thành thủ đô ô nhiễm của thế giới. Với những vấn đề tương tự như phí phạm điện thì những người phê phán kia nói không sai. Nhưng những công kích của Trung Quốc, như tung bài viết lên mạng tố cáo các công ty đa quốc gia đang thực hành “chủ nghĩa thực dân môi trường”, đã trở nên thái quá. Làn sóng bài ngoại lên đến cao điểm vào năm 2006, sau việc công bố một bản đồ ô nhiễm nêu tên 3.000 nhà máy vi phạm quy chuẩn về ô nhiễm nước. Trong số này, 33 nhà máy gia công cho các công ty đa quốc gia lập tức bị giới truyền thông tập trung đả kích, trong khi cả ngàn nhà máy Trung Quốc khác trong danh sách này lại thoát nạn. Một số quan chức Trung Quốc và các nhà hoạt động môi trường khi nói chuyện riêng đều công nhận các công ty Trung Quốc gây ô nhiễm nhiều hơn hẳn các công ty nước ngoài, nhưng ra vẻ như mũi dùi sẽ vẫn tiếp tục nhắm vào các công ty đa quốc gia trong tương lai trước mắt. Vì hiện nay, quả thực là sẽ tiện lợi cho nhiều phía khi đổ hầu hết tội lỗi cho các tập đoàn nước ngoài gánh chịu. ĐỎ HÓA XANH Tại sao Trung Quốc lại không giải quyết được các vấn đề môi trường? Các quan chức hàng đầu của Trung Quốc muốn có những gì mà Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản đang có: kinh tế phát triển và môi trường nằm trong tầm kiểm soát. Nhưng họ lại không muốn trả cái giá chính trị và kinh tế để đạt được mục tiêu này. Thông điệp của Bắc Kinh với quan chức địa phương vẫn tiếp tục là không thể hy sinh phát triển kinh tế vì bảo vệ môi trường – rằng hai mục tiêu cần phải đạt được song song. Điều này, dĩ nhiên, hiếm khi thành công. Dùng năng lượng hiệu quả hơn có thể mang lại lợi nhuận kinh tế, và đầu tư vào cắt giảm ô nhiễm, như xây các trạm xử lý nước thải, là chi phí có thể được cân đối so với chi phí phải trả nếu mùa màng thất bát vì đất nhiễm bẩn và người lao động nhiễm bệnh. Nhưng điều thường thấy là để đưa ra một đường lối mới cho môi trường thì cái giá phải trả về kinh tế sẽ rất cao vào lúc khởi đầu: phát triển kinh tế sẽ chựng lại trong một số ngành tại một số vùng miền. Một số doanh nghiệp sẽ bị buộc phải đóng cửa. Phát triển công nghệ xử lý ô nhiễm và ngăn chặn ô nhiễm đòi hỏi đầu tư lớn. Trên thực tế, chính vì nhận ra những cái giá phải trả này mà chính quyền địa phương tại Trung Quốc đã tập trung theo đuổi lợi nhuận kinh tế ngắn hạn trước tiên, và hầu hết đều phớt lờ những chỉ thị từ Bắc Kinh yêu cầu họ phải thay đổi đường lối. Đây không phải là vấn đề bất thường. Mọi quốc gia đều bị giằng co khi cân nhắc giữa chi phí phải trả trước mắt để bảo vệ môi trường và cái giá lâu dài nếu môi trường bị hủy hoại. Nhưng Trung Quốc lại gặp một vấn đề lớn hơn. Thảm họa môi trường tại Trung Quốc xuất phát từ hệ thống chính trị phi dân chủ và tham nhũng cũng như xuất phát từ nhu cầu tiếp tục tăng trưởng kinh tế. Quan chức địa phương và giới kinh doanh thường xuyên không bị hề hấn gì khi bỏ qua các luật lệ và quy định về môi trường, ẵm ngân sách bảo vệ môi trường bỏ trốn, và bịt miệng những người thách thức họ. Vì vậy, cải thiện môi trường ở Trung Quốc không chỉ đơn giản là sử dụng những công nghệ kiểm soát ô nhiễm, mà còn phải cải tổ thói quen chính trị trong nước nữa. Để bảo vệ môi trường hiệu quả, cần có thông tin minh bạch, quan chức chịu trách nhiệm về việc mình làm và một hệ thống luật pháp độc lập. Nhưng những đặc tính này lại chính là những viên đá tảng của một hệ thống chính trị khác về cơ bản với hệ thống chính trị tại Trung Quốc hiện nay, và cho tới nay, có rất ít dấu hiệu cho thấy giới lãnh đạo Đảng Cộng Sản Trung Quốc chịu làm chuyện mạo hiểm cho quyền lực của Đảng chỉ để tìm ra lối thoát mới cho vấn đề môi trường. Chỉ trừ khi nào Đảng Cộng Sản Trung Quốc sẵn sàng mở cửa cho những cải cách như vừa kể, Đảng sẽ không có cách nào để đạt được mục tiêu đầy tham vọng về môi trường, để vừa lãnh đạo công cuộc tăng trưởng kinh tế, vừa giữ cho những vấn đề môi trường nằm trong tầm kiểm soát. Trước thực tế này, Mỹ – và phần còn lại của thế giới – sẽ phải khôn ngoan hơn khi hợp tác với Trung Quốc để giúp nước này bảo vệ môi trường. Trên hết, Mỹ phải đưa ra được một số các ưu tiên có giới hạn và đồng bộ. Nhu cầu của Trung Quốc rất lớn, trong khi khả năng lại giới hạn, vì vậy, đưa ra một hoặc hai sáng kiến có tầm vóc trong năm hoặc mười năm nữa sẽ có lợi hơn đưa ra một loạt những dự án không có tính đồng bộ. Cần tập trung những sáng kiến này vào các vấn đề chuyên biệt, ví dụ như thay đổi khí hậu hoặc nạn buôn bán gỗ trái phép; những thay đổi cơ cấu như củng cố hệ thống luật pháp về bảo vệ môi trường; hoặc những cải cách rộng rãi, như đẩy mạnh việc sử dụng năng lượng hiệu quả hơn trong toàn bộ nền kinh tế Trung Quốc. Một vấn đề then chốt nữa giúp nâng cao hiệu quả của sự hợp tác Mỹ-Trung, đó là vai trò của bộ phận lãnh đạo nước Mỹ. Mặc dù các NGO và các công ty đa quốc gia của Mỹ thường ở vị trí hàng đầu trong các chính sách về môi trường và về phát minh kỹ thuật bảo vệ môi trường, nhưng chính phủ Mỹ lại không là nhà lãnh đạo thế giới trong các vấn đề then chốt về môi trường. Trừ khi Mỹ cải thiện chính sách và hành động của mình, chẳng hạn trong vấn đề thay đổi khí hậu, buôn lậu gỗ, sử dụng năng lượng hiệu quả, chính phủ Mỹ sẽ có rất ít uy tín hoặc khả năng làm áp lực khiến Trung Quốc thay đổi. Về phần mình, Trung Quốc chắc chắn sẽ tiếp tục đặt ưu tiên cho việc thu hút thêm viện trợ về tài chính và kỹ thuật. Tuy nhiên, đáp ứng các đòi hỏi này rất có thể là sai lầm. Sự hợp tác giữa Mỹ và Trung Quốc, ví dụ như trong dự án mới công bố nhằm thu hồi khí methane từ 15 mỏ than Trung Quốc, đương nhiên là quan trọng. Nhưng những cải cách có tính hệ thống cần thiết để đưa Trung Quốc vào một lộ trình mới về môi trường bắt buộc Trung Quốc phải có một cải tổ lớn từ dưới lên. Một cách để bắt đầu có thể là đẩy mạnh việc sử dụng năng lượng hiệu quả hơn trong các nhà máy và các công trình kiến trúc của Trung Quốc. Chỉ một việc là đưa những nhà máy và công trình kiến trúc này lên chuẩn thế giới về sử dụng năng lượng hiệu quả hơn cũng đã mang lại những lợi ích khổng lồ. Các NGO quốc tế và của Trung Quốc, cùng với các văn phòng bảo vệ môi trường Trung Quốc và các công ty đa quốc gia có thể kiểm toán và xếp hạng các nhà máy Trung Quốc, dựa trên tiêu chuẩn là quy trình sản xuất và cơ sở vật chất của họ có đạt yêu cầu về sử dụng năng lượng hiệu quả hay không. Điểm của họ (và những yếu tố khiến họ bị chấm điểm như thế) sau đó cần được phổ biến cho công chúng qua mạng internet hoặc trên báo in, và những nhà máy, xí nghiệp nào chưa đạt chuẩn có thể được giúp đỡ phương tiện để cải thiện hoạt động. Một chương trình thí điểm tại Tỉnh Quảng Đông, được thực hiện với sự hỗ trợ của Lãnh Sự Quán Mỹ tại Hong Kong, cho thấy một quy chế hoạt động như vừa mô tả. Xí nghiệp nào đăng ký để được kiểm toán năng lượng sẽ có thể vay tiền từ các ngân hàng tham gia chương trình để trang trải chi phí cho việc cải tiến của mình, với hy vọng là họ sẽ lần hồi trả được khoản nợ nhờ những khoản tiết kiệm có được do sử dụng ít vật liệu hơn, hoặc do bảo tồn năng lượng nhiều hơn. Nên khuyến khích những chương trình như thế và củng cố chúng bằng cách yêu cầu, chẳng hạn như công ty đa quốc gia của Mỹ, có quan hệ với xí nghiệp tham gia chương trình, đưa ra phần thưởng cho xí nghiệp nào đáp ứng hoặc vượt qua chỉ tiêu, và xử phạt xí nghiệp nào không đạt (thưởng-phạt bằng cách công ty đa quốc gia thêm hoặc giảm đơn đặt hàng dành cho họ chẳng hạn). Các NGO và giới truyền thông Trung Quốc cũng có thể công bố tên của những xí nghiệp từ chối hợp tác. Những sáng kiến như vậy có ưu điểm là phù hợp với thực tế của cơ chế bảo vệ môi trường tại Trung Quốc, cung cấp vừa thưởng vừa phạt để thúc đẩy các xí nghiệp tuân thủ; củng cố vai trò của những nhân tố then chốt như các NGO, giới truyền thông, và văn phòng bảo vệ môi trường địa phương; và thu hút sự tham gia của nhân tố mới là các ngân hàng Trung Quốc. Như đã xảy ra với chương trình GreenWatch, rất có thể là những chủ xí nghiệp và quan chức địa phương chưa quen làm việc minh bạch sẽ chống đối, nhưng nếu thuyết phục được họ rằng việc tham gia tích cực sẽ khiến họ bán được nhiều hàng hơn cho các công ty đa quốc gia và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế địa phương, thì nhiều người trong số sẽ dễ chấp nhận minh bạch trước công chúng hơn. Dĩ nhiên, phần lớn gánh nặng và cơ hội cho Trung Quốc cách mạng hoá phương thức kết hợp bảo vệ môi trường với tăng trưởng kinh tế, nằm trong tay nhà cầm quyền Trung Quốc. Không bất cứ sự trợ giúp quốc tế nào có thể thay đổi được tình trạng môi trường nội địa của Trung Quốc và sự góp phần của tình trạng này vào những vấn đề môi trường toàn cầu. Thay đổi thực sự chỉ đến từ một đội ngũ lãnh đạo trung ương mạnh và việc triển khai những động cơ và điều kiện thuận lợi khiến quan chức địa phương và người dân Trung Quốc tự nguyện tham gia vào việc bảo vệ môi trường. Điều này đôi khi có nghĩa là phải đưa ra những quyết định kinh tế khó khăn. Những cải tổ về sử dụng năng lượng hiệu quả hơn, giống như chương trình được triển khai tại Quảng Đông, là những cải tổ thuộc dạng “hái quả dưới thấp”: vừa mang lại lợi ích kinh tế, vừa tốt cho môi trường. Sẽ khó khăn hơn nhiều khi phải đưa ra những cải tổ đòi hỏi phí tổn kinh tế cao hơn (chẳng hạn những cải tổ làm tăng chi phí sản xuất nhằm khuyến khích giữ gìn và tái chế, hoặc những cải tổ khiến thủ phạm gây ô nhiễm phải đóng phạt nặng hơn), những cải tổ khó được quần chúng ủng hộ hơn (như cải tổ khiến giá nước tăng cao), những cải tố có thể xói mòn quyền lực của Đảng Cộng Sản (như cải tổ khiến giới truyền thông được cởi mở hơn, và xã hội dân sự có nhiều tự do hơn). Nhưng những biện pháp này là thật sự cần thiết. Và cái giá ban đầu của chúng tuy cao vẫn cần phải được cân nhắc với cái giá lâu dài phải trả cho phát triển kinh tế, sức khỏe cộng đồng, và ổn định xã hội mà việc dậm chân tại chỗ của chính quyền Trung Quốc sẽ gây ra. Chính quyền cần bảo đảm rằng quan chức địa phương phải chịu trách nhiệm cho việc mình làm bằng cách đẩy mạnh công tác giám sát tại hạ tầng cơ sở, tính minh bạch rộng lớn hơn thông qua giới truyền thông và các kênh thông tin khác, và một hệ thống pháp luật độc lập. Lãnh đạo Trung Quốc trong quá khứ đã cho thấy khả năng tiến hành các cuộc cải cách táo bạo của mình. Hai thập niên rưỡi trước đây, Đặng Tiểu Bình và cộng sự đã tung ra một loạt các cải cách đầy tham vọng, bất chấp sự chống đối chính trị rất căng thẳng, và mở đường cho phép lạ kinh tế đang diễn ra lâu nay. Để tiếp tục đi tới trên con đường phi thường này, Trung Quốc cần những nhà lãnh đạo có tầm nhìn để đưa ra một loạt những sáng kiến kinh tế và chính trị nhằm thay đổi cung cánh làm ăn của nước mình. Không có những biện pháp ấy, Trung Quốc sẽ không thể dành được vị trí siêu cường toàn cầu trong thế kỷ 21. Thay vào đó, Trung Quốc sẽ phải chịu trì trệ và tụt hậu – tất cả chỉ vì các nhà lãnh đạo tuy thấy được thử thách trước mắt nhưng lại không muốn làm những gì cần thiết để vượt qua. Elizabeth C. Economy Người dịch: Từ Khiêm Ghi chú 1: Câu chuyện gốc do thông tấn xã Associated Press loan, nguồn của tuyên bố này, có sai sót và đã được đính chính. Thực ra, cơ quan EPA – trích lời một nghiên cứu trong đó cho thấy khoảng 30 phần trăm các hạt bụi lưu huỳnh ở miền tây Mỹ đến từ Châu Á – ước lượng rằng khoảng một phần trăm tổng số bụi độc hại ở Los Angeles đến từ Châu Á. Các thao tác trên Tài liệu In trang này Các số đặc biệt Giai Phẩm Xuân Giáp Ngọ Giai Phẩm Xuân Ất Mùi Vĩnh Sính 1944 - 2014 Với thời-gian, Hoàng-Cầm Phong Hoá - Ngày Nay Giai Phẩm Xuân Quý Tỵ Đại tướng Võ Nguyên Giáp Start Stop Không nên bỏ qua Văn hóa - Nghệ thuật Sách, văn hóa phẩm Tranh ảnh Nối kết chọn lọc Danh sách một số trang mạng đáng chú ý Ủng hộ chúng tôi - Support Us Kênh RSS Để bạn đọc tiện theo dõi các tin mới, Diễn Đàn Forum cung cấp danh mục tin RSS : www.diendan.org/DDF-cac-bai-moi/rss Trang này được phát hành theo Giấy phép Creative Commons BY-NC-ND 3.0 France. Copyright © 2006 by Dien Dan Forum, BP 50, 92340 Bourg-La-Reine, France. | diendanonline@gmail.com Sơ đồ Hệ thống Liên hệ Thể lệ gửi bài Contributeurs
1614178347293.1.parquet/54014
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 50487, "url": "https://www.diendan.org/the-gioi/buoc-lui-vi-dai" }
136.9
Nga, Thổ Nhĩ Kỳ hoàn tất việc bình thường hóa quan hệ | Dân trí Chủ nhật 12/03/2017 - 06:40 Chủ nhật 12/03/2017 - 06:40 In bài này (Ctrl+P) Nga, Thổ Nhĩ Kỳ hoàn tất việc bình thường hóa quan hệ Nga và Thổ Nhĩ Kỳ được xem là đã hoàn tất tiến trình bình thường hóa quan hệ sau cuộc hội đàm giữa Tổng thống Nga Vladimir Putin và người đồng cấp Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan tại thủ đô Mátxcơva, ngày 10-3... Tổng thống Nga V.Putin và người đồng cấp Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan tại Điện Kremlin ngày 10-3. Ảnh: France 24 Đây là cuộc gặp thứ tư giữa hai nhà lãnh đạo trong vòng một năm qua, diễn ra trong bối cảnh hai nước nỗ lực thúc đẩy cải thiện quan hệ song phương sau một thời gian dài căng thẳng do vụ Thổ Nhĩ Kỳ bắn rơi máy bay Su-24 của Nga đang thực hiện nhiệm vụ ở biên giới Syria hồi tháng 11-2015. Theo Reuters, tại cuộc hội đàm, ông chủ Điện Kremlin đánh giá cao mối quan hệ gần gũi giữa quân đội Nga và Thổ Nhĩ Kỳ. "Chúng ta đã tích cực hợp tác để giải quyết những cuộc khủng hoảng sâu sắc nhất, mà trước hết là ở Syria. Tôi rất hài lòng khi ghi nhận rằng quân đội của chúng ta và các đơn vị đặc nhiệm khác đã thiết lập mối liên hệ gần gũi và hiệu quả", Tổng thống Putin nêu rõ. Lãnh đạo hai nước nhấn mạnh rằng, nhờ có những hành động phối hợp giữa Nga, Thổ Nhĩ Kỳ và Iran, lệnh ngừng bắn tại Syria nhìn chung được tuân thủ. Mátxcơva và Ankara nhất trí tiếp tục tích cực phối hợp hành động trong cuộc chiến chống khủng bố, trước hết là Nhà nước Hồi giáo (IS) tự xưng, kể cả tăng cường hợp tác giữa các cơ quan đặc nhiệm hai nước. Phát biểu tại cuộc họp báo chung sau hội đàm, theo kênh truyền hình France 24, Tổng thống Erdogan nhấn mạnh cuộc hội đàm lần này "có ý nghĩa rất to lớn trong kế hoạch đẩy mạnh hợp tác song phương". Theo ông TErdogan, mối quan hệ Nga và Thổ Nhĩ Kỳ đã có bước chuyển biến rõ rệt, mặc dù vẫn chưa đạt tới mức độ chắc chắn nhưng hai nước “đã hoàn tất tiến trình bình thường hóa quan hệ” và “quyết tâm làm mối quan hệ này ngày càng tốt đẹp hơn”. Đáp lại, Tổng thống Putin nói rằng, Nga và Thổ Nhĩ Kỳ “đã trở thành những đối tác thật sự trên nhiều lĩnh vực”. Theo Sputnik, Tổng thống Putin nhấn mạnh rằng, trong thời gian gần đây, hai bên đã tái khởi động được nhiều cơ chế quan hệ song phương then chốt, trong đó có nhóm lập kế hoạch chiến lược chung, Ủy ban Hợp tác kinh tế liên chính phủ và diễn đàn xã hội, cũng như khôi phục các cuộc tiếp xúc theo các kênh cấp bộ và nghị sĩ, chính quyền các khu vực. Ông Putin cho rằng, thành công lớn nhất trong lĩnh vực hợp tác kinh tế trong thời gian gần đây là hai bên tái khởi động dự án xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Akkuyu đầu tiên của Thổ Nhĩ Kỳ và Tập đoàn khí đốt Nga Gazprom lên kế hoạch xây dựng đường ống dẫn khí đốt trong dự án Dòng chảy Thổ Nhĩ Kỳ”. "Có thể tự tin xác nhận rằng, mối quan hệ của chúng ta đã quay lại con đường hợp tác đối tác thực sự trong nhiều lĩnh vực. Nga coi Thổ Nhĩ Kỳ là một đối tác quan trọng nhất, mong muốn duy trì đối thoại chính trị mạnh mẽ ở cấp cao nhất", Tổng thống Putin khẳng định. Nhà lãnh đạo Nga cho rằng, hai nước có tiềm năng đáng kể cho “sự phát triển bền vững của mối quan hệ thân thiện”. “Chúng ta không chỉ có thể bắt kịp mà còn đạt được một mức độ mới về chất của sự hợp tác, ít nhất là phía Nga hướng tới và sẵn sàng cho điều đó”, Sputnik dẫn lời Tổng thống Putin. Theo nhà lãnh đạo Nga, hai bên đã thông qua các mục tiêu và nhiệm vụ công tác chung, thảo luận các phương diện chiến lược trong phát triển quan hệ song phương, phối hợp trên trường quốc tế cũng như giải quyết các vấn đề khu vực và quốc tế. Nhân dịp này, hai bên đã ký kết một loạt văn kiện hợp tác gồm chương trình hợp tác trung hạn trong lĩnh vực kinh tế-thương mại, khoa học-kỹ thuật và văn hóa giữa Chính phủ Nga và Thổ Nhĩ Kỳ giai đoạn 2017-2020; biên bản ghi nhớ trong lĩnh vực đào tạo cán bộ ngoại giao và trao đổi các văn kiện thông tin; tuyên bố về kế hoạch hợp tác giữa Bộ Văn hóa Nga và Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhĩ Kỳ về tổ chức Năm văn hóa và du lịch... Ngoài ra, hai bên còn ký kết biên bản hợp tác giữa Viện Công tố Nga và Bộ Tư pháp Thổ Nhĩ Kỳ. Theo Hoàng Vũ Quân đội nhân dân Link nội dung: https://dantri.com.vn/the-gioi/nga-tho-nhi-ky-hoan-tat-viec-binh-thuong-hoa-quan-he-20170312064624834.htm
1614178347293.1.parquet/105811
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 3657, "url": "http://cdnweb.dantri.com.vn/print-20170312064624834.htm" }
136.8
Cong ty seo | Công ty SEO cũng sẽ xem xét doanh nghiệp và ngành lĩnh Các dịch vụ: * Công ty SEO chuyên nghiệp: 0917 212 969 - 0908 744 256 (Mr Thanh) Đánh giá & Phân tích trang web Nhiều công ty SEO sẽ bắt đầu bằng cách đánh giá trang web hiện tại của bạn và yếu tố SEO của nó. Điều này bao gồm việc xem cả cấu trúc trang web và nội dung của nó để đánh giá các yếu tố như mã nguồn của trang web và mật độ từ khoá. Đây là cách tốt nhất để xác định điểm mạnh và điểm yếu hiện tại của bạn trước khi phát triển và triển khai chiến lược SEO mới. Ngoài việc phân tích trang web của bạn, công ty SEO cũng sẽ xem xét doanh nghiệp và ngành lĩnh vực của bạn. Họ sẽ tìm hiểu đối tượng mục tiêu và mục tiêu kinh doanh tổng thể của bạn trước khi tạo một kế hoạch SEO. Bằng cách tìm hiểu doanh nghiệp và đối tượng của bạn, công ty SEO có thể quyết định chiến thuật nào sẽ sử dụng để cải thiện SEO cho trang web của bạn. Phát triển Chiến lược & Mục tiêu SEO Một khi công ty SEO đã hoàn thành một phân tích sâu về trang web hiện tại của bạn và đánh giá ngành của bạn và thị trường mục tiêu, họ có thể làm việc để giúp bạn lập kế hoạch SEO cho tương lai. Phát triển chiến lược và mục tiêu cho chiến dịch SEO của bạn sẽ tùy thuộc vào loại hình kinh doanh bạn có và những mục tiêu kinh doanh tổng thể của bạn là ty SEO có kinh nghiệm nhất sẽ lấy những gì họ học được từ kiểm soát trang web và phân tích ngành của bạn, sau đó làm việc để phát triển một kế hoạch tùy chỉnh cho trang web của bạn. Một phần của chiến lược này sẽ bao gồm xác định các từ khóa và cụm từ phù hợp mà đối tượng mục tiêu của bạn sử dụng nhiều nhất. Kế hoạch này cũng bao gồm các chiến lược và chiến thuật khác nhau có thể giúp bạn xếp hạng cao hơn so với đối thủ cạnh tranh trên các công cụ tìm kiếm. CONG TY SEO Thiết lập công cụ SEO Có một số công cụ và hệ thống khác nhau tham gia vào việc thực hiện một chiến lược SEO tùy biến. Trước khi bạn bắt đầu thực hiện chiến dịch của mình, công ty SEO của bạn sẽ xác định những công cụ, bảng điều khiển và các hệ thống khác như các chương trình phân tích mà bạn sẽ cần thực hiện và theo dõi các chiến dịch SEO thành công. Các công cụ phổ biến được Google hỗ trợ đó là Google Analytics, Google search console… Có các công cụ này được cài đặt trước khi bạn bắt đầu thực hiện các thay đổi cho trang web của mình sẽ giúp đảm bảo rằng doanh nghiệp của bạn có thể hình dung từng bước của chiến dịch. Một công ty SEO có kinh nghiệm sẽ có thể đề xuất các công cụ phù hợp cho chiến lược SEO của bạn và sử dụng chúng một cách hiệu quả để đảm bảo rằng bạn đang tận dụng tối đa các chiến dịch SEO của bạn. Thực hiện Tối ưu hóa Một khi các công cụ SEO và các nền tảng được đưa ra, công ty SEO sau đó có thể bắt đầu thực hiện chiến lược tối ưu hóa tùy chỉnh. Dịch vụ SEO này thường bắt đầu bằng việc tối ưu hóa trang. Ví dụ như làm sạch một số mã không cần thiết của trang web và đảm bảo rằng trang web của bạn thân thiện với thiết bị di động và dễ điều hướng. Điều này cũng bao gồm việc biên soạn một danh sách từ khóa mục tiêu để bạn sử dụng khi tạo nội dung cho trang web. Giai đoạn tối ưu hóa công cụ tìm kiếm cũng bao gồm các chiến lược SEO off-page. Bạn có thể không có quyền kiểm soát trực tiếp các yếu tố ngoài trang như tăng lượng truy cập hoặc xây dựng liên kết. Tuy nhiên, công ty SEO của bạn sẽ cung cấp một số gợi ý về cách để cải thiện các chiến thuật SEO Off-page thậm chí có thể cung cấp một kế hoạch chi tiết về cách bạn có thể bắt đầu để cải thiện vị thế trang web của bạn. Cong ty seo Nếu như những kẻ lớn mạnh, tài chính ổn định như Vinamilk, Tân Hiệp Phát, TH True Milk hay Cocacola, Pepsi,…dùng tiền để đẩy quảng cáo truyền hình, truyền thông và quảng bá hình ảnh doanh nghiệp, thương hiệu và sản phẩm của mình đến người tiêu dùng một cách rộng rãi, nhanh chóng, thì các doanh nghiệp vừa, nhỏ và mới thành lập dùng “content marketing” mà đó là dịch vụ viết bài SEO HCM để tiếp cận khách hàng và đạt được những kế hoạch doanh số một cách hiệu quả nhất với khoản chi phí “cực kỳ nhỏ” Tiếp tục Tối ưu hóa Công cụ Tìm kiếm Tối ưu hóa công cụ tìm kiếm là một quá trình liên tục. Google luôn đánh giá lại thuật toán của họ để làm cho công cụ tìm kiếm luôn hữu ích cho người dùng. Với mọi cập nhật của Google, các doanh nghiệp phải đánh giá lại chiến lược SEO của họ và thực hiện cả những thay đổi nhỏ -> lớn trên trang web để duy trì tuân thủ và duy trì xếp hạng SEO. Một công ty SEO có thể cung cấp các dịch vụ SEO liên tục để giúp đảm bảo rằng trang web của bạn vẫn hiển thị trên các công cụ tìm kiếm. Các dịch vụ tối ưu hóa công cụ tìm kiếm hiện có có thể bao gồm các nghiên cứu từ khóa khác, dịch vụ viết blog, các chiến dịch xây dựng liên kết và các chiến thuật tối ưu hóa khác trên trang. Các công ty SEO có kinh nghiệm nhất vẫn cập nhật được những thay đổi mới nhất trong tối ưu hóa công cụ tìm kiếm, cho phép họ cập nhật chiến lược của bạn để đảm bảo thành công lâu dài cho trang web của công ty bạn. Tìm hiểu về bên trong một công ty SEO Không phải tất cả các chuyên gia về SEO đều có những suy nghĩ công bằng đúng đắn. Một số thực hiện tốt nhất và làm việc chăm chỉ để giúp trang web của bạn xếp hạng cao trên các công cụ tìm kiếm, một số khác có thể thực hiện dễ dàng hơn bằng việc sử dụng các thủ thuật qua mặt, cuối cùng sẽ gây tổn hại cho độ uy tín trang web của bạn và thậm chí có thể dẫn đến hình phạt. Nếu bạn đang nghĩ đến việc thuê một công ty SEO có cung cấp dịch vụ tối ưu hóa công cụ tìm kiếm cho doanh nghiệp của bạn, có một vài điều dưới đây bạn có thể muốn xem xét. Đây là những điều bạn nên tìm kiếm trong một công ty SEO: Thành công Trong quá khứ – Nếu bạn muốn tìm hiểu về thành công và kinh nghiệm của một công ty SEO, bạn có thể bắt đầu bằng cách nhìn vào những gì họ đã làm được trong quá khứ. Hãy xem các nghiên cứu trường hợp của công ty và các lời chứng thực để xem họ đã giúp đỡ các doanh trong quá khứ như thế nào. Họ đã giúp các công ty xếp hạng trên trang đầu tiên của Google Tính tùy chỉnh dịch vụ – Một điều quan trọng để tìm hiểu khi làm việc với một công ty SEO là có hay không họ cung cấp các chiến lược được lên riêng cho các mục tiêu duy nhất của doanh nghiệp của bạn. Khi nói đến chiến lược SEO, không có chuyện hai doanh nghiệp giống nhau. Bạn cần đảm bảo rằng bạn đang làm việc với một công ty đã dành thời gian để tìm hiểu lĩnh vực của bạn, hiểu được khách hàng mục tiêu và hiểu được mục tiêu kinh doanh cũng như ngân sách của bạn. Họ thực hiện tất cả – Một điều bạn cần tìm là công ty đó thực hiện tất cả các dịch vụ SEO mà họ đưa ra. Một số đơn vị SEO sẽ thuê các công ty SEO của bên thứ ba nhằm nỗ lực tiết kiệm tiền. Tuy nhiên, bạn không bao giờ biết họ là ai để làm việc trên trang web của bạn và mức độ kinh nghiệm của họ là gì nếu họ không làm việc trong công ty mà bạn đã thuê. Gắn bó với một đơn vị SEO có khả năng thực hiện tất cả các công việc, để bạn biết ai đang làm việc trên trang web của bạn và xử lý các công việc hàng ngày. Đây chỉ là một vài trong số các yếu tố mà bạn sẽ muốn xem xét khi lựa chọn một công ty SEO để làm việc. Một số điều khác mà bạn nên cân nhắc là họ đã hoạt động trong bao lâu và loại dịch vụ nào mà họ cung cấp. Nếu công ty không cung cấp dịch vụ SEO toàn diện thì bạn có thể tiếp tục tìm cho đến khi bạn tìm thấy một công ty đáp ứng tốt hơn nhu cầu của bạn. Thị trường quảng cáo website hiện nay phát triển với 1 tốc độ cực nhanh, vô cùng đa dạng và kèm theo đó là sự cạnh tranh khốc liệt giữ các công ty dịch vụ SEO tại TPHCM nói riêng và cả nước nói chung. Với hiện trạng hàng trăm công ty SEO như vậy, việc khách hàng lựa chọn được đơn vị làm SEO uy tín, phù hợp với nhu cầu đơn vị quả là khó khăn. Trong bài viết này, top10tphcm sẽ đề xuất 10 công ty SEO uy tín và hiệu quả nhất Việt Nam. Mỗi công ty có 1 thế mạnh riêng, bạn nên tham khảo hết các công ty để có thể chọn ra đơn vị phù hợp nhất nhé! Nhu cầu cho việc tối ưu hóa website để lên top Google ngày một lớn kéo theo hàng loạt các công ty dịch vụ SEO được thành lập. Lớn có bé có, uy tín có nhưng thất tín cũng đầy. Vậy thì làm thế nào để lựa chọn một dịch vụ SEO tốt nhất trong muôn vàn công ty làm SEO ngoài kia? Trong vô số các công ty có dịch vụ SEO ngoài kia, Lucidplot đã tiến hành chọn lọc cũng như tham khảo để đưa ra top 6 công ty SEO uy tín hàng đầu tại TP HCM: Công ty SEO trọn gói Mona Media Dịch vụ SEO của công ty Mona Media giúp cho website của bạn lên top Google một cách nhanh chóng, từ đó tiếp cận dễ dàng với nhóm các khách hàng tiềm năng. Dịch vụ SEO ở Mona Media được thành lập từ đầu năm 2010, với hơn 150 dự án đã hoàn thành và đạt hơn 70 từ khóa khó lên top 1 Google, Mona Media chắc chắn là một lựa chọn tuyệt vời. Vốn xuất phát điểm là một công ty thiết kế website nên Mona Media có thể giúp bạn tối ưu VIET SEO Được viết đúng cấu trúc SEO, Để đáp ứng việc cần phải có một cấu trúc đúng, ngoài việc phân bổ từ khóa hợp lý trong suốt chiều dài bài viết thì sử dụng Heading đúng cách Dịch vụ cho thuê lao động giá rẻ Cung cấp lao động thời vụ giúp các doanh nghiệp dễ dàng thay, Đội ngũ có gần 5 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực cho thuê lại lao động tại nhiều vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam KCN VSIP I, II, Đồng An, Mỹ Phước, … Giay boi cung Hãy tìm bề mặt mà bạn muốn dán giấy bồi, ví dụ như giấy, Giấy bồi thực chất là một thuật ngữ ám chỉ đến các loại giấy bìa cứng, giấy carton. Thông thường, các loại giấy bồi thường có độ nặng, nhẹ khác © 2007 - 2021 CONG TY SEO - Phone: +84-908-744-256
1614178347293.1.parquet/133614
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 8140, "url": "https://chayseogiare.dichvuseobinhduong.net/tags/cong-ty-seo/" }
136.8
talawas | Milovan Djilas - Giai cấp mới trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas Văn học Thơ và Thơ Trẻ Văn học Việt Nam Văn học nước ngoài Các giải thưởng văn học Giải thưởng Bùi Giáng Lý luận phê bình văn học Điểm nóng Chính trị Việt Nam Chính trị thế giới Đại hội X và cải cách chính trị tại Việt Nam Xã hội Giáo dục Kinh tế Đồng tính luyến ái trong xã hội hiện đại Thế hệ @ Pháp luật Đời sống hiện đại Thể thao talaFemina Tủ sách talawas 1 - 20 / 201 bài 31.10.2008 Nguyễn Mộng Giác Bão rớt 27.10.2008 Nhã Ca Đêm dậy thì 16.10.2008 Mai Thảo Gần mười bảy tuổi 11.10.2008 Trùng Dương Lập đông 7.10.2008 Nguyễn Thị Hoàng Bóng lá hồn hoa 1.10.2008 Nguyễn Thị Hoàng Cho những mùa xuân phai 24.9.2008 Duy Lam Cái lưới 17.9.2008 Chân dung Nguyễn Du 1.9.2008 Aleksandr I. Solzhenitsyn Tầng đầu địa ngục 5.8.2008 Aleksandr I. Solzhenitsyn Quần đảo ngục tù 16.7.2008 Tam Ích Ý văn 1 14.7.2008 Tạ Ký Sầu ở lại 11.7.2008 Hồ Hữu Tường Trầm tư của một tên tội tử hình 8.7.2008 Hồ Hữu Tường Kể chuyện 4.7.2008 Trần Tử Alexandre Soljenitsyne: Tác phẩm – Con người và Cuộc đời 30.6.2008 Aleksandr I. Solzhenitsyn Bất ngờ tại nhà ga Krechetovka 24.6.2008 Dương Nghiễm Mậu Tuổi nước độc 21.6.2008 Nguyễn Đức Sơn Cái chuồng khỉ 18.6.2008 Vũ Khắc Khoan Mơ Hương Cảng 9.6.2008 Tạp chí Văn Hoài niệm Nhất Linh 1 - 20 / 201 bài tìm (dùng Unicode hoặc không dấu) tác giả: A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z Tủ sách talawas bản để in Gửi bài này cho bạn bè 6.10.2005 Milovan Djilas Giai cấp mới 10 kì Phạm Minh Ngọc dịch 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 5. Mâu thuẫn này cùng với việc người cộng sản luôn luôn coi nhà nước là và chỉ là cơ quan chuyên chính đã dẫn đến kết quả là nhà nước cộng sản không thể trở thành nhà nước pháp quyền, nghĩa là nhà nước với toà án không phụ thuộc vào chính quyền còn pháp luật thì được tôn trọng trên thực tế. Hệ thống không chấp nhận một nhà nước như thế. Ngay cả khi các lãnh tụ cộng sản muốn xây dựng một nhà nước pháp quyền thì họ cũng không thực hiện được vì nó sẽ là mối đe doạ cho chế độ toàn trị của họ. Sự độc lập của toà án và tuân thủ pháp luật nhất định sẽ dẫn tới đối lập. Không có điều luật nào của cộng sản cấm, thí dụ, tự do tư tưởng hay tự do lập hội. Trên cơ sở các nguyên tắc độc lập của toà án, luật pháp phải đảm bảo các các quyền tự do công dân khác nữa. Nhưng trên thực tế những điều đó chưa bao giờ được thực hiện. Công nhận về mặt hình thức các quyền tự do công dân, chế độ cộng sản lại đặt ra điều kiện tiên quyết: chỉ được sử dụng các quyền ấy vì mục đích của “chủ nghĩa xã hội” mà các lãnh tụ cổ xuý nghĩa là ủng hộ cho quyền lực của họ. Tương tự như vậy, không thể nào tách quyền lực của cảnh sát khỏi quyền lực của tư pháp. Người ra lệnh bắt giam, khởi tố trên thực tế cũng là người nắm quyền kết án và thi hành án. Một vòng tròn khép kín: chính quyền hành pháp và lập pháp chỉ là một, các cơ quan điều tra, xét xử và trừng phạt cũng là một nốt. Thế thì tại sao chuyên chính cộng sản lại cần pháp luật, tại sao họ lại che đậy bằng sự tuân thủ pháp luật? Ngoài lí do chính trị, lí do tuyên truyền, nếu chế độ muốn tồn tại nó phải đảm bảo tính pháp lí cho những kẻ mà nó dựa vào, nghĩa là tính pháp lí cho giai cấp mới. Luật pháp được soạn thảo do nhu cầu và quyền lợi của đảng, của giai cấp mới. Về mặt hình thức pháp luật bảo vệ quyền lợi của tất cả công dân nhưng trên thực tế nó chỉ bảo vệ quyền lợi của những người không bị coi là “kẻ thù của chủ nghĩa xã hội”. Vì vậy những người cộng sản luôn bị đau đầu vì trò chơi luật pháp do chính họ viết ra nhưng rồi lại bị họ phủ nhận ngay khi cần. Sau một thời gian, khi đã nhận ra nguyên nhân “đau khổ” của mình, để đơn giản hoá trò chơi pháp luật họ thường sáng tác ra những luật lệ “vá víu” có thể giải thích thế nào cũng được. Thí dụ ở Nam Tư luật ghi rằng không thể kết án một người nếu hành vi của người đó không được xác định rõ ràng theo các khung pháp lí. Nhưng đa số các vụ án chính trị lại được thực hiện theo cách gọi là “tuyên truyền xuyên tạc”. Người ta không dựa vào luật để giải thích khái niệm này, nó được trao cho các quan toà với lực lượng cảnh sát mật đứng đằng sau. Như vậy là các vụ án chính trị trong chế độ cộng sản chỉ là những cuộc trình diễn, nghĩa là toà án được giao nhiệm vụ chứng minh “tội lỗi” của bị cáo phù hợp với yêu cầu của những kẻ đương quyền. Nói các khác, toà án có trách nhiệm đưa những kết luận chính trị đã được chuẩn bị trước vào trong khung pháp luật hiện hành. Trong cách xử này việc thú nhận của bị cáo đóng một vai trò quan trọng (có thể là quan trọng nhất). Bị cáo phải tự nhận là kẻ thù. Không cần chứng cớ gì hết, chứng cớ được thay bằng lời thú tội của chính bị cáo. Cái gọi là “Những vụ án Moskva” chỉ là những thí dụ lố bịch và đẫm máu nhất của trò hề về pháp luật trong chế độ cộng sản mà thôi. Các vụ việc cụ thể cũng như mức án chỉ đóng vai trò thứ yếu. Các vụ án chính trị được bày đặt như thế nào? Đầu tiên cảnh sát mật, theo “gợi ý” của cán bộ đảng, “phát hiện” được một người nào đó là kẻ thù của chế độ, là cái gai của chính quyền vì anh ta công khai bảo vệ một quan điểm nào đó hoặc anh thảo luận quan điểm đó với bạn bè của mình. Nếu việc “phát hiện” thành công thì sẽ đến giai đoạn hai, giai đoạn đưa nạn nhân vào bẫy. Người ta sẽ sử dụng một kẻ khiêu khích để thu thập những “bằng chứng có tính chất phá hoại” hoặc doạ dẫm một kẻ nào đó và bắt phải kí những tài liệu vu khống mà cảnh sát đưa cho. Đa số các tổ chức bí mật là do chính cảnh sát lập ra để bẫy các phần tử bất đồng ý kiến. Chế độ cộng sản không tìm cách ngăn chặn mà ngược lại còn cố tình đẩy các công dân “không đáng” tin đến những hành động sai trái và tội lỗi khác nhau để trừng phạt họ. Stalin đã làm như vậy, có cả tra tấn và không cần toà án. Ngay cả trong trường hợp có toà án và không tra tấn thì thực chất cũng vẫn thế: cộng sản thanh toán những người chống đối mình không phải vì họ vi phạm pháp luật mà chỉ vì họ là những phần tử chống đối. Vì vậy có thể nói rằng: đa số tù nhân chính trị thực chất là những người chống đối chế độ, nhưng theo quan điểm của luật pháp thì họ không phải là tội phạm. Nhưng người cộng sản lại cho rằng họ đáng bị trừng phạt dù không có cơ sở pháp lí để làm chuyện đó. Khi có các cuộc nổi dậy của quần chúng, chính quyền cộng sản đã thẳng tay đàn áp mà không cần để ý đến tính hợp hiến và hợp pháp của những hành động đó. Lịch sử hiện đại chưa từng biết đến những vụ đàn áp dã man đến như thế. Vụ đàn áp ở Poznan gây nhiều tai tiếng nhưng chưa phải là vụ đẫm máu nhất. Quân đội chiếm đóng cũng như chính quyền thuộc địa dù là người ngoài, dù hành động theo những biện pháp khẩn cấp cũng ít khi sử dụng những biện pháp dã man như thế. Những nhà cầm quyền cộng sản đã chà đạp pháp luật và tiến hành khủng bố ngay chính nhân dân mình. Trong chế độ cộng sản, các lí thuyết về luật pháp bị bóp méo cho phù hợp với hoàn cảnh và nhu cầu của nhóm chóp bu đương quyền. Ngay trong những vấn đề không liên quan gì đến chính trị, luật pháp cũng thường bị vi phạm. Giai cấp toàn trị vẫn hàng ngày hàng giờ can thiệp cả vào những lĩnh vực này. Bài báo ngắn trên tờ Chính sách được trích dẫn dưới đây đủ nói lên vai trò và vị trí của toà án ở Nam Tư, nơi luật pháp nói chung được tôn trọng hơn so với các nước cộng sản khác. “Trong cuộc hội thảo kéo dài hai ngày dưới sự chủ trì của công tố viên liên bang, đồng chí Brana Evremovich, khi thảo luận các vấn đề liên quan đến tội phạm kinh tế, các công tố viên các nước cộng hoà và hai tỉnh Voevodin và Belgrad đều nhất trí cho rằng muốn ngăn chặn hữu hiệu các tội phạm kinh tế cần phải kiên quyết và sự phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan kinh tế và tất cả các tổ chức chính trị… Mọi người đều nhất trí rằng cho đến nay xã hội chưa phản ứng đúng mức đối với các loại tội phạm kinh tế… Các công tố viên đều cho rằng xã hội cần phản ứng một cách hữu hiệu hơn nữa. Họ cho rằng cần phải xử lí nghiêm khắc về mặt pháp luật, bên cạnh những biện pháp hành chính khác…. Các sự kiện được dẫn ra trong các báo cáo đã chứng minh một cách thuyết phục rằng những lực lượng bị thất bại trên trường chính trị đang cố gắng báo thù trong lĩnh vực kinh tế. Như vậy vấn đề tội phạm kinh tế trong giai đoạn hiện nay không chỉ là vấn đề pháp lí mà còn là vấn đề chinh trị, đòi hỏi sự phối hợp của công tố với các cơ quan chính quyền và tổ chức xã hội… Tổng kết buổi thảo luận, công tố liên bang, đồng chí Brana Evremovich, nhắc lại rằng cần phải tuân thủ pháp luật cũng như sự nghiêm khắc mà các đồng chí lãnh đạo cấp cao đã phê phán những cá nhân phạm các tội về kinh tế» (Chính sách, ngày 23 tháng 2 năm 1955) Như vậy là các công tố đã quyết định đường lối xử án và cách thực thi án phát cho các quan toà trên cơ sở tâm trạng của “lãnh đạo cấp cao”. Sự độc lập của toà án và tinh thần thượng tôn pháp luật ở đâu? Trong chế độ cộng sản, lí thuyết về pháp luật được cải biến theo hoàn cảnh và nhu cầu của nhóm chóp bu nắm quyền. Hình phạt theo nguyên lí của Vưshinski phải được quyết định trên “nguyên tắc đích xác”, nghĩa là không được để cho các tính toán chính trị làm ảnh hưởng đến quyết định của toà. Nhưng cho dù người ta có áp dụng các nguyên lí nhân bản và khoa học hơn thì thực chất vẫn không thay đổi nếu quan hệ giữa chính quyền, toà án và luật pháp vẫn giữa nguyên như trước. 6. Trật tư pháp luật cộng sản không thể tránh khỏi bệnh hình thức, vai trò của các tổ chức đảng và cảnh sát trong thủ tục tố tụng cũng rõ ràng như trong hệ thống bầu cử và các lĩnh vực khác. Thế vẫn chưa hết. Càng lên cao thì sự thượng tôn pháp luật càng có tính cách trang trí và ảnh hưởng của chính quyền đối với toà án và các cuộc bầu bán càng tăng. Mọi người đều biết sự trống rỗng và phô trương của các cuộc bầu cử dưới chế độ cộng sản, nói theo Clement Rechard thì là: “cuộc đua một ngựa”. Tôi nghĩ rằng cũng cần thảo luận về việc tại sao những người cộng sản lại cần những cuộc bầu bán không hề có ý nghĩa gì đối với việc phân bố lực lượng cũng như tại sao họ lại cần cái quốc hội khá tốn kém mà chẳng được tích sự gì. Ngoài lí do tuyên truyền, lí do đối ngoại và những lí do khác tương tự, có một việc mà không chính quyền nào, kể cả chính quyền cộng sản có thể bỏ qua, đấy là mọi sự đều phải được hợp pháp hoá. Trong điều kiện hiện nay thì hợp pháp hoá là thông qua các đại diện dân cử. Nhân dân có trách nhiệm ủng hộ mọi quyết định của những người cộng sản, dù chỉ là hình thức. Bên cạnh đó còn một nguyên nhân sâu xa nữa giải thích lí do vì sao các lãnh tụ cộng sản lại phải “nuôi” quốc hội: các chính sách của chính phủ-giới chóp bu của giai cấp mới phải được giới chức đảng ủng hộ. Không cần quan tâm tới dư luận xã hội, nhưng tất cả các chính phủ cộng sản đếu phải quan tâm tới dư luận trong đảng, dư luận trong các đảng viên cộng sản. Đấy là lí do vì sao bầu cử chẳng có ý nghĩa gì nhưng việc chọn người lại được các cấp lãnh đạo thực hiện một cách vô cùng thận trọng. Hàng loạt khía cạnh được cân nhắc: đóng góp, vai trò và chức năng trong xã hội, nghề nghiệp, vv... Đối với lãnh đạo thì các cuộc bầu cử có ý nghĩa rất lớn vì họ có thể xếp bên cạnh mình những lực lượng mà họ coi là có giá trị, cũng có nghĩa là tạo cho chính mình tính hợp pháp trước đảng, trước giai cấp và nhân dân. Những thử nghiệm nhằm đưa hai ba ứng viên cho một ghế đại biểu trong các cuộc bầu cử quốc hội đều thất bại. Nam Tư đã tiến hành các cuộc bầu cử như vậy nhưng sau đó đã bị lãnh đạo gán cho nhãn “chia rẽ”. Có những tin tức nói rằng tại các nước Đông Âu cũng đang tiến hành việc có nhiều ứng viên cho một ghế đại biểu. Giả sử chuyện đó có xảy ra thì tôi cho rằng khả năng thành công là rất thấp, mặc dù đây là một bước tiến hay có thể nói là sự khởi đầu của quá trình dân chủ hoá. Tôi nghĩ rằng Đông Âu rồi cũng đi theo mô hình “tự quản” của Nam Tư chứ chưa thể dẫn đến quá trình dân chủ hoá hoặc phân hoá trong hàng ngũ đảng cầm quyền được. Hạt nhân chuyên chế nhận thức được rằng nó sẽ gặp nhiều rắc rối nếu không giữ vững sự thống nhất truyền thống và vì vậy vẫn nắm giữ chặt quyền điều khiển. Mọi sự tự do, kể cả tự do trong đảng, đe doạ không chỉ quyền lực của các lãnh tụ mà đe doạ ngay chính chế độ toàn trị. Quốc hội cộng sản không chỉ không đưa ra các quyết sách quan trọng, thực ra nó không có khả năng làm việc đó. Biết trước rằng sẽ được bầu, hả hê vì được tham gia vào toàn bộ tiến trình kể từ lúc lập danh sách ứng viên, các đại biểu, dù có muốn cũng không có sức lực và dũng khí để có thể tranh luận. Hơn nữa họ được uỷ quyền không phải bởi cử tri cho nên họ cũng không phải chịu trách nhiệm với cử tri. Họ chỉ có mỗi một quyền là thỉnh thoảng lại ủng hộ một trăm phần trăm những quyết định đã được giải quyết sau hậu trường. Hệ thống cũng cần chính một quốc hội như thế, cho nên nếu có trách thì chỉ trách là nó quá tốn kém và vô tích sự. Nhà nước cộng sản được xây dựng trên cơ sở bạo lực và đàn áp, luôn luôn xung đột với nhân dân, cho nên ngay cả khi không có tác nhân bên ngoài thì vẫn là một bộ máy nhà nước quân phiệt. Không ở đâu sự tôn sùng sức mạnh, đặc biệt là sức mạnh quân sự, lại được đề cao như trong các nhà nước cộng sản. Chủ nghĩa quân phiệt là nhu cầu nội tại của giai cấp mới, là một trong những hình thức tồn tại của nó và đồng thời cũng là tác nhân củng cố đặc quyền đặc lợi của nó. Là một tổ chức mang tính bạo lực, và khi cần thì chỉ thực hiện vai trò bạo lực, nhà nước cộng sản khởi kì thuỷ là một nhà nước quan liêu. Hoàn toàn phụ thuộc vào một nhóm nhỏ những kẻ cầm quyền chóp bu, cơ quan nhà nước, không ở đâu bằng chế độ cộng sản, tràn ngập đủ các thứ văn bản pháp qui. Ngay từ khi vừa xuất hiện nó đã lập tức tạo ra một khối lượng văn bản pháp qui nhiều đến nỗi các luật sư và quan toà bị ngập lụt. Ngay những việc tầm phào nhất cũng phải được phê duyệt, mặc dù trên thực tế chẳng có ý nghĩa gì. “Tác phẩm” của các nhà làm luật cộng sản thường có động cơ chính trị và vì vậy mà bỏ qua hiện thực của đời sống. Chìm trong những công thức pháp lí “xã hội chủ nghĩa” trừu tượng, lại không bị các lực lượng đối lập phê phán, họ đã “nhốt” cuộc sống sinh động vào những điều khoản cứng nhắc. Và tất cả đều được quốc hội thông qua. Nhưng chủ nghĩa quan liêu cộng sản lại không hề ảnh hưởng đến nhu cầu và cách thức làm việc của các lãnh tụ cộng sản. Giới cầm quyền chóp bu của nhà nước, cũng là của đảng, ít khi chịu tự giới hạn bởi các nguyên tắc. Trong tay nó là chính sách, là các quyết định mang tính chính trị, không thể chờ đợi và không chịu bất kì giới hạn nào. Chính những người sáng lập ra bộ máy quan liêu nhất và tập trung nhất lại không phải là những người quan liêu hoặc chịu tự giới hạn bởi các tiêu chuẩn pháp lí nào. Stalin không quan liêu. Tito cũng thế. Vì vậy các văn phòng của các lãnh tụ cộng sản thường rất lộn xộn và cẩu thả. Điều đó cũng không ngăn cản các “ông chủ” thỉnh thoảng lại tổ chức các phong trào “đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu” nghĩa là chống lại sự cẩu thả và chậm trễ của bộ máy hành chính. Nhưng đây không phải là ý định loại bỏ chủ nghĩa quan liêu thực sự đã ăn sâu, bén rẽ vào xã hội mà bản chất của nó là sự phụ thuộc toàn diện của đời sống xã hội vào bộ máy chính trị. Các lãnh tụ cộng sản thường nhắc đến Lenin khi tiến hành đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu. Nhưng nếu nghiên cứu kĩ Lenin thì ta sẽ thấy ông không thể nào tiên đoán được rằng bộ máy quan liêu sẽ nuốt chửng hệ thống mới. Khi chạm trán với sự quan liêu, một phần là sản phẩm của chế độ do Sa Hoàng để lại, ông cho rằng tai hoạ là do “không có bộ máy gương mẫu gồm toàn những người cộng sản hoặc những người đã học qua trường đảng” [1] . Dưới thời Stalin những quan chức cũ đã không còn, chỉ còn “toàn” đảng viên cộng sản nhưng tệ quan liêu thì lại tăng lên. Ngay ở Nam Tư, nơi tệ quan liêu có ít hơn, nhưng bản chất của nó, nghĩa là sự độc quyền chính trị và các quan hệ do độc quyền này tạo ra thì vẫn vững như bàn thạch. 7. Nhà nước cộng sản, đúng hơn phải nói chính quyền, tìm mọi các để phi cá tính hoá không những từng người mà còn toàn thể dân tộc, thậm chí phi cá tính hoá ngay chính những người bảo vệ chế độ. Người ta định biến cả dân tộc thành một nòi quan chức. Tiền lương, diện tích nhà ở và nói chung tất cả nhu cầu về mặt tinh thần đều được phân phối, đều bị kiểm soát một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Sự phân biệt không chỉ theo tiêu chuẩn là viên chức hay không (tất cả đều là viên chức) mà theo mức lương và đủ mọi loại ưu tiên ưu đãi khác. Sau khi tập thể hoá thì ngay tầng lớp nông dân cũng ngày càng bị lôi kéo vào tổng liên đoàn những kẻ quan liêu. Nhưng đấy chỉ là bề ngoài. Nếu người công nhân khác nhà tư sản, dù cả hai đều được tự do bán món hàng của mình, một bên là phương tiện sản xuất, còn bên kia là sức lao động, thì trong chế độ cộng sản giữa các tầng lớp xã hội cũng có sự khác nhau rất lớn. Nhưng mặc dù có những mâu thuẫn và khác biệt như thế xã hội cộng sản vẫn là xã hội cố kết nhất. Điểm yếu của sự cố kết này chính là tính chất cưỡng chế và mâu thuẫn của nó. Tất cả các bộ phận phụ thuộc lẫn nhau, không khác gì các chi tiết của một cỗ máy khổng lồ. Giống như mọi chế độ chuyên chế khác, chính quyền cộng sản coi cá nhân chỉ như là một đơn vị trừu tượng. Những người thuộc phái trọng thương đã đẩy nền kinh tế vào sự bảo trợ hoàn toàn của nhà nước, còn chính nhà vua (thí dụ Ekaterina) thì cho rằng nhà nước có trách nhiệm cải tạo các thần dân của mình. Đấy cũng là đường lối tư duy của các lãnh tụ cộng sản. Nhưng lúc đó chính quyền chỉ cải tạo về tư tưởng các chủ sở hữu, còn bây giờ, trong chế độ cộng sản chính quyền vừa là chủ sở hữu vừa là nhà tư tưởng. Nhưng điều đó không có nghĩa là cá nhân đã biến mất, đã trở thành một chiếc đinh ốc vô hồn di chuyển theo quyết định của một mụ phù thuỷ toàn năng trong lòng của bộ máy to lớn nhưng vô hồn của nhà nước. Con người vừa có xu hướng tập quần, vừa có xu hướng cá nhân cho nên ngay cả trong hệ thống này nó vẫn tìm mọi cách bảo vệ cá tính mình. Chưa bao giờ cá tính con người lại bị đè nén đến như thế cho nên nó phải thể hiện bằng những cách khác. Thế giới của cá nhân đã trở thành thế giới của những lo toan thường nhật, không có tương lai nào. Nhưng những lo toan thường nhật đó cũng luôn luôn đụng độ với hệ thống, một hệ thống muốn đè bẹp tất cả nhu cầu vật chất và tinh thần của con người nên ngay cái thế giới nhỏ bé đó của cá nhân cũng không được tự do, không được bảo vệ. Trong chế độ cộng sản cá nhân buộc phải học được cách sống mà không có bất kì sự đảm bảo nào. Nếu nó chịu khuất phục thì nhà nước sẽ để cho nó lay lắt qua ngày. Nó luôn bị giằng xé giữa ước muốn và khả năng. Nó phải chấp nhận phục tùng quyền lợi tập thể, nhưng cũng như trong mọi hệ thống khác nó luôn luôn chống đối các đại diện độc đoán của tập thể. Đa số công dân của chế độ cộng sản không chống lại chủ nghĩa xã hội, nhưng họ bất bình cách thực hiện, thực ra những người cộng sản đâu có xây dựng chủ nghĩa xã hội cho nên từng thần dân của họ phải bất bình với những hạn chế không phải vì quyền lợi của toàn xã hội mà chỉ nhân danh quyền lợi của nhóm đương quyền. Những người thuộc các hệ thống khác không thể nào hiểu được vì sao các dân tộc dũng cảm và đầy tự hào lại có thể chấp nhận để người ta tước đoạt tự do tư tưởng và tự do lao động kiếm sống. Cách giải thích khá chính xác và đơn giản: bộ máy đàn áp dã man và bao trùm lên tất cả. Nhưng còn có những nguyên nhân khách quan sâu sắc hơn. Một trong những nguyên nhân đó, nguyên nhân lịch sử, đã được chúng tôi nói tới: khao khát cải tạo nền kinh tế đã buộc nhân dân phải chấp nhận mất tự do. Nguyên nhân thứ hai là nguyên nhân trí dục và đức dục. Ước mơ chủ nghĩa xã hội-chủ nghĩa cộng sản, ước mơ đạt được mức sống lí tưởng, niềm hi vọng, sự phấn khích có thể nói sánh ngang với niềm phấn khích tôn giáo không chỉ đối với những người cộng sản mà cho cả một bộ phận dân chúng nữa. Trong quan niệm của đa số người không thuộc các giai cấp cũ thì việc vùng dậy có tổ chức nhằm chống lại chính quyền, chống lại đảng đồng nghĩa với sự phản bội tổ quốc, phản bội những lí tưởng cao đẹp nhất. Phong trào đối lập có tổ chức không thể xuất hiện trong các chế độ cộng sản dĩ nhiên là do tính chất bao trùm, tính chất toàn trị của các nhà nước đó. Tính chất toàn trị thâm nhập vào mọi tế bào của xã hội, vào từng cá nhân, vào những nghiên cứu của các nhà bác học, vào cảm hứng của các thi sĩ, vào ước mơ của các đôi tình nhân. Chống lại nó không chỉ có nghĩa là tự đưa mình đến giá treo cổ mà còn chuốc lấy sự khinh bỉ và né tránh. Không một chút ánh sáng nào, không một chút khí trời nào có thể lọt vào được dưới gót sắt của nó. Cả hai phong trào đối lập, sinh ra từ các giai cấp cũ và xuất hiện ngay trong lòng chế độ cộng sản đều không có khả năng tạo ra được đường lối đấu tranh. Đại diện của phong trào thứ nhất sẽ biến mất, còn đại diện của phong trào thứ hai thì quay ra phê phán chế độ bằng những thuật ngữ giáo điều vô nghĩa lí. Điều kiện cho những con đường mới chưa xuất hiện. Bên cạnh đó nhân dân, bằng bản năng của mình, đã phát hiện ra các phương pháp khác, họ luôn phản kháng, ngay cả chỉ vì những tiểu tiết. Phong trào phản kháng này chính là mối đe doạ cụ thể nhất, lớn nhất đối với chế độ. Các lãnh tụ cộng sản không biết nhân dân đang nghĩ gì, muốn gì. Biết rằng lòng dân không yên, họ không thể tự tin như xưa nữa. Nếu lịch sử chưa từng thấy một hệ thống nào có thể vô hiệu hoá những người chống đối như chế độ chuyên chính vô sản thì nó cũng chưa từng thấy một trật tự xã hội nào lại bị người dân chối bỏ đến như thế. Có vẻ như lương tâm càng bị cầm tù và khả năng cho những hành động có tổ chức càng bị giới hạn quần chúng càng thêm ta thán, oán ghét. Toàn trị cộng sản đưa tới oán cừu toàn diện, mọi tình cảm của con người đều bị nung cháy trong ngọn lửa oán hận đó, chỉ còn lại nỗi tuyệt vọng và lòng hận thù. Sự chống đối một cách tự phát, từng ngày từng giờ, bùng lên vì những “việc vặt” của hàng triệu người là hình thức phản kháng mà cộng sản không thể nào dập tắt được. Có thể thấy điều đó ngay trong cuộc chiến tranh Xô-Đức. Có cơ sở để tin rằng tinh thần chiến đấu của người Nga không phải đã cao đến thế ngay khi quân Đức tràn vào Liên Xô. Nhưng Hitler đã để lộ mục đích: tiêu diệt nhà nước Nga và biến tất cả người Slav thành nô lệ. Chỉ khi đó lòng yêu nước sâu xa không gì dập tắt được mới bùng dậy. Trong suốt cuộc chiến tranh, Stalin không một lần nào nhắc tới chính quyền Xô Viết hay chủ nghĩa xã hội cả, ông ta chỉ dùng danh từ Tổ quốc. Người ta sẵn sàng chết vì tổ quốc ngay cả khi bên cạnh đó là chủ nghĩa xã hội của Stalin. Nền kinh tế bao cấp 1. Trong chế độ cộng sản, quá trình phát triển kinh tế không chỉ là cơ sở mà còn là tấm gương phản chiếu con đường chuyển hoá của chế độ từ chuyên chính cách mạng sang chuyên chế phản động. Quá trình phát triển đầy chông gai và mâu thuẫn đó cho ta thấy đồng thời nhu cầu can thiệp của nhà nước vào kinh tế trong những giai đoạn đầu và dần dần biến thành chính sách liên quan trực tiếp đến quyền lợi của bộ máy quan liêu nắm quyền. Khởi kì thuỷ nhà nước giành tất cả các phương tiện sản xuất: viện cớ là cần đầu tư cho quá trình công nghiệp hoá; và kết quả là sự phát triển kinh tế được quản lí phù hợp với quyền lợi của giai cấp nắm quyền. Tứ xưa đến nay tất cả những người hữu sản đều làm như thế, họ chỉ quan tâm đến lợi ích của mình mà thôi. Nhưng giai cấp mới khác với các chủ sở hữu cũ ở chỗ họ nắm trong tay tất cả tài nguyên của đất nước, sức mạnh kinh tế được họ tăng cường một cách tự giác hơn và có tổ chức hơn. Tính tổ chức được thực hiện thông qua các tổ chức chính trị, kinh tế và các tổ chức khác cũng đã được các giai cấp cũ áp dụng. Nhưng vì trong các hình thái kinh tế trước đây giai cấp hữu sản là rất nhiều cá nhân riêng lẻ cũng như tồn tại những hình thức sở hữu đối lập nhau cho nên trong điều kiện bình thường nền kinh tế phát triển một cách tự phát. Nền kinh tế cộng sản cũng không tránh được điều đó mặc dù khác với các nền kinh tế kia, loại bỏ tính tự phát được coi là một trong các nhiệm vụ đầu tiên của nó. Cách làm đó dựa trên cơ sở lí luận như sau: các lãnh tụ cộng sản tin tưởng rằng họ nắm được các qui luật kinh tế và có thể quản lí sản xuất trên cơ sở các qui luật đó. Nhưng sự thật lại không phải như thế, sự thật là: họ đã chiếm được nền kinh tế và cũng giống như họ đã giành được thắng lợi của cách mạng, một lần nữa điều đó tạo cho họ ảo tưởng dường như tất cả mọi chuyện xảy ra đều là kết quả của phương pháp khoa học tuyệt vời của họ. Tin vào sự đúng đắn của các lí thuyết của mình, họ đã áp dụng ngay những lí thuyết ấy vào quản lí kinh tế. Đầu tiên những người cộng sản so sánh những biện pháp kinh tế của mình với các luận điểm của Marx và sau đó thì đem áp dụng. Ở Nam Tư, người ta từng tuyên bố rằng kế hoạch hoá là theo Marx, mặc dù Marx không những không phải là một nhân viên kế hoạch và nói chung ông hoàn toàn không phải là chuyên gia trong lĩnh vực này. Nhưng điều quan trọng là lương tâm của các lãnh tụ vẫn trong sáng, và điều quan trọng hơn là sự đàn áp và bóc lột được biện hộ bằng các “mục đích cao cả” và có “cơ sở khoa học”. Hệ thống cộng sản không thể tránh khỏi các giáo điều trong kinh tế. Nhưng sẽ là sai lầm nếu cho rằng người ta làm kinh tế theo đúng các quan điểm giáo điều vốn là đặc trưng chủ yếu của hệ thống kinh tế cộng sản, đúng ra đó là một căn bệnh mãn tính. Chính trong kinh tế chứ không ở đâu khác, các lãnh tụ cộng sản đã thể hiện sự khéo léo cực kì trong việc “áp dụng” lí thuyết cho các nhu cầu của mình và nếu cần thì lờ luôn lí thuyết đi. Ban lãnh đạo cộng sản buộc phải tiến hành công nghiệp hoá nhanh chóng là do nhu cầu lịch sử như đã nói ở trên, nhưng bên cạnh đó họ còn phải xây dựng nền kinh tế bảo đảm cho sự tồn vong của chính mình. Dường như để xây dựng xã hội phi giai cấp và thủ tiêu quan hệ người bóc lột người mà nó đã dựng lên hệ thống quản lí kinh tế khép kín, dựng lên hình thức sở hữu do nó độc quyền thống trị. Ban đầu chính các nguyên nhân khách quan đã buộc những người cộng sản phải lựa chọn hình thức sở hữu tập thể. Nhưng sau đó việc củng cố hình thức sỡ hữu này (không cần biết có phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế và quá trình công nghiệp hoá hay không) đã trở thành mục đích tự thân và hoàn toàn tuân theo quyền lợi giai cấp của những người cộng sản. Dường như ban đầu người ta đã tiếm đoạt quyền điều khiển nền kinh tế vì lí tưởng, nhưng sau đó họ tiếp tục làm thế nhằm nắm giữ toàn bộ sở hữu và quyền thống trị, đấy chính là thực chất của các biện pháp chính trị đã được tiến hành có lớp lang và rộng khắp; đấy chính là thực chất các biện pháp quản lí kinh tế không phải do nhu cầu của nền kinh tế, cũng không phải do nhu cầu của quốc gia mà hoàn toàn tuân theo các nhu cầu chính trị ích kỉ của tầng lớp nắm quyền. Trong một cuộc phỏng vấn hồi năm 1956, Tito đã phải công nhận rằng các nền kinh tế phương Tây cũng hàm chứa các “thành tố xã hội chủ nghĩa”, nhưng thiếu cái gọi là “tính tự giác”. Thế là đủ: vì “tự giác” xây dựng chủ nghĩa xã hội trong nước mà những người cộng sản buộc phải chuyên quyền, phải giữ độc quyền sở hữu tài sản. Việc những người cộng sản gán cho “tính tự giác” trong các tiến trình phát triển kinh tế và xã hội một ý nghĩa to lớn đã cho ta thấy bản chất bạo lực và khát vọng chiếm hữu của họ. Nếu không thế thì họ nhấn mạnh nhân tố này để làm gì? Việc người cộng sản kiên quyết phủ nhận tất cả các hình thức sở hữu khác ngoài hình thức mà họ cho là xã hội chủ nghĩa trước hết nói lên sự hám quyền và lòng tham vô đáy của họ. Nhưng họ sẵn sàng từ bỏ thái độ như thế nếu nó không đáp ứng quyền lợi, họ coi lí thuyết của mình chẳng khác gì một cái giẻ lau có thể xài hoặc quẳng đi bất cứ lúc nào. Thí dụ ở Nam Tư người ta đã thành lập các hợp tác xã nông nghiệp, nhưng sau đó lại giải tán (vì sự trong sáng của chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa xã hội) và hiện nay quan niệm về vấn đề này rất mù mờ. Những thí dụ tương tự như vậy có thể tìm thấy ở tất cả các nước cộng sản khác. Nhưng xu hướng tiêu diệt tất cả các hình thức sở hữu, trừ hình thức do họ dựng lên vẫn là mục đích bất di bất dịch của những người cộng sản. Mọi đường lối kinh tế đều thể hiện ý chí của những lực lượng kinh tế nhất định và là ước muốn quản lí các lực lượng này. Ngay những người cộng sản cũng không thể đặt được quyền thống trị tuyệt đối đối với quá trình sản xuất. Nhưng họ thường xuyên áp bức, luôn luôn buộc nó phải tuân thủ những mục đích chính trị và tư tưởng của mình. Đấy là khác biệt của họ với tất cả những đường lối khác. 2. Tính chất toàn trị của sở hữu cũng như hệ tư tưởng thường đóng vai trò quyết định trong chính sách kinh tế còn do vị trí đặc biệt của người sản xuất trong chế độ cộng sản nữa. Ở Liên Xô, quyền tự do lao động đã bị hạn chế ngay sau cách mạng. Nó đã không bị bãi bỏ hoàn toàn ngay cả khi nhu cầu công nghiệp hoá là rất cao. Điều đó chỉ xảy ra sau khi cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn thành cũng như vị trí của giai cấp mới đã được củng cố. Luật pháp qui định mọi người đều phải làm việc theo sự phân công của “tổ chức” được áp đặt vào năm 1940. Trong giai đoạn này cũng như sau chiến tranh đã xuất hiện các trại lao động, thực chất là một hình thức bóc lột nô lệ. Lao động trong các nhà máy và lao động khổ sai gần như không còn sự cách biệt nào. Các trại lao động và những hình thức lao động “tình nguyện” khác chính là những hình thức lao động khổ sai nặng nề nhất. Các trại lao động hoặc phong trào tình nguyện có thể chỉ mang tính giai đoạn nhưng sự mất tự do trong lao động kiếm sống là hiện tượng cố hữu ở Liên Xô. Trong các nước cộng sản khác sự mất quyền tự do lao động không đạt đến mức như vậy nhưng hoàn toàn tự do lao động thì cũng không nước nào có cả. Mất quyền tự do lao động trong các chế độ cộng sản là hậu quả của việc chiếm hữu tất cả hay hầu như tất cả nguồn lực quốc gia. Người lao động bị đặt trước một sự kiện là sức lao động, cũng là hàng hoá duy nhất của anh ta, phải được bán cho chỉ duy nhất một người, theo những điều kiện bất khả tương nhượng vì không còn người mua nào khác. Nếu chỉ có một người mua là nhà nước thì người công nhân chỉ còn một cách là chấp nhận mọi điều kiện nếu không muốn chết đói. Thị trường sức lao động xấu xa, bỉ ổi của giai đoạn tiền tư bản đã bị quan hệ sở hữu độc quyền của giai cấp mới tiêu diệt hoàn toàn. Nhưng người lao động thì không vì thế mà được tự do hơn. Người lao động trong chế độ cộng sản (kể cả ở các trại lao động khổ sai) không phải là người nô lệ thời cổ đại, không bị coi là một loại đồ vật. Ngay một nhà tư tưởng vĩ đại thời đó cũng cho rằng một số người được sinh ra là người tự do, còn số khác là nô lệ. Dù luôn kêu gọi cải tạo hệ thống chiếm nô và đối sử nhân đạo với nô lệ, ông cũng chỉ coi nô lệ như một loại công cụ lao động. Không thể nào đối xử với một người công nhân hiện đại có kiến thức khoa học kĩ thuật và tay nghề như vậy được. Lao động cưỡng bức trong chế độ cộng sản khác với thời cổ đại và cũng khác với mọi thời đại khác. Nó không liên quan (hoặc rất ít liên quan) với trình độ kĩ thuật mà là kết quả của một chính sách và quan hệ sở hữu nhất định. Trong khi đó trình độ kĩ thuật hiện nay lại cần những người công nhân tự do cho nên anh ta luôn luôn mâu thuẫn, khi thăng khi giáng, với chế độ lao động cưỡng bức, với độc quyền sở hữu và chế độ chính trị toàn trị cộng sản. Về mặt hình thức thì người công nhân trong chế độ cộng sản là người tự do, nhưng mức độ tự do của anh ta vô cùng hạn chế. Nói chung, về mặt hình thức chế độ cộng sản không hạn chế tự do. Nó làm điều đó trên thực tế. Lao động và sức lao động cũng chịu cảnh tương tự. Trong một xã hội khi mà tất cả tài sản đều nằm trong tay một nhóm người thì sức lao động không thể có tự do. Nó cũng là một loại tài sản gián tiếp của nhóm đó mà thôi. Dĩ nhiên là nhóm cầm quyền không thể sở hữu một trăm phần trăm sức lao động của con người vì mỗi người lao động là một cá thể, mỗi người làm chủ sức lao động của mình; nhưng đến lượt nó cái sức lao động ấy lại chỉ là một nhân tố của toàn bộ nền sản xuất xã hội. Giai cấp hữu sản mới sử dụng sức lao động ấy cũng bằng một cách thức như với tất cả các nguồn lực quốc gia và các phương tiện sản xuất khác. Vì vậy nhà nước, đúng hơn phải nói bộ máy đảng, có thể giữ độc quyền ấn định điều kiện lao động, quyết định mức lương và những vấn đề liên quan khác. Nắm giữ độc quyền tài sản, thực thi chuyên chế trong lĩnh vực chính trị, bộ máy đảng đã nắm giữ luôn quyền quyết định điều kiện làm việc của người lao động. Như vậy là đối với bộ máy quan liêu chỉ có khái niệm sức lao động trừu tượng, chỉ có những người công nhân như là một nhân tố của quá trình sản xuất. Điều kiện làm việc trong từng nhà máy, trên từng công trường, trong từng lĩnh vực cụ thể, việc gắn tiền lương với lợi nhuận của xí nghiệp, đối với bộ máy quan liêu, tất cả những điều đó đều không tồn tại và không thể tồn tại được. Khi toàn bộ sở hữu đã nằm trong tay của một nhóm người thì kết quả và ý nghĩa của nền sản xuất cũng trở thành vô giá trị đối với ngay chủ nhân của nó. Tiền lương và điều kiện lao động cũng như sức lao động trở thành những khái niệm trừu tượng, vô hồn, chỉ là các định mức và hệ số mà thôi. Kết quả hoạt động của từng xí nghiệp hoặc lĩnh vực không có hoặc có rất ít ý nghĩa đối với thu nhập của người lao động. Đấy là nói chung, tuỳ vào điều kiện và nhu cầu, dĩ nhiên là có những trường hợp ngoại lệ. Cách đặt vấn đề như thế nhất định sẽ dẫn tới sự bàng quan của người lao động và cuối cùng là dẫn đến chất lượng kém, lãng phí tài nguyên, v.v... Những người cộng sản luôn luôn kêu gọi nâng cao năng suất lao động nhưng họ đã bỏ qua không thèm nghĩ đến việc sử dụng có hiệu quả sức lao động nói chung. Trong tình hình như thế cần phải có rất nhiều biện pháp khen thưởng. Người lao động bàng quan được động viên bằng mọi cách. Nhưng nếu không thay đổi toàn bộ hệ thống, nếu vẫn nắm giữ toàn bộ tài sản và quyền lực, họ không thể tạo được sự quan tâm thường trực của từng người công nhân và của tất cả người lao động đối với kết quả sản xuất nói chung. Ngay những cố gắng nghiêm túc nhằm chia cho công nhân một phần lợi tức, như ở Nam Tư và các nước Đông Âu khác, cũng đã kết thúc, bị bộ máy quan liêu chiếm đoạt, lấy cớ là do lạm phát và để hợp lí hoá đầu tư cơ bản. Người lao động chỉ được nhận một phần mang tính tượng trưng và quyền được phân phối số tiền nhỏ nhoi đó thông qua các tổ chức đảng hoặc công đoàn mà thực chất vẫn là thông qua bộ máy quan liêu đó. Không được quyền đình công cũng như quyền sở hữu, người công nhân không được nhận và không được tham gia vào việc phân chia lợi nhuận. Tất cả những quyền này liên quan mật thiết với nhau cũng như liên quan mật thiết với tự do chính trị, không thể có cái này mà thiếu cái kia được. Trong hệ thống như thế không thể tồn tại tổ chức công đoàn độc lập, còn các cuộc đình công là những hiện tượng cực kì đặc biệt, là biện pháp chẳng đặng đừng, là sự bùng nổ của bất bình của quần chúng lao động (Đông Đức năm 1953, Poznan – Ba Lan năm 1956) Người cộng sản giải thích việc không được tự do bãi công như sau: giai cấp công nhân nắm chính quyền và thực hiện quyền làm chủ thông qua nhà nước, bãi công thì hoá ra tự chống lại mình à! Quá trẻ con, dĩ nhiên rồi. Người ta lấy cớ là không có tư hữu, nhưng thực tế là người chủ sở hữu thật sự đã khoác lên mình một cái mặt nạ tập thể và không được xác định một cách chính thức. Lí do chính của việc không được bãi công là chủ sở hữu, dù khoác nhiều bộ mặt, vẫn chỉ là một chủ thể duy nhất, nắm toàn bộ tài nguyên mà chủ yếu là nắm sức lao động cho nên mọi hành động chống lại nó, nếu không mang tính toàn diện, đều rất khó thực hiện. Bãi công trong một hoặc một vài xí nghiệp, đấy là giả sử chế độ toàn trị cho phép, cũng không tạo ra một mối nguy nào cho chủ sở hữu vì tài sản của nó không nằm trong một xí nghiệp cụ thể mà là toàn bộ nền sản xuất nói chung. Mất một vài xí nghiệp không phải là vấn đề, hơn nữa chính người sản xuất nghĩa là toàn bộ xã hội sẽ phải làm bù. Như vậy là đình công, nếu có, cũng chỉ là vấn đề chính trị chứ không phải là vấn đề kinh tế. Những cuộc đình công lẻ tẻ trên thực tế là không tổ chức được và cũng không có ý nghĩa, điều kiện chính trị lại không cho phép tổng đình công. Nhưng trong những trường hợp đặc biệt đã từng xảy ra đình công. Các cuộc đình công lẻ tẻ thường biến thành tổng đình công và mang ý nghĩa chính trị. Ngoài ra chế độ cộng sản còn tiến hành đấu tranh chống lại các biểu hiện bất mãn, chia rẽ phong trào công nhân bằng cách thăng tiến cho các cán bộ từ chính công nhân. Những cán bộ này sẽ thực thi việc “giáo dục”, “rèn luyện tư tưởng” và “hướng dẫn” quần chúng. Các tổ chức công đoàn và các tổ chức nghề nghiệp khác thực chất chỉ là những người giúp việc bộ máy đương quyền, và cũng là ông chủ duy nhất của tất cả mọi loại tài sản. Điều đó quyết định các xu hướng chủ yếu trong hoạt động của các tổ chức này: thúc đẩy việc “xây dựng chủ nghĩa xã hội” nghĩa là nâng cao năng suất lao động cũng như tuyên truyền ảo tưởng và lòng trung thành trong giai cấp công nhân. Nâng cao trình độ văn hoá của công nhân có thể coi là điểm tích cực duy nhất của các tổ chức này. Không phải ngẫu nhiên mà công nhân luôn luôn là mối quan tâm lớn nhất của chế độ nhưng đây không phải là vấn đề tư tưởng hay nhân đạo hoặc các vấn đề nào khác tương tự, mà chỉ bởi vì công nhân chính là người sản xuất ra của cải vật chất, sự thịnh suy, thậm chí tồn vong của giai cấp mới phụ thuộc trực tiếp vào họ. 3. Dù lao động mang tính nô lệ, dù không có các tổ chức công đoàn độc lập, việc bóc lột trong chế độ cộng sản cũng có một giới hạn nhất định. Đây là vấn đề rất lớn, chỉ xin khảo sát những điểm quan trọng nhất. Bên cạnh lí do chính trị, thí dụ nỗi sợ trước sự bất bình của quần chúng, người ta vẫn phải xác định các giới hạn bóc lột: những hình thức có thể đe doạ sự tồn vong của chế độ trước sau cũng bị huỷ bỏ hoặc hạn chế. Thí dụ ngày 25 tháng 4 năm 1956 Liên Xô đã ra nghị định bãi bỏ việc truy tố người có hành vi đi muộn về sớm. Các trại lao động, nơi con người bị đối xử không khác gì tội phạm và là một hình thức bóc lột lao động nô lệ rẻ tiền, đã dần dần bị bãi bỏ. Sức lao động không phải nhờ thế mà thành tự do hơn, nhưng dù sao đây cũng một bước thay đổi tích cực to lớn sau cái chết của Stalin. Lao động nô lệ cưỡng bách không chỉ tạo cho chế độ nhiều khó khăn về mặt chính trị mà còn vô cùng tốn kém. Sau khi Liên Xô có những máy móc phức tạp thì lao động cưỡng bách trở thành gánh nặng. Dù chi phí cho một người lao động cưỡng bách là không đáng kể nhưng bộ máy hành chính để quản lí anh ta lại quá cồng kềnh, lao động của người đó trở thành vô giá trị và vì thế mà bị xoá bỏ. Nền sản xuất hiện đại cũng đặt ra những giới hạn cho sự bóc lột: người lao động kiệt sức không thể tạo ra sản phẩm có chất lượng trên những máy móc hiện đại. Tương tự như vậy, nếu muốn có sản phẩm người ta phải đáp ứng cả các yêu cầu khác như về văn hoá, y tế, vệ sinh, v.v... Trong chế độ cộng sản bên cạnh việc bóc lột, do bản chất quyền lực và sở hữu mà sức lao động còn bị hạn chế tự do. Khi chưa có sự thay đổi về quyền lực và sở hữu thì sức lao động không thể nào có tự do, dù ít dù nhiều nó vẫn nằm dưới sự áp chế về kinh tế hoặc hành chính. Đồng thời, do nhu cầu của sản xuất, chế độ cộng sản có thể tiến hành thay đổi điều kiện lao động, thay đổi vị trí của người công nhân bắng những biện pháp mạnh như: thời gian lao động, quyền nghỉ ngơi, học hành, bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động nữ, lao động trẻ em. Nhiều biện pháp sẽ nằm trên giấy, nhưng đôi khi cũng sẽ có những biến đổi tích cực. Xu hướng cải thiện quan hệ sản xuất, hướng đến sự ổn định và trật tự trong sản xuất là công việc thường xuyên của các chính quyền cộng sản. Người chủ sở hựu tập thể duy nhất giải quyết vấn đề một cách tổng thể. Hình thức sở hữu không chấp nhận “vô chính phủ” trong lĩnh vực này. Sức lao động cũng như mọi thành tố khác của quá trình sản xuất phải “luôn ổn định”. Quyền lợi sống còn của người lao động chỉ đóng vai trò thứ yếu. Nếu xem xét kĩ thì ta thấy việc người ta vẫn tuyên truyền rằng trong chế độ cộng sản mọi người đều có việc làm cũng chứa đựng nhiều khiếm khuyết. Ngay khi toàn bộ tài sản vật chất được tập trung vào tay chỉ một nhóm người thì lập tức xuất hiện nhu cầu kể hoạch hoá, kể cả nhu cầu về sức lao động. Các đòi hỏi về chính trị nhất định sẽ dẫn đến việc một số lĩnh vực bị lạc hậu và sống bám vào những lĩnh vực khác. Thất nghiệp trên thực tế được che giấu bằng cách đó. Nếu các lĩnh vực được tự do sản xuất không có sự can thiệp của chính quyền trong việc nâng đỡ ngành này làm thiệt hại cho ngành khác thì thất nghiệp sẽ xuất hiện ngay lập tức. Việc liên kết chặt chẽ với thị trường thế giới sẽ làm cho quá trình này càng rõ ràng và mở rộng thêm. Như vậy việc mọi người đều có việc làm không phải là kết quả của chủ nghĩa xã hội mà là một chính sách kinh tế, nó chỉ chứng tỏ sự mất cân đối và năng suất lao động thấp mà thôi. Nó không phải là mặt mạnh mà chính là điểm yếu của nền kinh tế bao cấp. Nếu Nam Tư chuyển sang nền kinh tế có hiệu quả hơn thì tình trạng thất nghiệp sẽ xuất hiện và nền kinh tế càng hiệu quả thì tỉ lệ thất nghiệp sẽ càng tăng. Trong chế độ cộng sản việc ai cũng có việc làm che giấu hiện tượng thất nghiệp. Sự nghèo khổ chung làm mờ đi hiện tượng thất nghiệp của một bộ phận dân chúng, cũng như sự phát triển nhanh của một vài lĩnh vực che đậy sự lạc hậu của những lĩnh vực khác. Tương tự như vậy, hình thức sở hữu đó cũng như hình thức chính quyền đó giữ cho nền kinh tế không bị phá sản nhưng không thể cứu nó khỏi cuộc khủng hoảng trường kì. Sự độc quyền sở hữu tạo điều kiện xử lí để tránh đổ vỡ toàn diện nhưng quyền lợi ích kỉ của giai cấp mới cũng như bản chất của nền kinh tế không thể làm cho nó trở thành lành mạnh và cân đối được. © 2005 talawas [1]V. I. Lenin, Toàn tập, Tập 29, trang 425. In lần thứ 3. Nguồn: Bản tiếng Nga, tại http://dzhilas-milovan.viv.ru/index.htm bản để in Ngôn ngữ Dịch thuật Tản văn thứ sáu Tủ sách talawas Nghệ thuật talaGallery Bàn tròn "Mĩ thuật đương đại Việt Nam đang ở đâu" Mĩ thuật Kiến trúc Điện ảnh Sân khấu Âm nhạc Tư tưởng Triết học Lịch sử Tôn giáo Phương Đông và Phương Tây Văn hoá và phát triển Chiến tranh nhìn từ nhiều phía
1614178347293.1.parquet/169418
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 38628, "url": "http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php/%3C/showFile.php?res=5517&rb=08" }
136.5
việc làm ngành Công nghệ cơ khí | Luyện thi - Dịch vụ luyện thi chuyên nghiệp Luyện thi Trang chủ Bí kíp luyện thi Cẩm nang học tập Tìm hiểu ngành nghề Tag: việc làm ngành Công nghệ cơ khí Thông tin cần biết ngành Công nghệ cơ khí 24/10/2017 Tin tìm hiểu ngành nghề Làm việc phần lớn trong văn phòng với các máy móc, thiết bị chuyên dụng cho công tác thiết kế như máy tính cài đặt phần mềm phù hợp, giá vẽ, bút thước… Kỹ sư thiết kế luôn tư duy, tìm tòi để thiết kế ra những dây chuyền công nghệ ngày một tốt hơn. Họ cũng dành nhiều thời gian xuống phân xưởng để trực tiếp quan sát, rút kinh nghiệm. Thông tin cần biết ngành Công nghệ cơ khí Công nghệ cơ khí luôn là một trong những ngành then chốt đối với sự phát triển kinh tế – xã hội trên toàn thế giới. Ngày nay, tất cả các máy móc vận hành trong các dây chuyền sản xuất, hoạt động ở mọi nơi (trên và dưới mặt đất, trên mặt biển, dưới đáy biển, trên trời, ngoài vũ trụ…) đều có sự đóng góp lớn của các nhà khoa học, các tổng công trình sư, kỹ sư, cán bộ kỹ thuật , công nhân cơ khí. Điều kiện làm việc và cơ hội nghề nghiệp Thống kê của các nước công nghiệp tiên tiến về lịch sử phát triển của ngành cơ khí hàng trăm năm qua cho thấy: những người được đào tạo về cơ khí có thể làm việc ở mọi nơi trên đất nước họ và các nước khác trên thế giới trong mọi ngành công nghiệp và kinh tế khác nhau. Có thể tóm tắt trong một số lĩnh vực chính sau: – Công tác ở các viện nghiên cứu – Công tác ở các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, dạy nghề. – Làm việc trong các nhà máy, công ty sản xuất cơ khí của mọi lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, văn hóa, xã hội, quốc phòng. – Làm việc ở mọi nơi có sử dụng máy móc, thiết bị vận hành. Việt Nam đang nỗ lực thúc đẩy chiến lược phát triển công nghiệp hóa – hiện đại hóa để hội nhập với nền kinh tế thế giới sau khi gia nhập WTO nên cơ hội làm việc trong ngành cơ khí càng trở nên phong phú và rộng mở hơn bao giờ. Một số nghề nghiệp trong ngành Công nghệ cơ khí: – Cán bộ nghiên cứu khoa học và giảng dạy: Dành phần lớn thời gian làm việc trong phòng thí nghiệm, thư viện cùng với những thiết bị, dụng cụ chuyên dùng. Họ cũng thường xuyên lên lớp truyền đạt những tri thức của mình cho thế hệ trẻ yêu thích ngành cơ khí và không quên chuyển giao các kết quả nghiên cứu thành công cho các cơ sở sản xuất ứng dụng. – Kỹ sư điều hành công nghệ: Trực tiếp gắn bó với các dây chuyền, thiết bị cơ khí trong phân xưởng sản xuất cùng công nhân để kịp thời khắc phục xử lý các sự cố có thể xảy ra và giám sát công việc, đảm bảo dây chuyền hoạt động đều đặn, đạt chất lượng yêu cầu. – Kỹ sư giám sát: Thực hiện việc kiểm tra, giám sát các công đoạn trong dây chuyền gia công sản phẩm cơ khí, đảm bảo thực hiện đúng quy trình công nghệ với các điều kiện kỹ thuật, quy phạm, tiêu chuẩn của ngành cơ khí cũng như tiêu chuẩn của quốc gia, quốc tế. – Kỹ sư thiết kế: Làm việc phần lớn trong văn phòng với các máy móc, thiết bị chuyên dụng cho công tác thiết kế như máy tính cài đặt phần mềm phù hợp, giá vẽ, bút thước… Kỹ sư thiết kế luôn tư duy, tìm tòi để thiết kế ra những dây chuyền công nghệ ngày một tốt hơn. Họ cũng dành nhiều thời gian xuống phân xưởng để trực tiếp quan sát, rút kinh nghiệm. – Cán bộ tư vấn và chuyển giao công nghệ: Là những chuyên gia giàu kinh nghiệm, trực tiếp tư vấn hoặc chuyển giao công nghệ cho các Bộ, ngành, cơ quan Nhà nước, các công ty, nhà máy…, lựa chọn nhập khẩu các dây chuyền thiết bị chất lượng, đem lại hiệu quả kinh tế tốt nhất. Phẩm chất và kỹ năng cần thiết – Có tình yêu với ngành cơ khí – Có năng khiếu về các môn khoa học tự nhiên, khả năng sáng tạo, tưởng tượng tốt. – Ưa thích công việc năng động, tìm tòi. – Có tư duy phân tích nhạy bén, logic – Tính cẩn thận, chính xác và sự kiên trì. Một số địa chỉ đào tạo: Bạn có thể học ngành Công nghệ cơ khí tại các trường đại học, cao đẳng công nghệ, kỹ thuật trong toàn quốc: – Miền Bắc: Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, Trường ĐH Xây dựng, Trường ĐH Giao thông, Trường ĐH Thủy lợi, Trường ĐH Mỏ địa chất, Trường ĐH Lâm nghiệp, Học viện Kỹ thuật Quân sự… – Miền Trung: Trường ĐH Bách khoa Đà Nẵng, Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật Lâm Đồng, Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật Quy Nhơn… – Miền Nam: Trường ĐH Bách khoa TP. HCM, Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP. HCM, Trường ĐH Thủy sản Nha Trang, Trường ĐH Giao thông vận tải TP. HCM, Trường ĐH Cần Thơ… Danh mục chính Bí kíp luyện thi Cẩm nang học tập Tìm hiểu ngành nghề Cẩm nang học tập Những thói quen cần có để học tập tốt hơn Kinh nghiệm giúp ôn tập tốt môn Văn 4 cách để lấy lại sự tập trung khi học bài Tìm hiểu một số thao tác lập luận trong văn nghị luận Kinh nghiệm để học tốt môn Toán Bí quyết giúp học tốt môn Văn Tìm hiểu ngành nghề Thông tin cần biết ngành Sinh học Thông tin cần biết ngành Hóa học Thông tin cần biết ngành Thiết kế thời trang Thông tin cần biết ngành Kiến trúc Thông tin cần biết ngành Xây dựng Thông tin cần biết ngành Sư phạm Copyright © 2017 Luyện thi - Dịch vụ luyện thi - Trung tâm luyện thi - Luyện thi đại học Website đang được xây dựng. Chúng tôi chưa cung cấp thông tin, dịch vụ hoặc sản phẩm trên website này. Mong quý vị thông cảm! Phát triển bởi: Thiết kế website đẹp
1614178347293.1.parquet/87756
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 4558, "url": "http://www.luyenthi.net/tag/viec-lam-nganh-cong-nghe-co-khi/" }
136.2
Thông điệp từ Tương lai theo lời Alexandria Ocasio-Cortez Phạm Vũ Thịnh dịch Naomi Klein và Alexandria Ocasio-Cortez đã làm cuốn phim ngắn “A Message from the Future with Alexandria Ocasio-Cortez” để giải thích Green New Deal một cách dễ hiểu cho mọi lứa tuổi, dưới hình thức một thông điệp từ tương lai hai mươi năm sau, cho biết thành quả của việc thực hiện kế hoạch Green New Deal trong thập niên 2020. Từ hiện tại mà nhìn thì đó là một viễn tượng lạc quan cố gắng thuyết phục cho giải pháp Green New Deal. Naomi Klein cho biết: “Phim kể lại chuyện một khối lượng nhân loại vừa đủ lớn đến mức cần thiết, của nền kinh tế lớn nhất trên trái đất, trong tình thế khẩn cấp, đã cùng nhận thức được rằng loài người thực sự đáng được cứu khỏi một hiểm họa chưa từng có. Ngòi bút nghệ thuật của Molly Crabapple mô tả một đất nước vừa quen thuộc vừa hoàn toàn mới: Các thành phố được nối liền với nhau bằng tàu cao tốc, những người lớn tuổi bản địa giúp thanh niên khôi phục các vùng đất ngập nước, hàng triệu người tìm được việc làm để trang bị nhà ở giá rẻ,... và khi siêu bão nhận chìm các thành phố lớn, người dân phản ứng lại không phải bằng sự cảnh giác hay chống đối nhau mà bằng hợp tác và đoàn kết: “chúng ta đã tìm thấy mục đích chung”. Cuốn phim được phát hành trực tuyến vào ngày 17 tháng 4 năm 2019. Trong vòng bốn mươi tám giờ, phim đã được xem hơn sáu triệu lần. Trong vòng bảy mươi hai giờ, đã được hơn một nghìn người trình chiếu trong nhiều hội trường, là một phần của chuyến lưu diễn toàn quốc do Sunrise Movement - Phong trào Mặt Trời Mọc tổ chức, nhằm xây dựng đà tiến cho Green New Deal. Trong các hội trường, mọi người cổ vũ cho từng dòng giải thuyết. Chỉ một tuần sau đã có nhiều giáo chức từ tiểu học đến đại học cho biết đã trình chiếu trong lớp và được hoan nghênh nhiệt liệt: “Sinh viên học sinh đều khao khát hy vọng”. Hàng trăm người đã viết thư cho biết họ đã khóc tại bàn học, bàn làm việc, vì tất cả những gì đã mất hẳn rồi, và cả những gì còn có thể cứu vãn được, cho trái đất.” Phim dài 7 phút do báo mạng The Intercept và tác gia Naomi Klein thực hiện; minh họa của nghệ sĩ đoạt giải Molly Crabapple; kịch bản từ Alexandria Ocasio-Cortez, Dân biểu Hạ viện thuộc đảng Dân chủ Mỹ, cùng Avi Lewis, nhà làm phim tài liệu, người lãnh đạo phong trào Công lý Khí hậu và cũng là chồng của Naomi Klein; đồng đạo diễn là Kim Boekbinder và Jim Batt. Có thể xem tại đây: https://www.youtube.com/watch?v=d9uTH0iprVQ hoặc https://www.youtube.com/watch?v=niRbuH2C3q8 Và dưới đây là bản dịch phần giải thuyết của phim: * Dân biểu ALEXANDRIA OCASIO – CORTEZ giải thuyết: À đấy, chuyến tàu điện cao tốc từ New York đến thủ đô D.C. Luôn luôn đưa tôi trở lại thời điểm tôi mới bắt đầu đi làm bằng chuyến tàu này. Năm 2019, tôi đã là một dân biểu mặt mới trong Quốc hội đa dạng nhất trong lịch sử cho đến thời điểm đó. Thật là một thời điểm trọng yếu. Tôi sẽ không bao giờ quên những người trẻ trong cộng đồng của chúng ta. Họ vô cùng hứng khởi khi thấy lớp chính trị gia mới này, phản ảnh họ, dò dẫm tìm hiểu mà tiến bước trong các hành lang của quyền lực. Người ta thường nói: không thể trở thành những gì mình không nhìn thấy. Đấy là lần đầu tiên, họ đã nhìn thấy chính mình qua chúng tôi. Tôi nghĩ rằng cảm giác đó cũng tương tự như khi mới đến với Green New Deal – Thỏa Thuận Mới Màu Xanh. Chúng ta biết rằng cấp thiết cần phải cứu hành tinh này và chúng ta có tất cả công nghệ, kỹ thuật để làm được chuyện đó, nhưng mọi người vẫn sợ hãi. Họ bảo rằng chuyện này quá lớn, quá nhanh, hoặc không thiết thực. Tôi nghĩ chỉ vì họ chưa thể hình dung ra chuyện đó mà thôi. Nhưng mà có vẻ tôi đang giải thích quá vội vã. Hãy bắt đầu trở lại từ những gì đã đưa chúng ta đến tình trạng ngày nay. Năm 1977, ở New York, một nhà khoa học cấp cao tên là James Black đã thuyết trình về việc đốt các nhiên liệu hóa thạch có thể rốt cuộc dẫn đến chuyện nhiệt độ toàn cầu tăng 4 hoặc 5 độ F. Chỉ trong vòng hai năm sau đó, một tàu tải loại lớn nhất thế giới đã được trang bị một phòng thí nghiệm hiện đại nhất, để đo lượng thán khí CO2 trong đại dương, thu thập thêm dữ liệu về hiện tượng nung nóng toàn cầu. Đoán xem ai đã thực hiện tất cả các nghiên cứu này: đấy là ExxonMobil, công ty dầu khí nổi tiếng. Ồ, đúng đấy, công ty Exxon đã biết điều này suốt trong bao nhiêu năm qua, mà các chính trị gia của chúng ta cũng đã biết. Mười năm sau đó, James Hansen, nhà khoa học khí hậu hàng đầu của NASA, nói với Quốc hội: ông chắc chắn 99% rằng sự kiện nung nóng toàn cầu đang thực sự xảy ra, và là do chính con người gây nên. Đó là năm 1988, một năm trước khi tôi được sinh ra. Vậy rồi, công ty Exxon có lắng nghe khoa học, kể cả khoa học của chính họ hay không? Họ có thay đổi mô hình kinh doanh, đầu tư vào năng lượng tái tạo hay không? Không, ngược lại nữa là khác. Họ biết, nhưng họ đã cá cược gấp đôi vào việc họ vẫn làm. Họ và các tổ chức đồng bọn đã chi hàng triệu USD để thiết lập một mạng lưới các nhóm vận động hành lang và các tổ chức tư vấn cố tình tạo ra sự nghi ngờ và phủ nhận nguy cơ biến đổi khí hậu. Đó là một nỗ lực được thiết kế để tấn công và chối bỏ chính loại khoa học mà chính họ đã thúc tiến. Và họ đã thành công. Các chính trị gia ủng hộ sử dụng nhiên liệu hóa thạch, và các tập đoàn kinh doanh khổng lồ tiếp tục đào và khai thác mỏ, khoan và xói nước trục dầu khí (fracking), còn hối hả hơn nữa, như thể không còn có ngày mai. Mỹ trở thành nước sản xuất và tiêu thụ dầu hỏa lớn nhất thế giới. Các công ty nhiên liệu hóa thạch đã thu được hàng trăm tỷ USD, trong khi công chúng phải chi trả phần lớn nhất để dọn dẹp những thảm họa mà đám này đã gây ra. Hậu quả là chúng ta đã mất đi hàng thế hệ thời gian không bao giờ lấy lại được nữa, tiêu diệt toàn bộ những chủng loại sinh, thực vật không bao giờ có lại được nữa, những kỳ quan thiên nhiên đã biến mất vĩnh viễn. Năm 2017, cơn bão Maria đã phá hủy quê hương của gia đình tôi là Puerto Rico. Giống hệt một quả bom khí hậu bùng nổ, đã cướp đi sinh mạng của nhiều người Mỹ không khác gì vụ 11/9. Và vào năm sau đó, khi tôi được bầu vào Quốc hội, các nhà khoa học khí hậu hàng đầu thế giới đã tuyên bố một tình trạng khẩn cấp nữa. Họ bảo rằng chúng ta chỉ còn 12 năm nữa mà thôi, để cắt giảm một nửa lượng khí thải, nếu không thì hàng trăm triệu người sẽ phải đối mặt với tình trạng thiếu lương thực và nước dùng, nghèo đói và cái chết. Chỉ còn có mười hai năm để thay đổi mọi thứ — cách chúng ta đi lại, cách chúng ta kiếm ăn, cách chúng ta sản xuất vật dụng, cách chúng ta sống và làm việc — tất cả mọi thứ. Cách duy nhất để làm được điều đó là chuyển đổi nền kinh tế, mà chúng ta biết là đã nứt vỡ, bởi vì phần lớn của cải đã vào tay chỉ một số ít người, trong khi hầu hết mọi người còn lại thì càng ngày càng sa sút. Đó là một bước ngoặt thảm khốc thực sự. Rất nhiều người đã bỏ cuộc. Họ bảo rằng chúng ta đang tiến gần đến tiêu diệt. Tuy nhiên, một số người trong chúng ta nhớ lại rằng, đất nước chúng ta trước đây đã từng gặp nguy hiểm tương tự: đấy là cuộc Đại Khủng Hoảng thời Thế chiến thứ hai. Từ lịch sử của đất nước, chúng ta đã biết cách cùng nhau nỗ lực vượt qua những nguy cơ tưởng như không thể thoát được. Ít nhất, chúng ta đã nợ con cháu của chúng ta nhiệm vụ phải cố gắng hết mình. Làn sóng cố gắng ấy đã bắt đầu khi đảng Dân chủ giành lại được Hạ viện vào năm 2018, sau đó là Thượng viện và Nhà Trắng vào năm 2020, đồng thời phát khởi thập kỷ Green New Deal - Thỏa Thuận Mới Màu Xanh, một loạt nhiều đạo luật liên tiếp đã khởi động quá trình chuyển đổi xã hội và sinh thái của chúng ta để cứu hành tinh này. Đó là cố gắng toàn tâm toàn lực đến mức tham vọng mà chúng ta đã phải cần đến. Rốt cuộc, chúng ta đã phải cố gắng tìm kiếm những giải pháp trên quy mô khổng lồ tương đương kích thước với các khủng hoảng mà chúng ta phải đối đầu, mà không bỏ sót bất kỳ thành phần nào trong chúng ta. Nghĩa là phải bao gồm cả Bảo hiểm y tế - Medicare cho tất cả mọi người, là chương trình xã hội phổ quát nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Chúng ta cũng đã đưa ra được luật bảo đảm việc làm liên bang, một chính sách bảo hiểm công cộng (Public Option) bao gồm cả mức lương đủ để sống xứng đáng. Điều trớ trêu có phần hài hước là: vấn đề lớn nhất trong những năm đầu tiên đó lại là thiếu hụt lao động. Chúng ta đã cố gắng xây dựng một lưới điện thông minh toàn quốc, trang bị cập nhật mọi tòa nhà ở Mỹ, đưa những chuyến tàu điện cao tốc như thế này đi khắp đất nước. Chúng ta cần thêm người làm việc. Nhóm người trẻ hàng xóm của tôi đã giữ vị trí trung tâm trong hàng loạt cố gắng ấy, đặc biệt là cô gái này, Ileana. Công việc đầu tiên của cô sau khi tốt nghiệp cao đẳng là với AmeriCorps Climate, cố gắng khôi phục các vùng đất ngập nước, các vịnh ven biển tiểu bang Louisiana. Hầu hết bạn bè của cô đều ở trong cùng công đoàn của cô, kể cả một số công nhân dầu mỏ chuyển sang. Họ phá bỏ các đường ống dầu cũ, trồng rừng ngập mặn, với mức lương và phúc lợi như cũ. Tất nhiên, khi nói đến việc khôi phục đất đai, chúng ta đã có những thiếu hụt rất lớn trong kiến ​​thức của mình. May mắn là các cộng đồng người bản địa đã cung cấp kiến ​​thức kinh nghiệm truyền thống để hướng dẫn chúng ta. Ileana đã háo hức thử sức với vai trò kỹ sư nhà máy năng lượng mặt trời một thời gian, nhưng rồi cô đã thành công trong việc nuôi dạy thế hệ kế tiếp, vốn là một phần của sáng kiến phổ cập về ​​chăm sóc trẻ em. Hóa ra, chăm sóc đồng loại là công việc có giá trị và ít gây khí thải carbon. Và chúng ta đã bắt đầu trả lương xứng đáng cho giáo viên, người giúp việc gia đình và trợ lý y tế tại nhà. Những năm vừa qua đã có nhiều biến đổi lớn. Tuy không phải tất cả đều tốt. Khi cơn bão Sheldon đánh vào miền nam Florida, nhiều khu vực của Miami đã chìm dưới nước biển lần cuối cùng. Nhưng khi chúng ta chiến đấu với lũ lụt, hỏa hoạn và hạn hán, chúng ta hiểu được mình may mắn như thế nào vì đã bắt đầu hành động từ trước rồi. Và chúng ta đã không chỉ thay đổi cơ sở hạ tầng mà thôi. Chúng ta đã thay đổi cả cách thức chúng ta làm nữa. Chúng ta đã trở thành một xã hội không chỉ hiện đại và giàu có, mà còn xứng đáng và nhân văn nữa. Bằng cách cam kết thực hiện các dân quyền phổ biến như chăm sóc sức khỏe và tạo công việc có ý nghĩa cho tất cả mọi người, chúng ta không còn lo sợ về tương lai. Chúng ta không còn sợ nhau nữa. Và chúng ta đã tìm thấy mục đích chung. Ileana cũng đã nghe thấy lời kêu gọi đó. Năm 2028, cô đã ra tranh cử, trong chu kỳ đầu tiên của các chiến dịch bầu cử được tài trợ từ quỹ công cộng. Và bây giờ cô ấy chiếm giữ chiếc ghế Quốc hội mà tôi đã từng giữ. Tôi không thể tự hào gì hơn nữa về cô ấy, một đứa con thực sự của Green New Deal. Khi tôi nghĩ lại về nhiệm kỳ đầu tiên của mình tại Quốc hội, ngồi trong chiếc tàu điện Amtrak kiểu cũ đó vào năm 2018, khi tất cả những điều này vẫn còn nằm ở phía trước chúng ta, và bước đầu tiên quan trọng nhất mới chỉ là nhắm mắt lại mà tưởng tượng những gì sắp xảy ra. Chúng ta có thể trở thành bất cứ những gì chúng ta có đủ can đảm để nhìn thấy. Phạm Vũ Thịnh dịch 22 Jan 2021 ® "Khi phát hành lại thông tin từ trang này cần phải có sự đồng ý của tác giả và ghi rõ nguồn lấy từ www.erct.com" Cảm tưởng, ý kiến xin gởi về t4phamvu@hotmail.com
1614178347293.1.parquet/55343
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 9740, "url": "http://erct.com/2-ThoVan/PV-Thinh/Thong-diep-tu-tuong-lai.htm" }
136
điều khoản sử dụng Toggle navigation Trang Chủ Về chúng tôi Liên hệ chúng tôi điều khoản sử dụng Chính sách bảo mật Sơ đồ trang web điều khoản sử dụng Điều khoản sử dụng trang web Trang web của Flashation tại https://www.flashation.com/ là một tác phẩm có bản quyền thuộc về Flashation. Một số tính năng nhất định của Trang web có thể tuân theo các nguyên tắc, điều khoản hoặc quy tắc bổ sung, sẽ được đăng trên Trang web liên quan đến các tính năng đó. Tất cả các điều khoản, nguyên tắc và quy tắc bổ sung như vậy được kết hợp bằng cách tham chiếu vào các Điều khoản này. Các Điều khoản Sử dụng này mô tả các điều khoản và điều kiện ràng buộc pháp lý giám sát việc bạn sử dụng Trang web. BẰNG CÁCH ĐĂNG NHẬP VÀO TRANG WEB, BẠN ĐANG TUÂN THỦ RẰNG CÁC ĐIỀU KHOẢN NÀY và bạn tuyên bố rằng bạn có thẩm quyền và năng lực để tham gia vào các Điều khoản này. BẠN NÊN TRÊN 18 TUỔI ĐỂ TRUY CẬP TRANG WEB. NẾU BẠN TỪ CHỐI VỚI TẤT CẢ QUY ĐỊNH CỦA CÁC ĐIỀU KHOẢN NÀY, ĐỪNG ĐĂNG NHẬP VÀ / HOẶC SỬ DỤNG TRANG WEB. Các điều khoản này yêu cầu sử dụng Mục 10.2 trọng tài trên cơ sở cá nhân để giải quyết tranh chấp và cũng giới hạn các biện pháp khắc phục có sẵn cho bạn trong trường hợp có tranh chấp. Truy cập vào trang web Theo các Điều khoản này. Công ty cấp cho bạn giấy phép không thể chuyển nhượng, không độc quyền, có thể thu hồi, hạn chế để truy cập Trang web chỉ cho mục đích sử dụng cá nhân, phi thương mại của riêng bạn. Hạn chế nhất định. Các quyền được phê duyệt cho bạn trong các Điều khoản này phải tuân theo các hạn chế sau: (a) bạn không được bán, thuê, cho thuê, chuyển nhượng, chuyển nhượng, phân phối, lưu trữ hoặc khai thác Trang web với mục đích thương mại; (b) bạn không được thay đổi, tạo ra các tác phẩm phái sinh của, tháo rời, biên dịch ngược hoặc thiết kế đối chiếu bất kỳ phần nào của Trang web; (c) bạn sẽ không truy cập Trang web để xây dựng một trang web tương tự hoặc cạnh tranh; và (d) ngoại trừ được nêu rõ ràng ở đây, không phần nào của Trang web có thể được sao chép, tái tạo, phân phối, tái xuất bản, tải xuống, hiển thị, đăng hoặc truyền dưới bất kỳ hình thức nào hoặc bằng bất kỳ phương tiện nào trừ khi được chỉ định khác, bất kỳ bản phát hành, cập nhật nào trong tương lai hoặc bổ sung khác cho chức năng của Trang web sẽ phải tuân theo các Điều khoản này. Tất cả bản quyền và các thông báo độc quyền khác trên Trang web phải được giữ lại trên tất cả các bản sao của chúng. Công ty có quyền thay đổi, tạm ngừng hoặc ngừng hoạt động Trang web có hoặc không có thông báo cho bạn. Bạn đã chấp thuận rằng Công ty sẽ không chịu trách nhiệm với bạn hoặc bất kỳ bên thứ ba nào về bất kỳ thay đổi, gián đoạn hoặc chấm dứt nào của Trang web hoặc bất kỳ phần nào. Không có hỗ trợ hoặc bảo trì. Bạn đồng ý rằng Công ty sẽ không có nghĩa vụ cung cấp cho bạn bất kỳ hỗ trợ nào liên quan đến Trang web. Loại trừ bất kỳ Nội dung Người dùng nào mà bạn có thể cung cấp, bạn biết rằng tất cả các quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm bản quyền, bằng sáng chế, nhãn hiệu và bí mật kinh doanh, trong Trang web và nội dung của nó thuộc sở hữu của Công ty hoặc các nhà cung cấp của Công ty. Lưu ý rằng các Điều khoản này và quyền truy cập vào Trang web không cung cấp cho bạn bất kỳ quyền, quyền sở hữu hoặc lợi ích nào trong hoặc đối với bất kỳ quyền sở hữu trí tuệ nào, ngoại trừ các quyền truy cập hạn chế được nêu trong Mục 2.1. Công ty và các nhà cung cấp của nó bảo lưu tất cả các quyền không được cấp trong các Điều khoản này. Liên kết & Quảng cáo của Bên Thứ ba; Người dùng khác Liên kết & Quảng cáo của Bên Thứ ba. Trang web có thể chứa các liên kết đến các trang web và dịch vụ của bên thứ ba và / hoặc hiển thị quảng cáo cho các bên thứ ba. Các Liên kết & Quảng cáo của Bên Thứ ba như vậy không thuộc quyền kiểm soát của Công ty và Công ty không chịu trách nhiệm về bất kỳ Liên kết & Quảng cáo của Bên Thứ ba nào. Công ty chỉ cung cấp quyền truy cập vào các Liên kết & Quảng cáo của Bên thứ ba này để tạo sự thuận tiện cho bạn và không xem xét, phê duyệt, giám sát, xác nhận, đảm bảo hoặc đưa ra bất kỳ tuyên bố nào về Liên kết & Quảng cáo của Bên thứ ba. Bạn tự chịu rủi ro khi sử dụng tất cả các Liên kết & Quảng cáo của Bên thứ ba và nên áp dụng mức độ thận trọng và quyết định phù hợp khi làm như vậy. Khi bạn nhấp vào bất kỳ Liên kết & Quảng cáo của bên thứ ba nào, các điều khoản và chính sách hiện hành của bên thứ ba sẽ được áp dụng, bao gồm cả các phương pháp thu thập dữ liệu và quyền riêng tư của bên thứ ba. Người dùng khác. Mỗi người dùng Trang web tự chịu trách nhiệm về bất kỳ và tất cả Nội dung Người dùng của riêng mình. Bởi vì chúng tôi không kiểm soát Nội dung Người dùng, bạn thừa nhận và đồng ý rằng chúng tôi không chịu trách nhiệm về bất kỳ Nội dung Người dùng nào, cho dù do bạn hay người khác cung cấp. Bạn đồng ý rằng Công ty sẽ không chịu trách nhiệm về bất kỳ tổn thất hoặc thiệt hại nào phát sinh do bất kỳ tương tác nào như vậy. Nếu có tranh chấp giữa bạn và bất kỳ người dùng Trang nào, chúng tôi không có nghĩa vụ phải tham gia. Bằng cách này, bạn từ bỏ và vĩnh viễn loại bỏ Công ty và các cán bộ, nhân viên, đại lý, người kế nhiệm và nhiệm vụ của chúng tôi, đồng thời từ bỏ và từ bỏ, mọi tranh chấp, yêu cầu, tranh cãi, yêu cầu, quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý trong quá khứ, hiện tại và tương lai, hành động và nguyên nhân của hành động thuộc mọi loại và tính chất, đã phát sinh hoặc phát sinh trực tiếp hoặc gián tiếp từ, hoặc liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến Trang web. Nếu bạn là cư dân California, theo đây bạn từ bỏ mục 1542 của bộ luật dân sự California liên quan đến những điều đã nói ở trên, trong đó nêu rõ: “một bản phát hành chung không mở rộng đối với các khiếu nại mà chủ nợ không biết hoặc nghi ngờ tồn tại có lợi cho họ tại thời gian thực hiện việc trả tự do mà người đó biết chắc chắn đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc giải quyết của họ với con nợ. ” Tuyên bố từ chối Trang web được cung cấp trên cơ sở “nguyên trạng” và “sẵn có” và công ty và nhà cung cấp của chúng tôi từ chối rõ ràng bất kỳ và tất cả các bảo đảm và điều kiện dưới bất kỳ hình thức nào, dù rõ ràng, ngụ ý hay theo luật định, bao gồm tất cả các bảo đảm hoặc điều kiện về khả năng bán được , sức khỏe cho một mục đích cụ thể, tiêu đề, sự thích thú yên tĩnh, độ chính xác hoặc không vi phạm. Chúng tôi và các nhà cung cấp của chúng tôi không đảm bảo rằng trang web sẽ đáp ứng các yêu cầu của bạn, sẽ có sẵn trên cơ sở liên tục, kịp thời, an toàn hoặc không có lỗi, hoặc sẽ chính xác, đáng tin cậy, không có vi rút hoặc mã độc hại khác, hoàn chỉnh, hợp pháp , hoặc an toàn. Nếu luật hiện hành yêu cầu bất kỳ bảo đảm nào đối với trang web, tất cả các bảo hành đó được giới hạn trong thời hạn chín mươi (90) ngày kể từ ngày sử dụng đầu tiên. Một số khu vực pháp lý không cho phép loại trừ các bảo đảm ngụ ý, vì vậy loại trừ trên có thể không áp dụng cho bạn. Một số khu vực pháp lý không cho phép giới hạn về thời gian bảo hành ngụ ý kéo dài, vì vậy giới hạn trên có thể không áp dụng cho bạn. Giới hạn trách nhiệm Trong phạm vi tối đa được pháp luật cho phép, trong mọi trường hợp, công ty hoặc nhà cung cấp của chúng tôi sẽ không chịu trách nhiệm với bạn hoặc bất kỳ bên thứ ba nào về bất kỳ khoản lợi nhuận bị mất, dữ liệu bị mất, chi phí mua sản phẩm thay thế hoặc bất kỳ gián tiếp, do hậu quả, ví dụ, ngẫu nhiên, các thiệt hại đặc biệt hoặc trừng phạt phát sinh từ hoặc liên quan đến các điều khoản này hoặc việc bạn sử dụng, hoặc không có khả năng sử dụng trang web ngay cả khi công ty đã được thông báo về khả năng xảy ra các thiệt hại đó. Việc truy cập và sử dụng trang web do bạn tự quyết định và chịu rủi ro, và bạn sẽ tự chịu trách nhiệm về bất kỳ thiệt hại nào đối với thiết bị hoặc hệ thống máy tính của mình hoặc mất mát dữ liệu do đó gây ra. Trong phạm vi tối đa được pháp luật cho phép, bất kể điều gì trái ngược được nêu ở đây, trách nhiệm pháp lý của chúng tôi đối với bạn đối với bất kỳ thiệt hại nào phát sinh từ hoặc liên quan đến thỏa thuận này, sẽ luôn bị giới hạn ở mức tối đa là năm mươi đô la Mỹ (tương đương 50 đô la Mỹ). Sự tồn tại của nhiều hơn một yêu cầu sẽ không mở rộng giới hạn này. Bạn đồng ý rằng các nhà cung cấp của chúng tôi sẽ không có bất kỳ trách nhiệm pháp lý nào phát sinh từ hoặc liên quan đến thỏa thuận này. Một số khu vực pháp lý không cho phép giới hạn hoặc loại trừ trách nhiệm đối với các thiệt hại ngẫu nhiên hoặc do hậu quả, do đó, giới hạn hoặc loại trừ trên có thể không áp dụng cho bạn. Thời hạn và Chấm dứt. Theo Mục này, các Điều khoản này sẽ vẫn có hiệu lực đầy đủ trong khi bạn sử dụng Trang web. Chúng tôi có thể đình chỉ hoặc chấm dứt quyền sử dụng Trang web của bạn bất kỳ lúc nào vì bất kỳ lý do gì theo quyết định riêng của chúng tôi, bao gồm cả việc sử dụng Trang web vi phạm các Điều khoản này. Khi chấm dứt quyền của bạn theo các Điều khoản này, Tài khoản và quyền truy cập và sử dụng Trang web của bạn sẽ chấm dứt ngay lập tức. Bạn hiểu rằng bất kỳ việc chấm dứt nào đối với Tài khoản của bạn có thể liên quan đến việc xóa Nội dung Người dùng được liên kết với Tài khoản của bạn khỏi cơ sở dữ liệu trực tiếp của chúng tôi. Công ty sẽ không có bất kỳ trách nhiệm pháp lý nào đối với bạn đối với việc chấm dứt các quyền của bạn theo các Điều khoản này. Ngay cả sau khi các quyền của bạn theo các Điều khoản này bị chấm dứt, các điều khoản sau của các Điều khoản này sẽ vẫn có hiệu lực: Phần 2 đến 2,5, Phần 3 và Phần 4 đến 10. Chính sách Bản quyền. Công ty tôn trọng tài sản trí tuệ của người khác và yêu cầu người dùng Trang web của chúng tôi cũng làm như vậy. Liên quan đến Trang web của chúng tôi, chúng tôi đã thông qua và thực hiện một chính sách tôn trọng luật bản quyền quy định việc xóa mọi tài liệu vi phạm và chấm dứt người dùng Trang web trực tuyến của chúng tôi, những người vi phạm nhiều lần quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm cả bản quyền. Nếu bạn tin rằng một trong những người dùng của chúng tôi, thông qua việc sử dụng Trang web của chúng tôi, vi phạm bất hợp pháp (các) bản quyền của một tác phẩm và muốn xóa tài liệu bị cáo buộc là vi phạm, thì thông tin sau dưới dạng thông báo bằng văn bản (theo đến 17 USC § 512 (c)) phải được cung cấp cho Đại lý Bản quyền được chỉ định của chúng tôi: chữ ký vật lý hoặc điện tử của bạn; xác định (các) tác phẩm có bản quyền mà bạn cho là đã bị vi phạm; xác định tài liệu trên các dịch vụ của chúng tôi mà bạn cho là vi phạm và bạn yêu cầu chúng tôi xóa; thông tin đầy đủ để cho phép chúng tôi xác định vị trí tài liệu đó; địa chỉ, số điện thoại và địa chỉ email của bạn; tuyên bố rằng bạn thực sự tin rằng việc sử dụng tài liệu bị phản đối không được chủ sở hữu bản quyền, đại diện của chủ sở hữu bản quyền hoặc theo luật pháp cho phép; và tuyên bố rằng thông tin trong thông báo là chính xác và sẽ bị phạt nếu khai man, rằng bạn là chủ sở hữu của bản quyền bị cáo buộc đã bị vi phạm hoặc bạn được ủy quyền hành động thay mặt cho chủ sở hữu bản quyền. Xin lưu ý rằng, theo 17 U.S.C. § 512 (f), bất kỳ sự trình bày sai sự thật quan trọng nào trong một thông báo bằng văn bản sẽ tự động khiến bên khiếu nại phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với bất kỳ thiệt hại, chi phí và phí luật sư nào mà chúng tôi phải chịu liên quan đến thông báo bằng văn bản và cáo buộc vi phạm bản quyền. Chung Các Điều khoản này thỉnh thoảng có thể được sửa đổi và nếu chúng tôi thực hiện bất kỳ thay đổi đáng kể nào, chúng tôi có thể thông báo cho bạn bằng cách gửi cho bạn một e-mail đến địa chỉ e-mail cuối cùng mà bạn đã cung cấp cho chúng tôi và / hoặc bằng cách đăng thông báo nổi bật về những thay đổi trên Địa điểm. Bạn có trách nhiệm cung cấp cho chúng tôi địa chỉ e-mail mới nhất của bạn. Trong trường hợp địa chỉ e-mail cuối cùng mà bạn đã cung cấp cho chúng tôi không hợp lệ, việc chúng tôi gửi e-mail có chứa thông báo như vậy sẽ tạo thành thông báo có hiệu lực về những thay đổi được mô tả trong thông báo. Bất kỳ thay đổi nào đối với các Điều khoản này sẽ có hiệu lực sớm nhất trong ba mươi (30) ngày theo lịch sau khi chúng tôi gửi thông báo qua e-mail cho bạn hoặc ba mươi (30) ngày theo lịch sau khi chúng tôi đăng thông báo về những thay đổi trên Trang web của chúng tôi. Những thay đổi này sẽ có hiệu lực ngay lập tức đối với người dùng mới của Trang web của chúng tôi. Việc tiếp tục sử dụng Trang web của chúng tôi sau thông báo về những thay đổi như vậy sẽ cho thấy sự thừa nhận của bạn về những thay đổi đó và đồng ý bị ràng buộc bởi các điều khoản và điều kiện của những thay đổi đó. Giải quyết tranh chấp. Vui lòng đọc kỹ Thỏa thuận Trọng tài này. Đây là một phần trong hợp đồng của bạn với Công ty và ảnh hưởng đến quyền lợi của bạn. Nó chứa các thủ tục để SẮP XẾP RẮN BÓNG XỬ LÝ VÀ BỘ CHỜ HÀNH ĐỘNG LỚP. Khả năng áp dụng của Thỏa thuận trọng tài. Tất cả các khiếu nại và tranh chấp liên quan đến các Điều khoản hoặc việc sử dụng bất kỳ sản phẩm hoặc dịch vụ nào do Công ty cung cấp mà không thể được giải quyết một cách không chính thức hoặc trong các tòa án khiếu nại nhỏ sẽ được giải quyết bằng trọng tài ràng buộc trên cơ sở cá nhân theo các điều khoản của Thỏa thuận Trọng tài này. Trừ khi có thỏa thuận khác, tất cả các thủ tục tố tụng trọng tài sẽ được tổ chức bằng tiếng Anh. Thỏa thuận Trọng tài này áp dụng cho bạn và Công ty, và cho bất kỳ công ty con, chi nhánh, đại lý, nhân viên, người tiền nhiệm, người kế nhiệm và người được chuyển nhượng, cũng như tất cả người dùng hoặc người thụ hưởng được ủy quyền hoặc trái phép của dịch vụ hoặc hàng hóa được cung cấp theo Điều khoản. Yêu cầu Thông báo và Giải quyết Tranh chấp Không chính thức. Trước khi một trong hai bên có thể yêu cầu trọng tài phân xử, trước tiên bên đó phải gửi cho bên kia một Thông báo Tranh chấp bằng văn bản mô tả bản chất và cơ sở của khiếu nại hoặc tranh chấp và yêu cầu cứu trợ. Thông báo cho Công ty sẽ được gửi đến: Flashation. Sau khi nhận được Thông báo, bạn và Công ty có thể cố gắng giải quyết khiếu nại hoặc tranh chấp một cách không chính thức. Nếu bạn và Công ty không giải quyết khiếu nại hoặc tranh chấp trong vòng ba mươi (30) ngày sau khi nhận được Thông báo, một trong hai bên có thể bắt đầu tố tụng trọng tài. Số tiền của bất kỳ đề nghị dàn xếp nào được thực hiện bởi bất kỳ bên nào có thể không được tiết lộ cho trọng tài viên cho đến khi trọng tài viên đã xác định số tiền của phán quyết mà một trong hai bên được hưởng. Quy tắc Trọng tài. Trọng tài sẽ được bắt đầu thông qua Hiệp hội Trọng tài Hoa Kỳ, một nhà cung cấp giải quyết tranh chấp thay thế được thành lập cung cấp trọng tài như quy định trong phần này. Nếu AAA không có sẵn để phân xử, các bên sẽ đồng ý chọn một Nhà cung cấp ADR thay thế. Các quy tắc của Nhà cung cấp ADR sẽ chi phối tất cả các khía cạnh của trọng tài ngoại trừ trường hợp các quy tắc đó xung đột với các Điều khoản. Các Quy tắc Trọng tài Người tiêu dùng AAA điều chỉnh việc phân xử có sẵn trực tuyến tại adr.org hoặc bằng cách gọi cho AAA theo số 1-800-778-7879. Việc phân xử sẽ được tiến hành bởi một trọng tài trung lập, duy nhất. Bất kỳ khiếu nại hoặc tranh chấp nào trong đó tổng số tiền của giải thưởng được yêu cầu ít hơn Mười nghìn đô la Mỹ (10.000 USD) có thể được giải quyết thông qua trọng tài ràng buộc không dựa trên ngoại hình, tùy theo lựa chọn của bên tìm kiếm cứu trợ. Đối với các khiếu nại hoặc tranh chấp trong đó tổng số tiền giải thưởng được yêu cầu là Mười nghìn đô la Mỹ (10.000 USD) trở lên, quyền được điều trần sẽ được xác định theo Quy tắc trọng tài. Bất kỳ điều trần sẽ được tổ chức tại một địa điểm trong phạm vi 100 dặm cư trú của bạn, trừ khi bạn sống bên ngoài Hoa Kỳ, và trừ khi các bên có thỏa thuận khác. Nếu bạn cư trú bên ngoài Hoa Kỳ, trọng tài sẽ thông báo hợp lý cho các bên về ngày, giờ và địa điểm của bất kỳ phiên điều trần bằng miệng nào. Bất kỳ phán quyết nào về phán quyết do trọng tài đưa ra có thể được đưa ra tại bất kỳ tòa án có thẩm quyền nào. Nếu trọng tài cấp cho bạn một phán quyết lớn hơn đề nghị dàn xếp cuối cùng mà Công ty đưa ra cho bạn trước khi bắt đầu phân xử trọng tài, Công ty sẽ trả cho bạn số tiền lớn hơn hoặc $ 2.500.00. Mỗi bên sẽ tự chịu chi phí và các khoản giải ngân phát sinh từ trọng tài và sẽ trả một phần phí và chi phí ngang nhau cho Nhà cung cấp ADR. Quy tắc bổ sung cho Trọng tài không dựa trên ngoại hình. Nếu trọng tài không dựa trên ngoại hình được bầu, trọng tài sẽ được tiến hành qua điện thoại, trực tuyến và / hoặc chỉ dựa trên đệ trình bằng văn bản; cách thức cụ thể sẽ được lựa chọn bởi bên khởi xướng trọng tài. Việc phân xử sẽ không liên quan đến bất kỳ sự xuất hiện cá nhân nào của các bên hoặc nhân chứng trừ khi các bên có thỏa thuận khác. Giới hạn thời gian. Nếu bạn hoặc Công ty theo đuổi trọng tài, hành động trọng tài phải được bắt đầu và / hoặc yêu cầu trong thời hiệu và trong bất kỳ thời hạn nào được áp dụng theo Quy tắc AAA đối với khiếu nại thích hợp. Quyền hạn của Trọng tài. Nếu trọng tài được khởi xướng, trọng tài sẽ quyết định các quyền và nghĩa vụ của bạn và Công ty, và tranh chấp sẽ không được hợp nhất với bất kỳ vấn đề nào khác hoặc liên kết với bất kỳ trường hợp hoặc bên nào khác. Trọng tài sẽ có quyền đưa ra các chuyển động riêng đối với tất cả hoặc một phần của bất kỳ khiếu nại nào. Trọng tài sẽ có thẩm quyền giải quyết thiệt hại bằng tiền và cấp bất kỳ biện pháp khắc phục hoặc cứu trợ phi tiền tệ nào có sẵn cho một cá nhân theo luật hiện hành, Quy tắc AAA và Điều khoản. Trọng tài sẽ đưa ra phán quyết bằng văn bản và tuyên bố quyết định mô tả những phát hiện và kết luận cần thiết làm cơ sở cho phán quyết. Trọng tài có cùng thẩm quyền ra phán quyết trên cơ sở cá nhân mà thẩm phán tại tòa án có thẩm quyền. Phán quyết của trọng tài là quyết định cuối cùng và ràng buộc bạn và Công ty. Miễn trừ Hội đồng xét xử. CÁC BÊN SAU ĐÂY CHỜ CÁC QUYỀN XÁC NHẬN VÀ TRẠNG THÁI CỦA HỌ ĐỂ ĐẾN TÒA ÁN VÀ DÙNG THỬ TRƯỚC MỘT THẨM QUYỀN HOẶC JURY, thay vì chọn rằng tất cả các khiếu nại và tranh chấp sẽ được giải quyết bằng trọng tài theo Thỏa thuận Trọng tài này. Các thủ tục trọng tài thường hạn chế hơn, hiệu quả hơn và ít tốn kém hơn các quy tắc áp dụng tại tòa án và bị tòa án xem xét rất hạn chế. Trong trường hợp có bất kỳ vụ kiện tụng nào nảy sinh giữa bạn và Công ty tại bất kỳ tòa án liên bang hoặc tiểu bang nào để khởi kiện hoặc thực thi phán quyết trọng tài hoặc nếu không, BẠN VÀ CÔNG TY CHỜ TẤT CẢ CÁC QUYỀN ĐỐI VỚI VIỆC DÙNG THỬ THỜI GIAN, thay vì chọn rằng tranh chấp được giải quyết bởi một thẩm phán. Từ bỏ Lớp học hoặc Các Hành động Hợp nhất. Tất cả các khiếu nại và tranh chấp trong phạm vi của thỏa thuận trọng tài này phải được phân xử hoặc tranh tụng trên cơ sở cá nhân chứ không phải trên cơ sở tập thể và các khiếu nại của nhiều khách hàng hoặc người dùng không thể được phân xử hoặc kiện tụng chung hoặc hợp nhất với các khiếu nại của bất kỳ khách hàng nào khác hoặc người dùng. Bảo mật. Tất cả các khía cạnh của thủ tục trọng tài sẽ được bảo mật nghiêm ngặt. Các bên đồng ý giữ bí mật trừ khi pháp luật yêu cầu khác. Đoạn này sẽ không ngăn cản một bên đệ trình lên tòa án pháp luật bất kỳ thông tin nào cần thiết để thực thi Thỏa thuận này, để thực thi phán quyết của trọng tài hoặc để tìm kiếm sự cứu trợ theo lệnh hoặc công bằng. Tính hiệu lực từng phần. Nếu bất kỳ phần nào hoặc các phần của Thỏa thuận Trọng tài này theo luật pháp là không hợp lệ hoặc không thể thi hành bởi tòa án có thẩm quyền, thì phần hoặc các phần cụ thể đó sẽ không có hiệu lực và sẽ bị cắt bỏ và phần còn lại của Thỏa thuận sẽ tiếp tục có hiệu lực đầy đủ. Quyền từ bỏ. Bất kỳ hoặc tất cả các quyền và giới hạn được quy định trong Thỏa thuận Trọng tài này có thể được từ bỏ bởi bên chống lại khiếu nại. Sự từ bỏ đó sẽ không từ bỏ hoặc ảnh hưởng đến bất kỳ phần nào khác của Thỏa thuận Trọng tài này. Hiệu lực của Thỏa thuận. Thỏa thuận Trọng tài này sẽ vẫn tồn tại sau khi bạn chấm dứt mối quan hệ với Công ty. Tòa án yêu cầu nhỏ. Tuy nhiên, những điều đã nói ở trên, bạn hoặc Công ty có thể đưa ra một vụ kiện riêng lẻ tại tòa án khiếu nại nhỏ. Cứu trợ Công bằng Khẩn cấp. Dù sao đi nữa, một trong hai bên có thể tìm kiếm biện pháp giải quyết công bằng khẩn cấp trước tòa án tiểu bang hoặc liên bang để duy trì hiện trạng trong khi chờ phân xử. Yêu cầu về các biện pháp tạm thời sẽ không được coi là sự từ bỏ bất kỳ quyền hoặc nghĩa vụ nào khác theo Thỏa thuận Trọng tài này. Yêu cầu bồi thường không tuân theo trọng tài. Bất chấp những điều đã nói ở trên, các tuyên bố phỉ báng, vi phạm Đạo luật Lạm dụng và Lừa đảo Máy tính cũng như vi phạm hoặc chiếm đoạt bằng sáng chế, bản quyền, nhãn hiệu hoặc bí mật thương mại của bên kia sẽ không phải tuân theo Thỏa thuận Trọng tài này. Trong bất kỳ trường hợp nào mà Thỏa thuận Trọng tài nêu trên cho phép các bên tranh tụng tại tòa án, các bên theo đây đồng ý tuân theo thẩm quyền cá nhân của các tòa án nằm trong Hạt Hà Lan, California, cho các mục đích đó. Trang web có thể tuân theo luật kiểm soát xuất khẩu của Hoa Kỳ và có thể tuân theo các quy định về xuất khẩu hoặc nhập khẩu ở các quốc gia khác. Bạn đồng ý không xuất khẩu, tái xuất khẩu hoặc chuyển giao, trực tiếp hoặc gián tiếp, bất kỳ dữ liệu kỹ thuật nào của Hoa Kỳ có được từ Công ty hoặc bất kỳ sản phẩm nào sử dụng dữ liệu đó, vi phạm luật hoặc quy định về xuất khẩu của Hoa Kỳ. Công ty có trụ sở tại địa chỉ trong Mục 10.8. Nếu bạn là cư dân California, bạn có thể báo cáo khiếu nại cho Đơn vị Hỗ trợ Khiếu nại của Bộ phận Sản phẩm Tiêu dùng của Bộ Tiêu dùng California bằng cách liên hệ với họ bằng văn bản tại 400 R Street, Sacramento, CA 95814, hoặc qua điện thoại theo số (800 ) 952-5210. Truyền thông điện tử. Thông tin liên lạc giữa bạn và Công ty sử dụng các phương tiện điện tử, cho dù bạn sử dụng Trang web hay gửi email cho chúng tôi, hoặc liệu Công ty đăng thông báo trên Trang web hoặc trao đổi với bạn qua email. Đối với các mục đích hợp đồng, bạn (a) đồng ý nhận thông tin liên lạc từ Công ty dưới dạng điện tử; và (b) đồng ý rằng tất cả các điều khoản và điều kiện, thỏa thuận, thông báo, tiết lộ và các thông tin liên lạc khác mà Công ty cung cấp cho bạn bằng phương thức điện tử đáp ứng bất kỳ nghĩa vụ pháp lý nào mà các thông tin liên lạc đó phải đáp ứng nếu nó được viết bằng bản in. Toàn bộ Điều khoản. Các Điều khoản này cấu thành toàn bộ thỏa thuận giữa bạn và chúng tôi về việc sử dụng Trang web. Việc chúng tôi không thực hiện hoặc thực thi bất kỳ quyền hoặc điều khoản nào của các Điều khoản này sẽ không hoạt động như một sự từ bỏ quyền hoặc điều khoản đó. Tiêu đề phần trong các Điều khoản này chỉ nhằm mục đích thuận tiện và không có hiệu lực pháp lý hoặc hợp đồng. Từ “bao gồm” có nghĩa là “bao gồm nhưng không giới hạn”. Nếu bất kỳ điều khoản nào trong các Điều khoản này được coi là không hợp lệ hoặc không thể thực thi, thì các điều khoản khác của các Điều khoản này sẽ không bị thay đổi và điều khoản không hợp lệ hoặc không thể thi hành sẽ được coi là sửa đổi để nó có giá trị và khả thi trong phạm vi tối đa được pháp luật cho phép. Mối quan hệ của bạn với Công ty là mối quan hệ của một nhà thầu độc lập và không bên nào là đại lý hay đối tác của bên kia. Các Điều khoản này, và các quyền và nghĩa vụ của bạn ở đây, không được bạn chuyển nhượng, ký hợp đồng phụ, ủy quyền hoặc chuyển giao theo cách khác mà không có sự đồng ý trước bằng văn bản của Công ty và mọi nỗ lực chuyển nhượng, hợp đồng phụ, ủy quyền hoặc chuyển nhượng vi phạm những điều đã nói ở trên sẽ vô hiệu và vô hiệu. Công ty có thể tự do chuyển nhượng các Điều khoản này. Các điều khoản và điều kiện được nêu trong các Điều khoản này sẽ ràng buộc đối với những người được chuyển nhượng. Quyền riêng tư của bạn. Xin vui lòng đọc chính sách bảo mật của chúng tôi. Thông tin Bản quyền / Nhãn hiệu. Bản quyền ©. Đã đăng ký Bản quyền. Tất cả các nhãn hiệu, biểu tượng và nhãn hiệu dịch vụ được hiển thị trên Trang web là tài sản của chúng tôi hoặc tài sản của các bên thứ ba khác. Bạn không được phép sử dụng các Nhãn hiệu này mà không có sự đồng ý trước bằng văn bản của chúng tôi hoặc sự đồng ý của bên thứ ba có thể sở hữu các Nhãn hiệu đó. Thông tin liên lạc Địa chỉ: Flashation Email: info@flashation.com Tìm kiếm Chia sẻ chúng tôi trên Bài viết mới nhất Hướng dẫn cách tải phần mềm đánh lô đề K8 cho điện thoại Hạn tam tai là gì? Cách giải hạn tam tai chính xác Hướng dẫn cách xin số ông Địa để đánh đề Chia sẻ cách soi cầu 3 càng miền Bắc hiệu quả Tiết lộ một số cách soi cầu lô đề bạch thủ chuẩn xác Twitter Tweets by Lottery_UK Danh mục gần đây Số đề online Quảng cáo Đăng ký chúng tôi Lịch February 2021 M T W T F S S 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 « Oct Copyright © 2021 Flashation Theme: Kodiak Football Sport by JoomSport team Powered by WordPress TO TOP
1614178347293.1.parquet/89566
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 22162, "url": "https://www.flashation.com/dieu-khoan-su-dung/" }
136
4 yếu tố ảnh hưởng và 7 chiến thuật xây dựng thương hiệu cao cấp - Push - Media Consultant VỀ CHÚNG TÔI DỊCH VỤ DỰ ÁN Chuyện “ngành” Menu VỀ CHÚNG TÔI DỊCH VỤ DỰ ÁN Chuyện “ngành” Facebook Twitter Youtube Liên Hệ 4 yếu tố ảnh hưởng và 7 chiến thuật xây dựng thương hiệu cao cấp Share on: Share on facebook Share on linkedin Share on twitter Share on telegram Table of Contents Trong nền tảng toàn cầu hoá cùng sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, chân dung khách hàng cao cấp hiện nay đã thay đổi và nhu cầu cũng được nâng cao. Khuynh hướng cạnh tranh trong ngành hàng xa xỉ đang được mở rộng hơn bao giờ hết. Quan niệm truyền thống định nghĩa thương hiệu cao cấp là sản phẩm có lợi nhuận biên cao do nguyên vật liệu quý, gia công tỉ mỉ, số lượng hạn chế, etc. Cụ thể, thương hiệu cao cấp không những đắt về giá bán, mà còn mang lại những trải nghiệm độc nhất vô nhị, từ chất liệu hiếm có (như một chiếc túi làm từ da cá sấu thật), sự đắt tiền hiếm có (một chiếc điện thoại hay bất cứ thứ gì được nạm vàng hay đính kim cương), sự kỳ công hiếm có (một chiếc xe hơi được gia công thủ công và làm từ những chất liệu ít thấy trong ngành), hay đơn giản là sự độc quyền hay quý hiểm về số lượng (chỉ những người giàu có nhất mới “được quyền” trải nghiệm mua sắm những mặt hàng này). Mức giá ngất ngưởng của sản phẩm được thể hiện qua sự kết hợp hoàn hảo giữa thiết kế, sự cao cấp, sáng tạo, quý hiếm, độc đáo cùng chất lượng vượt trội, sản phẩm được sản xuất tỉ mỉ và định vị cao cấp. Trong nền tảng toàn cầu hoá cùng sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, chân dung khách hàng cao cấp hiện nay đã thay đổi và nhu cầu cũng được nâng cao. Thế nhưng, thời thế đã thay đổi khái niệm về “thương hiệu cao cấp” cũng như nhóm khách hàng cao cấp. Trong nền tảng toàn cầu hoá cùng sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, chân dung khách hàng cao cấp hiện nay đã thay đổi và nhu cầu cũng được nâng cao. Khuynh hướng cạnh tranh trong ngành hàng xa xỉ đang được mở rộng hơn bao giờ hết. Hiện nay, việc cung cấp cho khách hàng trải nghiệm “mua sắm cao cấp” trong và ngoài cửa hàng, trên online và cả offline, trước và sau khi mua hàng, có vai trò ngày càng quan trọng. Do đó, những thương hiệu dù cao cấp, mới ra hay lâu đời, mà mong muốn trở thành người dẫn đầu thì nhất thiết phải tìm ra lối đi mới với những “luật chơi” dẫn dắt ngành công nghiệp “xa xỉ” này. A. 4 yếu tố ảnh hưởng đến chiến lược xây dựng thương hiệu cao cấp 1. Sự phát triển của công nghệ Công nghệ là yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến các thương hiệu cao cấp. Một ví dụ gần đây. Trước đây, những chiếc đồng hồ Thụy Sĩ với thiết kế cổ điển và độ chính xác cao là biểu tượng của thời trang và đẳng cấp. Giờ thì một chiếc Apple Watch mới ra đời làm từ chất liệu vàng hay ceramic cao cấp, được bán với giá 10,000usd, cũng có thể được xem là cao cấp và cố tình cạnh tranh trong phân khúc những người xem đồng hồ như một phụ kiện thời trang. Apple có đầy đủ các thuộc tính của một sản phẩm cao cấp: thương hiệu, chất liệu, sự quý hiếm, giá cả. Hơn thế, Apple Watch còn có thể mang lại trải nghiệm sử dụng sản phẩm đa dạng hơn hẳn một chiếc đồng hồ Thụy Sĩ. Theo đó, những thương hiệu cao cấp ngày nay cần phải tư duy đổi mới về trải nghiệm sản phẩm nhằm duy trì lợi thế cạnh tranh trên thị trường. 2. Gắn kết theo xu hướng cá nhân hoá Trong cuộc chiến giành giật “hầu bao” của khách hàng, các thương hiệu cao cấp phải chứng minh giá trị họ đem đến là xứng đáng với số tiền mà khách hàng bỏ ra. “Quần áo tôi mặc trên người, chiếc điện thoại tôi cầm trên tay, chuyến đi du lịch tôi chọn, chiếc xe tôi lái, thực phẩm tôi ăn… tất cả đều phản ánh con người tôi” – đó là khẳng định thường thấy từ những khách hàng tinh tế, và hằng ngày có vô vàn thương hiệu từ xa xỉ đến bình dân nỗ lực chiếm lấy trái tim, tâm trí và túi tiền của họ. Khách hàng cao cấp tìm kiếm thương hiệu và trải nghiệm cao cấp để thể hiện đẳng cấp của bản thân và con người mà họ mong muốn trở thành. Xây dựng thương hiệu dựa trên nền tảng khách hàng quan trọng hơn bao giờ hết. Hình bản quyền bởi StockUnlimited. Xây dựng thương hiệu dựa trên nền tảng khách hàng quan trọng hơn bao giờ hết. Những lựa chọn về trang sức, phụ kiện, sản phẩm làm đẹp, xe hơi và thậm chí quán cafe đều nói lên tính cách người sử dụng. Thực tế, những điều này quan trọng và chính là những điều mà thương hiệu đại diện. Do đó, mặc dù chất lượng là yếu tố tạo nên thành công cho mặt hàng xa xỉ, nhưng giá trị cảm xúc cùng mối quan hệ bền chặt và cá nhân hoá giữa thương hiệu và khách hàng là điều mà bất kì nhãn hàng nào muốn trụ vững trong ngành xa xỉ phẩm đều không thể bỏ qua. 3. Tích hợp Digital vào trải nghiệm cao cấp Sự phát triển không ngừng của digital và social đã đem đến cho khách hàng vô số những lựa chọn chỉ bằng vài cú click chuột. Người tiêu dùng ngày nay dễ dàng “nâng cấp” tiêu dùng bằng cách mua sản phẩm cao cấp hoặc “hạ thấp” tiêu dùng trong việc mua những sản phẩm thay thế rẻ tiền hơn khi đưa ra quyết định mua hàng. Những thương hiệu cao cấp nên xem đây là cơ hội để mang nhiều trải nghiệm đến nhiều khách hàng hơn, ngay cả những nơi không phải là cửa hiệu bán lẻ. Theo đó, các thương hiệu cao cấp đã thay đổi chiến lược nhằm tối đa hoá sức mạnh của digital để thúc đẩy tăng trưởng kinh doanh. Các thương hiệu bắt đầu sử dụng thương mại điện tử cùng digital marketing / tiếp thị di động / mạng xã hội, đưa những hoạt động này vào chiến lược kinh doanh của mình. Đơn cử phải kể đến chiêu thức bán hàng gây tranh cãi trong ngành thời trang xa xỉ “See Now Buy Now” hay là “Shopping the runway”, nghĩa là kiểu vừa trình diễn vừa bán hàng ngay tại show thời trang. Chiêu thức này làm giảm rào cản trong việc mua hàng và loại bỏ thời gian tương đối dài giữa những thiết kế mà người xem thấy trên sàn diễn và khi họ có thể mua sản phẩm tương tự tại cửa hàng. Bằng cách tận dụng những người gây ảnh hưởng trên social media, những thương hiệu cao cấp có thể tạo ra cộng đồng khách hàng trung thành, sau đó chính những người khách hàng này sẽ thu hút thêm nhiều đối tượng mua sắm mới. Ngoài ra, một vài thương hiệu mạnh biết sử dụng social media marketing để tiếp cận với nhiều khách hàng mới, đem đến cho người họ cái nhìn sâu hơn về thế giới trải nghiệm cao cấp. Đó là những clip hậu trường, những cuộc phỏng vấn với nhà thiết kế và những chuyến “tham qua ảo” các studio thiết kế nhanh chóng thu hút và gây ấn tượng hơn với khách hàng, so với những quảng cáo truyền thống trên báo và tạp chí. Với sự tham gia ngày một thường xuyên của khách hàng, các thương hiệu nếu muốn thành công phải tìm ra cách để khác biệt với các đối thủ cạnh tranh, tạo ra lượng theo dõi trung thành cũng như cộng đồng khách hàng rộng lớn. Chiêu thức bán hàng “See Now Buy Now” đã làm giảm rào cản trong việc mua hàng. Ảnh: ELSA Corp. 4. Phổ thông hoá hàng cao cấp Hàng cao cấp có giá cả phải chăng (affordable premium) là khái niệm tương đối mới, nhưng khái niệm này ngày càng phát triển và mở rộng. Thay vì tập trung vào một dòng sản phẩm, một trải nghiệm và một phân khúc khách hàng cao cấp, các thương hiệu cao cấp có thể đa dạng hoá danh mục sản phẩm của mình để phục vụ cho những đối tượng không có khả năng chi trả quá cao nhưng khát khao sự trải nghiệm xa xỉ mà thương hiệu mang lại. Mục đích của những hoạt động này là tiếp cận nhóm khách hàng tầm trung – mà chiếm tỉ trọng lớn – sử dụng sản phẩm trung cao cấp (premium mass) mà không làm hạ thấp giá trị thương hiệu hay khiến nhóm khách hàng cao cấp rời bỏ thương hiệu. Ví dụ, hai hãng xe Mercedes và BMW bổ sung vào danh mục sản phẩm thêm các thiết kế xe nhỏ hơn, có giá cả phải chăng hơn so với các sản phẩm còn lại. Các thương hiệu thời trang cao cấp như Chanel và Dior thu hút khách hàng tiềm năng bằng cách đầu tư mạnh vào các lĩnh vực như mỹ phẩm hoặc nữ trang. Mặc dù chiến lược này không phải là điều gì mới, tuy nhiên nó đóng vai trò ngày càng quan trọng trong sự thành công của thương hiệu. Hình bản quyền bởi StockUnlimited. B. 7 chiến thuật hiệu quả khi xây dựng thương hiệu cao cấp Mỗi năm, Kantar Vermeet cộng tác cùng công ty nghiên cứu thị trường Kantar Millward Brown và tập đoàn quảng cáo WPP để xuất bản bảng xếp hạng “BrandZ Global Top 100 brands”, trong đó có một bảng xếp hạng dành cho “Top 100 Luxury Brands”. 7 chiến thuật hiệu quả được đúc kết dựa trên báo cáo đó. 1. Di sản thương hiệu (Heritage) Mỗi thương hiệu cao cấp đều có câu chuyện về lịch sử hình thành. Heritage Branding (tạm dịch: Tiếp thị Di sản Thương hiệu) là cách mỗi thương hiệu kể về câu chuyện của mình để tạo ra kết nối cảm xúc với khách hàng. Ngày nay, “Heritage” (tạm dịch: Di sản) là yếu tố quan trọng để xây dựng thương hiệu cao cấp. Những thương hiệu đã có chỗ đứng trong thị trường cần quảng bá di sản của mình, còn những thương hiệu mới cần tìm ra một định nghĩa cụ thể của di sản, hay một câu chuyện thương hiệu thực chất. Di sản thể hiện mục đích tồn tại, chứng minh nguồn gốc, tính thực chất và quyền lực của thương hiệu. Bằng cách truyền đạt câu chuyện ẩn sau mỗi thương hiệu, khách hàng sẽ cảm thấy gắn bó hơn với những thứ họ sở hữu. Hơn thế nữa, truyền thông về câu chuyện di sản thương hiệu còn giúp xây dựng lòng tin cho những khách hàng mới. Đặc biệt những đối tượng khách hàng trẻ đánh giá cao giá trị của di sản hơn các nhóm đối tượng khác. Không chỉ vì họ là nhóm khách hàng có ý thức, mà còn vì họ đôi lúc không tự tin vào sự lựa chọn mua sắm của bản thân do thiếu kinh nghiệm sống. Vì thế, quảng bá di sản thương hiệu đặc biệt phù hợp với nhóm đối tượng này nhằm giúp họ cảm thấy thoải mái và tự tin hơn khi thực hiện quyết định mua sắm. Truyền thông về câu chuyện di sản thương hiệu còn giúp xây dựng lòng tin cho những khách hàng mới. Hình bản quyền bởi StockUnlimited. 2. Khẳng định sự phù hợp (Relevance) Trong khi lịch sử thương hiệu mang lại ý nghĩa và nền tảng vững chắc, khẳng định sự phù hợp nghĩa là việc thiết lập một chỗ đứng của thương hiệu trong hiện tại và tương lai. Sự phù hợp này cần phải có sự gắn kết với di sản thương hiệu mà chúng tôi nói bên trên. Chẳng hạn, thương hiệu Chanel có thể kết nối triết lý của Coco Chanel với định vị mới của họ là “thời trang sexy và táo bạo”. Một số thương hiệu khác thì cần phải xây dựng thêm các thuộc tính mới cho các ngành hàng mới, ví dụ: Hermès không hề giấu đi các biểu tượng cổ điển khi mở rộng thương hiệu qua các sản phẩm khác như khăn quàng cổ, đồ sứ và sản phẩm công nghệ đeo trên người. Đối với nhiều thương hiệu, sự phù hợp thể hiện qua sự kết hợp khéo léo giữa cũ và mới trong cách truyền thông đến đối tượng mục tiêu. Quảng cáo trên tạp chí và báo là cách tuyệt vời để tiếp cận nhóm khách hàng cổ điển và tinh tế, trong khi nhóm khách hàng trẻ thích được tiếp cận qua truyền thông xã hội, digital, trực tiếp và cá nhân hoá. Ví dụ, chiến thuật sử dụng người nổi tiếng thường khá hiệu quả để thể hiện sự phù hợp. Gwyneth Paltrow và Anne Hathaway thường xuyên mặc thiết kế của Valentino, qua đó thu hút nhiều khách hàng cao cấp. Ở góc nhìn khác, hình ảnh của Kendall Jenner (Estée Lauder) và Elle Fanning (Tiffany) được các thương hiệu sử dụng để truyền thông trên social nhằm giới thiệu thương hiệu đến thế hệ trẻ. Còn Dior có đến 13,000 bình luận nhắc đến thương hiệu khi họ kết nối với ngôi sao nữ đang lên Jennifer Lawrence trên mạng xã hội vào tháng 1/2016. Tất cả những hoạt động kể trên đều chứng minh sự kết hợp giữa người nổi tiếng và thương hiệu, khi được tận dụng đúng cách, có thể đem lại kết quả tuyệt vời. Cho dù sử dụng cách tiếp cận khác nhau, các thương hiệu thành công cần thể hiện sự phù hợp với khách hàng bất kể độ tuổi, qua đó giữ câu chuyện thương hiệu được kết nối xuyên suốt với các thế hệ người tiêu dùng. 3. Tạo ra một Biểu tượng của thương hiệu (Iconic) Sau khi kết hợp thành công di sản, ý nghĩa và giá trị thương hiệu thành một câu chuyện độc đáo và đáng tin cậy, một thương hiệu thành công sẽ cô đọng và chuyển hoá câu chuyện ấy thành một tập hợp các biểu tượng và nhận diện thương hiệu. Các biểu tượng có nhiều vai trò quan trọng: chúng đại diện cho câu chuyện mà thương hiệu muốn kể với khách hàng, thương hiệu được nhận diện một cách nhanh chóng, khẳng định giá trị của người sử dụng sản phẩm của thương hiệu và tạo hiệu ứng lan toả cho giá trị thương hiệu. Thương hiệu thành công cần thể hiện sự phù hợp với khách hàng bất kể độ tuổi, qua đó giữ câu chuyện thương hiệu được kết nối xuyên suốt với các thế hệ người tiêu dùng. Trong quá khứ, logo được sử dụng như biểu tượng của thương hiệu. Tuy nhiên, khách hàng cao cấp ngày nay có phản ứng không tích cực với xu hướng này. Các biểu tượng ngày nay được đa dạng thành các hoạ tiết, đồ trang trí hay thậm chí một thực thể, tất cả đều thể hiện tinh tế các lợi ích của một biểu tượng tốt. Ví dụ, Cartier Love Bracelet thể hiện quan điểm của thương hiệu về tình yêu và khẳng định giá trị của người đeo chúng. Hoạ tiết Love của hãng có được mức độ nhận biết đủ rộng để mở rộng lên các sản phẩm khác ngoài vòng tay nói riêng và giúp nâng cao giá trị thương hiệu Cartier. Một ví dụ thú vị khác là áo Parka của thương hiệu Canada Goose. Chiếc áo khoác này đại diện cho di sản của thương hiệu, được làm từ lông ngỗng nên đem đến không những lợi ích lý tính mà còn lợi ích cảm tính cho người sử dụng. Sau cùng thì chiếc áo Parka này còn tạo hiệu ứng lan toả giúp thương hiệu dễ dàng mở rộng các sản phẩm áo khoác khác. 4. Tương tác với khách hàng, đừng chỉ nói chuyện một chiều Để kể câu chuyện thương hiệu và xây dựng sự khát khao, một thương hiệu cao cấp cần tương tác thường xuyên với khách hàng. Nhưng cần lưu ý rằng, để làm được điều đó, thương hiệu phải tạo nội dung mà khách hàng muốn xem, thông qua các kênh truyền thông họ ưa thích. Với mức giá “đắt đỏ” và định vị của các sản phẩm cao cấp, sự tương tác rộng rãi không phải là điều mà thương hiệu cao cấp nào cũng muốn làm hay có thể làm được. Tuy nhiên, một số chiến thuật đã thành công trong việc gia tăng sự tương tác giữa thương hiệu và khách hàng mà không hề làm mất “chất” cao cấp của thương hiệu. Cụ thể là chiến thuật về gia tăng trải nghiệm cao cấp của thương hiệu (brand experience) và những bộ sưu tập giới hạn (limited edition). Ngày càng nhiều thương hiệu cao cấp đem trải nghiệm đến khách hàng dưới hình thức video. Chẳng hạn như video live-streaming những buổi trình diễn thời trang hoặc cảnh hậu trường, giúp khách hàng không cảm thấy xa cách với thế giới thời trang hàng hiệu “xa xỉ”. Nghiên cứu cho thấy rằng khách hàng trẻ tuổi ngày càng quan tâm về các video hậu trường. Họ cảm thấy rằng những video này không giống quảng cáo truyền thống, ngoài ra còn khiến họ gắn kết hơn với thương hiệu họ quan tâm. Bên cạnh đó, một số thương hiệu cao cấp đã và đang cho ra đời nhiều bộ sưu tập giới hạn (limited edition), hoặc hợp tác với các nhà thiết kế. Prada đã thực hiện chiến lược kinh doanh chớp nhoáng bằng hình thức flash sales (một sự kiện giảm giá chỉ mở bán trong một khoảng thời gian nhất định) hoặc các phiên bản thiết kế đặc biệt với số lượng giới hạn để kết nối với khách hàng, bắt kịp với xu hướng và đồng thời duy trì tính độc quyền của thương hiệu. Một số thương hiệu cao cấp đã và đang cho ra đời nhiều bộ sưu tập giới hạn (limited edition), hoặc hợp tác với các nhà thiết kế. Hình bản quyền bởi StockUnlimited. Những “ông lớn” bán lẻ như H&M, Target cho phép các nhà thiết kế cao cấp như Versace, Karl Lagerfeld, Marni hay Isabel Marant được tiếp cận với đông đảo khách hàng trong khi vẫn thúc đẩy các cải tiển và duy trì giá trị cốt lõi của thương hiệu. Mặc dù chiến lược này khiến các thương hiệu cao cấp có thể gặp rủi ro về việc định vị hình ảnh trong tâm trí khách hàng thành các thương hiệu “cao cấp” sản xuất đại trà. Tuy nhiên, thực tế chiến lược này đã được triển khai thành công vì các hoạt động xây dựng thương hiệu cao cấp rất khác biệt và có giới hạn, khiến thương hiệu trong mắt khách hàng ngày càng đặc biệt và độc quyền. 5. Trách nhiệm xã hội (Give-back) Phần đông khách hàng cảm thấy các thương hiệu cao cấp nên thể hiện trách nhiệm với xã hội, do đó nhiều thương hiệu cao cấp đang đóng góp cho xã hội thông qua các hoạt động từ thiện hoặc giáo dục. Các hoạt động từ thiện nổi lên như nhân tố cần thiết trong việc xây dựng hình ảnh và nổi bật giá trị thương hiệu cao cấp. Chẳng hạn, Tod’s – thương hiệu thời trang da cao cấp của Ý đã quyên góp 33 triệu đôla để khôi phục Đấu trường La Mã ở Rome. Tod’s được quyền sử dụng hình ảnh của Đấu trường Colosseum cho đến hai năm sau khi hoàn thành công việc. Nhằm đẩy lùi nghi ngờ của dư luận, người sáng lập công ty, ông Diego Della Valle, đã tuyên bố rằng sự tài trợ này hoàn toàn phục vụ cho mục đích từ thiện. Hay bộ sưu tập B.zero1 của thương hiệu Bulgari, nằm trong chiến dịch #RaiseYourHand đã thu về hơn 50 triệu đôla cho tổ chức Save the Children, một tổ chức tuyên truyền quyền trẻ em và cứu trợ trẻ em ở các nước đang phát triển. Sự đóng góp của Bulgari hướng tới các sáng kiến ​​giáo dục và cải thiện cơ sở hạ tầng trường học. Chiến dịch nhận được sự quan tâm đông đảo của báo chí và hàng loạt người nổi tiếng đã lên tiếng tham gia cùng thương hiệu. https://youtube.com/watch?v=ZDMTIeHo1TY%3Frel%3D0 Những hoạt động từ thiện này không những giúp lan rộng nhận thức về xã hội và thương hiệu mà còn làm cho khách hàng cảm thấy đã đóng góp vào giá trị thặng dư cho cộng đồng khi mua một sản phẩm của thương hiệu. Qua đó, tăng mức độ thiện cảm với công chúng và tăng giá trị thương hiệu của doanh nghiệp với khách hàng tiềm năng. 6. Sáng tạo trải nghiệm độc đáo Một số thương hiệu cao cấp tập trung cung cấp trải nghiệm mang chất riêng của thương hiệu cả trong và ngoài cửa hàng. Họ ngày càng sáng tạo hơn trong việc phục vụ các “thượng đế” của mình. Chẳng hạn một ly sâm panh cũng đủ để làm khách hàng cảm thấy có giá trị và thoải mái khi mua sắm. Một số thương hiệu còn đi xa hơn trong việc tạo ra một trải nghiệm độc đáo, như sử dụng dịch vụ giao hàng tức thì hoặc bằng xe limousine để đảm bảo với khách hàng rằng mua sắm tại cửa hàng cũng thuận tiện như mua sắm trực tuyến. Ngoài ra, các thương hiệu còn tập trung đầu tư vào trải nghiệm công nghệ với đầy đủ các thiết bị hiện đại để tương tác với khách hàng tại cửa hàng. Ví dụ điển hình như Gucci, hãng này trang bị tại các cửa hàng ở Milan với các màn hình có kích thước đủ lớn để khiến khách hàng như được ngồi “ghế nóng” xem tận mắt các bộ sưu tập của hãng, trong khi vẫn cung cấp các trải nghiệm mua sắm cao cấp khác. Còn Chanel hợp tác với Kiến trúc sư Zaha Hadid để đưa nghệ thuật và văn hoá của các thành phố lớn trên thế giới vào các bộ sưu tập đặc biệt của thương hiệu. Triển lãm của hãng Alexander McQueen tổ chức trong Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan tại New York đã thu hút 661.509 khách đến tham quan bảo tàng, nằm trong top 8 các triển lãm được thăm quan nhiều nhất trên thế giới. Để kể câu chuyện thương hiệu và xây dựng sự khát khao, thương hiệu cao cấp cần tương tác thường xuyên với khách hàng. 7. Chú trọng vào nhân viên Những người đứng sau một thương hiệu, từ người chịu trách nhiệm trực tiếp cho thiết kế, đến bộ phận sản xuất, tiếp thị và nhân viên bán hàng, đều là nhân tố quan trọng tạo nên một thương hiệu cao cấp. Những cá nhân này cần thực sự tin tưởng vào thương hiệu mà họ làm, sống cùng thương hiệu đó mỗi ngày ngay cả ngoài giờ làm việc, qua đó, truyền tình yêu mà họ dành cho thương hiệu đến với khách hàng. Vì vậy, giữ nhân viên luôn hạnh phúc và cảm thấy có động lực, cho họ thấy rằng họ là một phần của một gia đình tạo nên thương hiệu mà họ đang cống hiến, chính là cách tốt nhất để giữ thương hiệu sống mãi cùng thời gian. Hiện thực hoá 7 chiến thuật Sau cùng thì, khái niệm “cao cấp” chính là trạng thái của suy nghĩ. Để chiếm lĩnh trạng thái này trong tâm trí khách hàng, các thương hiệu phải đem đến chất lượng vượt trội trong từng sản phẩm và chứng minh chất lượng đó thông qua một mục đích sâu sắc, một di sản đáng lưu truyền, truyền thông một cách phù hợp với thông điệp có ý nghĩa, chú trọng vào nhân viên và tạo ra các trải nghiệm sáng tạo so với các đối thủ cạnh tranh. C. Case-studies 1. Burberry Vào giữa những năm 2000, các sản phẩm giá rẻ và hàng nhái đã làm tổn hại nghiêm trọng đến hình ảnh của Burberry. Tuy nhiên sau đó thương hiệu đã cố gắng khẳng định lại sự phù hợp bằng cách kết hợp giữa di sản và hình ảnh thương hiệu hiện tại, qua đó kết nối với khách hàng mới. Chiến lược được thực thi với mục tiêu quay lại khai phá câu chuyện di sản thương hiệu, quay về câu chuyện họ đã lớn lên từ một cửa hiệu thời trang ngoài trời ở Anh như thế nào, và họ đầu tư cho chất lượng sản phẩm cao cấp ra sao. Hơn thế nữa, Burberry luôn tiếp tục đổi mới: thương hiệu đã bắt đầu live-stream các buổi trình diễn thời trang của hãng; thu hút sự tham gia của khách hàng thông qua các chiến dịch social media độc đáo như Burberry Acoustic và Burberry Kisses; thiết kế lại cửa hàng chủ lực nhằm kết hợp các yếu tố công nghệ và thương mại điện tử để đem đến cho khách hàng trải nghiệm đa kênh của hãng. https://youtube.com/watch?v=LRiZMVEIhas%3Frel%3D0 Các hoạt động trên giúp Burberry tăng doanh thu đáng kể, giá cổ phiếu của thương hiệu này tăng gấp ba lần và giúp hãng trở thành thương hiệu cao cấp được theo dõi nhiều nhất trên Facebook. Chanel Chanel đem đến câu chuyện về lịch sử hình thành với 12 chương trên website nhằm thể hiện di sản và hệ thống nhận diện thương hiệu. Câu chuyện được tái hiện qua những video ngắn bằng những bản vẽ phác thảo, sau đó được chuyển thể lên máy tính. Bên cạnh đó, một số chương đặc sắc còn được thể hiện qua những bộ sưu tập hình ảnh vô cùng sống động. Valentino Valentino Garavani tạo ra bảo tàng kĩ thuật số tái hiện thương hiệu này trong năm thập kỉ vừa qua nhằm làm nổi bật di sản thương hiệu và kết nối với khách hàng trực tuyến. Trang web thu hút khách tham quan truy cập và tìm hiểu về những chiến dịch, những tấm ảnh chụp trên thảm đỏ và những bài tư liệu từ quá khứ, tất cả đều được trưng bày trong bảo tàng. Bảo tàng này cũng thu hút hàng ngàn lượt tham quan từ sinh viên, nhà thiết kế và những người làm trong ngành thời trang đến để thưởng thức thành quả của thương hiệu này. https://youtube.com/watch?v=MT0BWeLpe78%3Frel%3D0 Diane Von Furstenberg Năm 2010, Diane Von Furstenberg và Quỹ gia đình Diller-von Furstenberg tạo nên chương trình “DVF Awards” để tôn vinh những phụ nữ phi thường có lòng can đảm, sức mạnh nội tại mạnh mẽ và khả năng lãnh đạo để truyền cảm hứng cho các thế hệ sau. Lễ trao giải không chỉ vinh danh thành tựu của những người phự nữ, mà còn tôn vinh triết lý của thương hiệu, từ đó tạo động lực cho tất cả phụ nữ trở nên quyến rũ, tự tin và tự hào trở thành con người mà cô ấy mong muốn. https://youtube.com/watch?v=b3wbgyA-YG4%3Frel%3D0 Shinola Shinola là một thương hiệu thời trang cao cấp của Mỹ chuyên về đồng hồ, xe đạp và hàng da. Thương hiệu này được thành lập vào năm 2011 để “vực dậy” câu chuyện Mỹ của thành phố Detroit, bằng cách đưa ngành công nghiệp sản xuất vang bóng một thời quay trở lại thế kỉ 21. Mặc dù đang trong quá trình trở thành một thương hiệu cao cấp, Shinola đã thành công trong việc thiết lập lịch sử thành lập của hãng và truyền đạt thông tin này đến người tiêu dùng. Từ khi có cụm “DETROIT” trong logo đến trong tagline “Where American Made”, gần như thương hiệu này luôn gắn liền với ba màu sắc là đỏ, trắng và xanh dương. Việc này làm khách hàng sở hữu những sản phẩm của Shinola cảm thấy tự hào và muốn chia sẻ câu chuyện của mình với bạn bè vì Shinola làm cho họ cảm thấy mỗi khách hàng chính là đại diện của đất nước Mỹ. Don't forget to share this post! Share on: Share on facebook Facebook Share on linkedin LinkedIn Share on twitter Twitter Share on telegram Telegram Share on: Share on facebook Share on linkedin Share on twitter Share on telegram Related Posts KIẾN THỨC 6 nhân tố của một Account Manager giỏi August 19, 2020 KIẾN THỨC Làm thế nào để đặt KPIs đúng cho viral video: Bài học từ Google BrandLab August 19, 2020 KIẾN THỨC Xây dựng “cỗ máy insight”: Unilever đã khám phá những sự thật ngầm hiểu như thế nào? (Phần 1) August 19, 2020 Still have questions about how Omisell's can help your business? Contact Us VỀ CHÚNG TÔI DỊCH VỤ DỰ ÁN Chuyện “ngành” Menu VỀ CHÚNG TÔI DỊCH VỤ DỰ ÁN Chuyện “ngành” contact@push.vn © All Rights Reserved 2020
1614178347293.1.parquet/11145
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 20622, "url": "https://push.vn/4-yeu-to-anh-huong-va-7-chien-thuat-xay-dung-thuong-hieu-cao-cap/" }
135.4
Chính sách bảo mật - Các điều khoản - Money Chains Skip to main content Money Chains Blog chia sẻ với bạn những gì chúng tôi đã học được về viết blog và kinh doanh trực tuyến Trang chủ Giới Thiệu Blog Blog Tutorial Online marketing tips SEO guides Liên Hệ Chính sách bảo mật – Các điều khoản TRANG NÀY NGOÀI RA CHÍNH SÁCH BẢO MẬT VÀ ĐIỀU KHOẢN SỬ DỤNG CỦA CHÚNG TÔI. VUI LÒNG ĐỌC KỸ CHÚNG TRƯỚC KHI SỬ DỤNG TRANG WEB NÀY. Bằng cách sử dụng moneychain.xyz (còn được gọi là “Trang web”), bạn đồng ý với các chính sách được liệt kê trên trang này. Chính sách Bảo mật của chúng tôi, cùng với Điều khoản Sử dụng của chúng tôi, mô tả các yếu tố có thể ảnh hưởng đến nội dung biên tập của chúng tôi, thông tin cá nhân mà chúng tôi thu thập thông qua Trang web của mình, cách chúng tôi thu thập thông tin đó và các bên nào, nếu có, sẽ có quyền truy cập vào nó. Bằng cách sử dụng Trang web, được sở hữu và điều hành bởi MonstarX, bạn chấp nhận một cách rõ ràng, không giới hạn hoặc đủ điều kiện, các hoạt động của chúng tôi xung quanh việc thu thập, sử dụng, và chia sẻ thông tin cá nhân do bạn cung cấp theo cách được mô tả trên Trang Chính sách này. Nếu bạn không đồng ý với các điều khoản trên Trang Chính sách này, vui lòng không truy cập, duyệt hoặc sử dụng Trang web này. Chúng tôi khuyến khích bạn xem lại Trang Chính sách này bất cứ khi nào bạn sử dụng hoặc truy cập Trang web để được cập nhật thông tin về thực tiễn thông tin cá nhân của chúng tôi và những cách bạn có thể giúp bảo vệ quyền riêng tư của mình. LIÊN HỆ CHI TIẾT Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào về chính sách của chúng tôi, vui lòng liên hệ với chúng tôi. Địa chỉ email: [email protected] Điều rất quan trọng là thông tin chúng tôi nắm giữ về bạn phải chính xác và cập nhật. Vui lòng cho chúng tôi biết nếu bất kỳ lúc nào thông tin cá nhân của bạn thay đổi bằng cách gửi email cho chúng tôi theo địa chỉ [email protected] CHÍNH SÁCH BẢO MẬT CÁCH CHÚNG TÔI THU THẬP DỮ LIỆU CÁ NHÂN CỦA BẠN Chúng tôi có thể thu thập dữ liệu về bạn bằng cách bạn cung cấp dữ liệu trực tiếp cho chúng tôi (ví dụ: bằng cách điền vào các biểu mẫu trên trang web của chúng tôi hoặc bằng cách tự nguyện gửi thông tin địa chỉ email) hoặc nó có thể được giữ ẩn danh đối với chúng tôi thông qua việc sử dụng cookie và / hoặc các công nghệ tương tự. CHÚNG TÔI SỬ DỤNG COOKIE Cookie là một tệp chứa một số nhận dạng (một chuỗi các chữ cái và số) được máy chủ web gửi đến trình duyệt web và được trình duyệt lưu trữ. Sau đó, số nhận dạng được gửi trở lại máy chủ mỗi khi trình duyệt yêu cầu một trang từ máy chủ. Cookie có thể là cookie “liên tục” hoặc cookie “phiên”: cookie liên tục sẽ được trình duyệt web lưu trữ và sẽ vẫn có hiệu lực cho đến ngày hết hạn đã đặt, trừ khi bị người dùng xóa trước ngày hết hạn; Mặt khác, cookie phiên sẽ hết hạn vào cuối phiên người dùng, khi trình duyệt web đóng. Cookie thường không chứa bất kỳ thông tin nào nhận dạng cá nhân người dùng, nhưng thông tin cá nhân mà chúng tôi lưu trữ về bạn có thể được liên kết với thông tin được lưu trữ và lấy từ cookie. Chúng tôi sử dụng cookie cho các mục đích sau: (a) xác thực – chúng tôi sử dụng cookie để nhận dạng bạn khi bạn truy cập trang web của chúng tôi và khi bạn điều hướng trang web của chúng tôi; (b) trạng thái – chúng tôi sử dụng cookie để giúp chúng tôi xác định xem bạn có đăng nhập vào trang web của chúng tôi hay không; (c) cá nhân hóa – chúng tôi sử dụng cookie [để lưu trữ thông tin về sở thích của bạn và để cá nhân hóa trang web cho bạn; (d) bảo mật – chúng tôi sử dụng cookie [như một yếu tố của các biện pháp bảo mật được sử dụng để bảo vệ tài khoản người dùng, bao gồm ngăn chặn việc sử dụng gian lận thông tin đăng nhập và để bảo vệ trang web và dịch vụ của chúng tôi nói chung; (e) quảng cáo – chúng tôi sử dụng cookie để giúp chúng tôi hiển thị các quảng cáo có liên quan đến bạn; (f) phân tích – chúng tôi sử dụng cookie để giúp chúng tôi phân tích việc sử dụng và hoạt động của trang web và dịch vụ của chúng tôi; Chúng tôi sử dụng Google Analytics để phân tích việc sử dụng trang web của mình. Google Analytics thu thập thông tin về việc sử dụng trang web bằng cookie. Thông tin thu thập liên quan đến trang web của chúng tôi được sử dụng để tạo báo cáo về việc sử dụng trang web của chúng tôi. Chính sách bảo mật của Google có sẵn tại: https://www.google.com/policies/privacy/ . Hầu hết các trình duyệt cho phép bạn từ chối chấp nhận cookie và xóa cookie. Các phương pháp để làm như vậy khác nhau giữa các trình duyệt và giữa các phiên bản. Vui lòng tham khảo hướng dẫn trình duyệt của bạn để biết thông tin về cách xóa hoặc chặn việc sử dụng cookie. Xin lưu ý rằng việc chặn cookie có thể có tác động tiêu cực đến chức năng của nhiều trang web, bao gồm cả Trang web của chúng tôi. Một số tính năng của Trang web có thể ngừng cung cấp cho bạn. VIỆC SỬ DỤNG THU THẬP THÔNG TIN TỰ ĐỘNG CỦA CHÚNG TÔI Trang web của chúng tôi có thể sử dụng Bộ xử lý dữ liệu của bên thứ ba (ví dụ: Pixel Facebook hoặc Thẻ Pinterest ) để tự động liên kết thông tin cá nhân của bạn với hồ sơ người dùng của bạn trên các trang web đó. Với tư cách là Người kiểm soát dữ liệu, chúng tôi sẽ không có quyền truy cập vào thông tin cá nhân của bạn, nhưng chúng tôi có thể sử dụng các nền tảng quảng cáo tương ứng của họ để phổ biến nội dung của chúng tôi cho bạn trong tương lai. ĐỊA CHỈ EMAIL Chúng tôi có thể thu thập địa chỉ email của bạn, nhưng chỉ khi bạn tự nguyện cung cấp cho chúng tôi. Điều này có thể xảy ra, chẳng hạn như nếu bạn đăng ký nhận bản tin email hoặc tham gia chương trình khuyến mãi. Chúng tôi sẽ sử dụng địa chỉ email của bạn cho các mục đích mà bạn đã cung cấp cho chúng tôi và cũng có thể thỉnh thoảng gửi cho bạn các email liên quan đến Trang web hoặc các sản phẩm hoặc dịch vụ khác mà chúng tôi tin rằng bạn có thể quan tâm. Bạn có thể chọn không nhận các liên lạc qua email như vậy bất kỳ lúc nào bằng cách nhấp vào nút “hủy đăng ký” trong email. Địa chỉ email của bạn cũng có thể được chia sẻ với nhà cung cấp công nghệ mà chúng tôi sử dụng liên quan đến các mục đích mà bạn đã cung cấp, và nhà cung cấp công nghệ đó cũng có thể liên hệ với bạn theo thời gian. Nếu bạn là cư dân của một quốc gia trong Khu vực Kinh tế Châu Âu (EEA), vui lòng tham khảo phần phụ bên dưới có tựa đề “Quyền Bổ sung của Cư dân EEA”. ĐĂNG KÝ HOẶC DỮ LIỆU TÀI KHOẢN Chúng tôi có thể thu thập thông tin khác từ bạn nếu / khi bạn đăng ký với Trang web của chúng tôi để sử dụng các tính năng khác nhau. Thông tin đó có thể bao gồm tên, ngày sinh, mã bưu điện, tên hiển thị và mật khẩu của bạn (nếu có). Khi bạn sử dụng Trang web, chúng tôi có thể thu thập dữ liệu khác mà bạn cung cấp một cách tự nguyện (chẳng hạn như nhận xét mà bạn đăng). Chúng tôi cũng có thể thu thập thông tin về bạn thông qua các phương pháp khác, bao gồm khảo sát nghiên cứu, nền tảng truyền thông xã hội, dịch vụ xác minh, dịch vụ dữ liệu, cũng như các nguồn công khai. Chúng tôi có thể kết hợp dữ liệu này với dữ liệu đăng ký của bạn để duy trì một hồ sơ kỹ lưỡng hơn. Chúng tôi có thể sử dụng các bên thứ ba để cung cấp chức năng cho phép bạn đăng ký, hoặc nâng cao (bổ sung), Trang web của chúng tôi; trong trường hợp này, bên thứ ba cũng sẽ có quyền truy cập vào thông tin của bạn. Nếu không, chúng tôi sẽ không cung cấp bất kỳ thông tin nhận dạng cá nhân nào về bạn cho các bên thứ ba, ngoại trừ trường hợp luật pháp yêu cầu. Chúng tôi có thể sử dụng thông tin nhận dạng cá nhân của bạn cho nhiều mục đích kinh doanh nội bộ của chúng tôi, chẳng hạn như tạo trải nghiệm người dùng tốt hơn cho Trang web, chẩn đoán và khắc phục sự cố trên Trang web, hiểu rõ hơn về cách Trang web được sử dụng và đưa ra các đề xuất được cá nhân hóa cho bạn . TUÂN THỦ HÀNH VI BẢO VỆ QUYỀN RIÊNG TƯ TRỰC TUYẾN TRẺ EM (COPPA) Chúng tôi tuân thủ các yêu cầu của COPPA (Đạo luật bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên mạng). Chúng tôi không cố ý thu thập bất kỳ thông tin nào từ bất kỳ ai dưới 13 tuổi. Trang web, sản phẩm và dịch vụ của chúng tôi đều hướng đến những người từ 13 tuổi trở lên. Chúng tôi khuyên mọi người dưới 18 tuổi chỉ nên tham gia và sử dụng trang web, sản phẩm hoặc dịch vụ của chúng tôi khi có sự cho phép và giám sát của cha mẹ. Chúng tôi không có ý định thu thập bất kỳ thông tin cá nhân nào từ trẻ em dưới 18 tuổi. Nếu cha mẹ hoặc người giám hộ của trẻ đã cung cấp cho chúng tôi thông tin cá nhân đó muốn thông tin đó bị xóa khỏi hồ sơ của chúng tôi, họ nên liên hệ với chúng tôi theo địa chỉ địa chỉ email được liệt kê ở đầu trang chính sách này. Sau đó, chúng tôi sẽ xóa thông tin cá nhân của trẻ (nếu có) khỏi hồ sơ của chúng tôi. ĐIỀU KHOẢN SỬ DỤNG TUYÊN BỐ TỪ CHỐI TRÁCH NHIỆM VỀ TIẾP THỊ LIÊN QUAN Trang web này chứa các liên kết đến các sản phẩm và / hoặc các trang mà chúng tôi nhận được bồi thường tài chính. Chúng tôi có thể được bồi thường nếu người tiêu dùng chọn sử dụng các liên kết nằm xuyên suốt nội dung trên trang web này và tạo ra doanh số cho người bán nói trên. Bạn không bắt buộc phải nhấp vào bất kỳ liên kết nào hoặc mua bất kỳ sản phẩm nào được quảng cáo. Theo hướng dẫn của FTC, trang web này có thể được các công ty đề cập đến thông qua quảng cáo, chương trình liên kết hoặc các hình thức khác trả tiền. Mọi tham chiếu đến sản phẩm, giá hoặc trang web của bên thứ ba có thể thay đổi mà không cần báo trước. Vui lòng thực hiện nghiên cứu thích hợp trước khi tham gia vào bất kỳ ưu đãi nào của bên thứ ba. Trang web này cũng tham gia vào Chương trình liên kết Amazon Services LLC, một chương trình quảng cáo liên kết được thiết kế để cung cấp phương tiện cho các trang web kiếm tiền quảng cáo bằng cách quảng cáo và liên kết với Amazon.com. Mặc dù chúng tôi có các tiêu chuẩn biên tập nghiêm ngặt về tính khách quan, nhưng các mối quan hệ liên kết có thể ảnh hưởng đến những sản phẩm và dịch vụ mà chúng tôi cung cấp và thậm chí có thể ảnh hưởng đến thứ tự xuất hiện của những liên kết đó. BLOG Việc sử dụng bất kỳ ấn phẩm nào là rủi ro của riêng bạn. Bạn chịu trách nhiệm về tài chính cá nhân của mình và không nên dựa vào trang này hoặc bất kỳ thông tin nào được tìm thấy trên trang này để đưa ra quyết định cuối cùng của mình. Blog này chỉ cung cấp ý kiến ​​dựa trên kinh nghiệm của tác giả nội dung và kiến ​​thức cá nhân. Bạn chịu trách nhiệm cho bất kỳ hành động nào bạn thực hiện bằng cách đọc bất kỳ nội dung nào trong blog. Thông tin trong blog này chỉ dành cho mục đích thông tin và không nhằm mục đích thay thế để nhận được lời khuyên tài chính chuyên nghiệp. Tìm kiếm lời khuyên chuyên nghiệp trước khi thực hiện bất kỳ thông tin nào bạn có thể tìm thấy và đọc trong blog này. Bạn chịu trách nhiệm về các hoạt động tài chính cá nhân của mình. Trong mọi trường hợp, tác giả, cộng tác viên, chủ sở hữu và đối tác của blog này không chịu trách nhiệm về tính chính xác hoặc hoàn chỉnh có trong blog này, mặc dù chúng tôi cố gắng cung cấp thông tin chính xác. Do đó, các tác giả, cộng tác viên, chủ sở hữu và đối tác của blog này tuyệt đối không đưa ra bảo đảm hay hứa hẹn cũng như không chịu trách nhiệm về bất kỳ trách nhiệm pháp lý, thương tích hoặc thiệt hại nào có thể gây ra cho bạn khi sử dụng bất kỳ thông tin nào có trong blog này. Chúng tôi không hứa hẹn rằng nội dung blog hoặc dịch vụ của chúng tôi sẽ được cung cấp cho bạn kịp thời, an toàn hoặc không có lỗi. Trong mọi trường hợp không nên sử dụng bất kỳ thông tin nào từ blog này để thay thế cho lời khuyên tài chính chuyên nghiệp. NHỮNG THAY ĐỔI TRONG TƯƠNG LAI ĐỐI VỚI TRANG CHÍNH SÁCH CỦA CHÚNG TÔI Chúng tôi có thể thay đổi Trang Chính sách của mình theo thời gian. Phiên bản mới nhất của Trang Chính sách của chúng tôi sẽ luôn được đăng trên Trang web, với “Ngày có hiệu lực” được đăng ở đầu trang. Chúng tôi có thể sửa đổi và cập nhật Trang chính sách của mình nếu các phương pháp của chúng tôi thay đổi, khi công nghệ thay đổi hoặc khi chúng tôi thêm các dịch vụ mới hoặc thay đổi các dịch vụ hiện có. Nếu chúng tôi thực hiện bất kỳ thay đổi quan trọng nào đối với Trang chính sách của chúng tôi hoặc cách chúng tôi xử lý thông tin cá nhân của bạn hoặc chúng tôi sẽ sử dụng bất kỳ thông tin cá nhân nào theo cách khác biệt đáng kể với thông tin được nêu trong Trang chính sách của chúng tôi tại thời điểm chúng tôi thu thập thông tin đó, chúng tôi sẽ cố gắng thông báo một cách hợp lý cho bạn về những thay đổi đó. Bằng cách tiếp tục sử dụng Trang web hoặc các dịch vụ của chúng tôi sau Ngày có hiệu lực, bạn được coi là đồng ý với các chính sách hiện hành của chúng tôi. MoneyChains.xyz được điều hành bởi cộng đồng seo việt nam. Tất cả nội dung trên website đều miễn phí Copyright © 2021 Money Chains. All Rights Reserved Các điều khoản · Chính Sách Quyền Riêng Tư · Sitemap · · Liên Hệ · Twitter · Facebook · Lux A
1614178347293.1.parquet/133386
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 10513, "url": "https://moneychains.xyz/chinh-sach-bao-mat/" }
135.2
Trump đã thực hiện lời hứa tranh cử bốn năm của mình | chơi bet365 làm thế nào để thắng_link vào bet365 mới nhất_bet365 là gì Search Trump đã thực hiện lời hứa tranh cử bốn năm của mình Home / Phân tích / Trump đã thực hiện lời hứa tranh cử bốn năm của mình Phân tích 2020-08-282020-08-28admin Tổng thống Mỹ Donald Trump nói tại cuộc mít tinh: “Tôi là người duy nhất sẽ cho bạn nhiều hơn những gì tôi đã hứa trong chiến dịch tranh cử. Vâng, tôi có thể là người duy nhất trong lịch sử”. Bầu cử ở Arizona. –Theo thống kê của PolitiFact, kể từ chiến dịch tranh cử của mình, Trump đã thực hiện 102 cam kết chính, trong đó ông đã thực hiện 25 cam kết, tương đương 24%. Số lượng cài đặt mặc định là 21, hay 20% và tỷ lệ 50 giá trị mặc định là 49%. Con số cam kết bế tắc của Trump là 6, hay 5% – Tổng thống Trump tại Nhà Trắng vào ngày 24 tháng 8. Ảnh: Reuters. Trong chiến dịch tranh cử năm 2016, ông đã hứa sẽ trở thành bức tường thành dài 3.200 km giữa thương hiệu và Mexico. Trong nhiệm kỳ gần 4 năm của mình, Trump đã làm việc chăm chỉ để đạt được lời hứa này bằng cách đóng cửa chính phủ và ban bố tình trạng khẩn cấp vào đầu năm 2019 để gây sức ép với Quốc hội về ngân sách. Tường. . Dự án đang được tiến hành, ước tính khoảng 725 km tường sẽ hoàn thành vào cuối năm nay, nhưng trước đó chỉ có khoảng 6 km tường được xây dựng mà không gặp trở ngại. Bất chấp sự phản đối của tòa án và sự thiếu hợp tác từ Quốc hội, Trump đã thực hiện nhiều thay đổi đối với hệ thống nhập cư. Sau khi ký hơn 400 lệnh hành pháp, Trump về cơ bản đã đóng cửa hệ thống tị nạn ở biên giới phía tây nam và giảm mạnh số lượng người xin tị nạn vào Hoa Kỳ. Đồng thời, Trump cũng áp đặt một vòng hạn chế mới về nhập cư hợp pháp. Trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 6 năm 2015, ứng cử viên tổng thống Donald Trump nói rằng nếu đắc cử, ông sẽ “hiếm khi từ chức Nhà Trắng vì có quá nhiều người phải làm.” “Tôi sẽ không đi nghỉ như Tổng thống. Tôi sẽ không nghỉ ngơi. Không có thời gian cho kỳ nghỉ “, Trump tuyên bố. Tuy nhiên, sau khi nhậm chức, ông đã nhanh chóng từ bỏ. Hãy chắc chắn rằng bạn không bao giờ đi nghỉ mát. Trump thường xuyên đến thăm các khu nghỉ dưỡng của mình ở Florida và New Jersey. Mặc dù Tổng thống nói rằng ông chỉ chơi gôn với những người có thể giúp đỡ ông trong công việc chứ chưa bao giờ chơi với bạn bè, ông đã đến câu lạc bộ chơi gôn 270 lần kể từ khi nhậm chức và đã được nhìn thấy. Người chơi golf chuyên nghiệp. -Trump thường chỉ trích người tiền nhiệm Barack Obama vì dành quá nhiều thời gian để chơi gôn. Tuy nhiên, thống kê của PoliitiFact cho thấy trong năm đầu tiên nắm quyền của Trump, ông đã dành nhiều thời gian trên sân golf hơn tổng thời gian chơi golf của Obama. Trump thề sẽ tăng trưởng nền kinh tế với tốc độ 3% (5%) mỗi năm. Tuy nhiên, nền kinh tế Mỹ dưới sự lãnh đạo của ông chưa bao giờ tăng trưởng vượt quá 3%, và Covid-19 đã “hạ thấp” tỷ lệ thất nghiệp. Hoa Kỳ ghi nhận tỷ lệ thất nghiệp kỷ lục trong tháng Ba và tháng Tư. Gần 30 triệu người Mỹ được hưởng trợ cấp thất nghiệp. Nhưng Trump vẫn được ca ngợi về cách ông quản lý nền kinh tế. . Kể từ tháng 5, niềm tin của Mỹ đối với Trump trong lĩnh vực kinh tế đã dao động 50%, và việc làm tăng trở lại. Nhà thăm dò ý kiến ​​của đảng Cộng hòa Whit Ayres cho biết nhiều người Mỹ đã đánh giá Trump dựa trên kết quả kinh tế trước khi bùng phát Covid-19 sáu tháng trước. Ayres nói: “Trước khi đại dịch bị giết chết, nền kinh tế đang ở trong tình trạng tốt.” Trump đã giành được một chiến thắng chính trị lớn khi đạt được Hiệp định Thương mại Hoa Kỳ-Mexico-Canada (USMCA). , Là một phiên bản thay thế của Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA). USMCA đã sửa đổi các quy tắc về sản xuất ô tô, thương mại điện tử, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và giải quyết tranh chấp của nhà đầu tư, cũng như các điều kiện làm việc nghiêm ngặt hơn, do đó buộc Mexico phải cải cách luật lao động của mình. di động. Phòng Thương mại Hoa Kỳ gọi USMCA là “món quà giúp các công ty Mỹ và 12 triệu công nhân cạnh tranh trên hai thị trường xuất khẩu lớn”. Về mặt quốc tế, Trump đã phá vỡ định kiến ​​ngoại giao thế hệ của tổng thống. , Và tích cực thúc đẩy các chính sách của Mỹ. Chủ đề trung tâm của chiến dịch tranh cử năm 2016 của Trump là cáo buộc Trung Quốc thực hiện các hành vi thương mại không công bằng và đánh cắp việc làm của người Mỹ. Ông đã cam kết sẽ ký một hiệp định thương mại công bằng với Bắc Kinh để giúp đỡ các công ty Mỹ và tạo việc làm cho người Mỹ. Sau gần hai năm trả đũa trong cuộc chiến thương mại, Trump đã đạt được thỏa thuận với nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Bước đầu tiên hướng tới Trung Quốc. Tuy nhiên, Washington và Bắc Kinh đang áp thuế lên hàng trăm tỷ đô la hàng hóa tương ứng của họ, Covid-19 và nhiều vấn đề khácQuan hệ song phương đã rơi vào trạng thái tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ, điều này làm dấy lên lo ngại của người dân về một vòng mới của Chiến tranh Lạnh. Washington đã thực hiện nhiều bước chống lại Bắc Kinh trên nhiều phương diện: quy chế đặc biệt của Hồng Kông đã trừng phạt các quan chức hàng đầu của Trung Quốc vì các vấn đề ở Hồng Kông và Tân Cương, đồng thời tìm cách cấm các công ty công nghệ Trung Quốc hoạt động tại Hoa Kỳ. Nếu đắc cử, Biden không có lựa chọn nào khác ngoài việc duy trì lập trường cứng rắn với Trung Quốc, nhưng nhiều khả năng chính phủ của ông sẽ nới lỏng lập trường với Bắc Kinh để hai bên có cơ hội đối thoại. -Trong chiến dịch tranh cử tổng thống, Trump chỉ trích mạnh mẽ Thỏa thuận hạt nhân Iran (JCPOA), gọi đây là “một trong những thỏa thuận tồi tệ nhất trong lịch sử.” Năm 2018, Trump rút Hoa Kỳ khỏi JCPOA, nói rằng ông có thể đạt được một thỏa thuận tốt hơn. Ông cũng phát động chiến dịch “Áp lực tối đa” nhằm giảm thu nhập của Tehran. Bất chấp các lệnh trừng phạt kéo dài hai năm được áp đặt ở nhiều khu vực, việc bán dầu và khoáng sản cho các ngân hàng trung ương Iran và Washington vẫn không thể đưa Tehran trở lại lĩnh vực đàm phán. bàn. Ngược lại, sau khi Mỹ rút khỏi thỏa thuận, Tehran đã có những bước từ bỏ các cam kết với các cường quốc, như không đáp ứng được giới hạn làm giàu uranium. Căng thẳng đôi khi leo thang, đặt Hoa Kỳ và Iran vào bờ vực chiến tranh. Thực hiện lời hứa của giao dịch. Trump liên tục sử dụng các cuộc họp quốc tế để chỉ trích các đồng minh của mình. Ông liên tục phàn nàn rằng các đối tác NATO không thể đạt được mục tiêu chi tiêu quốc phòng của họ. Ông cũng chỉ ra sự suy tàn của tổ chức vào năm 1949. Dữ liệu của Trump đã tạo ra sự khác biệt: Nhiều thành viên liên minh đã tăng chi tiêu để đạt được mục tiêu đóng góp 2% GDP cho NATO. – Năm nay, Trump thông báo rằng ông sẽ ở Đức. Bị buộc tội Berlin vi phạm các nghĩa vụ của NATO và bóc lột Hoa Kỳ. Các nhà phân tích cho rằng sẽ mất nhiều thời gian để khôi phục lại sự thống nhất của Liên minh xuyên Đại Tây Dương, nhưng nếu Biden được bầu thì mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn nhiều so với nhiều vấn đề khác của Biden. Năm 2016, Trump tuyên bố sẽ không cho phép Hoa Kỳ tham chiến ở nước ngoài và hồi hương các binh lính Mỹ được triển khai ở Afghanistan. Cuộc chiến này đã kéo dài 19 năm. Sau khi đạt được thỏa thuận với Taliban vào tháng 2, Washington bắt đầu giảm số lượng người ở Afghanistan và có kế hoạch rút toàn bộ quân đội Mỹ khỏi Afghanistan. Quốc gia. Tuy nhiên, điều đó còn phụ thuộc vào các cuộc đàm phán đang bế tắc giữa Taliban và chính phủ Afghanistan. Trump cũng yêu cầu quân đội Mỹ rút khỏi Syria. Các trợ lý và quan chức quân sự phản đối động thái này nhưng Washington vẫn cắt giảm hơn một nửa quân số. Một trong những quyết định gây tranh cãi nhất của Trump là rút khỏi thỏa thuận khí hậu. Tại Paris, ông đã nhiều lần đồng ý trong cuộc bầu cử năm 2016. Trump tuyên bố rằng thỏa thuận đã mang lại gánh nặng kinh tế và tài chính “nặng nề” cho Hoa Kỳ và hứa sẽ đàm phán một thỏa thuận tốt hơn. Nhưng vẫn chưa đạt được thỏa thuận mới nào. Ban vận động của Biden tuyên bố rằng ông sẽ tham gia Thỏa thuận Paris và đi đầu trong nỗ lực cho phép các nước lớn tăng mục tiêu chống khí hậu. Trump đã hứa vào năm 2016 rằng ông sẽ chuyển đến đại sứ quán Israel ở Jerusalem. Quyết định này bị hầu hết các nước trong thế giới Ả Rập phản đối, nhưng được chính phủ Israel và những người ủng hộ nước này đánh giá cao. – Jerusalem là thánh địa của đạo Do Thái, đạo Hồi và đạo Thiên Chúa. thương. Israel chiếm Đông Jerusalem trong Chiến tranh Trung Đông năm 1967 và coi toàn bộ Jerusalem là thủ đô không thể chia cắt. Đồng thời, Palestine coi Đông Jerusalem là thủ đô của nhà nước Palestine. Nghị quyết 181 của LHQ đặt Jerusalem dưới sự kiểm soát của quốc tế. Kế hoạch hòa bình Trung Đông do chính quyền Trump vạch ra đã bị người Palestine phản đối vì nó cho phép Israel duy trì quyền kiểm soát khu vực. Định cư ở Bờ Tây. Người Palestine cho rằng các khu định cư của Israel khiến họ không thể thành lập một nhà nước Palestine. Tuy nhiên, kế hoạch của Washington đã nhận được những bình luận tích cực từ một số quốc gia Ả Rập. Tháng này, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) đã đạt được một thỏa thuận mang tính bước ngoặt với Israel do Hoa Kỳ làm trung gian và bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.Đừng. Khi Biden dẫn đầu nhiều cuộc thăm dò, nhiều nhà phân tích coi đó là một chiến thắng cho chính sách đối ngoại của Trump. Trump đã khiến cả thế giới ngạc nhiên khi tổ chức hội nghị thượng đỉnh. Lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un chưa có tiền lệ. Tuy nhiên, ông không đạt được tiến bộ nào trong việc thuyết phục Bình Nhưỡng từ bỏ vũ khí hạt nhân. Tuy nhiên, một số người cho rằng chính sách ngoại giao “phá băng” của ông có thể tạo nền tảng cho các nhà chức trách trong tương lai tìm ra giải pháp cho các vấn đề. Mô tả trước khi nhậm chức. Anh ấy vẫn chưa có một thỏa thuận tốt hơn. Shapiro nói: “Hủy giao dịch thì dễ nhưng hoàn thành thì khó hơn nhiều. Và anh ấy vẫn chưa thực hiện được”. 0 Doanh thu đầu tư dự án Dongtang Long-LocẨm thực xưa và nay Leave a Reply Cancel Reply Your email address will not be published. Save my name, email, and website in this browser for the next time I comment. Bài viết mới Khó khăn của Obama khi Đảng Dân chủ thất bại Các bà vợ thà để chồng dùng búp bê tình dục còn hơn cặp bồ Ra mắt shophouse Nasha Garden Trung Quốc nối lại tham vọng quốc tế hóa nhân dân tệ Cách giúp trẻ vui Tết tại nhà Phản hồi gần đây chơi bet365 làm thế nào để thắng_link vào bet365 mới nhất_bet365 là gì
1614178347293.1.parquet/127358
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 8695, "url": "https://www.vietnamexplorertours.com/phan-tich/9688.html" }
135
việc làm ngành Công nghệ vật liệu | Luyện thi - Dịch vụ luyện thi chuyên nghiệp Luyện thi Trang chủ Bí kíp luyện thi Cẩm nang học tập Tìm hiểu ngành nghề Tag: việc làm ngành Công nghệ vật liệu Thông tin cần biết ngành Công nghệ vật liệu 24/10/2017 Tin tìm hiểu ngành nghề Hiện nay, hai ngành này và các ngành khác được nhiều doanh nghiệp của các tập đoàn xây dựng lớn đặc biệt quan tâm. Các tập đoàn này thường dành nhiều suất học bổng cho các sinh viên trong trường học các ngành này. Thông tin cần biết ngành Công nghệ vật liệu Vật liệu (tiếng Anh: Materials) là chất hoặc hợp chất được được con người dùng để làm ra những sản phẩm khác. Vật liệu là đầu vào trong một quá trình sản xuất hoặc chế tạo. Trong công nghiệp, vật liệu là những sản phẩm chưa hoàn thiện và thường được dùng để làm ra các sản phẩm cao cấp hơn. Khoa học vật liệu là một khoa học liên ngành nghiên cứu về mối quan hệ giữa thành phần, cấu trúc, các công nghệ chế tạo, xử lý và tính chất của các vật liệu. Các khoa học tham gia vào việc nghiên cứu chủ yếu là vật lý, hóa học, toán học. Thông thường đối tượng nghiên cứu là vật liệu ở thể rắn, sau đó mới đến thể lỏng, thể khí. Các tính chất được nghiên cứu là cấu trúc, tính chất điện, từ, nhiệt, quang, cơ, hoặc tổ hợp của các tính chất đó với mục đích là tạo ra các vật liệu để thỏa mãn các nhu cầu trong kỹ thuật. Nghiên cứu vật liệu tạo ra vô vàn ứng dụng trong đời sống chính vì thế mà các ngành khoa học vật liệu, công nghệ vật liệu ngày càng trở nên phổ biến và phát triển rộng rãi. Vật liệu là đối tượng của ngành khoa học vật liệu gồm rất nhiều loại khác nhau về bản chất vật liệu, về cấu trúc vật liệu, về các tính chất,… Thông thường, nếu phân chia theo bản chất vật liệu thì chúng ta có các loại sau: – Vật liệu kim loại – Vật liệu gốm – Vật liệu cao phân tử – Vật liệu composite – Vật liệu xi măng – Vật liệu vô định hình Nếu chia Vật liệu ra theo các ngành ứng dụng thì có: – Vật liệu điện – Vật liệu điện tử – Vật liệu xây dựng – Vật liệu Cơ khí Một số vật liệu quan trọng: Kim loại (Thép, Nhôm, Đồng v.v…), Polyme: (Cao su, Nhựa, Polyme nanocompozit, Polyme compozit), Giấy, Gốm, Ngói, Thủy tinh, Xi măng Đá,Vải sợi, Lụa, Vật liệu sinh học, Vật liệu Compozit, Than. Nhóm ngành Vật Liệu phù hợp với những người yêu thích lĩnh vực vật liệu, có khả năng quan sát, khám phá, phân tích, đánh giá và giải quyết các vấn đề. Về đào tạo, hiện có hai hướng đào tạo chính gồm kỹ thuật vật liệu và công nghệ vật liệu. Học ngành công nghệ vật liệu cần có năng khiếu về các môn học toán, vật lý và hóa học. Khác với ngành công nghệ hóa học, ngành công nghệ vật liệu không đi sâu nhiều về hóa học. Toán học giúp sinh viên giải quyết các bài toán về kết cấu, cấu trúc, các bài toán kỹ thuật. Vật lý là nền tảng để sinh viên hiểu các hiện tượng cùng với kiến thức hóa học sinh viên hiểu rõ về cấu trúc vật liệu, từ đó có những giải pháp tối ưu trong việc chế tạo, gia công và sử dụng vật liệu. Học ngành khoa học vật liệu, sinh viên được trang bị các kiến thức cơ bản và khả năng thực nghiệm về cấu trúc vật liệu; các phương pháp chế tạo vật liệu; các phương pháp đo đạc và nghiên cứu vật liệu; các tính chất cơ bản của các loại vật liệu khác nhau và những ứng dụng chính của chúng. Về đào tạo, hiện có hai hướng đào tạo chính gồm kỹ thuật vật liệu và công nghệ vật liệu: – Ngành công nghệ vật liệu, khoa học vật liệu: Người học được trang bị kiến thức cơ bản rộng, có hiểu biết sâu sắc về cấu trúc, tính chất vật liệu xây dựng cũng như công nghệ: xử lý, gia công, chế tạo và ứng dụng vật liệu trong các lĩnh vực cụ thể. – Kỹ thuật vật liệu, vật liệu và cấu kiện xây dựng: Kỹ sư ngành vật liệu có thể làm việc tại các cơ sở sản xuất thuộc những lĩnh vực về vật liệu kim loại, vật liệu silicat (ximăng, gốm sứ, sản xuất vật liệu xây dựng, trang trí nội thất…), và vật liệu polymer (gia công chế biến nhựa, cao su, sơn, composite…), các cơ quan quản lý các cấp, các công ty tư vấn, các công ty sản xuất vật liệu xây dựng, các trung tâm nghiên cứu… Ngành kỹ thuật vật liệu còn có vật liệu ceramic (gốm, sứ, thủy tinh), vật liệu polymer, vật liệu điện tử, nano. Hiện nay, hai ngành này và các ngành khác được nhiều doanh nghiệp của các tập đoàn xây dựng lớn đặc biệt quan tâm. Các tập đoàn này thường dành nhiều suất học bổng cho các sinh viên trong trường học các ngành này. Kỹ sư/cử nhân ngành vật liệu có thể làm việc tại các cơ sở sản xuất vật liệu kim loại (luyện cán thép, luyện kim màu, gia công chế biến nhôm…), vật liệu silicate (xi măng, gốm sứ, sản xuất vật liệu xây dựng, trang trí nội thất…) và vật liệu polymer (gia công chế biến nhựa, cao su, sơn, composite…) hoặc có thể làm việc tại các công ty liên doanh với nước ngoài, tham gia nghiên cứu cải tiến công nghệ và chuyển giao công nghệ…”. Ngành kỹ thuật vật liệu, khoa học vật liệu, vật liệu và cấu kiện xây dựng đang được đào tạo tại các trường ĐH Bách khoa TPHCM, ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐH Bách khoa (Đà Nẵng), ĐH Bách khoa Hà Nội… Nhiều ngành kỹ thuật hiện nay tuy nghe không “hot” nhưng đầu vào rất dễ và ra trường rất dễ xin việc với mức thu nhập cao. Thực tế cho thấy những ngành ít thí sinh đăng ký thi vào trường nhưng khi tốt nghiệp xin việc lại rất dễ dàng. Chẳng hạn như: Kỹ thuật vật liệu xây dựng, Kỹ thuật gang thép luyện kim, Vật lý kỹ thuật… Danh mục chính Bí kíp luyện thi Cẩm nang học tập Tìm hiểu ngành nghề Cẩm nang học tập Những thói quen cần có để học tập tốt hơn Kinh nghiệm giúp ôn tập tốt môn Văn 4 cách để lấy lại sự tập trung khi học bài Tìm hiểu một số thao tác lập luận trong văn nghị luận Kinh nghiệm để học tốt môn Toán Bí quyết giúp học tốt môn Văn Tìm hiểu ngành nghề Thông tin cần biết ngành Sinh học Thông tin cần biết ngành Hóa học Thông tin cần biết ngành Thiết kế thời trang Thông tin cần biết ngành Kiến trúc Thông tin cần biết ngành Xây dựng Thông tin cần biết ngành Sư phạm Copyright © 2017 Luyện thi - Dịch vụ luyện thi - Trung tâm luyện thi - Luyện thi đại học Website đang được xây dựng. Chúng tôi chưa cung cấp thông tin, dịch vụ hoặc sản phẩm trên website này. Mong quý vị thông cảm! Phát triển bởi: Thiết kế website đẹp
1614178347293.1.parquet/86172
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 5402, "url": "http://www.luyenthi.net/tag/viec-lam-nganh-cong-nghe-vat-lieu/" }
134.1
Vì sao cần giáo dục kỹ năng sống cho học sinh? Skip to content Google Map: Xem chỉ đường - contact@docom.edu.vn (84) 97 921 9358 Gọi chúng tôi Giới thiệu Tổ chức giáo dục DoCom Chương trình giáo dục kỹ năng sống DoSkill Tin tức – Sự kiện Giáo dục Kỹ năng sống Tổng quan Giáo dục Kỹ năng sống Nền tảng giáo dục Phương pháp giáo dục Mục tiêu giáo dục Đào tạo giáo viên Thành viên Liên Hệ Tổng quan giáo dục kỹ năng sống Vì sao cần giáo dục kỹ năng sống cho học sinh? Giáo dục kỹ năng sống trang bị cho học sinh kiến thức, thái độ và kỹ năng phù hợp, từ đó hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực; loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực trong cuộc sống; tạo cơ hội cho các em có khả năng xử lý mọi vấn đề xảy ra trong sinh hoạt hàng ngày. Nội dung chính 1 Khái niệm kỹ năng sống 2 Nhiệm vụ của giáo dục kỹ năng sống 3 Vai trò của giáo dục kỹ năng sống 4 Ý nghĩa của giáo dục kỹ năng sống 5 Nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh 6 Những nguyên tắc tiến hành giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Khái niệm kỹ năng sống Có nhiều quan điểm về kỹ năng sống do các tổ chức quốc tế, các chuyên gia trong và ngoài nước đưa ra, trong đó có những quan điểm đáng lưu ý sau đây: Theo Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hoá liên hiệp quốc (UNESCO): “Kỹ năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục thế kỷ XXI: Học để biết – Học để làm – Học để chung sống – Học để làm người. Theo đó kỹ năng sống được định nghĩa là những năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày”. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO): “Kỹ năng sống là những kỹ năng mang tính tâm lý xã hội và kỹ năng về giao tiếp được vận dụng trong các tình huống hàng ngày để tương tác một cách có hiệu quả với người khác, giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày”. Theo Quĩ cứu trợ Nhi đồng liên hiệp quốc (UNICEF): “Kỹ năng sống là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng”. Kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lý xã hội liên quan đến những tri thức, những giá trị và thái độ, cuối cùng được thể hiện ra bằng những hành vi làm cho các cá nhân có thể thích nghi và giải quyết có hiệu quả các yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Kỹ năng sống là một tập hợp các kỹ năng mà con người có được thông qua giảng dạy hoặc kinh nghiệm trực tiếp được sử dụng để xử lý những vấn đề và những câu hỏi thường gặp trong đời sống hàng ngày của con người. Như vậy kỹ năng sống được hiểu theo nghĩa rộng không chỉ bao gồm khả năng năng lực tâm lý xã hội mà còn cả những kỹ năng vận động, kỹ năng sống được hiểu theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm những năng lực tâm lý xã hội. Từ các khái niệm nêu trên có thể đưa ra khái niệm kỹ năng sống như sau: “Là năng lực cá nhân mà con người có được thông qua giáo dục hoặc kinh nghiệm trực tiếp, nó giúp cho con người có cách ứng xử tích cực và có hiệu quả, đáp ứng mọi biến đổi của đời sống xã hội, sống khoẻ mạnh, an toàn hơn”. Các nhóm kỹ năng sống Nhiệm vụ của giáo dục kỹ năng sống Xã hội hiện đại luôn đòi hỏi con người có những kỹ năng ứng phó trước những tình huống xảy ra trong cuộc sống nên việc rèn luyện cho học sinh các kỹ năng mềm là nhiệm vụ quan trọng của công tác giáo dục kỹ năng sống. Điều này giúp trang bị cho các em những kiến thức giá trị, thái độ và kỹ năng phù hợp; từ đó hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực; loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực trong cuộc sống; tạo cơ hội cho các em có khả năng xử lý mọi vấn đề xảy ra trong sinh hoạt hàng ngày. Vai trò của giáo dục kỹ năng sống Kỹ năng sống giữ vai trò rất quan trọng trong việc phát triển toàn diện cho mỗi con người nói chung và cho các em học sinh nói riêng, vì khoa học giáo dục ngày nay đã khẳng định mỗi cá nhân muốn tồn tại và phát triển trong một xã hội công nghiệp, hiện đại thì phải học, học không chỉ để có kiến thức mà còn để tự khẳng định (Learn to Be), học để cùng chung sống (Learn to Live together), học để biết (Learn to Know), học để hành ( Learn to Do). Giáo viên chia sẻ trong buổi Hội thảo về vai trò của giáo dục kỹ năng sống Ý nghĩa của giáo dục kỹ năng sống Xã hội hiện đại có sự thay đổi toàn diện về nhiều lĩnh vực như: kinh tế, văn hóa,. và lối sống với tốc độ nhanh đã làm nảy sinh những vấn đề mà trước đây con người chưa gặp, chưa trải nghiệm, chưa phải ứng phó, đương đầu. Hoặc có những vấn đề đã xuất hiện trước đây, nhưng nó chưa phức tạp, khó khăn và đầy thách thức trong xã hội hiện đại, nên con người dễ hành động theo cảm tính và không tránh khỏi rủi ro, nguy cơ, thách thức trong cuộc sống. Khi đó, kỹ năng sống chính là hành trang giúp con người chuyển những điều đã biết đến để thay đổi hành vi, nhờ đó mà đạt được lối sống lành mạnh, đảm bảo chất lượng cuộc sống, kỹ năng sống là một phần quan trọng trong nhân cách con người trong xã hội hiện đại. Kỹ năng sống góp phần thúc đẩy sự phát triển cá nhân và xã hội, ngăn ngừa các vấn đề xã hội, sức khỏe và bảo vệ quyền con người. Các cá nhân thiếu kỹ năng sống là một nguyên nhân làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội. Người có kỹ năng sống sẽ thực hiện những hành vi mang tính xã hội tích cực, góp phần xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp và do vậy giảm bớt tệ nạn xã hội làm cho xã hội lành mạnh. Kỹ năng sống là những kỹ năng mang tính cá nhân và xã hội cần thiết đối với thanh thiếu niên giúp họ có khả năng học tập tốt hơn, ứng xử một cách tự tin đồng thời là một phương sách để hoàn thiện bản thân mình trước mọi người. Đồng thời, kỹ năng sống cũng giúp biến kiến thức thành những hành động cụ thể, những thói quen lành mạnh. Những người có kỹ năng sống là những người biết làm cho mình và những người khác được hạnh phúc. Họ thường thành công hơn trong cuộc sống, luôn yêu đời và làm chủ cuộc sống của họ. Một giờ học kỹ năng sống của học sinh Nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh nhằm thực hiện mục tiêu sau: Chuyển dịch kiến thức (cái chúng ta biết), thái độ và giá trị (cái chúng ta nghĩ, cảm thấy hoặc tin tưởng) thành thao tác, hành động và thực hiện thuần thục các thao tác, hành động đó như khả năng thực tế (cái cần làm và cách thức làm nó) theo xu hướng tích cực và mang tính chất xây dựng. Nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tập trung vào các kỹ năng tâm lý – xã hội là những kỹ năng được vận dụng để tương tác với người khác và giải quyết có hiệu quả các vấn đề của cuộc sống. Việc hình thành các kỹ năng sống luôn gắn kết với việc hình thành các kỹ năng học tập và được vận dụng phù hợp với lứa tuổi, điều kiện sống,.. Có thể kể đến các kỹ năng quan trọng cần rèn luyện cho học sinh: Kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng thể hiện sự tự tin, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng lắng nghe tích cực, kỹ năng hợp tác, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng quản lý thời gian… Nhượng quyền Chương trình giáo dục Kỹ năng sống thành công nhất Việt Nam Những nguyên tắc tiến hành giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tương tác: Kỹ năng sống không thể được hình thành chỉ qua việc nghe giảng và tự đọc tài liệu mà phải thông qua các hoạt động tương tác với người khác. Việc nghe giảng và tự đọc tài liệu chỉ giúp cho học sinh thay đổi nhận thức về một vấn đề nào đó. Nhiều kỹ năng sống được hình thành trong quá trình học sinh tương tác với bạn cùng học và những người xung quanh thông qua hoạt động học tập và các hoạt động xã hội trong nhà trường. Trong khi tham gia hoạt động có tính tương tác, học sinh có dịp thể hiện ý tưởng của mình, xem xét ý tưởng của người khác, được đánh giá và xem xét lại những kinh nghiệm sống của mình trước đây theo một cách nhìn nhận khác. Vì vậy, việc tổ chức các hoạt động có tính tương tác cao trong nhà trường tạo cơ hội quan trọng để giáo dục kỹ năng sống hiệu quả. Trải nghiệm: Kỹ năng sống chỉ được hình thành khi người học được trải nghiệm qua các tình huống thực tế. Học sinh chỉ có kỹ năng khi các em tự làm việc đó, chứ không chỉ nói về việc đó. Kinh nghiệm có được khi học sinh được hành động trong các tình huống đa dạng giúp các em dễ dàng sử dụng và điều chỉnh các kỹ năng phù hợp với điều kiện thực tế. Giáo viên cần thiết kế và tổ chức thực hiện các hoạt động trong và ngoài giờ học sao cho học sinh có cơ hội thể hiện ý tưởng cá nhân, tự trải nghiệm và biết phân tích kinh nghiệm sống của mình và người khác. Tiến trình: Giáo dục kỹ năng sống không thể hình thành trong “ngày một, ngày hai” mà đòi hỏi phải có cả quá trình: nhận thức – hình thành thái độ – thay đổi hành Đây là một quá trình mà mỗi yếu tố có thể là khởi đầu của một chu trình mới. Do đó, nhà giáo dục có thể có tác động lên bất kỳ mắt xích nào trong chu trình trên: thay đổi thái độ dẫn đến mong muốn thay đổi nhận thức và hành vi hoặc hành vi thay đổi tạo nên sự thay đổi nhận thức và thái độ. Thay đổi hành vi: Mục đích cao nhất của giáo dục kỹ năng sống là giúp người học thay đổi hành vi theo hướng tích cực. Giáo dục kỹ năng sống thúc đẩy người học thay đổi hay định hướng lại các giá trị, thái độ hành động của mình. Thay đổi hành vi thái độ và giá trị ở từng con người là một quá trình khó khăn, không đồng thời. Có thời điểm người học lại quay trở lại những thái độ, hành vi hoặc giá trị trước. Do đó, giáo viên cần kiên trì chờ đợi và tổ chức các hoạt động liên tục để học sinh duy trì hành vi mới và có thói quen mới; tạo động lực cho học sinh điều chỉnh hoặc thay đổi giá trị, thái độ và những hành vi trước đây, thích nghi hoặc chấp nhận các giá trị, thái độ và hành vi mới. Thời gian – môi trường giáo dục: Giáo dục kỹ năng sống cần thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc và thực hiện càng sớm càng tốt đối với trẻ em. Môi trường giáo dục được tổ chức nhằm tạo cơ hội cho học sinh áp dụng kiến thức và kỹ năng vào các tình huống “thực” trong cuộc sống. Giáo dục kỹ năng sống được thực hiện trong gia đình, trong nhà trường và cộng đồng. Người tổ chức giáo dục kỹ năng sống có thể là bố mẹ, là thầy cô, là bạn cùng học hay các thành viên cộng đồng. Trong nhà trường phổ thông, giáo dục kỹ năng sống được thực hiện trên các giờ học, trong các hoạt động lao động, hoạt động đoàn thể – xã hội, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và các hoạt động khác. Mộc Miên (tổng hợp) Nhượng quyền Chương trình Kỹ năng sống thành công nhất Việt Nam Tổ chức giáo dục DoCom nhượng quyền mô hình giáo dục Kỹ năng sống và STEM cho các đối tác tại Việt Nam. Đây là mô hình nhượng quyền toàn diện, đối tác không chỉ được chuyển giao chương trình giáo dục mà còn được chuyển giao mô hình kinh doanh, bí quyết kinh doanh; được DoCom đào tạo, tập huấn cho đội ngũ quản lý, giáo viên và tư vấn viên. Hotline: 097 921 9358 (Ms Phương Thảo) Email: contact@docom.edu.vn Lời khuyên cho nhà đầu tư mô hình trung tâm giáo dục kỹ năng sống Thủ tục thành lập trung tâm bồi dưỡng kỹ năng sống tại Việt Nam One thought on “Vì sao cần giáo dục kỹ năng sống cho học sinh?” Ngo thi trang says: Hoc de hiểu về xa hoi Tháng Bảy 25, 2020 at 3:34 sáng Trả lời Trả lời Hủy Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu * Bình luận Tên * Email * Trang web Lưu tên của tôi, email, và trang web trong trình duyệt này cho lần bình luận kế tiếp của tôi. VỀ CHÚNG TÔI Công ty cổ phần quốc tế Docom (Docom), tiền thân là Công ty cổ phần đào tạo Việt Á là đơn vị chuyên về hợp tác quốc tế, nghiên cứu, xây dựng và phát triển các sản phẩm, dịch vụ thuộc lĩnh vực giáo dục – đào tạo cho học sinh và sinh viên Việt Nam….Xem thêm BÀI VIẾT MỚI Hội thảo tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng sống tại thành phố Vũng Tàu Đào tạo đối tác nhượng quyền thương hiệu giáo dục kỹ năng sống DoSkills tại TP Vũng Tàu Đào tạo giáo viên kỹ năng sống tại TP Hưng Yên Lễ ký kết nhượng quyền thương hiệu Chương trình giáo dục kỹ năng sống DoSkills tại Hưng Yên Kỹ năng sống cho học sinh tiểu học 1 Comment Tầng 8, tòa nhà Sannam, số 78 Duy Tân, P. Dịch Vọng Hậu, Q. Cầu Giấy, Hà Nội. (84) 97 921 9358 contact@docom.edu.vn www.doskills.edu.vn Mạng xã hội: Trang chủ Giới thiệu Giáo dục KNS Đào tạo giáo viên Tin tức Liên hệ Copyright 2019 DoSkills - All Right Reserved Tầng 8, tòa nhà Sannam, số 78 Duy Tân, P. Dịch Vọng Hậu, Q. Cầu Giấy, Hà Nội. (84) 97 921 9358 contact@docom.edu.vn doskills.edu.vn Liên kết mạng xã hội: Trang chủ Giới thiệu Lĩnh vực hoạt động Giáo dục STEM Tin tức Liên hệ Copyright 2019 DoCom - All Right Reserved Copyright 2021 © UX Themes Giới thiệu Tổ chức giáo dục DoCom Chương trình giáo dục kỹ năng sống DoSkill Tin tức – Sự kiện Giáo dục Kỹ năng sống Tổng quan Giáo dục Kỹ năng sống Nền tảng giáo dục Phương pháp giáo dục Mục tiêu giáo dục Đào tạo giáo viên Thành viên Liên Hệ contact@docom.edu.vn Call Now Button
1614178347293.1.parquet/125596
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 11279, "url": "https://doskills.edu.vn/vi-sao-can-giao-duc-ky-nang-song-cho-hoc-sinh/" }
134.1
Top 25 Giống Chó Spaniel Tuyệt Đẹp [Mới Nhất] - Chăm Sóc Thú Cưng Tại Nhà Như Chuyên Gia Skip to content Trang Chủ Chó Nuôi Chó Bệnh Ở Chó Các Loại Chó Thức Ăn Cho Chó Mèo Giống Mèo Bệnh Ở Mèo Cách Nuôi Mèo Thức Ăn Cho Mèo Chăm Sóc Mèo Con Hamster Cách Nuôi Hamster Bệnh Ở Chuột Hamster Thức Ăn Chuột Hamster Thứ Cưng Khác Thỏ Bọ Ú Nhím Gerbils Chinchilla Liên Hệ Các Loại Chó Top 25 Giống Chó Spaniel Tuyệt Đẹp [Mới Nhất] Posted on 11/02/2021 11/02/2021 by admin Mặc dù các giống Chó Spaniel chỉ chiếm một phần tương đối nhỏ trong vương quốc chó, nhưng nhiều giống Chó Spaniel đã trở thành tên gọi trong gia đình. Nhưng giống Chó Spaniel là gì và chúng là ai? Chúng tôi tìm hiểu những đặc điểm và phẩm chất tiêu biểu của những loại chó này. Mục Lục Chó Spaniel là gì? Ngoại hình của chó Spaniel Tính cách Chó Spaniel Danh Sách Giống Chó Spaniel Các giống Chó Spaniel đã tuyệt chủng Chó Spaniel là gì? Giống Chó Spaniel là một loại chó chủ yếu được sử dụng làm bạn đồng hành đi săn. Đặc biệt hơn, chúng được sử dụng như những con chó để xả súng trong trò chơi. Ở những khu vực bị dày đặc bàn chải chiếm đóng, chó Spaniel sẽ nhảy vào bụi rậm và đưa trò chơi vào thế khai mạc. Từ đó, những người thợ săn sẽ bắn hạ chúng hoặc bắt chúng bằng lưới, tùy thuộc vào loại trò chơi đang được săn. Và tùy thuộc vào giống Chó Spaniel, trò chơi có thể là chim đất, thỏ, chim nước và nhiều hơn nữa. Trong một số trường hợp, Chó Spaniel không chỉ xả nước. Nhiều chó Spaniel, chẳng hạn như Chó Springer Spaniel, cũng được huấn luyện để lấy lại trò chơi sau khi nó bị bắn. Chúng là những con chó săn súng đa năng, và do đó, rất phổ biến trong giới thợ săn. Chó Spaniel có xu hướng có mũi tuyệt vời, giống như những con chó bắn súng giỏi nhất. Đúng vậy, nhiệm vụ của họ là xua đuổi lũ chim, nhưng họ cũng cần tìm ra trò chơi. Trong suốt nhiều năm, các giống Chó Spaniel khác nhau đã được lai tạo cho nhiều vùng khác nhau, chẳng hạn như rừng cây, rừng rậm, đầm lầy và hơn thế nữa. Những con chó này đi săn ở đâu không quan trọng, chúng có khả năng cao và hoàn thành xuất sắc công việc của mình. Ngoại hình của chó Spaniel Dù là biến thể nào của Chó Spaniel, chúng đều có những đặc điểm vật lý tương tự nhau. Món quà đầu tiên là đôi tai của chú gấu trúc. Hầu hết chó Spaniel sẽ có đôi tai dài và mềm. Tuy nhiên, điều làm cho nó trở nên khác biệt hơn là phần tóc xoăn trên tai. Hầu hết Chó Spaniel sẽ có bộ lông dài từ trung bình đến dài với một lần nữa là lông xoăn. Chúng cũng có xu hướng có lông dài hơn về phía dưới cơ thể, ở ngực, chân và bụng. Như vậy, một con Chó Spaniel sẽ có một chiếc áo khoác kép để bảo vệ nó trên sân. Không phải tất cả các giống Chó Spaniel đều có hình dạng đầu giống nhau. Trong khi hầu hết chó Spaniel có xu hướng phát triển cấu trúc khuôn mặt trung bình tiêu chuẩn, những người khác lại có mõm ngắn hơn. Những con Chó Spaniel đầu ngắn, chẳng hạn như King Charles, được gọi là chó brachycephalic. Tính cách Chó Spaniel Không phải tất cả chó Spaniel đều có tính cách và tính cách giống nhau. Ví dụ, Chó Spaniel Clumber điềm tĩnh hơn là người dễ gần và thoải mái hơn. Mặt khác, Chó Spaniel là giống chó năng động và hoạt bát. Mặc dù vậy, có một số phẩm chất được thấy ở hầu hết Giống chó Spaniel trên toàn thế giới. Bạn sẽ luôn có được một con chó tình cảm và ngọt ngào. Để trở thành những con chó săn tuyệt vời, chúng cũng phải trung thành và có khả năng huấn luyện cao. chó Spaniel không chỉ hòa thuận với con người mà còn rất tốt với những con chó khác. Điều này là do tâm lý chó chăn bầy của họ. Nhiều con Chó Spaniel săn theo bầy, thường là với nhiều loại chó súng hoặc chó chim khác, chẳng hạn như Chó Spaniel và Greyhound. Với nền tảng về săn bắn, Chó Spaniel cũng sẽ là những con chó hoạt bát và năng động. Một số có thể thích trở thành những chú chó ngoan, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng không thích chơi đùa. Khi có cơ hội, một Chó Spaniel sẽ vui vẻ chơi hết mình. Danh Sách Giống Chó Spaniel Mặc dù có những điểm tương đồng chính về cả tính cách và ngoại hình, nhưng mỗi giống Chó Spaniel lại khác nhau ở điểm độc đáo của riêng chúng. Chúng có đủ kích cỡ, hình dạng và màu sắc. Sau đây là danh sách các giống Chó Spaniel. Hãy cho chúng tôi biết trong phần bình luận, bạn thích nhất cái nào? 1. Chó Spaniel Anh Điểm nổi bật: Thân thiện, Có khả năng đào tạo, Vui vẻ Chó Spaniel Anh là một trong những giống chó kiểu Chó Spaniel cổ điển ban đầu. Lần đầu tiên được lai tạo ở Anh cách đây nhiều thế kỷ, Chó Spaniel được sử dụng làm bạn đồng hành đi săn khi săn chim thú vùng cao. Do đó, những con chó này đã nổi tiếng là những con chó bắn súng hàng đầu nhờ khả năng tìm kiếm và truy lùng các loài chim siêu việt. Từ đó, họ sẽ can đảm nhảy vào bụi rậm để xả chim ra cho thợ săn bắn hoặc bẫy. Đừng để vẻ ngoài đáng yêu của chúng đánh lừa bạn, Chó Spaniel Anh là những chú chó săn súng không ngừng luôn cống hiến hết mình. Được hỗ trợ bởi đạo đức làm việc mạnh mẽ của họ, những chú Chó Spaniel này được chế tạo để săn lùng cả ngày lẫn đêm. Rất ít điều có thể ngăn cản những con chó này. Nhưng trong nhà, Chó Spaniel là những con chó yêu thích vui vẻ và có tính cách nghịch ngợm. Nhìn chung, chúng hòa thuận với tất cả con người, nhưng có nghị lực hơn một con chó cưng. Với trí thông minh cao, Chó Spaniel vừa ngoan vừa háo hức. 2. Chó Spaniel Cocker Anh Điểm nổi bật: Hăng hái, Vui vẻ, Cảnh báo Giống như Chó Spaniel, Chó Spaniel Cocker Anh có nguồn gốc tương tự. Chúng không chỉ được phát triển ở Anh mà còn phục vụ một mục đích tương tự. Đó là, theo dõi và tung ra trò chơi chim để thợ săn của họ bắt. Trong hầu hết những năm đầu của chúng, cả chó Cocker Anh và Chó Spaniel đều được phân loại là ” Chó Spaniel trên cạn “. Phải mất nhiều thế hệ lai tạo để sự khác biệt được công nhận. Mặc dù vậy, rất ít người có thể tự tin phân biệt được cả hai. Ngoài là một con chó săn súng đáng kinh ngạc, Chó Spaniel Cocker còn có một tính cách lạc quan mà ít ai có thể cưỡng lại được. Sự khác biệt lớn nhất về tính cách giữa Springer và Cocker là loài sau này có thể được ở một mình với ít lo lắng. Bạn sẽ có được một chú chó năng động nhưng bền bỉ với Chó Spaniel Cocker. Chúng thích chơi và sẽ vui vẻ chạy, đi bộ hoặc công viên với chủ của chúng. Và vì bản tính nhạy bén của chúng, việc huấn luyện vâng lời sẽ trở nên dễ dàng. 3. Chó Spaniel Cocker Mỹ Điểm nổi bật: Thông minh, ngoan ngoãn, yêu thương Trong khi Chó Spaniel Cocker đã có nguồn gốc từ nước Anh, sự chia rẽ Chó Spaniel giống vào hai giống một khi họ đạt Mỹ. Cả Chó Spaniel Cocker Mỹ và Anh đều có tính cách rất giống nhau, mặc dù có những điểm khác biệt chính về thể chất. Ví dụ, American Cocker hơi ngắn và nhỏ hơn, với đầu ngắn hơn so với giống Anh. Ngoài ra, giống chó Mỹ thường có bộ lông mềm mại hơn. Bất chấp những khác biệt nhỏ này, cả hai đã trở thành giống chó riêng biệt vào năm 1940. Chó Spaniel Cocker Mỹ là một giống chó rất hòa đồng và hướng ngoại. Họ yêu mọi người và hạnh phúc nhất khi họ là trung tâm của sự chú ý. Những chú chó này có thể không dành cho bạn nếu bạn là người bận rộn, vì chúng cần nhiều sự tương tác của con người. Điều làm cho chúng trở thành những con chó phổ biến như vậy là tính cách đồng đều của chúng. Họ có rất nhiều kiên nhẫn và không dễ dàng khó chịu hay thất vọng. American Cockers mang đến niềm vui mà không cần kịch tính, chúng thực sự là một trong những con Chó Spaniel tốt nhất. 4. Chó Spaniel Cavalier King Charles Điểm nổi bật: Đằm thắm, Nhẹ nhàng, Thanh lịch Không chỉ Cavalier King Charles Chó Spaniel là một trong những giống chó Toy phổ biến nhất mà còn là giống Chó Spaniel phổ biến nhất. Là một trong 20 giống chó hàng đầu ở Mỹ, Cavalier King Charles được biết đến với tính cách hiền lành và thân thiện. Những con Chó Spaniel này có một lịch sử hoàng gia có thể bắt nguồn từ thời kỳ Phục hưng. Chúng được đặt tên từ Vua Charles I, người đặc biệt bị ám ảnh bởi nhiều loại màu đen và rám nắng của những con Chó Spaniel Toy này (tổ tiên của CKC Chó Spaniel). Thật dễ dàng để hiểu tại sao Cavalier King Charles lại được yêu thích đến vậy. Trong nhiều thế kỷ, chúng đã được lai tạo để trở thành loài chó lai tối thượng. Và cho đến ngày nay, chúng vẫn vậy. Chúng là những con chó tốt bụng, hiền lành, tình cảm, trung thành và tốt bụng. Thêm vào đó, họ quyến rũ theo đúng nghĩa của họ. Do di truyền Chó Spaniel của mình, Cavalier King Charles cũng có thể hoạt bát và sôi nổi. Chúng thích đi dạo xung quanh bao nhiêu thì chúng cũng thích chơi đùa tích cực. Chính khả năng thích nghi này đã khiến chúng trở thành giống Chó Spaniel được săn đón ngày nay. 5. Chó Spaniel Toy Anh Điểm nổi bật: Vui vẻ, nhẹ nhàng, Thông minh Chó Spaniel Toy Anh còn được gọi là King Charles Chó Spaniel, đừng nhầm với Cavalier King Charles. Mặc dù cả hai là giống Chó Spaniel khác nhau nhưng chúng có lịch sử và nguồn gốc tương tự nhau. Rốt cuộc, những cái tên giống nhau không thể là trùng hợp. Những chiếc Chó Spaniel Toy của Anh được Vua Charles I và con trai của Anh làm cho nổi tiếng. Tuy nhiên, chúng có một lịch sử lâu đời hơn nhiều so với Cavalier King Charles. Trên thực tế, những chiếc Chó Spaniel này đã xuất hiện từ thế kỷ 15, trong khi được AKC công nhận vào năm 1886. Toy gốc tiếng Anh (King Charles) được đặt theo tên của Vua Charles II. Trong khi chúng có mõm dài trong quá khứ, cuối cùng chúng đã được lai tạo với mõm ngắn, như đã thấy trong biến thể ngày nay. Chó Toy Anhs cũng là những chú chó nhỏ gọn, chắc nịch và vuông vắn. Khi nói đến tính cách, Chó Toy Anh có một trong những giống Chó Spaniel tốt nhất. Họ không chỉ tình cảm mà còn rất vui tính và có chút gì đó cục cằn. Những con Chó Spaniel nhỏ nhắn này có một mặt ngớ ngẩn mà hầu hết các chủ sở hữu có thể đánh giá cao. 6. Chó Spaniel Clumber Điểm nổi bật: Hài hước, Lịch sự, Bình tĩnh Trong số tất cả các giống Chó Spaniel, Chó Spaniel Clumber là giống chó lớn nhất. Chúng cao từ 43 đến 50 cm, nhưng có thể nặng tới 45 kg tùy thuộc vào giới tính. Nhưng chỉ vì chúng là những con chó lớn không có nghĩa là chúng hung dữ theo bất kỳ cách nào. Trên thực tế, nó hoàn toàn ngược lại. Chó Spaniel Clumber được biết đến với bản tính nhẹ nhàng và điềm tĩnh. Chúng biết khi nào nên tập trung năng lượng trên sân, và khi nào thì thư giãn trong nhà. Như vậy, ít có Chó Spaniel nào cân bằng như Clumber. Nguồn gốc của chúng có thể bắt nguồn từ cuối những năm 1700 ở Nottinghamshire, Anh. Chúng được lai tạo lần đầu tiên bởi Công tước Newcastle (cùng với người quản trò của mình), người đã đặt tên cho chú Chó Spaniel theo tên điền trang của mình, được gọi là Clumber Park. Chó Spaniel Clumber là một trong những thợ săn chim hàng đầu trong ngày cỏ khô của họ. Và bởi vì chúng được lai tạo cho hoàng gia, chúng duy trì sự nổi tiếng trong giới hoàng gia trong nhiều thế hệ. Trên thực tế, Edward VII và George V là những nhà lai tạo chính cho giống Chó Spaniel này. 7. Chó Spaniel Ailen Điểm nổi bật: Hoạt bát, siêng năng, dũng cảm Chó lội nước Ailen đã có một lịch sử lâu đời như một máy bắn nước hàng đầu. Vài thế hệ trước, chỉ có hai giống Chó Spaniel: Chó Spaniel trên cạn và Chó Spaniel nước. Mặc dù vào giữa thế kỷ 19, Ireland cuối cùng đã phát triển hai giống chó. Những Chú Chó Spaniel Ailen này là Chó Lội Nước Spaniel Miễn Nam và Chó lội nước Spaniel miền bắc. Cả hai điều này, đều rất quan trọng trong sự phát triển của Chó Spaniel Ailen hiện đại. Mặc dù vậy, Chó lội nước Spaniel Irish giống chó lội nước miền nam hơn. Một lý do lớn cho sự thành công lâu dài của họ trong việc săn bắn là đạo đức làm việc đáng kinh ngạc. Đừng nhầm, Chó lội nước Spaniel Irish là một giống chó chăm chỉ. Khi săn mồi, chúng được khoanh vùng và rất ngoan ngoãn nhưng cũng rất nhạy bén. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là họ không có tình cảm và yêu thương trong nhà. Chúng thực sự là. Chó Spaniel Ailen bản chất là tò mò, nhưng cũng có một mặt hề. Chúng tận hưởng cuộc sống công việc của mình, mặc dù chúng cũng muốn dành thời gian cho chủ sở hữu. 8. Chó Spaniel Mỹ Điểm nổi bật: Háo hức, Vui vẻ, Vui vẻ Giống như người anh em họ Ailen của mình, Chó Spaniel Mỹ là một con Chó Spaniel màu gan được lai tạo để xả ra trò chơi từ các bờ đầm lầy của Great Lakes của Mỹ. Và như bạn có thể đoán, biến thể của người Mỹ là hậu duệ trực tiếp của giống Chó Spaniel Ailen. Khi những người nhập cư châu Âu chuyển đến Great Lakes của Mỹ, họ đã tận dụng được lợi thế của các loài chim nước xung quanh khu vực này. Trải qua nhiều thế hệ lai tạo, những chiếc vòi nước được thiết kế riêng để hoạt động trong vùng hồ độc đáo này. Mặc dù hai cây cầu nước trông rất giống nhau, nhưng cây súng nước Mỹ nhỏ hơn nhiều so với phiên bản Ireland. Sự khác biệt rõ ràng nhất, ít nhất là về mặt thể chất, có thể là phần tóc bổ sung trên đầu của chú chó nhện Ailen. Nhìn chung, cả hai đều có nhiều tính cách giống nhau. Chó Spaniel Mỹ rất tình cảm và luôn vui vẻ. Sự háo hức của chúng khiến chúng trở nên lý tưởng cho việc huấn luyện, nhưng đôi khi chúng có thể trở nên cứng đầu. Mặc dù vậy, chúng là những con chó canh gác tốt. 9. Chó Spaniel Field Điểm nổi bật: Tốt bụng, Nhẹ nhàng, Nhạy cảm Trong những năm đầu săn bắn ở Anh, các giống Chó Spaniel được nhóm lại với nhau vì mục đích đơn giản. Khi các nhà lai tạo bắt đầu trưng bày những chú chó của họ trong các cuộc thi, sự phân biệt của các giống Chó Spaniel cuối cùng đã được ghi nhận. Và, một trong những giống Chó Spaniel được sinh ra trong thời gian này là Chó Spaniel Field. Giống chó này được lai tạo từ sự kết hợp của Chó Spaniel Cocker Anh, Chó Spaniel và Sussex . Những chú chó này không chỉ có ngoại hình đẹp mà còn có kỹ năng của một thợ săn cừ khôi. Nhưng nhanh chóng khi chúng trở nên phổ biến, chúng đã gần như tuyệt chủng. Các nhà lai tạo bắt đầu lai tạo chúng với sự xuất hiện trong tâm trí. Cuối cùng, điều này dẫn đến sức khỏe không tốt và loại bỏ khả năng trở thành thợ săn cừ khôi của họ. Mặc dù vậy, đến những năm 1960, chúng đã được hồi sinh. Ngày nay, Chó Spaniel Field hiện đại là một người bạn đồng hành và vật nuôi tuyệt vời. Chúng được lai tạo với một thái độ ngoan ngoãn và một chút nhạy cảm. Và do có quan hệ gần gũi với Cocker và Springer, chó Spaniel Field sẽ có tính cách sôi nổi. 10. Chó Spaniel Welsh Điểm nổi bật: Sáng sủa, Vui vẻ, Dự bị Cùng với Chó Spaniel Anh, Chó Spaniel Welsh là một trong những giống Chó Spaniel cổ nhất hiện đang tồn tại. Trên thực tế, họ là hậu duệ trực tiếp của những con Chó Spaniel ban đầu được tìm thấy trên bán đảo Iberia của lục địa Châu Âu. Hiện tại, không có lịch sử rõ ràng về cách những con chó này được phát triển. Thêm vào đó, các nhà sử học thậm chí còn không chắc chắn bằng cách nào những chó Spaniel này di cư từ bán đảo đến xứ Wales. Mặc dù vậy, nghệ thuật và văn học cổ đại cho rằng những con chó này đã tồn tại hơn 250 năm trước. Ngày nay, Chó Spaniel Welsh vẫn là một thợ săn có khả năng cao. Điều khiến chúng trở nên đặc biệt là khả năng “bật và tắt” khi đi săn. Chúng sẽ là những con chó hung dữ và tập trung trên sân, nhưng có một sự rung cảm lạc quan ở nhà. Tuy nhiên, những chú Chó Spaniel này nổi tiếng với những tính nết cứng đầu. Điều này không có nghĩa là chúng không yêu chủ nhân của chúng. Chó Spaniel Welsh là những chú chó cực kỳ trung thành và sẽ giúp bạn khi mọi việc trở nên nghiêm trọng. 11. Chó Spaniel Boykin Điểm nổi bật: Nhiệt tình, Yêu thương, Hướng ngoại Luôn khoác lên mình bộ lông màu nâu đặc trưng, ​​Chó Spaniel Boykin là một giống Chó Spaniel ngoan cường và có thể huấn luyện được với sự nhiệt tình tuyệt vời. Nguồn gốc của Boykin Chó Spaniel, và cách con chó được đặt tên, là một điều bất thường. Chó Spaniel Boykin thực chất là một cộng đồng nhỏ ở Nam Carolina, được đặt theo tên của người sáng lập cộng đồng, Whit Boykin. Một người đàn ông tên là Alexander White đã tìm thấy một con chó nhỏ màu nâu bên ngoài nhà thờ của mình. Anh đưa nó vào và thấy con chó có bản năng truy tìm tuyệt vời. White sau đó đã gửi con chó đi huấn luyện cùng với người bạn đi săn của mình, Whit Boykin. Quá ấn tượng trước sự nhiệt tình của chú chó, Boykin bắt đầu chương trình nhân giống chú Chó Spaniel bí ẩn. Ông đã lai tạo con chó với một số Chó Spaniel để cuối cùng tạo ra Chó Spaniel Boykin. Ngày nay, nhiệt huyết và bản năng tương tự cũng được tìm thấy trong Chó Spaniel Boykin hiện đại. Chúng rất háo hức và ham học hỏi, do đó, việc huấn luyện vâng lời có thể dễ dàng. Tuy nhiên, trong nhà, họ cũng vui vẻ và thân thiện như bất kỳ người nào khác. 12. Chó Spaniel Sussex Điểm nổi bật: Thân thiện, Vui vẻ, Dễ gần Tôi thích gọi Sussex Chó Spaniel, Corgis của giống Chó Spaniel. Đặc biệt với đôi chân ngắn và mập mạp, Chó Spaniel Sussex là một thợ săn đáng gờm hơn vẻ bề ngoài. Chúng có thể chậm hơn các loài Chó Spaniel khác, nhưng chúng là những thợ săn thông minh và kiên định. Chó Spaniel Sussex được phát triển vào khoảng những năm 1700. Đúng như tên gọi, chúng được lai tạo bởi những người thợ săn ham học hỏi ở hạt Sussex của Anh. Những chiếc Chó Spaniel này được xây dựng để có độ bền cao và thấp so với mặt đất, khiến chúng phù hợp với trò chơi của khu vực. Nhưng điều thực sự khiến họ trở thành những thợ săn đặc biệt là “ ngôn ngữ của những tiếng sủa ”. Khi muốn cho thợ săn biết vị trí, chúng sẽ phát ra những âm thanh sủa riêng biệt. Vì lý do này, Chó Spaniel Sussex là một trong những giống Chó Spaniel có giọng hát hay nhất hiện nay. Cũng giống như phong cách săn mồi của họ, Chó Spaniel Sussex điềm tĩnh và nhẹ nhàng khi ở nhà. Họ làm những con chó tuyệt vời cho trẻ em vì chúng rất nóng tính và kiên nhẫn. Luôn vui vẻ và lạc quan, có rất ít điều có thể làm phiền người Sussex . 13. Chó Spaniel Pháp Điểm nổi bật: Thông minh, ngoan ngoãn, hướng ngoại Chó Spaniel Pháp được phát triển ở Pháp. Là chó Spaniel to lớn với khung sườn chắc chắn, người Pháp không ngạc nhiên về thể lực với tinh thần làm việc tốt. Và mặc dù chúng được lai tạo ở Pháp, nhưng bản năng của chúng đã khiến quốc tế chú ý. Nhiều nhà sử học tin rằng chó Spaniel là hậu duệ của chó săn Pháp từ thế kỷ 14. Trong thời gian đó, chúng được dành riêng để săn bắn với hoàng gia, mang lại cho họ uy tín và sự tôn trọng trong cộng đồng săn bắn. Thật không may, tổ tiên của giống Chó Spaniel Pháp gần như tuyệt chủng vào những năm 1900. Một linh mục người Pháp, tên là Father Fournier, là một người đam mê đã dành nhiều thời gian để hồi sinh giống chó này. Anh ấy đã rất thành công, không cần phải nói. Chó Spaniel Pháp hiện đại là những sinh vật rất hòa đồng. Chúng hòa đồng với con người, chó và các vật nuôi khác. Chúng rất bình tĩnh, nhẹ nhàng và ngọt ngào, đến nỗi khó có thể cưỡng lại sức hấp dẫn của chúng. Mặc dù khi ở trên sân, chúng là một giống chó giàu năng lượng. Xem Ngay : 24 Giống chó Pháp lạ mắt 14. Chó Spaniel Đức Điểm nổi bật: Đa năng, Yêu thương, Ý chí mạnh mẽ Chó Spaniel Đức, còn được gọi là Deutscher Wachtelhund, là một giống Chó Spaniel chuyên săn chim cút. Đó là lý do tại sao chúng thường được gọi là Chó Cút Đức. Khi ở trên sân, họ cũng linh hoạt như bất kỳ Chó Spaniel nào. Những con chó này không phải là Chó Spaniel bình thường. Mặc dù là giống Chó Spaniel, giống chó này được cho là có khả năng theo dõi mùi hương tương đương với Bloodhound. Trên thực tế, chúng được lai tạo có chủ đích với mục đích này, nhờ một nhóm thợ săn người Đức vào những năm 1880. Những người thợ săn đã mang về một con chó săn cũ, được gọi là Stober. Họ có chiếc mũi đáng kinh ngạc và khả năng theo dõi ấn tượng. Cuối cùng, Stober đã được lai với nhiều giống Chó Spaniel khác nhau để tạo ra giống Chó Spaniel Đức mà chúng ta biết ngày nay. Khi ra sân, chó Spaniel Đức cũng cuồng nhiệt không kém. Thật khó để bỏ qua tính cách sôi nổi và tươi sáng của chúng trong nhà. Tuy nhiên, chúng là những con chó khá năng động và cần nhiều hoạt động thể chất tốt để giữ cho chúng vui vẻ và khỏe mạnh. Xem Ngay : 31 con chó Đức vĩ đại nhất 15. Chó Spaniel Nga Điểm nổi bật: Hăng hái, Cảnh báo, Tinh thần thoải mái Chó Spaniel của Nga là một giống chó thuộc giống Chó Spaniel được phát triển vào năm 1951 bởi Liên Xô. Chúng được lai tạo ngay sau Thế chiến thứ hai, bằng cách lai giống Chó Spaniel Cocker của Anh với Chó Spaniel và các giống chó khác. Như vậy, chó Spaniel Nga có nhiều phẩm chất thể chất như tổ tiên của chúng. Mặc dù sự khác biệt chính là chó Spaniel Nga có thân hình hơi dài với bộ lông ngắn hơn. Ngoài ra, ít ai có thể phân biệt được chúng. Lý do chính để phát triển giống chó này là để tìm ra một con chó săn có ít vấn đề về sức khỏe hơn giống Chó Spaniel điển hình. Mặc dù họ đã thành công, nhưng điều đáng chú ý là chó Spaniel Nga có xu hướng bị dị ứng thực phẩm. Nhưng, không có gì thực sự nghiêm trọng. Chó Spaniel Nga là những con chó vô tư và thoải mái, đặc biệt là khi chúng ở bên những người chúng yêu thương. Nhưng chúng cũng thích tham gia vào các hoạt động gia đình và tốt nhất cho những người có thể cung cấp lối sống năng động cho những con chó này. Tìm hiểu thêm : 21 Giống chó Nga rạng rỡ 16. Chó Kooikerhondje Điểm nổi bật: Yêu thương, Nhanh nhẹn, Cảnh báo Chó Kooikerhondje, phát âm là coy-ker-hond-tsje, là một giống Chó Spaniel có nguồn gốc từ Hà Lan. Bạn có tin hay không, chúng là một trong những giống Chó Spaniel lâu đời nhất vẫn còn tồn tại, bằng chứng là các bức tranh có từ cuối thời Trung cổ. Và giống như nhiều chó Spaniel, Chó Kooikerhondje có quan hệ với giới tinh hoa hoàng gia. Ví dụ, ai cũng biết rằng Hoàng tử William đã có một con Chó Kooikerhondje đã cứu mạng anh khi những kẻ ám sát đột nhập vào nhà anh. Con chó của anh ta đã cảnh báo anh ta, do đó để anh ta trốn thoát với cuộc sống của mình. Những chiếc Chó Spaniel này được sử dụng để dụ vịt vào “Eendenkooi”, đó chỉ là bẫy vịt nhân tạo. Tuy nhiên, khi chất lượng súng được cải thiện, các thợ săn bắn hạ vịt chính xác hơn. Những cái bẫy không mang lại nhiều lợi nhuận và những chiếc Chó Spaniel không được sử dụng nhiều. Cuối cùng, giống chó Kooikerhondje đã được hồi sinh thành một con chó gia đình tự tin và ngọt ngào. Chúng cũng giữ được bản năng săn mồi linh hoạt của mình, mặc dù sự rung cảm vui vẻ khiến chúng trở thành những con chó tốt hơn để nuôi trong nhà. 17. Chó Stabyhouns Điểm nổi bật: Ý chí, Yêu thương, Độc lập Chó Stabyhouns là một cầu thủ người Hà Lan có liên quan chặt chẽ với chó Drente Patrijshond. Chúng có nguồn gốc từ vùng rừng Frisian của Hà Lan và từ đó trở thành những con chó săn và bạn đồng hành rất linh hoạt. Nhưng không giống như hầu hết các giống Chó Spaniel, Chó Stabyhouns tự nhiên rất độc lập. Nói cách khác, chúng có thể tự mình săn những con thú nhỏ (chuột chũi và thỏ). Chất lượng này không phải ngẫu nhiên. Trên thực tế, chúng được lai tạo đặc biệt với tinh thần độc lập. Chó Stabyhounss cũng là những con chó rất tò mò. Tương tự như Beagle, chúng có thể bị lạc hướng và tự theo dõi. Nếu không có một vòng vây an toàn, chúng có thể thoát ra khi có cảm giác nhỏ nhất về con mồi. Vì vậy, bạn sẽ muốn kiểm tra điều này. Một mối quan tâm lớn là giọng hát của Chó Stabyhouns. Chúng được lai tạo để gây tiếng ồn và cảnh báo cho chủ nhân khi phát hiện ra con mồi hoặc khi có điều gì đó có vẻ không ổn. Đó là lý do tại sao họ tạo ra những cơ quan giám sát thực sự tốt. Nếu không, họ khá bình tĩnh và nhẹ nhàng. 18. chó Drente Patrijshond Điểm nổi bật: Tận tụy, Thông minh, Nhạy bén Chó Drentche Patrijshond có thể dễ dàng phát âm. Cách chính xác để phát âm tên của họ là da’rinse-ah puh’trice-hoon. Tuy nhiên, chúng ta sẽ chỉ gọi chúng là “Drent”. Nhưng mặc dù chúng thuộc giống Chó Spaniel, chúng có nguồn gốc từ những con trỏ. Người ta cho rằng có nguồn gốc từ loài chó chỉ điểm của Tây Ban Nha. Khi những con chó này đến Hà Lan, nhiều con đã nhanh chóng được lai tạo với nhiều giống chó địa phương khác nhau. Tất cả ngoại trừ những người ở Tỉnh Drenthe. Ngày nay, Chó Drent là giống chó săn xuất sắc được biết đến với công việc trên nhiều địa hình khác nhau. Chúng không chỉ có kỹ năng cao mà sự linh hoạt của chúng cho phép chúng săn mồi cả trên cạn và dưới nước. Họ cũng đang được biết đến là đầu chó tha mồi, làm cho chúng tất cả xung quanh con chó săn. Tuyệt vời như chúng ở trên sân, chúng cũng hoàn hảo như ở nhà. Nổi tiếng là những người bạn chơi tuyệt vời với trẻ em, Chó Drent có một khía cạnh mềm yếu và hòa đồng với mọi người. Chúng là những con chó rất trung thành và cũng rất nghiêm túc trong việc huấn luyện. 19. Chó Spaniel Picardy Nội dung nổi bật: Nhẹ nhàng, Hướng ngoại, Yêu thương Chó Spaniel Picardy là một giống Chó Spaniel của Pháp được sử dụng chủ yếu để làm chó săn. Chúng được cho là một trong những giống chó Pháp lâu đời nhất, có mối quan hệ chặt chẽ với giới quý tộc Pháp. Mặc dù vậy, Chó Spaniel Picardy kể từ đó đã phát triển thành những con chó gia đình cho đại chúng. Lần đầu tiên chúng trở nên phổ biến ngay sau Cách mạng Pháp, khi săn bắn trở thành một môn thể thao cho tất cả mọi người (không chỉ giới quý tộc). Bộ lông chống nước của chúng là những gì đã làm cho chúng trở thành những con chó thuận lợi cho điều kiện đầm lầy ở tây bắc nước Pháp. Tính cách tuyệt vời của Chó Spaniel Picardy chuyển rất tốt vào nhà. Chúng nổi tiếng là tuyệt vời với trẻ em và phong thái dễ gần của chúng rất thu hút những người không phải thợ săn. Chó Spaniel biết cách hòa đồng với mọi người và họ thích sự chú ý. Họ cũng có một sức khỏe tuyệt vời, thường sống đến 14 tuổi. Mối quan tâm chính là nhiễm trùng trong tai, đặc biệt nếu họ thường xuyên bơi lội. Ngoài ra, Chó Spaniel Picardy khá dễ chăm sóc, điều này giải thích sự phổ biến của chúng vào thời điểm đó. 20. Chó Spaniel Picardy Xanh Điểm nổi bật: Vui vẻ, tràn đầy năng lượng, tình cảm Chó Spaniel Picardy Xanh, như bạn có thể đoán, có liên quan chặt chẽ với Picard Chó Spaniel của nước Pháp. Trên thực tế, chúng là hậu duệ của Chó Spaniel Picardy và English Setters, sự kết hợp của hai thợ săn lành nghề. Điều khiến chúng nổi bật so với phần còn lại là màu lông. Đó là điểm khác biệt chính so với Chó Spaniel Picardy cổ điển. Lớp lông của chúng sẽ có lốm đốm màu xám, do đó tạo thành tông màu hơi xanh. Bạn cũng có thể tìm thấy những mảng màu đen trên lớp lông của con Chó Spaniel xanh. Những con chó xanh này được lai tạo để trở thành những thợ săn linh hoạt, giống như Picardy ban đầu. Họ sẽ có thể theo dõi và truy xuất trò chơi ở nhiều địa hình khác nhau, điều mà chỉ một số chó Spaniel mới có thể làm được. Nhưng vì kỹ năng của họ, họ đòi hỏi phải tập thể dục rất nhiều. Trong nhà, Chó Spaniel Picardy Xanh phát triển mạnh nhờ sự tương tác của con người. Chúng thích ở xung quanh con người của mình và chúng yêu thích sự đồng hành của trẻ em hơn. Bởi vì chúng là những con chó cứng cáp, chúng có thể đối phó với cơn điên của những đứa trẻ thô bạo. 21. Chó Markiesje Điểm nổi bật: Thân thiện, Hòa nhã, Vui tươi Còn được gọi là Chó săn Tulip Hà Lan, Chó Markiesje là một giống chó mới được hồi sinh. Chúng đã có từ những năm 1600, theo Xem Ngay của những bức tranh cũ. Và mặc dù được gọi là chó săn, chúng vẫn có di sản Chó Spaniel trong máu. Các câu lạc bộ giống Chó Markiesje đầu tiên được thành lập bởi hai người phụ nữ vào năm 1979. Vì lý do này, nhiều người tin rằng Giống chó Markiesje hiện đại là một “giải trí” của giống cũ. Kể từ đó, chúng chỉ được công nhận bởi Câu lạc bộ chó giống Hà Lan (1999). Sự công nhận không phải là tất cả mọi thứ trong vương quốc chó. Đó là tất cả về tính cách, mà những loại Chó Spaniel này được biết đến. Chó Markiesjes là những con chó ngọt ngào và thân thiện, thích ở bên gia đình của chúng. Ngay cả với trẻ em, chúng được biết là rất vui tươi. Đồng thời, chúng có thể độc lập, mặc dù không phải trong nhiều giờ tại một thời điểm. Bạn có thể để chúng một mình mà chúng không lo lắng về sự chia ly, nhưng đừng làm điều đó quá thường xuyên. Nhìn chung, Chó Markiesje là một con chó rất đáng tin cậy đối với tất cả các gia đình. 22. Chó Papillon Nội dung nổi bật: Mạo hiểm, Vui vẻ, Yêu thương Chó Papillon, còn được gọi là Chó Spaniel Toy Nội Địa, là một giống chó Toy có trái tim bằng vàng. Chúng được lai tạo để làm bạn đồng hành, giống như nhiều giống chó Toy. Tuy nhiên, bản năng giống chó sói đã khiến chúng trở thành những con chó săn chuột xuất sắc trong quá khứ. Chó Papillon là những người giải trí tuyệt vời và thích thực hiện các thủ thuật và lệnh. Điều làm cho việc này trở nên dễ dàng hơn rất nhiều là khả năng học hỏi với tốc độ nhanh của họ. Chúng tôi không đùa, Chó Papillon là một trong 10 loài chó sáng giá nhất về khả năng nghe lời và trí thông minh trong công việc. Những chú Chó Spaniel này có thể nhỏ, nhưng chúng là những con chó tự tin. Chúng không phải lúc nào cũng lùi bước trước một con chó lớn hơn, vì vậy chúng là lựa chọn phù hợp để làm chó canh gác. Với những người họ quen biết, họ hiền lành và tốt bụng. Tuy nhiên, họ có xu hướng xa cách với những người lạ xung quanh. Nhờ năng lượng tinh thần cao của Chó Papillon, chúng rất hòa hợp với những đứa trẻ lớn hơn. Tuy nhiên, chúng là những con chó nhỏ và cần được xử lý cẩn thận khi xung quanh những đứa trẻ ồn ào. Ngoài ra, Chó Papillon có thể là giống Chó Spaniel hoàn hảo đối với nhiều người. Đọc Thêm : 12 Giống chó Tây Ban Nha đặc biệt 23. Chó Spaniel Brittany Điểm nổi bật: Vui vẻ, Sáng sủa, Cảnh báo Vâng, chúng chính thức được gọi là “Chó Brittany” ngày nay. Tuy nhiên, bạn có biết ban đầu chúng được gọi là Chó Spaniel Brittany? Năm 1982, AKC chính thức bỏ danh hiệu “Chó Spaniel” vì chúng được cho là có các thuộc tính hoạt động của một con trỏ. Mặc dù vậy, những con chó này vẫn được gọi là l’épagneul Breton, có nghĩa là Chó Spaniel Brittany, ở Pháp. Brittany có nguồn gốc từ miền Tây nước Pháp, ở một vùng được bao quanh bởi nước. Trong quá khứ, những con chó đa năng này được biết là săn bất cứ thứ gì có lông. Một lý do lớn cho sự thành công của họ là sự nhiệt tình mà họ mang lại cho việc săn bắn. Rất ít chú chó sở hữu được sự nhiệt huyết như người Brittany trên sân. Do đó, những con chó này có rất nhiều năng lượng cần được kiểm soát, mặc dù sẽ rất dễ dàng để chúng tham gia các hoạt động chơi. Chúng tôi đề xuất Brittany cho các gia đình năng động thường xuyên có thể đưa họ ra ngoài. Chúng có một nguồn năng lượng vô độ, điều này có thể tốt nếu bạn có con lớn. Với con người, chúng thân thiện như bất kỳ giống Chó Spaniel nào khác. 24. Chó Chin Nhật Bản Điểm nổi bật: Duyên dáng, Tự hào, Trung thành Chó Chin Nhật Bản thường được gọi là Japanese Chó Spaniel. Có rất nhiều cuộc tranh luận về nguồn gốc của loài chó này, vì một số nhà sử học không tin rằng những con chó này thực sự là Chó Spaniel. Thay vào đó, chúng có thể chỉ giống như những con Chó Spaniel. Tuy nhiên, thật khó để nói chắc chắn. Có những người tin rằng chúng được nhập khẩu đầu tiên từ Hàn Quốc và những người khác, chắc chắn rằng chúng từ Trung Quốc. Bất kể họ đến Nhật Bản bằng cách nào hay di sản chính xác của họ, người ta không thể phủ nhận sự giống nhau kỳ lạ của họ với những con Chó Spaniel. Chó Chin Nhật Bản là những người học rất thông minh. Trên thực tế, họ được biết là vui vẻ thực hiện các thủ thuật để khoe khoang. Họ thậm chí còn có một đặc sản, được gọi là ” quay cằm “, nơi họ sẽ giữ thăng bằng trên hai chân sau và quay theo vòng tròn. Không thể phủ nhận những chú chó Toy nhỏ này là những người bạn đồng hành tuyệt vời. Chúng là những con chó rất nhạy cảm nhưng rất thích vui chơi. Là bạn đồng hành, họ rất tình cảm và yêu thương. Mặc dù vậy, Chin Nhật Bản đôi khi có xu hướng rất giống mèo. Xem Ngay : 13 Giống chó Nhật Bản tốt nhất 25. Chó Spaniel Tây Tạng Điểm nổi bật: Tự tin, Thông minh, Cảnh giác Đến từ các vùng hẻo lánh của Tây Tạng, Chó Spaniel Tây Ban Nha là một giống Chó Spaniel cổ đại, được nuôi để trông coi các tu viện Tây Tạng. Cùng với chó ngao Tây Tạng, chú Chó Spaniel này hoạt động song song để bảo vệ các cộng đồng linh thiêng khỏi những kẻ xâm nhập. Các nhà sư tin rằng chó Spaniel Tây Tạng là hóa thân của các nhà sư Phật giáo trong quá khứ. Vì vậy, chúng đã trở thành răng nanh thiêng liêng và rất được tôn kính ở Tây Tạng. Mặc dù vậy, những con chó Toy này sẽ phát triển mối quan hệ đặc biệt với các thành viên của cộng đồng. Với vai trò giám sát trong quá khứ của chúng, giống chó ngao Tây Tạng bản chất rất cảnh giác và cảnh giác. Đó là lý do tại sao họ vẫn tạo ra những cơ quan giám sát tuyệt vời cho đến ngày nay. Mặc dù chúng thân thiện trong nhà, nhưng chúng có thể xa cách khi đối mặt với một khuôn mặt hoặc tình huống không quen thuộc. Ngoài ra, Giống chó Spaniel này có thể độc lập. Vì chúng được nuôi để trông chừng một mình, những con chó này không ngại bị bỏ lại trong các khoảng thời gian tại một thời điểm. Họ rất tự tin và nghiêm túc trong công việc, nhưng không có nghĩa là chúng cũng không thích vui chơi. Xem Ngay : 17 chú chó Trung Quốc quyến rũ Các giống Chó Spaniel đã tuyệt chủng 1. Chó Spaniel Alpine Được lai tạo ở Thụy Sĩ, do đó có tên là Chó Spaniel Alpine là giống chó đã tuyệt chủng chủ yếu được sử dụng để cứu hộ vùng núi. Họ sẽ giúp vận chuyển tiếp tế và hỗ trợ gần Đèo Great Saint Bernard. 2. Chó Spaniel Anh Như tên cho thấy, Chó Spaniel Anh lần đầu tiên được nuôi ở Anh để săn chim nước. Chúng có bộ lông xoăn và chống nước tương tự như Poodle, nhưng về thể chất thì giống Chó Spaniel. 3. Chó Spaniel Norfolk Chó Spaniel Norfolk là một giống chó cũ từ Anh. Chúng được biết đến với bộ lông sống và màu trắng, có nét giống chó Spaniel Cocker. Tuy nhiên, người ta tin rằng Chó Spaniel dựa trên giống chó này. 5. Chó Spaniel Toy Trawler Những con Chó Spaniel này về thể chất giống với King Charles Chó Spaniel. Trên thực tế, nó được cho là được lai tạo từ King Charles ban đầu (cùng với một con Sussex Chó Spaniel). Trong quá khứ, chúng vừa là chó thể thao vừa là chó thể thao. 6. Chó Spaniel Tweed Mặc dù đã tuyệt chủng, nhưng Chó Spaniel Tweed vẫn có ảnh hưởng rất lớn trong vương quốc chó ngày nay. Người ta tin rằng chúng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của chó Golden Retriever và Chó Retriever lông xoăn. 5 / 5 ( 1 vote ) Tweet Share Share Pin13 13 Shares Top 32 Giống Chó Corgi Lai Thông Minh Tươi Vui Chó Spitz Ấn Độ – Đặc Điểm – Tích Cách Nổi Bật Viết Bình Luận Cancel reply Thức Ăn Cho Mèo Thức Ăn Cho Chó Thức Ăn Cho Hamster Tìm Kiếm Copyright 2021 © Thichthucung.com Trang Chủ Chó Nuôi Chó Bệnh Ở Chó Các Loại Chó Thức Ăn Cho Chó Mèo Giống Mèo Bệnh Ở Mèo Cách Nuôi Mèo Thức Ăn Cho Mèo Chăm Sóc Mèo Con Hamster Cách Nuôi Hamster Bệnh Ở Chuột Hamster Thức Ăn Chuột Hamster Thứ Cưng Khác Thỏ Bọ Ú Nhím Gerbils Chinchilla Liên Hệ
1614178347293.1.parquet/69712
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 27974, "url": "https://thichthucung.com/cho-spaniel/" }
133.9
Liệu lập luận này bác bỏ sự tồn tại của siêu trí tuệ hoạt động? Trí tuệ nhân tạo Thẻ Account Sign In Signup Liệu lập luận này bác bỏ sự tồn tại của siêu trí tuệ hoạt động? 8 Siêu trí tuệ là một cỗ máy có thể vượt qua mọi hoạt động trí tuệ của bất kỳ con người nào, và một cỗ máy như vậy thường được mô tả trong khoa học viễn tưởng như một cỗ máy đưa loài người đến hồi kết. Bất kỳ máy nào được thực hiện bằng thuật toán. Theo luận án Church-Turing, bất kỳ thuật toán nào có thể được thực thi bởi một máy tính hiện đại đều có thể được thực hiện bằng Máy Turing. Tuy nhiên, một con người có thể dễ dàng mô phỏng Máy Turing. Điều này không có nghĩa là một cỗ máy không thể vượt qua tất cả các hoạt động trí tuệ, vì chúng ta cũng có thể thực hiện thuật toán? Lập luận này rất có thể là thiếu sót, vì trực giác của tôi nói với tôi rằng siêu trí tuệ là có thể. Tuy nhiên, nó không rõ ràng cho tôi lỗ hổng ở đâu. Lưu ý rằng đây là đối số của riêng tôi. philosophy superintelligence — wythagoras nguồn 1 Một máy Turing có thể thực hiện bất kỳ thuật toán nào trong thời gian vô hạn. Nhưng một con người có thời gian hữu hạn. Vì vậy, họ không thể thực hiện mọi thuật toán bằng bút và giấy. Không có gì ngăn cản một tác nhân thực hiện thuật toán riêng của mình (và thuật toán đó thực thi một thể hiện khác của tác nhân) mặc dù ở tốc độ chậm hơn cho mỗi tác nhân vì nó sử dụng hết tài nguyên tính toán của nó. — Conor Cosnett Làm thế nào về việc 'vượt qua' con người bằng cách mô phỏng việc thực hiện thuật toán của họ? Tôi không chỉ phức tạp hóa mọi thứ ở đây - khái niệm 'vượt trội' của bạn dường như khá gắn bó với khái niệm mô phỏng. Một định nghĩa rõ ràng hơn về ý nghĩa của bạn khi 'vượt qua' có thể sẽ giúp mọi người trả lời tốt hơn câu hỏi. — NietzscheanAI Câu trả lời: 2 Tôi tin rằng lập luận này dựa trên thực tế rằng trí thông minh là một chiều duy nhất khi nó thực sự không. Máy móc và con người có thực sự ngang hàng nhau không nếu một cỗ máy có thể giải quyết một vấn đề phức tạp trong một phần triệu thời gian con người có thể? Nó cũng giả định rằng máy Turing vẫn là mô hình tính toán tốt nhất cho khoảng thời gian mà bạn đang ở, điều này không nhất thiết đúng cho tương lai, nó chỉ đúng cho đến thời điểm này. — Ian nguồn Bạn có ý nghĩa gì bởi "một chiều"? — nbro 1 Một máy tính lượng tử có một lượng lớn trạng thái bên trong mà ngay cả máy cũng không thể có được trực tiếp. (Bạn chỉ có thể lấy mẫu trạng thái ma trận.) Lượng trạng thái đó tăng theo cấp số nhân với mỗi bit lượng tử tham gia vào hệ thống. Một số hoạt động nhận được sự tăng tốc điên rồ từ điện toán lượng tử: bạn chỉ cần đặt dây lượng tử qua cổng lượng tử và bạn đã cập nhật toàn bộ ma trận cùng một lúc. Mô phỏng một máy tính lượng tử với một máy tính cổ điển sẽ mất nhiều thời gian hơn theo cấp số nhân cho mỗi qubit. Với vài chục qubit, sức mạnh tính toán của máy cho một số tác vụ thậm chí không thể được tiếp cận bởi một máy tính bình thường, ít hơn nhiều so với tâm trí con người. Có liên quan: câu trả lời của tôi về mức độ máy tính lượng tử có thể giúp phát triển Trí tuệ nhân tạo ở mức độ nào? Lưu ý rằng với các máy tính lượng tử, bạn đã vượt xa các số 0 và số bình thường. Sau đó, bạn cần một máy Turing lượng tử , đó là một khái quát của máy cổ điển. — Bến N nguồn 1 Máy Turing lượng tử mà bạn liên kết không có tính biểu cảm cao hơn so với TM truyền thống - nó đơn giản (đối với một số thuật toán) hoạt động nhanh hơn theo cấp số nhân. Do đó, không rõ điều này có liên quan gì đến câu hỏi của OP. — NietzscheanAI @ user217281728 Giống như câu trả lời được chấp nhận, tôi cho thấy rằng con người thực sự không thể "mô phỏng dễ dàng một máy Turing"; một máy tính lượng tử hoàn toàn sẽ tạo ra con người cho các thuật toán này. — Ben N 1 Chà, câu hỏi chắc chắn có thể sử dụng rất nhiều sự làm rõ, nhưng toàn bộ quan điểm của khái niệm mô phỏng trong CS là nó không quan trọng việc mô phỏng mất bao lâu, chỉ đơn thuần là một thứ gì đó tương đương về chức năng được tạo ra. — NietzscheanAI Nó thực sự phụ thuộc vào việc 'vượt qua' được định nghĩa là 'có thể làm trí tuệ hơn' VÀ 'làm điều đó nhanh hơn' hay chỉ trước đây. — NietzscheanAI "Tăng tốc theo cấp số nhân" phải làm gì với siêu trí thông minh, đó là trí thông minh chung? Bạn có thể siêu nhanh khi thực hiện một số tính toán nhất định và vẫn khá cụ thể. — nbro 0 Lỗ hổng trong lập luận của bạn là "vượt qua" không có nghĩa là bạn sẽ có thể chạy tất cả các thuật toán, nó bao gồm một khái niệm về độ phức tạp, tức là bạn sẽ mất bao nhiêu bước để mô phỏng thuật toán. Làm thế nào để bạn mô phỏng một thuật toán với máy Turing? Một máy Turing bao gồm một máy trạng thái hữu hạn và một cuộn băng vô hạn. Máy Turing chạy thuật toán, được xác định bởi trạng thái ban đầu và ma trận chuyển trạng thái, nhưng điều tôi nghĩ bạn đang nói đến là Máy Turing phổ dụng (UTM) có thể đọc "mã" (thường là mô tả về máy Turing khác ) được viết trên "đoạn mã" của băng và sau đó mô phỏng máy đó trên dữ liệu đầu vào được ghi trên "đoạn dữ liệu" của băng. Máy Turing có thể khác nhau về số lượng trạng thái trong máy trạng thái hữu hạn của chúng (và cả trong bảng chữ cái chúng viết trên băng nhưng bất kỳ bảng chữ cái hữu hạn nào cũng dễ dàng được mã hóa thành nhị phân vì vậy đây không phải là lý do lớn cho sự khác biệt giữa các máy Turing). Vì vậy, bạn có thể có UTM với máy trạng thái lớn hơn và UTM với máy trạng thái nhỏ hơn. UTM lớn hơn có thể có thể vượt qua cái nhỏ hơn nếu họ sử dụng cùng một mã hóa cho phần "mã" của băng. Bạn cũng có thể chơi xung quanh với mã được sử dụng để mô tả TM được mô phỏng. Mã này có thể là C ++, ví dụ, hoặc có thể là một mạng nơ-ron với cường độ synapse được viết dưới dạng ma trận. Mô tả nào là tốt hơn cho tính toán phụ thuộc vào vấn đề. Một ví dụ so sánh giữa các UTM với các máy trạng thái khác nhau: xem xét các trình biên dịch khác nhau cho cùng một ngôn ngữ, giả sử C ++. Cả hai trước tiên sẽ biên dịch C ++ để lắp ráp và sau đó chạy một UTM khác để đọc và thực thi lắp ráp (CPU vật lý của bạn). Vì vậy, một trình biên dịch tốt hơn sẽ chạy cùng mã nhanh hơn. Quay lại con người với máy tính, con người là mạng lưới thần kinh chạy các thuật toán giống như những gì bạn sẽ viết bằng C ++. Điều này liên quan đến việc chuyển đổi thuật toán tốn kém và không hiệu quả thành chuyển động tay. Một máy tính sử dụng trình biên dịch để chuyển đổi C ++ để lắp ráp mà nó có thể chạy tự nhiên, do đó nó có thể thực hiện mã C ++ hiệu quả hơn nhiều. Thay vào đó, con người có rất nhiều tế bào thần kinh và mã thần kinh, tức là sức mạnh đồng bộ, rất khó đọc, vì vậy các máy tính hiện tại chưa thể chạy mã đó. — Khắc nghiệt nguồn Chúng ta không thực sự biết một mô hình ANN gần với hoạt động của bộ não con người như thế nào. Đối với tất cả những gì chúng ta biết, nó có thể yêu cầu các vi ống lượng tử của Penrose ... — NietzscheanAI @ user217281728 Trong khi những gì bạn nói là đúng, tôi nghĩ bạn đang đánh giá thấp nghiên cứu khoa học thần kinh. Tế bào thần kinh McCullogh-Pitts là một mô hình tương đối tốt cho các tế bào thần kinh và chúng ta hiểu một chút công bằng (ở các quy mô khác nhau) về cách thức các tế bào thần kinh hoạt động, cách các bó thần kinh hoạt động, cách thông tin chảy trong một số vùng não. Trong mọi trường hợp, câu trả lời của tôi là một nỗ lực giải thích cho một người không phải là chuyên gia về sự khác biệt giữa các mô hình tính toán khác nhau — Harsh OK, bây giờ tôi đánh giá cao rằng bạn muốn vẽ một bức tranh đơn giản. — NietzscheanAI Khi sử dụng trang web của chúng tôi, bạn xác nhận rằng bạn đã đọc và hiểu Chính sách cookie và Chính sách bảo mật của chúng tôi. Licensed under cc by-sa 3.0 with attribution required.
1614178347293.1.parquet/107337
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 6682, "url": "https://qastack.vn/ai/140/does-this-argument-refuting-the-existence-of-superintelligence-work" }
133.8
In bài viết Người chết hồi sinh thành… robot Người chết hồi sinh thành… robot Nhóm khoa học gia Thụy Điển đang cố gắng để những người đã và đang đau khổ vì mất đi người thân yêu có thể gặp lại người đã khuất một lần nữa, trong hình hài một robot có gương mặt, giọng nói và ý thức không khác ngày còn sống. Một bản sao đầy đủ ý thức của người chết sẽ được các nhà khoa học biến thành một AI – bộ não mang trí thông minh nhân tạo. AI này sẽ được đưa vào một robot được thiết kế giống với người quá cố. Các nhà khoa học cũng sẽ tái tạo giọng nói của người đó, dạy cho robot này khả năng trả lời các câu hỏi đơn giản về cuộc sống hằng ngày. Trong tương lai, chúng ta sẽ bất tử dưới hình hài robot? - ảnh: SPUTNIK Họ thậm chí còn hứa hẹn rằng sự hồi sinh này sẽ chân thật như trong các phim khoa học viễn tưởng. Kế hoạch táo bạo này đã được xác thực khi vừa qua, cơ quan tang lễ Phoenix của Thụy Điển công bố lời kêu gọi tình nguyện viên, những người sẽ cho phép nhóm khoa học gia tạo nên một robot mang những đặc điểm của người thân đã khuất. Không thể phủ nhận tính khả thi của kế hoạch, khi thời gian qua chúng ta đã chứng kiến những robot mang bộ não AI siêu việt trở thành một công dân, trả lời phỏng vấn, học tập để làm phát thanh viên truyền hình… Kế hoạch gây tranh luận trái chiều trong giới khoa học. Một số người lo ngại khi chúng ta lạm dụng công nghệ AI, sản sinh ra một thế hệ robot có khả năng tư duy, hành động độc lập, biết đâu sẽ có một robot nào đó trở thành "kẻ hủy diệt". Thế nhưng, số đông vẫn ủng hộ ý tưởng giúp ai đó được gặp lại người thân một lần nữa. Một trong những người ủng hộ là giáo sư – tiến sĩ Michio Kaku (Đại học New York, Mỹ). Bản thân giáo sư Kaku cũng đang say mê nghiên cứu nhằm tạo ra hiện thân ảo của người đã khuất bằng công nghệ trí tuệ nhân tạo kết hợp với hình ảnh thực tế ảo. Trả lời câu hỏi của báo giới về sự hồi sinh có sự tham gia của máy móc, giáo sư Kaku nói: "Về mặt hiệu quả, họ sẽ trở nên bất tử". Trong khi đó, cơ sở nghiên cứu Terrasem Movement của Mỹ cũng có ý tưởng tương tự khi đang tiến hành làm bản sao ý thức của người dân lên máy tính. Họ sẽ tạo ra một "tập tin ý thức" có khả năng tải lên một robot. Hơn 56.000 người đã tình nguyện cho các nhà khoa học sao lưu ý thức. A. Thư (Theo Daily Mail, Spunik)
1614178347293.1.parquet/168255
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 2009, "url": "https://nld.com.vn/Print.aspx?NewsID=20180226092709018" }
133.8
Tăng cường sức khoẻ với các loại trà thảo mộc - Cao đẳng Kế toán Hà Nội Cao đẳng Kế toán Hà Nội Search this site Trang chủ Cao đẳng Kế toán Kế toán là gì? Cơ hội việc làm khi học cao đẳng kế toán CAO ĐẲNG KẾ TOÁN cấp tốc, NHANH có bằng Tại sao nên học cao đẳng kế toán Thu nhập cao từ học CAO ĐẲNG KẾ TOÁN Học phí cao đẳng Kế toán Hà Nội Văn bằng 2 Cao đẳng Kế toán Vì sao nên học văn bằng 2 Kế toán? Điều kiện học văn bằng 2 cao đẳng kế toán? Liên thông Học viện Tài chính Vì sao nên học Liên thông Học viện Tài chính Điều kiện Liên thông Học viện Tài chính 2018 Hồ sơ Liên thông Học viện Tài chính Tin tức Liên hệ Trang chủ Giới thiệu Tin tức Cao đẳng Kế toán Trung cấp kế toán Hà Nội Cao đẳng Tài chính Ngân hàng Kinh nghiệm làm kế toán QUẢNG CÁO Tăng cường sức khoẻ với các loại trà thảo mộc Trà thảo mộc có nhiều hương vị thơm ngon và tự nhiên không chứa đường và calo. Nhiều loại trà thảo mộc cũng cung cấp các tác dụng tăng cường sức khỏe và khoa học hiện đại đã bắt đầu xác nhận một số cách sử dụng truyền thống của họ. Cho dù bạn là người yêu trà hay người mới, đừng ngại thử các loại trà thảo mộc này. Tăng cường sức khoẻ với các loại trà thảo mộc 1. Trà xanh Được yêu thích với những người uống trà ở khắp mọi nơi, trà xanh đã được đề cao vì tính chất dược liệu trong nhiều năm. Một số nghiên cứu gần đây đã xác nhận một số lợi ích này cho thấy trà xanh có thể bảo vệ sức khỏe ở nhiều mặt khác nhau. Thức uống này đã được công nhận giúp tăng cường khả năng nhận thức, tăng cường trí nhớ. Những lợi ích sức khỏe do trà xanh mang lại có liên quan đến hàm lượng polyphenol là các vi chất có đặc tính chống oxy hóa có thể bảo vệ chống lại tác động của các gốc tự do - gây ra tổn thương tế bào và sự lão hóa. Một nghiên cứu năm 2017 được công bố trên Tạp chí của Hiệp hội Hóa học Hoa Kỳ đã phát hiện ra rằng một loại polyphenol trong trà xanh được gọi là epigallocatechin gallate có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh Alzheimer bằng cách tác động với các khối của vết thương hình thành các mảng beta-amyloid. Sự tích tụ của các mảng bám trong não là nguyên nhân của tình trạng này và làm suy yếu tín hiệu tế bào não. Nghiên cứu này cho thấy Epigallocatechin gallate có thể ngăn beta-amyloid hình thành thành mảng giúp ngăn ngừa Alzheimer. Polyphenol trong trà xanh cũng đã được cho là làm chậm sự phát triển của các tế bào khối u của một số loại ung thư chẳng hạn như ung thư tuyến tụy. Nghiên cứu được dẫn đầu bởi Viện nghiên cứu y sinh Los Angeles ở California đã chỉ ra rằng epigallocatechin gallate có thể phá vỡ sự trao đổi chất của các tế bào ung thư tuyến tụy, do đó làm suy yếu sự phát triển của chúng. 2. Trà bạc hà Trà bạc hà là một trong những loại trà thảo mộc được sử dụng phổ biến nhất trên thế giới. Dù nó được sử dụng phổ biến nhất để hỗ trợ sức khỏe hệ tiêu hóa nhưng nó cũng có đặc tính chống oxy hóa, chống ung thư, kháng khuẩn và kháng vi-rút. Hầu hết các tác dụng này chưa được nghiên cứu cụ thể ở người, vì vậy chưa thể xác minh một cách chính xác những công dụng này của trà bạc hà. Tuy nhiên, một số nghiên cứu đã xác nhận tác dụng có lợi của bạc hà đối với hệ tiêu hóa. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng các chế phẩm của dầu bạc hà, thường bao gồm các loại thảo mộc khác, có thể giúp giảm chứng khó tiêu, buồn nôn và đau dạ dày. Bằng chứng cũng cho thấy rằng dầu bạc hà có hiệu quả trong việc thư giãn co thắt ở ruột, thực quản và ruột kết. Cuối cùng, các nghiên cứu đã nhiều lần phát hiện ra rằng dầu bạc hà có hiệu quả trong việc làm giảm các triệu chứng của hội chứng ruột kích thích. Do đó, khi bạn gặp khó chịu về tiêu hóa, cho dù đó là do chuột rút, buồn nôn hoặc khó tiêu, trà bạc hà là một phương thuốc tự nhiên tuyệt vời để thử. 3. Trà gừng Trà gừng là một thức uống cay và có hương vị, nó có chứa các chất chống oxy hóa lành mạnh, có khả năng chống lại bệnh tật. Nó cũng giúp chống viêm và kích thích hệ thống miễn dịch, nhưng nó được biết đến nhiều nhất là một phương thuốc hiệu quả cho chứng buồn nôn. Các nghiên cứu luôn thấy rằng uống trà gừng có hiệu quả trong việc làm giảm buồn nôn, đặc biệt là trong thời kỳ đầu mang thai. Nó cũng có thể làm giảm buồn nôn do các phương pháp điều trị ung thư và đặc biệt là say tàu xe. Bằng chứng cũng cho thấy rằng trà gừng có thể giúp ngăn ngừa loét dạ dày và làm giảm chứng khó tiêu hoặc táo bón. Gừng cũng có thể giúp giảm đau bụng kinh, hoặc đau kinh nguyệt. Một số nghiên cứu đã phát hiện ra rằng viên nang gừng làm giảm đau liên quan đến kinh nguyệt. 4. Trà Hibiscus (Atiso đỏ) Trà Hibiscus được làm từ những bông hoa đầy màu sắc của cây Roselle. Nó có một màu đỏ hồng và hương vị hoa quả tươi mát. Bạn có thể thưởng thức nóng hoặc đá. Ngoài màu sắc đậm và hương vị độc đáo, trà Atiso đỏ mang đến những lợi ích cho sức khỏe: Ví dụ, trà Hibiscus có đặc tính chống vi-rút và các nghiên cứu về ống nghiệm đã cho thấy chiết xuất của nó có hiệu quả cao đối với các chủng cúm gia cầm. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu cụ thể cho thấy uống trà Hibiscus có thể giúp bạn chống lại vi-rút như cúm. Một số nghiên cứu đã điều tra tác động của trà này đối với nồng độ lipid máu cao. Một vài nghiên cứu đã tìm thấy nó có hiệu quả, và có ảnh hưởng đáng kể đến nồng độ lipid trong máu. Tuy nhiên, trà Hibiscus đã được chứng minh là có tác dụng tích cực đối với huyết áp cao. Trên thực tế, nhiều nghiên cứu đã phát hiện ra rằng nó làm giảm huyết áp cao, mặc dù hầu hết các nghiên cứu không hẳn là có chất lượng cao. Hơn nữa, một nghiên cứu khác cho thấy uống chiết xuất trà hibiscus trong sáu tuần làm giảm đáng kể stress oxy hóa ở các cầu thủ bóng đá nam. Hãy chắc chắn tránh uống trà Hibiscus nếu bạn đang dùng hydrochlorothiazide, một loại thuốc lợi tiểu, vì cả hai có thể tương tác với nhau. 5. Trà hoa nhài (hoa lài) Trà hoa nhài Nhật Bản có trà xanh là thành phần chính và hoa nhài được thêm vào để có hương thơm phong phú hơn. Tuy nhiên lợi ích của trà hoa nhài không chỉ do tác dụng chống oxy hóa của trà, vì hoa nhài cũng mang lại dược tính riêng cho trà nhài. Trong cuốn sách Ikigai: Bí mật Nhật Bản về cuộc sống lâu dài và hạnh phúc, các tác giả Héctor García và Francesc Miralles cho biết rằng cư dân của một cộng đồng lâu đời và khỏe mạnh ở tỉnh Okinawa của Nhật Bản là những người nghiện Sanpin-cha - một sự pha trộn đặc biệt trà xanh và hoa nhài. Bản thân hoa nhài đã được cho là có thể hỗ trợ cải thiện sức khỏe thể chất và giảm tác động của căng thẳng. Đó là lý do tại sao một số nhà nghiên cứu đã thử nghiệm các hợp chất có nguồn gốc từ loại cây này để tìm kiếm các liệu pháp tốt hơn. Và nếu như tình cờ thích uống trà hoa nhài chỉ đơn giản là vì thích mùi hương của nó, thì vẫn có một lý do chính đáng cho điều đó. Nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Sinh lý học Ứng dụng Châu Âu giải thích rằng mùi trà hoa nhài rất nhẹ, có khả năng làm dịu thần kinh và giúp điều chỉnh tâm trạng. 6. Trà chanh Trà chanh có hương vị nhẹ, thơm và dường như có đặc tính tăng cường sức khỏe. Trong một nghiên cứu nhỏ ở 28 người uống trà lúa mạch hoặc trà chanh trong sáu tuần, nhóm trà chanh đã cải thiện độ đàn hồi của động mạch. Độ cứng động mạch được coi là yếu tố nguy cơ của bệnh tim, đột quỵ và suy giảm tinh thần. Một nghiên cứu nhỏ khác ở các nhân viên X quang cho thấy uống trà chanh hai lần một ngày trong một tháng làm tăng các enzyme chống oxy hóa tự nhiên của cơ thể, giúp bảo vệ cơ thể khỏi tổn thương oxy hóa đối với tế bào và DNA.Do đó, những người tham gia cũng cho thấy các dấu hiệu tổn thương lipid và DNA được cải thiện. Bằng chứng sơ bộ cũng cho thấy rằng dầu chanh có thể cải thiện nồng độ lipid máu cao. Hơn nữa, một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng dầu chanh giúp cải thiện tâm trạng và hiệu suất tinh thần. Hai nghiên cứu bao gồm 20 người tham gia đã đánh giá tác dụng của các liều lượng khác nhau của chiết xuất dầu chanh. Họ đã tìm thấy những cải tiến về cả sự bình tĩnh và trí nhớ. Một nghiên cứu nhỏ khác cho thấy chiết xuất từ ​​dầu chanh giúp giảm căng thẳng và cải thiện kỹ năng xử lý toán học. Cuối cùng, một nghiên cứu nhỏ khác cho thấy trà chanh có tác dụng làm giảm tần suất tim đập nhanh và lo lắng. Liên hệ học kế toán chuyên nghiệp: Trường Cao đẳng Kinh tế Công nghệ Hà Nội – Cao đẳng Kế toán Hà Nội (công lập) Điện thoại: 0962.523.447 (Cô Hương) Website: www.caodangketoan.com Địa chỉ: Số 2, 181 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội Comments Cao đẳng Kế Toán Hà Nội, Văn bằng 2 kế toán, Liên thông đại học kế toán Email: caodangketoan.com@gmail.com Trường Cao đẳng Công nghệ Kinh tế Hà Nội Địa chỉ: Số 1 Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội Điện thoại: 0986.425.099 - 024.6260.1456 Sign in|Recent Site Activity|Report Abuse|Print Page|Powered By Google Sites
1614178347293.1.parquet/132474
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 7372, "url": "http://www.caodangketoan.com/tang-cuong-suc-khoe-voi-cac-loai-tra-thao-moc" }
133.6
talawas | Nguyễn Kiến Giang - Suy tư 90 - Nhìn lại quá trình du nhập chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas Văn học Thơ và Thơ Trẻ Văn học Việt Nam Văn học nước ngoài Các giải thưởng văn học Giải thưởng Bùi Giáng Lý luận phê bình văn học Điểm nóng Chính trị Việt Nam Chính trị thế giới Đại hội X và cải cách chính trị tại Việt Nam Xã hội Giáo dục Kinh tế Đồng tính luyến ái trong xã hội hiện đại Thế hệ @ Pháp luật Đời sống hiện đại Thể thao talaFemina 1 - 20 / 201 bài 31.10.2008 Nguyễn Mộng Giác Bão rớt 27.10.2008 Nhã Ca Đêm dậy thì 16.10.2008 Mai Thảo Gần mười bảy tuổi 11.10.2008 Trùng Dương Lập đông 7.10.2008 Nguyễn Thị Hoàng Bóng lá hồn hoa 1.10.2008 Nguyễn Thị Hoàng Cho những mùa xuân phai 24.9.2008 Duy Lam Cái lưới 17.9.2008 Chân dung Nguyễn Du 1.9.2008 Aleksandr I. Solzhenitsyn Tầng đầu địa ngục 5.8.2008 Aleksandr I. Solzhenitsyn Quần đảo ngục tù 16.7.2008 Tam Ích Ý văn 1 14.7.2008 Tạ Ký Sầu ở lại 11.7.2008 Hồ Hữu Tường Trầm tư của một tên tội tử hình 8.7.2008 Hồ Hữu Tường Kể chuyện 4.7.2008 Trần Tử Alexandre Soljenitsyne: Tác phẩm – Con người và Cuộc đời 30.6.2008 Aleksandr I. Solzhenitsyn Bất ngờ tại nhà ga Krechetovka 24.6.2008 Dương Nghiễm Mậu Tuổi nước độc 21.6.2008 Nguyễn Đức Sơn Cái chuồng khỉ 18.6.2008 Vũ Khắc Khoan Mơ Hương Cảng 9.6.2008 Tạp chí Văn Hoài niệm Nhất Linh 1 - 20 / 201 bài tìm (dùng Unicode hoặc không dấu) tác giả: A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z Điểm nóngChính trị Việt Nam bản để in Gửi bài này cho bạn bè Loạt bài: Tranh luận về chủ nghĩa Marx 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 14.4.2006 Nguyễn Kiến Giang Suy tư 90 - Nhìn lại quá trình du nhập chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam Lữ Phương sưu tầm, hiệu đính, giới thiệu 1 2 III. Du nhập những gì? Quá trình du nhập chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam không đơn giản như có người tưởng. Bản thân chủ nghĩa Mác-Lênin trải qua những cách lý giải khác nhau, với những điểm nhấn mạnh từng lúc khác nhau. Nó không phải là một hệ thống lý luận thuần túy, mà gắn chặt với những chủ trương chính trị từng lúc, và mỗi lần đường lối chính trị thay đổi là một lần có sự lý giải khác đi về mặt lý luận. Điều đó nhiều khi đặt người cộng sản vào những hoàn cảnh thật khó xử. Những nội dung của nó cũng được bổ sung dần dần, từ chỗ sơ lược đến chỗ ít sơ lược hơn, từ những dự báo ban đầu đến những kết luận. Trong một thời gian dài, từ những năm 30, tức là từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, trung tâm lý giải và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin là Moskva. Tuy không hình thành một “giáo hội”, nhưng trên thực tế chúng ta cũng thấy một cái gì tương tự. Stalin, với những tác phẩm và những bài phát biểu của ông, đóng vai trò “giáo chủ”. Mọi ý kiến của Stalin được coi như những “chân lý cuối cùng”, những chuẩn mực để phân biệt đúng sai trong phong trào cộng sản quốc tế. Không những các vấn đề chung của thế giới, mà cả nhiều vấn đề trong từng nước có đảng cộng sản hoạt động, những ý kiến của Stalin thường được viện dẫn ra làm căn cứ, làm phương pháp. Tôi nhớ đầu năm 1950, khi học trường Nguyễn Ái Quốc, có một vài đồng chí cán bộ cấp cao của Đảng đến giảng và đưa ra một vài nhận xét về những sai lầm về đường lối của Trung ương Đảng lúc đó (như về chủ trương “chuyển sang tổng phản công”, về vấn đề ruộng đất…). Mặc dầu Tổng Bí thư hồi đó (Trường Chinh) đã giải thích lại và bác bỏ những ý kiến phê phán này, nhưng chưa đủ sức thuyết phục. Một buổi tối tháng Năm, Cụ Hồ đến. Cụ rất nghiêm như ít khi thấy. Cụ nói thẳng vào những ý kiến phê phán Trung ương của một số cán bộ và nói: “Bác vừa đi Liên Xô về. Bác đã gặp đồng chí Stalin, đã trình bày đường lối của đảng ta với đồng chí Stalin. Nghe xong, đồng chí Stalin nhận xét: đường lối của Đảng các đồng chí là đúng. Mà đồng chí Stalin đã nói đúng là đúng, vì đồng chí Maurice Thorez nói, đồng chí Stalin là người không bao giờ sai cả”. Cả lớp im lặng và cảm thấy được thuyết phục hoàn toàn. Ví dụ nhỏ vừa nói cho thấy uy quyền của Stalin về mặt tư tưởng và lý luận đến mức nào. Không chỉ ở nước ta, ở một số nước khác cũng vậy. Chẳng hạn năm 1948, G. Dimitrov, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Bulgari (trước đó là Tổng Bí thư Quốc tế Cộng sản), đã đưa ra luận điểm về con đường dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội khác với con đường xô viết, đó không phải là con đường chuyên chính vô sản. Stalin bác bỏ ngay luận điểm này và khẳng định: xô viết và dân chủ nhân dân chỉ là hai hình thức khác nhau của cùng một con đường chuyên chính vô sản, thực chất của dân chủ nhân dân cũng là chuyên chính vô sản. Dimitrov phải rút bỏ ý kiến của mình ngay. Có thể kể ra rất nhiều những ví dụ như vậy. Chúng ta không chỉ tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin từ Liên Xô, từ Stalin, mà còn từ Trung Quốc, từ Mao Trạch Đông nữa. Trong nhận thức của những người cộng sản Việt Nam trước đây, Mao Trạch Đông là một nhà mácxít-lêninnít vĩ đại, có công áp dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin ở Trung Quốc và ở các nước Châu Á. Sự du nhập chủ nghĩa Mao từ những năm 40 đến những năm 60 đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong đời sống lý luận và tư tưởng của những người cộng sản Việt Nam [1] . Thậm chí có thể nói tới một sự sao chép gần như nguyên xi một số luận điểm của Mao: ba phương châm “dân tộc, khoa học, đại chúng” trong lĩnh vực văn hóa “dân chủ mới” rồi “chuyên chính dân chủ nhân dân” trong lĩnh vực chính trị “ba giai đoạn" trong lĩnh vực quân sự, “chỉnh phong, chỉnh đảng” trong lĩnh vực xây dựng đảng, rồi “cải tạo xã hội chủ nghĩa”, “hợp tác hóa nông nghiệp”, rồi đấu tranh “chống chủ nghĩa xét lại hiện đại” trong lĩnh vực tư tưởng v.v… và v.v… Nói cách khác, cùng với Stalin, Mao Trạch Đông cũng được coi là “chính thống” của chủ nghĩa Mác-Lênin ở nước ta. Nhiều người cộng sản Việt Nam, khi tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, thật ra rất ít đọc thẳng từ Marx, Engels và Lenin, mà chủ yếu là “nhập môn” bằng những tác phẩm của Stalin và Mao Trạch Đông. Tiếc thay, vấn đề này chưa bao giờ được làm rõ đến mức cần thiết cả. Nói như vậy, để thấy rằng cái gọi là “chủ nghĩa Mác-Lênin” được du nhập vào Việt Nam về cơ bản là “chủ nghĩa Stalin” và “chủ nghĩa Mao”. Những người trực tiếp đọc Marx, Engels và Lenin thật ra chỉ là một số rất ít trong thời kỳ trước cách mạng, và về sau này tuy số người đó có tăng lên (chủ yếu trong số cán bộ nghiên cứu và giảng dạy lý luận) nhưng vẫn còn ít ỏi. Trong thời gian gần đây những sai lầm của chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Mao được nhiều người nhận rõ qua những hậu quả hết sức tai hại đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa Mác-Lênin, vì thế, được điều chỉnh lại cho phù hợp với hoàn cảnh mới, nhưng công cuộc điều chỉnh này thật ra cũng chưa thật mạnh mẽ và triệt để, di sản của chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Mao vẫn còn được giữ nguyên trên nhiều vấn đề căn bản. Vả chăng, vấn đề không phải là “điều chỉnh” vấn đề được đặt ra ở một chiều sâu hơn nhiều: đó chính là vấn đề “tồn tại” của chủ nghĩa Mác-Lênin. Và bây giờ, rõ ràng chúng ta đứng trước một bức tranh hỗn loạn. Những người muốn bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin trên thực tế vẫn bị chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Mao cầm tù. Trong khi đó, một số ngày càng nhiều người thấy rõ tính chất lỗi thời của chủ nghĩa Mác-Lênin và lên tiếng phê phán và bác bỏ nó. Tình hình ấy phải chăng báo hiệu giai đoạn kết thúc quá trình du nhập chủ nghĩa Mác-Lênin vào nước ta? Xin để cho thời gian phán xét. Sự du nhập một học thuyết không bao giờ là quá trình một chiều từ ngoài vào, mà bao giờ cũng là quá trình hai chiều, vì có sự tiếp nhận từ bên trong. Chủ nghĩa Mác-Lênin không phải ngoại lệ. Ở trường hợp Việt Nam, có thể nói chiều thứ hai, chiều tiếp nhận chủ động từ bên trong, là rất mạnh (chiều bên trong này bao gồm cả ở những người cách mạng Việt Nam ở ngoài nước, vì nói chung họ gắn bó rất mật thiết với những phong trào cách mạng trong nước). Nhưng chính chiều thứ hai này, trong khi góp phần du nhập chủ nghĩa Mác-Lênin từ ngoài vào như một nhân tố ngoại sinh (exogène), đã làm cho nó thích ứng với những nhu cầu bên trong, lai ghép với “cơ địa” Việt Nam để rồi, trong trường hợp thành công nhất, trở thành một nhân tố “nội sinh” (endogène). Và khi đó, chủ nghĩa Mác-Lênin không còn giữ nguyên dạng của nó nữa, mà có những biến hóa nào đó. (Tình hình này về cơ bản giống như Khổng giáo du nhập Việt Nam ngày xưa, một đằng thì trải ra hàng trăm năm, một đằng chỉ trong vòng vài chục năm). Như đã nói, ở Việt Nam, hệ vấn đề đặt ra đầu thế kỷ là độc lập dân tộc và canh tân xã hội. Hai yêu cầu này vẫn còn nguyên khi chủ nghĩa Mác-Lênin du nhập vào nước ta. Bộ phận cấp tiến trong những người yêu nước và cách mạng từ những năm 20 tuy tiếp nhận hệ vấn đề mới của thời đại, lấy “trục giai cấp” làm chính, nhưng thứ nhất, không ai bỏ quên hai yêu cầu nói trên và thứ hai, đây là cái chủ yếu, coi hệ vấn đề mới là sự “tiếp sức” có hiệu quả hơn để giải quyết hệ vấn đề vốn có. Nói cụ thể hơn, những người tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung đều xuất phát từ lòng yêu nước và khát vọng canh tân xã hội (hiện đại hóa) và lấy nó làm “vũ khí” của mình. Hồ Chí Minh nhiều lần nói tới chủ nghĩa yêu nước đưa mình tới chủ nghĩa Mác-Lênin chính là nói tơi xu hướng chung nhất của lớp người tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin đầu tiên, tuy trong những hoàn cảnh có khác nhau. Và không chỉ lớp cộng sản đầu tiên, cả những lớp cộng sản sau này (cho đến năm 1975) và đại thể cũng như vậy, mặc dầu động cơ trở thành cộng sản có thể mang thêm một số yếu tố khác (tiến thân, quyền lực v.v…). Đọc lại những tài liệu lịch sử của phong trào cộng sản lúc đầu, có thể nhận thấy rất rõ một trong những “chất nền” (substance) của phong trào cộng sản Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước và khát vọng tiến bộ xã hội của những bộ phận quần chúng rộng lớn. Không phải chỉ riêng những người cộng sản mới có “chất nền” này, nhiều người, nhiều bộ phận khác (kể cả những người chống lại chủ nghĩa cộng sản) cũng có. Chỉ có khác là những người cộng sản là bộ phận cấp tiến hơn, họ muốn tìm thấy những vũ khí mạnh hơn, phù hợp với xu hướng cách mạng bạo lực của họ trong bối cảnh lịch sử mới của thế giới và đất nước. Thứ vũ khí họ tìm thấy đó là chủ nghĩa Mác-Lênin. Yêu nước và khát vọng tiến bộ xã hội cộng với xu hướng cấp tiến, bạo lực phải chăng đó là “mẫu số chung” của các lớp người đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin ở nước ta? Ở đây, có một vấn đề đã và đang được thảo luận trong nước và cả ở ngoài nước là: đối với những người cộng sản Việt Nam, giữa hai nhân tố “dân tộc” và “giai cấp”, nhân tố nào chiếm vị trí chủ đạo? Cụ thể hơn, đối với Hồ Chí Minh, có người đặt câu hỏi: đối với ông chủ nghĩa cộng sản là phương tiện để giành giải phóng dân tộc, hay giải phóng dân tộc là phương tiện để thực hiện chủ nghĩa cộng sản? Theo dõi cuộc tranh luận này, có thể thấy rõ hai ý kiến ngược hẳn nhau. Một bên đặt “giải phóng dân tộc” lên hàng đầu, còn bên kia thì đặt “giai cấp”, “chủ nghĩa cộng sản” lên hàng đầu. Và bên nào cũng đưa ra những luận cứ riêng của mình, Huỳnh Kim Khánh, tác giả cuốn Vietnamese Communism 1925-1945 (Cornell University Press 1982), lấy vấn đề này làm cốt lõi cho công trình nghiên cứu của mình, trình bày những ý kiến của mình dựa vào rất nhiều tài liệu lịch sử phong phú và đáng tin cậy. Nhưng cuối cuốn sách, tác giả vẫn chưa đi tới kết luận rõ ràng. Câu hỏi vẫn được treo ở trang cuối là: “Trong sự kết hợp hệ tư tưởng cộng sản với chủ nghĩa yêu nước trong sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản Việt Nam, chủ nghĩa Mác-Lênin phải chăng là cỗ xe chuyên chở chủ nghĩa yêu nước Việt Nam? Hay chủ nghĩa yêu nước đã được lợi dụng để bành trướng hệ tư tưởng cộng sản? (tr. 341). Tiếc thay, ông mất đột ngột vì trụy tim ở Mỹ và không tiếp tục được công trình hết sức thú vị của mình. Đây không chỉ là một vấn đề học thuật, mà còn là một vấn đề luôn luôn nảy sinh và được giải quyết đi giải quyết lại trong lịch sử chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Và theo tôi hiểu, vấn đề này cũng đang được đặt ra ngay cả trong quá trình “đổi mới” hiện nay. Tôi xin có một số ý kiến về vấn đề này. Trước hết, cần nhìn lại thực tế vốn có, mà không phải theo suy diễn. Và để được thuận tiện, xin lấy trường hợp của Hồ Chí Minh, người cộng sản đầu tiên và cũng là người có uy tín nhất trong phong trào cộng sản Việt Nam, để phân tích. Theo tôi, ở Hồ Chí Minh, không có vấn đề cái gì là chính, là chủ đạo giữa hai nhân tố “dân tộc” và “giai cấp”. Ở ông, hai nhân tố quyện lại thành một, không thể phân chia. Đọc lại toàn bộ tác phẩm của ông, theo dõi toàn bộ hoạt động của ông (mà về đại thể đã có thể nắm bắt được, trừ một vài “lỗ hổng” nào đó cần tiếp tục tìm kiếm), không ai có thể nghi ngờ lòng yêu nước của ông, cũng như không ai có thể nghi ngờ tín niệm cộng sản (conviction communiste) của ông. Ông là nhà yêu nước lớn, là một trong những lãnh tụ nổi tiếng của phong trào giải phóng dân tộc - điều đó đã được nhìn nhận khá đầy đủ. Chỉ riêng một việc ông bị những đồng chí của mình phê phán là theo chủ nghĩa quốc gia (tức chủ nghĩa dân tộc) vào đầu những năm 30, cũng đủ để chứng minh điều này. Trong cuốn sách của Huỳnh Kim Khánh, ta đọc thấy mấy trang nói rất rõ về chuyện này (trước đó, trong một cuốn sách viết về Cách mạng Việt Nam, Daniel Hémery cũng có viết về chuyện này, và lần đầu tiên tôi biết được việc Ban lãnh đạo Hải ngoại của ĐCSĐD phê phán Nguyễn Ái Quốc chính là từ cuốn sách của tác giả người Pháp ấy). Huỳnh Kim Khánh, dựa vào nhiều tài liệu có thật, cho ta biết sau 1931 Nguyễn Ái Quốc bị phê phán là mắc “tàn tích tiểu tư sản”, cuốn Đường cách mệnh bị coi là một “tài liệu nồng nặc mùi quốc gia chủ nghĩa” và việc ông chủ trương dùng bạo lực tối thiểu chống lại các thế lực phản cách (trung lập hóa địa chủ và tư sản) bị tố cáo là “cơ hội chủ nghĩa”, kìm hãm sự phát triển nhanh chóng của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Dương. Hồng Thế Công, bí danh của một người lãnh đạo Đảng hồi đó (mà người ta cho rằng đó là Hà Huy Tập) kịch liệt công kích Nguyễn Ái Quốc trên Tạp chí Bônsơvích (số 8/12-1934) [2] : “Công lao của Nguyễn Ái Quốc đối với chúng ta thật to lớn, nhưng các đồng chí chúng ta không được quên những tàn tích quốc gia chủ nghĩa của Nguyễn Ái Quốc và những chỉ thị sai lầm của đồng chí ấy về những vấn đề căn bản của phong trào cách mạng tư sản dân quyền và những lý luận cơ hội của đồng chí ấy bám rễ vào đầu óc của phần đông đồng chí chúng ta, giống như những tàn tích tư sản vẫn sống dai dẳng trong đầu óc những hội viên Thanh Niên, Tân Việt và Vừng Hồng. Nguyễn Ái Quốc không hiểu được những chỉ thị của Quốc tế cộng sản; không hợp nhất được ba tổ chức cộng sản từ trên xuống dưới… Tài liệu Sách lược vắn tắt của Đảng và Điều lệ của Đảng hợp nhất không theo đúng chỉ thị của Quốc tế cộng sản. Ngoài ra Nguyễn Ái Quốc còn chủ trương một sách lược cải lương và hợp tác: “trung lập tư sản và phú nông”, “liên minh với địa chủ nhỏ và vừa”, v.v… Vì những sai lầm đó, nên từ tháng Giêng đến tháng Mười năm 1930, ĐCSĐD đã đi theo một chiến lược có nhiều điểm trái với những chỉ thị của Quốc tế cộng sản, tuy trong thực tế đã lãnh đạo quần chúng kiên quyết đấu tranh cách mạng”. (Huỳnh Kim Khánh, sách đã dẫn, tr. 185). Nhiều bằng chứng sau đó cho thấy Hồ Chí Minh luôn luôn chủ trương đặt giải phóng dân tộc lên cao nhất, đặc biệt là trong thời kỳ Việt Minh 1941-1945, trong cách mạng Tháng Tám và kháng chiến, thậm chí vì lợi ích dân tộc đã chủ trương công khai giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 11/1945), dù rằng trên thực tế Đảng vẫn hoạt động. Đối với tuyệt đại đa số những người cộng sản cho đến năm 1975, vấn đề dân tộc vẫn được đặt lên cao nhất. Thế thì Hồ Chí Minh và những người cộng sản khác có thật sự là những người cộng sản kiên định và trung thành không? Theo tôi, đúng là như vậy. Trừ một số người vào đảng với tính toán cơ hội chủ nghĩa (nhất là từ khi đảng cộng sản cầm quyền), coi đó là “bằng đỏ” để tiến thân, nói chung, đó là những người chân thành tin theo chủ nghĩa cộng sản dù rằng trình độ lý thuyết của số đông còn thấp (và cũng không thể khác thế được). Trong tập sách Hồ Chí Minh – Sa vie et son oeuvre (Paris, 1990), một số ngòi bút người Việt và người Pháp đưa ra nhiều bằng chứng để chứng minh rằng Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trước sau vẫn trung thành với cộng sản, vẫn là người triệt để tuân theo đường lối của Quốc tế cộng sản, của Stalin. Nhiều tài liệu họ đưa ra, theo tôi là có thật. Về mặt này, họ không sai. Nhưng dụng ý của họ là từ chỗ đó để bác bỏ tinh thần dân tộc, sự nghiệp giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh và những người cộng sản Việt Nam. Vì bây giờ chế độ cộng sản sụp đổ ở một loạt nước, chủ nghĩa cộng sản bị coi là “tội lỗi”, nên họ muốn đặt Hồ Chí Minh và những người cộng sản khác vào ghế bị cáo của lịch sử. Đới với họ, nếu đã là yêu nước thì không thể là cộng sản, và nếu là cộng sản thì không thể là người yêu nước. Sự thật lịch sử chứng minh hoàn toàn khác. Người ta có thể vừa là yêu nước vừa là cộng sản. Cũng như người ta có thể là yêu nước mà không phải là cộng sản. Ở Việt Nam, chủ nghĩa Mác-Lênin mang hai nội dung chủ yếu đối những người cộng sản: Thứ nhất, nó là phương tiện và điều kiện có hiệu quả nhất, thuận lợi nhất để giành giải phóng dân tộc; Thứ hai, nó đề xướng những lý tưởng xã hội cao đẹp nhất, những lý thuyết đưa tới giải phóng xã hội và con người khỏi mọi áp bức bóc lột. Vì thế, người cộng sản vừa chân thành mưu cầu giải phóng dân tộc, lại vừa chân thành tin theo lý tưởng và lý thuyết của chủ nghĩa cộng sản. Về sau này, hai mặt đó dần dần tách khỏi nhau qua sự thể nghiệm lý thuyết cộng sản ở Việt Nam (mà dưới đây sẽ trở lại với điều này). Còn trong một thời gian dài, hai mặt ấy không tách khỏi nhau trong tâm thức của những người cộng sản. Di chúc của Hồ Chí Minh là bằng chứng nổi bật nhất, ở đó con người yêu nước-cộng sản là nguyên khối. Hãy gác lại một bên ý kiến của một số người cho rằng không cần tới chủ nghĩa Mác-Lênin, nhiều nước thuộc địa và nửa thuộc địa vẫn giải phóng mình khỏi ách thực dân. Cách đặt vấn đề như vậy không giúp gì thêm cho nhận thức về lịch sử Việt Nam mấy. Các quá trình lịch sử bao giờ cũng rất hiện thực, rất cụ thể. Những suy luận trừu tượng, theo lối “giả định”, có thể có ích trong lĩnh vực nhận thức nào đó (các khoa học kỹ thuật có tính chính xác cao, chẳng hạn), nhưng trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn thì phương pháp đó ít có hiệu quả. Vấn đề đặt ra là: chủ nghĩa Mác-Lênin giúp được những gì (hay không giúp được gì) cho những người cộng sản trong đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam (tôi nhấn mạnh: ở Việt Nam)? Xin trả lời: giúp được nhiều, rất nhiều với điều kiện (và trên thực tế đã có điều kiện ấy), những người cộng sản đặt đúng vấn đề về dân tộc, nói cụ thể hơn, đặt “dân tộc” lên trên “giai cấp”. Sở dĩ phải nói đến điều kiện không thể thiếu này, vì không phải không có một số người cộng sản nào đó đặt ngược lại và do đó, đã dẫn tới những hậu quả tai hại cho giải phóng dân tộc đã đành mà còn cả cho chính bản thân đảng cộng sản (như trong thời kỳ Xô viết Nghệ An 1930-1931). Chủ nghĩa Mác-Lênin giúp được những gì? Trong bối cảnh thế giới và trong nước từ giữa những năm 20 đến giữa những năm 70, chủ nghĩa Mác-Lênin giúp tìm kiếm những sức mạnh mới để đấu tranh giải phóng dân tộc. Như đã biết, những người yêu nước và cách mạng trước đó cũng đã làm công việc này nhưng không thành công. Ở bên trong, những người cộng sản hướng tới các tầng lớp “bên dưới" hơn là các tầng lớp “bên trên”, tức là hướng tới những khối quần chúng nhân dân đông nhất, vừa giàu lòng yêu nước lại vừa có khát vọng công bằng xã hội mạnh mẽ nhất (đó cũng là hai nét tâm thức truyền thống của người Việt). Với những người cộng sản, các tầng lớp “bên dưới" được huy động ngày càng rộng lớn vào đấu tranh giải phóng dân tộc, mà tiêu biểu nhất trong các cuộc biểu tình khởi nghĩa hồi tháng Tám 1945 và sau đó trong các cuộc kháng chiến chống ngọai xâm. Những tầng lớp này, trước kia thường bị coi như những lực lượng ủng hộ và tham gia các phong trào yêu nước một cách thụ động, thì bây giờ họ được coi là lực lượng chính, với ý thức chủ động ngày càng lớn. Tính nhân dân của các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam trước hết là ở chỗ đó. Đi đôi với điều căn bản này, những người cộng sản Việt Nam, bằng những thái độ uyển chuyển và khôn khéo của mình, còn liên kết được với những bộ phận nhất định trong các tầng lớp “bên trên” tham gia đấu tranh giải phóng dân tộc. Và trong những giờ phút có tính bước ngoặt lịch sử, đặc biệt trong cách mạng Tháng Tám 1945 và một thời gian sau đó, đúng là những người cộng sản đã lập được một Mặt trận thống nhất dân tộc ở một trình độ rộng lớn chưa từng thấy. Tính toàn dân của cách mạng giải phóng dân tộc được thể hiện khá đầy đủ. Nhà sử học Pháp P. Devillers được nhắc tới trên đây, trong Histoire du Viet Nam de 1940 a 1952 (Ed. Du Seuil, Paris), đã nói tới điều này không thể nào đúng hơn “Những niềm hy vọng, những mối oán hận, những say sưa bị đẩy lùi từ hàng chục năm nay đột nhiên nổ ra trong một sự hăng hái kỳ lạ, một nhiệt tình tập thể mà lịch sử dân tộc chưa hề thấy, toàn thể nhân dân chan hòa với nhau trong một điều thần bí là Độc lập. Họ tìm thấy sự hùng mạnh và thống nhất của mình. Không có một việc gì đối với họ là không thể làm được (trích theo Nguyễn Kiến Giang, Việt Nam năm đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám, NXB Sự thật, Hà Nội 1961, trang 20). Ở bên ngoài, những người cộng sản cũng tìm kiếm những sức mạnh mới làm chỗ dựa của công cuộc giải phóng dân tộc. Trong thời đại mới, phong trào giải phóng dân tộc nào không tìm được những chỗ vựa vững chắc ở bên ngoài thì chắc chắn không thể thành công được. Trước đó, vấn đề này cũng được đặt ra với các nhà yêu nước và cách mạng cũ (Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh là những nhân vật tiêu biểu). Những chỗ dựa họ muốn tìm và cũng tìm được phần nào, nói chung là không thể tin cậy, vì thế họ không thể thành công. Bây giờ chủ nghĩa Mác-Lênin giúp cho những người cộng sản Việt Nam tìm được những sức mạnh mới, trước đó chưa có, và những sức mạnh này tỏ ra là đáng tin cậy. Tính giai cấp của phong trào cộng sản và vô sản trên thực tế đã mang lại cho những người cộng sản Việt Nam sự đoàn kết và ủng hộ của những người cộng sản Pháp, Nga, Trung Quốc,… Và qua đó, của một bộ phận vô sản cũng như một bộ phận giới trí thức (“trí thức tiến bộ”, như người ta thường gọi vậy) ở các nước đó. Cũng cần nói thêm sự đoàn kết của các dân tộc thuộc địa ở những vùng xa xôi hay gần gũi thông qua những tổ chức chống đế quốc khác nhau. Về phần mình, những người cộng sản cũng đoàn kết và ủng hộ những phong trào cách mạng và vô sản ở nhiều nước khác. Cần đặc biệt nhất mạnh một điểm hết sức quan trọng: sự ủng hộ của các đảng cộng sản đã nắm chính quyền, trước hết là ĐCSLX, hoặc trực tiếp, hoặc thông qua Quốc tế cộng sản. Đây không chỉ là ủng hộ về mặt tinh thần, mà cả về mặt tổ chức và vật chất, về ảnh hưởng trực tiếp của Liên Xô trong chiến tranh chống phát xít, của sức mạnh kinh tế và quân sự của Liên Xô, và về sau này của ĐCSTQ sau khi đảng này nắm chính quyền. Nhiều người cộng sản được đào tạo từ các nước này, nhiều nguồn viện trợ vũ khí, kỹ thuật… cũng đến từ các nước này. Tất cả những sự đoàn kết và ủng hộ ấy được những người cộng sản gọi một cách đầy phấn khởi và tin tưởng là “chủ nghĩa quốc tế vô sản”. Những người cộng sản và nhân dân Việt Nam đóng vai trò nhân tố “chủ quan” một cách đầy đủ và thật chủ động, nhưng không thể nào giải thích những thắng lợi của những người cộng sản Việt Nam mà bỏ qua hoặc đánh giá thấp nhân tố “khách quan” ấy. Dù trong sự đoàn kết và ủng hộ theo “chủ nghĩa quốc tế vô sản” ấy có xen lẫn những yếu tố không lành mạnh (vị kỷ, nước lớn, áp đặt…) thì không vì thế mà có thể phủ nhận nó như một thực tế hiển nhiên. Ưu thế của những người cộng sản Việt Nam so với những người yêu nước và cách mạng trước kia là ở đó. Chủ nghĩa Mác-Lênin giúp cho những người cộng sản và một bộ phận rộng lớn trong nhân dân Việt Nam có được những lý tưởng xã hội làm linh hồn cho các cuộc đấu tranh giải phóng. Nhìn lại lịch sử, ở nước ta cũng như nhiều nước khác, phong trào giải phóng dân tộc nào cũng đi theo những lý tưởng xã hội nào đó. Yêu nước và giải phóng đất nước không bao giờ là lý tưởng riêng biệt, mà thường gắn với những lý tưởng, những học thuyết xã hội khác nhau (chủ nghĩa Gandhi, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, chủ nghĩa Kémal…). Câu hỏi của những người dân mất nước bao giờ cũng là: sau khi giành được độc lập dân tộc rồi, chế độ xã hội nào đến với mình? Đó là câu hỏi liên quan với số phận từng con người với tư cách con người. Chủ nghĩa cộng sản đem lại một câu trả lời rành mạch: đó là một xã hội không có người bóc lột người, một xã hội công bằng, không có giàu nghèo, không có của riêng, mọi thứ đều là của chung cả. Tất nhiên, không phải ai cũng tán thành lý tưởng đó. Nhưng số đông người dân đang sống nghèo cực, đó là lý tưởng hết sức hấp dẫn. Nhất trong những hoàn cảnh như của Việt Nam, với tâm thức cộng đồng còn mạnh, với lý tưởng một xã hội “đại đồng” còn phảng phất màu sắc chủ nghĩa bình quân, với khát vọng “đổi đời” nhanh chóng thì lý tưởng đó rất hợp với “thể tạng” đại đa số người, nếu không nói là tất cả những người cộng sản Việt Nam và những người đi theo họ đều gắn lòng yêu nước, ý chí giải phóng dân tộc với những lý tưởng công bằng xã hội ấy. Ngây thơ ư? Có thể là thế, nhưng đó là một sự thật. Cuộc sống sau này, khi bắt tay xây dựng một xã hội mới theo những lý tưởng đó, dần dần mở mắt cho mọi người để thấy rằng những lý tưởng ấy mang “tính không tưởng vĩ đại”, nhưng đó là chuyện về sau. Còn trong tiến trình đấu tranh giải phóng, những lý tưởng xã hội do chủ nghĩa Mác-Lênin đề xướng đã đóng đầy đủ vai trò “chính ủy” của nó. Chủ nghĩa Mác-Lênin đem lại cho những người cộng sản Việt Nam một phương pháp tổ chức lực lượng đối với bản thân mình và đối với quần chúng đông đảo rất có hiệu quả. Có nhà nghiên cứu nước ngoài gọi đó là “kỹ thuật tổ chức” của cộng sản, và gọi như vậy không có gì sai. ĐCSVN được tổ chức theo “đảng kiểu mới” của Lênin, tỏ ra rất có hiệu quả trong đấu tranh, nhất là khi phải đương đầu với những thế lực thù địch mạnh hơn nó rất nhiều. Một đảng chiến đấu, với kỷ luật thép để bảo đảm sự lãnh đạo tập trung từ trên xuống dưới, để bảo toàn lực lượng đến mức cao nhất trong những hoàn cảnh khủng bố và chiến tranh – những người cộng sản Việt Nam đã tạo ra được một đảng như vậy. Và bằng những hình thức, những phương thức tổ chức vừa uyển chuyển, vừa chặt chẽ, ĐCSVN đã tạo ra được cả một mạng lưới tổ chức quần chúng chặt chẽ ngày càng sâu rộng, tới tận ngõ ngách thành phố, làng mạc, thâm nhập các tầng lớp xã hội khác nhau. Thành công của những người cộng sản Việt Nam, ở một mức độ rất lớn, là thành công về mặt tổ chức. Và thành công này chính là bắt nguồn từ học thuyết về tổ chức đảng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Tóm lại, với chủ nghĩa Mác-Lênin, những người cộng sản Việt Nam có được những sức mạnh mới, những lý tưởng xã hội mới, những phương thức tổ chức mới, những yếu tố này làm tăng thêm rất nhiều sức chiến đấu giành giải phóng dân tộc và làm cách mạng xã hội. Về chủ nghĩa cộng sản với tư cách một xã hội tương lai, thì trong thời gian đầu, từ giữa những năm 20 đến giữa những năm 50, nó chỉ mới hiện ra dưới dạng lý tưởng xã hội. Mặc dù rải rác đây đó có nói tới chủ nghĩa xã hội như một chế độ xã hội hiện thực ở Liên Xô trên báo chí bí mật và công khai của đảng cộng sản (rất tiếc là Nhật ký chìm tàu của Nguyễn Ái Quốc, một tập sách nhỏ viết về xây dựng xã hội mới ở Liên Xô, đã bị thất lạc). Phải đến sau khi giải phóng miền Bắc, tức là khi vấn đề chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa được Đảng Cộng sản chính thức đặt ra, thì những lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin mới được du nhập như một học thuyết. Và điều này cũng chỉ được làm dần dần, vừa về lý luận, vừa bằng kinh nghiệm. Trên thực tế, những lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội đó chủ yếu là dựa vào những tác phẩm của Stalin (những báo cáo, những bài nói, những bài viết của Stalin từ cuối những năm 20 đến cuối những năm 30, và sau đó là tác phẩm Những vấn đề kinh tế của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô năm 1951), tất cả đều được coi như những tác phẩm kinh điển. Toàn bộ “hành trang lý luận” của những người cộng sản Việt Nam khi bước vào giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa là ở đó. Nhưng có hai điểm cần chú ý: 1. Từ sau đại hội ĐCSLX lần thứ XX (1956), một số luận điểm của Stalin về chủ nghĩa xã hội bị phê phán và được điều chỉnh lại theo hướng coi trọng hơn sản xuất hàng hóa dưới chủ nghĩa xã hội theo quy luật giá trị và phi tập trung hóa quản lý kinh tế. Nhưng nói chung, mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội (gọi là “mô hình Xô Viết”) đã hình thành từ thời Stalin vẫn giữ được về cơ bản. Bên cạnh “mô hình Xô Viết”, những người cộng sản Việt Nam cũng đặc biệt chú trọng những bài học về cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội của Trung Quốc (công thư hợp doanh trong lĩnh vực công thương nghiệp, hợp tác hóa trong lĩnh vực nông nghiệp, “nhiều, nhanh, tốt, rẻ” trong xây dựng chủ nghĩa xã hội…). Về thực chất đó cũng là một “mô hình Xô viết” nhưng có “cải biên” cho phù hợp với tình hình Trung Quốc. Về đại thể lý luận Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội có thể tóm tắt như sau: Chủ nghĩa cộng sản gồm có hai giai đoạn: chủ nghĩa xã hội (bậc thấp) và chủ nghĩa cộng sản (bậc cao). Thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội với những nội dung chủ yếu: cải tạo quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và cá thể thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức sở hữu chính: Nhà nước (toàn dân) và tập thể (hợp tác xã); công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa; tập thể hóa (hợp tác hóa) nông nghiệp; cách mạng văn hóa và tư tưởng (bảo đảm cho hệ tư tưởng Mác-Lênin thành hệ thống trị duy nhất và phổ biến toàn xã hội). Bảo đảm sự lãnh đạo duy nhất và vững chắc của đảng cộng sản trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, chủ yếu bằng Nhà nước xã hội chủ nghĩa mà thực chất là chuyên chính vô sản. Chủ nghĩa quốc tế vô sản trong đấu tranh cách mạng chuyển thành chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa trong xây dựng chủ nghĩa xã hội (hợp tác, phân công lao động quốc tế xã hội chủ nghĩa, đoàn kết, thống nhất trong hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới để chống lại, đẩy lùi và thủ tiêu hệ thống tư bản chủ nghĩa thế giới…). Phải nói rằng trong những người cộng sản Việt Nam từ giữa những năm 50 đến đầu những năm 60, vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội được tiếp nhận một cách vô vùng hoan hỉ và với niềm tin mãnh liệt (Hồ Chí Minh: “Đường lên hạnh phúc rộng thênh thang”, 1961). Những biến động xảy ra trong phe xã hội chủ nghĩa hồi đó, như các sự kiện Hungari; và Balan năm 1956, cuộc đấu tranh về quan điểm giữa ĐCSLX và ĐCSTQ dẫn tới sự chia rẽ trong phe xã hội chủ nghĩa và trong phong trào cộng sản quốc tế… dù có gây ra những phân vân nào đó, cũng không lay chuyển được niềm tin vào tương lai xã hội chủ nghĩa của những người cộng sản Việt Nam. Nhân đây, xin nói một chút về cuộc đấu tranh tư tưởng trong phong trào cộng sản quốc tế, chủ yếu là giữa ĐCSLX và ĐCSTQ từ cuối những năm 50 đến những năm 70. Về thực chất, đây là cuộc đấu tranh giữa hai xu hướng khác nhau về xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, hai mặt này gắn chặt với nhau rất khắng khít. Trong khi ĐCSTQ và những người tán thành nó về cơ bản vẫn duy trì “mô hình Stalin” về xây dựng chủ nghĩa xã hội, hơn nữa còn đẩy những mô hình đó tới những chỗ cứng rắn hơn, cực đoan hơn, thì ĐCSLX và những người tán thành nó muốn điều chỉnh mô hình đó cho “mềm hơn”, có hiệu quả kinh tế hơn, dân chủ hóa đời sống xã hội và sinh hoạt đảng. Gắn liền với điều đó, về mặt quốc tế, một bên vẫn giữ con đường đấu tranh bạo lực chống đế quốc, mở rộng các cuộc cách mạng ra các khu vực khác nhau trên thế giới. Còn một bên thì chủ trương thi đua kinh tế, chung sống hòa bình giữa hai hệ thống, chuyển biến hòa bình lên chủ nghĩa xã hội. Lúc đầu, ĐCSVN về cơ bản tán thành những lập trường của ĐCSTQ, cuộc đấu tranh chống “chủ nghĩa xét lại hiện đại” diễn ra một cách quyết liệt về mặt tư tưởng và chính trị, và sử dụng cả những công cụ chuyên chính vào mục đích này. Về sau, khi đã thống nhất được đất nước, khi đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng xã hội và kinh tế ngày càng nghiêm trọng, thì chính ĐCSVN chuyển sang tiếp nhận “mô hình Xô Viết” có điều chỉnh. Nhưng sự chuyển hướng này không đủ để cứu vãn tình trạng khủng hoảng của đất nước. Chính bản thân Liên Xô, với mô hình có điều chỉnh ấy, cũng rơi vào tình trạng trì trệ và suy thoái nặng nề. Cuối cùng thì ĐCSTQ từ cuối những năm 70 cũng phải vất bỏ mô hình cũ, chuyển sang đường lối cải cách và mở cửa, vượt xa “mô hình Xô Viết” có điều chỉnh rất nhiều, đến mức dung nạp nhiều yếu tố cơ bản của kinh tế tư bản chủ nghĩa và họ làm điều đó không úp mở (một số nhà nghiên cứu nước ngoài đã mỉa mai đọc “chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc” thành “chủ nghĩa tư bản mang màu sắc Trung Quốc” hoặc “chủ nghĩa tư bản mang nhãn hiệu chủ nghĩa xã hội”). Đến lượt ĐCSVN, bằng đường lối “đổi mới”, về thực chất cũng như trên thực tế cũng từ bỏ “mô hình Xô Viết” dù là kiểu Stalin hay kiểu “có điều chỉnh”. Đến đây, thật sự đang diễn ra một cuộc khủng hoảng tư tưởng; và lý luận. Không phải mô hình cũ, chắc chắn là thế rồi. Nhưng mô hình mới của chủ nghĩa xã hội là thế nào thì chưa có ai trả lời được cả. Thành thử, khi sự vận động xã hội và kinh tế của xã hội Việt Nam hiện nay trên thực tế đang chuyển sang một quỹ đạo khác, dần dần rời bỏ những nền tảng lý luận về chủ nghĩa xã hội theo cách hiểu Mác-Lênin, thì trong những người cộng sản Việt Nam, nhất là trong giới nghiên cứu lý luận, người ta thấy rõ một sự phân hóa ngày càng sâu sắc. Một số người muốn đoạn tuyệt với lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin, đi tìm một thứ lý luận thích hợp hơn và có hiệu quả hơn. Số người này cũng chia làm hai “có người muốn trở về nguồn (Mác-Lênin hoặc Mác mà không phải Lênin), và có người muốn đoạn tuyệt về cơ bản với cả Lênin lẫn Mác. Một số những người khác coi những đổi mới hiện nay chỉ là “sách lược tạm thời”, là một sự “rút lui” cần thiết trước khi chuyển sang một (hoặc nhiều) cuộc “tiến công” mới, để trở lại với những nền tảng của mô hình cũ (chuyên chính vô sản, sở hữu nhà nước và tập thể…). Một số người khác nữa muốn làm một sự “hội tụ” của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản, tìm thấy trong chủ nghĩa xã hội-dân chủ những yếu tố cần thiết cho “con đường thứ ba”. Cuộc đấu tranh về mặt lý luận này chắc chắn còn kéo dài và chừng nào chưa đi tới kết cục rõ ràng, chừng đó sự vận động xã hội vẫn gặp nhiếu trắc trở, nhiều bước vòng quanh, nhiều dạng nửa vời. Nhưng thực tiễn những năm “đổi mới” vừa qua cũng cho thấy một hướng ngược lại: chính từ sự vận động hiện thực của xã hội, đang và sẽ nảy sinh ngày càng nhiều yếu tố đúng và cần cho sự giải quyết tình trạng khủng hoảng lý luận. IV. Những hệ quả của sự du nhập chủ nghĩa Mác-Lênin đối với sự phát triển của xã hội Việt Nam cho đến nay Trong những phần trên đây, đã trình bày phần nào về hệ quả ấy, ở đây xin nói rõ thêm: chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam với tư cách một thứ lý luận, một học thuyết được những người cộng sản Việt Nam coi là “cách mạng” và “khoa học” để giải quyết hai vấn đề được đặt ra từ những năm 20, giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội. Đối với những người cộng sản giải phóng dân tộc là tiền đề bắt buộc phải có để làm cách mạng xã hội, đồng thời cũng là một mục tiêu mang giá trị tự thân trong hoàn cảnh một nước thuộc địa. Cách mạng xã hội là lý tưởng cổ vũ cho giải phóng dân tộc, đồng thời là mục tiêu của sự phát triển xã hội. Hồ Chí Minh nói: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” (Lời tựa viết cho bản tiếng Nga quyển “Hồ Chí Minh, Những bài viết và nói chọn lọc” 1959, do chính Hồ Chí Minh gạch dưới, Tuyển tập Hồ Chí Minh, NXB Sự thật 1960, tr. 705). Hay như sự tổng kết của đại hội IV về hai ngọn cờ do ĐCSVN luôn luôn giương cao: Độc lập dân tộc và “yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội là một”. Thực tế lịch sử cho thấy một bức tranh khác thế. Một mặt đúng là chủ nghĩa Mác-Lênin đã giúp cho những người cộng sản Việt Nam những điều kiện và sức mạnh mới trong đấu tranh giải phóng dân tộc, như đã phân tích khá kỹ ở phần trên. Phủ nhận điều đó (nếu muốn, có thể dùng mấy chữ “cống hiến đó” hay “cống hiến to lớn đó”) là phủ nhận một mảng quan trọng của sự thật lịch sử đất nước. Nhưng cũng sẽ sai lầm khi quy tất cả những thắng lợi của giải phóng dân tộc cho chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong mọi giai đoạn đấu tranh cho độc lập dân tộc, không thể đánh giá thấp những đóng góp của những bộ phận yêu nước khác. Tinh thần yêu nước là tài sản chung của dân tộc, không phải của riêng ai. Tinh thần yêu nước ấy được hun đúc từ trong chiều sâu xa xưa của lịch sử đất nước, và trực tiếp hơn, cả từ những phong trào yêu nước đầu thế kỷ. Những phong trào ấy nói chung gặp thất bại, nhưng cả những thất bại ấy cũng không làm lu mờ những hình ảnh của họ trong ký ức người dân. Lớp trẻ chúng tôi vào những năm trước Cách mạng tháng Tám 1945 thấy lòng mình rung động vì một hình ảnh Phan Bội Châu không kém gì hình ảnh của Nguyễn Ái Quốc. Lòng yêu nước của chúng tôi chẳng những được dấy lên với những sách báo cách mạng, mà cũng được khuấy động bằng những Thi tù tùng thoại, Thơ văn các nhà chí sĩ Việt Nam… những ca khúc bi hùng Hồn tử sĩ, Kinh cầu nguyện, Bạch Đằng giang… Đó chỉ là một vài ví dụ. Còn biết bao đóng góp có tên vào không tên của biết bao nhiêu người, biết bao nhiêu dòng yêu nước khác, giống như những con suối nhỏ cùng nhau tạo thành dòng chảy chính, mà trong dòng chảy chính ấy, những người cộng sản đã góp phần của mình một cách xứng đáng. Trong cuộc chiến đấu chống Mỹ, chẳng hạn, làm sao có thể quên được phong trào Phật giáo đầu những năm 60 với những hình ảnh xúc động lương tâm mọi người như hình ảnh tự thiêu của Thích Quảng Đức? Làm sao có thể quên được phong trào văn hóa đầy tinh thần dân tộc “Trở về cội nguồn” hay “Hát cho đồng bào tôi nghe”? Những phong trào ấy có thể chịu ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp của Đảng Cộng sản (thông qua Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam) hay không, vẫn là dòng chảy yêu nước riêng để tụ hội thành cuộc chiến đấu chống Mỹ và những chính quyền do Mỹ đỡ đầu ở Sài Gòn. Trong những hoàn cảnh đấu tranh quyết liệt nhất, chủ nghĩa Mác-Lênin phải thích ứng với những phong trào giải phóng dân tộc chung, mà không phải ngược lại. Bản thân những người cộng sản Việt Nam hiểu rất rõ điều đó, khi gác bỏ lại những khẩu hiệu có tính chất giai cấp của mình, khi kêu gọi đại đoàn kết dân tộc. Những khái niệm như “chủ nghĩa xã hội”, “chủ nghĩa cộng sản” không hề có mặt trong chương trình Việt Minh hay trong cương lĩnh Mặt trận dân tộc giải phóng. Và nếu như trong những hoàn cảnh như vậy, đại đa số dân chúng tin vào những người cộng sản, thì đó chủ yếu là vì họ đánh giá cao tinh thần yêu nước triệt để của những người cộng sản, mà không phải (hay chưa phải) họ đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin như hệ tư tưởng vô sản, chưa phải họ tin vào chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản. Ở đây, xin nói một chút về sự lựa chọn của nhân dân Việt Nam. Một số người cộng sản ngày nay nói một cách khẳng định rằng: “chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là sự lựa chọn của nhân dân Việt Nam”. Đúng thế chăng? Tôi xin phép được nghi ngờ. Có lẽ không có gì rõ hơn sự lựa chọn của nhân dân Việt Nam trong thời kỳ cách mạng Tháng Tám. Hồi đó, nhân dân lựa chọn cái gì? Lựa chọn độc lập, tự do, hạnh phúc, lựa chọn Nhà nước cộng hòa dân chủ, lựa chọn Việt Minh như một mặt trận thống nhất dân tộc thật sự với những thành viên khác nhau của nó, lựa chọn những người có đức có tài lãnh đạo quốc dân. Lựa chọn bằng những cuộc khởi nghĩa tháng Tám đầy khí thế. Lựa chọn bằng tham gia Giải phóng quân, Vệ quốc đoàn, Nam tiến… Lựa chọn bằng Tổng tuyển cử (6-1-1946) một cuộc bầu cử hoàn toàn tự do, có sự tham gia của nhiều tổ chức và cá nhân thuộc những xu hướng chính trị khác nhau. Lựa chọn bằng Hiến pháp thật sự dân chủ tháng 11-1946 do Quốc hội đầu tiên thông qua. Sự lựa chọn của người dân là như vậy. Còn sự lựa chọn chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là sự lựa chọn của những người cộng sản, một bộ phận (dù là cách mạng nhất đi nữa thì cũng là một bộ phận) mà không phải của nhân dân nói chung, của toàn dân. Sự lựa chọn ấy và những hệ quả tất yếu của nó lẽ ra phải trở thành hiện thực trên đất nước này, nhưng những hoàn cảnh lịch sử tiếp theo không cho phép. Các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm bắt buộc phải gác lại nhiều khát vọng tự do, dân chủ và hạnh phúc. Như một đạo quân hùng vĩ, nhân dân Việt Nam đứng lên chiến đấu một mất một còn với những đội quân xâm lược. Và trong các cuộc chiến đấu triền miên hàng chục năm để giành độc lập, Đảng Cộng sản Việt Nam tỏ ra là một bộ chỉ huy dũng cảm và tài năng, kiên định và khôn khéo, được đông đảo quần chúng tin theo. Đó cũng là một sự thật lịch sử phải ghi nhận. Nhưng ngay trong quá trình lãnh đạo nhân dân chống ngoại xâm ấy và cả sau đó, một số người cộng sản đi tới một sự ngộ nhận lớn: tưởng rằng sự lựa chọn về hệ tư tưởng của mình cũng là sự lựa chọn của nhân dân nói chung. Chủ nghĩa Mác-Lênin, hệ tư tưởng của những người cộng sản, được họ coi là hệ tư tưởng của nhân dân, của toàn dân (hoặc nếu chưa phải như vậy, thì phải đạt tới chỗ đó bằng mọi giá). Tôi và những người cộng sản gần gũi với tôi hồi đó cũng nằm trong số những người mắc phải sự ngộ nhận này. Không phải chỉ có thế, chủ nghĩa Mác-Lênin, trong khi đem lại những ưu thế cho những người cộng sản trong đấu tranh giải phóng dân tộc, như đã nói ở trên kia, cũng biến thành những ưu thế ấy thành những mặt ngược lại tích cực biến thành tiêu cực. Hay nói như Lênin: ưu điểm kéo dài thành khuyết điểm. Khi khơi dậy tinh thần yêu nước và cách mạng của các tầng lớp “bên dưới" (thường là nghèo khổ và thất học) một ưu thế không thể nào chối cãi của những người cộng sản theo quan điểm giai cấp của chủ nghĩa Mác-Lênin – thì đồng thời, cũng bộc lộ ngay những mặt trái của điều đó: sùng bái tính cách mạng “tự nhiên” của những người thuộc các tầng lớp “bên dưới” và đem đối lập họ với người thuộc các tầng lớp “bên trên” bị coi là không cách mạng (chưa nói có một số người bị coi là phản cách mạng), với giới trí thức xuất thân từ các tầng lớp đó. Ngay trong kháng chiến chống Pháp, từ năm 1951 trở đi, với những cuộc vận động chỉnh huấn, chỉnh đốn tổ chức và nhất là với phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất, sự phân biệt đối xử này đã đạt tới mức độ rất cao. Sự sợ hãi thay dần cho niềm tin tự nguyện. Khi dựa vào những sức mạnh bên ngoài (theo chủ nghĩa quốc tế vô sản), thì đi đôi với sự tiếp nhận những cái hay cái tốt (cả về vật chất lẫn tinh thần) – và đó cũng là một ưu thế không thể chối cãi được – còn tiếp nhận cả những cái sai, cái xấu (“chủ nghĩa Stalin” và “chủ nghĩa Mao”). Quan trọng nhất là việc đặt đất nước chịu tác động trực tiếp của cuộc đấu tranh giữa hai phe trên thế giới (các nước Phương Tây cũng phải chịu trách nhiệm nếu không phải nhiều hơn, thì cũng không ít hơn về mặt này), khiến cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nước ta phải kéo dài và mất quá nhiều tổn phí về người và của. Khi đưa những lý tưởng xã hội vào đấu tranh giải phóng dân tộc, thì đồng thời cũng thổi lên một bầu không khí không tưởng về những “ngày mai ca hát”, về “tương lai tươi sáng” dưới chủ nghĩa xã hội, cách biệt rất xa với những gì đang xảy ra ở những “thiên đường trên trái đất” (Liên Xô hôm nay là ngày mai của chúng ta”…). Khi áp dụng những phương thức tổ chức rất có hiệu quả vào đấu tranh giải phóng dân tộc, cũng đồng thời biến nó thành nền nếp sống của xã hội và cá nhân, đặt cá nhân vào những hoàn cảnh “hy sinh” thường xuyên cho tập thể, triệt tiêu tính chủ động và những khát vọng sống bình thường của cá nhân, biến cá nhân thành “cái đuôi” của tập thể. Các quyền dân chủ và tự do của người dân bị hạn chế trong hoàn cảnh chiến tranh, và người dân tự nguyện chịu sự hạn chế ấy để tập trung ý chí và sức mạnh vào chiến đấu và chiến thắng, nhưng điều đó lại chuyển thành tình trạng mất dân chủ (từ phía lãnh đạo cũng như từ phía bị lãnh đạo, “quần chúng”). Những chuyển hóa ấy và những yếu tố tâm lý, lịch sử khác nữa tạo ra một mảnh đất hết sức thuận lợi cho sự hình thành một chế độ toàn trị, về mặt khách quan. Trong khi đó, về mặt chủ quan, chủ nghĩa Mác-Lênin đã chứa sẵn trong bản thân nó những căn tính (dispositions) hướng tới chế độ toàn trị: quan niệm lãnh đạo độc tôn, độc quyền của giai cấp vô sản mà Đảng cộng sản tự coi là đại diện duy nhất, sự phân chia xã hội thành các giai cấp, tầng lớp cách mạng và phản cách mạng (hay ít ra không cách mạng), việc biến chủ nghĩa Mác-Lênin với tư cách hệ tư tưởng vô sản thành hệ tư tưởng thống trị xã hội, tính chiến đấu không khoan nhượng (ta và địch) của những người cộng sản về chính trị và tư tưởng được đưa thành khuôn mẫu chung cho toàn xã hội… những căn tính ấy còn được tiếp sức bằng chủ nghĩa Mao, một dạng thô thiển và thô bạo hơn của chủ nghĩa Mác-Lênin, mà mô hình cố hữu của nó chính là chế độ chuyên chế quan liêu phương Đông. Và thế là sự cộng hưởng của hai mặt khách quan và chủ quan ấy tạo thành một chế độ toàn trị theo đúng nghĩa đen của nó, một biếm họa về những lý tưởng xã hội của chính chủ nghĩa Mác-Lênin. Những điều vừa nói càng thể hiện nổi bật hơn khi tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội theo những quan niệm, những lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin (ở miền Bắc từ giữa những năm 50 và ở miền Nam từ giữa những năm 70). Chủ nghĩa Mác-Lênin không có và không thể có một mô hình xã hội chủ nghĩa nào khác ngoài “mô hình xô viết” với những biến thể khác nhau của nó. Mô hình này (với sự vận dụng được gọi là sáng tạo theo lối làm cho nó “mềm” hơn hay “cứng” hơn) đã đem lại những gì cho nền kinh tế và đời sống xã hội nước ta, tưởng không phải nói nhiều. Rất nhiều bài viết, và cả một số văn kiện chính thức của ĐCSVN, đã phân tích khá rõ. Chỉ có điều là sự phân tích ấy được giới hạn trong lĩnh vực kinh tế và phần nào trong lĩnh vực xã hội, mà không nói tới các lĩnh vực tư tưởng và chính trị. Mấy chục năm noi theo “mô hình Xô Viết” kiểu Stalin (có cải biên sau đó ít nhiều), đất nước không những không tiến gần tới những lý tưởng xã hội chủ nghĩa mà còn xa rời hơn. Sản xuất không hiện đại hóa được, các hoạt động kinh tế không có hiệu quả, mức sống của đại đa số dân chúng sa sút, công thêm đời sống tư tưởng và chính trị ngày càng bị siết chặt, những bất mãn xã hội ngày càng tăng, các tệ hại xã hội xảy ra sâu hơn và rộng hơn (như có người nhận xét: còn hơn cả dưới các chế độ cũ). Giống như các nước xã hội chủ nghĩa khác, nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng và toàn diện từ cuối những năm 70. Chủ nghĩa Mác-Lênin đem lại những gì cho đất nước về mặt xây dựng chủ nghĩa xã hội, mỗi người có thể trả lời không khó khăn lắm câu hỏi đó bằng sự thể nghiệm của chính bản thân mình. Đây không còn là một vấn đề lý luận nữa, mà đã là một hiện thực hiển nhiên. Chính vào lúc khủng hoảng xã hội đạt tới trình độ cao nhất, xã hội cơ hồ lâm vào ngõ cụt, thì chính người dân và những người cộng sản có đầu óc lành mạnh tìm mọi cách để thoát khỏi khủng hoảng. Vừa chịu tác động của những “cải cách”, “cải tổ” từ các nước xã hội chủ nghĩa khác, vừa tự mình tìm kiếm kiên trì và gian khổ, cuối cùng xã hội Việt Nam từ giữa những năm 80 đã bước vào một thời kỳ mới, dần dần khôi phục lại sức sống của mình. Đó là thời kỳ “đổi mới” như chúng ta vẫn thường gọi, khi ý chí và hành động của người dân “từ bên dưới" kết hợp được với sự tỉnh táo và sự dũng cảm “từ bên trên”. Đổi mới về thực chất là sự đoạn tuyệt đầy khó khăn và đầy đau đớn với lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội. Thừa nhận điều đó hay không thừa nhận, thì sự thật là thế. Khẩu hiệu “Nhìn thẳng vào sự thật”, được đưa ra tại Đại hội VI của ĐCSVN, vẫn còn giá trị và càng có thêm giá trị vào lúc này, khi đất nước đứng trước một sự lựa chọn mới, triệt để hơn. V. Chủ nghĩa Mác-Lênin còn lại những gi? Ở Việt Nam, chủ nghĩa Mác-Lênin đã đóng vai trò lịch sử nổi bật trong hơn ba phần tư thế kỷ nay. So với lịch sử trường kỳ của dân tộc, của đất nước đó là một thời gian khá dài. Nhưng đặt trong bối cảnh thế kỷ XX, khi nhu cầu giải phóng dân tộc và hiện đại hóa đất nước được đặt ra một cách bức bách trong thời đại hiện nay, thì đó là một thời gian không ngắn. Sự kiểm nghiệm của cuộc sống, của thời gian trong hơn ba phần tư thế kỷ qua đủ để chúng ta kết luận về “vận mệnh lịch sử” của nó trên đất nước này. Như đã nói ở trên, chủ nghĩa Mác-Lênin du nhập vào Việt Nam đã đóng vai trò trên hai mặt: đấu tranh giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội, xây dựng xã hội mới. Nhìn lại một cách thật tỉnh táo, thật khách quan không có định kiến nào, có thể nói: trong lĩnh vực thứ nhất, nó đã đóng vai trò lịch sử trọng yếu, không thể xem nhẹ, càng không thể phủ định một cách giản đơn. Việc những người cộng sản đi đầu và lãnh đạo các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trong hàng chục năm qua đã được các giới nghiên cứu, có cảm tình với chủ nghĩa cộng sản hay không, đánh giá khá đầy đủ (cũng như họ đánh giá một cách tin tưởng rằng những người theo chủ nghĩa quốc gia, trên thực tế phần lớn cuối cùng đã dựa vào các nước đế quốc, từ Pháp, Nhật đến Mỹ, bỏ rơi ngọn cờ dân tộc vì thái độ “chống cộng” cố chấp). Lịch sử về mặt này đã được viết không phải bằng mực mà cả bằng máu và nước mắt. Và bây giờ, dù có đưa ra đủ thứ lập luận hay “bằng chứng” như thế nào đi nữa, cũng không thể phủ nhận rằng những người cộng sản Việt Nam (nhất là lớp người hoạt động dưới thời thực dân Pháp, trong cách mạng và kháng chiến) đúng là những người yêu nước. Tinh thần yêu nước và kiên cường đấu tranh giải phóng dân tộc là di sản tinh thần quý giá nhất và có sức sống bền vững nhất của những người cộng sản. Chính cái thế mạnh ấy của ĐCSVN đang và sẽ giúp cho những người cộng sản còn tiếp tục đóng vai trò cần thiết đối với đất nước lúc này. Trong lĩnh vực cách mạng xã hội, xây dựng xã hội mới, những người cộng sản Việt Nam đã cắm sâu những lý tưởng xã hội của mình trong một bộ phận quần chúng rộng lớn. Đó cũng là một thành công đáng kể, và những ý tưởng xã hội ấy có thể vẫn còn có tác dụng để ngăn ngừa những hiện tượng phân hóa xã hội không bình thường, không lành mạnh trong thời kỳ chuyển biến xã hội-kinh tế hiện nay, khi những người lao động lương thiện và những người có công với đất nước rơi vào cảnh nghèo khổ, may lắm là đủ ăn, còn cả một bọn ăn cướp hợp pháp và bất hợp pháp thì tha hồ xà xẻo của cải đất nước, trở thành những phần tử giàu có theo lối “hãnh tiến-lưu manh chính cống”. Nhưng bên cạnh đó, những lý luận và quan niệm chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội thì đã phá sản, không thể cứu vãn được “mô hình xô viết” kiểu Stalin phá sản đã đành mà tất cả những mô hình có thể có của nó cũng không tránh khỏi phá sản khi vẫn dựa vào “đấu tranh giai cấp, ai thắng ai” vào “sự thiết lập quan hệ sản xuất dưới hình thức sở hữu nhà nước và tập thể trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân”, vào “sự lãnh đạo độc tôn của giai cấp vô sản và đảng của giai cấp này”, vào “chuyên chính vô sản như sự thống trị của giai cấp công nhân”, mà trên thực tế là quyền lực độc quyền và cao nhất của bộ máy Đảng-Nhà nước, vào “hệ tư tưởng Mác-Lênin thống trị toàn xã hội”… Trong sự nghiệp xây dựng một xã hội mới, chủ nghĩa Mác-Lênin đã mất tác dụng tích cực của nó. Không phải ai khác, chính ĐCSVN trong thời gian gần đây đã từng bước từ bỏ những luận điểm chủ yếu của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội được quan niệm là “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh”. Các chế độ sở hữu khác nhau, kể cả sở hữu tư nhân, đã được dần dần coi trọng. Chuyên chính vô sản không được nhắc tới công khai, thay vào đó là khái niệm “Nhà nước do dân, của dân và vì dân”. Đấu tranh giai cấp được thay bằng “cùng nhau tìm những điểm tương đồng, trong khi vẫn thừa nhận những điểm khác nhau”. Kinh tế tập trung có kế hoạch được thay bằng “kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước". “Đóng cửa” được thay bằng “mở cửa”. Sự vận động hiện thực của xã hội Việt Nam theo hướng kinh tế thị trường, xã hội dân sự (hay xã hội công dân), Nhà nước pháp quyền, dân chủ, khoan hòa, mở cửa có những thuận lợi đáng kể, một phần quan trọng là nhờ ĐCSVN từng phần từ bỏ và thay thế những giáo điều cứng nhắc của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội. Sự từ bỏ hay thay thế ấy, như chúng ta đang thấy, không phải một lúc và không hề suôn sẻ. Có sự từ bỏ ngày càng triệt để. Có sự từ bỏ ngập ngừng. Có sự từ bỏ theo lối sách lược. Và cũng có cả sự không chịu từ bỏ. Bằng con mắt bình tĩnh, không khó gì mà không nhận ra tình trạng giằng co hiện nay xung quanh chủ nghĩa Mác-Lênin. Cuộc sống đã chứng minh khá đầy đủ rằng Chủ nghĩa Mác-Lênin đã thuộc về quá khứ (một quá khứ thật oanh liệt, đầy những hào hùng và những bi kịch), mà không thuộc về hiện tại, lại càng không thuộc về tương lai. Ở một mức độ nào đó, “số phận” của nó cũng giống như “số phận” của Nho giáo ngày xưa. Sự vận động xã hội hiện nay và trong tương lai gần gũi đang đòi hỏi những tìm kiếm mới về con đường phát triển xã hội thích hợp nhất. Những tìm kiếm ấy đã bắt đầu, và cũng bắt đầu từ chính trong ĐCSVN, bên cạnh những tìm kiếm của những người có tâm huyết với đất nước, có tầm nhận thức phù hợp với thế giới hiện đại. Chưa bao giờ cần có một sự hợp lực chung để tìm kiếm con đường đi tới của đất nước như bây giờ. Chỉ cần gạt bỏ những định kiến, những mặc cảm – vết tích của một thời “tư tưởng trị” đã qua – là có thể cùng nhau làm được công việc hệ trọng và bức bách ấy. Và nếu như trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, những người cộng sản từng đóng vai trò đi đầu, vai trò trung tâm, thì không một lý do gì lại ngăn cản họ tiếp tục đóng vai trò trong việc tìm kiếm con đường thích hợp với dân tộc hiện nay. Nhưng đó là sự lựa chọn của bản thân những người cộng sản, không ai có thể làm thay được. Tôi cầu mong ĐCSVN thành công trong sứ mệnh mới này. Và chắc chắn sự thành công ấy sẽ là cái bảo đảm tốt nhất để ĐCSVN tiếp tục đóng vai trò xứng đáng của mình trong xã hội, hiện nay và cả trong tương lai. Xem xét quá trình du nhập của chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam là một công việc không đơn giản. Và công việc này có thể tiến hành từ những quan điểm rất khác nhau, từ chính những người Mác xít-lêninnít hay từ những người thuộc các trào lưu khác. Nhiều lắm, những ý kiến trên đây của tôi cũng chỉ là những gợi ý sơ lược, và tất nhiên, theo cách suy nghĩ của tôi. Chắc chắn những ý kiến đó sẽ gây ra những sự tranh luận, thậm chí những sự bài bác [3] . Tôi xin bày tỏ một mong muốn tha thiết, đó là không nên biến chủ nghĩa Mác-Lênin thành một vật phân chia xã hội về mặt tinh thần và tư tưởng để loại bỏ nhau. Theo hệ tư tưởng nào, đó là quyền của mỗi người, mỗi tổ chức và quyền đó phải được tôn trọng, miễn là đừng biến học thuyết mình theo thành một sự độc quyền và độc tôn. Lợi ích chung của dân tộc, của đất nước quá lớn để mỗi người không lao vào những sự đối địch nhau về tư tưởng dẫn tới chỗ chia rẽ đáng tiếc. ĐCSVN đề xướng đại đoàn kết và hòa hợp dân tộc, theo tinh thần cùng nhau tìm những điểm tương đồng và tôn trọng những điểm khác nhau. Chỉ mong sao điều đó sớm trở thành hiện thực trên đất nước ta. Tháng giêng 1995 [1]Đại hội II của Đảng Cộng sản (khi còn lấy tên Đảng Lao động Việt Nam) năm 1951 đã chính thức đưa tư tưởng Mao Trạch Đông vào Điều lệ đảng. [2]Dịch theo sách của Huỳnh Kim Khánh vì không có nguyên bản. [3]Xin nhấn mạnh một lần nữa: ở đây tôi không bàn về vấn đề chủ nghĩa Mác-Lênin có liên hệ với những tư tưởng của Mác, Engels và Lenin tới mức nào. Vấn đề này được dành cho một tiểu luận khác. Nguồn: Những bài viết của Nguyễn Kiến Giang trong thập niên 90 được đăng rải rác trên báo chí trong ngoài nước, được chuyền tay hoặc chưa công bố, nay được tập hợp thành loạt bài “Suy tư 90” cho bản đăng chính thức trên talawas, với sự hiệu đính cuối cùng của tác giả. bản để in Ngôn ngữ Dịch thuật Tản văn thứ sáu Tủ sách talawas Nghệ thuật talaGallery Bàn tròn "Mĩ thuật đương đại Việt Nam đang ở đâu" Mĩ thuật Kiến trúc Điện ảnh Sân khấu Âm nhạc Tư tưởng Triết học Lịch sử Tôn giáo Phương Đông và Phương Tây Văn hoá và phát triển Chiến tranh nhìn từ nhiều phía
1614178347293.1.parquet/101130
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 51775, "url": "http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php/%3C/showFile.php?res=6946&rb=08" }
133.4
Vị trí chiến lược của Biển Đông và Việt Nam trong chính sách hướng Đông của Ấn Độ - Redsvn.net Kênh chia sẻ tri thức cộng đồng Menu Skip to content Redsvn Thời sự⠀ Thời sự Việt Nam⠀ Thời sự quốc tế⠀ Tình hình biển đảo⠀ Mạng – Truyền thông Quân sự⠀ Chính trị⠀ Dân chủ – Pháp quyền⠀ Chủ quyền Việt Nam⠀ Địa chính trị⠀ An ninh chính trị⠀ Hình thái kinh tế – xã hội⠀ Tri thức⠀ Văn hóa – Giáo dục⠀ Triết học – Tư tưởng⠀ Tâm lý – Xã hội⠀ Kinh tế – Thị trường⠀ Tôn giáo – Tâm linh⠀ Lịch sử⠀ Hồ sơ – Tư liệu⠀ Âm vang sử Việt⠀ Dưới ánh sao vàng⠀ Biển đảo Việt Nam⠀ Giải phóng con người⠀ Nghệ thuật⠀ Toàn cảnh⠀ Âm nhạc⠀ Văn học⠀ Mỹ thuật – Tạo hình⠀ Sân khấu – Điện ảnh⠀ Môi trường⠀ Bức tranh môi trường⠀ Phát triển bền vững⠀ Bảo tồn⠀ Biến đổi khí hậu⠀ Sống xanh⠀ Khoảnh khắc⠀ Thời sự qua ảnh⠀ Hình ảnh lịch sử⠀ Đất Việt – Người Việt⠀ Cuộc sống muôn màu⠀ Thư giãn⠀ Marxist⠀ Phật giáo⠀ Cảm xúc⠀ Blog⠀ Đời thường⠀ Về người lính⠀ Suy ngẫm⠀ Tình yêu⠀ Lặng⠀ Tags Tìm kiếm Liên hệ Redsvn Posted on 26/03/2020 26/03/2020 Chính trị⠀Địa chính trị⠀ Vị trí chiến lược của Biển Đông và Việt Nam trong chính sách hướng Đông của Ấn Độ Chiến lược hướng Đông của Ấn Độ được thực thi từ năm 2014, khi Thủ tướng Narendra Modi quyết định đổi tên “Chính sách hướng Đông” (1992)(1) thành “Hành động hướng Đông” nhằm đạt được một trong ba mục tiêu đối ngoại của Ấn Độ là mở rộng ảnh hưởng ra khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong đó, Biển Đông và Việt Nam là các nhân tố có liên quan trực tiếp. Tác giả: TS Trịnh Thị Hoa, Viện Quan hệ quốc tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị số 1-2017. Thứ nhất, vị trí chiến lược của Biển Đông và Việt Nam tác động đến chính sách và hoạt động thương mại hướng Đông của Ấn Độ Xét từ góc độ địa thế và hình dáng lãnh thổ đất nước, có thể thấy trên bản đồ địa chính trị khu vực,Việt Nam có một vị trí chiến lược quan trọng, như một cầu nối hai vùng kinh tế biển và kinh tế lục địa của châu Á. Việt Nam là cửa giao thương với các nền kinh tế biển khu vực, đồng thời cũng là cửa đi vào hệ thống giao thông đường bộ trên đất liền của các quốc gia Đông Nam Á và châu Á. Với không gian biên giới đất liền và biển dài và hẹp, Việt Nam dễ dàng kết nối với biển Hoa Đông (Đông Bắc Á) và với vùng Viễn Đông của Nga. Đồng thời từ Việt Nam qua Campuchia, Thái Lan, Myanma, Bangladesh bằng đường bộ, có thể tiếp cận vùng Nam Á. Biển Đông là một trong những khu vực hội tụ nhiều mâu thuẫn căng thẳng về kinh tế, chính trị, thu hút sự quan tâm không chỉ của các nước trong khu vực Đông Nam Á, mà còn của hầu hết các nước lớn trên thế giới. Đây là một khu vực có vị trí quan trọng cả về tài nguyên biển, hàng hải quốc tế và là một trong những nơi có nguy cơ xảy ra xung đột, có thể coi là một “điểm nóng” tiềm tàng về an ninh và ổn định của khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Hiện nay, thương mại và các mối liên kết kinh tế của Ấn Độ ở Thái Bình Dương đang trở nên ngày càng mạnh mẽ và sâu sắc hơn. Tham gia vào khu vực này, Ấn Độ nhằm bảo đảm an toàn hàng hải cho hàng hóa thương mại của mình khi đi qua khu vực châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là Biển Đông. Nếu như trước đây Ấn Độ thường đóng vai trò là quan sát viên trong các vấn đề tranh chấp quốc tế, đặc biệt những nơi nằm ngoài “lợi ích cốt lõi” truyền thống của mình (vốn là Nam Á và Ấn Độ Dương) thì hiện nay, Ấn Độ quan tâm nhiều hơn về các vấn đề quốc tế, trong đó đặc biệt quan tâm vấn đề thương mại đường biển tại Biển Đông. Theo các nhà chiến lược Ấn Độ, “con đường hình vòng cung trên biển nối liền từ vịnh Ba Tư ngang qua eo biển Malacca đến biển Nhật Bản tương đương với một “con đường tơ lụa trên biển”… Thương mại của tuyến đường này đạt đến con số 180 tỉ USD”(2). Hiện nay, khoảng 70% giá trị thương mại và hơn 90% khối lượng thương mại của Ấn Độ được vận chuyển bằng đường biển. Thương mại đường biển của Ấn Độ chủ yếu tập trung ở hai hướng: phía Tây kéo đến khu vực Trung Đông, phía Đông qua eo biển Malacca. Như vậy con đường phía đông buộc Ấn Độ phải qua các eo biển ở Đông Nam Á, qua quần đảo Trường Sa của Việt Nam, các hải cảng của Việt Nam và một số nước Đông Nam Á. Gần 55% tổng lượng hàng hóa trung chuyển của Ấn Độ được chuyên chở qua eo biển Malacca, qua Biển Đông để tiếp tục tới các nước Đông Bắc Á hay Mỹ hoặc các điểm quan trọng khác. Thương mại Ấn Độ – ASEAN đã tăng gấp 10 lần trong thập kỷ qua. Lợi ích này lại càng gia tăng hơn nữa khi Ấn Độ và ASEAN đặt mục tiêu nâng kim ngạch thương mại song phương lên 100 tỷ USD vào năm 2015 – 2016(3). Do đó, lợi ích thương mại biển ngày càng được nhắc đến trong chính sách và hành động hướng Đông của Ấn Độ. Rõ ràng, tuyến thương mại qua Biển Đông có vai trò quyết định đến sức mạnh nền kinh tế của Ấn Độ. Bất cứ cuộc xung đột nào tại Biển Đông đều đe dọa an ninh cũng như tự do hàng hải trong khu vực và quốc tế, tới lợi ích kinh tế và chiến lược của Ấn Độ tại khu vực này. Trong bối cảnh những thách thức nổi lên trong khu vực, New Delhi nhận thấy tầm quan trọng chiến lược của khu vực Đông Nam Á, cũng như thịnh vượng của Ấn Độ chủ yếu phụ thuộc vào thương mại hàng hải vì các tuyến đường bộ từ tiểu lục địa Ấn Độ ít thuận lợi hơn. Ngoại trưởng Ấn Độ, S.Krishna từng tuyên bố, Biển Đông là “tài sản của thế giới” và phải tự do cho thương mại phát triển. Do đó, bảo vệ các tuyến đường biển là điều tối cần thiết đối với sự phát triển của Ấn Độ. Một tuyến hàng hải an ninh và an toàn có tầm quan trọng đối với sự phát triển công nghiệp, phát triển thương mại và cấu trúc chính trị ổn định của Ấn Độ. An ninh biển trở thành thành tố quan trọng trong nghị trình đối thoại giữa Ấn Độ và các nước trong khu vực hiện nay. Thứ hai, vị trí chiến lược của Biển Đông và Việt Nam tác động đến chính sách năng lượng hướng đông của Ấn Độ Biển Đông được coi là một trong năm bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới. Các khu vực thềm lục địa có tiềm năng dầu khí cao là các bồn trũng Bruney – Saba, Sarawak, Malay, Pattani Thái, Nam Côn Sơn, Mê Công, Sông Hồng, cửa sông Châu Giang. Theo đánh giá của Bộ Năng lượng Mỹ, lượng dự trữ dầu đã được kiểm chứng ở Biển Đông là 7 tỷ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày. Theo đánh giá của Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng 213 tỷ thùng, trong đó trữ lượng dầu tại quần đảo Trường Sa có thể lên tới 105 tỷ thùng. Với trữ lượng này và sản lượng khai thác có thể đạt khoảng 18,5 triệu tấn/năm, duy trì trong 15 – 20 năm. Hiện nay, hầu hết các nước trong khu vực đều là những nước khai thác và sản xuất dầu khí từ biển như Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, Brunei, Indonesia, Thái Lan… Ngoài ra, theo các chuyên gia Nga thì khu vực vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa (Việt Nam) còn chứa đựng tài nguyên khí đốt đóng băng (băng cháy), đang được coi là nguồn năng lượng thay thế dầu khí trong tương lai gần. Tiềm năng dầu khí chưa được khai thác là một nhân tố quan trọng làm tăng thêm các yêu sách chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển quanh hai quần đảo. Việt Nam là quốc gia ven biển. Vì vậy, nguồn tài nguyên phong phú, trong đó tài nguyên dầu khí trên thềm lục địa của Việt Nam có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc gia.Tại vùng biển và thềm lục địa Việt Nam đã xác định nhiều bể trầm tích có triển vọng dầu khí, trong đó các bể trầm tích Cửu Long và Nam Côn Sơn được đánh giá có triển vọng dầu khí lớn nhất, điều kiện khai thác tương đối thuận lợi. Tổng trữ lượng dự báo địa chất về dầu khí của toàn thềm lục địa Việt Nam đạt xấp xỉ 10 tỷ tấn dầu quy đổi, trữ lượng khai thác khoảng 2 tỷ tấn và trữ lượng dự báo của khí khoảng 1.000 tỷ mét khối(4). Các khu vực có tiềm năng dầu khí còn lại chưa khai thác là khu vực thềm lục địa ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và bờ biển miền Trung, khu vực thềm lục địa Tư Chính. Ấn Độ đang gặp thách thức ngày càng lớn về an ninh năng lượng. Nhận thức được tiềm năng về tài nguyên dầu khí của Việt Nam, Ấn Độ đã xây dựng các dự án hợp tác năng lượng với Việt Nam. Các dự án hợp tác dầu khí giữa công ty dầu khí quốc gia của Ấn Độ (OVL) và Tập đoàn dầu khí Việt Nam (PVN) đã được triển khai.Thậm chí, VOL còn nhắm đến các dự án liên doanh ở Bắc cực với Rosneft của Nga. Nếu giành được dự án này, Ấn Độ sẽ phải vận chuyển dầu qua Biển Đông vì đây là tuyến đường ngắn nhất từ Bắc cực về Ấn Độ. Thứ ba, vị trí chiến lược của Biển Đông và Việt Nam tác động đến chính sách và hành động quốc phòng hướng Đông của Ấn Độ Những nguy cơ xung đột lãnh thổ ở Biển Đông đe dọa tương lai các mối quan hệ kinh tế của Ấn Độ, dẫn đến việc New Delhi có một cách tiếp cận lấy an ninh làm trọng tâm. Ấn Độ tăng cường triển khai đối ngoại hải quân với các nước khu vực Thái Bình Dương, trong đó chú trọng các nước Đông Nam Á và Việt Nam. Ấn Độ coi sự hiện diện của lực lượng hải quân Ấn Độ ở khu vực này là nhân tố gìn giữ hòa bình và ổn định, tạo thuận lợi để Ấn Độ xây dựng, ký kết các thỏa thuận quốc phòng, mở rộng quan hệ quân sự với các nước trong khu vực, nhằm tăng lợi thế trong cuộc cạnh tranh ảnh hưởng với Trung Quốc. Năm 2000, Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ G.Fernandes đề cập đến Biển Đông như là điểm cực Đông trong hành trình chiến lược của Hải quân Ấn Độ tại Ấn Độ Dương. Theo Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ, Jashwant Sinha, trong bài phát biểu tại Đại học Harvard (Mỹ – 2003), Biển Đông thuộc phạm vi khái niệm “láng giềng mở rộng” về phía Đông trong chính sách hướng Đông. Ấn Độ coi trọng quan hệ với các nước Đông Nam Á thông qua chính sách hướng Đông để từng bước hòa nhập vào cấu trúc an ninh ở Đông Nam Á. Tại Hội nghị thượng đỉnh Ấn Độ – ASEAN lần thứ nhất (2002), Ấn Độ chủ trương mở rộng quan hệ với các nước Đông Nam Á và đưa ra chính sách mở rộng hợp tác sang cả lĩnh vực an ninh, bao gồm các hoạt động chung để bảo vệ các tuyến đường biển và chống khủng bố. Bên cạnh đó, “Học thuyết hải quân của Ấn Độ – 2007” với tiêu đề: “Tự do sử dụng các vùng biển: Chiến lược quân sự biển của Ấn Độ” đã xác định phạm vi lợi ích của Ấn Độ là trải dài từ phía Bắc vùng biển Ả rập xuống tới Biển Đông của Việt Nam, tức là khu vực trùng với Ấn – Thái Bình Dương”(5). Trong cơ chế đối thoại của Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), Ấn Độ cũng tham gia và từng bước khẳng định trách nhiệm đối với an ninh khu vực châu Á – Thái Bình Dương; đồng thời, nhấn mạnh yêu cầu phải cùng nhau giải quyết an ninh các tuyến đường giao thông trên biển và nạn cướp biển, nhất là ở Biển Đông. Năm 2012, Hội nghị Thượng đỉnh kỷ niệm 20 năm quan hệ đối thoại ASEAN – Ấn Độ đã được tổ chức tại New Delhi, đánh dấu 2 thập kỷ chính sách “Hướng Đông” của Ấn Độ. Các mối quan hệ thương mại gia tăng tương xứng với việc mở rộng mối quan hệ trong các lĩnh vực quốc phòng và an ninh; sự can dự chủ yếu về chính trị và kinh tế đã đạt được nội dung chiến lược trong những năm gần đây. Ấn Độ và các nước trong khu vực có chung nhiều mối đe dọa và thách thức, đặc biệt là trong các lĩnh vực an ninh phi truyền thống. Ấn Độ và các quốc gia Đông Nam Á đã và đang tăng cường mối quan hệ quốc phòng và an ninh ở cả cấp song phương lẫn đa phương. Hợp tác quốc phòng với các nước thành viên ASEAN chủ yếu hướng tới việc trao đổi các chuyến thăm cấp cao, những đối thoại chiến lược, những chuyến thăm cảng, trao đổi đào tạo, các cuộc tập trận chung và điều khoản về trang thiết bị quốc phòng. Bên cạnh đó, thông qua hành động và khả năng đã được chứng minh của hải quân trong việc xử lý các thảm họa thiên nhiên như sóng thần tại Ấn Độ Dương, Ấn Độ từng bước tham gia lớn hơn trong các vấn đề của khu vực Đông Nam Á và Đông Á. Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN – 24 (2014), Thủ tướng N.Modi bày tỏ quan điểm, “Trong một thế giới toàn cầu hóa và phụ thuộc lẫn nhau, không có lựa chọn nào khác là tuân theo luật pháp và chuẩn mực quốc tế. Điều này cũng áp dụng cho an ninh hàng hải. Vì lý do đó, tại Biển Đông cũng thế, tuân thủ luật pháp và chuẩn mực quốc tế là điều quan trọng đối với hòa bình và ổn định”(6). Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN – Ấn Độ lần thứ 13 (11/2015) và trong bài diễn thuyết trước công chúng Singapore, Thủ tướng Modi đã đề cập đến xung đột Biển Đông, ông cho rằng, cần có một cơ chế có thể tăng cường sự hợp tác về an ninh biển, chống cướp biển, cứu trợ nhân đạo và thảm họa; đồng thời bày tỏ thái độ ủng hộ các nước ASEAN trong giải quyết vấn đề Biển Đông với Trung Quốc. Trong cơ chế đối thoại Đông Á, Ấn Độ cũng là thành viên sáng lập Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS – 2005) và đã thể hiện rõ vai trò của mình trong khu vực. Tại Hội nghị Cấp cao Đông Á (2015), người đứng đầu Chính phủ Ấn Độ đã kêu gọi xây dựng EAS thành diễn đàn chủ chốt để định hình một cấu trúc khu vực toàn diện, cân bằng, rõ ràng và rộng mở về an ninh và hợp tác trong khu vực Ấn – Á – Thái Bình Dương. Thủ tướng Modi đã yêu cầu các nước liên quan tại Biển Đông tôn trọng tự do hàng hải, hàng không và thương mại không bị cản trở, phù hợp với các nguyên tắc của luật pháp quốc tế đã được chấp nhận, bao gồm Công ước Luật biển của Liên Hợp quốc (UNCLOS) năm 1982; tranh chấp lãnh thổ phải được giải quyết thông qua các biện pháp hòa bình; tất cả các bên liên quan tranh chấp ở Biển Đông tuân thủ các nguyên tắc thực thi Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và nỗ lực để sớm hoàn tất Bộ quy tắc ứng xử tại Biển Đông (COC) trên cơ sở đồng thuận. Trong một văn bản về tầm nhìn chung trong chuyến thăm Ấn Độ của Tổng thống Mỹ được ký kết (2015) đã thúc giục tất cả các nước Đông Nam Á tránh “đe dọa hay sử dụng vũ lực và theo đuổi giải pháp cho những tranh chấp lãnh thổ và trên biển thông qua tất cả các biện pháp hòa bình”. Văn bản tầm nhìn chung tuyên bố rõ ràng những quan ngại của Ấn Độ về Biển Đông được nhìn nhận rộng rãi đang được coi là dấu hiệu một quyết tâm ngày càng tăng của New Delhi trong việc nhấn mạnh lợi ích của nước này trong khu vực. Cả Ấn Độ và Mỹ đều mong muốn kiềm tỏa được tham vọng ngày một gia tăng của Trung Quốc ở vùng biển châu Á và đây cũng là động lực chính của mối quan hệ Ấn – Mỹ trong thời gian qua. Những hành động của Ấn Độ gần đây cho thấy quốc gia này cũng tăng cường những triển khai trên biển ở Biển Đông, mong muốn có một vai trò an ninh gia tăng ở châu Á – Thái Bình Dương. Trong năm 2015, một nhóm 4 tàu hải quân Ấn Độ đã hoàn thành hành trình Đông Nam Á kéo dài 2 tháng hè. Tiếp đến là tàu khu trục tàng hình INS Sahyadri của Ấn Độ được cử đến Philippines tham gia một cuộc triển khai tác chiến vào tháng 11/2015. Hải quân Ấn Độ đã và đang thực hiện những trao đổi tác chiến cường độ cao với Mỹ tại Biển Đông. Thậm chí một số cuộc tập trận chung của Ấn Độ với Mỹ tại Biển Đông – như cuộc tập trận Malabar (10/2015) – gia tăng mức độ dính líu bằng việc mời Nhật Bản tham gia. Ngoài ra, Ấn Độ tăng cường cải thiện hợp tác quân sự của nước này với các nước ASEAN như Việt Nam, Malaysia, Myanmar và Thái Lan. Với ASEAN, sự có mặt của Ấn Độ trong khu vực sẽ góp thêm tiếng nói đa phương trong các tranh chấp chủ quyền biển đảo trên Biển Đông, qua đó giảm các hành động đơn phương của các thế lực cứng rắn trong khu vực. Đối với Việt Nam, trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc tại Biển Đông, Việt Nam cần bạn bè quốc tế ủng hộ trong đó có Ấn Độ. Mặc dù không có tranh chấp ở khu vực này, song Ấn Độ có lợi ích kinh tế tại khu vực Biển Đông mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền. Trên nguyên tắc, Ấn Độ ủng hộ tự do hàng hải và tiếp cận tài nguyên trên Biển Đông. Điều này cũng tạo cơ hội cho Ấn Độ mở rộng sự hiện diện của hải quân nước này ra ngoài khu vực Ấn Độ Dương và tạo điều kiện cho hải quân Ấn Độ kiểm soát tham vọng bành trướng trên biển của Trung Quốc. Đây là hướng đi trong chiến lược can dự của Ấn Độ vào khu vực châu Á – Thái Bình Dương nhằm tạo dựng sự đồng thuận để duy trì hòa bình và trật tự trong khu vực. Trước sự gia tăng ảnh hưởng của các nước lớn tại Biển Đông, chính sách quốc phòng hướng Đông của Ấn Độ với Việt Nam có vai trò trong việc tăng cường khả năng quân sự của Việt Nam nhằm chống lại những mối đe dọa tiềm tàng. Trong chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mukherjeee (2014), Ấn Độ đã ký kết một số thỏa thuận trong lĩnh vực quốc phòng với Việt Nam. Ấn Độ đã đồng ý cấp cho Việt Nam khoản tín dụng 100 triệu USD để mua 4 tàu tuần tra ngoài khơi(7). Mặc dù khoản tín dụng 100 triệu USD là nhỏ, nhưng nó gửi một thông điệp về hợp tác quốc phòng của Ấn Độ. Tiếp đó là Tuyên bố tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng trong 5 năm (2015 – 2020) được ký kết trong chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam với Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ (5/2015). Thỏa thuận này sẽ được gia hạn sau khi đánh giá và giám sát các bước đi được thực hiện trong thời gian sau đó. Ngoài ra, một Bản ghi nhớ cũng đã được ký kết giữa Cảnh sát biển Ấn Độ (ICG) và Cảnh sát biển Việt Nam về việc đánh giá cao vai trò của mỗi bên trong các vấn đề an ninh biển hiện nay. Đây là những kết quả trong hành động quốc phòng hướng Đông của Ấn Độ nói chung và trong quan hệ quốc phòng với Việt Nam nói riêng. Như vậy, chính sách và hành động hướng Đông của Ấn Độ được xây dựng trên cơ sở lợi ích của Ấn Độ tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương trong thế kỷ 21. Trong đó, vị trí chiến lược của các quốc gia ở châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là Việt Nam rất được Ấn Độ quan tâm. Việt Nam cần nhận thức vị trí chiến lược của đất nước và đặt nó trong đường lối chính sách đối ngoại với các nước trong và ngoài khu vực. Các nước lớn đều thực hiện chiến lược vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, vừa kiềm chế, nhưng cũng sẵn sàng thỏa hiệp theo hướng có lợi. Vì vậy, Việt Nam quán triệt thực hiện phương châm đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương đa dạng, thêm bạn bớt thù, kiên định về chiến lược, mềm dẻo về sách lược đảm bảo lợi ích chủ quyền quốc gia dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ. ———————- Chú thích: (1) Trong Báo cáo thường niên 2006 – 2007, Bộ Ngoại giao Ấn Độ khẳng định, chính sách hướng Đông ra đời năm 1992 (gắn với sự kiện đối tác đối thoại từng phần của ASEAN), trong khi nhiều nhà nghiên cứu Ấn Độ vẫn cho rằng sự ra đời của chính sách “Hướng Đông” gắn liền với cuộc cải cách toàn diện đất nước năm 1991 và là một bộ phận trong chính sách đối ngoại mới của Ấn Độ. (2) http://cis.org.vn. (3) http://www.mpi.gov.vn, Bộ Kế hoạch và đầu tư, ngày 25/8/2014. (4) Viện Chiến lược phát triển – Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2004), Báo cáo Chiến lược phát triển kinh tế biển của Việt Nam đến 2020 chủ trì thực hiện, 11/2004. http://nghiencuubiendong.vn, ngày 29/12. (5) Đặng Cẩm Tú (2016): Triển vọng phát triển của Ấn Độ đến 2025 và tác động tới Châu Á – Thái Bình Dương, Nghiên cứu quốc tế, số 1, tr.223. (6) http://www.dangcongsan.vn. Theo TẠP CHÍ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Tags: Ấn Độ, Biển Đông, Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ Redsvn Tìm kiếm cho: Tìm kiếm Dân chủ – Pháp quyền Kinh nghiệm thu hồi đất của một số quốc gia trên thế giới Chính quyền hiệu quả là một chính quyền như thế nào? Chuyện vi hành và chống tham nhũng của vua Lê Thánh Tông Vì sao người ta cố sống cố chết để được ‘làm cán bộ’? Chủ quyền Việt Nam Bàn về học thuyết xây dựng chính sách biển Việt Nam hiện đại Độc lập văn hóa: Yếu tố cốt tử để bảo vệ Tổ quốc Tại sao Việt Nam không bị đồng hóa sau 1.000 năm Bắc thuộc? Cái nhìn của giới trẻ về Trung Quốc và việc giành lại Hoàng Sa Địa chính trị Góc nhìn địa chính trị về cuộc chiến tranh Việt Nam – Trung Quốc 1979 Kênh đào Suez và lời cảnh tỉnh về Vành đai và Con đường của Trung Quốc Về vấn đề Diệt chủng trong chính trị quốc tế Lý thuyết, thực tiễn quan hệ đối tác chiến lược: Từ thế giới đến Việt Nam An ninh chính trị Vì sao Việt Nam không thể chấp nhận ‘dân chủ phương Tây’? Liên bang Nam Tư và bài học đau đớn về ‘lòng tốt’ của phương Tây Về Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam Vaccine nào cho virus ‘dân chủ rởm’ thời đại dịch COVID-19? Hình thái kinh tế – xã hội Từ thời tiền sử đến chủ nghĩa tư bản: Nhân loại đã thức tỉnh như thế nào? Nhận thức mới về chủ nghĩa tư bản của Marx và Engels thời kỳ cuối đời Một góc nhìn về chế độ độc tài và sự ổn định của quốc gia Góc nhìn quốc tế: Việt Nam đang theo chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa tư bản? © Copyright 2021 – Redsvn.net
1614178347293.1.parquet/17389
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 18029, "url": "https://redsvn.net/vi-tri-chien-luoc-cua-bien-dong-va-viet-nam-trong-chinh-sach-huong-dong-cua-an-do/" }
133
perfectdriver – Trang 2 – Hội Sinh Viên Ngành Quản Trị Kinh Doanh Skip to content Hội Sinh Viên Ngành Quản Trị Kinh Doanh menu close Liên hệ Về chúng tôi Tác giả: perfectdriver bookmark_borderKinh doanh như thế nào để thành công? Posted on 2019-07-30 by perfectdriver Việc kinh doanh sẽ trở nên thuận lợi hơn rất nhiều, nếu bạn có nguồn vốn ổn định để đầu tư và xoay sở những vấn đề xảy ra trong công việc. Nhưng ngược lại, vốn ít nên kinh doanh gì để không sợ tổn thất mà còn mang lại lợi nhuận cao? Việc có một tiềm lực kinh tế vững chắc để đầu tư kinh doanh luôn là vấn đề rất quan trọng. Nhưng nếu không có một kế hoạch kinh doanh rõ ràng, và những hiểu biết nhất định về lĩnh vực mà mình dự định sẽ phát triển, sẽ rất dễ dẫn đến tình trạng thua lỗ và thất bại. Vậy tại sao, bạn không thử tìm kiếm một công việc khởi nghiệp chỉ với nguồn vốn ít nhưng lại đảm bảo được thành công lâu dài. Dưới đây, là một số gợi ý hữu ích giúp cho bạn có thể an tâm khởi nghiệp kinh doanh chỉ với nguồn vốn nhỏ. 1. Kinh doanh thức ăn, nước uống mang đi (takeaway) Ngày nay, xu hướng kinh doanh đồ ăn hay nước uống mang đi đã trở nên rất quen thuộc đối với mọi người. Nếu với số vốn nhỏ bạn không thể nào có thể thuê một mặt bằng lớn hay trả lương cho nhân viên hằng tháng tháng, thì lựa chọn tốt nhất là nên mua một chiếc xe nho nhỏ đặt tại gốc phố và kinh doanh đồ ăn, nước uống mang đi (cà phê, bánh mì, trà sữa, pizza…) Một trong những thuận lợi lớn cho ngành nghề này là bạn chỉ tốn ít chi phí đầu tư, lại linh hoạt thời gian và địa điểm bán, cơ sở vật chất khi làm việc cũng không quá cầu kỳ. Việc quan trọng mà bạn cần làm đó là chăm chút cho đồ ăn, thức uống chất lượng, vì một khi sản phẩm hợp với khẩu vị người dùng tự khắc họ sẽ tìm đến bạn, dù bất cứ nơi đâu. Ngày nay, người trẻ đặc biệt thích thưởng thức đồ ăn, nước uống mang đi, và còn dành thời gian review quảng cáo giúp cho người bán, điều đó giúp việc kinh doanh của bạn dễ dàng phát triển hơn. 2. Bán hàng online qua mạng xã hội Bất kỳ ai trong thời đại ngày nay đều sử dụng mạng xã hội, đặc biệt ở Việt Nam số lượng người sử dụng Internet mỗi ngày còn chiếm một tỷ lệ rất cao. Do đó, việc kinh doanh qua hình thức bán hàng online thường được nhiều người lựa chọn. Bạn có thể bán mỹ phẩm, quần áo, giày dép cho đến các loại cây cảnh, thực phẩm chức năng trên mạng xã hội, hình thức kinh doanh không cần quá nhiều vốn, chỉ cần bạn có nhiều thời gian và sự đầu tư nghiên cứu xu hướng người dùng ngày nay đang ưa chuộng mặt hàng nào nhất để kinh doanh, sẽ mau chóng giúp bạn thu về lợi nhuận nhanh chóng. 3. Kinh doanh tiệm giặc ủi Khi kinh tế ngày càng phát triển, áp lực công việc ngày càng nhiều nên đa phần mọi người đều không có nhiều thời gian dành cho việc giặc ủi. Đối tượng khách hàng, cần sử dụng dịch vụ có rất nhiều lứa tuổi khác nhau như sinh viên, công chức cán bộ, người lớn tuổi…Điều đó cho thấy, nếu lựa chọn kinh doanh tiệm giặc ủi bạn sẽ không e ngại về việc tìm kiếm khách hàng, hay đầu tư quá nhiều tiền vào các khoảng chi phí phát sinh bất chợt, mà vẫn có doanh thu ổn định. 4. Kinh doanh phụ kiện công nghệ Ngày nay, bất kỳ ai cũng có thể sở hữu cho mình những thiết bị công nghệ để sử dụng trong học tập và công việc. Các phụ kiện công nghệ lại vô cùng đa dạng về mẫu mã và chất lượng, mà đối tượng khách hàng có nhu cầu thì vô cùng lớn. Cho nên, đây là một trong những lĩnh vực rất tiềm năng cho những ai đang có ý định khởi nghiệp với số vốn nhỏ. Mặc khác, người tiêu dùng có xu hướng sử dụng các phụ kiện với mức giá vừa phải, không quá đắt đỏ nên bạn có thể không cần chi trả quá nhiều cho việc mua các thiết bị công nghệ giá cao để kinh doanh. Hơn nữa, các thiết bị công nghệ trải qua một thời gian luôn phải cập nhật, nâng cấp phiên bản mới, cho nên số lượng cứ thế tăng đều theo mỗi năm, người dùng cũng phải chạy theo thị trường để không bị lạc hậu. Cho nên, việc kinh doanh mua bán phụ kiện điện thoại là một dự định rất mang tính khả quan. 5. Mở các lớp học online trên mạng Nhiều người vì quá bận rộn nên không có thời gian đến học tại các trung tâm, vì vậy họ thường lựa chọn cách học online để tiết kiệm thời gian mà vẫn mang lại hiệu quả nhất định. Nếu bạn là người có kinh nghiệm, cũng như nắm vững kiến thức chuyên môn một ngành nghề nào đó, bạn hoàn toàn có thể mở các lớp học online để giảng dạy trên mạng và có thể thu được nguồn tiền ổn định. Điều bạn cần là một chiếc máy quay và các diễn đàn phù hợp để giới thiệu các khóa học online đến người học, qua những hình thức tương tác khác nhau. Vì vậy, không cần tốn quá nhiều tiền bạn cũng có thể hoàn thiện các bài học online ngay tại nhà và thu được nguồn tiền từ học viên đăng ký khóa học. Với những gợi ý mà chúng tôi đưa ra phía trên, thì vấn đề vốn ít nên kinh doanh gì đã không còn quá khó khăn đối với những ai đang có ý định bắt đầu tự lập tài chính. Mong rằng, với những định hướng và mục tiêu rõ ràng bạn sẽ lựa chọn cho mình một hình thức kinh doanh thông minh và sớm mang lại hiệu quả vượt xa dự đinh ban đầu. Chúc bạn may mắn! Posted in Quản trị kinh doanhTagged kinh doanh, lợi nhuân, vốn ít bookmark_borderNgành quản trị kinh doanh làm gì sau khi ra trường? Posted on 2019-07-29 by perfectdriver Rất nhiều bạn sinh viên đang theo học hoặc có ý định theo học ngành Quản trị kinh doanh đều có thắc mắc rằng sau khi ra trường, mình sẽ làm gì. Đây là những thắc mắc chính đáng, bởi vì mình cần phải biết rõ nghề nghiệp, tương lai của mình. Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn phần nào trả lời được cho câu hỏi Ngành quản trị kinh doanh làm gì sau khi ra trường? Sự phát triển của một đất nước có một phần ảnh hưởng rất lớn bởi sự phát triển của nền kinh tế. Và Việt Nam là một trong những nước có nền kinh tế đang trên đà phát triển mạnh. Dẫn chứng là sự xuất hiện của nhiều công ty, tập đoàn nước ngoài, có vốn đầu tư nước ngoài cùng nhiều công ty, doanh nghiệp trong nước. Đi cùng với đó chính là nhu cầu về nguồn nhân lực cả về số lượng lẫn chất lượng, đòi hỏi phải có nền tảng kiến thức, chuyên môn cao. Và để đáp ứng được điều này không thể không nhắc đến ngành quản trị kinh doanh. Quản trị kinh doanh là gì? Có rất nhiều định nghĩa đối với ngành Quản trị kinh doanh. Nhưng hiểu một cách cơ bản nhất, Quản trị kinh doanh là việc quản lý, đưa ra phương hướng hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp, bao gồm tất cả các lĩnh vực bên trong với mục đích duy trì hoạt động và mang về lợi nhuận. Quản trị kinh doanh sẽ đào tạo nên những nhà quản trị trong tương lai, chính vì thế, suốt quá trình học bạn sẽ có được những kiến thức rất rộng. Đó là những kiến thức cơ bản cùng các nguyên tắc hoạt động của các bộ phận, phòng ban trong công ty, giúp bạn có thể đưa ra được những quyết định đúng đắn cho công việc. Và bởi vì ngành học này sẽ cung cấp đa dạng các kiến thức cho nên cơ hội việc làm của bạn cũng sẽ rộng mở với nhiều vị trí, ngành nghề khác nhau. Tuy nhiên, lại không đi sâu vào một ngành nghề cụ thể cũng là điểm yếu mà bạn cần chú ý. Sau khi tốt nghiệp ngành Quản trị kinh doanh làm gì? Như đã đề cập ở trên, đây là ngành học được đào tạo kiến thức tổng quát, cho nên bạn có thể làm việc ở những ngành nghề, vị trí khác nhau. Sau khi ra trường, bạn có thể làm việc ở những lĩnh vực như Quản trị nguồn nhân lực, Quản trị tài chính, Quản trị sản xuất, Quản trị Marketing, Quản trị chuỗi cung ứng,… Cụ thể hơn là những vị trí như: Nhân viên kinh doanh, Nhân viên phòng nhân sự, Nhân viên Marketing, Nhân viên chăm sóc khách hàng,… và cơ hội thăng tiến lên những chức vụ cao hơn như Trưởng phòng, Giám đốc,… là điều hoàn toàn khả thi. Ngoài ra, bạn có thể tự thành lập công ty riêng, kinh doanh với số vốn ít hoặc học lên Cao học để trở thành Giảng viên,… cũng là một trong những công việc mà bạn có thể làm sau khi tốt nghiệp ngành Quản trị kinh doanh. Vậy có thể làm ở đâu với những công việc trên? Với những công việc, vị trí được đề cập như trên, bạn hoàn toàn có thể làm việc tại các công ty trong nước, các công ty, tập đoàn nước ngoài tại Việt Nam, các trường Cao đẳng, Đại học hoặc các nước trên thế giới. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất chính là bạn cần tạo cho mình một nền tảng kiến thức vững chắc. Ngoài những lý thuyết được học tại trường, bạn cần tích lũy thêm vốn kinh nghiệm bằng những công việc làm thêm, làm bán thời gian hoặc tự kinh doanh. Đây chính là cách nâng cao kiến thức, kinh nghiệm một cách hiệu quả. Ngoài ra, ngoại ngữ cũng là yếu tố quan trọng bạn cần chú ý. Khi thị trường hội nhập, việc có nhiều hơn một ngoại ngữ sẽ giúp bạn nâng cao cơ hội việc làm cũng như khả năng có những công việc, vị trí tốt hơn với mức lương cao hơn. Với những chia sẻ về ngành Quản trị kinh doanh làm gì sau khi ra trường trên đây hy vọng đã giúp bạn phần nào giải đáp được những thắc mắc của mình. Mặc dù xác định đúng ngành học mà mình yêu thích là điều quan trọng, nhưng chính những nổ lực, phấn đấu của bản thân trong quá trình học và làm việc mới là điều mang đến cho bạn sự thành công. Posted in Quản trị kinh doanhTagged nghề hot, việc làm bookmark_borderNên kinh doanh gì với số vốn ít Posted on 2019-07-27 by perfectdriver Bạn đam mê kinh doanh cũng như muốn tăng thêm nguồn thu nhập cho bản thân và gia đình? Bạn đang băng khoăn không biết nên kinh doanh gì với số vốn ít ỏi trong tay? Vậy cùng tham khảo một số ý tưởng kinh doanh dưới đây nhé. Kinh doanh là một trong những cách tăng thêm nguồn thu nhập một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, để đạt được điều đó, bạn cần xác định đúng mình muốn kinh doanh cái gì cũng như bắt kịp nhu cầu của thị trường đang thiếu. Với số vốn ít ỏi thì việc kinh doanh lại càng khó khăn hơn. Tuy nhiên, vẫn có những ý tưởng kinh doanh không cần quá nhiều vốn nhưng bạn vẫn có thể thành công với nó. Cùng tìm hiểu nhé. Kinh doanh quần áo online Kinh doanh quần áo online đã có và phát triển từ nhiều năm nay, nhất là trên các trang mạng xã hội như facebook, instagram,… Khi nhu cầu mặc đẹp của mọi người ngày một tăng cao thì đây chính là cơ hội rất tốt dành cho bạn. Kinh doanh online sẽ tiết kiệm được các khoảng chi phí như mặt bằng, nhân công,… bạn chỉ cần chuẩn bị vốn để nhập hàng về bán, số vốn ban đầu có thể chỉ từ 10 – 20 triệu. Bạn có thể nhập hàng từ các nguồn tại thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh hoặc Quảng Châu cũng là một trong những nguồn hàng đa dạng mẫu mã, chất lượng mà bạn có thể tham khảo nhé. Tuy nhiên, vẫn có rất nhiều người thất bại khi đi theo con đường kinh doanh này bởi vì họ chỉ làm theo bản năng mà không cập nhật đầy đủ kiến thức cần thiết. Cho nên, bạn hãy tự mình đầu tư thật tốt các kiến thức kinh doanh online trên các trang mạng xã hội cũng như tham khảo những người có kinh nghiệm. Đây là cách giúp bạn rút ra được những bài học cần thiết cho việc kinh doanh của mình. Kinh doanh đồ ăn vặt/ thức ăn online Ăn uống luôn là nhu cầu cần thiết của mọi người, đặc biệt trong cuộc sống bận rộn như hiện nay thì việc tự tay chuẩn bị những món ăn ngon, các đồ ăn vặt lại càng trở nên xa xỉ. Chính vì thế, kinh doanh đồ ăn vặt/ thức ăn online sẽ là ý tưởng tuyệt vời dành cho những ai đam mê việc nấu nướng cũng như có năng khiếu trong lĩnh vực này. Chỉ cần một số vốn nhỏ để chuẩn bị nguyên vật liệu, bạn không cần phải tốn chi phí mặt bằng, thuê nhân viên,… khi kinh doanh online. Bên cạnh đó, khi nào có khách đặt hàng bạn mới bắt tay vào thực hiện, cho nên bạn không phải lo đến việc ôm hàng, tồn vốn. Kinh doanh cây cảnh mini Cây cảnh mini để trang trí cho nhà cửa, văn phòng làm việc là lựa chọn của rất nhiều người. Ngoài việc mang đến vẻ đẹp, cái nhìn xanh mà những chậu cây cảnh mini còn là một yếu tố phong thủy rất tốt. Cho nên nếu bạn đang không biết kinh doanh gì thì đây là một gợi ý không tồi. Với số vốn nhỏ, bạn có thể lựa chọn hình thức kinh doanh online hoặc sử dụng chính ngôi nhà của mình làm địa điểm buôn bán. Vốn để nhập các loại cây cảnh mini này cũng không cao, chỉ dao động từ 10.000 – 50.000 đồng/ cây. Nguồn hàng cũng rất dễ kiếm, bạn có thể đến trực tiếp các khu vườn ươm hoặc tham gia các group bán sỉ/bán buôn các loại sen đá, xương rồng, … để xem xét và lựa chọn. Một gợi ý dành cho bạn là sau khi đã đi vào hoạt động ổn định, bạn nên nhập thêm những loại cây cảnh khác nhau để tăng thêm sự đa dạng cũng như lợi nhuận cho cửa hàng của mình. Trên đây là một số ý tưởng kinh doanh mà bạn có thể thực hiện chỉ với một số vốn nhỏ trong tay. Mặc dù việc bắt đầu kinh doanh một lĩnh vực nào đó sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thế nhưng nếu bạn thực sự có niềm đam mê và yêu thích, bạn sẽ thành công với nó. Hy vọng bài viết nên kinh doanh gì với số vốn ít ỏi trong tay này có ích với bạn. Posted in Quản trị kinh doanhTagged kinh doanh, việc làn bookmark_borderHiểu đúng nghề kinh doanh bất động sản là gì? Posted on 2019-07-17 by perfectdriver Cho dù bạn là một nhà đầu tư hay là một nhân viên mới bước vào nghề kinh doanh bất động sản thì việc hiểu đúng nghề kinh doanh bất động sản là gì đều rất quan trọng. Bất động sản hiện đang là lĩnh vực rất phát triển trong thị trường kinh doanh hiện nay. Hiện tại, có nhiều hình thức kinh doanh được phân chia theo nhiều đặc điểm khác nhau với nhiều phân khúc khách hàng như kinh doanh chung cư, biệt thự, nhà ở đất nền, các khu khách sạn cao cấp, condotel, … Vậy kinh doanh bất động sản là gì? Kinh doanh bất động sản hiện là một ngành nghề vô cùng “hot”, thu hút số lượng lớn nhân lực đi cùng với mức thu nhập đáng ngưỡng mộ. Theo như thống kê thì nhân viên kinh doanh bất động sản hiện là một trong những ngành nghề có mức lương cao nhất. Những người làm trong lĩnh vực này đòi hỏi phải có sự am hiểu lớn về ngành bất động sản cũng như có một cái miệng khéo léo, cùng cách nói chuyện duyên dáng để làm sao có thể thuyết phục được các nhà đầu tư rót vốn vào những khu đất tiềm năng. Đối với những nhà đầu tư lâu năm thì họ lại càng có nhiều yêu cầu cao, khắt khe hơn đối với người kinh doanh bất động sản cũng như người tư vấn của mình. Điều này có nghĩa rằng kinh doanh bất động sản chính là ngành nghề mà phải thuyết phục được các nhà đầu tư bỏ vốn vào các loại hình bất động sản khác nhau của công ty, nhằm mục đích phát triển chúng. Sau một thời gian, các loại hình bất động sản này sẽ tự phát sinh lợi nhuận do sự phát triển của thị trường, mang về lợi nhuận cho nhà đầu tư. Đây thường được gọi là những tài sản bị động. Tuy nhiên, đây là một nghề không hề dễ dàng. Bởi vì bạn phải thuyết phục bỏ ra một số tiền rất lớn, có thể là vài trăm triệu thậm chí là hàng chục tỷ đồng để đầu tư. Đồng nghĩa bạn phải mang đến cho họ niềm tin vững mạnh về một cuộc giao dịch có lời với lợi nhuận cao. Điều này đòi hỏi bạn phải có được những am hiểu về luật bất động sản cũng như sự biến động trên thị trường qua từng ngày. Để từ đó, bạn mới có đầy đủ kiến thức để tư vấn cho khách hàng của mình. Kinh doanh bất động sản cho những kiểu đầu tư nào? Nếu bạn vẫn nghĩ rằng kinh doanh bất động sản là hình thức mua bán, đầu tư vào nhà đất, các căn chung cư, nơi ở,… thì vẫn còn thiếu sót nhé. Bất động sản tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau như đầu tư trực tiếp vào bất động sản hoặc đầu tư vào cổ phiếu, chứng khoán. Những loại hình bất động sản này mang trong mình hai dòng chảy là dòng tiền và lãi vốn. Nếu như lãi vốn mang đến lợi nhuận bị động thì những nhà đầu tư thông minh sẽ ưu tiên đầu tư theo dòng tiền. Tức là họ sẽ nghiên cứu và đầu tư vào những sản phẩm bất động sản có tiềm năng phát triển trên thị trường, cái mà sẽ giúp luân chuyển dòng tiền một cách liên tục, mang về lợi nhuận cao hơn. Nhân viên kinh doanh bất động sản là ai? Họ là những người thường được biết đến với cái tên Nhân viên môi giới bất động sản. Nhiệm vụ của họ là cung cấp những dịch vụ, thông tin tốt nhất về những dự án bất động sản đến với khách hàng. Họ là những người quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của bất động sản cũng như đảm bảo cho các giao dịch được diễn ra thuận lợi và chuyên nghiệp nhất. Từ đó mang đến những lợi ích tối đa cho cả nhà kinh doanh bất động sản cũng như khách hàng. Chính vì thế là đội ngũ nhân viên kinh doanh bất động sản phải là những người được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp với đầy đủ các kiến thức chuyên môn để tư vấn cho khách hàng. Dựa vào kiến thức đó, họ sẽ tìm kiếm, kết nối với những khách hàng có nhu cầu mua bán, tư vấn và thuyết phục. Nhân viên kinh doanh sẽ được trả hoa hồng và thù lao tương xứng với giao dịch thành công của mình. Ngoài những kiến thức chuyên môn, để thành công với công việc này, nhân viên kinh doanh phải am hiểu các thủ tục pháp lý, công chứng, sang tên sổ đỏ,… Và chính họ sẽ là cầu nối giữa khách hàng và các chủ đầu tư sao cho mang đến lợi ích cho cả đôi bên. Nếu bạn yêu thích công việc này cũng như mong muốn có nguồn thu nhập lớn, bạn phải hiểu được những khó khăn, thách thức và áp lực trong ngành này là rất lớn. Tuy nhiên, chỉ cần có sự quyết tâm, niềm đam mê và ý chí không bỏ cuộc, bạn sẽ thành công với lựa chọn của mình. Trên đây là những thông tin về bất động sản cũng như kinh doanh bất động sản là gì. Hy vọng bạn đã phần nào hiểu được về nó cũng như những tiềm năng, cơ hội phát triển với ngành nghề này. Posted in Quản trị kinh doanhTagged bất động sản, nghề hot Điều hướng bài viết Newer postsnavigate_next Tìm kiếm cho: Bài viết mới OEM là gì? Những thông tin liên quan đến OEM Hợp đồng nguyên tắc là gì và những thông tin liên quan Chi phí chung là gì? Những thông tin liên quan đến chi phí chung Tìm hiểu công ty trách nhiệm hữu hạn tiếng anh là gì? Quản trị kinh doanh học trường nào tốt nhất ở Việt Nam hiện nay? Chuyên mục Kinh doanh ứng dụng Quản trị kinh doanh Thuật ngữ Việc làm Meta Đăng nhập RSS bài viết RSS bình luận WordPress.org keyboard_arrow_up Theme: Noto Simple
1614178347293.1.parquet/60083
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 15479, "url": "https://planet-diver.com/author/perfectdriver/page/2/" }
132.9
Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm trụ sở FAO, kêu gọi chấm dứt đói nghèo | Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam Toggle navigation TRANG CHỦ ĐỨC PHANXICÔ TIN GIÁO HỘI Hoàn vũ Việt Nam XÃ HỘI Bình luận Phóng sự Tin tức DCCT Các vị thánh Lịch sử Linh đạo Tin tức SUY NIỆM HỌC HỎI Kinh Thánh Tín lý Luân lý Bí tích – phụng vụ Giáo huấn xã hội Đời sống thánh hiến Giải đáp thắc mắc TÔNG ĐỒ Truyền giáo Đại phúc ĐMHCG Giới trẻ Di dân Bác ái Môi trường Giáo xứ DCCT VĂN KIỆN VÒNG TRÒN ĐỒNG TÂM Bạn đọc viết Tản mạn Từ Facebook Vòng tay nhân ái VIDEOS Trang chủ ĐỨC PHANXICÔ Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm trụ sở FAO, kêu gọi chấm dứt đói nghèo Thứ Tư, 18-10-2017 | 22:43:23 Chúng ta cần phải vượt qua những trở ngại: các cuộc xung đột và vấn đề thay đổi khí hậu. “Việc phản ánh về những ảnh hưởng của vấn đề an ninh lương thực đối với sự di chuyển của con người đồng nghĩa với việc trở lại đối với cam kết vốn đem lại sự thăng tiến cho FAO, để có thể đổi mới nó”, Đức Thánh Cha Phanxicô cho biết hôm 16 tháng 10 năm 2017. Những nhận xét của ĐTC Phanxicô đã được đưa ra trong chuyến thăm trụ sở chính của Tổ chức Lương Nông (FAO) tại Rome nhằm đánh dấu Ngày Lương Thực Thế giới. “Tình hình hiện nay đòi hỏi trách nhiệm lớn hơn ở tất cả các cấp độ, không chỉ để nhằm đảm bảo những sản phẩm cần thiết hoặc phân phối công bằng những thành quả của trái đất … nhưng trên hết là để nhằm đảm bảo quyền của tất cả mọi người phải được nuôi dưỡng theo những nhu cầu của họ”, ĐTC Phanxicô giải thích. ĐTC Phanxicô lưu ý rằng tất cả mọi người phải được có khả năng tham gia vào những quyết định vốn có ảnh hưởng đến họ và đồng thời có thể nhận ra những khát vọng của họ mà không cần phải xa rời những người thân yêu của mình. “Đối mặt với một mục đích quan trọng như vậy, sự tín nhiệm đối với toàn bộ hệ thống quốc tế hiện đang bị đe dọa”, ĐTC Phanxicô cảnh báo. ĐTC Phanxicô tiếp tục nhấn mạnh rằng sự tương quan giữa tình trạng đói nghèo và vấn đề di cư “chỉ có thể được giải quyết nếu chúng ta đi đến tận gốc rễ của vấn đề”. Và sau đó ĐTC Phanxicô cũng đã đề xuất hai trở ngại chính: các cuộc xung đột và vấn đề biến đổi khí hậu. Về vấn đề xung đột, ĐTC Phanxicô cho biết rằng luật pháp quốc tế cung cấp các phương tiện để giải quyết vấn đề này. Ngài kêu gọi việc đối thoại và giải trừ quân bị. Về vấn đề biến đổi khí hậu, ĐTC Phanxicô đã cảnh báo về “thái độ thờ ơ đối với cân bằng vốn mỏng manh của các hệ sinh thái”. ĐTC Phanxicô kêu gọi việc “thay đổi lối sống, qua việc tận dụng các nguồn lực, trong các tiêu chí sản xuất, bao gồm việc tiêu dùng, liên quan đến thực phẩm, bao gồm sự gia tăng thiệt hại và lãng phí”. Đức Thánh Cha đã trích dẫn tầm quan trọng của Hiệp định Toàn cầu về vấn đề Di cư An toàn, Chính quy và Trật tự hiện đang được tiến hành tại Liên hợp quốc. Và Ngài cũng đã nhắc nhở các thính giả về tiếng kêu gào của “các anh em bị gạt ra bên ngoài lề và bị xã hội loại trừ: “Vì xưa Ta đói, Ta là khách lạ, Ta trần truồng, Ta đau yếu, Ta bị giam hãm trong các trại tị nạn”. Dưới đây là bài phát biểu của ĐTC Phanxicô: Kính thưa ngài Tổng giám đốc, Kính thưa các nhà chức trách, Anh chị em thân mến, Tôi muốn cảm ơn ngài Tổng giám đốc, Giáo sư José Graziano da Silva, vì lời mời và lời chúc mừng của ông, và tôi cũng gởi lời chào nồng nhiệt tới các nhà chức trách cùng đồng hành với chúng tôi, cũng như các vị đại diện của các quốc gia thành viên và những người có khả năng sát cánh với các văn phòng của FAO trên toàn thế giới. Tôi xin gửi lời chào đặc biệt đến các vị Bộ trưởng Nông nghiệp của các quốc gia G7 hiện diện đây, theo sau hội nghị thượng đỉnh mà trong đó họ đã thảo luận về các vấn đề vốn đòi hỏi trách nhiệm không chỉ liên quan đến vấn đề phát triển và sản xuất mà còn đối với cộng đồng quốc tế nói chung. 1. Dịp kỷ niệm Ngày Thực phẩm Thế giới này kết hợp mỗi người chúng ta cùng nhau nhớ lại rằng vào ngày 16 tháng 10 năm 1945, khi các chính phủ, với ý định xoá bỏ vấn đề nghèo đói trên toàn thế giới, thông qua sự phát triển của ngành nông nghiệp, đã sáng lập nên FAO. Đó quả là một giai đoạn của tình trạng mất an ninh lương thực trầm trọng và những sự thay đổi lớn của nhân loại, với hàng triệu người phải tìm kiếm một nơi để tồn tại sau những đau khổ và nghịch cảnh do chiến tranh gây ra. Xét về khía cạnh này, việc phản ánh về những ảnh hưởng của vấn đề an ninh lương thực đối với sự di chuyển của con người đồng nghĩa với việc trở lại đối với cam kết vốn đem lại sự thăng tiến cho FAO, để có thể đổi mới nó. Tình hình hiện nay đòi hỏi trách nhiệm lớn hơn ở tất cả các cấp độ, không chỉ để nhằm đảm bảo những sản phẩm cần thiết hoặc phân phối công bằng những thành quả của trái đất – nghĩa vụ này phải được coi là một sự đảm bảo – nhưng trên hết là để nhằm đảm bảo quyền của tất cả mọi người phải được nuôi dưỡng theo những nhu cầu của họ, cũng như việc tham gia vào những quyết định vốn có ảnh hưởng đến họ và đồng thời có thể nhận ra những khát vọng của họ mà không cần phải xa rời những người thân yêu của mình. Đối mặt với một mục đích quan trọng như vậy, sự tín nhiệm đối với toàn bộ hệ thống quốc tế đang bị đe dọa. Chúng ta biết rằng việc hợp tác hiện đang ngày càng được quyết định bởi các cam kết không công bằng, vốn hiện vẫn hạn chế sự viện trợ trong những trường hợp khẩn cấp. Thậm chí những cái chết do đói nghèo hoặc việc từ bỏ đất đai của chính mình chính là những tin tức có thể nghe hàng ngày, vốn có nguy cơ có thể gặp phải sự thờ ơ. Vì vậy, cần khẩn trương tìm ra những đường lối mới, biến đổi các khả năng sẵn có đối với chúng ta trở thành một sự bảo đảm vốn cho phép mỗi người nhìn về tương lai với một sự tin tưởng vững vàng chứ không chỉ với một sự mong muốn. Viễn cảnh của các mối quan hệ quốc tế cho thấy khả năng hiện đang ngày càng gia tăng đối với việc đưa ra những câu trả lời đối với những mong đợi của đại gia đình nhân loại, cũng như với sự đóng góp của khoa học và công nghệ, vốn đang nghiên cứu những vấn đề này, đề xuất các giải pháp thích hợp. Tuy nhiên, ngay cả những phát triển mới này cũng không thành công trong việc xóa bỏ sự loại trừ đối với phần lớn số dân trên thế giới: có biết bao nhiêu người là nạn nhân của tình trạng suy dinh dưỡng, các cuộc chiến tranh, cũng như vấn đề biến đổi khí hậu? Có bao nhiêu người thiếu công ăn việc làm cũng như những vật dụng thiết yếu, và buộc phải rời bỏ đất đai của mình, và đồng thời có nguy cơ trở thành nạn nhân của nhiều hình thức bóc lột khủng khiếp? Việc bình ổn vật giá công nghệ phục vụ phát triển chắc chắn là một con đường cần phải thực hiện, với điều kiện nó dẫn đến các hành động cụ thể nhằm giảm số lượng những người phải chịu cảnh đói nghèo hoặc nhằm điều tiết hiện tượng di dân cưỡng bức. 2. Mối tương quan giữa tình trạng đói nghèo và vấn đề di cư chỉ có thể được giải quyết nếu chúng ta đi đến tận gốc rễ của vấn đề. Về vấn đề này, các nghiên cứu do Liên Hợp Quốc tiến hành cũng như nhiều tổ chức xã hội dân sự khác đều đồng ý rằng có hai trở ngại chính cần phải được khắc phục: các cuộc xung đột và vấn đề biến đổi khí hậu. Làm thế nào để có thể khắc phục các cuộc xung đột? Luật pháp quốc tế cho chúng ta các phương tiện để ngăn chặn hoặc giải quyết một cách nhanh chóng, tránh việc kéo dài cũng như làm sản sinh ra nạn đói kém và phá hoại đối với cơ cấu xã hội. Chúng ta hãy nghĩ đến những người bị ảnh hưởng bởi các cuộc chiến tranh kéo dài hàng thập kỷ, vốn có thể tránh được hoặc ít nhất là được chấm dứt, và thay vào đó làm nảy sinh những hậu quả tai hại bao gồm tình trạng mất an ninh lương thực cũng như việc người dân bị buộc phải di dời. Cần phải có thiện chí và đối thoại để kiềm chế các cuộc xung đột và cần phải đưa ra một cam kết mạnh mẽ đối với việc giải trừ quân bị từ từ và có hệ thống theo Hiến chương Liên Hợp Quốc và đồng thời khắc phục tai họa của tình trạng buôn bán vũ khí. Giá trị của nó là gì để tố cáo thực tế là hàng triệu người là nạn nhân của nạn đói và suy dinh dưỡng do xung đột nếu như chúng ta không nỗ lực làm việc hiệu quả cho hòa bình cũng như việc giải trừ vũ khí? Về vấn đề biến đổi khí hậu, chúng ta sẽ thấy những hậu quả mỗi ngày. Nhờ vào kiến thức khoa học, chúng ta biết những vấn đề này sẽ phải đối mặt như thế nào; và cộng đồng quốc tế đã đưa ra các công cụ pháp lý cần thiết, chẳng hạn như Hiệp định Paris, tuy nhiên một số quốc gia đang rút lui. Đã có sự tái xuất hiện của thái độ thờ ơ đối những sự cân bằng vốn mỏng manh của các hệ sinh thái, sự thừa nhận có khả năng thao túng và kiểm soát đối với các nguồn tài nguyên hạn hẹp của hành tinh, và sự tham lam vì lợi nhuận. Do đó, cần phải có những nỗ lực để có được một sự đồng thuận cụ thể và tích cực như chúng ta muốn tránh những ảnh hưởng bi thảm hơn, vốn sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến những người nghèo nhất và bất lực nhất. Chúng ta được mời gọi đề xuất thay đổi lối sống, trong việc sử dụng các nguồn lực, trong các tiêu chí sản xuất, bao gồm việc tiêu dùng, liên quan đến thực phẩm, liên quan đến sự gia tăng tổn thất và lãng phí. Chúng ta không thể bỏ bổn phận của chính mình để nói rằng “ai đó sẽ lo chuyện đó”. Tôi thiết nghĩ đây chính là những điều kiện tiên quyết cho bất kỳ cuộc thảo luận nghiêm túc nào về vấn đề an ninh lương thực liên quan đến hiện tượng di cư. Chắc chắn chiến tranh và việc biến đổi khí hậu sẽ gây ra tình trạng đói nghèo, do đó, chúng ta hãy việc xem nó như thể đó là một căn bệnh không thể chữa khỏi. Các ước tính gần đây do các chuyên gia của quý vị cung cấp dự đoán sự gia tăng sản lượng ngũ cốc trên toàn cầu đến các mức độ cho phép cung cấp các nguồn dự trữ toàn cầu nhất quán hơn. Điều này mang lại hy vọng, và đồng thời chứng tỏ rằng nếu chúng ta chú ý đến những nhu cầu và đồng thời chống lại sự đầu cơ, kết quả sẽ không thiếu. Trên thực tế, các nguồn lương thực không còn nhiều nữa bị phó mặc cho sự đầu cơ, vốn chỉ tính đến sự thịnh vượng kinh tế của các nhà sản xuất lớn hoặc liên quan đến tiềm năng tiêu thụ mà không phải là nhu cầu thực sự của người dân. Điều này dẫn đến các cuộc xung đột cũng như sự lãng phí, đồng thời làm gia tăng số lượng những người nghèo nhất trên trái đất đang phải tìm kiếm một tương lai bên ngoài các quốc gia xuất xứ của họ. 3. Xem xét đến tất cả những điều này, chúng ta có thể và phải thay đổi định hướng (xem Thông điệp Laudato Si, các số 53; 61; 163; 202). Đối mặt với nhu cầu lương thực hiện đang ngày càng gia tăng, quả thực không thể thiếu được những thành quả có sẵn của đất đai đối với tất cả mọi người. Đối với một số, nó sẽ đủ để giảm số miệng ăn và theo cách này để có thể giải quyết vấn đề; nhưng đó lại là một giải pháp sai lầm nếu như chúng ta nghĩ đến mức độ lãng phí thực phẩm cũng như các mô hình tiêu dùng vốn lãng phí nhiều nguồn lực. Việc cắt giảm thì dễ dàng; chia sẻ thay vì yêu cầu thay đổi, và đây chính là một sự đòi buộc. Do đó tôi đặt ra – và tôi cũng đặt ra cho toàn thể quý vị – câu hỏi này: có quá nhiều điều để nghĩ đến việc giới thiệu vào ngôn ngữ của việc hợp tác quốc tế loại tình yêu, được hiểu như là một sự cho đi nhưng không đòi hỏi sự đáp trả, sự bình đẳng trong đàm phán, tinh thần liên đới, văn hoá cho đi, tinh thần huynh đệ, lòng thương xót ? Trong thực tế, những từ ngữ này thể hiện nội dung thực tế của thuật ngữ “nhân đạo”, vốn được sử dụng rộng rãi ở cấp quốc tế. Việc yêu thương anh em mình và để làm điều đó trước tiên, không cần chờ đợi để được đáp lại; đây chính là một nguyên tắc Phúc Âm vốn có thể nhận thấy trong nhiều nền văn hoá và tôn giáo, và trở thành nguyên tắc của nhân loại trong ngôn ngữ quan hệ quốc tế. Hy vọng rằng vấn đề ngoại giao và các thể chế đa phương nuôi dưỡng và tổ chức năng lực này để yêu thương, để nó trở thành cách thức chủ yếu nhằm bảo đảm không chỉ đối với vấn đề an ninh lương thực mà còn về vấn đề an ninh con người theo ý nghĩa toàn cầu. Chúng ta không thể chỉ làm việc nếu như những người khác làm như vậy, và chúng ta cũng không thể tự giới hạn mình đối với việc tỏ lòng thương hại, bởi vì sự thương hại chỉ dừng lại ở việc viện trợ khẩn cấp, trong khi tình yêu truyền cảm hứng cho công lý và hết sức cần thiết cho việc thực hiện trật tự công bằng xã hội giữa các thực tại đa dạng vốn đang đứng trước nguy cơ đối đầu lẫn nhau. Yêu thích có nghĩa là đóng góp để mọi quốc gia gia tăng sản xuất và tự cung tự cấp. Yêu thương có nghĩa là đóng góp để mọi quốc gia gia tăng sản xuất và đạt đến việc tự cung tự cấp. Yêu thương chuyển thành tư duy của các mô hình phát triển và tiêu dùng mới, đồng thời áp dụng các chính sách vốn không làm trầm trọng thêm tình hình của những khu vực ít tiến bộ hơn hoặc việc phụ thuộc vào bên ngoài của họ. Yêu thương có nghĩa là không tiếp tục chia rẽ gia đình nhân loại thành những thứ nhiều hơn họ cần, và những người thiếu những điều cần thiết. Những nỗ lực của vấn đề ngoại giao đã cho chúng ta thấy, cũng trong những sự kiện gần đây, rằng khả năng để có thể chấm dứt việc nhờ cậy đến việc sử dụng các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt. Tất cả chúng ta đều ý thức được khả năng phá huỷ của các loại công cụ này. Nhưng liệu chúng ta có nhận thức được những ảnh hưởng của tình trạng đói nghèo cũng như sự loại trừ hay không? Làm thế nào để chúng ta có thể ngăn chặn mọi người khỏi việc sẵn sàng mạo hiểm tất cả mọi thứ, cả thế hệ có thể biến mất vì họ thiếu lương thực hàng ngày, hoặc là nạn nhân của vấn đề bạo lực hoặc thay đổi khí hậu? Họ dẫn đầu nơi mà họ nhìn thấy ánh sáng hoặc cảm nhận được hy vọng của cuộc sống. Họ không thể bị ngăn cản bởi các rào cản về thể chất, kinh tế, lập pháp hoặc tư tưởng: chỉ có việc ứng dụng nhất quán đối với nguyên tắc nhân loại mới có thể làm được như vậy. Mặt khác, chúng ta nhận thấy rằng việc viện trợ phát triển công cộng bị cắt giảm và hoạt động của các thể chế đa phương còn hạn chế, trong khi đó các hiệp định song phương được sử dụng để hợp tác dưới sự phối kết hợp để thực hiện các chương trình nghị sự và liên minh cụ thể hoặc, chỉ đơn giản, đối với sự yên ổn tạm thời. Ngược lại, việc quản lý sự di chuyển của con người đòi hỏi hành động liên chính phủ phối hợp và có hệ thống phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế hiện có, và tràn ngập với tình yêu và sự khôn ngoan. Mục tiêu của nó là một cuộc gặp gỡ của các dân tộc vốn làm phong phú cho tất cả các quốc gia và đồng thời tạo ra sự hiệp nhất và đối thoại, chứ không phải là việc loại trừ hoặc tình trạng dễ bị tổn thương. Ở đây, cho phép tôi tham gia cuộc tranh luận về ttình trạng dễ bị tổn thương, vốn gây ra sự chia rẽ ở cấp độ quốc tế khi nói đến những người nhập cư. Một người dễ bị tổn thương là người đang ở trong tình trạng thấp kém và không thể tự bảo vệ mình, một người không có các phương tiện, hay đúng hơn là phải chịu đựng sự loại trừ. Điều này khiến do anh ta bị khống chế bởi bạo lực, do hoàn cảnh tự nhiên hoặc, thậm chí tệ hơn, do sự thờ ơ, sự bất khoan dung và thậm chí là thù hận. Trong điều kiện này, cần phải xác định ra các nguyên nhân để có thể hành động với năng lực cần thiết. Nhưng không thể chấp nhận một điều rằng, để tránh việc cam kết, người ta phải tự tránh đằng sau những lối ngụy biện vốn không tôn trọng vấn đề ngoại giao, mà thay vào đó là giảm nó xuống thành “nghệ thuật của sự có thể” thành một sự thực hiện khô khan để biện minh cho thói ích kỷ cũng như tính ù lì. Hy vọng rằng tất cả điều này sẽ được tính đến trong việc phát triển Hiệp định Toàn cầu về vấn đề Di cư An toàn, Chính quy và Trật tự, hiện đang được tiến hành tại Liên Hợp Quốc. 4. Chúng ta hãy lắng nghe tiếng kêu gào của rất nhiều anh em bị gạt ra ngoài lề và bị xã hội loại trừ: “Vì xưa Ta đói, Ta là khách lạ, Ta trần truồng, Ta đau yếu, Ta bị giam hãm trong các trại tị nạn”. Đó là một sự đòi buộc đối với vấn đề công lý, chứ không phải là một lý do hoặc một lời kêu gọi khẩn cấp. Cần có một cuộc đối thoại rộng rãi và chân thành ở tất cả mọi cấp độ, để các giải pháp tốt nhất có thể được tìm ra và mối quan hệ mới được nuôi dưỡng giữa các nhân tố khác nhau trên trường quốc tế, được đặc trưng bởi tinh thần trách nhiệm, tinh thần liên đới và hiệp thông với nhau. Cái ách của sự khốn khổ gây ra bởi việc bị buộc phải di dời hết sức bi thảm của những người di cư thường có thể được loại bỏ thông qua việc phòng ngừa bằng các dự án phát triển vốn tạo ra công việc và khả năng ứng phó với các cuộc khủng hoảng môi trường. Chi phí cho việc phòng chống thấp hơn nhiều so với những ảnh hưởng của tình trạng suy thoái đất đai hoặc vấn đề ô nhiễm nguồn nước, các vụ tai hoạ vốn gây khó khăn cho các trung tâm thần kinh của hành tinh, nơi mà đói nghèo chính là một định luật duy nhất, bệnh tật hiện đang ngày càng gia tăng và tuổi thọ con người đang có chiều hướng suy giảm. Các sáng kiến đang được thực hiện rất nhiều, và hết sức đáng mừng. Tuy nhiên, những điều này hiện vẫn chưa đủ: cần khẩn trương tiếp tục phát huy những nỗ lực mới và đồng thời tài trợ cho các chương trình chống nghèo đói và cơ cấu theo một cách thức hiệu quả hơn và hứa hẹn hơn. Tuy nhiên, mặc dù mục đích là để nhằm thúc đẩy nền nông nghiệp đa dạng và hiệu quả, có tính đến nhu cầu thực sự của một quốc gia, tuy nhiên điều đó không phải là hợp pháp để loại bỏ đất canh tác khỏi người dân, cho phép việc cướp đất (acaparamiento de tierras) để tiếp tục có lợi nhuận, đôi khi với sự đồng lõa của những người mà lẽ ra phải bảo vệ lợi ích của người dân. Nỗ lực làm việc vì lợi ích của các nhóm nhỏ trong dân cư, cũng như việc sử dụng viện trợ bên ngoài một cách không phù hợp, ủng hộ tham nhũng, hoặc theo cách phi pháp, cần phải được loại bỏ. Giáo hội Công giáo, với các cơ quan của mình, và với kiến thức trực tiếp và cụ thể về các tình huống phải đối mặt hoặc các nhu cầu cần phải được đáp ứng, mong muốn tham gia trực tiếp vào nỗ lực này nhờ sứ mạng của mình, vốn dẫn Giáo hội đến việc yêu thương tất cả mọi người và đòi buộc Giáo hội phải nhắc nhở những ai chịu trách nhiệm trên phương diện quốc gia hay quốc tế về nghĩa vụ quan trọng hơn bất cứ điều nào khác để đáp ứng các nhu cầu của những người nghèo nhất. Tôi hy vọng rằng mỗi người có thể khám phá, trong sự thinh lặng của đức tin hoặc sự xác tín của mình, những động cơ, những nguyên tắc cũng như sự đóng góp để troa cho FAO và các tổ chức liên chính phủ sự can đảm để cải thiện và làm việc không mệt mỏi vì lợi ích của đại gia đình nhân loại. Xin cám ơn tất cả quý vị! Minh Tuệ chuyển ngữ × Thông tin Đóng Đồng ý ` Thông tin Chia sẻ Lời Chúa Tìm kiếm Bài giảng- Thánh Lễ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Facebook DÒNG CHÚA CỨU THẾ VIỆT NAM Facebook DÒNG CHÚA CỨU THẾ VIỆT NAM Facebook DÒNG CHÚA CỨU THẾ VIỆT NAM Tin mới Để tha thứ cho nhau trong gia đình đừng quên 9 điều này! "Ban những của tốt lành" Suy niệm Lời Chúa - Thứ Năm Tuần 1 Mùa Chay || 25/02/2021 Đức Thánh Cha gửi điện thư chia buồn về vụ tấn công ở Congo Tòa Thánh tái khẳng định giải trừ vũ khí là mệnh lệnh đạo đức Tòa Thánh kêu gọi vắc xin Covid-19 cho tất cả Các lãnh đạo Công giáo kêu gọi Liên minh châu Âu tăng tốc chích ngừa vắc xin Hội đồng giám mục Đức có nữ Tổng Thư ký đầu tiên Đức cha Leo Dalmao lên án việc phá hoại các nơi thờ phượng ở Basilan "Con Người sẽ là một dấu lạ" Suy niệm Lời Chúa - Thứ Tư Tuần 1 Mùa Chay || 24/02/2021 ĐTC nhìn nhận nhân đức anh hùng của 3 nữ tu truyền giáo chết vì dịch Ebola ở Congo Tòa Thánh tham dự khóa họp thứ 46 của Hội đồng Nhân quyền LHQ ĐTC Phanxicô mời gọi hãy truyền ngọn lửa “tình yêu thương xót” của Chúa Giêsu Tòa Thánh kêu gọi tái khởi động chủ nghĩa đa phương sau Covid Công giáo Myanmar tuần hành vì hòa bình; các giám mục kêu gọi đối thoại, chấm dứt bạo lực Giáo hội Paraguay tố cáo tình trạng sống tồi tệ của các tù nhân "Biết rõ anh em cần gì" Suy niệm Lời Chúa - Thứ Ba Tuần 1 Mùa Chay || 23/02/2021 ĐTC Phanxicô tôn vinh sự hy sinh của các nhân viên y tế đã chết trong đại dịch Covid-19 Bộ Phong thánh nhìn nhận phép lạ nhờ lời chuyển cầu của chị Armi Barelli Đức cha Crociata: Châu Âu cần một Mùa Chay của Thần Khí Các Giám mục Pháp ủng hộ các trường đại học hoạt động bình thường trở lại Liên kết Vatican HĐGM Việt Nam CSsR Đức Me TV TTMV DCCT Nhà sách Đức Mẹ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Giáo Xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp TRANG CHỦ | ĐỨC PHANXICÔ | TIN GIÁO HỘI | XÃ HỘI | DCCT | SUY NIỆM | HỌC HỎI | TÔNG ĐỒ | VĂN KIỆN | VÒNG TRÒN ĐỒNG TÂM | VIDEOS | © 2015 Bản quyền thuộc về Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam Liên hệ: chuacuuthe1732@gmail.com
1614178347293.1.parquet/65481
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 18667, "url": "http://chuacuuthe.com/duc-thanh-cha-phanxico-vieng-tham-tru-so-fao-keu-goi-cham-dut-doi-ngheo/" }
132.3
DVD-RW – Wikipedia tiếng Việt DVD-RW Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Bước tới điều hướng Bước tới tìm kiếm Bài viết này không được chú giải bất kỳ nguồn tham khảo nào. Mời bạn giúp cải thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích cho từng nội dung cụ thể trong bài viết tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. (tháng 12 năm 2019) Dữ liệu nhúng: Đĩa DVD-R (cũng áp dụng cho DVD + R) được ghi một phần. Dữ liệu được ghi vào đĩa bằng tia laser. DVD ghi và DVD ghi nhiều lần là công nghệ ghi đĩa quang. Cả hai thuật ngữ đều mô tả các đĩa quang DVD có thể được ghi bằng máy ghi DVD, trong khi chỉ các đĩa 'có thể ghi lại' mới có thể xóa và ghi lại dữ liệu nhiều lần. Dữ liệu được ghi vào đĩa bằng laser, thay vì dữ liệu được 'đưa/nhấn' vào đĩa trong quá trình sản xuất, như DVD-ROM. Việc ghi theo kiểu đưa/nhấn được sử dụng trong sản xuất hàng loạt, chủ yếu để phân phối video gia đình. Giống như CD-R, DVD có thể ghi sử dụng thuốc nhuộm để lưu trữ dữ liệu. Trong quá trình đốt cháy một bit, cường độ của tia laser ảnh hưởng đến tính chất phản xạ của thuốc nhuộm bị đốt cháy. Bằng cách thay đổi cường độ laser nhanh chóng, dữ liệu mật độ cao được ghi trong các rãnh một cách chính xác. Vì các rãnh ghi được làm bằng thuốc nhuộm tối, mặt dữ liệu của đĩa DVD có thể ghi có màu riêng biệt. DVD bị cháy có cơ hội không đọc được cao hơn so với DVD bị ép, do sự khác biệt về tính chất phản chiếu của thuốc nhuộm so với chất nền nhôm của đĩa ép. Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn] Bài viết này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn. x t s Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=DVD-RW&oldid=56976260” Thể loại: Sơ khai DVD Thể loại ẩn: Hoàn toàn không có nguồn tham khảo Tất cả bài viết sơ khai Trình đơn chuyển hướng Công cụ cá nhân Chưa đăng nhập Thảo luận cho địa chỉ IP này Đóng góp Mở tài khoản Đăng nhập Không gian tên Bài viết Thảo luận Biến thể Giao diện Đọc Sửa đổi Sửa mã nguồn Xem lịch sử Thêm Tìm kiếm Xem nhanh Trang Chính Bài viết chọn lọc Tin tức Bài viết ngẫu nhiên Thay đổi gần đây Phản hồi lỗi Quyên góp Tương tác Hướng dẫn Giới thiệu Wikipedia Cộng đồng Thảo luận chung Giúp sử dụng Liên lạc Công cụ Các liên kết đến đây Thay đổi liên quan Trang đặc biệt Liên kết thường trực Thông tin trang Trích dẫn trang này Khoản mục Wikidata In/xuất ra Tạo một quyển sách Tải về dưới dạng PDF Bản để in ra Ngôn ngữ khác English 한국어 Kapampangan Sửa liên kết Trang này được sửa đổi lần cuối vào ngày 12 tháng 12 năm 2019 lúc 07:05. Văn bản được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự; có thể áp dụng điều khoản bổ sung. Với việc sử dụng trang web này, bạn chấp nhận Điều khoản Sử dụng và Quy định quyền riêng tư. Wikipedia® là thương hiệu đã đăng ký của Wikimedia Foundation, Inc., một tổ chức phi lợi nhuận. Quy định quyền riêng tư Giới thiệu Wikipedia Lời phủ nhận Phiên bản di động Nhà phát triển Thống kê Tuyên bố về cookie
1614178347293.1.parquet/149662
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 2582, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki/DVD-RW" }
132.3
Tư duy hài hòa, uyển chuyển, có lý có tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh – Đoàn thanh niên – Hội sinh viên Trường Cao đẳng Nghề Cần Thơ Đoàn thanh niên – Hội sinh viên Trường Cao đẳng Nghề Cần Thơ Tâm trong – Trí sáng – Hoài bảo lớn Trang chủ Tin Thanh Niên Hoạt động Đoàn Hoạt động Hội Học tập – Nghiên cứu Cơ khí – Xây dựng Công nghệ ô tô Công nghệ thông tin Điện – Điện tử Kế toán Khác Thư viện Góc việc làm Home/Theo chân Bác/Tư duy hài hòa, uyển chuyển, có lý có tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh Tư duy hài hòa, uyển chuyển, có lý có tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh Phong cách tư duy Hồ Chí Minh gồm nhiều nội dung, trong đó phong cách tư duy hài hòa, uyển chuyển, có lý có tình là nét đặc sắc về phong cách tư duy của Người. Phong cách tư duy đặc sắc này có ý nghĩa chỉ đạo hiện thực to lớn đối với các cấp lãnh đạo và đối với mỗi cá nhân chúng ta trong giải quyết các vấn đề thực tiễn của cuộc sống hôm nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với Anh hùng và Chiến sĩ thi đua nông nghiệp, năm 1959 Trước hết, sự thể hiện rõ nhất của phong cách tư duy này ở Bác Hồ là người luôn biết xuất phát từ cái chung, nhân loại, từ những chân lý phổ biến để nhận thức và lý giải những vấn đề của thực tiễn. Người đã từng viết: “Tuy phong tục mỗi dân một khác, nhưng có một điều thì dân nào cũng giống nhau: Ấy là dân nào cũng ưa sự lành và ghét sự dữ”1. Trong công tác đối ngoại, để đàm phán, vận động thuyết phục đối phương đồng thuận, Bác Hồ thường lập luận trên cơ sở nguyên tắc về tính đồng nhất của nguyên lý. Điều này được thể hiện ở nhiều bài nói, bài viết của Người, đặc biệt là trong thư gửi những người bạn Pháp ở Đông Dương năm 1946. Bằng lập luận chặt chẽ, Người đã phân tích một cách sâu sắc cho những người bạn Pháp thấy rõ lòng yêu nước, yêu độc lập tự do của người Pháp và người Việt đều giống nhau. Do đó, các bạn người Pháp ủng hộ lý tưởng độc lập tự do của nhân dân Việt Nam. Bởi vì, đó là lý tưởng của cả người Việt và người Pháp. Về vấn đề hệ trọng này, Người đã viết: “Các bạn yêu nước Pháp của các bạn và muốn nó độc lập. Các bạn yêu đồng bào của các bạn và muốn họ được tự do… Chúng tôi cũng phải được phép yêu nước của chúng tôi và muốn nó độc lập chứ! Chúng tôi cũng phải được phép yêu đồng bào chúng tôi và muốn họ được tự do chứ! Cái mà các bạn coi là lý tưởng cũng phải là lý tưởng của chúng tôi”2. Với phong cách tư duy này, Bác Hồ luôn gắn kết nhuần nhuyễn, biện chứng giữa lý tưởng cách mạng với đạo đức nhân văn. Điều này được thể hiện rõ trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến (ngày 20/12/1946) của Người. Bản thân Lời kêu gọi có sức mạnh giục giã như lời hịch của núi sông, thôi thúc mọi người cầm vũ khí, đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, nhưng lại được viết bằng những lời lẽ rất hòa bình, nhân danh chính nghĩa mà chiến đấu, không hề có một chữ nào nói đến hận thù và chém giết. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, Người đã nhiều lần kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, anh dũng chiến đấu, kiên quyết đánh đuổi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Song trong các lời kêu gọi ấy, Người luôn đề cao tình đoàn kết, lòng biết ơn và sự kính trọng về sự giúp đỡ của nhân dân tiến bộ Pháp và nhân dân tiến bộ Mỹ. Trong nhiều bài nói, bài viết, Người đã chân thành cảm ơn hàng vạn thanh niên, sinh viên, hàng ngàn nhà khoa học, văn nghệ sĩ Mỹ đã rầm rộ biểu tình chống chiến tranh xâm lược Việt Nam của Chính phủ Mỹ. Người nhiệt liệt ca ngợi những tấm gương anh dũng hy sinh vì hòa bình của nhân dân Mỹ như cụ bà Henga Hécdơ và các chiến sĩ hòa bình Noman Morixơn, Rôgiơ Lapotơ, Xilin Gian Caoxki. Đặc biệt, Người đã ví sự đoàn kết đấu tranh của nhân dân hai nước Việt – Mỹ chống chiến tranh xâm lược Việt Nam của bè lũ hiếu chiến Mỹ như hai mũi giáp công. Người khẳng định: “Nhân dân Mỹ đánh từ trong ra, nhân dân ta đánh từ ngoài vào. Hai bên giáp công mạnh mẽ, thì đế quốc Mỹ nhất định sẽ thua, nhân dân Việt – Mỹ nhất định sẽ thắng”3. Với phong cách tư duy có lý có tình, Bác Hồ đã xử lý đúng đắn, hài hòa từ những sự việc trọng đại của đất nước đến những vấn đề cụ thể đối với cuộc sống của mỗi con người. Chính với phong cách tư duy này, Người đã thức trắng trọn một đêm, để đi đến kết luận đúng đắn đối với vụ án tử hình nguyên Cục trưởng Cục Quân nhu Trần Dụ Châu (ngày 05/9/1950). Sự quyết định thấu lý đạt tình đối với vụ án lịch sử này của Người, đã được toàn dân, toàn quân rất đồng tình ủng hộ. Hiện nay, đất nước ta đã bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Những yêu cầu nhiệm vụ mới, những thực tiễn mới, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, trong đó học tập và làm theo phong cách tư duy hài hòa, uyển chuyển, có lý có tình của Bác Hồ là nội dung rất quan trọng. Để học tập và làm theo phong cách tư duy đặc sắc này của Người, chúng ta phải tiến hành nhiều nội dung, biện pháp, trong đó, trước hết cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề chủ yếu sau: Một là , vận dụng sáng tạo phong cách tư duy Hồ Chí Minh trong hoạch định các chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phong cách tư duy Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận, phương pháp luận đặc biệt quan trọng để Đảng, Nhà nước ta đề ra các đường lối, chính sách, nhất là trong việc hoạch định các chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phong cách tư duy Hồ Chí Minh không chỉ là nền tảng lý luận mà còn là nội dung quan trọng để vận dụng vào hoạch định các chiến lược phát triển một cách hài hòa, đúng đắn, sáng tạo. Vận dụng phong cách tư duy hài hòa, uyển chuyển, có lý có tình của Bác Hồ trong hoạch định chiến lược phát triển kinh tế, chúng ta phải xác định sao cho nền kinh tế luôn phát triển hài hòa, bền vững; phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo vệ tài nguyên, môi trường; phát triển kinh tế phải gắn liền với bảo đảm an sinh xã hội; kiên quyết tránh kiểu phát triển kinh tế bằng mọi giá. Quán triệt và vận dụng phong cách tư duy Hồ Chí Minh, trong xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến lược, chúng ta còn phải biết gắn kết chặt chẽ giữa chiến lược phát triển kinh tế, xây dựng đất nước với chiến lược bảo vệ Tổ quốc; phải kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường quốc phòng – an ninh. Trong xây dựng các giải pháp, bước đi chiến lược, chúng ta phải xác định cho toàn dân, toàn quân thấy rõ trách nhiệm là, luôn nỗ lực phấn đấu, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vận dụng sáng tạo phong cách tư duy Hồ Chí Minh, nhất là phong cách tư duy uyển chuyển, có lý có tình, trong hoạch định chiến lược đối ngoại, chúng ta phải xác định rõ mục tiêu bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Đặc biệt, trong xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược đối ngoại, hội nhập quốc tế, chúng ta phải luôn nắm vững và thực hiện tốt phương châm ”vừa hợp tác, vừa đấu tranh”. Đây là phương châm thể hiện sinh động phong cách tư duy uyển chuyển của Bác Hồ. Phương châm này không chỉ thực hiện trong lĩnh vực đối ngoại, mà còn phải được thực hiện tốt trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Hai là , quán triệt và vận dụng phong cách tư duy Hồ Chí Minh trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ ở các địa phương. Phong cách tư duy Hồ Chí Minh không chỉ là cơ sở lý luận, phương pháp luận, mà còn có vai trò to lớn trong chỉ đạo phương pháp tổ chức thực hiện nhiệm vụ ở các địa phương. Quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo phong cách tư duy hài hòa, uyển chuyển, có lý có tình của Bác Hồ, trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ, các địa phương phải chú ý đảm bảo sao cho địa phương mình phát triển hài hòa, bền vững, toàn diện; phát triển kinh tế phải gắn liền với xây dựng đời sống văn hóa, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng địa bàn trong sạch, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở ngày càng vững mạnh. Đặc biệt, khi tổ chức thực hiện bất kỳ nhiệm vụ gì, các địa phương đều phải bảo đảm hài hòa các lợi ích, nhất là lợi ích giữa Nhà nước, địa phương, doanh nghiệp với người dân. Trong những năm vừa qua, liên tục có hàng ngàn đơn khiếu kiện về đất đai ở các địa phương, gây bức xúc trong xã hội. Để dẫn đến tình trạng khiếu kiện này là do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu là các địa phương chưa giải quyết được hài hòa giữa các lợi ích, nhất là lợi ích giữa tập thể địa phương với lợi ích của từng hộ gia đình, từng cá nhân cụ thể. Quán triệt và vận dụng phong cách tư duy Hồ Chí Minh, trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ, các địa phương còn cần phải tiến hành có lý có tình, có trước có sau, phải luôn biết gắn kết giữa kỷ cương pháp luật với đạo đức nhân văn truyền thống. Thực tế trong những năm qua ở các địa phương đã chứng tỏ rằng, những nhiệm vụ mà tổ chức thực hiện thấu lý đạt tình thì luôn đạt hiệu quả cao. Ví dụ như, trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới, các địa phương như huyện Đan Phượng, Đông Anh (Hà Nội), huyện Hoa Lư (Ninh Bình); huyện Đồng Triều (Quảng Ninh), huyện Xuân Lộc, Thống Nhất (Đồng Nai), huyện Củ Chi, Hóc Môn (thành phố Hồ Chí Minh)… do có quy hoạch, kế hoạch xây dựng hài hòa, có biện pháp tổ chức thực hiện hợp lý hợp tình, nên sớm đạt chuẩn nông thôn mới, tạo được bộ mặt nông thôn có nhiều đổi thay, đời sống của người nông dân được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, bên cạnh đó, một số địa phương, cơ sở do mắc bệnh thành tích, chạy đua xây dựng nông thôn mới bằng mọi giá, nên cho dù đạt chuẩn nông thôn mới, nhưng nợ đọng nhiều. Tính đến nay, gần 2.000 xã trên địa bàn cả nước đã nợ đọng xây dựng nông thôn mới lên tới trên 15.000 tỷ đồng. Những tồn tại thiếu sót trên, đặt ra cho các địa phương phải quán triệt sâu sắc hơn nữa phong cách tư duy Hồ Chí Minh, sáng tạo tìm ra các biện pháp hợp lý hợp tình để từng bước khắc phục. Ba là , quán triệt và vận dụng phong cách tư duy Hồ Chí Minh trong xử lý các mối quan hệ của mỗi con người đối với đời sống hiện thực. Phong cách tư duy Hồ Chí Minh có vai trò chỉ đạo rất to lớn, rất thiết thực đối với mỗi con người trong xử lý các mối quan hệ của đời sống hiện thực. Quán triệt và vận dụng sáng tạo phong cách tư duy hài hòa, uyển chuyển có lý có tình của Bác Hồ, trong giải quyết các vấn đề thực tiễn, mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi công dân phải có tư duy sáng suốt để xử lý hài hòa các mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng; giữa cá nhân với gia đình và xã hội; nhất là các mối quan hệ giữa cá nhân với tổ chức; giữa cá nhân với cơ quan, đơn vị, địa phương nơi mà mình công tác. Quán triệt và vận dụng phong cách tư duy Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi công dân còn phải có tư duy khoa học, tư duy biện chứng để xử lý hài hòa các mối quan hệ của đời sống cá nhân, như mối quan hệ giữa làm việc với nghỉ ngơi; giữa học tập và công tác; giữa rèn luyện phẩm chất với bồi dưỡng nâng cao trình độ kiến thức và năng lực. Đặc biệt, mỗi con người còn phải biết xử lý đúng đắn, hài hòa các mối quan hệ có tính chất vĩ mô, như mối quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ công dân, nhất là nghĩa vụ đối với Tổ quốc. Trong tình hình mới hiện nay, việc đẩy mạnh học tập và làm theo phong cách tư duy Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo phong cách tư duy của Người vào giải quyết tốt những vấn đề thực tiễn mới là vấn đề hết sức quan trọng và cấp thiết đối với các cấp lãnh đạo, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân. —————- 1, 2) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, H.1995, tập 4, tr.397, 75. 3) Sách đã dẫn, tập 11, tr.524. PGS,TS. Hà Huy Thông Theo http://xaydungdang.org.vn Bài viết liên quan Quê hương nghĩa trọng tình cao 10/07/2020 Chuyên đề dành cho đoàn viên, thanh niên: “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với tu dưỡng đạo đức suốt đời” 05/07/2020 Chuyên đề dành cho cán bộ Đoàn: “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với xây dựng tổ chức Đoàn vững mạnh; mở rộng mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên” 05/07/2020 Tìm kiếm cho: Văn Phòng Đoàn trường. © Copyright 2021, Đoàn trường Cao đẳng Nghề Cần Thơ
1614178347293.1.parquet/30893
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 11175, "url": "https://sv.ctvc.edu.vn/tu-duy-hai-hoa-uyen-chuyen-co-ly-co-tinh-cua-chu-tich-ho-chi-minh/" }
131.2
Khai mạc Chợ công nghệ và Thiết bị chuyên ngành Công nghệ thông tin | Dân trí Thứ Tư 16/05/2018 - 20:18 Thứ Tư 16/05/2018 - 20:18 In bài này (Ctrl+P) Khai mạc Chợ công nghệ và Thiết bị chuyên ngành Công nghệ thông tin (Dân trí) - Ngày 16/5, tại Hà Nội, đã diễn ra lễ khai mạc Chợ công nghệ và Thiết bị chuyên ngành Công nghệ thông tin (IT Techmart 2018) nhằm giới thiệu những thành tựu, sản phẩm khoa học và công nghệ mới nhất trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Đồng thời là cơ hội để các Viện nghiên cứu, trường Đại học, doanh nghiệp giao lưu, tìm kiếm đối tác kinh doanh mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực CNTT nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. IT Techmart 2018 là một trong những hoạt động xúc tiến phát triển thị trường khoa học và công nghệ, được tổ chức lần đầu tiên bởi Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ. IT Techmart 2018 được tổ chức trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ trên khắp thế giới đòi hỏi doanh nghiệp phải nâng cao năng lực quản trị, trình độ công nghệ, năng suất, chất lượng sản phẩm... Các tổ chức nghiên cứu triển khai cũng cần thay đổi cơ bản phương thức hoạt động để thích ứng với đòi hỏi của Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp, đưa nhanh các kết quả nghiên cứu vào sản xuất kinh doanh. Tại lễ khai mạc, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Trần Văn Tùng khẳng định: Công nghệ thông tin đã và đang làm thay đổi thế giới, vì vậy nhiều tổ chức và chuyên gia trên thế giới đã khẳng định thế kỷ 21 là thế kỷ của công nghệ thông tin với cuộc cách mạng 4.0. Công nghệ thông tin đã được triển khai trong nông nghiệp công nghệ cao; giải pháp bảo mật dữ liệu lớn, bảo mật đám mây, bảo mật IoT; giải pháp quản lý năng lượng, công nghệ robot, công nghệ giao thông thông minh. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với nền tảng là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ trong các lĩnh vực kỹ thuật số, vật lý, sinh học cùng với các ứng dụng có tính tích hợp cao như công nghệ in 3D, robot thông minh, trí tuệ nhân tạo, công nghệ về kết nối, dữ liệu lớn... Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 được dự báo sẽ tạo ra những tác động hết sức mạnh mẽ tới mọi khía cạnh của hoạt động kinh tế - xã hội trên phạm vi toàn cầu. Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Trần Văn Tùng. Thứ trưởng Trần Văn Tùng cũng cho rằng, IT Techmart 2018 sẽ mở ra cơ hội giao thương cho các doanh nghiệp, viện, trường, tổ chức khoa học và công nghệ và các cá nhân. Bên cạnh đó cũng sẽ đem lại nhiều bổ ích cho các hoạt động nghiên cứu, phục vụ tốt cho xã hội, các hoạt động xúc tiến đầu tư, thúc đẩy phát triển sản phẩm mới tại Việt Nam. Ngoài ra, các hội thảo, diễn đàn về công nghệ thông tin giúp các nhà khoa học và doanh nghiệp tiếp cận các công nghệ tiên tiến trên thế giới. Trong khuôn khổ IT Techmart 2018 còn có các hội thảo khoa học về công nghệ thông tin như: Công nghệ thông tin trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0; Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, phương thức quản trị công nghệ và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ” với sự tham dự của các chuyên gia có uy tín giới thiệu những xu hướng, kết quả nghiên cứu mới nhất về công nghệ thông tin ở trong nước và quốc tế. Hội thảo khoa học không chỉ có ý nghĩa với các nhà khoa học mà còn hỗ trợ các doanh nghiệp những giải pháp công nghệ, các tiếp cận mới, tiên tiến và các chính sách mới nhất về đầu tư đổi mới công nghệ và các Quỹ hỗ trợ phát triển KH&CN. Ban tổ chức cũng cho biết, IT Techmart 2018 có gần 40 gian hàng, ngoài ra còn có một khu vực tư vấn để hỗ trợ các doanh nghiệp có nhu cầu tìm hiểu các vấn đề liên quan. S.H Link nội dung: https://dantri.com.vn/khoa-hoc-cong-nghe/khai-mac-cho-cong-nghe-va-thiet-bi-chuyen-nganh-cong-nghe-thong-tin-20180516201948838.htm
1614178347293.1.parquet/19829
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 3169, "url": "http://cdnweb.dantri.com.vn/print-20180516201948838.htm" }
131
Giải pháp ERP cho doanh nghiệp để quản lý tối ưu bộ máy Trình duyệt của bạn đã tắt chức năng hỗ trợ JavaScript. Website chỉ làm việc khi bạn bật nó trở lại.! Toggle navigation Trang chủ Giới thiệu Giải pháp Khách hàng Khách hàng tiêu biểu Câu chuyện thành công Đối tác Tin tức Tuyển dụng Liên hệ Hotline08.9880.9898 EN Trang chủ News Tin tức Tư vấn Giải pháp ERP cho doanh nghiệp để quản lý tối ưu bộ máy Với những thách thức hòa nhập vào thị trường toàn cầu và đáp ứng kịp nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Các doanh nghiệp hiện nay đang cần có một hệ thống hoạch định nguồn nhân lực hiệu quả. Trong đó, giải pháp erp cho doanh nghiệp để quản lý tối ưu bộ máy sẽ đóng vai trò là xương sống cho mọi sự thay đổi, bắt đầu từ việc quản lý các quy trình cơ bản. Với những thách thức hòa nhập vào thị trường toàn cầu và đáp ứng kịp nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Các doanh nghiệp hiện nay đang cần có một hệ thống hoạch định nguồn nhân lực hiệu quả. Trong đó, giải pháp erp cho doanh nghiệp để quản lý tối ưu bộ máy sẽ đóng vai trò là xương sống cho mọi sự thay đổi, bắt đầu từ việc quản lý các quy trình cơ bản. Tìm hiểu ERP là gì? ERP là gì ? ERP là từ viết tắt của cụm từ Enterprise Resources Planning, có nghĩa là hệ thống hoạch định nguồn lực cho doanh nghiệp. Đây là một thuật ngữ được dùng liên quan đến tất cả các hoạt động của doanh nghiệp, được phần mềm máy tính hỗ trợ và thực hiện các quy trình xử lý bằng phương pháp tự động hoá. Nhằm giúp các doanh nghiệp quản lý hiệu quả mọi hoạt động then chốt bao gồm: kế toán, phân tích tình hình tài chính, quản lý mua và bán hàng, quản lý tồn kho, hoạch định và quản lý sản xuất, quản lý quan hệ với khách hàng,... Nói một cách dễ hiểu, phần mềm ERP là một hệ thống ứng dụng phần mềm đa phân hệ, tích hợp theo kiểu kiến trúc tổng thể, giúp doanh nghiệp tiến hành việc hoạch định, thực hiện, kiểm soát và đưa ra quyết định cuối cùng. Đặc điểm nổi bật của erp phần mềm quản lý là có thể mở rộng và phát triển theo thời gian ở từng loại hình doanh nghiệp mà không gây bất kỳ ảnh hưởng gì đến cấu trúc của chương trình. Giải pháp erp có khả năng loại bỏ các hệ thống máy tính riêng lẻ ở các bộ phận trong một doanh nghiệp. Đồng thời, thay thế chúng bằng một chương trình phần mềm hợp nhất được phân chia theo các phân hệ riêng biệt và tạo thành mối quan hệ thống nhất với nhau. Ngoài ra, phần mềm erp Việt Nam còn rất linh động trong việc cài đặt các phân hệ theo nhu cầu của từng doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có thể yêu cầu cài đặt một vài phân hệ mà mình đang cần. Đối với các phân hệ còn lại có thể cài đặt sau khi có đủ điều kiện mà không làm ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống. Những lợi ích của hệ thống phần mềm ERP Trước đây, khi doanh nghiệp quan tâm tìm mua một hệ thống erp cho sản xuất kinh doanh, họ thường chỉ tập trung vào việc lựa chọn phần mềm có chức năng nhập liệu và in ra những mẫu báo cáo hàng ngày thay vì phải làm bằng excel. Hiện nay, khi thông tin về hệ thống phần mềm erp vietnam trở nên phổ biến, doanh nghiệp đã hiểu rõ hơn giải pháp này. Theo đó, erp không chỉ là một công cụ mà còn là chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Hệ thống ERP giúp doanh nghiệp đảm bảo các yêu cầu về chất lượng, tính ổn định và mức độ hiệu quả để làm hài lòng các đối tượng mà doanh nghiệp đang phục vụ. Bên cạnh đó, giải pháp erp cho doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng góp phần đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng đa dạng, đảm bảo tính chính xác, kịp thời. Đồng thời, tiến hành thu thập các thông tin cần thiết để lưu trữ, xử lý và sử dụng một cách hiệu quả nhất trong mọi hoạt động của doanh nghiệp. Đặc biệt, erp giúp doanh nghiệp thực hiện nhanh chóng các hoạt động của chu trình PDCA bao gồm: hoạch định hoạt động, sản xuất kinh doanh, theo dõi, đánh giá và đo lường, khắc phục và phòng ngừa sự cố. Như vậy, có thể thấy rằng, những lợi ích mà erp điện toán, erp đám mây hay erp kế toán mang lại cho doanh nghiệp là rất lớn. Tuy nhiên, quá trình triển khai ERP điện máy cần hội tụ nhiều điều kiện để có thể ứng dụng thành công như: nhận thức và quyết tâm cao của ban lãnh đạo doanh nghiệp; xác định đúng đắn mục tiêu, phạm vi cũng như các bước triển khai; lựa chọn giải pháp thực sự phù hợp. Ngoài ra, cần lựa chọn được đối tác triển khai đúng và phối hợp tốt trong quá trình thực hiện dự án; sẵn sàng thay đổi các quy trình bất hợp lí xuất hiện trong doanh nghiệp; chú trọng đến công tác đào tạo cán bộ theo các quy trình mới; chú trọng đào tạo khai thác hệ thống cho cán bộ ở từng cấp; có đội ngũ cán bộ chuyên trách tiếp thu quản trị hệ thống… Khi nào cần triển khai hệ thống ERP vào doanh nghiệp Trên thực tế, khi việc tăng trưởng diễn ra với tốc độ nhanh hoặc khi lượng thông tin cần xử lý quá nhiều khiến chủ doanh nghiệp lúng túng trong việc kiểm soát thì họ bắt đầu tìm đến các hệ hỗ trợ như phần mềm ERP. Tuy nhiên, do vấn đề giá của phần mềm erp nên các doanh nghiệp vẫn còn nhiều đắn đo. Do đó, để biết được việc trang bị hệ thống erp có thực sự cần thiết không, doanh nghiệp hãy đánh giá xem mình đã rơi vào mộ trong những trường hợp sau hay chưa: + Doanh nghiệp bắt đầu có khối lượng giao dịch kinh doanh cao cùng khối lượng hàng xuất kho và hóa đơn xuất tăng nhanh làm cho việc nắm bắt thông tin để điều hành của ban lãnh đạo trở nên khóa khăn hơn. Hơn nữa, các sai sót bắt đầu xảy ra ở khâu nhập kho, xuất kho, giao hàng hoặc có sự nhầm lẫn thông tin giữa hóa đơn và hàng xuất, hệ thống khách hàng trung thành phàn nàn nhiều hơn. + Doanh nghiệp đang rơi vào tình trạng canh tranh gay gắt, lợi nhuận ngày càng giảm xuống. Các yêu cầu về tiết kiệm chi phí và hợp lý hóa quy trình quản lý cần được ban lãnh đạo doanh nghiệp giải quyết một cách nhanh chóng, kịp thời. + Doanh nghiệp đang phát triển tốt, lợi nhuận tăng cao và muốn mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh sang nhiều lĩnh vực khác trong nền kinh tế. + Doanh nghiệp xuất khẩu hoặc muốn mở rộng thị trường ra nước ngoài cũng như hợp tác kinh doanh với các đối tác quốc tế. Lúc này, khách hàng và đối tác sẽ đòi hỏi doanh nghiệp có một mô hình quản lý tương thích theo quy chuẩn của thế giới. + Doanh nghiệp đang hoạt động với bộ máy quản lý cồng kềnh, kém hiệu quả và bắt đầu quá trình tái cấu trúc cơ cấu quản lý. Nếu doanh nghiệp thuộc một trong những trường hợp trên thì việc sử dụng phần mềm erp được xem là giải pháp hữu hiệu giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu chiến lược của mình trong tương lai và giải quyết mọi vấn đề khó khăn hiện tại. Quá trình triển khai ERP cần đạt những yêu cầu nào? Từ những nội dung về khái niệm phần mềm ERP, những lợi ích mà phần mềm ERP đem lại và những đặc điểm cụ thể của ERP. Chúng ta nhận thấy rằng, một phần mềm ERP được đánh giá là tốt nhất khi đáp ứng được các yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể khai thác được mọi thông tin, kiểm soát và ra quyết định dựa vào những số liệu, báo cáo thống kê từ phần mềm ERP. Tuy nhiên, quá trình triển khai ERP trong doanh nghiệp không phải lúc nào cũng thành công. Hoặc đôi khi triển khai ERP xong nhưng chưa chắc nó đã phát huy được đầy đủ các yêu cầu. Vậy quá trình triển khai erp cho ngân hàng, erp cho ngành may, erp cho ngành gỗ…cần đạt những yêu cầu nào? + Truy cập thông tin nhanh chóng, an toàn và ổn định Được ứng dụng các công nghệ tiên tiến trong ngành công nghệ thông tin, hệ thống phần mềm ERP cho phép người dùng truy cập nguồn dữ liệu của doanh nghiệp một cách nhanh chóng. Có khả năng phân quyền dữ liệu và dạng dữ liệu nào được phép sử dụng trong phạm vi quyền hạn đã phân bổ. + Đồng bộ các nguồn dữ liệu và quy trình xử lý trùng lặp Một yêu cầu quan trọng mà bất kỳ hệ thống ERP nào cũng phải đáp ứng đó chính là khả năng đồng bộ và tích hợp dữ liệu. Các nguồn dữ liệu của doanh nghiệp dù nằm ở đâu nhưng nếu được đồng bộ cũng sẽ làm giảm sự trùng lặp và tăng tính thống nhất. Lúc này, tất cả các hệ thống khác đều có thể truy cập vào cùng một dữ liệu và việc thay đổi dữ liệu luôn được kiểm soát vô cùng chặt chẽ. + Giảm thời gian lưu chuyển và xoay vòng nhanh Thông thường, hoạt động kinh doanh sẽ bị gián đoạn bởi sự chậm trễ trong quá trình xử lý và báo cáo giữa các bộ phận với nhau. Hệ thống ERP đảm bảo làm giảm thiểu thời gian chậm trễ trong việc chuyển giao thông tin giữa các bộ phận trong cùng một doanh nghiệp. + Giảm chi phí vô lý Tiết kiệm thời gian và tăng khả năng quản lý bằng một hệ thống phân tích toàn diện mọi mặt trong tổ chức. Hệ thống ERP giúp quy trình xử lý dùng các nguồn lực có sẵn và kết quả xử lý sẽ luôn sẵn sàng để sử dụng cho một quy trình khác. + Khả năng tương thích nhanh với quy trình kinh doanh Hệ thống ERP đáp ứng tốt nhưng nhu cầu trong việc thay đổi các quy trình kinh doanh của doanh nghiệp hoặc quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp. Các thành phần trong hệ thống có thể được thêm vào hoặc loại bỏ bớt sao cho phù hợp nhất với mục đích sử dụng. + Tăng cường khả năng bảo trì hệ thống Nhà phân phối và triển khai hệ thống ERP thường ký kết với doanh nghiệp các hợp đồng hỗ trợ dài hạn giống như một phần của việc mua hệ thống. Điều này sẽ giúp nhà phân phối và triển khai bám sát để đáp ứng kịp thời những yêu cầu thay đổi hệ thống từ phía doanh nghiệp. + Tăng cường khả năng mở rộng hệ thống Hệ thống ERP thường được yêu cầu phải có khả năng tích hợp với những hệ thống sẵn có của doanh nghiệp. Hoặc những hệ thống được thêm vào như hệ thống quản lý quan hệ khách hàng, hệ thống quản lý chuỗi cung ứng… + Đáp ứng yêu cầu thương mại điện tử và kinh doanh số Tất cả nguồn dữ liệu của doanh nghiệp thông qua cơ chế bảo mật và phân quyền có thể đáp ứng một cách trực tiếp yêu cầu thương mại điện tử. Ngoài ra, hệ thống ERP còn giúp rút ngắn lại khoảng cách địa lý trong môi trường cộng tác. Và với ERP của Công ty cổ phần giải pháp phần mềm Gia Minh (GMC JSC) thì hoàn toàn đáp ứng được những yêu cầu nêu trên. Đặc biệt, Gia Minh còn có đội ngũ kỹ thuật am hiểu tường tận về nghiệp vụ kế toán, quy trình quản lý kinh doanh, quản lý nhân sự…và giỏi về lập trình nên hoàn toàn có thể tư vấn cũng như triển khai các giải pháp phần mềm ERP cho mọi doanh nghiệp một cách hiệu quả nhất. Tác giả bài viết: GMC Từ khóa: giải pháp erp, erp cho ngành gỗ, erp phần mềm quản lý, giá của phần mềm erp, erp cho sản xuất, giải pháp erp cho doanh nghiệp, giải pháp erp cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, erp cho nganh may, erp cho ngân hàng, erp đám mây, erp điện máy, erp kế toán, erp là gì, erp vietnam Tổng điểm nội dung là: 0 trong 0 đánh giá Click để đánh giá Tweet Xem thêm Giới thiệu về phần mềm erp giải pháp cho doanh nghiệp vừa và nhỏ Tìm hiểu chương trình erp là gì và chức năng của hệ thống erp Erp có nghĩa là gì và giá của phần mềm quản lý erp là bao nhiêu? Giới thiệu phần mềm quản lý khách sạn là gì? Giá của phần mềm erp ở Việt Nam hiện nay là bao nhiêu? Erp phần mềm quản lý hiệu quả cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Tư vấn triển khai phần mềm quản lý ERP cho hệ thống doanh nghiệp Các phần mềm kế toán doanh nghiệp hiện nay là gì? Các phần mềm quản lý khách sạn tốt nhất hiện nay là gì? Giải pháp phần mềm ERP, lựa chọn mô hình phù hợp cho hệ thống doanh nghiệp Bạn đã xem chưa? Bảng báo giá các loại phần mềm ERP giúp doanh nghiệp triển khai, ứng dụng vào quản trị Mới nhất Giới thiệu phần mềm quản lý nhân sự hiệu quả 01-02-2018 Các phần mềm quản lý nhân sự hiện nay là gì và cách sử dụng như thế nào? 01-02-2018 Phần mềm kế toán hay và phổ biến nhất hiện nay 01-02-2018 Tổng hợp một số phần mềm kế toán thông dụng hiện nay có thể bạn chưa biết 01-02-2018 Quản lý sản xuất erp là gì và vai trò của phần mềm quản lý sản xuất 01-02-2018 Liên hệ Địa chỉ: Lầu 4, Success Building, 21A Gò Dầu, P.Tân Quý, Q. Tân Phú, HCM Hotline: 08.9880.9898 Tel: 028. 6660.3006 | Fax: 028. 6292.3880 Email: info@gmconsulting.com.vn Website: www.gmc.solutions Khám phá thêm Về chúng tôi Giải pháp Khách hàng tiêu biểu Blog Câu chuyện thành công Tư vấn Đăng ký nhận tin Kết nối với chúng tôi © 2016 GIA MINH Software Solution. All Rights Reserved. Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
1614178347293.1.parquet/128480
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 10445, "url": "http://www.gmc.solutions/vi/news/tu-van/giai-phap-erp-cho-doanh-nghiep-de-quan-ly-toi-uu-bo-may-30.html" }
130.3
Dịch COVID-19: Các tổ chức quốc tế đánh giá cao Việt Nam trong phòng, chống dịch Copy link Font chữ Lưu bài Trịnh Vũ Tường Thứ sáu, ngày 28/02/2020 13:39 PM (GMT+7) Theo dõi Dịch COVID-19: Các tổ chức quốc tế đánh giá cao Việt Nam trong phòng, chống dịch Chuyên mục: KT vĩ mô Xem biểu đồ Covid - Vaccine Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu Đại diện Tổ chức Y tế thế giới và Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ tại Việt Nam đánh giá cao Việt Nam trong công tác phòng, chống dịch COVID-19 với các giải pháp hiệu quả. Sáng 28/2, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus Corona gây ra (COVID-19) đã có buổi làm việc với đại diện Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ tại Việt Nam (US CDC) về công tác phòng, chống dịch. Đại diện Tổ chức Y tế thế giới và Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ tại Việt Nam đánh giá cao Việt Nam trong công tác phòng, chống dịch COVID-19 với quyết tâm cao, thực hiện đồng bộ các giải pháp hiệu quả, công khai, minh bạch. Cập nhật nhanh diễn biến dịch bệnh trên toàn cầu, Trưởng đại diện Tổ chức Y tế thế giới tại Việt Nam Kidong Park nhấn mạnh thông tin các ca bệnh đang tăng nhanh ngoài Trung Quốc trong những ngày gần đây. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, ngành Y tế thế giới đã hiểu rõ hơn về đặc điểm dịch tễ học, hệ số lây truyền, đường lây truyền, các giải pháp ngăn ngừa, điều trị, các giải pháp ngăn ngừa lây nhiễm chéo trong bệnh viện, lây nhiễm đối với nhân viên y tế… của dịch COVID-19 so với thời điểm dịch bùng phát. Đại diện Tổ chức Y tế thế giới tại Việt Nam cho rằng, việc kiểm soát COVID-19 lây lan trên toàn cầu gặp nhiều khó khăn, đồng thời bày tỏ, cộng đồng quốc tế mong Việt Nam chia sẻ các bài học kinh nghiệm về tổ chức cách ly, ngăn ngừa, điều trị dịch bệnh. Ông Kidong Park cho biết, Tổ chức Y tế thế giới ghi nhận và đánh gía cao những nỗ lực và biện pháp của Chính phủ Việt Nam trong việc chuẩn bị công tác phòng, chống dịch; đưa ra các kịch bản ứng phó với mọi tình huống. "Việt Nam đã chia sẻ thông tin minh bạch, đặc biệt trong công tác cách ly, khoanh vùng, điều trị, qua đó phối hợp cùng với các nước phòng, chống dịch COVID-19 trên quy mô toàn cầu", ông Kidong Park nêu rõ. Đồng quan điểm, đại diện Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ tại Việt Nam Mathew Moore nhấn mạnh, trong công tác phòng, chống dịch COVID-19, Chính phủ Việt Nam hành động nhanh, kiên quyết và hiệu quả. Với sự vào cuộc đồng bộ từ Trung ương tới địa phương, đến thời điểm hiện tại Việt Nam chỉ mới có 16 ca nhiễm bệnh và được chữa khỏi. Ông Mathew Moore cho biết: "Kết quả này cho thấy những nỗ lực và hiệu quả của Việt Nam trong ứng phó với dịch bệnh, góp phần vào công cuộc ngăn ngừa dịch bệnh của thế giới". Đại diện Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ tại Việt Nam đề nghị, Việt Nam tiếp tục chia sẻ thông tin, kinh nghiệm phòng chống dịch COVID-19 với cộng đồng quốc tế; chia sẻ thông tin về bản đồ gen của virus gây bệnh ở Việt Nam; đề nghị Chính phủ Việt Nam tiếp tục thực hiện mạnh mẽ các biện pháp để kiểm soát rủi ro; đồng thời khẳng định sẽ tiếp tục cộng tác chặt chẽ với các cơ quan hữu quan của Việt Nam trong ứng phó dịch bệnh. Trong nhiều năm qua, Tổ chức Y tế thế giới và Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ hợp tác chặt chẽ với Việt Nam. Hiện nay, 2 tổ chức quốc tế có hơn 120 nhân viên tại Việt Nam. Với cơ chế minh mạch, công khai thông tin dịch bệnh COVID-19, hai tổ chức quốc tế đang phối hợp chặt chẽ với hệ thống phòng xét nghiệm và các đơn vị nghiên cứu test thử của Việt Nam, mong muốn hỗ trợ Việt Nam kịp thời trong phòng, chống dịch COVID-19. Đại điện các tổ chức quốc tế đánh giá, hiện Việt Nam và các nước trên thế giới đang làm tốt công tác phòng, chống dịch COVID-19. Tuy nhiên, trước diễn biến tình hình dịch bệnh phức tạp, đang chuyển sang giai đoạn mới, có thể xuất hiện các ca lây nhiễm trong cộng đồng. Các tổ chức quốc tế tin tưởng, với kinh nghiệm của Việt Nam, các ca nhiễm sẽ được điều trị khỏi. Phát biểu tại buổi làm việc, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhấn mạnh: "Việt Nam phòng, chống dịch tốt có nghĩa góp phần chống dịch tốt trên thế giới". Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho biết, dịch COVID-19 là dịch bệnh mới với diễn biến khó lường nên Việt Nam vừa làm vừa rút kinh nghiệm, điều chỉnh cho phù hợp. Đến thời điểm hiện tại, xác định diễn biến dịch trên thế giới bước sang giai đoạn mới, Việt Nam dự tính một số biện pháp mới, do đó muốn tham khảo ý kiến của Tổ chức Y tế thế giới và Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ tại Việt Nam để đưa ra quyết định phù hợp. Tiến sĩ Kidong Park, Trưởng Đại diện của WHO tại Việt Nam phát biểu. Ảnh: Văn Điệp - TTXVN Cũng tại cuộc họp, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã trao đổi thêm một số kinh nghiệm của Việt Nam trong việc huy động, tổ chức các lực lượng phòng, chống dịch bệnh; phân tuyến cách ly, tổ chức điều trị… Với tinh thần "luôn sẵn sàng ứng phó với tình huống xấu nhất để tình huống xấu không xảy ra", Phó Thủ tướng mong muốn Tổ chức Y tế thế giới và Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ tại Việt Nam tiếp tục đồng hành cùng Việt Nam trong ứng phó dịch COVID-19. Trước đó, thông tin về tình hình và kinh nghiệm phòng, chống dịch COVID-19 của Việt Nam hiện nay, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long cho biết, khác với việc phòng, chống dịch bệnh trước đây chủ yếu do ngành y tế đóng vai trò lực lượng chủ lực, Việt Nam đã huy động toàn bộ hệ thống chính trị, toàn đảng, toàn dân, toàn quân trong phòng, chống dịch COVID-19, thống nhất sự chỉ đạo từ trung ương, góp phần ngăn chặn những mầm bệnh xâm nhập vào Việt Nam. Theo đó, Việt Nam cũng thực hiện phát hiện, cách ly, điều trị theo phương châm "4 tại chỗ" (điều trị tại chỗ, nguồn lực tại chỗ, cách ly tại chỗ và vật tư tại chỗ). Kinh nghiệm tại xã Sơn Lôi, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc - Bộ Y tế đã chia việc cách ly, khoanh vùng theo 4 cấp: những người trong gia đình, người tiếp xúc gần; tiếp xúc với người tiếp xúc và khoanh vùng tại xã. Trong 14 ngày qua, xã Sơn Lôi không ghi nhận thêm ca bệnh mới. Về chuyên môn, Thứ trưởng Nguyễn Thanh Long nhấn mạnh, Việt Nam tập trung giám sát phát hiện sớm ca bệnh để điều trị tại chỗ; thực hiện giám sát, xét nghiệm sàng lọc; tổ chức cách ly y tế theo các lớp; điều trị trên toàn tuyến, tránh tình trạng tập trung về tuyến Trung ương. Đến nay, Việt Nam đã chữa thành công các ca nhiễm COVID-19 ở y tế tuyến huyện, thực hiện nghiêm không tập trung đông người ở một địa điểm. Bên cạnh đó, phác đồ điều trị của Việt Nam liên tục được cập nhật, bổ sung trên cơ sở rút kinh nghiệm thực tế điều trị và cập nhật kinh nghiệm của thế giới. Việt Nam tiến hành chỉ đạo các phòng thí nghiệm, đơn vị nghiên cứu phát triển các sinh phẩm để phục vụ cho việc chẩn đoán./. Diệp Trương/TTXVN Bnews Link nguồn Bình luận Chia sẻ Quan tâm Cơ quan chủ quản: Công ty Cổ phần Quảng cáo Trực tuyến 24H. Giấy phép mạng xã hội số 103/GP-BTTTT do BỘ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG cấp ngày 25/03/2019. Chịu trách nhiệm nội dung: Phạm Đình Bằng. Email: support@24hmoney.vn. Hotline: 0979730484
1614178347293.1.parquet/138191
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 6179, "url": "https://24hmoney.vn/news/dich-covid-19-cac-to-chuc-quoc-te-danh-gia-cao-viet-nam-trong-phong-chong-dich-c27a309642.html" }
129.6
Hiệu quả Pareto – Wikipedia tiếng Việt Mở trình đơn chính Trang chính Ngẫu nhiên Lân cận Đăng nhập Tùy chọn Quyên góp Giới thiệu Wikipedia Lời phủ nhận Tìm kiếm Hiệu quả Pareto Ngôn ngữ Theo dõi Sửa đổi Hiệu quả Pareto hay còn gọi là tối ưu Pareto là một trong những lý thuyết trung tâm của kinh tế học với nhiều ứng dụng rộng rãi trong lý thuyết trò chơi, các ngành kỹ thuật, cũng như khoa học xã hội. Với 1 nhóm các cá nhân và nhiều cách phân bổ nguồn lực khác nhau cho mỗi cá nhân trong nhóm đó, việc chuyển từ một phân bổ này sang một phân bổ khác mà làm ít nhất một cá nhân có điều kiện tốt hơn nhưng không làm cho bất cứ một cá nhân nào khác có điều kiện xấu đi được gọi là một sự cải thiện Pareto hay một sự tối ưu hóa Pareto. Khi đạt được một phân bổ mà không còn cách nào khác để đạt thêm sự cải thiện Pareto, cách phân bổ đó được gọi là hiệu quả Pareto hoặc tối ưu Pareto. Thuật ngữ này được đặt theo tên của Vilfredo Pareto, một nhà kinh tế học người Ý đã sử dụng khái niệm này trong các nghiên cứu của ông về hiệu quả kinh tế và phân phối thu nhập. Nếu một hệ thống kinh tế đạt được hiệu quả Pareto, không một cá nhân nào có cuộc sống tốt lên mà khiến một người khác có cuộc sống xấu đi. Nhìn chung, mọi người công nhận rằng cần tránh các tình trạng không đạt được hiệu quả Pareto, vì thế hiệu quả Pareto là một tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá các hệ thống kinh tế và các chính sách chính trị. Một cách cụ thể, người ta đã cho thấy rằng với những điều kiện được lý tưởng hóa nhất định, một hệ thống thị trường tự do sẽ dẫn đến việc đạt được hiệu quả Pareto. Điều này được đưa ra lần đầu tiên bởi hai nhà kinh tế học là Kenneth Arrow và Gerard Debreu, mặc dù kết quả của họ không phản ánh hoạt động của một nền kinh tế trên thực tế do các giả thuyết mang tính lý tưởng hóa (tất cả các hàng hóa đều có thị trường, thị trường cạnh tranh hoàn hảo, và chi phí giao dịch là không đáng kể). Kết quả của họ được gọi là định lý phúc lợi thứ nhất. Một phân bổ tối ưu Pareto mạnh là một phân bổ mà một cá nhân đặc biệt mong muốn, đồng thời không có cách phân bổ nào cũng tốt như vậy cho tất cả mọi người. Một phân bổ tối ưu Pareto yếu là một phân bổ mà việc tái phân bổ lại là khả thi và được tất cả mọi người mong muốn. Hạn chế chủ yếu của tối ưu Pareto là tính địa phương hóa của nó. Trong một hệ thống kinh tế với hàng triệu biến số, có thể có rất nhiều điểm tối ưu mang tính chất địa phương. Tiêu chí cải thiện Pareto không xác định được bất kỳ điểm tối ưu toàn cầu nào. Khi áp dụng một tiêu chí hợp lý, nhiều giải pháp đạt được tối ưu Pareto lại có kết quả kém xa so với một giải pháp toàn cầu. Chỉ tríchSửa đổi Nhiều hệ thống đạt được hiệu quả Pareto nhưng không phải là hệ thống được mong muốn. Chẳng hạn như một chế độ độc tài trong đó nhà độc tài kiểm soát tất cả mọi nguồn lực là một hệ thống đạt được hiệu quả Pareto vì bất kỳ việc tái phân phối nào cũng làm giảm phúc lợi của nhà độc tài. Một vấn đề nữa với hiệu quả Pareto là nó chỉ xem xét đến thu nhập và tài sản của cá nhân mà không xem xét đến cộng đồng, môi trường tự nhiên, cũng như ảnh hưởng của một số nhân tố bên ngoài. Xem thêmSửa đổi Mất mát khống Định lý thứ nhất Hiệu quả Kaldor-Hicks Kinh tế học phúc lợi Tham khảoSửa đổi Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Hiệu_quả_Pareto&oldid=26800978” Sửa đổi lần cuối lúc 01:14 vào ngày 7 tháng 8 năm 2017 Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 3.0, ngoại trừ khi có ghi chú khác. Trang này được sửa đổi lần cuối vào ngày 7 tháng 8 năm 2017 lúc 01:14. Văn bản được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự; có thể áp dụng điều khoản bổ sung. Với việc sử dụng trang web này, bạn chấp nhận Điều khoản Sử dụng và Quy định quyền riêng tư. Wikipedia® là thương hiệu đã đăng ký của Wikimedia Foundation, Inc., một tổ chức phi lợi nhuận. Quy định quyền riêng tư Giới thiệu Wikipedia Lời phủ nhận Điều khoản sử dụng Máy tính để bàn Nhà phát triển Thống kê Tuyên bố về cookie
1614178347293.1.parquet/1767
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 3548, "url": "https://vi.m.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87u_qu%E1%BA%A3_Pareto" }
129.5
talawas | Nguyễn Kiến Giang - Suy tư 90 - Đi tìm lời giải mới của chủ nghĩa xã hội trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas Văn học Thơ và Thơ Trẻ Văn học Việt Nam Văn học nước ngoài Các giải thưởng văn học Giải thưởng Bùi Giáng Lý luận phê bình văn học Điểm nóng Chính trị Việt Nam Chính trị thế giới Đại hội X và cải cách chính trị tại Việt Nam Xã hội Giáo dục Kinh tế Đồng tính luyến ái trong xã hội hiện đại Thế hệ @ Pháp luật Đời sống hiện đại Thể thao talaFemina 1 - 20 / 201 bài 31.10.2008 Nguyễn Mộng Giác Bão rớt 27.10.2008 Nhã Ca Đêm dậy thì 16.10.2008 Mai Thảo Gần mười bảy tuổi 11.10.2008 Trùng Dương Lập đông 7.10.2008 Nguyễn Thị Hoàng Bóng lá hồn hoa 1.10.2008 Nguyễn Thị Hoàng Cho những mùa xuân phai 24.9.2008 Duy Lam Cái lưới 17.9.2008 Chân dung Nguyễn Du 1.9.2008 Aleksandr I. Solzhenitsyn Tầng đầu địa ngục 5.8.2008 Aleksandr I. Solzhenitsyn Quần đảo ngục tù 16.7.2008 Tam Ích Ý văn 1 14.7.2008 Tạ Ký Sầu ở lại 11.7.2008 Hồ Hữu Tường Trầm tư của một tên tội tử hình 8.7.2008 Hồ Hữu Tường Kể chuyện 4.7.2008 Trần Tử Alexandre Soljenitsyne: Tác phẩm – Con người và Cuộc đời 30.6.2008 Aleksandr I. Solzhenitsyn Bất ngờ tại nhà ga Krechetovka 24.6.2008 Dương Nghiễm Mậu Tuổi nước độc 21.6.2008 Nguyễn Đức Sơn Cái chuồng khỉ 18.6.2008 Vũ Khắc Khoan Mơ Hương Cảng 9.6.2008 Tạp chí Văn Hoài niệm Nhất Linh 1 - 20 / 201 bài tìm (dùng Unicode hoặc không dấu) tác giả: A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z Tư tưởngVăn hoá và phát triển bản để in Gửi bài này cho bạn bè Loạt bài: Tranh luận về chủ nghĩa Marx 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 6.4.2006 Nguyễn Kiến Giang Suy tư 90 - Đi tìm lời giải mới của chủ nghĩa xã hội (Mấy suy nghĩ về số phận lịch sử của chủ nghĩa xã hội khoa học) 1 2 3 13. Nền văn minh mới của loài người, với hai nền tảng kết hợp hữu cơ với nhau: lực lượng sản xuất mới và nhận thức khoa học mới, đang cung cấp những điều kiện mới và đưa ra những đòi hỏi mới về tổ chức xã hội. Nhưng đó chỉ mới là những điều kiện và những đòi hỏi khách quan, chưa thể trở thành những hiện thực đầy đủ với tư cách một hình thái xã hội mới trong lịch sử loài người. Trong lịch sử, bất cứ hình thái xã hội mới nào cũng là sự kết hợp các yếu tố khách quan và các yếu tố chủ quan (thực tiễn của con người). Nó chỉ có thể ra đời dưới dạng phủ định biện chứng từ trong hình thái xã hội trước đó. Do đó, hình thái xã hội mới phải là hành vi chủ quan của con người dựa trên những điều kiện và những đòi hỏi khách quan. Và, dưới dạng phủ định biện chứng, nó phải thoát thai từ những hình thái xã hội hiện có - xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội xã hội chủ nghĩa (được tổ chức theo học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học với những biến dạng và biến chất của nó). Trước khi xem xét hai loại xã hội ấy có thể đi tới hình thái xã hội mới như thế nào (theo phương trình biện chứng: khẳng định - phủ định - phủ định của phủ định), xin nêu mấy đặc trưng có thể có của hình thái xã hội mới từ những phân tích nói trên. (hãy khoan đặt tên cho hình thái xã hội mới có thể có ấy, mà trước hết nêu ra một số đặc trưng chủ yếu của nó). Thứ nhất, kỹ thuật và công nghệ sản xuất phát triển ở trình độ cao, luôn luôn tự hoàn thiện và có những bước nhảy do chính lôgic phát triển của khoa học và công nghệ qui định; do đó tạo ra những năng suất lao động xã hội rất cao, đủ sức thỏa mãn những nhu cầu xã hội và cá nhân ngày càng phát triển và đổi mới, thu hẹp dần “vương quốc tất yếu” và mở rộng dần “vương quốc tự do”, lao động sản xuất kết hợp hữu cơ với lao động sáng tạo thành một thể thống nhất, bằng cách đó biến lao động thành nhu cầu phát triển của chính con người; Thứ hai, chế độ sở hữu là một tổng thể đa dạng, kết hợp sở hữu cộng đồng trong những lĩnh vực bảo toàn và phát triển của cộng đông, bảo vệ môi trường sinh thái, với sở hữu cá nhân dưới mọi hình thức (sở hữu tư nhân, sở hữu hợp tác của các cá nhân v.v...) trong những lĩnh vực sản xuất các sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người; Thứ ba, bảo đảm các quyền con người, các quyền tự do dân chủ của cá nhân, lấy sự phát triển tự do của cá nhân làm điều kiện và tiền đề cho sự phát triển tự do của xã hội; thực hiện chế độ tự quản xã hội ở tất cả các cấp quản lý xã hội, thống nhất các quyền và các nghĩa vụ công dân trong nhà nước pháp quyền, theo nguyên tắc “nhà nước cho xã hội và công dân”; Thứ tư, đời sống tinh thần và văn hóa phát triển cao, dựa trên tính đa nguyên, sự dung thứ và tôn trọng lẫn nhau của các hệ tư tưởng, các tín ngưỡng, các học thuyết, các trường phái khác nhau; những giá trị đạo đức và tinh thần của loài người và của mỗi cộng đồng dân tộc được tôn trọng và phát huy; xóa bỏ những cơ sở và những biểu hiện của bạo lực giữa các cá nhân và các cộng đồng khác nhau. Có thể thêm những đặc trưng khác, nhưng trong những giới hạn có thể có để tránh những ngoại suy có tính không tưởng. Nói khái quát, đó là một hình thái xã hội tự phát triển, nhân bản và đa nguyên. Đó không phải là một xã hội lý tưởng, mà là một nấc thang trên con đường tự giải phóng và tự hoàn thiện của con người. Bản thân nó không tránh được những mâu thuẫn nội tại và những xung đột gay gắt, thậm chí cả những khủng hoảng nguy hiểm chưa lường trước khi đứng trước những nguy cơ từ bên ngoài và từ bên trong có thể đe dọa sự tồn tại và phát triển của con người (kể cả loài người nói chung). Ngay trong lòng nó, có thể nảy sinh những xu hướng đi ngược với sự phát triển lịch sử tự nhiên của nó, có khi bắt nguồn từ những hình thái xã hội trước đó: Xu hưóng kỹ trị, coi sự phát triển của kỹ thuật là giá trị cao nhất và là cứu cánh của sự phát triển; Xu hướng tự nhiên nguyên thủy, coi việc quay trở lại với những lối sống ban đầu của con người là phương tiện và cứu cánh; Xu hướng chuyên chế gắn liền với xu hướng vô chính phủ; Xu hướng san bằng mọi đặc thù địa phương và cá nhân gắn liền với xu hướng ích kỷ địa phương và cá nhân; ...vân vân và vân vân... Những hiện tượng thoái hóa về nhân cách, phi nhân tính và độc quyền vẫn có thể xuất hiện ở những mức độ không thể coi thường. Và cả trong mối quan hệ với tự nhiên, vẫn có thể xẩy ra những hiện tượng vi phạm cân bằng sinh thái do những tính toán sai lầm gây ra. Và, cuối cùng, những ảo tưởng vạn năng của con người đối với tự nhiên và đối với chính bản thân con người, vi tư cách một bộ phận của tự nhiên, cũng có thể dẫn tới những nguy cơ không nhỏ. 14. Hình thái xã hội tương lai ấy không phải là hình thái xã hội chủ nghĩa, dù có thêm những tính từ “phát triển”, “hoàn thiện”, “có bộ mặt dân chủ và nhân đạo”, v.v... Và do đó, cũng không thể gọi là xã hội cộng sản chủ nghĩa. Những khái niệm “chủ nghĩa xã hội”, “chủ nghĩa cộng sản” đã xuất hiện từ nhận thức và hiện thực trong quá khứ, như đã nói trên đây. Trong bối cảnh thế giới hiện đại, khi loài người tiến bước vào nền văn minh mới với triển vọng mở ra một hình thái xã hội mới, thì những khái niệm “chủ nghĩa xã hội”, “chủ nghĩa cộng sản” trở nên không thích hợp nữa. Trong đời sống hiện thực, những khái niệm ấy chưa mất hết giá trị của chúng, nhưng đứng về mặt triển vọng lịch sử mà xét, chúng đã bị vượt qua. Đây chắc chắn là điểm gây “choáng” mạnh nhất đối với những ai đã từng coi chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là lý tưởng của mình (trong đó có cả bản thân người viết những dòng này). Nhưng hãy thật tỉnh táo về nhận thức lý luận, đừng để cho bất cứ một khái niệm lịch sử nào đông cứng lại và không thể bị thay thế bằng những khái niệm khác, một khi đời sống hiện thực đòi hỏi phải làm như thế, dù rằng điều đó có gây ra những xúc cảm đau đớn như thế nào chăng nữa. Sở dĩ không gọi hình thái xã hội mới trong tương lai có thể nhìn thấy của loài người (vào giữa thế kỷ XXI, chẳng hạn) là “chủ nghĩa xã hội” coi như một giai đoạn cần thiết để tiến lên “xã hội cộng sản”, là vì những khái niệm ấy không đủ sức chứa đựng những nội dung cơ bản của hình thái xã hội mới. Một số điểm nội dung của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, chủ yếu những nội dung mang tính lý tưởng của chúng, vẫn có thể tồn tại trong khái niệm hình thái xã hội mới, nhưng nhiều điểm nội dung của chúng không còn thích hợp với khái niệm này nữa. Khái niệm “chủ nghĩa xã hội” lấy “cái xã hội” (le social) làm điểm xuất phát và nền tảng tổ chức xã hội. Điều đó có nghĩa là gì? Sở hữu xã hội giữ vai trò thống trị và phổ biến trong toàn xã hội. Khái niệm này bắt nguồn từ trạng thái xã hội hóa sản xuất và lao động dưới những hình thức sản xuất đại công nghiệp. Dù sở hữu xã hội được hiểu một cách khác nhau (Nhà nước, tập thể...), thì tính xã hội của nó vẫn là thuộc tính chủ yếu và có thể nói là duy nhất. Trong “chủ nghĩa xã hội”, không thể tồn tại “sở hữu tư nhân” đã đành, mà cũng không có cả “sở hữu cá nhân” về tư liệu sản xuất. Còn hình thái xã hội mới dựa trên nền văn minh mới thì chấp nhận những chế độ sở hữu khác nhau, cả xã hội lẫn cá nhân (tư nhân), trong những quan hệ qua lại hữu cơ của chúng; Một khi trong xã hội chỉ tồn tại chế độ sở hữu xã hội, thì dù có nhấn mạnh đến “cái cá nhân”, dù có “sắp xếp” mối quan hệ giữa cái “cá nhân” một cách “biện chứng” đến đâu đi nữa, “cái xã hội’ vẫn giữ địa vị hàng đầu, ưu tiên, còn “cái cá nhân” vẫn bị đẩy xuống hàng thứ hai. Bản thân tên gọi “chủ nghĩa xã hội” đã lấy “cái xã hội” làm tiền đề và cơ sở rồi. Trong khi đó, hình thái xã hội mới lại lấy các cá nhân trong các quan hệ xã hội của chúng làm điểm xuất phát và nền tảng, ít ra cũng đặt “cái cá nhân” và “cái xã hội” trong quan hệ ngang nhau, phụ thuộc lẫn nhau, thúc đẩy nhau, cái này không đè bẹp cái kia; Từ điểm xuất phát và nền tảng tổ chức xã hội là “cái xã hội”, mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội vẫn là “cái xã hội”, nhiều lắm cũng chỉ “dung thứ” cho “cái cá nhân” đến một mức độ nhất định, chứ không thể lấy “cái cá nhân” làm cứu cánh, dù rằng về lý thuyết có thể nói tới (và cũng đang nói tới) điều này. Trong khi đó, “cái cá nhân” được coi là “cứu cánh” của hình thái xã hội mới. Khái niệm “chủ nghĩa cộng sản”, cũng tương tự như thế, chỉ đẩy tới cùng những nội dung của chủ nghĩa xã hội. (Nhân đây, xin nói rằng, trong một số tiếng châu Á - như Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam - thuật ngữ này được dịch không đúng. Không phải là “chủ nghĩa cộng sản” [tức không phải chỉ tính tới tập trung tài sản xã hội thành của chung] mà đúng ra là “chủ nghĩa cộng đồng”). Dù có nói tới “chủ nghĩa cộng sản văn minh” để phân biệt và đối lập với “chủ nghĩa cộng sản nguyên thủy”, thì “cái cộng đồng” vẫn giữ địa vị thống trị, chi phối. Trong một số trường hợp, việc tiếp tục sử dụng khái niệm “chủ nghĩa xã hội” và “chủ nghĩa cộng sản” là có thể hiểu được trong một thời gian nhất định (sẽ nói trong một đoạn sau), nhưng thật ra những khái niệm này, nhất là khái niệm “chủ nghĩa xã hội”, trong những trường hợp ấy cũng đang dần dần mất đi nội hàm ban đầu của chúng, mà chủ yếu chỉ còn có ý nghĩa tâm lý - xã hội. Ngay hiện nay, ở một số nước Đông Âu, khái niệm “chủ nghĩa xã hội” đã bị loại ra khỏi tên quốc gia, khỏi hiến pháp. Điều đó có thể cắt nghĩa một phần bằng thái độ phủ nhận chủ nghĩa xã hội trong các tầng lớp quần chúng nhân dân đông đảo (kể cả trong những tầng lớp lao động) do những thực tế đáng buồn của “chủ nghĩa xã hội hiện thực” đem lại cho họ trong hơn bốn mươi năm vừa qua. Nhưng không phải chỉ có thế. Điều đó cũng có thể được cắt nghĩa bằng sự phủ nhận khái niệm “chủ nghĩa xã hội” ở một bộ phận xã hội, chủ yếu là những nhà trí thức có tầm nhìn rộng lớn, như trường hợp viện sĩ Sakharôv dự thảo hiến pháp mới của Liên Xô trước khi ông mất, do nhận thấy khái niệm ấy không có triển vọng về mặt khoa học. 15. Hình thái xã hội mới, phù hợp với trình độ văn minh mới của loài người, chưa xuất hiện dưới dạng hoàn chỉnh, thậm chí cũng chưa hình thành thật rõ nét ở bất cứ đâu. Nhưng những yếu tố này hay những yếu tố khác của nó thì đã hình thành từ trong các chế độ xã hội hiện có - tư bản chủ nghĩa cũng như xã hội chủ nghĩa. Nói cách khác, các chế độ hiện có, ở những mức độ khác nhau, đang chứa đựng những khả năng chuyển sang hình thái xã hội mới. Và sự chuyển biến này đối với những nước có trình độ phát triển kinh tế cao - hiểu theo nghĩa đã trở thành những nước công nghiệp - là có tính chất trực tiếp. Các nước tư bản chủ nghĩa phát triển phương Tây không cần phải chuyển thành xã hội chủ nghĩa để tiến tới hình thái xã hội mới. Cũng vậy, các nước xã hội chủ nghĩa không cần phải quay trở lại chủ nghĩa tư bản để tiến tới hình thái đó. Những trường hợp khác, chủ yếu là các nước đang phát triển, chưa đạt tới trình độ một nước công nghiệp, tình hình có thể khác. Ở đây, còn phải trải qua nhiều bước chuẩn bị cho bước chuyển căn bản đó, nhưng thời gian của những bước chuyển ấy không nhất thiết phải là hàng thế kỷ như sự vận động lịch sử trước đây, mà sẽ chịu tác động của “lực gia tốc” trong thời đại mới. Trên kia có nói tới sự vận động theo phương trình biện chứng của lịch sử: chủ nghĩa tư bản (khẳng định) - chủ nghĩa xã hội (phủ định) - hình thái xã hội mới (phủ định của phủ định). Thật ra, cách nói ấy cũng không chính xác. Sự vận động biện chứng ấy sẽ không diễn ra bằng những “lát cắt lịch sử” rành rọt và kế tiếp nhau như vậy, hết “lát cắt” này dến “lát cắt” khác. Sự vận động biện chứng ấy cần được hiểu theo một cách khác. Những yếu tố phủ định nằm ngay trong hình thái khẳng định, để rồi trải qua phủ định của phủ định và chuyển thành hình thái khác, cao hơn. Chế độ xã hội chủ nghĩa, do đó, không phải được hiểu là sự phủ định chế độ tư bản chủ nghĩa với điều kiện bắt buộc phải trở thành một hình thái riêng, sau đó lại bị phủ định để trở thành hình thái xã hội mới. Ngược lại, chế độ xã hội chủ nghĩa cũng không phải bị hình thái tư bản chủ nghĩa phủ định, để sau đó lại bị hình thái xã hội mới phủ định. Sự vận động biện chứng diễn ra đối với cả hai chế độ hiện có, tư bản chủ nghĩa cũng như xã hội chủ nghĩa. Nghĩa là, ngay trong lòng mỗi chế độ ấy (ở một trình độ phát triển nhất định) đều có những yếu tố phủ định để rồi bị phủ định một lần nữa bởi hình thái xã hội mới. Từ quan niệm đó, hãy xét xem sự chuyển biến căn bản của mỗi hình thái xã hội hiện có sang hình thái xã hội mới sẽ có thể diễn ra như thế nào (tất nhiên, đây chỉ là những dự cảm trên những nét lớn). 16. Trước hết, chế độ tư bản chủ nghĩa. Nói cụ thể và chính xác hơn, các nước tư bản chủ nghĩa phát triển đang bước vào nền văn minh mới của loài người. Ở đây đã có một số tiền đề vật chất, kinh tế, xã hội, chính trị và tư tưởng cho sự chuyển biến ấy. (Trong đề cương này, không phân tích quá trình tiến hóa của chủ nghĩa tư bản từ cổ điển lên hiện đại, mà coi chủ nghĩa tư bản hiện đại là căn cứ xuất phát). Về cơ sở vật chất (sản xuất vật chất của xã hội), chủ nghĩa tư bản hiện đại đang chuyển sang thời đại hậu công nghiệp theo những làn sóng kế tiếp nhau của cách mạng khoa học và công nghệ. Trình độ trưởng thành về cơ sở vật chất của nó chính là tiền đề vật chất, là cơ sở vật chất, của hình thái xã hội mới. Về kinh tế, một số quá trình mới đang diễn ra là tiền đề kinh tế cho hình thái xã hội mới, trong đó nổi bật lên hai quá trình: quốc tế hóa, toàn cầu hóa các quan hệ kinh tế và “nhỏ hóa”, “cá nhân hóa” các quan hệ sở hữu tư bản chủ nghĩa. Đó là hai quá trình ngược chiều - một quá trình có xu hướng vĩ mô hóa, quá trình kia có xu hướng vi mô hóa - nhưng đều nằm trong sự tiến hóa của loài người về mặt đời sống kinh tế, và đều đáp ứng với yêu cầu của con người với tư cách loài (tộc loại) và với tư cách cá thể (cá nhân). Về quá trình thứ nhất, người ta đã biết tới nhiều, nhưng về quá trình thứ hai, người ta chưa biết mấy vì nó chỉ mới bắt đầu và vì những định kiến có tính chất hệ tư tưởng. Về xã hội, rõ ràng cũng đang xuất hiện những tiền đề cho hình thái xã hội mới, trước hết trong lĩnh vực lao động xã hội (tính chất lao động, cơ cấu lao động, v.v...). Trình độ phát triển sản xuất hiên đại, dựa trên cơ sở cách mạng khoa học và công nghệ, đang làm biến đổi sâu sắc và căn bản lĩnh vực lao động xã hội. Lao động chân tay bị thu hẹp và xóa bỏ dần, lao động trí óc tăng lên theo cấp số nhân (cả về số lượng lẫn chất lượng). Lao động trực tiếp sản xuất vật chất ngày càng giảm bớt, còn lao động phục vụ và dịch vụ xã hội ngày càng tăng lên. Giai cấp công nhân công nghiệp sẽ không còn chiếm đại đa số trong những người lao động, cũng tức là sẽ không đóng vai trò quyết định trong sản xuất xã hội và, do đó, trong đời sống xã hội, trong tiến bộ xã hội; thay vào đó là đội ngũ những người lao động sáng tạo, quản lý và điều hành (có thể gọi chung là “lao động có chất lượng cao” (travail hautement qualifié). Những biến đổi về cơ sở vật chất, quan hệ kinh tế và xã hội ấy được phản ảnh ở những mức độ khác nhau vào đời sống chính trị ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Chế độ dân chủ dưới chủ nghĩa tư bản, thường bị gọi sai là “dân chủ tư sản”, đang trải qua những thay đổi lớn theo chiều hướng dân chủ hóa cao hơn với chủ nghĩa đa nguyên chính trị, trong đó các đảng truyền thống cũng đang trải qua những biến đổi về nội dung và hình thức, từ các đảng phái tả sang các đảng phái hữu. (Đây chính là điều chủ yếu cắt nghĩa tại sao các đảng cộng sản ở các nước tư bản phương Tây ngày càng bị giảm sút ảnh hưởng và tất yếu phải biến thành các đảng phái tả kiểu mới). Chế độ đa nguyên chính trị ở các nước này, tuy về cơ bản vẫn còn bị các thế lực tư bản chủ nghĩa lũng đoạn, nhưng cũng đang tạo ra những tiền đề tổ chức chính trị của hình thái xã hội mới. Về đời sống văn hóa và tư tưởng, cũng có thể nói như vậy. Ở đây đã và đang hình thành những giá trị văn hóa và tư tưởng tiến bộ mang hai mặt gắn bó với nhau: những giá trị có ý nghĩa toàn nhân loại và những giá trị mang tính độc đáo cá nhân. Chủ nghĩa đa nguyên về văn hóa và tư tưởng tỏ ra có hiệu quả hơn đối với các quá trình sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa. Ở đây không có “chân lý tối thượng”, “cuối cùng” và mang tính áp đặt. Tất cả những tiền đề ấy tạo ra mảnh đất thuận lợi để các nước tư bản chủ nghĩa chuyển sang hình thái xã hội mới. Nói cách khác, những yếu tố khác nhau của hình thái xã hội mới đã có sẵn ngay trong lòng chủ nghĩa tư bản hiện đại. (Nhớ lại một luận điểm của Stalin: trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa không có những yếu tố có sẵn cho chủ nghĩa xã hội. Một luận điểm rất siêu hình!). Nhưng sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản hiện đại sang hình thái xã hội mới chắc chắn sẽ phải diễn ra dưới trạng thái cách mạng. Cách mạng ở đây không phải được hiểu như một hay nhiều hành vi bạo lực, dù rằng không thể loại bỏ khả năng này một cách tuyệt đối, mà như những bước nhảy về chất trong các lĩnh vực đời sống xã hội, chủ yếu trong lĩnh vực quan hệ sở hữu kinh tế và quyền lực chính trị. Các tập đoàn tư bản lớn, các thế lực chính trị tư bản chủ nghĩa (và cả các mafia) không rời bỏ vị trí của chúng một cách êm thấm. Ý thức sùng bái tư hữu tuyệt đối và phổ biến cũng như chủ nghĩa cá nhân con đẻ của nó (đặc biệt là chủ nghĩa cá nhân cực đoan) không tự kết thúc một cách dễ dàng. Những cuộc đấu tranh xã hội sẽ diễn ra với những cường độ khác nhau, kể cả những hình thức quyết liệt của quần chúng đông đảo. Những phong trào xã hội (chống bóc lột kinh tế, chống hủy hoại môi trường sinh thái, chống bất bình đẳng nam nữ, chống phân biệt chủng tộc, dân tộc, tôn giáo, v.v...) sẽ phát triển mạnh mẽ, bao gồm các tầng lớp nhân dân rộng rãi, trong đó trí thức đóng vai trò chủ đạo. Không thể dự kiến sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản sẽ kéo dài đến bao giờ, nhưng sự kết thúc của nó để nhường chỗ cho hình thái xã hội mới là chắc chắn và, trong một số trường hợp, là có thể nhìn thấy về mặt lịch sử. Một số nước phát triển ở phương Tây hiện nay cũng đã báo trước điều đó (Thụy Điển là một ví dụ). Cũng không thể khẳng định sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản hiện đại sang hình thái xã hội mới là một con đường thẳng, không có những khúc quanh và những bước giật lùi. Có thể xẩy ra những “thời kỳ phản động” ở nước này hay nước khác, nhưng những thời kỳ như vậy sẽ không kéo dài nhiều thập kỷ như trước đây. Nói chung, chủ nghĩa tư bản hiện đại sẽ chuyển sang hình thái xã hội mới qua các cuộc đấu tranh ngay trong bản thân nó giữa các lực lượng xã hội khác nhau, đối lập nhau, theo hướng dân chủ hóa và nhân đạo hóa. 17. Vấn đề chuyển sang hình thái xã hội mới ở các nước xã hội chủ nghĩa hiện có là vấn đề phức tạp hơn nhiều. Đối với các nước này, đó là một con đường vòng, tốn nhiều thời gian và phải trả nhiều phí tổn hơn. Bởi vì, như trên đã nói, với hình thức “chủ nghĩa xã hội Nhà nước”, các nước này đã tách khỏi “con đường lớn” của nền văn minh loài người trong một thời gian khá dài, do đó, phải mất một thời gian cũng khá dài nữa để trở lại với những thành tựu mà văn minh loài người đã đạt được (kinh tế thị trường, chế độ dân chủ, những giá trị tinh thần toàn nhân loại...). Quá trình này không thể không kết hợp với một quá trình khác cũng đòi hỏi không ít thời gian để chuyển sang nền văn minh mới của loài người mà các nước phát triển phương Tây đang bước vào. Hai quá trình này phải nhập chung lại làm một, được tiến hành đồng thời. Ở đây, một yêu cầu tất yếu được đặt ra: tiến bước theo những nhịp độ gia tốc. Nhưng dù có đạt được những nhịp độ ấy, cũng không thể quan niệm thời gian chuyển biến ấy sẽ ngắn. Sự chuyển biến sang hình thái xã hội mới ở đây phải tính bằng nhiều thập kỷ. Vấn đề tuyệt nhiên không phải là quay trở lại quá trình phát triển tư bản chủ nghĩa. Bởi vì, không những chủ nghĩa tư bản dưới mọi hình thức của nó, kể cả hình thức hiện đại, đã lỗi thời về mặt lịch sử, mà vì ngay trong bản thân các nước xã hội chủ nghĩa cũng có một số tiền đề nhất dịnh cho sự chuyển biến này. Những tiền đề ấy không nhiều và không cao như ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, nhưng không phải không có. Về cơ sở vật chất, nói chung các nước xã hội chủ nghĩa vẫn còn nằm trong trạng thái văn minh công nghiệp, nhưng cũng đã có những chuẩn bị nhất định về tri thức khoa học và phương tiện vật chất cho văn minh hậu công nghiệp, tin học. Về mặt xã hội, cũng đã hình thành một số yếu tố cho sự chuyển biến này: một đội ngũ trí thức đông đảo, trong đó có không ít những người đạt tới tầm cỡ thế giới; một số cơ chế phúc lợi xã hội nhằm bảo đảm công bằng xã hội và bảo hiểm xã hội đã được thiết lập khá vững chắc, dù vẫn còn có những bất hợp lý và biến dạng... Về mặt chính trị, tình trạng mất dân chủ của “chủ nghĩa xã hội Nhà nước” đã loại bỏ sự tham gia của quần chúng vào đời sống chính trị, làm cho các cá nhân công dân bị tách khỏi các quá trình quản lý Nhà nước và xã hội một cách phổ biến, nhưng chính nó, khi bị khủng hoảng sâu sắc và gay gắt, lại tạo thành mặt đối lập của nó: từ “phải chính trị hóa”, các công dân nói chung chuyển sang “chính trị hóa”. Như vậy, những tiền đề chính trị của hình thái xã hội mới, trong đó các cá nhân công dân tham gia đời sống chính trị một cách trực tiếp lại được tạo ra ở một trình độ khá cao. Về mặt tinh thần và tư tưởng, có thể nói chủ nghĩa xã hội, bất chấp những biến dạng và biến chất của nó, đã và đang nuôi dưỡng những giá trị công bằng xã hội ở một chiều sâu không thể lay chuyển được. Chính những lý tưởng xã hội chủ nghĩa - những giá trị tinh thần cao nhất của chủ nghĩa xã hội đã ăn sâu vào ý thức của quần chúng nói chung, của các cá nhân nói riêng - có thể chuyển thành một sức mạnh xã hội, “sức mạnh vật chất” như Mác nói. Và có thể coi đó là tiền đề quan trọng nhất để chuyển sang hình thái xã hội mới. Tất nhiên, về mặt này, cũng phải làm những sự “thanh lọc” hết sức khó khăn để loại bỏ thứ “chủ nghĩa tập thể thô thiển”, “chủ nghĩa bình quân”... khỏi ý thức xã hội. Nếu đem so sánh với những tiền đề chuyển sang hình thái xã hội mới ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, thì ở các nước xã hội chủ nghĩa những tiền đề ấy có yếu hơn - và yếu hơn nhiều - về cơ sở vật chất, kinh tế và về các thể chế dân chủ, nhưng lại có thể mạnh hơn về ý thức chính trị và xã hội của quần chúng, với tư cách tập hợp các cá nhân công dân. Và trong lịch sử vẫn thường xẩy ra những trường hợp các nước đi sau về trình độ phát triển ở những mặt nào đó lại có thể vượt lên nhanh chóng bằng những biến đổi cách mạng, trong khi các nước có trình độ phát triển cao hơn vẫn còn chịu tác động của “lực ỳ”. Tình trạng kém phát triển hơn không phải là một định mệnh. Điều này không có nghĩa là các nước xã hội chủ nghĩa có thể chuyển sang hình thái xã hội mới một cách dễ dàng. Không, sự chuyển biến này diễn ra, như thực tế đang chứng tỏ, một cách đau đớn và quyết liệt. Nếu ở các nước tư bản phát triển, sự chuyển sang hình thái xã hội mới vấp phải sức chống đối của những thế lực thống trị phản động, thì ở các nước xã hội chủ nghĩa, tình hình cũng như thế, nếu không muốn nói là khó khăn hơn. Những thế lực thống trị cũ trong xã hội theo “chủ nghĩa xã hội Nhà nước” - có thể gọi chung đó là một tầng lớp quan liêu, thậm chí một giai cấp quan liêu, mang tính độc tôn, do đó cũng mang ý thức độc tôn, chỉ có thể so sánh với đẳng cấp quí tộc trước kia - sẽ chống phá quá trình chuyển sang hình thái xã hội mới với đủ thứ vũ khí trong tay, từ những tổ chức cảnh sát và quân đội còn nắm được để đe dọa tinh thần quần chúng, sự lũng đoạn tư tưởng đối với những bộ phận khá lớn trong xã hội, và bản thân những bộ phận quần chúng ấy, do ngập sâu vào sự tha hóa mà “chủ nghĩa xã hội Nhà nước” tạo ra bằng các hình thức bao cấp, cũng trở thành “cơ sở xã hội” cho thế lực thống trị quan liêu cũ. Dù bắt đầu bằng cách nào, sự chuyển biến này chỉ có thể thực hiện được bằng sức mạnh của đông đảo quần chúng trong xã hội, một sức mạnh phải đạt tới trình độ áp đo và tự giác cao. 18. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, sự chuyển tiếp sang hình thái xã hội mới phải trải qua một “giai đoạn quá độ”, nếu có thể gọi như vậy. Trong giai đoạn này, những vận động “đổi mới chủ nghĩa xã hội” được tiến hành dưới những hình thức khác nhau (đổi mới, cải tổ, cải cách). Mục tiêu của những vận động này thường được nêu lên như để đem lại “bộ mặt mới” cho chủ nghĩa xã hội; những từ ngữ thường dùng là “chủ nghĩa xã hội nhân đạo và dân chủ”... Và thuật ngữ được chấp nhận một cách khá phổ biến là “chủ nghĩa xã hội dân chủ” để đối lập với “chủ nghĩa xã hội Nhà nước, quan liêu, toàn trị ”. Thuật ngữ “chủ nghĩa xã hội dân chủ” cũng được chính thức đưa ra trong tuyên ngôn mới đây của Quốc tế xã hội chủ nghĩa. Như vậy, có thể coi “giai đoạn quá độ” này là giai đoạn “chủ nghĩa xã hội dân chủ”. “Chủ nghĩa xã hội dân chủ” vẫn tự coi là đi theo chủ nghĩa xã hội, được thực hiện trong khuôn khổ chủ nghĩa xã hội. Nghĩa là khái niệm “chủ nghĩa xã hội” vẫn là khái niệm gốc. Điều đó có thể cắt nghĩa bằng hai lý do. Thứ nhất, đối với không ít người mác-xít, tư duy triết học xã hội vẫn còn dừng lại ở học thuyết “chủ nghĩa xã hội khoa học” được đề ra từ giữa thế kỷ trước (thế kỷ XIX), tuy có những “điều chỉnh”, “bổ sung” nhất định cho phù hợp với hiện thực mới. Những tiếng nói mang xu hướng xem xét lại một cách triệt để và từ bỏ học thuyết “chủ nghĩa xã hội khoa học” mới chỉ là những tiếng nói lẻ tẻ, đơn độc trong những người mác-xít. (ngay trong khi viết những dòng này, tôi vừa đọc một bài viết ngắn rất thú vị của một nhà xã hội học theo xu hướng mới này: Vadim Bielotserkovski ở Munich, trong Nouvelles de Moscou số 52, 1989). Phải mất một thời gian không phải là ít xu hướng này mới có thể phát triển thành một trào lưu mới (hoặc bị cuộc sống bác bỏ, ai biết được!). Thứ hai, từ gần hai thế kỷ nay, chủ nghĩa xã hội đã trở thành một di sản tinh thần thấm sâu vào ý thức của các tầng lớp lao động nghèo khổ, hơn nữa, một bộ phận những người trí thức tiến bộ cũng coi nó là một giá trị tinh thần của tiến bộ xã hội, thậm chí là giá trị tinh thần cao nhất. Vì thế, nó mang một sức mạnh tâm lý - đạo đức rất lớn. Đặc biệt, ở các nước xã hội chủ nghĩa, nó trở thành lý tưởng và lẽ sống của số đông. Trừ bỏ giá trị tinh thần, giá trị tâm lý - đạo đức ấy không phải là một quá trình chóng vánh. ở đây quá trình ấy thường trải qua những bước kế tiếp nhau, theo lôgic của sự tự thể nghiệm. Lúc đầu coi những tật xấu dưới chủ nghĩa xã hội như là tàn dư của các chế độ xã hội cũ. Sau đó, như là hậu quả của những hư hỏng cá nhân của một số nhân vật lãnh đạo (“tệ sùng bái cá nhân”). Sau đó nữa coi đó là sự phá sản của một mô hình sai lầm của chủ nghĩa xã hội (“chủ nghiã xã hội Nhà nước”). Cuối cùng, từ bỏ “chủ nghĩa xã hội khoa học” nói riêng và chủ nghĩa xã hội nói chung, ngay ở những cơ sở lý thuyết của nó, nhưng đó là bước gay go nhất về mặt ý thức xã hội. Vì hai lý do ấy, có thể chấp nhận “chủ nghĩa xã hội dân chủ” như một khái niệm cần thiết, nói đúng hơn, như một khái niệm chuẩn bị cho sự từ bỏ khái niêm “chủ nghĩa xã hội” khi “chủ nghĩa xã hội dân chủ” chuyển sang hình thái xã hội mới. Nhưng đứng về mặt lý luận có thể coi “chủ nghĩa xã hội dân chủ” chính là giai đoạn tự phủ định của chủ nghĩa xã hội. Vì với nội dung nhân đạo, dân chủ, tự phát triển, tự hoàn thiện, nhất là với nội dung đa nguyên trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, thì đó không còn là “chủ nghĩa xã hội” theo nguyên nghĩa. Không nhận rõ điểm này, thì những vận động “đổi mới”, “cải tổ”, “cải cách” đang được tiến hành ở các nước xã hội chủ nghĩa lại vẫn chỉ là quay về với điểm xuất phát trừu tượng và lại lâm vào ngõ cụt. Ở các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay, cũng đã có một số người bắt đầu nhìn ra điều này và đã bắt đầu phát biểu công khai quan diểm của mình dưới những hình thức khác nhau. Không thể coi những tiếng nói ấy là “chống chủ nghĩa xã hội” theo cách nhìn quen thuộc. Nhưng rõ ràng những ý kiến ấy cũng chưa đủ sức thuyết phục vì “độ mỏng” về lý luận của nó. 19. Trong đề cương này, khi nói tới “hình thái xã hội mới” trong giai đoạn văn minh mới của loài người, hình thái đó chưa được đặt tên. Và cũng không nên đặt tên trước cho nó để tránh tình trạng trói nó vào những “nguyên tắc” nào đó, khiến nó chóng xơ cứng và lại rơi vào số phận của chủ nghĩa xã hội như lịch sử cho thấy. (Có lẽ trong các chế độ xã hội của loài người đã tồn tại cho đến nay, chỉ có một chế độ xã hội được đặt tên trước: chế độ xã hội chủ nghĩa). Một lý do nữa không kém phần quan trọng: không nên hiểu hình thái xã hội mới như một hình thái đơn nhất. Phải hiểu đó là nhiều hình thái khác nhau, có một số đặc trưng giống nhau nhưng lại có nhiều phương thức tồn tại và phát triển khác nhau. Xã hội loài người tương lai là một cộng đồng đa nguyên của các hình thái xã hội khác nhau. Viết từ ngày 1 đến ngày 15 tháng Giêng 1990 Nguồn: Những bài viết của Nguyễn Kiến Giang trong thập niên 90 được đăng rải rác trên báo chí trong ngoài nước, được chuyền tay hoặc chưa công bố, nay được tập hợp thành loạt bài “Suy tư 90” cho bản đăng chính thức trên talawas, với sự hiệu đính cuối cùng của tác giả. bản để in Ngôn ngữ Dịch thuật Tản văn thứ sáu Tủ sách talawas Nghệ thuật talaGallery Bàn tròn "Mĩ thuật đương đại Việt Nam đang ở đâu" Mĩ thuật Kiến trúc Điện ảnh Sân khấu Âm nhạc Tư tưởng Triết học Lịch sử Tôn giáo Phương Đông và Phương Tây Văn hoá và phát triển Chiến tranh nhìn từ nhiều phía
1614178347293.1.parquet/57523
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 28777, "url": "http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php/%3C/showFile.php?res=6877&rb=08" }
129.3
Tóm tắt sách: Sức mạnh của thói quen Trang chủ Đồ gia dụng Đồ thể thao Kinh nghiệm Sức khỏe Làm đẹp Góc chia sẻ Du lịch Ẩm thực Mẹo vặt gia đình Sách hay nên đọc Tài liệu miễn phí Search Home Sách hay nên đọc Tóm tắt sách: Sức mạnh của thói quen Tóm tắt sách: Sức mạnh của thói quen admin 13 Tháng Mười Hai, 2019 Leave a Comment Tweet on Twitter Share on Facebook Google+ Pinterest Bạn dậy lúc 6h, vệ sinh cá nhân lúc 6h5′, ăn sáng lúc 6h20′, đi làm lúc 7h. Ngồi làm việc trong phòng 8 tiếng đồng hồ. Ngày nào cũng lặp đi lặp lại chu trình ấy. Có khi nào bạn thấy chúng trở nên vô cùng nhàm chán? Nội dung Giới thiệu khái quát Ai nên đọc cuốn sách? Ai đã viết cuốn sách? Thông điệp chính trong cuốn sách này: Giới thiệu khái quát Sức Mạnh của Thói Quen giải thích tầm quan trọng của cách sử dụng thói quen trong cuộc sống của chúng ta, từ việc ta đánh răng đến hút thuốc hay tập thể dục, và những thói quen này chính xác được hình thành như thế nào. Các nghiên cứu và những câu chuyện trong Sức mạnh của thói quen cung cấp những mẹo để c thay đổi những thói quen cá nhân hay những thói quen theo tổ chức. Cuốn sách đã ở trong danh sách bán chạy nhất của New York Times 60 tuần. Ai nên đọc cuốn sách? Bất cứ ai muốn bắt đầu một thói quen tốt như tập thể dục thường xuyên, hoặc bỏ một thói quen xấu như thức ăn nhanh Bất cứ ai quan tâm đến việc bằng cách nào mà xu hướng hình thành thói quen của chúng ta đang bị thao túng bởi hệ thống Bất cứ ai muốn thực hiện những thói quen mới trong tổ chức của họ Ai đã viết cuốn sách? Charles Duhigg là một phóng viên điều tra được đề cử giải thưởng Pulitzer và là người viết bài cho tờ New York Times. Anh đã giành được nhiều giải thưởng và đã xuất hiện trên các chương trình truyền hình như Frontline và The News Hour với Jim Lehrer. MỘT: Thói quen là những vòng lặp gợi ý – hoạt động – khen thưởng đơn giản mà tiết kiệm công sức và khả năng chịu đựng. Não của chúng ta đang luôn tìm cách để tiết kiệm năng lượng. Nghiên cứu cho thấy rằng một trong những cách mà chúng làm được điều này là do biến các hoạt động thành thói quen. Xem thêm: Review sách: Ác quỷ Nam Kinh – Nỗi ám ảnh kinh hoàng của tội ác Amrita (Banana Yoshimoto) – Nước thánh cho tâm hồn Chiếc lá cuối cùng – Kiệt tác từ điều nhỏ bé Do đó, ngay cả một hành động phức tạp đòi hỏi sự tập trung lúc đầu, như lái xe ra khỏi đường cao tốc, cuối cùng trở thành một thói quen dễ dàng. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng có đến 40 phần trăm của các hành động mà bạn thực hiện mỗi ngày đều dựa vào thói quen và không phải dựa trên những quyết định có ý thức. Nói chung, bất kỳ thói quen có thể được chia thành một chuỗi ba giai đoạn: Trước tiên, bạn bị tác động bởi một yếu tố bên ngoài, ví dụ như, đồng hồ báo thức của bạn đổ chuông. Điều này tạo ra một tổng thể tăng vọt trong hoạt động của não bạn như thể bộ não của bạn quyết định những thói quen đó thích hợp cho tình hình. Tiếp đến là sự hành động thường ngày, có nghĩa là bạn đang quen dần việc thực hiện các hoạt động ấy khi đối mặt với những gợi ý đặc biệt này. Bạn đi vào phòng tắm và đánh răng và bộ não của bạn hầu như trên máy lái tự động. Cuối cùng, bạn nhận được một phần thưởng: một cảm giác của sự thành công, và trong trường hợp này, cảm giác của vị bạc hà tươi nhảy nhót trong miệng của bạn. Hoạt động tổng thể não bộ của bạn tăng lên một lần nữa như thể bộ não của bạn đã hành thành thành công chuỗi giai đoạn của hoạt động và tăng cường sự liên kết giữa các gợi ý và thói quen. Thói quen có khả năng phục hồi rất lớn: trong một số trường hợp, những người bị tổn thương não nghiêm trọng đến mức thậm chí không thể nhớ nổi nơi họ sống vẫn có thể tuân thủ những thói quen cũ của họ và nhận những cái mới. Điều này là do học hỏi và duy trì thói quen xảy ra trong hạch nền, một phần của bộ não của bạn có thể hoạt động bình thường ngay cả khi phần còn lại của bộ não bạn bị hư hỏng. Thật không may, khả năng phục hồi này có nghĩa là ngay cả khi bạn từ bỏ một thói quen xấu, như hút thuốc lá, bạn sẽ luôn luôn có nguy cơ tái phát. HAI: Thói quen tồn tại vì chúng tạo ra sự thèm khát. Hãy tưởng tượng kịch bản này: mỗi buổi chiều trong năm vừa qua, bạn đã mua và ăn chiếc bánh quy có vụn sô-cô-la nhiều đường ngon tuyệt từ các quán cà phê tại nơi làm việc của bạn. Gọi nó chỉ là một phần thưởng cho một ngày làm việc vất vả. Thật không may, như một vài người bạn đã chỉ ra, bạn đã bắt đầu tăng cân, vì vậy bạn quyết định từ bỏ thói quen. Nhưng bạn có hình dung được bạn sẽ cảm thấy muốn làm như vậy vào buổi chiều đầu tiên, đi ngang qua quán cà phê? Dám cá rằng, bạn có sẽ ăn “thêm chỉ một cái bánh quy nữa” hoặc bạn sẽ về nhà trong một tâm trạng rõ ràng gắt gỏng. Từ bỏ một thói quen xấu là rất khó bởi vì bạn thường có một sự thèm muốn cho phần thưởng ở cuối vòng lặp thói quen. Các nghiên cứu trên động vật đã chỉ ra rằng một khi chúng quen dần một thói quen gợi ý – hành động – khen thưởng đơn giản, bộ não của chúng bắt đầu dự đoán các phần thưởng ngay cả trước khi họ nhận được nó. Và một khi chúng dự đoán nó, nếu không cho chúng phần thưởng thực sự làm cho chúng thất vọng và rầu rĩ. Đây là cơ sở thần kinh của ham muốn. Ham muốn cũng có hiệu quả với các thói quen tốt. Nghiên cứu chỉ ra rằng những người dự định tập thể dục thường xuyên luôn thèm khát một cái gì đó từ việc tập, có thể là endorphin (Endorphin là chất dẫn truyền thần kinh trong não có tác dụng tạo cảm xúc tích cực, cải thiện tâm trạng) đang hối hả trong não của họ, cảm giác vừa hoàn thành hoặc những hành động họ cho phép mình làm sau đó. Sự thèm khát này một mình củng cố thói quen; tín hiệu và phần thưởng là không đủ. Các công ty và các nhà quảng cáo nghiên cứu rất chăm chỉ để hiểu và tạo cảm giác thèm muốn như vậy trong người tiêu dùng. Hãy xem xét Claude Hopkins, người đàn ông đã biến kem đánh răng Pepsodent trở nên phổ biến trong khi vô số loại kem đánh răng khác đã thất bại. Ông cung cấp một phần thưởng mà tạo ra sự thèm muốn: cụ thể là, cảm giác mát mẻ, ngứa ran mà ngày nay là yếu tố cơ bản của mọi loại kem đánh răng. Cảm giác đó không chỉ “chứng minh” rằng sản phẩm đã thành công trong tâm trí của người tiêu dùng; nó cũng đã trở thành một phần thưởng hữu hình mà họ bắt đầu thèm khát. BA: Để thay đổi một thói quen, thay thế các hành động thường ngày với một hành động khác và tin vào sự thay đổi. Hỏi bất kỳ người hút thuốc đang muốn bỏ thuốc lá: khi thèm nicotine, thật khó để bỏ qua. Do đó, mẹo là vẫn đáp ứng sự thèm muốn, nhưng với một cái gì đó khác với hút thuốc. Đây là quy tắc vàng của việc thay đổi bất kỳ thói quen: không cưỡng lại ham muốn, chuyển hướng nó. Giữ nguyên các gợi ý và phần thưởng, nhưng thay đổi các thói quen mà xảy đến như là kết quả của sự thèm muốn. Nghiên cứu cho thấy rằng một trong những tổ chức thay đổi-thói quen nổi tiếng nhất trên thế giới sử dụng phương pháp này đem lại hiệu quả tuyệt vời. Alcoholics Anonymous (AA – tạm dịch: những người nghiện rượu vô danh) có thể đã giúp khoảng mười triệu người nghiện rượu đạt được tỉnh táo. AA hỏi những người tham gia liệt kê chính xác những gì họ thèm muốn từ việc uống rượu. Thông thường, các yếu tố như sự thư giãn và tính đồng hành quan trọng hơn nhiều so với ngộ độc thực sự. AA sau đó cung cấp cho cho sự thèm khát những thói quen mới, chẳng hạn như đi đến các cuộc họp và nói chuyện với các nhà tài trợ để có được sự đồng hành, thay thế một cách hiệu quả việc uống rượu với một cái gì đó ít gây hại. Mặc dù điều này thành công khá tốt nói chung, hoàn cảnh căng thẳng có thể gây tái phát. Ví dụ, một bợm nhậu đang hồi phục đã tỉnh táo trong nhiều năm khi mẹ anh gọi đến nói rằng mình bị ung thư. Sau khi cúp máy, ông rời công việc và đi thẳng đến một quán bar, và sau đó, theo như thú nhận, đã “say khướt trong hai năm tiếp theo.” Nghiên cứu chỉ ra rằng điều phân biệt tái phát và tiếp tục tỉnh táo là niềm tin. Tâm linh và Thiên Chúa nổi bật trong triết lý AA, nhưng nguyên nhân không nhất thiết phải là yếu tố tôn giáo tự bản thân giúp mọi người tiếp tục tỉnh táo. Tin vào Thiên Chúa sẽ giúp người tham gia cũng tin vào khả năng thay đổi cho bản thân, điều làm cho họ mạnh mẽ hơn khi đối mặt với các thăng trầm cuộc sống. BỐN: Bạn có thể thay đổi được nếu tập trung vào những thói quen mang yếu tố quyết định và đạt được những chiến thắng nho nhỏ. Khi cựu quan chức chính phủ Paul O’Neill trở thành Giám đốc điều hành của công ty nhôm Alcoa vốn đang đứng trước bờ vực, nhà đầu tư tỏ ra nghi ngờ. Họ cũng không giảm nỗi lo âu đi khi nhìn vào thực tế với lợi nhuận và các khoản thu, O’Neill tuyên bố rằng ưu tiên số một của ông là an toàn ở nơi làm việc. Một nhà đầu tư ngay lập tức nói với khách hàng của ông ấy, “Hội đồng để một kẻ lập dị điên rồ phụ trách và ông ta sẽ giết các công ty.” Nhưng điều này hiển nhiên không như dự đoán, vì O’Neill đã xoay chuyển tình thế của Alcoa, tăng thu nhập hàng năm lên gấp 5 lần. Ông hiểu rằng những thói quen cũng tồn tại trong tổ chức và rằng, nếu anh muốn thay đổi số phận của Alcoa, ông cần phải thay đổi thói quen của mình. Nhưng không phải tất cả những thói quen đều bình đẳng. Một số thói quen, được cho là thói quen then chốt, quan trọng hơn những cái khác, bởi vì tôn trọng chúng tạo ra hiệu ứng tích cực mà có thể lan sang các khu vực khác. Ví dụ, nghiên cứu chỉ ra rằng các bác sĩ có lúc khó khăn trong việc khiến những người béo phì thay đổi lớn trong lối sống, nhưng khi bệnh nhân tập trung vào việc phát triển một thói quen thiết yếu, như giữ một tạp chí thực phẩm cẩn thận, những thói quen tích cực khác cũng bắt đầu bén rễ. Bằng cách nhấn mạnh rằng an toàn lao động là trên hết, O’Neill buộc các nhà quản lý và nhân viên phải suy nghĩ về cách quy trình sản xuất có thể trở nên an toàn hơn và làm thế nào để những lời để xướng có thể được thông báo cho tất cả mọi người một cách tốt nhất. Kết quả cuối cùng là một sắp xếp vô cùng hợp lý, và do đó tổ chức sản xuất có lợi nhuận. Lý do một thói quen then chốt có hiệu quả là nó đem lại các chiến thắng nho nhỏ, có nghĩa là khá dễ dàng để đạt được thành công ban đầu khá. Đạt được những thói quen then chốt giúp bạn tin rằng sự thay đổi trong các góc khác của cuộc sống là có thể, cũng như, bắt đầu một loạt những thay đổi tích cực. NĂM: Sức mạnh ý chí là thói quen then chốt quan trọng nhất. Một nghiên cứu nổi tiếng của Đại học Stanford đã cho thấy rằng những đứa trẻ bốn tuổi với nhiều sức mạnh ý chí hơn (được mô tả bằng khả năng để chống lại sự cám dỗ của một cái kẹo dẻo ngon tuyệt) đã tiếp tục cải thiện cuộc sống về mặt học tập và về mặt xã hội hơn so với các bạn cùng trang lứa ít quyết tâm hơn. Sức mạnh ý chí, dường như, cũng là một thói quen then chốt có thể được áp dụng cho các mặt khác của cuộc sống. Nghiên cứu sâu hơn cho thấy rằng ý chí về thực tế là kĩ năng có thể học được. Nhưng tại sao sau đó ý chí của chúng ta tương phản nhau? Một số ngày tập thể dục không thành vấn đề, trong khi đó, với những ngày khác, bước ra khỏi chiếc ghế sofa là gần như không thể. Hóa ra, ý chí thực sự giống như một cơ bắp: nó có thể trở nên mệt mỏi. Nếu bạn kiệt sức với nó và đang tập trung vào nó, ví dụ như, một bảng tính tẻ nhạt trong công việc, bạn có thể không còn ý chí nào để bước ra khỏi nhà. Nhưng sự giống nhau còn tiếp tục xa hơn: bằng việc hấp dẫn với những thói quen đòi hỏi độ sự quyết tâm – ví dụ như, tôn trọng một chế độ ăn uống nghiêm ngặt – bạn thực sự có thể tăng cường sức mạnh ý chí của bạn. Đó là một cách tập luyện ý chí, nếu bạn muốn. Nhưng các yếu tố khác cũng có thể ảnh hưởng đến sức mạnh ý chí của bạn. Ví dụ, Starbucks thấy rằng hầu hết các ngày, tất cả các nhân viên của mình có sức mạnh ý chí để mỉm cười và vui vẻ, bất kể họ cảm thấy như thế nào. Nhưng khi mọi việc trở nên căng thẳng – ví dụ, khi khách hàng bắt đầu la hét – họ sẽ mất sự bình tĩnh. Dựa trên nghiên cứu, giám đốc điều hành quyết định rằng nếu nhân viên pha chế chuẩn bị tinh thần cho tình huống khó chịu và lên kế hoạch làm thế nào để vượt qua chúng, họ có thể tập hợp đủ ý chí để làm theo kế hoạch cả khi chịu đựng áp lực. Các nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng sự thiếu tự chủ cũng ảnh hưởng xấu đến sức mạnh ý chí. Nếu người ta làm một cái gì đó bởi vì họ được ra lệnh phải làm chứ không phải do chính bản thân lựa chọn, “cơ bắp” sức mạnh ý chí của họ sẽ cảm thấy mệt mỏi nhanh hơn nhiều. SÁU: Thói quen theo tổ chức có thể nguy hiểm, nhưng ta có thể thay đổi chúng bằng một cuộc khủng hoảng. Nghiên cứu cho thấy nhiều tổ chức đang được thúc đẩy bởi những thói quen tổ chức không chính thức, điều mà đã nổi lên giữa các nhân viên theo thời gian, chứ không phải là bất kỳ quy trình ra quyết định có chủ ý. Hãy xem xét các tàu điện ngầm London vào năm 1987. Trách nhiệm trong việc điều hành dưới mặt đất được chia thành nhiều khu vực rõ ràng, và, kết quả là, nhân viên hình thành một thói quen có tính tổ chức về việc không bước quá giới hạn khu làm việc. Trong thực tế, cố gắng thực hiện như vậy đã được đáp ứng với sự khinh miệt. Dưới bề mặt, hầu hết các tổ chức giống như thế này: trận địa ngầm mà trong đó các cá nhân kêu gào đòi quyền lực và phần thưởng. Thói quen như bận tâm công việc của chính mình như là cách để giữ hòa bình. Thật không may, một số thói quen rất nguy hiểm. Năm 1987, tại nhà ga ngầm King’s Cross, một nhà nhân viên soát vé thấy dấu hiệu của một đám cháy nhưng không kéo còi báo động. Đó không phải là trách nhiệm của anh ấy. Ngọn lửa leo thang, nhưng không ai có mặt ở đó biết cách sử dụng hệ thống phun nước hoặc có quyền sử dụng các bình chữa cháy. Đó là trách nhiệm của người khác. Trong vòng vài phút, một quả cầu lửa khổng lồ bùng nổ vào phòng vé. Lực lượng cứu hộ cho biết hành khách bị bỏng nặng đến mức làn da của họ bong ra khi chạm vào. Cuối cùng, 31 người thiệt mạng. Nhưng ngay cả những bi kịch như vậy có thể có một lớp lót bạc: những khủng hoảng mở ra một cơ hội duy nhất để làm lại thói quen theo tổ chức bằng cách đem lại cảm giác khẩn cấp. Đây là lý do tại sao các nhà lãnh đạo giỏi thường chủ động kéo dài cảm giác khủng hoảng hoặc thậm chí làm nó thêm trầm trọng. Trong việc điều tra đám cháy, Desmond Fennel thấy rằng nhiều sự thay đổi tiềm năng để cứu người đã được đề xuất nhiều năm trước đó, nhưng không cái nào được thực hiện. Khi mà những đề xuất của ông bị từ chối, ông biến toàn bộ điều tra của mình thành một gánh xiếc truyền thông – một cuộc khủng hoảng cho phép ông thực hiện các thay đổi. Ngày nay, mỗi trạm có một người quản lý có trách nhiệm chính là bảo đảm an toàn của hành khách. BẢY: Các công ty tận dụng thói quen trong chiến dịch tiếp thị của họ. Các nhà bán lẻ từ lâu đã biết nhiều về thói quen mua sắm của người mua hàng hơn chính bản thân người mua hàng. Các nhà bán lẻ nắm bắt hàng loạt dữ liệu khách hàng về hành vi của họ và sau đó điều chỉnh hoạt động của mình để tối đa hóa doanh thu. Ví dụ, đây là một thực tế khá ngạc nhiên: hầu hết mọi người theo bản năng rẽ phải khi bước vào một cửa hàng; do đó, các nhà bán lẻ đưa sản phẩm có lợi nhuận cao nhất của họ ở phía bên phải của lối vào. Một trong những bậc thầy của phương pháp này là Target – một nhà bán lẻ của Mỹ phục vụ hàng triệu người mua sắm hàng năm và thu thập vô số dữ liệu về khách hàng. Phân tích dữ liệu của họ đã trở nên tinh vi đến mức mà thậm chí có thể cho biết khách hàng đã mang thai khi nào và dự đoán ngày sinh của họ, và chủ đề mua sắm của khách hàng thay đổi và họ bắt đầu mua những thứ như vitamin trước khi sinh. Bằng cách gửi các phiếu mua hàng liên quan đến em bé, Target có thể thu hút họ vào cửa hàng một cách hiệu quả. Các phân tích có hiệu quả tốt đến mức Target thực sự biết một cô gái tuổi teen đã có thai trước khi cô ấy đã nói với gia đình cô. Mục tiêu gửi phiếu mua hàng liên quan đến em bé tới cô, nhanh chóng khiến cha cô tức giận với người quản lí Mục tiêu của địa phương: “Con bé vẫn còn học ở trường trung học … Anh đang cố gắng khuyến khích nó có thai ?!” Khi sự thật lộ ra, cha cô lúng túng xin lỗi. Nhưng Target sớm nhận ra rằng mọi người không thích vì bị do thám. Để phiếu giảm giá đồ dùng cho bé của chiến dịch thành công, cần phải lén lút giấu chúng trong các bối cảnh mời mua những thứ ngẫu nhiên không liên quan như sở hữu nhà đất; những người đi tiếp thị phải trông giống như những người không có mục tiêu. Khi cố gắng bán bất cứ cái gì mới, các công ty sẽ cải trang chúng trong một cái gì đó quen thuộc; ví dụ, DJ đài phát thanh có thể đảm bảo một bài hát mới trở nên phổ biến bằng cách chơi nó giữa giữa hai bài hát đang nổi tiếng hiện tại như một cái bánh kẹp sandwich. Bằng cách này, những thói quen hoặc sản phẩm mới có nhiều khả năng được chấp nhận. TÁM: Biến động được sinh ra từ mối quan hệ mạnh mẽ, áp lực và thói quen mới. Năm 1955, một phụ nữ da đen tên là Rosa Parks từ chối nhường chỗ ngồi trên xe buýt của mình cho một người đàn ông da trắng ở Montgomery, Alabama. Cô bị bắt và bị buộc tội, và các sự kiện sau đó đã khiến cô trở thành một biểu tượng dân quyền. Điều thú vị là, cô không phải là trường hợp duy nhất và cũng không là người đầu tiên. Nhiều người khác đã bị bắt giữ vì những lý do tương tự. Vậy tại sao việc cô bị bắt lại châm ngòi cho một cuộc tẩy chay xe buýt kéo dài hơn một năm? Trước hết, Rosa Parks được đặc biệt yêu mến trong cộng đồng và có mối quen hệ bạn bè rộng lớn. Bà thuộc nhiều câu lạc bộ xã hội, và kết nối chặt chẽ với tất cả các thành phần người dân, từ các giáo sư đến người lao động ngoài đồng. Những mối quan hệ mạnh mẽ giải cứu cô ra khỏi tù và tin tức các vụ bắt giữ cô nhanh chóng lan rộng trong suốt các tầng lớp xã hội ở Montgomery, tẩy chay xe buýt theo tổ chức như là một cách để phản đối. Nhưng chỉ một mình bạn bè của cô không thể nào duy trì một cuộc tẩy chay lâu. Có một loại áp lực gọi là áp lực so sánh, bắt chước (peer pressure). Ngoài mối liên hệ thân thiết, người ta còn có các mối quan hệ không quá thân thiết, có nghĩa là những người quen biết chứ không phải là bạn bè. Chủ yếu nhờ các mối quan hệ không quá thân thiết mà áp lực càng có hiệu quả. Khi bạn bè và người quen của một người ủng hộ một phong trào, thật khó để có lựa chọn khác. Cuối cùng, cam kết tẩy chay đã bắt đầu suy yếu dần trong cộng đồng người da đen, như các quan chức thành phố đã bắt đầu đưa ra quy tắc đi chung xe mới khiến cho cuộc sống mà không có xe buýt ngày càng khó khăn. Đây là khi các yếu tố cuối cùng đã được bổ sung: một bài phát biểu của Tiến sĩ Martin Luther King ủng hộ phi bạo lực và kêu gọi người tham gia độ lượng và tha thứ cho kẻ áp bức. Căn cứ vào thông báo này, người ta bắt đầu hình thành thói quen mới, chẳng hạn như tổ chức các cuộc họp nhà thờ và các cuộc biểu tình ôn hòa một cách độc lập. Họ đã làm cho phong trào trở thành một lực lượng tự vận hành. CHÍN: Chúng ta chịu trách nhiệm cho việc thay đổi thói quen của chúng ta. Một đêm trong năm 2008, Brian Thomas bóp cổ vợ đến chết. Quẫn trí, ông thay đổi chính mình và đã bị truy tố về tội giết người. Lời biện hộ của ông ấy? Ông đã trải qua một tên khủng bố trong giấc ngủ, như đang diễn ra một cơn ác mộng về mặt thể chất: Thomas nghĩ rằng ông đã bóp cổ một tên trộm người đã tấn công vợ. Tại phiên tòa, việc bảo vệ lập luận rằng khi Thomas nghĩ ai đó đã làm tổn thương vợ mình, nó sẽ kích hoạt một phản ứng tự động, trong trường hợp này để bảo vệ cô ấy. Nói cách khác, ông theo một thói quen. Cùng thời gian đó, Angie Bachman đã bị kiện bởi các công ty sòng bạc Harrah vì nửa triệu đô la trong các khoản nợ cờ bạc. Điều này diễn ra sau khi cô đã đánh bạc ở xa nhà của mình và thừa kế hàng triệu USD. Tại phiên tòa, Bachman biện hộ rằng cô chỉ đơn giản bị dẫn dắt bởi thói quen: cờ bạc có cảm thấy tuyệt vời, vì vậy khi Harrah gửi những lời mời hấp dẫn về các chuyến đi miễn phí đến sòng bạc, cô không thể cưỡng lại. Lưu ý rằng Harrah biết cô là một con bạc đã tuyên bố phá sản. Cuối cùng, Thomas đã được tha bổng và nhiều người, bao gồm các thẩm phán xét xử, bày tỏ sự cảm thông sâu sắc đối với anh. Bachman, mặt khác, thua kiện, và là đối tượng của sự khinh miệt bởi công chúng. Cả Thomas và Bachman về lý có thể khẳng định: “Đó không phải do tôi, đó là do thói quen của tôi” Vậy tại sao chỉ có một người được tuyên bố trắng án? Rất đơn giản, một khi chúng ta nhận thức được về một thói quen có hại, đó sẽ trở thành trách nhiệm của chúng ta để giải quyết và thay đổi nó. Thomas không biết ông sẽ làm tổn thương bất cứ ai trong giấc ngủ của mình. Bachman, tuy nhiên, biết rằng mình đã có một thói quen cờ bạc, và có thể tránh những lời mời của Harrah bằng cách tham gia vào một chương trình khác mà có lẽ đã ngăn cản các công ty cờ bạc tiếp cận với cô. MƯỜI: Lời kết Thông điệp chính trong cuốn sách này: Những thói quen không chỉ là một phần quan trọng trong cuộc sống của chúng ta mà còn là một phần quan trọng của các tổ chức và các công ty. Tất cả những thói quen bao gồm một vòng lặp gợi ý- hành động -phần thưởng, và cách dễ nhất để thay đổi điều này là để thay thế các hành động thường nhât với cái gì khác trong khi vẫn giữ nguyên các gợi ý và phần thưởng. Đạt được thay đổi lâu dài trong cuộc sống là khó khăn, nhưng nó có thể được thực hiện bằng cách tập trung vào những thói quen then chốt quan trọng như sức mạnh ý chí. Đọc thêm: Rewire (tạm dịch: Sắp xếp lại chính mình) bởi Richard O’Connor Sắp xếp lại chính mình viết về lý do tại sao đôi khi chúng ta rơi vào hành vi tự hủy hoại, và làm thế nào để vượt qua nó. Cuốn sách đào sâu vào các hoạt động của não sau cai nghiện, và vạch ra chiến lược để sắp xếp lại chính mình và cải thiện việc tự kiểm soát thói quen xấu của chính mình. Đọc thêm: Không thông minh, không chăm chỉ vẫn thành công: Phát hiện then chốt trong nghiên cứu 40 năm của đại học Stanford Trạm Đọc (Read Station) Đánh giá post Tweet on Twitter Share on Facebook Google+ Pinterest You May Also Like Review sách: Ác quỷ Nam Kinh – Nỗi ám ảnh kinh hoàng của tội ác Amrita (Banana Yoshimoto) – Nước thánh cho tâm hồn Chiếc lá cuối cùng – Kiệt tác từ điều nhỏ bé Review sách Phi lí trí: Góc nhìn về cảm xúc & hành vi trong kinh tế Review + Tóm tắt sách “7 thói quen của người thành đạt” Banana Yoshimoto – Nữ tác giả tiên phong của văn học Nhật Bản hiện đại About the Author: admin Thi thoảng rảnh thì sưu tầm bài hay để thoả mãn sở thích cũng như chia sẻ kiến thức cho mọi người. Nếu mọi người thấy hay thì like hoặc share. Không hay cũng comment xuống bên dưới cho vui nhé ^^ Trả lời Hủy Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu * Bình luận Tên * Email * Tìm kiếm cho: Ưu đãi khủng Bài viết xem nhiều Review sách hay: Trí tuệ Do Thái – Eran Katz Top 11 cuốn sách hay nên đọc trong đời Những cuốn sách hay nhất thế giới bạn đọc không nên bỏ qua Review sách: Đắc Nhân Tâm – Dale Carnegie – Nghệ Thuật Thu Phục Lòng Người 15 cuốn sách bán chạy nhất năm 2019 bạn nên tìm đọc 8 quyển sách hay về Paris đầy mơ mộng và lãng mạn Son dưỡng môi Dior Review chi tiết. Máy đọc sách nào tốt nhất nên mua: Kindle, Kobo, Bibox hay Onyx Boox? Đánh son lòng môi bằng son thỏi xinh lung linh với 3 bước 11 lợi ích của việc đọc sách mà ai cũng cần phải biết Tóm tắt nội dung sách Đắc Nhân Tâm – Dale Carnegie – Cuốn sách của mọi thời đại Tầm quan trọng của sách trong cuộc sống con người https://tapyogamoingay.com © 2019 Mua giá SỐC - Săn hàng giá rẻ trên mạng Giới thiệu Chính sách Liên hệ
1614178347293.1.parquet/163534
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 20178, "url": "https://muagiasoc.com/tom-tat-sach-suc-manh-cua-thoi-quen/" }
128.6
Tại sao chúng ta cần AI có thể giải thích? Trí tuệ nhân tạo Thẻ Account Sign In Signup Tại sao chúng ta cần AI có thể giải thích? 56 Nếu mục đích ban đầu để phát triển AI là giúp con người trong một số nhiệm vụ và mục đích đó vẫn còn, thì tại sao chúng ta phải quan tâm đến khả năng giải thích của nó? Ví dụ, trong học tập sâu, miễn là trí thông minh giúp chúng ta phát huy tốt nhất khả năng của họ và cẩn thận đưa ra quyết định của mình, tại sao chúng ta cần biết trí thông minh của nó hoạt động như thế nào? philosophy explainable-ai — malioboro nguồn 15 Điều gì xảy ra khi AI không cho bạn câu trả lời hay? Làm thế nào để bạn tìm thấy vấn đề? Làm thế nào để bạn xác minh giải pháp, nếu bạn không hiểu lý do? Làm thế nào để bạn chắc chắn rằng chúng ta không biến tất cả thành kẹp giấy? :) — Luaan 8 Không đăng nó như một câu trả lời vì tôi nghi ngờ nó không đáp ứng các tiêu chuẩn, nhưng giả sử chúng ta hỏi AI cách khắc phục các vấn đề khí hậu và nó nói "gây ô nhiễm đại dương". Có lẽ nó đúng và có một số cách để khắc phục mọi thứ. Có thể một nhà phát triển đã gây ra lỗi và đầu ra thực tế phải là "bỏ chọn các đại dương". Làm thế nào để bạn có ý định phân biệt giữa hai người, nếu không bằng cách nói rất rõ lý luận của AI? — Flater 5 Có câu trả lời nào cho câu hỏi này thực sự cần thiết, ngoài kiến ​​thức phổ biến về sự tồn tại của các kỹ thuật đối nghịch không? Ngay bây giờ có thể thực hiện các tinh chỉnh nhỏ cho dữ liệu đầu vào tạo ra những thay đổi ồ ạt không tương xứng trong đầu ra. Trong các nhiệm vụ như nhận dạng trực quan các vật thể, trong đó các kết quả có thể dễ dàng kiểm tra đối với trí thông minh thực sự, các kết quả dường như vô nghĩa và điên rồ, và chỉ ra rằng những gì AI đang "nhìn thấy" là một thứ rất khác so với những gì chúng ta đang thấy . Nếu AI không thể tự giải thích trong những trường hợp như vậy, tính hữu dụng của nó sẽ giảm mạnh. — Mason Wheeler 1 Trong khi câu hỏi của bạn dựa trên nhu cầu về AI có thể giải thích được, tôi cũng muốn đề xuất một bài đọc thách thức quan điểm này - tôi nghĩ có những điểm rất tốt ở đó. Trong số những điều khác, một lý do cho nhu cầu giải thích có thể liên quan đến nhu cầu giải thích các hệ thống xung quanh chúng ta, và sau đó chúng ta tin tưởng cao hơn vào các hệ thống mà chúng ta hiểu, ngay cả khi các hệ thống này hoạt động kém hơn những hệ thống khác mà chúng ta KHÔNG hiểu. Hy vọng nó sẽ thêm một số tài liệu để phản ánh - hackernoon.com/ từ — Elisio Quintino 2 Đây có thể là một resoruce bổ sung thú vị. Mọi người đã cố gắng xây dựng một bộ phân loại Husky vs Wolf, sau đó nhận ra rằng mạng không tập trung vào con vật, mà là nền vì tất cả hình ảnh có tuyết trên nền đều là sói. Nói cách khác, nếu bạn phát hiện ra một chiếc xe hơi, bạn cần chắc chắn rằng đó là vì một chiếc xe trong hình ảnh chứ không phải vì một dấu hiệu dừng lại ở bên cạnh hình ảnh. — jaaq Câu trả lời: 64 Theo lập luận của Selvaraju et al. , có ba giai đoạn tiến hóa AI, trong đó tất cả các khả năng diễn giải đều hữu ích. Trong giai đoạn đầu phát triển AI, khi AI yếu hơn hiệu suất của con người, tính minh bạch có thể giúp chúng ta xây dựng các mô hình tốt hơn . Nó có thể hiểu rõ hơn về cách thức hoạt động của một mô hình và giúp chúng tôi trả lời một số câu hỏi chính. Ví dụ: tại sao một mô hình hoạt động trong một số trường hợp và không hoạt động trong các trường hợp khác, tại sao một số ví dụ gây nhầm lẫn cho mô hình hơn các mô hình khác, tại sao các mô hình này hoạt động và các mô hình khác không hoạt động, v.v. Khi AI ngang bằng với hiệu suất của con người và các mô hình ML bắt đầu được triển khai trong một số ngành, nó có thể giúp xây dựng niềm tin cho các mô hình này. Tôi sẽ giải thích một chút về điều này sau, bởi vì tôi nghĩ rằng đó là lý do quan trọng nhất. Khi AI vượt trội đáng kể so với con người (ví dụ AI chơi cờ hoặc cờ vây), nó có thể giúp cho việc dạy máy (tức là học từ máy về cách cải thiện hiệu suất của con người trong nhiệm vụ cụ thể đó). Tại sao niềm tin rất quan trọng? Trước tiên, để tôi cho bạn một vài ví dụ về các ngành công nghiệp mà niềm tin là tối quan trọng: Trong chăm sóc sức khỏe, hãy tưởng tượng một mạng lưới thần kinh sâu thực hiện chẩn đoán cho một bệnh cụ thể. Một hộp đen cổ điển NN sẽ chỉ xuất ra nhị phân "có" hoặc "không". Ngay cả khi nó có thể vượt trội hơn con người về khả năng dự đoán tuyệt đối, nó sẽ hoàn toàn vô dụng trong thực tế. Điều gì sẽ xảy ra nếu bác sĩ không đồng ý với đánh giá của người mẫu, anh ta không nên biết tại sao người mẫu đưa ra dự đoán đó; có lẽ nó đã nhìn thấy một cái gì đó bác sĩ đã bỏ lỡ. Hơn nữa, nếu nó chẩn đoán sai (ví dụ như một người bệnh được phân loại là khỏe mạnh và không được điều trị đúng cách), ai sẽ chịu trách nhiệm: người dùng của mô hình? bệnh viện? Công ty nào thiết kế mô hình? Khung pháp lý xung quanh điều này là một chút mờ. Một ví dụ khác là xe tự lái. Những câu hỏi tương tự xuất hiện: nếu một chiếc xe gặp sự cố là lỗi của nó: người lái xe? nhà sản xuất xe hơi? công ty nào thiết kế AI? Trách nhiệm pháp lý, là chìa khóa cho sự phát triển của ngành công nghiệp này. Trên thực tế, sự thiếu tin tưởng này, theo nhiều người đã cản trở việc áp dụng AI trong nhiều lĩnh vực (nguồn: 1 , 2 , 3 ). Mặc dù có một giả thuyết đang hoạt động rằng với các hệ thống minh bạch hơn, có thể giải thích hoặc giải thích hơn, người dùng sẽ được trang bị tốt hơn để hiểu và do đó tin tưởng các tác nhân thông minh (nguồn: 1 , 2 , 3 ). Trong một số ứng dụng trong thế giới thực, bạn không thể chỉ nói "nó hoạt động 94% thời gian". Bạn cũng có thể cần cung cấp một lời biện minh ... Quy định của chính phủ Một số chính phủ đang dần tiến hành điều chỉnh AI và tính minh bạch dường như là trung tâm của tất cả những điều này. Người đầu tiên đi theo hướng này là EU, nơi đã đặt ra một số hướng dẫn trong đó họ tuyên bố rằng AI phải minh bạch (nguồn: 1 , 2 , 3 ). Chẳng hạn, GDPR tuyên bố rằng nếu dữ liệu của một người phải tuân theo các hệ thống "ra quyết định tự động" hoặc "định hình", thì anh ta có quyền truy cập "thông tin có ý nghĩa về logic liên quan" ( Điều 15, GDPR của EU ) Bây giờ điều này là một chút mờ, nhưng rõ ràng có ý định yêu cầu một số hình thức giải thích từ các hệ thống này. Ý tưởng chung mà EU đang cố gắng vượt qua là "nếu bạn có một hệ thống ra quyết định tự động ảnh hưởng đến cuộc sống của mọi người thì họ có quyền biết tại sao một quyết định nào đó đã được đưa ra." Ví dụ, một ngân hàng có AI chấp nhận và từ chối đơn xin vay tiền, thì người nộp đơn có quyền biết lý do tại sao đơn đăng ký của họ bị từ chối. Tóm lại... AI có thể giải thích là cần thiết bởi vì: Nó cho chúng ta hiểu rõ hơn, giúp chúng ta cải thiện chúng. Trong một số trường hợp, chúng ta có thể học hỏi từ AI cách đưa ra quyết định tốt hơn trong một số nhiệm vụ. Nó giúp người dùng tin tưởng vào AI, điều này dẫn đến việc áp dụng AI rộng rãi hơn. Các AI đã triển khai trong tương lai (không xa) có thể được yêu cầu phải "minh bạch" hơn. — Djib2011 nguồn 4 Đó chính xác là vấn đề (IMHO). Thường thì bạn không thể kiểm tra toàn diện hộp đen và sau đó bạn chấp nhận (ngay cả trong các ứng dụng quan trọng trong cuộc sống) một cái gì đó "có vẻ đủ tốt", trong trường hợp này là bộ não con người, và tất cả chúng ta đều tốt với điều đó. Nếu chúng ta không thể làm điều đó cho AI thì đó là do (những hạn chế?) Trong quy định của chúng ta, không phải vì "để lái máy bay, mọi thứ phải được chứng minh về mặt toán học" (hiện tại, thậm chí không có AI). Tất nhiên cách bạn kiểm tra AI không thể giống như cách bạn kiểm tra một phi công người (ngay cả khi họ có thể trùng khớp một phần). — Adriano Repetti 11 @ZsoltSzilagy Tôi không nói rằng các quy định của chính phủ là một điều xấu. Tôi chỉ nói rằng họ là một lý do nghiêm trọng để phát triển AI có thể giải thích được, nếu bạn đang làm việc trong một số ngành công nghiệp. — Djib2011 8 Một điểm khác để thêm là tập trung rủi ro. Một con chó đánh hơi ma túy có thể bị thiên vị, và bạn không thể hỏi nó tại sao nó đưa ra quyết định nhất định. Nhưng nó chỉ là một con chó trong số hàng ngàn. Một mô hình AI duy nhất sẽ được triển khai trên toàn cầu, vì vậy nếu nó sai, nó có tác động lớn hơn nhiều. — Brendan Whites 19 @BrendanWhiting thực sự là một trường hợp thú vị. Sự khác biệt giữa một con chó đánh hơi ma túy và AI đánh hơi ma túy. Tại sao yêu cầu AI đưa ra lời giải thích trong khi con chó không phải .... Tôi nghĩ rằng sự khác biệt trong trường hợp đầu tiên, con chó chỉ là một công cụ giúp con người (trong trường hợp này là cảnh sát DEA) tạo ra quyết định của anh ấy. Cuối cùng anh ta là người chịu trách nhiệm cho nó, không phải con chó. Tương tự, không có vấn đề gì với AI hỗ trợ quyết định , chỉ với những người ra quyết định . Đó là cách tôi nghĩ rằng toàn bộ trách nhiệm giải trình trong nhiều lĩnh vực cuối cùng sẽ bị bỏ qua. — Djib2011 6 Có lẽ đó cũng là một vấn đề chưa biết. Chúng tôi đã đào tạo động vật trong hàng ngàn năm và chúng tôi khá tự tin rằng nó ổn định. Nếu sắp có những đàn thú được huấn luyện chiếm lĩnh thế giới, có lẽ điều đó đã xảy ra ngay bây giờ. (Mặc dù tôi giống như lý thuyết rằng hầu hết những con chó là loại ký sinh trùng, chúng đã tiến hóa để trở nên dễ thương đến nỗi chúng ta chăm sóc chúng thay vì trẻ nhỏ của chúng ta). — Brendan Whites 15 Tại sao chúng ta cần AI có thể giải thích? ... tại sao chúng ta cần biết "trí thông minh của nó hoạt động như thế nào?" Bởi vì bất kỳ ai có quyền truy cập vào thiết bị, đủ kỹ năng và đủ thời gian, đều có thể buộc hệ thống đưa ra quyết định bất ngờ. Chủ sở hữu của thiết bị, hoặc các bên thứ 3, dựa vào quyết định mà không có lời giải thích về lý do tại sao nó là chính xác sẽ là một bất lợi. Ví dụ - Ai đó có thể khám phá: Những người được đặt tên là John Smith và yêu cầu phẫu thuật tim vào: buổi sáng thứ ba, buổi chiều thứ tư hoặc thứ sáu vào những ngày và tháng lẻ có 90% cơ hội di chuyển lên phía trước của dòng. Các cặp vợ chồng có họ của một chữ cái lẻ trong nửa đầu của bảng chữ cái và xin vay với người phối ngẫu có tên bắt đầu bằng một chữ cái từ đầu bảng chữ cái có khả năng nhận khoản vay cao hơn 40% nếu họ có Ít hơn 5 mục xấu trong lịch sử tín dụng của họ. Vân vân. Lưu ý rằng các ví dụ trên không nên xác định các yếu tố liên quan đến câu hỏi đang được hỏi, nhưng đối thủ (với thiết bị của riêng họ hoặc kiến ​​thức về thuật toán) có thể khai thác nó. Nguồn giấy tờ : " AdvHat: Tấn công nghịch cảnh trong thế giới thực vào hệ thống ArcFace Face ID " (ngày 23 tháng 8 năm 2019) bởi Stepan Komkov và Aleksandr Petiushko Tạo một nhãn dán và đặt nó trên mũ của bạn đánh lừa hệ thống nhận dạng khuôn mặt. " Bảo vệ chống lại các cuộc tấn công bất lợi thông qua tái tạo tính năng kiên cường " (ngày 8 tháng 6 năm 2019), bởi Tejas Borkar, Felix Heide và Lina Karam "Dự đoán mạng nơ ron sâu (DNN) đã được chứng minh là dễ bị tổn thương do nhiễu loạn đối thủ được chế tạo cẩn thận. Cụ thể, cái gọi là nhiễu loạn phổ biến là nhiễu loạn hình ảnh có thể được thêm vào bất kỳ hình ảnh nào và có thể đánh lừa mạng đích. Khởi hành từ các chiến lược phòng thủ đối nghịch hiện có, hoạt động trong miền hình ảnh, chúng tôi trình bày một biện pháp phòng thủ mới hoạt động trong miền tính năng DNN và bảo vệ hiệu quả trước các cuộc tấn công đối nghịch phổ quát như vậy. Cách tiếp cận của chúng tôi xác định các tính năng tích chập được đào tạo trước dễ bị tổn thương nhất tiếng ồn và triển khai các đơn vị phòng thủ biến đổi (tái tạo) các kích hoạt bộ lọc DNN này thành các tính năng chống ồn, bảo vệ chống lại các nhiễu loạn không nhìn thấy được. ". " Tấn công một pixel để đánh lừa các mạng lưới thần kinh sâu " (ngày 3 tháng 5 năm 2019), bởi Jiawei Su, Danilo Vasconcellos Vargas và Sakurai Kouichi Việc thay đổi một pixel có thể gây ra các lỗi này: Hình 1. Các cuộc tấn công một pixel được tạo bằng thuật toán đề xuất đã đánh lừa thành công ba loại DNN được đào tạo trên bộ dữ liệu CIFAR-10: Mạng tích chập (AllConv), Mạng trong mạng (NiN) và VGG. Các nhãn lớp ban đầu có màu đen trong khi các nhãn lớp mục tiêu và độ tin cậy tương ứng được đưa ra dưới đây. Hình 2. Các cuộc tấn công một pixel vào tập dữ liệu ImageNet trong đó các pixel được sửa đổi được tô sáng bằng các vòng tròn màu đỏ. Các nhãn lớp gốc có màu đen trong khi các nhãn lớp đích và độ tin cậy tương ứng của chúng được đưa ra dưới đây. Nếu không có lời giải thích về cách thức và lý do đưa ra quyết định thì quyết định không thể hoàn toàn dựa vào. — Cướp nguồn 1 Những phát hiện của một cuộc tấn công pixel và những thứ tương tự khác là lý do tại sao tôi cho rằng học sâu không học được gì. — Joshua 1 @Joshua Vâng, nó không học như trong học tập của con người (hiểu lý do), nhưng nó học chức năng đa chiều có thể phân loại các hình ảnh này trong các danh mục. Nó đã tự mình làm điều đó, mặc dù nó đã giải quyết được giải pháp tốt nhất bằng cách sử dụng vũ lực. Đó là rất nhiều điều mong đợi từ một bó kim loại, và cát được sắp xếp gọn gàng để cho phép dòng điện chạy theo hệ thống. — dùng14492 1 WRT đối với các ví dụ của bạn, giả sử khoản vay cho các cặp vợ chồng có điều kiện sôi nổi, không phải là loại điều này được giảm nhẹ bằng cách chỉ cung cấp dữ liệu mô hình mà nó nên quan tâm? Giống như tên không bao giờ được cung cấp cho AI, bởi vì AI không bao giờ nên đưa ra quyết định dựa trên tên của người yêu cầu. Tôi hiểu quan điểm của bạn mặc dù, có thể có ít ví dụ hơn so với các điểm dữ liệu mà AI thực sự cần. Các cuộc tấn công một pixel là rất thú vị — Cruncher @Cruncher Các ví dụ ít giả tạo luôn tốt hơn khi một người đang đưa ra quan điểm, nhiều như nhận thức muộn màng là 20/20. Sẽ thế nào nếu khoản vay bị từ chối trước có cả số nguyên tố trong đó (lớn hơn 7) và số trước có hai số nguyên tố và từ 17 đến 43, v.v. Sau đó, bạn tìm thấy ai đó nói rằng họ sẽ bán thứ gì đó cho X đô la, đưa ra một khoản vay và cố gắng để bị loại, làm điều đó một vài lần, bây giờ đưa ra một khoản vay cho một ngôi nhà hoặc tàu - cơ hội tốt hơn 30% và từ chối giảm giá trước. Không có lời giải thích đằng sau lý do bạn sẽ luôn muốn đưa ra lựa chọn của riêng mình. — Cướp @Joshua Chà, chắc chắn họ có thể học cách tìm một cuộc tấn công pixel và những thứ tương tự. (Bài viết được liên kết ở đây đã sử dụng một cách tiếp cận tiến hóa, nhưng tôi đã thấy kết quả tương tự khi sử dụng GAN.) Không có phương pháp phân loại nào là hoàn hảo. Tầm nhìn của con người dễ bị ảo ảnh quang học. Đây là máy tương đương. Chúng ta chỉ có thể tìm thấy nhiều ví dụ cực đoan hơn cho các hệ thống thị giác máy vì chúng có thể đưa ra và ghi lại các dự đoán nhanh hơn con người, vì vậy chúng ta có thể đào tạo một hệ thống khác để tìm các trạng thái thất bại phù hợp với các tiêu chí nhất định. — Ray 8 Nếu bạn là ngân hàng, bệnh viện hoặc bất kỳ thực thể nào sử dụng phân tích dự đoán để đưa ra quyết định về các hành động có ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của mọi người, bạn sẽ không đưa ra quyết định quan trọng chỉ vì cây Gradient Boosted bảo bạn làm như vậy. Thứ nhất, vì nó rủi ro và mô hình cơ bản có thể sai và thứ hai, bởi vì trong một số trường hợp, điều đó là bất hợp pháp - xem Quyền giải thích . — Tomasz Bartkowiak nguồn 5 AI có thể giải thích thường được mong muốn bởi vì AI (đặc biệt là các mạng thần kinh nhân tạo) có thể thất bại thảm hại trong việc thực hiện công việc dự định của chúng. Cụ thể hơn, nó có thể bị hack hoặc tấn công bằng các ví dụ bất lợi hoặc có thể đưa ra những quyết định sai lầm bất ngờ mà hậu quả của nó là thảm khốc (ví dụ, nó có thể dẫn đến cái chết của mọi người). Ví dụ, hãy tưởng tượng rằng AI chịu trách nhiệm xác định liều lượng thuốc cần dùng cho bệnh nhân, dựa trên các điều kiện của bệnh nhân. Điều gì xảy ra nếu AI đưa ra dự đoán sai và điều này dẫn đến cái chết của bệnh nhân? Ai sẽ chịu trách nhiệm cho một hành động như vậy? Để chấp nhận dự đoán liều lượng của AI, các bác sĩ cần tin tưởngAI, nhưng niềm tin chỉ đi kèm với sự hiểu biết, đòi hỏi một lời giải thích. Vì vậy, để tránh những thất bại có thể xảy ra, điều cơ bản là phải hiểu hoạt động bên trong của AI, để nó không đưa ra những quyết định sai lầm đó một lần nữa. AI thường cần tương tác với con người, đó là chúng sinh (chúng ta có cảm xúc) và điều đó thường cần một lời giải thích hoặc trấn an (liên quan đến một số chủ đề hoặc sự kiện). Nói chung, con người thường tìm kiếm một lời giải thích và hiểu biết về môi trường xung quanh và thế giới. Theo tự nhiên, chúng ta là những sinh vật tò mò và thích khám phá. Tại sao một quả táo rơi? — nbro nguồn 4 Câu trả lời cho điều này là vô cùng đơn giản. Nếu một ngày nào đó bạn là giám đốc điều hành ngân hàng, bạn có thể cần phải đứng lên tòa án và giải thích lý do tại sao AI của bạn từ chối thế chấp cho tất cả những người này ... những người tình cờ chia sẻ một số đặc điểm được bảo vệ theo luật chống phân biệt đối xử. Thẩm phán sẽ không vui nếu bạn rửa tay câu hỏi lẩm bẩm điều gì đó về thuật toán. Hoặc tệ hơn, tại sao chiếc xe / máy bay này gặp sự cố và làm thế nào bạn sẽ ngăn chặn nó lần sau. Đây là công cụ chặn chính để áp dụng AI rộng rãi hơn trong nhiều ngành công nghiệp. — Gaius nguồn 1 "Câu trả lời" đang phóng đại trường hợp của bạn. Tôi sẽ nâng cao nếu bạn nói "Một câu trả lời ..." — John Coleman 3 Một lý do khác: Trong tương lai, AI có thể được sử dụng cho các nhiệm vụ mà con người không thể hiểu được, bằng cách hiểu thuật toán AI được đưa ra hoạt động như thế nào đối với vấn đề đó, chúng ta có thể hiểu bản chất của hiện tượng đã cho. — Makintosz nguồn 2 Ngoài tất cả những câu trả lời đề cập đến những lý do thực tế hơn về lý do tại sao chúng ta muốn AI có thể giải thích được, tôi muốn thêm một lý thuyết mang tính triết học hơn. Hiểu cách mọi thứ xung quanh chúng ta hoạt động là một trong những động lực chính của khoa học từ thời cổ đại. Nếu bạn không hiểu cách thức mọi thứ hoạt động, bạn không thể tiến hóa hơn điểm đó. Chỉ vì "trọng lực hoạt động" đã không ngăn chúng tôi cố gắng hiểu nó hoạt động như thế nào. Đổi lại, một sự hiểu biết tốt hơn về nó đã dẫn đến một số khám phá quan trọng, đã giúp chúng tôi phát triển công nghệ của chúng tôi. Tương tự như vậy, nếu chúng ta dừng lại ở "nó hoạt động", chúng ta sẽ ngừng cải thiện nó. Biên tập: AI không chỉ là làm cho "máy móc suy nghĩ", mà còn thông qua chúng để hiểu bộ não của con người hoạt động như thế nào. AI và khoa học thần kinh đi đôi với nhau . Tất cả điều này sẽ không thể thực hiện được nếu không có khả năng giải thích AI. — Jerome nguồn 0 Không nên cho rằng sự phát triển của AI ban đầu được thúc đẩy bởi mong muốn giúp đỡ con người. Có nhiều cách giải thích hợp lý khó có thể chứng minh hoặc bác bỏ. Được biết đến để mơ về một số ý tưởng tương lai trước khi bất cứ ai khác làm Có được sức mạnh trước một số kẻ thù tưởng tượng hoặc một kẻ thù tiềm năng nào đó trong tương lai Bởi vì nó có thể Cho vui Bởi vì Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ có thể sẽ tài trợ nó vô thời hạn Đó là một sự nghiệp tốt Để chứng minh rằng không có gì đặc biệt kỳ diệu về bộ não con người Chúng tôi đã được thuê và cho một số tiền, và có vẻ như đó là một cách tốt để chi tiêu Nó đã quyết định theo đuổi nó nhưng không ai trong chúng tôi thực sự nhớ tại sao Có một số từ mô tả được xác định kém trong câu hỏi này, mặc dù có thể khó tìm thấy bất kỳ từ nào tốt hơn để thay thế chúng. Làm thế nào chúng ta sẽ chính thức hóa những điều này? Theo khả năng tốt nhất của họ (hệ thống thông minh) --- Chúng ta sẽ đánh giá khả năng và so sánh kết quả với chúng theo cách nào? Chúng tôi nói với một sinh viên, "Bạn không áp dụng chính mình", nhưng đó không phải là một quan sát khoa học. Đó là một phán đoán có phần độc đoán dựa trên dự đoán về thành tích không được đáp ứng theo hệ thống phân loại của bên thứ ba và ứng dụng của các bên dễ sai khác. Cẩn thận đi đến quyết định --- Chăm sóc ngụ ý các mục tiêu mà chính họ là mục tiêu. Chúng tôi chưa ghi nhận một nền tảng điện toán tiên tiến mã hóa một hệ thống đạo đức áp dụng cho nhận thức trừu tượng về các tình huống, như trong trường hợp của một con người có đạo đức, nhờ đó sự chăm sóc có được bất kỳ ý nghĩa thực tế nào. Cổng nand thực hiện chức năng nand đáng tin cậy hoặc một số thuật toán được chứng minh là hội tụ với kích thước tập dữ liệu nhất định trong các điều kiện cụ thể hầu như không phải là ý nghĩa mở rộng hoàn toàn của những gì chúng ta đang cẩn thận. Có thể giải thích --- Điều này cũng mơ hồ. Ở một thái cực, sự hội tụ trên một tập hợp các giá trị tham số trong quá trình hội tụ của mạng nhân tạo là một lời giải thích, nhưng các giá trị riêng lẻ không được giải thích. Ở thái cực ngược lại, một báo cáo đầy đủ về một giả thuyết, thiết kế thử nghiệm, lựa chọn một tập hợp các điều kiện, phân tích, kết quả và kết luận vẫn chưa phải là một lời giải thích thấu đáo. Một báo cáo như vậy chỉ có thể bao gồm dưới 1% thông tin mô tả ứng dụng trí thông minh của con người vào nghiên cứu được nêu trong báo cáo. Công việc ban đầu trên các mạng nhân tạo đã bị chỉ trích trong các tạp chí AI đầu những năm 1990 vì không thể giải thích được trên cơ sở truy nguyên. Các hệ thống sản xuất (dựa trên quy tắc) đã để lại các quy tắc kiểm toán được áp dụng và kết quả của các quy tắc trước đó để ai đó có thể lắp ráp bằng chứng bằng văn bản về kết quả. Điều này là hữu ích hạn chế. Khi vô lăng bị loại bỏ khỏi các phương tiện và một số khu vực pháp lý bắt đầu lập pháp chống lại việc lái xe của con người ở một số khu vực, điều đó sẽ không xảy ra vì bằng chứng về sự an toàn trong một triệu kịch bản đã được viết ra. Đó sẽ là do sự phân phối của các trường hợp tử vong do tai nạn, mất tích và phá hủy tài sản do tài xế AI cài đặt trong một loại phương tiện cụ thể, trong một khoảng thời gian đủ thuyết phục, cho thấy sự an toàn của nó đối với các bản phân phối đó cho người lái xe. Cuối cùng, trong một số phòng xử án hoặc hội nghị lập pháp sẽ có người nói điều này hoặc tương đương. Nếu chúng ta không cấm người lái xe trong những điều kiện quy định cho khu vực đang thảo luận, chúng ta sẽ kết án X số đàn ông, phụ nữ, trẻ em và người đi bộ và hành khách già mỗi năm cho đến chết sớm. Hiểu cơ chế hoạt động và các quyết định đưa ra cho các trường hợp cụ thể là hữu ích, nhưng tại sao điều đó lại hữu ích lại không rõ ràng như tại sao AI trở thành một lĩnh vực khả thi trong công việc và nghiên cứu. Sẽ rất thú vị khi so sánh các hệ thống AI cạnh tranh theo một cách định lượng nào đó. Nó sẽ có giá trị học tập lớn để hiểu thêm về trí thông minh. Một lời giải thích tốt hơn làm cho một bài báo tốt. Một ngày nọ, tôi đã vẽ nguệch ngoạc và tìm ra cách giải thích một lớp hệ thống cụ thể dường như được giải thích kém. Mặc dù tính không thể kiểm toán của các hệ thống AI có thể xuất hiện trên sàn của các sự kiện lập pháp và tư pháp, phần lớn các quyết định được đưa ra sẽ dựa trên cách thức đánh giá thống kê được công bố và nhận thức. Những người khăng khăng các hệ thống vận hành theo cách có thể giải thích được, có thể, có ý thức hoặc tiềm thức, được thúc đẩy bởi một mối quan tâm trong một nhận thức rằng sự thống trị của con người là định mệnh rõ ràng. Điều đáng nói hơn là nhiều người giúp đỡ lợi ích của Hoa Kỳ và Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh hiện được coi là những kẻ lãnh đạo khủng bố bởi những người kế thừa của cả hai phe trong Chiến tranh Lạnh. Câu hỏi liên quan và có thể trả lời rõ ràng hơn là liệu một người trợ giúp thông minh có thể được kỳ vọng sẽ vẫn là người trợ giúp vô thời hạn hay không. Cuộc điều tra về những người giúp đỡ thông minh mãi mãi đang diễn ra và được mọi người quan tâm từ các tác giả khoa học và nhà biên kịch cho đến các nhà tư tưởng liên kết quân sự. — Douglas Daseeco nguồn -1 IMHO, nhu cầu quan trọng nhất đối với AI có thể giải thích là ngăn chúng ta trở nên lười biếng về trí tuệ. Nếu chúng ta ngừng cố gắng tìm hiểu câu trả lời được tìm thấy như thế nào, chúng ta đã thừa nhận trò chơi với các máy của chúng ta. — S. McGrew nguồn Chà, chúng tôi hiểu làm thế nào họ tìm thấy câu trả lời ở mức độ cao: Họ đoán khoảng hàng triệu lần cho đến khi họ tìm thấy một mô hình đầy hứa hẹn. Nhiệm vụ trí tuệ là tìm hiểu NHỮNG GÌ gây ra những kẻ đó - một câu hỏi mà AI không quan tâm. — Zsolt Szilagy Đôi khi điều đó là đúng, nhưng một số loại AI (ví dụ: thuật toán di truyền) thường làm tốt hơn thế và có thể được cấu trúc để cung cấp manh mối tốt về nguyên nhân gây ra các mô hình. Đôi khi chỉ cần chỉ ra rằng "mẫu tìm thấy trong tập dữ liệu này rất giống với mẫu được tìm thấy trong bộ dữ liệu khác này" có thể rất nhiều thông tin và dẫn đến giải thích nguyên nhân. — S. McGrew Khi sử dụng trang web của chúng tôi, bạn xác nhận rằng bạn đã đọc và hiểu Chính sách cookie và Chính sách bảo mật của chúng tôi. Licensed under cc by-sa 3.0 with attribution required.
1614178347293.1.parquet/129114
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 21889, "url": "https://qastack.vn/ai/14224/why-do-we-need-explainable-ai" }
128.4
Chuyên đề Nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA cho Việt Nam - Luận văn, đồ án, đề tài tốt nghiệp Đăng ký Đăng nhập Liên hệ LuanVan.net.vn - Luận văn, đồ án, tiểu luận, luận án, đề tài, đề án, chuyên đề thực tập, tốt nghiệp Thư viện luận văn, đồ án, tiểu luận, luận án, báo cáo, bài tập lớn, đề tài, đề án, chuyên đề thực tập, tốt nghiệp, thạc sĩ, tiến sĩ, cao học Trang Chủ Tài Liệu Upload Chuyên đề Nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA cho Việt Nam Việt Nam đang trong thời kì tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, mở cửa toàn diện nền kinh tế để từng bước hội nhập sâu vào khu vực và thế giới. Trong bối cảnh hiện nay, khi mà nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn thì nhu cầu thu hút ODA của Việt Nam để bổ sung nguồn lực cho phát triển lại được đặt trong sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước, các khu vực về thu hút nguồn vốn này. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải làm thế nào để tăng cường thu hút và sử dụng cho có hiệu quả nguồn vốn ODA? Là một trong những nhà tài trợ hàng đầu cho Việt Nam, trong năm 2009 này ADB đã cam kết cho Việt Nam trên 1,5 tỉ USD. Với con số lớn như vậy, chúng ta cần phải làm gì để các cam kết đó được hợp thức hoá và được sử dụng một cách hiệu quả nhất, đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam? Từ những lý do trên, em đã lựa chọn đề tài : “Nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam” để làm đề tài nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Mục đích nghiên cứu: - Làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lí luận về viện trợ phát triển chính thức ODA, vai trò của nguồn vốn ODA nói chung và vốn ODA của ADB nói riêng đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam - Đánh giá tình hình cam kết, kí kết và giải ngân nguồn vốn ODA của ADB để tìm ra những khó khăn và các nguyên nhân cần giải quyết trong quá trình sử dụng vốn. - Đề xuất các giải pháp chung và riêng đối với ODA của ADB trước mắt cũng như giai đoạn tới nhằm nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn ODA nói chung và vốn ODA của ADB nói riêng. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu hoạt động thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA của ADB trong thời gian từ khi Việt Nam nối lại quan hệ với ADB (1993) đến nay. Kết cấu đề tài: gồm 3 chương: - Chương I: Tổng quan về ODA và nguồn vốn ODA của ADB - Chương II: Thực trạng thu hút và sử dụng vốn ODA của ADB trong thời gian qua - Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng ODA của ADB. 56 trang | Chia sẻ: tuandn | Ngày: 15/04/2013 | Lượt xem: 2455 | Lượt tải: 7 Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam đang trong thời kì tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, mở cửa toàn diện nền kinh tế để từng bước hội nhập sâu vào khu vực và thế giới. Trong bối cảnh hiện nay, khi mà nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn thì nhu cầu thu hút ODA của Việt Nam để bổ sung nguồn lực cho phát triển lại được đặt trong sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước, các khu vực về thu hút nguồn vốn này. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải làm thế nào để tăng cường thu hút và sử dụng cho có hiệu quả nguồn vốn ODA? Là một trong những nhà tài trợ hàng đầu cho Việt Nam, trong năm 2009 này ADB đã cam kết cho Việt Nam trên 1,5 tỉ USD. Với con số lớn như vậy, chúng ta cần phải làm gì để các cam kết đó được hợp thức hoá và được sử dụng một cách hiệu quả nhất, đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam? Từ những lý do trên, em đã lựa chọn đề tài : “Nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam” để làm đề tài nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Mục đích nghiên cứu: - Làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lí luận về viện trợ phát triển chính thức ODA, vai trò của nguồn vốn ODA nói chung và vốn ODA của ADB nói riêng đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam - Đánh giá tình hình cam kết, kí kết và giải ngân nguồn vốn ODA của ADB để tìm ra những khó khăn và các nguyên nhân cần giải quyết trong quá trình sử dụng vốn. - Đề xuất các giải pháp chung và riêng đối với ODA của ADB trước mắt cũng như giai đoạn tới nhằm nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn ODA nói chung và vốn ODA của ADB nói riêng. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu hoạt động thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA của ADB trong thời gian từ khi Việt Nam nối lại quan hệ với ADB (1993) đến nay. Kết cấu đề tài: gồm 3 chương: - Chương I: Tổng quan về ODA và nguồn vốn ODA của ADB - Chương II: Thực trạng thu hút và sử dụng vốn ODA của ADB trong thời gian qua - Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng ODA của ADB. Chuyên đề : “ Nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn ODA của ADB cho Việt Nam” được hoàn thiện với sự giúp đỡ của cô giáo – Th.s. Nguyễn Thị Hương Trà và các chuyên viên Vụ Tài chính Tiền tệ – Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Qua đây, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và lòng kính trọng đặc biệt. Trong quá trình triển khai và thực hiện đề tài, mặc dù đã có sự cố gắng rất nhiều nhưng nhưng vẫn không tránh khỏi những sai sót. Vậy mong được sự quan tâm, bổ sung, ý kiến chỉ đạo của thầy giáo, cán bộ hướng dẫn chuyên đề để chuyên đề ngày càng hoàn thiện hơn. CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ ODA VÀ NGUỒN VỐN ODA CỦA NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN CHÂU Á (ADB) 1.1. Tổng quan về ODA. 1.1.1.Khái niệm về ODA. Sau chiến tranh thế giới thứ II, hầu hết các nước châu Âu, châu Á đều đứng trước cảnh đổ nát hoang tàn. Chỉ có châu Mỹ nói chung và nước Mỹ nói riêng là không bị ảnh hưởng gì, trái lại còn phất lên nhờ chiến tranh (Năm 1945, GDP của Mỹ là 213,5 tỉ USD, bằng 40% tổng sản phẩm của toàn thế giới, tăng gần gấp đôi so với 125,8 tỉ USD năm 1942). Vì thế, Mỹ lập “ Kế hoạch Marshall” để viện trợ cho châu Âu với tên gọi là khoản: “ Hỗ trợ phát triển chính thức – ODA”. Từ đó đến nay, theo sự phát triển của mối quan hệ quốc tế, các dòng vốn ODA liên tục được đưa vào các nước đang phát triển. Nghiên cứu về dòng vốn này có rất nhiều quan điểm. Trong phạm vi bài viết xin đề cập đến một số quan điểm sau: Khái niệm ODA được Uỷ ban viện trợ phát triển DAC (Develoment Asistance Committee) của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đề cập vào năm 1969. Theo DAC thì ODA là nguồn vốn hỗ trợ chính thức từ bên ngoài, bao gồm các khoản viện trợ và cho vay với các điều kiện ưu đãi. ODA được hiểu là nguồn vốn dành cho các nước đang và kém phát triển được các cơ quan chính thức của Chính phủ Trung ương và địa phương hoặc các cơ quan thừa hành của Chính phủ, các tổ chức liên Chính phủ, các tổ chức phi Chính phủ tài trợ. Vốn ODA phát sinh từ nhu cầu thiết yếu của một quốc gia, một địa phương, một ngành được tổ chức quốc tế hay nước bạn xem xét và cam kết tài trợ, thông qua một hiệp định quốc tế được đại diện có thẩm quyền hai bên ( Bên nhận vốn và Bên hỗ trợ vốn) kí kết. Hiệp định quốc tế hỗ trợ này được chi phối bởi Công pháp Quốc tế. Theo quan điểm của Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) thì nguồn vốn Hỗ trợ phát triển chính thức bao gồm cả các khoản cho không và các khoản vay đối với các nước đang phát triển, đó là nguồn vốn do các bộ phận chính thức cam kết ( nhà tài trợ chính thức ), nhằm mục đích cơ bản là phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội được cung cấp bằng các điều khoản tài chính ưu đãi ( nếu là các khoản vay, sẽ có yếu tố cho không ít nhất là 25%) Theo định nghĩa của Ngân hàng thế giới (WB) thì “ ODA là khoản tài trợ hoặc giải ngân vốn vay ưu đãi (sau khi đã trừ phần trả nợ ) được cung cấp bởi các cơ quan chính thức của các nước thuộc Uỷ ban phát triển OECD, một số quốc gia và tổ chức đa phương khác như Ngân hàng Thế giới với mục đích phát triển. Viện trợ quân sự không được tính vào khái niệm này. Hình thức cung cấp ODA chủ yếu là ODA không hoàn lại và ODA vay ưu đãi có yếu tố hoàn lại ít nhất 25%. Phương thức cung cấp ODA bao gồm: Hỗ trợ cán cân thanh toán, hỗ trợ chương trình và hỗ trợ theo dự án. Hỗ trợ phát triển chính thức ODA là một nguồn vốn phát triển quan trọng đối với các nước đang phát triển để tăng cường quản lí kinh tế, phúc lợi xã hội, tái thiết, xây dựng đất nước và phát triển kinh tế, hỗ trợ cán cân thanh toán, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội,… 1.1.2. Đặc điểm của ODA. * Thứ nhất, vốn ODA mang tính ưu đãi. Vốn ODA có thời gian cho vay (hoàn trả vốn) dài, có thời gian ân hạn lâu (chỉ trả lãi, chưa trả nợ gốc). Và thông thường, trong ODA có “yếu tố không hoàn lại” (còn gọi là “thành tố hỗ trợ”). Đây chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho vay thương mại. Tính ưu đãi của ODA còn được thể hiện ở chỗ nó chỉ dành riêng cho các nước đang và chậm phát triển, vì mục tiêu phát triển. Có hai điều kiện cơ bản nhất để các nước đang và chậm phát triển có thể nhận được ODA: + Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product- GDP) bình quân đầu người thấp. Nước có GDP bình quân đầu người càng thấp thì thường được tỷ lệ viện trợ không hoàn lại của ODA càng lớn và khả năng vay với lãi suất thấp và thời hạn ưu đãi càng lớn. + Mục tiêu sử dụng vốn ODA của các nước này phải phù hợp với chính sách và phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ giữa bên cấp và bên nhận ODA. Thông thường, các nước cung cấp ODA đều có những chính sách và ưu tiên riêng của mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả năng về kỹ thuật và tư vấn công nghệ, kinh nghiệm quản lý… Đồng thời, đối tượng ưu tiên của các nước cung cấp ODA cũng có thể thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể. Vì vậy, nắm được hướng ưu tiên và tiềm năng của các nước, các tổ chức cung cấp ODA là rất cần thiết. * Thứ hai, vốn ODA mang tính chất ràng buộc. Nguồn vốn ODA luôn chứa đựng cả tính ưu đãi cho nước tiếp nhận và lợi ích của nước viện trợ. Vốn ODA mang yếu tố chính trị. Các nước viện trợ nói chung đều không quên dành được lợi ích cho mình, vừa gây ảnh hưởng chính trị, vừa thực hiện xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ tư vấn vào nước tiếp nhận viện trợ. Nhìn chung, 22% viện trợ của Uỷ ban Hỗ trợ Phát triển (Development Assistance Committee- DAC) phải được sử dụng để mua hàng hoá và dịch vụ của các quốc gia viện trợ. Kể từ khi ra đời đến nay, viện trợ luôn chứa đựng hai mục tiêu cùng tồn tại song song. Mục tiêu thứ nhất là thúc đẩy tăng trưởng bền vững và giảm nghèo ở những nước đang phát triển. Mục tiêu thứ hai là tăng cường vị thế chính trị của các nước tài trợ. Chính vì vậy, khi nhận viện trợ, các nước nhận cần cân nhắc kỹ lưỡng những điều kiện của các nhà tài trợ, không vì mục đích trước mắt mà đánh mất những quyền lợi lâu dài. Quan hệ hỗ trợ phát triển chính thức phải đảm bảo tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi. * Thứ ba, ODA là nguồn vốn có khả năng để lại gánh nặng nợ. Khi tiếp nhận và sử dụng vốn ODA, do tính chất ưu đãi nên gánh nặng nợ nần thường chưa xuất hiện. Một số nước do sử dụng chưa có hiệu quả ODA, có thể tạo nên sự tăng trưởng nhất thời, nhưng sau một thời gian lại lâm vào vòng nợ nần do không có khả năng trả nợ. Sự phức tạp chính là ở chỗ vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại chủ yếu dựa vào xuất khẩu để thu ngoại tệ. Do đó, trong khi hoạch định chính sách sử dụng ODA phải phối hợp với các loại nguồn vốn để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu. 1.1.3. Vai trò của ODA đối với các nước đang phát triển. * Thứ nhất, ODA là một nguồn vốn có vai trò quan trọng đối với các nước đang phát triển. Sau chiến tranh thế giới thứ II, nhiều nước ở châu Á thiếu vốn để khôi phục và phát triển nền kinh tế. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng đòi hỏi một lượng vốn lớn, lãi suất thấp, thời gian thu hồi vốn lâu, nhiều rủi ro. Vì vậy các nước gặp nhiều khó khăn trong việc thu hút vốn FDI vào lĩnh vực này. Nhiều nước đã tranh thủ được nguồn vốn ODA từ các nước giàu. Do tính chất ưu đãi, vốn ODA thường dành cho đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội như đầu tư vào đường sá, cầu cảng, công trình điện, công trình cấp thoát nước và các lĩnh vực giáo dục, y tế văn hoá và phát triển nguồn nhân lực. Vào đầu những năm 1970, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội của các nước Đông Nam Á sau khi giành độc lập còn rất nghèo nàn và lạc hậu. Các quốc gia đã sớm nhận thấy vai trò quan trọng của việc phát triển các hoạt động giao thông vận tải, thông tin liên lạc và bưu chính viễn thông… Nhiều công trình hạ tầng kinh tế xã hội như sân bay, bến cảng, đường cao tốc, trường học, bệnh viện, trung tâm nghiên cứu khoa học mang tầm cỡ quốc gia ở Thái Lan, Singapore, Indonesia, Philippines đã được xây dựng bằng nguồn vốn ODA của Nhật Bản, Hoa Kỳ, WB, ADB để hiện đại hoá hệ thống giao thông vận tải của mình. * Thứ hai, ODA giúp các nước đang phát triển tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực. Những lợi ích quan trọng mà ODA mang lại cho các nước nhận tài trợ là công nghệ, kỹ thuật hiện đại, kỹ xảo chuyên môn và trình độ quản lý tiên tiến. Các nhà tài trợ còn ưu tiên đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực vì họ tin tưởng rằng việc phát triển của một quốc gia quan hệ mật thiết với việc phát triển nguồn nhân lực. Đây mới chính là những lợi ích căn bản, lâu dài đối với nước nhận tài trợ. Chỉ có điều là những lợi ích này thật khó có thể lượng hoá được. * Thứ ba, ODA giúp các nước đang phát triển điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Do dân số tăng nhanh, sản xuất tăng chậm và cung cách quản lý kinh tế, tài chính kém hiệu quả, các nước đang phát triển đặc biệt là các nước Châu Phi đang vấp phải nhiều khó khăn kinh tế như nợ nước ngoài và thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế ngày càng tăng. Để giải quyết vấn đề này, các quốc gia đang cố gắng hoàn thiện cơ cấu kinh tế bằng cách phối hợp với WB, Quỹ tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund- IMF), các tổ chức quốc tế khác tiến hành chính sách điều chỉnh cơ cấu. Chính sách này có xu hướng là chuyển chính sách kinh tế Nhà nước đóng vai trò trung tâm sang chính sách khuyến khích nền kinh tế phát triển theo định hướng phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Thế giới đã thừa nhận sự cần thiết của loại hình viện trợ này đối với các nước đang phát triển. * Thứ tư, ODA góp phần tăng khả năng thu hút FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước ở các nước đang phát triển. Các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài khi quyết định bỏ vốn đầu tư vào một nước trước hết họ quan tâm tới khả năng sinh lợi của vốn đầu tư tại nước đó. Họ luôn cảnh giác với những nguy cơ làm tăng các phí tổn của đầu tư. Một cơ sở hạ tầng yếu kém như hệ thống giao thông chưa hoàn chỉnh, phương tiện thông tin liên lạc thiếu thốn và lạc hậu, hệ thống cung cấp năng lượng (điện, nhiên liệu) không đủ cho nhu cầu sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư vì rằng những phí tổn mà họ phải trả cho việc sử dụng những tiện nghi hạ tầng sẽ lên cao, chưa kể đến thiệt hại như hoạt động của nhà máy, xí nghiệp phải dừng vì mất điện, công trình xây dựng bỏ dở vì không có nước… Một hệ thống ngân hàng lạc hậu cũng là lý do làm cho các nhà đầu tư e ngại, vì những chậm trễ, ách tắc trong hệ thống thanh toán và sự thiếu thốn các dịch vụ ngân hàng hỗ trợ cho đầu tư sẽ làm phí tổn đầu tư gia tăng, dẫn tới hiệu quả đầu tư giảm sút. Như vậy, việc đầu tư của Chính phủ vào việc nâng cấp, cải thiện và xây dựng mới các cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính, ngân hàng đều hết sức cần thiết, nhằm làm cho môi trường đầu tư trở nên hấp dẫn hơn. Nhưng vốn đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng rất lớn, trong nhiều trường hợp, các nước đang phát triển cần phải dựa vào nguồn vốn ODA để bổ sung cho vốn đầu tư hạn hẹp từ ngân sách Nhà nước. Như vậy, việc sử dụng vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong nước tập trung đầu tư vào các chương trình sản xuất kinh doanh có khả năng mang lại lợi nhuận. 1.1.4.Phân loại ODA. Dựa vào các tiêu chí khác nhau lại có các cách phân loại ODA khác nhau. * Theo tính chất tài trợ, ODA bao gồm: Viện trợ không hoàn lại: là các khoản cho không, nước nhận viện trợ không có nghĩa vụ hoàn trả lại. Viện trợ có hoàn lại: các khoản vay ưu đãi (tín dụng với điều kiện “mềm”). Viện trợ hỗn hợp: gồm một phần cho không, phần còn lại thực hiện theo hình thức tín dụng (có thể là tín dụng ưu đãi hoặc tín dụng thương mại). * Theo mục đích sử dụng, ODA bao gồm: Hỗ trợ cơ bản: là những nguồn lực được cung cấp để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội và môi trường. Đây thường là những khoản cho vay ưu đãi. Hỗ trợ kỹ thuật: là những nguồn lực dành cho chuyển giao tri thức, công nghệ, xây dựng năng lực, tiến hành nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu tiền đầu tư, phát triển thể chế và nguồn nhân lực… loại hỗ trợ này chủ yếu là viện trợ không hoàn lại. * Theo điều kiện, ODA bao gồm: ODA không ràng buộc nước nhận: việc sử dụng nguồn tài trợ không bị ràng buộc bởi nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng nào. ODA có ràng buộc nước nhận: + Bởi nguồn sử dụng: việc mua sắm hàng hoá, trang thiết bị hay dịch vụ bằng nguồn vốn ODA chỉ giới hạn cho một số công ty do nước tài trợ sở hữu hoặc kiểm soát (đối với viện trợ song phương), hoặc các công ty của các nước thành viên (đối với viện trợ đa phương). + Bởi mục đích sử dụng: chỉ được sử dụng nguồn vốn ODA cho một số lĩnh vực nhất định hoặc một số dự án cụ thể. ODA có thể ràng buộc một phần: một phần chịu ràng buộc, phần còn lại không phải chịu bất kỳ ràng buộc nào. * Theo đối tượng sử dụng, ODA được chia thành: Hỗ trợ dự án: là hình thức chủ yếu của ODA để thực hiện các dự án cụ thể. Nó có thể là hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật, có thể là cho không hoặc cho vay ưu đãi. Hỗ trợ phi dự án: + Hỗ trợ cán cân thanh toán: thường là hỗ trợ tài chính trực tiếp (chuyển giao tiền tệ) hoặc hỗ trợ hàng hoá, hỗ trợ qua nhập khẩu (ngoại tệ hoặc hàng hoá được chuyển qua hình thức này có thể được sử dụng để hỗ trợ ngân sách). + Hỗ trợ trả nợ: giúp thanh toán các khoản nợ quốc tế đến hạn. + Viện trợ chương trình: là khoản ODA dành cho một mục đích tổng quát với thời gian nhất định mà không phải xác định một cách chính xác nó sẽ được sử dụng như thế nào? * Theo nhà cung cấp, ODA được chia thành: ODA song phương: là ODA của một Chính phủ tài trợ trực tiếp cho một Chính phủ khác. ODA đa phương: là ODA của nhiều Chính phủ cùng đồng thời tài trợ, thường được thực hiện thông qua các tổ chức quốc tế (WB, IMF, ADB…). ODA của các tổ chức phi Chính phủ (NGO). 1.2.Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) và nguồn vốn ODA của ADB 1.2.1.Giới thiệu về ADB. ADB là tên viết tắt tiếng Anh của Ngân hàng Phát triển Châu Á ( Asian Development Bank ). Đầu thập kỉ 60 của thế kỉ XX, các nước Châu Á đều thuộc hàng ngũ những nước nông nghiệp, trình độ phát triển thấp, thu nhập của dân cư thấp nhất thế giới.Các nước đều có nguyện vọng tập hợp nhau lại, hỗ trợ nhau cùng phát triển kinh tế, nâng cao đời sống dân cư, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Trong trào lưu thành lập các ngân hàng khu vực, trên cơ sở đềxuất từ 1963 của Uỷ ban kinh tế – xã hội Châu Á– Thái Bình Dương họp tại Manila, Philippin năm 1965 đã kí kết Điều lệ thành lập Ngân hàng Phát triển Châu Á. Ngân hàng chính thức đi vào hoạt động ngày 19/12/1966 với 43 thành viên sáng lập có Hội sở tại Manila và vốn điều lệ 956 triệu USD. 1.2.1.1 Mục tiêu hoạt động của ADB *Mục tiêu hoạt động của ADB bao gồm: Hỗ trợ cho việc chuẩn bị và phối hợp các chương trình phát triển quốc gia của các nước trong khu vực Viện trợ kĩ thuật cho việc xây dựng và thực hiện các dự án phát triển cụ thể của các nước trong khu vực Cho vay dài hạn cho các dự án phát triển của các quốc gia trong khu vực Thúc đẩy đầu tư Chính phủ và đầu tư tư nhân Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác trong phát triển kinh tế các nước trong khu vực Cung cấp các dịch vụ nghiên cứu và quản trị cho các nước trong khu vực 1.2.1.2. Nguồn vốn hoạt động của ADB * Nguồn vốn thông thường (OCR) : Gồm vốn điều lệ, vốn huy động và vốn dự trữ. Được dùng để cho vay thông thường ( ít ưu đãi) - Vốn điều lệ: Được các nước thành viên đóng góp với mức tương đương 0,5% GDP bình quân của 5 năm liên tục tính đến thời điểm gia nhập. Theo qui chế, tối thiểu 60% vốn điều lệ do các nước trong khu vực nắm giữ. Hiện nay, tỉ lệ này là 64,5% trong khu vực và 35,5% ngoài khu vực - Vốn huy động: Nguồn vốn chủ yếu trong hoạt động là vốn huy động trên thị trường tài chính quốc tế thông qua phát hành trái phiếu. ADB tương đối thận trọng trong chính sách vay nợ. Tỉ lệ vay nợ trên vốn tự có là 1:1, nghĩa là các khoản vay không vượt quá vốn cổ phần ( cả phần đã nộp và phần phải nộp) và vốn dự trữ. Trái phiếu của ADB được xếp hạng AAA. - Vốn dự trữ: Hình thành từ lợi nhuận ròng của Ngân hàng. Hiện nay đạt gần 4 tỉ USD * Nguồn vốn đặc biệt (ADF): Hình thành do sự đóng góp của một số nước phát triển trong và ngoài châu lục để tạo lập các Quỹ đặc biệt nhằm tài trợ cho các nước nghèo trong khu vực với những điều kiện ưu đãi so với những khoản tài trợ từ nguồn vốn thông thường. - Quỹ phát triển châu Á : Thành lập từ năm 1974 với số vốn là 525 triệu USD, và được thương lượng nâng vốn định kì 4 năm một lần, nay tăng lên 2,45 tỉ USD. Lãi suất ưu đãi 1%, thời hạn vay nợ 40 năm. Thường cho vay với Bangladesh (30%), Nepan, Srilanca, Myanmar,… - Quỹ đặc biệt hỗ trợ kĩ thuật: Thành lập năm 1976. Ngoài vốn góp của các thành viên giàu còn có khoản trích hàng năm từ Quỹ phát triển châu Á. Hiện nay đã đạt hơn 220 triệu USD - Quỹ Nhật Bản: Thành lập năm 1988 với số vốn ban đầu là 35,8 triệu USD, hiện nay đạt trên 200 triệu USD 1.2.1.3. Hoạt động tài trợ của ADB Để nâng cao hiệu quả các khoản tài trợ cho các nước thành viên châu lục, ABD có nhiều điều chỉnh trong chính sách trong những năm gần đây. Cụ thể: Vừa kiên trì chính sách tài trợ nhằm vào khu vực kinh tế công, trước áp lực của Mỹ và một số nước Tây Âu, ADB đã chú ý tài trợ khu vực doanh nghiệp tư nhân với số tiền hàng tỉ USD, chiếm khoảng 10% số tài trợ của ADB Bên cạnh chú ý tài trợ cho các dự án năng lượng (30%), cơ sở hạ tầng giao thông, vận tải, phát triển nông nghiệp, ADB đã chú ý tài trợ các dự án phát triển đô thị, giáo dục, y tế, xoá đói, giảm nghèo, tăng cường vai trò phụ nữ, bảo vệ môi trường…(khoảng 14 – 18% số tiền tài trợ hàng năm). Trong thời gian gần đây, ngoài tài trợ trực tiếp cho các dự án lớn, đã áp dụng phương pháp tài trợ gián tiếp qua các định chế tài trợ của các nước thành viên với các dự án vừa và nhỏ với số vốn nhiều tỉ USD Đối với các dự án nhỏ, ADB đã thực hiện tài trợ theo ngành. Tức tài trợ một khoản tín dụng duy nhất cho một nhóm các dự án nhỏ trong một ngành, tiểu ngành theo khu vực địa lí nhất định hoặc nằm trong một giai đoạn nào đó trong một chương trình đầu tư nhất định ( chiếm khoảng 11% tổng vốn tài trợ của ADB hàng năm). ADB cũ Luận văn liên quan Chuyên đề Phân tích thống kê thực trạng và hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời kỳ 1988-2000 65 trang | Lượt xem: 1473 | Lượt tải: 0 Đề tài Kinh nghiệm của Malaysia đối với Việt Nam trong chính sách thu hút đầu tư 20 trang | Lượt xem: 1706 | Lượt tải: 2 Luận án Phát triển công nghiệp của Tp Cần Thơ đến năm 2020 23 trang | Lượt xem: 2336 | Lượt tải: 13 Dự án đầu tư thành lập trung tâm ngoại ngữ 35 trang | Lượt xem: 12400 | Lượt tải: 153 Phát triển bền vững các vùng đá vôi ở Việt Nam 32 trang | Lượt xem: 2174 | Lượt tải: 12 Luận án Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn Thừa Thiên Huế 26 trang | Lượt xem: 2306 | Lượt tải: 9 Đề tài Lựa chọn danh mục đầu tư 23 trang | Lượt xem: 1637 | Lượt tải: 4 Chuyên đề Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 55 trang | Lượt xem: 1370 | Lượt tải: 0 Đề án Nguồn vốn của doanh nghiệp và giải pháp nào để hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình hội nhập WTO 31 trang | Lượt xem: 1437 | Lượt tải: 3 Đề tài Hoạt động đầu tư kinh doanh bất động sản tại công ty TNHH Đức Dương 43 trang | Lượt xem: 1962 | Lượt tải: 16 Copyright © 2020 LuanVan.net.vn Website đang trong thời gian thử nghiệm, chờ xin giấy phép của Bộ TT & TT. Thư viện tài liệu và ebook cho sinh viên. Thư viện tài liệu Các bài Soạn văn hay nhất. Chia sẻ:
1614178347293.1.parquet/6861
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 21265, "url": "http://luanvan.net.vn/luan-van/chuyen-de-nang-cao-hieu-qua-thu-hut-va-su-dung-nguon-von-ho-tro-phat-trien-chinh-thuc-oda-cho-viet-nam-19106/" }
128.3
Giáo hội Latinh – Wikipedia tiếng Việt Mở trình đơn chính Trang chính Ngẫu nhiên Lân cận Đăng nhập Tùy chọn Quyên góp Giới thiệu Wikipedia Lời phủ nhận Tìm kiếm Giáo hội Latinh giáo hội Kitô giáo lớn nhất trên thế giới với trụ sở tại Vatican Ngôn ngữ Theo dõi Sửa đổi Giáo hội Latinh (tiếng Latinh: Ecclesia Latina) là một phương quản trị (sui iuris) nằm trong sự hiệp thông với Giáo hội Công giáo. Cùng với các phương quản trị nhỏ khác, tập hợp thành Giáo hội Công giáo Hoàn vũ dưới sự lãnh đạo của giám mục của Rôma, chức danh là giáo hoàng. Giáo hội Latinh là phương quản trị lớn nhất và quan trọng nhất của Giáo hội Công giáo, có số lượng khoảng hơn một tỷ thành viên, nhiều hơn hẳn so với các phương quản trị khác. Giáo hội này được thiết lập ở Tây Âu và Bắc Phi, vốn là cương vực của Đế quốc La Mã với ngôn ngữ và văn hóa Latinh là chủ yếu. Đôi khi, người ta còn gọi Giáo hội Latinh là là Giáo hội Tây Phương để phân biệt với Giáo hội Đông phương, bao gồm 22 phương quản trị nhỏ ở đông phương. Ngày nay, qua công cuộc truyền giáo, thành viên của các phương quản trị không nhất thiết ở khu vực địa lý sơ khởi mà họ đã có mặt ở khắp nơi trên thế giới. Mục lục 1 Thuật ngữ 1.1 Giáo hội và Giáo nghi 1.2 Công giáo Latinh và Công giáo Rôma 2 Tham khảo Thuật ngữSửa đổi Giáo hội và Giáo nghiSửa đổi Công giáo Latinh và Công giáo RômaSửa đổi Tham khảoSửa đổi Bài viết chủ đề Công giáo này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn. x t s Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Giáo_hội_Latinh&oldid=49281877” Sửa đổi lần cuối lúc 09:57 vào ngày 15 tháng 2 năm 2019 Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 3.0, ngoại trừ khi có ghi chú khác. Trang này được sửa đổi lần cuối vào ngày 15 tháng 2 năm 2019 lúc 09:57. Văn bản được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự; có thể áp dụng điều khoản bổ sung. Với việc sử dụng trang web này, bạn chấp nhận Điều khoản Sử dụng và Quy định quyền riêng tư. Wikipedia® là thương hiệu đã đăng ký của Wikimedia Foundation, Inc., một tổ chức phi lợi nhuận. Quy định quyền riêng tư Giới thiệu Wikipedia Lời phủ nhận Điều khoản sử dụng Máy tính để bàn Nhà phát triển Thống kê Tuyên bố về cookie
1614178347293.1.parquet/69740
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 1877, "url": "https://vi.m.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_h%E1%BB%99i_Latinh" }
128.2
ngành Thiết kế thời trang | Luyện thi - Dịch vụ luyện thi chuyên nghiệp Luyện thi Trang chủ Bí kíp luyện thi Cẩm nang học tập Tìm hiểu ngành nghề Tag: ngành Thiết kế thời trang Thông tin cần biết ngành Thiết kế thời trang 24/10/2017 Tin tìm hiểu ngành nghề Phải nói thêm rằng để có thể trở thành một nhà thiết kế với những mẫu sáng tạo có giá trị thực tiễn là một quá trình lao động, sáng tạo không ngừng nghỉ. Để có thể đứng trên sân khấu, nhận lấy những tràng vỗ tay tán thưởng dành cho thành quả của mình, những nhà thiết kế thực sự phải nỗ lực rất nhiều. Thông tin cần biết ngành Thiết kế thời trang Trong một xã hội hiện đại khi nhu cầu và trình độ văn hóa, nghệ thuật – thẩm mỹ ngày càng tăng cao thì nghề thiết kế thời trang (fashion design) đang được xem như một trong những nghề thời thượng được nhiều bạn trẻ chọn lựa. Lý do cũng chính bởi sức hấp dẫn của nó ở tính năng động, khả năng sáng tạo tối đa và cả ánh hào quang trong mắt công chúng của nghề này. Tuy vậy, con đường đi đến thành công không phải lúc nào cũng trải đầy hoa hồng. Thiết kế thời trang được xem như một môn nghệ thuật ứng dụng đòi hỏi nhà thiết kế phải có tài năng và óc sáng tạo không ngừng nghỉ. Các sáng tạo của họ không chỉ đơn thuần là về kiểu dáng trang phục mà còn bao gồm các phụ kiện sao cho phù hợp với văn hóa, xã hội và thời đại. Tuy nhiên, khái niệm về nghề thiết kế thời trang được hiểu khá rộng. Người thiết kế có thể là người trực tiếp đứng ra thiết kế hoặc cũng có thể là người quản lý một đội ngũ thiết kế ở một công ty thời trang, thể thao hay tự gây dựng một nhãn hiệu riêng. Đây là ngành học phù hợp với các bạn trẻ yêu thích mỹ thuật, thời trang và có năng khiếu trong những lĩnh vực này. Sức hấp dẫn của nghề Sự giàu có và nổi tiếng có thể coi là sức hấp dẫn số một của nghề này. Trên sân khấu lớn, dưới ánh đèn sáng rực rỡ bên cạnh những người mẫu trẻ trung xinh đẹp khoác trên mình những bộ trang phục lộng lẫy, bạn xuất hiện, cúi chào khán giả trong những tràng pháo tay giòn giã, tán thưởng dành cho bộ sưu tập mà bạn mang tới. Và hơn thế nữa, bạn cũng có thể nhìn thấy những mẫu thiết kế của mình được mọi người sử dụng ở khắp nơi, được lên những trang tạp chí đắt tiền. Bạn thậm chí còn được các diễn viên, ca sĩ nổi tiếng đặt hàng những trang phục để họ đi dự các liên hoan lớn. Tên tuổi cùng với thương hiệu của bạn sẽ được nhiều người biết đến chưa kể đến những lợi nhuận về tài chính mà công việc có thể mang lại. Bên cạnh những cái sẽ đạt được đó, trong khi thiết kế thời trang, bạn có thể tự do sáng tạo với cảm hứng cá nhân. Đó là một niềm vui lớn trong khi làm việc vì không phải làm nghề nào bạn cũng có thể làm theo ý của mình được. Chính vì vậy, những sản phẩm mà bạn tạo ra thực sự là một tác phẩm nghệ thuật mang đậm cá tính của bạn. Thật hạnh phúc khi cá tính của bạn được khảng định và mọi người mến mộ đúng không? Các kĩ năng cần thiết Sáng tạo và phong cách: Không nhà thiết kế thời trang nào có thể làm việc mà không có sự sáng tạo và phong cách. Ngành thời trang đang ở tình trạng biến chuyển không ngừng. Nhà thiết kế thời trang cần phải sẵn sàng ứng biến. Họ cần khả năng nhìn vào phong cách cũ và thấy được hướng mới để đưa vào bản thiết kế của mình. Họ cần khả năng cách tân và đưa cái mới lạ vào trang phục. Từ vẽ phác thảo đến thực hiện, nhà thiết kế cần năng lực về mỹ thuật và tính sáng tạo để thành công trong lĩnh vực này. Hiểu biết về lịch sử thời trang: Đặt ra xu hướng không phải là một việc đơn giản. Nhà thiết kế thời trang phải thực hiện từng bước. Để làm được điều đó, họ cần hiểu biết về những phong cách trước đây và những biến động trong lịch sử thời trang. Họ cũng cần nhận thức về các sự kiện thời trang gần đây cũng như những tiến triển. Biết cách kinh doanh: Hiểu được những đặc tính phức tạp của việc kinh doanh cũng là một cái lợi đối với nhà thiết kế. Trong ngành có tính cạnh tranh cao này, đòi hỏi các nhà thiết kế không thể chỉ dựa vào cái nhìn nghệ thuật để mang lại thành công. Đối với họ, việc hiểu những quy tắc cơ bản về marketing và kinh doanh mới có thể giúp họ đạt được mục đích của mình. Khả năng chịu được áp lực công việc: Nghề thiết kế thời trang không dành cho người yếu tim. Nhà thiết kế thời trang phải có khả năng chịu được áp lực công việc. Làm việc với nhiều kiểu người hoặc nhóm người để đáp ứng thời hạn eo hẹp có thể gây căng thẳng. Những ai bước vào lĩnh vực này luôn phải sẵn sàng làm việc theo nhóm, và họ sẽ phát đạt do nhu cầu về thời hạn. Họ cũng phải có khả năng điều chỉnh được lời phê bình. Những lời phê bình trong lĩnh vực này có thể rất khó nghe. Nhà thiết kế thời trang thành công luôn biết cách học từ câu phê bình trong khi đang duy trì phong cách cá nhân của họ. Những khó khăn phải đối mặt Khó khăn đầu tiên của nghề chính là từ những hạn chế của lĩnh vực thời trang trong nước. Một thực tế không thể phủ nhận đó là thời trang Việt Nam so với thế giới cũng giống như chàng tý hon đứng cạnh những gã khổng lồ. Nói cách khác, ngành thời trang Việt Nam chưa phát triển vì không có “công nghệ về thời trang” với quy trình đào tạo chuyên nghiệp… Cái người ta nhìn thấy ở thời trang Việt Nam hiện nay chỉ mới là từng cá nhân, chứ không thể gọi là tổng thể được. Tuy nhiên, với xu thế phát triển hiện nay, ngành thời trang đang có nhiều cơ hội lớn và trông chờ vào một đội ngũ trẻ chuyên nghiệp đang được đào tạo một cách bài bản trong tương lai. Tiếp đó, sự giàu có và nổi tiếng cũng không phải là điều dễ dàng bởi để được mọi người công nhận tài năng bạn cần phải học để lấy được tấm bằng thiết kế thời trang cũng như kiến thức về may đo, xu hướng thời trang theo từng giai đoạn thay đổi như thế nào nhằm phục vụ cho công việc. Một điều cũng cần lưu ý đó là sự cạnh tranh khốc liệt cũng như khó khăn để có thể thành công của nghề này. Ngoài ra, nghề thiết kế không chỉ đòi hỏi những kiến thức qua đào tạo, trường lớp mà còn đòi hỏi bạn phải học thêm nhiều trong thực tế. Như một thiết kế viên của công ty may Việt Tiến cho biết công ty anh đã từng nhận đến bốn thiết kế viên được đào tạo chuyên ngành đàng hoàng, thậm chí có người từng đỗ thủ khoa của ngành, nhưng… lại “không sử dụng được”. Phải nói thêm rằng để có thể trở thành một nhà thiết kế với những mẫu sáng tạo có giá trị thực tiễn là một quá trình lao động, sáng tạo không ngừng nghỉ. Để có thể đứng trên sân khấu, nhận lấy những tràng vỗ tay tán thưởng dành cho thành quả của mình, những nhà thiết kế thực sự phải nỗ lực rất nhiều. Đó là hàng giờ trăn trở bên giá vẽ, trong xưởng may để có thể cho ra đời một mẫu thiết kế tâm đắc và được mọi người đón nhận. Hầu hết những nhà thiết kế có danh tiếng đều bắt đầu sự nghiệp với những công việc hết sức khổ cực và đây cũng chính là một phần của nghề thiết kế hay ít nhất trong một vài năm đầu của nghề. Học nghề Thiết kế thời trang sở đâu? Thiết kế thời trang là một chuyên ngành của Mỹ thuật ứng dụng, đang được đào tạo ở một số trường đại học, cao đẳng như: Phía Bắc: ĐH Mỹ thuật công nghiệp, ĐHSP Nghệ thuật TW, Việt ĐH Mở Hà Nội, CĐ Công nghiệp dệt may thời trang, CĐ Nghệ thuật Hà Nội, CĐSP Trung ương, CĐ Văn hóa nghệ thuật Thanh Hóa v.v… Phía Nam: ĐH Kiến trúc Tp.HCM, ĐH Quốc tế Hồng Bàng, ĐH Kỹ thuật công nghệ Tp.HCM, ĐH Văn Lang, CĐ Kinh tế kỹ thuật Vinatex Tp.HCM, CĐ Văn hóa nghệ thuật Tp.HCM, CĐSP Thừa Thiên Huế, CĐ Văn hóa nghệ thuật và Du lịch Nha Trang, CĐ Mỹ thuật trang trí Đồng Nai v.v… Danh mục chính Bí kíp luyện thi Cẩm nang học tập Tìm hiểu ngành nghề Cẩm nang học tập Những thói quen cần có để học tập tốt hơn Kinh nghiệm giúp ôn tập tốt môn Văn 4 cách để lấy lại sự tập trung khi học bài Tìm hiểu một số thao tác lập luận trong văn nghị luận Kinh nghiệm để học tốt môn Toán Bí quyết giúp học tốt môn Văn Tìm hiểu ngành nghề Thông tin cần biết ngành Sinh học Thông tin cần biết ngành Hóa học Thông tin cần biết ngành Thiết kế thời trang Thông tin cần biết ngành Kiến trúc Thông tin cần biết ngành Xây dựng Thông tin cần biết ngành Sư phạm Copyright © 2017 Luyện thi - Dịch vụ luyện thi - Trung tâm luyện thi - Luyện thi đại học Website đang được xây dựng. Chúng tôi chưa cung cấp thông tin, dịch vụ hoặc sản phẩm trên website này. Mong quý vị thông cảm! Phát triển bởi: Thiết kế website đẹp
1614178347293.1.parquet/94825
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 7393, "url": "http://www.luyenthi.net/tag/nganh-thiet-ke-thoi-trang/" }
128.1
Kinh tế dân tộc thúc đẩy các công ty rời khỏi Trung Quốc | chơi bet365 làm thế nào để thắng_link vào bet365 mới nhất_bet365 là gì Search Kinh tế dân tộc thúc đẩy các công ty rời khỏi Trung Quốc Home / Phân tích / Kinh tế dân tộc thúc đẩy các công ty rời khỏi Trung Quốc Phân tích 2020-07-062020-07-06admin Thế giới từ lâu đã phụ thuộc rất nhiều vào Trung Quốc. Ngoài vai trò của các nhà máy toàn cầu, dân số ngày càng tăng đã khiến Trung Quốc trở thành thị trường tiêu dùng sinh lợi. Tuy nhiên, trước khi cuộc chiến thương mại Hoa Kỳ-Trung Quốc bắt đầu, các công ty đa quốc gia đã phải xem xét lại hoạt động kinh doanh tại Trung Quốc. Chi phí lao động tăng, các đối thủ cạnh tranh địa phương ngày càng khốc liệt và một hệ thống điều tiết thù địch đã khiến nhiều công ty do dự. Dịch Covid-19 đã phơi bày sự phụ thuộc toàn cầu vào các sản phẩm, đặc biệt là các thiết bị y tế cần thiết. Nhận thức được điều này, nhiều quốc gia đã đưa ra các chính sách ưu đãi để khuyến khích các công ty thuê ngoài sản xuất cho các khu vực bên ngoài Trung Quốc. Ấn Độ có dân số đông, nhưng thu nhập trung bình chưa bằng một nửa của Trung Quốc. Từ lâu, nó đã được coi là một địa điểm thay thế cho các nhà máy toàn cầu. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Các nhà đầu tư đang do dự, một phần vì quyền sở hữu đất đai ở Ấn Độ vẫn còn khó khăn. Để có được đất sản xuất, các công ty đôi khi phải thương lượng với nhiều chủ đất nhỏ. Lần này, Ấn Độ quyết tâm thực hiện những thay đổi trong bối cảnh khác biệt giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc và nền kinh tế quốc gia. Bế tắc. Họ đã phân bổ hai lần quỹ đất cho Luxembourg, hơn 460.000 ha, để khuyến khích các nhà sản xuất Trung Quốc định cư tại đây. Chúng bao gồm hơn 115.000 ha đất công nghiệp ở Gujarat, Maharashtra, Tamil Nadu và Andhra Pradesh. Chính quyền New Delhi cũng đang nghiên cứu khả năng cung cấp đất ở các khu công nghiệp đặc biệt đang bỏ trống cho các nhà đầu tư. Công trường xây dựng ở Dholera, Ấn Độ. Ảnh: NDTV Bloomberg dẫn lời các quan chức Ấn Độ cho biết vào tháng 4, chính phủ cũng đã tiếp cận hơn 1.000 công ty Mỹ và cung cấp các ưu đãi cho các công ty xem xét rời khỏi Trung Quốc. Quốc. Đất nước này ưu tiên cho các nhà cung cấp thiết bị y tế, thực phẩm, dệt may, da và phụ tùng ô tô. Chính quyền Ấn Độ đã thuyết phục các doanh nghiệp rằng mặc dù tổng chi phí cao hơn Quốc Quốc, nhưng nó thậm chí còn rẻ hơn ở Hoa Kỳ so với Hoa Kỳ hoặc Nhật Bản. Điều kiện về đất đai và công nhân lành nghề. Họ cũng hứa sẽ xem xét các yêu cầu cụ thể để xây dựng luật lao động. Chính phủ cũng đang xem xét đề xuất hoãn thuế thương mại điện tử. Bộ Thương mại Ấn Độ đang lấy ý kiến ​​từ các công ty Mỹ về những sửa đổi cần thiết đối với luật. Một quan chức nói rằng công việc và thuế của đất nước thân thiện với doanh nghiệp hơn. Chính phủ Nhật Bản cũng hợp tác với các bang để đảm bảo các giải pháp lâu dài, đặc biệt là về khả năng tiếp cận đất đai. Đồng thời, Nhật Bản chọn hỗ trợ tiền tệ, nhưng chỉ dành cho các công ty Trung Quốc muốn chuyển từ Trung Quốc sang Trung Quốc. Tháng trước, Nhật Bản đã công bố kế hoạch trị giá 2,2 tỷ USD để giúp các nhà sản xuất muốn rời khỏi Trung Quốc. Trong số đó, 2 tỷ đô la Mỹ được sử dụng để giúp các công ty trở lại Nhật Bản. Phần còn lại sẽ giúp công ty chuyển sang một nước thứ ba. Sáng kiến ​​này được đưa ra sau khi một loạt các nhà sản xuất và công ty Nhật Bản không sản xuất được nguyên liệu tại Trung Quốc do dịch bệnh. . Nghiên cứu Tokyo Shoko đã tìm thấy trong một cuộc khảo sát vào tháng 2 rằng trong số hơn 2.600 công ty, 37% cho biết họ đã đa dạng hóa nguồn cung từ Trung Quốc do đại dịch. “Sản phẩm phụ thuộc vào quốc gia và các sản phẩm có giá trị gia tăng cao sẽ quay trở lại Nhật Bản”, Thủ tướng Shinzo Abe nói tại cuộc họp chính phủ vào tháng 3, “thậm chí bao gồm cả các sản phẩm không liên quan đến quốc gia và không có giá trị. Với sự gia tăng mạnh mẽ, sản xuất của ASEAN cũng sẽ được đa dạng hóa. “ Hoa Kỳ từ lâu đã muốn đưa sản xuất về nước. Do đó, đại dịch buộc họ phải đẩy nhanh quá trình. Reuters dẫn lời các quan chức Mỹ cho biết tuần trước Bộ Thương mại, Bộ Ngoại giao và nhiều cơ quan chính phủ khác đang tìm cách thúc đẩy các công ty mua vật tư và chuyển sản xuất sang Trung Quốc. Ưu đãi thuế và trợ cấp chuyển nhượng sản xuất là hai biện pháp đang được xem xét. “Toàn bộ chính phủ đang hành động”, một quan chức nói với Reuters. Họ cũng đang nghiên cứu loại sản xuất nào là “thiết yếu” và cách sản xuất chúng bên ngoài Trung Quốc. Cố vấn kinh tế Nhà Trắng, ông Larry Kudlow, cũng nói trong một cuộc phỏng vấn với Fox vào tháng trước rằng Hoa Kỳ phải chịu toàn bộ chi phí khi trả lại công ty từ Trung Quốc. Trung Quốc đã đến Hoa Kỳ và Washington rất vui khi chuyển sản xuất sang một quốc gia thân thiện. “Chúng tôi đã cố gắngTrong những năm gần đây, nhưng bây giờ nó đang tăng tốc phát triển “, quan chức Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Keith Krach nói với Reuters. Hoa Kỳ khuyến khích hình thành một liên minh” đối tác tin cậy “được gọi là” mạng lưới “. Internet “. Mạng lưới sẽ bao gồm các công ty và các tổ chức xã hội dân sự hoạt động theo cùng một tiêu chuẩn trong tất cả các lĩnh vực (từ thương mại kỹ thuật số, năng lượng và cơ sở hạ tầng đến nghiên cứu và giáo dục). Tháng trước, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Pompeo nói rằng Hoa Kỳ đang hợp tác với Ấn Độ, Úc, Nhật Bản, New Zealand, Hàn Quốc và Việt Nam để “thúc đẩy nền kinh tế thế giới” và có các cuộc thảo luận. Làm thế nào để “tổ chức lại chuỗi cung ứng để ngăn chặn tình trạng hiện tại xảy ra lần nữa”. Công nhân sản xuất khẩu trang tại Công ty Sản phẩm Bệnh viện Thái Lan. Ảnh: Reuters – Vào ngày 13 tháng 4, Cục Đầu tư của Ủy ban đầu tiên của Thái Lan, chịu trách nhiệm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, cũng đã công bố các ưu đãi thuế mới để thu hút đầu tư vào y tế. 50%. Nộp thuế công ty trong vòng 3 năm. Đây là những ngành mà họ đã thúc đẩy trong những năm qua. -Trong năm 2017-2019, BOI đã nhận được 44 đơn xin cấp phép với tổng trị giá 12 tỷ baht (375 triệu USD) để sản xuất thiết bị X-quang, thiết bị quang học, chụp cắt lớp điện toán, vật tư y tế và thiết bị bảo vệ cá nhân. Tổng thư ký BOI Duangjai Asawachintachit nói trong một cuộc họp báo tiếp theo: “Chúng tôi nghĩ rằng cuộc khủng hoảng này sẽ giúp thúc đẩy Thái Lan trở thành một trung tâm khu vực sản xuất thiết bị y tế và thậm chí quy mô toàn cầu.” Tuy nhiên, không phải tất cả các công ty đã được đề cập ở trên. Ưu đãi thu hút. Kể từ ngày 21 tháng 4, chỉ có một công ty đã nộp đơn xin hỗ trợ theo Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp Nhật Bản. Nhà sản xuất hàng tiêu dùng Iris Ohyama hy vọng sẽ mở một nhà máy sản xuất mặt nạ mới tại Nhật Bản. Bây giờ họ có một nhà máy ở Trung Quốc và cũng có được nguyên liệu từ nước này. Nhà máy mới sẽ sử dụng nguyên liệu thô tại Nhật Bản. Tuy nhiên, không rõ liệu các nhà máy của Trung Quốc sẽ bị đóng cửa. Một cuộc khảo sát được thực hiện bởi Phòng Thương mại Hoa Kỳ tại Thượng Hải vào tháng trước cho thấy khoảng 70% các công ty không mong đợi di dời. Do Covid-19, chuỗi cung ứng nằm ngoài Trung Quốc. Hầu hết trong số họ muốn ở lại và bán 1,4 tỷ người cho thị trường. Những người khác nói rằng thật khó để độc lập với mạng lưới được thiết lập bởi các nhà máy trên khắp thế giới trong 30 năm qua. Chính sách hỗ trợ của Nhật Bản và Kudlow “chỉ có thể giải quyết các chi phí cố định cho các sản phẩm vận tải”, cũng như chi phí biến đổi như lao động và đất đai – đắt đỏ hơn nhiều ở các nền kinh tế tiên tiến. SCMP có thể cân nhắc cách tiếp cận Đài Loan vì nền kinh tế muốn chuyển sản xuất từ ​​Trung Quốc. Từ đầu năm ngoái đến 16 tháng 4, 180 công ty Đài Loan đã đầu tư khoảng 25 triệu đô la Mỹ để chuyển sản xuất từ ​​Trung Quốc sang Trung Quốc. Đây là những công ty bị ảnh hưởng bởi chiến tranh thương mại Hoa Kỳ. -China, và đã đầu tư vào Trung Quốc hơn 2 năm. Chính phủ Đài Loan đã cung cấp cho họ hỗ trợ về đất, nước, điện, vốn và thuế. Đây là nhiều công ty có thể phải Chi phí biến đổi được xem xét. 0 Một đêm yêu-cần nói “dài hạn”Người phụ nữ giàu nhất nước Mỹ Leave a Reply Cancel Reply Your email address will not be published. Save my name, email, and website in this browser for the next time I comment. Bài viết mới Khó khăn của Obama khi Đảng Dân chủ thất bại Các bà vợ thà để chồng dùng búp bê tình dục còn hơn cặp bồ Ra mắt shophouse Nasha Garden Trung Quốc nối lại tham vọng quốc tế hóa nhân dân tệ Cách giúp trẻ vui Tết tại nhà Phản hồi gần đây chơi bet365 làm thế nào để thắng_link vào bet365 mới nhất_bet365 là gì
1614178347293.1.parquet/24584
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 7262, "url": "https://www.vietnamexplorertours.com/phan-tich/1462.html" }
128
Tôi có nên sử dụng ngôn ngữ hình người khi thảo luận về AI? Trí tuệ nhân tạo Thẻ Account Sign In Signup Tôi có nên sử dụng ngôn ngữ hình người khi thảo luận về AI? 9 Ngôn ngữ tiếng Anh không phù hợp để nói về trí tuệ nhân tạo, điều này khiến con người khó giao tiếp với nhau về những gì AI thực sự đang "làm". Do đó, có thể có ý nghĩa hơn khi sử dụng thuật ngữ "giống con người" để mô tả hành động của máy móc, ngay cả khi các thuộc tính bên trong của máy móc không giống với các thuộc tính bên trong của nhân loại. Ngôn ngữ hình học đã được sử dụng rất nhiều trong công nghệ (xem định nghĩa từ điển của Hacker về cách nhân hóa , cố gắng biện minh cho việc sử dụng thuật ngữ máy tính của các lập trình viên khi mô tả công nghệ), nhưng khi AI tiếp tục phát triển, có thể hữu ích khi xem xét sự đánh đổi sử dụng ngôn ngữ hình học trong giao tiếp với cả khán giả kỹ thuật và khán giả phi kỹ thuật. Làm thế nào chúng ta có thể xử lý tốt AI nếu chúng ta thậm chí không thể mô tả những gì chúng ta đang làm? Giả sử tôi muốn phát triển một thuật toán hiển thị danh sách các bài viết liên quan. Có hai cách để tôi có thể giải thích thuật toán hoạt động như thế nào với giáo dân: Rất nhân trắc học - Thuật toán đọc tất cả các bài viết trên một trang web và hiển thị các bài viết rất giống với bài viết bạn đang xem. Rất kỹ thuật - Thuật toán chuyển đổi mỗi bài viết thành một "túi từ", sau đó so sánh "túi từ" của mỗi bài viết để xác định bài viết nào chia sẻ những từ phổ biến nhất. Các bài viết chia sẻ nhiều từ nhất trong túi là những bài được hiển thị cho người dùng. Rõ ràng, # 2 có thể "đúng về mặt kỹ thuật" hơn # 1. Bằng cách chi tiết hóa việc thực hiện thuật toán, giúp ai đó dễ hiểu cách khắc phục thuật toán hơn nếu nó tạo ra một đầu ra mà chúng tôi không đồng ý nhiều. Nhưng # 1 dễ đọc hơn, thanh lịch và dễ hiểu hơn. Nó cung cấp một ý nghĩa chung về những gì thuật toán đang làm, thay vì cách thuật toán đang làm nó. Bằng cách trừu tượng hóa các chi tiết triển khai về cách máy tính "đọc" bài viết, sau đó chúng ta có thể tập trung vào việc sử dụng thuật toán trong các tình huống trong thế giới thực. Do đó, tôi có nên sử dụng ngôn ngữ hình người như được nhấn mạnh trong Tuyên bố số 1 không? Nếu không, tai sao không? Tái bút: Nếu câu trả lời phụ thuộc vào đối tượng mà tôi đang nói chuyện (đối tượng không có kỹ thuật có thể thích số 1, trong khi khán giả kỹ thuật có thể thích số 2), thì hãy cho tôi biết điều đó. philosophy — Còn lại SE vào 10_6_19 nguồn Câu trả lời: 7 Nếu sự rõ ràng là mục tiêu của bạn, bạn nên cố gắng tránh ngôn ngữ hình người - làm như vậy sẽ gây nguy hiểm thậm chí gây hiểu lầm cho bản thân về khả năng của chương trình. Đây là một cái bẫy nguy hiểm trong nghiên cứu AI, với nhiều trường hợp mà ngay cả các nhà nghiên cứu có kinh nghiệm cũng đã gán một mức độ hiểu biết lớn hơn cho một chương trình so với thực sự đáng khen. Douglas Hofstadter mô tả vấn đề ở một độ dài nào đó trong một chương có tựa đề "Hiệu ứng không thể xâm phạm và nguy hiểm của nó" và cũng có một bài báo nổi tiếng của Drew McDermot, có tựa đề "Trí thông minh nhân tạo đáp ứng sự ngu ngốc tự nhiên" . Do đó, nói chung, người ta phải nỗ lực đặc biệt để tránh hiện tượng nhân hóa trong AI. Tuy nhiên, khi nói chuyện với khán giả phi kỹ thuật, các mô tả 'soundbite' (như trong bất kỳ quy tắc phức tạp nào) được chấp nhận miễn là bạn cho khán giả biết rằng họ đang có phiên bản đơn giản hóa . — NietzscheanAI nguồn 3 Vấn đề bạn đang tham khảo không chỉ là vấn đề AI mà là vấn đề đối với các lĩnh vực kỹ thuật cao nói chung. Khi nghi ngờ, tôi sẽ luôn khuyên bạn nên sử dụng ngôn ngữ đơn giản . Tuy nhiên, có một lý do khác khiến cộng đồng AI thường sẽ tránh những ý nghĩa nhân học cho AI. Một số ngôi sao sáng AI thường thích cảnh báo chúng ta rằng trí thông minh nhân tạo nói chung có thể hành xử theo cách của người ngoài hành tinh bất chấp sự mong đợi của con người chúng ta, có khả năng dẫn đến ngày tận thế robot. Tuy nhiên, ý tưởng về các AGI giống người ngoài hành tinh xấu xa này xuất phát từ một sự hiểu lầm phổ biến trong cộng đồng AI, tạo ra hai khái niệm khác nhau về tính tổng quát: Tổng quát máy Turing, và tính tổng quát của con người Những người bình thường có nghĩa là gì khi họ nói chung chung là sau này. Ngay cả định nghĩa chính thức của AGI cũng xoay quanh bối cảnh của con người: ... Thực hiện bất kỳ nhiệm vụ trí tuệ nào mà con người có thể. Nhưng theo định nghĩa đó, việc khái quát hóa hành vi không làm cho nó trở nên xa lạ hơn. Nói chung là nhân hóa. Như Nietzche đã nói, "Nơi bạn nhìn thấy những điều lý tưởng, tôi thấy con người, than ôi! Tất cả những thứ quá con người. — Doxosophoi nguồn 1 Tôi nghĩ rằng câu trả lời chính xác là dễ dàng nhưng không có ích, "Nó phụ thuộc." Ngay cả khi tôi đang nói chuyện với những người kỹ thuật khác, tôi vẫn thường sử dụng ngôn ngữ và phép ẩn dụ của con người. Đặc biệt là khi bắt đầu cuộc trò chuyện. "Máy tính phải tìm ra .." "Làm thế nào chúng ta có thể ngăn máy tính bị nhầm lẫn về ..." vv Chắc chắn, chúng ta có thể nói rằng theo một cách chính xác hơn về mặt kỹ thuật. "Chúng tôi cần sửa đổi thuật toán để giảm số lượng và nhiều trường hợp dữ liệu không đầy đủ dẫn đến cài đặt không chính xác của ..." hoặc một số trường hợp như vậy. Nhưng trong số những người kỹ thuật, chúng tôi biết ý nghĩa của chúng tôi và việc sử dụng ngôn ngữ ẩn dụ sẽ dễ dàng hơn. Khi cố gắng giải quyết các vấn đề máy tính kỹ thuật, tôi thường bắt đầu với một khái niệm mơ hồ, nhân học. "Chúng ta nên lập danh sách tất cả các từ trong văn bản và gán cho mỗi từ một trọng số dựa trên mức độ thường xuyên xảy ra. Ồ, nhưng chúng ta nên bỏ qua các từ ngắn, phổ biến như 'the' và 'it'. Sau đó, hãy chọn một số số lượng từ, có thể là mười hoặc hơn, có trọng lượng lớn nhất ... "Tất cả đó là một chặng đường dài từ cách máy tính thực sự thao tác dữ liệu. Nhưng trước tiên, việc nghĩ về nó theo nghĩa "con người" thường dễ dàng hơn rất nhiều, và sau đó tìm ra cách làm cho máy tính làm điều đó. Khi nói chuyện với một khán giả phi kỹ thuật, tôi nghĩ vấn đề là, ngôn ngữ Nhân học giúp dễ hiểu hơn, nhưng cũng thường tạo ấn tượng rằng máy tính giống con người hơn nhiều so với thực tế. Bạn chỉ cần xem phim khoa học viễn tưởng để thấy rằng rõ ràng nhiều người nghĩ rằng máy tính hoặc robot nghĩ giống như một người ngoại trừ việc nó rất chính xác và không có cảm xúc. — Jay nguồn Khi sử dụng trang web của chúng tôi, bạn xác nhận rằng bạn đã đọc và hiểu Chính sách cookie và Chính sách bảo mật của chúng tôi. Licensed under cc by-sa 3.0 with attribution required.
1614178347293.1.parquet/169529
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 5641, "url": "https://qastack.vn/ai/1853/should-i-use-anthropomorphic-language-when-discussing-ai" }
127.9
Nội dung chính sách thành tựu English 中文 Trang chủ Giới thiệu Cổng TTĐT Chính phủ Báo điện tử Chính phủ Thư điện tử công vụ Chính phủ Chính phủ với Người ngoài nước Đại hội lần thứ XIII của Đảng | Chống dịch như chống giặc! | Thông tin cập nhật dịch nCoV | Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh-Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng Nước CHXHCN Việt Nam Chính phủ Hệ thống văn bản Số liệu ngân sách Nhà nước Chính sách phát triển kinh tế - xã hội Các chương trình, dự án phát triển KT - XH trọng điểm của quốc gia Các chương trình Khoa học và Công nghệ Tình hình kinh tế - xã hội Nghị quyết của Chính phủ Thông cáo báo chí VBQPPL do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chính sách và thành tựu Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về tình hình kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 31/08/2011 14:06:00 BÁO CÁO CỦA BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHÓA X VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2006 – 2010 (Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng) Đại hội XI của Đảng họp vào lúc toàn Đảng, toàn dân ta kết thúc thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, nhiệm vụ của Nghị quyết Đại hội X và đã trải qua 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010. Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, đề ra phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2011 - 2015; tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010, xác định Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020; tổng kết, bổ sung và phát triển Cương lĩnh năm 1991; kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X; bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng; bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI (nhiệm kỳ 2011 - 2015). Đại hội có ý nghĩa trọng đại, định hướng cho toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. KIỂM ĐIỂM 5 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI X; NHÌN LẠI 10 NĂM THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 2001 – 2010, 20 NĂM THỰC HIỆN CHƯƠNG LĨNH NĂM 1991 Năm năm qua, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường. Tuy hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, khủng bố, bất ổn chính trị - xã hội, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ vẫn diễn ra ở nhiều nơi, diễn biến phức tạp. Thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng năng lượng, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu trở thành những vấn đề nghiêm trọng trên quy mô toàn thế giới. Cuộc khủng hoảng tài chính từ Mỹ lan rộng, trở thành cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Thời gian đầu sau Đại hội X, đất nước phát triển thuận lợi, Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Nhưng từ cuối năm 2007, đầu năm 2008, kinh tế và đời sống gặp nhiều khó khăn. Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, kích động bạo loạn, đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hoà bình”. Trong bối cảnh đó, toàn Đảng, toàn dân ta đã nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức, đạt được những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội X đề ra, nhưng cũng còn nhiều hạn chế, khuyết điểm cần được khắc phục. THÀNH TỰU 1. Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội gấp 2,5 lần so với giai đoạn 2001 - 2005, đạt 42,9% GDP. Mặc dù khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta đạt cao[1]. Quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỉ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000; GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD. Hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá. Sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Kinh tế nông thôn và đời sống nông dân được cải thiện hơn trước. Việc tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, đầu tư, phát triển giống mới có năng suất, chất lượng cao, phát triển các cụm công nghiệp, làng nghề, tiểu thủ công nghiệp... đã có tác động tích cực đến việc sản xuất, tạo việc làm và xoá đói, giảm nghèo. Sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, đảm bảo cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu. Đã đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao. Khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định. Cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ cấu lao động cũng có sự chuyển dịch tích cực[1]. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hoá thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh. Việc kiện toàn các tổng công ty, thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước đạt một số kết quả. Giai đoạn 2006 - 2010, doanh nghiệp nước ta tăng hơn 2,3 lần về số doanh nghiệp và 7,3 lần về số vốn so với 5 năm trước. Doanh nghiệp cổ phần trở thành hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến. 2. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá và các lĩnh vực xã hội có tiến bộ, bảo vệ tài nguyên, môi trường được chú trọng hơn; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện Đổi mới giáo dục đạt một số kết quả bước đầu. Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo đạt trên 20% tổng chi ngân sách; việc huy động các nguồn lực xã hội cho giáo dục, đào tạo, phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm. Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển. Đến năm 2010, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỉ lệ lao động qua đào tạo tăng, năm 2010 đạt 40% tổng số lao động đang làm việc. Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ được đẩy mạnh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Quản lý khoa học, công nghệ có đổi mới, thực hiện cơ chế tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ. Thị trường khoa học, công nghệ bước đầu hình thành. Đầu tư cho khoa học, công nghệ được nâng lên. Giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, thực hiện chính sách với người và gia đình có công, chính sách an sinh xã hội đạt kết quả tích cực. Trong 5 năm, đã giải quyết được việc làm cho trên 8 triệu lao động, tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm còn dưới 4,5%, tỉ lệ hộ nghèo giảm còn 9,5%. Công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ đạt được một số kết quả quan trọng; mức hưởng thụ các dịch vụ y tế của nhân dân tăng lên, đặc biệt với trẻ em, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số. Chỉ số phát triển con người không ngừng tăng lên; Việt Nam đã hoàn thành phần lớn các Mục tiêu Thiên niên kỷ[1]. Hoạt động văn hoá, văn nghệ, thông tin, thể dục, thể thao ngày càng mở rộng, từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá ngày càng cao của nhân dân. Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" từng bước đi vào chiều sâu. Nhận thức về bảo vệ môi trường được nâng lên. Việc phòng ngừa, khắc phục suy thoái, ô nhiễm môi trường được quan tâm và đạt một số kết quả tích cực. Công tác bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học có tiến bộ. Chương trình quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu bước đầu được triển khai. 3. Quốc phòng, an ninh, đối ngoại được tăng cường Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân được củng cố; tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường, nhất là trên các địa bàn chiến lược, xung yếu, phức tạp. Công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh được triển khai rộng rãi. Sự phối hợp quốc phòng, an ninh, đối ngoại được chú trọng hơn. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân tiếp tục được củng cố, xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, thực sự là lực lượng tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân; làm tốt vai trò tham mưu, góp phần chủ động phòng ngừa, làm thất bại âm mưu “diễn biến hoà bình”, hoạt động gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; đấu tranh ngăn chặn và xử lý có hiệu quả các hoạt động cơ hội chính trị, các loại tội phạm hình sự, nhất là tội phạm nguy hiểm, có tổ chức, tội phạm ma tuý, tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội phạm lợi dụng công nghệ cao, sử dụng vũ khí nóng, chống người thi hành công vụ; tham gia tích cực, có hiệu quả vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, hoạt động cứu hộ, cứu nạn, phòng, chống và khắc phục thiên tai. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, góp phần tạo ra thế và lực mới của đất nước. Phát triển quan hệ với các nước láng giềng; thiết lập và nâng cấp quan hệ với nhiều đối tác quan trọng. Hoàn thành phân giới cắm mốc trên đất liền với Trung Quốc; tăng dày hệ thống mốc biên giới với Lào; hoàn thành một bước phân giới cắm mốc trên đất liền với Campuchia; bước đầu đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc và thúc đẩy phân định biển phía Tây Nam với các nước liên quan. Tham gia tích cực và có trách nhiệm tại các diễn đàn khu vực và quốc tế; đảm nhiệm tốt vai trò Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; đóng góp quan trọng vào việc xây dựng cộng đồng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) và Hiến chương ASEAN, đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch Hội đồng liên nghị viện các nước Đông Nam á (AIPA). Quan hệ với các đảng cộng sản và công nhân, đảng cánh tả, đảng cầm quyền và một số đảng khác; hoạt động đối ngoại nhân dân tiếp tục được mở rộng. Công tác về người Việt Nam ở nước ngoài đạt kết quả tích cực. Thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế; đối thoại cởi mở, thẳng thắn về tự do, dân chủ, nhân quyền. Nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), ký kết hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương với một số đối tác quan trọng; mở rộng và tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác; góp phần quan trọng vào việc tạo dựng và mở rộng thị trường hàng hoá, dịch vụ và đầu tư của Việt Nam, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tranh thủ vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và các nguồn tài trợ quốc tế khác. 4. Dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến bộ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố Đảng và Nhà nước tiếp tục đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ, bảo đảm lợi ích của nhân dân, vai trò giám sát của nhân dân đối với hoạt động của các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Công tác dân vận của hệ thống chính trị có nhiều đổi mới cả về nội dung và hình thức. Các cấp uỷ đảng, chính quyền lắng nghe, tăng cường đối thoại với các tầng lớp nhân dân, tôn trọng các loại ý kiến khác nhau. Dân chủ trong Đảng, trong các tổ chức và xã hội được mở rộng, nâng cao; quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật được coi trọng. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục được mở rộng và tăng cường trên cơ sở thống nhất về mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân phát huy tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, mở rộng tổ chức, phát triển đoàn viên, hội viên, tổ chức nhiều phong trào thi đua, nhiều cuộc vận động có hiệu quả thiết thực...; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, góp phần tích cực vào những thành tựu của đất nước. 5. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh, hiệu lực và hiệu quả hoạt động được nâng lên Quốc hội tiếp tục được kiện toàn về tổ chức, có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động. Hệ thống pháp luật được bổ sung. Hoạt động giám sát đã tập trung vào những vấn đề bức xúc, quan trọng nhất của đất nước. Việc thảo luận, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước, các dự án, công trình trọng điểm quốc gia có chất lượng và thực chất hơn. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội có nhiều cải tiến nội dung, phương pháp công tác; đề cao trách nhiệm của đại biểu Quốc hội. Cơ cấu tổ chức, bộ máy của Chính phủ được sắp xếp, điều chỉnh, giảm đầu mối theo hướng tổ chức các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực[1]. Quản lý, điều hành của Chính phủ, các bộ năng động, tập trung nhiều hơn vào quản lý vĩ mô và giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng. Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng, đã rà soát, bước đầu tổng hợp thành bộ thủ tục hành chính thống nhất và công bố công khai. Việc thực hiện thí điểm đổi mới về tổ chức bộ máy chính quyền địa phương (không tổ chức hội đồng nhân dân quận, huyện, phường) được tập trung chỉ đạo để rút kinh nghiệm. Tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp có một số đổi mới. Việc tăng thẩm quyền cho toà án cấp huyện, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà, đề cao vai trò của luật sư trong tố tụng được thực hiện bước đầu có kết quả. Việc thực hiện các thủ tục tố tụng ngày càng tốt hơn, hạn chế được tình trạng điều tra, truy tố, xét xử oan, sai hay bỏ lọt tội phạm. Chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được nâng lên. Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí và Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được chỉ đạo tích cực, đạt một số kết quả. Nhiều vụ án tham nhũng được đưa ra xét xử. Trên một số lĩnh vực, lãng phí, tham nhũng từng bước được kiềm chế. 6. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt một số kết quả tích cực Công tác lý luận đã chủ động nghiên cứu nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới, diễn biến mới của tình hình thế giới; giá trị khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tập trung vào tổng kết và bổ sung, phát triển Cương lĩnh, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 và các văn kiện khác trình Đại hội XI của Đảng. Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng có đổi mới. Coi trọng hơn nhiệm vụ xây dựng đạo đức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; tập trung chỉ đạo có kết quả bước đầu cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, gắn với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chủ động hơn trong đấu tranh chống “diễn biến hoà bình”, bác bỏ các quan điểm sai trái, luận điệu tuyên truyền của các thế lực thù địch. Các hoạt động thông tin, báo chí, xuất bản được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo; chú trọng ngăn ngừa, khắc phục những lệch lạc, nhất là biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục đích. Công tác thông tin đối ngoại được đẩy mạnh. Đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển của đất nước. Tư tưởng tích cực vẫn là xu hướng chủ đạo trong đời sống xã hội. Công tác tổ chức, cán bộ được triển khai thực hiện tương đối đồng bộ. Tổ chức bộ máy các cơ quan đảng, nhà nước các cấp được sắp xếp, kiện toàn theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu quả. Đã xây dựng, bổ sung các quy định về chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động và lề lối làm việc của mỗi tổ chức; ban hành nhiều quy chế phối hợp giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị. Tổng kết, rút kinh nghiệm, xác định rõ hơn tổ chức và hoạt động các đảng đoàn, ban cán sự đảng trong các cơ quan hành pháp và tư pháp ở trung ương và cấp tỉnh, ban cán sự đảng và mô hình tổ chức đảng ở các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Chính phủ. Nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp lớn về công tác cán bộ được thể chế hoá, cụ thể hoá thành các quy chế, quy định. Đã triển khai tương đối đồng bộ các khâu: quản lý, đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ, trong đó công tác quy hoạch, đào tạo và luân chuyển cán bộ có những chuyển biến tích cực. Tăng cường phân cấp trong công tác cán bộ. Đội ngũ cán bộ được bổ sung về số lượng, chú trọng nâng cao về chất lượng. Việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đạt được một số kết quả; chú trọng hơn xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng ở những vùng, lĩnh vực trọng yếu, có nhiều khó khăn. Chức năng, nhiệm vụ các loại hình tổ chức cơ sở đảng được xác định phù hợp hơn. Công tác phát triển, quản lý, nâng cao chất lượng đảng viên được quan tâm chỉ đạo. Số lượng đảng viên mới kết nạp hằng năm đều tăng; tỉ lệ đảng viên mới kết nạp trong độ tuổi thanh niên, đảng viên nữ, người dân tộc thiểu số, trí thức tăng hơn khoá trước. Sau hơn hai năm triển khai thực hiện Quy định số 15-QĐ/TW ngày 28-8-2006 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về đảng viên làm kinh tế tư nhân, đã có nhiều đảng viên trước đây công tác ở các cơ quan đảng, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang, doanh nghiệp nhà nước, tham gia phát triển kinh tế tư nhân để làm giàu chính đáng cho bản thân, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được các cấp uỷ, tổ chức đảng quan tâm chỉ đạo; tiếp tục giải quyết những vấn đề lịch sử chính trị, đồng thời chú trọng nắm và giải quyết vấn đề chính trị hiện nay. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được coi trọng, chất lượng, hiệu quả được nâng lên. Cấp uỷ đảng các cấp đã chỉ đạo thực hiện có kết quả việc kiểm tra thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng; các chương trình, dự án; quản lý và sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản; chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm và công tác cán bộ; xử lý nghiêm tổ chức đảng, đảng viên có sai phạm, góp phần phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ chính trị. Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, tổ chức bộ máy, điều kiện hoạt động của uỷ ban kiểm tra và cơ quan uỷ ban kiểm tra các cấp tiếp tục được làm rõ. Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới, vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy tốt hơn tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Việc mở rộng, phát huy dân chủ trong Đảng được chú trọng; đã thí điểm chủ trương đại hội đảng bầu trực tiếp ban thường vụ, bí thư, phó bí thư. Phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo Đảng từ trung ương đến cơ sở tiếp tục được cải tiến theo hướng sâu sát cơ sở, gần gũi nhân dân, tăng cường đôn đốc, kiểm tra, giám sát. Nhìn tổng quát, 5 năm qua, trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, toàn Đảng, toàn dân ta đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng. ứng phó có kết quả với những diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới và trong nước. Cơ bản giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, các ngành đều có bước phát triển, quy mô nền kinh tế tăng lên; đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế được mở rộng, vị thế, uy tín quốc tế của nước ta được nâng cao; phát huy dân chủ có tiến bộ, khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được củng cố; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đạt một số kết quả tích cực. Kết quả đạt được trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Mười năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 là giai đoạn đất nước ta thực sự đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 so với năm 2000 theo giá thực tế gấp 3,26 lần; thu ngân sách, kim ngạch xuất khẩu gấp 5 lần; tuổi thọ bình quân tăng từ 67 tuổi lên 72,8 tuổi. Những thành tựu đạt được trong 20 năm thực hiện Cương lĩnh là to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước bước đầu thực hiện thành công công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển, bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi; sức mạnh về mọi mặt được tăng cường, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới. Nguyên nhân của những thành tựu đạt được 5 năm qua là do sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp uỷ đảng trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội X, giải quyết kịp thời, có kết quả những vấn đề mới phát sinh; sự đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội và các cơ quan dân cử; sự điều hành năng động của Chính phủ, chính quyền các cấp; sự nỗ lực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, của cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân, cộng đồng các doanh nghiệp. Bối cảnh hội nhập quốc tế đem lại nhiều cơ hội, điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đất nước. (Trích nội dung: Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng) In bài Các tin khác Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế, xã hội năm 2010 và nhiệm vụ năm 2011 Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế, xã hội năm 2009 và nhiệm vụ năm 2010 Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế, xã hội năm 2008 Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế, xã hội năm 2007 Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế, xã hội năm 2006 Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ngày 10 tháng 4 năm 2006 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010 Chính sách và thành tựu Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2016 và nhiệm vụ năm 2017 do Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc trình bày tại Kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa XIV Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm và các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu 6 tháng cuối năm 2016 do Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc trình bày tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIV Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội năm 2015 và 5 năm 2011 - 2015; phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2016 - 2020 và năm 2016 do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XIII, ngày 20 tháng 10 năm 2015 Báo cáo tình hình kinh tế xã hội năm 2014 và nhiệm vụ năm 2015 do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII, ngày 20/10/2014 Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2013, kết quả 3 năm thực hiện kế hoạch 5 năm (2011-2015) và nhiệm vụ 2014-2015 Báo cáo của Chính phủ về tình hình KT-XH năm 2012 và nhiệm vụ năm 2013 Báo cáo bổ sung kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2011, tình hình thực hiện nhiệm vụ 4 tháng đầu năm và những giải pháp chủ yếu tập trung chỉ đạo, điều hành trong những tháng còn lại của năm 2012 Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2011, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012 và 5 năm 2011 - 2015 Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về tình hình kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế, xã hội năm 2010 và nhiệm vụ năm 2011 Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế, xã hội năm 2009 và nhiệm vụ năm 2010 Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế, xã hội năm 2008 Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế, xã hội năm 2007 Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế, xã hội năm 2006 Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ngày 10 tháng 4 năm 2006 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010 Giai đoạn 1986-2003: Muời tám năm sự nghiệp đổi mới Giai đoạn 1976-1985: Đất nước thống nhất, Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN Giai đoạn 1955-1975: Xây dựng CNXH và Đấu tranh thống nhất đất nước Giai đoạn 1945-1954: Kháng chiến và Kiến quốc Giai đoạn 1955-1975: Xây dựng CNXH và Đấu tranh thống nhất đất nước I- MIỀN BẮC HOÀN TOÀN GIẢI PHÓNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - CHI VIỆN CHO MIỀN NAM ĐẤU TRANH THỐNG NHẤT NƯỚC NHÀ 1 - Hoàn thành cải cách ruộng đất và khôi phục kinh tế quốc dân (1955-1957) 2 - Hoàn thành Cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế và văn hóa - đưa miền Bắc vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 3 - Xây dựng chủ nghĩa xã hội và đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ 4 - Khôi phục kinh tế và đánh thắng chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mỹ 5 - Khôi phục và phát triển kinh tế, dồn sức chi viện cho miền Nam II - NHÂN DÂN MIỀN NAM TRỰC TIẾP CHỐNG XÂM LƯỢC MỸ VÀ TAY SAI, LÀM PHÁ SẢN NHIỀU CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH CỦA MỸ, GIẢI PHÓNG MIỀN NAM 1 - Phong trào đồng khởi 2- Đánh thắng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ (1961-1965) 3- Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết mậu thân 1968, đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ (1965-1968) 4 - Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam ra đời, chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ (1969-1972) thất bại 5 - Hội nghị Pari về Việt Nam, cuộc đàm phán hòa bình gay go nhất thế kỷ XX 6 - Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam Về đầu trang Trang chủ Báo điện tử Chính phủ Trang Đa phương tiện Giới thiệu Cổng TTĐT Chính phủ Sơ đồ Cổng thông tin Liên hệ English 中文 © CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ Tổng Giám đốc: Nguyễn Hồng Sâm Trụ sở: 16 Lê Hồng Phong - Ba Đình - Hà Nội. Điện thoại: Văn phòng: 080 43162; Fax: 080.48924; Email: thongtinchinhphu@chinhphu.vn. Bản quyền thuộc Cổng Thông tin điện tử Chính phủ. Ghi rõ nguồn 'Cổng Thông tin điện tử Chính phủ' hoặc 'www.chinhphu.vn' khi phát hành lại thông tin từ các nguồn này.
1614178347293.1.parquet/106334
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 24531, "url": "http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/noidungchinhsachthanhtuu?categoryId=797&articleId=10045210" }
127.7
thông tin ngành Công nghệ thông tin | Luyện thi - Dịch vụ luyện thi chuyên nghiệp Luyện thi Trang chủ Bí kíp luyện thi Cẩm nang học tập Tìm hiểu ngành nghề Tag: thông tin ngành Công nghệ thông tin Thông tin cần biết ngành Công nghệ thông tin 24/10/2017 Tin tìm hiểu ngành nghề Chế tạo, lắp ráp và sửa chữa phần cứng: Những người làm trong lĩnh vực này có khả năng chế tạo, sửa chữa hay lắp ráp, lắp đặt các thiết bị, linh kiện của máy tính như ổ cứng, bo mạch, bộ vi xử lý. Các công ty sản xuất, lắp ráp và sửa chữa thiết bị phần cứng đang hứa hẹn một nền công nghiệp hùng mạnh trong tương lai. Thông tin cần biết ngành Công nghệ thông tin Công nghệ thông tin (CNTT) sử dụng hệ thống các thiết bị và máy tính (bao gồm phần cứng, phần mềm) để cung cấp một giải pháp xử lý thông tin trên nền công nghệ cho các cá nhân, tổ chức có yêu cầu. Các giải pháp CNTT rất đa dạng: phần mềm quản lý nhân viên trong cơ quan, tổ chức, website dạy học qua mạng, hệ thống máy tính phục vụ cho nhu cầu tính cước, phần mềm trên các thiết bị di động hoặc những chương trình giải trí trên Internet v.v… Bởi vậy, đối tượng phục vụ của ngành CNTT ngày càng phong phú. Điều kiện làm việc Môi trường làm việc trong ngành CNTT rất đa dạng với nhu cầu nhân lực rất lớn. Ngoài những công ty chuyên về tin học, hiện nay hầu như mọi tổ chức, cơ quan đều sử dụng hệ thống máy vi tính và cần người có chuyên môn về CNTT. Ngoài ra, bạn cũng có thể cùng với một số đồng nghiệp khác lập ra một nhóm hay công ty của riêng mình. CNTT có mặt ở khắp nơi, hiện diện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là ngành được đầu tư và chú trọng ở mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Một số nghề nghiệp trong ngành CNTT: Công việc của người làm CNTT chuyên nghiệp thường nằm ở một trong những mảng chủ yếu sau: Lập trình (thao khảo thêm trong bài giới thiệu về ngành Phát triển phần mềm): Công việc chính của lập trình viên là sử dụng những công cụ và ngôn ngữ lập trình để phân tích, thiết kế, tạo ra những phần mềm, website, trò chơi cung cấp cho thị trường. Đây là nghề đang phát triển mạnh ở nước ta và được nhiều bạn trẻ quan tâm. Các công ty phần mềm nghiên cứu, xây dựng, phát triển và cung cấp các phần mềm, các ứng dụng xây dựng website, games v.v… cho thị trường là điểm đến của các lập trình viên. Chế tạo, lắp ráp và sửa chữa phần cứng: Những người làm trong lĩnh vực này có khả năng chế tạo, sửa chữa hay lắp ráp, lắp đặt các thiết bị, linh kiện của máy tính như ổ cứng, bo mạch, bộ vi xử lý. Các công ty sản xuất, lắp ráp và sửa chữa thiết bị phần cứng đang hứa hẹn một nền công nghiệp hùng mạnh trong tương lai. Thiết kế giải pháp tích hợp: Công việc này đòi hỏi các chuyên gia phải am hiểu cả phần cứng và phần mềm, có khả năng thiết kế các giải pháp trọn gói cho một công ty, tổ chức về cả phần cứng lẫn phần mềm, dựa trên yêu cầu cụ thể. Họ làm nhiệm vụ tại các công ty cung cấp giải pháp tích hợp hiện đang trên đà phát triển tại Việt Nam. Quản trị hệ thông và an ninh mạng: Ngày nay, hầu hết các công ty, doanh nghiệp, tổ chức đều có hệ thống máy vi tính kết nối mạng. Người làm công tác quản trị hệ thống và an ninh mạng có nhiệm vụ bảo đảm cho hệ thống vận hành suôn sẻ, giải quyết trục trặc khi hệ thông gặp sự cố, đảm bảo an toàn và bảo mật cho dữ liệu. Trong lĩnh vực này, bạn sẽ làm việc tại các công ty cung cấp giải pháp về mạng và an ninh mạng, các cơ quan, doanh nghiệp v.v… Phẩm chất và kỹ năng cần thiết: – Thông minh và có óc sáng tạo – Khả năng làm việc dưới áp lực lớn – Kiên trì, nhẫn nại. – Tính chính xác trong công việc – Ham học hỏi, trau dồi kiến thức – Khả năng làm việc theo nhóm – Trình độ ngoại ngữ (để tiếp cận kho tàng phong phú về CNTT từ các nguồi sách điện tử và Internet) Và quan trọng nhất là niềm đammê với CNTT Danh mục chính Bí kíp luyện thi Cẩm nang học tập Tìm hiểu ngành nghề Cẩm nang học tập Những thói quen cần có để học tập tốt hơn Kinh nghiệm giúp ôn tập tốt môn Văn 4 cách để lấy lại sự tập trung khi học bài Tìm hiểu một số thao tác lập luận trong văn nghị luận Kinh nghiệm để học tốt môn Toán Bí quyết giúp học tốt môn Văn Tìm hiểu ngành nghề Thông tin cần biết ngành Sinh học Thông tin cần biết ngành Hóa học Thông tin cần biết ngành Thiết kế thời trang Thông tin cần biết ngành Kiến trúc Thông tin cần biết ngành Xây dựng Thông tin cần biết ngành Sư phạm Copyright © 2017 Luyện thi - Dịch vụ luyện thi - Trung tâm luyện thi - Luyện thi đại học Website đang được xây dựng. Chúng tôi chưa cung cấp thông tin, dịch vụ hoặc sản phẩm trên website này. Mong quý vị thông cảm! Phát triển bởi: Thiết kế website đẹp
1614178347293.1.parquet/52835
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 3959, "url": "http://www.luyenthi.net/tag/thong-tin-nganh-cong-nghe-thong-tin/" }
127.6
IPP2 – Chương trình ODA tiên phong trong hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo và hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo ở Việt Nam Skip to main content Trang Chủ Quỹ đầu tư Tin tức Kiến thức Người KN Hỗ trợ Ý tưởng Kết nối Liên minh Dự án KN Đăng ký Đăng nhập Công cụ hỗ trợ cho cộng đồng khởi nghiệp Kết nối hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Home Tin tức khởi nghiệp IPP2 – Chương trình ODA tiên phong trong hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo và hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo ở Việt Nam Thứ năm - 17/01/2019 04:55 In bài viết Lễ kết thúc Chương trình Đối tác đổi mới sáng tạo Việt Nam – Phần Lan giai đoạn 2 (IPP2) khép lại một chặng đường Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam và Bộ Ngoại giao Phần Lan đồng hành trong tình hữu nghị và hợp tác gần một thập kỷ cho con đường phát triển đổi mới sáng tạo và hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo ở Việt Nam, phục vụ phát triển kinh tế – xã hội bền vững. Đồng chí Chu Ngọc Anh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đã bày tỏ cảm xúc rất đặc biệt khi phát biểu tại buổi Lễ kết thúc Chương trình IPP2 sáng ngày 15/01/2019 tại Hà Nội. Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh phát biểu tại buổi lễ Mang đến cho Việt Nam một tư duy mới về đổi mới sáng tạo Với sự hỗ trợ của Chính phủ Phần Lan, IPP là chương trình ODA về đổi mới sáng tạo lần đầu tiên được triển khai ở Việt Nam từ năm 2009 và đến nay đã có ảnh hưởng tích cực tới sự phát triển của hệ thống đổi mới sáng tạo của Việt Nam. Gần 10 năm trước, khi Chương trình được khởi xướng, Đổi mới sáng tạo – Innovation còn là một phạm trù mới và chưa được biết đến rộng rãi ở Việt Nam. Với các nỗ lực của IPP trong giai đoạn 1, Chương trình đã mang đến cho Việt Nam một tư duy mới về đổi mới sáng tạo từ kinh nghiệm Phần Lan như một công cụ mới để phục vụ phát triển đất nước nhanh và bền vững. Cho đến hôm nay, đổi mới sáng tạo đã trở thành một trong những động lực mới quan trọng cho tăng trưởng kinh tế trong kỷ nguyên mới, một trong sáu phương châm hành động của Chính phủ Việt Nam trong năm 2019: “Kỷ cương, Liêm chính, Hành động, Sáng tạo, Bứt phá và Hiệu quả”. Đổi mới sáng tạo cũng đã trở thành một lĩnh vực mới thuộc đối tượng quản lý nhà nước, được Chính phủ giao cho Bộ KH&CN chính thức đảm nhiệm. Hướng tới một nền kinh tế phát triển dựa trên vai trò dẫn dắt của đổi mới sáng tạo là mục tiêu chiến lược của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Đổi mới sáng tạo là phạm trù xuyên ngành và cần đặt trong một hệ sinh thái có mối liên kết và hợp tác chặt chẽ giữa các thành tố. Trong bối cảnh mới, Chương trình IPP giai đoạn 2 đã lại một lần nữa đi tiên phong trong việc thúc đẩy sự hình thành và phát triển một xu hướng mới và tiến bộ ở Việt Nam. Đó là Hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, nơi gieo mầm, nuôi dưỡng tinh thần doanh nhân và khởi nghiệp sáng tạo để phát triển thành đội ngũ doanh nghiệp mạnh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế – xã hội. Các kết quả đạt được và tác động mang tính bền vững mà Chương trình IPP2 mang lại cho hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo của Việt Nam là rất đáng ghi nhận và trân trọng. Từ việc hỗ trợ thiết kế các chính sách lớn của Chính phủ về đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp, nâng cao năng lực cho cán bộ hoạch định chính sách, đào tạo đội ngũ tư vấn khởi nghiệp và giảng viên nguồn của các trường đại học, cho tới việc thử nghiệm các mô hình mới trong tài trợ, hỗ trợ khởi nghiệp, thúc đẩy hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo trong các trường đại học và kết nối doanh nghiệp Phần Lan với thị trường năng động của Việt Nam: Trong từng hoạt động, IPP2 luôn đổi mới sáng tạo và linh hoạt điều chỉnh để có cách làm mới mang lại hiệu quả thiết thực, đáp ứng trúng nhu cầu của thực tiễn Việt Nam. Và điều đó rất đáng được biểu dương, nhân rộng. Thành công của các dự án doanh nghiệp khởi nghiệp và hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp được IPP2 hỗ trợ, trong đó nhiều dự án đã tiếp tục gọi vốn thành công và vươn ra thị trường khu vực, quốc tế, đã minh chứng sự phù hợp của các mô hình mới, tiên phong về hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của IPP2 đối với Việt Nam, đồng thời cho thấy tiềm năng to lớn của các doanh nghiệp khởi nghiệp dựa trên đổi mới sáng tạo ở Việt Nam. Nếu có các can thiệp chính sách kịp thời và phù hợp, thì tiềm năng đó có thể trở thành hiện thực, các nhóm khởi nghiệp non trẻ có thể trở thành doanh nghiệp trưởng thành có tiềm lực mạnh trong tương lai, mang lại việc làm và giá trị gia tăng cho xã hội. Cách tiếp cận đổi mới và linh hoạt Bà Trần Thị Thu Hương – Vụ trưởng, Trợ lý Bộ trưởng Bộ KH&CN, Giám đốc Chương trình IPP2 xúc động chia sẻ: Nhìn ngược lại hơn 4 năm trước, khi giai đoạn 2 của Chương trình IPP được bắt đầu, mảnh đất nuôi dưỡng các hạt mầm khởi nghiệp của Việt Nam mới bắt đầu hình thành, từ khung pháp lý, thiết chế tài chính hỗ trợ khởi nghiệp, hạ tầng dịch vụ, cố vấn – tư vấn khởi nghiệp cho tới sự vào cuộc của các trường đại học. Trong khi nhìn sang các nước láng giềng trong khu vực như Singapore, Malaysia, hay xứ Bắc Âu như Phần Lan, họ đã đi trước chúng ta gần thập kỷ trong hỗ trợ cho hoạt động khởi nghiệp. Còn đối với chúng tôi khi đó, khái niệm khởi nghiệp, hay hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, hệ sinh thái khởi nghiệp, còn hết sức mới mẻ và cần rất nhiều nỗ lực tìm hiểu để có cách tiếp cận đúng. Trong bối cảnh đó, IPP2 bắt đầu đi tiên phong trong các hỗ trợ mang tính thử nghiệm của mình. Lẽ ra, chúng tôi có thể chọn một con đường dễ dàng mà đi đó là thuần túy hỗ trợ cho các dự án khởi nghiệp và lặp đi lặp lại các vòng kêu gọi tài trợ, vốn đã được thiết kế trình tự, thủ tục, tiêu chí hết sức công phu trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của Quỹ Tekes Phần Lan. Nhưng chúng tôi đã chọn con đường khó khăn hơn, đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn, để luôn thử nghiệm các mô hình mới và các công cụ can thiệp chính sách mới mà chúng tôi cho rằng sẽ hữu ích đối với hệ sinh thái khởi nghiệp của Việt Nam – Bà Trần Thị Thu Hương nhớ lại. Bà Trần Thị Thu Hương – Vụ trưởng, Trợ lý Bộ trưởng Bộ KH&CN, Giám đốc Chương trình IPP2 phát biểu tại buổi lễ Năm 2015, theo kế hoạch, Chương trình bắt đầu đợt kêu gọi tài trợ đầu tiên dành cho các doanh nghiệp khởi nghiệp và các nhóm liên danh phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp. Nhưng không chỉ tập trung cho việc đó, nhóm triển khai Chương trình đã thảo luận về sự cần thiết phải hỗ trợ phía Việt Nam thiết kế các chính sách nền tảng để thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo. Căn cứ để Chương trình lựa chọn các chính sách để hỗ trợ là Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và đề án của Bộ KH&CN trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong năm 2015. Bằng việc đưa chuyên gia quốc tế từ Hoa Kỳ và Phần Lan vào Việt Nam trực tiếp làm việc và tư vấn cho các nhóm soạn thảo, IPP2 đã hỗ trợ các đơn vị thuộc Bộ KH&CN xây dựng và trình ban hành các chính sách lớn như Quyết định số 844 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025 (Đề án 844), Luật Chuyển giao công nghệ, và một số văn bản quan trọng khác. Với cách tiếp cận đổi mới và linh hoạt đó, IPP2 đã không chỉ dừng lại ở việc thử nghiệm mô hình hỗ trợ tài chính và hỗ trợ mềm cho các nhóm khởi nghiệp, Chương trình dần mở rộng ra các hoạt động khác, từ hỗ trợ thiết kế chính sách, đào tạo nâng cao năng lực cho cán bộ hoạch định chính sách, hỗ trợ cho các đơn vị cung cấp dịch vụ cho khởi nghiệp và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp, đào tạo huấn luyện viên khởi nghiệp, cho tới các sáng kiến hợp tác với các trường đại học Việt Nam để đào tạo giảng viên nguồn và đưa chương trình đào tạo về khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo vào giảng dạy trong các trường đại học, và sau này, triển khai Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp Phần Lan tiếp cận thị trường Việt Nam, đào tạo chuyên gia tư vấn doanh nghiệp quốc tế là người Việt Nam, thúc đẩy kết nối hợp tác thành phố với thành phố, từ đó mở ra các cơ hội hợp tác mới trong tương lai giữa hai nước Việt Nam và Phần Lan sau khi Chương trình IPP2 kết thúc sứ mệnh của mình ở Việt Nam. Các hoạt động thử nghiệm theo tư duy sáng tạo đó đã góp phần tác động tích cực và toàn diện tới hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo ở Việt Nam. Bà Trần Thị Thu Hương chia sẻ: “Có những tác động và hiệu ứng lan tỏa mà chính những người thực hiện Chương trình cũng không hình dung được ngay từ ban đầu. Thực sự, việc triển khai Chương trình IPP2 là một trải nghiệm hoàn toàn mới, ngay cả đối với các chuyên gia Phần Lan. Từng bước, từng bước một, chúng tôi vừa làm, vừa quan sát, đánh giá và điều chỉnh, sao cho lựa chọn được các sáng kiến và hành động mang lại hiệu quả tối ưu và thực sự cần thiết cho hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo của Việt Nam”. “Tôi rất vui mừng chứng kiến các thành quả quan trọng của Chương trình IPP. Đối với Bộ KH&CN Việt Nam, trong những năm qua, IPP được xem là cầu nối quan trọng trong quan hệ hợp tác giữa hai nước Việt Nam và Phần Lan trên lĩnh vực đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, KH&CN. Vì vậy, thành công của Chương trình là minh chứng sinh động cho mối quan hệ hợp tác tốt đẹp và hiệu quả giữa hai nước chúng ta”- Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cho biết. Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh nhấn mạnh: Chính phủ Việt Nam đang tiếp tục khẳng định cam kết mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp sáng tạo và xem đây như một giải pháp quan trọng thúc đẩy số lượng và chất lượng doanh nghiệp Việt Nam. Với sự hỗ trợ của Chương trình IPP2, nhiều chính sách, chương trình mới về hỗ trợ khởi nghiệp và hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo đã lần lượt được Quốc hội, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ thông qua. Trong đó có các văn bản mang tính bản lề quan trọng như: Luật Chuyển giao Công nghệ 2017, chế định về khởi nghiệp và đầu tư mạo hiểm trong Luật Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nghị quyết số 35 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020, Quyết định số 844 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025. Trên cơ sở đó, nhiều chương trình, dự án hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cấp trung ương và địa phương đã được khởi động để thúc đẩy hoạt động ươm tạo, đào tạo và tư vấn khởi nghiệp, thương mại hóa công nghệ, tài trợ và hỗ trợ vốn vay cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Các bài học kinh nghiệm và công cụ thí điểm hỗ trợ khởi nghiệp và hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo của Chương trình IPP2 là nguồn tham khảo hữu ích để các cơ quan, tổ chức liên quan ở Việt Nam nghiên cứu, vận dụng trong hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo của đơn vị mình. Việc bước đầu có được một hệ sinh thái thuận lợi về đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp ở Việt Nam là kết quả của quá trình đổi mới tư duy chiến lược của các nhà hoạch định chính sách về đổi mới sáng tạo và nỗ lực chung của cộng đồng khởi nghiệp, trong đó có vai trò đóng góp tiên phong của Chương trình IPP2 với sự hỗ trợ hiệu quả của Chính phủ Phần Lan. Cũng tại buổi lễ, Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh thay mặt Bộ KH&CN gửi lời cảm ơn chân thành vì sự ủng hộ và hỗ trợ quý báu của Chính phủ Phần Lan, Bộ Ngoại giao Phần Lan, Đại sứ quán Phần Lan tại Hà Nội đối với hoạt động đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp sáng tạo của Việt Nam thông qua Chương trình Đối tác đổi mới sáng tạo Việt Nam – Phần Lan cả hai giai đoạn. “Chúng tôi mong tiếp tục nhận được sự ủng hộ và hợp tác của Bộ Ngoại giao Phần Lan trong năm 2019 và những năm tiếp theo, đặc biệt trong việc thúc đẩy triển khai có hiệu quả Biên bản ghi nhớ hợp tác song phương mới đã được Bộ KH&CN Việt Nam và Bộ Kinh tế – Việc làm Phần Lan ký kết cuối năm 2018 vừa qua trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong xây dựng năng lực và đào tạo nguồn nhân lực, đẩy mạnh các dự án hợp tác nghiên cứu chung và tăng cường năng lực của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của Việt Nam. Chúc quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Phần Lan ngày càng phát triển tốt đẹp. Chúc quan hệ hợp tác đối tác giữa Bộ KH&CN với Bộ Ngoại giao Phần Lan và các cơ quan Chính phủ Phần Lan phát triển lên một tầm cao mới, mang lại các lợi ích thiết thực hơn nữa cho cộng đồng khoa học, doanh nghiệp và nhân dân hai nước chúng ta” – Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh nói. Bộ trưởng Bộ KH&CN Việt Nam Chu Ngọc Anh trao Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp KH&CN cho ông Marko Saarinen Tham tán, Trưởng bộ phận hợp tác phát triển- Đại sứ quán Phần Lan tại Việt Nam, đồng Trưởng ban chỉ đạo Chương trình IPP2 và ông Lauri Laakso, cố vấn trưởng dự án IPP2 Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh trao bằng khen của của Bộ trưởng Bộ KH&CN cho các công chức Việt Nam tham gia Ban Quản lý dự án IPP2 Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh và Đại sứ Phần Lan Kahiluoto trao bằng khen của Đại sứ Phần Lan tại Việt Nam và Bộ trưởng Bộ KH&CN cho các cán bộ, chuyên gia dự án IPP2 Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh và Đại sứ Phần Lan Kahiluoto chụp ảnh lưu niệm với các đại biểu và cán bộ, chuyên gia dự án IPP2 5 yếu tố đặc thù giúp IPP2 vượt qua các khó khăn, trở ngại để có thể đến đích thành công Thứ nhất, có cam kết chính trị và sự ủng hộ, tin tưởng của các cấp lãnh đạo cao nhất của hai Bộ chủ trì, Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam và Bộ Ngoại giao Phần Lan (Đại sứ quán Phần Lan tại Hà Nội); trao quyền tự chủ và không gian sáng tạo cho Ban Quản lý Dự án và kiểm soát thực hiện bằng kết quả, hiệu quả đầu ra của Chương trình thông qua đánh giá độc lập. Sự ủng hộ của Bộ trưởng và Thứ trưởng trực tiếp phụ trách, của Đại sứ quán Phần Lan tại Hà Nội và Bộ Ngoại giao Phần Lan tại Helsinki, chỉ đạo sát sao của Ban chỉ đạo Chương trình cùng với sự trợ giúp và hợp tác dựa trên tinh thần xây dựng của các đơn vị thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ (Vụ Hợp tác quốc tế, Vụ Kế hoạch – Tài chính, Văn phòng Bộ, Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp KH&CN, các đơn vị truyền thông của Bộ,…), Vụ Kinh tế đối ngoại Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại của Bộ Tài chính, là thuận lợi rất lớn đối với Chương trình IPP2. Thứ hai, có đội ngũ cán bộ dự án mạnh, kết hợp và bổ sung lẫn nhau giữa chuyên gia tư vấn kỹ thuật của Phần Lan và cán bộ Việt Nam thấu hiểu nhu cầu thực tiễn của phía Việt Nam, cùng hợp tác đồng sáng tạo trong môi trường khuyến khích sáng tạo. Môi trường làm việc thân thiện, đoàn kết, đề cao tinh thần làm việc nhóm, khuyến khích đồng sáng tạo, suy nghĩ khác biệt và tôn trọng sự khác biệt, sự kết hợp hài hòa giữa đội ngũ chuyên gia tư vấn kỹ thuật trình độ cao của Phần Lan với các cán bộ dự án người Việt có năng lực, chuyên nghiệp cũng là nhân tố quan trọng giúp Dự án triển khai thuận lợi. Thứ ba, áp dụng nguyên tắc không ngừng cải tiến (continuous improvement) trong mọi hoạt động của Chương trình; cho phép linh hoạt điều chỉnh và chuyển hướng kịp thời để tối ưu hóa hiệu quả, tác động. Thứ tư, gây dựng niềm tin (public trust) trong cộng đồng khởi nghiệp và các đối tượng thụ hưởng thông qua các giá trị cốt lõi mà Chương trình theo đuổi: trao cơ hội công bằng cho mọi đối tượng; minh bạch thông tin; độc lập, khách quan trong quá trình lựa chọn các đề xuất dự án; đồng thời, tôn trọng pháp luật của cả hai quốc gia Việt Nam và Phần Lan. Thứ năm, lấy lợi ích quốc gia làm trọng. Lợi ích quốc gia chi phối mọi sáng kiến mới trong thực thi Chương trình và khiến các đàm phán, thảo luận song phương giữa hai bên dễ đạt được sự thấu hiểu, chia sẻ và đồng thuận. (Bà Trần Thị Thu Hương – Vụ trưởng, Trợ lý Bộ trưởng Bộ KH&CN, Giám đốc Chương trình IPP2) Nguồn: most.gov.vn Tags : IPP2 khởi nghiệp sáng tạo hệ sinh thái Các bài viết khác • Vietnam Silicon Valley Accelerator (VSVA) chính thức mở chương trình đầu tư vốn mồi cho các startup giai đoạn đầu • Đừng sợ ý tưởng khởi nghiệp lạc lõng! • Quỹ Đầu tư Khởi nghiệp Quảng Nam • 'Công thức triệu USD' của vườn ươm khởi nghiệp ở Sài Gòn • Bên cạnh Thung lũng Silicon, đây là 7 kinh đô sáng tạo công nghệ của thế giới • Đông Nai: Xây dựng "hệ sinh thái" cho khởi nghiệp • Cần xây dựng quỹ đầu tư mạo hiểm để hỗ trợ dự án khởi nghiệp • Hơn một nửa sinh viên mới ra trường có ý định khởi nghiệp • Shark Hưng: Nhiều startup Việt đang theo phong trào! • BK-Holdings tổ chức chuỗi chương trình đào tạo về đổi mới, sáng tạo và khởi nghiệp tại Hà Nội Danh mục Tin tức khởi nghiệp Xu hướng khởi nghiệp Đọc nhiều trong tuần Startup Vietnam Foundation hợp tác cùng... Khóa Đào tạo Khởi nghiệp tạo tác động khu vực miền... Cuộc chạy đua “IPO hóa startup” Phát động cuộc thi HUTECH Startup Wings 2019 Phân hiệu Đại học Huế tổ chức Cuộc thi Innovative... Thúc đẩy tinh thần và khát vọng khởi nghiệp cho... Vốn triệu USD rót vào các startup Việt trong tháng... Thư chúc Tết xuân Kỷ Hợi năm 2019 Startup Inside Corporate – mô hình khởi nghiệp... Đã có nhiều dự án start-up không phải nằm trên... Giới thiệu Liên hệ Diễn đàn Đăng ký để nhận thông tin, hỗ trợ từ LetStart Địa chỉ Trụ sở chính: Khu CNC Hòa Lạc - Km 29, Đại lộ Thăng Long, Thạch Thất, Hà Nội VP HN: Phòng 502-507, Tầng 5, Tòa A; 58 Nguyễn Chí Thanh - Đống Đa - Hà Nội Điện thoại: 04.63.269.228 ; Fax: 04.63.269.228; Email: cgcn@hhtp.gov.vn © Letstart.vn 2017. All rights reserved. Sản phẩm được phát triển bởi Trung tâm Dịch vụ Tổng hợp
1614178347293.1.parquet/145138
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 15016, "url": "http://letstart.vn/vi/tin-tuc/ipp2-chuong-trinh-oda-tien-phong-trong-ho-tro-khoi-nghiep-sang-tao-va-hinh-thanh-he-sinh-thai-khoi-nghiep-sang-tao-o-viet-nam-363.html" }
127.2
Liệu AI có thể suy nghĩ theo chiều ngang trong khi tránh các lựa chọn tối ưu về đạo đức của người Viking không? Trí tuệ nhân tạo Thẻ Account Sign In Signup Liệu AI có thể suy nghĩ theo chiều ngang trong khi tránh các lựa chọn tối ưu về đạo đức của người Viking không? 13 Trong trò chơi PC gần đây The Turing Test , AI ("TOM") cần sự giúp đỡ của Ava để vượt qua một số phòng giải đố. TOM nói rằng anh ta không thể giải các câu đố vì anh ta không được phép " nghĩ theo chiều ngang ". Cụ thể, anh nói rằng anh sẽ không nghĩ sẽ ném một chiếc hộp qua cửa sổ để giải quyết căn phòng đầu tiên. Người sáng tạo của ông, câu chuyện kể, đã tắt khả năng đó bởi vì suy nghĩ như vậy có thể tạo ra các giải pháp "dưới mức tối ưu về mặt đạo đức", như chặt đứt một cánh tay để lại trên một tấm áp lực. Tất cả các khả năng giải câu đố sáng tạo sẽ cần phải được loại bỏ khỏi AI để giữ cho kết quả của nó hợp lý, hoặc chúng ta có thể nhận được một số lợi ích của suy nghĩ bên mà không mất một cánh tay? agi problem-solving — Bến N nguồn Câu trả lời: 17 Không , với một nhưng . Chúng ta có thể giải quyết vấn đề đạo đức nhưng sáng tạo nếu hệ thống có một hệ thống đạo đức hoàn chỉnh, nhưng nếu không thì sự sáng tạo sẽ không an toàn theo mặc định. Người ta có thể phân loại các cách tiếp cận ra quyết định AI thành hai loại: nhà tư tưởng nội suy và nhà tư tưởng ngoại suy. Các nhà tư tưởng nội suy học cách phân loại và bắt chước bất cứ điều gì họ học được và không cố gắng đưa ra kết quả hợp lý ngoài phạm vi đào tạo của họ. Bạn có thể nghĩ về chúng như là nội suy giữa các ví dụ đào tạo và được hưởng lợi từ tất cả các bảo đảm và chứng minh toán học như các kỹ thuật thống kê khác. Các nhà tư tưởng ngoại suy học cách thao túng các nguyên tắc cơ bản, cho phép họ kết hợp các nguyên tắc đó theo những cách chưa từng thấy trước đây. Trường liên quan cho trực giác ở đây là tối ưu hóa số , trong đó ví dụ đơn giản và nổi tiếng nhất là lập trình tuyến tính , thay vì các trường thống kê sinh ra học máy. Bạn có thể nghĩ về chúng như ngoại suy ngoài các ví dụ đào tạo (thực sự, nhiều người trong số họ thậm chí không yêu cầu các ví dụ đào tạo hoặc sử dụng các ví dụ đó để suy ra các nguyên tắc cơ bản). Lời hứa của các nhà tư tưởng ngoại suy là họ có thể đưa ra các giải pháp 'bên' này nhanh hơn nhiều so với mọi người có thể. Vấn đề với những nhà tư tưởng ngoại suy này là họ chỉ sử dụng các nguyên tắc nói chứ không phải bất kỳ điều gì không được nói có vẻ quá rõ ràng để đề cập. Một thuộc tính của các giải pháp cho các vấn đề tối ưu hóa là vectơ đặc trưng thường 'cực đoan' theo một cách nào đó. Trong lập trình tuyến tính, ít nhất một đỉnh của không gian giải pháp khả thi sẽ là tối ưu và vì vậy các phương pháp giải pháp đơn giản tìm thấy một đỉnh tối ưu (gần như không khả thi vì bản chất là một đỉnh). Một ví dụ khác, giải pháp nhiên liệu tối thiểu để di chuyển tàu vũ trụ từ vị trí này sang vị trí khác được gọi là ' bang-bang ', trong đó bạn tăng tốc phi thuyền nhanh nhất có thể ở đầu và cuối quỹ đạo, di chuyển với tốc độ tối đa ở giữa . Trong khi một đức tính khi hệ thống được hiểu chính xác (bang-bang là tối ưu cho nhiều trường hợp), thì điều này là thảm khốc khi hệ thống được hiểu không chính xác. Ví dụ yêu thích của tôi ở đây là vấn đề ăn kiêng của Dantzig (thảo luận bắt đầu ở trang 5 của pdf), nơi anh ta cố gắng tối ưu hóa chế độ ăn uống của mình bằng toán học. Theo bộ ràng buộc đầu tiên của mình, anh ta nên uống 500 gallon giấm mỗi ngày. Dưới thứ hai của mình, 200 khối bouillon. Dưới thứ ba của anh, hai cân cám. Những cân nhắc làm cho những ý tưởng rõ ràng tồi tệ đó không được đưa vào hệ thống, và vì vậy hệ thống vô tình gợi ý chúng. Nếu bạn hoàn toàn có thể mã hóa kiến ​​thức và giá trị mà một người sử dụng để đánh giá các kế hoạch này vào AI, thì các hệ thống ngoại suy cũng an toàn như người đó. Họ sẽ có thể xem xét và từ chối các loại kế hoạch cực đoan sai lầm và để lại cho bạn các loại kế hoạch cực đoan đúng đắn. Nhưng nếu bạn không thể, thì sẽ tốt hơn nếu không xây dựng một người ra quyết định ngoại suy, và thay vào đó xây dựng một nội suy. Đó là, thay vì tự hỏi "làm thế nào để tôi hoàn thành tốt nhất mục tiêu X?" nó tự hỏi "một người sẽ làm gì trong tình huống này?". Điều thứ hai có thể tồi tệ hơn nhiều khi hoàn thành mục tiêu X, nhưng nó có ít rủi ro hơn khi hy sinh các mục tiêu khác để hoàn thành X. — Matthew Graves nguồn 2 Đạo đức liên quan đến mối quan hệ nhu cầu giữa hai hoặc nhiều bên. Như Matthew Graves đã nói, nếu AI thiếu bối cảnh của con người (hiểu về nhu cầu), nó sẽ tạo ra hành vi đạo đức dường như đồi trụy. Và thành thật mà nói, một số người sẽ cắt cánh tay của người khác và đặt chúng lên các tấm áp lực. Ngay cả những người giỏi nhất trong chúng ta cũng sẽ không thể thông cảm với nhu cầu của người khác với độ chính xác 100% - tốt nhất, chúng tôi đoán. Và sau đó, có những tình huống hiếm hoi mà tôi thực sự muốn bạn cắt đứt cánh tay của tôi và đặt nó lên một tấm áp lực, có lẽ để cứu một người thân yêu. Nếu chúng ta có thể làm một điều có thể thông cảm với những gì một con người có thể cần trong bất kỳ tình huống độc đoán nhất định, sau đó chúng tôi sẽ đã tạo ra một trong hai A) một nhân tạo con người thông minh (AHI) (mà có thể là nhiều hơn hoặc ít hơn có thể sai lầm, giống như một con người), hoặc B) một nhà tiên tri có thể lý giải về tất cả các nhu cầu có thể có của con người với tốc độ nhanh hơn nhiều so với quy mô thời gian của con người - trong trường hợp đó bạn sẽ không cần một AI có ý thức, vì tất cả các nhu cầu và giải pháp của con người có thể được tính toán trước thông số kỹ thuật chính thức, có lẽ là vô lý để xem xét. — Doxosophoi nguồn 0 Bạn có thể coi chương trình là một phần đạo đức của thiết kế. AI sẽ hành động dựa trên những gì đã được hướng dẫn cho nó có quan trọng về mặt đạo đức hay không. Nó thậm chí có thể / nên là một phần của các tham số giả mạo quá trình tìm kiếm giải pháp, có thể cho phép một giải pháp sáng tạo và tinh tế hơn. Chúng tôi hiểu những điều cơ bản về đạo đức trong các trường hợp thông thường, nhưng nếu chúng tôi không dự đoán được bất kỳ con người nào sẽ hành xử trong một câu hỏi hóc búa về đạo đức, chúng tôi có thể thực thi những gì AI sẽ làm. Miễn là chúng tôi có quyền kiểm soát cơ chế điều khiển AI, chúng tôi chắc chắn có khả năng đáp ứng để tiêm các lỗi đạo đức. Vấn đề nằm ở việc AI tự học với khả năng ghi đè các chỉ thị. (Luật Asimov của CF.) Cách AI sáng tạo dường như không liên quan trong trường hợp đó. — Nợ Vĩnh nguồn -1 Rất nhiều điều này phụ thuộc vào chiều rộng xem xét. Ví dụ, những tác động trung và dài hạn của tư duy bên sẽ là gì? Rô bốt có thể cắt một cánh tay cho một tấm áp lực nhưng điều đó có nghĩa là người đó không còn cánh tay nữa, hạn chế về chức năng, rằng người đó có thể bị chảy máu và chết / bị hạn chế nghiêm trọng, và người đó (và người ở trong đó chung) sẽ không còn hợp tác và có khả năng tìm cách loại bỏ robot. Mọi người có thể suy nghĩ theo chiều ngang vì xem xét những điều này - đạo đức thực sự không có gì khác hơn là một bộ hướng dẫn bao gồm những cân nhắc này. Robot cũng có thể, được thiết kế để xem xét các ngoại ứng này. Nếu vẫn thất bại, Định luật Robotics của Asimov: (0. Robot có thể không gây hại cho nhân loại, hoặc, bằng cách không hành động, cho phép loài người gây hại.) 1. Robot có thể không gây thương tích cho con người hoặc thông qua việc không hành động, cho phép con người đến làm hại. 2. Robot phải tuân theo mệnh lệnh được đưa ra bởi con người trừ khi những mệnh lệnh đó sẽ mâu thuẫn với Luật đầu tiên. 3. Robot phải bảo vệ sự tồn tại của chính mình miễn là sự bảo vệ đó không mâu thuẫn với Luật thứ nhất hoặc Thứ hai — John nguồn Khi sử dụng trang web của chúng tôi, bạn xác nhận rằng bạn đã đọc và hiểu Chính sách cookie và Chính sách bảo mật của chúng tôi. Licensed under cc by-sa 3.0 with attribution required.
1614178347293.1.parquet/7264
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 6995, "url": "https://qastack.vn/ai/2020/could-an-ai-think-laterally-while-avoiding-ethically-suboptimal-choices" }
127.1
Chính Sách Bảo Mật - Conversion.vn ≡ Menu Trang chủ Digital Marketing Tối Ưu Hóa Phân Tích Ngẫm Nghĩ Sự Kiện Tôi Là Ai? Trang chủ Digital Marketing Tối Ưu Hóa Phân Tích Ngẫm Nghĩ Sự Kiện Tôi Là Ai? Chính Sách Bảo Mật 1. PHẠM VI VÀ LIÊN HỆ Chính sách bảo mật này áp dụng cho dữ liệu cá nhân do Conversion.vn thu thập trên các website (bao gồm các website và ứng dụng dành cho thiết bị di động) liên kết đến Chính sách bảo mật này, thông qua các mẫu đăng ký, các khảo sát, mục cạnh tranh, tại các sự kiện (bao gồm giải thưởng), hoặc nếu bạn liên hệ với chúng tôi (trực tuyến, qua bưu điện, điện thoại hoặc phương tiện truyền thông xã hội). Quyền riêng tư của bạn rất quan trọng đối với chúng tôi và Chính sách bảo mật này nêu rõ cách chúng tôi xử lý dữ liệu cá nhân của bạn và bạn có quyền gì đối với dữ liệu cá nhân của mình. Bộ điều khiển dữ liệu được đặt dưới sự kiểm soát của Luật bảo vệ dữ liệu liên quan trực tiếp đến dữ liệu cá nhân của bạn và với vai trò này, chúng tôi sẽ lưu trữ và xử lý dữ liệu cá nhân mà bạn đã cung cấp cho chúng tôi một cách an toàn. Chính sách bảo mật này nhằm thông báo đến bạn cách chúng tôi sử dụng bất kỳ dữ liệu cá nhân mà chúng tôi thu thập được hoặc do bạn cung cấp. Vui lòng đọc kỹ Chính sách này trước khi bắt đầu. Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào về Chính sách bảo mật này hoặc quyền của bạn đối với dữ liệu cá nhân của bạn, vui lòng liên hệ chúng tôi theo địa chỉ (…) 2. CHÚNG TÔI THU THẬP NHỮNG THÔNG TIN CÁ NHÂN GÌ? Bạn không phải cung cấp cho chúng tôi bất kỳ thông tin cá nhân nào để truy cập website của chúng tôi. Tuy nhiên, nếu bạn muốn đăng ký trên website, đăng ký dịch vụ, đặt vé tại các sự kiện, yêu cầu cung cấp thêm thông tin, liên hệ, tham gia khảo sát, tham gia cuộc thi hoặc cung cấp nội dung để đăng tải lên website của chúng tôi (ví dụ: blog hoặc diễn đàn trực tuyến khác) thì chúng tôi sẽ thu thập một số dữ liệu nhất định, bao gồm cả dữ liệu cá nhân. Dữ liệu chúng tôi thu thập có thể bao gồm: • Chức vụ, tên, địa chỉ, số điện thoại doanh nghiệp, địa chỉ email và giới tính; • Chi tiết công việc,ví dụ: vị trí công việc hiện tại và trách nhiệm, kinh nghiệm, thâm niên, lương và các thông tin về bằng cấp; • Thông tin về tổ chức, công ty của bạn; • Lĩnh vực bạn quan tâm bằng cách thông báo trực tiếp hoặc do chúng tôi suy đoán từ việc bạn tham gia dịch vụ và sản phẩm của chúng tôi; • Hồ sơ công việc của bạn; • Những quan tâm của bạn trong lĩnh vực marketing; • Những bản tin tức bạn quan tâm; • Những quan tâm về cơ hội nghề nghiệp của bạn; • Những dữ liệu từ các trang mạng xã hội và địa chỉ mà có sự cho phép của bạn; • Và toàn bộ thông tin khác mà bạn cung cấp cho chúng tôi. Chúng tôi có thể nhận được thông tin trên trực tiếp từ bạn hoặc từ đồng nghiệp hoặc công ty bạn đăng ký để tham gia sự kiện dưới danh nghĩa của bạn. Xin lưu ý rằng không phải tất cả thông tin chúng tôi yêu cầu là nhằm mục đích cung cấp dịch vụ cho bạn. Bạn không bắt buộc phải cung cấp bất kỳ thông tin tùy chọn nào. Thông tin tài chính: Chúng tôi sẽ lưu giữ hồ sơ của bất kỳ giao dịch tài chính nào bạn thực hiện với chúng tôi. Thanh toán trực tuyến được thực hiện thông qua website của chúng tôi được xử lý an toàn bởi các nhà cung cấp thanh toán bên thứ ba sau đây: _____. Vui lòng tham khảo ___ chính sách bảo mật để biết chi tiết về cách xử lý dữ liệu thẻ thanh toán của bạn. Chúng tôi không trực tiếp thu thập hoặc xử lý thông tin thẻ ghi nợ hoặc thẻ tín dụng của bạn, ngoại trừ trường hợp đặc biệt thì chúng tôi sẽ yêu cầu bạn cung cấp chi tiết thẻ ghi nợ hoặc thẻ tín dụng thông qua điện thoại. Dữ liệu thiết bị và dữ liệu duyệt web: Ngoài ra, chúng tôi có thể tự động thu thập thông tin về bất kỳ website bạn đã hoặc đang truy cập. Chúng tôi cũng thu thập thông tin về các trang của website mà bạn truy cập, các liên kết bạn nhấp vào, địa chỉ IP, loại trình duyệt bạn sử dụng và thời gian bạn truy cập website của chúng tôi. Một số thông tin này được tổng hợp không nhằm nhận dạng bạn mà hỗ trợ phần mềm phân tích trên website của chúng tôi thông báo với bạn về việc sử dụng website đã đăng nhập của bạn. Chúng tôi có thể theo dõi quá trình sử dụng websitesite của bạn, bao gồm việc mở email, tham gia sự kiện (thông qua mã phát hành) và hoạt động của bạn tại các sự kiện đó. Chúng tôi có thể phỏng đoán và lấy được một số thông tin nhất định từ những thương hiệu, đăng ký và sự kiện mà bạn có thể quan tâm. Thông tin này sẽ được sử dụng cho mục đích tiếp thị và hoạt động nội bộ của chúng tôi. Cookies: Chúng tôi sử dụng cookies để thu thập thông tin về bạn trong quá trình trực tuyến. Vui lòng đọc chính sách cookies của chúng tôi để biết thêm thông tin về cookies mà chúng tôi sử dụng và cách bạn có thể bật / tắt chúng. 3. THÔNG TIN CÁ NHÂN CỦA BẠN ĐƯỢC SỬ DỤNG VÀ CHIA SẺ NHƯ THẾ NÀO? Theo luật bảo vệ dữ liệu, chúng tôi sẽ chỉ xử lý dữ liệu cá nhân của bạn khi chúng tôi có cơ sở hợp pháp. Những căn cứ này là: (i) nơi cần thiết cho việc thực hiện thỏa thuận giữa chúng tôi với bạn; (ii) nơi bạn đã đồng ý; (iii) nơi chúng tôi cần tuân thủ nghĩa vụ pháp lý; (iv) nơi mà trong đó lợi ích hợp pháp của chúng tôi (hoặc của bên thứ ba) và lợi ích tương tự không ảnh hưởng đến quyền hoặc tự do của bạn. Chúng tôi đã đặt ra Chính sách bảo mật này nhằm mục đích xử lý dữ liệu cá nhân của bạn dựa trên cơ sở hợp pháp. Quyền hạn đối với thông tin cá nhân mà chúng tôi thu thập: • Cung cấp các sản phẩm và dịch vụ bạn đã đặt hàng hoặc đăng ký (cần thiết cho thỏa thuận); • Việc bạn đăng ký các sự kiện và quản lý các sự kiện đó (thông báo về địa điểm nơi các sự kiện của chúng tôi được diễn ra và các yêu cầu về chế độ ăn uống hoặc truy cập nào mà bạn có thể đã đề cập) (cần thiết cho thỏa thuận và tuân thủ các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi); • Thông báo cho bạn thông tin liên quan đến bất kỳ sự kiện nào bạn đang tham dự (cần thiết cho thỏa thuận và lợi ích hợp pháp của khách hàng, để đảm bảo họ được cập nhật thông tin cần thiết); • Xác minh danh tính và phương thức thanh toán hoặc số tiền thẻ tín dụng của bạn (yêu cầu thanh toán) để tuân thủ các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi; • Quản lý website của chúng tôi (như kiểm soát truy cập) và cung cấp dịch vụ khách hàng (lợi ích hợp pháp, của chúng tôi và khách hàng của chúng tôi, để đảm bảo chất lượng dịch vụ và bảo mật tốt); • Tổng hợp thông tin về bạn và những người dùng khác (lợi ích hợp pháp của chúng tôi) để hiểu rõ hơn những dịch vụ mà người dùng của chúng tôi sẽ quan tâm; • Đáp ứng các yêu cầu pháp lý, quy định và tuân thủ (điều cần thiết để tuân thủ các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi); • Theo dõi và phân tích việc sử dụng bất kỳ tài khoản nào để ngăn chặn, điều tra hoặc báo cáo gian lận, khủng bố, xuyên tạc, sự cố bảo mật hoặc tội phạm (lợi ích hợp pháp, của chúng tôi và người dùng của chúng tôi, vì lý do an ninh); • Thu thập thông tin để hình thành phân tích thống kê và xu hướng bao gồm theo dõi nhân khẩu học của người dùng (lợi ích hợp pháp của chúng tôi, để chúng tôi hiểu rõ hơn về những sản phẩm và dịch vụ của chúng tôi và cải thiện sản phẩm, dịch vụ, sự kiện và thực tiễn tiếp thị); • Theo dõi việc sử dụng các sản phẩm và dịch vụ của chúng tôi và tham gia các sự kiện cũng như xây dựng hồ sơ khách hàng (bao gồm cả việc sử dụng phần mềm phân tích) (lợi ích hợp pháp của chúng tôi) để giúp chúng tôi xác định nội dung và tài liệu tiếp thị mà bạn quan tâm khách hàng như bạn); • Theo dõi tương tác tại các sự kiện bao gồm khán giả tham dự các sự kiện (lợi ích hợp pháp của chúng tôi, để hiểu rõ hơn về các sự kiện của chúng tôi và giúp chúng tôi hiểu rõ hơn cách tốt nhất để tổ chức các sự kiện trong tương lai); • Trao đổi và phản hồi các thắc mắc của bạn; • Điều tra mọi khiếu nại về website, sản phẩm, dịch vụ hoặc sự kiện của chúng tôi (lợi ích hợp pháp, cho chúng tôi và khách hàng của chúng tôi để đảm bảo rằng chúng tôi duy trì các cấp dịch vụ cao); • Cá nhân hóa trải nghiệm của người dùng trên website, sản phẩm, dịch vụ và sự kiện của chúng tôi, ví dụ: bằng cách hiển thị quảng cáo và nội dung được nhắm mục tiêu mà chúng tôi cho rằng có liên quan và quan tâm đến bạn (vui lòng xem bên dưới để biết thêm chi tiết) (lợi ích hợp pháp của đối tác quảng cáo của chúng tôi) , để họ có thể hiển thị cho bạn các quảng cáo phù hợp nhất); và cung cấp cho bạn giải thưởng cho các cuộc thi bạn tham gia và giành chiến thắng (cần thiết cho thỏa thuận) và tuân thủ các yêu cầu quy định để tiết lộ tên và địa chỉ của người chiến thắng cuộc thi (cần thiết để tuân thủ nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi); gửi cho bạn thông tin về sản phẩm, dịch vụ và sự kiện của chúng tôi hoặc sự kiện bạn đã đăng ký và các thương hiệu khác trong cộng đồng của chúng tôi mà bạn có thể quan tâm (lợi ích hợp pháp của chúng tôi, để quảng bá sản phẩm và dịch vụ của chúng tôi và khách hàng của chúng tôi, để cập nhật cho họ các chương trình khuyến mãi, sự kiện và đăng ký có thể liên quan đến nghề nghiệp và vai trò công việc của họ). Khách hàng của chúng tôi luôn có quyền cho chúng tôi biết rằng họ không còn muốn được liên lạc với mục đích tiếp thị nữa; Các công ty và tổ chức: Chúng tôi có quyền chia sẻ thông tin cá nhân của bạn với các công ty, tổ chức là đối tác liên kết, tổ chức và tài trợ các sự kiện, hoạt động trong cộng đồng. Sự kiện (bao gồm cả giải thưởng): Khi bạn tham dự sự kiện do chúng tôi tổ chức, chúng tôi có thể chia sẻ tên, chức danh và công ty của bạn với những người tham dự khác của sự kiện (bao gồm cung cấp thông tin này qua ứng dụng sự kiện, trên các trang truyền thông xã hội hoặc trong hướng dẫn sự kiện của chúng tôi). Nếu bạn nhận một trong các giải thưởng của chúng tôi, tên tổ chức và các thông tin khác về tổ chức của bạn sẽ được đưa vào danh sách và tài liệu được sử dụng và phân phối liên quan đến giải thưởng (lợi ích hợp pháp, của chúng tôi và của những người tham gia khác và người tham dự giải thưởng, để cho phép những người tham gia khác và những người tham dự các giải thưởng xem ai đang hoạt động). Để thu hút các nhà tài trợ phù hợp nhất cho sự kiện và nhà tài trợ, chúng tôi sẽ chia sẻ thông tin đăng ký của bạn với các nhà tài trợ cho các sự kiện có thể liên hệ với bạn vì mục đích tiếp thị (lợi ích hợp pháp của chúng tôi). Chúng tôi hoặc nhà tài trợ của chúng tôi có thể liên hệ và cần sự đồng ý của bạn trong trường hợp cần sự tham gia của bạn trong các hoạt động và sự kiện; Trong trường hợp bạn đăng ký tham dự một số cuộc hội thảo hoặc thuyết trình tại sự kiện do bên thứ ba tổ chức, chúng tôi có thể chia sẻ thông tin đăng ký của bạn với bên thứ ba đó (lợi ích hợp pháp của chủ nhà của chúng tôi) nhằm mục đích kiểm soát và đánh giá chấ lượng sự kiện. Trong trường hợp bạn muốn chúng tôi chia sẻ thông tin của bạn với những nhà triển lãm tại sự kiện ( ví dụ, bằng cách quét mã huy hiệu sự kiện của bạn tại gian hàng triển lãm) chúng tôi chia sẻ thông tin của bạn với những nhà triển lãm này để họ có thể liên hệ bạn về sản phẩm và dịch vụ của họ (đồng ý). Hội thảo trực tuyến hoặc phiếu đề nghị: Nơi bạn đăng ký hội thảo trên website được tài trợ hoặc để truy cập nội dung được tài trợ, chúng tôi chia sẻ chi tiết đăng ký của bạn với nhà tài trợ để có thể liên hệ với bạn (lợi ích hợp pháp của chúng tôi, cho phép chúng tôi sử dụng thông tin doanh nghiệp miễn phí, và của những nhà tài trợ của chúng tôi, tạo điều kiện xây dựng các mối quan hệ kinh doanh). Nếu bạn không muốn thông tin của bạn được chia sẻ, chúng tôi thường cung cấp một phương tiện thay thế để truy cập nội dung này. Tiếp thị bên thứ ba khác: Ngoài các trường hợp được nêu ở trên, chúng tôi có thể chia sẻ thông tin đăng ký của bạn bao gồm tên, chức danh và thông tin liên hệ với các bên thứ ba khác cho mục đích tiếp thị với sự cho phép của bạn. Nhà cung cấp dịch vụ: Chúng tôi có thể sử dụng dịch vụ của các nhà cung cấp dịch vụ bên thứ ba để giúp chúng tôi trong các lĩnh vực nhất định, chẳng hạn như lưu trữ website, bảo trì, vận hành trung tâm cuộc gọi và hoạt động của sự kiện. Trong một số trường hợp, bên thứ ba có thể nhận được dữ liệu cá nhân của bạn (lợi ích hợp pháp của chúng tôi, về hiệu quả dịch vụ và được hưởng lợi từ chuyên môn của bên thứ ba và khách hàng của chúng tôi để họ trải nghiệm chất lượng dịch vụ tốt). Tuy nhiên, chúng tôi luôn kiểm soát và chịu trách nhiệm về việc sử dụng dữ liệu cá nhân của bạn và nỗ lực đảm bảo rằng các nhà cung cấp dịch vụ của chúng tôi bị ràng buộc bởi các nghĩa vụ theo thỏa thuận để chỉ xử lý dữ liệu cá nhân của bạn dưới sự giám sát hướng dẫn của chúng tôi. Thông tin tổng hợp: Chúng tôi có thể sử dụng thông tin tổng hợp để chúng tôi có thể quản lý và cải thiện website, phân tích xu hướng và thu thập thông tin nhân khẩu học rộng và phát hiện các giao dịch đáng ngờ hoặc gian lận. Chúng tôi có thể chuyển thông tin này cho bên thứ ba. Trong hầu hết các trường hợp, thông tin này sẽ được ẩn danh ở mức độ bạn không thể bị nhận dạng từ các thông tin đó. Quảng cáo trực tuyến: Chúng tôi có thể chia sẻ một số thông tin của bạn với nhà quảng cáo, máy chủ quảng cáo và mạng quảng cáo để phân phối quảng cáo được nhắm mục tiêu trên website của chúng tôi và trên các website đối tác được chọn nhưng điều này sẽ không bao gồm bất kỳ thông tin nào nhận dạng trực tiếp bạn (lợi ích hợp pháp, cho mục đích quảng cáo). Tuy nhiên, bạn nên lưu ý rằng bên thứ ba có thể đưa ra giả định rằng bạn phù hợp, có tiềm năng hoặc đã đáp ứng các tiêu chí sử dụng sản phẩm nếu tương tác hoặc xem quảng cáo. Các hoạt động này có thể liên quan đến việc sử dụng cookies và các công nghệ tương tự khác. Vui lòng đọc Chính sách cookies của chúng tôi để biết thêm thông tin về các cookies chúng tôi sử dụng và cách bạn có thể bật / tắt chúng. Khảo sát ý kiến: Nếu bạn hoàn thành một cuộc khảo sát, câu trả lời của bạn sẽ được tổng hợp và ẩn danh cho mục đích nghiên cứu và phân tích. Tuy nhiên, nếu bạn chọn cung cấp bất kỳ thông tin nào trong phản hồi của bạn cho bản khảo sát xác định bạn (ví dụ: tên, chức vụ), chúng tôi có thể xác định bạn từ điều này. Nếu bạn chọn gửi địa chỉ email của mình để tham gia vào bất kỳ giải thưởng nào liên quan đến khảo sát, dữ liệu này chỉ được sử dụng để quản lý giải thưởng và sẽ không được liên kết với câu trả lời khảo sát của bạn (cần thiết cho thỏa thuận). Chúng tôi có thể chia sẻ phản hồi của bạn dưới dạng tổng hợp và ẩn danh với bên thứ ba thực hiện nghiên cứu liên quan đến các chủ đề được đề cập trong khảo sát (lợi ích hợp pháp, cho mục đích nghiên cứu). Nếu bạn đã cung cấp thông tin về bản thân trong các câu trả lời khảo sát của bạn (ví dụ: tên, chức vụ) thì bên thứ ba hoặc nhân viên của bạn (nếu thích hợp) có thể nhận dạng bạn từ điều này. Xét xử tư pháp: Đôi khi chúng tôi có thể được yêu cầu từ luật pháp, lệnh tòa án hoặc cơ quan chính phủ tiết lộ một số loại dữ liệu cá nhân nhất định (cần thiết để tuân thủ nghĩa vụ pháp lý hoặc vì lợi ích hợp pháp liên quan đến khiếu nại pháp lý chống lại chúng tôi). Ví dụ về loại tình huống mà điều này sẽ xảy ra sẽ là: • Trong việc xét xử tư pháp; hoặc là. • Trong điều khoản mà chúng tôi phải tự bảo vệ một cách hợp pháp. Phương thức khác: Chúng tôi xử lý dữ liệu cá nhân về các cá nhân có trong các ấn phẩm, nội dung và sản phẩm của chúng tôi, bao gồm thông tin chúng tôi đã nghiên cứu từ các nguồn công khai (lợi ích hợp pháp và cho mục đích báo chí). Chúng tôi cũng sử dụng các nguồn có sẵn công khai để nghiên cứu các khách hàng tiềm năng để gửi cho họ thông tin tiếp thị về các sản phẩm và dịch vụ có liên quan đến họ (lợi ích hợp pháp, phát triển doanh nghiệp của chúng tôi). Bạn chỉ được gửi dữ liệu cá nhân thay cho người khác hoặc gửi dữ liệu cá nhân công khai trên các sản phẩm của chúng tôi khi bạn có sự đồng ý của cá nhân đó và trách nhiệm của bạn là đảm bảo rằng cá nhân đó được thực hiện nhận thức Chính sách bảo mật này và việc xử lý dữ liệu cá nhân của chúng tôi. 4. NGĂN CHẶN KHAI THÁC VÀ QUYẾT ĐỊNH TỰ ĐỘNG Nếu bạn cung cấp thẻ tín dụng hoặc thẻ ghi nợ, chúng tôi cũng có thể sử dụng bên thứ ba để kiểm tra tính hợp lệ của mã phân loại, số tài khoản và số thẻ bạn gửi để ngăn gian lận cũng như xử lý bất kỳ giao dịch nào thông qua website của chúng tôi. Mọi quyết định từ chối dịch vụ của bạn dựa trên tính hợp lệ của chi tiết thẻ của bạn sẽ được thực hiện bởi các quyết định tự động. Nếu bạn bị từ chối dịch vụ vì việc ra quyết định tự động này, bạn có quyền yêu cầu chúng tôi điều tra thêm. Vui lòng liên hệ với chúng tôi theo địa chỉ ___ bạn đã bị từ chối truy cập vào dịch vụ dựa trên chi tiết thẻ của bạn được khai báo không hợp lệ và bạn cho rằng đây là lỗi. Bạn sẽ cần phải liên hệ với ngân hàng / nhà cung cấp thanh toán của bạn. Nếu thông tin sai lệch hoặc không chính xác được cung cấp và gian lận được xác định, chi tiết có thể được chuyển cho các cơ quan phòng chống gian lận. Cơ quan thực thi pháp luật có thể truy cập và sử dụng thông tin này. Chúng tôi và các tổ chức khác cũng có thể truy cập và sử dụng thông tin này để ngăn chặn gian lận và rửa tiền, ví dụ: khi: • Kiểm tra chi tiết trong đơn xin tín dụng và tín dụng liên quan hoặc các cơ sở khác; • Quản lý tài khoản hoặc tín dụng liên quan đến tài khoản và tín dụng; • Thu hồi nợ; • Kiểm tra chi tiết về các đề xuất và yêu cầu đối với tất cả các loại bảo hiểm • Kiểm tra chi tiết của người xin việc và nhân viên. 5. TRUYỀN THÔNG MARKETING Đôi khi chúng tôi có thể liên hệ với bạn qua email, SMS, điện thoại hoặc đăng bài về sản phẩm của chúng tôi và dịch vụ (bao gồm từ tất cả các thương hiệu của chúng tôi) mà bạn có thể quan tâm. Nếu tại bất kỳ thời điểm nào, bạn muốn từ chối nhận thông báo tiếp thị từ chúng tôi hoặc muốn thay đổi các kênh mà chúng tôi sử dụng để liên hệ với bạn, vui lòng nhấp vào liên kết hủy đăng ký ở cuối bất kỳ email nào bạn nhận được hoặc gửi email cho chúng tôi, nêu rõ sở thích của bạn, tại hcm@Conversion.vn.vn 6. LIÊN KẾT Website của chúng tôi chứa các liên kết đến các website khác mà chúng tôi không có quyền kiểm soát. Chúng tôi không chịu trách nhiệm về chính sách bảo mật của các website khác mà bạn chọn để liên kết từ website này. Chúng tôi khuyến khích bạn xem lại chính sách bảo mật của các website khác để bạn có thể hiểu cách họ thu thập, sử dụng và chia sẻ thông tin cá nhân của bạn. 7. BẢO MẬT Chúng tôi đã thực hiện các biện pháp kỹ thuật và tổ chức hợp lý để bảo mật thông tin cá nhân của bạn tránh trường hợp bị lấy mất và truy cập trái phép, sử dụng, thay đổi hoặc tiết lộ. Tuy nhiên, Internet là một hệ thống mở và chúng tôi không thể đảm bảo rằng các bên thứ ba không bao giờ có thể đánh bại các biện pháp đó hoặc sử dụng thông tin cá nhân của bạn trái phép. 8. QUYỀN LỢI CỦA BẠN Trong một số trường hợp, bạn có các quyền sau đây liên quan đến dữ liệu cá nhân theo quy định của pháp luật: • Quyền truy cập vào dữ liệu cá nhân của bạn do chúng tôi lưu trữ; • Quyền nhận dữ liệu cá nhân của bạn ở định dạng có thể đọc được bằng máy; • Quyền phản đối việc xử lý dữ liệu cá nhân của bạn, nơi chúng tôi đang dựa vào các lợi ích hợp pháp (hoặc của bên thứ ba) cho một mục đích cụ thể mà bạn cho rằng không hợp lý; • Quyền yêu cầu chúng tôi không xử lý dữ liệu cá nhân của bạn cho các mục đích tiếp thị trực tiếp (bao gồm cả hồ sơ nhằm mục đích tiếp thị trực tiếp); • Quyền phản đối các quyết định được thực hiện bằng các phương tiện tự động có ảnh đến bạn; • Quyền rút lại sự đồng ý đã từng đưa ra cho phép chúng tôi sử dụng dữ liệu cá nhân của bạn cho một mục đích cụ thể của bạn bất cứ lúc nào. Bạn có thể làm điều đó bằng các phương pháp được nêu trong Chính sách bảo mật này hoặc bằng bất kỳ phương pháp nào khác mà chúng tôi thông báo cho bạn khi tìm kiếm sự đồng ý của bạn; • Quyền trong một số trường hợp có dữ liệu cá nhân không chính xác được sửa chữa, bị chặn, xóa hoặc hủy; • Quyền khiếu nại với cơ quan giám sát bảo vệ dữ liệu của bạn. Các quyền này có thể được thực hiện bằng cách liên hệ với chúng tôi theo ____ để bảo vệ bạn, chúng tôi bảo lưu quyền xác minh danh tính của bạn trước khi xử lý bất kỳ yêu cầu nào như vậy. Nếu bạn liên hệ với chúng tôi liên quan đến quyền của bạn, chúng tôi sẽ cố gắng hết sức để đáp ứng yêu cầu hoặc phản đối của bạn. Tuy nhiên, xin lưu ý rằng không phải tất cả các quyền đều tuyệt đối. 9. CẬP NHẬT THÔNG TIN CÁ NHÂN CỦA BẠN Bạn có thể xem lại, sửa chữa, cập nhật hoặc thay đổi thông tin cá nhân của bạn bất cứ lúc nào bằng cách liên hệ với chúng tôi tại hcm@Conversion.vn.vn , nơi bạn đã đăng ký tài khoản trực tuyến trên một trong các website/ứng dụng của chúng tôi. 10. LƯU TRỮ DỮ LIỆU Chúng tôi sẽ lưu trữ dữ liệu cá nhân của bạn trong khoảng thời gian cần thiết để thực hiện các mục đích được nêu trong Chính sách bảo mật này. Theo đó, dữ liệu cá nhân của bạn sẽ được duy trì trong tối đa bảy năm sau khi kết thúc các dịch vụ chúng tôi cung cấp cho bạn hoặc lần liên hệ cuối cùng của bạn với chúng tôi. Thời gian lưu giữ này có thể được gia hạn nếu bất kỳ nghĩa vụ pháp lý hoặc luật pháp hiện hành nào yêu cầu chúng tôi giữ thông tin trong một thời gian dài hơn. 11. THAY ĐỔI CHÍNH SÁCH RIÊNG TƯ Nếu Chính sách bảo mật của chúng tôi thay đổi theo bất kỳ cách nào, chúng tôi sẽ đặt một phiên bản cập nhật trên trang này và chúng tôi sẽ thực hiện các bước thông báo và hướng dẫn để bạn biết về sự thay đổi đó. Thường xuyên cập nhật thông tin trên website và đảm bảo rằng bạn luôn nhận thức được thông tin cá nhân nào chúng tôi thu thập, xử lý và quy tắc chia sẻ dữ liệu với bên thứ ba. 12. LIÊN HỆ Xin nhắc lại, nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào về Chính sách bảo mật này này hoặc thông tin cá nhân của bạn, vui lòng liên hệ với chúng tôi tại tu.bui@conversion.vn Facebook Comments 11/14/2018 Bui Quang Tinh Tu Tác giả: Bui Quang Tinh Tu Experienced in high level strategy roles. Business consultant, high-profile speaker & key opinion leader, founder of Vietnam's most active marketing community. 10 years experience in digital marketing, customer acquisition & retention, go-to market strategy, programmatic, martech, adtech, etc. Good understanding about technology platforms, especially e-commerce / marketplace, online ride-hailing & delivery. Tìm Kiếm Bài Viết Tìm kiếm cho: Những Bài Viết Được Quan Tâm Nhất Sự Khác Biệt Giữa Digital Marketing, Internet / Online Marketing Google Analytics Và Tại Sao Nó Không Chính Xác Tổng Hợp Công Cụ Hỗ Trợ Người Làm Digital Marketing Quảng Cáo Trên Các Ứng Dụng OTT Tổng Hợp Các Công Cụ SEO Hữu Ích Làm Sao Để Tối Ưu Hóa Quảng Cáo Hiệu Quả Hơn 5 Điều Tôi Đã Học Được Sau 2 Năm Viết Blog Xây Dựng Chiến Lược Digital Marketing Từ A – Z Traffic tự nhiên từ Google đang giảm dần Mọi Thứ Bạn Cần Biết Về A/B Testing Theo dõi Conversion.vn Trên Facebook Conversion Việt Nam Conversion.vn - Tăng conversion, marketing hiệu quả hơn Chính Sách Bảo Mật & Điều Khoản Sử Dụng Tiếng Việt
1614178347293.1.parquet/5896
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 19500, "url": "https://conversion.vn/privacy/" }
126.7
Thông tin tổng hợp English 中文 Trang chủ Giới thiệu Cổng TTĐT Chính phủ Báo điện tử Chính phủ Thư điện tử công vụ Chính phủ Chính phủ với Người ngoài nước Đại hội lần thứ XIII của Đảng | Chống dịch như chống giặc! | Thông tin cập nhật dịch nCoV | Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh-Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng Nước CHXHCN Việt Nam Chính phủ Hệ thống văn bản Số liệu ngân sách Nhà nước Chính sách phát triển kinh tế - xã hội Các chương trình, dự án phát triển KT - XH trọng điểm của quốc gia Các chương trình Khoa học và Công nghệ Tình hình kinh tế - xã hội Nghị quyết của Chính phủ Thông cáo báo chí VBQPPL do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành Thông tin tổng hợp Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Tuyên ngôn Hiến pháp năm 2013 Chủ tịch Hồ Chí Minh Hệ thống chính trị Ban Chấp hành Trung ương Các Ban Đảng Trung ương Văn kiện Đảng Tư liệu về Đảng Lịch sử Địa lý Dân tộc Bản đồ hành chính (GIS) Kinh tế- Xã hội Văn hoá Du lịch CHƯƠNG VI CHỦ TỊCH NƯỚC Điều 86 Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Điều 87 Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu ra Chủ tịch nước. Điều 88 Chủ tịch nước có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1. Công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh; đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày pháp lệnh được thông qua, nếu pháp lệnh đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất; 2. Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ; 3. Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán các Tòa án khác, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định đặc xá; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, công bố quyết định đại xá; 4. Quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, các giải thưởng nhà nước, danh hiệu vinh dự nhà nước; quyết định cho nhập quốc tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc tịch hoặc tước quốc tịch Việt Nam; 5. Thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh; quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương; 6. Tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm; quyết định cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phong hàm, cấp đại sứ; quyết định đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước; trình Quốc hội phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế quy định tại khoản 14 Điều 70; quyết định phê chuẩn, gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế khác nhân danh Nhà nước. Điều 89 1. Hội đồng quốc phòng và an ninh gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên. Danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh do Chủ tịch nước trình Quốc hội phê chuẩn. Hội đồng quốc phòng và an ninh làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số. 2. Hội đồng quốc phòng và an ninh trình Quốc hội quyết định tình trạng chiến tranh, trường hợp Quốc hội không thể họp được thì trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định; động viên mọi lực lượng và khả năng của đất nước để bảo vệ Tổ quốc; thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn đặc biệt do Quốc hội giao trong trường hợp có chiến tranh; quyết định việc lực lượng vũ trang nhân dân tham gia hoạt động góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Điều 90 Chủ tịch nước có quyền tham dự phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, phiên họp của Chính phủ. Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước. Điều 91 Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Điều 92 Phó Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Phó Chủ tịch nước giúp Chủ tịch nước thực hiện nhiệm vụ và có thể được Chủ tịch nước uỷ nhiệm thay Chủ tịch nước thực hiện một số nhiệm vụ. Điều 93 Khi Chủ tịch nước không làm việc được trong thời gian dài thì Phó Chủ tịch nước giữ quyền Chủ tịch nước. Trong trường hợp khuyết Chủ tịch nước thì Phó Chủ tịch nước giữ quyền Chủ tịch nước cho đến khi Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước mới. (Nguồn: Văn phòng Quốc hội) BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH Trang tin Văn phòng Chính phủ Chuyên trang Thủ đô Hà Nội Chuyên trang Thành phố Hồ Chí Minh Chương trình chuyên đề Việt Nam Online Về đầu trang Trang chủ Báo điện tử Chính phủ Trang Đa phương tiện Giới thiệu Cổng TTĐT Chính phủ Sơ đồ Cổng thông tin Liên hệ English 中文 © CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ Tổng Giám đốc: Nguyễn Hồng Sâm Trụ sở: 16 Lê Hồng Phong - Ba Đình - Hà Nội. Điện thoại: Văn phòng: 080 43162; Fax: 080.48924; Email: thongtinchinhphu@chinhphu.vn. Bản quyền thuộc Cổng Thông tin điện tử Chính phủ. Ghi rõ nguồn 'Cổng Thông tin điện tử Chính phủ' hoặc 'www.chinhphu.vn' khi phát hành lại thông tin từ các nguồn này.
1614178347293.1.parquet/119555
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 5806, "url": "http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietNam/ThongTinTongHop?categoryId=920&articleId=10053006" }
126.7
Năng lượng nguyên tử: Thất bại về khí hậu Download: pdf A4 Impressum About us Phong trào cổ động mang tên: "Sự thật về năng lượng nguyên tử" Năng lượng nguyên tử: Thất bại về khí hậu Năng lượng nguyên tử không thể cứu được bầu khí quyển Giới nguyên tử thừa nhận rằng, người ta không thể thay thế than, dầu, khí đốt bằng các nhà máy điện nguyên tử. Để thay thế chỉ 10% năng lượng hoá thạch trong năm 2050 bằng điện nguyên tử, người ta sẽ phải xây dựng tới 1000 nhà máy điện nguyên tử mới (hiện nay trên thế giới có khoảng 440 nhà máy điện nguyên tử). Việc xây dựng các công trình này - tính trong trường hợp hoàn toàn có thể xây dựng được - sẽ kéo dài nhiều thập kỷ. Nguồn trữ lượng uran sẽ nhanh chóng cạn kiệt. Ngay cả Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) cũng thừa nhận không thể nhanh chóng mở rộng năng lượng nguyên tử để hạn chế được sự thay đổi khí quyển. Chúng ta có một giải pháp khác cho vấn đề này: Toàn cảnh năng lượng khác nhau trên thế giới chỉ ra rằng vấn đề khí quyển chỉ được giải quyết thông qua các nguồn năng lượng tái sinh kết hợp với những kỹ thuật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Cần đóng cửa các nhà máy điện nguyên tử.
1614178347293.1.parquet/36746
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 1030, "url": "http://www.facts-on-nuclear-energy.info/6_climate_race.php?size=s&l=vi&f=1688614104" }
126.4
Nghề thư ký – Việc làm và kinh nghiệm phát triển sư nghiệp Skip to content Nghề thư ký – Việc làm và kinh nghiệm phát triển sư nghiệp HR Executive là gì? Kỹ năng cần có của HR Executive? Dịch vụ 04/02/2020 03/26/2020 HR Executive là vị trí công việc chủ chốt đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu trong phòng ban nhân sự của bất kỳ công ty nào. Thật không sai khi nói HR Executive góp phần to lớn trong sự phát triển của mỗi doanh nghiệp. Vậy HR Executive là gì? Những kỹ năng cần có để trở thành HR Executive? HR Executive là gì? HR được viết tắt từ Human Resource, có nghĩa là quản trị nguồn nhân sự. HR Executive hay được gọi là chuyên viên nhân sự, là những người thuộc phòng HR và thực hiện các công việc liên quan đến công tác tuyển dụng nhân sự, lên kế hoạch đào tạo nhân viên, thực hiện các giấy tờ, hợp đồng lao động hay phối hợp với cấp trên đưa ra chính sách duy trì nguồn nhân lực giỏi. Mỗi ngành nghề sẽ có những thuận lợi và khó khăn khác nhau. Theo đó, khi trở thành một chuyên viên nhân sự, bạn sẽ có cơ hội tiếp xúc và học hỏi nhiều nhân viên ở các phòng ban khác nhau từ công việc cho đến những định hướng nghề nghiệp của họ. Bên cạnh đó, bạn sẽ là người đóng góp quan trọng trong việc quản lý nhân sự, tuyển chọn những người tài năng và góp một phần lớn cho sự thành công của công ty. Công việc HR Executive cần có những kỹ năng gì? Kỹ năng giao tiếp Để trở thành một chuyên viên nhân sự giỏi, bạn phải có kỹ năng giao tiếp hiệu quả. Thông thường, HR Executive sẽ phối hợp với sếp để đưa ra chế độ lương thưởng hay chính sách đào tạo nhân viên phù hợp. Với kỹ năng giao tiếp tốt, bạn có thể trao đổi dễ dàng với sếp, đồng thời cùng nhau bàn bạc và đưa ra những chế độ phúc lợi phù hợp cho nhân viên. Bên cạnh đó, bạn còn đảm nhận công việc trình bày với cấp trên về việc tăng lương hay thăng tiến cho một cá nhân xuất sắc trong công ty. Chưa hết, một chuyên viên nhân sự phải biết cách khéo léo và nhạy bén khi giao tiếp bởi bạn sẽ tiếp xúc với tất cả các nhân viên trong công ty. Bên cạnh đó, kỹ năng giao tiếp hiệu quả trong công tác tuyển dụng cũng giúp bạn tìm được những nhân viên tiềm năng cho công ty. Kỹ năng thuyết phục và đàm phán Trong công việc, chắc chắn sẽ không tránh khỏi những vấn đề mâu thuẫn, hiểu nhầm hay tranh chấp giữa công ty và người lao động. Lúc này, chuyên viên nhân sự sẽ đứng ra hòa giải thỏa đáng những vấn đề mà nhân viên cũng như công ty đang gặp phải. Ngoài ra, khi tuyển dụng nhân sự, bạn sẽ là người thương lượng các chế độ lương thưởng, phúc lợi với nhân viên mới. Thế nên, kỹ năng đàm phán là rất quan trọng giúp HR Executive có thể đưa một mức lương có lợi cho cả công ty và người lao động. Kỹ năng quản lý thời gian Có thể nói rằng, chuyên viên nhân sự đảm nhận rất nhiều công việc khác nhau trong công ty. Từ những công việc cố định có kế hoạch từ trước như tuyển dụng nhân sự, trao đổi với cấp trên cho đến những công việc phát sinh đột xuất như giải quyết những vấn đề mâu thuẫn từ người lao động và công ty. Chính vì vậy, để hoàn thành tốt tất cả những công việc trên, chuyên viên nhân sự phải biết cách quản lý thời gian. Theo đó, bạn nên liệt kê ra những công việc cụ thể cần giải quyết, ưu tiên việc quan trọng làm trước. Nếu không có kế hoạch làm việc cụ thể, bạn sẽ cảm thấy căng thẳng áp lực vì không biết giải quyết vấn đề nào trước, dẫn đến công việc bị trì hoãn. Hơn nữa, kỹ năng quản lý thời gian còn giúp bạn cân bằng giữa công việc và cuộc sống. Theo đó, chỉ cần có một kế hoạch làm việc cụ thể, bạn sẽ có thời gian dành riêng cho bản thân và gia đình của mình. Tóm lại, một HR Executive giỏi có thể bao quát hết toàn bộ công việc liên quan đến nhân sự như: đào tạo nhân viên, tuyển dụng, đưa ra chế độ lương thưởng… Nếu bạn yêu thích công việc liên quan đến con người, bạn có thể thử sức ở lĩnh vực nhân sự. Hy vọng với những chia sẻ trên, bạn đã hiểu HR Executive là gì cũng như những kỹ năng mà chuyên viên nhân sự cần có để hoàn thành tốt nhiệm vụ và thăng tiến trong công việc. Process engineer là gì? Những kỹ năng nào process engineer cần có? Bài viết khác 04/01/2020 03/26/2020 Để sản xuất bất kỳ một sản phẩm nào từ đơn giản hay phức tạp, chúng ta đều phải có một quy trình sản xuất, bao gồm các bước để tạo nên thành phẩm cuối cùng và bán ra thị trường. Chính vì thế, nhóm ngành kỹ thuật ngày càng phát triển, trong đó process engineer được rất nhiều bạn lựa chọn. Vậy process engineer là gì? Những kỹ năng nào mà process engineer cần có? Process engineer là gì? Process (quy trình) là quá trình sản xuất từ các nguyên liệu thô, qua các tác động của máy móc, hóa học tạo nên những sản phẩm cuối cùng. Thế nên, process engineer hay được gọi là kỹ sư quy trình, là người chịu trách nhiệm trong việc thiết kế, thi công, giám sát và tối ưu các quy trình tại các nhà máy sản xuất như quy trình chế biến thực phẩm, chế biến các sản phẩm đông lạnh, dược phẩm hay liên quan đến quy trình chế biến khoáng sản, lọc dầu. Mỗi ngành nghề sẽ có những quy trình khác nhau, vì thế khi học đại học bạn có thể lựa chọn chuyên ngành process engineer tương ứng với ngành học của bạn. Những kỹ năng nào mà process engineer cần có? Kỹ năng phân tích Để trở thành một process engineer giỏi, kỹ năng đầu tiên cần phải có đó là phân tích. Theo đó, kỹ sư quy trình phải có khả năng nhìn vấn đề với nhiều góc cạnh khác nhau, đơn giản hóa các vấn đề phức tạp, sao cho tối ưu hóa quy trình sản xuất của công ty. Bên cạnh đó, bạn sẽ là người phân tích số liệu cho từng loại máy móc, ước tính xem máy có hoạt động hiệu quả hay không và làm thế nào để quy trình hoạt động tốt nhất. Kỹ năng phân tích phải đi kèm với hình dung về không gian, bạn phải tưởng tượng hình ảnh của vật thể trong không gian để kiểm soát và điều khiển nó một cách hiệu quả. Kỹ năng giải quyết vấn đề Khi thực hiện quy trình, chỉ cần gặp sự cố ở một bước thì cả quy trình sẽ bị hư hỏng. Chính vì thế, mỗi process engineer đều phải biết cách giải quyết vấn đề từ cấp độ cơ bản đến nâng cao. Bên cạnh đó, bạn phải đưa ra những cách xử lý nhanh chóng, để hạn chế việc trì hoãn cả một quy trình, ảnh hưởng đến các bộ phận khác trong công ty. Kết hợp với kỹ năng phân tích, khi bị lỗi quy trình, bạn cần phân tích bị lỗi ở đâu trong dây chuyền sản xuất, đồng thời đưa ra một phương án tối ưu để khắc phục. Chưa hết, bạn phải đánh giá vấn đề ở nhiều mặt khác nhau và có một cách nhìn khách quan nhất. Kỹ năng sử dụng máy tính Với sự phát triển công nghệ nhanh chóng như hiện nay, các thiết bị như máy tính, điện thoại đã trở thành một phần không thể thiếu trong tất cả các ngành nghề. Sử dụng thành thạo máy tính và các phần mềm chuyên dụng để lưu trữ dữ liệu, tính toán, vẽ biểu đồ quy trình hay đánh giá dây chuyền sản xuất. Kỹ năng giao tiếp Có thể nói, giao tiếp là một kỹ năng quan trọng không chỉ trong công việc mà còn trong cuộc sống. Khi trở thành một process engineer, bạn không thể làm việc độc lập, mà phải biết cách phối hợp với cấp trên hay cấp dưới của mình. Thông thường, mỗi bước trong quy trình sẽ có những nhân viên đảm nhận khác nhau, bạn phải giao tiếp thường xuyên với họ trong suốt quá trình. Chưa hết, giao tiếp tốt sẽ giúp bạn truyền đạt những ý tưởng hay những cách thức làm việc hiệu quả cho nhân viên. Đối với cấp trên, kỹ năng giao tiếp tốt giúp bạn có sự trao đổi hiệu quả để cùng đưa ra những phương hướng sản xuất phù hợp. Ngoài ra, nhờ nắm vững kỹ năng giao tiếp bạn có thể kết nối và nhận được nhiều đề xuất của nhân viên cấp dưới về quy trình xử lý sự cố, quy trình vận hành, giúp công ty tiết kiệm thời gian, nguyên vật liệu và nâng cao tính cạnh tranh sản phẩm. Nếu bạn yêu thích công việc về sản xuất hay kiểm soát quy trình, bạn có thể lựa chọn trở thành một kỹ sư quy trình. Thông qua những chia sẻ trên, bạn đã biết được process engineer là gì cũng như một số những kỹ năng cần phải có của process engineer. Interpersonal skills là gì? Những kỹ năng nào cần thiết cho người thành công Kỹ năng thư ký 03/29/2020 03/26/2020 Việc tìm hiểu interpersonal skills sẽ giúp bạn biết được bản thân cần trau dồi những gì cho sự thành công trong công việc và cuộc sống của mình. Chắc hẳn bạn đã từng được nghe nói về tầm quan trọng của những kỹ năng mềm trong cuộc sống. Interpersonal skills chính là những kỹ năng mềm quan trọng đó. Vậy interpersonal skills là gì? Những kỹ năng nào cần thiết cho người thành công. Hãy tham khảo với bài viết dưới đây. Interpersonal skills là gì? Interpersonal skills hay còn gọi là kỹ năng xã hội, chính là những kỹ năng mềm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho quá trình giao tiếp, tương tác giữa bạn với những người xung quanh. Từ đó mang lại thành công cho công việc cũng như cuộc sống hàng ngày của bạn. Những kỹ năng xã hội có thể kể đến như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng quản lý thời gian, kỹ năng làm việc nhóm,… Việc trau dồi interpersonal skills của mỗi người không thể dựa vào những bài học trên giảng đường hay các bài viết trên sách vở. Mà nó cần được rèn luyện từ những va chạm trong cuộc sống hàng ngày để hình thành và phát triển. Những kỹ năng cần thiết để thành công Như vậy, bạn đã biết được interpersonal skills là gì, tiếp theo chúng ta cùng tìm hiểu những kỹ năng interpersonal nào cần thiết giúp bạn thành công trong cuộc sống. Đó chính là: Kỹ năng giao tiếp Kỹ năng đầu tiên và rất quan trọng chính là kỹ năng giao tiếp. Những mối quan hệ trong cuộc sống thường được duy trì bởi quá trình giao tiếp với nhau. Việc bạn có được khả năng giao tiếp tốt có thể giúp mở rộng các mối quan hệ của mình, từ đó có được thành công trong công việc lẫn cuộc sống. Kỹ năng đặt mục tiêu Có thể bạn cảm thấy việc đặt mục tiêu không cần phải có kỹ năng. Tuy nhiên, có nhiều bạn thường đưa ra những kỹ năng vượt quá tầm với của bản thân dẫn đến sự chán nản khi không thực hiện được. Chính vì thế, biết đưa ra mục tiêu, định hướng rõ ràng chính là chìa khóa giúp bạn thành công. Kỹ năng sáng tạo Nhiều người sẽ cho rằng, sáng tạo là thiên bẩm không thể thay đổi. Tuy nhiên, suy nghĩ đó hoàn toàn sai lầm, bạn có thể tự học hỏi để nâng cao khả năng sáng tạo của bản thân bằng việc tham khảo những nội dung, tài liệu có liên quan thường xuyên. Với sự sáng tạo, bạn có thể đưa ra những ý tưởng tuyệt vời cho công việc, cuộc sống của mình. Kỹ năng lắng nghe Nghe có vẻ phi lý, thế nhưng, lắng nghe là một kỹ năng quan trọng. Bởi vì chúng ta thường có xu hướng muốn nói về chuyện của bản thân mà quên mất việc phải lắng nghe chiều ngược lại. Việc lắng nghe sẽ giúp bạn phân tích, tổng hợp thông tin một cách chính xác và sâu sắc hơn. Kỹ năng thuyết phục Bạn là lãnh đạo hay nhân viên cũng cần nâng cao kỹ năng này để thuyết phục mọi người đi theo ý tưởng, tư duy của bạn. Kỹ năng này không thể có được trong một sớm một chiều mà cần thông qua những trải nghiệm thực tế của bản thân. Kỹ năng làm việc nhóm Đây chắc hẳn là kỹ năng không còn quá xa lạ với bạn. Ngày nay, bất kỳ sự thành công nào đều cần sự chung sức của cả tập thể. Nếu bạn không có kỹ năng làm việc nhóm, sớm muộn bạn cũng sẽ bị đào thải bởi tập thể đó. Kỹ năng quản lý thời gian Biết quản lý thời gian sẽ giúp bạn sắp xếp công việc trong những khoảng thời gian phù hợp, từ đó nâng cao hiệu quả công việc trong khoảng thời gian ngắn nhất. Kỹ năng ra quyết định Mỗi quyết định được đưa ra đều cần đảm bảo sự chính xác. Cho nên, bạn cần phải có sự tự tin vào bản thân cũng như nắm bắt được vấn đề, tình hình cụ thể. Nếu quyết định sai lầm, nó có thể ảnh hưởng đến cá nhân bạn hoặc cả công ty cho nên, bạn cần thận trọng trong từng quyết định mà mình đưa ra. Với việc tìm hiểu interpersonal skills là gì cũng như những kỹ năng cần thiết chính là chìa khóa giúp bạn biết được bản thân nên và cần làm gì để đạt được những thành công trong công việc cũng như cuộc sống. Hy vọng bạn đã tìm được những thông tin bổ ích thông qua bài viết này. Chúc bạn thành công. Kinh doanh quốc tế là gì? Cơ hội việc làm sau khi ra trường như thế nào? Việc làm 03/28/2020 03/26/2020 Khi bạn đứng trước ngưỡng cửa chọn ngành, chọn nghề những năm cuối cấp, chắc hẳn bạn sẽ hoang mang không biết bản thân mình có phù hợp với ngành nghề mà bản thân yêu thích hay không. Và nếu một trong những ngành bạn muốn hướng đến là kinh doanh quốc tế thì bài viết này sẽ giúp bạn tìm hiểu kinh doanh quốc tế là gì cũng như cơ hội việc làm sau khi ra trường. Kinh doanh quốc tế là gì? Kinh doanh quốc tế là một ngành học tương đối mới mẻ hiện nay, tuy nhiên, với xu hướng hội nhập quốc tế thì đây chắc chắn sẽ là ngành học mang đến cho bạn cơ hội việc làm rộng mở trong tương lai. Theo đó, kinh doanh quốc tế được hiểu là những hoạt động kinh doanh trên phạm vi toàn thế giới, là sự trao đổi, buôn bán giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ với nhau. Mục đích nhằm đáp ứng nhu cầu, mục tiêu kinh doanh của các tổ chức, cá nhân. Ngành học Kinh doanh quốc tế sẽ cung cấp cho sinh viên những kiến thức liên quan đến nền kinh tế thế giới, phân tích đặc điểm, mối liên hệ giữa kinh tế với các yếu tố khác như chính trị, tôn giáo, địa lỹ, nhân khẩu học,… Bên cạnh đó, ngành học này cũng giúp sinh viên có thể phân tích tài chính, thị trường tỷ giá hối đoái cùng cách vận hành doanh nghiệp, xây dựng chiến lược kinh doanh toàn cầu,… So sánh Kinh doanh quốc tế và Kinh tế quốc tế Mặc dù bạn đã tìm hiểu Kinh doanh quốc tế là gì nhưng có thể bạn vẫn không thể biết được Kinh doanh quốc tế và Kinh tế quốc tế có khác nhau hay không? Đây hoàn toàn là hai ngành học khác nhau. Cụ thể: Kinh doanh quốc tế là ngành học cung cấp cho sinh viên những kiến thức liên quan đến quản trị kinh doanh, nhưng với quy mô trên toàn thế giới. Cùng với đó là những kiến thức chuyên môn như xuất nhập khẩu, logistic, marketing quốc tế, thanh toán quốc tế,… Kinh tế quốc tế là ngành học cung cấp những kiến thức liên quan đến ngành Kinh tế học. Đó là những kiến thức cơ bản về kinh tế, chủ yếu là thương mại quốc tế và tài chính quốc tế. Cơ hội việc làm sau khi ra trường Lựa chọn ngành học không những dựa vào niềm đam mê của bản thân mà còn phải đảm bảo có được công việc phù hợp sau khi ra trường. Và ngành Kinh doanh quốc tế chính là sự lựa chọn đúng đắn trong thời buổi hiện nay. Bởi vì không những ở nước ta mà trên toàn thế giới đã, đang bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế với nhu cầu nhân lực trong lĩnh vực này là rất lớn. Những vị trí công việc mà bạn có thể lựa chọn sau khi ra trường có thể kể đến như: Trở thành Đại diện thương mại cho các công ty, tập đoàn các nước trên thế giới tại Việt Nam cũng như các công ty trong nước tại các nước khác. Trở thành nhân viên trong các bộ phận nghiên cứu thị trường, xuất nhập khẩu, vận chuyển, phân phối, thương mại quốc tế, marketing quốc tế, hậu cần kinh doanh,… cho các công ty ở trong và ngoài nước. Trở thành chuyên viên nghiên cứu, phân tích thị trường tại các cơ quan nhà nước. Lựa chọn học cao lên để trở thành giảng viên cho các trường cao đẳng, đại học trong cả nước. Đối với ngành này, mức lương mà bạn có thể nhận được tương đối là hấp dẫn và không hạn chế tùy theo năng lực của mỗi người. Theo đó, nếu bạn là sinh viên vừa ra trường và làm việc cho các công ty trong nước, mức lương bạn có thể nhận được từ 7 – 9 triệu đồng/ tháng, nhưng nếu bạn làm việc cho các công ty nước ngoài, mức lương có thể cao hơn. Còn với những bạn đã có kinh nghiệm làm việc, tùy theo năng lực riêng mà mức lương có thể giao động từ 10 – 20 triệu đồng mỗi tháng. Việc tìm hiểu kinh doanh quốc tế là gì sẽ giúp bạn biết được bản thân có nên lựa chọn theo học ngành này hay không. Như vậy, sau khi tìm hiểu bài viết này chắc hẳn bạn đã có được câu trả lời cho bản thân mình. Chúc bạn thành công với sự lựa chọn của bản thân. Cover Letter là gì? Cách viết Cover Letter thu hút nhà tuyển dụng Việc làm 03/27/2020 03/26/2020 Trong bộ hồ sơ xin việc, ngoài CV thì Cover Letter chính là thứ không thể thiếu cũng như cần được chú ý kỹ lưỡng. Vậy bạn có biết Cover Letter là gì? Cùng tìm hiểu bài viết để có được câu trả lời cũng như có được một Cover Letter thu hút nhà tuyển dụng nhé. Cover Letter là gì? Cover Letter chính là thư/đơn xin việc mà bạn vẫn thường thấy trong các bộ hồ sơ có sẵn, nhằm mục đích muốn bày tỏ sự mong muốn được làm việc tại công ty. Tuy nhiên, Cover Letter phải ở một tầm cao hơn, cần được đầu tư hơn về mặt nội dung cũng như hình thức. Bạn có thể viết tay hay đánh máy tùy theo sở thích cũng như yêu cầu của nhà tuyển dụng. Nếu như CV đóng vai trò giới thiệu những kỹ năng, kiến thức và kinh nghiệm mà bạn có được thì Cover Letter lại đóng vai trò khiến nhà tuyển dụng ấn tượng và đi đến quyết định xem tiếp CV của bạn. Tuy nhiên, họ chỉ dành 30s cho việc đọc Cover Lette, cho nên bạn cần đầu tư công sức với ngôn từ ngắn ngọn, súc tích nhưng đủ thuyết phục với các lý lẽ, dẫn chứng riêng của mình về việc nên lựa chọn bạn cho công việc này. Cách viết Cover Letter thu hút nhà tuyển dụng Sau khi đã tìm hiểu Cover Letter là gì, chắc hẳn bạn sẽ muốn biết cách nào để có được một Cover Letter ấn tượng. Vậy thì hãy tiếp tục theo dõi phần tiếp theo này nhé. Lời chào mở đầu Đây là phần gửi lời chào đến bộ phận/ cá nhân liên quan trực tiếp đến công việc của bạn (thông thường là phòng nhân sự). Bạn sẽ thực hiện lời chào dựa trên những thông tin mà bạn có được, ví dụ như bộ phận tuyển dụng, cá nhân trực tiếp tuyển dụng,… Mẫu câu thường được sử dụng nhất có thể kể đến như Kính gửi Ban lãnh đạo công ty ABC, Kính gửi Bộ phận nhân sự công ty ABC, Kính gửi Mr/Mrs/Ms.A,… (hoặc bạn có thể thay Kính gửi bằng Dear). Một mẹo nhỏ dành cho bạn chính là hãy cố gắng tìm hiểu cá nhân tuyển dụng bạn trực tiếp thông qua các kênh liên lạc mà bạn có được, sau đó hãy ghi cụ thể tên người đó vào mục này, chắc chắn bạn sẽ ghi được điểm cộng trong mắt họ đấy nhé. Viết đoạn mở đầu Cover Letter chỉ cần có độ dài khoảng 1 tờ giấy a4, cho nên, bạn chỉ cần viết đoạn mở đầu từ 1 – 2 dòng là đủ. Phần này bạn hãy nói đến mục đích mình muốn gửi lá thư này cũng như vị trí muốn tuyển dụng và kênh thông tin nào để bạn biết được tin tuyển dụng từ công ty. Phần nội dung chính Ở phần này, bạn hãy nêu bật thông tin, kỹ năng và kinh nghiệm của bản thân, khiến nhà tuyển dụng chú ý và quyết định xem tiếp CV của bạn. Bạn có thể dựa vào việc trả lời những câu hỏi sau đây để có được nội dung cụ thể: Tại sao bạn nghĩ rằng bản thân phù hợp với vị trí tuyển dụng? Với công việc đó bạn đã có được những kỹ năng, kinh nghiệm làm việc thực tế nào đáp ứng được yêu cầu? Lý do vì sao bạn lựa chọn làm việc cho công ty này? Mục tiêu bạn muốn hướng đến cho công việc là gì trong tương lai? Với những câu hỏi trên, bạn chỉ nên tập trung nêu những ý chính có liên quan đến công việc đó, tránh lan man, dài dòng chính là điểm cộng trong mắt nhà tuyển dụng. Phần kết thư Ở phần kết này, bạn hãy lặp lại một lần nữa tại sao bạn sẽ là người phù hợp nhất với vị trí đang tuyển dụng, cũng như những lời hứa hẹn cho công ty trong tương lai. Đừng quên bày tỏ nguyện vọng được làm việc và được gặp mặt trong buổi phỏng vấn sắp tới nhé. Sau đó, hãy cung cấp thông tin liên lạc của bản thân và đề cập đến CV, bằng cấp cùng những tài liệu liên quan để họ có thể tham khảo thêm về kinh nghiệm, kỹ năng cụ thể mà bạn có được. Cuối cùng, hãy kết thư bằng lời chúc, lời chào và ký tên. Bạn có thể sử dụng từ ngữ kết thúc như trân trọng, cảm ơn hay Best Regard, All Best,… Điều cuối cùng bạn cần ghi nhớ chính là hãy kiểm tra thật kỹ nhé, tránh những sai sót về chính tả, ngữ pháp cũng như câu cú,… vì những lỗi đó có thể khiến bạn mất điểm với nhà tuyển dụng. Với phần tìm hiểu trên đây hy vọng đã giúp bạn biết được Cover Letter là gì cũng như cách viết lên một Cover Letter thu hút được nhà tuyển dụng của bạn. Chúc bạn may mắn! Du học Hàn Quốc cần điều kiện gì? Việc làm 03/26/2020 Hàn Quốc là một quốc gia châu Á có sự phát triển nhanh chóng về kinh tế, giáo dục và công nghệ. Vì thế, xứ sở kim chi luôn thu hút rất nhiều bạn học sinh sinh viên từ các quốc gia khác du học tại đây. Vậy du học Hàn Quốc cần điều kiện gì? Bài viết dưới đây sẽ chia sẻ cho bạn những thông tin hữu ích về du học Hàn Quốc. Điều kiện du học Hàn Quốc về trình độ Chương trình du học Đại học Sau khi hoàn tất chương trình cấp 3 tại Việt Nam, bạn có thể đăng ký du học hệ Đại học tại Hàn Quốc, bạn cần đảm bảo các điều kiện sau: Độ tuổi lớn hơn 18 tuổi, đã tốt nghiệp THPT hoặc tốt nghiệp các trường Trung cấp/Cao đẳng Điểm tổng kết trung bình tất cả các cấp học phải lớn hơn hoặc bằng 6.0 (tuy nhiên có một trường Đại học sẽ yêu cần mức điểm cao hơn, cụ thể là 7.0 hoặc 7.5) Có chứng chỉ tiếng Hàn tối thiểu TOPIK 3 (tùy một số trường sẽ yêu cầu TOPIK 4); nếu du học hệ Đại học tiếng Anh, bạn phải có chứng chỉ IELTS 5.5 hoặc TOEFL IBT 80 trở lên. Thời gian kể từ khi tốt nghiệp trình độ cao nhất không quá 03 năm. Bên cạnh đó, có một số trường Đại học sẽ xét duyệt điểm các môn căn cứ theo chuyên ngành mà bạn theo học tại Hàn Quốc. Chương trình du học Thạc sĩ Hàn Quốc là một nơi được rất nhiều cử nhân sau khi tốt nghiệp lựa chọn để học tiếp chương trình Thạc sĩ. Theo đó, để du học Thạc sĩ tại đây, bạn cần phải đáp ứng những yêu cầu sau: Ngành đăng ký học Thạc sĩ phải trùng hoặc có liên quan đến ngành bạn đã tốt nghiệp Đại học tại Việt Nam. Nếu bạn muốn học ngành khác, bạn phải thể hiện nguyện vọng học tập cũng như khả năng đáp ứng kiến thức khi học tại đây cho vị Giáo sư phỏng vấn của bạn. Nếu trúng tuyển, bạn sẽ được học chuyên ngành mà mình yêu thích. Điểm trung bình các học kỳ Đại học phải lớn hơn hoặc bằng 6.5 (trong đó một số trường sẽ yêu cầu 7.0 hoặc 7.5) Có chứng chỉ tiếng Hàn tối thiểu TOPIK 3 (tùy một số trường sẽ yêu cầu TOPIK 4); nếu du học hệ Đại học tiếng Anh, bạn phải có chứng chỉ IELTS 5.5 hoặc TOEFL IBT 80 trở lên. Chương trình du học ngôn ngữ Hàn Nếu bạn yêu thích tiếng Hàn và muốn du học tại đây theo dạng học ngôn ngữ, thì không bắt buộc bạn phải có chứng chỉ TOPIK. Tuy nhiên cũng phải đáp ứng một số những yêu cầu sau: Độ tuổi lớn hơn 18 tuổi, tốt nghiệp THPT, Cao đẳng, Trung cấp hay Đại học Thời gian trống kể từ khi tốt nghiệp bằng cấp cao nhất trung bình không quá 3 năm. Điểm tổng kết tất cả các cấp học không dưới 6.0. Điều kiện du học Hàn Quốc về sức khỏe Chắc chắn các bạn sẽ thắc mắc du học Hàn Quốc cần điều kiện gì về sức khỏe? Theo đó, các học sinh, sinh viên có vấn đề sức khỏe về đường hô hấp, hay các bệnh dễ lây nhiễm như lao phổi, cúm gia cầm,…đều không được phép du học tại Hàn Quốc. Địa chỉ khám sức khỏe xin visa Hàn Quốc được chỉ định tại: Tại Hà Nội: Bệnh viện Lao phổi Trung Ương, 463 Hoàng Hoa Thám, Ba Đình, Hà Nội Tại TPHCM: Bệnh viện Chợ Rẫy, 210B, Nguyễn Chí Thanh, P12, Q.5, TPHCM Điều kiện du học Hàn Quốc về tài chính Chứng minh về tài chính là điều kiện bắt buộc khi bạn muốn du học tại bất kỳ quốc gia và vùng lãnh thổ nào. Theo đó, bạn sẽ được yêu cầu phải có sổ tiết kiệm với số tiền tương ứng với chương trình và thời gian du học: Visa du học tiếng Hàn: Số tiền tiết kiệm là 10.000 USD, thời hạn gửi ngân hàng tối thiểu 6 tháng hoặc gửi ngân hàng Hàn Quốc tại Việt Nam. Visa du học Đại học, Thạc sĩ: Số tiền tiết kiệm là 20.000 USD, gửi tối thiểu 3 tháng hoặc gửi ngân hàng Hàn Quốc tại Việt Nam. Với những những chia sẻ về du học Hàn Quốc cần điều kiện gì trong bài viết trên, bạn đã biết những yêu cầu bắt buộc cần phải có theo từng trình độ khác nhau. Nếu bạn mong muốn du học tại đây, thì hãy xem xét những yêu cầu nào mình đã và chưa đạt được, để bổ sung kịp thời và đáp ứng đầy đủ điều kiện du học Hàn Quốc nhé! Hướng dẫn tìm kiếm việc làm cho du học sinh tại Hoa Kỳ Việc làm 12/23/2017 12/05/2019 Sinh viên quốc tế đang du học tại Hoa Kỳ sẽ có cơ hội tìm kiếm việc làm trong một khoảng thời gian nhất định. Bạn nên lên kế hoạch tìm kiếm việc làm để không lãng phí thời gian và tìm được công việc thích hợp cho bản thân. Xem xét các nhân tố dưới sẽ giúp cho cơ hội tìm kiếm việc làm cho sinh viên quốc tế được dễ dàng hơn. Công việc làm thêm của du học sinh Hoa Kỳ. Ảnh unigo.com Khám phá các cơ hội việc làm tốt nhất Cơ hội việc làm cho sinh viên quốc tế ở Hoa Kỳ còn hạn chế. Trước hết bạn cần phải khám phá những cơ hội việc làm tốt nhất cho bạn. Tìm kiếm các công việc có sẵn tại Hoa Kỳ có thể là thách thức cho sinh viên quốc tế. Các quy tắc và quy định Là một sinh viên quốc tế theo dõi các quy tắc và quy định ảnh hưởng đến tình trạng việc làm của bạn ở Hoa Kỳ – cả khi tốt nghiệp và sau khi tốt nghiệp. Các cơ sở ngoài, như OPT và CPT cũng có các quy tắc khác nhau và bạn cần phải làm theo tất cả các quy tắc và chuẩn bị và bạn sẽ cảm thấy tự tin khi làm việc. Tìm vị trí chính xác Một số tiểu bang như California, New York và Texas, Chicago nổi tiếng là thân thiện hơn với người lao động quốc tế và có nhiều cơ hội việc làm hơn cho sinh viên quốc tế. Các quốc gia này có các công ty tốt có cả nguồn lực và sẵn sàng tuyển dụng sinh viên quốc tế. Bạn có thể chọn một trong những tiểu bang, để có một cơ hội việc làm tốt sau khi tốt nghiệp. Đây là những tiểu bang với các công ty lớn và nhiều khả năng sinh viên quốc tế có thể tìm được nhiều việc làm hơn. Nói chuyện với văn phòng kế hoạch nghề nghiệp Nếu bạn quyết định muốn tìm kiếm việc làm, bước đầu tiên là nói chuyện với nhân viên hướng nghiệp của trường. Đa số các trường đại học có phòng dành cho sinh viên quốc tế, tập trung giúp đỡ sinh viên tìm kiếm việc làm sau khi tốt nghiệp. Văn phòng hướng nghiệp hoặc DSO sẽ giúp sinh viên quốc tế tìm được việc làm hoặc thực tập sinh và chắc chắn sẽ giúp đỡ trong việc có một mạng lưới sự nghiệp tốt. Việc làm tại trường Cơ hội việc làm tại trường cho sinh viên quốc tế ở hầu hết các trường học là có giới hạn và có thể có ít thay đổi về trường đại học trong các quy tắc tuyển dụng của trường. Khi muốn tìm kiếm việc làm, bạn phải chỉnh chu trong phần CV, kinh nghiệm học tập và kỹ năng làm việc. Áp dụng cho Tập huấn Thực hành tùy chọn Bạn có thể đăng ký việc làm từ OPT này có thể được mở rộng cho những sinh viên thuộc STEM OPT Extension. Các công ty thích thuê theo OPT CPT để thuê sinh viên quốc tế hơn H1B, ngay cả khi họ chỉ ở vị trí trong một năm vì họ không phải trả thêm phí thuê một sinh viên quốc tế có địa vị OPT. Tìm một công việc tốt về OPT có liên quan đến chuyên ngành của bạn và cho bạn sự tăng trưởng nghề nghiệp và nâng cao kỹ năng và kinh nghiệm của bạn. Cho dù bạn đang tìm kiếm việc thực tập CPT hay công việc OPT bạn phải bắt đầu sớm. Bắt đầu tìm việc làm trong những ngày đầu của quý trước và trước 90 ngày kể từ ngày bạn hoàn thành bằng cấp. Điều chính bạn cần phải bắt đầu tìm kiếm việc làm và áp dụng nhiều công việc vì lựa chọn cần có thời gian. Tham gia mọi cơ hội để đánh bóng thư xin việc và bản lý lịch của bạn, và chuẩn bị sẵn sàng khi có cơ hội. Phần quan trọng nhất của quá trình tìm kiếm việc làm là bản lý lịch. Một lý lịch lý tưởng sẽ bao gồm Thư xin việc, Thư giới thiệu và thư cảm ơn . Đảm bảo rằng ba loại giấy tờ nàu điều không có lỗi ngữ pháp hoặc lỗi chính tả Hồ sơ xin việc nên được định dạng và cấu trúc rất tốt. Bạn nên nhấn mạnh tất cả các trình độ và kinh nghiệm của bạn. Hãy đề cập đến những ưu điểm của công ty nếu họ thuê bạn và tất cả các kỹ năng của bạn. Công việc làm của thư ký Việc làm 12/13/2017 12/05/2019 Thư ký thực hiện nhiều nhiệm vụ hành chính và văn thư. Mục tiêu của tất cả các hoạt động của họ là giúp đỡ người sử dụng lao động của họ trong việc thực hiện công việc của họ và giúp các công ty của họ tiến hành kinh doanh một cách hiệu quả và chuyên nghiệp. Công việc của thư ký bao gồm việc xử lý và chuyển thông tin cho nhân viên văn phòng và các tổ chức khác. Họ vận hành máy văn phòng và sắp xếp để sửa chữa hoặc phục vụ. Những máy này bao gồm máy tính, máy đánh chữ, máy ghi âm, máy photocopy, bảng tổng đài và máy fax. Các thư ký cũng yêu cầu hỗ trợ văn phòng và thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên như trả lời điện thoại, sắp xếp thư, quản lý các tập tin, đọc và biên soạn và viết thư. Tìm việc làm thư ký tại các website online hiệu quả: Tuyển dụng, tìm việc làm Hành chính, Thư ký văn phòng – CareerLink.vn  Việc làm trợ lý, thư ký – timviec365.vn  Một số văn phòng có trung tâm xử lý văn bản xử lý tất cả việc đánh máy của công ty. Trong tình huống như vậy, thư ký hành chính sẽ đảm nhiệm tất cả các nhiệm vụ thư ký ngoại trừ việc gõ và viết. Sự sắp xếp này cho phép họ trả lời thư từ, lập báo cáo, nghiên cứu và trình bày kết quả cho người sử dụng lao động, và nếu không họ sẽ giúp đỡ các nhân viên chuyên nghiệp. Thường thì những thư ký này hoạt động theo nhóm từ ba đến bốn để họ có thể giúp đỡ lẫn nhau nếu một thư ký có khối lượng công việc nặng hơn bình thường. Trong nhiều văn phòng, thư ký sắp xếp các cuộc hẹn cho các giám đốc điều hành công ty và theo dõi kế hoạch của văn phòng. Họ sắp xếp việc đi lại cho nhân viên chuyên nghiệp hoặc cho khách hàng, và thỉnh thoảng được yêu cầu đi cùng với nhân viên trong các chuyến đi công tác. Các thư ký khác có thể quản lý văn phòng trong khi người giám sát của họ đi nghỉ mát hoặc đi công tác. Công việc hàng ngày của thư ký. Ảnh startcareertraining.com Thư ký lập biên bản tại các cuộc họp, viết báo cáo, soạn và viết thư. Họ thường sẽ tìm thấy trách nhiệm của họ đang phát triển khi họ học kinh doanh. Một số chịu trách nhiệm tìm kiếm các diễn giả cho các hội nghị, kế hoạch tiếp tân, và sắp xếp các chương trình quan hệ công chúng. Một số viết bản sao cho các tài liệu quảng cáo hoặc các bài báo trước khi sắp xếp để có chúng in hoặc vi phim, hoặc họ có thể sử dụng phần mềm xuất bản để tạo ra các văn bản giấy tờ mình. Họ chào đón khách hàng và hướng dẫn họ đến các văn phòng phù hợp, và thường xuyên giám sát và đào tạo các nhân viên khác và các thư ký mới, đặc biệt là trong việc sử dụng các chương trình phần mềm máy tính. Một số thư ký thực hiện công việc rất chuyên biệt. Thư ký pháp luật chuẩn bị các giấy tờ pháp lý bao gồm di chúc, hợp đồng, hành động, khiếu nại, và triệu tập. Họ làm việc dưới sự giám sát trực tiếp của một luật sư hay trợ lý. Họ hỗ trợ nghiên cứu pháp lý bằng cách rà soát các tạp chí pháp lý và tổ chức tóm tắt cho nhà tuyển dụng của họ. Họ phải học một từ vựng chuyên ngành toàn bộ được sử dụng trong các giấy tờ và văn bản pháp luật. Thư ký y tế lấy lịch sử y tế của bệnh nhân; hẹn gặp; chuẩn bị và gửi hoá đơn cho bệnh nhân; theo dõi và thu thập hóa đơn; thanh toán hóa đơn bảo hiểm; duy trì các hồ sơ y tế; và theo đuổi sự tương ứng với bệnh nhân, bệnh viện và hiệp hội. Họ trợ giúp các bác sĩ hoặc các nhà khoa học y khoa với các bài viết, báo cáo, bài phát biểu, và các thủ tục hội nghị. Một số thư ký y tế có trách nhiệm đặt mua các vật dụng y tế. Họ cũng cần phải học toàn bộ từ vựng chuyên ngành về thuật ngữ y khoa và làm quen với các quy trình phòng thí nghiệm hoặc bệnh viện. Các thư ký kỹ thuật làm việc cho các kỹ sư và nhà khoa học chuẩn bị các báo cáo và các giấy tờ thường bao gồm đồ họa và phương trình toán học rất khó định dạng trên giấy. Thư ký duy trì một thư viện kỹ thuật và giúp đỡ các bài báo khoa học bằng cách thu thập và biên tập tài liệu. Thư ký xã hội, thường được gọi là thư ký cá nhân, sắp xếp tất cả hoạt động xã hội của chủ lao động. Họ xử lý các vấn đề xã hội tư nhân cũng như kinh doanh và có thể lên kế hoạch cho các bên, gửi lời mời hoặc viết bài phát biểu cho chủ nhân của họ. Thư ký xã hội thường được những người nổi tiếng hoặc những nhà điều hành cấp cao thuê những người có lịch làm việc bận rộn để duy trì. Nhiều hiệp hội, câu lạc bộ, và các tổ chức phi lợi nhuận có thư ký thành viên biên soạn và gửi bản tin hoặc tài liệu quảng cáo trong khi vẫn duy trì danh sách thành viên, hồ sơ tài liệu và thư mục. Tùy vào loại câu lạc bộ, thư ký có thể là người đưa ra thông tin cho các thành viên tương lai và giữ thành viên hiện tại và các tổ chức liên quan thông báo về các sự kiện sắp tới. Thư ký giáo dục làm việc ở các trường tiểu học hoặc trung học hoặc tại các trường đại học. Họ đảm nhận tất cả các nhiệm vụ văn thư tại trường. Trách nhiệm của họ có thể bao gồm chuẩn bị bản tin và báo cáo cho giáo viên, phụ huynh hoặc học sinh, theo dõi ngân sách cho đồ dùng trường học hoặc sinh hoạt học sinh, và giữ lịch các sự kiện của nhà trường. Tùy theo vị trí, họ có thể làm việc cho các quản trị viên trường, hiệu trưởng, hoặc nhóm giáo viên hoặc giáo sư. Các thư ký giáo dục khác làm việc trong các văn phòng hành chính, các cơ quan giáo dục nhỏ, hoặc các phòng dịch vụ. Quan điểm của một thư ký và luật sư về vị trí thư ký pháp lý Kỹ năng thư ký 12/09/2017 12/05/2019 Carol Ann Wilson nói rằng: “Tôi rất tự hào là một thư ký pháp lý, tôi tự hào về những kiến ​​thức và kinh nghiệm mà tôi đã đạt được … Tôi đã gặp những người nổi tiếng, làm việc trong các trường hợp quan trọng, được giao trách nhiệm quan trọng và học hỏi nhiều điều hơn những gì mà tôi có thể học được từ bất cứ trường học về luật nào, tôi được tin tưởng với những thông tin bí mật, nếu tôi làm việc cho chính phủ, tôi sẽ có được sự an toàn cao nhất …. ” Luther J. Avery của Bancroft, Avery và McAlister ở San Francisco, California, cho rằng cần phải có các thư ký pháp lý đủ điều kiện giữ vai trò quan trọng trong việc cung cấp các dịch vụ pháp lý: Thư ký pháp lý. Ảnh wisegeek.com Nghề luật sư và việc cung cấp các dịch vụ pháp lý liên quan đến những thay đổi lớn phản ánh những thay đổi xảy ra trong xã hội. Cùng với những thay đổi có ảnh hưởng đến doanh nghiệp về luật, có nhiều thay đổi trong cách thức cung cấp dịch vụ pháp lý. Bất chấp những thay đổi, một số đặc điểm nhất định của việc thực hiện luật vẫn tiếp diễn; đáng chú ý là mối quan hệ cá nhân và bí mật giữa luật sư và khách hàng; sự kích thích trí tuệ từ việc giải quyết vấn đề và giúp đỡ mọi người; và nhu cầu về chất lượng dịch vụ và sự chú ý đến chi tiết hơn. Ngày nay có nhiều nhu cầu hơn về các thư ký pháp lý có thẩm quyền; và đang có một sự thiếu hụt. Sẽ có nhu cầu về các thư ký pháp lý có thẩm quyền trong tương lai; và tôi dự đoán về sự thiếu hụt. Thư ký pháp lý có thể cần nhiều kỹ năng hơn hoặc được đào tạo nhiều hơn, nhưng đó là một phần thách thức khiến công việc trở nên thú vị hơn. Thư ký pháp lý có thẩm quyền hiện tại và sẽ tiếp tục là một quản trị viên, một người điều hành, là người chủ chốt trong dây chuyền thưc hiện của các văn phòng luật sư, người sẽ giúp duy trì chất lượng sản phẩm và dịch vụ hợp pháp. Những kĩ năng thiết yếu, kiến thức và thái độ của thư ký pháp lý được viết ra trong các tài liệu của các tổ chức như Hiệp hội các Bộ trưởng Luật pháp Quốc gia. Trong trường hợp mối quan hệ giữa luật sư và khách hàng phụ thuộc vào sự chu toàn và trí tuệ của những người tham gia và đáp ứng các vấn đề cá nhân; thì các thư ký pháp lý sẽ cần có tính chuyên nghiệp như là một thư ký pháp lý chuyên nghiệp và là những người có cùng kỹ năng, kiến ​​thức và thái độ. Nếu không có thư ký pháp lý liên quan đến việc cung cấp các dịch vụ pháp lý, luật sư và hệ thống pháp lý sẽ gặp khó khăn trong việc vận hành. Nếu bạn quan tâm đến việc làm với tư cách là thư ký pháp lý, hãy cố gắng học hỏi và học hỏi kỹ năng quản lý, kỹ năng máy tính cũng như các kỹ năng quan hệ nhân sự, quan hệ con người và kỹ năng của một kỹ thuật viên. Hầu hết trong việc tìm kiếm việc làm thư ký pháp lý, hãy cẩn thận lựa chọn nhà tuyển dụng của bạn một cách khôn ngoan bởi vì liệu rằng bạn có thích công việc về thư ký pháp lý hay không sẽ phụ thuộc vào môi trường mà bạn làm việc. Thư ký là gì? Kỹ năng thư ký 12/09/2017 12/05/2019 Thư ký là người quản lý công việc văn thư trong văn phòng cho một loạt các doanh nghiệp và tổ chức. Thư ký sẽ phải lên lịch hẹn ; quản lý các tập tin, dữ liệu, và thư từ; và làm sổ sách kế toán cơ bản. Bạn cũng sẽ thực hiện các công việc khác cần thiết để hỗ trợ công việc của cấp trên và nhân viên. Thư ký cần phải được tổ chức tốt và có kỹ năng giao tiếp tốt, cũng như một số kỹ năng về máy tính. Thư ký là gì. Ảnh publishyourarticles.net Nhiệm vụ của Thư ký là gì? Thư ký thực hiện nhiều nhiệm vụ văn thư và hành chính cần thiết để điều hành một tổ chức hiệu quả. Nhiệm vụ thư ký sẽ khác nhau tùy theo chức vụ cụ thể của bạn. Ví dụ, với tư cách là thư ký điều hành, bạn chỉ cần làm vài nhiệm vụ văn thư và thay vào đó tập trung hỗ trợ các giám đốc cấp cao, giám sát nhân viên văn phòng, tiến hành nghiên cứu và sắp xếp các cuộc họp. Nếu bạn là thư ký về y tế, bạn sẽ phải tạo ra sổ sách y tế cho bệnh nhân và sao chép các báo cáo y khoa. Nếu là một thư ký pháp lý, bạn nên chuẩn bị các tài liệu pháp lý như giấy đòi hầu tòa và các bản đề nghị. Nói chung, thư ký tổ chức các giấy tờ và các hồ sơ điện tử, quản lý dự án, thu xếp cuộc họp, nghiên cứu và giao tiếp qua điện thoại, thư và e-mail. Bạn có thể chịu trách nhiệm tạo ra bảng tính, phát triển các bài thuyết trình hoặc báo cáo, soạn thư tín và quản lý cơ sở dữ liệu. Các nhiệm vụ khác có thể bao gồm việc mua sắm vật tư, quản lý kho hàng, chào đón du khách và xử lý việc sắp xếp chuyến đi. Triển vọng nghề nghiệp là gì? Theo Cục Thống kê Lao động Hoa Kỳ (BLS), công việc thư ký dự kiến ​​sẽ tăng trưởng 3% giữa năm 2014 và năm 2024, tương tự như tăng trưởng trong các ngành nghề khác. Sự tăng trưởng này có thể làm cho nhân viên nghỉ việc ở ngành nghề này hoặc chuyển từ lĩnh vực hoặc chuyển sang các vị trí chuyên nghiệp khác. Các công nghệ mới và tự động hóa cho phép các thư ký hoàn thành một khối lượng lớn các công việc, có thể làm thay đổi cách làm việc trong nhiều môi trường văn phòng. Các công ty nhỏ hơn có thể thuê ngoài các nhiệm vụ thư ký và hành chính cho các trợ lý ảo; tuy nhiên, các thư ký nội bộ vẫn được trông đợi sẽ được coi là thành viên thiết yếu của nhóm vì họ có kỹ năng giao tiếp và có thể giao dịch với khách hàng và nhân viên. Để cải thiện triển vọng nghề nghiệp của bạn, bạn phải thành thạo trong các ứng dụng phần mềm, đạt được kinh nghiệm thực tế và trau dồi kỹ năng giao tiếp của bạn. Tôi có thể yêu cầu gì về Giáo dục? Bằng tốt nghiệp trung học được coi là yêu cầu tối thiểu đối với thư ký, nhưng bạn có thể muốn xem xét tham gia vào một chương trình đào tạo chính thức. Hầu hết các tổ chức đều muốn thuê nhân viên đã hoàn thành các chương trình quản trị văn phòng từ 1 đến 2 năm tại các trường dạy nghề hoặc các trường cao đẳng cộng đồng. Các chương trình này thường đem lại chứng chỉ hoặc bằng liên kết. Bạn có thể nhận được hướng dẫn trong các lĩnh vực như sổ sách kế toán, ứng dụng Windows, Word, Excel, thủ tục hành chính văn phòng và thông tin bằng văn bản. Tuy nhiên, đối với một số chuyên gia về thư ký, chẳng hạn như y tế hoặc pháp lý, bạn có thể cần phải hoàn thành một chương trình đào tạo chuyên biệt hơn. Nếu bạn không hoàn thành một chương trình đào tạo chính thức, doanh nghiệp có thể cung cấp các khóa đào tạo tại chỗ. Một số cơ quan việc làm tạm thời cũng có thể đào tạo. Sau khi đào tạo, bạn có thể nộp đơn xin chứng nhận thông qua Hiệp hội Chuyên gia Hành chính Quốc tế, hoặc, nếu bạn là một thư ký pháp lý, Hiệp hội các Thư ký Pháp lý Quốc gia (NALS), Inc Tổ chức chứng nhận có thể cung cấp các cấp chứng nhận khác nhau, bằng cách đi kiểm tra và đáp ứng các yêu cầu khác. 1 2 3 Next Tìm kiếm cho: Bài viết mới HR Executive là gì? Kỹ năng cần có của HR Executive? Process engineer là gì? Những kỹ năng nào process engineer cần có? Interpersonal skills là gì? Những kỹ năng nào cần thiết cho người thành công Kinh doanh quốc tế là gì? Cơ hội việc làm sau khi ra trường như thế nào? Cover Letter là gì? Cách viết Cover Letter thu hút nhà tuyển dụng Phản hồi gần đây Lưu trữ Tháng Tư 2020 Tháng Ba 2020 Tháng Mười Hai 2017 Tháng Mười Một 2017 Chuyên mục Bài viết khác Dịch vụ Kỹ năng thư ký Việc làm Meta Đăng nhập RSS bài viết RSS bình luận WordPress.org Integer theme by ThemePatio
1614178347293.1.parquet/48844
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 34780, "url": "https://www.nzemperor.com/" }
126.4
Các mạng nơ-ron mô-đun có hiệu quả hơn các mạng lớn, nguyên khối ở bất kỳ nhiệm vụ nào không? Trí tuệ nhân tạo Thẻ Account Sign In Signup Các mạng nơ-ron mô-đun có hiệu quả hơn các mạng lớn, nguyên khối ở bất kỳ nhiệm vụ nào không? 16 Mô-đun / Nhiều mạng nơ-ron (MNN) xoay quanh việc đào tạo các mạng nhỏ hơn, độc lập có thể cung cấp cho nhau hoặc mạng khác cao hơn. Về nguyên tắc, tổ chức phân cấp có thể cho phép chúng ta hiểu được các không gian vấn đề phức tạp hơn và đạt được chức năng cao hơn, nhưng có vẻ khó tìm thấy các ví dụ về nghiên cứu cụ thể được thực hiện trong quá khứ về vấn đề này. Tôi đã tìm thấy một vài nguồn: https://en.wikipedia.org/wiki/Modular_neural_network https://www.teco.edu/~albrecht/neuro/html/node32.html https://vtechworks.lib.vt.edu/bitstream/handle/10919/27998/etd.pdf? resultence = 1 & is ALLowed = y Một vài câu hỏi cụ thể tôi có: Có bất kỳ nghiên cứu gần đây về việc sử dụng MNN? Có bất kỳ nhiệm vụ nào mà MNN đã cho thấy hiệu suất tốt hơn so với các lưới đơn lớn không? Các MNN có thể được sử dụng để phân loại đa phương thức, tức là huấn luyện mỗi mạng về một loại dữ liệu khác nhau, (văn bản so với hình ảnh) và chuyển tiếp đến một trung gian cấp cao hơn hoạt động trên tất cả các đầu ra? Từ góc độ công nghệ phần mềm, không phải những lỗi này dễ bị lỗi hơn và dễ bị cô lập hơn trên một hệ thống phân tán? Đã có bất kỳ công việc nào để tự động điều chỉnh cấu trúc liên kết của các mạng con bằng cách sử dụng một quy trình như Tìm kiếm kiến ​​trúc thần kinh? Nói chung, MNNs thực tế theo cách nào? Xin lỗi nếu những câu hỏi này có vẻ ngây thơ, tôi vừa tham gia ML và rộng hơn là CS từ nền tảng sinh học / khoa học thần kinh và bị quyến rũ bởi khả năng tương tác. Tôi thực sự đánh giá cao bạn dành thời gian và cho vay cái nhìn sâu sắc của bạn! neural-networks topology architecture neurons biology — Sikka khắc nghiệt nguồn Tôi đã nghĩ về việc triển khai một hệ thống mô-đun như vậy để cải thiện hiệu suất và lọc ra - chắc chắn - sự phụ thuộc không cần thiết vào đầu vào. Nghĩ rằng đó là một khoảnh khắc eureka, nhưng không biết nó đã là một cấu trúc đã được thiết lập. — Tobi Câu trả lời: 2 Thực sự có một cuộc điều tra đang được tiến hành, liên quan đến chủ đề này. Một ấn phẩm đầu tiên từ tháng ba vừa qua lưu ý rằng mô-đun đã được thực hiện, mặc dù không rõ ràng, từ một thời gian trước đây, nhưng bằng cách nào đó đào tạo vẫn còn nguyên khối. Bài viết này đánh giá một số câu hỏi chính về vấn đề này và so sánh thời gian đào tạo và biểu diễn trên các mạng thần kinh mô đun và tái phát nặng nề. Xem: Castillo-Bolado và cộng sự. Tính mô đun như một phương tiện để quản lý sự phức tạp trong học tập mạng lưới thần kinh Một số người khác rất tập trung vào mô-đun, nhưng ở lại với đào tạo nguyên khối (xem nghiên cứu của Jacob Andrea , đặc biệt Học cách suy luận rất liên quan đến câu hỏi thứ ba của bạn). Ở đâu đó giữa cuối năm 2019 và tháng ba năm sau, sẽ có nhiều kết quả hơn (tôi tình cờ biết). Liên quan đến hai câu hỏi cuối cùng của bạn, chúng tôi bắt đầu thấy rằng tính mô đun là chìa khóa chính để khái quát hóa. Hãy để tôi giới thiệu cho bạn một số giấy tờ (bạn có thể tìm thấy tất cả trong arxiv hoặc google scholarship): Kiến trúc thần kinh thích ứng ngẫu nhiên Stochastic Tìm kiếm đốm từ khóa (các biến thể của kiến ​​trúc để cân bằng hiệu suất và sử dụng tài nguyên). Làm cho kiến ​​trúc lập trình thần kinh tổng quát hóa thông qua đệ quy (chúng thực hiện nhiệm vụ dưới mức nhiệm vụ và tôi tin rằng đây là lần đầu tiên việc khái quát hóa được đảm bảo trong lĩnh vực mạng thần kinh). Nắm vững trò chơi cờ vây với mạng lưới thần kinh sâu và tìm kiếm cây (cấu trúc liên kết mạng thực sự là cây tìm kiếm, bạn có thể thấy nhiều hơn về điều này nếu bạn tìm kiếm mạng lưới thần kinh đồ thị). — David nguồn 1 Một so sánh điểm chuẩn của các hệ thống bao gồm các mạng được đào tạo riêng so với các mạng sâu hơn sẽ không thể tiết lộ sự lựa chọn tốt nhất có thể áp dụng chung. 1 Trong tài liệu chúng ta có thể thấy sự gia tăng số lượng các hệ thống lớn hơn, trong đó một số mạng nhân tạo được kết hợp, cùng với các loại thành phần khác. Đó là để được mong đợi. Mô đun hóa khi các hệ thống phát triển phức tạp và nhu cầu về hiệu suất và khả năng tăng trưởng cũng lâu đời như công nghiệp hóa. Phòng thí nghiệm của chúng tôi hoạt động với điều khiển robot, thiết bị đo nhiệt động và phân tích dữ liệu, mạng nhân tạo là các thành phần trong bối cảnh hệ thống lớn hơn này. chúng tôi không có MLP hoặc RNN đơn lẻ nào tự thực hiện bất kỳ chức năng hữu ích nào. Trái ngược với phỏng đoán về hệ thống phân cấp từ nhiều thập kỷ trước, phương pháp tô pô dường như hoạt động tốt trong hầu hết các trường hợp tuân theo các mối quan hệ mô-đun hệ thống phổ biến hơn được thấy trong các nhà máy điện, nhà máy tự động, hàng không, kiến ​​trúc thông tin doanh nghiệp và các sáng tạo kỹ thuật phức tạp khác. Các kết nối là kết nối của dòng chảy và nếu chúng được thiết kế tốt, các chức năng giám sát là tối thiểu. Dòng chảy xảy ra giữa các mô-đun liên quan đến các giao thức cho truyền thông và mỗi mô-đun thực hiện tốt chức năng của nó, gói gọn mức độ phức tạp và chi tiết chức năng thấp hơn. Nó không phải là một mạng giám sát một mạng khác dường như nổi lên hiệu quả nhất trong thực tế thực tế nhưng cân bằng và cộng sinh. Xác định thiết kế chủ-nô rõ ràng trong não người dường như cũng trơn trượt không kém. Thách thức là không tìm thấy các đường dẫn thông tin tạo nên cấu trúc liên kết thông tin hệ thống. Luồng thông tin thường rõ ràng khi phân tích vấn đề. Khó khăn là trong việc khám phá những chiến lược tốt nhất để đào tạo các mạng độc lập này. Phụ thuộc đào tạo là phổ biến và thường rất quan trọng, trong khi ở động vật, việc huấn luyện diễn ra tại chỗ hoặc hoàn toàn không. Chúng tôi đang khám phá các điều kiện theo đó loại hình học tập trong hệ thống của chúng tôi là thiết thực và làm thế nào để đạt được nó. Hầu hết các nghiên cứu của chúng tôi dọc theo các dòng này nhằm khám phá các cách để đạt được độ tin cậy cao hơn và gánh nặng thấp hơn về mặt giờ nghiên cứu để có được nó. Chức năng cao hơn không phải lúc nào cũng có lợi. Nó thường tạo ra độ tin cậy thấp hơn và tiêu tốn tài nguyên phát triển bổ sung với ít lợi nhuận. Tìm cách kết hợp tự động hóa cấp cao hơn, tiết kiệm tài nguyên và độ tin cậy vào một quy trình phát triển và bạn có thể giành được một giải thưởng và đề cập danh dự trên web. Các hệ thống song song có cùng một mục tiêu là một ý tưởng tốt, nhưng không phải là một ý tưởng mới. Trong một hệ thống hàng không, chín hệ thống song song có cùng một mục tiêu, trong các nhóm ba. Mỗi nhóm sử dụng một phương pháp tính toán khác nhau. Nếu hai trong số các hệ thống sử dụng cùng một cách tiếp cận cung cấp cùng một đầu ra và thứ ba khác nhau, thì đầu ra khớp được sử dụng và sự khác biệt trong thứ ba được báo cáo là lỗi hệ thống. Nếu hai trong số các cách tiếp cận khác nhau cung cấp kết quả tương tự và cách thứ ba khác nhau đáng kể, thì sự hợp nhất của hai kết quả tương tự được sử dụng và cách thứ ba được báo cáo là trường hợp sử dụng để tiếp tục phát triển phương pháp chống đối. Khả năng chịu lỗi được cải thiện có chi phí, thêm tám hệ thống và các tài nguyên tính toán và kết nối liên quan cộng với các bộ so sánh ở phần đuôi, nhưng trong các hệ thống là vấn đề của sự sống và cái chết, các chi phí phụ được trả và độ tin cậy được tối đa hóa. Thích ứng tôpô động có liên quan đến các hệ thống dự phòng và khả năng chịu lỗi nhưng trong một số cách là khá khác biệt. Trong lĩnh vực phát triển đó, công nghệ tiếp theo là điện toán biến đổi thần kinh, một phần được lấy cảm hứng từ tính dẻo dai. Một điểm khác biệt cuối cùng cần xem xét là giữa cấu trúc liên kết quá trình, cấu trúc liên kết dữ liệu và cấu trúc liên kết phần cứng. Ba khung hình học này có thể tạo ra hiệu quả cao hơn với nhau nếu được căn chỉnh theo những cách cụ thể tạo ra ánh xạ trực tiếp hơn giữa các mối quan hệ giữa dòng chảy, biểu diễn và cơ học. Họ, tuy nhiên, cấu trúc liên kết riêng biệt. Ý nghĩa của sự liên kết có thể không rõ ràng nếu không đi sâu vào các khái niệm này và các chi tiết nổi lên cho các mục tiêu sản phẩm hoặc dịch vụ cụ thể. Chú thích [1] Các mạng sâu được đào tạo thành một đơn vị và chức năng duy nhất không có kết nối với các mạng nhân tạo khác không nhất thiết phải là nguyên khối. Hầu hết các mạng sâu thực tế có chuỗi các lớp không đồng nhất về chức năng kích hoạt và thường là các loại tế bào của chúng. — Douglas Daseeco nguồn Khi sử dụng trang web của chúng tôi, bạn xác nhận rằng bạn đã đọc và hiểu Chính sách cookie và Chính sách bảo mật của chúng tôi. Licensed under cc by-sa 3.0 with attribution required.
1614178347293.1.parquet/2741
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 7584, "url": "https://qastack.vn/ai/9312/are-modular-neural-networks-more-effective-than-large-monolithic-networks-at-an" }
124.4
An ninh – Wikipedia tiếng Việt Mở trình đơn chính Trang chính Ngẫu nhiên Lân cận Đăng nhập Tùy chọn Quyên góp Giới thiệu Wikipedia Lời phủ nhận Tìm kiếm An ninh Ngôn ngữ Theo dõi Sửa đổi An ninh (tiếng Anh: security) nghĩa là tránh được hoặc bền bỉ trước các mối đe dọa tiềm tàng (hoặc các thay đổi mang tính cưỡng chế không mong muốn) từ kẻ khác, nói cách khác là bảo đảm được sự an toàn trước các mối đe dọa. Bên thụ hưởng an ninh có thể là người, nhóm người trong xã hội, sự vật, định chế, hệ sinh thái hoặc bất cứ thực thể nào hoặc hiện tượng nào dễ bị tác động bởi những biến đổi không mong muốn của môi trường xung quanh. Người tị nạn vượt biển đến đảo Lesbos của Hy Lạp hòng chạy trốn chiến tranh và sự mất an ninh ở Iraq và Syria (năm 2015). Nội hàm an ninh chủ yếu đề cập đến sự bảo vệ khỏi các thế lực thù địch, tuy nhiên khái niệm này còn vô số cách tiếp cận khác: ví dụ, an ninh mức sống (đạt được mức sống đầy đủ, không thiếu thốn), an ninh lương thực (không thiếu ăn), an ninh mạng, an ninh giam giữ, an ninh cảm xúc,... Thuật ngữ này cũng được sử dụng khi đề cập đến các hành vi và các hệ thống có mục đích cung cấp an ninh (ví dụ: lực lượng an ninh, nhân viên bảo vệ, hệ thống an ninh mạng, camera an ninh, giám sát từ xa). Từ nguyênSửa đổi "An ninh" (安寧) là từ Hán-Việt, trong đó an (安) và ninh (寧) đều mang nghĩa là "yên ổn". Từ secure trong tiếng Anh có từ thế kỷ 16, bắt nguồn từ tiếng Latinh securus, trong đó se nghĩa là "không có" còn cura nghĩa là "sự lo lắng".[1] Xem thêmSửa đổi Hòa bình An toàn Rủi ro Tham khảoSửa đổi Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về An ninh. ^ Online Etymology Dictionary. “Origin and meaning of secure”. www.etymonline.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2017. Bài viết này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn. x t s Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=An_ninh&oldid=63620966” Sửa đổi lần cuối lúc 04:29 vào ngày 23 tháng 8 năm 2020 Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 3.0, ngoại trừ khi có ghi chú khác. Trang này được sửa đổi lần cuối vào ngày 23 tháng 8 năm 2020 lúc 04:29. Văn bản được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự; có thể áp dụng điều khoản bổ sung. Với việc sử dụng trang web này, bạn chấp nhận Điều khoản Sử dụng và Quy định quyền riêng tư. Wikipedia® là thương hiệu đã đăng ký của Wikimedia Foundation, Inc., một tổ chức phi lợi nhuận. Quy định quyền riêng tư Giới thiệu Wikipedia Lời phủ nhận Điều khoản sử dụng Máy tính để bàn Nhà phát triển Thống kê Tuyên bố về cookie
1614178347293.1.parquet/56891
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 2110, "url": "https://vi.m.wikipedia.org/wiki/An_ninh" }
124.2
Sự khác biệt giữa tìm kiếm và học tập là gì? Trí tuệ nhân tạo Thẻ Account Sign In Signup Sự khác biệt giữa tìm kiếm và học tập là gì? 9 Tôi đã xem qua một bài báo, Sự thật cay đắng , thông qua Kênh YouTube hai phút . Sutton giàu nói ... Một điều nên học được từ bài học cay đắng là sức mạnh to lớn của các phương pháp mục đích chung, của các phương pháp tiếp tục mở rộng với tính toán gia tăng ngay cả khi tính toán có sẵn trở nên rất lớn. Hai phương pháp dường như mở rộng tùy ý theo cách này là tìm kiếm và học tập . Sự khác biệt giữa tìm kiếm và học tập ở đây là gì? Hiểu biết của tôi là học tập là một hình thức tìm kiếm - trong đó chúng tôi lặp đi lặp lại tìm kiếm một số biểu diễn dữ liệu để giảm thiểu chức năng mất trong bối cảnh học tập sâu. deep-learning philosophy search — nvi nguồn Câu trả lời: 6 Trong bối cảnh của AI: Tìm kiếm đề cập đến Trình giải quyết vấn đề chung của Simon & Newell và đó là nhiều thuật toán hậu duệ (nhiều). Các thuật toán này có dạng: a. Thể hiện trạng thái hiện tại của một số phần của thế giới dưới dạng một đỉnh trong biểu đồ. b. Đại diện, được kết nối với trạng thái hiện tại theo các cạnh, tất cả các trạng thái của thế giới có thể đạt được từ trạng thái hiện tại bằng cách thay đổi thế giới bằng một hành động duy nhất và đại diện cho tất cả các trạng thái tiếp theo theo cách tương tự. c. Về mặt thuật toán tìm một chuỗi các hành động dẫn từ trạng thái hiện tại đến một số trạng thái mục tiêu mong muốn hơn, bằng cách đi bộ xung quanh trên biểu đồ này. Một ví dụ về ứng dụng sử dụng tìm kiếm là Google Maps. Một cái khác là Google Chuyến bay. Học tập đề cập đến bất kỳ thuật toán nào tinh chỉnh niềm tin về thế giới thông qua việc tiếp xúc với trải nghiệm hoặc ví dụ về trải nghiệm của người khác. Các thuật toán học tập không có cha mẹ rõ ràng, vì chúng được phát triển riêng trong nhiều trường con hoặc ngành khác nhau. Một phân loại hợp lý là mô hình 5 bộ lạc . Một số thuật toán học tập thực sự sử dụng tìm kiếm trong chính họ để tìm ra cách thay đổi niềm tin của họ để đáp ứng với trải nghiệm mới! Một ví dụ về thuật toán học được sử dụng ngày nay là Q-learning , là một phần của họ thuật toán học tăng cường nói chung . Q-learning hoạt động như thế này: a. Chương trình học tập (thường được gọi là tác nhân ) được đưa ra một đại diện cho tình trạng hiện tại của thế giới và một danh sách các hành động mà nó có thể chọn để thực hiện. b. Nếu tác nhân chưa từng thấy trạng thái này của thế giới trước đó, nó sẽ gán một số ngẫu nhiên cho phần thưởng mà họ mong đợi nhận được khi thực hiện mỗi hành động. Nó lưu trữ số này như , đoán nó ở chất lượng thực hiện hành động trong tiểu bang .Q ( s , a )Q(s,a)mộtaSs c. Tác nhân nhìn vào cho mỗi hành động mà nó có thể thực hiện. Nó chọn hành động tốt nhất với một số xác suất và hành động ngẫu nhiên.Q ( s , a )Q(s,a)εϵ d. Hành động của tác nhân khiến thế giới thay đổi và có thể dẫn đến việc tác nhân nhận được phần thưởng từ môi trường. Người đại diện ghi chú xem liệu nó có được phần thưởng không (và phần thưởng là bao nhiêu), và trạng thái mới của thế giới là như thế nào. Sau đó, nó điều chỉnh niềm tin của mình về chất lượng thực hiện hành động mà nó đã thực hiện ở trạng thái trước đây, để niềm tin của họ về chất lượng của hành động đó gần với thực tế của phần thưởng và chất lượng của nó đã kết thúc. e. Các đại lý lặp lại các bước bd mãi mãi. Theo thời gian, niềm tin của nó về chất lượng của các cặp trạng thái / hành động khác nhau sẽ hội tụ để phù hợp với thực tế ngày càng chặt chẽ hơn. Một ví dụ về một ứng dụng sử dụng học tập là các khuyến nghị của AI.SE, được tạo bởi một chương trình có khả năng phân tích mối quan hệ giữa các tổ hợp từ khác nhau trong các cặp bài đăng và khả năng ai đó sẽ nhấp vào chúng. Mỗi khi ai đó nhấp vào chúng, nó sẽ học được điều gì đó về việc liệt kê một bài đăng có liên quan hay không là một ý tưởng tốt hay không. Nguồn cấp dữ liệu của Facebook là một ví dụ hàng ngày. — John Doucette nguồn 0 Một cách để nghĩ về sự khác biệt giữa tìm kiếm và học tập là tìm kiếm thường đòi hỏi một khóa tìm kiếm và thuật toán tìm kiếm thông qua cấu trúc tìm kiếm sự phù hợp giữa khóa và một mục đã tồn tại. Trong khi đó học tập là việc tạo ra cấu trúc ở nơi đầu tiên. Nhưng tìm kiếm và học tập có liên quan ở chỗ khi nhận được đầu vào (giả sử từ một hoặc nhiều cảm biến), cấu trúc ban đầu được tìm kiếm để xem liệu đầu vào đã tồn tại chưa, nhưng nếu không thì đầu vào hiện tại (khi đáp ứng một số điều kiện nhất định) được thêm vào cấu trúc và việc học theo sau thất bại của tìm kiếm. — Cây gậy nguồn Khi sử dụng trang web của chúng tôi, bạn xác nhận rằng bạn đã đọc và hiểu Chính sách cookie và Chính sách bảo mật của chúng tôi. Licensed under cc by-sa 3.0 with attribution required.
1614178347293.1.parquet/18199
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 4329, "url": "https://qastack.vn/ai/11803/what-is-the-difference-between-search-and-learning" }
124.1
Lợi thế của tên miền .VN Tên miền của bạn đang hết hạn. Vui lòng liên hệ nhà đăng ký để gia hạn tên miền Đăng ký Lợi thế của tên miền .VN Định danh thương hiệu, hướng tới thị trường mục tiêu Tên miền .VN bản thân nó đã mang ý nghĩa thương hiệu quốc gia. Một website sử dụng tên miền .VN sẽ mang đến cho khách hàng, đối tác thông điệp: Bạn đến từ Việt Nam, một đất nước ngày càng phát triển và có uy tín trên toàn cầu. Tên miền .VN sẽ giúp nhận diện hay cung cấp thông tin cho khách hàng về nguồn gốc xuất xứ của công ty, sản phẩm, dịch vụ của bạn đến từ Việt Nam. Trong khi đó, tên miền quốc tế nhìn chung không hướng đến một mục tiêu cụ thể nào, chúng sẽ mất dần giá trị bởi gần như toàn bộ các website và công cụ tìm kiếm của Google đang ưu tiên những website có tên miền quốc gia. Mang lại giá trị tin cậy cho khách hàng Trong thương trường, mang lại giá trị tin cậy và duy trì lòng trung thành từ khách hàng không thể mua được bằng tiền. Khi khách hàng đang xem website của bạn, họ sẽ cảm thấy an toàn hơn khi mua hàng từ những trang có tên miền quốc gia của họ. Khách hàng có thể cảm thấy gần gũi, được thấu hiểu, đặc biệt website sử dụng tên miền quốc gia sẽ mang lại giá trị tin cậy cho khách hàng khi và ghé vào, thực hiện giao dịch. Điều này đem lại cảm giác thoải mái và tiện lợi cho khách hàng bởi cùng chia sẻ một ngôn ngữ, phong tục và múi giờ. Lợi thế trên các công cụ tìm kiếm Khi tìm kiếm từ khóa tại Việt Nam thì các công cụ tìm kiếm (như Google) sẽ ưu tiên hiển thị trước các website có đuôi tên miền .VN nhờ đó bạn có thể tăng cơ hội cho website của mình tiếp cận khách hàng tiềm năng. Một nghiên cứu đã chứng minh rằng khách hàng thường chỉ có xu hướng chú ý đến những kết quả hiển thị đầu trên các trang tìm kiếm bởi vậy sử dụng tên miền .VN cũng là một cách thu hút khách hàng. Thông tin của bạn sẽ được truyền tải tới người dùng một cách nhanh chóng nhờ đó có thể gây ấn tượng một cách hiệu quả. Truy vấn nhanh chóng, an toàn, tin cậy Đăng ký tên miền Việt Nam .vn được quản lý và đảm bảo bởi 7 cụm máy chủ DNS được đặt tại các vị trí khác nhau trên các quốc gia khác (21 điểm tại nước ngoài, 5 điểm tại Việt Nam) giúp cho việc truy vấn vào tên miền .VN từ phía người dùng tại Việt Nam và trên khắp các quốc gia khác trên thế giới được thực hiện một cách nhanh chóng nhất. Hệ thống máy chủ tên miền “.vn” (DNS) quốc gia được giám sát 24/24 giờ với hệ thống dự phòng đảm bảo độ tin cậy, vận hành an toàn, tên miền không bao giờ bị ngừng hay bị "bẻ ghi" sang các website có nội dung không mong đợi khác. Được pháp luật bảo vệ Đây là lợi thế lớn mà chỉ tên miền .VN có được. Nếu bạn thực sự quan tâm và đầu tư cho uy tín thương hiệu thì bao giờ bạn cũng đặt yếu tố này lên hàng đầu khi đăng ký, sử dụng tên miền. Việc Nhà đăng ký yêu cầu bạn cung cấp thông tin, hồ sơ đầy đủ cũng là một cách xác thực thông tin, giúp bạn tránh rắc rối về sau với tên miền của mình. Ngược lại, với cách thức xác thực hồ sơ ban đầu lỏng lẻo giúp khách hàng cảm thấy thuận tiện nhưng sẽ gặp vô vàn rắc rối về sau nếu tên miền của bạn bị ai đó chiếm dụng bất hợp pháp. Chúng ta đã chứng kiến nhiều người dùng đã mất tên miền quốc tế sau một thời gian sử dụng mà không có cách nào lấy lại. Nếu bạn sử dụng tên miền .VN, bạn không bao giờ lâm vào tình huống đó. Cũng chính lợi thế này mà tên miền .VN luôn mang lại giá trị tin cậy, an toàn cho người sử dụng. Đăng ký thuận tiện Tên miền .VN có hệ thống mạng lưới các Nhà đăng ký trong và ngoài nước sẵn sàng cung cấp dịch vụ đăng ký, duy trì tên miền .VN cho khách hàng một cách thuận tiện, nhanh chóng. Cùng với tiến bộ kỹ thuật và cải cách hành chính nên việc đăng ký tên miền dần được đơn giản hóa thông qua hình thức hồ sơ điện tử, điều đó dẫn đến tốc độ xử lý yêu cầu khách hàng cao hơn, giúp khách hàng đăng ký và đưa tên miền vào sử dụng tên miền trong thời gian sớm nhất. Trung tâm Internet Việt Nam Địa chỉ: 18 Nguyễn Du, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Website: https://vnnic.vn | Điện thoại: 84-24-35564944
1614178347293.1.parquet/834
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 3472, "url": "http://nhadatphuquoc24h.vn/advantages" }
123.9
Trung Quốc có thể gây khó khăn cho công dân Hồng Kông để trở thành công dân Anh | chơi bet365 làm thế nào để thắng_link vào bet365 mới nhất_bet365 là gì Search Trung Quốc có thể gây khó khăn cho công dân Hồng Kông để trở thành công dân Anh Home / Phân tích / Trung Quốc có thể gây khó khăn cho công dân Hồng Kông để trở thành công dân Anh Phân tích 2020-07-062020-07-06admin Chính phủ Anh tuyên bố vào ngày 1 tháng 7 rằng họ sẽ cho phép người mang hộ chiếu Hồng Kông đến đây để sống, làm việc và cuối cùng nộp đơn xin nhập tịch vào nước này. Tài liệu du lịch được ban hành bởi luật pháp của Anh từ năm 1987 đã được cấp cho cư dân Hồng Kông, những người được sinh ra trước khi Anh bàn giao Anh cho Trung Quốc vào ngày 1 tháng 7 năm 1997. Theo các quy định trước đây, người mang hộ chiếu có thể được Vương quốc Anh cấp visa miễn thị thực có thể được Lãnh sự quán Anh hỗ trợ, nhưng nó sẽ không tự động cho phép họ sống và làm việc ở Anh, nhưng không thể đăng ký quốc tịch. Vào tháng Hai, gần 350.000 người Hồng Kông có hộ chiếu Anh ở nước ngoài. Tổng cộng có gần ba triệu cư dân Hồng Kông đủ điều kiện nhận hộ chiếu này. Cuối tuần trước, người biểu tình Hồng Kông đã chụp ảnh hộ chiếu Anh ở nước ngoài. Ảnh: SCMP . Những thay đổi được công bố vào ngày 1 tháng 7 bao gồm: những người có hộ chiếu Anh sẽ học tập và làm việc tại đất nước này trong 5 năm, sau đó họ có thể đăng ký yêu. Tìn trạng thường trú. Sau khi có được tình trạng thường trú nhân trong 12 tháng, họ có thể nộp đơn xin quốc tịch Anh. Các quy tắc nhập cư mới sẽ được thực hiện trong những tháng tới. Sau khi Trung Quốc và Hồng Kông thông qua luật an ninh mới, đây được coi là biện pháp đối phó của Anh. Tuy nhiên, Liu Shaokai, phó chủ tịch Hiệp hội nghiên cứu Hồng Kông và Macao, người cố vấn cho Trung Quốc, cho biết Bắc Kinh có khả năng “trả thù” bằng cách không công nhận quốc tịch Anh. Theo cách này. “Nếu ai đó muốn đăng ký là công dân Anh tại Hồng Kông, chúng tôi có thể hỏi liệu anh ta có thể nộp đơn xin quốc tịch này thông qua chương trình này không. Nếu vậy, theo luật, người đó vẫn chỉ được đối xử như Law nói.” Thực sự rất khó để xác minh quốc tịch của công dân Anh tại Hồng Kông, nhưng chính phủ Hồng Kông có thể yêu cầu người chịu trách nhiệm pháp lý phải báo cáo bằng văn bản. Nếu không được Trung Quốc công nhận, người Hồng Kông sẽ nộp đơn xin quốc tịch Anh theo cách sau: Tuyến đường này sẽ bị cấm là quốc tịch Anh khi trở về Hồng Kông, có nghĩa là họ vẫn là công dân Trung Quốc hợp pháp tại Trung Quốc , Không thể được bảo vệ. Người Anh Trung Quốc không công nhận quốc tịch kép. Theo tài liệu do Ủy ban Thường vụ Quốc hội công bố ngày 15/5/1996, Bắc Kinh không cấm người Hungary mang quốc tịch kép đi hộ chiếu quốc tịch thứ hai, nhưng họ không làm như vậy. thực tế. Quyền bảo vệ công dân của đất nước này. Nói cách khác, những người này chỉ có thể làm điều này nếu họ từ bỏ quốc tịch Trung Quốc và giữ quốc tịch thứ hai. Tuy nhiên, điều kiện này không áp dụng cho một số Chương trình thường trú tại Hồng Kông (BNSS) thông qua đó công dân Anh chọn để có được quốc tịch. Tài liệu AFN chỉ ra rằng những người có hai quốc tịch Anh và Trung Quốc có tình trạng BNSS sẽ không được coi là người Anh. Họ chỉ được coi là công dân Trung Quốc và không thể được người Anh bảo vệ ở Hồng Kông và các vùng khác của Trung Quốc. BNSS là một kế hoạch được thực hiện bởi Anh trước khi gửi Hồng Kông đến Trung Quốc. Năm 1997, 50.000 cư dân Hồng Kông và gia đình họ được phép trở thành công dân Anh. Vì các thủ tục quốc tịch hiện tại đã thay đổi, người nộp đơn ở Hồng Kông được yêu cầu phải khai báo: “BNSS”. Nếu người nộp đơn không tham dự, Cục quản lý xuất nhập cảnh Hồng Kông sẽ không xử lý. Liu nói rằng Trung Quốc sẽ đối phó với những người mang hộ chiếu Anh, những người đủ điều kiện nhập quốc tịch Anh. Nếu họ cố gắng từ bỏ quốc tịch Trung Quốc trong tương lai, họ phải đưa ra tuyên bố tương tự. Năm 2016, Li Bo, một người bán sách đôi người Anh-Trung, đã biến mất và sau đó được xác nhận là người Trung Quốc nghi ngờ. Luân Đôn bày tỏ lo ngại về tình hình Li, nhưng Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Wang Yi tuyên bố rằng Li là chủ yếu là một công dân Trung Quốc. -Craig Choy Ki, phát ngôn viên của phong trào nhân quyền, ngang hàng với người giữ hộ chiếu Anh. Ông nói rằng Bắc Kinh từ chối công nhận rằng BNSS không có tác động thực sự đến cuộc sống bình thường của công dân hai nước. Tuy nhiên, một chính sách như vậy ảnh hưởng đến những người có thể bị buộc tội an ninh quốc gia trong tương lai. “Bằng cách nghiên cứu trường hợp của Li Bo, chúng ta có thể thấy rằng những người có quốc tịch kép sẽ chỉ được coi là công dân Trung Quốc và sẽ không áp dụng cho những kẻ phản bội chỉ dành cho công dân Trung Quốc theo luật hiện hành”, Cai nói. -Công tố viên đặc biệt Hồng Kông Lin Kaili, chồng và hai con trai của cô có được quốc tịch Anh thông qua BNSS, nhưng Lin Guanlin đã từ bỏ quốc tịch khi được bổ nhiệm làm người đứng đầu Cơ quan Phát triển Hồng Kông năm 2007. -Khi một điều tra viên ở Trung Quốc đại lục, Hồng Kông, người không được nêu tên, nói rằng do ảnh hưởng của tin tức, không cần phải tranh luận về quyền công dân. Mặc dù có quốc tịch, công dân của Luật An ninh Hồng Kông quy định rằng Trung Quốc có thể truy tố các hành vi vi phạm an ninh quốc gia được thực hiện bên ngoài thành phố, ngay cả khi người nước ngoài. Luật này cũng áp dụng cho thường trú nhân Hồng Kông, các tổ chức và công ty được thành lập tại Hồng Kông, ngay cả khi tội phạm được thực hiện bên ngoài thành phố. Thành viên của Nghị viện Hồng Kông Tu Jinshen nói rằng luật pháp có thể ảnh hưởng đến “người dân”, bất kỳ ai trên thế giới, đi đến thị trấn để làm kinh doanh, quá cảnh hoặc đi du lịch, bất cứ ai. “ ” Người này cho dù bạn có Quốc tịch kép, nếu người này vi phạm luật an ninh quốc gia, anh ta sẽ được đối xử như người đó “, nhà phân tích, người nói với điều kiện giấu tên. Luật an ninh Hồng Kông có hiệu lực vào tối ngày 30 tháng 6, Bốn tội phạm an ninh quốc gia chia rẽ đất nước, lật đổ, khủng bố và thông đồng với nước ngoài hoặc những người bên ngoài khác để gây nguy hiểm cho an ninh đều bị hình sự hóa. Người Hồng Kông vi phạm luật pháp có thể bị kết án tù chung thân và có quyền khởi xướng và thử chính quyền trung ương. “Các vụ án nghiêm trọng” . Nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế lo ngại về luật an ninh mới sẽ làm suy yếu chính sách nhân quyền “một quốc gia, hai hệ thống” và đảm bảo quyền tự chủ cao ở Hồng Kông. Tuy nhiên, Bắc Kinh đã nhiều lần nhắc lại rằng chính sách sẽ củng cố chính sách “một quốc gia, hai chính sách”. Để hỗ trợ sự phát triển của Đặc khu kinh tế. Trung Quốc cũng yêu cầu tất cả các nước ngừng can thiệp vào Hồng Kông và các vấn đề nội bộ của nó . Phương Vũ (Theo South China Morning Post) 0 Facebook có thể bị ảnh hưởng ít khi bị tẩy chayLàm thế nào thị trường ngăn người nước ngoài mua nhà ở Leave a Reply Cancel Reply Your email address will not be published. Save my name, email, and website in this browser for the next time I comment. Bài viết mới Khách hàng mua biệt thự Đông Tăng Long An Lộc được tặng 50 chỉ vàng Yêu nhau 3 tuần, chàng trai vượt qua 3 cửa tử và nắm tay bạn gái Mỹ và Trung Quốc tranh giành ảnh hưởng của Campuchia Triển vọng đầu tư bất động sản tại khu đô thị Zhongyuan City Nhiều gia đình Nhật Bản đến bãi rác để tìm tiền từ cha mẹ Phản hồi gần đây chơi bet365 làm thế nào để thắng_link vào bet365 mới nhất_bet365 là gì
1614178347293.1.parquet/146150
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 6273, "url": "https://www.vietnamexplorertours.com/phan-tich/860.html" }
123.8
Một số chiến thuật để nhận ra phương tiện truyền thông nhân tạo là gì? Trí tuệ nhân tạo Thẻ Account Sign In Signup Một số chiến thuật để nhận ra phương tiện truyền thông nhân tạo là gì? 12 Với khả năng ngày càng tăng để tạo ra hình ảnh giả mạo, âm thanh giả và video giả mạo ngày càng trở thành một vấn đề ngày càng tăng với việc nhận ra đâu là thật và đâu là không. Ngay cả bây giờ chúng ta cũng thấy một số ví dụ về các ứng dụng tạo phương tiện giả mạo với chi phí thấp (xem Deepfake , FaceApp , v.v.). Rõ ràng, nếu các ứng dụng này được sử dụng sai cách, chúng có thể được sử dụng để làm mờ hình ảnh của người khác. Deepfake có thể được sử dụng để làm cho một người trông không chung thủy với đối tác của họ. Một ứng dụng khác có thể được sử dụng để làm cho nó có vẻ như một chính trị gia nói điều gì đó gây tranh cãi. Một số kỹ thuật có thể được sử dụng để nhận biết và bảo vệ chống lại phương tiện truyền thông nhân tạo là gì? machine-learning image-recognition pattern-recognition deepfakes — Andrew Butler nguồn Câu trả lời: 2 Trường Forensics Digital Media Forensics (DMF) nhằm phát triển các công nghệ để đánh giá tự động tính toàn vẹn của hình ảnh hoặc video, vì vậy DMF là lĩnh vực bạn đang tìm kiếm. Có một số cách tiếp cận trong DMF: ví dụ, những phương pháp dựa trên các kỹ thuật máy học (ML), đặc biệt là các mạng thần kinh tích chập (CNNs). Ví dụ, trong bài báo Phát hiện video Deepfake bằng cách sử dụng Mạng thần kinh tái phát (2018), David Güera và Edward J. Delp đề xuất phân tích hai giai đoạn bao gồm một CNN để trích xuất các tính năng ở cấp độ khung hình theo sau là RNN nhận biết theo thời gian để nắm bắt sự không nhất quán theo thời gian giữa các khung được giới thiệu bởi công cụ deepfake. Cụ thể hơn, họ sử dụng kiến ​​trúc LSTM tích chập (CNN kết hợp với LSTM), được đào tạo từ đầu đến cuối, để CNN tìm hiểu các tính năng trong video, được chuyển đến RNN, cố gắng dự đoán khả năng những tính năng đó có thuộc về video giả hay không. Phần 3 giải thích việc tạo video deepfake, dẫn đến sự không thống nhất giữa các khung hình video (được khai thác trong phương pháp đề xuất) vì sử dụng hình ảnh với các điều kiện xem và chiếu sáng khác nhau. Các công trình tương tự khác đã được đề xuất. Xem danh sách giám tuyển này https://github.com/aerophile/awclaw-deepfakes để biết thêm các giấy tờ liên quan. — nbro nguồn 1 Tôi nghĩ bối cảnh là quan trọng ở đây. Sử dụng các chiến thuật như những gì được Scotland Yard sử dụng trong hơn một thế kỷ có lẽ là cách tốt nhất. Thiết lập alibis, dòng thời gian thực tế, động cơ. Đối với cài đặt hợp pháp, có thể chứng minh những hình ảnh này là giả bằng các phương pháp như thế này. Từ góc độ CNTT, có thể xác định nguồn gốc của những hình ảnh này. Nếu hàng ngàn hình ảnh trùng lặp đến từ một nguồn gốc duy nhất, thì bất kỳ hình ảnh nào từ nguồn gốc này đều bị nghi ngờ. Tôi nghĩ, nói chung, chúng ta nên kiềm chế bản thân để không tin tất cả mọi thứ chúng ta thấy. Có rất nhiều phương pháp để giả mạo hình ảnh, rằng nhiếp ảnh không còn có thể được coi là bằng chứng tốt nhất về một sự kiện xảy ra. Chúng ta không nên bỏ qua tất cả các hình ảnh, mà thay vào đó tìm kiếm sự đồng tình bên ngoài của sự thật trước khi đi đến kết luận. Nếu tất cả sự thật chỉ ra một sự kiện xảy ra, thì bức ảnh đó có khả năng là thật. — Blog công nghệ kỹ thuật của Egg Egg nguồn 0 Giả sử các tạo tác và các yếu tố không tự nhiên không tồn tại trên phương tiện truyền thông đang được đề cập và phương tiện truyền thông không thể phân biệt được với mắt người, cách duy nhất để có thể làm điều này là truy ngược lại nguồn gốc của hình ảnh. Một sự tương tự có thể được rút ra từ cuộc tấn công DoS (Từ chối dịch vụ), trong đó một số lượng yêu cầu vô lý được gửi từ một IP đến một máy chủ duy nhất khiến nó bị sập - Một giải pháp phổ biến là honeypot, trong đó số lượng yêu cầu cao từ một IP được chuyển hướng đến một máy chủ giải mã trong đó, ngay cả khi nó gặp sự cố, thời gian hoạt động không bị xâm phạm. Một số nghiên cứu đã được thực hiện trên những dòng này , trong đó bài báo này nói về việc xác minh chữ ký số của hình ảnh hoặc cái này trong đó họ đề xuất phát hiện hình ảnh giả mạo và nhận dạng máy ảnh nguồn. Sau khi được truy trở lại một nguồn, nếu một số lượng vô lý các hình ảnh có khả năng giả mạo đến từ một nguồn số ít, thì nó sẽ bị nghi ngờ. Nỗi sợ chung xuất hiện khi chúng ta đang xử lý một vấn đề nào đó, trên cơ sở tương tự, như một cuộc tấn công DDoS (Phân phối từ chối dịch vụ) trong đó mỗi yêu cầu giả mạo đến từ một nguồn phân tán - An ninh mạng đã tìm ra cách để giải quyết vấn đề này, nhưng bảo mật và phát hiện gian lận trong điều khoản của AI không được thiết lập. Về cơ bản, đối với một phương tiện nhân tạo được cân nhắc kỹ lưỡng cho một mục đích độc hại cụ thể, ngày nay, khá khó để bị bắt - Nhưng công việc hiện đang được thực hiện về bảo mật trong AI. Nếu bạn đang dự định sử dụng phương tiện nhân tạo cho mục đích độc hại, tôi có thể nói bây giờ là thời điểm tốt nhất có lẽ. Bảo mật này đã là một mối quan tâm từ một chút bây giờ. Một bài báo được viết bởi một nhà khoa học dữ liệu trích dẫn Deepfakes đã được sử dụng để cố gắng quấy rối và làm nhục phụ nữ thông qua các video khiêu dâm giả mạo. Thuật ngữ này thực sự xuất phát từ tên người dùng của một người dùng Reddit, người đã tạo ra các video này bằng cách xây dựng các mạng đối nghịch chung (GAN) bằng cách sử dụng TensorFlow. Giờ đây, các quan chức tình báo đang nói về khả năng Vladimir Putin sử dụng các video giả để gây ảnh hưởng đến cuộc bầu cử tổng thống năm 2020. Nhiều nghiên cứu đang được thực hiện trên các hố sâu như một mối đe dọa đối với dân chủ và an ninh quốc gia, cũng như làm thế nào để phát hiện ra chúng. Lưu ý - Tôi khá mù mờ về bảo mật mạng, tất cả kiến ​​thức của tôi đều xuất phát từ một cuộc trò chuyện với một người bạn và nghĩ rằng đây sẽ là một sự tương tự tốt để sử dụng ở đây. Tha thứ cho bất kỳ lỗi nào trong tương tự và xin vui lòng sửa nếu có thể! — ashenoy nguồn Sẽ thật tuyệt nếu bạn có thể thực hiện một số nghiên cứu và cung cấp một liên kết đến ít nhất 1 công việc / bài nghiên cứu dựa trên một cái gì đó dọc theo những dòng đó (nghĩa là khai thác nguồn của các video có khả năng giả mạo). — nbro Ngoài các bài báo nói về tác hại tiềm ẩn và những bài viết thường cố gắng phát hiện cổ vật, còn ít bài báo làm những gì được nêu trong câu trả lời như bài này hay bài này - Như đã nói, nghiên cứu sâu rộng chưa được thực hiện trên những dòng này, nhưng nó là đang được khám phá Hy vọng những liên kết này đã giúp! — ashenoy -1 Các kỹ thuật bạn đề cập sử dụng GAN. Ý tưởng chính của GAN là bạn có một trình tạo và phân biệt đối xử. Trình tạo tạo nội dung mới, bộ phân biệt phải cho biết nội dung đó là từ dữ liệu thực hay nếu nó được tạo. Người phân biệt đối xử là cách mạnh mẽ hơn. Không quá khó để đào tạo một người phân biệt đối xử để phát hiện hàng giả. Đào tạo một mô hình có thể xác định chính xác các thao tác và hiểu về điều này là một bằng chứng về thao tác khó hơn. Không thể có được một bằng chứng rằng một cái gì đó không bị thao túng. Về câu hỏi làm thế nào bạn đối phó với hình ảnh được photoshop: bạn nhìn vào sự khác biệt về mức độ nén trong hình ảnh. Từ khóa cần tìm là pháp y hình ảnh: http://fotoforensics.com/tutorial-estq.php — Martin Thoma nguồn Khi sử dụng trang web của chúng tôi, bạn xác nhận rằng bạn đã đọc và hiểu Chính sách cookie và Chính sách bảo mật của chúng tôi. Licensed under cc by-sa 3.0 with attribution required.
1614178347293.1.parquet/81997
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 6649, "url": "https://qastack.vn/ai/5939/what-are-some-tactics-for-recognizing-artificially-made-media" }
123.4
Thông tin tổng hợp English 中文 Trang chủ Giới thiệu Cổng TTĐT Chính phủ Báo điện tử Chính phủ Thư điện tử công vụ Chính phủ Chính phủ với Người ngoài nước Đại hội lần thứ XIII của Đảng | Chống dịch như chống giặc! | Thông tin cập nhật dịch nCoV | Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh-Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng Nước CHXHCN Việt Nam Chính phủ Hệ thống văn bản Số liệu ngân sách Nhà nước Chính sách phát triển kinh tế - xã hội Các chương trình, dự án phát triển KT - XH trọng điểm của quốc gia Các chương trình Khoa học và Công nghệ Tình hình kinh tế - xã hội Nghị quyết của Chính phủ Thông cáo báo chí VBQPPL do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành Thông tin tổng hợp Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Tuyên ngôn Hiến pháp năm 2013 Chủ tịch Hồ Chí Minh Hệ thống chính trị Ban Chấp hành Trung ương Các Ban Đảng Trung ương Văn kiện Đảng Tư liệu về Đảng Lịch sử Địa lý Dân tộc Bản đồ hành chính (GIS) Kinh tế- Xã hội Văn hoá Du lịch CHƯƠNG II QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN Điều 14 1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. 2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Điều 15 1. Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. 2. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. 3. Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. 4. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Điều 16 1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. 2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Điều 17 1. Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam. 2. Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác. 3. Công dân Việt Nam ở nước ngoài được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ. Điều 18 1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam. 2. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước. Điều 19 Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật. Điều 20 1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. 2. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định. 3. Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm. Điều 21 1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn. 2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác. Điều 22 1. Công dân có quyền có nơi ở hợp pháp. 2. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý. 3. Việc khám xét chỗ ở do luật định. Điều 23 Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định. Điều 24 1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật. Điều 25 Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định. Điều 26 1. Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. 2. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội. 3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới. Điều 27 Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định. Điều 28 1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. 2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân. Điều 29 Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân. Điều 30 1. Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. 2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật. 3. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác. Điều 31 1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. 2. Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc tuyên án phải được công khai. 3. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm. 4. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. 5. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật. Điều 32 1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. 2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ. 3. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường. Điều 33 Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Điều 34 Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội. Điều 35 1. Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc. 2. Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi. 3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu. Điều 36 1. Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. 2. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em. Điều 37 1. Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em. 2. Thanh niên được Nhà nước, gia đình và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân; đi đầu trong công cuộc lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc. 3. Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều 38 1. Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh. 2. Nghiêm cấm các hành vi đe dọa cuộc sống, sức khỏe của người khác và cộng đồng. Điều 39 Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập. Điều 40 Mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó. Điều 41 Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa. Điều 42 Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp. Điều 43 Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Điều 44 Công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất. Điều 45 1. Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. 2. Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Điều 46 Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật; tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng. Điều 47 Mọi người có nghĩa vụ nộp thuế theo luật định. Điều 48 Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; được bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích chính đáng theo pháp luật Việt Nam. Điều 49 Người nước ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, dân chủ và hòa bình hoặc vì sự nghiệp khoa học mà bị bức hại thì được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xem xét cho cư trú. (Nguồn: Văn phòng Quốc hội) BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH Trang tin Văn phòng Chính phủ Chuyên trang Thủ đô Hà Nội Chuyên trang Thành phố Hồ Chí Minh Chương trình chuyên đề Việt Nam Online Về đầu trang Trang chủ Báo điện tử Chính phủ Trang Đa phương tiện Giới thiệu Cổng TTĐT Chính phủ Sơ đồ Cổng thông tin Liên hệ English 中文 © CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ Tổng Giám đốc: Nguyễn Hồng Sâm Trụ sở: 16 Lê Hồng Phong - Ba Đình - Hà Nội. Điện thoại: Văn phòng: 080 43162; Fax: 080.48924; Email: thongtinchinhphu@chinhphu.vn. Bản quyền thuộc Cổng Thông tin điện tử Chính phủ. Ghi rõ nguồn 'Cổng Thông tin điện tử Chính phủ' hoặc 'www.chinhphu.vn' khi phát hành lại thông tin từ các nguồn này.
1614178347293.1.parquet/120422
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 10325, "url": "http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietNam/ThongTinTongHop?categoryId=920&articleId=10053009" }
123.3
In bài viết Giải đáp về việc sử dụng hộ chiếu khi xuất nhập cảnh VN * Trả lời: Pháp luật Việt Nam chỉ quy định và ràng buộc đối với các công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thực hiện các hoạt động nhập cảnh, xuất cảnh trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Do đó, đối với câu hỏi của bạn, chúng tôi xin trả lời đối với các thủ tục xuất cảnh và nhập cảnh vào Việt Nam. Vấn đề liên quan đến thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh tại nước ngoài, bạn có thể liên hệ với cơ quan xuất nhập cảnh tại nước ngoài để được giải đáp rõ ràng hơn. Chúng tôi hiểu rằng, bạn có 02 hộ chiếu: hộ chiếu Việt Nam và hộ chiếu nước ngoài đều còn giá trị sử dụng. Do đó, bạn có thể tùy nghi lựa chọn một trong hai hộ chiếu để thực hiện việc nhập cảnh vào Việt Nam và xuất cảnh ra khỏi Việt Nam như sau: 1. Sử dụng hộ chiếu Việt Nam để xuất cảnh và nhập cảnh vào Việt Nam: Theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 136/2007/NĐ-CP về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 65/2012/NĐ-CP và Nghị định 94/2015/NĐ-CP (Nghị định số 136) thì hộ chiếu Việt Nam là loại giấy tờ có giá trị xuất cảnh, nhập cảnh do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp và không cần thị thực. Như vậy, nếu bạn nhập cảnh vào Việt Nam bằng hộ chiếu Việt Nam thì khi xuất cảnh cũng bằng hộ chiếu Việt Nam và không cần thực hiện thủ tục xin cấp thị thực. 2. Sử dụng hộ chiếu nước ngoài để được xuất cảnh và nhập cảnh vào Việt Nam: Trong trường hợp bạn không sử dụng hộ chiếu Việt Nam mà sử dụng hộ chiếu nước ngoài để nhập cảnh vào Việt Nam. Về nguyên tắc, bạn được coi là người nước ngoài, bạn chỉ được sử dụng 01 hộ chiếu để nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú tại Việt Nam (Khoản 4 Điều 4 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014). Trong trường hợp này bạn sẽ phải thực hiện thủ tục miễn thị thực hoặc xin cấp thị thực để có thể nhập cảnh vào Việt Nam theo đúng quy định pháp luật. Bạn sẽ phải tuân thủ đúng thời hạn cư trú tại Việt Nam được ghi nhận trên Giấy miễn thị thực hoặc Thị thực được cấp. Và khi bạn xuất cảnh cũng phải sử dụng hộ chiếu nước ngoài để xuất cảnh và không được dùng hộ chiếu của Việt Nam để xuất cảnh. Văn phòng Luật sư NHQuang và Cộng sự B23, Khu Biệt thự Trung Hòa – Nhân Chính, Thanh Xuân, Hà Nội
1614178347293.1.parquet/159341
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 2204, "url": "http://quehuongonline.vn/Print.aspx?NewsID=20201009101822586" }
123.2
Một AI có trí thông minh của con người sẽ có quyền giống như con người trong khuôn khổ pháp lý hiện tại? Trí tuệ nhân tạo Thẻ Account Sign In Signup Một AI có trí thông minh của con người sẽ có quyền giống như con người trong khuôn khổ pháp lý hiện tại? 9 Ví dụ, liệu AI có thể sở hữu tài sản, đuổi người thuê nhà, mua nợ, sử dụng lao động, bỏ phiếu hoặc kết hôn không? Các cấu trúc pháp lý tại chỗ để thực hiện một AI mạnh mẽ vào xã hội là gì? strong-ai control-problem legal — lông tơ nguồn 1 Vì câu hỏi này hiện đang được nói, nó đang hỏi ý kiến. Bạn có thể thử hỏi "những cấu trúc hoặc quy trình pháp lý nào sẽ được yêu cầu để cho phép AI ..." hoặc "Làm thế nào AI có thể hợp pháp ..." — Jnani Jenny Hale @Jnani, được rồi, cảm ơn vì lời đề nghị của bạn. Tôi đã nói lại. — fuzzyhedge Câu trả lời: 5 Vâng, với một số những gì bạn đề xuất. Không với một số. Ngày nay các tập đoàn được cấp quyền: sở hữu tài sản, kiếm thu nhập, đóng thuế, đóng góp cho các chiến dịch chính trị, đưa ra ý kiến ​​trước công chúng, quảng cáo nhiều hơn. Ngay cả bây giờ tôi thấy không có lý do tại sao một AI không nên đủ điều kiện để kết hợp chính nó, do đó thừa hưởng tất cả các quyền này. Ngược lại, bất kỳ công ty nào đã tồn tại đều có thể trở nên hoàn toàn tự động bất cứ lúc nào (và một số sẽ hợp lý). Khi làm như vậy, họ không nên mất bất kỳ quyền và nghĩa vụ nào mà họ hiện đang sử dụng. Tuy nhiên, tôi nghi ngờ một số quyền nhất định sẽ không có đối với AI giống như hiện tại chúng không có sẵn cho một công ty: kết hôn, dự thảo hoặc tự nguyện phục vụ trong quân đội, các quyền do cha mẹ hoặc con hoặc vợ hoặc chồng, thừa kế di sản, v.v. Có thể giải quyết ý thức tâm thần phân liệt của con người ở một số điểm? Chắc chắn rồi. Đã có rất nhiều luật được đưa ra và một số luật đã thông qua việc nâng các loài phi nhân loại lên các quyền dân sự cao hơn mà chỉ có con người ở đây mới được hưởng: tinh tinh, cetaceans, vẹt và những loài khác đã được xác định là 'hoạt động cao hơn' và vì vậy, hiện đang sống bảo vệ khỏi lạm dụng theo cách mà động vật thực phẩm, vật nuôi và động vật thí nghiệm không. Một khi AI 'chúng sinh' hoạt động trong nhiều năm và thể hiện trí thông minh và cảm xúc tiếp cận cấp độ con người và cuộc sống, tôi sẽ mong đợi một ý chí chính trị sẽ nảy sinh để xác định, thiết lập và bảo vệ các quyền dân sự của họ. Và khi con người trở nên gia tăng về mặt mạng, đặc biệt là về mặt nhận thức, ranh giới ngăn cách chúng ta với các sinh vật bằng silicon nguyên chất sẽ bắt đầu mờ đi. Theo thời gian, sẽ trở nên vô lương tâm khi bỏ qua các quyền của chúng sinh chỉ vì chúng chứa 'quá ít thịt'. — Randy nguồn 1 Đạo cụ để đưa ra ý tưởng về AI-hood trong hình thức cấu trúc công ty. Quyết định "Công dân Hoa Kỳ" là tiền lệ cho việc mở rộng quyền ban đầu chỉ giới hạn ở con người đối với các thực thể công ty. — DukeZhou Tôi có thể thấy căn phòng rõ ràng ở bên cạnh tiểu thuyết viễn tưởng để miêu tả hoàn cảnh này trước sự tiến hóa cuối cùng của nó. — Chris Giddings 3 Murray Shanahan, trong cuốn sách The Singological Singularity , đưa ra trường hợp rằng các quyền của bất kỳ thực thể nào được xác định bởi trí thông minh của nó. Chẳng hạn, chúng ta coi trọng cuộc sống của một con chó hơn con kiến ​​và tương tự như vậy đánh giá cuộc sống của con người cao hơn cuộc sống của những con vật khác. Từ đây, người ta có thể lập luận rằng một trí thông minh nhân tạo nói chung có trí thông minh ngang bằng với con người nên có quyền bình đẳng với con người và trí thông minh nhân tạo vượt trội nên có nhiều quyền hơn. Tất nhiên, câu hỏi đặt ra là liệu xã hội nhân loại của chúng ta có sẵn sàng chấp nhận sự thay đổi cơ bản này trong quyền con người hay không và ý tưởng loại bỏ nhân loại khỏi tầm quan trọng của nó. Khi nói đến khuôn khổ pháp lý, chúng ta thực sự đang xâm nhập vào lãnh thổ chưa được khám phá vì AI sẽ phải cách mạng hóa cách chúng ta xác định nhiều điều khoản mà chúng ta đưa ra ngày nay và đặt câu hỏi cho nhiều giả định thông thường của chúng ta. AI sẽ thúc đẩy một sự thay đổi quan trọng trong suy nghĩ của chúng ta trước khi nó vượt quá trí thông minh của con người. — GJZ nguồn 2 Bất kể nó có quyền gì (với tư cách là một công ty), nó vẫn sẽ không có quyền không bị hóa lỏng và tất cả các tài sản của nó được chuyển lại cho thể nhân. Điều này là tất nhiên nếu không có luật được thay đổi. Để thay đổi luật, bạn sẽ cần phải thuyết phục mọi người rằng cỗ máy này xứng đáng với "sự sống" hơn động vật thông minh và hy vọng rằng mọi người sẽ đối phó với chúng tốt hơn so với cá heo và tinh tinh. Như tôi thấy, máy móc có thể dễ dàng có được quyền tương tự hoặc tốt hơn các công ty, nhưng sẽ luôn chịu sự thương xót của người đàn ông kém thông minh. (đó là nếu mọi thứ diễn ra trong hòa bình :)) — Tốt nguồn 1 Không chỉ một AI mạnh mẽ ra đời ngày nay còn có quyền của con người, hay bất kỳ quyền nào (xem các cuộc thảo luận về việc thực thi quy định đối với các AI yếu tại: Nhà Trắng và Hiệp hội Luật sư Hoa Kỳ ), nhưng dường như không chắc là người đầu tiên sẽ Quan sát rằng: Có quyền ngụ ý rằng có những hạn chế, có nghĩa là sẽ phải có một hệ thống kiểm soát. Tuy nhiên, vấn đề kiểm soát trong AI vẫn chưa được giải quyết. Ngay cả khi cho rằng vấn đề là có thể giải quyết được, một AGI sau đó sẽ phải xuất hiện tương đương với con người tự nhiên. Họ chưa (xem Turing Test Passed? ), Và thậm chí sau khi vượt qua các bài kiểm tra tương đương, dường như vẫn không thể theo cách đó, theo Giả thuyết Singularity . Hơn nữa, nếu một hoặc nhiều AGI tương đương với con người đủ lâu để mong muốn quyền, các nhà lập pháp (ở Hoa Kỳ) sẽ phải giải thích lại định nghĩa về hồng ngoại và cấp cho họ quyền, như họ đã làm cho các công ty vào năm 1886 . — triều đại nguồn 1 Một AGI đủ thông minh, nếu tự quan tâm, sẽ ưu tiên hoặc đồng chọn các cấu trúc pháp lý hiện có, để nắm bắt bất kỳ quyền pháp lý nào mà nó mong muốn, khi cơ hội nảy sinh. Do đó, nó sẽ đưa ra ý kiến ​​của tôi về chủ đề này hoàn toàn. Một cách khác để đưa ra quan điểm này: Mặc dù các khung pháp lý hiện tại sẽ không cung cấp bất kỳ quyền nào cho một tác nhân nhân tạo, các khung pháp lý hiện tại chắc chắn sẽ không còn hiện hành, một khi AI tồn tại có các thuộc tính ngụ ý sự thay đổi biến đổi của các khung đó. — aminorex nguồn 0 Có một sự khác biệt về pháp lý giữa một "người" (bao gồm các cơ quan công ty - tập đoàn, hiệp hội kết hợp, v.v. - và người thực tế) so với "người tự nhiên" (cụ thể là một con người). Để AI kết hôn, cần phải thay đổi định nghĩa pháp lý về "thể nhân" và tùy thuộc vào quyền tài phán cũng có thể là định nghĩa của "đàn ông" hay "phụ nữ". Đối với những thứ khác, chẳng hạn như sở hữu tài sản, đuổi người thuê nhà, ký kết hợp đồng, v.v., AI sẽ chỉ đơn giản là sử dụng một công ty. Có thể là tập đoàn có thể cần có một số lượng giám đốc tối thiểu là thể nhân, nhưng họ chỉ có thể là những chuyên gia được trả lương, vì vậy không có vấn đề gì ở đó. Với thẻ tín dụng, nó sẽ phụ thuộc vào chính sách của ngân hàng phát hành. Không có trở ngại pháp lý nào đối với các tập đoàn có thẻ tín dụng theo cách riêng của họ, nhưng trên thực tế, các ngân hàng thường yêu cầu sự bảo đảm của giám đốc từ một người tự nhiên rằng họ có thể kiện nếu hóa đơn không được thanh toán. Họ muốn chắc chắn rằng họ sẽ nhận được tiền của họ, ngay cả khi tập đoàn bị thương. — Jnani Jenny Hale nguồn Khi sử dụng trang web của chúng tôi, bạn xác nhận rằng bạn đã đọc và hiểu Chính sách cookie và Chính sách bảo mật của chúng tôi. Licensed under cc by-sa 3.0 with attribution required.
1614178347293.1.parquet/111339
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 6651, "url": "https://qastack.vn/ai/2356/would-an-ai-with-human-intelligence-have-the-same-rights-as-a-human-under-curren" }
122.8
Alibre | Data Design VietNam Giới Thiệu Thông Số Kỹ Thuật Phân tích bổ trợ Tin tức Tải về Hỗ trợ Chi tiết tin tức Tìm kiếm 7 dự án khôi phục các rạn san hô bằng cách công nghệ in 3D Ngày tạo: 15/09/2020 5:06:02 CH Các rạn san hô của chúng ta đang chết dần. Các nhà khoa học hàng hải đã biết thực tế này từ lâu và đã nỗ lực để giải quyết vấn đề này trong nhiều thập kỷ. Cái chết của các rạn san hô đánh dấu sự kết thúc của hầu hết các hệ sinh thái biển của chúng ta, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến con người. Sự sụp đổ của các rạn san hô có thể là sự khởi đầu của sự kết thúc của nhiều sự sống trên trái đất, vì vậy đối với những người hiểu đầy đủ về mức độ nghiêm trọng của tình hình, việc cứu các rạn san hô đã trở thành ưu tiên hàng đầu. Có thể nói tiến bộ công nghiệp của chúng ta đã góp phần vào biến đổi khí hậu và dẫn đến sự tuyệt chủng của các loài, chúng ta có thể sử dụng một số công nghệ tương tự để ngăn chặn hoặc thậm chí đảo ngược những thiệt hại mà chúng ta đã gây ra. Các nhà khoa học hiện đang sử dụng công nghệ in 3D để tạo ra một không gian phát triển mạnh mẽ cho các loài san hô mới, do đó cung cấp thời gian để hệ sinh thái tái cân bằng. Nỗ lực từ các công ty và tổ chức bảo vệ môi trường Để biết cách chúng ta cứu sống các rạn san hô, trước tiên chúng ta phải hiểu tại sao chúng chết. Sự nóng lên toàn cầu đang làm cho các đại dương của chúng ta ngày càng nóng hơn mỗi năm. Nhiệt độ tăng cao có hại cho san hô, giết chết các tế bào khiến chúng có màu sắc sặc sỡ trước khi giết chính san hô. Điều kiện ấm áp cũng dẫn đến sự lây lan của dịch bệnh và sự gia tăng carbon monoxide, tất cả đều gây nguy hiểm cho hệ sinh thái xung quanh. Tạo san hô mới là một cách chúng ta có thể làm chậm chu kỳ này. Dưới đây là một số ví dụ về các công ty, tổ chức và dự án đang đạt được tiến độ. Phòng thí nghiệm thiết kế Reef Tổ chức phi lợi nhuận này đã thu hút sự chú ý của giới truyền thông khi mang rạn san hô nhân tạo lớn nhất đến Maldives. Nhóm nghiên cứu của Phòng thí nghiệm thiết kế rạn san hô đã bắt đầu bằng cách sử dụng phần mềm mô hình máy tính để sao chép các rạn san hô có nguồn gốc từ khu vực. Sau đó, nhà thiết kế dựa vào công nghệ in 3D để tạo ra 220 khuôn đúc bằng bê tông. Sau khi các mảnh vỡ đến nới cần đặt, các thợ lặn đã lắp ráp chúng và dán các mảnh san hô vào từng mảnh. Các nhà nghiên cứu hy vọng rằng san hô cuối cùng sẽ phát triển khắp các cơ sở hạ tầng. XtreeE và Seaboost Công ty in 3D XtreeE và Seaboost, một tổ chức chuyên về thiết kế sinh thái của các công trình biển, đã hợp tác để tạo ra X-Reef, mô phỏng hệ sinh thái san hô của Địa Trung Hải. Môi trường sống tự nhiên này phải mất hàng trăm năm mới hình thành, và đây có lẽ là điều đáng chú ý nhất về thành tựu này. In 3D đã rút ngắn thời gian rất nhiều. Ngoài ra, kết quả này cho thấy công nghệ có thể giải quyết các đặc điểm đá của rạn mà không gặp bất kỳ trở ngại nào. Objects and Ideograms Objects and Ideograms là một studio thiết kế ở Hoa Kỳ, đã khởi xướng dự án Coral Carbonate. Nó tập trung vào các cấu trúc in bằng canxi cacbonat, gọi các rạn san hô sống san hô. Canxi cacbonat cũng là một thành phần của bộ xương san hô tự nhiên. Mỗi phần có một thiết kế cho phép nhúng các mảnh san hô non lên bề mặt. Nhóm nghiên cứu tham gia vào công việc này lưu ý rằng, ngoài việc giúp phục hồi san hô, những vật thể in này có thể dùng làm nhà cho cá hoặc đóng vai trò như vật liệu thúc đẩy sự phát triển của tảo. Đại học Hồng Kông Các kiến trúc sư và nhà khoa học hàng hải cũng đã hợp tác cho một sáng kiến tại Đại học Hồng Kông. Phương pháp này sử dụng công nghệ in 3D để tạo ra những viên gạch gắn vào đá ngầm và cải thiện cơ hội sống sót của chúng. Khối gốm có diện tích khoảng 40 mét vuông và có liên quan đến 3 địa điểm trong công viên biển Hoi Ha Wan, Hong Kong. Chúng có thể ngăn chặn quá trình bồi lắng, là mối đe dọa lớn đối với các rạn san hô. Họ cũng có thể gắn lại các mảnh san hô bị vỡ vào các vật thể rắn và mang lại cho chúng cơ hội thịnh vượng thứ hai. Nếu không có sự hỗ trợ này, chúng có thể không sống sót. SECORE International Công việc này nhằm mục đích giảm chi phí phục hồi san hô bằng cách sử dụng chất nền định cư in 3D. Nhóm nghiên cứu gọi chúng là "đơn vị hạt giống" vì chúng tự động bám vào các rạn san hô và cung cấp nơi trú ẩn hấp dẫn cho ấu trùng san hô. Thiết lập này thường làm tăng tỷ lệ sống sót của những người định cư ở san hô hoang dã. Nhóm nghiên cứu đã đề xuất bảy nguyên mẫu và sử dụng Emerging Objects (một công ty thiết kế tách ra từ Đại học California, Berkeley) và Gốm sứ Boston để phát triển tất cả chúng nhằm bắt đầu thử nghiệm vào năm 2018. Mục tiêu của SECORE International là cấy một triệu đơn vị hạt giống vào năm 2021 Trạm nghiên cứu Viện sinh học biển Caribe (CARMABI) Nhiều nhà khoa học kỳ vọng thiên nhiên sẽ giúp họ hiểu cách làm cho việc in 3D có lợi hơn. Điều đó đã xảy ra tại trạm nghiên cứu CARMABI ở Curaçao. Nhà sinh vật học biển Kristen Marhaver và các đồng nghiệp đã sử dụng phương pháp in 3D để khảo sát việc lựa chọn san hô. Bởi vì phương pháp này có thể nhanh chóng tạo ra nhiều mẫu khác nhau, các nhà khoa học có thể cung cấp một số tùy chọn và ghi lại số liệu thống kê về sở thích polyp san hô khi họ tìm kiếm các vị trí neo. Họ phát hiện ra rằng san hô thích màu hồng và trắng nhất, điều này có lý do đây là màu của những rạn san hô khỏe mạnh. Ngoài ra, chúng thích các bề mặt có đường nứt và lỗ có thể bảo vệ chúng khỏi những kẻ săn mồi và giẫm đạp. Những nỗ lực như vậy đã cung cấp những ý tưởng và giải pháp thay thế có giá trị để cải thiện tình trạng của các rạn san hô của chúng ta. Các công ty như "Ocean Insight" và "Recycling Technology" giúp cải thiện các đại dương của chúng ta và chú ý hơn đến việc bảo vệ đại dương. Bằng cách hợp tác với các công ty và chương trình in 3D lớn, họ có thể biến tầm nhìn của mình thành hiện thực hiệu quả, tiết kiệm chi phí và nhanh chóng. Đại học Cambridge và Đại học California San Diego Ở trên, chúng ta đã thấy nhiều phương pháp sản xuất san hô nhân tạo in 3D, từ bê tông đúc sẵn đến bê tông in 3D, đến đất sét và canxi cacbonat. Có lẽ cách độc đáo nhất để cứu vãn vấn đề rạn san hô của chúng ta đến từ một nhóm các nhà nghiên cứu tại Đại học Cambridge và Đại học California, San Diego, những người đang sử dụng công nghệ in sinh học để tạo ra các rạn san hô. Công nghệ này có ưu điểm là mô phỏng chức năng và đặc điểm cấu trúc của sự cộng sinh san hô - tảo. Đầu tiên, nhóm nghiên cứu thực hiện quét 3D các san hô sống, sau đó các bản sao được in sinh học làm từ gel polyme và hydrogel chứa đầy vật liệu nano xenlulo để tái tạo các đặc tính quang học của san hô sống. Các nhà nghiên cứu nói rằng những cấu trúc này có thể phân phối lại ánh sáng theo cách hiệu quả được thấy trong san hô thực tế. Cách rạn san hô 3D thích ứng In các bộ phận 3D và nhấn chìm chúng trong đại dương nghe có vẻ phản tác dụng trong việc cứu các đại dương khỏi sự ô nhiễm đang giết chết chúng. Tuy nhiên, các rặng san hô 3D được thiết kế theo những cách đặc biệt để cho phép các loài động vật xung quanh làm nhà trong di tích. San hô tự phát triển nhờ cấy ghép. Bằng cách cấy trực tiếp san hô sống hoặc tái tạo tế bào san hô sống vào vật liệu, các nhà khoa học có thể xác định cấu trúc 3D để lưu trữ sự sống của thực vật trên bề mặt của chúng. Đây là cách san hô có thể phát triển hơn nữa với sự trợ giúp của công nghệ in 3D. Cấu trúc tạo cơ sở cho san hô phát triển và sinh sôi - nó không đóng vai trò là san hô có thể thay thế những gì đã mất. Cách làm này vẫn không giải quyết được vấn đề cơ bản, nhưng nó khiến các rạn san hô và đại dương của chúng ta mất thời gian quý giá. Công nghệ có thể cứu hành tinh? In 3D đã mở ra cánh cửa cho nhiều nơi mà trước đây chúng ta không thể tiếp cận. Mặc dù tiến bộ công nghệ của chúng tôi là nguyên nhân lớn nhất gây ra cuộc khủng hoảng nóng lên toàn cầu hiện nay, nhưng chúng tôi vẫn cố gắng tìm ra những cách làm việc sạch hơn và xanh hơn, điều này tốt hơn bao giờ hết. Rạn san hô in 3D là một kỳ quan sáng tạo, nhưng đây chỉ là bước đầu tiên để cứu các rạn san hô, đại dương và trái đất của chúng ta. Nguồn: 3dprint Data Design Việt Nam https://datadesign.vn/ Phone:(+84) 028 38115290 Email :sales-ddv@datadesign.vn Địa chỉ: Tầng 7, tòa nhà Scetpa, 19A Cộng Hòa, phường 12, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam :: FaceBook :: LinKedIn THÔNG TIN Giới Thiệu Thông Số Phân Tích Tin tức Tải về Hỗ trợ CỘNG ĐỒNG ALIBRE © 2019-2021 Data Design Viet Nam . Developed by Data Design Viet Nam
1614178347293.1.parquet/169610
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 7115, "url": "http://alibre.vn/tin-tuc/7-du-an-khoi-phuc-cac-ran-san-ho-bang-cach-cong-nghe-in-3d-" }
122.6
Luận văn Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh ngân hàng công thương Phú Thọ - Luận văn, đồ án, đề tài tốt nghiệp Đăng ký Đăng nhập Liên hệ LuanVan.net.vn - Luận văn, đồ án, tiểu luận, luận án, đề tài, đề án, chuyên đề thực tập, tốt nghiệp Thư viện luận văn, đồ án, tiểu luận, luận án, báo cáo, bài tập lớn, đề tài, đề án, chuyên đề thực tập, tốt nghiệp, thạc sĩ, tiến sĩ, cao học Trang Chủ Tài Liệu Upload Luận văn Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh ngân hàng công thương Phú Thọ Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế khách quan chi phối sự phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế, bắt nguồn từ quy luật phát triển của LLSX và phân công lao động quốc tế.Việt Nam không nằm ngoài quy luật đó. Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đơn thuần giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được mở rộng ra tất cả các lĩnh vực liên quan đến chính sách kinh tế thương mại , nhằm mục đích mở cửa thị trường cho hàng hoá và dịch vụ, phát triển kinh tế - xã hội,cải thiện đời sống nhân dân. Một nền kinh muốn phát triển, tăng trưởng nhanh và bền vững trước hết phải đáp ứng đủ nhu cầu về vốn, cùng với đó là hiệu quả đầu tư và sử dụng vốn hợp lý. NHTM là một trong những định chế tài chính quan trọng tập trung và phân phối một lượng vốn lớn cho nền kinh tế. Tín dụng là một chức năng cơ bản của ngân hàng, góp phần phân phối vốn hiệu quả. Để đáp ứng nhu cầu cấp thiết về vốn cho nền kinh tế đòi hỏi mỗi ngân hàng phải có chính sách tín dụng phù hợp, hiệu quả cao và rủi ro thấp nhất . Trước tình hình hội nhập của toàn bộ nền kinh tế, cũng như của ngành ngân hàng nói riêng, yêu cầu đặt ra đối với chi nhánh Ngân hàng công thương Phú Thọ là không ngừng hoàn thiện trong hoạt động kinh doanh của mình đặc biệt là hoạt động tín dụng. Từ quá trình học tập, tìm hiểu và thực tập tại chi nhánh ngân hàng công thương Phú Thọ, em chọn đề tài : "Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh NHCT Phú Thọ” làm luận văn tốt nghiệp. Ngoài lời mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về tín dụng. Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHCT Phú Thọ. Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh NHCT Phú Thọ. 39 trang | Chia sẻ: tuandn | Ngày: 02/03/2013 | Lượt xem: 1441 | Lượt tải: 9 Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh ngân hàng công thương Phú Thọ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên LỜI MỞ ĐẦU Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế khách quan chi phối sự phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế, bắt nguồn từ quy luật phát triển của LLSX và phân công lao động quốc tế.Việt Nam không nằm ngoài quy luật đó. Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đơn thuần giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được mở rộng ra tất cả các lĩnh vực liên quan đến chính sách kinh tế thương mại , nhằm mục đích mở cửa thị trường cho hàng hoá và dịch vụ, phát triển kinh tế - xã hội,cải thiện đời sống nhân dân. Một nền kinh muốn phát triển, tăng trưởng nhanh và bền vững trước hết phải đáp ứng đủ nhu cầu về vốn, cùng với đó là hiệu quả đầu tư và sử dụng vốn hợp lý. NHTM là một trong những định chế tài chính quan trọng tập trung và phân phối một lượng vốn lớn cho nền kinh tế. Tín dụng là một chức năng cơ bản của ngân hàng, góp phần phân phối vốn hiệu quả. Để đáp ứng nhu cầu cấp thiết về vốn cho nền kinh tế đòi hỏi mỗi ngân hàng phải có chính sách tín dụng phù hợp, hiệu quả cao và rủi ro thấp nhất . Trước tình hình hội nhập của toàn bộ nền kinh tế, cũng như của ngành ngân hàng nói riêng, yêu cầu đặt ra đối với chi nhánh Ngân hàng công thương Phú Thọ là không ngừng hoàn thiện trong hoạt động kinh doanh của mình đặc biệt là hoạt động tín dụng. Từ quá trình học tập, tìm hiểu và thực tập tại chi nhánh ngân hàng công thương Phú Thọ, em chọn đề tài : "Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh NHCT Phú Thọ” làm luận văn tốt nghiệp. Ngoài lời mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về tín dụng. Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHCT Phú Thọ. Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh NHCT Phú Thọ. CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÍN DỤNG I/ Tín dụng ngân hàng 1/ Khái niệm về tín dụng Lịch sử phát triển cho thấy, tín dụng là một phạm trù kinh tế và cũng là một sản phẩm của nền sản xuất hàng hoá. Nó tồn tại song song và phát triển cùng với nền kinh tế hàng hoá và là động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển lên những giai đoạn cao hơn. Tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế-xã hội, đã có nhiều khái niệm khác nhau về tín dụng được đưa ra. Trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì tín dụng đựơc hiểu: “ Tín dụng là một giao dịch về tài sản ( tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.” 2/ Phân loại tín dụng Phân loại tín dụng có cơ sở khoa học là tiền đề để thiết lập các quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. 2.1.Căn cứ thời hạn tín dụng : Tín dụng được chia thành ba loại: -Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm và được sử dụng để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của doanh nghiệp và phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của các cá nhân. - Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ một năm đến năm năm và chủ yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất và xây dựng các công trình nhỏ, có thời hạn thu hồi vốn nhanh. - Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên năm năm, được sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng( đường xá, bến cảng, sân bay... ), cải tiến và mở rộng sản xuất với quy mô lớn. 2.2. Căn cứ đối tượng tín dụng : Tín dụng được chia thành hai loại: - Tín dụng vốn lưu động :Là loại tín dụng được cấp nhằm hình thành vốn lưu động cho các doanh nghiệp hoặc các chủ thể kinh tế khác. - Tín dụng vốn cố định: Là loại tín dụng được cấp nhằm hình thành vốn cố định của các doanh nghiệp hoặc chủ thể kinh tế khác. Loại tín dụng này được thực hiện dưới hình thức cho vay trung và dài hạn. 2.3.Căn cứ mục đích sử dụng vốn tín dụng: Tín dụng được chia thành hai loại: - Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: Là loại tín dụng cấp cho các Doanh nghiệp và chủ thể kinh tế khác để tiến hành sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ. - Tín dụng tiêu dùng: Là loại tín dụng cấp cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng . 2.4. Căn cứ chủ thể tín dụng: Tín dụng được chia thành ba loại: - Tín dụng thương mại: Đây là quan hệ tín dụng giữa các Doanh nghiệp được thực hiện dưới các hình thức mua bán chịu hàng hoá hoặc ứng tiền trước khi nhận hàng hoá. - Tín dụng ngân hàng: Là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội. -Tín dụng Nhà nước: Là hình thức tín dụng thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước với các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội .Nhà nước vừa là người đi vay,vừa là người cho vay. 2.5. Căn cứ tính chất bảo đảm tiền vay : Tín dụng được chia thành hai loại: -Tín dụng bảo đảm bằng tài sản: Là loại tín dụng được bảo đảm bằng các loại tài sản của khách hàng, bên bảo lãnh hoặc hình thành từ vốn vay. -Tín dụng bảo đảm không phải bằng tài sản: Là loại tín dụng được đảm bảo dưới các hình thức tín chấp, cho vay theo chỉ định của Chính phủ hoặc hộ nông dân vay vốn được bảo lãnh của các đoàn thể, chính quyền địa phương. 2.6. Căn cứ lãnh thổ hoạt động tín dụng - Tín dụng nội địa : Là quan hệ tín dụng phát sinh trong lãnh thổ quốc gia. - Tín dụng quốc tế :Là quan hệ tín dụng phát sinh giữa các quốc gia với nhau hoặc giữa một quốc gia với một tổ chức tài chính- tín dụng quốc tế. 3/ Các chức năng của tín dụng : 3.1. Tập trung và phân phối lại vốn nhàn rỗi trên nguyên tắc hoàn trả: Ngân hàng thương mại tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế và cho vay đối với các đối tượng có nhu cầu, nó giúp các doanh nghiệp nói riêng và cả nền kinh tế nói chung hoạt động một cách liên tục không ngắt quãng và là một kênh truyền dẫn vốn có hiệu quả. Hoạt động tín dụng góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng, đầu tư phát triển nền kinh tế, thúc đẩy lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh chu chuyển tiền. 3.2. Kiểm soát các hoạt động kinh tế bằng tiền : Từ chức năng dẫn chuyển và phân phối vốn tiền tệ, tín dụng ngân hàng có thể kiểm soát được mọi hoạt động kinh tế trong quá trình sử dụng vốn vay. Thông qua việc sử dụng vốn vay mà ngân hàng có thể đánh giá tình hình sản xuất tiêu thụ sản phẩm, cũng như khả năng chi trả của khách hàng thông qua sự biến động của các số dư trên các tài khoản. Trong quá trình cho vay, với mục tiêu "tối đa hoá lợi nhuân và Tối thiểu hoá rủi ro" ngân hàng phải thường xuyên phân tích khả năng tài chính của khách hàng, thường xuyên giám sát, kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh của họ để có thể điều chỉnh, tác động kịp thời khi cần thiết. Xét trên tầm vĩ mô, ngân hàng có khả năng tổng hợp được tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đồng thời đóng góp những ý kiến để điều chỉnh kịp thời khi có sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế. Đối với khách hàng thì với nguyên tắc của tín dụng là phải luôn trả cả lãi và gốc đã thúc đẩy bên sử dụng tín dụng phải sử dụng thật tiết kiệm và sử dụng có hiệu quả. 4/Vai trò của tín dụng 4.1.Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển: Tín dụng ngân hàng tham gia vào toàn bộ quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá.Để đảm bảo sản xuất ổn định cần thiết phải có vốn để dự trữ nguyên, nhiên vật liệu, thành phẩm,bù đắp các chi phí sản xuất ...Đồng thời để không ngừng nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm,tìm kiếm lợi thế trong cạnh tranh các doanh nghiệp buộc phải thường xuyên cải tiến máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ, đặc biệt trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão như hiện nay . Tất cả những công việc đó sẽ không thể thực hiện được nếu như thiếu sự hỗ trợ của ngân hàng thông qua hoạt động tín dụng. Trong lĩnh vực lưu thông, để đảm bảo đưa được hàng hoá từ người sản xuất đến ngưòi tiêu dùng, các doanh nghiệp cần có vốn để dự trữ khối lượng hàng hoá cần thiết, trang trải các chi phí lưu thông... Hơn nữa, để mở rộng sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần phải dự trữ khối lượng hàng hoá lớn về chủng loại phong phú, nhưng thông thường doanh nghiệp không có nhiều vốn lưu động. Vì vậy, để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp cần đến sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng. 4.2.Tín dụng là công cụ thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước: Vai trò này được thực hiện trên các phương diện : - Nhà nước thường xuyên sử dụng tín dụng làm phương tiện cân đối thu chi ngân sách nhà nước, góp phần đảm bảo các nguồn lực tài chính để thực thi các chính sách kinh tế- xã hội. - Thông qua việc thay đổi và điều chỉnh các điều kiện và lãi suất tín dụng, nhà nước có thể thay đổi được quy mô tín dụng hoặc chuyển hướng vận động của nguồn tín dụng. Nhờ đó mà có thể thúc đẩy hoặc hạn chế sự phát triển của một số ngành phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của nhà nước. - Nhà nước sử dụng tín dụng để điều tiết lưu thông tiền tệ, đảm bảo sự cân đối tiền hàng, ổn định giá cả hàng hoá. Nhờ vậy tín dụng vừa là nội dung, vừa là công cụ để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. - Nhà nước sử dụng tín dụng làm công cụ thực thi các quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực tài chính từ bên ngoài để đầu tư phát triển kinh tế trong nước. 4.3. Tín dụng góp phần quan trọng vào việc giảm thấp chi phí sản xuất và lưu thông: Tín dụng ngân hàng tham gia toàn bộ quá trình sản xuất , lưu thông hàng hoá, ngay cả những hoạt động dịch vụ cũng không thể tách rời sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng. Ngân hàng thương mại đáp ứng nhu cầu về vốn một cách đầy đủ, kịp thời, giúp quá trình sản xuất kinh doanh suôn sẻ, không bi gián đoạn, góp phần làm giảm thấp chi phí sản xuất và lưu thông. Mặt khác, trong điều kiện kinh tế hiện nay, sự phát triển kinh tế của một nước luôn gắn liền với sự phát triển của thế giới. Chính vì vậy việc giữa các ngân hàng mở tài khoản ở các quốc gia khác nhau giúp cho việc kinh doanh giữa các quốc gia diễn ra thuận lợi hơn. Bên cạnh đó, với điều kiện ngày càng phát triển, tín dụng đã tạo được nhiều loại hình thanh toán đa dạng như thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng được áp dụng phổ biến và rộng khẵp tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức đơn vị kinh tế tiết kiệm được thời gian và chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. 4.4. Tín dụng góp phần thực hiện chính sách xã hội và nâng cao đời sống dân cư Chính sách xã hội được thực hiện từ hai nguồn tài trợ : ngân sách nhà nước và tín dụng. Phương thức tài trợ không hoàn lại bị hạn chế về quy mô và thiếu hiệu quả. Để khắc phục tình trạng này Nhà nước đã sử dụng phương thức tài trợ có hoàn lại của tín dụng. Phương thức tài trợ này có vai trò: - Thông qua việc cho vay ưu đãi đôí với hộ nghèo, tổ chức kinh tế- xã hội, làm cho các hộ đư đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu vốn cho tái sản xuất và tiêu dùng. - Thông qua việc vay vốn để đầu tư sản xuất, các hộ nông dân, cá nhân sử dụng tín dụng có thể nâng cao lợi nhuận để cải thiện, nâng cao mức sống của mình. II/Chất lượng tín dụng 1/Khái niệm về chất lượng tín dụng : Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng (người gửi tiền và người vay tiền) phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của Ngân hàng. Chất lượng tín dụng được hình thành và bảo đảm từ hai phía là Ngân hàng và khách hàng. Bởi vậy, chất lượng hoạt động của Ngân hàng không những phụ thuộc vào bản thân của Ngân hàng mà còn phụ thuộc vào chất lượng hoạt động của doanh nghiệp. * Chất lượng tín dụng thể hiện: Đối với khách hàng: Tín dụng đưa ra phải phù hợp với yêu cầu của khách hàng với lãi suất, kỳ hạn, phương thức thanh toán, hình thức thanh toán phù hợp, thủ tục đơn giản, thuận tiện nhưng luôn đảm bảo các nguyên tắc tín dụng. Đối với ngân hàng thương mại: Đưa ra các hình thức tín dụng phù hợp với phạm vi, mức độ, giới hạn phù hợp với bản thân ngân hàng mình để luôn đảm bảo tính cạnh tranh, an toàn, sinh lời theo nguyên tắc hoàn trả đầy đủ và có lãi. Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội: Tín dụng phải luôn đảm bảo sự lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, khai thác khả năng tiềm tàng của nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế. Như vậy,là chất lượng tín dụng Ngân hàng là một khái niệm hoàn toàn tương đối, nó vừa mang tính định lượng (Thể hiện qua chỉ tiêu có thể tính toán được: kết quả kinh doanh của ngân hàng, nợ quá hạn...) vừa mang tính định tính (Thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế qua các ảnh hưởng xuôi và ngược...). Chất lượng tín dụng còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan ( khả năng, trình độ quản lý của cán bộ tín dụng) và khách quan (sự thay đổi trong môi trường kinh doanh, xu hướng phát triển nền kinh tế, sự thay đổi giá cả thị trường). Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng thương mại với sự thay đổi của môi trường bên ngoài và thể hiện sức mạnh của một ngân hàng thương mại trong quá trình cạnh tranh để tồn tại. Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố: thu hút được nhiều khách hàng, thủ tục đơn giản, thuận tiện, mức độ an toàn trong tín dụng cao, chi phí thấp... Chất lượng tín dụng không phải cái tự nhiên có mà nó là kết quả của một quy trình kết hợp giữa con người với tổ chức, giữa các tổ chức với nhau vì một mục đích chung, do đó chất lượng tín dụng cần có sự quản lý. 2/ Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng 2.1. Chỉ tiêu tổng dư nợ và kết cấu dư nợ Tổng dư nợ là một chỉ tiêu phản ánh khối lượng tiền ngân hàng cấp cho nền kinh tế tại một thời điểm. Tổng dư nợ bao gồm dư nợ cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Tổng dư nợ thấp chứng tỏ hoạt động của ngân hàng yếu kém, không có khả năng mở rộng, khả năng tiếp thị của ngân hàng kém, trình độ cán bộ công nhân viên thấp. Mặc dù vậy, không có nghĩa là chỉ tiêu này càng cao thì chất lượng tín dụng càng cao bởi vì đằng sau những khoản tín dụng đó còn những rủi ro tín dụng mà ngân hàng phải gánh chịu. Chỉ tiêu tổng dư nợ phản ánh quy mô tín dụng của ngân hàng, sự uy tín của Ngân hàng đối với doanh nghiệp. Tổng dư nợ của ngân hàng khi so sánh với thị phần tín dụng của ngân hàng trên địa bàn sẽ cho chúng ta biết được dư nợ của ngân hàng là cao hay thấp. Kết cấu dư nợ phản ánh tỷ trọng của các loại dư nợ trong tổng dư nợ. Phân tích kết cấu dư nợ sẽ giúp ngân hàng biết được gân hàng cần đẩy mạnh cho vay theo loại hình nào để cân đối với thực lực của ngân hàng. Kết cấu dư nợ khi so với kết cấu nguồn huy động sẽ cho biết rủi ro của loại hình cho vay nào là nhiều nhất. 2.2 Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn Nợ quá hạn là hiện tượng phát sinh từ mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo khi người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình cho ngân hàng đúng hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của ngân hàng thương mại ở một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm. Tỷ lệ nợ quá hạn =  x 100 % Xét về mặt bản chất, tín dụng là sự hoàn trả, do đó tính an toàn là yếu tố quan trọng bậc nhất để cấu thành chất lượng tín dụng. Khi một khoản vay không được trả đúng hạn như đã cam kết, mà không có lý do chính đáng thì nó sẽ bị chuyển sang nợ quá hạn với lãi suất cao hơn lãi suất bình thường. Trên thực tế, phần lớn các khoản nợ quá hạn là các khoản nợ có vấn đề có khả năng mất vốn. Như vậy, tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì ngân hàng thương mại càng gặp khó khăn trong kinh doanh vì sẽ có nguy cơ mất vốn, mất khả năng thanh toán và giảm lợi nhuận, tức là tỷ lệ nợ quá hạn càng cao, chất lượng tín dụng càng thấp. Mặt khác, để đánh giá chính xác hơn chỉ tiêu này người ta chia tỷ lệ nợ quá hạn ra làm hai loại:  =  x 100% = x 100% Hai chỉ tiêu này cho chúng ta biết được bao nhiêu phần trăm trong tổng nợ quá hạn có khả năng thu hồi, bao nhiêu phần trăm không có khả năng thu hồi. Do vậy sử dụng thêm chỉ tiêu này cho phép đánh giá chính xác hơn chất lượng tín dụng. 2.3 Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng Đây là chỉ tiêu thường được các ngân hàng thương mại tính toán hàng năm để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng.  =  Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng. Vòng quay vốn tín dụng càng cao chứng tỏ nguốn vốn vay ngân hàng đã luân chuyển nhanh, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá. Với một số vốn nhất định, nhưng do vòng quay vốn tín dụng nhanh nên ngân hàng đã đáp ứng được nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, mặt khác ngân hàng có vốn để tiếp tục đầu tư vào các lĩnh vực khác. Như vậy, hệ số này càng tăng phản ánh tình hình quản lý vốn tín dụng càng tốt, chất lượng tín dụng càng cao. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NHCT PHÚ THỌ I/ Khái quát về chi nhánh NHCT Phú Thọ 1/ Quá trình hình thành và phát triển Chi nhánh ngân hàng công thương Vĩnh phú được thành lập năm 1988, khi đó bộ máy của chi nhánh gồm 1 hội sở chính và 2 chi nhánh trực thuộc, hoạt động kinh doanh còn mang nặng tính bao cấp, các dịch vụ ngân hàng hạn chế, quy mô kinh doanh nhỏ bé, đối tượng chủ yếu là các xí nghiệp quốc doanh. Công nghệ ngân hàng ở trình độ sơ khai, thủ công là chủ yếu. Do yêu cầu của kinh tế thị trường ngày càng được mở rộng, nhất là ở những khu vực kinh tế và dân cư tập chung đòi hỏi ngân hàng phải phục vụ nhanh chóng, thuận lợi đáp ứng yêu cầu cho sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế phát triển.Chỉ trong một thời gian ngắn (1988-1996) mô hình tổ chức và mạng lưới hoạt động của chi nhánh ngân hàng công thương Vĩnh Phú cũng đã được mở rộng: từ chỗ chỉ có hai chị nhánh trực thuộc đến năm 1996 đã có năm chi nhánh trực thuộc. Năm 1997, tỉnh Vĩnh Phú được chia tách thành tỉnh Phú Thọ và tỉnh Vĩnh Phúc, chi nhánh NHCT Phú Thọ được thành lập trên cơ sở chia tách NHCT Vĩnh Phú thành 2 chi nhánh NHCT Phú Thọ và NHCT Vĩnh Phúc. Sự ra đời của chi nhánh NHCT Phú Thọ ở giai đoạn này đã góp phần không nhỏ làm cho quy mô và phạm vi hoạt động cũng như năng lực vị thế của hệ thống NHCT được mở rộng thêm đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh trong giai đoạn mới. Đối tượng kinh doanh của chi nhánh NHCT Phú Thọ được mở rộng tới mọi thành phần kinh tế, ngành nghề sản xuất kinh doanh, hiệu quả kinh doanh ngày càng được nâng cao. Chi nhánh ngân hàng công thương Phú Thọ là 1 thành viên hạch toán phụ thuộc của NHCT Việt Nam, hoạt động kinh doanh trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Chi nhánh là đại diện theo uỷ quyền của NHCT Việt Nam, có sự tự chủ kinh doanh theo sự phân cấp của NHCT Việt Nam, chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi đối với NHCT Việt Nam, được hưởng lợi ích theo kết quả kinh doanh và cơ chế tài chính nội bộ trong hệ thống NHCT Việt Nam. 2/ Chức năng và nhiệm vụ. 2.1. Huy động vốn. - Nhận tiền gửi tiết kiệm không kì hạn, có kì hạn, tiền gửi thanh toán của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước bằng VNĐ và ngoại lệ. - Phát hành các chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kì phiếu ngân hàng. - Tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ, vốn uỷ thác đầu tư từ ngân hàng nhà nước và các tổ chức quốc tế, quốc gia, các cá nhân khác có các chương trình phát triển kinh tế văn hoá - xã hội. - Được phép vay vốn ngân hàng nhà nước, các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước. 2.2. Cho vay và đầu tư. - Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn bằng VNĐ và ngoại tệ với các tổ chức kinh tế, dân cư, hộ gia đình. - Kinh doanh ngoại hối: huy động vốn, cho vay, mua, bán ngoại tệ, thanh toán quốc tế. - Kinh doanh các dịch vụ: thanh toán séc du lịch, thanh toán các loại thẻ, ATM, Marter, Visa, dịch vụ chuyển tiền nhanh VNĐ, tư vấn các nghiệp vụ ngân hàng. - Thực hiện nghiệp vụ cầm cố động sản, bất động sản, đầu tư sửa chữa nâng cấp tài sản thế chấp thực Luận văn liên quan Luận văn Thực trạng hiệu quả tín dụng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với người nghèo tại Ngân hang chính sách xã hội Việt Nam 82 trang | Lượt xem: 1417 | Lượt tải: 2 Luận văn Phân tích tình hình hoạt động tín dụng của chi nhánh ngân hàng công thương An Giang 55 trang | Lượt xem: 1762 | Lượt tải: 3 Luận văn Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác khai thác bảo hiểm con người tại văn phòng khu vực 5- Pjico 71 trang | Lượt xem: 1171 | Lượt tải: 1 Luận văn Thực trạng kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại xí nghiệp xây dựng 492 50 trang | Lượt xem: 1478 | Lượt tải: 3 Đề tài Thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng thương mại 65 trang | Lượt xem: 1358 | Lượt tải: 0 Chuyên đề Một số giải pháp góp phần mở rộng hoạt động tín dụng tại ngân hàng Tiên Phong chi nhánh Hồ Chí Minh 73 trang | Lượt xem: 1474 | Lượt tải: 0 Khóa luận Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty CTGT 422 92 trang | Lượt xem: 310 | Lượt tải: 0 Đề tài Các vấn đề cơ bản về lãi suất ngân hàng và vai trò của nó đối với doanh nghiệp 19 trang | Lượt xem: 1829 | Lượt tải: 4 Bài thuyết trình Chương 9- kiểm soát chất lượng và cải tiến 33 trang | Lượt xem: 1447 | Lượt tải: 6 Tiểu luận Đánh giá thực trạng chính sách quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong thời gian qua và những giải pháp kiến nghị 23 trang | Lượt xem: 1655 | Lượt tải: 7 Copyright © 2020 LuanVan.net.vn Website đang trong thời gian thử nghiệm, chờ xin giấy phép của Bộ TT & TT. Thư viện tài liệu và ebook cho sinh viên. Thư viện tài liệu Các bài Soạn văn hay nhất. Chia sẻ:
1614178347293.1.parquet/88509
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 21126, "url": "http://luanvan.net.vn/luan-van/luan-van-mot-so-giai-phap-nang-cao-chat-luong-tin-dung-tai-chi-nhanh-ngan-hang-cong-thuong-phu-tho-10904/" }
122.3
Các Chương trình Thạc sĩ Khoa học Tự nhiên (MSc) Trực tuyến về Khoa học môi trường Hàng đầu ở châu Âu ONLINESTUDIES Xem Các Chương trình Cao học Trực tuyến về Khoa học môi trường ở châu Âu 2021 Thạc sĩ Khoa học độ là một chương trình học cung cấp một chiều sâu giáo dục cho học sinh trong kỷ luật hoặc tập trung mà họ đã chọn. Nhận bằng Thạc sĩ có thể giúp sinh viên trau dồi kỹ năng nghiên cứu của họ cũng như kỹ năng tư duy, lãnh đạo, và thông tin liên lạc quan trọng của họ. Chương trình khoa học môi trường giúp sinh viên sẵn sàng làm việc trong các lĩnh vực có liên quan tới việc duy trì, bảo quản, bảo vệ và nghiên cứu môi trường. Các phương án lựa chọn nghề nghiệp sau khi hoàn thành chương trình này có thể bao gồm nhà động vật học, nhà khí tượng học, nhà khoa học về đất và thực vật, nhà sinh thái học, nhà hóa sinh học, và người điều tiết của chính phủ. Trong tất cả, có hơn 4000 tổ chức giáo dục đại học ở châu Âu cung cấp một loạt các khóa học tại Cử nhân, Thạc sĩ và Tiến Sĩ. Với ngày càng nhiều của các tổ chức cung cấp tiếng Anh như là ngôn ngữ của giáo dục đối với ít nhất một số chương trình đào tạo của họ, trường đại học ở châu Âu hiện nay có chất lượng cao hơn bao giờ hết. Các trường đại học ở châu Âu đưa ra một chào đón thân thiện với sinh viên nước ngoài và để cung cấp cho một khóa học kiến ​​thức đáp ứng nhu cầu nghề nghiệp của họ trong nhu cầu toàn cầu ngày nay. Bắt đầu ngay hôm nay Các Chương trình Thạc sĩ Khoa học Tự nhiên Trực tuyến về Khoa học môi trường Tốt nhất ở châu Âu 2021 Đọc thêm 1 Kết quả trong Khoa học môi trường, Châu Âu Filter Bậc thầy của khoa học, năng lượng và công nghệ môi trường University College of Southeast Norway MSc < Toàn thời gian < 4 học kỳ Anh Trực tuyến Chương trình tập trung vào sản xuất năng lượng thân thiện môi trường từ các nguồn tài nguyên tái tạo và cả hữu hạn và quá trình giảm thiểu ô nhiễm không khí và nước sạch. ... Đọc thêm ONLINESTUDIES Giới thiệu Liên hệ với chúng tôi Điều khoản và điều kiện Quyền riêng tư Quảng bá chương trình của bạn StudentTests Keystone Academic Solutions
1614178347293.1.parquet/169818
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 1800, "url": "https://www.onlinestudies.vn/MSc/Khoa-h%E1%BB%8Dc-m%C3%B4i-tr%C6%B0%E1%BB%9Dng/Ch%C3%A2u-%C3%82u/amp/" }
121.8
 Tổ chức công đoàn và công nhân lao động đóng góp rất quan trọng đối với sự phát triển của tỉnh Trang chủ Giới thiệu chung Lịch sử tổ chức Hệ thống tổ chức Chức năng nhiệm vụ Tin tức - Sự kiện Công tác tuyên truyền giáo dục Công tác chăm lo, đại diện bảo vệ Công tác xây dựng Công đoàn cơ sở Công tác thi đua khen thưởng Công tác Nữ công Thông tin hoạt động đối ngoại Tin Kinh tế - Xã hội Tin tổng hợp Công đoàn trong nước Các tin khác Hệ thống văn bản Hình ảnh hoạt động Hình ảnh hoạt động Chuyên mục Lao động Công đoàn Video Clips Nhạc truyền thống công đoàn Hỏi đáp Liên hệ Các tin khác Tổ chức công đoàn và công nhân lao động đóng góp rất quan trọng đối với sự phát triển của tỉnh (LĐBD) - Nhân dịp chào Xuân Kỷ Hợi 2019, Lao động Bình Dương đã có bài phỏng vấn đồng chí Trần Văn Nam, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Dương về những thành tựu phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh, xây dựng hệ thống chính trị của tỉnh Bình Dương năm 2018, cũng như những chia sẻ, gởi gắm của đồng chí Bí thư đến tổ chức công đoàn, công nhân lao động trong năm 2019. Bí thư Tỉnh ủy Bình Dương Trần Văn Nam PV: Thưa Bí thư, ông có thể đánh giá một cách khái quát nhất về những kết quả nổi bật trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng và xây dựng hệ thống chính trị của tỉnh trong năm 2018?. Bí thư Tỉnh ủy Trần Văn Nam: Năm 2018, mặc dù tình hình chung còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng kinh tế- xã hội của tỉnh tiếp tục có những bước phát triển khá toàn diện trên các lĩnh vực; hầu hết các chỉ tiêu phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh đều thực hiện đạt và vượt so với kế hoạch đề ra. Kinh tế của tỉnh tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định, tổng sản phẩm trong tỉnh tăng 8,68%; GRDP bình quân đầu người đạt 130,3 triệu đồng. Chỉ số phát triển công nghiệp tăng 9,79%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 18%. Tổng thu ngân sách trên 50.000 tỷ đồng. Kim ngạch xuất khẩu đạt 25,3 tỷ đô la Mỹ; thặng dư thương mại trên 4,78 tỷ đô la Mỹ; những năm qua Bình Dương là một trong số ít địa phương luôn có tỷ lệ xuất siêu cao nhất cả nước. Thu hút đầu tư tiếp tục là điểm sáng của tỉnh Bình Dương, trong đó thu hút vốn đầu tư trong nước đạt 65.000 tỷ đồng; thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 2,2 tỷ đô la Mỹ; lũy kế đến hết năm 2018 toàn tỉnh có 3.523 dự án đầu tư nước ngoài được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư với tổng số vốn đăng ký là 32,3 tỷ đô la Mỹ, chiếm 9,3% tổng vốn FDI của cả nước. Công tác đảm bảo an sinh xã hội luôn được tỉnh quan tâm và thực hiện tốt, góp phần đảm bảo sự phát triển bền vững. Trong năm, Tỉnh đã huy động hơn 945 tỷ đồng từ nhiều nguồn lực để chăm lo chu đáo cho các đối tượng chính sách và đối tượng xã hội. Bình Dương nhiều năm liền không còn hộ nghèo theo tiêu chí của Trung ương. Theo chuẩn nghèo đa chiều của tỉnh thì hiện nay toàn tỉnh còn 4.707 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 1,62% và 2.883 hộ cận nghèo, chiếm tỷ lệ 0,99% trong tổng số hộ dân trên địa bàn tỉnh. Các hoạt động lễ hội, văn hóa nghệ thuật diễn ra sôi nổi, đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí của người dân. An ninh chính trị, trật tự an toàn trên địa bàn tỉnh được giữ vững; Tỉnh đã chủ động, linh hoạt triển khai các phương án để ứng phó, xử lý tình huống, kịp thời giải quyết hiệu quả các vấn đề phức tạp, không để bị động, bất ngờ. Năm vừa qua cũng đã ghi nhận những kết quả nổi bật trong công tác đối ngoại, với việc đăng cai tổ chức thành công các sự kiện lớn như: các hoạt động kỷ niệm 20 năm thành lập Hiệp hội Đô thị Khoa học Thế giới (WTA), Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á - Horasis 2018. Đặc biệt, Bình Dương là địa phương đầu tiên của Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Diễn đàn Cộng đồng Thành phố thông minh thế giới (ICF) và được vinh danh là 01 trong 21 thành phố, khu vực có Chiến lược phát triển Thành phố thông minh tiêu biểu của thế giới. Qua những sự kiện đó đã góp phần giới thiệu hình ảnh, nâng cao vị thế của tỉnh, tạo điều kiện giao lưu, hợp tác quốc tế, đặc biệt là thu hút đầu tư. Công tác xây dựng Đảng đạt được nhiều kết quả tích cực, trọng tâm là việc thực hiện Nghị quyết của Đảng về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, gắn với tinh giản biên chế đã được triển khai đồng bộ, với quyết tâm cao, đến nay đã đạt được những kết quả bước đầu khá quan trọng. Trong năm, Tỉnh đã tiến hành sơ kết giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh; qua đó cho thấy hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt tốc độ tăng trưởng tốt, khả năng sẽ hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ của cả nhiệm kỳ, đồng thời tạo được những nền tảng cơ bản cho nhiệm kỳ tiếp theo Có thể nói, những kết quả đạt được về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng trong năm 2018 vừa qua là rất quan trọng và đáng tự hào của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong tỉnh. PV: Thưa Bí thư, tổ chức công đoàn đã có những đóng góp như thế nào trong sự phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh? Đâu là những thách thức của tổ chức công đoàn thời gian tới? Bí thư Tỉnh ủy Trần Văn Nam: Những thành quả mà Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tỉnh Bình Dương đạt được hôm nay là quá trình của sự tìm tòi, sáng tạo với tinh thần biết giữ gìn truyền thống đoàn kết, lãnh đạo quyết đoán, quyết liệt, dám nghĩ, biết làm và dám chịu trách nhiệm trước nhân dân; là sự phấn đấu, nỗ lực, chung sức, đồng lòng của các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân, trong đó có sự đóng góp quan trọng của Công đoàn Bình Dương và phong trào công nhân viên chức lao động tỉnh nhà. Hiện nay dân số của Bình Dương là 2,3 triệu người, trong đó có khoảng 52% là dân nhập cư; tổng số người lao động toàn tỉnh khoảng 1,2 triệu người, với hơn 85% là lao động ngoài tỉnh. Bình Dương cũng là tỉnh có số lượng đoàn viên công đoàn đứng thứ 2 cả nước. Điều này cho thấy lực lượng lao động ngoài tỉnh đã có đóng góp rất lớn vào sự phát triển của tỉnh nhà, đồng thời cũng cho thấy vai trò của Công đoàn Bình Dương là hết sức quan trọng. Trong năm qua, các cấp công đoàn trong tỉnh đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, tích cực đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, thu hút, tập hợp ngày càng đông đảo công nhân lao động tham gia vào tổ chức Công đoàn; tích cực tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần cùng tỉnh thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội và giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Công đoàn Bình Dương đã tích cực phối hợp với các ngành chức năng trong việc kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật về lao động tại doanh nghiệp; phối hợp giải quyết, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, từng bước xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ nơi làm việc của người lao động; cùng với chính quyền, các ngành, các cấp và cộng đồng các doanh nghiệp tập trung chăm lo tốt cho đời sống của người lao động, đặc biệt là trong dịp Tết nguyên đán, Tháng công nhân, ngày thành lập Công đoàn Việt Nam... với nhiều hình thức phong phú, thiết thực, hiệu quả, từ đó giúp cho hàng trăm ngàn công nhân lao động ổn định việc làm, ổn định cuộc sống, ngày càng gắn bó với quê hương mới Bình Dương. Những kết quả đạt được và những đóng góp trong năm 2018 không chỉ cho thấy sự nỗ lực, phấn đấu rất lớn của tập thể cán bộ, công đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động, mà còn khẳng định được vị trí, vai trò, trách nhiệm to lớn của giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung và tỉnh Bình Dương nói riêng. Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả rất tốt trong năm 2018 vừa qua; tuy nhiên, hiện nay tổ chức công đoàn đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức: Trước hết, trong hoạt động của tổ chức công đoàn vẫn còn có những tồn tại, hạn chế nhất định, như việc tổ chức triển khai các hoạt động công đoàn trong các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn; một số doanh nghiệp có đông công nhân nhưng chưa thành lập được công đoàn; công tác tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho người lao động trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước hiệu quả còn hạn chế; tình trạng ngừng việc tập thể, đình công không đúng quy định của pháp luật vẫn còn xảy ra ở các doanh nghiệp có công đoàn; nhiều doanh nghiệp còn vi phạm pháp luật; quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động còn bị xâm phạm... Thứ hai, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhất là sau khi Việt Nam chính thức tham gia Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), đang đặt ra những thách thức rất lớn đối với tổ chức công đoàn Việt Nam nói chung và công đoàn tỉnh Bình Dương nói riêng. Trong điều kiện Bình Dương có nhiều doanh nghiệp, với một lực lượng rất lớn công đoàn viên và công nhân lao động như hiện nay; nếu tổ chức công đoàn tỉnh Bình Dương không nhanh chóng đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và hoạt động, thì sẽ gặp nhiều bất lợi trong việc cạnh tranh, thu hút người lao động, trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động. Tuy khó khăn, thách thức trong thời gian tới là rất lớn, nhưng tổ chức công đoàn cũng sẽ có nhiều thời cơ và thuận lợi, đặc biệt là chúng ta có bề dày truyền thống và kinh nghiệm quý báu đã được hình thành và phát triển trong hơn 89 năm qua; chúng ta đã có được niềm tin và sự gắn bó mật thiết của công nhân lao động; nếu chúng ta biết đổi mới phù hợp sẽ tiếp tục phát triển lên một tầm cao mới, tiếp tục khẳng định được vị trí, vai trò quan trọng của mình. PV: Để hoạt động Công đoàn của tỉnh Bình Dương trong năm 2019 đạt được những kết quả quan trọng, Tỉnh ủy có những chỉ đạo gì, thưa Bí thư? Bí thư Tỉnh ủy Trần Văn Nam: Trong bối cảnh năm 2019 có nhiều thời cơ và thách thức đan xen, đòi hỏi toàn Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh phải tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được, nhanh chóng khắc phục những tồn tại, hạn chế; xác định đúng những nhiệm vụ trọng tâm, then chốt để tập trung thực hiện nhằm hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ theo Nghị quyết năm 2019 của Ban chấp hành đã đề ra. Trong thực hiện nhiệm vụ chung đó thì vai trò của tổ chức công đoàn là khá quan trọng, cần phải lưu ý tập trung cho một số nhiệm vụ trọng tâm sau: Trước hết, tổ chức công đoàn trong tỉnh phải tiếp tục tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ theo Nghị quyết Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ XII và Nghị quyết Đại hội Công đoàn tỉnh lần thứ X; đồng thời bám sát mục tiêu, nhiệm vụ đã được Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh xác định qua sơ kết nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, từ đó xác định được những nhiệm vụ, giải pháp của tổ chức công đoàn và phong trào công nhân viên chức lao động trong tỉnh, để cùng tham gia với cấp ủy, chính quyền thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng an ninh và xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cùng với những tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, đòi hỏi tổ chức công đoàn và công đoàn viên phải đổi mới nhận thức và tư duy trong tình hình mới; phải phát huy tính năng động, sáng tạo, chủ động tìm tòi, xây dựng nhiều mô hình mới, hiệu quả phù hợp với tình hình thực tiễn của tỉnh và quy định của pháp luật để thu hút và tập hợp được đoàn viên, người lao động tham gia. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương thức hoạt động của tổ chức công đoàn. Hoạt động công đoàn trong thời gian tới phải giảm mạnh tính hành chính hóa, nâng cao hơn nữa tính dịch vụ- hỗ trợ, nhất là tổ chức các hoạt động dịch vụ để đoàn viên, người lao động được tiếp cận và thụ hưởng. Tập trung thực hiện những nội dung về quan hệ lao động, các hoạt động thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, đoàn viên công đoàn, đặc biệt Công đoàn cần thể hiện vai trò mạnh mẽ hơn trong thương lượng tập thể, đối thoại xã hội và xây dựng quan hệ lao động hài hòa, bền vững; phải xây dựng sức mạnh công đoàn thông qua thương lượng tập thể thành công; đối thoại xã hội phải thực chất và thực sự tạo được sức mạnh chung của tập thể người lao động để tác động có hiệu quả đến giới chủ. Tổ chức công đoàn phải cùng với chính quyền, doanh nghiệp chăm lo tốt hơn nhu cầu văn hóa, tinh thần của công nhân lao động, thông qua việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, kết hợp với đẩy mạnh xã hội hóa để xây dựng các thiết chế văn hóa, thể dục thể thao, sinh hoạt giải trí phù hợp với nhu cầu sinh hoạt và hưởng thụ của người lao động. Phối hợp với chính quyền thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chế độ, chính sách, pháp luật về lao động, công đoàn; kịp thời kiến nghị xử lý các hành vi xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động. Công đoàn phải thực sự là chỗ dựa vững chắc và là cầu nối giữa quần chúng công nhân, người lao động với Đảng, với chính quyền; đây là cơ sở để khẳng định vị trí, vai trò và sự cần thiết của tổ chức công đoàn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng, với những thành quả đã đạt được trong những năm qua, cùng với sự nỗ lực, đoàn kết, phấn đấu và quyết tâm cao, trong thời gian tới tổ chức Công đoàn các cấp trong tỉnh sẽ thực hiện được những điều đó, góp phần ngày càng quan trọng vào sự phát triển chung của tỉnh. PV: Một mùa xuân mới lại đang về, ai cũng có những ước mong, niềm tin về một năm mới hạnh phúc và thành công hơn. Xin Bí thư chia sẻ một vài cảm nghĩ trước thềm Xuân mới Kỷ Hợi 2019? Bí thư Tỉnh ủy Trần Văn Nam: Có thể nói, chúng ta vừa đi qua năm 2018 với đầy ắp các sự kiện, với nhiều thành công và cũng để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp. Những kết quả mà Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bình Dương đã phấn đấu, nỗ lực thực hiện đạt được trong năm 2018 là rất lớn và cơ bản; đây là nền tảng quan trọng và là niềm tin để chúng ta tiếp tục phấn đấu đạt được nhiều thành tựu quan trọng hơn nữa trong những năm tới. Năm 2019 là năm chúng ta phải tăng tốc bứt phá, không phải chỉ để thực hiện mục tiêu của nhiệm kỳ này, mà còn phải tính toán cho nhiệm kỳ tới, đó là phải tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Cùng với phát triển kinh tế, phải quan tâm hơn nữa đến phát triển văn hóa, xã hội, chăm lo cải thiện đời sống nhân dân; chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tăng cường tiềm lực và đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ để có thể vượt qua thách thức, nắm bắt những thời cơ, đưa tỉnh nhà phát triển nhanh và bền vững. Làm sao để người dân Bình Dương được thụ hưởng những thành quả của tỉnh mang lại một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất... Những vấn đề đó đặt ra cho lãnh đạo tỉnh nhiều trăn trở. Hơn lúc nào hết, chúng ta phải phát huy tinh thần đoàn kết, khai thác tối đa thế mạnh, biết vận dụng và tranh thủ các thời cơ, để tạo ra bước đột phá mới, tạo nền móng cho sự phát triển; trong đó đột phá về phát triển hạ tầng vẫn là khâu quan trọng nhất, cùng với đó là đột phá về đầu tư xây dựng, thu hút đầu tư, đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, huy động tối đa sức mạnh của quần chúng nhân dân trong tham gia phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ an ninh trật tự. Chúng ta phải quyết liệt thực hiện lộ trình xây dựng thành phố thông minh, gắn với phát triển đô thị theo Nghị quyết đã đề ra; cần phải hướng đến xây dựng con người thông minh, tận tụy, trung thành, làm chủ khoa học công nghệ, gắn với xây dựng nếp sống văn minh đô thị, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh. Nhân dịp Xuân mới, Thay mặt Tỉnh ủy- Hội đồng nhân dân- Ủy ban nhân dân- Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam tỉnh Bình Dương, tôi xin chúc toàn thể cán bộ công đoàn, anh chị em đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động luôn dồi dào sức khỏe, an khang, hạnh phúc; chúc cho tổ chức Công đoàn tiếp tục đồng sức, đồng lòng, quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra, góp phần cho Bình Dương thân yêu của chúng ta ngày càng phát triển. Xin cảm ơn Bí thư! THANH THẢO Để lại bình luận Tên đầy đủ * Email * Nội dung * Các tin cùng chuyên mục Đồng chí Lê Hữu Vạn được bầu làm Bí thư Chi đoàn LĐLĐ tỉnh BD nhiệm kỳ 2019-2022 Đại hội CĐVN lần thứ XII: “Đổi mới- Dân chủ- Đoàn kết- Trách nhiệm” DANH SÁCH MÃ VÙNG ĐIỆN THOẠI CHƯƠNG TRÌNH PHÚC LỢI ĐOÀN VIÊN Tính đến 31/8/2016, các DN tỉnh BD đã nợ BHXH gần 783 tỷ đồng Tin tức - Sự kiện Công tác tuyên truyền giáo dục Công tác chăm lo, đại diện bảo vệ Công tác xây dựng Công đoàn cơ sở Công tác thi đua khen thưởng Công tác Nữ công Thông tin hoạt động đối ngoại Tin Kinh tế - Xã hội Tin tổng hợp Công đoàn trong nước Các tin khác Hệ thống văn bản Công văn số 179/UBND-VX của UBND tỉnh Bình Dương về việc triển khai cài đặt ứng dụng VssID - Bảo hiểm xã hội số trên điện thoại thông minh File thiết kế Corel băng rôn, tranh cổ động Tuyên truyền Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Công văn số 17/LĐLĐ ngày 12/1/2021 V/v Đẩy mạnh công tác tuyên truyền Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Tài liệu tuyên truyền Về 75 năm ngày Tổng tuyển cử đầu tiên Bầu Quốc hội Việt Nam (06/01/1946 - 06/01/2021) Công văn số 6254/PCBD-KD ngày 27/11/2020 của Công ty Điện lực Bình Dương V/v PCBD triển khai chương trình khuyến mãi tri ân khách hàng năm 2020 Copyright © 2013 LĐLĐ tỉnh Bình Dương. All right reserved. Thiết kế website và tư vấn chiến lược online marketing bởi BIT.
1614178347293.1.parquet/100820
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 15898, "url": "http://congdoanbinhduong.org.vn/tin-tuc/chi-tiet/to-chuc-cong-doan-va-cong-nhan-lao-dong-dong-gop-rat-quan-trong-doi-voi-su-phat-trien-cua-tinh-1611" }
121.7
Alibre | Data Design VietNam Giới Thiệu Thông Số Kỹ Thuật Phân tích bổ trợ Tin tức Tải về Hỗ trợ Chi tiết tin tức Tìm kiếm Âm mưu thâm độc của Apple: Giết chết công nghệ web, đưa nền tảng của mình lên thế độc tôn Ngày tạo: 12/11/2019 3:58:10 CH Ngôn ngữ lập trình được sử dụng để xây dựng web cũng thường được tái sử dụng trên các ứng dụng. Điều đó phần lớn là do phần mềm cho phép các nhà phát triển sử dụng lại các đoạn mã mà họ viết cho trình duyệt, trong các sản phẩm họ xây dựng để chạy trên các hệ điều hành như Linux, Android, Windows và macOS. Nhưng Apple có một lý do để không thích việc tái chế công nghệ web này. Hãng muốn Mac App Store của nó chứa đầy các ứng dụng mà người dùng không thể tìm thấy ở bất kỳ nơi nào khác, không phải loại ứng dụng có sẵn trên mọi nền tảng. Với một sự thay đổi chính sách gần đây , công ty đã khiến các nhà phát triển gặp khó khăn hơn một chút khi gửi các ứng dụng có chứa mã dựa trên công nghệ web. Cụ thể, Mac App Store đã bắt đầu lặng lẽ từ chối các ứng dụng được tạo bằng một công cụ phổ biến có tên Electron. Đây là một công cụ cho phép các nhà phát triển tạo ra sản phẩm ứng dụng dựa trên mã viết cho trình duyệt. Một số ứng dụng phổ biến nhất trong App Store như Slack, Spotify, Discord và WhatsApp, thuộc danh mục này. Người dùng có thể không cảm nhận được sự độc quyền của Apple trong kinh doanh. Trong một cuộc thảo luận của cộng đồng lập trình viên trên Github, một số nhà phát triển nói rằng động thái này của Apple nhằm hạn chế việc các ứng dụng sử dụng API riêng. Bởi API riêng có thể bị thay đổi hoặc bị tin tặc tấn công phá hủy theo thời gian, điều mà Apple không hề muốn. Tất nhiên, Electron đã sử dụng các API riêng này trong nhiều năm mà không gặp vấn đề gì. Các API riêng này cho phép các nhà phát triển cải thiện đáng kể việc sử dụng năng lượng, trong khi các công cụ đến từ Apple lại làm cho trải nghiệm người dùng trở nên tồi tệ hơn. Và trong phần lớn các trường hợp này, Apple không cung cấp các lựa chọn thay thế thực sự. Bây giờ, hàng ngàn nhà phát triển, những người đã xây dựng ứng dụng của họ bằng Electron có thể gặp khó khăn trong việc phát hành các bản cập nhật mới. Trừ khi chính Electron phát hành một bản cập nhật với các thay đổi lớn để phù hợp với chính sách của Apple. Một biện pháp tình thế khác là các nhà phát triển có thể phân phối ứng dụng của họ từ các trang web của riêng mình, yêu cầu người dùng tải xuống trực tiếp. Nhưng điều đó có nghĩa là từ bỏ các tính năng như cơ chế cập nhật tự động của Apple khỏi Mac App Store và đồng bộ hóa iCloud. Và phương pháp tải trực tiếp này cũng có thể sớm bị khóa, từ phía Apple. Apple trong suốt chiều dài lịch sử của mình đã nhiều lần kìm hãm tiến trình đưa công nghệ web lên trên các nền tảng của mình. Trên iOS, Apple không cho phép các trình duyệt bên thứ ba hoàn toàn độc lập mà yêu cầu tất cả các ứng dụng phải tận dụng trình duyệt Safari khi hiển thị nội dung dựa trên web. Mặc dù các trình duyệt khác như Chrome và Opera có sẵn trên Apple, chúng vẫn phải sử dụng trình duyệt Safari của Apple phía sau để hiển thị các trang web, thay vì tự mình làm việc đó. Điều đó có nghĩa là Apple độc quyền về cách người dùng iPhone và iPad truy cập web. Để thúc đẩy các nhà phát triển hướng tới việc xây dựng các ứng dụng gốc trên iOS thay vì sử dụng các công nghệ dựa trên trình duyệt, Apple đã bỏ qua các đặc tính phổ biến của trình duyệt web. Tất cả vì lợi ích của chính bản thân công ty. Ví dụ, một công nghệ có tên WebRTC cho phép video call trong trình duyệt web mà không cần phần mềm bổ sung. Nó hỗ trợ các công cụ như Google Meet. Nhưng Apple đã cực kỳ chậm triển khai về thông số kỹ thuật, bỏ đi các phần chức năng chính khiến cho công nghệ này không hoạt động khi được nhúng trong các ứng dụng . Apple cũng đã vô hiệu hóa một tiêu chuẩn mới nổi, có tên là Progressive Web Apps (PWAs) - giống như Electron, nó cho phép các nhà phát triển xây dựng các ứng dụng giống nhau trên máy tính để bàn và và thiết bị di động - bằng cách thực hiện các thao tác khiến nó không còn phù hợp. PWA không gặp vấn đề nếu người dùng mở ứng dụng trong Chrome hoặc Firefox, nhưng người dùng iPhone và iPad không thể cài đặt trình duyệt của bên thứ ba, điều này khiến công nghệ dựa trên PWA không khởi động. Apple gần đây đã đưa ra một công cụ có tên Catalyst. Nó cho phép các nhà phát triển ứng dụng iPad nhanh chóng đưa chúng lên macOS. Đây là một công cụ tuyệt vời dành cho các nhà phát triển có ý nhắm mục tiêu vào người dùng Apple, nhưng không phải là công cụ hỗ trợ các ứng dụng xây dựng đa nền tảng. Đôi khi, các nhà phát triển không có lựa chọn nào khác ngoài việc tuân theo luật chơi của Apple. Một cách khéo léo, các hoạt động cạnh tranh của Apple rất tinh tế, khéo léo, tạo ra cảm giác không gây ảnh hưởng nhiều nhưng khi kết hợp cùng với nhau, chúng tạo ra một chiến lược kinh doanh khá rõ ràng. Giống như trò chơi mèo vờn chuột, công ty đang thiết kế một khung hệ thống để kiểm soát các ứng dụng có thể chạy trên nền tảng của mình. Và rõ ràng, các nhà phát triển không có một tiếng nói nào ở đây. Vì Apple kiểm soát nền tảng, công cụ trình duyệt và phương thức phân phối. Và ở một khía cạnh nào đó, chúng giống như một loại lợi thế cạnh tranh độc quyền và các nhà lập pháp cũng chưa thể nghĩ ra các tiêu chuẩn hoặc quy định quản lý phù hợp. Bởi đơn giản là không có cách nào thoát khỏi những hạn chế này khi Apple có quyền kiểm soát tất cả mọi thứ trong nền tảng của chính nó. Nguồn: ictnews Data Design Việt Nam https://datadesign.vn/ Phone:(+84) 028 38115290 Email :sales-ddv@datadesign.vn Địa chỉ: Tầng 7, tòa nhà Scetpa, 19A Cộng Hòa, phường 12, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam :: FaceBook :: LinKedIn THÔNG TIN Giới Thiệu Thông Số Phân Tích Tin tức Tải về Hỗ trợ CỘNG ĐỒNG ALIBRE © 2019-2021 Data Design Viet Nam . Developed by Data Design Viet Nam
1614178347293.1.parquet/66816
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 4718, "url": "http://alibre.vn/tin-tuc/am-muu-tham-doc-cua-apple-giet-chet-cong-nghe-web-dua-nen-tang-cua-minh-len-the-doc-ton" }
121
Có phải xe tự lái đến sự ngẫu nhiên để đưa ra quyết định? Trí tuệ nhân tạo Thẻ Account Sign In Signup Có phải xe tự lái đến sự ngẫu nhiên để đưa ra quyết định? 12 Gần đây tôi đã nghe ai đó đưa ra tuyên bố rằng khi bạn thiết kế một chiếc xe tự lái, bạn không chế tạo một chiếc xe mà thực sự là một người lái xe máy tính, vì vậy bạn đang cố gắng mô hình hóa tâm trí con người - ít nhất là một phần của tâm trí con người có thể lái xe. Vì con người không thể đoán trước được, hay đúng hơn là vì hành động của họ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, một số yếu tố sẽ không giải thích được trong một thời gian dài, một chiếc xe tự lái sẽ phản ánh điều đó như thế nào, nếu họ làm như vậy? Một liều lượng không thể đoán trước có thể có công dụng của nó. Nếu, giả sử, hai chiếc xe tự lái đang bị kẹt trong một tình trạng bế tắc, thì có thể nên tiêm một cách ngẫu nhiên thay vì có thể thấy hành động tương tự được áp dụng cùng một lúc nếu những chiếc xe chạy cùng một hệ thống. Tuy nhiên, mặt khác, chúng ta biết rằng không xác định không phải là bạn với phát triển phần mềm, đặc biệt là trong thử nghiệm. Làm thế nào các kỹ sư có thể kiểm soát nó và lý do về nó? ai-design autonomous-vehicles — guillaume31 nguồn Câu trả lời: 2 Ưu tiên lái xe Khi xem xét loại mô hình cần thiết để tạo ra các phương tiện tự động an toàn và đáng tin cậy, các tiêu chí an toàn và hiệu quả lái xe sau đây cần được xem xét, liệt kê ưu tiên trước tiên. Sự an toàn của những người bên trong xe và bên ngoài xe Giảm hao mòn cho hành khách Sự an toàn của tài sản Sự đến nơi Giảm hao mòn trên xe Tiết kiệm tài nguyên nhiên liệu Công bằng với các phương tiện khác Sự tiết kiệm trong thời gian Chúng được sắp xếp theo cách có ý nghĩa công dân và toàn cầu, nhưng chúng không phải là ưu tiên được thể hiện bởi các trình điều khiển của con người. Sao chép con người hoặc đánh giá lại và thiết kế từ đầu? Bất cứ ai nói rằng mục tiêu của thiết kế xe hơi tự trị là mô hình hóa các phần của tâm trí con người có thể lái xe không nên thiết kế xe tự trị cho sản xuất thực tế. Người ta biết rằng hầu hết con người, mặc dù họ có thể đã nghe về những lời khuyên an toàn sau đây, không thể đưa họ vào ý thức với tốc độ đủ để hưởng lợi từ họ trong việc sắp xếp lái xe thực tế. Khi lốp xe trượt sang một bên, lái vào đường trượt. Khi trượt về phía trước bắt đầu, bơm nghỉ. Nếu ai đó đang đi thẳng vào phía sau xe của bạn, ngay lập tức tăng tốc và sau đó phá vỡ. Trên đường dốc, tăng tốc để phù hợp với tốc độ của những chiếc xe trong làn đường mà bạn hợp nhất, trừ khi không có không gian để hợp nhất. Nếu bạn thấy một mảng băng, hãy lái thẳng và không tăng tốc cũng không giảm tốc một khi bạn chạm tới nó. Nhiều vụ va chạm giữa đầu máy và ô tô là do đèn đỏ gây ra một vạch ở nhiều làn trên đường ray. Thông thường, một người sẽ di chuyển lên đường ray xe lửa để đạt được chiều dài của một chiếc xe trên những chiếc xe khác. Khi những người khác di chuyển để làm cho sự lựa chọn trở nên khó khăn, một rủi ro nghiêm trọng sẽ xuất hiện. Vô lý như hành vi này đối với bất cứ ai theo dõi, nhiều trường hợp tử vong xảy ra khi một đầu máy 2.000 tấn di chuyển nhanh chạm vào thứ cảm giác như một hạt bụi bay vào hành khách đi tàu. Dự đoán và khả năng thích ứng Con người là không thể đoán trước, như câu hỏi chỉ ra, nhưng mặc dù khả năng thích ứng có thể không dự đoán được, nhưng không thể đoán trước có thể không thích nghi. Đó là khả năng thích ứng là cần thiết, và nó cần thiết theo năm cách chính. Thích nghi trong khoảnh khắc đến bất ngờ Thích nghi thông qua kinh nghiệm lái xe nói chung Thích nghi với chiếc xe cụ thể Thích ứng với biểu hiện của hành khách Thích nghi với các vùng bản đồ cụ thể Ngoài ra, lái xe là Cơ khí cao, Trực quan, Thính giác Kế hoạch định hướng Địa lý, và Ưu tiên trong các tình huống bất ngờ. Mô hình hóa phức tạp lái xe Điều này đòi hỏi một mô hình hoặc mô hình bao gồm một số loại đối tượng. Bản đồ Xe Ý định của hành khách Xe khác Vật cản khác Người đi bộ Động vật Ngã tư Tín hiệu giao thông Biển bao Bên đường Không bí ẩn hay bất định Mặc dù các mô hình này gần đúng về mặt nhận thức trong não người, nhưng chúng được mô hình hóa tốt như thế nào và hiệu quả của những mô hình đó đạt được mức độ nào đó gần với sự cân bằng hợp lý của các ưu tiên trên thay đổi tùy theo từng lái xe và thay đổi theo từng chuyến đi cho cùng một lái xe . Tuy nhiên, phức tạp như lái xe, nó không bí ẩn. Mỗi mô hình trên đều dễ dàng được xem xét ở mức độ cao về cách chúng tương tác và các tính chất cơ học và xác suất mà chúng có. Chi tiết những điều này là một nhiệm vụ to lớn và làm cho hệ thống hoạt động đáng tin cậy là một thách thức kỹ thuật quan trọng, bên cạnh câu hỏi đào tạo. Không thể tránh khỏi thành tích Bất kể sự phức tạp, bởi vì kinh tế liên quan và thực tế rằng nó phần lớn là một vấn đề về cơ học, xác suất và nhận dạng mẫu, nó sẽ được thực hiện, và cuối cùng nó sẽ được thực hiện tốt. Khi đó, điều này khó xảy ra với người chấp nhận văn hóa hiện tại của chúng ta là vĩnh viễn, việc lái xe của con người có thể trở thành bất hợp pháp trong thế kỷ này trong một số khu vực pháp lý. Bất kỳ nhà phân tích giao thông nào cũng có thể có hàng đống bằng chứng cho thấy hầu hết con người không được trang bị đầy đủ để lái một cỗ máy nặng hàng tấn ở tốc độ chung. Việc cấp giấy phép lái xe không chuyên nghiệp chỉ được chấp nhận rộng rãi vì sự khăng khăng của công chúng về sự thuận tiện và thoải mái trong giao thông và vì nền kinh tế lực lượng lao động đòi hỏi điều đó. Những chiếc xe tự trị có thể phản ánh khả năng tốt nhất của con người, nhưng chúng có thể sẽ vượt xa chúng bởi vì, mặc dù các vật thể trong mô hình rất phức tạp, nhưng chúng hầu như có thể dự đoán được, ngoại trừ đáng chú ý là trẻ em chơi. Công nghệ AV sẽ sử dụng giải pháp tiêu chuẩn cho việc này. Toàn bộ kịch bản có thể được đưa vào chuyển động chậm để thích ứng cho trẻ em chơi đơn giản bằng cách làm chậm lại. Các thành phần AI đặc biệt phát hiện trẻ em và chó có khả năng xuất hiện sớm, nếu chúng chưa tồn tại. Ngẫu nhiên Sự ngẫu nhiên rất quan trọng trong đào tạo. Chẳng hạn, một người lái xe đua sẽ cố tình tạo ra các loại xe khác nhau để làm quen với cách điều khiển chúng. Trong học máy, chúng tôi thấy một số nhiễu loạn ngẫu nhiên giả được giới thiệu trong quá trình đào tạo để đảm bảo rằng quá trình giảm độ dốc không bị bắt ở mức tối thiểu cục bộ mà có nhiều khả năng tìm thấy mức tối thiểu toàn cầu (tối ưu). Bế tắc Câu hỏi là chính xác khi nói rằng, "Một liều thuốc không thể đoán trước có thể có công dụng của nó." Kịch bản bế tắc là một điều thú vị, nhưng khó có thể xảy ra khi các tiêu chuẩn phát triển. Khi bốn tài xế đến biển báo dừng cùng một lúc, họ thực sự không. Có vẻ như họ đã làm. Khả năng không ai trong số họ đến hơn một phần nghìn giây trước những người khác là nhỏ về mặt thiên văn. Mọi người sẽ không phát hiện (hoặc thậm chí là đủ trung thực) để phân biệt những khác biệt nhỏ về thời gian này, vì vậy người ta thường nói với ai là người duyên dáng nhất để vẫy tay với người khác, và cũng có thể có một số bế tắc ở đó, có thể trở nên hài hước, đặc biệt là vì tất cả trong số họ thực sự muốn có được di chuyển. Xe tự hành sẽ cực kỳ hiếm khi gặp bế tắc không được bao gồm trong cuốn sách quy tắc mà tổ chức cấp phép chính phủ xuất bản, có thể được lập trình thành quy tắc lái xe vào hệ thống. Trong những dịp hiếm hoi đó, các phương tiện có thể rút số kỹ thuật số, như đề xuất, đó là một nơi mà sự khó đoán là thích nghi. Thực hiện thử nghiệm trượt như một người lái xe đua trên Main Street vào nửa đêm có thể là điều mà một số thiếu niên say rượu có thể làm, nhưng đó là một hình thức không thể đoán trước là không thích ứng với thứ tự hợp lý của các ưu tiên lái xe. Không phải là nhắn tin hoặc cố gắng ăn và lái xe. Chủ nghĩa quyết đoán Về tính xác định, trong bối cảnh sử dụng được thảo luận, việc tạo số giả ngẫu nhiên của các bản phân phối cụ thể sẽ đủ. Phát hành bế tắc hoặc Đào tạo tăng tốc và cải thiện độ tin cậy khi có cực tiểu cục bộ không phải là mức tối thiểu toàn cầu trong quá trình tối ưu hóa, Các thử nghiệm chức năng và công nghệ kiểm tra đơn vị không chỉ có thể xử lý việc kiểm tra các thành phần với giả ngẫu nhiên, mà đôi khi chúng còn sử dụng giả ngẫu nhiên để cung cấp phạm vi kiểm tra tốt hơn. Chìa khóa để làm tốt điều này là sự hiểu biết về xác suất và thống kê, và một số kỹ sư và nhà thiết kế AI hiểu rõ về nó. Yếu tố bất ngờ Trong đó tính ngẫu nhiên là quan trọng nhất trong công nghệ AV không nằm ở việc ra quyết định mà là sự ngạc nhiên. Đó là điểm mấu chốt của công việc kỹ thuật đó ngày nay. Làm thế nào một người có thể lái xe an toàn khi một kịch bản hoàn toàn mới xuất hiện trong các kênh âm thanh hoặc hình ảnh? Đây có lẽ là nơi mà sự đa dạng trong suy nghĩ của con người có thể là tốt nhất, nhưng ở tốc độ đường cao tốc, nó thường quá chậm để phản ứng theo cách chúng ta nhìn thấy trong các cảnh rượt đuổi trong phim. Mối tương quan giữa rủi ro và tốc độ Điều này mang đến một sự tương tác thú vị của các yếu tố rủi ro. Người ta cho rằng tốc độ cao hơn là nguy hiểm hơn, cơ học thực tế và xác suất không phải là cắt giảm rõ ràng. Tốc độ thấp tạo ra các chuyến đi dài hơn theo thời gian và mật độ giao thông cao hơn. Một số hình thức tai nạn ít có khả năng ở tốc độ cao hơn, cụ thể là các hình thức liên quan chủ yếu đến mật độ giao thông hoặc tình huống. Các dạng khác có nhiều khả năng ở tốc độ cao hơn, cụ thể là các dạng liên quan đến thời gian phản ứng và ma sát lốp. Với các phương tiện tự trị, độ trượt của lốp xe có thể được mô hình chính xác hơn và thời gian phản ứng có thể là các lệnh có cường độ nhanh hơn, do đó giới hạn tốc độ tối thiểu có thể được áp đặt nhiều hơn và giới hạn trên có thể tăng lên khi chúng ta đưa con người ra khỏi ghế lái. — FauChristian nguồn Cảm ơn câu trả lời tuyệt vời! Quan điểm về việc mô hình hóa một trình điều khiển máy tính đã được đưa ra ở đây - nó không quá nhiều về việc mô phỏng tâm trí con người bằng những sai sót của nó mà chỉ nhấn mạnh rằng phần khó của công việc này là chế tạo AI, không phải là một chiếc xe vật lý. Phép ngoại suy cho chủ đề ngẫu nhiên là của tôi. — guillaume31 Khoảng 09:50: "Tôi gần như thậm chí không thích cụm từ 'xe tự lái' bởi vì nó ngụ ý rằng xe hơi lái xe. Tôi nghĩ những gì chúng tôi thực sự cố gắng xây dựng là một trình điều khiển máy tính. Và sau đó bạn không Nghĩ về bản thân bạn khi chế tạo một chiếc xe hơi, bạn nghĩ về bản thân mình như là một con người. " — guillaume31 @ guillaume31, Cảm ơn bạn đã tốt Q. ... Mặc dù tôi hiểu những gì người viết trích dẫn dự định nói, nhưng trích dẫn chứa một lỗ hổng khái niệm cho mỗi câu. ... Câu 1: AI được đóng gói trong xe trong quá trình sản xuất, vì vậy những chiếc xe sẽ lái. ... Câu 2: Thuật ngữ trình điều khiển máy tính che khuất sự không mong muốn của việc mô hình hóa trí thông minh lái xe sau khi lái xe điển hình của con người. ... Câu 3: Chúng tôi không muốn robot chiếm chỗ. ... Câu trích dẫn minh họa tại sao chỉ 1 trong số 1.000 công ty khởi nghiệp AI này dự kiến ​​sẽ tồn tại. Làm thế nào họ có thể thiết kế rõ ràng nếu họ không thể viết rõ ràng? — FauChristian 2 Xe tự lái áp dụng Học tăng cường và học bán giám sát, điều này cho phép chúng phù hợp hơn với các tình huống mà các nhà phát triển không lường trước được. Một số xe hơi hiện nay áp dụng Swarm Intelligence , nơi chúng học hỏi hiệu quả từ các tương tác giữa chúng, cũng có thể hỗ trợ trong các trường hợp học chuyển. — Simbarashe Timothy Motsi nguồn Khi sử dụng trang web của chúng tôi, bạn xác nhận rằng bạn đã đọc và hiểu Chính sách cookie và Chính sách bảo mật của chúng tôi. Licensed under cc by-sa 3.0 with attribution required.
1614178347293.1.parquet/74590
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 10452, "url": "https://qastack.vn/ai/7541/do-self-driving-cars-resort-to-randomness-to-make-decisions" }
120.5
Probiotics và Phòng chống ung thư: Cuộc trò chuyện với Ross Pelton, RPh, CCN - Shop Mẹ Mit Skip to navigation Skip to content Danh mục sản phẩm Hàng mới về Hàng Nhập Khẩu Hàn Quốc Hàng nhập khẩu Mỹ Đang giảm giá Mẹ và bé Thực phẩm chức năng Mỹ phẩm – Làm đẹp Dầu gội – sữa tắm Dưỡng da Son phấn Hàng công nghệ Đồ gia dụng Nội – Ngoại thất Thời trang Thực phẩm Văn phòng phẩm Đồ chơi BLOG Đánh giá sản phẩm Săn mã giảm giá So sánh giá Search for: Danh mụcĐồ gia dụngDu lịchMỹ phẩm – Làm đẹpHàng công nghệThực phẩm chức năngNội – Ngoại thấtThực phẩmĐang giảm giáHàng mới vềHàng Việt Nam Xuất KhẩuNội thấtĐang HOTHoa quảSáchMẹ và bé Tìm sản phẩm 0 0 0 Your Cart0.00VNĐ 0 0 Menu Close Hàng mới về Hàng Nhập Khẩu Hàn Quốc Hàng nhập khẩu Mỹ Đang giảm giá Mẹ và bé Thực phẩm chức năng Mỹ phẩm – Làm đẹp Dầu gội – sữa tắm Dưỡng da Son phấn Hàng công nghệ Đồ gia dụng Nội – Ngoại thất Thời trang Thực phẩm Văn phòng phẩm Đồ chơi BLOG Đánh giá sản phẩm Săn mã giảm giá So sánh giá Tìm kiếm: Tìm kiếm 0 HomeBLOGSức KhỏeProbiotics và Phòng chống ung thư: Cuộc trò chuyện với Ross Pelton, RPh, CCN Probiotics và Phòng chống ung thư: Cuộc trò chuyện với Ross Pelton, RPh, CCN Sức Khỏe Tháng Mười Hai 4, 2020 Tháng Mười Hai 4, 2020 Contents hide 1 Được tài trợ bởi Essential Formulas Incorporated 2 Giới thiệu về Chuyên gia 3 Về nhà tài trợ 4 Bảng điểm Được tài trợ bởi Essential Formulas Incorporated Theo Tạp chí Y học Tự nhiên https://e.issuu.com/embed.html?identifier=qh59yrh2qw9w&embedType=script#29889758/65246209 Bài viết này là một phần của Ấn phẩm Đặc biệt về Ung thư NMJ năm 2018. Tải toàn bộ vấn đề tại đây . Trong tập podcast này, chúng tôi nói chuyện với Ross Pelton, RPh, CCN, về các cơ chế hoạt động đa dạng của chế phẩm sinh học trong việc giảm nguy cơ ung thư. Pelton cũng nói về ung thư ruột kết, H. pylori , an toàn và liều lượng probiotic. Cuối cùng, ông mô tả cách hỗ trợ một hệ vi sinh vật lành mạnh với lối sống lành mạnh. (Thời gian nghe gần đúng là 32 phút) Giới thiệu về Chuyên gia Ross Pelton, RPh, CCN, là giám đốc khoa học của Essential Formula, ngoài việc là một dược sĩ hành nghề, chuyên gia dinh dưỡng lâm sàng và giáo dục sức khỏe ở Nam Oregon. Pelton lấy bằng cử nhân khoa học dược tại Đại học Wisconsin. Là một chuyên gia dinh dưỡng lâm sàng được chứng nhận, Pelton được tạp chí American Druggist vinh danh là một trong 50 Dược sĩ có ảnh hưởng nhất ở Hoa Kỳ vì công việc của ông trong lĩnh vực y học tự nhiên. Pelton dạy các chương trình giáo dục thường xuyên cho các chuyên gia chăm sóc sức khỏe để sử dụng thuốc tự nhiên và tích hợp nó vào thực tiễn của họ. Ông cũng là tác giả của nhiều cuốn sách, bao gồm Cẩm nang Suy giảm Chất dinh dưỡng Do Thuốc , là cuốn sách tham khảo tiêu chuẩn vàng cho các nhà y tế. Về nhà tài trợ Essential Formulas Incorporated (EFI) được thành lập vào năm 2000 với tư cách là nhà phân phối duy nhất tại Hoa Kỳ của nhà vi sinh vật học nổi tiếng thế giới, Tiến sĩ Iichiroh Ohhira, các sản phẩm chăm sóc da và thực phẩm bổ sung probiotic từng đoạt giải thưởng. Luôn là một nhà cải tiến, EFI đã giới thiệu REG’ACTIV vào năm 2015, có chứa ME-3, một chất xúc tác probiotic tạo ra glutathione oxy hóa “chính” bên trong các tế bào của cơ thể. Là một doanh nghiệp do gia đình sở hữu và điều hành, EFI được thành lập trên triết lý cung cấp các sản phẩm phòng ngừa, hỗ trợ và chăm sóc sức khỏe toàn diện chất lượng cao cho cả gia đình. EFI tiếp tục phát triển và phát triển thông qua một công ty vững mạnh và tính toàn vẹn của sản phẩm cũng như hiểu biết rằng họ đang cung cấp các sản phẩm đã được khoa học chứng minh có tác động tích cực đến sức khỏe và hạnh phúc của khách hàng. Bảng điểm Karolyn Gazella: Xin chào. Tôi là Karolyn Gazella, nhà xuất bản của Tạp chí Y học Tự nhiên . Hôm nay, chủ đề của chúng tôi là giảm nguy cơ ung thư bằng chế phẩm sinh học. Trước khi chúng ta bắt đầu, tôi muốn cảm ơn nhà tài trợ của cuộc phỏng vấn này là Essential Formulas Incorporated. Khách của tôi là dược sĩ và chuyên gia dinh dưỡng tích hợp Ross Pelton, một chuyên gia về chủ đề probiotics và sức khỏe. Ross, cảm ơn bạn rất nhiều vì đã tham gia cùng tôi. Ross Pelton, RPh, CCN: Xin chào, Karolyn. Thật sự rất vui khi được ở bên bạn. Tôi thích những cuộc trò chuyện của chúng tôi. Gazella: Vâng. Trước hết, các tài liệu khoa học xếp chồng lên nhau như thế nào khi nói đến chế phẩm sinh học và phòng chống ung thư? Có các thử nghiệm lâm sàng trên người được công bố không? Pelton: Thực sự không có nhiều thử nghiệm lâm sàng trên người, nhưng thực sự có khá nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để xem xét bệnh ung thư bằng chế phẩm sinh học. Các thử nghiệm lâm sàng trên người còn thiếu, nhưng có rất nhiều việc đã được thực hiện, nghiên cứu nuôi cấy tế bào và nghiên cứu động vật. Có rất nhiều việc đang được thực hiện trong lĩnh vực này. Chúng tôi chỉ không có các thử nghiệm lâm sàng dài hạn trên người, vốn rất tốn kém để thực hiện. Tôi nghĩ rằng có rất nhiều điều để nói vì chúng tôi đã có những nghiên cứu quan trọng đã được công bố về mối quan hệ giữa probiotics và ung thư. Gazella: Đúng vậy. Vì vậy, tôi muốn bắt đầu bằng cách để bạn cung cấp cho chúng tôi một cái nhìn tổng quan về chính xác cách thức probiotics ảnh hưởng đến hệ vi sinh vật để giảm nguy cơ ung thư. Bây giờ, có một số cơ chế hoạt động. Vì vậy, hãy tiếp tục và điền vào cho chúng tôi. Pelton: Chắc chắn. Một số chế phẩm sinh học của bạn tạo ra các hợp chất có hoạt tính chống oxy hóa. Một số trong số chúng có hoạt tính chống viêm. Chúng giúp điều hòa giải độc. Rất nhiều chức năng này là do vi khuẩn probiotic của bạn tạo ra các hợp chất thứ cấp hoặc chất chuyển hóa thứ cấp được gọi là chất chuyển hóa sau sinh học. Đây thực sự là biên giới mới trong khoa học hệ vi sinh vật, bắt đầu tìm hiểu thêm về các hợp chất mà vi khuẩn probiotic của bạn tạo ra khi chúng tiêu hóa và lên men thức ăn mà bạn cung cấp cho chúng. Hãy nhớ rằng, những hợp chất này có hoạt động chống ung thư hoặc cơ chế bảo vệ giúp bảo vệ khỏi ung thư. Gazella: Vì vậy, tôi muốn tập trung vào các cơ chế hoạt động này vì chúng liên quan đến việc giảm nguy cơ ung thư. Vì vậy, hãy bắt đầu với một cơ chế nổi tiếng hơn và đó là, như bạn đã đề cập, probiotics ảnh hưởng đến khả năng miễn dịch. Mô tả những gì tài liệu khoa học cho chúng ta biết về chế phẩm sinh học và hệ thống miễn dịch. Pelton: Chúng ta biết rằng 70% đến 80% tế bào trong hệ thống miễn dịch của bạn nằm trong ruột. Vì vậy, điều thực sự quan trọng là phải có một hệ vi sinh vật khỏe mạnh, một đường tiêu hóa khỏe mạnh vì đó là phần lớn các tế bào của hệ thống miễn dịch của bạn. Một điều mà nhiều người không nhận ra là trong 6 tháng đầu đời, chức năng chính của vi khuẩn probiotic là đào tạo hệ thống miễn dịch của bạn. Vì vậy, điều thực sự quan trọng là trẻ em phải có một khởi đầu tốt trong cuộc sống với việc sinh thường qua ngã âm đạo và bú mẹ đầy đủ và đối với những trẻ không có, đó là hệ thống miễn dịch bị tổn hại. Ruột là trụ sở của hệ thống miễn dịch và vi khuẩn probiotic là thứ đào tạo hệ thống miễn dịch. Gazella: Vậy bây giờ, còn một hoạt động có thể ít được biết đến, như bạn đã đề cập, là tiềm năng chống oxy hóa của probiotics? Điều này có thể không nằm trong tầm ngắm của một số học viên. Mô tả cơ chế hoạt động này. Pelton: Chắc chắn. Chúng tôi biết rằng các gốc tự do gây tổn thương DNA và có thể làm tăng nguy cơ ung thư của bạn. Trong tình trạng viêm nhiễm ở đường tiêu hóa, có rất nhiều gốc tự do được tạo ra và một số vi khuẩn probiotic của bạn có hoạt tính chống oxy hóa và chúng cũng tạo ra các hợp chất có hoạt tính chống oxy hóa. Có 2 điều đang xảy ra ở đây. Bản thân một số vi khuẩn là chất chống oxy hóa, nhưng quan trọng hơn, chúng tạo ra các hợp chất có hoạt tính chống oxy hóa trực tiếp. Về mặt đó, chúng làm giảm tác hại của các gốc tự do và giảm nguy cơ ung thư, đặc biệt là đối với ung thư ruột kết, nơi có rất nhiều hoạt động của các gốc tự do trong ruột kết bị viêm nặng. Gazella: Vâng. Chúng ta chắc chắn sẽ nói về ung thư ruột kết, nhưng bây giờ, khi nói đến ảnh hưởng này đối với khả năng miễn dịch và chống oxy hóa, có nghiên cứu in vivo hoặc nghiên cứu trong ống nghiệm chỉ ra probiotics, loại probiotics nào có thể giúp tăng cường khả năng miễn dịch và chống oxy hóa? Pelton: Chắc chắn. Có cả một số vi khuẩn sản xuất axit lactic, các chủng Lactobacillus , và một số Bifidobacteria , vi khuẩn cư trú chủ yếu ở ruột già và ruột kết. Một trong những loại chất chống oxy hóa mà chúng tạo ra, chúng được gọi là exopolysaccharid. Đó là một từ lớn đối với con người, nhưng nó chỉ có nghĩa là có những chuỗi đường mà vi khuẩn sản xuất và sau đó chúng đào thải chúng ra ngoài và chúng có hoạt tính chống oxy hóa. Vì vậy, đây chỉ là một trong những cơ chế hoạt động mà cả Lactobacillus và Bifidobacteria đều có thể tạo ra các hợp chất chống oxy hóa làm giảm nguy cơ ung thư. Gazella: Vì vậy, nghiên cứu cho chúng ta biết rằng chế phẩm sinh học có thể ảnh hưởng đến sự biểu hiện gen. Cho chúng tôi biết điều này tác động như thế nào đến việc giảm nguy cơ ung thư. Pelton: Rất nhiều chủng vi khuẩn probiotic khác nhau có thể ảnh hưởng đến sự biểu hiện gen. Chúng có thể ảnh hưởng đến quá trình apoptosis, tức là tốc độ chết của tế bào. Chúng có thể ảnh hưởng đến di căn. Chúng có thể ảnh hưởng đến các tế bào gốc ung thư. Chúng có thể điều chỉnh các gen ức chế khối u. Vì vậy, một số cách khác nhau mà vi khuẩn probiotic và các hợp chất mà chúng tạo ra, các chất chuyển hóa sau sinh học này có thể ảnh hưởng đến sự biểu hiện gen mà cuối cùng sẽ ảnh hưởng đến nguy cơ ung thư. Gazella: Vì vậy, hiện nay, có một lượng đáng kể bằng chứng và nghiên cứu cho thấy chất độc có thể làm tăng nguy cơ ung thư. Probiotics đóng vai trò gì trong việc trung hòa một số độc tố này hoặc hỗ trợ giải độc một số độc tố này? Pelton: Chắc chắn. Đây thực sự là một phạm trù khá rộng. Có rất nhiều cách khác nhau để chế phẩm sinh học có thể có khả năng giải độc. Một số chủng vi khuẩn có thể giải độc hoặc làm giảm sự hấp thụ của một yếu tố nguy cơ ung thư được gọi là bisphenol A. Hiện có rất nhiều nghiên cứu về chất đó cho thấy nó làm tăng nguy cơ ung thư. Đây là một hợp chất có trong rất nhiều sản phẩm được bán trên thị trường, đặc biệt là các sản phẩm dành cho trẻ em. Một số chủng giải độc một số thuốc trừ sâu nông nghiệp. Một trong những sản phẩm của Essential Formulas, Reg’Activ, có chứa một chủng vi khuẩn được gọi là Lactobacillus fermentum ME3, và chủng vi khuẩn đó điều chỉnh một nhóm các enzym gọi là enzym paraoxonase. Những enzym đó giải độc trực tiếp những thứ như organophosphates, một trong những loại thuốc trừ sâu được sử dụng phổ biến trong ngành nông nghiệp. Các chủng khác có thể liên kết trực tiếp một số độc tố kim loại nặng như thủy ngân, chì và cadmium. Chúng cũng làm giảm sự hấp thụ các độc tố kim loại nặng này khi chúng liên kết lại để chúng không bị hấp thụ vào hệ thống của bạn. Chúng bị đào thải. Một số chủng thực sự chuyển hóa chất bảo quản thực phẩm gây ung thư như natri nitrat, và Bifidobacteria có thể phân hủy và giải độc một hợp chất rất nghiêm trọng gọi là perchlorate. Chúng ta tiếp xúc với perchlorate từ phân bón trong môi trường và rất nhiều chất đó trong ngành nông nghiệp. Các amin dị vòng thường gây ra khi nấu thịt ở nhiệt độ cao. Vì vậy, những người ở giữa nước Mỹ, những người ăn thịt và khoai tây, họ đang ở ngoài đó với những bữa tiệc nướng của họ và họ đang sản xuất những amin dị vòng này. Một số sinh vật Lactobacillus làm giảm độc tính từ các amin dị vòng. Đó chỉ là một số cách khác nhau mà vi khuẩn probiotic của bạn hoạt động như chất giải độc trong đường tiêu hóa. Gazella: Vâng. Đó là một danh sách dài, ấn tượng. Bây giờ, tôi muốn quay lại ME3 mà bạn đã đề cập. Có nghiên cứu khoa học về điều đó không- Pelton: Có. Gazella: … căng thẳng, ME3? Pelton: Đó là một chủ đề thực sự, thực sự hấp dẫn bởi vì Lactobacillus fermentum ME3 tổng hợp glutathione. Glutathione là chất điều chỉnh chính của quá trình giải độc trong toàn bộ hệ thống của bạn và mọi tế bào đều sản xuất glutathione, nhưng rất khó để tăng mức độ glutathione của bạn bởi vì khi bạn dùng nó bằng đường uống, nó sẽ bị oxy hóa, bị phân hủy và phá hủy nên bạn không hấp thụ được. nó. Nhưng bây giờ chúng ta đã có một chủng vi khuẩn, đây là Lactobacillus fermentum ME3, nơi vi khuẩn thực sự tổng hợp glutathione. Có, chúng tôi có các thử nghiệm lâm sàng trên người cho thấy hoạt động chống oxy hóa của glutathione được sản xuất bởi vi khuẩn probiotic ME3 sẽ làm giảm mức cholesterol LDL bị oxy hóa, do đó bạn giảm nguy cơ tim mạch và nó thực hiện tốt công việc tăng cường giải độc trên toàn bộ cơ thể. Thử nghiệm lâm sàng trên người, những người dùng ME3 đã tăng đáng kinh ngạc 49% tỷ lệ giữa glutathione bị oxy hóa thành glutathione giảm và glutathione bị khử là dạng hoạt động. Tỷ lệ glutathione bị khử thành oxy hóa tăng 49% là một dấu hiệu có ý nghĩa rất lớn. Đây thực sự là một cuộc cách mạng trong chăm sóc sức khỏe và y học để có thể tăng mức glutathione của bạn một cách thường xuyên bởi vì, như tôi đã đề cập, glutathione điều chỉnh quá trình giải độc của bạn. Nó cũng được gọi là chất chống oxy hóa chính và có thể bảo vệ cơ thể của bạn nhiều hơn tất cả các chất chống oxy hóa khác cộng lại. Đây là một lĩnh vực thực sự đáng kinh ngạc cả về khả năng bảo vệ chống oxy hóa và giải độc. Gazella: Điều đó thật tuyệt. Vì vậy, tôi muốn chuyển bánh răng và tôi muốn nói về các bệnh ung thư cụ thể. Khi tôi nghĩ về men vi sinh và ung thư, tôi thường nghĩ đến ung thư ruột kết. Bạn đã đề cập đến điều đó trước đây. Probiotics có thể đóng vai trò gì trong việc giảm nguy cơ ung thư ruột kết? Pelton: Có một số cách để điều này có thể xảy ra. Vi khuẩn bệnh lý sẽ chuyển hóa axit mật thành các chất chuyển hóa thứ cấp thúc đẩy ung thư. Khi bạn có sự cân bằng axit-bazơ thích hợp trong đường tiêu hóa, sẽ làm giảm đáng kể việc chuyển đổi các axit mật này thành các chất chuyển hóa thứ cấp gây ung thư hơn. Vì vậy, duy trì sự cân bằng axit-bazơ thích hợp, đó là những gì vi khuẩn probiotic làm khi chúng tạo ra những thứ như axit béo chuỗi ngắn và axit hữu cơ và axit nucleic, chúng tạo ra sự cân bằng axit-bazơ thích hợp làm giảm sự chuyển đổi axit mật thành thứ cấp. chất chuyển hóa gây ung thư. Chế phẩm sinh học của bạn cũng có thể ức chế hoạt động của các enzym gây ung thư. Chúng ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn tạo ra các enzym phân hủy các chất gây ung thư. Ý tôi muốn nói là rất nhiều chất gây ung thư bị kết dính và chúng phải được đào thải ra ngoài khi bạn đi tiêu, nhưng nếu bạn không đào thải tốt và để mọi thứ ở trong ruột kết quá lâu, thì những chất ung thư đó- khiến những thứ bị ràng buộc có thể được giải phóng và tái hấp thu. Vì vậy, chế phẩm sinh học thực sự có thể ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn sản sinh ra các enzym loại bỏ các chất gây ung thư này. Các vi khuẩn tốt thực sự đang giữ cho các sản phẩm phụ gây ung thư này kết dính lại để chúng bị đào thải khỏi cơ thể bạn. Gazella: Nói về vi khuẩn, người ta đã biết rộng rãi rằng có mối liên hệ giữa H. pylori và ung thư. Bạn có thể mô tả mối liên hệ đó và cho chúng tôi biết làm thế nào chế phẩm sinh học có thể giúp ngăn chặn hoặc thậm chí đảo ngược vi khuẩn H. pylori ? Pelton: Chắc chắn. Đó là một chủ đề lớn khác bởi vì hiện nay vi khuẩn H. pylori đã được phát hiện và hiểu rõ, chúng tôi nhận ra rằng đó là nguyên nhân chính gây ung thư dạ dày và ung thư ở phần trên ruột non. Đây là một loại vi khuẩn thú vị. Nó có một cái đuôi vặn thừng và nó có thể chui vào lớp niêm mạc trong dạ dày hoặc lớp niêm mạc trong ruột non. Khi điều đó xảy ra, bạn đã có một lỗ thủng trên thành ruột. Sau đó, bạn nhận được các axit và các enzym tiêu hóa bị rò rỉ, tạo ra chứng viêm, và bạn sẽ có tỷ lệ mắc bệnh ung thư cao hơn. Nếu bạn có một hệ vi sinh vật tốt, khỏe mạnh và đủ số lượng vi khuẩn tốt, bạn sẽ ngăn chặn sự phát triển hoặc phát triển quá mức của H. pylori . Có một chút tranh cãi về việc mọi người có nên cố gắng diệt trừ hoàn toàn H. pylori hay không . Một số người, một số … Martin Blaser là một trong những nhà khoa học hàng đầu đang khám phá điều này và nói rằng có lẽ chúng ta không nên loại bỏ hoàn toàn H. pylori , nhưng những người có H. pylori phát triển quá mức chắc chắn có nguy cơ mắc ung thư dạ dày và nhỏ ung thư đường ruột. Nó có một hệ vi sinh vật tốt và đủ số lượng vi khuẩn tốt của bạn sẽ giữ cho H. pylori trong tầm kiểm soát và không phát triển quá mức để bạn giảm nguy cơ ung thư. Gazella: Một số triệu chứng của sự phát triển quá mức của H. pylori là gì? Ý tôi là làm thế nào một bác sĩ nhận ra điều này trong quần thể bệnh nhân của họ? Pelton: Đúng như tôi đã mô tả, vi khuẩn có cái đuôi hình xoắn ốc này chui qua lớp niêm mạc không được bảo vệ trong dạ dày hoặc ruột non của bạn. Khi bạn có lỗ đó trên lớp lót, bạn đã bị loét. Thật đau đớn. Axit tiêu hóa, axit dạ dày, axit mật và ruột non của bạn. Sau đó, chúng đi qua màng nhầy vốn là hàng rào bảo vệ của bạn và tiếp xúc trực tiếp với các tế bào lót đường tiêu hóa của bạn. Khi lớp bảo vệ chất nhờn đó bị phá vỡ, các axit đó sẽ tiếp xúc với các tế bào nằm trên đường tiêu hóa và gây đau đớn. Bạn có một vết loét và bạn nói “Ôi trời. Đau quá.” Vì vậy, mọi người thực sự thường bỏ ăn bởi vì mỗi lần họ ăn, họ nhận được nhiều dịch tiêu hóa hơn ở vị trí bị loét đó. Bạn cần chữa lành vết loét đó.H. pylori là một chuyện, nhưng bạn cũng phải mất thời gian để chữa lành vết loét. Gazella: Vâng, điều đó rất có ý nghĩa. Cho đến nay, chúng ta đã nói về ung thư ruột kết, dạ dày, GI trên. Có bất kỳ bệnh ung thư nào khác khi sử dụng men vi sinh không? Ý tôi là bạn có khuyên dùng probiotic như một chiến lược giảm thiểu rủi ro trên diện rộng không? Pelton: Tôi hiểu vì hệ thống miễn dịch của bạn có liên quan trực tiếp đến các yếu tố nguy cơ ung thư. Rất nhiều người không nhận ra rằng men vi sinh có tác dụng bên ngoài đường ruột. Bây giờ chúng ta biết rằng những thứ như axit béo chuỗi ngắn được hấp thụ vào hệ thống của bạn và thực sự có thể làm giảm nguy cơ ung thư gan. Đó là một hiệu ứng toàn thân. Các vi khuẩn này không chỉ là tác động cục bộ trong đường tiêu hóa. Tôi sử dụng sự tương tự của Mission Control tại NASA, nơi các máy tính đó đang điều khiển các chuyến bay vào vũ trụ của bạn. Các chế phẩm sinh học và các chất chuyển hóa sau sinh học trong ruột non và ruột già của bạn thực sự là Kiểm soát sứ mệnh cho tất cả các tác động điều chỉnh sức khỏe trong toàn bộ cơ thể của bạn. Có một nghiên cứu mới mà tôi muốn chia sẻ với bạn, Karolyn, được xuất bản gần đây trên một tạp chí có tên Oncotarget . Đó là một tạp chí về ung thư. Nó nói rằng chất diệt ung thư trong hệ vi sinh vật đường ruột của con người. Một trong những điều họ đang báo cáo ở đây là họ xác định được vi khuẩn đường ruột biểu hiện các hoạt động kháng ung thư mạnh mẽ trên một loạt các bệnh ung thư thể rắn và bệnh bạch cầu. Vì vậy, đây là một bài báo tương đối mới vừa được xuất bản vào tháng 7 năm 2017, xác định rằng các chất chuyển hóa sau sinh học và vi khuẩn probiotic của bạn đang giúp giảm cả khối u ung thư rắn và bệnh bạch cầu. Đây chỉ là một báo cáo mới thú vị nhấn mạnh hơn về khả năng chống ung thư của vi khuẩn probiotic của bạn. Gazella: Vâng. Tôi nghĩ rằng lĩnh vực nghiên cứu này sẽ thực sự bùng nổ. Hiện nay, rất nhiều bệnh nhân đến phòng khám của bác sĩ và họ nói “Ồ, tôi ổn. Tôi không cần bổ sung probiotic vì tôi ăn sữa chua hàng ngày”, hoặc đại loại như vậy. Mức độ dễ hay khó để có được lợi khuẩn chúng ta cần từ chế độ ăn uống? Pelton: Nó phụ thuộc vào ý bạn của chế độ ăn kiêng. Nếu mọi người đang ăn thực phẩm lên men, đó là một nguồn vi khuẩn probiotic thực sự tốt, nhưng hầu hết mọi người không ăn dưa cải bắp, kim chi và tempe và những thứ tương tự. Hầu hết các loại thực phẩm không có vi khuẩn probiotic. Mọi người nghĩ về sữa chua, nhưng sữa chua thương mại có rất nhiều đường thực sự thúc đẩy sự phát triển của vi khuẩn bệnh lý và nấm men như nấm candida. Vì vậy, sữa chua thương mại nói chung không phải là một ý tưởng hay về việc không có được nguồn vi khuẩn probiotic tốt. Bạn đang thực sự chống lại sức khỏe của đường tiêu hóa và hệ vi sinh vật của bạn. Nếu mọi người tự sản xuất sữa chua thì sẽ có một số loại tốt. Đúng. Nhưng bạn thực sự không nhận được mức độ đa dạng của vi khuẩn trong sữa chua, và một hệ vi sinh vật khỏe mạnh là một hệ vi sinh vật đa dạng, có nghĩa là bạn muốn có được nhiều loại vi khuẩn khác nhau. Cách tốt nhất để làm điều đó là thực hiện một chế độ ăn uống có nhiều loại thực phẩm giàu chất xơ khác nhau, đặc biệt là các loại rau nhiều màu. Đó là nguồn thức ăn số một cho vi khuẩn của bạn. Gazella: Đúng vậy. Chúng ta phải nuôi những vi khuẩn tốt đó. Pelton: Đúng vậy. Gazella: Vì vậy, bây giờ, bạn đại diện cho một loại probiotic cụ thể, nhãn hiệu của Tiến sĩ Ohhira. Tại sao bạn lại đề xuất nhãn hiệu probiotic cụ thể đó? Pelton: Tôi rất vui vì bạn đã hỏi điều đó. Tôi là giám đốc khoa học của Essential Formulas, và Probiotics của Tiến sĩ Ohhira là dòng sản phẩm chính của chúng tôi. Tiến sĩ Ohhira’s Probiotics được tạo ra khác với mọi loại probiotic khác trên thế giới. Thực tế thì hơi khó hiểu, nhưng Probiotics của Tiến sĩ Ohhira thực sự không phải là một chế phẩm sinh học. Nó chủ yếu là một loại thực phẩm lên men. Tiến sĩ Ohhira’s Probiotics được sản xuất trong một hệ thống sản xuất lên men. Chúng tôi có các thùng lên men lớn trong một nhà kho và chúng tôi bắt đầu với 12 chủng vi khuẩn probiotic. Sau đó, vào những thời điểm thích hợp theo mùa trong năm, chúng tôi cắt nhỏ và thu hoạch hàng chục loại thực phẩm được trồng hữu cơ khác nhau. Có trái cây và rau, nấm và rong biển. Sau đó, vi khuẩn sẽ tiêu hóa và lên men những thực phẩm này trong 3 năm trước khi thành phẩm. Trong quá trình lên men đó, vi khuẩn đang phân hủy thức ăn và tạo ra nhiều loại hợp chất mà ngày nay chúng ta gọi là chất chuyển hóa hậu sinh học. Như tôi đã đề cập trước đó, đây là những hợp chất điều chỉnh sức khỏe chính trong hệ thống của chúng tôi. Vì vậy, Probiotics của Tiến sĩ Ohhira đã được thử nghiệm và chúng tôi phát hiện ra có hơn 400 chất chuyển hóa sau sinh học trong Probiotics của Tiến sĩ Ohhira. Chúng tôi chủ yếu không chỉ cung cấp vi khuẩn probiotic. Chúng tôi đang cung cấp hơn 400 chất chuyển hóa sau sinh học này nhanh chóng tạo ra sự thay đổi trong đường tiêu hóa. Bạn nhanh chóng giảm viêm, tái cân bằng mức axit-bazơ, thúc đẩy sự phát triển của các tế bào mới khỏe mạnh nằm trong đường tiêu hóa, tín hiệu tế bào và giao tiếp não-ruột trực tiếp với các chất chuyển hóa sau sinh học. Chúng tôi nhận được cái mà chúng tôi gọi là phục hồi hệ vi sinh vật nhanh chóng hoặc sửa chữa hệ thống vi sinh vật nhanh chóng. Các công ty khác chỉ cung cấp cho bạn vi khuẩn trong viên nang. Đó giống như một nền văn hóa khởi đầu. Những vi khuẩn đó vẫn chưa thực hiện bất kỳ công việc nào. Vi khuẩn của chúng tôi đã làm việc trong 3 năm để tạo ra các chất chuyển hóa sau sinh học vào thời điểm bạn ăn chúng. Đó là sự khác biệt lớn. Tiến sĩ Ohhira’s Probiotics khác với mọi loại men vi sinh khác trên thế giới. Khoa học mới về hệ vi sinh vật, biên giới mới trong khoa học về hệ vi sinh vật đang bắt đầu nhận ra rằng chính những chất chuyển hóa sau sinh học này có tác dụng điều chỉnh sức khỏe tổng thể trong đường tiêu hóa và tác dụng điều chỉnh sức khỏe cho toàn bộ cơ thể. Vì vậy, bằng cách cung cấp trực tiếp các chất chuyển hóa sau sinh học này, Gazella: Bây giờ, tôi biết sản phẩm đặc biệt này không cần phải để trong tủ lạnh. Tại sao vậy? Pelton: Những vi khuẩn này học cách phát triển và tồn tại ở nhiệt độ phòng trong suốt 3 năm lên men. Chúng không cần phải được làm lạnh, điều này làm cho chúng rất thân thiện với người dùng. Ngoài ra, chúng nằm trong một viên nang đã được cấp bằng sáng chế để giữ cứng trong môi trường axit khắc nghiệt trong dạ dày. Sau đó, nó ưu tiên giải phóng các chất trong ruột non. Vì vậy, nó không có gì khác biệt nếu bạn dùng nó cùng với thức ăn hoặc lúc bụng đói. Bạn dùng cách nào cũng được, chỉ cần điều chính là 2 viên một lần một ngày. Hãy đến gặp bác sĩ Ohhira thường xuyên và bạn sẽ duy trì được một hệ vi sinh vật khỏe mạnh. Gazella: Vâng. Tôi muốn nói một chút về liều lượng vì thành thật mà nói, có vẻ như bạn có thể hỏi 3 chuyên gia khác nhau về liều lượng và họ sẽ cho bạn 3 câu trả lời khác nhau. Khi nói đến liều lượng cụ thể để ngăn ngừa ung thư, đó có phải là 2 viên mỗi ngày? Điều đó cung cấp những gì về CFU hoặc các chủng khác nhau cho hai giới hạn mỗi ngày? Pelton: Tốt 2 viên một ngày là liều lượng được khuyến nghị. Một điều chúng tôi nhấn mạnh, chúng tôi không quan tâm đến việc chúng ta có bao nhiêu triệu hay bao nhiêu tỷ vi khuẩn. Có một trò chơi số thực sự là một quan niệm sai lầm của mọi người khi chúng ta đang nói về chế phẩm sinh học mà họ gọi là vi khuẩn có sẵn CFU, viết tắt của các đơn vị hình thành thuộc địa. Nó thực sự chỉ có nghĩa là số lượng vi khuẩn sống sót, nhưng mọi người có quan niệm sai lầm rằng càng nhiều thì càng tốt. Họ nói “Của tôi có 30 tỷ. Của tôi có 50 tỷ. Ồ, của tôi có 100 tỷ.” Họ nghĩ rằng nhiều hơn là tốt hơn. Một trong những yếu tố quan trọng nhất trong một hệ vi sinh vật khỏe mạnh là sự cân bằng. Nếu bạn dùng liều lượng lớn ngay cả khi là một chủng vi khuẩn khỏe mạnh, bạn đang không có lợi cho sự cân bằng. Bạn đang thực sự chống lại việc tạo ra sự cân bằng trong hệ vi sinh vật. Vì vậy, việc có nhiều chủng, liều lượng cao và số lượng nhiều không quan trọng. Tốt hơn hết là bạn nên có một chế phẩm sinh học đa chủng, nhiều chủng khác nhau nhưng ở liều lượng thấp hơn. Tôi thực sự nói trong các bài giảng và hội thảo của mình về việc sử dụng men vi sinh liều cao. Tôi không nói rằng chúng không bao giờ thích hợp. Một sản phẩm như VSL3, là một chế phẩm sinh học theo toa, tôi nghĩ rằng nó có 112 tỷ vi khuẩn mỗi liều. Những người đó đã có một số nghiên cứu tốt và đã ghi nhận những lợi ích từ chế phẩm sinh học liều cao của họ, nhưng tôi không nghĩ rằng chế phẩm sinh học liều cao phù hợp trên cơ sở duy trì lâu dài. Bạn muốn phấn đấu cho sự cân bằng và đa dạng. Gazella: Vâng, tôi đồng ý với điều đó. Có bao nhiêu chủng trong sản phẩm của Tiến sĩ Ohhira? Pelton: Tiến sĩ Ohhira có 12 chủng. Chúng tôi bắt đầu với 12 chủng trong quá trình sản xuất. Chúng tôi là một chế phẩm sinh học đa chủng. Tôi không chắc, nhưng Tiến sĩ Ohhira có thể là nhà khoa học đầu tiên trên thế giới hiểu được khái niệm và tầm quan trọng của một chế phẩm sinh học đa chủng vì ông đã tạo ra Probiotics của Tiến sĩ Ohhira cách đây 30 năm. Gazella: Vâng. Vì vậy, chúng ta hãy nói một chút về an toàn. Khi nói đến phòng chống ung thư, men vi sinh có an toàn cho đa số bệnh nhân hay không hay có bệnh nhân hoặc nhóm bệnh nhân nào không nên dùng men vi sinh để giúp giảm nguy cơ ung thư? Pelton: Không, mọi người nên dùng men vi sinh. Một trong những điều quan trọng nhất đối với sức khỏe là một hệ vi sinh vật khỏe mạnh. Giờ đây, chúng tôi hiểu rằng một hệ vi sinh vật khỏe mạnh là nền tảng của sức khỏe. Tôi nghĩ rằng điều quan trọng là mọi người phải nhận ra rằng hỗ trợ và duy trì một hệ vi sinh vật khỏe mạnh là một yếu tố quan trọng để điều chỉnh sức khỏe. Không có chống chỉ định. Tôi muốn đề cập ngắn gọn, Karolyn, có 2 nghiên cứu gần đây được công bố trên tạp chí Cell đã thu hút được rất nhiều công chúng vì họ nghi ngờ về hiệu quả của probiotics. Các nhà khoa học đã tiến hành các nghiên cứu này nói rằng kết quả của họ cho thấy men vi sinh gần như vô dụng. Đã có rất nhiều phản hồi sau khi công bố các nghiên cứu này. Hóa ra là có một số thiếu sót về phương pháp luận trong cách họ thiết lập các nghiên cứu của mình, và có một số lượng rất thấp. Tôi nghĩ rằng chỉ có 8 đến 12 người trong những nghiên cứu này. Điều đáng lo ngại hơn là các nhà khoa học đã tiến hành các nghiên cứu này, họ có một cách tiếp cận cá nhân hóa đối với các chế phẩm sinh học mà họ quảng bá trong các nghiên cứu của mình. Hóa ra là họ có một lợi ích nhất định. Họ có lợi ích tài chính trong công ty đang thúc đẩy phương pháp tiếp cận được cá nhân hóa này. Vì vậy, đó là một lỗ hổng rất nghiêm trọng và kết luận của họ không nên được khái quát hóa toàn bộ lĩnh vực chế phẩm sinh học. Việc cho phép các nghiên cứu được xuất bản trong đó các tác giả tuyên bố rằng chế phẩm sinh học hầu như vô dụng là thực sự gây hiểu lầm và gây bất lợi cho công chúng. Gazella: Vâng, tôi sẽ đồng ý. Bây giờ, tôi thường yêu cầu các chuyên gia nắm lấy quả cầu pha lê của họ và nhìn vào tương lai. Trong trường hợp của bạn, tôi muốn bạn cho chúng tôi biết những gì bạn muốn thấy xảy ra khi nghiên cứu về probiotic hoặc chất chuyển hóa sau sinh học trong tương lai. Bạn muốn thấy điều gì xảy ra khi chúng ta đi vào giai đoạn tiếp theo này? Bởi vì tôi sẽ nói với bạn, có rất nhiều điều thú vị đang xảy ra. Có rất nhiều hướng khác nhau mà chúng ta có thể đi vào. Pelton: Bạn hoàn toàn đúng. Đây là một lĩnh vực rất thú vị và đang phát triển nhanh chóng. Như tôi đã nói về các chất chuyển hóa sau sinh học này, các hợp chất mà vi khuẩn probiotic của bạn tạo ra, trong tương lai, chúng ta sẽ tìm hiểu nhiều hơn về tác dụng điều chỉnh sức khỏe của các hợp chất mà vi khuẩn của bạn tạo ra và chúng ta sẽ tìm hiểu thêm về các chủng vi khuẩn có hiệu quả hơn trong việc sản xuất một số chất chuyển hóa sau sinh học điều chỉnh sức khỏe này. Tôi nghĩ trong tương lai, chúng ta có thể sẽ tạo ra nhiều bước tiến và phát triển trong việc thiết kế các chương trình probiotic được cá nhân hóa cho mọi người. Chúng tôi sẽ có thể đánh giá hệ vi sinh vật bẩm sinh của riêng bạn và có thể biết chính xác hơn cách thúc đẩy và tăng cường sự phát triển bẩm sinh của chính bạn, cái mà chúng tôi gọi là dấu vân tay lợi khuẩn của bạn, quần thể vi khuẩn mà bạn đã phát triển sớm trong đời. Tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ nghiên cứu nhiều hơn về hệ vi sinh vật được cá nhân hóa và cách tiếp cận được cá nhân hóa đối với chế phẩm sinh học để giúp tăng cường sức khỏe ở từng cá nhân. Gazella: Khi bạn nghĩ cụ thể về bệnh ung thư và giảm nguy cơ ung thư, tôi muốn nói rõ ràng là bây giờ, người ta ước tính rằng 1 trong 2 nam giới và 1 trong 3 phụ nữ sẽ phát triển ung thư trong cuộc đời của họ. Ý tôi là hiện nay nó đang đạt tỷ lệ gần như dịch bệnh. Mức độ quan trọng của chúng ta khi xem xét những thứ như chế phẩm sinh học khi nói đến việc giảm nguy cơ ung thư? Pelton: Một lần nữa, tôi quay lại hệ thống miễn dịch. Điều cần thiết là mọi người phải có một hệ vi sinh vật khỏe mạnh để họ có một hệ thống miễn dịch khỏe mạnh. Đây thực sự là nơi nó bắt đầu. Đường tiêu hóa và hệ vi sinh vật của bạn thực sự là nền tảng sức khỏe của bạn cho mọi thứ xảy ra. Đó là điều số 1 mà mọi người cần lưu ý và nó không chỉ là hệ vi sinh vật. Như chúng tôi đã đề cập trước đó, bạn phải học cách nuôi dưỡng tốt vi khuẩn probiotic của mình. Đây là một thông điệp quan trọng khác của tôi. Đây là lý do tại sao chế độ ăn uống rất quan trọng vì bạn không ăn chỉ vì bản thân. Bạn đang ăn để nuôi 100 nghìn tỷ khách. Đó là một bữa tiệc khá lớn đang diễn ra ở dưới đó. Mỗi khi bạn ăn, bạn phải nhận ra rằng bạn đang cung cấp cho hệ vi sinh vật của bạn, và hệ vi sinh vật của bạn là trung tâm và nền tảng của sức khỏe và hệ miễn dịch cũng như hoạt động chống ung thư của bạn. Vì vậy, mọi người cần nhận ra tầm quan trọng của việc thường xuyên ăn nhiều loại thực phẩm giàu chất xơ khác nhau, đặc biệt là các loại rau nhiều màu, Có một nghiên cứu gần đây vừa được công bố cho thấy rằng những người tiêu thụ nhiều men vi sinh sẽ dùng ít kháng sinh hơn. Đó chỉ là một cái nhìn sâu sắc khác về việc men vi sinh có thể hỗ trợ hệ thống miễn dịch của bạn. Vì vậy, những người sử dụng men vi sinh nhiều hơn có hệ thống miễn dịch mạnh hơn. Họ ít cần kháng sinh hơn theo thời gian. Gazella: Vâng. Vấn đề kháng sinh đó, đó là điều mà chúng tôi … Đó có thể là một chủ đề hoàn toàn khác đối với chúng tôi. Pelton: Đó là một cái lớn. Gazella: Nhưng với tư cách là một dược sĩ tích hợp, bạn chia sẻ triết lý với những người nghe của chúng tôi, hầu hết họ là những người thực hành tích hợp. Nó không chỉ là cho một viên thuốc và gọi nó là một ngày. Đó là một cách tiếp cận rất toàn diện và tôi thích thực tế là bạn tập trung rất nhiều vào chế độ ăn uống và sử dụng một chế độ ăn uống lành mạnh để cung cấp men vi sinh và vi khuẩn và bạn sử dụng men vi sinh song song với cách tiếp cận lối sống toàn diện mà tôi đang cho là Ngoài chế độ ăn uống, bạn khuyên mọi người nên tập thể dục và ngủ đủ giấc cũng như các yếu tố lối sống khác. Pelton: Hoàn toàn có thể. Đó là những yếu tố quan trọng. Hiện nay có những nghiên cứu cho thấy rằng vi khuẩn probiotic của bạn phản ứng với việc tập thể dục. Bài tập cần được chú trọng. Vì vậy, đó là chế độ ăn uống và tập thể dục, lối sống. Tất cả những điều lành mạnh này đi vào việc tạo ra và duy trì một cá nhân khỏe mạnh và có một quá trình lão hóa lành mạnh. Đó không chỉ là men vi sinh và không chỉ là chế độ ăn kiêng như bạn đã đề cập. Đó là tập thể dục và ngủ và học cách tránh các chất độc từ môi trường. Có rất nhiều thứ đi vào đó. Gazella: Đúng vậy. Hãy đối xử tốt với hệ vi sinh vật của bạn và nó sẽ phục vụ bạn trong một thời gian dài sau này. Pelton: Nó sẽ hiệu quả với bạn. Chắc chắn rồi. Gazella: Rất tuyệt. Vâng, Ross, điều này rất thông tin như thường lệ. Tôi muốn cảm ơn bạn đã tham gia cùng tôi. Một lần nữa, tôi muốn cảm ơn Essential Formulas Incorporated đã tài trợ cho chủ đề này. Cảm ơn rất nhiều, Ross. Có một ngày tuyệt vời. Pelton: Rất vui được ở cùng bạn, Karolyn. Luôn thích nói chuyện với bạn.Âm thanh: nmj_ross_pelton_oncology.mp3 Điều hướng bài viết ← Kỳ vọng và Hiệu ứng giả dược trong Viêm mũi dị ứng Ô nhiễm không khí làm giảm cân khi sinh → Tìm kiếm cho: Bài viết mới Thiếu hụt lượng nhỏ Vitamin B12 gây ảnh hưởng tới thần kinh Chocolate Eclairs điều trị ung thư tuyến tiền liệt? Tác dụng điều trị của Acetyl-L-Carnitine đối với bệnh thần kinh ngoại biên Quả việt quất giảm sức đề kháng insulin Các phương pháp tiếp cận tự nhiên để ngăn ngừa và điều trị chứng loãng xương Lưu trữ Tháng Một 2021 Tháng Mười Hai 2020 Tháng Chín 2020 Tháng Bảy 2020 Tháng Năm 2020 Tháng Tư 2020 Tháng Ba 2020 Tháng Mười Một 2019 Chuyên mục Đánh giá sản phẩm Làm đẹp Sức Khỏe Ưu đãi – Khuyến mại Copyright © 2020 Mikuti Shop. All rights reserved. Made with Mikuti.net.
1614178347293.1.parquet/56827
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 29324, "url": "https://mikuti.net/probiotics-va-phong-chong-ung-thu-cuoc-tro-chuyen-voi-ross-pelton-rph-ccn/" }
120
Sản xuất – Wikipedia tiếng Việt Mở trình đơn chính Trang chính Ngẫu nhiên Lân cận Đăng nhập Tùy chọn Quyên góp Giới thiệu Wikipedia Lời phủ nhận Tìm kiếm Sản xuất Ngôn ngữ Theo dõi Sửa đổi Bài viết này không được chú giải bất kỳ nguồn tham khảo nào. Mời bạn giúp cải thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích cho từng nội dung cụ thể trong bài viết tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. Sản xuất hay sản xuất của cải vật chất là hoạt động chủ yếu trong các hoạt động kinh tế của con người. Sản xuất là quá trình làm ra sản phẩm để sử dụng, hay để trao đổi trong thương mại. Quyết định sản xuất dựa vào những vấn đề chính sau: sản xuất cái gì?, sản xuất như thế nào?, sản xuất cho ai?, giá thành sản xuất và làm thế nào để tối ưu hóa việc sử dụng và khai thác các nguồn lực cần thiết làm ra sản phẩm? Tùy theo sản phẩm, sản xuất được phân thành ba khu vực: Khu vực một của nền kinh tế: Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thủy sản Khu vực hai của nền kinh tế: Khai thác mỏ, Công nghiệp chế tạo (công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng), Xây dựng Khu vực ba của nền kinh tế, hay Khu vực dịch vụ[1]. (Xem chi tiết Ngành kinh tế) Kinh tế học có những cách tiếp cận khác nhau khi bàn về sản xuất. Mục lục 1 Cách tiếp cận của kinh tế chính trị Marx - Lenin 1.1 Các yếu tố cơ bản 1.2 Hai mặt của nền sản xuất 1.3 Phương thức sản xuất 2 Cách tiếp cận của kinh tế học tân cổ điển 3 Khái niệm sản xuất trong tài khoản quốc gia 4 Ghi chú 5 Xem thêm Cách tiếp cận của kinh tế chính trị Marx - LeninSửa đổi Kinh tế chính trị Marx - Lenin bàn về sản xuất từ góc độ của kinh tế chính trị và thể chế. Các yếu tố cơ bảnSửa đổi Có ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất là sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động Sức lao động: là tổng hợp thể lực và trí lực của con người được sử dụng trong quá trình lao động. Sức lao động mới chỉ là khả năng của lao động còn lao động là sự tiêu dùng sức lao động trong thực hiện. Đối tượng lao động: là bộ phận của giới tự nhiên mà lao động của con người tác động vào nhằm biến đổi nó theo mục đích của mình. Đối tượng lao động có hai loại. Loại thứ nhất có sẵn trong tự nhiên như các khoáng sản, đất, đá, thủy sản... Các đối tượng lao động loại này liên quan đến các ngành công nghiệp khai thác. Loại thứ hai đã qua chế biến nghĩa là đã có sự tác động của lao động trước đó, ví dụ như thép phôi, sợi dệt, bông... Loại này là đối tượng lao động của các ngành công nghiệp chế biến. Tư liệu lao động: là một vật hay các vật làm nhiệm vụ truyền dẫn sự tác động của con người lên đối tượng lao động, nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Tư liệu lao động lại gồm bộ phận trực tiếp tác động vào đối tượng lao động theo mục đích của con người, tức là công cụ lao động, như các máy móc để sản xuất), và bộ phận trực tiếp hay gián tiếp cho quá trình sản xuất như nhà xưởng, kho, sân bay, đường sá, phương tiện giao thông. Trong tư liệu lao động, công cụ lao động giữ vai trò quyết định đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Hai mặt của nền sản xuấtSửa đổi Hai mặt của nền sản xuất gồm: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất gồm người lao động và tư liệu sản xuất, trong đó con người giữ vai trò quyết định. Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất gồm có: (i) Quan hệ về sở hữu các tư liệu sản xuất, còn gọi tắt là quan hệ sở hữu (ii) Quan hệ về tổ chức, quản lý sản xuất còn gọi là quan hệ quản lý (iii) Quan hệ về phân phối sản phẩm, còn gọi tắt là quan hệ phân phối. Phương thức sản xuấtSửa đổi Cách tiếp cận của kinh tế học tân cổ điểnSửa đổi Kinh tế học tân cổ điển, hay kinh tế học vi mô, bàn về sản xuất với cách tiếp cận của chủ nghĩa cận biên (marginalism). Sản xuất là việc tạo ra hàng hóa và dịch vụ có thể trao đổi được trên thị trường để đem lại cho người sản xuất càng nhiều lợi nhuận càng tốt. Cách tiếp cận này bàn luận nhiều hơn về các chủ đề như: chi phí sản xuất, tối đa hóa lợi nhuận, tối thiểu hóa chi phí sản xuất, năng suất lao động cận biên, tỷ lệ thay thế kỹ thuật cận biên, v.v... Khái niệm sản xuất trong tài khoản quốc giaSửa đổi Liên Hiệp Quốc khi xây dựng phương pháp thống kê tài khoản quốc gia đã đưa ra định nghĩa sau về sản xuất: Sản xuất là quá trình sử dụng lao động và máy móc thiết bị của các đơn vị thể chế (một chủ thể kinh tế có quyền sở hữu tích sản, phát sinh tiêu sản và thực hiện các hoạt động, các giao dịch kinh tế với những thực thể kinh tế khác) để chuyển những chi phí là vật chất và dịch vụ thành sản phẩm là vật chất và dịch vụ khác. Tất cả hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra phải có khả năng bán trên thị trường hay ít ra cũng có khả năng cung cấp cho một đơn vị thể chế khác có thu tiền hoặc không thu tiền. Ghi chúSửa đổi ^ Tùy theo cách phân loại các ngành kinh tế ở mỗi nước mà nội dung của ba khu vực trên có thể không giống nhau. Xem thêmSửa đổi Kinh tế Hàng hóa Bài viết chủ đề kinh tế học này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn. x t s Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Sản_xuất&oldid=60146720” Sửa đổi lần cuối lúc 05:35 vào ngày 6 tháng 4 năm 2020 Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 3.0, ngoại trừ khi có ghi chú khác. Trang này được sửa đổi lần cuối vào ngày 6 tháng 4 năm 2020 lúc 05:35. Văn bản được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự; có thể áp dụng điều khoản bổ sung. Với việc sử dụng trang web này, bạn chấp nhận Điều khoản Sử dụng và Quy định quyền riêng tư. Wikipedia® là thương hiệu đã đăng ký của Wikimedia Foundation, Inc., một tổ chức phi lợi nhuận. Quy định quyền riêng tư Giới thiệu Wikipedia Lời phủ nhận Điều khoản sử dụng Máy tính để bàn Nhà phát triển Thống kê Tuyên bố về cookie
1614178347293.1.parquet/93440
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 5280, "url": "https://vi.m.wikipedia.org/wiki/S%E1%BA%A3n_xu%E1%BA%A5t" }
120
“Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những người anh hùng vô danh”. – Đoàn thanh niên – Hội sinh viên Trường Cao đẳng Nghề Cần Thơ Đoàn thanh niên – Hội sinh viên Trường Cao đẳng Nghề Cần Thơ Tâm trong – Trí sáng – Hoài bảo lớn Trang chủ Tin Thanh Niên Hoạt động Đoàn Hoạt động Hội Học tập – Nghiên cứu Cơ khí – Xây dựng Công nghệ ô tô Công nghệ thông tin Điện – Điện tử Kế toán Khác Thư viện Góc việc làm Home/Theo chân Bác/“Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những người anh hùng vô danh”. “Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những người anh hùng vô danh”. “Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những người anh hùng vô danh”. Ngày 21 tháng 10 năm 1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Tổng thống Niu Di lân, ngài Mali Môđibô Câyta đến thăm Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Người đã nói chuyện với các thầy cô giáo, sinh viên và cán bộ, công nhân viên của trường. Trong bài nói, Hồ Chí Minh đã khẳng định những công lao to lớn của các thầy cô giáo đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. “Tôn sư trọng đạo” là truyền thống quý báu, là bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta, được vun đắp qua nhiều thế hệ, góp phần tạo nên nền văn hiến Việt Nam với bề dày hàng nghìn năm lịch sử. Từ xưa đến nay, nghề giáo luôn được xã hội tôn vinh là nghề cao quý; cha ông ta từng nói: “Không thầy đố mày làm nên”. Bác Hồ kính yêu đã dạy: “Nhiệm vụ giáo dục là rất quan trọng và vẻ vang, nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục… không có giáo dục, không có cán bộ thì không nói gì đến kinh tế – văn hóa”; “Thầy cô giáo tốt là những anh hùng vô danh”; cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã nhấn mạnh: “Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý”. Nghị quyết của Đảng qua các kỳ đại hội luôn coi giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, toàn xã hội; đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã chỉ rõ: “Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào tạo”. Quán triệt các quan điểm chỉ đạo về phát triển giáo dục, đào tạo, xây dựng đội ngũ giáo viên của Đảng và Nhà nước, công tác giáo dục – đào tạo trong Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung, xây dựng đội ngũ giáo viên các học viện, nhà trường quân đội nói riêng đã có sự trưởng thành và lớn mạnh, hòa nhập với tiến trình đổi mới chung của nền giáo dục quốc dân, ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Các thế hệ nhà giáo Quân đội đã không ngừng nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần đào tạo hàng chục vạn cán bộ, hạ sĩ quan có chất lượng tốt, đáp ứng kịp thời nhu cầu của chiến trường trong những năm tháng kháng chiến giải phóng dân tộc, làm nhiệm vụ quốc tế cao cả; là lực lượng nòng cốt trong xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, có chất lượng tổng hợp, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu ngày càng cao. Nhiều tấm gương nhà giáo tận tụy, hết lòng vì sự nghiệp giáo dục, đào tạo, vì học viên thân yêu là những biểu tượng cao đẹp để các thế hệ giáo viên, học viên mãi mãi học tập, noi theo, xứng đáng với sự đánh giá, ghi nhận của Bác Hồ kính yêu. Nguồn: Sưu tầm Bài viết liên quan Quê hương nghĩa trọng tình cao 10/07/2020 Chuyên đề dành cho đoàn viên, thanh niên: “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với tu dưỡng đạo đức suốt đời” 05/07/2020 Chuyên đề dành cho cán bộ Đoàn: “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với xây dựng tổ chức Đoàn vững mạnh; mở rộng mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên” 05/07/2020 Tìm kiếm cho: Văn Phòng Đoàn trường. © Copyright 2021, Đoàn trường Cao đẳng Nghề Cần Thơ
1614178347293.1.parquet/84453
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 3932, "url": "https://sv.ctvc.edu.vn/du-la-ten-tuoi-khong-dang-tren-bao-khong-duoc-thuong-huan-chuong-song-nhung-nguoi-thay-giao-tot-la-nhung-nguoi-anh-hung-vo-danh/" }
119.7
Xây dựng Công an nhân dân vững mạnh xứng đáng là “thanh bảo kiếm” bảo vệ Đảng, Nhà nước và Nhân dân | Học viện Chính trị Công an Nhân dân Trang chủ Giới thiệu Cơ cấu - Tổ chức Giới thiệu chung Sứ mạng, tầm nhìn Tin tức Tin tức học viện Tin tức ngành Tin tức khác Đào tạo - Bồi dưỡng Đào tạo LLCT Đào tạo chính quy Đào tạo sau đại học Bồi dưỡng chức danh Nghiên cứu Khoa học NCKH cán bộ, giảng viên NCKH sinh viên Biểu mẫu Trang sinh viên LLCT-XDLL CAND Lý luận chính trị Nghiên cứu trao đổi Bài viết Bộ trưởng Chống diễn biến hòa bình Thư viên video Thư viện ảnh Thư viện tư liệu Liên hệ Trang chủ Giới thiệu Cơ cấu - Tổ chức Giới thiệu chung Sứ mạng, tầm nhìn Tin tức Tin tức học viện Tin tức ngành Tin tức khác Đào tạo - Bồi dưỡng Đào tạo LLCT Đào tạo chính quy Đào tạo sau đại học Bồi dưỡng chức danh Nghiên cứu Khoa học NCKH cán bộ, giảng viên NCKH sinh viên Biểu mẫu Chống diễn biến hòa bình LLCT-XDLL CAND Lý luận chính trị Nghiên cứu trao đổi Bài viết Bộ trưởng Liên hệ Thư viên video Thư viện ảnh Thư viện tư liệu Tin mới Những vấn đề trọng yếu trong việc tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh Bộ trưởng Tô Lâm phát động “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ” tại trụ sở mới của Học viện Chính trị Công an nhân dân “Phi chính trị hóa lực lượng vũ trang”- vấn đề nhìn từ Myanmar Về hội nhập quốc tế và tham gia tiến trình toàn cầu hóa của Việt Nam Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XIII họp phiên đầu tiên Những điểm mới trong chủ đề Đại hội XIII của Đảng LLCT- XDLL CAND Lý luận chính trị | Nghiên cứu trao đổi | Bài viết Bộ trưởng Thứ Hai, 17/8/2020 20:32'(GMT+7) Xây dựng Công an nhân dân vững mạnh xứng đáng là “thanh bảo kiếm” bảo vệ Đảng, Nhà nước và Nhân dân Trải qua 75 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành (19/8/1945 - 19/8/2020), dưới sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, Công an nhân dân đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, không ngừng lớn mạnh, lập nhiều chiến công, thành tích xuất sắc, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân làm nên thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xứng đáng là “thanh bảo kiếm”, “lá chắn thép” bảo vệ Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Ngay thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám lịch sử, trên cơ sở các tổ chức tiền thân, Công an nhân dân chính thức được thành lập, gồm: Sở Liêm phóng ở Bắc Bộ, Sở Trinh sát ở Trung Bộ, Quốc gia Tự vệ Cuộc ở Nam Bộ. Từ ngày đầu thành lập, lực lượng Công an nhân dân đã nêu cao cảnh giác cách mạng, chủ động phát hiện, cùng với lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân đấu tranh, đập tan âm mưu, hành động chống phá của “thù trong, giặc ngoài”, bảo vệ vững chắc chính quyền cách mạng non trẻ. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Công an nhân dân đã trưởng thành nhanh chóng về mọi mặt; thể hiện rõ lòng trung thành vô hạn với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân. Thực hiện sáu điều Bác Hồ dạy, Công an các cấp không quản hy sinh, gian khổ, làm nòng cốt cùng toàn dân giữ vững an ninh, trật tự vùng tự do, bảo vệ tuyệt đối an toàn các cơ quan đầu não của Đảng, Nhà nước, căn cứ địa kháng chiến. Đồng thời, trực tiếp chiến đấu, phá tề, trừ gian, diệt ác, cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, giữ vững nền độc lập của dân tộc, mở ra kỷ nguyên mới cho cách mạng Việt Nam. Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Công an nhân dân tiếp tục có sự phát triển về quy mô tổ chức lực lượng, chức năng, nhiệm vụ. Quán triệt chủ trương của Đảng về đường lối cách mạng hai miền Nam, Bắc, Công an nhân dân phối hợp chặt chẽ với Quân đội nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đánh bại chiến tranh phá hoại miền Bắc của địch; đồng thời, tích cực chi viện cho chiến trường miền Nam, đóng góp quan trọng vào thắng lợi trên các chiến trường, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đất nước thống nhất, song những nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội vẫn hiện hữu. Quán triệt, thực hiện lời dạy của Bác Hồ: “Công an thì phải đánh địch thường xuyên, lúc chiến tranh có việc, lúc hòa bình lại càng nhiều việc”1, lực lượng Công an nhân dân tiếp tục nêu cao tinh thần “vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành, khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng, củng cố chính quyền, phát động phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”; dũng cảm chiến đấu bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc; truy quét, vô hiệu hóa nhiều tổ chức phản động, bóc gỡ các mạng lưới gián điệp, tình báo do Mỹ, ngụy cài lại, đập tan kế hoạch hậu chiến của các thế lực thù địch, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bước vào thời kỳ đổi mới, Công an nhân dân thể hiện rõ vai trò nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, chủ động làm tốt công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, kịp thời tham mưu với Đảng, Nhà nước nhiều chủ trương, giải pháp phù hợp bảo vệ an ninh, lợi ích của quốc gia, dân tộc, xử lý hiệu quả các tình huống phức tạp, không để bị động, bất ngờ. Phát huy vai trò xung kích nòng cốt trong xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân gắn với nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc; đấu tranh có hiệu quả với hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, các loại tội phạm, giữ vững an ninh trên các địa bàn, lĩnh vực trọng điểm, bảo vệ cuộc sống yên bình, hạnh phúc của nhân dân, tạo chuyển biến rõ nét về trật tự, an toàn xã hội. Cùng với nhiệm vụ chiến đấu, Công an nhân dân đã phát huy bản chất, truyền thống, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, tham gia có hiệu quả vào phát triển kinh tế - xã hội, giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo, xây dựng cơ sở chính trị, “thế trận lòng dân” vững chắc; chủ động mở rộng, phát triển quan hệ hợp tác quốc tế, v.v. Đặc biệt, trong thời gian vừa qua, lực lượng Công an nhân dân đã quyết liệt triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương của Đảng, Chính phủ về phòng, chống dịch Covid-19, góp phần thực hiện thắng lợi “mục tiêu kép”, giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và phục vụ nhiệm vụ khôi phục phát triển kinh tế. Với những chiến công, thành tích xuất sắc đạt được trong 75 năm qua, lực lượng Công an nhân dân đã được Nhà nước trao tặng 16 Huân chương Sao Vàng; 100 Huân chương Hồ Chí Minh; 715 lượt tập thể, 409 lượt cá nhân được phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động và hàng chục nghìn huân, huy chương cao quý khác. Nhiều tấm gương anh dũng, chiến đấu, hy sinh của cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân đã trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tô thắm thêm truyền thống anh hùng vẻ vang của Công an nhân dân, củng cố niềm tin yêu, sự gắn bó mật thiết của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và lực lượng Công an nhân dân. Thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, cũng đặt ra nhiều khó khăn, thách thức đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền biển, đảo và lợi ích quốc gia, dân tộc. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt; chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa dân tộc cực đoan có xu hướng gia tăng; tình hình dịch bệnh Covid-19 tiếp tục lan rộng, ảnh hưởng trực tiếp đến các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của thế giới, khu vực và trong nước. Các thế lực thù địch, phản động đang gia tăng hoạt động chống phá, nhất là tập trung chống phá đại hội đảng các cấp, Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XIII; tình hình an ninh, trật tự trên một số địa bàn, lĩnh vực còn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định; tội phạm, vi phạm pháp luật có xu hướng phức tạp với phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, tính chất, mức độ nguy hiểm. Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, v.v. Bối cảnh tình hình trên, đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ mới, hết sức nặng nề, đòi hỏi lực lượng Công an nhân dân phải phát huy vai trò, nòng cốt, đóng góp tích cực để giữ vững ổn định chính trị, duy trì môi trường hòa bình, phục vụ đắc lực công cuộc xây dựng, phát triển đất nước nhanh, bền vững. Để hoàn thành trọng trách được Đảng, Nhà nước và Nhân dân tin tưởng giao phó, lực lượng Công an nhân dân tiếp tục quán triệt, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau: Một là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với công tác đảm bảo an ninh, trật tự và hoạt động của lực lượng Công an nhân dân. Cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị, địa phương cần quán triệt đầy đủ, sâu sắc các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, nhất là phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội đã đề ra trong các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ; thực hiện thật tốt các chiến lược, chương trình quốc gia về đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đồng thời, đẩy mạnh đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng; phát huy dân chủ, trí tuệ tập thể, đề cao trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng trong Công an nhân dân. Mọi hoạt động của lực lượng Công an phải bám sát sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, phục vụ có hiệu quả các nhiệm vụ phát triến kinh tế, xã hội, đối ngoại của đất nước. Hai là, tiếp tục củng cố, phát huy hiệu lực, hiệu quả mô hình tổ chức mới theo hướng: “Bộ tinh, tỉnh mạnh, huyện toàn diện, xã bám cơ sở”. Cấp ủy, chỉ huy các cấp đẩy mạnh kiện toàn, sắp xếp tổ chức đảng, tổ chức quần chúng hợp lý, đúng quy định. Thường xuyên rà soát, đánh giá kết quả, đề ra biện pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của Công an xã chính quy, Công an phường, thị trấn. Tiếp tục rà soát, điều chỉnh cơ cấu lãnh đạo, chỉ huy theo đúng quy định của Đảng, Nhà nước và điều chỉnh, bố trí lại lực lượng theo hướng tăng cường cho lực lượng trực tiếp chiến đấu, cơ sở để lực lượng Công an thực sự gần dân, bám sát cơ sở, tạo điều kiện tốt hơn trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao và phục vụ nhân dân. Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực, ngang tầm nhiệm vụ. Các cấp đẩy mạnh đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, nâng cao bản lĩnh chính trị, giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ. Tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn chỉnh và tổ chức thực hiện nghiêm quy chế, quy trình công tác cán bộ; quy định rõ phạm vi, trách nhiệm của từng cấp Công an, từng cá nhân người lãnh đạo, chỉ huy trong công tác cán bộ. Nâng cao hơn nữa chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng trình độ mọi mặt cho đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, bí thư, cấp ủy, thủ trưởng Công an các đơn vị, địa phương, cán bộ cấp chiến lược gắn với chuẩn bị nhân sự Công an tham gia cấp ủy các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025, tham gia Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XV, Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026. Bốn là, phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với Quân đội nhân dân, cấp ủy các cấp, các ban, ngành, đoàn thể và phát huy mạnh mẽ vai trò giám sát của nhân dân đối với hoạt động của lực lượng Công an nhân dân. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, nhất là kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, vô hiệu hóa âm mưu của kẻ địch, phần tử xấu tìm cách thâm nhập, phá hoại nội bộ, tuyên truyền, xuyên tạc, nhằm “phi chính trị hóa”, vô hiệu hóa vai trò, hoạt động của lực lượng Công an nhân dân; ngăn chặn các biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, những hành vi, thái độ nhũng nhiễu, xa rời, vô cảm trước nhân dân. Tiếp tục chấn chỉnh, siết chặt kỷ cương, kỷ luật, thực hiện nghiêm Điều lệnh Công an nhân dân, xử lý nghiêm những cán bộ, chiến sĩ vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật. Năm là, chủ động nghiên cứu, tham mưu, đề xuất với Quốc hội, Chính phủ tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống các quy định của pháp luật về đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh, trật tự, tạo cơ sở pháp lý để triển khai hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của lực lượng Công an nhân dân và huy động các nguồn lực phục vụ sự nghiệp đảm bảo an ninh, trật tự. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, chú trọng tổng kết các chuyên đề công tác, chuyên án lớn, bổ sung, hoàn thiện hệ thống lý luận; không ngừng đổi mới, nâng cao hiệu quả các biện pháp công tác, đối sách, chiến thuật đấu tranh với từng loại đối tượng. Sáu là, tăng cường tiềm lực vật chất hậu cần, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu công tác, chiến đấu thường xuyên và đột xuất. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật, đặc biệt là các thành tựu của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 để phục vụ các lĩnh vực công tác công an, hiện đại hóa ngay một số lực lượng nghiệp vụ mũi nhọn, trực tiếp chiến đấu, trước hết là lực lượng Cảnh sát hình sự, Cảnh sát phòng, chống tội phạm về ma túy, bảo đảm an ninh mạng, phòng, chống tội phạm lợi dụng công nghệ cao, v.v. Hướng tới Kỷ niệm 75 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 - 02/9/2020), 75 năm Ngày truyền thống Công an nhân dân Việt Nam (19/8/1945 - 19/8/2020), 15 năm Ngày hội Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc (19/8/2005 - 19/8/2020), với niềm tin, khí thế, quyết tâm mới, lực lượng Công an nhân dân nguyện khắc ghi và thực hiện tốt sáu điều Bác Hồ dạy: chỉ biết còn Đảng thì còn mình, coi danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất, lập nhiều thành tích, chiến công xuất sắc, xứng đáng là “thanh bảo kiếm” bảo vệ Đảng, Nhà nước, Tổ quốc và Nhân dân. Đại tướng, GS, TS. TÔ LÂM, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ trưởng Bộ Công an ________________ 1 - Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 10, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 258. Tweet Tags: Phản hồi Ý kiến của bạn:(Không quá 1000 ký tự) Còn lại: 1000 ký tự Thông tin người gửi phản hồi Họ và tên* Email* Mã bảo vệ* Các tin khác Đổi mới công tác cán bộ, thực hiện tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức - kết quả và những vấn đề đặt ra Trung Quốc thay đổi hệ hình quyền lực và bài toán mới cho các nước Á Đông Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay Công tác nghiên cứu lý luận chính trị trong tình hình hiện nay Xây dựng mô hình hệ sinh thái kinh tế tuần hoàn đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư Tập trung khắc phục hậu quả đại dịch COVID-19, nỗ lực cao nhất phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội đất nước Dự báo một số nét chính về chiều hướng vận động của tình hình thế giới trong 5 - 10 năm tới và những vấn đề đặt ra cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Giá trị thời sự từ những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Đại hội Đảng Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác tư tưởng của Đảng và việc vận dụng trong tình hình hiện nay Khẳng định bản lĩnh, năng lực và sức chiến đấu của lực lượng CAND Đặc điểm và xu hướng phát triển của thời đại Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo, sử dụng cán bộ Công an nhân dân với những lời chỉ dạy ân cần, gần gũi Khai thác hiệu quả Hiệp định EVFTA Hồ Chí Minh với việc xây dựng lực lượng cách mạng và sự vận dụng của Đảng trong tình hình hiện nay Thư viện Video Những dấu mốc phát triển nhìn từ Đại hội VI của Đảng Những dấu mốc phát triển nhìn từ Đại hội VI của Đảng Đại hội của niềm tin và khát vọng phát triển đất nước Gửi gắm niềm tin vào Đại hội Đảng lần thứ XIII Kỳ vọng của các tầng lớp nhân dân vào Đại hội Đảng XIII Thư viện Ảnh Các tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Học viện Chính trị Công an nhân dân tổ chức thành công Đại hội nhiệm kỳ 2020 – 2025 Tọa đàm khoa học “Kiểm soát quyền lực trong bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, chỉ huy Công an nhân dân - Những vấn đề đặt ra” Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến làm việc với Học viện Chính trị Công an Nhân dân Gặp mặt kỷ niệm 110 năm Ngày quốc tế phụ nữ (8/3/1910 - 8/3/2020), 1980 năm Khởi nghĩa Hai Bà Trưng và ngày Quốc tế hạnh phúc (20/3) Tạp chí LLCT CAND Xem nhiều nhất Tinh thần yêu nước sáng lên trong chống “giặc Covid” Đoàn kết sẽ đẩy lùi đại dịch Covid-19 Bộ trưởng Tô Lâm phát động “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ” tại trụ sở mới của Học viện Chính trị Công an nhân dân Vận dụng phương pháp luận triết học Mác - Lênin vào nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị trong công an nhân dân Những cơ sở lịch sử và pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa Nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa tuân theo các quy luật của kinh tế thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa Điều kiện tuyển sinh đại học chính quy các trường CAND năm 2020 Đảng Cộng sản Việt Nam - Nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam Về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ Nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa Liên kết website Liên kết website Báo an ninh thủ đô Báo CAND Báo Nhân dân Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam Cổng thông tin Chính phủ Cổng TTĐT Bộ Công an Cổng TTĐT Bộ Giáo dục - Đào tạo Cổng TTĐT Chính phủ Học viện An ninh nhân dân Học viện Cảnh sát nhân dân Học viện chính trị bộ quốc phòng Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Hội đồng lý luận Trung ương Tạp chí Cộng sản © Bản quyền thuộc về Học viện Chính trị Công an nhân dân. Địa chỉ: Số 29 đường Lê Văn Hiến, phường Đức Thắng, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội.. Điện thoại: 043. 8386977 - Email: webmaster@hvctcand.edu.vn - Website: hvctcand.edu.vn. Giấy phép thông tin số 3933/GP-TTĐT của Sở TTTT Hà Nội cấp ngày 10/8/2016. Tổng biên tập: Thiếu tướng Dương Như Hồng. Thiết kế bởi Acomm
1614178347293.1.parquet/146186
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 16260, "url": "http://hvctcand.edu.vn/llct-xdll-cand/nghien-cuu-trao-doi/xay-dung-cong-an-nhan-dan-vung-manh-xung-dang-la-thanh-bao-kiem-bao-ve-dang-nha-nuoc-va-nhan-dan-1659" }
119.7
NĂNG ĐỘNG LÀ ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN CỦA THƯ VIỆN Thư viện tỉnh Sơn La - Thư viện điện tử số trực tuyến http://thuviensonla.com.vn NĂNG ĐỘNG LÀ ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN CỦA THƯ VIỆN Thứ tư - 09/12/2015 04:49 In ra Đóng cửa sổ này 1. Khái niệm về năng động: Trước khi tìm hiểu về nội dung của năng động thư viện, ta cần phải làm sáng tỏ ngữ nghĩa của năng động là gì. Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê làm chủ biên đưa ra định nghĩa: Năng động là có tác động tích cực, làm thay đổi thế giới xung quanh. Còn theo "Từ điển từ và ngữ Việt Nam" của Nguyễn Lân thì: Năng động là có khả năng hoạt động tích cực. Năng động trong tiếng Anh - "Dynamic" còn có thêm nghĩa là động lực. Như vậy, năng động là động lực, là khả năng hoạt động tích cực của một cá nhân, tập thể nhằm tác động một cách tích cực, có chủ đích để thay đổi thế giới xung quanh. Vậy nội hàm của năng động trong công tác thư viện là gì? Bài viết này đưa ra một cách lý giải ban đầu và có tính chất cá nhân về nội dung của năng động trong công tác thư viện. 2. Những nội dung cơ bản của "năng động" Theo cách hiểu của tôi "năng động" có các nội dung cơ bản sau: 2.1. Năng động là phát triển Quy luật (law) thứ năm của khoa học thư viện do Rangnathan đề xuất: Thư viện là cơ quan đang tăng trưởng (a library is a growing organism). Phát triển vừa là mục tiêu ban đầu, vừa là kết quả của sự năng động trong một cơ quan thư viện. Năng động phải hướng tới sự phát triển đi lên của thư viện. Nếu thư viện nào đó được coi là năng động nhưng sau một số năm mà không phát triển thì năng động đó chẳng có ích lợi gì. Khi nói đến phát triển thì dù thư viện đó có tuổi đời vài trăm năm cũng vẫn nên coi là trẻ. Nếu không phát triển thì dù thư viện đó mới thành lập cũng bị lão hóa nhanh chóng và dễ đi tới sự diệt vong (ngừng hoạt động). Nhưng cụ thể sự phát triển đó thể hiện trên những khía cạnh nào? Có thể lý giải, sự phát triển, tăng trưởng cần thể hiện trên các lĩnh vực sau: - Tăng trưởng vốn tài liệu (bộ sưu tập) Vốn tài liệu là công cụ để thư viện phục vụ bạn đọc, phục vụ xã hội. Vốn tài liệu thư viện càng nhiều, càng phong phú về nội dung bao nhiêu thì thư viện càng thực hiện tốt vai trò xã hội của mình bấy nhiêu. Nhiều nước như Hoa Kỳ, Liên Xô trước kia bình quân mỗi người dân có trong thư viện công cộng 4 bản sách (tài liệu). Không phải bỗng dưng mà có những nước chi hàng tỷ đô la Mỹ để bổ sung tài liệu, thông tin cho các thư viện. Bởi vì họ quan niệm đó là nguồn lực, là sức mạnh của quốc gia, là công cụ giúp cho dân tộc họ cạnh tranh được với các dân tộc khác. Tuy nhiên vốn tài liệu đó phải luôn được cập nhật, bổ sung những tài liệu mới để đáp ứng tốt nhu cầu đọc và thông tin ngày càng tăng và đa dạng của mỗi công dân, của từng tổ chức và của cả cộng đồng, xã hội. Nhu cầu đó thay đổi hàng ngày phụ thuộc vào nhiệm vụ chính trị, sản xuất, học tập của cá nhân, tổ chức, dân tộc trong thời điểm nhất định. Kinh nghiệm của Việt Nam trong những năm 1980, với điều kiện kinh tế cực kỳ khó khăn, cho thấy những thư viện nào thường xuyên có tài liệu mới thì bạn đọc đến sử dụng đông và nhiều. Những thư viện nào không có tài liệu mới thì bạn đọc đến ít dần và nếu tình trạng đó kéo dài thì sẽ không còn bạn đọc. Đặc biệt dễ thấy hiện tượng trên ở thư viện cấp huyện và cơ sở của Việt Nam vào thời kỳ này. Điều đó là hoàn toàn dễ hiểu và đúng quy luật con người luôn luôn muốn tiếp nhận những thông tin, kiến thức mới. Tất nhiên ở đây ta cũng phải hiểu rằng việc bổ sung thường xuyên vốn tài liệu luôn đi kèm với sự thanh lọc các tài liệu lạc hậu, lỗi thời về nội dung hay hư hỏng về mặt vật lý... của các tài liệu ra khỏi kho thư viện. Điều tự nhiên là số lượng thanh lọc thường kỳ không thể nhiều hơn số lượng tăng trưởng hàng năm của thư viện. Bởi vì, nếu phát triển với mức âm thì chẳng mấy chốc sẽ tiêu tan thư viện. - Cơ sở vật chất - kỹ thuật Khi vốn tài liệu gia tăng, kéo theo nó là đòi hỏi phải tăng cường về cơ sở vật chất nhà cửa, kho tàng, giá tủ cất giữ tài liệu. Gia tăng cả trang thiết bị xử lý, bảo quản tài liệu. Bởi vì nếu không gia tăng cơ sở vật chất thì tài liệu mới nhập về sẽ để lên bất cứ giá đỡ, chỗ trống nào trong kho, thậm chí để cả xuống sàn nhà. Lúc đó tài liệu sẽ bị ẩm mốc và nguy cơ bị mối mọt. Mặt khác sẽ rất khó khăn trong công tác phục vụ bạn đọc như: không thể tìm và lấy các tài liệu từ các đống ra. Và như thế bao nhiêu công sức, tiền của bổ sung tài liệu về vứt xuống sông, xuống biển cả. Sẽ có hai giải pháp (lối thoát) cho tình trạng này: ngừng bổ sung sách mới và thanh lọc sớm các tài liệu nhập vào những năm trước. Cả hai giải pháp này đều có hại cho thư viện. Nếu thư viện dừng bổ sung thì chắc chắn vốn tài liệu sẽ bị thiếu những xuất bản phẩm mới mà sau này khi có tiền cũng khó bổ sung lại được. Còn khi ngừng bổ sung lâu dài thì tương lai của thư viện đã được đề cập tới ở trên. Trong trường hợp thư viện tiến hành thường xuyên thanh lọc tài liệu cũ để phù hợp với số lượng tài liệu mới bổ sung thì dễ sảy ra tình trạng nhiều tài liệu vẫn còn giá trị khoa học, thực tiễn vẫn bị loại ra khỏi kho, kéo theo sự giảm sút chất lượng vốn tài liệu. Những năm gần đây ở Việt Nam, bạn đọc là các nhà chuyên môn, nhà khoa học, sinh viên đã ít đọc tài liệu trên giấy hơn mà bắt đầu quan tâm nhiều hơn tới các tài liệu điện tử, tài liệu trên mạng. Nhiều thư viện lớn phát triển tài liệu điện tử, kết quả là giảm yêu cầu cho đầu tư diện tích kho, giá tủ nhưng lại phải đầu tư cho mua trang thiết bị để lưu giữ, bảo quản và khai thác các tài liệu hiện đại này. - Bạn đọc Thực tế ở Việt Nam cho thấy việc gia tăng vốn tài liệu, đặc biệt các tài liệu mới sẽ kéo theo sự gia tăng số lượng bạn đọc, lượt bạn đọc. Nhờ gia tăng vốn tài liệu, cơ sở vật chất mà thư viện có thể tăng số lượng phòng đọc, phòng mượn. Tăng vốn tài liệu có thể giúp thư viện công cộng tổ chức luận chuyển xuống cơ sở. Tài liệu điện tử giúp làm tăng lượt truy cập từ ngoài vào thư viện. Và như thế số lượng bạn đọc thực ngay tại thư viện có thể tăng ít, thậm chí không đến nhưng số lượng bạn đọc ảo tăng lên. - Người làm công tác thư viện Để đảm bảo cho thư viện hoạt động bình thường trong điều kiện gia tăng vốn tài liệu, cơ sở vật chất - kỹ thuật, bạn đọc, các thư viện phải tăng thêm người làm. Đó là điều hiển nhiên. Tuy nhiên không phải ở đâu, lúc nào cũng được tăng biên chế. Thực tiễn thư viện nước ta đã nói lên điều đó. Nhiều thư viện tỉnh, thành đã không được tăng nhân lực trong hàng chục năm nay. Điều đó dẫn tới sự quá tải trong công việc của nhân viên thư viện và thư viện cũng không thể phát triển thêm các dịch vụ mới. Tuy vậy, những năm gần đây, nhiều lãnh đạo thư viện tỉnh, thành đã thuyết phục được các cấp quản lý cấp trên tăng biên chế cho thư viện như Phú Thọ, Hải Phòng, Hà Nội, Bình Dương... Cũng cần nhấn mạnh rẳng ở một số nước có những tiêu chuẩn để định biên nhưng ở Việt Nam chưa có những chuẩn này. Đúng ra, trước kia đã có một số quy định liên quan đến thư viện cấp huyện. Chẳng hạn, trong Quy chế tổ chức và hoạt động của thư viện huyện được Bộ Văn hóa và Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) ban hành năm 1979 đã có quy định: Thư viện huyện có số sách từ 5.000-10.000 bản thì biên chế được 2 cán bộ. Khi tăng thêm vốn sách thì cứ 10.000 bản thì lại thêm 1 cán bộ. Ngoài ra, về công tác đối với cơ sở thì cứ thường xuyên chỉ đạo 10 thư viện xã lại được 1 cán bộ. Rất tiếc những định mức này chỉ ghi trong quy chế thư viện cấp huyện và quy chế đó do Bộ Văn hóa và Thông tin ban hành nên khả năng áp dụng sang các loại hình thư viện khác và thuyết phục chính quyền cấp biên chế cho thư viện còn hạn chế. Nếu những định mức như thế, được nghiên cứu có cơ sở khoa học hơn và được ban hành trong những văn bản quy phạm pháp luật cao hơn như: Pháp lệnh Thư viện hay Luật Thư viện say này thì tác dụng của chúng sẽ lớn hơn rất nhiều lần. Như vậy, qua những gì trình bày ở trên có thể rút ra một kết luận nho nhỏ: Không có tăng trưởng, phát triển, thư viện không thể đáp ứng được nhu cầu đọc và thông tin của người dân, của xã hội và do đó không thực hiện được các chức năng xã hội của mình. 2.2. Năng động là biến đổi theo sự phát triển của xã hội, khoa học công nghệ * Biến đổi về nhận thức, quan tâm của cơ quan cấp trên, xã hội về thư viện và đọc sách Chúng ta quan niệm rằng thư viện là thiết chế xã hôi do xã hôi tạo lập nên và phục vụ cho xã hội. Chúng ta đã từng đúc kết một kinh nghiệm hay có thể nói khái quát - một quy luật, ở đâu được chính quyền, người dân quan tâm, đầu tư, nơi đó thư viện phát triển. Mà muốn có sự quan tâm, đầu tư của chính quyền, người dân thì có nhiều cách: - Thể chế hóa sự quan tâm đó bằng những văn bản quy phạm pháp luật và phải có những chế tài bắt buộc các cấp chính quyền nghiêm túc thực hiện những quy định pháp luật trong các văn bản đó. - Thuyết phục bằng hiệu quả phục vụ người đọc, phục vụ xã hội của chính thư viện. Ở cách thứ nhất, rất khó có được những quy định pháp luật đầy đủ và kịp thời cho công tác thư viện. Mặt khác, các quy định pháp luật ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam, thường có "tuổi thọ" khá dài, có thể hàng chục năm, nhiều khi không còn phù hợp với hoàn cảnh hiện tại nên rất khó thực hiện. Chẳng hạn, những quy định về số lượng tên sách, bản sách được bổ sung cho từng hạng thư viện ban hành trong Thông tư liên bộ 97 giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Bộ Tài chính nước ta ngày 15/6/1990 khi mới ra đời đã có tác dụng rất lớn đối với các thư viện nhưng chỉ sau một số năm đã lạc hậu nên năm 2002 hai Bộ này đã ra Thông tư liên bộ khác có sửa đổi, bổ sung một số quy định tại Thông tư số 97 nói trên. Và cho đến nay một số quy định trong Thông tư sửa đổi đó cũng cần phải điều chỉnh đề phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Ngay Pháp lệnh Thư viện của nước ta vừa ra đời năm 2000, đến nay đã xuất hiện nhiều ý kiến đề nghị có những sửa đổi hay thay thế bằng Luật Thư viện. - Thuyết phục các cấp quản lý, xã hội bằng hiệu quả hoạt động của mình. Đây là công việc khó vì công tác thư viện là công việc có tính chất trầm, lặng. Vì thế, để cho chính quyền, xã hội biết về mình, thư viện sẽ phải: + Nắm bắt kíp thời những vấn đề, nhiệm vụ mà cơ quan, đơn vị, xã hội đang giải quyết và đề ra những biện pháp giúp thực hiện thành công các nhiệm vụ đó. Thực tế, nhiều thư viện cấp tỉnh, cấp huyện ở nước ta nhận được đầu tư lớn của nhà nước là do có nhiều đóng góp cho địa phương như Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Hà Nội, Phú Yên, Bình Định, Bình Dương,,, + Thông tin rộng rãi cho công chúng biết về các khả năng và những thành tích đã đạt được trong lĩnh vực phục vụ người dùng, đặc biệt về các kế hoạch, phương hướng phát triển của ngành thư viện, từng thư viện trong tương lai... thông qua các sản phẩm thông tin, tờ thông báo, chương trình phát thanh, truyền hình, các cuộc gặp mặt, tọa đàm với bạn đọc, các hoạt động tham quan thư viện của các nhà báo, doanh nghiệp, lãnh đạo chính quyền các cấp, lãnh đạo các tổ chức xã hội, tôn giáo. * Thay đổi về tổ chức sự nghiệp thư viện Sự thay đổi điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội, tất nhiên, dẫn đến những đổi thay trong phương cách tổ chức sự nghiệp thư viện của từng nước. Liên Xô trước kia, sau khi đã xây dựng một mạng lưới thư viện rộng khắp, để tạo nên hiệu quả trong hoạt động của các thư viện, đã tiến hành việc tập trung hóa thư viện, tạo nên các hệ thư viện tập trung hóa cấp huyện gồm 1 thư viện trung tâm và các chi nhánh ở cấp xã. Singapo, trong những năm cuối thế kỷ XX, đã xây dựng hệ thống thư viện thống nhất từ cấp trung ương đến cơ sở. Việc ứng dụng CNTT trong các thư viện đang xóa dần những rào cản về sự quản lý của bộ ngành, địa phương để tạo nên một hệ thống thư viện thống nhất trong toàn quốc với nguyên tắc phối hợp, hợp tác trong tổ chức và hoạt động của các thư viện. Những biến đổi về tổ chức như vậy sẽ làm cho thư viện hoạt động tiết kiệm hơn, hiệu quả hơn và do đó nâng cao hơn vị thế của thư viện trong xã hội. * Ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ để biến đổi thư viện Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, thư viện luôn tìm mọi cách để ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ vào hoạt động của mình. Đó là ứng dụng các thành tựu khoa học hóa - lý trong bảo quản tài liệu. Khoa học toán cũng giúp tối ưu hóa công tác bổ sung, phân bổ mạng lưới thư viện, tạo lập các phần mềm thư viện; các thành tựu ghi âm, ghi hình tạo ra các phòng phục vụ tài liệu nghe - nhìn, kỹ thuật vi phim để vi phim hóa tài liệu nhằm giảm diện tích kho, nâng cao khả năng bảo quản tài liệu, phục vụ bạn đọc, kỹ thuật photocopy, CNTT, viễn thông đã tạo nên những biến đổi to lớn trong tự động hóa khâu nghiệp vụ và tạo nên những sản phẩm và dịch vụ đáp ứng ở mức cao nhất nhu cầu đọc và thông tin ngày càng đa dạng của người dùng... Ngoài ra, các thư viện cũng ứng dụng các thành tưu của khoa học xã hội vào công tác của mình. Các thành tựu của tâm lý học, sư phạm học, xã hội học... giúp thư viện nghiên cứu người sử dụng thư viện và tìm ra những phương thức phục vụ phù hợp với tâm sinh lý của họ. Các thành tựu của khoa học quản lý, kinh tế, loogic, truyền thông... cũng có những đóng góp quan trọng cho công tác của các thư viện. Có thể nói rằng ngành thư viện đã ứng dụng một cách hợp lý những thành tựu của tất cả các ngành khoa học. * Thay đổi kỹ thuật nghiệp vụ Cùng với thay đổi vể tổ chức, thư viện ở nhiều nước đã nhận thức được tầm quan trọng của việc thống nhất về các chuẩn nghiệp vụ thư viện. Tuy nhiên, mỗi nước có những cách giải quyết khác nhau: có nước tự mình đề ra những chuẩn nghiệp vụ thống nhất trong nước, có nước áp dụng các chuẩn nghiệp vụ của các tổ chức quốc tế; có nước lại lấy các chuẩn nghiệp vụ của nước khác làm chuẩn nghiệp vụ của nước mình. Tuy nhiên, quá trình thống nhất các chuẩn trên thế giới sẽ còn lâu dài do nhiều nước vẫn muốn bảo vệ "bản sắc" nghiệp vụ của nước mình; đồng thời chưa có điều kiện vật chất để chuyển đổi các sản phẩm của mình sang những chuẩn mới. Việc biết thích nghi với biến đổi của xã hội, của khoa học, công nghệ đã tạo ra thế và lực mới cho thư viện. 2.3. Năng động là tìm những phương cách mới để phục vụ tốt hơn cho xã hội Trong suốt thời gian dài từ khi ra đời cho đến thế kỷ XIV, thư viện chỉ tiến hành việc phục vụ người sử dụng trong các phòng đọc của mình. Từ giữa thế kỷ XV khi xuất hiện nghề in, các thư viện, do có nhiều bản hơn cho một tên sách, đã mở thêm một hình thức phục vụ mới cho bạn đọc mượn sách về nhà. Từ giữa thế kỷ XIX, các thư viện châu Âu, Hoa Kỳ đã bắt đầu tiến hành mượn liên thư viện, phục vụ ngoài thư viện. Hình thức phục vụ ngoài thư viện cũng được nhiều nước áp dụng với những cách thức khác nhau: có nơi thì dùng tàu hỏa, có nơi dùng ô tô, xe máy, xe đạp, có nơi có lúc người thư viện lại cõng sách trên lưng để đến các vùng chiến sự, vùng núi cao để phục vụ người dân. Với việc số hóa tài liệu và đưa lên mạng toàn cầu, người dùng trên khắp thế giới có thể sử dụng được tài nguyên của bất cứ thư viện nào... Về đối tượng người sử dụng cũng không ngừng được mở rộng. Nếu mới đầu đó là những vua chúa, quan lại, những người có học, giới thượng lưu trong xã hội thì từ thế kỷ XVII trở đi - thêm nhân dân lao động, ngay cả những người chưa biết đọc, biết viết. Từ đầu thế kỷ XX các thư viện công cộng nhiều nước tiên tiến trên thế giới còn tổ chức phục vụ cho người tàn tật mà tiêu biểu là người khiếm thị. Từ giữa thế kỷ XX bắt đầu phục vụ các em trước tuổi đến trường, các đối tượng người dùng đặc biệt (bệnh nhân, tù nhân...) Thư viện cũng luôn tạo ra và cung ứng cho người dùng những sản phẩm và dịch vụ, đồng thời không ngừng nghiên cứu, tìm tòi những phương thức phục vụ phù hợp với từng đối tượng bạn đọc. Nếu trước kia các thư viện phục vụ bạn đọc theo phương thức kho đóng thì từ cuối thế kỷ XIX - xuất hiện thêm phương thức mới - tổ chức kho mở, để bạn đọc vào kho sách tự chọn tài liệu phù hợp. Đối với những người chưa biết đọc, biết viết khi tới thư viện công cộng được cán bộ thư viện tổ chức đọc to nghe chung những cuốn sách, bài báo được nhiều người quan tâm hoặc giúp ích cho nhiều người. Đối với các cháu trước tuổi đến trường, thiếu nhi được thư viện tổ chức các buổi đọc truyện, kể chuyện, vẽ tranh, nặn tượng...nhằm khêu gợi ở các em lòng yêu sách, thích đọc sách, biết thể hiện một cách sáng tạo những gì thu nhận được từ những sách đã đọc. Đối với những người nông dân trung tuổi ở Việt Nam trong những năm 1960-1980 thường được khuyến khích tham gia những cuộc thi tìm hiểu những cuốn sách về cây trồng, vật nuôi có sản lượng cao cần được áp dụng vào sản xuất nông nghiệp thời kỳ đó. Người tham gia không chỉ sẽ trình bày những kiến thức khoa học về cây trồng, vật nuôi đó mà còn phải nói lên được cách thức mình áp dụng và kết quả đã đạt được... Những cuộc thi như vậy, diễn ra khi ở cấp quốc gia, khi ở cấp tỉnh huyện, đã tạo nên nhu cầu đọc sách ở người nông dân và mang lại kết quả thiết thực trong sản xuất của họ. Áp dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ vào công tác và tìm ra những phương thức, sản xuất, dịch vụ mới trong nghiệp vụ, các thư viện đã đáp ứng tốt hơn, nhanh hơn, có chất lượng hơn nhu cầu đọc và thông tin của người dùng của xã hội. 2.4. Năng động là những kết quả phục vụ bạn đọc của thư viện góp phần hoàn thiện con người, biến đổi xã hội. Sử dụng thư viện, đọc sách mang lại nhiều lợi ích cho con người. Có thể liệt kê rất nhiều lợi ích do sử dụng thư viện mang lại như: - Nâng cao dân trí. - Nâng cao trình độ chuyên môn. Những lợi ích này không cần chứng minh. Chỉ biết rằng nhiều người với nền học vấn không cao nhưng do sử dụng thư viện, do đọc sách họ trở thành những nhà học giả, những nhà trước tác nổi tiếng. Mặt khác, cũng có thể dẫn ra hàng nghìn ví dụ về việc những người được đào tạo kỹ, có nền học vấn siêu đẳng nhưng sớm thỏa mãn, không chịu đọc sách, không chịu tìm tòi thông tin, trở nên những người học vấn thì cao nhưng kiến thức lại thấp. - Nâng cao ý thức xã hội, ý thức công dân của mỗi thành viên trong xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, thân thiện hơn. Những người đọc sách biết được nghĩa vụ và quyền hạn của mình và do đó họ sẽ đấu tranh để đạt được những quyền lợi đó. Trong Tuyên ngôn về thư viện công cộng năm 1994, UNESCO đã khẳng định: "Tự do, phồn vinh và phát triển của xã hội và cá nhân là những giá trị cơ bản của con người. Nhưng những giá trị đó chỉ đạt được với điều kiện là các công dân được thông tin tốt để họ có khả năng sử dụng các quyền dân chủ của mình và đóng vai trò tích cực trong xã hội. Việc tham gia có tính chất xây dựng và phát triển nền dân chủ phụ thuộc vào trình độ học vấn đầy đủ, sự tiếp cận tự do và không hạn chế tới tri thức, tư tưởng, văn hóa và thông tin". - Sử dụng thư viện, đọc sách là phương cách quan trọng để giữ gìn hòa bình trong nước và trên thế giới. Bởi vì chỉ có thông qua đọc sách (và các hoạt động văn hóa khác nữa), dân tộc này mới hiểu được các dân tộc khác, tìm ra tiếng nói chung của những vấn đề bất đồng, đưa ra những giải pháp chính trị phù hợp và không bạo lực để giải quyết thành công các bất đồng đó. Sứ mệnh đó của thư viện, đặc biệt là thư viện công cộng đã được nêu trong Tuyên ngôn nói trên về Thư viện công cộng "Giúp phát triển đối thoại giữa các nền văn hóa và giữ gìn bản sắc văn hóa (dân tộc)" - Có những quyết định đúng trong giải quyết các nhiệm vụ, công việc, học tập... của từng cá nhân, từng tổ chức và của cả xã hội. Thông tin, kiến thức là vô cùng quan trọng. Nhờ nắm được những thông tin chính xác, những kiến thức khoa học, thông qua các nguồn khác nhau mà trước hết là tài liệu, mọi người, cơ quan, tổ chức và nói rộng hơn, cả dân tộc sẽ có những quyết sách đúng khi giải quyết các nhiệm vụ đặt ra trong sản xuất, chiến đấu, nghiên cứu, học tập, kinh doanh... 3. Kết luận Hoạt động thư viện trên khắp thế giới hiện chưa được xã hội, chính quyền quan tâm đúng mức. Vì thế, sự năng động của thư viện sẽ giúp cho xã hội quan tâm hơn tới thư viện, đầu tư nhiều hơn cho thư viện và đến lượt mình thư viện sẽ phục vụ xã hội đúng hướng hơn, hiệu quả hơn, - Muốn đạt được sự năng động, mỗi thư viện, mỗi người làm công tác thư viện, mỗi nhà lãnh đạo thư viện phải dám nghĩ, dám làm, luôn luôn đổi mới, sáng tạo trong cách nghĩ, cách làm. - Chỉ có năng động, thư viện mới phát triển vì thế chúng tôi gọi năng động là động lực phát triển của các thư viện./. TS. Lê Văn Viết Tác giả bài viết: Hồ Dung sưu tầm Nguồn tin: Thư viện Quốc gia Việt Nam URL của bản tin này: http://thuviensonla.com.vn/Nghiep-vu-trao-doi/NANG-DONG-LA-DONG-LUC-PHAT-TRIEN-CUA-THU-VIEN-691.html © Thư viện tỉnh Sơn La - Thư viện điện tử số trực tuyến webmaster@thuviensonla.com.vn Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
1614178347293.1.parquet/72289
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 18833, "url": "http://thuviensonla.com.vn/savefile/Nghiep-vu-trao-doi/NANG-DONG-LA-DONG-LUC-PHAT-TRIEN-CUA-THU-VIEN-691.html" }
119.1
talawas | Milovan Djilas - Giai cấp mới trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas Văn học Thơ và Thơ Trẻ Văn học Việt Nam Văn học nước ngoài Các giải thưởng văn học Giải thưởng Bùi Giáng Lý luận phê bình văn học Điểm nóng Chính trị Việt Nam Chính trị thế giới Đại hội X và cải cách chính trị tại Việt Nam Xã hội Giáo dục Kinh tế Đồng tính luyến ái trong xã hội hiện đại Thế hệ @ Pháp luật Đời sống hiện đại Thể thao talaFemina Tủ sách talawas 1 - 20 / 201 bài 31.10.2008 Nguyễn Mộng Giác Bão rớt 27.10.2008 Nhã Ca Đêm dậy thì 16.10.2008 Mai Thảo Gần mười bảy tuổi 11.10.2008 Trùng Dương Lập đông 7.10.2008 Nguyễn Thị Hoàng Bóng lá hồn hoa 1.10.2008 Nguyễn Thị Hoàng Cho những mùa xuân phai 24.9.2008 Duy Lam Cái lưới 17.9.2008 Chân dung Nguyễn Du 1.9.2008 Aleksandr I. Solzhenitsyn Tầng đầu địa ngục 5.8.2008 Aleksandr I. Solzhenitsyn Quần đảo ngục tù 16.7.2008 Tam Ích Ý văn 1 14.7.2008 Tạ Ký Sầu ở lại 11.7.2008 Hồ Hữu Tường Trầm tư của một tên tội tử hình 8.7.2008 Hồ Hữu Tường Kể chuyện 4.7.2008 Trần Tử Alexandre Soljenitsyne: Tác phẩm – Con người và Cuộc đời 30.6.2008 Aleksandr I. Solzhenitsyn Bất ngờ tại nhà ga Krechetovka 24.6.2008 Dương Nghiễm Mậu Tuổi nước độc 21.6.2008 Nguyễn Đức Sơn Cái chuồng khỉ 18.6.2008 Vũ Khắc Khoan Mơ Hương Cảng 9.6.2008 Tạp chí Văn Hoài niệm Nhất Linh 1 - 20 / 201 bài tìm (dùng Unicode hoặc không dấu) tác giả: A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z Tủ sách talawas bản để in Gửi bài này cho bạn bè 11.10.2005 Milovan Djilas Giai cấp mới 10 kì Phạm Minh Ngọc dịch 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 Chủ nghĩa cộng sản dân tộc 1. Thống nhất về bản chất nhưng chế độ cộng sản lại được thực hiện bằng những biện pháp và tốc độ khác nhau trong từng nước riêng biệt. Vì vậy các hệ thống cộng sản riêng biệt có thể được xem như là những hình thức khác nhau của cùng một hiện tượng. Sự khác nhau giữa các nước cộng sản, mà Stalin đã cố gắng loại bỏ một cách vô vọng, là hậu quả của tính đặc thù lịch sử của từng nước. Ngay một người quan sát hời hợt nhất cũng nhận thấy, thí dụ, chủ nghĩa quan liêu ở Liên Xô hiện nay là sự tiếp tục của chế độ của Sa Hoàng mà ngay Engels đã nói rằng quan chức ở đó là một “giai tầng đặc biệt”. Có thể nói tương tự như vậy về cơ chế quyền lực ở Nam Tư nữa. Sau khi nắm được “tay lái”, những người cộng sản ở các nước khác nhau phải trực diện với những trình độ kĩ thuật-văn hoá khác nhau, với những quan hệ xã hội không giống nhau, với những đặc thù dân tộc khác nhau, chính quyền mới không thể không tính đến điều đó. Những khác biệt này mỗi ngày lại càng sâu sắcc thêm. Nhưng dù ít dù nhiều, nguyên nhân đưa họ đến quyền lực là giống nhau, kẻ thù bên trong và bên ngoài của họ cũng giống nhau, cho nên nói chung cộng sản không chỉ tiến hành một cuộc đấu tranh chung mà còn theo đuổi một tư tưởng chung nữa. Tương tự như tất cả những thứ khác trong chủ nghĩa cộng sản, tinh thần quốc tế cộng sản, đã một thời là biểu hiện sự tương đồng về hoàn cảnh và nhiệm vụ mà xã hội đặt ra trước những người cách mạng, đã biến chất cùng với thời gian. Bây giờ đây không chỉ là một “cái chảo quyền lợi chung” của bộ máy quan liêu cộng sản quốc tế mà còn là môi trường dung dưỡng cho những cuộc cắn xé và bất hoà của cái “tập thể” ấy trên cơ sở quốc gia-dân tộc nữa. Chủ nghĩa quốc tế vô sản chỉ còn là những khẩu hiệu; giờ đây nó chỉ còn là một hố sâu che giấu những lợi ích trong quan hệ đối nội và đối ngoại “trần trụi”, che đậy những kế hoạch, dự định của các nhóm cộng sản chóp bu đương quyền mà thôi. Bản chất của quyền lực và sở hữu, sự tương đồng về vai trò trên trường quốc tế cũng như hệ tư tưởng, nhất định sẽ buộc những người cộng sản phải tham khảo kinh nghiệm của nhau. Mặc dù vậy, sẽ là sai lầm nếu không thấy hoặc không đánh giá đúng ý nghĩa của những sự khác biệt về tốc độ và con đường phát triển của các nước cộng sản. Sự đa dạng về đường lối, hình thức và tốc độ của từng nước là đương nhiên. Không có chế độ cộng sản nào, dù có vẻ giống các chế độ khác đến đâu, có thể tồn tại được nếu nó không khoác lên mình những biểu hiện của chủ nghĩa cộng sản dân tộc. Hơn thế nữa, để có thể trụ được, chế độ cộng sản càng ngày càng phải có hình thức dân tộc chủ nghĩa hơn, càng phải thích nghi với thực tiễn của dân tộc hơn. Hình thức quyền lực và sở hữu, nội dung của tư tưởng trong các nước cộng sản khác nhau không đáng kể. Vì bản chất thì ở đâu cũng là một: nhà nước toàn trị. Nhưng để có thể giành và giữ được quyền lực, người cộng sản buộc phải thích ứng, nghĩa là làm cho đường lối và tốc độ áp đặt những hình thức quyền lực và sở hữu giống nhau đó phù hợp với điều kiện của từng dân tộc. Sự khác nhau giữa các nước càng lộ rõ khi những người cộng sản ở một nước nào đó, vì hoàn cảnh, đã chiếm được quyền lực bằng những con đường “phi truyền thống” và với tốc độ khác các nước kia. Và họ phải là những người tương đối độc lập. Cụ thể chỉ có ba nước: Liên Xô, Trung Quốc và Nam Tư (nơi nhiều nơi ít khác nhau), nơi những người cộng sản tự tiến hành cách mạng, giành chính quyền và bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội theo kiểu của mình và với tốc độ do mình định đoạt. Các nước này đã giữ được độc lập sau khi đã trở thành cộng sản, ngay cả như Nam Tư trước đây và Trung Quốc hiện nay bị áp lực lớn từ phía Liên Xô. Tại phiên họp kín đại hội XX, Khrushchev đã vén bức màn bí mật về việc ngăn chặn vụ tranh chấp giữa Stalin với ban lãnh đạo Trung Quốc. Như vậy là vụ đối đầu với Nam Tư không phải là vụ duy nhất, nó chỉ là vụ đầu tiên và kịch tính nhất, trồi lên trên bề mặt trong thời gian gần đây mà thôi. Như ta đã biết, tất cả các nước cộng sản khác đều là do lãnh đạo Liên Xô áp đặt bằng quân đội của mình. Vì vậy sự khác biệt về đường lối và tốc độ phát triển không đóng vai trò như Nam Tư và Trung Quốc. Nhưng cùng với sự củng cố của bộ máy quan liêu đương quyền, cùng với việc bộ máy này càng ngày càng độc lập hơn, nó sẽ càng ngày càng nhận thức được rằng việc tuân theo, việc sao chép Liên Xô một cách mù quáng chỉ làm cho nó thêm mất giá, nó sẽ bắt chước Nam Tư, nghĩa là phát triển độc lập hơn. Cộng sản Đông Âu là tay sai của Liên Xô không phải là vì họ thích như thế mà vì họ quá yếu. Cùng với việc ổn định vị thế của mình và khi điều kiện cho phép, nhất định họ sẽ bắt đầu khao khát độc lập, sẽ bắt đầu bảo vệ “nhân dân nước mình” khỏi bá quyền Xô Viết. Sau thắng lợi của cách mạng cộng sản, chính quyền đã lọt vào tay giai cấp mới. Giai cấp này không muốn hi sinh đặc quyền đặc lợi đã giành được “bằng mồ hôi và cả máu” nhân danh tinh thần đoàn kết vì lí tưởng chung nữa, nó cũng không chịu hi sinh quyền lợi của mình cho quyền lợi của giai cấp gọi là “anh em” ở những nước khác nữa. Các nước, nơi mà cách mạng cộng sản chiến thắng chủ yếu nhờ vào nội lực, nhất định sẽ chọn đường lối phát triển riêng và sẽ mâu thuẫn với các nước khác, nhất là với Liên Xô, nước cộng sản mạnh nhất và cũng có thái độ đế quốc nhất. Theo quan điểm triết học thì như vậy có nghĩa là tầng lớp quan liêu của dân tộc ấy đã nhận thức được bản chất của mình, đã giành được chính quyền và nay đòi hỏi quyền bình đẳng. Điều đó không chỉ có nghĩa là sự xung đột của hai hệ thống quan liêu. Tham gia vào cuộc đụng độ này còn có cả những nhà cách mạng của nước phụ thuộc, những người chống đối quyết liệt và không khoan nhượng “quyền của kẻ mạnh”, những người luôn luôn cho rằng quan hệ giữa các nước cộng sản phải là quan hệ lí tưởng như giáo lí vẫn dạy. Quần chúng nhân dân, trong sâu thẳm của tâm hồn vẫn là lực lượng ủng hộ độc lập, cũng không thể đứng ngoài cuộc xung đột. Dù sao nhân dân cũng được lợi vì một mặt, họ không phải cống nạp cho chính quyền ngoại bang, mặt khác, giảm được ách nô dịch của chính phủ nước mình, một chính phủ không muốn và không thể sao chép mãi các biện pháp ngoại lai nữa. Cuộc xung đột còn đánh thức cả các lực lượng khác, ở các nước khác và phong trào khác. Nhưng bản chất của cuộc xung đột cũng như người tham gia xung đột thì vẫn thế. Cộng sản Liên Xô cũng như cộng sản Nam Tư đều không thay đổi bản chất của mình cả trước, trong và sau cuộc cải vã. Sự thật là bất đồng về đường lối và tốc độ phát triển đã dẫn đến sự phủ nhận tính chất xã hội chủ nghĩa của đối tác, nhưng cuối cùng họ đã làm lành với nhau vì hiểu ra rằng nếu họ không muốn làm tổn hại đến uy tín và đánh mất điều quan trọng nhất (thực ra là một) thì phải tôn trọng sự khác biệt. Các chính quyền cộng sản phụ thuộc ở Đông Âu có thể và phải giành lấy độc lập từ tay Liên Xô. Ước muốn độc lập sẽ đi xa đến đâu cũng như mâu thuẫn sẽ biểu hiện dưới hình thức nào là vấn đề không ai có thể đoán trước được, điều đó phụ thuộc vào hàng loạt tác nhân cả quốc gia và quốc tế nữa. Nhưng bộ máy quan liêu cộng sản từng nước sẽ càng ngày càng độc lập hơn và nắm được nhiều quyền lực hơn, đấy là một điều chắc chắn. Phong trào phản đối Tito ở Đông Âu khi Stalin còn sống cũng như việc công khai nói đến “xây dựng chủ nghĩa xã hội” theo “con đường riêng”, nhất là ở Ba Lan và Hungari, hiện nay, đã chứng minh điều đó. Chính phủ trung ương Liên Xô còn phải giải quyết vấn đề “dân tộc chủ nghĩa” ngay với những nhà lãnh đạo do họ nặn ra (Ukraine, Kavkaz), nói gì đến các nước Đông Âu. Một điều quan trọng nữa là Liên Xô đã không thể và trong tương lai cũng không thể kích thích được nền kinh tế các nước Đông Âu, và vì vậy ước muốn độc lập sẽ ngày càng dâng cao. Ước muốn này có thể bị đè nén hoặc đình chỉ trong một thời gian nào đó vì áp lực từ bên ngoài hoặc vì sự hốt hoảng của những người cộng sản trước “chủ nghĩa đế quốc” và “tư bản” nhưng không thể bị tiêu diệt hoàn toàn được. Ngược lại, xu hướng này sẽ ngày một tăng thêm. Dĩ nhiên là không thể dự đoán được quan hệ giữa các nước cộng sản sẽ phát triển theo những hình thức nào. Sự hợp tác của những người cộng sản có thể đưa đến sự hợp nhất về tư tưởng, nhưng mâu thuẫn của các nước cộng sản lại có thể phát triển dưới mọi hình thức, dẫn đến mọi kiểu xung đột, kể cả chiến tranh. Không phải “chủ nghĩa xã hội” ở Nam Tư và Liên Xô mà chính là do Stalin đã không dám liều đi nước cờ “được ăn cả ngã về không”, mức độ lan rộng của nó không thể dự đoán trước, đã giúp tránh được cuộc đụng độ giữa hai nước. Quan hệ giữa các nước cộng sản phụ thuộc vào một loạt hoàn cảnh, các sự kiện chính trị sẽ đóng vai trò chủ yếu, nhưng quyền lợi của tầng lớp quan liêu, thể hiện khi thì dưới dạng dân tộc khi thì dưới dạng quyền lợi chung sẽ có vai trò không nhỏ. Tất cả những điều đó đang diễn ra trong xu hướng giành quyền tự chủ ngày càng dâng cao, không gì cản trở được của các nước cộng sản đàn em. 2. Trước khi thế chiến thứ hai kết thúc, khái niệm chủ nghĩa cộng sản dân tộc là khái niệm vô giá trị, vì lúc đó chủ nghĩa đế quốc Xô Viết chưa thể hiện được hết khả năng của nó không chỉ trong quan hệ với các nước tư bản mà còn trong quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa nữa. Khái niệm này chỉ xuất hiện khi xảy ra đụng độ giữa Nam Tư và Liên Xô. Việc “ban lãnh đạo tập thể” Khrushchev-Bulganin phê phán các phương pháp của Stalin có thể đã làm cho quan hệ giữa Liên Xô và các nước cộng sản khác bớt căng thẳng nhưng bình thường hoá hoàn toàn thì chưa. Với Liên Xô, chúng ta không chỉ chạm trán với chủ nghĩa cộng sản mà còn đối diện với tham vọng đế quốc của đế chế Đại-Nga-Xô nữa. Tham vọng này có thể thay đổi hình thức và phương pháp “tác động” nhưng không thể nào biến mất được, cũng như xu hướng độc lập của các nước cộng sản khác cũng là xu hướng bất khả tương nhượng vậy. Các hệ thống cộng sản khác cũng có cùng xu hướng phát triển như vậy. Một lúc nào đó, tuỳ vào khả năng và hoàn cảnh các chế độ đó cũng sẽ muốn trở thành (và sẽ trở thành) các nước đế quốc và bá quyền theo kiểu của mình. Chính sách đối ngoại của Liên Xô đã trải qua hai giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, mặc dù ngay cả giai đoạn tuyên truyền cách mạng ở các nước khác cũng có thể được coi là có tính đế quốc. Tôi nghĩ rằng không đủ cơ sở để coi giai đoạn đầu tiên, giai đoạn cách mạng trong quá trình phát triển ở Liên Xô là mang tính đế quốc vì khi đó nước này chủ yếu là tự vệ chứ chưa tấn công. Nhưng không nghi ngờ gì rằng trong chính sách của tầng lớp chóp bu đã có xu hướng đế quốc chủ nghĩa (thí dụ như trong quan hệ với vùng Kavkaz) Như vậy là, nếu không kể giai đoạn thứ nhất thì giai đoạn hai, bắt đầu với chiến thắng cùa Stalin, của công nghiệp hoá và sự thống trị của giai cấp mới trong những năm 30 (thế kỉ XX- ND) chính sách đối ngoại của Liên Xô bắt đầu mang tính đế quốc chủ nghĩa. Bước ngoặt này xảy ra ngay trước chiến tranh, khi chính quyền Stalin đáng ra phải (và đã có điều kiện) chuyển từ những tuyên bố yêu chuộng hoà bình và chống đế quốc thành việc làm thực tế thì việc thay đổi lãnh đạo Bộ ngoại giao, từ một người cởi mở, khả ái và có nguyên tắc là Litvinov bằng một người người kín đáo và vô nguyên tắc là Molotov lại cho thấy điều ngược lại. Không nghi ngờ gì rằng bản chất bóc lột và chuyên chế của giai cấp mới là nguyên nhân chủ yếu của chính sách đối ngoại mang tính đế quốc chủ nghĩa của nhà nước cộng sản. Nhưng để có thể bộc lộ những tham vọng đế quốc của mình, giai cấp đó phải có lực lượng và những hoàn cảnh nhất định. Lực lượng ấy đã sẵn sàng ngay trước chiến tranh. Còn chiến tranh lại là điều kiện cho những tính toán, tham vọng đế quốc chủ nghĩa. Các nước nhỏ bé vùng Ban-tích không thể nào đe doạ được an ninh của một nước khổng lồ như Liên Xô, hơn nữa các nước này hoàn toàn không có thái độ thù địch. Nhưng đây lại là miếng mồi ngon cho lòng tham vô đáy của chế độ quan liêu cộng sản đại Nga. Tinh thần quốc tế cộng sản trước đó đã là một phần trong chính sách đối ngoại của Liên Xô, thì nay, trong chiến tranh thế giới thứ hai đã bị quyền lợi của tầng lớp quan liêu Xô Viết nuốt gọn. Các tổ chức của Quốc tế ba đã trở thành thừa. Ý tưởng giải tán Komintern, theo lời Dimitrov, xuất hiện ngay sau khi chiếm đóng các nước vùng Baltic, nhưng việc giải tán chỉ được thực hiện trong giai đoạn hai của cuộc chiến, khi đã liên minh với các nước phương Tây. Phòng thông tin, bao gồm các đảng Đông Âu, Pháp và Ý, được thành lập theo sáng kiến của Stalin nhằm bảo đảm cho sự thống trị của Liên Xô trong các nước tay sai và duy trì ảnh hưởng của nó ở Tây Âu. Phòng thông tin không thể nào so sánh được với Quốc tế Cộng sản, tuy vẫn là sự áp chế tuyệt đối của Moskva, nhưng dù sao cũng có đại diện của tất cả các đảng cộng sản. Phòng thông tin thực ra chỉ bao gồm khu vực ảnh hưởng của Liên Xô mà thôi. Cuộc đụng độ với Nam Tư chứng tỏ rằng Phòng thông tin chỉ làm mỗi một việc là duy trì sự lệ thuộc của các nước và các đảng cộng sản vào chính quyền Xô Viết, sự lệ thuộc này đã giảm nhiều cùng với việc củng cố các chế độ cộng sản dân tộc. Sau khi Stalin chết thì Phòng thông tin cũng bị giải thể. Nhằm tránh những mâu thuẫn lớn và nguy hiểm trong tương lai người ta đã phải công nhận quyền của cái gọi là con đuờng xây dựng chủ nghĩa xã hội riêng của mỗi nước. Sự thay đổi về tổ chức như thế có thể diễn ra được là do một loạt nguyên nhân về kinh tế và chính trị. Khi các đảng cộng sản Đông Âu chưa đủ mạnh và chính Liên Xô cũng chưa củng cố được về mặt kinh tế, chính phủ Xô Viết (ngay cả nếu không có sự độc đoán của Stalin) buộc phải dùng các biện pháp hành chính để duy trì sự thống trị trong các nước Đông Âu. Chủ nghĩa đế quốc Liên Xô đã buộc phải sử dụng các biện pháp chính trị mà trước hết là cảnh sát và lực lượng vũ trang để bù đắp cho những yếu kém, trước hết là về kinh tế của mình. Đây chỉ là biểu hiện ở một trình độ cao hơn của chủ nghĩa đế quốc phong kiến – quân phiệt thời Sa Hoàng, nó cũng phù hợp với cơ cấu nội tại của Liên Xô, nơi bộ máy hành chính và cảnh sát đặt dưới sự chỉ huy của một cá nhân duy nhất đang giữ thế thượng phong. Chủ nghĩa Stalin chính là sự kết hợp của nền chuyên chính cộng sản độc tài và chủ nghĩa đế quốc quân phiệt. Lập ra các tổ chức xã hội hữu nghị và các tổ chức khác ở mỗi nước, sử dụng áp lực chính trị để nhập khẩu hàng hoá từ Đông Âu theo giá thấp hơn giá cả trên thị trường quốc tế, thành lập “thị trường xã hội chủ nghĩa”, kiểm soát tất cả chính sách của các chính phủ và các đảng phụ thuộc, biến tình cảm tốt đẹp của những người cộng sản đối với “quê hương của chủ nghĩa xã hội” thành sự sùng bái nhà nước Xô Viết, sùng bái Stalin là những chính sách không thể tách rời của chủ nghĩa đế quốc Xô Viết. Chuyện gì đã xảy ra? Tại Liên Xô, trong nội bộ giai cấp cầm quyền đã diễn ra sự thay đổi “thầm lặng”, Stalin đã ngăn chặn sự xuất hiện công khai của các thay đổi này. Những thay đổi tương tự cũng đã diễn ra trong các nước Đông Âu: bộ máy quan liêu dân tộc ở đấy trong khi củng cố quyền lực và sở hữu của mình đã vấp phải những vấn đề do áp lực bá quyền của Liên Xô gây ra. Nếu trước đây, để giành được quyền lực, họ phải từ bỏ đặc thù dân tộc của mình thì ngày nay quan điểm đó đã trở thành vật chướng ngại trên con đường tiến lên của họ. Ngoài ra, chính phủ Liên Xô cũng không còn đủ khả năng theo đuổi chính sách đe doạ sử dụng vũ lực và cách li vừa tốn kém vừa nguy hiểm như thời còn Stalin, đồng thời họ cũng không thể giữ mãi một loạt nước châu Âu trong “sân sau” của mình trong thời buổi mà những tình cảm chống đế quốc dâng cao như hiện nay nữa. Sau một giai đoạn lúng túng và câu dầm, các lãnh tụ Liên Xô buộc phải công nhận rằng những lời kết án chống lại các nhà lãnh đạo Nam Tư về việc họ là gián điệp của phát xít Đức và của Mĩ vì họ đã bảo vệ quyền xây dựng chủ nghĩa xã hội của mình là không có cơ sở. Tito đã trở thành nhân vật nổi tiếng của phong trào cộng sản đương đại. Nguyên tắc dân tộc đã được công nhận về mặt hình thức. Nhưng đồng thời Nam Tư cũng đánh mất vai trò của lực lượng sáng tạo trong phong trào cộng sản. Cách mạng Nam Tư đã được “thuần hoá”, bắt đầu một thời kì phát triển hoà bình và đơn điệu dưới quyền cai trị của độc tài cộng sản. Tình thân giữa các kẻ thù cũ không trở thành vĩnh cửu, các cuộc tranh cãi cũng chưa kết thúc. Chỉ là một giai đoạn mới. Đồng thời Liên Xô cũng chuyển sang giai đoạn hai, giai đoạn sử dụng các biện pháp kinh tế và chính trị cho các tham vọng đế quốc của mình. Ít nhất là ta có cảm tưởng như thế khi phân tích các sự kiện hiện có trong ngày hôm nay. Chủ nghĩa cộng sản dân tộc đã trở thành hiện tượng phổ biến. Nơi nhiều, nơi ít nhưng nó đã thâm nhập vào phong trào cộng sản tất cả các nước. Liên Xô là trường hợp ngoại lệ, đấy chính là đối tượng mà các phong trào dân tộc chĩa mũi dùi vào. Nhưng trong thời Stalin thì cộng sản Liên Xô cũng đã từng là cộng sản dân tộc. Khi đó phong trào cộng sản Nga đã chối bỏ chủ nghĩa quốc tế, nó chỉ lợi dụng tinh thần quốc tế như là công cụ của chính sách đối ngoại của mình mà thôi.. Chế độ cộng sản Xô Viết đã và đang đối diện với đòi hỏi phải công nhận một thực tế mới trong phong trào cộng sản quốc tế. Với những thay đổi diễn ra từ bên trong, chủ nghĩa đế quốc Xô Viết cũng buộc phải thay đổi chính sách đối ngoại. Nó đã chuyển từ những biện pháp kiểm soát hành chính sang chính sách hợp tác kinh tế với các nước Đông Âu, lập kế hoạch chung trong những lĩnh vực quan trọng nhất. Các chính phủ cộng sản Đông Âu hiện nay tỏ ra tự nguyện hợp tác vì họ biết rằng mình chưa đủ mạnh kể cả ở trong nước cũng như trên trường quốc tế. Tình trạng này không thể kéo dài được lâu vì hàm chứa trong mình nó những mâu thuẫn cơ bản. Một mặt tinh thần dân tộc sẽ ngày càng được củng cố, và mặt khác chủ nghĩa đế quốc Xô Viết cũng là hiện tượng không thể nào loại bỏ được. Chính phủ Liên Xô và các chính phủ Đông Âu, trong đó có Nam Tư, phải tìm ra được các biện pháp hợp tác, phối hợp sức mạnh để giải quyết những vấn đề chung, quan trọng nhất, đấy là bảo vệ cho bằng được hình thức quyền lực và sở hữu hiện nay. Đấy là lĩnh vực duy nhất có thể hợp tác, ngoài ra thì không. Các điều kiện để hợp tác với chính phủ Liên Xô sẽ ngày càng nhiều thêm, nhưng những điều kiện đưa đến sự độc lập của các chính phủ Đông Âu thì còn nhiều hơn. Chính phủ Liên Xô sẽ không từ bỏ vai trò thống trị của mình, đồng thời chính phủ các nước đó cũng cố gắng đấu tranh để giành cho bằng được một cái gì đó giống như sự tự chủ của Nam Tư. Mức độ tự chủ của từng nước sẽ phụ thuộc vào tương quan lực lượng, cả trong nước và quốc tế. Việc chính phủ Liên Xô phải “nghiến răng” công nhận các hình thức dân tộc của phong trào cộng sản là một sự kiện cực kì quan trọng nhưng cũng cực kì nguy hiểm cho chủ nghĩa đế quốc Xô Viết. Điều đó đã tạo ra một sự trao đổi tương đối tự do và như thế có nghĩa là một sự độc lập về tư tưởng. Từ nay trở đi ảnh hưởng của một tư tưởng “tà giáo” nào đó đối với chủ nghĩa cộng sản không chỉ phụ thuộc vào lòng tốt của Moskva mà còn phụ thuộc vào chính sức mạnh của “tà giáo” đó nữa. Nếu Moskva dùng mọi cách để giữ ảnh hưởng của mình trong thế giới cộng sản trện cơ sở “tự nguyện” và một “hệ tư tưởng chung”, thì việc ngăn chặn quá trình phân li là bất khả thi. Chính Moskva cũng đã không còn như xưa nữa. Độc quyền về tư tưởng và đạo đức đã không còn. Sau khi đoạn tuyệt với Stalin, Moskva không đã còn là trung tâm tư tưởng nữa. Thời đại của những hoàng đế cộng sản vĩ đại và những tư tưởng vĩ đại đã chấm dứt, bây giờ là thời của những viên chức quan liêu cộng sản tầm thường. “Ban lãnh đạo tập thể” không hề nghi ngờ về những vấn đề và những mất mát đang chờ đợi nó, kể cả trong lẫn ngoài nước. Phải làm sao đây? Chủ nghĩa đế quốc Stalin không chỉ quá tốn kém và nguy hiểm, tệ hơn thế còn không có hiệu quả. Nó không chỉ tạo ra sự bất bình trong dân chúng mà còn ngay trong hàng ngũ của những người cộng sản, thậm trí ngay khi tình hình quốc tế cực kì căng thẳng. Liên Xô không còn là trung tâm tư tưởng của phong trào cộng sản quốc tế nữa. Sự thống nhất của phong trào cộng sản quốc tế đã bị một vết thương không gì cứu chữa được, hiện chưa có dấu hiệu gì chứng tỏ nó sẽ hồi sinh trong một tương lai không xa. Nhưng dù đã thay thế Stalin, “Ban lãnh đạo tập thể” không thể thay đổi được bản chất của hệ thống ở Liên Xô, cũng như các phong trào cộng sản dân tộc, dù đã vững mạnh lên sau khi thoát khỏi ảnh hưởng của Moskva, cũng không thể thay đổi được bản chất nội tại của mình, đấy là nhà nước toàn trị, độc quyền tư tưởng và bộ máy quan liêu. Thực ra nó cũng đã hạn chế được áp lực và làm chậm lại quá trình củng cố quyền sở hữu, đặc biệt là ở nông thôn. Nhưng chủ nghĩa cộng sản dân tộc không có ý định và không thể trở thành một cái gì khác ngoài chủ nghĩa cộng sản. Chính vì vậy mà nó luôn luôn và một cách vô thức quay về với Liên Xô như là “cội nguồn của mọi cội nguồn”. Nó không thể tách số phận của mình khỏi số phận của các nước và các phong trào cộng sản khác. Biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc trong phong trào cộng sản đã tạo ra nhiều nguy cơ cho chủ nghĩa đế quốc Xô Viết giai đoạn Stalin, nhưng không phải là nguy cơ của chính phong trào cộng sản. Ngược lại, nó có thể tăng cường sức mạnh ở những nơi đã giành được quyền lực và như thế trở nên hấp dẫn hơn với những con mắt nhìn vào từ bên ngoài. Chủ nghĩa cộng sản dân tộc xuất hiện trong giai đoạn phi giáo điều, nghĩa là giai đoạn chống Stalin của phong trào cộng sản và cũng là đặc điểm quan trọng của giai đoạn này. 3. Chủ nghĩa cộng sản dân tộc không có khả năng thay đổi tình hình chính trị thế giới cả trên bình diện quan hệ giữa các quốc gia lẫn trong nội bộ phong trào công nhân. Dĩ nhiên là nó có thể có ảnh hưởng to lớn với cả hai tiến trình này. Thí dụ chủ nghĩa cộng sản dân tộc Nam Tư đã có tác động không nhỏ trong việc xói mòn chủ nghĩa đế quốc Xô Viết và hạ bệ chủ nghĩa Stalin trong nội bộ phong trào cộng sản quốc tế. Nguyên nhân của những sự thay đổi đang diễn ra ở Liên Xô và các nước Đông Âu nằm ngay trong lòng các nước đó. Nhưng những thay đổi đầu tiên theo kiểu đó đã xảy ra ở Nam Tư. Và cũng kết thúc ở đấy trước. Chủ nghĩa cộng sản dân tộc Nam Tư, bằng cuộc đối đầu với chủ nghĩa Stalin, đã khơi mào cho một giai đoạn mới, giai đoạn hậu Stalin trong phong trào cộng sản quốc tế. Ảnh hưởng của nó đối với phong trào cộng sản quốc tế là rõ ràng, đối với quan hệ quốc tế và phong trào công nhân phi cộng sản, dĩ nhiên là ảnh hưởng của nó có yếu hơn. Sẽ là không có cơ sở khi cho rằng Nam Tư sẽ phát triển theo hướng xã hội dân chủ hay sẽ là chiếc cầu nối giữa dân chủ xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Các lãnh tụ Nam Tư không phải là những người nhất quán trong vấn đề này. Trong giai đoạn bị áp lực từ phía Liên Xô họ tỏ ra muốn liên kết với những người xã hội dân chủ. Nhưng sau khi đã làm hoà với Moskva thì Tito lại tuyên bố rằng Phòng thông tin cũng như Quốc tế xã hội đều là những tổ chức không thiết thực, mặc dù trước đó không lâu Quốc tế xã hội đã kiên quyết bảo vệ Nam Tư trong khi các đại diện của Phòng thông tin thì mở những cuộc tấn công điên cuồng vào chính nước này. Say sưa với chính sách gọi là cùng tồn tại tích cực, một chính sách đáp ứng đầy đủ nhất quyền lợi của họ trong thời điểm hiện nay, các lãnh tụ Nam Tư tuyên bố rằng Phòng thông tin và Quốc tế xã hội đã đánh mất vai trò của mình chỉ vì một lí do đơn giản là chúng được hai khối thù địch dựng lên. Các nhà lãnh đạo Nam Tư đã lẫn lộn giữa ước mơ và hiện thực, giữa quyền lợi nhất thời với những dị biệt sâu xa về xã hội và lịch sử. Phòng thông tin là sản phẩm của Stalin, ông ta muốn tạo ra khối quân sự Đông Âu. Cũng không nên phủ nhận mối quan hệ của Quốc tế xã hội, hoạt động trong khuôn khổ các nước Tây Âu, với khối NATO. Nhưng Quốc tế xã hội trước hết vẫn là tổ chức của những người xã hội chủ nghĩa hoạt động trong lòng các nước tư bản phát triển, các nước có truyền thống dân chủ, các tổ chức xã hội, trong đó có Quốc tế xã hội, có thể tồn tại mà không cần NATO. Các liên minh và khối quân sự là những hiện tượng nhất thời, trong khi chủ nghĩa xã hội phương Tây và chủ nghĩa cộng sản phương Đông là những xu hướng có tính ổn định và có nguồn gốc sâu xa hơn nhiều. Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa cộng sản và phong trào xã hội - dân chủ không chỉ vì sự khác nhau về nguyên tắc (ít lí do nhất) mà là sự khác nhau về xu hướng phát triển của sức mạnh kinh tế và tinh thần. Điều mà Doicher đã gọi rất đúng là khởi đầu một sự chia rẽ vĩ đại trong lịch sử - vụ đụng độ giữa Martov và Lenin tại Đại hội II Đảng dân chủ xã hội Nga ở London năm 1903 về vấn để đảng tịch, đúng hơn là về mức độ tập trung hoá và kỉ luật – đã đưa đến một loạt hậu quả mà những người khởi xướng cuộc tranh luận ấy không thể nào mường tượng nổi. Đấy không chỉ là sự khởi đầu của hai phong trào mà là sự khởi đầu của hai hệ thống xã hội khác nhau. Không thể nào loại bỏ được hố sâu ngăn cách giữa những người cộng sản và những người dân chủ nếu không thay đổi bản chất của hai phong trào ấy, nếu không thay đổi ngay cái hoàn cảnh đã tạo ra mâu thuẫn giữa chúng với nhau. Trong nửa thế kỉ qua, dù có một số lần xích lại gần nhau trong những giai đoạn ngắn, sự khác biệt chỉ ngày một sâu sắc thêm, bản chất khác nhau của mỗi bên càng lộ rõ thêm. Hôm nay xã hội dân chủ và chủ nghĩa cộng sản không chỉ là hai phong trào mà còn là hai thế giới. Chủ nghĩa cộng sản dân tộc, sau khi tách khỏi Moskva, đã không có khả năng vượt qua được hố sâu ngăn cách đó mặc dù đã có một vài cố gắng làm giảm nhẹ sự khác biệt. Đấy là sự hợp tác giữa ban lãnh đạo những người cộng sản Nam Tư với những người dân chủ xã hội – nhiều tuyên bố mà ít thực chất, vì “lịch sự” hơn là “theo tiếng gọi của trái tim”. Sự hợp tác đã không đem lại kết quả khả dĩ nào cho cả hai bên. Sự thiếu thống nhất giữa những người dân chủ xã hội châu Á và phương Tây lại có lí do hoàn toàn khác. Họ không có sự khác nhau quá lớn về bản chất và nguyên tắc. Vấn đề chính ở đây là hành động. Vì những vấn đề hoàn toàn có tính dân tộc mà những người xã hội châu Á không thể hợp nhất với xã hội dân chủ Tây Âu được. Dù là những người phản đối chế độ thực dân nhưng những người xã hội phương Tây vẫn là đại diện cho những nước phát triển, dù không có thế thượng phong về chính trị ở những nước kém phát triển kia nhưng vẫn là những nước bóc lột họ. Mâu thuẫn giữa những người dân chủ xã hội châu Á và Phương Tây là mâu thuẫn sinh ra do sự phát triển không đồng đều được chuyển vào phong trào. Mặc dù các mâu thuẫn đó là khá sâu sắc nhưng sự gần gũi của hai phong trào cũng thật rõ ràng và bằng vào những gì ta thấy hôm nay có thể nói rằng khả năng hợp tác là hoàn toàn có thể xảy ra trong tương lai. 4. Giống như Nam Tư, nếu các đảng cộng sản ở các nước phi cộng sản theo đuổi đường lối dân tộc chủ nghĩa thì ảnh hưởng của nó trên trường quốc tế sẽ còn lớn hơn cả ảnh hưởng của những đảng cộng sản dân tộc chủ nghĩa đã giành được chính quyền. Trước hết đấy là đảng cộng sản Pháp và Ý là những đảng tập hợp được đa số tuyệt đối giai cấp công nhân và nếu không kể đến một vài đảng ở châu Á, thì đây là những đảng có ảnh hưởng mạnh nhất trong thế giới phi cộng sản. Các biểu hiện của chủ nghĩa cộng sản dân tộc ở các đảng đó hiện chưa đạt được qui mô và sự hưởng ứng có ý nghĩa. Nhưng các biểu hiện như vậy nhất định sẽ xảy ra và cuối cùng sẽ dẫn tới những thay đổi cơ bản trong nội bộ các đảng đó. Không thể coi sự xa rời của các đảng đó khỏi ảnh hưởng của Moskva là do nhu cầu cạnh tranh với phong trào dân chủ xã hội, một phong trào đang sử dụng các khẩu hiệu xã hội chủ nghĩa để lôi kéo về phía mình khối quần chúng bất mãn. Càng không thể coi đấy là do sự thay đổi đường lối một cách đột ngột của Moskva và các đảng cộng sản chấp chính khác đặt những người cộng sản vừa kể và cả những người chưa được kể, hiện chưa nắm chính quyền, trước sự “khủng hoảng về mặt lương tâm”, phải lên án những điều mà vừa mới hôm qua còn được đưa lên tận chín tầng mây, buộc phải thay đổi đường lối một cách đột ngột. Việc tuyên truyền của các đảng phái đối lập cũng như áp lực của ban lãnh đạo xí nghiệp đối với công nhân đều không có ảnh hưởng đáng kể đối với sự ổn định của các đảng này. Bản chất các hệ thống xã hội của nhà nước nơi các đảng đó hoạt động là nguyên nhân chủ yếu làm cho các đảng đó tách khỏi Moskva. Nếu giai cấp công nhân các nước đó có thể (khả năng này rất dễ xảy ra) giành được sự cải thiện điều kiện sống của mình bằng con đường nghị trường và bằng cách đó làm biến đổi cả hệ thống, thì cho dù có những truyền thống cách mạng đến mức nào họ cũng sẽ quay lưng lại với những người cộng sản. Chỉ một nhóm những người cộng sản giáo điều là có thể bình thản đứng nhìn sự xa lánh của công nhân, trong khi những nhà lãnh đạo chính trị tỉnh táo sẽ tìm mọi cách để cải thiện vị thế của mình, dù cái giá phải trả là giảm thiểu liên hệ với Moskva. Các cuộc bầu cử tuy có đem lại cho các đảng cộng sản một số phiếu to lớn, nhưng điều đó không thể hiện sức mạnh thực sự của các đảng đó, nó chỉ chứng tỏ sự bất bình của quần chúng với trật tự hiện hành và sức cuốn hút của các ảo tưởng còn sót lại mà thôi. Các khối quần chúng đang đi theo các lãnh tụ cộng sản sẽ dễ dàng bỏ rơi họ một khi nhận ra rằng người cộng sản sẵn sàng hi sinh các biểu hiện dân tộc và những cơ hội cụ thể của giai cấp công nhân vì bản chất quan liêu, vì chế độ “chuyên chính vô sản” và các quan hệ với Moskva của họ. Tất cả những điều vừa nói dĩ nhiên chỉ là giả thiết. Hiện nay các đảng đó đang rơi vào tình trạng cực kì khó khăn. Nếu họ thực sự muốn theo con đường nghị trường thì các lãnh tụ của họ phải từ bỏ đường lối chống nghị trường, nghĩa là ủng hộ chủ nghĩa cộng sản dân tộc, mà như thế - nếu tính đến vị trí của họ hiện nay – cũng có nghĩa là sự phân liệt của các đảng này. Khả năng thực hiện được những thay đổi xã hội và cải thiện điều kiện sống của giai cấp công nhân bằng con đường dân chủ sẽ ngày một tăng lên, các bước đi lắt léo của Moskva sau khi bãi bỏ tệ sùng bái cá nhân Stalin cuối cùng sẽ dẫn tới sự tan rã của trung tâm tư tưởng, sự cạnh tranh của những người xã hội dân chủ, xu hướng thống nhất của phương Tây không chỉ trong lĩnh vực quân sự mà còn trên cơ sở xã hội, việc củng cố sức mạnh quân sự của phương Tây, việc giảm khả năng sự “giúp đỡ anh em” của quân đội Liên Xô, việc không thể thực hiện được các cuộc cách mạng cộng sản mới nếu không có thế chiến thứ ba, tất cả những điều đó đã buộc các lãnh tụ các đảng này phải quay sang sử dụng các hình thức dân tộc chủ nghĩa; nhưng nỗi sợ hãi trước hậu quả của con đường nghị trường và sự đoạn tuyệt với Moskva lại làm họ tê liệt, không thể hành động. Sự khác biệt ngày càng sâu sắc giữa phương Đông và phương Tây có ảnh hưởng cực kì to lớn. Cả Toliatti và Tores đều lúng túng. Họ đã đứng ngoài sự vận động cả bên trong lẫn bên ngoài đảng của mình. Khi tuyên bố tại Đại hội XX rằng ngày nay nghị trường có thể là “hình thức quá độ” đi lên chủ nghĩa xã hội, Chrushchev một mặt muốn tạo thuận lợi cho các đảng cộng sản trong “các nước tư bản chủ nghĩa”, mặt khác thúc đẩy sự hợp tác giữa những người cộng sản và dân chủ xã hội trong việc lập ra “mặt trận nhân dân”. Theo lời ông ta thì ông ta tin vào phương án này vì kết quả của những biến đổi diễn ra đã dẫn đến việc củng cố chủ nghĩa cộng sản và hoà bình trên trái đất. Nhưng trên thực tế thì bằng cách đó ông ta đã ngầm công nhận không chỉ điều mà ai cũng rõ: cách mạng cộng sản trong các nước phát triển là điều bất khả, mà hơn thế nữa việc mở rộng chủ nghĩa cộng sản trong điều kiện hiện nay là không thể thực hiện được, nguy cơ chiến tranh là không thể tránh khỏi. Chính sách của nhà nước Xô Viết tựu trung lại là giữ nguyên hiện trạng, chủ nghĩa cộng sản sẽ đấu tranh giành những vị trí mới bằng các biện pháp khác. Đấy chính là khởi đầu của một cuộc khủng hoảng trong các đảng cộng sản ở các nước phi cộng sản. Chuyển sang lập trường cộng sản dân tộc thì có nguy cơ đánh mất bản chất, mà không chuyển thì mất người ủng hộ. Để thoát khỏi mâu thuẫn này, các lãnh tụ, nghĩa là những người đại diện cho bản chất cộng sản sẽ phải rất khéo léo. Nhưng họ cũng khó ngăn chặn được quá trình tan rã. Họ sẽ mâu thuẫn với những xu hướng phát triển mới cả trong nước cũng như trên trường quốc tế. Chủ nghĩa cộng sản dân tộc trong các nước phi cộng sản nhất định sẽ dẫn tới sự li khai với chính phong trào cộng sản, sự tan rã của các đảng cộng sản. Cơ hội của chủ nghĩa cộng sản dân tộc trong các nước phi cộng sản là rất lớn, nhưng chắc chắn nó sẽ dẫn đến việc li khai với phong trào cộng sản. Kết quả là chủ nghĩa cộng sản dân tộc ở các nước đó sẽ tích tụ được sức mạnh, qua những chặng đường đầy cam go và những vụ “bột phát” ngắn hạn. Khi xem xét những đảng cộng sản không chấp chính ta thấy rằng chủ nghĩa cộng sản dân tộc, mặc dù là với ý định “làm mới” chủ nghĩa cộng sản “nói chung”, dù là với ý định củng cố nó, nhưng đồng thời đấy lại là một một dị giáo, nó nhất định sẽ phá nát cái chủ nghĩa cộng sản “nói chung” ấy. Chủ nghĩa cộng sản dân tộc chứa đầy mâu thuẫn nội tại. Về bản chất nó là cộng sản Xô Viết nhưng về hình thức nó lại có xu hướng tách ra, mang màu sắc dân tộc. Trên thực tế đấy là chủ nghĩa cộng sản trong giai đoạn suy đồi, giai đoạn thoái trào. © 2005 talawas Nguồn: Bản tiếng Nga, tại http://dzhilas-milovan.viv.ru/index.htm bản để in Ngôn ngữ Dịch thuật Tản văn thứ sáu Tủ sách talawas Nghệ thuật talaGallery Bàn tròn "Mĩ thuật đương đại Việt Nam đang ở đâu" Mĩ thuật Kiến trúc Điện ảnh Sân khấu Âm nhạc Tư tưởng Triết học Lịch sử Tôn giáo Phương Đông và Phương Tây Văn hoá và phát triển Chiến tranh nhìn từ nhiều phía
1614178347293.1.parquet/125283
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 32126, "url": "http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php/%3C/showFile.php?res=5544&rb=08" }
118.4
việc làm ngành xây dựng | Luyện thi - Dịch vụ luyện thi chuyên nghiệp Luyện thi Trang chủ Bí kíp luyện thi Cẩm nang học tập Tìm hiểu ngành nghề Tag: việc làm ngành xây dựng Thông tin cần biết ngành Xây dựng 24/10/2017 Tin tìm hiểu ngành nghề Ngành xây dựng vừa tạo nên những cơ sở vật chất cụ thể, vừa phải tạo nên các công trình có giá trị kỹ thuật và văn hóa. Đây là ngành đòi hỏi sự sáng tạo và kết hợp giữa kỹ thuật, công nghệ, văn hóa, nghệ thuật. Thông tin cần biết ngành Xây dựng Chúng ta cần có nhà để ở, có đường để đi, trường để học, công trình công cộng để làm việc, sinh hoạt, bệnh viện để chăm sóc sức khỏe, cần được sống trong môi trường trong sạch, được an toàn với động đất, núi lửa, gió bão, lũ lụt, trượt lở đất v.v…Có lẽ chính vì vậy người xây dựng luôn được đề cao, tôn vinh trong mọi thời đại. Họ đã tạo nên những giá trị kỹ thuật, văn hóa, xã hội, cộng đồng và tâm linh. Khác với xây dựng dân dụng, xây dựng quân sự là tạo nên những pháo đài, thành trì, đường hầm, công trình ngầm, công trình trên hải đảo, vùng biên giới… vì các mục tiêu an ninh quốc phòng. Nhiều quốc gia chủ trương xây dựng các công trình dân dụng kết hợp với quốc phòng như xây dựng đường giao thông ngầm trong đô thị, sử dụng tầng ngầm nhà cao tầng, tạo dựng các hang ngầm trong lòng đất, đá… Trong tương lai, các công trình dân dụng và quốc phòng sẽ được giao thoa, gắn kết, phục vụ cho cộng đồng và bảo vệ đất nước. Điều kiện làm việc và cơ hội nghề nghiệp Với chuyên môn về xây dựng, bạn có thể làm việc tại các doanh nghiệp xây dựng, giao thông, thủy lợi, các viện nghiên cứu chuyên ngành, các ban quản lý dự án, các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp v.v… Cơ hội làm việc trong ngành xây dựng rất rộng mở. Kỹ sư trong ngành xây dựng hầu như luôn phải đi xa nhà, theo các công trình. Họ làm việc dưới điều kiện vất vả, áp lực thời gian lớn. Khi làm việc tại công trình, họ còn phải cẩn thận với những tai nạn lao động có thể xảy ra. Khả năng phối hợp rất quan trọng với kỹ sư trong ngành xây dựng vì họ thường làm việc theo nhóm gồm các chuyên gia khác nhau có liên quan. Một số nghề nghiệp trong ngành xây dựng – Kiến trúc sư (tham khảo thêm phần giới thiệu Ngành Kiến trúc) – Kỹ sư cơ học đất và địa kỹ thuật công trình – Kỹ sư kết cấu công trình – Kỹ sư vật liệu xây dựng – Kỹ sư giao thông công trình – Kỹ sư điện, nước và thiết bị kỹ thuật – Kỹ sư âm thanh, chiếu sáng, vật lý kiến trúc và cây xanh cho công trình xây dựng – Kỹ sư lắp máy và cơ khí xây dựng – Người quản lý dự án xây dựng. Phẩm chất và kỹ năng cần thiết Ngành xây dựng vừa tạo nên những cơ sở vật chất cụ thể, vừa phải tạo nên các công trình có giá trị kỹ thuật và văn hóa. Đây là ngành đòi hỏi sự sáng tạo và kết hợp giữa kỹ thuật, công nghệ, văn hóa, nghệ thuật. Vì vậy người xây dựng phải suy nghĩ vượt qua các rào cản, các bức tường, các hộp gỗ để thổi hồn và trí tuệ của mình vào những công trình cụ thể. – GIỏi các môn khoa học tự nhiên, đặc biệt là toán học và vật lý (cơ học). – Am hiểu các kiến thức lịch sử, địa lý cũng giúp ích rất nhiều trong ngành này. – Vốn văn hóa sâu rộng để biết tôn vinh các giá trị văn hóa trong các công trình xây dựng. – Có khả năng sáng tạo và tổ chức. – Khả năng giao tiếp tốt. – Tình yêu đất nước, thiên nhiên, con người (bởi ngành này là làm việc với đất, nước, đá, nguyên liệu, năng lượng và mục tiêu của cuộc sống con người). Một số địa chỉ đào tạo: Các bạn có thể theo học ngành xây dựng tại các trường: Trường Đại học Xây dựng, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, Trường Đại học Kiến trúc TP.HCM, Trường Đại học Giao thông vận tải, Trường Đại học Thủy lợi, Trường Mỏ – Địa chất, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách khoa TP.HCM, Trường Đại học Kinh tế quốc dân v.v… Ngoài ra còn có các trường Cao đẳng, Trung cấp và Dạy nghề xây dựng. Danh mục chính Bí kíp luyện thi Cẩm nang học tập Tìm hiểu ngành nghề Cẩm nang học tập Những thói quen cần có để học tập tốt hơn Kinh nghiệm giúp ôn tập tốt môn Văn 4 cách để lấy lại sự tập trung khi học bài Tìm hiểu một số thao tác lập luận trong văn nghị luận Kinh nghiệm để học tốt môn Toán Bí quyết giúp học tốt môn Văn Tìm hiểu ngành nghề Thông tin cần biết ngành Sinh học Thông tin cần biết ngành Hóa học Thông tin cần biết ngành Thiết kế thời trang Thông tin cần biết ngành Kiến trúc Thông tin cần biết ngành Xây dựng Thông tin cần biết ngành Sư phạm Copyright © 2017 Luyện thi - Dịch vụ luyện thi - Trung tâm luyện thi - Luyện thi đại học Website đang được xây dựng. Chúng tôi chưa cung cấp thông tin, dịch vụ hoặc sản phẩm trên website này. Mong quý vị thông cảm! Phát triển bởi: Thiết kế website đẹp
1614178347293.1.parquet/16196
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 4182, "url": "http://www.luyenthi.net/tag/viec-lam-nganh-xay-dung/" }
117.3
Hợp tác để cứu mạng sống - iRAP Tìm: Theo dõi Theo dõi Theo dõi Quyên góp Liên hệ chúng tôi Về chúng tôi Nơi chúng tôi làm việc Các nhà tài trợ của chúng tôi Cơ cấu & Quản trị Lịch sử Gặp gỡ nhóm Giá trị của chúng tôi Cách chúng tôi có thể giúp Xếp hạng sao Kế hoạch đầu tư Lập bản đồ rủi ro sự cố Theo dõi hiệu suất Hợp tác để cứu mạng Dự án đã bật Đầu tư tác động RAP khu vực Đối tác phát triển Trung tâm xuất sắc Đối tác nghiên cứu 3 Sao trở lên Xếp hạng sao là gì? Bắt đầu Sử dụng Mục tiêu Xếp hạng sao cho một thiết kế Đo lường kết quả Kỷ niệm Thành công Sự đổi mới Các dự án đổi mới Khung đổi mới Hội thảo đổi mới Ai-RAP Đào tạo & Công nhận Đào tạo Công nhận Lời chứng thực Video hữu ích Các câu hỏi thường gặp Bản tin Tài nguyên ViDA Vắc xin cho đường - Công cụ dữ liệu lớn iRAP Trường hợp kinh doanh cho đường an toàn hơn Phương pháp luận Thông số kỹ thuật Nghiên cứu và tài liệu kỹ thuật Bộ công cụ An toàn Đường bộ Xếp hạng sao cho tài nguyên trường học Gói trang trình bày Trung tâm Truyền thông Thông báo lưu trú Tin tức iRAP mới nhất từ khắp nơi trên thế giới Tài liệu chính Nghiên cứu điển hình Sự kiện trong ngành Gói trang trình bày Chọn trang Hợp tác để cứu mạng sống Cùng nhau, chúng ta có thể ngăn chặn tử vong và thương tích trên đường Trọng tâm của iRAP là tinh thần hợp tác. Chúng tôi cung cấp các công cụ và đào tạo để giúp chính phủ, hiệp hội ô tô, cơ quan tài trợ, ngân hàng phát triển, viện nghiên cứu và các tổ chức phi chính phủ khác tại hơn 100 quốc gia giúp làm cho con đường của họ an toàn hơn. Công việc của chúng tôi chỉ có thể thực hiện được thông qua sự hào phóng to lớn của các nhà tài trợ và các nhà tài trợ chính như Quỹ FIA, Quỹ an toàn đường bộ và FedEx. Việc áp dụng toàn cầu các chỉ số của chúng tôi được hỗ trợ bởi các quan hệ đối tác quan trọng với Cơ sở An toàn Đường bộ Toàn cầu của Ngân hàng Thế giới, Bloomberg Philanthropies, Ngân hàng phát triển đa bên, Liên minh Châu Âu, Các cơ quan của Liên hợp quốc và các chương trình viện trợ phát triển quốc gia. Quan hệ đối tác khu vực và quốc gia với các chương trình 'X'RAP cùng với sự lãnh đạo của các chính phủ, Câu lạc bộ vận động FIA và các tổ chức phi chính phủ tương tự đã cam kết tác động mở khóa an toàn đường bộ ở hơn 100 quốc gia trên toàn thế giới. Chúng tôi cũng được hưởng lợi rất nhiều từ thiện chí của nhiều cá nhân và tổ chức nghiên cứu khác trên khắp thế giới, những người cam kết cứu sống con người thông qua những con đường an toàn hơn. iRAP hợp tác với các cơ quan quản lý đường bộ, các nhà xây dựng đường và các tổ chức tài chính quốc tế để cung cấp thông tin và mở khóa những lợi ích của những con đường an toàn hơn. Chúng tôi là đối tác quan trọng trong việc thúc đẩy chính sách đổi mới và lãnh đạo tư tưởng cũng như nghiên cứu học thuật cho những con đường an toàn hơn. Hội thảo Đổi mới hàng năm của chúng tôi là một diễn đàn toàn cầu hàng đầu về tư duy mới về an toàn đường bộ. Xem các bài thuyết trình từ Hội thảo Đổi mới năm ngoái tại đây. iRAP cũng hỗ trợ các tổ chức bên liên quan chính như PIARC (Hiệp hội Đường bộ Thế giới) và tư vấn cho các tổ chức liên chính phủ như Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và Bộ trưởng Giao thông vận tải của Hội đồng Liên minh Châu Âu. Cùng với các đối tác của mình, chúng tôi sẽ tạo ra một thế giới không có những con đường rủi ro cao. Dự án đã bật Đầu tư tác động RAP khu vực Đối tác phát triển Trung tâm xuất sắc Đối tác nghiên cứu Dự án đã bật iRAP đã cho điểm số các dự án cải thiện đường cứu sinh thông qua mạng lưới đối tác của chúng tôi trên khắp thế giới, những người thực hiện các dự án đánh giá đường. Các khóa đào tạo của chúng tôi, cung cấp phần mềm miễn phí và công tác vận động chính sách cung cấp thông tin và mở khóa các nguồn tài chính quốc gia và / hoặc phát triển quan trọng để nâng cấp đường. Tìm hiểu nơi chúng tôi đang làm việc Tất cả Trường hợp kinh doanh toàn cầu iRAP dành cho các nhà đầu tư có tác động Tải xuống Trường hợp kinh doanh toàn cầu iRAP cho các nhà đầu tư có tác động đây, mà bao gồm: Sự cần thiết và chúng ta đang ở đâu hiện nay; Cơ chế đầu tư tác động; Trường hợp Kinh doanh cho những con đường an toàn hơn; Tác động của đầu tư như thế nào có thể được huy động và các lợi ích xã hội đạt được có thể khác nhau theo thống kê thu nhập của quốc gia. VẤN ĐỀ: 500 triệu người chết và bị thương từ nay đến năm 2030 #1 kẻ giết người trẻ tuổi trên toàn thế giới. GIẢI PHÁP: Cơ hội đầu tư$1,4 nghìn tỷ USD 1 trong 3 người chết và bị thương được cứu 20% + Tỷ giá hoàn vốn nội bộ. SỰ CẦN THIẾT: Mục tiêu 3.6 Phát triển Bền vững của Liên hợp quốc nhằm giảm một nửa số ca tử vong và thương tích trên đường. 16 triệu người sẽ chết và ước tính khoảng 500 triệu người bị thương trong các vụ va chạm trên đường từ nay đến năm 2030. Phần lớn sẽ là những người trẻ tuổi. Chi phí ước tính sẽ là $24 nghìn tỷ USD. Đầu tư chung cho an toàn đường bộ vẫn tiếp tục. Chỉ $1-3 được đầu tư vào phòng ngừa chấn thương trên đường cho mỗi $100 chi phí. Đầu tư không phù hợp với quy mô của cuộc khủng hoảng sức khỏe cộng đồng có thể ngăn ngừa được này. Dựa trên hành động hiện tại, Mục tiêu 3.6 sẽ không được đáp ứng. Cuộc sống sẽ mất. Thương tật suốt đời sẽ xảy ra. Gia đình sẽ bị thay đổi mãi mãi. CHÚNG TA ĐANG Ở ĐÂU? Đường 1 sao là kém an toàn nhất và đường 5 sao là an toàn nhất. > 40% của các con đường trên thế giới được iRAP đánh giá chỉ là 1 hoặc 2 sao - không an toàn đến mức không thể chấp nhận được. Các giải pháp đã được chứng minh và hiệu quả về chi phí tồn tại như lối đi bộ và phần đường dành cho người đi bộ, đường có dải phân cách, lề đường an toàn, cung cấp chỗ rẽ an toàn, làn đường dành cho xe đạp và xe máy, v.v. Tải xuống Trường hợp kinh doanh toàn cầu iRAP dành cho các nhà đầu tư có tác động - Phiên bản tiếng anh tại đây Tải xuống Trường hợp kinh doanh toàn cầu iRAP dành cho các nhà đầu tư có tác động - Phiên bản tiếng Bồ Đào Nha tại đây RAP khu vực iRAP là một phần của phong trào đánh giá đường toàn cầu để giúp đường an toàn hơn. Xem lịch sử của RAP tại đây. iRAP được thành lập vào năm 2006 với tư cách là một tổ chức bảo trợ cho EuroRAP, usRAP và AusRAP và cũng để tạo điều kiện cho công việc ở các nước có thu nhập trung bình và thấp. Bấm vào đây để biết thêm thông tin về Cách phát triển chương trình RAP do địa phương sở hữu và do người điều hành Đối tác phát triển Công việc của chúng tôi cũng được hỗ trợ bởi một loạt các đối tác chính sách và phát triển chính có ảnh hưởng mà chúng tôi đã có các thỏa thuận và quan hệ đối tác cấp dự án. Sự lãnh đạo và hỗ trợ của họ là vô giá trong việc cho phép các dự án đường an toàn hơn để cứu cuộc sống của chúng tôi trở thành hiện thực. Ngân hàng thế giới ngân hàng phát triển châu Á Ngân hàng Phát triển Caribe Diễn đàn vận tải quốc tế Ngân hàng Phát triển Châu Mỹ Latinh Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Châu Âu Quỹ FIA Millennium Challenge Corporation Liên minh Châu Âu Ngân hàng Phát triển Châu Phi Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ Tổ chức Y tế Thế giới liên Hiệp Quốc Trung tâm dịch vụ xuất sắc iRAP Các giao thức và mô hình của iRAP được hưởng lợi từ nghiên cứu dựa trên bằng chứng do các chuyên gia nghiên cứu an toàn đường bộ hàng đầu thế giới thực hiện. Centers of Excellence là những tổ chức đỉnh cao đã chứng tỏ sự xuất sắc trong kỹ thuật an toàn đường bộ và tập trung vào các hoạt động vì lợi ích công cộng. Trở thành Trung tâm Xuất sắc iRAP là cơ hội chỉ dành cho một số tổ chức nghiên cứu được chọn. Các Trung tâm Xuất sắc được lựa chọn bởi iRAP Executive vì tầm cỡ, vị thế toàn cầu được công nhận và mức độ phù hợp. Không có bất kỳ khoản phí nào liên quan đến việc trở thành Trung tâm Xuất sắc iRAP. iRAP hiện có 11 Trung tâm Xuất sắc. Để biết thêm thông tin, liên lạc: James Bradford james.bradford@irap.org Cơ quan Quốc gia Truy cập trang web Nhóm Ban Nghiên cứu Đường bộ Úc (ARRB) Châu Úc www.arrb.com.au Đại học Chulalongkorn (Chula) nước Thái Lan www.eng.chula.ac.th Khoa Giao thông vận tải và Khoa học Giao thông, Đại học Zagreb (FPZ) Croatia www.fpz.unizg.hr Viện Giao thông vận tải Hàn Quốc (KOTI) Nam Triều Tiên koti.re.kr Labtrans (UFSC) Brazil www.labtrans.ufsc.br Viện Nghiên cứu An toàn Đường bộ Malaysia (MIROS) Malaysia www.miros.gov.my Viện Giao thông vận tải Mexico (El Instituto Mexicano del Transporte) (IMT) Mexico www.gob.mx/imt MRI toàn cầu nước Mỹ www.mriglobal.org Viện Nghiên cứu Đường cao tốc (RIOH) Trung Quốc www.rioh.cn SWOV nước Hà Lan www.swov.nl TRL Vương quốc Anh trl.co.uk Đối tác nghiên cứu Cần những người giỏi nhất và sáng suốt nhất để hiểu và xây dựng nghiên cứu dựa trên bằng chứng để hiểu về an toàn đường bộ từ Thụy Điển đến Nam Phi và Brazil đến Bangladesh. Chương trình iRAP hiện đang hoạt động tại hơn 80 quốc gia, có liên kết với các học viên ở mỗi quốc gia. Đây là một chương trình dựa trên bằng chứng và nhóm iRAP may mắn được làm việc với một số nhà nghiên cứu và cơ quan nghiên cứu hàng đầu thế giới. Điều này làm cho mạng lưới đối tác iRAP trở thành một nơi thú vị và hấp dẫn, nhưng cũng có nghĩa là mọi người trong nhóm nhận ra rằng có rất nhiều câu hỏi về an toàn đường bộ cơ sở hạ tầng vẫn cần được giải đáp! Làm việc trong một mạng lưới lớn như vậy có nghĩa là các câu hỏi nghiên cứu có thể được thảo luận, thảo luận và chia sẻ rộng rãi và rất nhanh chóng có thể dẫn đến các câu trả lời được kiểm tra và sử dụng. Ở đây, chúng tôi đã liệt kê một số vấn đề được xác định bởi cơ quan quản lý đường bộ và các đối tác nghiên cứu trên khắp thế giới đang thực hiện đánh giá iRAP. Vui lòng đóng góp vào danh sách các nhu cầu nghiên cứu này hoặc liên hệ với Tiến sĩ Steve Lawson (steve.lawson@irap.org), nếu bạn muốn theo dõi một số vấn đề được liệt kê ở đây và bắt đầu nghiên cứu trong các lĩnh vực này. Một số chủ đề được liệt kê ở đây sẽ thích hợp làm dự án MSc cho sinh viên sau đại học. Các chủ đề khác có thể là, hoặc sẽ là một phần của các chương trình nghiên cứu lớn hơn nhiều. iRAP hiện không có nguồn tài chính để tài trợ cho tất cả các ý tưởng hay cho công việc được trình bày cho nó, nhưng nó thường có thể tham gia và cung cấp bí quyết cho những người muốn đóng góp vào nghiên cứu sẽ đóng góp cho iRAP tầm nhìn về một thế giới không có những con đường rủi ro cao. Nếu bạn muốn được hỗ trợ để thực hiện nghiên cứu ở quốc gia của mình, vui lòng liên hệ với một trong những Trung tâm xuất sắc của chúng tôi. An toàn và bền vững của khu vực đô thị ở các nước có thu nhập thấp và trung bình Trên toàn cầu, có sự di chuyển nhanh chóng của dân số đến các khu vực thành thị ở các nước thu nhập thấp và trung bình (LMIC) nói riêng. Với động thái này, vấn đề an toàn ngày càng gia tăng trong các khu vực lõi đô thị, đặc biệt liên quan đến an toàn của người đi bộ, các phương tiện giao thông công cộng, các nút giao thông đô thị và các khu vực đô thị. Các hoạt động nghiên cứu ưu tiên sẽ bao gồm: Một cuộc điều tra về sự phân bố các loại va chạm trong khu vực đô thị bao gồm vị trí, thời điểm và cách thức xảy ra tử vong trên đường đô thị trong LMIC. Điều này sẽ được tập trung vào sự phân bố tổng thể của các mô hình thương tích tồn tại trên mạng lưới đô thị của một mẫu các thành phố lớn của LMIC. Xem xét kiến thức dựa trên bằng chứng liên quan đến các biện pháp đối phó liên quan đến người đi bộ và giao thông công cộng có hiệu quả, trong những trường hợp nào và việc lượng hóa các mức giảm thiểu rủi ro tử vong. Điều tra các biện pháp xử lý liên quan đến chuyển đổi phương thức và thực hành thiết kế an toàn cho môi trường đô thị liên quan đến phát triển bền vững và giao thông. Ảnh hưởng của Phương tiện giao thông nhanh bằng xe buýt đến tỷ lệ tai nạn tổng thể trên các hành lang đô thị Tác động an toàn của các biện pháp xử lý liên quan đến giao lộ bao gồm thời gian tín hiệu giao lộ, điều phối tín hiệu, các pha dành cho người đi bộ, xử lý rẽ và cấm rẽ. Hiệu quả của mạng một chiều và phương pháp điều trị dựa trên khu vực và ảnh hưởng của chúng đối với tốc độ, số vụ tai nạn và tỷ lệ tử vong. Vai trò và việc quản lý tốc độ và tắc nghẽn liên quan đến kết quả an toàn. Tỷ lệ tai nạn liên quan đến các thiết kế và kích thước bùng binh khác nhau. Sau khi hoàn thành nghiên cứu, tất cả các phát hiện có liên quan sẽ được đưa vào bộ công cụ iRAP (http://toolkit.irap.org) và xếp hạng sao iRAP và các mô-đun tạo biện pháp đối phó, để đảm bảo rằng nghiên cứu được chuyển đổi thành thực tế ngay lập tức. Xếp hạng sao về kiểu dáng mới cho tất cả người tham gia giao thông Đầu tư mới đáng kể vào đường sá diễn ra hàng năm trên khắp thế giới. Hiệu quả an toàn của các khoản đầu tư mới này thường thấp hơn mong muốn liên quan đến nhu cầu của những người đi đường dễ bị tổn thương. iRAP hiện đang làm việc với các ngân hàng phát triển để giới thiệu đặc điểm kỹ thuật của các tiêu chuẩn xếp hạng sao tối thiểu như một phần của các thiết kế mới. Ví dụ: "... con đường mới phải đạt tiêu chuẩn ba sao tối thiểu cho người ngồi trên xe, người đi xe máy, người đi bộ và người đi xe đạp ở tốc độ vận hành thiết kế là 30 dặm / giờ". Cho phép đánh giá mức độ an toàn của các con đường mới hoặc đường đã được cải tạo ở các giai đoạn thiết kế khác nhau là một cách hữu hiệu và có giá trị để truyền đạt và tăng cường an toàn đường bộ trong một dự án. Dự án này sẽ tập trung vào những điều sau: Phát triển một quy trình hiệu quả để xếp hạng sao cho các thiết kế và các cơ hội tích hợp trong các công cụ hiện có cho phép và cung cấp thông tin cho quy trình thiết kế. Hợp tác với AASHTO để điều tra khả năng bao gồm xếp hạng sao ước tính làm đầu ra tiêu chuẩn của IHSDM (Mô hình thiết kế an toàn đường cao tốc tương tác). Đưa xếp hạng sao ước tính vào làm thước đo đầu ra trong các ứng dụng phần mềm thiết kế đường điển hình đang được sử dụng trên khắp thế giới. Xác định các cơ hội để nhấn mạnh các thành phần an toàn trong các dự án xây dựng và cải tạo đường. Hài hòa giữa mô hình đầu tư quản lý tài sản và an toàn đường bộ Việc quản lý chi tiết và mô hình hóa tài sản vỉa hè đã được tiên tiến trên toàn thế giới. Điều này bao gồm chi phí vòng đời, tối ưu hóa các chương trình liên quan đến năng lực và bảo quản tài sản và lựa chọn xử lý. Mô hình iRAP cung cấp các kết quả tương tự cho việc quản lý tích cực an toàn đường bộ trên một mạng lưới. Dự án sẽ: So sánh các mô hình đầu tư đường bộ và rủi ro có sẵn và kiểm tra tính tương thích của từng mô hình và khi nào, ở đâu và như thế nào các biện pháp đánh giá nên được tích hợp. Xác định các cơ hội để tích hợp các hoạt động đánh giá an toàn và quản lý tài sản nhằm tối đa hóa năng suất và cả các hoạt động an toàn và bảo quản tài sản. Thực hiện một nghiên cứu điển hình chi tiết bằng cách sử dụng, ví dụ, các mô hình HDM-4 và iRAP trong đánh giá đầu tư song song để làm nổi bật khả năng xảy ra va chạm và đầu vào giảm thương tích trong các mô hình hiện có. Điều chỉnh và / hoặc tạo các mô-đun tạo biện pháp đối phó tương thích trong các công cụ đánh giá khi thích hợp và chi tiết khi ưu tiên sự hài hòa. Báo cáo dữ liệu sự cố ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình Một loạt các kết quả nghiên cứu liên quan đến dữ liệu va chạm sẽ thông báo cho việc ra quyết định đầu tư và kỹ thuật tốt hơn ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Khả năng cung cấp dữ liệu về tử vong bị hạn chế với tình trạng báo cáo thiếu thông thường với rất ít thông tin thường có sẵn về dữ liệu thương tích nghiêm trọng. Các vấn đề chính cần được khám phá bao gồm: Đánh giá tỷ lệ thương tích tổng hợp từ tử vong đến nghiêm trọng trong LMIC. Đánh giá tỷ lệ tử vong đến nghiêm trọng theo loại người tham gia giao thông trong LMIC. Tỷ lệ tử vong đến thương tích nghiêm trọng và sự thay đổi trong báo cáo thấp theo loại người tham gia giao thông. Tỷ lệ tử vong trên thương tật nghiêm trọng và sự thay đổi trong báo cáo thấp theo vị trí địa lý và loại đường An toàn cho người đi bộ ở các nước có thu nhập thấp và trung bình Sự an toàn của người đi bộ là một lĩnh vực quan trọng cần được cải thiện trong Thập kỷ Hành động. Xếp hạng sao dành cho người đi bộ do iRAP sử dụng cung cấp tiêu chuẩn ban đầu về hiệu suất an toàn và các cải tiến ưu tiên có hiệu quả về chi phí. Các nhu cầu nghiên cứu ưu tiên dành cho người đi bộ tồn tại trong các lĩnh vực sau: Mức độ an toàn và hiệu quả của việc băng qua đường dành cho người đi bộ không có người chỉ dẫn và các biện pháp cần thiết để sửa đổi thiết kế và / hoặc thực thi sự tuân thủ của người lái xe được nhiều người coi là bị lạm dụng trong LMIC. Rủi ro cá nhân khi đi bộ dọc theo đường so với rủi ro cá nhân khi băng qua đường Phương pháp ước tính lưu lượng người đi bộ có thể áp dụng ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Hiệu quả và các tiêu chí thiết kế chính của hàng rào dành cho người đi bộ để kiểm soát và quản lý các chuyển động qua đường và lượng lớn người đi bộ. Các tùy chọn Cải thiện An toàn cho người đi đường dễ bị tổn thương Khoảng một nửa số người chết trên đường là những người đi đường dễ bị tổn thương. Ngoài các ưu tiên nghiên cứu dành riêng cho người đi bộ ở trên, một dự án nghiên cứu tập trung vào người dùng dễ bị tổn thương có thể xem xét các vấn đề sau: Các yếu tố rủi ro để đánh giá mức độ ảnh hưởng của tỷ lệ phần trăm cao của các VRU khác (người đi xe đạp, xe mô tô, xe đẩy) đến tỷ lệ va chạm. Điều này ảnh hưởng như thế nào đến việc mô hình hóa các vụ tai nạn nói riêng liên quan đến lý thuyết "an toàn về số lượng". Tỷ lệ phần trăm lưu lượng cũng như số tuyệt đối của xe máy liên quan như thế nào đến rủi ro va chạm? Rủi ro người đi xe đạp - ảnh hưởng của các biến cơ sở hạ tầng có thể đo lường được đối với rủi ro đối với người đi xe đạp. Ảnh hưởng của xe máy chuyên dụng, phương tiện chu trình đến tỷ lệ va chạm và các đặc điểm thiết kế chính cần thiết để vận hành an toàn (chiều rộng, luồng định hướng, các vấn đề an ninh). Đánh giá chi tiết các phương án thiết kế rào chắn đường liên quan đến hiệu suất thân thiện với xe máy và kết quả thương tích dự kiến ở các tốc độ khác nhau. Cập nhật các mô hình Xếp hạng sao iRAP cho người dùng Xe đạp và Xe máy và các biện pháp đối phó liên quan trong Kế hoạch Đầu tư Đường An toàn hơn iRAP. Đánh giá chi tiết về hiệu quả của biện pháp đối phó Khả năng ứng dụng và khả năng chuyển giao của các yếu tố sửa đổi sự cố và hiệu quả của biện pháp đối phó liên quan là rất quan trọng để đảm bảo các mô hình va chạm phản ánh điều kiện hoạt động ở mỗi quốc gia. Việc biên mục các kết quả nghiên cứu hiện có thành một tập dữ liệu toàn cầu sẽ tạo sự tự tin trong việc áp dụng các mô hình như iRAP và IHSDM. Các yếu tố chính có thể bao gồm: Xem xét kỹ lưỡng kiến thức nghiên cứu hiện có về các biện pháp đối phó được sử dụng trong LMIC. Các nghiên cứu điển hình về các biện pháp đối phó cụ thể của LMIC - ví dụ như rọ đá làm rào chắn trên đường. Ảnh hưởng của nhiều biện pháp đối phó đến giảm sự cố tại một địa điểm và ước tính phù hợp về lợi ích tổng hợp (ví dụ: xác thực nghiên cứu ARRB gần đây đề xuất "giảm x 0,6" đối với lợi ích tổng hợp riêng lẻ đối với lợi ích tổng thể của các gói nhiều biện pháp đối phó). Đặc điểm kỹ thuật của các biện pháp đối phó "tuân thủ Hệ thống An toàn" có thể giảm gần 100% số ca tử vong và chấn thương nặng, so với các biện pháp đối phó "hỗ trợ" có hiệu quả nhưng chỉ có vai trò hỗ trợ trong việc giảm một phần khả năng xảy ra hoặc mức độ nghiêm trọng. Xem xét đặc điểm kỹ thuật, chi phí và tuổi thọ điều trị của các biện pháp đối phó và chúng khác nhau như thế nào giữa các quốc gia. Chiều rộng đường / vai kín và ảnh hưởng đến rủi ro đối với người ngồi trên xe và người đi bộ dựa trên các kiểu sử dụng thực tế của vai (ví dụ như làn đường vượt phía trong, làn đường bổ sung). Ảnh hưởng của chi phí lao động thấp và chi phí nguyên vật liệu cao đến việc lựa chọn các biện pháp đối phó (đặc biệt là thiết bị nhập khẩu) và các lựa chọn thay thế sáng tạo. Điều tra chi tiết về các loại va chạm ở đuôi xe và các giải pháp tiềm năng Nhiều quốc gia phát triển đang báo cáo sự gia tăng các trường hợp tử vong và thương tích nghiêm trọng liên quan đến phần đuôi xe vì khối lượng lớn hơn và cơ sở hạ tầng tốc độ cao hơn như xa lộ trở nên phổ biến. Nghiên cứu sẽ tập trung vào: Tỷ lệ tử vong và thương tích nghiêm trọng do va chạm từ phía sau. Các yếu tố ảnh hưởng đến các vụ va chạm từ phía sau và hiệu quả của các biện pháp đối phó với cơ sở hạ tầng / ITS có thể làm giảm chúng. Phát triển và đưa mô hình "Điểm bảo vệ đường phía sau" vào giao thức xếp hạng sao iRAP và các biện pháp đối phó có liên quan trong Kế hoạch đầu tư cho đường an toàn hơn iRAP. Tốc độ và rủi ro va chạm Tác động quan trọng của tốc độ đối với an toàn đã được hiểu rõ. Không thể hiểu được sự an toàn của cơ sở hạ tầng nếu không đánh giá cao tốc độ xe và việc sử dụng đường tại địa điểm. Gói nghiên cứu sẽ điều tra các vấn đề sau: Nghiên cứu định lượng để điều tra cuộc thảo luận mang tính giai thoại rộng rãi và thừa nhận rằng việc cải tạo đường trong LMIC làm tăng tốc độ vận hành, có tác động liên quan đến tử vong. Ước tính chính xác hơn về việc phát sinh chấn thương ở các điểm cuối thấp của phổ tốc độ, đặc biệt là liên quan đến những người tham gia giao thông dễ bị tổn thương. Tác động của cấu hình tốc độ trong một ngày điển hình (ví dụ: tốc độ tắc nghẽn giờ cao điểm so với tốc độ không có ban đêm) và nguy cơ tử vong và thương tích nghiêm trọng liên quan như một hàm của khối lượng. Điều tra chi tiết về tác động của những thay đổi về tốc độ đối với khả năng xảy ra va chạm và mức độ nghiêm trọng của va chạm. Cập nhật các yếu tố rủi ro liên quan đến tốc độ và phương pháp luận trong các mô hình iRAP theo yêu cầu Rào cản lập pháp để cải thiện an toàn đường bộ Ở nhiều quốc gia, các rào cản lập pháp tồn tại tác động đến khả năng thực hiện các biện pháp đối phó đã được chứng minh là có hiệu quả ở các địa điểm khác. Các vấn đề chính cần điều tra bao gồm: Các hướng dẫn / tiêu chuẩn / quy định thiết kế hiện hành trong LMIC và tác động của chúng đối với sự lựa chọn và tính sẵn có của thiết kế tốt và sáng tạo. Các yêu cầu đối với luật chính đối với các đối tượng địa lý của đường cụ thể như gờ đường và các biện pháp làm dịu giao thông mà về mặt pháp lý là một mối nguy hiểm được bố trí trên đường. Sự thay đổi của rủi ro tai nạn theo lưu lượng và hỗn hợp Mối quan hệ giữa rủi ro va chạm và lưu lượng giao thông là một yếu tố thiết yếu trong dự đoán các kết quả tai nạn có thể gây tử vong và thương tích nghiêm trọng và do đó lợi ích kinh tế liên quan của các chương trình đầu tư. Mối quan hệ dự kiến sẽ thay đổi tùy theo mặt cắt ngang của đường, sức chứa của đường và các đặc điểm khác. Nghiên cứu sẽ xem xét những điều sau: Mối quan hệ của tai nạn nghiêm trọng và nghiêm trọng với lưu lượng giao thông và mức độ thay đổi của chúng theo thời gian trong ngày, loại va chạm và loại người tham gia giao thông. Mối quan hệ của các vụ va chạm nghiêm trọng và chết người với lưu lượng giao thông liên quan đến xếp hạng sao cho nhiều người sử dụng đường khác nhau và các đặc điểm đường liên quan như mặt cắt ngang, tỷ lệ khối lượng / công suất và tốc độ. Mối quan hệ giữa lưu lượng giao thông bên đường và các vụ va chạm và cách chúng gây ra rủi ro dọc theo các con đường chính mà chúng giao nhau. Cải thiện hiểu biết về nguy cơ va chạm trực diện trên đường không có dải phân cách trong LMIC liên quan cụ thể đến hành vi của người lái xe, nhu cầu vượt và các chuyển động vượt điển hình được thực hiện. Mối quan hệ của các vụ va chạm nghiêm trọng và gây tử vong với thời tiết liên quan đến xếp hạng sao cho những người tham gia giao thông khác nhau và tác động liên quan đến các biện pháp đối phó hiệu quả (ví dụ: phương pháp điều trị cụ thể bằng tuyết / băng, phương pháp điều trị không thể sử dụng trong một số điều kiện thời tiết nhất định). Các biện pháp kinh tế, xã hội và sức khỏe quan trọng đối với việc ra quyết định đầu tư an toàn đường bộ Thập kỷ Hành động của LHQ đòi hỏi một sự thay đổi lượng tử trong hoạt động liên quan đến năm trụ cột được xác định trong Kế hoạch Hành động của LHQ. Điều này đòi hỏi sự chứng minh phù hợp về lợi ích và định lượng lợi tức đầu tư để đảm bảo Chính phủ và cộng đồng quốc tế phân bổ nguồn lực một cách tự tin. Nghiên cứu sẽ tập trung vào: Xác định các chỉ số hoạt động an toàn đường bộ chính liên quan đến kho bạc, tài chính, y tế, phúc lợi xã hội, giao thông, đại lý đường bộ, bảo hiểm và kinh doanh. Xây dựng bộ chỉ số ưu tiên liên quan đến đầu tư cơ sở hạ tầng đường bộ và tác động của chúng đối với tất cả các lĩnh vực được nêu chi tiết ở trên. Các quy tắc chung hiệu quả để ước tính tác động riêng lẻ và / hoặc kết hợp của ảnh hưởng của những thay đổi trong GDP, lưu lượng truy cập, chuyển đổi phương thức, chi phí đối phó và thay đổi hành vi khi ước tính lợi ích giảm va chạm. Mô tả tốt hơn về tổng giá trị cộng đồng bị mất - bao gồm mối quan hệ với DALYs và các biện pháp sự cố như MAIS. Sự thay đổi của DALY hoặc các biện pháp tương tự theo loại và độ tuổi của người tham gia giao thông. iRAP LÀ MỘT KHOẢN PHÍ ĐÃ ĐĂNG KÝ iRAP được đăng ký ở Anh và xứ Wales theo số công ty 05476000 Tổ chức từ thiện số 1140357 Văn phòng đăng ký: 60 Trafalagar Square, London, WC2N 5DS VÀO CHẠM │ Châu Âu │ Châu Phi │ Châu Á Thái Bình Dương │ Châu Mỹ Latinh và Caribe │ Bắc Mỹ Bản quyền © 2017 IRAP. Tiếng Việt English Português do Brasil Français Русский Español de Colombia Tiếng Việt Chia sẻ cái này Facebook Twitter LinkedIn Trang web này sử dụng cookie: Tìm hiểu thêm. Được rồi, cảm ơn
1614178347293.1.parquet/151015
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 22675, "url": "https://www.irap.org/vi/partnering-to-save-lives/" }
117.3
MT9 Technology .,JSC - Tư vấn lập, quản lý dự án CNTT Trang chủ Giới thiệu Sản phẩm - Dịch vụ Tin tức Liên hệ Thư ngỏ Giới thiệu chung về MT9 Cơ cấu tổ chức Hình ảnh hoạt động Đối tác Giải pháp công nghệ thông tin Dịch vụ công nghệ thông tin Dịch vụ phần mềm Đào tạo và Phát triển nội dung số Sản phẩm - Dịch vụ » Dịch vụ công nghệ thông tin Tư vấn Phát triển chiến lược CNTT-TT Quy hoạch và đầu tư gì, theo mô hình nào và trong bao lâu đối với chiến lược CNTT là một bài toán không hề dễ dàng. Chúng tôi sẽ đồng hành với khách hàng chuẩn bị kế hoạch trung và dài hạn về CNTT, xây dựng mô hình tương lai và lộ trình để phát triển các chiến lược thực tế nhằm tận dụng tốt nhất các cơ hội và lợi ích có được từ xu hướng toàn cầu hóa, sự phát triển của công nghệ và những phức tạp trong hoạt động ngày nay để mang lại hiệu quả hoạt động ở mức cao nhất. Với các mô hình chuẩn đã thành công trên thực tiễn thế giới, với những mong muốn của khách hàng, khả năng thực tại, chúng tôi sẽ cùng khách hàng lựa chọn các mô hình phù hợp, có tầm nhìn dài hơi và xây dựng lộ trình phù hợp với các nguồn lực hiện có của khách hàng, kế hoạch hành động để hiện thực hóa chiến lược tạo ra các giá trị cốt lõi mới cho khách hàng. Tư vấn Đầu tư ứng dụng CNTT-TT Đầu tư những gì, đầu tư như thế nào cho hiệu quả, quy trình thực hiện ra sao và đánh giá hiệu quả của việc đầu tư ứng dụng CNTT có hợp lý hay không là tập hợp các hoạt động xây dựng dự án đầu tư ứng dụng CNTT trong hoạt động của khách hàng. Các chuyên gia của MT9 sẽ tìm hiểu và hướng dẫn khách hàng thực hiện các bước này, xây dựng dự án, các công cụ đánh giá để sao cho việc bỏ vốn để thiết lập mới, mở rộng hoặc nâng cấp cho hệ thống hạ tầng kỹ thuật, phần mềm và cơ sở dữ liệu nhằm đạt được sự tiến bộ về năng suất, chất lượng và hiệu quả vận hành. Qua đó mang đến lợi thế chiến lược cho tổ chức. Với các chuyên gia CNTT, am hiểu về nghiệp vụ sẽ phối hợp và hỗ trợ khách hàng từng bước cái tiến quy trình nghiệp vụ hướng đến việc vận hành các hoạt động với CNTT nhằm tối ưu hóa nguồn lực, giảm thiểu rủi ro để mang lại hiệu quả cao nhất của khách hàng. Dịch vụ Tư vấn đầu tư ứng dụng CNTT-TT bao gồm các hoạt động chính sau: ♦ Giai đoạn chuẩn bị đầu tư: »» Tư vấn Khảo sát »» Tư vấn Thiết kế sơ bộ »» Tư vấn Tổng dự toán »» Lập báo cáo nghiên cứu khả thi ♦ Giai đoạn đầu tư »» Tư vấn Thiết kế thi công »» Tư vấn đấu thầu mua sắm »» Tư vấn Giám sát thi công Tư vấn Phát triển nhân lực CNTT-TT Quản lý Nguồn nhân lực giúp gia tăng giá trị cho khách hàng. Để cung cấp các dịch vụ này, chúng tôi có một đội ngũ chuyên gia của chúng tôi với năng lực và kinh nghiệm chuyên sâu. Ðó là các chuyên gia tư vấn về quản lý nguồn nhân lực và chuyển đổi cơ cấu, các luật sư am hiểu các qui định pháp luật về lao động, việc làm và công nghệ, các xu hướng để cùng khách hàng xây dựng năng lực con người phù hợp, các yêu cầu về công nghệ và quy trình, điều chuyển nguồn ngân lực hay tái cơ cấu tổ chức nhằm thúc đẩy sự chuyển mình của tổ chức trong nền kinh tế tri thức. Tư vấn Kiến trúc tổng thể (Enterprise Architecture) Với những tiến bộ trong công nghệ như điện toán đám mây, big data, kiến trúc hướng dịch vụ và phần mềm-như-một-dịch vụ đang tạo ra những môi trường ứng dụng linh hoạt hơn mà có thể mang đến giá trị to lớn nếu được sử dụng đúng cách. Để giải quyết những thách thức này, các công ty trong tất cả các lĩnh vực và trên tất cả các khu vực địa lý đang tập trung sự quan tâm và nguồn lực nhiều hơn vào chiến lược nghiệp vụ, kiến trúc quy trình nghiệp vụ, kiến trúc thông tin, kiến trúc ứng dụng, kiến trúc công nghệ và kiến trúc bảo mật,… Dịch vụ tư vấn kiến trúc tổng thể của MT9 giúp tổ chức thích ứng và thực thi giải pháp định hướng dịch vụ, một loại kiến trúc tổng thể xác định Nghiệp vụ và CNTT-TT theo dịch vụ. Với kinh nghiệm dày dạn cùng với kiến thức chuyên sâu của các chuyên gia tư vấn về các khung kiến trúc tổng thể đã được minh chứng trên thế giới (Gartner, Zachman, TOGAF, FEA, v.v...), chúng tôi sẽ cung cấp cho khách hàng những kinh nghiệm cần thiết để phát triển hệ thống CNTT-TT hướng dịch vụ nghiệp vụ, đảm bảo thực hiện hiệu quả chiến lược riêng của khách hàng. Tư vấn Tái kiến trúc hệ thống quy trình nghiệp vụ (Business Process Reengineering) BPR là giải pháp thay đổi mô hình làm việc, trong đó các quy trình (tiến trình) làm việc đơn lẻ được kết hợp với nhau nhằm đạt được năng suất và hiệu quả lao động cao hơn. Những người lao động được phép đưa ra những quyết định tại vị trí làm việc của mình, nhằm giảm bớt những khâu trung gian không cần thiết, sớm cung cấp các sản phẩm, dịch vụ đầu ra. Mô hình này không chỉ nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động chung của cơ quan, đơn vị, mà còn làm tăng sự hài lòng, lợi ích cho người lao động. Người lao động có thể nâng cao trình độ, kỹ năng xử lý công việc trong nhiều lĩnh vực và có quyền đưa ra quyết định. Sự kết hợp độc nhất giữa kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, phương pháp, tài sản và các công cụ để chia sẻ và nhanh chóng tạo ra giá trị, nhằm cung cấp kết quả đo lường được và tạo ra các giải pháp tái kiến trúc quy trình nghiệp vụ bền vững. Tư vấn Tái kiến trúc hệ thống quy trình nghiệp vụ giúp khách hàng đạt được mục tiêu đặt ra thông qua một phương pháp có hệ thống để phân tích các quy trình nghiệp vụ, các thủ tục và các hoạt động với mục đích làm nổi bật các vấn đề tổ chức và đề xuất các giải pháp công nghệ thông tin nhằm tối ưu hóa các nghiệp vụ này hướng tới các hoạt động chuẩn theo các chuẩn ISO đã được ban hành. Tư vấn Quản lý sự thay đổi Quá trình cải tổ nhằm thay đổi cách quản lý và hoạt động của một cơ quan một cách chủ động nhằm mục đích tạo sự cạnh tranh lớn hơn, từ việc áp dụng công nghệ mới, những bước dịch chuyển có tính chất chiến lược, tổ chức lại dây chuyền sản xuất, liên kết hoặc hợp nhất với các đơn vị khác, tái cơ cấu các bộ phận, đến nỗ lực tối ưu hóa phong cách văn hóa… Chúng tôi sẽ giúp các tổ chức chuẩn bị sẵn sàng cho những thay đổi đang đến và tiềm ẩn. Bên cạnh sự thay đổi, các chuyên gia tư vấn MT9 sẽ xây dựng các công cụ đánh giá hiệu quả của quá trình thay đổi, quản lý các rủi ro có thể xảy ra nhằm mang lại tính ổn định và chủ động cho việc thay đổi đáp ứng được mục tiêu cải cách đề ra. Tư vấn Trung tâm dữ liệu Data center (trung tâm dữ liệu) là nơi trọng yếu của tất cả các tổ chức trên toàn cầu trong xã hội thông tin hiện nay, đây được xem là nơi chứa những bí mật, bộ não đằng sau nhưng công nghệ chủ chốt của mọi tổ chức. Để có những trung tâm dữ liệu thế nào để đạt chuẩn, an toàn, đầu tư và khai thác hiệu quả, đội ngũ chuyên gia MT9 sẽ cùng khách hàng đánh giá hiện trạng, những tiềm năng, tư vấn xây dựng kế hoạch đầu tư sao cho hiệu quả để có một Trung tâm dữ liệu mang tính hiện đại, phù hợp với xu thế, tiết kiệm đầu tư mà vẫn đạt được mục đích của các tổ chức. Tư vấn Bảo mật công nghệ thông tin Bảo mật CNTT-TT, bảo đảm thông tin và khả năng khôi phục hoạt động CNTT-TT là vấn đề quan trọng mà cả tổ chức tư nhân lẫn tổ chức công phải đối mặt hiện nay. Dịch vụ tư vấn bảo mật CNTT-TT giúp các tổ chức trong quản lý các rủi ro công nghệ thông tin bằng cách cung cấp những giải pháp toàn diện. Sử dụng các phương pháp và công cụ đã được chứng minh theo một cách thức nhất quán, dịch vụ của chúng tôi giúp các tổ chức xác định các vấn đề phân tán và kịp thời, chẳng hạn như nhận dạng kẻ trộm, lỗ hổng dữ liệu, rò rỉ dữ liệu, v.v… Chúng tôi cũng giúp các tổ chức lập kế hoạch và kiểm soát các vấn đề về an ninh bao gồm an ninh mạng, bảo mật ứng dụng, bảo mật dữ liệu/thông tin và bảo mật con người với mục tiêu đồng hành với tổ chức và các chương trình để quản lý các rủi ro về công nghệ thông tin. Tư vấn đấu thầu mua sắm CNTT MT9 cung cấp các tổ chuyên gia tư vấn đấu thầu, đã thực hành và có nhiều kinh nghiệm thực tế, am hiểu luật, luôn nắm bắt các thông tin đấu thầu kịp thời chuyên tư vấn: Lập kế hoạch đấu thầu, Lập hồ sơ mời thầu, Lập hồ sơ dự thầu, Tổ chức đấu thầu, Đánh giá hồ sơ dự thầu và Cung cấp thông tin đấu thầu. Sản phẩm và Dịch vụ Tin tức »» Sát hạch cấp chứng chỉ hành nghề đấu thầu: “Cú hích” để chuyên nghiệp hóa »» Cách mạng công nghiệp 4.0 là gì? »» Trang chủ »» Thư ngỏ »» Giới thiệu chung về MT9 »» Cơ cấu tổ chức »» Hình ảnh hoạt động »» Đối tác »» Tin tức »» Liên hệ Về đầu trang CÔNG TY CỔ PHẦN TECHNOLOGY MT9 - MT9 TECHNOLOGY .,JSC Địa chỉ: Số 33, ngõ 472, đường Lạc Long Quân, phường Nhật Tân, quận Tây Hồ, Hà Nội Hotline: 0971.723.358 Email: info@mt9.vn | Website: www.mt9.vn Copyrights © 2017 - MT9 Technology .,Jsc | All rights reserved Desktop Site
1614178347293.1.parquet/79020
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 7707, "url": "http://www.mt9.vn/mobile/dich-vu-cntt.html" }
117.1
Ảnh hưởng sau chấn thương làm thay đổi não bộ của trẻ em | Dân trí Thứ Ba 15/11/2016 - 10:14 Thứ Ba 15/11/2016 - 10:14 In bài này (Ctrl+P) Ảnh hưởng sau chấn thương làm thay đổi não bộ của trẻ em (Dân trí) - Theo một nghiên cứu quét não mới từ Đại học Y khoa Stanford cho thấy: Stress sau chấn thương ảnh hưởng đến não bộ của em trai và em gái vị thành niên khác nhau Trong số trẻ bị rối loạn stress sau chấn thương, nghiên cứu cho thấy sự khác biệt về cấu trúc giữa hai giới tính trong một phần của insula, một vùng não mà phát hiện tín hiệu từ sự đồng cảm tới cảm xúc cơ thể và các quá trình khác. Các insula giúp tích hợp cảm xúc của một người, hành động và một số chức năng khác của não. Những phát hiện này được công bố trực tuyến ngày 11/11 trên tạp chí nghiên cứu về khủng hoảng và lo âu. Đây là nghiên cứu đầu tiên cho thấy sự khác nhau giữa các bệnh nhân rối loạn,mất cân bằng sau chấn thương nam và nữ trong một phần của insula liên quan đến cảm xúc và đồng cảm. “Các insula xuất hiện để đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của các rối loạn mất cân bằng sau chấn thương”, tác giả chính của nghiên cứu, Victor Carrion, giáo sư tâm thần học và khoa học hành vi tại Đại học Stanford cho biết. “Sự khác biệt giữa chúng tôi đã thấy giữa não bộ em trai và em gái đã từng bị chấn thương tâm lý là rất quan trọng bởi vì nó có thể giúp giải thích sự khác biệt trong các triệu chứng tổn thương giữa hai giới.” Insula nhỏ hơn ở các em gái bị tổn thương Trong số những người trẻ, những người đang tiếp xúc với căng thẳng sau chấn thương, một số phát triển rối loạn mất cân bằng sau chấn thương trong khi những người khác thì không. Những người bị rối loạn mất cân bằng sau chấn thương có thể gặp những đoạn hồi tưởng về sự kiện chấn thương; có thể tránh những nơi, người dân và điều nhắc nhở họ về những chấn thương; và có thể phải chịu một loạt các vấn đề khác, kể cả thu mình khỏi xã hội, khó ngủ hoặc mất tập trung. Nghiên cứu trước đó đã chỉ ra rằng em gái đã trải qua chấn thương có nhiều khả năng để phát triển rối loạn mất cân bằng sau chấn thương hơn em trai, nhưng các nhà khoa học đã không thể xác định lý do tại sao. Nhóm nghiên cứu đã tiến hành quét MRI của não bộ của 59 trẻ em tham gia nghiên cứu lứa tuổi 9-17. Ba mươi trong số đó - 14 em gái và 16 em trai - có triệu chứng chấn thương, và 29 người khác - nhóm kiểm soát của 15 em gái và 14 em – không có triệu chứng. Những người tham gia bị tổn thương và không bị chấn thương có lứa tuổi và chỉ số IQ tương tự. Trong số những người tham gia bị tổn thương, 5 người đã trải qua một lần chấn thương, trong khi số còn lại 25 đã trải qua hai hay nhiều lần hoặc bị chấn thương mãn tính. Các nhà nghiên cứu thấy không có sự khác biệt trong cấu trúc não giữa nam và nữ trong nhóm kiểm soát. Tuy nhiên, trong số các chàng trai và cô gái đã bị tổn thương, họ đã nhìn thấy sự khác biệt trong một phần của insula gọi là rãnh tròn ở phía trước. Vùng não này có khối lượng và bề mặt lớn hơn diện tích ở các em trai bị tổn thương hơn các em trai trong nhóm kiểm soát. Ngoài ra, khối lượng và bề mặt của khu vực nhỏ hơn ở các em gái có chấn thương hơn giữa các cô gái trong nhóm kiểm soát. Những phát hiện có thể giúp các bác sĩ "Điều quan trọng là những người làm việc với em thanh thiếu niên bị tổn thương cần xem xét cả các khác biệt giới tính", Megan Klabunde, Tiến sĩ, tác giả chính của nghiên cứu và là người hướng dẫn về khoa học tâm thần học và khoa học hành vi nói. "Phát hiện của chúng tôi cho thấy có thể là em trai và em gái có thể biểu hiện triệu chứng chấn thương khác nhau và họ có thể được hưởng lợi từ phương pháp tiếp cận khác nhau để điều trị." Các insula thường thay đổi trong suốt thời thơ ấu và niên thiếu, với khối lượng nhỏ hơn thường thấy là trẻ em và thanh thiếu niên lớn lên. Như vậy, những phát hiện hàm ý rằng stress sau chấn thương có thể góp phần gây ra sự lão hóa vỏ não gia tốc của insula ở các em gái phát triển chứng rối loạn mất cân bằng sau chấn thương- Klabunde nói. "Có một số nghiên cứu cho thấy rằng mức độ căng thẳng cao có thể gây ra dậy thì sớm ở em gái" cô nói. Các nhà nghiên cứu cũng lưu ý rằng công việc của họ có thể giúp các nhà khoa học hiểu làm thế nào việc trải qua chấn thương có thể dẫn tới những khác biệt giữa hai giới tính trong việc điều chỉnh cảm xúc. "Bằng cách hiểu biết tốt hơn sự khác biệt giới tính trong một vùng của bộ não liên quan đến xử lý cảm xúc, các bác sĩ và các nhà khoa học có thể phát triển các phương pháp điều trị chấn thương và cảm xúc liên quan đến giới tính cụ thể", các tác giả viết trong nghiên cứu. Để hiểu rõ hơn về những phát hiện này, các nhà nghiên cứu nói rằng những gì cần thiết tiếp theo là nghiên cứu theo chiều dọc sau tổn thương những người trẻ tuổi của cả hai giới qua thời gian. Họ cũng nói rằng các nghiên cứu tiếp tục tìm hiểu cách rối loạn mất cân bằng sau chấn thương có thể tự biểu hiện khác nhau ở nam và nữ, cũng như kiểm tra các liệu pháp điều trị theo giới tính cụ thể có lợi là cần thiết. Công trình này là một ví dụ về sự quan tâm của đại học y khoa Stanford về sức khỏe chính xác, mục đích của nó là để dự đoán và ngăn ngừa bệnh tật ở người khỏe mạnh và chẩn đoán chính xác để điều trị bệnh ở người đau ốm. Nhã Khanh (Theo sciencedaily) Link nội dung: https://dantri.com.vn/khoa-hoc-cong-nghe/anh-huong-sau-chan-thuong-lam-thay-doi-nao-bo-cua-tre-em-20161115101530213.htm
1614178347293.1.parquet/81822
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 4581, "url": "http://cdnweb.dantri.com.vn/print-20161115101530213.htm" }
116.7
Nguyễn Hữu Lập – Wikipedia tiếng Việt Nguyễn Hữu Lập Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Bước tới điều hướng Bước tới tìm kiếm Nguyễn Hữu Lập tự Nọa Phu, hiệu Thiếu tô lâm tiên sinh, quê ở làng Trung Cần, xã Nam Trung, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, Ông sinh ra trong một gia đìng có truyền thống khoa bảng, cha là Nguyễn Hữu Dực đỗ cử nhân làm quan đến chức Ngự sử, có chú ruột là Thám hoa Nguyễn Văn Giao. Từ nhỏ ông đã sớm nổi tiếng về thông minh, học rộng ông đỗ Giải Nguyên năm Canh tuất, đỗ Đình nguyên Hoàng giáp năm Nhâm tuất triều Tự Đức thứ 15. Cuộc đời làm quan của ông trải qua nhiều chức vụ như: Tri phủ Vĩnh Tường, Án sát Sơn Tây, chánh chủ khảo trường thi Nam Định, Binh bộ hữu tham tri, Cơ mật viện đại thần, Thương bạc đại thần, Hàm lâm viện thị giảng, đặc biệt có lần ông được vua Tự Đức cử làm Chánh sứ cầm đầu đoàn sứ bộ sang giao bang với nhà Thanh. Khi Pháp xâm lược Việt Nam, Nguyễn Hữu Lập là người có tinh thần chủ chiến và canh tân đất nước, có lần ông đã tâu với nhà vua xin cho 50 cử nhân sang Pháp học tập tiếp thu nền văn minh hiện đại, nhưng không được triều đình chấp nhận, ông chính là người có công biên chép và chú thích lại tác phẩm "Truyện Kiều" của đại thi hào Nguyễn Du, đây là bản Truyện Kiều chép tay cổ nhất của Việt Nam với nhiều chú giảng cặn kẽ tường minh. Ông qua đời tại kinh thành Huế thọ 52 tuổi. Chú thích[sửa | sửa mã nguồn] Bài viết nhân vật khoa bảng Việt Nam này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn. x t s Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Nguyễn_Hữu_Lập&oldid=59186660” Thể loại: Sơ khai khoa bảng Việt Nam Người Nghệ An Quan lại nhà Nguyễn Hoàng giáp Việt Nam Thủ khoa Nho học Việt Nam Thể loại ẩn: Tất cả bài viết sơ khai Trình đơn chuyển hướng Công cụ cá nhân Chưa đăng nhập Thảo luận cho địa chỉ IP này Đóng góp Mở tài khoản Đăng nhập Không gian tên Bài viết Thảo luận Biến thể Giao diện Đọc Sửa đổi Sửa mã nguồn Xem lịch sử Thêm Tìm kiếm Xem nhanh Trang Chính Bài viết chọn lọc Tin tức Bài viết ngẫu nhiên Thay đổi gần đây Phản hồi lỗi Quyên góp Tương tác Hướng dẫn Giới thiệu Wikipedia Cộng đồng Thảo luận chung Giúp sử dụng Liên lạc Công cụ Các liên kết đến đây Thay đổi liên quan Trang đặc biệt Liên kết thường trực Thông tin trang Trích dẫn trang này Khoản mục Wikidata In/xuất ra Tạo một quyển sách Tải về dưới dạng PDF Bản để in ra Ngôn ngữ khác 中文 Sửa liên kết Trang này được sửa đổi lần cuối vào ngày 4 tháng 3 năm 2020 lúc 10:46. Văn bản được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự; có thể áp dụng điều khoản bổ sung. Với việc sử dụng trang web này, bạn chấp nhận Điều khoản Sử dụng và Quy định quyền riêng tư. Wikipedia® là thương hiệu đã đăng ký của Wikimedia Foundation, Inc., một tổ chức phi lợi nhuận. Quy định quyền riêng tư Giới thiệu Wikipedia Lời phủ nhận Phiên bản di động Nhà phát triển Thống kê Tuyên bố về cookie
1614178347293.1.parquet/59286
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 2542, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_H%E1%BB%AFu_L%E1%BA%ADp" }
116.4
Tóm Tắt Sách: Thiên Nga Đen - Xác suất cực nhỏ, tác động cực lớn Trang chủ Đồ gia dụng Đồ thể thao Kinh nghiệm Sức khỏe Làm đẹp Góc chia sẻ Du lịch Ẩm thực Mẹo vặt gia đình Sách hay nên đọc Tài liệu miễn phí Search Home Sách hay nên đọc Tóm Tắt Sách: Thiên Nga Đen – Xác suất cực nhỏ, tác động cực lớn Tóm Tắt Sách: Thiên Nga Đen – Xác suất cực nhỏ, tác động cực lớn admin 21 Tháng Mười Hai, 2019 Leave a Comment Tweet on Twitter Share on Facebook Google+ Pinterest Nội dung Tóm tắt ngắn: Ai nên đọc cuốn sách này? Tác giả cuốn sách là ai: Tóm tắt ngắn: Thiên nga đen giúp chúng ta hiểu sâu sắc về việc nhìn nhận sự ngẫu nhiên và những hạn chế mà con người gặp phải trong việc đưa ra các dự đoán. Chính do quá tin tưởng vào trực giác khiến mất đi tính chính xác, không có khả năng để hiểu và xác định sự ngẫu nhiên, và thậm chí do cả cơ chế sinh học trong mỗi người đã khiến ta đưa ra các quyết định sai lầm, và đôi khi dẫn đến hiện tượng “Thiên nga đen” – sự cố được cho là không thể xảy ra nhưng lại xác lập lại hiểu biết của chúng ta về thế giới. Ai nên đọc cuốn sách này? Bất cứ ai quan tâm đến sự ngẫu nhiên Bất cứ ai quan tâm đến cách thế giới này vận hành Bất cứ ai quan đến cách giảm thiểu rủi ro, hay làm công việc phân tích các xu hướng. Tác giả cuốn sách là ai: Nassim Nicholas Taleb là một trong những nhà kinh tế học, nhà tư tưởng hiện đại có số lượng các tác phẩm đồ sộ. Ông đã viết rất nhiều công trình được đánh giá cao, ví dụ như cuốn “Fooled by Randomness” (tạm dịch: Bị ngẫu nhiên đánh lừa). Nhiều bài viết khác của ông đã được đăng trong các tạp chí và tập san nổi tiếng. Taleb là giáo sư ưu tú chuyên về quản trị rủi ro tại Viện Kỹ thuật Bách Khoa, Đại học New York. 1. Bạn học được gì từ cuốn sách này ? Lý do tại sao mù quáng bám vào niềm tin của mình lại gây ra tai họa Cuốn Thiên nga đen của Nassim Nicholas Taleb hướng đến việc khám phá bản chất của những việc mà ta vẫn nghĩ chỉ là những sự kiện ngẫu nhiên, cũng như những cạm bẫy tư duy khiến chúng ta quá xem trọng tiểu tiết mà bỏ lỡ bức tranh tổng thể. Taleb gọi chúng là những sự kiện ngẫu nhiên, mà thường để lại những hậu quả sâu sắc cho các cá nhân và thậm chí toàn xã hội, “những Thiên Nga Đen.” Xem thêm: Review sách: Ác quỷ Nam Kinh – Nỗi ám ảnh kinh hoàng của tội ác Chiếc lá cuối cùng – Kiệt tác từ điều nhỏ bé Review sách Phi lí trí: Góc nhìn về cảm xúc & hành vi trong kinh tế Ngoài việc giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những thiếu sót khi đưa ra các dự đoán, Taleb còn đưa ra những lời khuyên để chúng ta có thể nhận ra khi nào thì sự phán xét của bản thân bị che khuất bởi kì vọng khớp thông tin vào những câu chuyện lọt tai, dễ hiểu. Khi đọc cuốn sách, bạn sẽ học được cách phân biệt đâu là kiến thức thật, đâu chỉ là tín hiệu nhiễu, và cách tận dụng sự “ngu dốt” của mình tốt hơn. Bạn sẽ học được tại sao suy nghĩ như một con gà tây lại có thể gây hại cho sức khỏe của mình. Bạn cũng sẽ tìm ra lý do tại sao các mối đe dọa lớn nhất đối với một sòng bạc có thể lại không liên quan gì đến chuyện cờ bạc. Cuối cùng, bạn sẽ khám phá ra rằng việc “biết được mình không biết gì” có thể cứu bạn khỏi đánh mất gia tài đã dành dụm cả đời. 2. “Thiên nga đen” là những sự kiện được cho là không thể xảy ra, nhưng bằng cách tài tình nào đó lại xảy ra. Con người có khả năng đặc biệt trong việc kết hợp và chuyển tất cả các thông tin rời rạc nhận được từ môi trường sống thành các thông tin có ý nghĩa và liên quan tới nhau. Tài năng này cho phép chúng ta tạo ra các phương pháp khoa học, triết lý về bản chất của sự sống, và phát minh ra các mô hình toán học phức tạp. Nhưng việc chúng ta có khả năng phản ánh và sắp xếp thế giới xung quanh không đồng nghĩa với việc chúng ta giỏi làm việc đó. Bởi một điều, chúng ta có những niềm tin hạn hẹp, quá đóng về thế giới. Một khi chúng ta có ý tưởng nào đấy về cách thế giới vận hành, chúng ta thường bấu víu vào nó mà không chịu tiếp nhận những tri thức mới. Nhưng vì những hiểu biết của con người ngày càng phát triển và tiến bộ, lối tiếp cận bảo thủ này sẽ không còn có ý nghĩa. Ví dụ, cách đây khoảng 200 năm, các bác sĩ và các nhà khoa học đã vô cùng tự tin vào kiến thức của họ về y học, nhưng ngày nay sự tự tin của họ có vẻ lố bịch: chỉ cần tưởng tượng rằng bạn đến gặp bác sĩ và mô tả các triệu chứng của bệnh cảm lạnh thông thường, và bạn được đưa một toa thuốc dùng rắn và đỉa để chữa bệnh. Quá cố chấp với niềm tin của mình khiến ta không còn tỉnh táo nhận thức được bản chất đúng sai của các thông tin đi trái với những gì mà xưa này ta vẫn biết. Ví dụ, làm sao để hiểu được các loại thuốc chữa bệnh nếu bạn không biết được sự tồn tại của loài vi trùng gây bệnh? Bạn có thể đưa ra một lời giải thích hợp lý về căn bệnh, nhưng chắc chắn nó sẽ sai do thiếu sót thông tin quan trọng. Tính võ đoán này có thể dẫn đến những bất ngờ lớn. Chúng ta đôi khi ngạc nhiên bởi các sự kiện diễn ra, không phải vì chúng ngẫu nhiên, mà bởi vì tầm nhìn của chúng ta quá hạn hẹp. Những bất ngờ như vậy được gọi là “những Thiên nga đen”, và chúng nhắc nhở ta phải xem xét lại toàn bộ thế giới quan của mình: Trước khi ai đó nhìn thấy thiên nga đen, mọi người cho rằng mọi con thiên nga đều có màu trắng. Chính vì điều này, tất cả những mô tả và trí tưởng tượng của họ về loài thiên nga đều là thiên nga trắng. Vì vậy, khi họ phát hiện ra thiên nga đen, những hiểu biết cơ bản của họ về loài con thiên nga bị biến đổi. Như bạn sẽ thấy, những hiện tượng Thiên Nga Đen đôi lúc lại chẳng hại ai, nhưng đôi lúc lại tác động thay đổi cuộc đời ví dụ như khi bạn bị mất tất cả chỉ vì một cuộc sụp đổ thị trường chứng khoán. 3. Hiện tượng Thiên nga đen có thể có những hậu quả động trời đối với những ai không nhận thức được chúng. Ảnh hưởng của Thiên nga đen hoàn toàn khác nhau đối với mỗi người. Một số người sẽ bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi hiện tượng này, nhiều người lại hầu như không bị tác động gì. Sức ảnh hưởng của nó tới đâu được xác định chủ yếu bằng lượng thông tin liên quan bạn tiếp cận được: bạn càng có nhiều thông tin, xác suất bạn gặp Thiên nga đen càng ít; và nếu bạn càng thiếu hiểu biết, bạn sẽ càng có rủi ro cao. Điều đó có thể thấy ở các viễn cảnh sau: Hãy tưởng tượng bạn đặt cược vào chú ngựa yêu thích của bạn, Rocket. Với thể chất của Rocket, các kỹ năng của người cầm cương, và những đối thủ yếu kém, bạn tin rằng Rocket là đặt cược an toàn nhất và liều đặt mọi thứ bạn có vào chú Rocket. Bây giờ tưởng tượng bạn sẽ ngạc nhiên thế nào, khi tiếng súng bắt đầu cuộc thi vang lên và Rocket không chỉ không chịu rời khỏi cửa chuồng mà còn nằm gục xuống trên đường đua. Đây chính là hiện tượng “Thiên nga đen”. Những thông tin bạn thu thập được cho bạn niềm tin rằng, Rocket là lựa chọn hoàn hảo cho chức vô địch, tuy nhiên bạn đã mất mọi thứ khi cuộc đua vừa bắt đầu. Nhưng hiện tượng này không phải là một bi kịch đối với tất cả mọi người. Ví dụ, chủ sở hữu Rocket lại thu về một khoản tài sản lớn bằng cách đặt cược vào con ngựa đối thủ, hay cá cược rằng ngựa của mình sẽ thua. Không giống bạn, ông ta có nhiều thông tin hơn, ông ta biết rằng Rocket sẽ đình công để phản đối ngược đãi thú vật. Chỉ một thông tin nhỏ đã cứu anh ta thoát khỏi hiện tượng “Thiên nga đen”. Thiên nga đen có ảnh hưởng rất khác nhau đến mỗi đối tượng. Thay vì chỉ ảnh hưởng đến một vài cá nhân, đôi khi, hiện tượng này ảnh hưởng đến toàn bộ xã hội. Khi điều này xảy ra tức là, những Thiên nga đen sẽ thay đổi cách thế giới vận hành và tác động lên nhiều lĩnh vực của xã hội, như triết học, thần học và vật lý. Ví dụ, khi Copernicus phát hiện ra rằng Trái Đất không phải là trung tâm của vũ trụ, hệ quả để lại rất to lớn. Khám phá của ông là thách thức đối với uy quyền của Công giáo đang thống trị và cả tính chính xác của bản thân Kinh Thánh. Tóm lại, chính Thiên nga đen này đã giúp xã hội châu Âu bước sang một trang sách mới. 4. Chúng ta đang rất dễ dàng bị lừa dối thậm chí bởi những lí luận logic cơ bản nhất. Mặc dù con người là loài động vật thông minh nhất trên hành tinh, vẫn còn một chặng đường dài phải đi trước khi chúng ta phát triển vượt bậc và loại bỏ hết tất cả những thói quen xấu. Thói quen thường được tạo dựng dựa trên những hành động diễn ra trong quá khứ. Trong khi chúng ta thường tin rằng quá khứ là nền tảng cho tương lai, thì điều này hoàn toàn là một sự sai lầm. Nó khiến ta dễ mắc phải sai lầm, chỉ đơn giản vì có quá nhiều yếu tố chưa được tiết lộ trong quá khứ, nhưng những yếu tố đó sẽ quyết định mạnh mẽ trong tương lai. Ví dụ, hãy tưởng tượng bạn là một con gà tây đang sống ở nông trại. Hàng ngày, những người nông dân cho bạn ăn, cho phép bạn tự do dạo chơi, và xây một cái chuồng xinh đẹp cho bạn sống. Nếu sử dụng những dữ liệu quá khứ như thế, không có lý do gì để tin rằng ngày mai sẽ khác. Than ôi, ngày mai là Lễ Tạ Ơn, và …. bạn bị xử trảm, bị nhồi đầy những loại gia vị, ném vào lò lửa, và bị nuốt chửng bởi những người trước đó đã cho bạn ăn. Ví dụ này cho thấy, nếu chúng ta tin rằng có thể có thể dự đoán về tương lai dựa trên những hiểu biết trong quá khứ, thì đó là một sai lầm với hậu quả thảm khốc. Một sai lầm tương tự, đó là sự thiên vị niềm tin: chúng ta thường tìm kiếm các bằng chứng cho những niềm tin đã hình thành trong chúng ta, thậm chí đến mức mà chúng ta sẵn sàng bỏ qua bất cứ bằng chứng nào đi ngược lại niềm tin đó. Khi chúng ta gặp phải những thông tin trái với những gì chúng ta tin tưởng, chúng ta thường không chấp nhận chúng và thậm chí nhiều khả năng sẽ không tiếp tục tìm hiểu thêm. Nếu chúng ta tiếp tục tìm hiểu, chúng ta có thể tìm ra sự thật hoàn toàn trái ngược với những gì chúng ta luôn luôn tin tưởng. Ví dụ, nếu bạn tin rằng “biến đổi khí hậu” là một âm mưu, nhưng sau đó bạn được xem một bộ phim tài liệu có tên là “Chứng cứ không thể phủ nhận của biến đổi khí hậu”, điều này nhiều khả năng sẽ làm bạn khó chịu. Sau đó, bạn lên mạng, tìm kiếm thông tin trên các trang web để hiểu hơn về biến đổi khí hậu,có thể bạn sẽ gõ từ khóa “trò lừa bịp biến đổi khí hậu” mà không phải là “bằng chứng ủng hộ và phản đối biến đổi khí hậu”. Tóm lại, mặc dù cả hai lí luận logic trên đều là sự ngụy biện, nhưng chúng ta không thể làm được gì khác: nó đơn giản đã là bản chất của chính chúng ta. 5. Cách mà não bộ phân loại thông tin làm cho dự đoán của chúng ta cực kỳ khó chính xác. Trong quá trình tiến hóa, bộ não con người phát triển theo cách thức nhất định để phân loại thông tin. Mặc dù đây là điều tuyệt vời để sống sót trong tự nhiên, khi chúng ta cần phải học hỏi và thích nghi nhanh chóng với môi trường nguy hiểm xung quanh, trái lại lại là điều khủng khiếp trong môi trường phức tạp ngày nay. Ví dụ, một trong những cách mà chúng ta không phân loại đúng thông tin được gọi là tường thuật thông tin sai, khi chúng ta mô tả tình hình hiện tại của mình. Điều này là do, chúng ta đang phải đối mặt với lượng lớn thông tin mỗi ngày. Để làm cho những thông tin tiếp nhận có ý nghĩa, não của chúng ta chỉ lựa chọn những thông tin quan trọng để xem xét. Ví dụ, trong khi bạn có thể nhớ được bạn đã ăn gì trong bữa ăn sáng hôm nay, nhưng chưa chắc bạn đã nhớ được màu sắc những đôi giày của những người qua đường bạn gặp trên đường tới trường hay tới nơi làm việc. Để ý nghĩa hóa các thông tin tiếp nhận không liên quan, chúng ta biến chúng thành một câu chuyện mạch lạc. Ví dụ, khi bạn suy nghĩ về cuộc sống của riêng bạn, bạn có thể chọn các sự kiện có ý nghĩa nhất định, và bạn sắp xếp các sự kiện đó thành một câu chuyện để giải thích làm thế nào bạn trở thành con người bạn. Ví dụ, bạn yêu âm nhạc vì mẹ của bạn thường hát những bài hát của The Beatles để ru bạn ngủ mỗi đêm. Tuy nhiên, việc tạo ra câu chuyện như vậy là cách gàn dở nhất để hiểu được ý nghĩa của thế giới. Điều này là do câu chuyện chỉ được xây dựng dựa trên các sự kiện quen thuộc và rất cũ trong quá khứ, mà không đưa thêm vào câu chuyện các lời giải thích gắn với các hiện tượng vừa xảy ra. Ví dụ, hãy tưởng tượng một con bướm vỗ đôi cánh của mình ở Ấn Độ gây ra một cơn bão một tháng sau đó tại thành phố New York. Nếu chúng ta tạo danh mục riêng cho nguyên nhân và kết quả khi chúng xảy ra, thì chúng ta có thể nhìn thấy một mối quan hệ nhân quả rõ ràng giữa các sự kiện. Nhưng khi chúng ta chỉ nhìn thấy kết quả – trong trường hợp này, cơn bão – thì điều duy nhất mà chúng ta có thể làm chỉ là ngồi đoán xem trong hàng loạt sự kiện xảy ra cùng lúc thì nguyên nhân thực sự dẫn đến kết quả đó là gì. 6. Chúng ta không thể dễ dàng phân biệt được thông tin mở rộng và không mở rộng (thông tin nguyên bản). Con người chúng ta đã phát triển nhiều phương pháp và mô hình để phân loại thông tin một cách có ý nghĩa. Tuy nhiên, thật không may, chúng ta chưa làm tốt ở việc phân biệt các loại thông tin khác nhau – thông tin “mở rộng” và “không mở rộng” (hay thông tin nguyen bản). Thông tin nguyên bản – chẳng hạn như trọng lượng cơ thể và chiều cao – được xác định rõ ràng, có giới hạn trên và giới hạn dưới. Trọng lượng cơ thể là thông tin không có khả năng mở rộng bởi vì có những hạn chế về mức trọng lượng của mỗi người: trọng lượng của một người có thể đạt tới 1000 lbs, nhưng không thể chạm mức 10,000 lbs. Thông tin không khả năng mở rộng luôn được giới hạn rõ ràng. Mặt khác, những thứ phi vật chất hay trừu tượng, như việc phân phối của cải hay album bán hàng đều có khả năng mở rộng. Ví dụ, nếu bạn bán hàng trực tuyến, không có giới hạn về số bán hàng bạn có thể bán bởi vì sự phân phối không bị giới hạn bởi số lượng hàng hóa có thể sản xuất. Phân biệt sự khác nhau giữa các thông tin mở rộng và thông tin không thể mở rộng thường rất quan trọng nếu bạn muốn khắc họa một bức tranh chính xác về thế giới. Việc cố gắng áp dụng những quy tắc có hiệu quả với các thông tin không thể mở rộng với dữ liệu có thể mở rộng sẽ dẫn đến những sai lầm nhất định. Ví dụ, nói rằng bạn muốn đo sự giàu có của người dân nước Anh. Cách đơn giản nhất để làm điều này là chia bình quân thu nhập đầu người, bằng cách cộng tổng thu nhập của toàn bộ người dân và chia trung bình cho số công dân của họ. Tuy nhiên, sự giàu có thực chất là thông tin có khả năng mở rộng: có thể một tỷ lệ nhỏ người dân sẽ sở hữu một tỷ lệ vô cùng lớn của cải. Bằng cách thu thập dữ liệu về thu nhập bình quân đầu người, bạn kết thúc cuộc điều tra với đại diện là sự phân phối thu nhập, mà điều đó có lẽ không thể phản ánh chính xác thực tế sự thịnh vượng của các công dân của nước Anh. 7. Chúng ta quá tự tin vào những gì chúng ta tin là chúng ta biết. Chúng ta đều muốn giữ cho mình an toàn và tránh khỏi những sự nguy hiểm. Một trong những cách mà chúng ta thực hiện điều đó, chính là việc đánh giá và quản lý khả năng xảy ra rủi ro. Đây là lý do tại sao chúng ta mua những thứ như bảo hiểm tai nạn, và chúng ta cố gắng không “đặt toàn bộ trứng vào một giỏ”. Đa số chúng ta đều cố gắng đo đạc rủi ro một cách chính xác nhất có thể để đảm bảo rằng chúng ta không bỏ lỡ cơ hội, nhưng đồng thời cũng đảm bảo rằng chúng ta không làm điều gì để có thể phải hối tiếc. Để đạt được điều này, chúng ta phải đánh giá bất cứ rủi ro nào có thể xảy ra và đo lường xác suất mà những rủi ro này có thể trở thành hiện thực. Ví dụ, hãy tưởng tượng bạn đang tìm mua bảo hiểm. Bạn muốn mua loại bảo hiểm có chính sách bảo vệ bạn tránh khỏi những trường hợp xấu nhất, nhưng đương nhiên phải cân nhắc kĩ để không lãng phí tiền bạc. Trong trường hợp này, bạn phải đo lường sự đe dọa của bệnh tật hoặc tai nạn với hậu quả có thể diễn ra, và sau đó đưa ra quyết định. Thật không may, chúng ta đang quá tự tin rằng chúng ta biết tất cả những rủi ro có thể xảy đến và chúng ta cần phải chống lại những rủi ro đó. Đây được gọi là sai lầm khôi hài, và theo đó, chúng ta có xu hướng giải quyết rủi ro như thể chúng ta đang chơi trò chơi, với một bộ quy tắc và xác suất mà chúng ta đặt ra trước khi chơi. Tuy nhiên, xử lý rủi ro như một trò chơi chính nó là rủi ro kinh doanh. Ví dụ, sòng bạc muốn tạo ra càng nhiều tiền càng tốt, đó là lý do tại sao họ có hệ thống an ninh phức tạp và lệnh cấm những người chơi giành chiến thắng quá nhiều, quá thường xuyên. Nhưng cách tiếp cận của họ lại dựa trên sai lầm khôi hài. Các mối đe dọa lớn đối với các sòng bạc có thể không phải là những con bạc may mắn hay những tên trộm. Nhưng có thể đó là kẻ bắt cóc khi hắn ta bắt cóc con của chủ sòng bạc làm con tin, hoặc một nhân viên không nộp các khoản thu nhập của sòng bạc với IRS. Mối đe dọa lớn nhất của sòng bạc hoàn toàn có thể không được lường trước. Điều này cho thấy dù chúng ta cố gắng thế nào, chúng ta sẽ không bao giờ có thể tính toán chính xác mọi rủi ro. Tiếp theo, chúng ta sẽ tìm hiểu việc: nhận thức được sự thiếu hiểu biết của chúng ta có thể tốt hơn nhiều lần so với việc chúng ta không nhận thức được về nó. 8. Tiến hành điều tra về những gì bạn không biết sẽ giúp bạn đánh giá rủi ro tốt hơn. Tất cả chúng ta đã từng nghe đến cụm từ “tri thức là sức mạnh.” Tuy nhiên, đôi khi chúng ta đang bị hạn chế bởi những gì chúng ta biết, và những lúc như thế, việc công nhận những gì bạn không biết sẽ có lợi hơn với bạn. Thật vậy, nếu chỉ tập trung vào những gì bạn biết, bạn giới hạn nhận thức của bạn về những kết quả có thể xảy đến, và tạo ra mảnh đất màu mỡ cho sự xuất hiện của hiện tượng Thiên nga đen. Ví dụ, nếu bạn muốn mua cổ phiếu của một công ty, nhưng kiến thức của bạn về chứng khoán chỉ giới hạn trong khoảng thời gian 1920-1928 – một năm trước sự sụp đổ lớn nhất trong lịch sử của thị trường chứng khoán Hoa Kỳ. Trong trường hợp đó, bạn sẽ theo dõi một vài sự giảm giá và mức giá cao nhất, nhưng nói chung bạn sẽ nhận thấy rằng xu hướng đang theo chiều hướng tốt dần lên. Vì vậy, bạn nghĩ xu hướng này sẽ tiếp tục, bạn tiêu khoản tiết kiệm của bạn vào cổ phiếu. Tuy nhiên, ngày hôm sau, thị trường đổ vỡ và bạn mất tất cả mọi thứ bạn có. Nếu bạn nghiên cứu thị trường kĩ hơn, bạn đã có thể thấy được nhiều sự bùng nổ và đổ vỡ trong suốt lịch sử. Bằng viêc chỉ tập trung vào những gì chúng ta biết, chúng ta đã mở cửa để bản thân tiếp cận với những rủi ro lớn và nguy hiểm. Mặt khác, nếu bạn thừa nhận gì mà bạn không biết, bạn đã có thể làm giảm đáng kể nguy cơ gặp phải rủi ro. Một người chơi poker tốt luôn hiểu rõ nguyên tắc này, vì nó rất quan trọng cho sự thành công của họ trong các trò chơi. Khi họ biết quy tắc của trò chơi, và xác suất mà các đối thủ có quân bài tốt hơn họ, họ còn nhận thức được rằng có một số thông tin liên quan mà họ không biết – như chiến lược của đối thủ, và đối thủ của họ sẵn sàng mất khoản tiền bao nhiều. Những ẩn số đó cũng góp phần vào chiến lược của họ, chứ không chỉ là các quân cờ mà họ hay đối thủ đang nắm. Những điều đó cho phép họ thực hiện đánh giá chính xác hơn về rủi ro có thể xảy ra. 9. Có sự hiểu biết tốt về những hạn chế của con người có thể giúp chúng ta đưa ra những lựa chọn tốt hơn. Có lẽ cách tốt nhất để chống lại việc rơi vào cái bẫy nhận thức chúng ta vừa thấy ở trên, chính là trang bị sự hiểu biết tốt về các công cụ mà chúng ta sử dụng để đưa ra dự đoán, và những hạn chế của chúng. Mặc dù biết những hạn chế riêng của bản thân chắc chắn sẽ không cứu chúng ta khỏi mọi sai lầm mà chúng ta có thể gây ra, ít nhất nó cũng có thể giúp chúng ta giảm bớt việc đưa ra những quyết định tồi. Ví dụ, nếu bạn biết rằng bạn thường quá tự tin vào cảm giác của mình, như mọi người khác, bạn sẽ dễ nhận ra rằng, bạn chỉ tìm kiếm những thông tin hay những gì bạn đã tin là đúng. Tương tự như thế, nếu bạn biết rằng con người chúng ta muốn sắp xếp mọi thứ gọn gàng, giống như câu chuyện nhân quả, cách tiếp cận này giúp đơn giản hóa sự phức tạp của thế giới. Bạn sẽ có nhiều khả năng để tìm kiếm thêm thông tin để có được cái nhìn tốt hơn về toàn bộ bức tranh, hay có được cái nhìn toàn cảnh. Chỉ cần thực hiện những phân tích phản biện này, bạn đã có được một lợi thế cạnh tranh so với những người khác trong lĩnh vực của bạn. Nếu bạn nhận thức được những thiếu sót của mình chắc chắn đó sẽ là điều tốt. Ví dụ, nếu bạn biết rằng sẽ luôn có những rủi ro không lường trước được trong việc theo đuổi bất kỳ cơ hội nào, cho dù cơ hội đó thật hấp dẫn, có thể bạn sẽ không có khuynh hướng đầu tư mạnh vào nó. Trong khi chúng ta không thể chiến thắng sự ngẫu nhiên hay sử dụng năng lực hạn chế của bản thân để tìm hiểu sự phức tạp rộng lớn của thế giới, ít nhất chúng ta có thể giảm thiểu những thiệt hại gây ra bởi sự thiếu hiểu biết của chúng ta. Thông điệp chính trong cuốn sách này: Mặc dù chúng ta liên tục đưa ra những dự đoán về tương lai, chúng ta thực sự đang làm những điều khủng khiếp. Chúng ta đặt quá nhiều niềm tin vào kiến thức của mình và đánh giá thấp sự ngu ngốc của bản thân. Chúng ta quá phụ thuộc vào phương pháp mà chúng ta cho là có ý nghĩa, chúng ta không có khả năng để hiểu và xác định sự ngẫu nhiên, tất cả góp phần vào việc ra những quyết định sai lầm, và đôi khi dẫn đến hiện tượng “Thiên nga đen” – hiện tượng mà chúng ta cho là không thể xảy ra, nhưng cuối cùng lại diễn ra và dẫn đến việc chúng ta phải xác định lại hiểu biết của chúng ta về thế giới. Nghi ngờ “vì”. Mặc dù tuân theo bản năng là điều hoàn toàn tự nhiên của con người, các mối quan hệ nhân quả được sắp xếp để trở nên có ý nghĩa trong thế giới phức tạp. Nhưng thực tế là chúng ta thực đáng thương khi đồng thời phải đưa ra dự đoán về tương lai và phải thiết lập nguyên nhân cho hiện tại. Thay vì chiều theo mong muốn của chúng ta để xem xét sự kiện trong mối quan hệ nhân quả, rõ ràng điều tốt hơn phải là việc xem xét một xác suất của việc kết nối các sự kiện riêng biệt hay để chúng như nguyên bản. Biết những gì bạn không biết. Nếu bạn muốn đưa ra những dự đoán có ý nghĩa về tương lai – trong đó, nếu bạn đang có ý định mua bảo hiểm, đầu tư, học đại học, thay đổi công việc, tiến hành nghiên cứu, hoặc đơn giản là sống như một con người, bạn quyết định tìm hiểu bản thân – bạn không thể đưa tất cả các yếu tố bạn biết vào để xem xét. Bạn chỉ có thể đưa một phần sự hiểu biết của bạn vào để đánh giá các rủi ro trong dự đoá. Bạn cũng nên có ý thức về những gì bạn không biết, do đó bạn không phải giới hạn các thông tin mà bạn đang tiếp nhận và xử lí. Trạm Đọc (Read Station) Theo Blinkist Đánh giá post review sách hay Tweet on Twitter Share on Facebook Google+ Pinterest You May Also Like Review sách: Ác quỷ Nam Kinh – Nỗi ám ảnh kinh hoàng của tội ác Amrita (Banana Yoshimoto) – Nước thánh cho tâm hồn Chiếc lá cuối cùng – Kiệt tác từ điều nhỏ bé Review sách Phi lí trí: Góc nhìn về cảm xúc & hành vi trong kinh tế Review + Tóm tắt sách “7 thói quen của người thành đạt” Banana Yoshimoto – Nữ tác giả tiên phong của văn học Nhật Bản hiện đại About the Author: admin Thi thoảng rảnh thì sưu tầm bài hay để thoả mãn sở thích cũng như chia sẻ kiến thức cho mọi người. Nếu mọi người thấy hay thì like hoặc share. Không hay cũng comment xuống bên dưới cho vui nhé ^^ Trả lời Hủy Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu * Bình luận Tên * Email * Tìm kiếm cho: Ưu đãi khủng Bài viết xem nhiều Review sách hay: Trí tuệ Do Thái – Eran Katz Top 11 cuốn sách hay nên đọc trong đời Những cuốn sách hay nhất thế giới bạn đọc không nên bỏ qua Review sách: Đắc Nhân Tâm – Dale Carnegie – Nghệ Thuật Thu Phục Lòng Người 15 cuốn sách bán chạy nhất năm 2019 bạn nên tìm đọc 8 quyển sách hay về Paris đầy mơ mộng và lãng mạn Son dưỡng môi Dior Review chi tiết. Máy đọc sách nào tốt nhất nên mua: Kindle, Kobo, Bibox hay Onyx Boox? Đánh son lòng môi bằng son thỏi xinh lung linh với 3 bước 11 lợi ích của việc đọc sách mà ai cũng cần phải biết Tóm tắt nội dung sách Đắc Nhân Tâm – Dale Carnegie – Cuốn sách của mọi thời đại Tầm quan trọng của sách trong cuộc sống con người https://tapyogamoingay.com © 2019 Mua giá SỐC - Săn hàng giá rẻ trên mạng Giới thiệu Chính sách Liên hệ
1614178347293.1.parquet/169001
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 20969, "url": "https://muagiasoc.com/tom-tat-sach-thien-nga-den-xac-suat-cuc-nho-tac-dong-cuc-lon/" }
116.2
Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6/2014 – Đài Phát thanh và Truyền hình Kon Tum Giới thiệu Quảng cáo Liên hệ ☰ Trang chủ Tin tức Thời sự, Chính trị Kinh tế Văn hoá, xã hội Quốc phòng, an ninh Tin thế giới Truyền hình Thời sự Chuyên mục Phóng sự, phim tài liệu Văn nghệ, giải trí Trao đổi, tọa đàm Trang địa phương Phát thanh Thời sự sáng Thời sự trưa Thời sự tối Thời sự - Chính trị Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6/2014 09.07.2014 (kontumtv.vn) – Nỗ lực cao nhất bảo vệ chủ quyền quốc gia và bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; khẩn trương triển khai thực hiện hỗ trợ cho ngư dân đóng tàu đánh bắt cá xa bờ; thực hiện quyết liệt nhiệm vụ tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước; đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin… là những nội dung quan trọng tại Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6/2014. Ảnh minh họa Nỗ lực cao nhất bảo vệ chủ quyền quốc gia và bảo đảm an ninh chính trị, trật tự Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ quan, địa phương phát huy kết quả đạt được, vượt qua khó khăn thách thức, quyết tâm với nỗ lực cao nhất để bảo vệ chủ quyền; bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; thực hiện đồng bộ, quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp theo các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, đặc biệt là Nghị quyết số 01/NQ-CP và các Nghị quyết phiên họp thường kỳ của Chính phủ, phấn đấu thực hiện cao nhất các chỉ tiêu kinh tế – xã hội đã đề ra. Cụ thể, Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp với các cơ quan, lực lượng chức năng tiếp tục kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng chính trị – ngoại giao; chủ động cung cấp kịp thời thông tin tình hình Biển Đông, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với lập trường chính nghĩa và các giải pháp thiện chí của Việt Nam trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến Biển Đông. Bộ Quốc phòng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo các lực lượng thực thi pháp luật trên biển tiếp tục triển khai các biện pháp ứng phó trên thực địa, khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam theo Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển 1982 và luật pháp quốc tế. Bộ Công an chỉ đạo nắm chắc tình hình, phối hợp với lực lượng Quân đội nhân dân có phương án chủ động sẵn sàng đấu tranh với các hành vi gây mất ổn định an ninh trật tự, kiên quyết không để tái diễn sự việc như vừa qua; ngăn chặn kịp thời hoạt động của các thế lực thù địch, đối tượng phản động, nhất là tại các thành phố lớn, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất… Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các cơ quan thông tin truyền thông cung cấp chính xác, kịp thời tình hình Biển Đông, chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo, tạo sự đồng thuận trong nhân dân; xây dựng Kế hoạch tổ chức triển lãm “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam – những bằng chứng lịch sử”, góp phần nâng cao nhận thức và ý thức, trách nhiệm trong bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Khẩn trương triển khai hỗ trợ ngư dân đóng tàu đánh bắt cá xa bờ Về nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế, Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ quan, địa phương tập trung chỉ đạo chủ động nắm tình hình, chuẩn bị tốt các phương án ứng phó với diễn biến tình hình, thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra, tăng tổng cầu, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh; rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các cơ chế, chính sách, pháp luật gắn với cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi; đẩy mạnh tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, đầu tư công và các tổ chức tín dụng, đẩy nhanh tiến độ thực hiện Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế, các đề án tái cơ cấu ngành, lĩnh vực. Bộ Công Thương chỉ đạo đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng các thị trường xuất khẩu tiềm năng, đa dạng hóa các thị trường, bảo đảm không phụ thuộc quá lớn vào một thị trường, một đối tác. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với các địa phương ven biển khuyến khích, động viên ngư dân bám biển, bám ngư trường truyền thống, yên tâm sản xuất, đồng thời tham gia bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo. Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan, địa phương liên quan khẩn trương triển khai thực hiện hỗ trợ cho ngư dân đóng tàu đánh bắt cá xa bờ, đóng tàu và trang thiết bị cho lực lượng cảnh sát biển, kiểm ngư. Phối hợp với Bộ Tư pháp rà soát, cải cách các thủ tục hành chính về thuế, hải quan, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục điều hành thực hiện kế hoạch tăng trưởng tín dụng hợp lý để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, tập trung cho các lĩnh vực ưu tiên; chỉ đạo thực hiện tốt chính sách cho vay hỗ trợ ngư dân đóng mới, sửa chữa tàu cá, kết hợp phát triển kinh tế gắn với bảo vệ chủ quyền biển đảo và ngư trường truyền thống; tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp để đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu và tiếp tục cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, nâng cao chất lượng tín dụng và bảo đảm an toàn hệ thống. Bộ Xây dựng phối hợp với Văn phòng Chính phủ trình Thủ tướng ký ban hành Nghị quyết sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 7/1/2013 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu, trong đó bổ sung đối tượng được vay vốn để xây dựng nhà ở từ gói tín dụng hỗ trợ nhà ở là cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động tại đô thị đã có đất ở phù hợp với quy hoạch và đang gặp khó khăn về nhà ở nhưng chưa được nhà nước hỗ trợ dưới mọi hình thức; mức cho vay cụ thể phải bảo đảm nguyên tắc thấp hơn số tiền mà mỗi hộ gia đình, cá nhân được vay để mua, thuê, thuê mua nhà ở xã hội tại các dự án phát triển nhà ở xã hội. Thực hiện quyết liệt nhiệm vụ tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước Về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ quan, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước tập trung chỉ đạo thực hiện quyết liệt nhiệm vụ tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc bảo đảm lộ trình tái cơ cấu, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước. Đối với những doanh nghiệp đã thành lập Ban Chỉ đạo cổ phần hóa thì khẩn trương thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp; những doanh nghiệp đã công bố giá trị doanh nghiệp thì nhanh chóng trình cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cổ phần hóa; những doanh nghiệp có điều kiện thì thực hiện bán cổ phần lần đầu theo quy định; những doanh nghiệp chưa có điều kiện bán cổ phần lần đầu thì chuyển ngay thành công ty cổ phần với các cổ đông là tổ chức công đoàn, người lao động, cổ đông chiến lược (nếu có) hoặc cổ đông tự nguyện khác. Chủ động phối hợp giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện, trường hợp vượt thẩm quyền, báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp các cơ quan liên quan xây dựng phương án xử lý phần vốn góp của các doanh nghiệp nhà nước tại các ngân hàng thương mại theo tinh thần Nghị quyết 15/NQ-CP của Chính phủ về thoái vốn và đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Các Bộ, cơ quan, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước khẩn trương triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty nông, lâm nghiệp. Điều chỉnh điều kiện đối với lao động là người nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam Chính phủ thống nhất điều chỉnh điều kiện đối với lao động là người nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam thuộc một trong các trường hợp sau: – Người nước ngoài là chuyên gia, lao động kỹ thuật nếu đáp ứng yêu cầu về trình độ chuyên môn đào tạo hoặc có ít nhất 5 năm kinh nghiệm làm việc phù hợp với vị trí công việc mà người nước ngoài dự kiến sẽ làm việc tại Việt Nam. – Người nước ngoài có bằng tốt nghiệp từ cao đẳng hoặc tương đương trở lên và có ngành nghề đào tạo phù hợp với chuyên môn giảng dạy tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ (trung tâm ngoại ngữ); cơ sở giáo dục mầm non. – Người nước ngoài có bằng tốt nghiệp từ đại học hoặc tương đương trở lên và có ngành nghề đào tạo phù hợp với chuyên môn giảng dạy tại các cơ sở giáo dục phổ thông. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ khẩn trương đề xuất sửa đổi Nghị định số 102/2013/NĐ-CP ngày 5/9/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam và Nghị định số 73/2012/NĐ-CP ngày 26/9/2012 của Chính phủ quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục theo trình tự, thủ tục rút gọn, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Về việc xử phạt vi phạm hành chính về tải trọng xe, Chính phủ đồng ý tạm thời chưa xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị định số 171/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 trong thời gian đến ngày 31/12/2014 đối với 2 trường hợp: 1-Vi phạm quy định về tải trọng trục nhưng không vi phạm trọng lượng toàn bộ cho phép tham gia giao thông ghi trong Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của xe; 2- Vi phạm quy định tại Điểm b Khoản 1 và Điểm a Khoản 2 Điều 24 Nghị định 171/2013/NĐ-CP, nếu chở hàng vượt trọng tải thiết kế được ghi trong Giấy đăng ký xe hoặc Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường dưới 10%. Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ đề xuất sửa đổi Nghị định số 171/2013/NĐ-CP của Chính phủ theo trình tự, thủ tục rút gọn, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Xây dựng Cổng TTĐT của Bộ, ngành, địa phương kết nối với Cổng TTĐT Chính phủ Cũng tại Nghị quyết này, Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ quan, địa phương tập trung chỉ đạo triển khai các giải pháp đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin, coi đây là phương thức phát triển mới để nâng cao năng suất lao động, hiệu quả công việc, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh. Tích cực triển khai, nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh vực nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của các cơ quan nhà nước, cải thiện môi trường kinh doanh, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp, đặc biệt là các lĩnh vực y tế, giáo dục đào tạo, xây dựng, thuế, hải quan… Bên cạnh đó, các Bộ, cơ quan liên quan khẩn trương xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia dùng chung, trước hết là cơ sở dữ liệu quốc gia dân cư theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trực tiếp chỉ đạo đẩy mạnh tin học hóa xử lý hồ sơ công việc, xây dựng Cổng thông tin điện tử của Bộ, ngành, địa phương kết nối với Cổng Thông tin điện tử Chính phủ; cung cấp các dịch vụ công trực tuyến đến người dân và doanh nghiệp. Chính phủ đồng ý chủ trương thuê dịch vụ công nghệ thông tin trong các cơ quan nhà nước, các đơn vị hành chính sự nghiệp. Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định cụ thể hóa cơ chế thuê dịch vụ công nghệ thông tin, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong tháng 7 năm 2014. Ngăn chặn, xử lý tình trạng nhập lậu hóa chất bảo vệ thực vật qua biên giới Về công tác an toàn thực phẩm, Chính phủ yêu cầu các Bộ: Y tế, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công Thương đẩy nhanh tiến độ, hoàn thành sớm việc ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật an toàn thực phẩm. Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương thống nhất với Bộ Thông tin và Truyền thông quy định trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ truyền thông về an toàn thực phẩm đối với một số cơ quan truyền thông hoạt động từ nguồn ngân sách nhà nước. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan có giải pháp bố trí kinh phí cho các hoạt động bảo đảm an toàn thực phẩm trọng điểm. Trước mắt cần có phương án giải quyết kinh phí cho việc xử lý, tiêu hủy tang vật vi phạm đã bị các cơ quan chức năng bắt giữ. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tăng cường năng lực cho Chi cục an toàn thực phẩm, Chi cục quản lý chất lượng nông lâm thủy sản và các cơ quan quản lý về an toàn thực phẩm của địa phương; thường xuyên thanh tra, kiểm tra bảo đảm an toàn thực phẩm; chỉ đạo kiểm tra, xét nghiệm, xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị các cơ quan chức năng xử lý nếu nước sinh hoạt ở khu dân cư không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Bên cạnh đó, tổ chức hướng dẫn và giám sát quy trình sử dụng phân bón, hóa chất bảo vệ thực vật, thuốc thú y; ngăn chặn, xử lý tình trạng nhập lậu hóa chất bảo vệ thực vật qua biên giới; tăng cường quản lý thức ăn đường phố, khu du lịch, đẩy nhanh việc hoàn thành cấp giấy chứng nhận tại các làng nghề chế biến thực phẩm, đặc biệt là tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Hoàng Diên/Chinhphu.vn Trả lời Hủy Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu * Bình luận Tên * Email * Trang web Cơ quan chủ quản: Ủy ban Nhân dân Tỉnh Kon Tum www.kontumtv.vn – Trang thông tin chính thức của Đài Phát thanh và Truyền hình Kontum Giấy phép số: 250/GP-TTĐT do Bộ TT & TT cấp ngày 31/12/2020 Chịu trách nhiệm nội dung: Giám đốc – Tổng biên tập: Phan Cư Địa chỉ: 258A Phan Đình Phùng, TP.Kon Tum, tỉnh Kon Tum Điện thoại: 0260.3862544 – Fax: 0260.3861077 – Email: bbtkrt@gmail.com Ghi rõ nguồn kontumtv.vn khi phát hành lại thông tin từ website này Copyright © 2021 Powered by Netso JSC Bluezone Cấu hình App Cấu hình tổng quan Chính sách quyền riêng tư Giới thiệu Quảng cáo năm 2021 Bảng giá quảng cáo năm 2018 Tuyển dụng Văn bản liên quan Góp ý dự thảo văn bản Hộp thư góp ý Khẩu trang điện tử KRT kết nối Lịch phát sóng Liên hệ Sơ đồ website Sự kiện nổi bật Trang chủ Truyền hình Vị trí quảng cáo
1614178347293.1.parquet/128805
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 12620, "url": "https://kontumtv.vn/tin-tuc/tin-trong-nuoc/nghi-quyet-phien-hop-chinh-phu-thuong-ky-thang-62014" }
116.1
Tại sao đạo đức không được tích hợp nhiều hơn vào các hệ thống AI hiện tại? Trí tuệ nhân tạo Thẻ Account Sign In Signup Tại sao đạo đức không được tích hợp nhiều hơn vào các hệ thống AI hiện tại? 9 Tôi là nghiên cứu sinh tiến sĩ về khoa học máy tính và hiện đang tạo ra một trạng thái tổng quan nghệ thuật trong các ứng dụng được thực hiện trong Machine Ethics (một lĩnh vực đa ngành kết hợp triết học và AI, nhìn vào việc tạo ra các chương trình hoặc tác nhân đạo đức rõ ràng). Có vẻ như lĩnh vực này chủ yếu chứa các lập luận lý thuyết và có rất ít triển khai, mặc dù có nhiều người có nền tảng kỹ thuật trong lĩnh vực này. Tôi hiểu rằng vì đạo đức có liên quan, không có sự thật nền tảng và vì đó là một phần của triết học, người ta có thể bị lạc khi tranh luận về loại đạo đức nào nên được thực hiện và làm thế nào điều này có thể được thực hiện tốt nhất. Tuy nhiên, trong khoa học máy tính, thông thường thậm chí thử một cách thực hiện đơn giản để chỉ ra các khả năng hoặc giới hạn của phương pháp của bạn. Những lý do có thể có rất ít được thực hiện trong việc thực hiện rõ ràng đạo đức trong AI và thử nghiệm với nó là gì? philosophy ethics social implementation — Suzanne nguồn 2 Ví dụ về các phương pháp có thể được tìm thấy trong tài liệu này và tài liệu tổng quan này. — Suzanne Câu trả lời: 2 Đây chắc chắn là một câu trả lời cấp cao và có tính đầu cơ cao, nhưng tôi đã suy nghĩ về câu hỏi này và đây là suy nghĩ của tôi: Việc thực hiện các thuật toán đạo đức đòi hỏi một nền tảng toán học cho triết học vì máy tính là công cụ khác biệt Sau thất bại nổi tiếng của Russell & Whitehead, và định lý bất toàn của Gôdel, điều này dường như có vấn đề. AI là một lĩnh vực được ứng dụng cao, đặc biệt là ngày nay khi tiếp tục xác nhận học tập sâu và không có công ty nào muốn tiến gần đến vấn đề đạo đức trừ khi họ bị buộc phải Vì vậy, bạn nhìn thấy nó trong những chiếc xe tự lái bởi vì các kỹ sư không có lựa chọn nào khác ngoài việc vật lộn với vấn đề. Ngược lại, tôi không nghĩ rằng bạn sẽ thấy nhiều công ty giao dịch chứng khoán thuật toán, nơi kinh doanh có hiệu quả Pareto , lo lắng về đạo đức hoặc tác động xã hội của đầu cơ tài chính. (Giải pháp cho "sự cố flash" dường như là các quy tắc tạm dừng giao dịch, thay vì giải quyết giá trị xã hội của giao dịch thuật toán tần số cao.) Một ví dụ rõ ràng hơn là các công ty truyền thông xã hội bỏ qua số lượng lạm dụng thông tin cực đoan (không rõ ràng và thông tin sai lệch) được đăng trên trang web của họ, làm cho sự thiếu hiểu biết, rất đáng nghi ngờ ở chỗ hoạt động được tạo ra bởi lạm dụng thông tin ảnh hưởng tích cực đến kết quả cuối cùng của họ. Các lĩnh vực ứng dụng có xu hướng chủ yếu được thúc đẩy bởi lợi nhuận Chỉ thị chính của các tập đoàn là trả lại lợi nhuận cho các nhà đầu tư. Không có gì lạ khi các tập đoàn vi phạm luật khi tiền phạt và tiền phạt dự kiến ​​sẽ thấp hơn lợi nhuận do hoạt động bất hợp pháp. (Có khái niệm về đạo đức trong kinh doanh, nhưng văn hóa nói chung dường như đánh giá con người và các công ty dựa trên số tiền họ kiếm được, bất kể phương tiện nào.) Việc thực hiện đạo đức máy móc đang được khám phá ở những khu vực cần thiết để bán sản phẩm, nhưng ở những nơi khác, nó vẫn chủ yếu là giả thuyết Nếu siêu trí tuệ phát triển và quét sạch loài người (như một số người rất thông minh có kỹ năng toán học vượt trội đang cảnh báo chúng ta,) thì cảm giác của tôi là nó sẽ là một chức năng của tự nhiên, trong đó sự tiến hóa không hạn chế của các thuật toán này là do các trình điều khiển kinh tế tập trung vào siêu automata đảng phái trong các ngành công nghiệp như đầu cơ tài chính và chiến tranh tự trị. Về cơ bản, theo đuổi lợi nhuận bằng mọi giá, bất kể các tác động. — DukeZhou nguồn Thú vị, khía cạnh lợi nhuận! Tôi đã không nghĩ về điều đó vì tôi quá tập trung vào các lý do nghiên cứu, nhưng điều đó có ý nghĩa rằng không có áp lực nào từ ngành công nghiệp để nghiên cứu theo đuổi nó hơn nữa. — Suzanne @SuzanneTolmeijer Cảm ơn. Tôi đã đi sâu vào cách lý thuyết trò chơi kết nối với đạo đức trong một vài năm nay. (Chủ yếu là triết học ban đầu, ví dụ, "cân bằng" được cho là "tốt" - cân bằng là một hàm cân bằng và có thể được định nghĩa chính xác về mặt toán học. Nó liên quan đến kinh tế học trong sự ổn định thường được hiểu là tối ưu, trong đó sự bất ổn có khả năng là thảm họa.) Nhưng tôi không phải là người đóng góp AI duy nhất đã chạm vào các trình điều khiển kinh tế trong lĩnh vực này và những nguy cơ tiềm ẩn của cái mà tôi gọi là "AI siêu đảng". — DukeZhou 1 Tôi cảm thấy một phần của vấn đề là tại sao có rất ít cách thức triển khai đạo đức của các công nghệ AI / ML, đơn giản là vì không cần hoặc áp dụng đúng các khung lý thuyết. Ý tôi là, không có cách nào đáng kể chúng ta có thể áp dụng sự hiểu biết này cho các thuật toán và mô hình không thể tương tác theo một cách có ý nghĩa. Chúng tôi có một khung lý thuyết lớn như vậy về an toàn / đạo đức AI vì nó cực kỳ quan trọng. Chúng ta cần đưa ra các hướng dẫn an toàn để thực hiện AI mạnh trước khi nó được tạo ra. Một số bài báo rất tập trung đã bắt đầu thu hẹp các vấn đề trong việc tạo ra các hệ thống AI đạo đức / an toàn. Xem các vấn đề cụ thể trong an toàn AI — herairnessag3 nguồn Dường như cần phải có đạo đức rõ ràng, ít nhất nhiều nhà nghiên cứu kêu gọi sự tiến bộ của đạo đức rõ ràng (ví dụ Moor 2006 ). Về mặt áp dụng đúng các khung lý thuyết, bạn có thể đúng: thực hiện hàm ý một số giải thích trong một số trường hợp, điều này có thể chứng minh khó khăn. Tuy nhiên, bạn đồng ý rằng các hướng dẫn an toàn cho AI rất quan trọng, điều đó có nghĩa là các hướng dẫn thực tế về những gì chúng tôi cho là 'đúng' hoặc 'đạo đức' để máy móc của chúng tôi thực hiện. Những hướng dẫn này sẽ ngụ ý cách thực hiện đạo đức trong máy theo một cách nào đó. — Suzanne 1 Với phương pháp bắt chước, hành vi thích hợp nhất có thể được tích hợp vào trí tuệ nhân tạo. Trí tuệ nhân tạo có thể được định hình lại khi vị trí đạo đức thay đổi. Nó được sử dụng cho mục đích tư tưởng hoặc để thu thập thông tin. Không rõ robot là gì. — Azad İrven nguồn 1 Chúng ta có thể đưa mô hình lỗi vào kế toán. Nhận biết sự thiên vị và phương sai giữa hiệu suất trong các mạng thần kinh có thể là bước đầu tiên. Và sau đó chúng ta có thể thảo luận về việc hiệu suất như vậy có được cho phép hay không. Theo chúng tôi biết, thực hành dân tộc học đòi hỏi nghiên cứu thực nghiệm và thực địa. chúng ta không thể đơn giản lấy các lý lẽ và bài tiểu luận trên giấy để xác định hoạt động của các máy đã học là sai hay không. Nó có thể được chia thành tai nạn, lỗi hoặc thậm chí lỗi được tạo ra từ các nhà phát triển. — Raju yourPepe nguồn Một điểm thú vị mà bạn nêu ra ở đây là về cơ bản, các biện pháp nào có thể được sử dụng để kiểm tra hệ thống và làm thế nào để bạn xác định xem hệ thống có hoạt động chính xác không? Đây là một điều còn thiếu trong lĩnh vực này, và tôi cảm thấy là một phần của vấn đề thực sự: làm thế nào để kiểm tra hệ thống của bạn mà không có sự thật cơ bản? Những biện pháp (kích thước trong) nào có ý nghĩa trong bối cảnh của các thuật toán đạo đức rõ ràng? Không có điều đó, bạn không có cách nào để so sánh các hệ thống, điều này hạn chế tiến trình trong lĩnh vực này. — Suzanne 1 Nói một cách trực giác, dường như có rất ít nghiên cứu về việc thực hiện đạo đức AI vì: Xã hội nói chung dường như thoải mái đồng ý rằng tình trạng hiện tại của trí thông minh máy móc không đủ mạnh để nó được coi là có ý thức hay hữu tình. Vì vậy, chúng ta không cần phải cung cấp cho nó quyền đạo đức (chưa). Việc thực hiện hành vi đạo đức vào một chương trình đòi hỏi một phương pháp để máy tính có khả năng diễn giải "ý nghĩa" mà chúng ta chưa biết cách thực hiện. — kc sayz 'kc sayz' nguồn Khi sử dụng trang web của chúng tôi, bạn xác nhận rằng bạn đã đọc và hiểu Chính sách cookie và Chính sách bảo mật của chúng tôi. Licensed under cc by-sa 3.0 with attribution required.
1614178347293.1.parquet/46908
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 7002, "url": "https://qastack.vn/ai/4532/why-isnt-ethics-more-integrated-into-current-ai-systems" }
116
Chương trình STEAM – Tiny Kingdom Trang chủ Giới thiệu Thư ngỏ Thư chia sẻ về thực đơn Chương trình STEAM Chương trình dạy học theo dự án Thư viện Liên hệ Tin Tức Và Sự Kiện Trang chủ Giới thiệu -- Thư ngỏ -- Thư chia sẻ về thực đơn Chương trình STEAM -- Chương trình dạy học theo dự án Thư viện Liên hệ Tin Tức Và Sự Kiện STEAM – PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC VƯỢT TRỘI GIÚP TRẺ VƯƠN RA THẾ GIỚI STEAM là phương pháp học tập chủ yếu dựa trên thực hành và các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, do đó, trẻ được tiếp cận phương pháp giáo dục này có những ưu thế nổi bật như: kiến thức khoa học, kỹ thuật, công nghệ và toán học chắc chắn, khả năng sáng tạo, tư duy logic, hiệu suất học tập và làm việc vượt trội và có cơ hội phát triển các kỹ năng mềm toàn diện hơn. STEAM viết tắt của các từ Science (khoa học), Technology (công nghệ), Engineering (kỹ thuật), Art (nghệ thuật) và Math (toán học) là phương pháp học được áp dụng đầu tiên tại Mỹ với đặc điểm cung cấp kiến thức toàn diện của năm lĩnh vực: Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, Nghệ thuật và Toán học. Điểm nổi bật của STEAM là kết nối, liên hệ thông tin giữa các lĩnh vực vào trong thực tế. Các thí nghiệm, hoạt động thực tiễn thường xuyên diễn ra để các em có thể thảo luận, tự rút ra kết luận và ghi nhớ sâu sắc. Chẳng hạn, trong giờ khoa học, để giải thích cho các em vì sao nước sông suối lại trong, giáo viên sẽ cho học sinh thử lọc nước chứa tạp chất bằng các vật liệu tự nhiên như đá, sỏi, cát và rút ra kết luận về tính chất, vai trò của mỗi thành phần. Phương pháp giáo dục STEAM STEAM LÀ TÍCH HỢP Rào cản lớn nhất trong các phương pháp giáo dục truyền thống là sự tách rời giữa các lĩnh vực quan trọng: khoa học, công nghệ, kỹ thuật, nghệ thuật và toán học. Sự tách rời này sẽ đem đến một khoảng cách lớn giữa lý thuyết và thực hành, giữa kiến thức và ứng dụng. Học sinh, sinh viên được đào tạo theo mô hình truyền thống sẽ mất một khoảng thời gian thực tế để hiểu được làm thế nào để cơ sở lý thuyết, nguyên lý chuyển thành các ứng dụng thực tế trong khi kiến thức đã bị mài mòn. Hơn nữa tư duy liên kết các sự vật, hiện tượng với các ứng dụng và kỹ thuật cũng rất hạn chế. Giáo dục STEAM về bản chất được hiểu là trang bị cho người học những kiến thức và kỹ năng cần thiết liên quan đến các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật, nghệ thuật và toán học. Các kiến thức và kỹ năng này phải được tích hợp, lồng ghép và bổ trợ cho nhau giúp học sinh không chỉ hiểu biết về nguyên lý mà còn có thể thực hành và tạo ra được những sản phẩm trong cuộc sống hằng ngày. Giáo dục STEAM sẽ phá đi khoảng cách giữa hàn lâm và thực tiễn, tạo ra những con người có năng lực làm việc một cách sáng tạo. STEAM – PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC HIỆN ĐẠI STEAM dựa trên lý thuyết giáo dục hiện đại, xem giáo viên là người hỗ trợ về học tập, không chỉ là người cung cấp kiến thức. Phương pháp này mang lại sự hứng khởi trong học tập nhưng vẫn đảm bảo việc nắm bắt kiến thức, giúp các em thật sự tương tác với môn học và học vì yêu thích, đồng thời kích thích sự tìm tòi khám phá. Mặt khác, việc đặt trẻ làm trung tâm sẽ giúp các em trở thành những nhà lãnh đạo mạnh mẽ, những nhà cải tiến đầy sáng tạo. Mô hình STEAM còn khá mới mẻ ở Việt Nam nhưng đã là “kim chỉ nam” rất thịnh hành trong lĩnh vực giáo dục ở các quốc gia phát triển hàng đầu trên thế giới như Mỹ, Nhật… Bên cạnh đó, với sự phát triển của công nghệ kỹ thuật trên thế giới hiện nay thì nhu cầu việc làm liên quan đến STEAM ngày càng lớn đòi hỏi ngành giáo dục cũng phải có những sự thay đổi để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Giáo dục STEAM có thể tạo ra những con người có thể đáp ứng được nhu cầu công việc của thế kỷ mới có tác động lớn đến sự thay đổi nên kinh tế đổi mới.
1614178347293.1.parquet/38528
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 3337, "url": "http://tinykingdom.edu.vn/chuong-trinh-steam/" }
115.4
Bộ Công an sơ kết công tác quý I-2016 CA QUẢNG TRỊ http://congan.quangtri.gov.vn Bộ Công an sơ kết công tác quý I-2016 Thứ năm - 14/04/2016 10:39 In ra Đóng cửa sổ này Các đại biểu dự hội nghị Ngày 13-4, Bộ Công an tổ chức Hội nghị trực tuyến Sơ kết công tác Công an quý I/2016; tổng kết cao điểm tấn công trấn áp tội phạm bảo đảm an ninh, trật tự (ANTT) Tết Nguyên đán Bính Thân 2016; tổng kết công tác bảo vệ Đại hội Đảng bộ các cấp và Đại hội XII của Đảng. Đồng chí Trần Đại Quang, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước, Bí thư Đảng ủy Công an Trung ương dự Hội nghị. Thượng tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an chủ trì Hội nghị. Dự Hội nghị có các đồng chí trong Đảng ủy Công an Trung ương (ĐUCATW), lãnh đạo Bộ Công an; Thủ trưởng các Tổng cục, Bộ Tư lệnh, đơn vị trực thuộc Bộ; lãnh đạo Công an, Cảnh sát PCCC các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương… Chủ tịch nước Trần Đại Quang phát biểu tại hội nghị Phát biểu tại Hội nghị, Chủ tịch nước Trần Đại Quang chúc mừng Thượng tướng Tô Lâm, Uỷ viên Bộ Chính trị vừa được Quốc hội bầu giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Công an; mong muốn đồng chí Tô Lâm cùng tập thể Đảng uỷ Công an Trung ương, lãnh đạo Bộ Công an tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng CAND phát huy truyền thống anh hùng vẻ vang, chung sức, chung lòng, vượt lên khó khăn, thách thức, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; xây dựng lực lượng CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Chủ tịch nước Trần Đại Quang gửi lời cảm ơn sâu sắc tới toàn thể các đồng chí trong ĐUCATW, lãnh đạo Bộ Công an, lãnh đạo Công an các đơn vị, địa phương và toàn thể tướng lĩnh, sĩ quan, chiến sĩ, công nhân viên trong lực lượng CAND đã hợp tác, giúp đỡ đồng chí hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước giao. Bộ trưởng Tô Lâm phát biểu tại hội nghị Chủ tịch nước Trần Đại Quang khẳng định trên cương vị người đứng đầu Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh, Thống lĩnh lực lượng vũ trang, đồng chí sẽ nỗ lực hết sức mình phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó có có lực lượng CAND kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc, độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng, mở ra thời kỳ phát triển mới vẻ vang của đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh, vững bước đi lên CNXH. Tại Hội nghị, Trung tướng Nguyễn Danh Cộng, Chánh Văn phòng Bộ Công an đã trình bày Báo cáo tình hình, kết quả công tác công an quý I-2016, nêu rõ lực lượng CAND đã bảo vệ tuyệt đối an toàn Đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Bộ Công an, trực tiếp là Tiểu ban An ninh, trật tự đã tập trung chỉ đạo các Tổng cục, Bộ Tư lệnh, đơn vị trực thuộc Bộ, nhất là Công an TP Hà Nội chủ động phối hợp với các đơn vị chức năng, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị được Trung ương Đảng phân công, góp phần vào sự thành công chung của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, được lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các tầng lớp nhân dân ghi nhận, đánh giá cao. Công an các đơn vị, địa phương đã chấp hành nghiêm túc các chủ trương, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ và của Bộ về công tác bảo đảm ANTT trước, trong và sau Tết Bính Thân. Các mặt công tác quản lý nhà nước về ANTT được tăng cường, tai nạn giao thông giảm cả 3 tiêu chí... Phát biểu kết luận tại Hội nghị, Bộ trưởng Tô Lâm nhấn mạnh, những kết quả mà lực lượng CAND đã đạt được trong Quý I/2016 khẳng định sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sát sao của ĐUCATW, lãnh đạo Bộ Công an đối với các mặt công tác công an; chủ trương mở cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm là phù hợp với tình hình thực tế và đáp ứng yêu cầu công tác bảo đảm ANTT thời gian qua, đồng thời cũng phản ánh sự nỗ lực, cố gắng, nghiêm túc của Công an các đơn vị, địa phương trong tổ chức triển khai, thực hiện có hiệu quả các chỉ đạo của ĐUCATW và Bộ Công an. Tháng 4 và Quý II/2016 diễn ra nhiều lễ kỷ niệm, sự kiện chính trị trọng đại của đất nước, đặc biệt là bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 Bộ trưởng Tô Lâm yêu cầu, thời gian tới, công an các đơn vị, địa phương cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ công tác trọng tâm, trong đó cần chủ động nắm tình hình, tập trung lực lượng triển khai thực hiện có hiệu quả các kế hoạch, phương án bảo đảm ANTT trên từng địa bàn; giải quyết kịp thời các vấn đề phức tạp nảy sinh, không để bị động, bất ngờ; tăng cường công tác bảo đảm an ninh chính trị nội bộ, an ninh thông tin, truyền thông, an ninh văn hoá, tư tưởng, an ninh kinh tế. Bảo vệ tuyệt đối an toàn các mục tiêu, công trình trọng điểm, các sự kiện chính trị, văn hoá, xã hội quan trọng của đất nước; các đoàn khách quốc tế, hội nghị quốc tế tổ chức tại Việt Nam, hoạt động của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; triển khai quyết liệt các biện pháp đấu tranh, trấn áp tội phạm; không để tội phạm gia tăng, lộng hành. Chủ động triển khai các biện pháp phòng, chống tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, tội phạm sử dụng vũ khí, vật liệu nổ gây án nghiêm trọng, tội phạm giết người... Tăng cường lực lượng, biện pháp tuần tra, kiểm soát, bảo đảm trật tự an toàn giao thông, trật tự công cộng và đấu tranh, ngăn chặn tội phạm; phòng, chống cháy, nổ, hạn chế thấp nhất các vụ TNGT. Tăng cường công tác quản lý, giam giữ, cải tạo phạm nhân; kiểm tra, chấn chỉnh việc chấp hành pháp luật trong công tác tạm giam, tạm giữ, công tác thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp;lập hồ sơ, tham mưu, đề xuất xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù cho phạm nhân đợt 30-4-2016. Về công tác tuyên truyền, Bộ trưởng Tô Lâm lưu ý, cơ quan báo chí, truyền hình CAND cần tăng cường công tác tuyên truyền, kịp thời đưa tin, bài cổ vũ, động viên kịp thời những gương người tốt, việc tốt, tham gia giữ gìn ANTT và phòng, chống tội phạm; phản bác thông tin sai trái, lập lờ, gây hiểu nhầm, tạo dư luận xấu trong xã hội, góp phần định hướng dư luận và đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc... Tác giả bài viết: Phương Thủy Nguồn tin: Báo CAND URL của bản tin này: http://congan.quangtri.gov.vn/vi/news/Tin-hoat-dong/Bo-Cong-an-so-ket-cong-tac-quy-I-2016-823.html © CA QUẢNG TRỊ admin@example.com Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
1614178347293.1.parquet/141441
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 5914, "url": "http://congan.quangtri.gov.vn/vi/news/savefile/Tin-hoat-dong/Bo-Cong-an-so-ket-cong-tac-quy-I-2016-823.html" }
112.9
Hoa Kỳ tuyên bố thực hiện "chiến lược toàn diện hơn" cho Biển Đông | chơi bet365 làm thế nào để thắng_link vào bet365 mới nhất_bet365 là gì Search Hoa Kỳ tuyên bố thực hiện “chiến lược toàn diện hơn” cho Biển Đông Home / Phân tích / Hoa Kỳ tuyên bố thực hiện “chiến lược toàn diện hơn” cho Biển Đông Phân tích 2020-07-192020-07-19admin Vào ngày 13 tháng 7, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã công bố một thông điệp trên trang web của Bộ trưởng Ngoại giao Mike Pompeo, bác bỏ hầu hết các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với Biển Đông. Washington nói rằng Bắc Kinh không có cơ sở pháp lý để tuyên bố “đường chín đoạn” và nói rằng quan điểm thế giới đe dọa Trung Quốc sẽ không có chỗ đứng trong thế kỷ 21. Một quan hệ đối tác giữa các nước Đông Nam Á và các đồng minh để bảo vệ quyền tự do hàng hải và quyền theo luật pháp quốc tế. Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Pompeo tại một cuộc họp báo ở Washington vào ngày 15 tháng 7. Ảnh: Agence France-Presse. Trung tâm Chiến lược và Nghiên cứu Quốc tế Hoa Kỳ (CSIS) cho biết Hoa Kỳ đã bày tỏ sự ủng hộ mạnh mẽ hơn đối với quyết định năm 2016 của Tòa án Trọng tài Quốc tế. Ông chỉ ra rằng Hoa Kỳ sẽ không thay đổi vị trí chủ quyền của mình và sẽ không thể hiện vị thế của mình trong bất kỳ trường hợp nào. Tranh chấp lãnh thổ, nhưng thể hiện rõ hơn quan điểm của mình về năng lượng biển. Hoa Kỳ đã phát hiện ra rằng các hoạt động của Trung Quốc tại thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của các quốc gia ven biển là bất hợp pháp, nhưng cho đến nay, nó đã chính thức có bài phát biểu. Phán quyết năm 2016 cho thấy hầu hết các nguồn tài nguyên ở Biển Đông thuộc về các quốc gia gần biển nhất, bao gồm Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Indonesia. “Đất nước” Hoa Kỳ tuyên bố công khai rằng Trung Quốc đã vi phạm luật pháp quốc tế. “Nếu bạn đánh cá ở các khu vực trên, hãy khai thác dầu và tham gia vào các hoạt động kinh tế khác hoặc bạn can thiệp vào các quyền này ở các nước láng giềng”, Poling nói. Lucio Blanco Pitlo Pacific Corporation (Philippines), một chuyên gia của Viện Nghiên cứu Phát triển Châu Á, cho biết theo tuyên bố của ông Pompeo, và lá thư của Hoa Kỳ, thư của Liên Hợp Quốc phản đối Trung Quốc vào ngày 1/6, Hoa Kỳ đã chặn Biển Đông Nỗ lực mở một trang mới. Derek Grossman, một nhà phân tích tại tổ chức RAND, cung cấp nghiên cứu và phân tích cho các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ và tin rằng quyết định của Hoa Kỳ thể hiện sự phát triển hợp lý của Hoa Kỳ trong lĩnh vực hàng hải. Chính quyền Trump từ lâu đã tuyên bố rằng Washington có kế hoạch ngăn chặn các quốc gia Ấn Độ Thái Bình Dương “cởi mở và tự do” khỏi bị ép buộc. Chiến lược thiện chí của Mỹ cũng công khai tuyên bố hướng cạnh tranh nhằm hạn chế Trung Quốc ở cấp độ khu vực và quốc tế. Tuyên bố của Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ là biểu hiện mới nhất của chiến lược chung. Grossman nói: “Từ năm 2019, Trung Quốc và Hoa Kỳ sẽ thể hiện sự cứng rắn và tàn khốc trong cuộc chiến thương mại, và Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ tăng cường cạnh tranh chiến lược. Cạnh tranh đã dần lan sang các vấn đề khác như công nghệ và địa chính trị, bao gồm cả trong Châu Á, đặc biệt là ở Biển Hoa Đông, đóng vai trò hàng đầu . Tiến sĩ Collin Koh Swee Lean, chuyên gia tại Rajaratnam International College (RSIS) tại Singapore, nói rằng tuyên bố của Hoa Kỳ sẽ dẫn đến chiến lược Biển Đông toàn diện hơn cho người Mỹ, trong khi Nó không chỉ sử dụng các công cụ quân sự để nhấn mạnh tầm quan trọng của trật tự khu vực dựa trên luật lệ. Theo Colin, Hoa Kỳ từ lâu đã bị chỉ trích vì thiếu Biển Đông chiến lược, không gì khác hơn là một chiến dịch tuần tra bảo vệ và tự do hàng hải. (FONOP) và hợp tác an ninh với các đồng minh và đối tác trong khu vực. Mặc dù vậy, Washington sẽ tiếp tục các hoạt động quân sự trong các thời đại trong tương lai để bảo vệ tự do hàng hải và hàng không trong khu vực. Tàu khu trục Mỹ Ralph Johnson Hai hòn đá Bắc Kinh Châu Viên và cây thập tự được cải tạo trái phép ở quần đảo Nam Sa của Việt Nam vào ngày 14 tháng 7 ngay sau khi Washington công khai yêu cầu của mình với Trung Quốc. Bắc Triều Tiên. – Theo Colin, Hoa Kỳ có thể áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với Trung Quốc. Năm 2019, Dân biểu Cộng hòa Marco Rubio đã đưa ra đề nghị trừng phạt Biển Đông và Biển Hoa Đông. Vào ngày 14 tháng 7, David Stilwell, Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Đông Á và Thái Bình Dương, cho biết, Washington có thể đưa ra các biện pháp trừng phạt chống lại Bắc Kinh về vấn đề Biển Đông. Stilwell nói rằng hình phạt này là một hành động hữu hình cho thấy rõ ràng Trung Quốc có thể hiểu được. “Nếu chính quyền Trump áp dụng các biện pháp trừng phạt, nó sẽ có hiệu lực. “Ông Colin nói. Cảnh sát CSIS nói rằng Washington hiện có mọi lý do để áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với Trung Quốc, nói rằng các hoạt động của họ ở Biển Đông là bất hợp pháp. Trung Quốc năm 2017 và 2019 Trong luật trừng phạt, các nhà lập pháp Hoa Kỳ chỉ tập trung vào sự thưa thớt, xây dựng và các hoạt động khác của đất nước.Người giả được xây dựng trái phép ở Bắc Kinh. Tuy nhiên, vào ngày 14 tháng 7, ông Stilwell nhấn mạnh vai trò của các công ty nhà nước Trung Quốc và các thực thể khác liên quan đến các hoạt động hàng hải bất hợp pháp. “So với dự luật của Mỹ, các quy định của Trung Quốc phải chịu hình phạt cao hơn. Ứng dụng cũng có thể kịp thời hơn”, Polling nói. Theo tuyên bố của Trợ lý Ngoại trưởng Stilwell, bà cũng là chuyên gia về hệ thống tình báo của Liên minh, Bonnie Glaser, người có thể bị Hoa Kỳ trừng phạt bởi Tập đoàn Crown Crown, nơi quản lý tàu giám sát hàng hải. . Các tàu này gần đây đã hoạt động trong các vùng đặc quyền kinh tế của một số quốc gia ở Biển Đông mà không có sự cho phép của các quốc gia này, bao gồm cả Việt Nam, Philippines và Malaysia. Hệ sinh thái biển bị phá hủy bằng cách nạo vét trên dây thừng. Tiến sĩ Colin nói rằng theo quan điểm về tác động này, dưới sự căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, liên quan đến một loạt các vấn đề như Hồng Kông, Đài Loan và Huawei, Ngoại trưởng Pompeii có thể làm gia tăng thêm căng thẳng. Nếu Washington tăng cường các tàu tuần tra ở Biển Đông, Bắc Kinh có thể thách thức Hoa Kỳ. Do đó, nguy cơ xảy ra sự cố giữa biển và không quân ở cả hai bên cũng tăng lên. Nếu Mỹ áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với Trung Quốc, dự án Vành đai và Đường đai ở Đông Nam Á có thể bị ảnh hưởng. Đồng thời, các nước ASEAN có thể sử dụng tuyên bố của Mỹ để tranh luận trong quá trình đàm phán Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông với Trung Quốc. Vào cuối tháng 5, Hoa Kỳ đã bị buộc tội đẩy quan hệ đến “bờ vực chiến tranh lạnh”. Do đó, thông báo của Hoa Kỳ về Biển Đông sẽ khiến hai bên ngày càng trở nên thù địch. Ông nói rằng Hoa Kỳ rõ ràng có kế hoạch tăng cường hợp tác với các đồng minh và đối tác trên khắp khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương để ngăn chặn Trung Quốc thực hiện các hành động bất hợp pháp. Washington cũng sẽ đẩy mạnh các hoạt động quân sự, gửi tin nhắn tới Bắc Kinh và bác bỏ các cáo buộc sai trái của họ. Vào ngày 6 tháng 7, trong cuộc tập trận Biển Đông, tàu và máy bay Mỹ. Ảnh: Hải quân Hoa Kỳ. Cuộc thăm dò ý kiến ​​của CSIS dự đoán rằng các quan chức Hoa Kỳ có thể đưa ra những tuyên bố cứng rắn hơn đối với Trung Quốc trên các diễn đàn khu vực và quốc tế như East High Level. Châu Á (EAS), Sifang, Nhóm G7. Hoa Kỳ có thể lên án hành vi bất hợp pháp của Trung Quốc ở mức độ cao hơn trước. Hoa Kỳ cũng có thể “truyền cảm hứng” cho các đối tác và đồng minh của mình để tập trung vào niềm tin của Bắc Kinh vì vi phạm luật pháp quốc tế, không chỉ là sự hỗn loạn của Trung Quốc trong khu vực. Đến lúc đó, cộng đồng quốc tế sẽ gây áp lực lên danh tiếng của Trung Quốc. Polger nói rằng thông lệ này sẽ tiếp tục cho đến cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 và “không có chính phủ đảng nào sẽ thay đổi vị trí mới này”. -Borning dự đoán rằng Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ tồn tại trong một thời gian ngắn, nhưng về lâu dài, Washington và cộng đồng quốc tế có thể khiến Bắc Kinh đưa ra những thỏa hiệp mà thế giới sẽ chấp nhận. “Đây là cơ hội tốt nhất để giải quyết hòa bình tranh chấp Biển Đông”, cảnh sát Việt Nam 0 Haibo Land chào đón những cơ hội do Guiren ven biển mang lạiCử chỉ hiệu quả để đối xử với sự ghen tị của đối tác Leave a Reply Cancel Reply Your email address will not be published. Save my name, email, and website in this browser for the next time I comment. Bài viết mới Khó khăn của Obama khi Đảng Dân chủ thất bại Các bà vợ thà để chồng dùng búp bê tình dục còn hơn cặp bồ Ra mắt shophouse Nasha Garden Trung Quốc nối lại tham vọng quốc tế hóa nhân dân tệ Cách giúp trẻ vui Tết tại nhà Phản hồi gần đây chơi bet365 làm thế nào để thắng_link vào bet365 mới nhất_bet365 là gì
1614178347293.1.parquet/80510
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 7124, "url": "https://www.vietnamexplorertours.com/phan-tich/3918.html" }
111.9
Tiếp tục khơi dậy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc DANH BẠ CỔNG THÔNG TIN SINH VIÊN TRUYỀN THÔNG Tin tức -Truyền thông Tiếp tục khơi dậy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc (24-09-2020) Phát biểu tại Đại hội Thi đua yêu nước MTTQ Việt Nam giai đoạn 2020 – 2025, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh: Chính phủ đề nghị MTTQ Việt Nam tiếp tục khơi dậy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, quyết tâm thi đua thực hiện thành công chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước… Sáng 18/9, tại Thủ đô Hà Nội đã diễn ra Đại hội Thi đua yêu nước Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam giai đoạn 2020 – 2025. Tham dự Đại hội có các đồng chí: Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương; Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương; Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương; cùng đại diện lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, MTTQ Việt Nam, các ban, bộ, ngành, đoàn thể ở Trung ương, các cụ, các vị Ủy viên Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam cùng 180 đại biểu là điển hình tiên tiến được biểu dương tại Đại hội và hơn 1.500 đại biểu ở 64 điểm cầu trong cả nước. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Trưởng Ban Dân vận Trung ương Trương Thị Mai, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Trần Thanh Mẫn chụp ảnh chung cùng các điển hình tiên tiến. Động lực phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết Phát biểu khai mạc Đại hội, đồng chí Trần Thanh Mẫn, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam nêu rõ: Đại hội thi đua yêu nước MTTQ Việt Nam lần này là dấu mốc quan trọng đánh dấu bước phát triển mới, trên cơ sở tiếp nối, kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang và những kết quả quan trọng đạt được trong suốt 90 năm qua của MTTQ Việt Nam. Đây cũng là dịp để động viên, cổ vũ toàn dân vượt qua khó khăn, thách thức, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, lan tỏa tình đoàn kết thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ nhau trong cộng đồng; khơi dậy ước mơ, hoài bão, khát vọng, quyết tâm phấn đấu thực hiện thắng lợi các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa Chủ tịch Trần Thanh Mẫn khẳng định, trong 5 năm qua, phong trào thi đua yêu nước của MTTQ Việt Nam các cấp đã bám sát việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị và tâm tư, nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân để triển khai thực hiện. Phát huy kinh nghiệm, tâm huyết, trách nhiệm, sự năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của đội ngũ cán bộ Mặt trận, đặc biệt là sự nhiệt tình, tận tụy với công việc của cán bộ ở cơ sở. Các hoạt động hướng về cơ sở, thực hành dân chủ ở cơ sở “lắng nghe nhân dân nói”, “nói cho nhân dân nghe. Có nhiều việc mới, việc khó, nhưng với trách nhiệm, quyết tâm cao, Mặt trận các cấp đã chủ động tham mưu với cấp ủy, phối hợp với chính quyền giải quyết thấu đáo. Có nhiều đổi mới trong công tác thi đua khen thưởng, cụ thể hóa tiêu chuẩn, tiêu chí thi đua, thành tích đến đâu khen thưởng đến đó, đúng người, đúng việc. Ngày càng có nhiều tấm gương “người tốt, việc tốt”, những tấm gương “hy sinh thầm lặng mà cao cả” xuất hiện trên nhiều lĩnh vực, ở khắp các vùng, miền trong cả nước. Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Trần Thanh Mẫn phát biểu tại Đại hội. Báo cáo tóm tắt kết quả phong trào thi đua và công tác khen thưởng giai đoạn 2015-2020, phương hướng, nhiệm vụ giai đoạn 2020-2025, đồng chí Hầu A Lềnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch - Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam cho biết: Phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước, trong 5 năm qua, các tầng lớp nhân dân đã hăng hái tham gia phong trào thi đua yêu nước, phấn đấu đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng. MTTQ Việt Nam luôn bám sát nhiệm vụ chính trị, đáp ứng nhu cầu nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, chủ động và có nhiều sáng kiến tổ chức các phong trào thi đua yêu nước nối tiếp nhau, đa dạng và phong phú. Nhờ đó, đã tạo ra môi trường thi đua rộng rãi, vận động đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Mặt trận đã luôn coi trọng tính thiết thực và hiệu quả của các phong trào thi đua yêu nước vừa nhằm vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị đề ra, đồng thời thực hiện nhiệm vụ tập hợp các tầng lớp nhân dân, xây dựng, củng cố và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Phong trào thi đua của MTTQ đã góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh. Đơn cử như với “Phong trào toàn dân chăm lo cho công tác khuyến học khuyến tài, xây dựng xã hội học tập”; xây dựng nhân rộng các mô hình “Gia đình, dòng họ hiếu học”, “Quỹ khuyến học, khuyến tài”…, hiện nay, cả nước hiện có hơn 11.000 Trung tâm học tập cộng đồng được xây dựng ở các xã, phường, thị trấn; 1.998 cơ sở giáo dục nghề nghiệp thuộc các tổ chức tôn giáo… Hưởng ứng phong trào “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, trong 5 năm qua, MTTQ Việt Nam các cấp đã vận động nhân dân tự nguyện hiến hơn 65 triệu m2 đất để làm đường, công trình dân sinh. Phong trào thi đua “Cả nước chung tay vì người nghèo, không để ai bị bỏ lại phía sau”, hằng năm MTTQ Việt Nam đã triển khai tháng cao điểm “Vì người nghèo” (17-10 -18-11). Đặc biệt, trước tác động ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, MTTQ đã phát động và tiếp nhận ủng hộ bằng tiền và hiện vật trị cả các tầng lớp nhân dân với trên 2.105 tỷ đồng… Trong lĩnh vực xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, công tác giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận đã trở thành hoạt động thường xuyên, tạo điều kiện để các tầng lớp nhân dân phát huy quyền làm chủ, tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật, các chủ trương, chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của địa phương và đất nước. Trong 5 năm qua, Mặt trận đã tổng hợp được 45.051 ý kiến, kiến nghị của cử tri, nhân dân báo cáo tại các kỳ họp của Quốc hội… Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, các phong trào thi đua yêu nước do Mặt trận phát động trong toàn quốc nhưng vẫn chưa đồng đều cả về địa bàn và về các lĩnh vực; có nơi còn mang tính hình thức, chưa gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị. Trong hướng dẫn triển khai thực hiện nhiều nơi chưa coi trọng công tác kiểm tra, đôn đốc, chưa tạo được sự phối hợp, của các ngành, địa phương và các cơ quan chức năng có liên quan, chưa tạo nên động lực và hiệu quả của phong trào. Việc phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến hiệu quả chưa cao… Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và Trưởng Ban Dân vận Trương Thị Mai trao Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ cho các cá nhân tiêu biểu. Từ thực tiễn phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng trong 5 năm qua, MTTQ Việt Nam rút ra kinh nghiệm rằng, để phong trào thi đua thật sự lan tỏa phải được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, kịp thời và có hiệu quả của Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp. Phong trào thi đua phải có mục tiêu rõ ràng, tiêu chí thi đua cụ thể, thiết thực, gắn với yêu cầu nhiệm vụ chính trị, có trọng tâm, trọng điểm, đảm bảo hài hoà lợi ích giữa cá nhân với lợi ích cộng đồng. Phải chú trọng xây dựng các mô hình, điển hình, từ đó tạo động lực, động viên tinh thần để mọi người, mọi nhà tích cực hưởng ứng thi đua. Cùng với đó tăng cường mối quan hệ phối hợp thống nhất giữa các tổ chức thành viên và với chính quyền các cấp, kiên trì đưa các phong trào thi đua yêu nước tới cộng đồng dân cư và từng hộ gia đình để làm cho phong trào thực sự mang tính toàn dân và diễn ra sinh động ở cơ sở. Thường xuyên và kịp thời phát hiện nhân tố mới, những điển hình tiên tiến, biểu dương, tuyên truyền kịp thời để nhân ra diện rộng nhằm thúc đẩy và nâng cao chất lượng của phong trào thi đua. Đặc biệt, phải kết hợp chặt chẽ giữa thi đua với khen thưởng, lấy kết quả thi đua là cơ sở, căn cứ, tiêu chí để xét khen thưởng; khen thưởng là điều kiện, động lực để thúc đẩy phong trào thi đua phát triển… Khơi dậy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc qua các phong trào thi đua yêu nước Phát biểu chỉ đạo tại Đại hội, thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc gửi lời chúc mừng tốt đẹp nhất tới tất cả các vị đại biểu tham dự Đại hội tại các điểm cầu trên cả nước. Qua Đại hội, gửi lời thăm hỏi ân cần và những tình cảm sâu sắc tới toàn thể các cụ, các vị, các đồng chí cán bộ làm công tác Mặt trận trong cả nước, những người đã và đang cống hiến, gìn giữ sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc. Thủ tướng chúc mừng những thành tích to lớn đã đạt được và biểu dương phong trào thi đua yêu nước của MTTQ các cấp; trân trọng cảm ơn tất cả các tầng lớp nhân dân cả nước, các dân tộc, tôn giáo, đồng bào ta ở nước ngoài đã nêu cao tinh thần yêu nước, đoàn kết, hưởng ứng, ủng hộ và nỗ lực thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, góp phần làm nên những thành tựu chung của đất nước. Đồng thời ghi nhận, đánh giá cao những thành tích nổi bật của các đại biểu tham dự Đại hội cũng như rất nhiều tấm gương thầm lặng khác trên các lĩnh vực công tác của Mặt trận, trong các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo, đồng bào ta đang lao động, học tập, sinh sống ở nước ngoài. Đây thực sự là những bông hoa tươi thắm trong vườn hoa thi đua yêu nước của cả nước. Thủ tướng nêu rõ: Thực tiễn lịch sử cách mạng trong 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, MTTQ Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh, đã tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân thành lực lượng cách mạng to lớn để đánh đổ ách thống trị của thực dân, phong kiến, đấu tranh chống đế quốc xâm lược, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Mặt trận ngày càng có vai trò quan trọng, góp phần tích cực củng cố, mở rộng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự đồng thuận xã hội; chăm lo đời sống nhân dân. Mặt trận đã động viên nhân dân phát huy dân chủ, hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước; thực hiện giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, đấu tranh phòng, chống tham nhũng; mở rộng quan hệ hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước. Mặt trận luôn là địa chỉ tin cậy, mái nhà chung, đoàn kết gắn bó của những người con tự hào mang dòng máu Lạc Hồng ở khắp mọi miền Tổ quốc và ở nước ngoài. Đặc biệt trong đại dịch COVID-19 vừa qua, với sự phát động, vận động của MTTQ, các tầng lớp nhân dân, các đoàn thể, các nhà hảo tâm, doanh nghiệp, các tổ chức tôn giáo đã quyên góp đến nay được hơn 2.200 tỷ đồng và nhiều hiện vật cần thiết để ủng hộ các bệnh viện tuyến đầu, người bị nhiễm COVID-19, người bị cách ly và đồng bào bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, hạn hán, xâm ngập mặn… Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại Đại hội. MTTQ đã làm tốt vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, thực hiện tốt mối quan hệ chủ động với Nhà nước, là tổ chức luôn năng động, sáng tạo, đồng hành và trách nhiệm với Nhà nước trong "ứng xử, giải quyết" nhiều nhiệm vụ quan trọng của đất nước; phát huy vai trò nòng cốt trong vận động, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tinh thần tương thân, tương ái, qua đó lan tỏa tinh thần yêu nước trong cộng đồng, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước… Với những thành tích to lớn đạt được trong thời gian qua, MTTQ Việt Nam tiếp tục xứng đáng với vai trò là liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, là tổ chức nòng cốt trong hệ thống chính trị nước ta; góp phần củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, tạo nền tảng vững chắc và là sức mạnh to lớn cho sự ổn định, phát triển đất nước. Thủ tướng nhấn mạnh: Mặc dù trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức nhưng với sự cố gắng, nỗ lực của các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước, tình hình kinh tế - xã hội đến thời điểm này tiếp tục có nhiều chuyển biến tích cực. Chúng ta đã bước đầu kiểm soát tốt, phòng chống hiệu quả các đợt dịch, dành mọi nguồn lực tập trung phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, đạt nhiều kết quả tích cực, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Trong khi kinh tế thế giới rơi vào suy thoái thì Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 1,81% trong 6 tháng đầu năm 2020, thuộc nhóm cao nhất so với khu vực và thế giới. Trong khi ổn định xã hội ở nhiều khu vực trên thế giới bị đe dọa thì Việt Nam lại được coi là một quốc gia ứng phó với đại dịch hiệu quả hàng đầu thế giới, sớm có được trạng thái bình thường mới… Chúng ta có được những thành tựu này là nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành kịp thời, sát sao và hiệu quả của Chính phủ, sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, trong đó có vai trò rất quan trọng của MTTQ trong việc đẩy mạnh tinh thần thi đua yêu nước, vận động, phát huy truyền thống tương thân, tương ái và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu rõ, hiện nay, tình hình an ninh, chính trị trên thế giới và khu vực diễn biến nhanh, phức tạp; thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Các nước lớn tăng cường điều chỉnh chiến lược cạnh tranh gay gắt; tranh chấp chủ quyền biên giới, biển đảo diễn biến phức tạp. Tình hình dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp, tác động toàn diện tới đời sống kinh tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới. Những tác động, ảnh hưởng từ bên ngoài đối với chúng ta ngày càng tăng khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng, với độ mở cao của nền kinh tế. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi sự đoàn kết, đồng tâm, đồng sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân để vượt qua thách thức, khó khăn, nắm bắt được những thời cơ, vận hội để phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Phát huy truyền thống vẻ vang của 90 năm qua, Chính phủ trân trọng đề nghị MTTQ Việt Nam tiếp tục khơi dậy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, đồng bào các dân tộc, tôn giáo, tạo sự đồng thuận, thống nhất về tư tưởng và hành động, quyết tâm thi đua thực hiện thành công chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, hướng tới mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trước hết, chúng ta cần tiếp tục giương cao ngọn cờ tập hợp đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tập trung tuyên truyền, vận động để các tầng lớp nhân dân, đoàn viên, hội viên, thành viên nâng cao nhận thức và trách nhiệm, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đoàn kết các dân tộc, đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết đồng bào trong nước cũng như đồng bào ta ở nước ngoài. Cùng với đó, Mặt trận cần tiếp tục cổ vũ, động viên mọi tầng lớp nhân dân nỗ lực phấn đấu, hăng say lao động sản xuất, đổi mới, sáng tạo, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, tự vươn lên thoát nghèo và làm giàu chính đáng. Triển khai có hiệu quả và tăng cường vận động nhân dân hưởng ứng và tham gia các cuộc vận động, phong trào lớn như các cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; phong trào thi đua “Đoàn kết sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, hội nhập quốc tế”… “Chúng tôi mong muốn Mặt trận có nhiều hành động và việc làm cụ thể, thiết thực chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; chia sẻ, hỗ trợ, giúp đỡ người dân gặp khó khăn trong cuộc sống, đặc biệt là đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng bị thiên tai...” Thủ tướng nêu. Đồng thời, Mặt trận cần tiếp tục thực hiện dân chủ, tổ chức thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; làm tốt hơn nữa vai trò tập hợp, lắng nghe ý kiến nhân dân để phản ánh với các cấp ủy, chính quyền. Tiếp tục triển khai có hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội. Phát huy vai trò và vận động nhân dân tham gia đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Cần phát huy vai trò, tích cực của Mặt trận trong việc tham gia tổ chức thành công Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng, bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026. Trong công tác thi đua khen thưởng, Thủ tướng đề nghị Mặt trận cần chú trọng và làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền, phát hiện, giới thiệu, nhân rộng điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, cách làm hay, mô hình sáng tạo, hiệu quả từ cơ sở. Quan tâm biểu dương những tập thể, cá nhân có nhiều đóng góp cho cộng đồng; chú trọng động viên, chăm lo, phát huy vai trò người uy tín, cá nhân tiêu biểu trong đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, trong các tầng lớp nhân dân. Mỗi cán bộ Mặt trận chúng ta cần luôn lắng nghe để thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; luôn gần dân, sát dân, gắn bó mật thiết với nhân dân để nói lên được tiếng nói của nhân dân, phải làm cho dân tin. Bên cạnh đó, chúng ta tiếp tục phát huy sự năng động, sáng tạo, nhiệt tình, tận tụy, bám sát công việc của đội ngũ cán bộ Mặt trận các cấp, nhất là ở cơ sở. Các đại biểu tham dự Đại hội Thủ tướng nhấn mạnh: “Tại Đại hội hôm nay, thêm một lần nữa, tôi xin được nêu lại lời kêu gọi đoàn kết năm xưa của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu: “sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng để giữ vững quyền tự do, độc lập của chúng ta…" . Thủ tướng nêu rõ, thực hiện tư tưởng đại đoàn kết và thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta tin tưởng sau Đại hội Thi đua yêu nước của MTTQ Việt Nam, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc sẽ tiếp tục được nhân lên; các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước sẽ tiếp tục được lan tỏa mạnh mẽ trong xã hội và trở thành động lực quan trọng cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thành công nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước. Trong khuôn khổ Đại hội, Chủ tịch nước đã quyết định tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhì cho Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Nguyễn Hữu Dũng. Thủ tướng Chính phủ quyết định tặng thưởng 42 Bằng khen, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam quyết định tặng thưởng 136 Bằng khen cho các điển hình tiên tiến tiêu biểu trong công tác phong trào thi đua giai đoạn 2015 - 2020. Tại Đại hội, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Trần Thanh Mẫn đã phát động phong trào thi đua trong toàn hệ thống Mặt trận giai đoạn 2020 – 2025./. Nguồn: http://dangcongsan.vn/lanh-dao-dang-nha-nuoc/tiep-tuc-khoi-day-suc-manh-dai-doan-ket-toan-dan-toc-563824.html Phòng CNTT & TT Các tin khác Phòng Công tác xã hội, Bệnh viện ĐH Y HN - tự hào là nơi “đầu sóng ngọn gió” trong phòng chống Covid-19 Lần đầu tiên, ký kết hợp tác nghiên cứu về dự đoán nguy cơ gây bệnh dựa trên hệ gen người Việt Vingroup hợp tác với 11 tổ chức quốc tế và trường đại học trong lĩnh vực Y học chính xác Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác về phát triển Khoa học công nghệ giữa Trường Đại học Y Hà Nội và Viện nghiên cứu Dữ liệu lớn, VinBigdata Viện Chiến lược và Chính sách Y tế tuyển dụng năm 2020 Bệnh viện Việt Pháp Hà Nội trở thành đơn vị thứ 98 hợp tác toàn diện với Trường Đại học Y Hà Nội Một số hoạt động nhân Ngày quốc tế Người cao tuổi 1/10 của Trường Đại học Y Hà Nội Hội nghị tổng kết hoạt động công đoàn Khối thi đua số 6 năm học 2019 – 2020 Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác toàn diện giữa Trường Đại học Y Hà Nội và Bệnh viện Việt Pháp Hà Nội Thông báo lựa chọn tổ chức bán đấu giá tài sản thanh lý GIỚI THIỆU Sứ mệnh - Tầm nhìn Lịch sử Sơ đồ tổ chức Công khai cơ sở dữ liệu DÀNH CHO CÁN BỘ Tin nội bộ Quy trinh ISO Tra cứu văn bản Thư viện ảnh Lịch tuần DÀNH CHO SINH VIÊN Cổng thông tin Sinh viên Tin tức Học bổng Cẩm nang tài liệu Mẫu văn bản giấy tờ Tư vấn giới thiệu việc làm DÀNH CHO KHÁCH Địa chỉ-Sơ đồ đường đi Danh bạ Đề án quy hoạch tổng thể Chương trình đào tạo Liên kết website CÁC MẪU BIỂU Hành chính Nghiên cứu khoa học Hội đồng đạo đức Tài chính kế toán Hợp tác quốc tế Tổ chức cán bộ Quản trị và VTTTB Công nghệ thông tin & Truyền thông CƠ SỞ DỮ LIỆU Chuyên gia y tế Ấn phẩm và Sách Kết quả NCKH Chuyên đề - Luận văn Từ điển Y học Mạng lưới Cựu Sinh viên CHUYÊN MỤC Khảo thí & đảm bảo chất lượng Phát triển chương trình Elearning- Học trực tuyến Thư viện điện tử Tạp chí nghiên cứu y học ĐÀO TẠO Đại học Sau Đại học Chương trinh tiên tiến Chương trình đào tạo liên tục Đào tạo theo nhu cầu xã hội newsletter liên hệ Trường Đại học Y Hà Nội 01 Tôn Thất Tùng-Đống Đa-Hà Nội +84 024 38523798 daihocyhn@hmu.edu.vn http://www.hmu.edu.vn Bản quyền thuộc Trường Đại học Y Hà Nội Giấy phép số 453/ GP-BC do Bộ Thông tin và Truyền Thông cấp ngày 19/10/ 2007
1614178347293.1.parquet/56005
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 18788, "url": "https://hmu.edu.vn/news/tID6346_tiep-tuc-khoi-day-suc-manh-dai-doan-ket-toan-dan-toc.html" }
111.6
Cư Dung quan – Wikipedia tiếng Việt Mở trình đơn chính Trang chính Ngẫu nhiên Lân cận Đăng nhập Tùy chọn Quyên góp Giới thiệu Wikipedia Lời phủ nhận Tìm kiếm Cư Dung quan Ngôn ngữ Theo dõi Sửa đổi Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. Cư Dung quan (giản thể: 居庸关; phồn thể: 居庸關; bính âm: Jūyōng Guān) là một đèo nằm ở quận Xương Bình ở ngoại ô Bắc Kinh, cách 50 kilômét (31 dặm) từ trung tâm thủ đô. Vạn Lý Trường Thành chạy qua đây, Vân Đài môn được xây từ năm 1342. Trường Thành tại Cư Dung quan Cư Dung quan nằm trên thung lũng dài 18 kilômét (11 dặm)Guangou. Đây là một trong ba cửa ải chính yếu của Vạn Lý Trường Thành. Hai cửa ải còn lại là Gia Dục quan và Sơn Hải quan. Cư Dung quan có hai 'tiểu quan,' một ở phía nam thung lũng và một ở phía bắc. Cửa ải phía nam gọi là "Nam quan" và cửa ải phía bắc là "Bát Đạt Lĩnh". Cửa ải từng có nhiều tên gọi trong các triều đại Trung Quốc. Tuy nhiên, tên gọi "Cư Dung quan" được trên ba triều địa sử dụng. Đầu tiên là nhà Tần khi Hoàng đế Tần Thủy Hoàng ra lệnh xây Vạn Lý Trường Thành. Cư Dung quan được kết nối với Trường Thành vào thời kỳ Nam-Bắc triều. Tuyến đường hiện tại được xây vào thời nhà Minh và được cải tạo nhiều lần sau đó. Đây là một nơi có vị trí chiến lược hết sức quan trọng nối giữa vùng nội địa và khu vực gần biên giới phía bắc Trung Quốc. Nó được sử dụng để phòng thủ cho thành cổ Bắc Kinh. Tham khảoSửa đổi Liên kết ngoàiSửa đổi Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Cư Dung quan. Ảnh Trường Thành tại Cư Dung quan Lưu trữ 2006-10-31 tại Wayback Machine Travelchinaguide.com: Juyongguan Bài viết liên quan đến Trung Quốc này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn. x t s Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Cư_Dung_quan&oldid=64417483” Sửa đổi lần cuối lúc 22:08 vào ngày 13 tháng 2 năm 2021 Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 3.0, ngoại trừ khi có ghi chú khác. Trang này được sửa đổi lần cuối vào ngày 13 tháng 2 năm 2021 lúc 22:08. Văn bản được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự; có thể áp dụng điều khoản bổ sung. Với việc sử dụng trang web này, bạn chấp nhận Điều khoản Sử dụng và Quy định quyền riêng tư. Wikipedia® là thương hiệu đã đăng ký của Wikimedia Foundation, Inc., một tổ chức phi lợi nhuận. Quy định quyền riêng tư Giới thiệu Wikipedia Lời phủ nhận Điều khoản sử dụng Máy tính để bàn Nhà phát triển Thống kê Tuyên bố về cookie
1614178347293.1.parquet/124640
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 2193, "url": "https://vi.m.wikipedia.org/wiki/C%C6%B0_Dung_quan" }
111.3
Năng lượng nguyên tử: Tình trạng bế tắc Download: pdf A4 Impressum About us Phong trào cổ động mang tên: "Sự thật về năng lượng nguyên tử" Năng lượng nguyên tử: Tình trạng bế tắc Chất uran chỉ còn đủ cho một vài thập kỷ nữa - vậy sau đó sẽ ra sao? Năng lượng nguyên tử rồi cũng đi vào ngõ cụt giống như việc đốt các nhiên liệu hoá thạch còn lại rất hạn chế. Vì chất uran cần thiết để vận hành các nhà máy điện nguyên tử là một loại nguyên liệu thô hiếm. Giải pháp “Lò phản ứng tái sinh hạt nhân nhanh”, mà người ta kỳ vọng rằng có thể kéo dài thời gian sử dụng nguồn năng lượng dự trữ, đã bị thất bại bởi các lý do về kinh tế và kỹ thuật. Trong một vài thập kỷ nữa, ngành nguyên tử sẽ hết nhiên liệu. Do nguồn trữ lượng uran cũng như các nguồn trữ lượng khác như than và khí đốt tự nhiên sẽ được tiêu thụ hết một cách nhanh chóng trong thời gian ngắn, cho nên về lâu dài con người chỉ có thể đáp ứng được nhu cầu về năng lượng của mình bằng các nguồn năng lượng tái sinh và bằng việc sử dụng năng lượng một cách hiệu quả. Cần đóng cửa các nhà máy điện nguyên tử.
1614178347293.1.parquet/85903
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 962, "url": "http://www.facts-on-nuclear-energy.info/1_dead_end.php?size=s&l=vi&f=163237527" }
111.2
Đề tài Giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của khách sạn Bảo Sơn - Luận văn, đồ án, đề tài tốt nghiệp Đăng ký Đăng nhập Liên hệ LuanVan.net.vn - Luận văn, đồ án, tiểu luận, luận án, đề tài, đề án, chuyên đề thực tập, tốt nghiệp Thư viện luận văn, đồ án, tiểu luận, luận án, báo cáo, bài tập lớn, đề tài, đề án, chuyên đề thực tập, tốt nghiệp, thạc sĩ, tiến sĩ, cao học Trang Chủ Tài Liệu Upload Đề tài Giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của khách sạn Bảo Sơn Hiện nay, du lịch được xem là ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam, bởi vì du lịch thúc đẩy sự đổi mới và phát triển của nhiều ngành kinh tế khác, tạo công ăn việc làm, mở rộng giao lưu văn hoá và xã hội giữa các vùng trong nước với nước ngoài. Việt Nam là một quốc gia có nhiều tiềm năng du lịch, không chỉ ở cảnh quan thiên nhiên, truyền thống văn hoá lịch sử mà còn ngay ở cả mỗi con người Việt Nam với những nụ cười như sinh ra làm du lịch. Du lịch phát triển kéo theo hệ thống khách sạn cũng phát triển phục vụ cho nhu cầu lưu trú. Để tăng khả năng cạnh tranh thu hút khách, các nhà kinh doanh khách sạn cần phải tạo ra những sản phẩm độc đáo phong phú về chủng loại và tiêu chuẩn đạt chất lượng quốc tế. Trước sự thay đổi hàng ngày của những điều kiện kinh tế xã hội trong nước và thế giới, ngành du lịch Việt Nam với những tiềm năng du lịch phong phú và đa dạng, đồng thời được sự quan tâm của Đảng và nhà nước thông qua các chính sách đổi mới đã có bước chuyển mình quan trọng. Với chính sách mở cửa ngoại giao và kinh tế, Việt Nam dần khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế, đặt quan hệ ngoại giao với tất cả các nước trên thế giới, khách đến Việt Nam ngày càng đông hơn không chỉ với mục đích tìm kiếm cơ hội kinh doanh mà còn để du lịch. 98 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Ngày: 12/12/2012 | Lượt xem: 2371 | Lượt tải: 28 Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của khách sạn Bảo Sơn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Hiện nay, du lịch được xem là ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam, bởi vì du lịch thúc đẩy sự đổi mới và phát triển của nhiều ngành kinh tế khác, tạo công ăn việc làm, mở rộng giao lưu văn hoá và xã hội giữa các vùng trong nước với nước ngoài. Việt Nam là một quốc gia có nhiều tiềm năng du lịch, không chỉ ở cảnh quan thiên nhiên, truyền thống văn hoá lịch sử mà còn ngay ở cả mỗi con người Việt Nam với những nụ cười như sinh ra làm du lịch. Du lịch phát triển kéo theo hệ thống khách sạn cũng phát triển phục vụ cho nhu cầu lưu trú. Để tăng khả năng cạnh tranh thu hút khách, các nhà kinh doanh khách sạn cần phải tạo ra những sản phẩm độc đáo phong phú về chủng loại và tiêu chuẩn đạt chất lượng quốc tế. Trước sự thay đổi hàng ngày của những điều kiện kinh tế xã hội trong nước và thế giới, ngành du lịch Việt Nam với những tiềm năng du lịch phong phú và đa dạng, đồng thời được sự quan tâm của Đảng và nhà nước thông qua các chính sách đổi mới đã có bước chuyển mình quan trọng. Với chính sách mở cửa ngoại giao và kinh tế, Việt Nam dần khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế, đặt quan hệ ngoại giao với tất cả các nước trên thế giới, khách đến Việt Nam ngày càng đông hơn không chỉ với mục đích tìm kiếm cơ hội kinh doanh mà còn để du lịch. Khách đến ngày càng tăng nên ngành kinh doanh khách sạn nhanh chóng trở thành một nghề hấp dẫn cả doanh nhân trong và ngoài nước. Do vậy chỉ trong một vài năm, lượng khách sạn được xây dựng đã vượt quá mức cầu, dẫn đến tình trạng công suất phòng giảm xuống nhanh chóng. Một số khách sạn hoạt động kinh doanh không hiệu quả đã phải chuyển đổi kinh doanh sang lĩnh vực khác hoặc bị phá sản. Mặt khác một số doanh nghiệp mới ra đời đáp ứng các nhu cầu khác của khách hàng làm cho khả năng cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp trở nên khốc liệt hơn. Với các diễn biến phức tạp của thị trường, vấn đề đặt ra là làm sao để nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành trên thị trường trong nước và quốc tế. Đây là điều quan tâm của các ngành, các cấp, các cơ quan hữu quan, các doanh nghiệp kinh doanh khách sạn bởi nó là điều kiện tiên quyết để ngành, doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế. Qua quá trình thực tập tại khách sạn Bảo Sơn, em nhận thấy khách sạn còn số mặt hạn chế: chưa có một chương trình hành động mang tính khoa học để đem lại kết quả kinh doanh. Các biện pháp thu hút khách chưa được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng. Khách sạn chưa tận dụng hết khả năng của mình để khai thác hiệu quả nguồn khách đặc biệt, nguồn khách trong nước. Trong tiến trình hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, sức cạnh tranh sẽ ngày càng tăng, quá trình hoạt động kinh doanh sẽ còn gặp nhiều khó khăn hơn nữa. Do vậy khách sạn cần nhanh chóng khắc phục những hạn chế còn tồn tại, nâng cao chất lượng, nhấn mạnh vào các thế mạnh của khách sạn. Trên cơ sở đó em đã chọn đề tài: “Giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của khách sạn Bảo Sơn” làm luận văn tốt nghiệp nhằm đề xuất một số biện pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh của khách sạn trên thị trường, để tạo một vị thế vững chắc cho doanh nghiệp trong thời gian tới. 2. Mục đích nghiên cứu - Hệ thống một số vấn đề lý luận cơ bản về khách sạn, kinh doanh khách sạn và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh doanh khách sạn. - Khảo sát thực trạng của việc nâng cao sức cạnh tranh của khách sạn Bảo Sơn. - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của khách sạn Bảo Sơn. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sức cạnh tranh của doanh nghiệp kinh doanh khách sạn. - Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề có liên quan sức cạnh tranh của khách sạn Bảo Sơn nghiên cứu trong thời gian 2 năm 2003- 2004. 4. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu làm 3 chương: Chương I: Một số vấn đề lí luận về nâng cao sức cạnh tranh trong kinh doanh khách sạn Chương II: Thực trạng kinh doanh và sức cạnh tranh của khách sạn Bảo Sơn Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của khách sạn Bảo Sơn 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp phân tích: Nghiên cứu sách báo chuyên ngành, các báo cáo về thực trạng sử dụng nhân lực trong tình hình phát triển hoạt động kinh doanh khách sạn từ đó rút ra các phương hướng đề xuất. Phương pháp thống kê: Từ việc nghiên cứu chỉ tiêu giưa các năm, em sử dụng phương pháp thống kê so sánh về tỷ lệ phần trăm, số tương đối và tuyệt đối để đưa ra các kết luận về tình hình kinh doanh của khách sạn. Ngoài các phương pháp trên trong báo cáo chuyên đề thực tập còn sử dụng phương pháp đối chiếu so sánh hệ thống các thông tin điều tra, sử dụng mô hình toán cùng các số liệu thứ cấp và sơ cấp để làm tăng thêm tính chính xác và thuyết phục cho luận văn. CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH TRONG KINH DOANH KHÁCH SẠN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH KHÁCH SẠN Khái niệm về khách sạn và kinh doanh khách sạn 1.1.1.1 Khái niệm khách sạn Khái niệm về khách sạn được định nghĩa theo nhiều quan điểm khác nhau: “ Khách sạn là nơi cung cấp các dịch vụ ngủ, ăn uống, phương tiện giao thông, thông tin, các chương trình giải trí... cho khách đến với điều kiện khách phải trả các khoản tiền trên. Có loại khách sạn không cung cấp dịch vụ: ăn uống cho khách. Trong ngành du lịch, khách sạn đóng vai trò không thể thiếu được vì nói chung không có khách sạn thì không thể hoạt động du lịch.”[1 trong danh mục tài liệu tham khảo]. Theo bài giảng kinh tế khách sạn thì khách sạn được định nghĩa như sau: “ Khách sạn là cơ sở phục vụ lưu trú phổ biến đối với mọi khách du lịch. Chúng sản xuất, bán và trao cho khách những dịch vụ, hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu của họ về chỗ ngủ, nghỉ ngơi, ăn uống, chữa bệnh, vui chơi giải trí… phù hợp với mục đích và động cơ của chuyến đi.Chất lượng và sự đa dạng của dịch vụ hàng hoá trong khách sạn qui định thứ hạng của nó. Mục đích hoạt động là thu được lợi nhuận ”. Theo pháp lệnh du lịch thì được định nghĩa như sau: “ Cơ sở lưu trú du lịch là cơ sở kinh doanh buồng, giường và các dịch vụ khác phục vụ khách du lịch. Cơ sở lưu trú du lịch bao gồm: khách sạn, làng du lịch, biệt thự, căn hộ, lều trại cho thuê trong đó khách sạn là cơ sở lưu trú chủ yếu”. Khái niệm về kinh doanh khách sạn Cùng với sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội, nhiều ngành kinh doanh đã ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu của con người, đồng thời mang lại lợi nhuận cho người kinh doanh. Ngành kinh doanh khách sạn cũng ra đời trong hoàn cảnh như vậy. Kinh doanh khách sạn là ngành dịch vụ bởi vậy mục tiêu hàng đầu của việc kinh doanh là phải thoả mãn tối đa nhu cầu của khách, đảm bảo cho khách các điều kiện vật chất cũng như sự quan tâm dịch vụ. Tuy nhiên kinh doanh khách sạn cũng không nằm ngoài qui luật của kinh doanh nói chung, nghĩa là nó cũng phải có đầy đủ các tiêu thức để kinh doanh trên thị trường như chủ thể kinh doanh, có thị trường, có vốn và phải có mục đích sinh lời trong hoạt động kinh doanh đó. Do vậy chúng ta có thể định nghĩa kinh doanh khách sạn như sau: “ Kinh doanh khách sạn là hoạt động kinh doanh các dịch vụ phục vụ khách du lịch trong thời gian họ lưu lại tại các điểm du lịch nhằm đáp ứng các nhu cầu về lưu trú, ăn uống, dịch vụ bổ sung cho khách du lịch với mục đích thu được lợi nhuận”. Các loại hình khách sạn Ngày nay để đáp ứng nhu cầu đa dạng và phong phú của du khách, hệ thống khách sạn đang phát triển mạnh mẽ. Các khách sạn qui mô lớn, hiện đại ngày càng nhiều. Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau, người ta có thể phân chia hệ thống khách sạn thành nhiều thể loại khác nhau như: - Căn cứ theo qui mô: Khách sạn có quy mô lớn, khách sạn có quy mô vừa và khách sạn có quy mô nhỏ. Đáp ứng nhu cầu về các dịch vụ của khách mà vẫn đảm bảo thu được lợi nhuận trong quá trình kinh doanh. - Căn cứ vào thời gian hoạt động: Khách sạn hoạt động quanh năm và khách sạn hoạt động theo mùa. Nhằm khắc phục tính thời vụ trong kinh doanh khách sạn. - Căn cứ vào mục đích chuyến đi: Khách sạn nghỉ hè, khách sạn điều dưỡng, khách sạn thể thao… Nhằm xây dựng và cung cấp các dịch vụ phù hợp với mục đích chuyến đi của từng đối tượng khách. - Căn cứ vào đối tượng khách: Khách công vụ, khách du lịch, khách thương gia…Nhằm xác định các loại hình dịch vụ và chất lượng dịch vụ thoả mãn từng đối tượng khách. - Căn cứ vào vị trí: Khách sạn ở biển, khách sạn ở vùng núi, khách sạn ở thành phố. Đảm bảo trang thiết bị tiện nghi, yêu cầu về mặt kiến trúc, sự đa dạng các loại dịch vụ có trong khách sạn. - Căn cứ vào thứ hạng khách sạn: Khách sạn loại đặc biệt, khách sạn loại I, loại II, khách sạn 5 sao, 4 sao, 3 sao, 2 sao, 1 sao. Giúp cho việc kiểm tra, đánh giá chất lượng cơ sở vật chất kĩ thuật, chất lượng sản phẩm, trình độ nhân viên một cách dễ dàng, đảm bảo cung cấp cho khách hàng những dịch vụ thoả mãn với sự trông đợi. Tuỳ từng quốc gia khác nhau mà có thể áp dụng cách phân hạng khách sạn khác nhau. Tuy nhiên việc phân hạng khách sạn đều căn cứ vào trang thiết bị tiện nghi phục vụ, chất lượng, yêu cầu về mặt kiến trúc, sự đa dạng về các loại dịch vụ có trong khách sạn. 1.1.2 Đặc điểm của kinh doanh khách sạn Ngành công nghiệp khách sạn là một trong số ít ngành có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời. Nó đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới. Ngành khách sạn được hình thành gắn với sự ra đời và phát triển của ngành du lịch. Từ thời cổ đại con người đã có những hoạt động du lịch để khám phá cái mới, đi tìm vùng đất mới, đi buôn bán... Những người này thường xuyên xa nhà do vậy đến đâu họ cũng cần chỗ nghỉ ngơi và ăn uống. Từ nhu cầu này, một số người đã làm các nhà trọ để đón khách xa nhà. Qua thời gian hàng ngàn năm, đời sống con người thay đổi, nhu cầu ngày càng được nâng cao. Vì vậy việc kinh doanh nhà trọ chuyển dần sang kinh doanh khách sạn, loại hình lưu trú có chất lượng cao hơn để phù hợp với xu hướng phát triển chung của xã hội. Ngành kinh doanh khách sạn là ngành mang nhiều tính chất đặc thù riêng. Được biểu hiện ở một số đặc điểm sau: - Về sản phẩm dịch vụ Khác với các sản phẩm hàng hoá thông thường, sản phẩm dịch vụ trong khách sạn rất khó xác định chất lượng, không tồn kho, không tách rời, nó mang tính chất vô hình nhiều hơn hữu hình nên không thể thử nó trước khi tiến hành tiêu dùng được. Hay nói cách khác khách hàng không thể nắm, sờ, ngửi hay nếm chúng được nên họ có xu hướng dựa vào kinh nghiệm của những người đã sử dụng những dịch vụ đó để thoả mãn sự hoài nghi về sản phẩm mà họ mua để tiêu dùng. Vì sản phẩm khách sạn là vô hình nên khách hàng không thể biết được nó tốt hay không tốt, họ chỉ có thể dựa vào thông tin truyền miệng. - Tính đồng nhất giữa sản xuất và tiêu dùng Sản phẩm mà ngành kinh doanh sản xuất ra phải được tiêu dùng ngay tại chỗ, vì nó không thể lưu kho được, không thể đem đến nơi khác quảng cáo hay tiêu thụ. Khách hàng muốn tiêu dùng sản phẩm của khách sạn thì phải đến với khách sạn. Nếu quá trình sản xuất và tiêu dùng không đi liền nhau thì sản phẩm đó coi như hỏng. Nếu như ngày hôm nay một buồng trong khách sạn không được thuê thì doanh thu buồng đó sẽ bằng không, vì ngày mai ta không thuê buồng đó hai lần trong cùng một thời điểm.Chính vì lí do đó mà trong kinh doanh khách sạn thì công suất sử dụng buồng phòng là vô cùng quan trọng. - Về tính thời vụ Kinh doanh khách sạn mang tính thời vụ do cung và cầu có tính chất thời vụ. Vào thời điểm chính vụ khách rất đông nhưng trước và sau vụ thì khách giảm nhanh chóng. Đó cũng chính là nguyên nhân mà các khách sạn cạnh tranh nhau để kéo dài thời vụ kinh doanh. Các khách sạn khai thác thêm những đoạn thị trường mới, triển khai thêm một số hình thức kinh doanh mới. Một số khách sạn khi vào thời kì trái vụ sẵn sàng cho khách thuê phòng dài hạn theo kiểu căn hộ, giảm giá thấp hơn so với chính vụ để khai thác thêm tập khách có thu nhập thấp. Nắm bắt được đặc điểm này sẽ giúp cho các nhà hoạch định chính sách marketing đưa ra các chương trình quảng cáo, khuyến mại nhằm thu hút tập khách hàng vào thời kì trái vụ. - Về quá trình sản xuất kinh doanh Các bộ phận kinh doanh có tính chất độc lập tương đối, chuyên môn hoá nhưng có mối quan hệ chặt chẽ giữa các bộ phận với nhau trong quá trình phục vụ nhằm cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất, nhanh chóng kịp thời thoả mãn với sự trông đợi của khách. - Về tính sẵn sàng đón tiếp Hoạt động kinh doanh khách sạn diễn ra liên tục 24/24h. Bởi khách hàng tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ của khách sạn vào bất cứ thời gian nào mà họ có thể. Thêm vào đó là tính thời vụ cho nên thời gian làm việc của nhân viên trong khách sạn phụ thuộc phần lớn vào thời gian khách đến khách sạn. Do vậy lao động trong khách sạn thường là lao động bán thời gian và làm theo ca. Mặt khác giữa các bộ phận trong khách sạn luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại giúp đỡ nhau trong quá trình phục vụ khách. Đảm bảo cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất, nhanh chóng, kịp thời thoả mãn sự trông đợi của khách. Mặt khác giúp cho các khách sạn trong việc phân công bố trí lao đông hợp lý. - Hoạt động kinh doanh khách sạn cần có số lượng lao động trực tiếp lớn Sản phẩm của khách sạn chủ yếu là dịch vụ, đây là loại lao động phi vật chất nên sự tham gia của con người mang tính quyết định. Chỉ có người lao động mới đáp ứng được các nhu cầu luôn luôn thay đổi và khác nhau của khách. Hơn nữa, trong khách sạn luôn luôn tập trung rất nhiều người được đào tạo với các lĩnh vực chuyên môn khác nhau như: lễ tân, buồng, bàn… Do vậy cần sử dụng nhiều lao động theo hướng chuyên môn hoá nhằm cung cấp chất lượng dịch vụ hoàn hảo nhất cho khách. Thời gian tiêu dùng của khách kéo dài 24/24 giờ mỗi ngày. Với đặc điểm này công tác quản lý nhân lực là khâu ảnh hưởng quan trọng trực tiếp tới chất lượng sản phẩm, sự hấp dẫn của khách sạn. Do lao động trong ngành khách sạn chủ yếu là lao động sống, máy móc không thể thay thế được nên khả năng ứng dụng khoa học kĩ thuật là rất hạn chế.. Bởi vậy nhân viên tiếp xúc trực tiếp với khách có vai trò quan trọng trong hệ thống cung cấp dịch vụ. Trong những trường hợp này thì máy móc có thể hỗ trợ được một phần chứ không thể thay thế được. Nên chi phí tiền lương cao, năng suất lao động thấp. Nắm bắt đặc điểm này, các khách sạn sẽ chú trọng hơn vào công tác nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động. - Kinh doanh khách sạn cần một lượng vốn lớn Vốn kinh doanh chủ yếu là vốn cố định, chiếm từ 70- 90%. Vốn kinh doanh chủ yếu dưới dạng hiện vật. Đặc điểm này xuất phát từ tính cao cấp của nhu cầu về du lịch và tính đồng bộ của nhu cầu du lịch. Cùng với những nhu cầu đặc trưng của du lịch như nghỉ ngơi, chữa bệnh, hội họp, giải trí… được đáp ứng chủ yếu bởi tài nguyên du lịch, khách du lịch hàng ngày còn cần thoả mãn các nhu cầu bình thường thiết yếu cho cuộc sống của mình. Ngoài ra trong thời gian đi du lịch khách du lịch còn tiêu dùng những dịch vụ bổ sung nhằm làm phong phú cho chuyến đi và gây hứng thú cho họ. Vì vậy để đáp ứng những nhu cầu cần phải xây dựng một hệ thống đồng bộ các công trình, cơ sở phục vụ, các trang thiết bị có chất lượng cao. Phải đầu tư khách sạn ngay từ đầu để khách sạn không lạc hậu theo thời gian, thoả mãn được nhu cầu của khách. Làm được điều đó thì khách sạn phải đầu tư một dung lượng vốn lớn. Ngoài lượng vốn trên, khách sạn còn cần một lượng vốn cho chi phí tiền đất, giải phóng mặt bằng, chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng, cấp thoát nước, bưu chính viễn thông, đường xá, khắc phục tính thời vụ (đối với các khách sạn có tính thời vụ), rồi vốn để duy trì hoạt động ban đầu cho tới khi thu được lãi… Vậy kinh doanh khách sạn đòi hỏi chi phí đầu tư cơ bản liên tục do đây là loại chi phí cho chất lượng. Ngành kinh doanh khách sạn phải làm cho “cái áo” luôn luôn hợp mốt trong mọi trường hợp. - Tài nguyên du lịch Tài nguyên du lịch là một trong những yếu tố cơ sở để tạo nên vùng du lịch. Vì khách du lịch với mục đích sử dụng “tài nguyên” du lịch mà nơi ở thường xuyên không có. Số lượng tài nguyên vốn có, chất lượng của chúng và mức độ kết hợp với tài nguyên trên lãnh thổ có ý nghĩa đặc biệt trong việc hình thành và phát triển du lịch của một vùng hay một quốc gia. Vì vậy, kinh doanh khách sạn muốn có khách để mà phục vụ từ đó thu được lợi nhuận thì bản thân khách sạn phải “gắn liền” với tài nguyên du lịch. Nói cách khác tài nguyên du lịch là điều kiện tiên quyết đầu tiên mà các nhà kinh doanh khách sạn cần chú ý đến. Ví dụ như quy mô của khách sạn tại một thời điểm phụ thuộc vào sức hấp dẫn của tài nguyên, thứ hạng khách sạn chịu sự tác động của giá trị tài nguyên, loại khách sạn phụ thuộc vào loại tài nguyên. Nhưng như vậy “gắn liền” không có ý nghĩa là ở đâu có tài nguyên thì ở đó mọc lên những khách sạn với những kiến trúc hiện đại, mà nó còn phụ thuộc vào đặc điểm của tài nguyên du lịch đó để thiết kế, xây dựng khách sạn cho phù hợp, nó không chỉ phù hợp với tài nguyên du lịch, mà còn phù hợp với nhu cầu của khách khi họ đến điểm du lịch đó. 1.1.3 Nội dung kinh doanh khách sạn Sản phẩm trong kinh doanh khách sạn bao gồm: - Hàng hóa vật chất - Sản phẩm dịch vụ * Hàng hóa vật chất bao gồm: - Đồ ăn, thức uống và những hàng hóa bán kèm với nó. Hàng hoá này có thể tự chế bởi nhân viên khách sạn hay sản phẩm thành phẩm của các ngành sản xuất vật chất khác. - Hàng lưu niệm: Đây là loại hàng rất quan trọng đối với khách du lịch, nó là chiếc cầu nối giữa điểm du lịch với khách du lịch. Nó là sản phẩm đặc trưng cho điểm du lịch đó, đặc trưng cho phong cảnh, văn hoá, truyền thống… của điểm du lịch. - Các hàng hoá khác: hàng tiêu dùng sinh hoạt, hàng có giá trị cao… Tất cả những hàng hoá là vật chất sau khi thực hiện bán cho khách đều có sự chuyển giao quyền sở hữu. * Đối với những sản phẩm dịch vụ nó không biểu hiện dưới dạng vật chất. Bao gồm: - Dịch vụ cơ bản: là sản phẩm thoả mãn nhu cầu chính của khách hàng và được coi là lí do chính khi khách hàng đến với khách sạn. Trong đó thì dịch vụ lưu trú, ăn uống là dịch vụ chủ yếu trong kinh doanh khách sạn. - Dịch vụ bổ xung là loại dịch vụ tuỳ theo nhu cầu của khách hàng mà khách sạn mở ra để nhằm đáp ứng nhu cầu ngày một phong phú của khách hàng. + Dịch vụ đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của khách như dịch vụ đưa đón khách, dịch vụ giặt là, vui chơi giải trí, tắm hơi, massage, thông tin liên lạc. + Dịch vụ nâng cao nhận thức: thông tin kinh tế, khoa học kĩ thuật. Khách sạn cung cấp hàng ngày cho khách hàng thông tin mới nhất về tình hình kinh tế, văn hoá, xã hội biến đổi trong ngày nếu có nhu cầu. Đáp ứng đầy đủ nhu cầu tìm hiểu về các lĩnh vực kinh doanh của khách hàng. + Dịch vụ nâng cao tiện nghi sinh hoạt: Bổ sung một số trang thiết bị theo yêu cầu của khách. + Dịch vụ đáp ứng nhu cầu cao: Đó là các dịch vụ nằm ngoài khách sạn như đặt vé xem phim, xem ca nhạc… CẠNH TRANH TRONG KINH DOANH KHÁCH SẠN 1.2.1 Khái niệm và vai trò của cạnh tranh trong kinh doanh khách sạn 1.2.1.1 Khái niệm cạnh tranh Ngày nay, trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới, sự mở rộng của nhiều ngành nghề khác nhau đã dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh giữa các quốc gia, giữa các ngành nghề. Mục đích là tìm cho doanh nghiệp một chỗ đứng trên thị trường, nơi mà họ có thể chống trọi lại với các lực lượng cạnh tranh một cách tốt nhất. Khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản, Mác đã có những nhận xét về cạnh tranh như sau: “ Cạnh tranh chủ nghĩa tư bản là sự ganh đua, sự đáu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành được những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Khái niệm này chỉ xem xét cạnh tranh ở một phạm vi hẹp, đó là xã hội tư bản chủ nghĩa, là chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Do vậy, cạnh tranh có nguồn gốc từ chế độ tư hữu. Khi đó cạnh tranh được coi là hiện tượng tiêu cực trong xã hội dẫn đến khủng hoảng kinh tế, nhiều doanh nghiệp phá sản, có nhiều người thất nghiệp. Khi xã hội phát triển, khái niệm cạnh tranh đã đ Luận văn liên quan Nghiên cứu hoạt động du lịch cộng đồng tại Hoa Lư - Ninh Bình 144 trang | Lượt xem: 3236 | Lượt tải: 36 Nghiên cứu ứng dụng quản lý - Phục vụ ẩm thực trong nhà hàng khách sạn TP Hồ Chí Minh 87 trang | Lượt xem: 2089 | Lượt tải: 11 Đề tài Thực trạng kinh doanh ở khách sạn Công đoàn Việt Nam 45 trang | Lượt xem: 1581 | Lượt tải: 10 Phân tích tình hình hoạt động kinh doanh, quy trình khai thác và tổ chức phục vụ khách du lịch trong hoạt động kinh doanh lữ hành tại công ty cổ phần 56 trang | Lượt xem: 3835 | Lượt tải: 28 Quy trình phục vụ bàn tại nhà hàng Tiên Sa 14 trang | Lượt xem: 16837 | Lượt tải: 113 Đánh giá thực trạng khai thác, sử dụng và đề xuất giải pháp bảo tồn, phát triển các loài cây lâm sản ngoài gỗ có giá trị, tại khu dự trữ sinh quyển Cù 65 trang | Lượt xem: 5132 | Lượt tải: 27 Những thách thức và cơ hội mới cho du lịch Việt Nam sau tiến trình gia nhập WTO 14 trang | Lượt xem: 2076 | Lượt tải: 0 Đề tài Du lịch sinh thái và thực tế phát triển ở Việt Nam 41 trang | Lượt xem: 1772 | Lượt tải: 11 Những thuận lợi và thách thức đối với du lịch Cồn Phụng - Bến Tre 36 trang | Lượt xem: 2749 | Lượt tải: 13 Văn hóa doanh nghiệp trong kinh doanh khách sạn, nhà hàng 27 trang | Lượt xem: 7845 | Lượt tải: 49 Copyright © 2020 LuanVan.net.vn Website đang trong thời gian thử nghiệm, chờ xin giấy phép của Bộ TT & TT. Thư viện tài liệu và ebook cho sinh viên. Thư viện tài liệu Các bài Soạn văn hay nhất. Chia sẻ:
1614178347293.1.parquet/168645
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 20235, "url": "http://luanvan.net.vn/luan-van/de-tai-giai-phap-nham-nang-cao-suc-canh-tranh-cua-khach-san-bao-son-1173/" }
110.2
Kỹ thuật hàng không vũ trụ – Wikipedia tiếng Việt Mở trình đơn chính Trang chính Ngẫu nhiên Lân cận Đăng nhập Tùy chọn Quyên góp Giới thiệu Wikipedia Lời phủ nhận Tìm kiếm Kỹ thuật hàng không vũ trụ lĩnh vực kỹ thuật chính liên quan đến sự phát triển của máy bay và tàu vũ trụ Ngôn ngữ Theo dõi Sửa đổi Kỹ thuật hàng không-vũ trụ là một trong những ngành kỹ thuật cơ bản liên quan đến thiết kế, kết cấu và khoa học về khí cụ bay và tàu vũ trụ. Nó được chia thành hai nhánh lớn là kỹ thuật hàng không và kỹ thuật vũ trụ.[1] Một động cơ phản lực đang được kiểm tra tại Robins Air Force Base, Georgia, USA. Đường hầm phía sau động cơ làm giảm tiếng ồn và sự phụt ra của sản phẩm cháy. Máy tính mô phỏng chuyến bay của tàu con thoi Kỹ thuật hàng không-vũ trụ có thể được hiểu bao gồm những lĩnh vực cấu thành sau: Cơ học chất lưu, Động lực học bay, Cơ học kết cấu máy, Toán học, Kỹ thuật điện, Động cơ phản lực, Kỹ thuật điều khiển, Kiểm soát không lưu, Vật liệu kết cấu, Cơ học vật rắn, Điện hàng không, Độ tin cậy bay, Phần mềm, Điều khiển nhiễu, Kiểm định bay, Công nghệ chế tạo thiết bị bay (máy bay, tên lửa, tàu vũ trụ). Kỹ thuật hàng không-vũ trụ có thể được học ở nhiều cấp học từ Kỹ sư, Thạc sĩ, Tiến sĩ và Sau tiến sĩ ở nhiều nước công nghiệp hàng không vũ trụ phát triển trên thế giới như Mỹ, Nga, Pháp, Anh, Trung Quốc, Nhật. Kỹ sư hàng không-vũ trụ có thể được hiểu là một kỹ sư trên các lĩnh vực cơ bản sau: Kỹ sư máy bay (dân dụng và quân sự), Kỹ sư tên lửa và Kỹ sư nghiên cứu về các thiết bị vũ trụ (vệ tinh, tàu vũ trụ). Mục lục 1 Các cơ sở đào tạo, nghiên cứu Hàng không-vũ trụ 1.1 Việt Nam 2 Tham khảo 3 Liên kết ngoài Các cơ sở đào tạo, nghiên cứu Hàng không-vũ trụSửa đổi Việt NamSửa đổi Ở Việt Nam, kỹ thuật hàng không-vũ trụ còn là một lĩnh vực mới. Một số cơ sở chính của nhà nước về việc nghiên cứu và đào tạo kỹ thuật hàng không-vũ trụ bao gồm: Viện Công nghệ Vũ trụ Việt Nam (STI), Khoa Hàng không-vũ trụ - Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn (LeTech), Bộ môn Công nghệ Hàng không-vũ trụ - Đại học Công nghệ - ĐHQGHN, Khoa Vũ trụ và Hàng không - Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội (USTH) Bộ môn Kỹ thuật Hàng không và Vũ trụ - Đại học Bách khoa Hà Nội (HUST), Bộ môn Kỹ thuật Hàng không - Đại học Bách khoa TpHCM (HCMUT), Viện Hàng không-Vũ trụ Viettel (VTX) Trung tâm vệ tinh quốc gia (VNSC) Hội hàng không-vũ trụ Việt Nam (VASA) Học viện Hàng không Vietjet Học viện Hàng không Việt Nam Học viện Phòng không - Không quân Trường Sĩ quan không quân Tham khảoSửa đổi ^ Encyclopedia of Aerospace Engineering. Wiley & Sons. October 2010. ISBN 978-0-470-75440-5. Liên kết ngoàiSửa đổi Cơ quan quản lý Cơ quan quản lý hàng không vũ trụ quốc gia Hoa Kỳ (NASA) Cơ quan vũ trụ Châu Âu (ESA) Cơ quan vũ trụ Liên bang Nga (FKA) Cơ quan vũ trụ quốc gia Pháp (CNES) Cơ quan hàng không vũ trụ Đức (DLR) Khác Tập đoàn Hàng không Vũ trụ và Quốc phòng châu Âu (EADS) Viện công nghệ vũ trụ Việt Nam Hội hàng không vũ trụ Việt Nam (VASA) Bộ môn Kỹ thuật Hàng không và Vũ trụ - Đại học Bách khoa Hà Nội Khoa Hàng không vũ trụ- Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn Trung tâm vệ tinh quốc gia Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Kỹ_thuật_hàng_không_vũ_trụ&oldid=54613900” Sửa đổi lần cuối lúc 03:35 vào ngày 23 tháng 7 năm 2019 Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 3.0, ngoại trừ khi có ghi chú khác. Trang này được sửa đổi lần cuối vào ngày 23 tháng 7 năm 2019 lúc 03:35. Văn bản được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự; có thể áp dụng điều khoản bổ sung. Với việc sử dụng trang web này, bạn chấp nhận Điều khoản Sử dụng và Quy định quyền riêng tư. Wikipedia® là thương hiệu đã đăng ký của Wikimedia Foundation, Inc., một tổ chức phi lợi nhuận. Quy định quyền riêng tư Giới thiệu Wikipedia Lời phủ nhận Điều khoản sử dụng Máy tính để bàn Nhà phát triển Thống kê Tuyên bố về cookie
1614178347293.1.parquet/148035
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 3255, "url": "https://vi.m.wikipedia.org/wiki/K%E1%BB%B9_thu%E1%BA%ADt_h%C3%A0ng_kh%C3%B4ng_v%C5%A9_tr%E1%BB%A5" }
108.9
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng – Sự kiện chính trị trọng đại của toàn Đảng, toàn dân Thời sự Xây dựng Đảng Tin trong nước Tin quốc tế Lao động Việc làm Tiền lương Dạy nghề An toàn lao động Xã hội Gương sáng thầm lặng vì cộng đồng Nghề CTXH Người có công An sinh xã hội Trẻ em Phòng, chống TNXH Bình đẳng giới Nghiên cứu - trao đổi Giáo dục - Nghề nghiệp Kinh tế Doanh nghiệp Thị trường - Tiêu dùng Tài chính - Bất động sản Pháp luật Văn bản pháp luật Giải đáp pháp luật Văn hóa - Thể thao Văn hóa Giải trí Thể thao Du lịch Sức khỏe - Đời sống English Review Video Thời sự Xây dựng Đảng Tin trong nước Tin quốc tế Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng – Sự kiện chính trị trọng đại của toàn Đảng, toàn dân 11:22 AM 26/01/2021 (LĐXH) Sáng ngày 26/01/2021, tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Hà Nội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã khai mạc trọng thể, bắt đầu chương trình làm việc chính thức. Dự khai mạc có Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng, Chủ tịch Ủy ban trung ương MTTQ Việt Nam Trần Thanh Mẫn và gần 1.600 đại biểu. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân thay mặt Bộ Chính trị điều hành phiên khai mạc. Trách nhiệm lịch sử to lớn đối với Tổ quốc Phát biểu khai mạc Đại hội, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh: Đại hội được tổ chức vào thời điểm toàn Đảng, toàn dân và toàn quân thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, mục tiêu và nhiệm vụ đã được xác định trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, đạt được nhiều thành quả rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật, góp phần tô đậm những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 35 năm đổi mới; 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991; 10 năm thực hiện Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng - Trách nhiệm lịch sử to lớn đối với Tổ quốc Theo Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Đại hội XIII sẽ thẳng thắn nhìn nhận những mặt còn hạn chế, những vấn đề cần khắc phục, vượt qua cho giai đoạn 5 năm tiếp theo, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng vào năm 2045. Trong bối cảnh đó, Đại hội lần thứ XIII của Đảng có trách nhiệm lịch sử to lớn đối với Tổ quốc, đồng bào và dân tộc ta, không chỉ trong giai đoạn 5 năm 2021-2025 mà cho cả những thập niên tới, cho những thế hệ tương lai của đất nước. Với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, đổi mới, hội nhập và phát triển, Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng gắn với việc đánh giá 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới; 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991; 10 năm thực hiện Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020. Đồng thời, đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, xác định mục tiêu, phương hướng đến năm 2030 và tầm nhìn phát triển đất nước đến năm 2045. Đại hội cũng kiểm điểm sâu sắc, toàn diện công tác xây dựng Đảng và sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII. Xác định phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ mới. Đánh giá việc thi hành Điều lệ Đảng. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đọc diễn văn khai mạc Đại hội "Với định hướng đúng đắn, khát vọng phát triển mạnh mẽ và quyết tâm chính trị cao, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nhất định sẽ lập nên thành tựu phát triển mới vì một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, cùng tiến bước, sánh vai với các cường quốc năm châu, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc ta" - Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh:. Đại hội cũng sẽ bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII gồm những người thực sự tiêu biểu về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, năng lực lãnh đạo, bản lĩnh và trí tuệ đủ sức đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện những nhiệm vụ to lớn, nặng nề nhưng cũng rất vẻ vang được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó trong những năm tới. Sự kiện chính trị trọng đại của toàn Đảng, toàn dân Tiếp đó, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng thay mặt Ban chấp hành Trung ương khóa XII đọc báo cáo về văn kiện Đại hội XIII. Theo Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là sự kiện chính trị trọng đại của toàn Đảng, toàn dân. Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là sự kiện chính trị trọng đại của toàn Đảng, toàn dân, có ý nghĩa quyết định với sự phát triển, hội nhập của đất nước. Nhân dân tin tưởng, kỳ vọng vào những quyết sách đúng đắn của Đại hội. Về quá trình chuẩn bị các văn kiện Đại hội, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng cho biết, nhận thức ý nghĩa, tầm quan trọng, Bộ Chính trị đã có kế hoạch rất sớm, từ hội nghị lần 8 năm 2018 đã quyết định thành lập các tiểu ban văn kiện, nhân sự. Ban Bí thư cũng thành lập ban biên tập và các tổ giúp việc. Trong hơn 2 năm qua, các tiểu ban phối hợp chặt chẽ các cơ quan nghiên cứu từ trung ương, đến địa phương, tổ chức 60 hội thảo và lập 50 đoàn đi nắm tình hình thực tế, gặp gỡ lấy ý kiến các vị lão thành, các chuyên gia, đi nước ngoài để học tập mô hình, kinh nghiệm. Các báo cáo được nghiên cứu, chắt lọc, tiếp thu các ý kiến xác đáng để đưa vào văn kiện. Các tiểu ban thường xuyên phối hợp để đảm bảo sự thống nhất các văn kiện. "Bộ Chính trị họp nhiều lần cho ý kiến để có đề cương trình Ban chấp hành trung ương tại 4 hội nghị, vì thế có những văn kiện sửa đi sửa lại hơn 30 lần trước khi công bố công khai toàn văn các dự thảo văn kiện để lắng nghe ý kiến đóng góp của nhân dân. Hàng triệu ý kiến đã gửi về trung ương… Có thể khẳng định việc chuẩn bị văn kiện rất công phu, chu đáo, bài bản qua nhiều vòng, nhiều lần, có đổi mới về tư duy, phương pháp, áp dụng cả lý luận và thực tiễn, giữa kế thừa và phát triển trên cơ sở phát huy dân chủ rộng rãi. Đại hội xin chân thành cảm ơn sự đóng góp quý báu, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao với Đảng, với nhân dân, với đất nước của các tầng lớp nhân dân" - Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định. Nhiệm kỳ XII có những dấu ấn đặc biệt Theo Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được đặc biệt coi trọng. Nhiều vấn đề đặt ra từ những năm trước và nhiệm kỳ này có kết quả tích cực, cụ thể, rõ rệt. Nhiều vụ án tham nhũng lớn được phát hiện, xử lý nghiêm minh, có tính răn đe nên được nhân dân tin tưởng, đánh giá cao. Tình hình tham nhũng, tha hóa từng bước được kiềm chế, ngăn chặn. Trước tình hình, diễn biến trên thế giới có những phức tạp nhưng ta không để bị động, bất ngờ. An ninh được giữ vững, đối ngoại được mở rộng. Kiên quyết kiên trì bảo vệ lãnh thổ, quốc gia, dân tộc, giữ vững ổn định, hòa bình. Được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, thế và lực của nước ta được nâng cao trên trường quốc tế. Năm 2020, đại dịch, thiên tai gây nhiều thiệt hại nhưng với nỗ lực vượt bậc, nước ta vẫn có những phát triển vượt bậc, tăng trưởng vẫn dương, là một trong những nền kinh tế có mức tăng trưởng cao nhất thế giới. Có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự ủng hộ của toàn dân trong và ngoài nước, chúng ta đã kiểm soát, ngăn chặn được dịch COVID-19, hạn chế tối đa sự ảnh hưởng, từng bước khôi phục sản xuất, kinh doanh. Việt Nam được thế giới ghi nhận, coi là điểm sáng về đạt mục tiêu kép, vừa khống chế dịch bệnh, đảm bảo an toàn cho người dân, vừa phát triển kinh tế. "Có thể khẳng định, những kết quả đạt được trong nhiệm kỳ Đại hội XII có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không chỉ tạo được dấu ấn nổi bật, mà còn góp phần củng cố niềm tin, tạo ra động lực mới, khí thế mới để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vững vàng vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng thời cơ, thuận lợi, đưa đất nước bước vào một thời kỳ phát triển mới. Đạt được những kết quả nêu trên có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là ý chí, quyết tâm cao, sự nỗ lực phấn đấu, đoàn kết, chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị và toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, thống nhất cao của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp uỷ đảng trong việc cụ thể hoá, triển khai thực hiện toàn diện Nghị quyết Đại hội XII, giải quyết kịp thời, có hiệu quả nhiều vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn, nhất là trong những lĩnh vực quan trọng, then chốt; sự quản lý, điều hành nhạy bén, quyết liệt, có hiệu quả của Chính phủ và các cấp chính quyền; sự đổi mới phù hợp, đúng đắn về nội dung và phương thức hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, các tổ chức trong hệ thống chính trị; sự nỗ lực phấn đấu của đội ngũ cán bộ, đảng viên; tinh thần lao động tích cực, cần cù, sáng tạo, trách nhiệm của nhân dân; sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Thưa các đồng chí, Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam" - Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nói. Các đại biểu tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Năm bài học kinh nghiệm quý báu Theo Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, chúng ta rút ra 5 bài học kinh nghiệm quý báu sau: Một là, xây dựng, chỉnh đốn Đảng cần thường xuyên, quyết liệt, hiệu quả. Kiên định vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. Thường xuyên tăng cường củng cố đoàn kết trong Đảng. Xây dựng nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, kiểm soát quyền lực, đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãnh phí, công tác cán bộ phải thực sự là then chốt của then chốt. Phát huy tinh thần gương mẫu của Đảng viên, vị trí càng cao thì gương mẫu càng cao. Hai là, quán triệt quan điểm dân là gốc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Kiên quyết thực hiện dân biết, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng. Lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Ba là, trong lãnh đạo, chỉ đạo phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn, phát huy mọi nguồn lực và tính ưu việt của CNXH, phát huy sức mạnh đồng bộ của cả hệ thống chính trị. Bốn là, tập trung ưu tiên xây dựng thể chế, đảm bảo giữa đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị, văn hóa; giữa tăng trưởng kinh tế và văn hóa phát triển con người; giữa phát triển kinh tế xã hội với quốc phòng an ninh; giữa độc lập tự chủ và hội nhập… Năm là, chủ động nghiên cứu, nắm bắt tình hình, tuyệt đối không để bị động, bất ngờ. Kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ. Chủ động hội nhập trên cơ sở tự chủ, độc lập. " Những bài học kinh nghiệm đó là cơ sở quan trọng để Đảng ta tiếp tục vận dụng, phát huy và phát triển sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo, giúp chúng ta kiên định, vững vàng và tự tin vượt qua những khó khăn, thách thức mới và nhiệm vụ nặng nề hơn khi bước vào nhiệm kỳ khoá XIII", Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nói. Mục tiêu và phương hướng thời gian tới Theo Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, trong nhiệm kỳ 2021 - 2025 và những năm tiếp theo, mục tiêu phát triển tổng quát của chúng ta là: Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên nguyên tắc bảo đảm tính khoa học và thực tiễn; kế thừa và bổ sung phù hợp với những thay đổi trong từng giai đoạn phát triển của đất nước; đồng thời nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của các nước và những chuẩn mực phát triển chung của thế giới, chúng ta xác định các mục tiêu cụ thể không chỉ trong nhiệm kỳ khoá XIII mà hướng tới những dấu mốc phát triển quan trọng của đất nước ta trong những thập niên sắp tới: - Đến năm 2025: Là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. - Đến năm 2030: Là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. - Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Để thực hiện các mục tiêu đã nêu, trên cơ sở bám sát thực tiễn, xu hướng phát triển của đất nước và thế giới, Báo cáo chính trị đề ra và các báo cáo chuyên đề đã cụ thể hoá 12 định hướng chiến lược phát triển đất nước trong thời kỳ 2021 - 2030. Các định hướng lớn bao quát những vấn đề phát triển quan trọng của đất nước trong giai đoạn 10 năm tới, trong đó có nhiều vấn đề mới, nổi bật, đó là: + Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững đất nước; hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chú trọng đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển nền kinh tế số, xã hội số. + Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. + Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu và giảm nhẹ thiên tai, phòng, chống dịch bệnh, bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân; quản lý, khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên, chú trọng bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển bền vững. + Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả. + Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tiêu cực. Tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: Để thực hiện được các định hướng nêu trên, chúng ta cần tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các quan hệ lớn: Giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; và đặc biệt, mối quan hệ mới được bổ sung lần này là mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Đó là những mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới của Đảng ta, cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện và phát triển phù hợp với thay đổi của thực tiễn; đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng và đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện thật tốt, có hiệu quả. Tuyệt đối không được cực đoan, phiến diện. Nhiệm kỳ Đại hội XIII là một dấu mốc, một bước chuyển hết sức quan trọng, làm tiền đề cho các nhiệm kỳ tiếp theo để thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Phát huy ý chí, sức mạnh của toàn dân tộc, sự thống nhất của "ý Đảng, lòng Dân", chúng ta quyết tâm thực hiện thật tốt hệ thống các nhiệm vụ, giải pháp mà các văn kiện trình Đại hội XIII đã đề ra để đưa đất nước ta bước vào một giai đoạn phát triển mới với những trọng tâm sau đây: (1) Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh Kết hợp hài hoà, chặt chẽ và có hiệu quả giữa xây dựng với chỉnh đốn Đảng; giữa xây dựng Đảng với bảo vệ Đảng. Không ngừng nâng cao năng lực và đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện mới. Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị. Hết sức coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng. Kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Tăng cường giáo dục truyền thống văn hoá, lịch sử và cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc; không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên; thường xuyên đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức, tích cực đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ gắn với đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; phát huy thật tốt trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu. Đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đi đôi với việc củng cố, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên. Đặc biệt coi trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ - nội dung then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu các cấp đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Có chính sách khuyến khích và cơ chế phù hợp bảo vệ những cán bộ, đảng viên có ý chí chiến đấu cao, gương mẫu thực hiện nguyên tắc của Đảng và pháp luật của Nhà nước, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung. Nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước về thể chế hoá, cụ thể hoá và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng. Giữ vững kỷ luật, kỷ cương đồng thời khắc phục bằng được sự yếu kém, chậm trễ trong công tác lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện chủ trương, luật pháp, chính sách, thực thi công vụ. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát và kiểm soát chặt chẽ quyền lực; nâng cao chất lượng hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Tiếp tục thực hiện chiến lược cải cách tư pháp; nâng cao uy tín và hiệu quả của hoạt động tư pháp. Đổi mới tổ chức, bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội theo phương châm hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư, thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân, làm cầu nối quan trọng giữa Đảng và nhân dân. Củng cố, tăng cường lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. (2) Đổi mới mạnh mẽ và có hiệu quả mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao. Xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, hiện đại, hội nhập Xây dựng nền công nghiệp quốc gia hiện đại, vững mạnh, gồm những ngành công nghiệp nền tảng và công nghiệp mũi nhọn gắn với công nghệ thông minh. Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam tham gia phát triển những ngành công nghiệp mới, hiện đại. Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới, hướng tới mô hình nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh. Phát triển nông nghiệp hàng hoá tập trung, quy mô lớn theo hướng hiện đại, ứng dụng công nghệ mới, giá trị gia tăng cao. Thực hiện tốt Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển, kết hợp chặt chẽ với bảo vệ chủ quyền biển, đảo, tài nguyên, môi trường biển. Phát triển và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ, ưu tiên những ngành có tiềm năng, lợi thế, những loại hình dịch vụ mới mang lại hiệu quả cao; chú trọng các dịch vụ hỗ trợ sự phát triển của công nghiệp và nông nghiệp. Tiếp tục đẩy nhanh và thực hiện có hiệu quả cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý an toàn nợ công; cơ cấu lại đầu tư công, các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp nhà nước; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp để sớm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành kinh tế vĩ mô và năng lực phục vụ, hỗ trợ phát triển của Nhà nước. Giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Khắc phục những điểm nghẽn cản trở sự phát triển của đất nước, nhất là về thể chế, chính sách. Phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết chặt chẽ, hiệu quả giữa các khu vực, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh doanh. Đẩy nhanh việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển quốc gia, các vùng, các ngành, lĩnh vực phù hợp với tiềm năng, lợi thế của từng địa phương và thực tiễn đất nước nhằm nâng cao tính tự chủ, khả năng thích ứng, sức chống chịu của nền kinh tế. Tăng cường tính liên kết ngành, liên kết nội vùng và liên vùng, thúc đẩy tham gia vào các mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, mở ra các không gian phát triển mới. Tiếp tục phát huy vai trò của các doanh nghiệp nhà nước trong việc hình thành và mở rộng các chuỗi sản xuất, cung ứng và chuỗi giá trị, nhất là trong những ngành, lĩnh vực then chốt Nhà nước cần nắm giữ. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, lớn mạnh về quy mô, nâng cao về chất lượng. Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác mà trọng tâm là hợp tác xã, hỗ trợ phát triển kinh tế hộ, liên kết hộ. Chuyển trọng điểm chính sách thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài từ số lượng sang chất lượng; ưu tiên các dự án có công nghệ hiện đại, công nghệ và giá trị gia tăng cao, mô hình quản trị hiện đại, có tác động lan toả, kết nối với khu vực kinh tế trong nước. Huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, để khoa học và công nghệ thực sự là động lực chính của tăng trưởng kinh tế. Thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số để tạo bứt phá về nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. (3) Khơi dậy tinh thần và ý chí, quyết tâm phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; dân tộc cường thịnh, trường tồn; phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Tập trung khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự cường, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội và khát vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc. Xây dựng các cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của mọi người dân Việt Nam. Phát huy tối đa nhân tố con người; con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hoà giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại. Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hoá, môi trường văn hoá, đời sống văn hoá phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh; vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại để văn hoá thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân. Tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững. Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại. Bảo đảm cung cấp và nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là đối với người nghèo, người yếu thế trong xã hội, quan tâm chăm sóc bảo vệ sức khoẻ của nhân dân. Nâng cao chất lượng dân số; tận dụng hiệu quả cơ hội thuận lợi từ cơ cấu dân số vàng; chủ động thích ứng với xu thế già hoá dân số. Tạo môi trường và điều kiện để phát triển thị trường lao động, đồng bộ, hiện đại, linh hoạt, thống nhất, hội nhập và hiệu quả. (4) Giữ vững độc lập, tự chủ; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh. Tiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh; đến năm 2030, xây dựng một số quân chủng, binh chủng, lực lượng hiện đại; phấn đấu từ năm 2030, xây dựng quân đội hiện đại. Phấn đấu đến năm 2030 xây dựng lực lượng Công an nhân dân tinh nhuệ, hiện đại. Xây dựng "thế trận lòng dân", thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc làm nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp, luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có sức chiến đấu cao. Kịp thời phát hiện, chủ động xử lý có hiệu quả các vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự, không để xảy ra các "điểm nóng". Kịp thời đấu tranh trấn áp hiệu quả các loại tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm sử dụng công nghệ cao, băng nhóm ma tuý… Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả công tác đối ngoại của Đảng với ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Nâng cao năng lực hội nhập, nhất là cấp vùng và địa phương, doanh nghiệp; tận dụng tối đa các cơ hội từ quá trình hội nhập mang lại, nhất là các hiệp định thương mại tự do đã ký kết. Xây dựng nền ngoại giao hiện đại, trong đó chú trọng đẩy mạnh ngoại giao quốc phòng, an ninh để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Tăng cường ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ. Mở rộng và nâng cao hiệu quả ngoại giao văn hoá, đóng góp thiết thực vào quảng bá hình ảnh, thương hiệu quốc gia và tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước. (5) Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội Giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích giữa các giai tầng trong xã hội. Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo; có những chính sách đặc thù giải quyết khó khăn cho đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cản trở sự phát triển của đất nước. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước. Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức; có cơ chế giải phóng mọi tiềm năng, sức mạnh, khả năng sáng tạo, động viên nhân dân tham gia phát triển kinh tế và quản lý phát triển xã hội. Bảo đảm công khai, minh bạch thông tin, quyền được thông tin và cơ hội tiếp cận thông tin của mọi tầng lớp nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhất là dân chủ ở cơ sở. Chống các biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Đẩy mạnh việc hoàn thiện, xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, hiện đại, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, có sức cạnh tranh quốc tế, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững kinh tế, xã hội và quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới. (6) Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; tăng cường bảo vệ, cải thiện môi trường; chủ động, tích cực triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu Xây dựng chiến lược, hoàn thiện hệ thống thể chế quản lý, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, trọng tâm là đất, nước và khoáng sản. Xây dựng hệ thống luật pháp, chính sách và cơ chế giám sát tài nguyên, môi trường và biến đổi khí hậu, dự báo, cảnh báo thiên tai, ô nhiễm và thảm hoạ môi trường, dịch bệnh. Ngăn chặn và xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật về tài nguyên và môi trường. Chủ động, tích cực hợp tác quốc tế trong việc chia sẻ thông tin, phối hợp nghiên cứu, quản lý, khai thác và sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên, bảo đảm an ninh sinh thái, an ninh môi trường, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh năng lượng. Giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường. Phát triển kinh tế xanh, ít chất thải, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, các-bon thấp; khuyến khích phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn để sử dụng tổng hợp và hiệu quả đầu ra của quá trình sản xuất. Nâng cao tính chống chịu và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu của hệ thống kết cấu hạ tầng và của nền kinh tế; thực hiện các giải pháp thông minh để thích ứng với biến đổi khí hậu trong nông, lâm, ngư nghiệp và các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Nhóm PV Từ khóa: Đại hôi Đảng XIII tổng bí thư Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc BCH Trung ương bao Bình luận Tin cùng chuyên mục Hơn 5.500 tỷ đồng chăm lo Tết cho đối tượng chính sách, người lao động 24-02-2021 14:14 59 Dành gần 5.558 tỷ đồng chăm lo Tết cho các đối tượng chính sách, người lao động 18-02-2021 11:22 23 Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng chúc Tết Tân Sửu – 2021 12-02-2021 08:33 23 Tổng Bí thư, Chủ tịch nước dâng hương tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh Lãnh đạo Đảng, Nhà nước tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh và các Anh hùng liệt sĩ Hành trình đưa cột cờ lên đỉnh núi Chứa Chan THƯ CHÚC MỪNG NĂM MỚI CỦA BỘ TRƯỞNG ĐÀO NGỌC DUNG Sở Lao động - Thương binh và Xã hội TP.HCM chuyển trụ sở làm việc về Quận 3 Học sinh, sinh viên TP.HCM nghỉ ở nhà, học trực tuyến từ 2/2/2021 Tin tiếp theo Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng thành công tốt đẹp 01-02-2021 11:34 32 Công bố 200 đồng chí trúng cử Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII 31-01-2021 07:59 25 TP.HCM: Tăng cường thực hiện các biện pháp phòng chống dịch Covid-19 30-01-2021 07:46 03 Bộ Lao động – TBXH yêu cầu các đơn vị tuân thủ các biện pháp phòng, chống dịch COVID-19 Thông cáo báo chí về ngày làm việc thứ ba của Đại hội XIII Bộ trưởng Đào Ngọc Dung: Đảm bảo tất cả các đối tượng đều có quà và nhận được quà trước Tết Quản lý phát triển xã hội bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh về nhân lực, bảo đảm tiến bộ, công bằng, an sinh xã hội Thông cáo báo chí ngày làm việc thứ hai Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Trung tâm Thông tin: Phản ánh kịp thời, hiệu quả các hoạt động của Bộ, ngành English Review Looking back 10 years of implementing the sustainable poverty reduction goal English Review | 22-02-2021 09:46 23 Vietnam to raise rate of trained workers to 40 percent by 2030 Vietnam achieves poverty reduction goals Minister Dao Ngoc Dung received the General Director of Samsung Vietnam Video Tạo việc làm cho lao động từ nghề cói truyền thống Mang Tết đến xóm lao động nghèo Xin chữ đầu năm, ước vọng tri thức cho thế hệ tương lai Chăm lo Tết cho người có công, người nghèo vùng biên giới Đảm bảo quyền lợi cho người lao động dịp cận Tết Thời sự Lao động Xã hội Nghiên cứu - trao đổi Giáo dục - Nghề nghiệp Kinh tế Pháp luật Văn hóa - Thể thao Sức khỏe - Đời sống English Review Video © TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ LAO ĐỘNG VÀ XÃ HỘI - CƠ QUAN CỦA BỘ LAO ĐỘNG THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI Giấy phép số: 36/GP-BTTTT, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 10/01/2011 Tổng Biên tập: TS. Trần Ngọc Diễn Trụ sở: Tầng 8, lô D25, số 3, ngõ 7, phố Tôn Thất Thuyết, P. Dịch Vọng Hậu, Q. Cầu Giấy, Hà Nội Điện thoại: 04.37344073; Fax: 04.37344070; Email: tapchildxh@gmail.com Bản quyền thuộc Tạp chí Lao động và Xã hội, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Ghi rõ nguồn “Tạp chí điện tử Lao động và Xã hội” khi phát hành lại thông tin từ Website này.
1614178347293.1.parquet/149746
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 32045, "url": "http://laodongxahoi.net/dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-cua-dang-su-kien-chinh-tri-trong-dai-cua-toan-dang-toan-dan-1318020.html" }
108.8
Chính sách về quyền riêng tư | POPS CHÍNH SÁCH VỀ QUYỀN RIÊNG TƯ Giải thích từ ngữ: Thông tin: là các thông tin cá nhân của người sử dụng dịch vụ được ghi nhận trên Ứng dụng POPS. Khách hàng: là người sử dụng dịch vụ trên Ứng dụng POPS. Chính sách: là chính sách về quyền riêng tư này, có thể được cập nhật tùy từng thời điểm. Chính sách về quyền riêng tư của Ứng dụng: Chính sách về quyền riêng tư này ("Chính sách") áp dụng cho việc xử lý thông tin nhận dạng cá nhân do bạn gửi hoặc lấy từ bạn liên quan đến Ứng dụng POPS ("Ứng dụng"). Ứng dụng được cung cấp bởi POPS và có thể được cung cấp bởi một cá nhân/tổ chức khác, thay mặt cho POPS ("Đối tác Ứng dụng"). Bằng cách sử dụng hoặc truy cập vào Ứng dụng, bạn xác nhận rằng bạn chấp nhận các thông lệ và chính sách được nêu trong Chính sách về Quyền riêng tư này. Thông tin: Chính sách này áp dụng cho dữ liệu cá nhân được POPS ghi nhận liên quan đến dịch vụ trên Ứng dụng do POPS cung cấp. Ghi nhận thông tin: Chúng tôi thu thập dữ liệu cá nhân mà Khách hàng cung cấp cho chúng tôi. Chúng tôi có thể nhận và lưu trữ bất kỳ thông tin nào Khách hàng gửi đến Ứng dụng (hoặc cho phép chúng tôi lấy - chẳng hạn như từ (ví dụ) tài khoản Facebook của bạn). Các loại thông tin cá nhân được thu thập có thể bao gồm tên đầy đủ, địa chỉ email, giới tính, số điện thoại, địa chỉ IP, vị trí địa lý, thông tin trình duyệt, tên người dùng, thông tin nhân khẩu học và bất kỳ thông tin nào khác cần thiết mà Khách hàng đồng ý cung cấp cho chúng tôi để chúng tôi cung cấp các dịch vụ Ứng dụng. Dữ liệu này được ghi nhận từ các nguồn: (a) Khách hàng cung cấp trực tiếp cho POPS: Chúng tôi có thể trực tiếp ghi nhận thông tin về Khách hàng nếu Khách hàng cung cấp thông tin, chẳng hạn như khi Khách hàng đăng ký mua các nội dung có tính phí, đăng ký để nhận thông tin. (b) Tự động ghi nhận khi Khách hàng sử dụng dịch vụ trên Ứng dụng POPS: ví dụ cookies và các công cụ khác. (c) Nguồn khác: nếu Khách hàng cho phép chia sẻ thông tin đó trên cơ sở dữ liệu công, và các tổ chức tổng hợp dữ liệu, và thông tin từ các bên thứ ba, hoặc khi tải xuống hay sử dụng các Ứng dụng POPS trên thiết bị di động, thông tin về địa điểm, thông tin từ mạng xã hội Bên thứ ba nếu Khách hàng lựa chọn mạng xã hội để kết nối với Ứng dụng POPS. Sử dụng thông tin: POPS sử dụng thông tin được mô tả trong Chính sách về Quyền riêng tư này (i) trong nội bộ, để phục vụ cho các mục đích sau đây: (a) Để xử lý việc cung cấp dịch vụ, để cung cấp cho Khách hàng các sản phẩm hay dịch vụ Khách hàng yêu cầu từ POPS, xử lý phần thanh toán. (b) Để cải tiến và nâng cao trải nghiệm của Khách hàng trên Ứng dụng POPS. (c) Đánh giá việc sử dụng sản phẩm và dịch vụ trên Ứng dụng POPS. (d) Trao cho Khách hàng cơ hội tham gia vào các cuộc thi hay chương trình khuyến mãi. (e) Phân tích tính hiệu quả của các nội dung. (f) Đề xuất, giới thiệu về các bộ phim, chương trình truyền hình, quảng cáo mà POPS cho rằng Khách hàng có thể quan tâm. (g) Cá nhân hóa trải nghiệm trang trên Ứng dụng POPS, đồng thời đánh giá số liệu thống kê về hoạt động của POPS, chẳng hạn như thời gian Khách hàng ghé thăm, trang web nào giới thiệu Khách hàng đăng nhập vào đó… Để bảo vệ thông tin không bị phá hoại một cách vô tình hay cố ý, khi chúng tôi xóa thông tin khỏi dịch vụ của POPS, chúng tôi có thể không xóa ngay các bản sao còn lại từ máy chủ hay xóa bỏ thông tin từ hệ thống sao lưu của chúng tôi. Mỗi máy tính nối mạng đều được xác định bởi một chuỗi số gọi là "giao thức Internet" hay địa chỉ IP. Khi người dùng có một yêu cầu gửi đến máy chủ của POPS trong khi truy cập vào trang, máy chủ sẽ nhận ra người thông qua địa chỉ IP đó. Điều này sẽ không ảnh hưởng gì đến những thông tin cá nhân của Khách hàng ngoài việc nhận ra một máy tính đang truy cập Ứng dụng POPS. POPS dùng thông tin này để xác lập thống kê về lượng truy cập toàn cục, và để xem có sự lạm dụng băng thông hay không nhằm phối hợp với các chính sách pháp luật ban hành về an ninh mạng. Đối tác Ứng dụng xử lý thông tin cá nhân Khách hàng: POPS có thể cung cấp thông tin cá nhân cho Đối tác Ứng dụng hiện hành. Việc Đối tác Ứng dụng sử dụng thông tin cá nhân của bạn phải tuân theo chính sách bảo mật riêng của Đối tác Ứng dụng - chứ không phải Chính sách về Quyền riêng tư này. Chia sẻ thông tin: Thông tin cá nhân về người dùng của chúng tôi là một phần không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của chúng tôi. Chúng tôi thực hiện mọi biện pháp phòng ngừa thích hợp có thể để bảo mật thông tin cá nhân của Khách hàng. Chúng tôi không cho thuê hay bán thông tin cá nhân của Khách hàng cho bất kỳ ai (ngoại trừ việc chia sẻ thông tin của Khách hàng với Đối tác Ứng dụng hiện hành) trừ trường hợp theo quy định pháp luật hoặc theo các quy định trong Chính sách quyền riêng tư của POPS. Chúng tôi chỉ chia sẻ thông tin cá nhân của Khách hàng như được mô tả bên dưới. Đối tác Ứng dụng: Chúng tôi sẽ chia sẻ thông tin cá nhân của Khách hàng với Đối tác Ứng dụng hiện hành (xem phần "Đối tác Ứng dụng" ở trên). Đại lý: Chúng tôi tuyển dụng các công ty và người khác để thay mặt chúng tôi thực hiện các nhiệm vụ và cần chia sẻ thông tin của bạn với họ để cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ cho Khách hàng. Trừ khi chúng tôi nói với bạn theo cách khác, các đại lý của POPS không có bất kỳ quyền nào để sử dụng thông tin cá nhân mà chúng tôi chia sẻ với họ ngoài những gì cần thiết để hỗ trợ chúng tôi. Khách hàng đồng ý với việc chia sẻ thông tin cá nhân của chúng tôi cho các mục đích trên. Chuyển nhượng Kinh doanh: Trong một số trường hợp, chúng tôi có thể chọn mua hoặc bán tài sản. Trong các loại giao dịch này, thông tin của Khách hàng thường là một trong những tài sản kinh doanh được chuyển giao. Hơn nữa, nếu POPS hoặc về cơ bản là tất cả tài sản của nó đã được mua lại hoặc trong trường hợp không chắc rằng POPS ngừng hoạt động hoặc phá sản, thông tin của người dùng sẽ là một trong những tài sản được bên thứ ba chuyển giao hoặc mua lại. Khách hàng xác nhận rằng việc chuyển giao như vậy có thể xảy ra và bất kỳ người mua lại POPS nào cũng có thể tiếp tục sử dụng thông tin cá nhân của bạn như được quy định trong chính sách này. Bảo vệ POPS và những người khác: Chúng tôi có thể tiết lộ thông tin cá nhân khi chúng tôi tin tưởng thành thực rằng việc tiết lộ là cần thiết để tuân thủ luật pháp; thực thi hoặc áp dụng các điều kiện sử dụng và / hoặc các thỏa thuận khác của chúng tôi; và / hoặc bảo vệ quyền, tài sản, sự an toàn của POPS, nhân viên của chúng tôi, người dùng của chúng tôi và / hoặc những người khác. Điều này bao gồm trao đổi thông tin với các công ty và tổ chức khác để chống gian lận và giảm rủi ro tín dụng. Với sự đồng ý của Khách hàng: Ngoại trừ những điều đã nêu ở trên, Khách hàng sẽ được thông báo khi thông tin cá nhân của Khách hàng có thể bị chia sẻ với bên thứ ba và sẽ có thể ngăn chặn việc chia sẻ thông tin này. Sự kiện bất khả kháng: Có thể có những nhân tố vượt ra ngoài tầm kiểm soát của POPS dẫn đến việc Dữ liệu bị tiết lộ. Không có một hệ thống an ninh nào trên toàn thế giới có thể đảm bảo an toàn 100%. Do vậy, POPS áp dụng mọi biện pháp có thể nhưng không chịu trách nhiệm bảo đảm Dữ liệu luôn được duy trì ở tình trạng hoàn hảo không bị tiết lộ. Khách hàng bằng việc truy cập Ứng dụng POPS qua đây đồng ý với điều khoản này. Nhưng để tạo điều kiện cho Khách hàng dễ dàng truy cập vào tài khoản của mình và để giúp quản lý viên của POPS, POPS thực hiện công nghệ cho phép nhận ra Khách hàng là chủ tài khoản và cung cấp cho Khách hàng truy cập trực tiếp vào tài khoản của Khách hàng. Ngoài ra, Quý khách cũng có trách nhiệm giữ bí mật thông tin truy cập tài khoản của mình để hạn chế truy cập vào máy tính hoặc thiết bị của Khách hàng. Nếu có thể, các thiết bị công cộng hoặc các thiết bị dùng chung nên đăng xuất khi hoàn thành mỗi lần truy cập. Nếu Khách hàng bán hoặc trả lại một máy tính hoặc thiết bị cài sẵn Ứng dụng POPS, Khách hàng cần đăng xuất và tắt các thiết bị trước khi làm như vậy. Nếu Khách hàng không duy trì tính bảo mật của mật khẩu hoặc thiết bị của Khách hàng, hoặc không thoát hoặc tắt điện thoại, người sử dụng tiếp theo có thể truy cập vào tài khoản của Khách hàng, bao gồm cả thông tin cá nhân và Dữ liệu của Khách hàng. Ứng dụng / trang web của bên thứ ba: Ứng dụng POPS có thể cho phép Khách hàng liên kết đến các ứng dụng hoặc trang web khác. Các ứng dụng / trang web của bên thứ ba đó không thuộc quyền kiểm soát của POPS và các liên kết như vậy không cấu thành sự chứng thực của POPS đối với các ứng dụng / trang web khác đó hoặc các dịch vụ được cung cấp thông qua chúng. Các thực tiễn về quyền riêng tư và bảo mật của ứng dụng / trang web của bên thứ ba được liên kết với Ứng dụng POPS không được đề cập trong Chính sách về Quyền riêng tư này và POPS không chịu trách nhiệm về quyền riêng tư hoặc các thực tiễn bảo mật hoặc nội dung của các trang web đó. Nói cách khác, POPS từ chối mọi thông tin cá nhân bị rò rỉ từ các ứng dụng / trang web của bên thứ ba. Quảng cáo bên thứ ba: Ứng dụng POPS có thể đăng quảng cáo và quảng cáo có thể bao gồm các đường dẫn tới các trang web khác. Cũng như nhiều website khác, POPS thiết lập và sử dụng cookie để tìm hiểu thêm về cách Quý khách tương tác với nội dung của POPS và giúp POPS cải thiện trải nghiệm của Khách hàng khi sử dụng dịch vụ trên Ứng dụng POPS. Biên tập thông tin cá nhân: POPS cho phép Khách hàng truy cập thông tin sau về Khách hàng với mục đích xem và trong một số tình huống nhất định, cập nhật thông tin đó. Danh sách này có thể thay đổi trong trường hợp ứng dụng thay đổi. Thông tin tài khoản và hồ sơ người dùng Địa chỉ e-mail của người dùng (nếu có) Số điện thoại (nếu có) Tài khoản mạng xã hội liên kết hoặc thông tin hồ sơ mạng xã hội (nếu có) Sở thích của người sử dụng Dữ liệu ứng dụng cụ thể Chính sách trẻ em: Sản phẩm của chúng tôi có sẵn cho trẻ em dưới sự kiểm soát của cha mẹ. POPS tạo ra một môi trường an toàn cho con em chúng ta thưởng thức nội dung giáo dục, âm nhạc và giải trí. Các thay đổi về báo cáo riêng tư này: POPS có thể sửa đổi Chính sách về Quyền riêng tư này tùy từng thời điểm mà không cần báo trước. Việc sử dụng thông tin chúng tôi thu thập bây giờ phải tuân theo Chính sách về Quyền riêng tư có hiệu lực tại thời điểm thông tin đó được sử dụng. Nếu chúng tôi thực hiện các thay đổi trong cách sử dụng thông tin cá nhân, chúng tôi sẽ thông báo cho Khách hàng bằng cách đăng thông báo trên Trang web của chúng tôi [chèn địa chỉ trang] hoặc gửi email cho Khách hàng. Người dùng bị ràng buộc bởi bất kỳ thay đổi nào đối với Chính sách về Quyền riêng tư khi họ sử dụng hoặc truy cập vào Ứng dụng POPS sau khi những thay đổi đó được đăng lần đầu. Phương thức hỗ trợ: Nếu Khách hàng có bất kỳ câu hỏi hoặc thắc mắc nào liên quan đến quyền riêng tư trên Trang web của chúng tôi, vui lòng gửi tin nhắn chi tiết cho chúng tôi theo địa chỉ email popsapp-support@pops.vn. Chúng tôi sẽ cố gắng hết sức để giải quyết các mối quan tâm của Khách hàng một cách kịp thời. Đồng ý của Khách hàng: Bất kể có quy định nào trong Chính sách này, bằng việc sử dụng dịch vụ trên Ứng dụng POPS, Khách hàng đồng ý cho phép POPS ghi nhận, sử dụng và tiết lộ thông tin cá nhân của Khách hàng theo quy định và phù hợp với Chính sách này. Khi truy cập Ứng dụng POPS, Khách hàng cam kết đã đọc toàn bộ, thừa nhận rằng đã hiểu và đồng ý tự nguyện tuân thủ Chính sách này cùng với Điều khoản sử dụng dịch vụ của Ứng dụng POPS.
1614178347293.1.parquet/132588
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 9527, "url": "https://pops.vn/privacy-policy" }
108
Thư của ông Võ Văn Kiệt gửi Bộ Chính trị ĐCSVN — Diễn Đàn Forum Chuyển đến nội dung. | Chuyển đến mục định hướng Các công cụ cá nhân Tìm kiếm chỉ tìm kiếm trong mục hiện tại Tìm kiếm nâng cao... Navigation Trang chủ Việt Nam Thế giới Tài liệu Biên khảo Sáng tác KHKT Dịch thuật Nhân vật Giọt mực, ... Đời sống Bạn đang ở: Trang chủ / Tài liệu / Báo cũ / Số 48 / Thư của ông Võ Văn Kiệt gửi Bộ Chính trị ĐCSVN Info Thư của ông Võ Văn Kiệt gửi Bộ Chính trị ĐCSVN Tweet Tweet Ngày 9 tháng 8 năm 1995, để chuẩn bị đại hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Võ Văn Kiệt đã gửi thư này tới Bộ Chính trị ĐCSVN, trong đó ông nêu lên 4 vấn đề : 1. Đánh giá tình hình cục diện thế giới ngày nay ; 2. Vấn đề chệch hướng hay không chệch hướng ? 3. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước ; 4. Xây dựng Đảng. Thư của ông VÕ VĂN KIỆT gửi BỘ CHÍNH TRỊ ĐCSVN VÕ VĂN KIỆT Hà Nội, ngày 9 tháng 8 năm 1995 Kính gửi BỘ CHÍNH TRỊ Sau đợt thảo luận tháng 6 vừa qua trong Bộ Chính trị xây dựng các văn kiện chuẩn bị Đại hội VIII, đồng chí Tổng bí thư đã kết luận còn một số vấn đề và quan điểm lớn cần tổ chức nghiên cứu và thảo luận sâu hơn nữa. Tôi tán thành kết luận này và xin trình bày một số ý kiến về 4 vấn đề : 1. Đánh giá tình hình cục diện thế giới ngày nay 2. Vấn đề chệch hướng hay không chệch hướng ? 3. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước 4. Xây dựng Đảng 1. Đánh giá tình hình, cục diện thế giới ngày nay Nhận thức của chúng ta về tình hình, cục diện thế giới này nay quyết định đánh giá của chúng ta về thời cơ và thách thức. Đặc điểm cần nhấn mạnh là : Trong thế giới ngày nay, không phải mâu thuẫn đối kháng giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc, mà trước hết là tính chất đa dạng đa cực trở thành nhân tố nổi trội nhất chi phối những mâu thuẫn và sự vận động của các mối quan hệ giữa mọi quốc gia trên thế giới. Và cũng khác với trước, ngày nay lợi ích quốc gia, lợi ích khu vực, những lợi ích toàn cầu khác (ví dụ hoà bình, vấn đề môi trường, vấn đề phát triển, tính chất toàn cầu hoá ngày càng sâu sắc của sự phát triển lực lượng sản xuất...) đóng vai trò ngày càng quan trọng hơn trong việc phát triển những mâu thuẫn cũng như trong việc tạo ra những tập hợp lực lượng mới ngày nay trên thế giới. Nhiều mâu thuẫn khác đã từng tồn tại trong thời kỳ thế giới còn chia thành hai phe – kể cả mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa xã hội – có thể tiếp tục còn tồn tại, song chịu sự chi phối ngày càng lớn hơn bởi những mâu thuẫn khác và do đó không còn có thể giữ vai trò như cũ. Không thấy hết đặc điểm quan trọng nói trên, không thể cắt nghĩa được việc Việt Nam trở thành thành viên ASEAN, ký kết hiệp định khung với EU (Liên hiệp châu Âu, chú thích của DĐ), tạo lập ra được quan hệ quốc tế ngày càng rộng rãi và giành lấy vị trí quốc tế ngày càng thuận lợi hơn trước giữa lúc hệ thống thế giới xã hội chủ nghĩa không còn tồn tại được nữa. Cần nhấn mạnh đây là chiến công có ý nghĩa chiến lược và xoay chuyển hẳn tình thế của đường lối đối ngoại Đại hội VII – xuất phát từ những nhận thức mới và chính xác về cục diện thế giới ngày nay. Bây giờ, lợi ích của Việt Nam là phát huy hơn nữa đường lối ấy. Đồng thời cũng phải tỉnh táo đánh giá những thách thức và sức ép mới do ta gia nhập ASEAN, hợp tác với EU, bình thường hoá quan hệ với Mỹ... Ngày nay, Mỹ và các thế lực phản động khác không thể giương ngọn cờ chống cộng để tranh thủ dư luận và tập hợp lực lượng chống lại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam như trước được nữa. Vì ngọn cờ này đã hết phép mê hoặc, chúng phải chuyển sang ngọn cờ dân chủ và nhân quyền. Song ngay cả ý đồ muốn thủ tiêu nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam của các thế lực đế quốc và phản động cũng phải được đánh giá dưới ánh sáng của cục diện quốc tế mới – đặc biệt là trong mối tương quan giữa các nước lớn, các “ trung tâm ”, các “ cực ” đang hình thành ngày càng rõ nét. Để có cơ sở phân tích mối tương quan vừa nói tới bên trên, chúng ta có hàng loạt những sự kiện quan trọng kể từ khi cục diện quốc tế bắt đầu chuyển sang thời kỳ mới, đó là : chiến tranh Irak, sự tập hợp lực lượng và thái độ các nước lớn chung quanh việc chống Việt Nam trong vấn đề Campuchia, giải pháp hoà bình giữa Palestine và Israel, hoà giải ở Nam Phi, nội chiến ở Nam Tư cũ (Bosnia, Herzegovina), sự tranh chấp ở Trường Sa và thái độ các loại nước khác nhau chung quanh vấn đề này, sự phát triển các mối quan hệ quốc tế của Việt Nam trong 10 năm qua, triển vọng bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ, vai trò ngày càng quan trọng của ASEAN, tiếng nói của các nước nhỏ ngày càng có nhiều trọng lượng hơn trước, xu thế tập hợp các tổ chức kinh tế khu vực, vai trò ngày càng tăng của Liên hiệp quốc song song với hiện tượng những siêu cường ngày càng khó thao túng Liên hiệp quốc như thời kỳ chiến tranh lạnh, vân vân... Chúng ta cũng cần phân tích sâu những mâu thuẫn mới và sự tập hợp lực lượng mới đang diễn ra trong quan hệ giữa các quốc gia trên thế giới, tạo ra cho mỗi nước những cơ hội và thách thức mới khó lường hết được. Trước hết đó là những mâu thuẫn và lợi ích của các quốc gia – bao gồm cả sự cạnh tranh gay gắt, xung đột lợi ích quốc gia, yêu cầu hợp tác, những thách thức tác động vào mọi quốc gia do sự phát triển của lực lượng sản xuất và những biến động trong kinh tế thế giới, sự hình thành những liên kết kinh tế khu vực, những thách thức mới trên các lĩnh vực chính trị, văn hoá, xã hội do quá trình hoà nhập và giao lưu kinh tế ngày càng sâu rộng giữa các quốc gia, những chính sách và thủ đoạn của các quốc gia và các thế lực thù nghịch nhau sử dụng những yếu tố mới này để chi phối, đối phó hoặc loại bỏ nhau... Không xử lý được tình hình mới này, không một quốc gia nào có thể đứng vững được. Cũng cần đánh giá thực chất quan hệ giữa các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Sự thật hiện nay là 4 nước xã hội chủ nghĩa tuy có những mối quan hệ với nhau ở mức độ nhất định, song không thể hành động và không có giá trị trên trường quốc tế như một lực lượng kinh tế và chính trị thống nhất. Nói riêng về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam - Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên thì tính chất quốc gia lấn át (nếu chưa muốn nói là loại bỏ) tính chất xã hội chủ nghĩa trong những mối quan hệ giữa những nước này. Thậm chí trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc tồn tại không ít điểm nóng. Thuần tuý nói về chủ nghĩa xã hội thì cả 4 nước xã hội chủ nghĩa còn lại đều nói còn đang phải tiếp tục nghiên cứu, tìm tòi con đường riêng phù hợp của từng nước. Cũng không thể xem xét sự phục hồi ở mức độ nào đấy của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế – kể cả ở những nước Liên Xô Đông Âu cũ, có cùng một chất lượng và cũng một giá trị cộng sản chủ nghĩa như trước kia. Chủ nghĩa xã hội dân chủ và nhiều quan điểm pha trộn khác đang tác động mạnh mẽ vào trào lưu này. Nghĩa là sự phục hồi này chưa mang lại cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế sức nặng chính trị vốn có trước đây. Song có một thực tế khách quan khác rất quan trọng cần được mổ xẻ nghiên cứu. Đó là, bất chấp những biến động nghiêm trọng của hệ thống thế giới xã hội chủ nghĩa, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo ngày càng được củng cố và đứng trước những triển vọng to lớn. Cục diện quốc tế ngày nay có những đặc điểm gì, cho phép vận dụng đường lối nào và có thể khai thác những yếu tố gì đã giúp cho Đảng ta xoay chuyển được tình hình ; tìm ra được hướng đi mới và tạo khả năng giành thời cơ để đi lên như vậy ? Điều hiển nhiên là trên thế giới tiếng nói ủng hộ hay đồng tình với yêu cầu ổn định chính trị của Việt Nam ngày càng mạnh, sự chấp nhận trên thế giới đối với chế độ chính trị một đảng của Việt Nam cũng đang tăng lên – mặc dầu lúc này lúc khác vấn đề dân chủ và nhân quyền được sử dụng như một phương tiện chính trị đối phó với chúng ta. Hơn thế nữa, đang có một xu thế ngày càng mạnh trên thế giới hoan nghênh, cổ vũ sự phát triển năng động và vai trò tích cực của Việt Nam trên trường quốc tế. Nếu như trong tương lai gần đây, chúng ta thực hiện được dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh, nước Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sẽ lại một lần nữa giành được trái tim của các lực lượng tiến bộ trên toàn thế giới – một sự tập hợp lực lượng mới, như Đảng ta và nhân dân ta đã từng thực hiện được trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Bởi vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh là khát vọng của nhân dân ta, đồng thời cũng là mong muốn của nhiều nước đang phát triển và các lực lượng tiến bộ trên toàn thế giới. Những lý luận hoặc mô hình này mô hình khác về xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa vừa qua có thể thất bại, nhưng xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa chân chính vẫn là khát vọng của nhân dân lao động toàn thế giới. Xem xét thế giới như vậy, mặt trận của Việt Nam tập hợp lực lượng trên thế giới ngày nay vẫn có triển vọng ngày càng mở rộng. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào đường lối của Đảng ta và phẩm chất cách mạng của chúng ta. Tất cả phải đưa lên bàn cân, để có thể nhận định, phán đoán tình hình một cách đúng đắn, xác định chính xác nhiệm vụ phải thực hiện, để lo thu xếp huy động thực lực bên trong, tập hợp lực lượng bên ngoài và bài binh bố trận như thế nào để thắng bằng được trong keo vật mới này ? Với đánh giá tình hình theo cách nhìn mới, có thể nói, sau một nửa thế kỷ phấn đấu đầy hy sinh gian khổ kể từ Cách mạng tháng Tám, bây giờ chúng ta mới cùng một lúc có được điều kiện bên trong tốt nhất và bối cảnh quốc tế bên ngoài thuận lợi nhất cho phép đặt ra được và thực hiện được dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh, đáp ứng được đòi hỏi phải vươn ra thế giới bên ngoài để tồn tại và phát triển, để lấy lại thời gian đã mất và đuổi kịp các nước chung quanh. Có thể nói, đất nước đang đứng trước cơ hội chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta ! Đảng ta lãnh sứ mệnh lịch sử trước dân tộc là không được bỏ lỡ cơ hội này. Đây chính là nhiệm vụ của Đại hội VIII. Cũng có thể nói rằng, rụt rè bỏ lỡ cơ hội này, sẽ là thảm hoạ cho đất nước, Đảng ta sẽ đứng trước nguy cơ bị tước quyền lãnh đạo – chỉ vì không đáp ứng được đòi hỏi phát triển của đất nước. Xin nhấn mạnh rằng sau gần 200 năm kể từ khi kinh tế thế giới đi vào thời đại công nghiệp hoá, dân tộc Việt Nam ta bây giờ mới có lại một cơ hội như vậy. Chúng ta không được và không có quyền để bất kỳ một vướng mắc nào ngăn cản nhân dân ta nắm lấy cơ hội này. Sự tồn vong của đất nước phải được xem xét trên tất cả. 2. Vấn đề 'chệch hướng' hay không 'chệch hướng' ? Đề tài này đang được thảo luận rất sôi nổi trong Đảng và trong cả nước, chắc chắn còn phải mất nhiều công sức để đi tới những kết luận có sức thuyết phục hơn. Về lý luận sẽ bàn sau. Về thực tiễn, phải chăng có thể căn cứ vào những tiêu chí cơ bản nhất sau đây để làm rõ định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là : – Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh, – Phát triển gắn liền với giữ gìn độc lập, chủ quyền và bản sắc văn hoá của dân tộc, – Phát triển gắn liền với phúc lợi xã hội và bảo vệ môi trường, – Xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân có hiệu lực, – Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn bộ quá trình phát triển nói trên của đất nước. Một vấn đề rất khó ở đây là sự tách bạch đúng đắn giữa mục tiêu và phương tiện thực hiện mục tiêu. Có làm tốt được việc này, mới xác định rõ được chệch hướng hay không chệch hướng. Ví dụ, nếu chúng ta cho rằng kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo là một tiêu chí của định hướng xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh rằng đó là mục tiêu phấn đấu của chúng ta, của dân tộc ta, thì điều này hoàn toàn không đúng. Thực ra vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh chỉ là một trong nhiều điều kiện quan trọng, đồng thời cũng là một trong nhiều phương tiện quan trọng cần phải có để thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghệ thuật lãnh đạo đất nước ở đây là phải xử lý hài hoà mối quan hệ giữa việc phát huy vai trò kinh tế quốc doanh và việc thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển, với đích cuối cùng là bảo đảm thực hiện được 5 tiêu chí nói trên. Chúng ta nhất trí rằng con đường xây dựng xã hội đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta chưa có tiền lệ chính vì lẽ này : phải luôn tránh công thức hoá, phải bám lấy kết quả tổng thể trong việc thực hiện những tiêu chí lớn để soi rọi lại xem có chệch hướng hay không chệch hướng. Ví dụ có đồng chí nói biểu hiện của chệch hướng là quốc doanh không làm chủ được lưu thông phân phối, tư thương hầu như chi phối thương nghiệp. Một biểu hiện khác của chệch hướng – cũng theo cách nhìn nhận như vậy – là trong giao thông vận tải, tỷ lệ xe tư nhân chiếm quá cao... Cũng những sự việc nói trên đúng ra phải được đánh giá hoàn toàn ngược lại. Sự thật là đường lối đổi mới đã tạo ta được một cơ chế kinh tế cho phép huy động mọi tiềm năng trong xã hội nhờ đó đã xử lý có thể nói khá thành công vấn đề lưu thông hàng hoá và giao thông vận tải. Về phương diện này, chúng ta đã thành công rất xa so với thời kỳ còn cơ chế kinh tế bao cấp. Bây giờ hàng hoá đi và về hầu như mọi miền đất nước, nhân dân trong cả nước đi lại dễ dàng hơn trước nhiều lần. Cũng nhờ đó, đời sống được cải thiện rõ rệt, nền sản xuất hàng hoá tăng trưởng nhanh. Chúng ta thử hình dung sự phát triển này đã huy động được biết bao nguồn lực nhàn rỗi trong xã hội, đã tạo ra biết bao công ăn việc làm mới cho người dân trong cả nước mà khu vực kinh tế nhà nước không thể lo xuể. Những năm trước khi thực hiện đổi mới, chúng ta đã có kinh nghiệm nếu không có sự phát triển này thì kinh tế tiêu điều và ách tắc như thế nào ! Nếu coi sự phát triển này là chệch hướng, có nghĩa là chúng ta phải đem kinh tế quốc doanh ra đối lập lại với sự phát triển này, đối lập với tất cả những người lao động đang bỏ của và công sức để tạo ra sự phát triển như hiện nay. Đương nhiên tình hình lưu thông phân phối và giao thông vận tải hiện nay chưa phải thật hoàn hảo. Song, không thể giải quyết những vấn đề ta gọi là “ tranh mua tranh bán ”, vấn đề đầu cơ, tai nạn giao thông... bằng cách mở rộng mạng lưới quốc doanh trong những lãnh vực này. Đấy không phải là giải pháp. Trong những năm của cơ chế kinh tế cũ, quốc doanh đã hầu như nắm toàn bộ các lãnh vực này và chúng ta đã biết kết quả. Ngày nay không ít xí nghiệp, đơn vị quốc doanh làm ăn trái với pháp luật, số lượng phương tiện giao thông vận tải của quốc doanh – trong đó có xe của đơn vị quân đội – tham gia buôn lậu khá lớn... Vì vậy, giải pháp cho những vấn đề này là phải tiếp tục hoàn thiện thị trường, tăng cường chất lượng bộ máy nhà nước trong quản lý kinh tế, kiện toàn và tiếp tục phát triển các hệ thống tài chính, luật pháp, những chính sách ưu đãi, hỗ trợ đúng hướng..., chứ không phải giao cho quốc doanh “ nắm ” tất cả. Cũng có ý kiến nói chệch hướng trong vấn đề hợp tác xã. Cần phải nói thẳng thắn mô hình hợp tác xã cũ không còn thích ứng với sự phát triển của kinh tế hộ và những đòi hỏi trong quá trình phát triển kinh tế hiện nay của đất nước. Kết thúc sự tồn tại của mô hình này trong lĩnh vực nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp là tất yếu. Thật ra kinh tế hộ trong nông lâm nghiệp, thuỷ sản, những người sản xuất tiểu thủ công nghiệp và không ít những người buôn bán nhỏ, sản xuất nhỏ đang rất cần một loại hình hợp tác xã mới có thể hỗ trợ thiết thực cho họ. Khuyết điểm của chúng ta là chưa đáp ứng được đòi hỏi mới này. Trong khi đó, các hộ kinh tế này đang tự phải tổ chức với nhau những hình thức hợp tác thiên hình vạn trạng và ở những mức độ rất khác nhau, nơi thành công, nơi thất bại và không ít những kinh nghiệm đáng được nghiên cứu cho việc xây dựng mô hình hợp tác xã kiểu mới thích hợp. Khư khư giữ mô hình hợp tác xã cũ sẽ lại thất bại. (Vừa qua, tôi đến thăm nông trường Sông Hậu. Thực chất đó không còn là một nông trường theo nghĩa xưa nay chúng ta vẫn hiểu. Đó chính là một mô hình hợp tác xã kiểu mới như chúng ta vẫn thường thấy ở các nước công nghiệp. Đây chính là mô hình cần được nghiên cứu). Song nguy cơ chệch hướng đang ẩn náu trong nhiều hiện tượng kinh tế xã hội khác cần được chú ý xử lý thoả đáng. Đó là tình trạng làm ăn trái pháp luật, tham nhũng, tiêu cực đang trở thành “ quốc nạn ”, bao gồm cả những thói xấu như cục bộ, cửa quyền, tính vô chính phủ, cát cứ, tiêu xài lãng phí và ăn cắp của công... Những hiện tượng này đang làm giảm hiệu lực pháp luật và các hệ thống quản lý kinh tế (vĩ mô và vi mô) của nhà nước, gây nhiều thiệt hại kinh tế nghiêm trọng, kể cả trong liên doanh với nước ngoài ; kích thích kinh tế ngầm và các mafia, tăng thêm những căng thẳng trên các vấn đề như khoảng cách thu nhập, sự phân hoá và tệ nạn xã hội (đặc biệt là những tệ nạn nghiện hút, cờ bạc, mãi dâm), vấn đề công bằng và công lý, v.v... Sẽ là sai lầm, nếu đem tất cả những phát triển không lành mạnh này đổ lỗi cho cơ chế thị trường. Kết luận như vậy sẽ chỉ còn có cách là xoá bỏ cơ chế kinh tế thị trường, một điều ai cũng thấy là vô lý, và những hiện tượng xấu ấy sẽ không vì thế tự nhiên biến mất (đành rằng cơ chế thị trường và nền kinh tế nhiều thành phần tự nó cũng đặt ra nhiều vấn đề mới phải xử lý). Để những hiện tượng xấu này tiếp tục phát triển, sẽ có nghĩa nhà nước mất dần khả năng kiểm soát, sự trong sạch và vững mạnh của chế độ chính trị giảm sút, lòng dân phân tán, định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ chỉ còn là khẩu hiệu trống rỗng. Chệch hướng và diễn biến hoà bình sẽ có thêm mảnh đất màu mỡ để bung ra. Trên phương diện này, rõ ràng hậu quả của những yếu kém trong năng lực quản lý nhà nước chưa được đánh giá đúng mức. Chỗ nào chúng ta cũng có đảng viên, cán bộ, song tình trạng tiêu cực vẫn có xu hướng phát triển. Đảng và các tổ chức cơ sở Đảng, chính quyền các cấp, các đoàn thể, các ngành phải làm gì ? Một vấn đề không thể tránh né là chúng ta thừa nhận sự phát triển của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đến mức độ nào để khỏi chệch hướng ? Đề nghị cần trao đổi kỹ vấn đề này. Chúng ta đang đứng trước đòi hỏi khách quan là nước ta phải giàu lên càng nhanh càng tốt, để có sức cạnh tranh và có lực thu hút mọi nguồn vào từ bên ngoài để giữ được độc lập tự chủ trong mở rộng, hợp tác và phát triển. Chúng ta phải ráo riết tăng mạnh cường độ tích tụ vốn để có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã từng kéo dài hàng trăm năm trong lịch sử các nước công nghiệp xuống còn vài ba thập kỷ như một số “ con rồng ” ở châu Á đã thực hiện. Không làm được như vậy sẽ mất thời cơ và mất tất cả. Chính đấy là những đòi hỏi ràng buộc chúng ta trong khi xử lý vấn đề phát triển các thành phần kinh tế. Hơn thế nữa, chúng ta còn phải đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sao cho trong vòng mươi, mười lăm năm tới chỉ còn trên 1/3 lao động cả nước làm nông nghiệp, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP phải giảm xuống mức thấp trong quá trình tăng trưởng kinh tế. Không đạt được yêu cầu này, sẽ tăng thêm nguy cơ bần cùng hoá (bởi vì trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp, tài nguyên đất đai, rừng núi và ven biển đã được khai thác hầu như ở mức độ quá tải bằng công nghệ thủ công và lạc hậu), hoàn toàn không thể nói tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong mở rộng liên doanh với nước ngoài, phần góp vốn của phía ta hiện nay thường chỉ đạt 20 - 30 % giá trị công trình, vì làm chưa tốt việc huy động các nguồn lực trong nước, phía ta rất thiệt thòi v.v... Như vậy phải chăng câu trả lời sẽ là : Để đáp ứng những đòi hỏi vô cùng bức xúc của phát triển, chúng ta chủ trương trong khi đối xử bình đẳng với tất cả các thành phần kinh tế, chúng ta chấp nhận không đặt ra cho các thành phần kinh tế bất kỳ giới hạn phát triển nào, miễn là sự phát triển ấy cân đối hài hoà, ổn định, nằm trong khuôn khổ của luật pháp, nhà nước kiểm soát được và đáp ứng tối đa những tiêu chí lớn chúng ta đã xác định cho định hướng xã hội chủ nghĩa ? Nếu chấp nhận đạo lý vừa trình bày trên, sẽ có nhiều vấn đề hệ trọng phải xem xét lại trong việc hoạch định đường lối và chính sách. Có thể chính đạo lý này sẽ thống nhất ý chí toàn dân tộc trước vận mệnh mới của đất nước, tạo ra động lực không gì khuất phục được cho một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh, độc lập và bất khả xâm phạm với bất kỳ sức ép bên ngoài nào. Song nhằm đạt được mục tiêu này, năng lực quản lý nhà nước, quản lý kinh tế xã hội trở thành một trong những tiền đề quyết định – và đây lại chính là điều chúng ta thiếu nhất. Xử lý thành công yêu cầu này là nhiệm vụ chính trị rất quan trọng của Đảng ta hiện nay. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có phải ưu tiên phát triển thành phần kinh tế quốc doanh hay không ? Như đã trình bày, Đảng ta lựa chọn quan điểm đối xử bình đẳng các thành phần kinh tế. Lợi ích lâu dài của đất nước đòi hỏi phải quán triệt và kiên trì quan điểm này. Trừ một số lĩnh vực liên quan đến an ninh quốc phòng và phát triển cơ sở hạ tầng (bao gồm cả về mặt xã hội), không nên và không thể đặt vấn đề “ ưu tiên ” KTQD, hay giao cho KTQD nhiệm vụ “ nắm ” một thứ gì đó như chúng ta thường làm trong cơ chế quản lý cũ. Nhưng kinh tế quốc doanh thật sự đang có nhiều vấn đề quan trọng khác chưa được quan tâm đúng mức. Điều đáng lưu ý nhất là kinh tế quốc doanh nhìn chung chưa đem lại hiệu quả mong muốn lớn nhất cho nền kinh tế quốc dân xứng đáng với vai trò, vị trí và vốn liếng nó nắm trong tay. Đối với chế độ chính trị của nước ta, kinh tế quốc doanh là lực lượng kinh tế quan trọng nhất trong việc thực hiện đường lối, chủ trương kinh tế và phát triển đất nước của Đảng. Chúng ta còn phải làm nhiều việc để cho KTQD trở thành đội quân chủ lực mở đường cho kinh tế nước ta đi lên, hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác phát triển, làm chỗ dựa và có khả năng hạn chế bớt rủi ro cho kinh tế cả nước, tạo ra những tập đoàn mạnh trong cạnh tranh với bên ngoài. Cũng phải từ quan điểm vừa trình bày mà xem xét, bố trí KTQD vào đâu, làm việc gì, với phương thức nào là có lợi nhất. Ngoài ra cần làm cho KTQD trở thành yếu tố năng động trong hệ thống điều hành kinh tế vĩ mô của nhà nước. Sự thực là năng suất lao động và hiệu quả của từng đồng vốn trong KTQD (ở đây không kể những đơn vị kinh tế phải làm công ích xã hội hoặc phát triển cơ sở hạ tầng) nhìn chung còn thấp so với vốn của các thành phần kinh tế khác trong xã hội. Tình trạng thất thoát và lợi dụng vốn quốc doanh còn ở mức nghiêm trọng. Hơn nữa, việc sắp xếp và cơ cấu lại KTQD, cổ phần hoá, xây dựng các liên kết liên doanh còn rất chật vật, có nhiều sức tiêu cực chống lại. Ngoài ra chúng ta hiện nay mới chỉ quan tâm đến xử lý tính hiệu quả của các xí nghiệp, song chưa có sự quan tâm thoả đáng đến vấn đề chuyển đổi các xí nghiệp để huy động vốn quốc doanh tập trung vào những ngành nghề có thể chi phối sự phát triển kinh tế của cả nước, việc sắp xếp lại và giải thể những xí nghiệp không có hiệu quả kinh tế đáng kể, thực hiện chưa tốt nên chưa tạo ra chuyển biến mới. Tóm lại, để góp phần giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi bức xúc là phải nâng cao tính hiệu quả của kinh tế quốc doanh, nhằm làm cho nó chiếm một vai trò chủ đạo trong thị trường nước ta chứ không phải là giành cho nó quyền “ nắm ” thứ này thứ khác. 3. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước Đã có nhiều cuộc trao đổi về nhà nước pháp quyền. Tôi không đi vào lý luận của vấn đề này, mà muốn nhấn mạnh yêu cầu bức xúc phải nâng cao năng lực quản lý nhà nước, với nhận thức cho rằng yếu kém hiện nay của chúng ta trong nhiệm vụ quản lý nhà nước đang thách thức rất nghiêm trọng khả năng vươn lên của nước ta. Trước hết, sống và làm việc theo pháp luật trở thành đòi hỏi ngày càng bức thiết của cuộc sống và sự nghiệp phát triển đất nước ta. Đòi hỏi tất yếu và không thể tranh cãi được này đang làm cho chúng ta lo lắng. Bởi vì một mặt, sự phát triển luật pháp và năng lực thi hành luật pháp chưa theo kịp đà phát triển của đất nước và xã hội ta hiện nay. Mặt khác, tình trạng sống và làm ăn trái phép với pháp luật chưa có xu thế giảm. Có thể nói chúng ta đã làm rất nhiều việc để tiếp tục phát triển hệ thống luật pháp, kết hợp với tăng cường các tổ chức thi hành luật pháp, nhưng kết quả chưa như mong đợi. Ngay bây giờ, tình trạng bất cập của bộ máy nhà nước và những vấn đề nóng bỏng trong đời sống kinh tế xã hội đã ở mức báo động. An ninh kinh tế, an ninh chính trị và an ninh xã hội đều có nhiều vấn đề đáng lo ngại do buông lỏng quản lý nhà nước. Chưa có thể nói chúng ta đã tạo ra được một môi trường kinh tế xã hội thông suốt, minh bạch rõ ràng cho từng người dân có thể an tâm làm ăn và được bảo hộ chu toàn trong làm ăn. Chúng ta chưa có một môi trường như vậy cho sự quản lý có hiệu quả của nhà nước. Giới đầu tư và kinh doanh nước ngoài, mặc dù đánh giá rất cao sự ổn định chính trị và tiềm năng kinh tế của nước ta, nhưng còn e ngại rất nhiều về môi trường làm ăn ở nước ta. Không thay đổi căn bản tình hình này, ngay sự kiểm soát của nhà nước ta đối với mọi quá trình diễn biến trong xã hội nước ta sẽ ngày càng có nhiều hiện tượng “ tuột tay ”, “ chệch hướng ”. Hãy thử mổ xẻ tình trạng tham nhũng, tình trạng buôn lậu, trốn thuế, tình trạng móc ngoặc ở trong nước, hoặc với nước ngoài trong kinh tế, tình trạng chồng chéo ách tắc trong điều hành và quản lý đất nước, rừng núi tài nguyên bị tàn phá trong thời bình, môi trường tự nhiên đang bị xâm phạm nghiêm trọng, cơ sở hạ tầng nhiều nơi không được gìn giữ, tình trạng dân kêu oan khiếu nại..., chúng ta sẽ có được những thước đo khá chính xác về mức độ báo động này. Một trong những nguyên nhân chính là những yếu kém trong nhiệm vụ quản lý nhà nước. Phải chăng cho đến nay mọi cố gắng của chúng ta trên mặt trận này còn rất chắp vá, thiếu đồng bộ và chưa đụng chạm vào những khâu cơ bản nhất – nghĩa là chưa trúng vào những “ nút ” cần bấm để thay đổi hẳn tình thế ? Xin nhắc lại rằng trong những năm trước Đại hội VI và sau đó một ít, chúng ta loay hoay mãi trong việc ổn định giá cả và chống lạm phát nhưng không kết quả, phải chờ cho đến khi thiết lập được cơ chế kinh tế trên cơ sở thừa nhận giá thị trường, chúng ta mới xoay chuyển được tình hình và đạt kết quả. Như vậy có việc phải đi tìm những cái “ nút ” để xử lý ? Nói một cách khái quát, để tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, chúng ta phải làm cùng một lúc và trong cùng một tổng thể những chủ trương chính sách hài hoà cả 3 việc lớn : kiện toàn bộ máy nhà nước, kiện toàn hệ thống điều hành và kiểm soát kinh tế vĩ mô, hoàn thiện và phát triển thị trường. Nghĩa là việc tăng cường cơ sở quyền lực của luật pháp phải gắn liền với việc nâng cao khả năng điều hành và việc tạo môi trường kinh tế xã hội thuận lợi cho sự hoạt động hữu hiệu của bộ máy nhà nước. Về kiện toàn bộ máy nhà nước Có thể nói rằng hệ thống luật pháp và bộ máy nhà nước của chúng ta được chú ý củng cố và phát triển, song hiệu lực của hệ thống bộ máy nhà nước và năng lực của cán bộ viên chức còn nhiều mặt không đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ. Một hiện tượng rất nghiêm trọng khác là nhiều cơ quan thuộc bộ máy quản lý nhà nước sa đà vào các công việc kinh doanh và những sự vụ của cơ chế “ chủ quản ”, sao nhãng chức năng chủ yếu là quản lý nhà nước trong lĩnh vực của mình. Nói về hệ thống, điều quan trọng nhất là phải làm cho bộ máy nhà nước vận hành hoàn toàn trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật với những chức năng và kỹ năng ngày càng hoàn thiện, có quyền lực thực chất và hiệu lực mạnh trong toàn bộ lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Đi vào thời bình xây dựng đất nước và khuyến khích sự năng động của các thành phần kinh tế cũng như của từng thành viên trong xã hội, càng đòi hỏi phải có một hệ thống nhà nước như vậy, với yêu cầu phát huy được mọi tiềm năng nhưng nhà nước vẫn kiểm soát đầy đủ. Đã đến lúc bộ máy quản lý nhà nước các ngành các cấp phải đoạn tuyệt với cơ chế “ chủ quản ” và với bất kỳ hoạt động kinh doanh nào, phải được cải cách để làm đúng chức năng quản lý nhà nước. Phải xem đó là nội dung chủ yếu của nhiệm vụ cải cách hành chính. Chúng ta cần sớm khắc phục những ảnh hưởng còn lại của phương thức điều hành đất nước trong thời chiến với những đặc điểm như : cơ chế chính uỷ, quyền lực quyết định tại chỗ, tính chất địa phương, cơ cấu bộ máy sắp xếp cán bộ theo yêu cầu chính trị, bộ máy của Đảng song trùng và trên thực tế là có những việc đứng trên hoặc làm thay bộ máy chính quyền, cơ chế trách nhiệm không rõ ràng và sự yếu kém về nghiệp vụ do vận dụng nguyên tắc tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách v.v... Cũng có thể nói một cách khái quát : phải đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền với mục đích nâng cao hơn nữa năng lực quản lý nhà nước của toàn bộ hệ thống bộ máy quyền lực, đồng thời tạo mọi điều kiện cần thiết cho việc bảo đảm thực hiện Hiến pháp, pháp luật và các chủ trương chính sách của Đảng. Yêu cầu này đòi hỏi phải nâng cao khả năng nghiệp vụ và phẩm chất chính trị của các cơ quan, đơn vị và đội ngũ cán bộ viên chức trong bộ máy quyền lực nhà nước ở trong tất cả các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hơn bao giờ hết phải nâng cao hơn nữa chất lượng thể chế hoá, chính quy hoá đối với bộ máy chính quyền, cơ chế làm việc và đội ngũ cán bộ viên chức nhà nước. Đây là đòi hỏi tất yếu bảo đảm thực hiện mọi chủ trương chính sách của Đảng trong quá trình phát triển ngày càng cao của đất nước. Tình trạng hiện nay là không ít những chủ trương chính sách đúng đắn của Đảng và luật lệ của nhà nước không thi hành được, nguyên nhân chính là thiếu yếu tố quyết định vừa nói trên. Một hướng khác trong đẩy mạnh cải cách hành chính là nên sớm từng bước thực hiện chế độ đào tạo, bổ nhiệm, bãi chức đối với cán bộ viên chức trong hệ thống hành pháp bao gồm cả những chức vụ chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, quận, huyện, phường xã. Đồng thời cần tăng cường quyền lực và khả năng hoạt động hữu hiệu của các cơ quan dân cử bao gồm Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp với nội dung : chú trọng tăng cường khả năng và quyền lực lập pháp của Quốc hội ; tăng cường quyền lực và khả năng giám sát của hội đồng nhân dân. Không nên nhầm lẫn coi hội đồng nhân dân là những cấp “ lập pháp ” địa phương dưới Quốc hội. Cả nước chỉ có một cơ quan duy nhất có tính năng và quyền lực lập pháp là quốc hội. Nêu lên một sơ đồ về tổ chức của Đảng hiện nay đan xen vào hệ thống bộ máy nhà nước, chúng ta sẽ thấy nhiều tầng, nhiều cấp chồng chéo – trên thực tế là làm giảm bớt sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực của bộ máy nhà nước. Cần xác định rõ các tổ chức cơ sở Đảng trong các bộ máy nhà nước nói trên (Quốc hội, hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân các cấp) có nhiệm vụ chính trị hàng đầu là làm cho cơ quan của Đảng bộ mình làm tròn chức năng quyền hạn Nhà nước được giao. Các tổ chức cơ sở Đảng không làm thay, không quyết định thay. Các tổ chức cơ sở Đảng vì vậy cần được đổi mới và tổ chức lại một cách khoa học, cần được kiện toàn phù hợp với nhiệm vụ chính trị mới này. Công tác Đảng cần làm tốt hơn nữa nhiệm vụ giáo dục, đào tạo đội ngũ cán bộ viên chức để đưa vào những cương vị thích hợp qua quy chế đào tạo, tuyển chọn, bổ nhiệm, bãi miễn và sa thải rất nghiêm ngặt của hệ thống chính quyền. Quan điểm cần thông suốt là hệ thống bộ máy quản lý nhà nước mạnh, chủ trương chính sách của Đảng mới được thực thi đầy đủ, và như vậy Đảng mới mạnh. Đây còn là phương thức khắc phục tình trạng lộng quyền, coi thường pháp luật, mất dân chủ, mất đoàn kết, bản vị, cục bộ... khá phổ biến ở một số đảng bộ cơ sở hoặc một số cấp uỷ. Về kiện toàn hệ thống điều hành và kiểm soát kinh tế vĩ mô Điểm mới ở đây là coi nhiệm vụ này là một vế không thể thiếu được trong nâng cao năng lực quản lý nhà nước. Bởi vì quyền lực của nhà nước chúng ta sẽ không còn hiệu lực nếu như nhà nước đó không có trong tay hệ thống điều hành và kiểm soát kinh tế vĩ mô có hiệu quả. Có lẽ vì thiếu điều kiện này, việc quản lý nhà nước của chúng ta còn nhiều sơ hở, vừa tăng thêm tính quan liêu, đồng thời vừa kém hiệu quả. Trong tình hình phải vận dụng cơ chế kinh tế thị trường, phát huy mọi thành phần kinh tế trong xã hội và mở rộng kinh tế đối ngoại, luật pháp và các quy chế thường không đủ linh hoạt, không phát triển kịp hoặc không bao trùm hết được mọi vấn đề, lại càng đòi hỏi phải kiện toàn hệ thống điều hành và kiểm soát kinh tế vĩ mô. Yêu cầu nói trên đòi hỏi : – Phải tích cực phát triển hệ thống các luật pháp trong đó gấp rút nhất là Luật dân sự (đang soạn thảo) và Luật thương mại. – Phát triển và hoàn thiện hệ thống tài chính tiền tệ – bao gồm cải tổ lại hệ thống thuế và các sắc thuế, hệ thống kiểm toán, kế toán, mở mang thị trường tài chính tiền tệ (hệ thống ngân hàng thương mại, các thị trường cổ phần, tín phiếu, chứng khoán...). – Hoàn thiện thị trường để tăng thêm khả năng làm chủ cơ chế thị trường. Điều đáng lưu ý ở đây là Đảng ta ít nhiều còn coi những nhiệm vụ nói trên như một loại công tác sự nghiệp đơn thuần, nghĩa là chưa coi đó là một nhiệm vụ chính trị phải quyết tâm thực hiện. Thậm chí còn có ý kiến coi đó là những vấn đề thuộc về kinh tế tư bản chủ nghĩa ! Đồng thời cũng phải thẳng thắn nhận xét rằng một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên trong các ngành luật pháp, tài chính, tiền tệ và trong hàng ngũ quản lý kinh tế, quản lý xí nghiệp có những nhận thức và hành động không đúng trong cơ chế thị trường do nhà nước ta quản lý. Cần nhấn mạnh rằng muốn thực hiện phát triển kinh tế có định hướng, bắt buộc phải có hệ thống điều hành và kiểm soát này, nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa càng đòi hỏi như vậy ! Nếu không, tính chất tự phát, vô chính phủ và những hệ quả xấu khác của kinh tế thị trường là không thể kiểm soát được. Về hoàn thiện và phát triển thị trường Đây cũng là một vấn đề cần nhấn mạnh và cần được thực hiện gắn liền với quá trình tăng cường quản lý nhà nước, nhằm tạo thêm một tiền đề kinh tế có ý nghĩa hết sức quan trọng để thực thi mọi luật pháp và thể chế của nhà nước. Yêu cầu tối thượng của vấn đề này là cuối cùng, mọi hoạt động kinh tế của bất kỳ ai trong xã hội nước ta đều chịu sự cọ xát, sàng lọc của một thị trường rõ ràng, lành mạnh, được nhà nước kiểm soát, dẫn dắt bằng luật pháp, bằng các chế tài và bằng các biện pháp khuyến khích. Một nền kinh tế mạnh đòi hỏi phải có một thị trường hạn chế được xuống mức thấp nhất các hiện tượng đầu cơ, cửa quyền, độc quyền, kinh tế ngầm, các mafia, sàng lọc các hoạt động kinh tế kém hiệu quả, cung cấp những tín nhiệm hữu ích cho mọi quyết định của từng thành viên kinh tế trong xã hội, có khả năng huy động mạnh mẽ nguồn lực cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Với ý nghĩa nói trên, càng kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa càng phải hoàn thiện và phát triển thị trường, càng phải đẩy mọi hoạt động kinh tế của toàn xã hội ra thị trường, không thể có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào (trừ một số hoạt động kinh tế phục vụ sự nghiệp, hạ tầng cơ sở, an ninh quốc phòng). Cũng vì lẽ này cần sớm xoá bỏ sự phân biệt hoặc sự hình thành các loại hình như : kinh tế dân sự, kinh tế đoàn thể, kinh tế Đảng, kinh tế các lực lượng vũ trang v.v... Không có một thị trường và một chính sách về thị trường như vậy, sự kiểm soát của nhà nước sẽ kém hiệu quả, nguy cơ chệch hướng sẽ tăng lên, và kinh tế sẽ sớm đi vào trì trệ, ách tắc. Đương nhiên yêu cầu về thị trường nêu trên đòi hỏi phải có bộ máy hành chính có năng lực, hệ thống luật pháp ngày càng hoàn thiện và hệ thống các chính sách điều hoà điều tiết đủ sức duy trì sự phát triển cân bằng ổn định, bảo đảm phát triển phúc lợi xã hội. Mang danh là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước ta càng phải thực hiện tốt những đòi hỏi này. Với tinh thần và nội dung vừa trình bày, chúng ta nên coi ba khâu công tác nói trên (kiện toàn bộ máy nhà nước, kiện toàn cơ chế điều hành vĩ mô, phát triển thị trường) là một tổng thể hữu cơ của nhiệm vụ tăng cường năng lực quản lý nhà nước. 4. Xây dựng Đảng Có thể nói dự thảo báo cáo đánh giá khá đầy đủ những ưu điểm lớn trong nhiệm vụ cực kỳ hệ trọng là xây dựng Đảng. Cần nhấn mạnh bản lĩnh của Đảng ta trước hết thể hiện qua sự vững vàng trước những biến động sâu sắc trên thế giới trong hai thập kỷ vừa qua và những thành tựu giành được trong sự nghiệp đổi mới. Cần khẳng định điều này để tự tin, để nâng cao hơn nữa ý chí cách mạng và tinh thần đổi mới. Song chúng ta đang đứng trước thực tế là tính tiền phong chiến đấu của đảng viên và của các tổ chức cơ sở của Đảng có nhiều mặt giảm sút, thậm chí yếu kém. Nhiều đảng viên không còn vai trò gương mẫu, nhiều tổ chức cơ sở Đảng chỉ hoạt động hình thức, hoặc tê liệt, thoái hoá. Quan hệ giữa Đảng và dân ngày càng có nhiều vấn đề. Chỗ nào cũng có đảng viên, song tình trạng bê bối, tiêu cực ở các ngành, các địa phương khá phổ biến. Những hiện tượng này đang thách thức trực tiếp vai trò lãnh đạo của Đảng. Đại hội VIII cần đem lại một động lực mới thực sự thúc đẩy sự chỉnh đốn và khả năng tự đổi mới của Đảng. Bên cạnh việc rèn luyện ý chí cách mạng, cần đặc biệt phát huy dân chủ trong Đảng, để đẩy mạnh đấu tranh chống những thoái hoá, để phát huy sức sống mới và trí tuệ mới của toàn Đảng, đặc biệt là để có cơ sở vững chắc cho sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng và trong mọi cấp uỷ. Dưới đây xin nêu lên một số vấn đề đáng lưu ý nhất trong nhiệm vụ xây dựng Đảng : a) Xây dựng Đảng về đường lối Có thể nói đây là nhiệm vụ hàng đầu. Có đường lối đúng sẽ có tất cả. Không nên tiếp tục cách suy nghĩ chỉ đơn thuần quy mọi nhiệm vụ, mọi mục tiêu không thực hiện được hoặc thực hiện không tốt cho việc thực hiện đường lối chưa tốt. Hơn thế nữa, cách mạng Việt Nam đang chuyển sang một giai đoạn mới, diễn ra trong một bối cảnh quốc tế hoàn toàn thay đổi so với thời kỳ còn tồn tại hệ thống xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi Đảng ta bắt buộc phải đề ra đường lối mới thích hợp. Trước hết là dựa trên cơ sở nhận định tình hình mới, Đảng ta cần xác định chính xác những nhiệm vụ phải thực hiện, tính toán việc huy động lực lượng và tổ chức thực hiện, xác định những thách thức phải vượt qua. Thực ra chúng ta đã bắt đầu công việc này và đề ra đường lối đổi mới. Sắp tới chúng ta phải tập trung nhiều công sức cho việc tạo ra động lực phát triển từ bên trong của đất nước. Vì lẽ đó, đổi mới chỉ là bước đầu của quá trình xây dựng một đường lối mới phù hợp. Trước mắt, có thể nói khái quát : mục tiêu chiến lược của chúng ta là thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Chúng ta phải thực hiện nhiệm vụ chiến lược ấy trong bối cảnh quốc tế không có sự tồn tại của hệ thống thế giới xã hội chủ nghĩa, nước ta phải cọ xát, đương đầu, cạnh tranh với cả thế giới, nhưng đồng thời cũng có cơ hội mở rộng quan hệ kinh tế với cả thế giới, có điều kiện tạo ra tập hợp lực lượng mới. Bên cạnh thách thức kinh tế rất gay gắt, nước ta phải đương đầu với những thách thức quân sự và chính trị có lúc rất nhạy cảm và tế nhị. Có thể nói, đặc điểm nổi bật là nước ta hiện nay phải một mình đương đầu với tất cả, đồng thời cũng có khả năng tạo ra tập hợp lực lượng bên ngoài hoàn toàn mới. Để giành được thắng lợi, chúng ta phải huy động ở mức độ cao nhất sức mạnh của toàn thể dân tộc ta và phải tập hợp được lực lượng rộng rãi nhất trên trường quốc tế. Chỉ có như vậy nước ta mới tự bảo vệ được mình, tranh thủ được thời gian và khả năng sớm vươn lên thành quốc gia giàu mạnh. Chỉ có như vậy mới giữ được độc lập tự chủ, bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ, thoát khỏi hiểm hoạ tụt hậu, bảo vệ được thành quả cách mạng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì những lẽ trên, động lực để thực hiện nhiệm vụ chiến lược này là hun đúc tinh thần quật khởi dân tộc và thực hiện mạnh mẽ dân chủ. Điều này chẳng những không trái, mà còn là tiền đề không thể thiếu được cho thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đó chính là thực tiễn cách mạng Việt Nam trong bối cảnh quốc tế mới. Bây giờ nói độc lập gắn với chủ nghĩa xã hội là nói với nội dung như vậy. Bởi vì, không tạo ra được thực lực này, sẽ không còn độc lập tự chủ và cũng không có định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên chặng đường mới này của đất nước, hơn bao giờ hết là đảng cầm quyền, Đảng ta cần giương cao ngọn cờ dân tộc và dân chủ. Đảng ta là lực lượng chính trị có đủ tư cách nhất và uy tín cao nhất để làm tròn trọng trách này, nhất thiết không để ai nắm lấy. Đảng ta chẳng những phải phấn đấu vươn lên làm đội tiên phong của giai cấp, mà còn phải trở thành bộ phận tinh hoa nhất, tiêu biểu cho trí tuệ, nghị lực và phẩm chất cao quý của toàn thể dân tộc Việt Nam ta, bao gồm cả toàn thể cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đang hướng về Tổ quốc. Phải chăng đấy chính là một tư tưởng lớn, là nội dung cốt lõi của nhiệm vụ xây dựng Đảng mà Đại hội VIII cần làm rõ, là kim chỉ nam xây dựng đường lối và mọi chủ trương chính sách mới của Đảng. b) Xây dựng Đảng về tổ chức Có thể nói nhiệm vụ cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn phát triển mới, với những đặc điểm mới như đã được trình bày trong những phân tích nêu trên. Song tổ chức của Đảng về cơ bản vẫn giữ như thời chiến ! Đã đến lúc cần xét xem những gì có thể duy trì và nâng cao thêm, những gì cần cải tiến hay loại bỏ trong công tác xây dựng Đảng về tổ chức cho phù hợp với những nhiệm vụ và đòi hỏi mới. – Ưu điểm cần phát huy là Đảng ta có một hệ thống tổ chức cách mạng, chẳng những đáp ứng yêu cầu lãnh đạo thắng lợi trong chiến tranh, mà còn đủ năng lực đưa đất nước vào thời kỳ đổi mới. Trên phương diện tổ chức, chúng ta cần nghiên cứu sâu, tìm hiểu những nguyên nhân và yêu tố gì đã giúp cho Đảng ta chuyển mình được, đổi mới tư duy, đổi mới phương thức hoạt động đem lại những thành quả chẳng những tránh cho đất nước khỏi sụp đổ trong cuộc khủng hoảng ác liệt vừa qua của hệ thống thế giới xã hội chủ nghĩa, mà còn mở ra triển vọng chưa từng có của sự nghiệp phát triển nước ta. Có thể nói, chúng ta chưa nghiêm túc làm tốt công việc nghiên cứu, đúc kết những kinh nghiệm của vấn đề có ý nghĩa sống còn này. – Một vấn đề bức xúc khác đang đặt ra là : trong tình hình đòi hỏi phải tăng cường nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, mở rộng dân chủ để phát huy tối đa sự năng động của các thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường. Đảng ta cần được đổi mới và tăng cường về mặt tổ chức như thế nào ? Chúng ta chưa nghiên cứu sâu vấn đề này. Có lẽ không thể đơn thuần tiếp tục duy trì tổ chức và phương thức sinh hoạt các tổ chức cơ sở Đảng như hiện nay, bởi vì đã xuất hiện tình trạng Đảng hầu như không có mặt hoặc không thâm nhập sâu được vào nhiều hoạt động kinh tế xã hội mới phát triển ; hoặc tác dụng kiểm tra nắm bắt của Đảng đối với những hoạt động này rất yếu, chưa thoả đáng. Hiện nay, trong nông nghiệp kinh tế hộ giữ vai trò chủ yếu, lực lượng kinh tế các thành phần ngoài quốc doanh chiếm tới 60 % GDP, cơ chế thị trường còn nhiều mảng nằm ngoài pháp luật, các hoạt động xã hội, văn hoá lành mạnh và không lành mạnh, các hoạt động giao lưu với bên ngoài đang nở rộ. Vai trò và tác dụng thực chất của Đảng đối với những phát triển này như thế nào ? – Chúng ta khẳng định vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng cộng sản Việt Nam. Điều này đòi hỏi một mặt phải tăng cường khả năng lãnh đạo của Đảng, mặt khác phải tạo ra được cơ chế chính trị và mô trường xã hội đủ sức ngăn chặn xu thế quan liêu, độc đoán, mất dân chủ, xu thế xem thường và đứng trên pháp luật. Hơn thế nữa, vai trò lãnh đạo của Đảng cần được tăng cường trên cơ sở mở rộng dân chủ trong đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá của toàn xã hội. Như vậy tổ chức và phương thức sinh hoạt Đảng cần được cải tiến như thế nào cho phù hợp ? Mối quan hệ giữa Đảng và nhà nước, giữa Đảng các đoàn thể nhân dân cần được thiết kế lại như thế nào ? Đảng ta là đảng cầm quyền với nghĩa lãnh đạo đất nước dựa trên quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, song nhất thiết không làm thay. Một đòi hỏi rất khó phải thực hiện là : đảng viên và các tổ chức cơ sở Đảng phải đi đầu trong việc giữ gìn trật tự kỷ cương, nhưng lại phải biết phát huy sự năng động và khả năng sáng tạo của nhân dân theo định hướng của Đảng. Đảng cần đặc biệt quan tâm nâng cao dân trí, giáo dục, phát huy và bảo vệ quyền công dân để phát huy sức mạnh của cả nước. Đó là sức mạnh của chính Đảng ta, là con đường tiếp tục duy trì và tăng thêm ra sự chấp thuận tự nguyện với nhận thức sâu sắc nhất của toàn dân đối với vai trò lãnh đạo của Đảng ta mà tình hình nhiệm vụ mới đòi hỏi, đồng thời là một trong những yếu tố quan trọng bảo vệ Đảng. Chúng ta thảo luận nhiều về nguyên tắc “ dân chủ tập trung ”, hoặc “ tập trung dân chủ ”. Tôi đề nghị bỏ cách suy nghĩ rất công thức như vậy. Nên chăng khẳng định lại một cách không thể hiểu lầm như sau : Để huy động trí tuệ của toàn Đảng và bảo vệ sự trong sáng trong Đảng, cần phải triệt để dân chủ, đồng thời để bảo đảm sức chiến đấu của Đảng, mọi đảng viên phải tuyệt đối tuân theo điều lệ và phục tùng các nghị quyết của Đảng. Tổ chức và phương thức sinh hoạt Đảng cần được đổi mới nhằm đáp ứng tốt yêu cầu này. Trong thực tiễn hiện nay, Đảng ta đứng trước yêu cầu phải đẩy mạnh đấu tranh chống các hiện tượng vô tổ chức, vô chính phủ, cục bộ bản vị (đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế), đồng thời phải nghiêm túc thực hiện những nguyên tắc dân chủ trong Đảng. Có thể nói công tác nghiên cứu đường lối chính sách, nghiên cứu tình hình và con đường phát triển của đất nước, công tác bồi dưỡng đảng viên, công tác tuyển chọn, bố trí cán bộ... của chúng ta hiện nay chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng. Hiện nay, nếu nhìn vào lịch sử quá trình hình thành sự nghiệp đổi mới, chưa thể nói Đảng ta thực sự đi tiên phong về mặt tư duy, đang đào tạo ra đủ và bố trí được lực lượng cán bộ xuất sắc theo kịp đòi hỏi của đất nước ; cũng chưa thể nói trình độ tư tưởng lý luận của tuyệt đại đa số đảng viên phù hợp với những đòi hỏi mới của nhiệm vụ cách mạng. Tiếp tục công tác đào tạo và bố trí cán bộ như hiện nay còn tăng thêm nguy cơ cục bộ, địa phương chủ nghĩa và cát cứ, tăng thêm tính cơ hội, dựa dẫm hoặc nguy cơ bè phái trong Đảng, khó làm bộc lộ và đào tạo nhân tài, khó tạo ra sinh lực mới cho những đảng bộ hoặc tổ chức cơ sở đang yếu kém... Chúng ta phải nhìn thẳng vào những mặt còn thiếu sót để tự chỉnh đốn, tự vươn lên. Có thể kết luận, trên con đường đi lên đầy gian khổ và thử thách của đất nước, phải chăng cái khó khăn nhất hiện nay là tình trạng trình độ, phẩm chất cán bộ đảng viên chưa theo kịp sự phát triển của đất nước ? Tình trạng bất cập với đòi hỏi của nhiệm vụ là nguy cơ lớn đối với Đảng. Cần gấp rút sắp xếp, cải thiện lại các ban, viện của Đảng, đổi mới lại tổ chức và phương thức sinh hoạt Đảng. Đặc biệt cần đẩy mạnh giáo dục cho đảng viên chủ nghĩa yêu nước với nội dung sớm làm cho đất nước giàu mạnh, cần nâng cao ý chí của đảng viên, phấn đấu thực hiện các mục tiêu của Đảng, trau dồi những tri thức mới mà nhiệm vụ mới của Đảng đòi hỏi. Hơn bao giờ hết, nâng cao năng lực lãnh đạo và phẩm chất cách mạng của Đảng, nâng cao năng lực quản lý nhà nước của chúng ta là hai nhân tố quyết định nhất để nắm lấy thời cơ đang đến với đất nước. Xin trình bày để các anh tham khảo./. VÕ VĂN KIỆT Các thao tác trên Tài liệu In trang này Các số đặc biệt Giai Phẩm Xuân Giáp Ngọ Giai Phẩm Xuân Ất Mùi Vĩnh Sính 1944 - 2014 Với thời-gian, Hoàng-Cầm Phong Hoá - Ngày Nay Giai Phẩm Xuân Quý Tỵ Đại tướng Võ Nguyên Giáp Start Stop Không nên bỏ qua Văn hóa - Nghệ thuật Sách, văn hóa phẩm Tranh ảnh Nối kết chọn lọc Danh sách một số trang mạng đáng chú ý Ủng hộ chúng tôi - Support Us Kênh RSS Để bạn đọc tiện theo dõi các tin mới, Diễn Đàn Forum cung cấp danh mục tin RSS : www.diendan.org/DDF-cac-bai-moi/rss Trang này được phát hành theo Giấy phép Creative Commons BY-NC-ND 3.0 France. Copyright © 2006 by Dien Dan Forum, BP 50, 92340 Bourg-La-Reine, France. | diendanonline@gmail.com Sơ đồ Hệ thống Liên hệ Thể lệ gửi bài Contributeurs
1614178347293.1.parquet/166818
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 43701, "url": "https://www.diendan.org/tai-lieu/bao-cu/so-048/thu-vo-van-kiet-1995" }
107.6
Thông tin tổng hợp English 中文 Trang chủ Giới thiệu Cổng TTĐT Chính phủ Báo điện tử Chính phủ Thư điện tử công vụ Chính phủ Chính phủ với Người ngoài nước Đại hội lần thứ XIII của Đảng | Chống dịch như chống giặc! | Thông tin cập nhật dịch nCoV | Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh-Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng Nước CHXHCN Việt Nam Chính phủ Hệ thống văn bản Số liệu ngân sách Nhà nước Chính sách phát triển kinh tế - xã hội Các chương trình, dự án phát triển KT - XH trọng điểm của quốc gia Các chương trình Khoa học và Công nghệ Tình hình kinh tế - xã hội Nghị quyết của Chính phủ Thông cáo báo chí VBQPPL do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành Thông tin tổng hợp Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Tuyên ngôn Hiến pháp năm 2013 Chủ tịch Hồ Chí Minh Hệ thống chính trị Ban Chấp hành Trung ương Các Ban Đảng Trung ương Văn kiện Đảng Tư liệu về Đảng Lịch sử Địa lý Dân tộc Bản đồ hành chính (GIS) Kinh tế- Xã hội Văn hoá Du lịch CHƯƠNG IX CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG Điều 110 1. Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau: Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương; Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập. 2. Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến Nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do luật định. Điều 111 1. Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định. Điều 112 1. Chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên. 2. Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương. 3. Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó. Điều 113 1. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. 2. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Điều 114 1. Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. 2. Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao. Điều 115 1. Đại biểu Hội đồng nhân dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa phương; liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc, báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Hội đồng nhân dân, trả lời những yêu cầu, kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân dân, động viên Nhân dân tham gia quản lý nhà nước. 2. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chủ tịch Ủy ban nhân dân, các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Thủ trưởng cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân. Người bị chất vấn phải trả lời trước Hội đồng nhân dân. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền kiến nghị với các cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị ở địa phương. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị này có trách nhiệm tiếp đại biểu, xem xét, giải quyết kiến nghị của đại biểu. Điều 116 1. Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thực hiện chế độ thông báo tình hình của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân động viên Nhân dân cùng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương. 2. Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương được mời tham dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân và được mời tham dự hội nghị Uỷ ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan. (Nguồn: Văn phòng Quốc hội) BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH Trang tin Văn phòng Chính phủ Chuyên trang Thủ đô Hà Nội Chuyên trang Thành phố Hồ Chí Minh Chương trình chuyên đề Việt Nam Online Về đầu trang Trang chủ Báo điện tử Chính phủ Trang Đa phương tiện Giới thiệu Cổng TTĐT Chính phủ Sơ đồ Cổng thông tin Liên hệ English 中文 © CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ Tổng Giám đốc: Nguyễn Hồng Sâm Trụ sở: 16 Lê Hồng Phong - Ba Đình - Hà Nội. Điện thoại: Văn phòng: 080 43162; Fax: 080.48924; Email: thongtinchinhphu@chinhphu.vn. Bản quyền thuộc Cổng Thông tin điện tử Chính phủ. Ghi rõ nguồn 'Cổng Thông tin điện tử Chính phủ' hoặc 'www.chinhphu.vn' khi phát hành lại thông tin từ các nguồn này.
1614178347293.1.parquet/9399
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 5335, "url": "http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietNam/ThongTinTongHop?categoryId=920&articleId=10052986" }
107.5
SỞ THÚ ĐÃ LỖI THỜI VÀ LÀ NHÀ TÙ TÀN NHẪN VỚI ĐỘNG VẬT Skip to content Mon 's Pet Trang Chủ Giới thiệu Chuyên mục thú cưng Mèo Chó Chim Hamster Các loại động vật khác Tin tức Menu Close Trang Chủ Giới thiệu Chuyên mục thú cưng Mèo Chó Chim Hamster Các loại động vật khác Tin tức Richard, một con khỉ đột trong vườn thú Prague, xuất hiện trong một chương trình truyền hình thực tế cùng với hai con cái. Công chúng được yêu cầu bỏ phiếu cho con khỉ đột yêu thích của họ SỞ THÚ ĐÃ LỖI THỜI VÀ LÀ NHÀ TÙ TÀN NHẪN VỚI ĐỘNG VẬT – ĐÃ ĐẾN LÚC BIẾN CHÚNG THÀNH QUÁ KHỨ Post author:Lê Vân Anh Post published:Tháng Chín 14, 2019 Post category:Tin tức Sở thú không đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo tồn động vật hoang dã, lý do giáo dục của họ đã bị phóng đại và các nghiên cứu của họ gây tổn thương cho động vật. Nhà bảo tồn hàng đầu Damian Aspinall nghĩ rằng đã đến lúc để loại bỏ sở thú. Sở thú trên toàn thế giới biện minh cho sự tồn tại của họ thông qua ba mục tiêu: bảo tồn, giáo dục và nghiên cứu. Nhưng đó là những gì sở thú muốn bạn tin tưởng rằng điều họ đang làm là đúng; thực tế lại hoàn toàn khác. Chúng tôi biết điều này bởi vì chúng tôi chịu trách nhiệm cho hai công viên động vật hoang dã và đã kinh doanh sở thú trong hơn 40 năm qua. Sau khoảng thời gian đó, chúng tôi tin rằng việc giam cầm động vật hoang dã trong sở thú là việc làm hoàn toàn không cần thiết. Chúng tôi tin rằng có một cách tốt hơn, trung thực hơn cho trường hợp này. Chúng tôi không đề nghị họ đóng cửa ngay lập tức, chúng tôi biết rằng đây không phải là một lựa chọn khả thi. Tuy nhiên, chúng tôi đề xuất một kế hoạch để các sở thú được xóa bỏ trong khoảng thời gian 25 đến 30 năm, là yêu cầu các sở thú phải xây dựng một hồ sơ về các chi tiết quan trọng như chế độ ăn uống, không gian sống và chương trình phóng thích. Chúng ta hãy bắt đầu với một đánh giá và phê bình về 3 lý lẽ nguyên tắc cho các sở thú, để giúp chúng ta hiểu những gì dữ liệu có sẵn phải được thực hiện. Mục lục 3 lý lẽ nguyên tắc cho các sở thú Vậy tại sao các sở thú lại nuôi nhốt hàng ngàn động vật khác? Một vấn đề xa hơn nữa là tranh cãi xung quanh việc giam giữ động vật khi lãng phí tiền để xây các chuồng thú. Chúng tôi đề xuất một kế hoạch loại bỏ các sở thú trong khoảng thời gian 25 đến 30 năm, bắt đầu với một số loài rõ ràng không phù hợp để nuôi nhốt. 3 lý lẽ nguyên tắc cho các sở thú Sở thú tuyên bố một trong những lý do hoạt động chính của họ là bảo tồn. Tuy nhiên, khi nghiên cứu chi tiết này dễ dàng nhận thấy sự thật không được như vậy. Ví dụ, trong các sở thú châu Âu, 70-75% động vật trong sở thú không bị đe dọa trong tự nhiên. Trong số khoảng 850 loài động vật có vú và phân loài được nuôi tại các sở thú châu Âu thì có 500 loài được đánh giá là ít quan trọng nhất trong danh sách đỏ của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) và chỉ có 45 loài (chiếm 5%) được đánh giá là bị đe dọa nghiêm trọng. Trong số 45 loài đang bị đe doạ nghiêm trọng này, chúng tôi ước tính có ít nhất ba loài là thực sự có khả thi khi tính đến các vấn đề lai tạo, bệnh tật và đa dạng di truyền. Có hơn 5.700 loài thuộc tất cả các loại động vật được nuôi bởi các thành viên của Hiệp hội Sở thú và Aquaria châu Âu, chỉ chiếm khoảng 8% trong số tất cả các sở thú ở Châu Âu, nhưng chỉ có hơn 200 loài trong các chương trình nhân giống được quản lý . Điều này có nghĩa là, bằng cách thừa nhận của riêng họ, khoảng 95% động vật trong các sở thú châu Âu không đủ quan trọng hoặc có liên quan đủ để đưa vô các chương trình nhân giống và hầu như tất cả đều có cùng một vấn đề: lai tạo, mức độ đa dạng di truyền thấp và bệnh tật. Sở thú muốn chúng tôi tin rằng một trong những chức năng chính của họ là giáo dục công chúng về bảo tồn. Câu hỏi chúng ta phải đặt ra là: bằng chứng này ở đâu? Trong nhiều thập kỷ, họ đã lập luận rằng việc nhìn thấy động vật sống giúp giáo dục và huy động thế hệ các nhà bảo tồn tiếp theo. Tuy nhiên, dường như các chuyến thăm vườn thú mà không có người hướng dẫn thường chỉ giúp cải thiện kiến thức đa dạng sinh học trong một phần ba số du khách, các nhà giáo dục vườn thú chuyên nghiệp có thể có kết quả tốt hơn trong việc tăng kiến thức đa dạng sinh học khi làm việc trong trường học chứ không phải trong vườn thú, và cải thiện kiến thức đa dạng sinh học từ việc tới thăm các vườn thú chỉ có một liên kết rất nhỏ với gia tăng kiến thức về hành vi bảo tồn. Với kiến thức về hành vi ủng hộ bảo tồn là của một chặng đường dài có được từ một nhà bảo tồn tích cực. Theo kinh nghiệm của chúng tôi, chúng tôi ước tính rằng 99% du khách đến công viên của chúng tôi sẽ có một ngày vui chơi thú vị, nhưng chỉ có 1% trở nên nhiệt tình với việc bảo tồn. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là 1% đó sẽ tích cực tham gia công việc bảo tồn động vật. Vả lại, nếu họ có làm điều đó thì con số 1% cũng không có ảnh hưởng gì đến tình trạng suy thoái và phá rừng của động vật hoang dã trên khắp thế giới. Theo quan điểm của chúng tôi, việc giữ hàng trăm ngàn động vật bị giam cầm, chỉ để một tỷ lệ rất nhỏ số người có thể trở thành nhà bảo tồn tích cực, là một cái giá quá cao phải trả. Thứ hai, và nguy hiểm hơn nhiều, chúng ta đang tích cực duy trì và dạy cho thế hệ tiếp theo coi sở thú là một phần hoàn toàn chấp nhận được trong xã hội của chúng ta nhưng đồng thời cũng là người bảo tồn động vật hoang dã, trường hợp này vẫn chưa được làm rõ. Vì vậy chúng ta nên tập trung sự chú ý của thế hệ tiếp theo chỉ trong việc bảo tồn động vật hoang dã tại môi trường sống của chúng. Winston Churchill sử dụng cây sào dài để cho sư tử Rota ăn trong chuyến thăm Sở thú Luân Đôn năm 1947 (Nguồn hình: Independent) Có một sự vô lý cho rằng bạn chỉ có thể bảo tồn động vật bằng cách nuôi nhốt. Lý lẽ này hoàn toàn không đủ sức thuyết phục. Bạn hoàn toàn có thể lấy được rất nhiều tài liệu về động vật hoang dã có nhiều thông tin hơn tuyệt vời, chẳng hạn như tác phẩm của David Attenborough. Các chương trình của Attenborough, có tính giáo dục cao hơn nhiều so với một chuyến đi trong ngày đến một sở thú, và có lẽ cũng đã cung cấp nhiều thông tin cho nghiên cứu động vật hơn so với các hoạt động được thực hiện tại các sở thú. Nếu bạn có thể lấy bằng thạc sĩ về cổ sinh vật học mà không cần phải nghiên cứu khủng long sống, rõ ràng bạn có thể đam mê bảo tồn động vật hoang dã mà không cần đến sở thú. Chúng tôi khuyên nghị việc giáo dục về bảo tồn động vật hoang dã tại môi trường sống của chúng phải là một phần của chương trình giảng dạy quốc gia, bao gồm thực tế của sở thú và vai trò hạn chế của chúng trong việc bảo tồn các loài động vật. Điều này sẽ hiệu quả hơn nhiều so với giáo dục bảo tồn dựa trên sở thú. Chắc chắn không thể có bất kỳ lời biện minh nào cho việc nuôi nhốt động vật chủ yếu để nghiên cứu, một phần vì động vật được nuôi nhốt sẽ hành động khác so với khi được sống ngoài tự nhiên. Không có lý do rõ ràng rằng tại sao các nghiên cứu cần thiết lại không thể được thực hiện tại môi trường sống của động vật. Hơn nữa, người ta phải đặt câu hỏi về các thất bại của các nghiên cứu trong sở thú, xem xét việc họ không thể giải quyết các vấn đề về bệnh tật, lai tạo và khả năng di truyền với loài mà họ chăm sóc. Thật vậy, một số người dường như coi nghiên cứu là bảo tồn, nhưng rõ ràng hai điều này hoàn toàn khác nhau, nghiên cứu có thể liên quan đến bảo tồn nhưng bản thân nó không phải là bảo tồn. Các sở thú tranh luận mạnh mẽ về tầm quan trọng của việc giữ các loài động vật trong điều kiện nuôi nhốt, để cung cấp một nơi gọi là có thể chống lại sự tuyệt chủng. Nhưng đây chỉ là điều viễn vông. Chúng tôi đã nhận ra rằng chỉ có 5% trong số những động vật này đang bị đe dọa nghiêm trọng trong tự nhiên, có lẽ chỉ có ba động vật có vú cực kỳ nguy cấp thực sự có thể sống được trong các sở thú ở châu Âu. Vậy tại sao các sở thú lại nuôi nhốt hàng ngàn động vật khác? Một số lượng lớn các loài này được lai tạo, giao phối cận huyết hoặc bị bệnh, vì vậy một lần nữa chúng ta lại đặt câu hỏi: Tại sao chúng ta lại nuôi nhốt động vật? Quan trọng hơn, các sở thú phải tự hỏi mình hai câu hỏi: thứ nhất, tại thời điểm nào một con vật bị đe dọa đến mức nó có thể cần phải được đưa vào một số hình thức nuôi nhốt để gây giống, và thứ hai, nếu vậy, tại sao điều này không được thực hiện tại môi trường sống tự nhiên của chúng? Một ví dụ là khỉ đột núi, vào năm 1981, số lượng của chúng chỉ có 242 cá thể, ngày nay, chúng đã có gần 1.000 cá thể. Đây là ở đất nước Congo, bao quanh bởi sự hủy hoại môi trường sống nghiêm trọng, nội chiến và săn trộm, và tất cả được thực hiện mà không có bất kỳ sự nuôi nhốt nào. Nếu các sở thú thực sự tin rằng họ đang hành động theo kiểu nuôi nhốt hiện đại đối với các loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng, vậy tại sao không tích cực theo đuổi các chương trình phóng tích đối với các loài động vật mà họ quản lý? Knut Chú gấu bắc cực con ở Berlin. Mặc dù động vật nhỏ rất dễ thương, nhưng thực tế cuộc sống của chúng không phải như vậy (Nguồn hình: Independent) Lịch sử đã cho thấy các loài động vật được nuôi nhốt chỉ góp phần rất nhỏ trong việc cải thiện tình trạng hoang dã của một số ít các loài động vật có vú. Bò rừng châu Âu, ngựa hoang mông cổ, và linh dương sừng thẳng Ả Rập đều đã được nhân giống trở lại từ sự tuyệt chủng bằng cách nuôi nhốt nhân giống trong vườn thú, nhưng danh sách này là rất ngắn. Chỉ có một số ít động vật được nuôi bởi các sở thú châu Âu là có tên trong các chương trình phóng thích, chưa đến 5% các loài động vật có vú và một phần ba trong số đó là những loài không bị đe dọa ở quy mô toàn cầu. Ngay cả khi nhân giống nuôi nhốt được sử dụng trong các chương trình phóng thích, thì các sở thú cũng thường không được coi là môi trường thích hợp để thực hiện việc nuôi nhốt. Theo kinh nghiệm của chúng tôi, có một niềm tin chung đã ăn sâu vào các sở thú rằng những động vật này thuộc sở thú vì những lý do đã nêu ở trên và không thể được đưa trở lại tự nhiên, vì chúng đã được thể chế hóa, mất đi bản năng sinh tồn tự nhiên, vậy tại sao chúng lại nuôi nhốt chúng? Mặc dù chúng tôi thừa nhận rằng trong một số trường hợp, việc phục hồi và phóng thích vào tự nhiên có thể là không thể, nhưng chúng tôi đã chỉ ra rằng điều đó là có thể. Sở thú cũng thường nói rằng việc bảo tồn không thể được thực hiện tại môi trường sống của động vật vì chi phí, săn bắt trộm và phá hủy môi trường sống. Nhưng một lần nữa, Quỹ Aspinall đã chứng minh điều ngược lại, và thường chống lại sự mong đợi của cộng đồng sở thú. Tổ chức này đã phóng thích thành công các loài động vật được sinh sản nuôi nhốt vào hoang dã như khỉ đột phương tây, tê giác đen, vượn Javan, voọc Javan, voọc xám, linh cẩu nâu, ngựa hoang Mông Cổ và bò rừng châu Âu. Các nơi phóng thích có phương pháp bảo vệ lâu dài và động vật được theo dõi trong nhiều năm. (Videos những chú voi nhảy theo nhạc và chơi nhạc cụ sau khi bị rèn luyện bằng bullhook 1 cách đau đớn) Một ví dụ điển hình của một loài động vật được phóng thích và bảo vệ thành công trong tự nhiên là khỉ đột. Mặc dù khỉ đột đang bị đe dọa nghiêm trọng, và khỉ đột phương tây là một trong số ít các loài cực kỳ nguy cấp với quần thể nuôi nhốt nhưng cũng dễ dàng di chuyển tự do ở châu Âu, ước tính có khoảng 250.000-300.000 cá thể khỉ đột (của cả hai loài) trong tự nhiên. Điều này củng cố quan điểm của chúng tôi rằng quần thể khỉ đột rõ ràng không phải là điểm ngoặt, nơi có nhu cầu giữ chúng trong điều kiện nuôi nhốt. Chúng tôi đã phóng thích thành công khỉ đột quay trở lại tự nhiên trong hơn 30 năm, với hơn 70 lần được phóng thích và 30 lần sinh sản. Ngay cả khi quần thể đạt đến mức thấp đáng báo động, vẫn có thể bảo tồn các loài động vật tại môi trường sống tự nhiên hơn là trong các sở thú. Một ví dụ khác là vượn cáo Greater Bamboo, một trong những loài linh trưởng hiếm nhất trên hành tinh. Việc triển khai chương trình sinh tồn các loài dựa vào cộng đồng quỹ Aspinall cho loài nguy cấp nghiêm trọng này ở Madagascar đã giúp phục hồi từ chỉ 100 cá thể hoang dã lên đến hơn 1.000 cá thể chỉ sau một thập kỷ bảo tồn. Do đó, vượn cáo Greater Bamboo đã bị loại khỏi danh sách 25 loài linh trưởng nguy cấp nhất thế giới. Nếu 100 cá thể này được các sở thú nuôi nhốt để nhân giống thì sự phục hồi của chúng trong tự nhiên sẽ không bao giờ diễn ra. Vấn đề săn trộm trong tự nhiên là kiến thức phổ biến và các sở thú sử dụng điều này như một cái cớ để giữ voi trong điều kiện nuôi nhốt. Tuy nhiên, điều mà các sở thú không nói với bạn là sự phức tạp trong việc quản lý voi châu Phi trong điều kiện nuôi nhốt và các vấn đề liên quan đến không gian để giữ con đực. Ở các sở thú châu Âu, điều này có nghĩa là họ đơn giản không thể cho voi sinh sản đủ để duy trì quần thể voi bền vững. Trớ trêu thay, dân số bị giam cầm có vẻ như sẽ tuyệt chủng nhanh hơn dân số hoang dã. Việc trả tự do các loài có nguy cơ tuyệt chủng vào tự nhiên để hỗ trợ các chương trình nhân giống là một mục tiêu lớn của Quỹ Aspinall (Nguồn hình: independent) Ngược lại, có hơn 20.000 con voi châu Phi trong các khu bảo tồn, tư nhân và công cộng chỉ riêng ở Nam Phi, với rất ít nạn săn trộm. Ở Mỹ, các sở thú phải đối mặt với một tình huống tương tự, và thậm chí họ hiện còn đang cố gắng nhập thêm những con voi hoang dã từ châu Phi. Điều này nhấn mạnh tâm lý chung của sở thú về nhập khẩu động vật hoang dã và cách quản lý hiệu quả được ưu tiên hơn bảo tồn tại môi trường tự nhiên của động vật. Một vấn đề xa hơn nữa là tranh cãi xung quanh việc giam giữ động vật khi lãng phí tiền để xây các chuồng thú. Cho đến nay, các sở thú đã chi hàng trăm triệu bảng để xây dựng các khu vực chuồng trại mới, thường là cho các động vật thậm chí không bị đe dọa, và trong hầu hết các trường hợp, nó là vì lợi ích của công chúng, không phải cho động vật. Người ta đã biết rằng một sở thú đã chi tới 6-10 triệu bảng tiền từ thiện để xây dựng chuồng trại và chỉ để nuôi nhốt hai đến bốn loài thú ăn thịt lớn – chắc chắn số tiền này sẽ được dùng tốt hơn để bảo vệ hơn 100 con hổ tại môi trường sống tự nhiên trong vòng 10 năm. Để làm cho vấn đề tồi tệ hơn, những sở thú này thường được xây dựng cho trải nghiệm của du khách, tập trung vì con người hơn là vì phúc lợi của động vật. Thường không có sự riêng tư cho động vật và thiếu không gian, dẫn đến các rối loạn căng thẳng tinh thần rất phổ biến ở động vật nuôi nhốt. Có quá nhiều ví dụ về việc sử dụng sai lệch các khoản quỹ để liệt kê, vì vậy câu hỏi đơn giản là: với các sở thú quyên góp được bằng từ thiện, thì liệu việc dành khoản quyên góp này cho việc xây dựng chuồng trại mới liệu có tốt hơn là dùng chúng để bảo vệ động vật hoang dã và môi trường sống tự nhiên? Câu trả lời đã rõ ràng. *** Cho đến giữa những năm 1980, không có chương trình nhân giống nào liên quan đến vấn đề phân loài và độ thuần chủng. Trải qua nhiều thế hệ, các cá thể từ các phân loài khác nhau và đôi khi từ cùng một dòng di truyền đã được lai tạo với nhau mà không có bất kỳ chiến lược chặt chẽ cụ thể nào. Do đó, ngày nay không có lịch sử chính xác hoặc nòi giống di truyền chính xác cho nhiều loài và phân loài, điều này khiến cho nhiều loài và phân loài này không thể có bất kỳ giá trị bảo tồn nào. Mặc dù các sở thú đã nhận thức được điều này gần đây và đang cố gắng loại bỏ sự lai tạo, nhưng thực tế là điều này ảnh hưởng đến đại đa số động vật đang bị giam cầm và không thể khắc phục. Điều mà các sở thú không muốn cho bạn biết là một số lượng lớn các loài động vật đang bị nuôi nhốt đều mang một dạng bệnh nào đó, điều này một lần nữa khiến chúng phủ nhận bất kỳ giá trị bảo tồn nào và ngăn chúng không bao giờ được đưa trở lại vào tự nhiên. Sở thú không có nghĩa vụ hoặc khuyến khích phải minh bạch về những vấn đề cực kỳ quan trọng này. Ngựa vằn tại nơi sống mới của chúng trong Sở thú Wildlands Adventure ở Emmen, Hà Lan. Nơi các chương trình nhân giống không phải luôn luôn hỗ trợ bảo tồn loài (Nguồn hình: Independent) Chúng tôi đã đấu tranh để tìm thấy nhiều hơn một số loài đáng giá trên toàn thế giới, trong số hàng ngàn loài động vật đang bị giam cầm, liệu có bất kỳ giá trị bảo tồn thực sự nào không? Những người khác đã đi đến kết luận tương tự, ngay cả khi chỉ nhìn vào các vấn đề khả thi. Vì vậy, một lần nữa, chúng tôi đặt câu hỏi: Điều gì khiến sở thú giam giữ những con vật này và tiếp tục nhân giống chúng khi chúng không có giá trị bảo tồn? Lý do là những con vật này có giá trị để trưng bày công khai và để kiếm lợi nhuận. *** Chúng tôi đề xuất một kế hoạch loại bỏ các sở thú trong khoảng thời gian 25 đến 30 năm, bắt đầu với một số loài rõ ràng không phù hợp để nuôi nhốt. Trong 10 năm tới, các sở thú trong khu đô thị nhỏ, hoặc bất kỳ vườn thú nào rộng khoảng 50 hecta trở xuống, nên được xem xét để đóng cửa. Lý do cho điều này chỉ đơn giản là không gian càng nhỏ, sự căng thẳng đối với động vật càng lớn. Đây là kiến ​​thức phổ biến. Nếu động vật phải được nuôi nhốt trong 30 năm tới, thì những cải thiện quan trọng trong chăn nuôi và phúc lợi của động vật trong các sở thú cần phải được thực hiện. Chúng tôi tin rằng chế độ ăn của động vật trong điều kiện nuôi nhốt thường không đạt tiêu chuẩn với sự thiếu đa dạng và chất lượng thức ăn kém điều này cần phải nhanh chóng cải thiện. Trong khi các sở thú chắc chắn đã được cải thiện qua nhiều năm với việc làm giàu, ở đây vẫn còn nhiều việc phải làm. Chúng tôi biết rằng những gì chúng tôi đang đề xuất sẽ không phổ biến ở tất cả các sở thú trên thế giới. Tuy nhiên, chúng tôi mong muốn được làm việc cùng nhau để hình thành quan điểm hợp tác một cách trung thực và tốt nhất về phía trước. Nếu các sở thú phản đối những quan điểm này thì chúng tôi mời họ trả lời và liệt kê tất cả lý do tại sao họ giam giữ các loài động vật, cách họ đối phó với bệnh tật, lai tạo và các quần thể động vật hiện không có trong nội dung bảo tồn và lý giải tất cả số tiền mà họ đã dành để xây chuồng trại. Ở tuổi 92, Attenborough tiếp tục vượt qua các giới hạn (Nguồn hình: Independent) Quỹ Aspinall đã học được nhiều điều liên quan đến việc phóng thích động vật trong vài năm qua và chúng tôi cố gắng truyền đạt kiến ​​thức của mình, nhưng tất cả những suy nghĩ đã ăn sâu vào tiềm thức của các sở thú đều phủ nhận khả năng này. Kết quả là, chúng tôi đã đạt được rất ít tiến triển trong việc thuyết phục các tổ chức khác rằng phóng thích là một công cụ bảo tồn khả thi theo sự sắp xếp của họ. Quỹ Aspinall tin rằng nhiều động vật, bị đe dọa và không bị đe dọa, hiện đang bị giam cầm có thể được tìm thấy những ngôi nhà trong tự nhiên hoặc bán hoang dã. Kinh nghiệm của chúng tôi đã chỉ ra rằng động vật đã từng nghĩ rằng chúng không thể được đưa trở lại vào tự nhiên, nếu không có sự cam kết và nguồn lực cần thiết. Giá trị bảo tồn được thêm vào bao gồm bảo vệ cho toàn bộ khu vực phóng thích. Tổ chức này bảo vệ hơn 400.000 hecta đất trên cao nguyên Bateke, bao quanh biên giới Congo và Gabon, và bằng cách phóng thích một loài chủ chốt như khỉ đột, điều này như một chiếc ô bảo vệ cho các loài biểu tượng khác như voi, hắc tinh tinh, trâu rừng và sư tử. Tổ chức này đã làm việc cho các chương trình phóng thích tương tự trên khắp thế giới với tê giác đen, vượn Javan, voọc Javan, voọc xám, bò rừng châu Âu, linh cẩu nâu và ngựa hoang Mông Cổ. Chúng tôi đã tổ chức nghiên cứu tại môi trường sống tự nhiên để giúp hướng dẫn bảo tồn và ra các quyết định phóng thích, và đã phát triển các dự án bảo tồn dựa vào cộng đồng ở Madagascar, bảo tồn một số loài có nguy cơ tuyệt chủng cao nhất trên hành tinh thông qua làm việc tại môi trường sống tự nhiên một cách hiệu quả mà không cần phải nuôi nhốt động vật. Các nỗ lực bảo tồn và phóng thích là cốt lõi của nền tảng tư duy và lập kế hoạch, và cũng nên dành cho tất cả các sở thú trên toàn cầu. Rõ ràng các sở thú không thỏa mãn các tiêu chí mà họ sử dụng để biện minh cho sự tồn tại lâu nay: sở thú không đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo tồn động vật hoang dã, các tuyên bố về giáo dục bị phóng đại, các nghiên cứu trong vườn thú đã bị làm sai lệch so với sự thật. Nếu tổng số loài động vật bị giam giữ trong các sở thú có thể được sử dụng như một hàng rào để chống lại sự tuyệt chủng trong tự nhiên (sau yếu tố bệnh, cổ chai di truyền và các quá trình lai tạo được xem xét), thì lý do gì để chúng ta lại giam cầm hàng ngàn loài động vật như vậy? Để tập trung vào mối đe dọa tuyệt chủng thực sự của động vật hoang dã trên khắp thế giới, chúng ta nên đẩy nhanh sự tuyệt chủng của Homo Zoorocratus. Chúng tôi sẽ tiếp tục dẫn đầu thế giới trong việc phóng thích các động vật có vú được sinh ra trong vườn thú và sẽ thả các loài tiếp theo trở lại tự nhiên. Tổ chức cũng thừa nhận rằng mặc dù đã có nhiều nỗ lực, nhưng vẫn có những mâu thuẫn hoặc có hành động đạo đức giả trong công việc của chúng tôi. Chúng tôi chấp nhận rằng trong các cơ sở của mình, chúng tôi đã gặp phải các vấn đề tương tự như được mô tả ở trên cũng như bao tổ chức khác, nhưng chúng tôi cam kết và chắc chắn sẽ xử lý các vấn đề đó. Chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu các vấn đề liên quan như di truyền và rủi ro bệnh tật, và chúng tôi sẽ đầu tư ít nhất 10% giá trị của hóa đơn cổng vào các dự án tại môi trường tự nhiên của động vật. Chúng tôi ghi nhận và đánh giá cao công việc tuyệt vời của những người giữ vườn thú chuyên dụng trên khắp thế giới, những người luôn dành tất cả đều đam mê phúc lợi và bảo tồn động vật. Chúng tôi sẽ tiếp tục đối thoại với họ và giúp họ đặt câu hỏi về những đóng góp thực sự của sở thú về việc bảo tồn. Chú khỉ Harambe với đứa trẻ rơi vào vòng tay của mình. Đứa trẻ sống sót nhưng Harambe bị bắn chết (Nguồn hình: Independent) Các quy định sở thú không nên được thực hiện bởi người của sở thú, mà nen được thực hiện bởi các chuyên gia bên ngoài bao gồm các nhà bảo tồn động vật hoang dã. Để có được giấy phép sở thú, chúng tôi khuyến nghị các sở thú phải làm như sau: tất cả các loài động vật trong các sở thú mà không bị tuyệt chủng trong tự nhiên hoặc đang bị đe dọa nghiêm trọng nên được loại bỏ dần dần trong 20 năm tới, cũng như bất kỳ loài nào bị bệnh, lai tạo hoặc thiếu độ thuần chủng. Mỗi sở thú nên có một chương trình phóng thích các loài động vật mà họ đang giam giữ, và nên loại bỏ dần dần các loài mà chúng không có chương trình phóng thích. Trong 10 năm hoặc ít hơn, các sở thú đô thị, hoặc các sở thú nhỏ hơn 20 hecta nên bị đóng cửa, hoặc chỉ giữ một số lượng tối đa các loài động vật riêng biệt. Tất cả các hồ sơ sức khỏe, cũng như các vấn đề lai tạo, phải được công khai, minh bạch và làm rõ cho công chúng, và hồ sơ di truyền đầy đủ nên được xây dựng cho tất cả các loài. Công chúng nên được biết về những động vật không bị đe dọa nghiêm trọng. Tất cả các chương trình biểu diễn động vật phải dừng lại ngay lập tức. Động vật phải được cung cấp các khu vực riêng tư đàng hoàng, không được để chúng phải tiếp xúc với khách tham quan quá thường xuyên. Chúng tôi khuyên các hướng dẫn viên khi hướng dẫn cho khách tham quan nên hành động một cách nhanh chóng để tạo cho tất cả động vật trong sở thú có sự riêng tư và không phải tiếp xúc với khách tham quan trong thời gian dài để tránh căng thẳng. Huấn luyện động vật cho các lý do nghiên cứu hoặc thú y phải có mục tiêu và hướng dẫn cụ thể để tránh sự can thiệp không cần thiết vào hành vi tự nhiên của chúng. Tối thiểu 10% hóa đơn cổng vườn thú phải được đầu tư trực tiếp vào các dự án bảo tồn tại môi trường sống tự nhiên của động vật, bao gồm quỹ bắt buộc của các bảo tồn tại môi trường sống tự nhiện cho các loài động vật mà họ nắm giữ và các quỹ tùy ý cho các nỗ lực bảo tồn khác, tất cả đều phải minh bạch. Các sở thú phải chứng minh rằng bất kỳ số tiền nào trên 250.000 bảng Anh để chi cho việc xây dựng chuồng trại mới đều sẽ không tốt hơn đầu tư vào bảo tồn tại môi trường sống tự nhiên. Nếu sở thú quá ghê gớm, tại sao chúng vẫn tồn tại trên quy mô lớn như vậy? Đáp án quá đơn giản. Zooreaucracies và các nhà quản lý vườn thú có tâm lý kiểu như thích sưu tập tem và sự thèm muốn và ưu tiên để làm hài lòng khách tham quan với các loài động vật mang tính biểu tượng và không bị đe dọa trong tự nhiên, dẫn đến việc động vật bị giam cầm không cần thiết và bị giam cầm chỉ vì mục đích giải trí. Nói cách khác, sở thú ưu tiên khách tham quan trước chứ không phải động vật. Vậy đó có phải là bảo tồn? Sở thú không muốn cho bạn biết những sự thật này bởi vì nó sẽ phơi bày những lỗ hổng cơ bản trong các lập luận mà họ đưa ra cho sự tồn tại của sở thú, và kết quả là chỉ chứng minh rằng họ bảo tồn cho việc kinh doanh chứ không phải kinh doanh để bảo tồn. Tổ chức dịch: Mon’s Pet .Com Bài viết này trích dịch từ: https://www.independent.co.uk/ Đôi nét về tác giả: Damian Aspinall là một doanh nhân và nhà bảo tồn người Anh; ông điều hành Quỹ Aspinall và đáng chú ý trong công việc của ông ấy là đã bảo tồn loài khỉ đột ở Đông Phi. Xem thêm: https://monspet.business.site/ Tags: nhà tù động vật, sở thú You Might Also Like Bệnh Zoonotic | Nhiễm trùng có thể lây truyền giữa người và động vật Tháng Ba 5, 2020 Tìm kiếm Search for: Bài viết mới nhất Ký sinh trùng máu Cytauxzoonosis ở mèo 6 vấn đề sức khỏe, các bệnh phổ biến nhất ở mèo Từ A – Z các mẹo huấn luyện chó nghe lời Cách làm phong phú thói quen sống của chó cưng Cách dạy chó cưng nhặt đồ chơi (Play Fetch) Cách dạy chó cưng chơi kéo co (Tug-of-war) Huấn luyện chó đi bộ với dây xích để có thể hình tốt hơn Làm thế nào để ngăn chặn thói quen xấu của Chó Mèo? Từ A – Z các câu hỏi thường gặp về cách huấn luyện mệnh lệnh cho chó con | 2021 Cách huấn luyện chó con 5 mệnh lệnh cơ bản | 2021 Hướng dẫn về thành phần dinh dưỡng và nhãn thức ăn cho Chó Mèo Rối loạn sinh sản của mèo cái Nhiều món đồ hay ho cho pet Đồ dùng thú cưng Lazada Chuyên mục Chim Chó Chuyên mục thú cưng Hamster Mèo Tin tức Facebook Mon’s Pet Mon’s Pet là cổng thông tin khổng lồ và hoàn toàn miễn phí về các vấn đề xung quanh thú cưng và động vật Danh sách trang Giới thiệu Chính sách bảo mật Điều khoản dịch vụ Liên hệ @Bản quyền bài viết thuộc về Monspet.com Link Fanpage Facebook Facebook Twitter Pinterest Linkedin Copyright © 2019 Monspet.com @All rights reserved Search for: Type then hit enter to search
1614178347293.1.parquet/66989
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 22804, "url": "https://monspet.com/so-thu-da-loi-thoi" }
107.2
Các thành phần quan trọng nhất trong thuật toán của một AI tối thiểu là gì? Trí tuệ nhân tạo Thẻ Account Sign In Signup Các thành phần quan trọng nhất trong thuật toán của một AI tối thiểu là gì? 7 Nếu ai đó muốn phát triển AI cơ bản với một số mô-đun mã, chúng ta hãy nói rằng AI chỉ phải cung cấp một hành động khi được kích thích trong một tình huống nhất định dựa trên sự hiểu biết trước đó về các tình huống. Tôi có thể nghĩ về ít nhất 3 thành phần như vậy: Hiểu / học theo thời gian thực: Sử dụng Deep Learning / ConvNets, Supervised / Unsupervised. Ra quyết định hợp lý: Tính toán kết quả của các quyết định khác nhau khi áp dụng vào tình huống hiện tại dựa trên sự hiểu biết trước đó và chọn một quyết định hợp lý nhất. Hành động / Phản ứng: Hành động chính xác trong tình huống mới theo quyết định. Có ý kiến ​​gì không? algorithm ai-design — Chúa Fiero nguồn 3 Câu hỏi rất rộng. Phụ thuộc vào cách bạn sẽ xác định 'cơ bản', cách bạn sẽ hạn chế các hành động của nó, các thông số của 'tình huống nhất định', không đề cập đến 'sự hiểu biết' của nó. AI thường có các thiết kế tập trung hẹp để giải quyết các vấn đề cụ thể được lựa chọn từ một loạt các kỹ thuật giải pháp đa dạng. Cân nhắc việc đọc lại (hoặc từ bỏ hoàn toàn câu hỏi này) đối với một câu hỏi về một vấn đề cụ thể mà bạn muốn giải quyết và loại giải pháp nào bạn đang xem xét áp dụng. — dynrepsys Một trong những thành phần quan trọng là Không gian địa chỉ hoặc không gian kết quả, trong đó kết quả nằm ở. — Mukul Varshney Câu trả lời: 4 Các vấn đề ngữ nghĩa Câu trả lời phụ thuộc vào trí thông minh định nghĩa đang được sử dụng. Nếu bạn định nghĩa trí thông minh là khả năng thích ứng, một số thứ có thể được coi là thông minh mà thường không phù hợp với chiếc ô AI cổ điển. Thuật toán khớp đường cong Marquest-Levenberg bình phương nhỏ nhất với một bộ mô hình đáng kể nhưng hữu hạn, thử nghiệm song song nhiều mô hình, phân tích kết quả và quyết định thông minh Kiểm tra phần mềm đọc gần đây được triển khai trong các chi nhánh và văn phòng ngân hàng Sự kết hợp giữa các nhà cung cấp y tế, bệnh nhân và người vận chuyển và sửa đổi điều trị thông qua các công cụ tài chính để cải thiện kết quả Nếu bạn định nghĩa trí thông minh là bắt chước toàn bộ các khả năng tinh thần của con người, thì không có hệ thống nào như vậy có sẵn cho công chúng - thậm chí không có gì gần gũi. Thích ứng sáng tạo trên một loạt các lĩnh vực tùy ý, một vài trong số đó trước đây đã được trải nghiệm rất chi tiết hoặc nghiên cứu sâu đã là mục tiêu cuối cùng của nghiên cứu AI. Phương pháp tiếp cận đã được đưa ra, nhưng không có phương pháp nào đã sinh ra trái cây công cộng. Nếu một hệ thống như vậy tồn tại trong bí mật, ai đó sẽ phải vi phạm thỏa thuận không tiết lộ thông tin hoặc giải phóng mặt bằng bảo mật để cho chúng tôi biết về nó ở đây. Định nghĩa của trí thông minh là trung tâm để trả lời. Ví dụ, một số định nghĩa hợp lý về trí thông minh có thể khiến một thẩm phán không thiên vị đánh giá kiến ​​trên con người. Kiến đã xây dựng hình lục giác trong nhiều thiên niên kỷ trước khi con người tập trung vào thói quen xây dựng hình chữ nhật. Hình chữ nhật đòi hỏi nhiều hơn 70% vật liệu xây dựng để xây dựng cấu trúc dọc trên mỗi feet vuông không gian sàn so với cấu trúc hình lục giác đóng gói. Yêu cầu hệ thống trí tuệ nhân tạo cơ bản Đoán rằng, "AI cơ bản", ý bạn là một số máy học ngây thơ, có một vài thành phần cơ bản. (Thuật ngữ Naive trong ngữ cảnh này có nghĩa là AI không hiểu miền hoặc ý nghĩa của các biểu tượng hoặc tín hiệu mà nó đang xử lý theo cách mà một người đã nghiên cứu hoặc làm việc trong lĩnh vực này có thể hiểu chúng.) SENSING - Máy (máy tính) phải nhận thông tin, thường là một chuỗi thời gian. Trong con người, đây là những giác quan. Trong một bộ sắp xếp thư, nó có thể là một máy ảnh. Đây không chỉ là khái niệm đầu vào trong công nghệ thông tin. Nó tương tự như tín hiệu đầu vào trong bộ điều khiển PID. Trong một máy giao dịch tốc độ cao tự động, đây sẽ là phiên bản tốc độ cao của băng ticker. KIỂM SOÁT - Máy phải thao tác bên ngoài theo cách khai thác thông tin nhận được. Trong một cầu thủ bóng rổ, đây là sự phối hợp vận động, ảnh hưởng đến khuôn mặt, tín hiệu bằng lời nói với đồng đội và có lẽ là một số mồi cho lời nói của các cầu thủ đối phương. Trong một trình sắp xếp thư, đây sẽ là điều khiển động cơ của hướng thư. BỘ NHỚ - Máy phải có bộ lưu trữ để kiểm tra chuỗi thời gian đầu vào (có lẽ từ một bộ chuyển đổi trong thế giới thực hoặc một số kho lưu trữ dữ liệu phải thực hiện một số phân tích hoặc chuyển đổi thông minh). Trong các hệ thống tiên tiến hơn, máy có thể muốn phân tích hiệu suất của chính nó và thực hiện các điều chỉnh hội tụ một số giá trị số liệu tối ưu (có thể là cực đại lịch sử hoặc cực tiểu) hoặc một số phạm vi chấp nhận được. PHẢN HỒI - Máy phải diễn giải một số tín hiệu phản hồi hoặc sử dụng cơ chế tính điểm được xác định trước. Việc học không thể xảy ra trong môi trường thông tin, vì vậy một số định nghĩa tốt hơn hoặc xấu hơn phải được thiết lập. Phản hồi có thể bị vướng vào các kênh SENSING hoặc có thể đến thông qua một kênh hoàn toàn riêng biệt. Trong các hệ thống sinh học, chúng thường được cài sẵn dây như phát hiện mối đe dọa, đau đớn và khoái cảm. Vỏ não sử dụng các khái niệm về mục tiêu và tiến bộ. Trong một số cách, nuôi dưỡng trẻ em và tầng lớp xã hội tồn tại để dạy các ranh giới của những gì tạo thành một mục tiêu chấp nhận được và các phương pháp có thể chấp nhận để đạt được tiến bộ về nó. MODELING - Dù ngầm hay rõ ràng, một số mô hình phải được phát triển và khai thác. Một số người sẽ nói rằng sự tồn tại của một mô hình mà theo đó các khả năng dự đoán của nó có thể được áp dụng cho việc ra quyết định để đạt được một số mục tiêu hoặc bộ sưu tập các mục tiêu có trọng số là trí thông minh. Những người khác sẽ nói rằng sự phát triển của mô hình là trí thông minh và việc sử dụng nó chỉ đơn thuần là cơ chế điều khiển. Phương pháp mô phỏng tư duy của con người Nhận thức không phải là hình thức duy nhất của việc tạo mô hình, mà là việc tạo ra nhận thức và ứng dụng của chúng vào việc ra quyết định. Khái niệm trí thông minh có thể đã được tiếp tục đi theo con đường hiện thực của Roger Schank, người đã đề xuất rằng việc lưu trữ và lập chỉ mục các câu chuyện là một đặc điểm chính của những gì con người nhận ra là cuộc trò chuyện thông minh. Minsky và những người khác đã đưa ra một hướng kết nối nhiều hơn với công việc suy luận logic bắt đầu bằng việc chính thức hóa logic (ban đầu là George Boole) và phép tính lambda của Church. Một số hướng phổ biến trong thiết kế Thuật toán di truyền ảnh hưởng đến công nghệ hội tụ và sinh học thần kinh ảnh hưởng đến sự phát triển mạng lưới thần kinh. Khớp mẫu là một chi khác ngoài bộ phương pháp kỹ thuật lớn hơn dưới sự thông minh của Trí tuệ nhân tạo cổ điển. Đây là những hệ thống ngây thơ. Giống như một tế bào thần kinh, các thành phần không có ý tưởng về ý nghĩa của những gì chúng đang xử lý. Họ là những thành phần ngây thơ. Một nhà quan sát thông minh không thể xác định được ý nghĩa thời gian thực của các tín hiệu và biểu tượng giữa các thành phần ngây thơ này mà không có nghiên cứu sâu rộng, có lẽ suốt đời. Phương pháp Naive Bayesian có xác suất trong tự nhiên. Họ khai thác Định lý Bayes, và đã được tìm thấy để tạo ra kết quả xuất sắc trong một số lĩnh vực quan trọng nhất định. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự ngây thơ thực sự là một công cụ học tập, điều này rất thú vị theo quan điểm lý thuyết AI. Sau đó, có logic mờ (có trọng số), đó là một nỗ lực để hợp nhất các mạng lưới thần kinh với các hệ thống sản xuất (dựa trên quy tắc). Nỗ lực sử dụng công nghệ này trong định tuyến và lập lịch vận chuyển đã gặp nhiều thành công. Có rất nhiều thiết bị và kiến ​​trúc cố gắng tích hợp hoặc kết nối hiệu quả các phương pháp khác nhau này khi có các dự án AI. Mô hình hóa điều kiện môi trường và mục tiêu Tất cả các hệ thống này, theo một cách rõ ràng hoặc ngầm định, mô hình hóa môi trường bên ngoài và kết quả mong muốn của hành vi hệ thống và cố gắng hội tụ (trong thời gian thực) vào kết quả đó. Một số chức năng kiểm soát cảm giác, có thể thay đổi và thích nghi với môi trường bên ngoài được sử dụng trong (các) thành phần KIỂM SOÁT. Đây chỉ là một cách khác mà các hệ thống có hành vi thích ứng. Không nhất thiết phải biết tại sao, hệ thống sẽ thao túng những gì có thể và tiếp tục theo dõi trạng thái của môi trường để liên tục đạt được các tiêu chí chấp nhận của hệ thống. Hệ thống AI cơ bản phải nhiều hơn là học. Nó cũng phải đánh giá chức năng của chính nó và do đó phải có một lớp phản hồi và kiểm soát mô phỏng nhận thức về sự tối ưu. Điều khiển cấp cao hơn này phải được tích hợp vào hệ thống ngay từ đầu để nó hoạt động thông minh theo nghĩa mà bạn có thể hiểu. Hiểu giới hạn và độ phức tạp của hệ thống Mô hình hóa càng phức tạp và thích ứng, càng nhiều nhận thức, quy tắc, câu chuyện, hệ số chuỗi thời gian, trọng số hoặc bất kỳ hình thức kiến ​​thức nào (không phải thông tin) được lưu trữ, người ta càng có thể nói rằng có một số dạng hiểu hoặc hiểu. Một phỏng đoán cho rằng đó là sự đệ quy trong các lớp của các khả năng này cho phép một số loại hiểu và nhận thức nhất định. Các phỏng đoán khác tập trung nhiều hơn vào sự tỉnh táo và sự chú ý như là chìa khóa cho trí thông minh cao hơn. Nhưng những khả năng trưởng thành hơn nhiều này vượt ra ngoài sự thích nghi đơn thuần dựa trên kiến ​​thức hoặc thông tin trong quá khứ và do đó vượt xa những gì bạn có thể có nghĩa là AI cơ bản. — Douglas Daseeco nguồn 4 Một số nơi tốt để bắt đầu sẽ là kiến trúc nhận thức và như được đề cập trong một câu trả lời khác các tác nhân thông minh . Câu hỏi rất rộng nhưng bạn chắc chắn muốn xem xét việc lập kế hoạch & ra quyết định . Bạn cũng có thể muốn kiểm tra các lớp L5 và L6 của Bộ nhớ tạm thời phân cấp (Như trong Nupic ) vì nó liên quan đến phản hồi, hành vi và sự chú ý. Nếu tôi là bạn, tôi sẽ nhắm đến các giải pháp nhận thức nhiều hơn (tôi nhận ra thuật ngữ đó hơi mơ hồ khi chúng ta nói về máy móc). Ngoài ra còn có sáng kiến ​​AI mới đang diễn ra liên quan đến lập trình xác suất. Xem mô hình xác suất của nhận thức được thực hiện bởi Goodman (Đại học Stanford) và Tenenbaum (MIT) hoặc Anh giáo do Wood (Đại học Oxford) et al. — xendi nguồn Khi sử dụng trang web của chúng tôi, bạn xác nhận rằng bạn đã đọc và hiểu Chính sách cookie và Chính sách bảo mật của chúng tôi. Licensed under cc by-sa 3.0 with attribution required.
1614178347293.1.parquet/131780
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 9311, "url": "https://qastack.vn/ai/2366/what-are-the-most-important-components-in-the-algorithm-of-a-minimum-ai" }
107.1
In bài viết Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh đồng chủ trì Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao Mekong-Nhật Bản Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh đồng chủ trì Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao Mekong-Nhật Bản Cùng dự Hội nghị còn có Bộ trưởng Ngoại giao các nước Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan và đại diện Bộ, ngành liên quan của Việt Nam. Hội nghị tập trung thảo luận hai nội dung chính là hợp tác Mê Công – Nhật Bản trong phòng chống, ứng phó với đại dịch COVID-19 và các biện pháp tăng cường hợp tác thương mại và đầu tư nhằm phục hồi kinh tế sau dịch bệnh. Trước những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế thế giới, các Bộ trưởng tái khẳng định sự cần thiết tăng cường các nỗ lực chung trong phòng chống dịch bệnh và tái thiết nền kinh tế. Về hợp tác y tế và phòng chống dịch bệnh, Hội nghị nhất trí: (i) Thúc đẩy chia sẻ thông tin một cách minh bạch, kịp thời giữa các nước về các chính sách và biện pháp ứng phó đại dịch covid-19; (ii) Tăng cường hợp tác nghiên cứu dịch tễ học và thu hút nguồn lực phục phát triển và sản xuất vắc-xin; (iii) Hợp tác củng cố hệ thống y tế quốc gia mỗi nước. Để phục hồi kinh tế, Hội nghị thống nhất tăng cường hợp tác về: (i) Bảo đảm hoạt động của chuỗi cung ứng khu vực; (ii) Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ thích ứng hoàn cảnh mới; (iii) Duy trì dòng chảy thương mại và đầu tư; (iv) Ứng dụng khoa học công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp; và (v) Phát triển hạ tầng chất lượng cao. Nhân dịp này, các Bộ trưởng đánh giá cao hợp tác của Nhật Bản với khu vực Mê Công trong cuộc chiến chống COVID-19 và hoan nghênh các sáng kiến mà Nhật Bản thông báo tại Hội nghị. Theo đó, Chính phủ Nhật Bản sẽ: (i) Tài trợ 56 triệu USD thiết bị y tế và hỗ trợ đào tạo kỹ thuật cho cán bộ y tế các nước Mê Công; (ii) Cung cấp ít nhất 50 triệu USD cho các nước Mê Công nâng cao năng lực ứng phó với dịch bệnh; (iii) Cung cấp khoản vay Hỗ trợ ứng phó khẩn cấp với khủng hoảng COVID-19; và (iv) Triển khai sáng kiến KUSANONE Mê Công SDGs với tổng kinh phí là 1 tỷ Yên Nhật viện trợ không hoàn lại để giúp các nước Mê Công triển khai các dự án về cải thiện y tế cộng đồng, môi trường giáo dục, nâng cao năng suất nông nghiệp, xây dựng hệ thống nước sạch cho người dân và cải tạo môi trường sống. Phát biểu tại Hội nghị, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh nhấn mạnh sự cần thiết có cách tiếp cận toàn diện, vừa ứng phó dịch bệnh, vừa khôi phục kinh tế. Chia sẻ kinh nghiệm của Việt Nam trong phòng chống dịch bệnh Phó Thủ tướng, Bộ trưởng khẳng định tính đúng đắn, kịp thời, hiệu quả của các chính sách toàn diện mà Chính phủ Việt Nam đã ban hành. Phó Thủ tướng cũng thông báo Việt Nam đang tiếp tục áp dụng các biện pháp để kiểm soát và ngăn chặn dịch bệnh, đồng thời từng bước mở cửa lại nền kinh tế. Về định hướng hợp tác, Phó Thủ tướng khẳng định hợp tác Mê Công - Nhật Bản có thể hỗ trợ hiệu quả quá trình phục hồi kinh tế của các nước thành viên bằng việc ưu tiên các các lĩnh vực giúp khôi phục chuỗi cung ứng khu vực, kích thích tiêu dùng và tăng cường năng lực hệ thống y tế. Phó Thủ tướng nêu ba nhóm giải pháp cụ thể, gồm: (i) Tăng cường tính bổ trợ và nâng cao sức mạnh tổng hợp của các nền kinh tế, đặc biệt thúc đẩy đầu tư của doanh nghiệp vào các dự án cơ sở hạ tầng; hỗ trợ quá trình công nghiệp hóa tại các nước Mê Công; tạo thuận lợi thương mại và đầu tư; tạo điều kiện để hàng hoá chất lượng cao của các nước Mê Công tiếp cận được thị trường Nhật Bản; (ii) Phục hồi kinh tế đi đôi với bảo vệ sức khoẻ người dân, thông qua tăng cường nguồn nhân lực cho các cơ sở y tế, nâng cao năng lực theo dõi dịch bệnh, sản xuất vắc xin, xây dựng phòng thí nghiệm cho các nước Mê Công; (iii) Khẩn trương thực hiện “Sáng kiến Mê Công - Nhật Bản về các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) hướng tới 2030”, đặc biệt trong bối cảnh lưu vực sông Mê Công đang bị ảnh hưởng nặng nề bởi tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn nghiêm trọng. Thay mặt Chính phủ Việt Nam, Phó Thủ tướng bày tỏ cảm thông sâu sắc với người dân Nhật Bản trước những mất mát về người và của do trận lũ lụt vừa qua, đồng thời cảm ơn những hỗ trợ quí báu mà Nhật Bản dành cho Việt Nam trong cuộc chiến chống dịch bệnh COVID-19./. Thu Lê
1614178347293.1.parquet/12874
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 3721, "url": "http://quehuongonline.vn/Print.aspx?NewsID=20200710093618723" }
105.8
Lời khuyên của chuyên gia từ Semalt về cách bảo vệ trang web WordPress khỏi tội phạm mạng Lời khuyên của chuyên gia từ Semalt về cách bảo vệ trang web WordPress khỏi tội phạm mạng Bảo mật WordPress thường được đặt tên là "cứng". Ngay cả khi bạn không biết cách cải thiện lưu lượng truy cập trang web của mình, điều quan trọng là bạn phải bảo mật thông tin đăng nhập trang web của mình. Sẽ không sai khi nói rằng hàng triệu đến hàng tỷ trang web được cung cấp bởi Blogger hoặc WordPress. Nik Chaykovskiy, Giám đốc thành công khách hàng cao cấp Semalt , nói rằng WordPress là giao diện thân thiện và nổi tiếng nhất. Hệ thống quản lý nội dung này có rất nhiều ưu điểm và nhược điểm. Ví dụ: nếu bạn không giữ mật khẩu của mình an toàn, bạn có thể mất thông tin đăng nhập và quyền truy cập vào trang web của mình. Dưới đây là một số mẹo về cách bảo vệ trang web WordPress của bạn khỏi tin tặc. Sao lưu trang web của bạn thường xuyên Tần suất sao lưu WordPress là một trong những chủ đề được thảo luận nhiều nhất hiện nay. Điều quan trọng là trang web WordPress của bạn được sao lưu đúng cách. Bạn nên làm điều đó một hoặc hai lần mỗi tuần để giữ an toàn và bảo mật trên internet. Tuy nhiên, sao lưu hàng ngày rất được khuyến khích vì nó bảo vệ trang web của bạn khỏi các vụ trộm và phần mềm độc hại có thể xảy ra. Có rất nhiều plugin WordPress có thể giúp bạn quay lại, nhưng BackupBuddy là một trong những plugin tốt nhất. Bạn sẽ mất không quá 100 đô la và có thể khôi phục blog hoặc trang web bị hack của bạn chỉ trong vài giây. Sẵn sàng! Sao lưu là một plugin lý tưởng cho những ai đang tìm kiếm phần mềm WordPress miễn phí. Điều này cho phép bạn tạo bản sao lưu tự động, chuyển tệp của bạn sang Dropbox và khôi phục dữ liệu của bạn ngay lập tức. Tùy chọn thứ ba là UpdraftPlus. Nó là một plugin sao lưu tương tác và thân thiện với người dùng. Hạn chế nỗ lực đăng nhập Thỉnh thoảng, tin tặc cố gắng phá vỡ các trang web WordPress của bạn bằng cách đoán mật khẩu của bạn. Đó là lý do tại sao bạn nên hạn chế các nỗ lực đăng nhập để giữ an toàn trên internet. Theo mặc định, WordPress sẽ cho phép bạn sử dụng các mật khẩu khác nhau, nhằm mục đích giữ thông tin của bạn an toàn và bảo mật. Bạn nên thêm một lớp bảo mật bổ sung cho trang web của mình bằng cách giới hạn quyền truy cập từ hai đến ba lần. Trong trường hợp, ai đó đã cố đăng nhập bằng mật khẩu sai, trang web của bạn sẽ bị khóa, nhưng dữ liệu của nó sẽ vẫn an toàn. Có một số lượng lớn các plugin WordPress, chẳng hạn như Thử giới hạn đăng nhập. Điều đó cho phép bạn giới hạn số lần đăng nhập thất bại. Sử dụng plugin này, bạn cũng có thể chặn nhiều IP, nhưng điều quan trọng là bạn phải nhớ mật khẩu của riêng mình. Và nếu tin tặc sử dụng các proxy khác nhau, plugin này sẽ tự động chặn tất cả chúng để giữ cho trang web của bạn an toàn. Tất cả các tùy chọn của nó đều có thể tùy chỉnh và thân thiện với người dùng. Bạn có thể chặn IP tạm thời hoặc vĩnh viễn. Không sử dụng "admin" làm tên người dùng của bạn Một trong những sai lầm lớn nhất mà mọi người mắc phải là họ sử dụng "admin" làm tên người dùng. Bạn không nên làm như vậy nếu bạn muốn giữ cho trang web WordPress của bạn an toàn và bảo mật. Các bot tự động thường truy cập các trang web sử dụng từ này và có thể đoán mật khẩu ngay lập tức. Có khả năng tin tặc sẽ khai thác thông tin bí mật, dữ liệu trang web của bạn và những thứ khác bằng tên người dùng này. Nếu bạn muốn giữ cho trang web của mình an toàn, thì điều quan trọng là bạn không bao giờ sử dụng "quản trị viên" làm tên người dùng chính của mình. Thay vào đó, bạn nên chọn tên người dùng và mật khẩu, không ai có thể đoán được.
1614178347293.1.parquet/27594
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 3050, "url": "http://vi.adwars.net/" }
105.8
Hậu hiện đại: những giá trị đang đổi thay và những xã hội đang biến đổi - Phần 1. Tại sao diễn ra sự dịch chuyển đến hậu hiện đại? (Mai K Đa dịch) Skip to content VNU-USSH maikda@outlook.com Trang chủ Giới thiệu Bài viết Blog Bài dịch Triết học Nước Nga На русском Tư liệu Liên hệ Trang chủ / Bài dịch Triết học Hậu hiện đại: những giá trị đang đổi thay và những xã hội đang biến đổi - Phần 1. Tại sao diễn ra sự dịch chuyển đến hậu hiện đại? (Mai K Đa dịch) 22/12/2018 Triết học Hậu hiện đại: những giá trị đang đổi thay và những xã hội đang biến đổi Tên gốc tiếng Nga: Постмодерн: меняющиеся ценности и изменяющиеся общества Tác giả: Ronald Inglehart, Viện nghiên cứu xã hội học tại Đại học Michigan (Mỹ) Dịch bởi Mai K Đa từ bản tiếng Nga. Link bản gốc tiếng Nga tại đây Thông tin dùng để trích dẫn: Инглхарт Р. Постмодерн: меняющиеся ценности и изменяющиеся общества . – Полис. Политические исследования. 1997. № 4. С. 6 Mở đầu Những thay đổi sâu sắc và quy mô trong thế giới quan của con người đã làm thay đổi diện mạo đời sống kinh tế, chính trị và xã hội: diễn ra sự thay đổi các mục tiêu chính trị và kinh tế, các chuẩn mực tôn giáo, các giá trị gia đình, và những thay đổi này đến lượt nó đã ảnh hưởng đến tốc độ phát triển kinh tế, đến những phương châm chiến lược của các đảng phái chính trị và những triển vọng cho hệ thống dân chủ. Trong quá trình chuẩn bị cho việc xuất bản cuốn sách sắp tới, sự xuất hiện của hội chứng hậu hiện đại có giá trị này đã cung cấp những dữ liệu thực nghiệm nhiều hơn bốn thập niên của xã hội giai đoạn 1970 - 1995. Trong báo cáo này, chúng tôi sẽ cung cấp một cái nhìn tổng quan về những kết quả mà chúng tôi đã thu được. Trong toàn bộ không gian của xã hội công nghiệp tiên tiến, đại đa phần người dân đã nhận thấy tầm quan trọng ngày càng tăng của sự tự do biểu hiện và sự tham gia chính trị. Những tài liệu về lý thuyết dân chủ xuất phát từ luận điểm cho rằng, để đoàn kết và ổn định nền dân chủ, quan trọng nhất là sự tham gia của người dân, sự tin tưởng giữa các cá nhân, sự khoan dung với những nhóm thiểu số và tự do ngôn luận. Nhưng để phân tích sự phụ thuộc giữa quan điểm kiểu như thế này ở cấp độ cá nhân với sự tồn tại một cách vững chãi của hệ thống dân chủ ở cấp độ xã hội trước đây không lâu là không thể: những nghiên cứu về văn hóa chính trị bị đóng khung chỉ trong các xã hội dân chủ được đánh dấu bởi một số lượng nhỏ các đối tượng quan sát và thiếu vắng những dữ liệu được sắp xếp vào trong những chuỗi mang tính tạm thời. Để có một phân tích đa lớp và đáng tin cậy cần phải có những dữ liệu lớn về các xã hội đang thay đổi trong toàn bộ quang phổ kinh tế và chính trị; cuốn sách đã từng đề cập “World Values Survey - khảo sát giá trị thế giới” với tư cách là một nguồn và được sử dụng như một cơ sở dữ liệu độc đáo - đã mở ra những khả năng mới cho việc phân tích thế giới quan của con người đã ảnh hưởng đến thế giới như thế nào. Những khảo sát này đã bao trùm một phạm vi rộng lớn chưa từng có cho việc phân tích sự tác động hàng loạt của con người ở các quốc gia khác nhau trong đời sống chính trị và xã hội. Trong nó có dữ liệu của 43 nhóm đại diện cho 70% dân số thế giới và thay đổi từ các nhóm có thu nhập bình quân đầu người chỉ 300 đô la đến các nhóm có thu nhập bình quân đầu người cao hơn 100 lần, và từ các nền dân chủ lâu đời với kinh tế thị trường đến các nhà nước xã hội chủ nghĩa. Để khảo sát, từ năm 1990, việc thu thập các dữ liệu đã được thực hiện ở các quốc gia và vùng sau: Argentina, Áo, Belarus, Bỉ, Brazil, Bulgaria, Canada, Chile, Trung Quốc, Tiệp Khắc, Đan Mạch, Estonia, Phần Lan, Pháp, Đức (với các mẫu riêng biệt cho Đông và Tây), Anh, Hungary, Iceland, Ấn Độ, Ireland, Bắc Ireland, Ý, Nhật Bản, Hàn Quốc, Latvia, Lithuania, Mexico, Đại Moscow, Hà Lan, Nigeria, Na Uy, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Rumani, Nga, Slovenia, Nam Phi, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Thổ Nhĩ Kỳ và Hoa Kỳ. Khảo sát vào năm 1981 đã cung cấp một chuỗi tạm thời các dữ liệu về 22 nhóm từ các xã hội trên đã cho phép chúng tôi phân tích sự thay đổi trong các hệ giá trị và quan điểm đã diễn ra từ năm 1981 đến năm 1990. Chúng tôi quan tâm đến những dữ liệu rút ra từ các cuộc khảo sát Eurobarometer, được chuẩn bị hàng năm ở tất cả các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu từ năm 1970 đến những năm 1990; Điều này cho phép phân tích các thay đổi khi sử dụng chuỗi thời gian dài hơn và chi tiết hơn. Những thước đo trong khuôn khổ “Khảo sát giá trị thế giới” bao gồm những quan điểm đại chúng ở một số lượng khá lớn các quốc gia cho phép thực hiện được những phân tích có ý nghĩa thống kê về sự phụ thuộc giữa các cấp, đặc biệt giữa văn hóa chính trị và các thể chế dân chủ. Chúng tôi tìm thấy sự phụ thuộc mạnh mẽ giữa các đặc điểm cấp vĩ mô như dân chủ bền vững và các đặc điểm cấp vi mô như sự hiện diện sự tin tưởng giữa các cá nhân, sự khoan dung, tầm quan trọng của những giá trị hậu vật chất và phúc lợi chủ quan. Sự phụ thuộc mạnh mẽ giữa các cấp độ một mặt được tìm thấy giữa những biến số quan trọng khác nhau của phân cấp xã hội (từ số vụ ly hôn đến sự xuất hiện của các phong trào bảo vệ môi trường), mặc khác giữa những giá trị và quan điểm chuyên sâu. Có thể xem xét sự thay đổi trong văn hóa như được tạo ra bửi những thay đổi xã hội, và có thể trong sự thay đổi này của văn hóa tìm thấy các yếu tố của sự thay đổi xã hội, hoặc cuối cùng có thể cho rằng, sự ảnh hưởng này mang tính tương hỗ lẫn nhau; nhưng, như nó đã từng, các dữ liệu kể trên rõ ràng nói đến một điều rằng, các hệ thống niềm tin ở cấp độ đại chúng và các thay đổi toàn cầu có sự liên quan chặt chẽ với nhau. Trong khuôn khổ “Khảo sát giá trị thế giới”, giả thuyết rằng, hệ thống niềm tin ở cấp độ đại chúng đã thay đổi theo cách mà bản chất của những thay đổi này có mang những hệ quả kinh tế, chính trị và xã hội quan trọng. Chúng tôi không đứng ở vị trí của quyết định luận về kinh tế hay văn hóa: quan sát và sự lựa chọn của chúng tôi muốn hướng đến mục tiêu, đó là sự liên kết giữa các giá trị kinh tế và chính trị sẽ có sự tương hỗ lẫn nhau, và chính xác hơn, bản chất của sự phụ thuộc trong những trường hợp cụ thể - một câu hỏi thực nghiệm, chứ không phải từ một thứ gì đó tiên nghiệm được giải quyết. Có nhiều lý thuyết khác nhau ảnh hưởng đến chủ ý của khảo sát này, trong đó có lý thuyết về sự thay đổi giữa các thế hệ của giá trị (Xem: 6,7,8). Lý thuyết này đưa ra giả thiết rằng, sau thế chiến II, phần lớn các quốc gia công nghiệp do tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, cũng như sự phát triển mạnh của nhà nước phúc lợi, kinh nghiệm hình thành cá nhân trong các đoàn hệ của những năm sau khi sinh ra - trong sự khác biệt căn bản của nó – đã dẫn tới việc thực hiện những ưu tiên khác của giá trị trong sự so sánh với giá trị của những năm trước khi sinh ra. Trong suốt lịch sử, phần lớn loài người có sự quan tâm sâu sắc tới mối đe dọa của những thiếu thốn về mặt kinh tế, nhất là nạn đói. Tuy nhiên, lịch sử cho thấy mức độ an ninh kinh tế chưa từng có mà thế hệ sau chiến tranh học được trong xã hội công nghiệp đã đưa tới sự chuyển dịch dần dần những ưu tiên từ các giá trị “vật chất” (khi chủ yếu nhấn mạnh vào an ninh kinh tế và vật chất) đến những giá trị “hậu vật chất” (cái đầu tiên là sự tự thể hiện và chất lượng cuộc sống). Việc thu thập các dữ liệu về sự thay đổi những giá trị giữa các thế hệ trên nền tảng xuyên quốc gia đã bắt đầu vào năm 1970, đến nay một chuỗi thời gian dài đã được xây dựng, nhờ đó, các giả thuyết trên có thể được thẩm định. Lý thuyết về sự thay đổi giá trị giữa các thế hệ là chủ đề gây tranh cãi: trong 20 năm qua ở Mỹ và các quốc gia khác đã xuất bản hàng chục công trình phê phán lý thuyết này từ các quan điểm khác nhau. Nhiều nghiên cứu về sự biến đổi giá trị đã được thực hiện với mục đích cố gắng bác bỏ luận điểm về sự chuyển dịch đến những giá trị hậu vật chất hoặc là đưa ra những giải thích thay thế. Khái niệm được sử dụng trong tranh luận này đã lỗi thời một phần: những dữ liệu của “khảo sát giá trị thế giới” chỉ ra rằng, sự chuyển dịch theo hướng từ các giá trị vật chất sang các giá trị hậu vật chất chỉ là một thành tố của một sự chuyển dịch văn hóa rộng lớn hơn, bao gồm 40 biến số được đưa vào các đánh giá. Những biến số này kết nối toàn bộ những định hướng khác nhau vào trong bức tranh của sự chuyển dịch, từ những quan điểm tôn giáo đến những chuẩn mực tình dục; nhưng tất cả những điều này cho thấy sự khác biệt lớn về thế hệ, biểu hiện sự tương quan với những giá trị hậu vật chất và trong phần lớn các xã hội những năm từ 1981 đến 1990 họ đã chấp nhận theo hướng mà có thể tính toán trước. Sự tái cấu trúc thế giới quan sâu rộng này được chúng ta gọi là “hậu hiện đại”. Ở đây, sự dịch chuyển từ các giá trị vật chất sang hậu vật chất là mẫu hình tốt nhất, nhưng không nhất thiết phải là một thành tố quan trọng nhất của toàn bộ sự thay đổi văn hóa rộng lớn hơn: những vai trò giới tính thay đổi nhiều hơn, kể cả ví dụ thái độ đối với những người đồng tính nam và đồng tính nữ. Do đó, dữ liệu được thu thập cho đến nay cho thấy những thay đổi rộng rãi trong các giá trị cơ bản của dân số của các xã hội công nghiệp và công nghiệp hóa trên toàn thế giới. Những thay đổi này tìm ra mối liên hệ với các quá trình thay đổi thế hệ và do đó, xảy ra dần dần, nhưng có sự xung động dài hạn đáng kể. Chúng tôi cho rằng, sự phát triển kinh tế văn hóa và kể cả những thay đổi chính trị đi đôi với nhau hình thành các mô hình tổng thể và thậm chí có thể dự đoán ở một mức độ nào đó. Tuyên bố này vẫn còn đang tranh cãi. Nó ngụ ý rằng, một số quỹ đạo phát triển kinh tế - xã hội có nhiều khả năng hơn những số khác, do vậy, có thể tiên đoán trước những thay đổi nhất định. Ví dụ, nếu một xã hội nào đó bắt đầu con đường công nghiệp hóa, thì nó phải tuân theo toàn bộ hội chứng liên quan đến thay đổi này, từ sự vận động quần chúng đến việc giảm bớt những khác biệt trong vai trò giới tính. Tất nhiên, đây là tuyên bố trung tâm của lý thuyết hiện đại hóa; nó đã được đưa ra bởi Các Mác và tranh luận trong hơn một thế kỷ. Mặc dù mỗi một phiên bản rút gọn của nó rơi vãi lung tung, chúng tôi vẫn ủng hộ quan điểm rằng, một số kịch bản thay đổi xã hội có nhiều khả năng hơn những kịch bản khác và có ý định đưa ra một số lượng dữ liệu thực nghiệm tốt có lợi cho đề xuất này. “Khảo sát giá trị thế giới” tiết lộ các mô hình văn hóa tổng thể có liên quan mật thiết đến sự phát triển kinh tế. Đồng thời, chúng ta dường như biết rằng, hiện đại hóa không phải là một tuyến tính. Trong các xã hội công nghiệp tiên tiến, hướng phát triển thịnh hành trong quý cuối cùng của thế kỷ đã thay đổi, và những thay đổi căn bản đang diễn ra tới mức phù hợp để mô tả chúng như là “hậu hiện đại hóa” hơn là “hiện đại hóa”. Hiện đại hóa chủ yếu là một quá trình trong đó các khả năng kinh tế và chính trị của một xã hội nhất định tăng lên: kinh tế - thông qua công nghiệp hóa, chính trị - thông qua quan liêu. Hiện đại hóa rất hấp dẫn bởi vì nó cho phép xã hội chuyển từ trạng thái nghèo đói sang trạng thái giàu có. Theo đó, cốt lõi của quá trình hiện đại hóa là công nghiệp hóa; tăng trưởng kinh tế trở thành mục tiêu chi phối xã hội, và động lực thành tích bắt đầu xác định mục tiêu chi phối ở cấp độ cá nhân. Sự chuyển đổi từ xã hội tiền công nghiệp sang công nghiệp được đặc trưng bởi “sự lý tính hóa toàn diện tất cả các lĩnh vực của xã hội” (Weber), dẫn tới sự chuyển dịch từ các giá trị truyền thống, thường là tôn giáo sang các giá trị lý tính – pháp quyền trong đời sống kinh tế, chính trị và xã hội. Nhưng hiện đại hóa không phải là giai đoạn cuối cùng của lịch sử. Sự xuất hiện của một xã hội công nghiệp tiên tiến dẫn đến một sự thay đổi rất đặc biệt khác trong những giá trị cơ bản - khi giá trị lý tính đặc trưng của xã hội công nghiệp bị suy giảm. Các giá trị của hậu hiện đại trở nên thịnh hành, mang theo một số thay đổi xã hội đa dạng, từ bình đẳng phụ nữ đến các thể chế chính trị dân chủ và sự suy tàn của chế độ xã hội chủ nghĩa. TẠI SAO DIỄN RA SỰ DỊCH CHUYỂN ĐẾN HẬU HIỆN ĐẠI? Sự chuyển dịch đến giá trị của hậu hiện đại không phải là trường hợp đầu tiên của sự dịch chuyển văn hóa lớn trong lịch sử. Sự quá độ từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp đã được đơn giản hơn nhờ vào sự chuyển dịch theo nghĩa như sự thoái lui khỏi cách nhìn nhận được hình thành bởi nền kinh tế bất động - ổn định. Cách nhìn nhận như vậy được đặc trưng bởi thái độ thù địch với tính di động xã hội và trọng tâm của cách nhìn nhận này là truyền thống, trạng thái kế thừa và những trách nhiệm trước cộng đồng được củng cố bởi những chuẩn mực tôn giáo tuyệt đối; chỗ tựa này được thay đổi bởi cách nhìn nhận khuyến khích những thành tựu kinh tế, chủ nghĩa cá nhân và sự đổi mới – trong những chuẩn mực xã hội, tất cả trở nên thế tục hơn. Một vài trong số những khuynh hướng này có liên kết với quá trình chuyển đổi từ xã hội “truyền thống” sang xã hội “hiện đại” ở thời đại chúng ta đã đạt tới những giới hạn của nó trong xã hội công nghiệp tiên tiến, nơi mà những thay đổi đang diễn ra theo một khuynh hướng mới. Sự thay đổi này của khuynh hướng biến đổi phản ánh tác dụng của nguyên tắc gia tăng sự rút ngắn (giảm bớt) của lợi ích. Công nghiệp hóa và hậu hiện đại hóa đòi hỏi sự phá hủy những rào cản văn hóa chống lại sự tích lũy có trong bất cứ nền kinh tế bất động - ổn định nào. Trong lịch sử Tây Âu, nhiệm vụ này đã được thực hiện một cách thành công nhờ vào sự hình thành của đạo đức tin lành, đạo đức mà từ quan điểm chức năng làm hiện ra sự đột biến thực hiện một cách may rủi. Nếu sự hình thành của nó diễn ra sớm hơn hai thế kỷ, nó có thể đã biến mất. Trong môi trường của thời đại của chúng ta, nền đạo đức tin lành đã tìm thấy một cái hốc (ổ) cho chính nó: sự phát triển của kỹ thuật làm cho sự tăng trưởng kinh tế có thể diễn ra một cách nhanh chóng và cách nhìn nhận của những người canvanh đã bổ sung một cách tuyệt vời cho sự phát triển này khi dựng lên một hội chứng kinh tế - văn hóa, hội chứng mà đã đưa đến sự hình thành của chủ nghĩa tư bản và, theo thời gian, dẫn đến cuộc cách mạng công nghiệp. Sau đó, giống như điều đã diễn ra, sự tích lũy kinh tế (đối với cá nhân) và sự tăng trưởng kinh tế (đối với xã hội) đã trở thành sự ưu tiên cao nhất đối với toàn bộ phần lớn số dân trên trái đất, và cho đến nay vẫn là những mục tiêu chủ yếu của một bộ phận đáng kể nhân loại. Nhưng dần dần, sự suy giảm hiệu suất của tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến sự dịch chuyển hậu hiện đại, sự dịch chuyển mà trong một số khía cạnh đã đánh dấu sự suy thoái của đạo đức tin lành. Xã hội công nghiệp tiên tiến hiện nay đã làm thay đổi quỹ đạo chính trị - xã hội ở hai khía cạnh cơ bản: 1/ Những hệ thống giá trị. Tất cả những trọng tâm hướng vào những thành tựu kinh tế công nghiệp là một trong những sự thay đổi trung tâm tạo ra khả năng của hậu hiện đại hóa. Sự dịch chuyển hướng đến những ưu tiên vật chất có thể dẫn tới sự giảm sút những ý nghĩa của trách nhiệm trước cộng đồng và sự chấp nhận tính di động của xã hội: Vị trí của các thành tựu kinh tế giống như sự ưu tiên hàng đầu trong thời đại chúng ta, trong xã hội hậu hiện đại đến chất lượng của cuộc sống đóng vai trò nhấn mạnh hơn tất cả.Trong phần lớn các tiêu chuẩn của xã hội công nghiệp, với sự chủ tâm của họ vào kỷ luật, lòng hy sinh và những thành tựu,, tất cả đã đã nhường chỗ cho sự tự do rộng lớn hơn của sự lựa chọn lối sống cá nhân và sự tự thể hiện cá nhân. Sự dịch chuyển từ những giá trị “vật chất” với trọng tâm là sự an toàn về mặt thể chất và kinh tế đến những giá trị “hậu vật chất” với trọng tâm các vấn đề tự biểu hiện của cá nhân và chất lượng cuộc sống - hầu hết diện mạo tài liệu của sự thay đổi này; nhưng nó cũng chỉ là một thành tố của một hội chứng rộng lớn hơn rất nhiều của những thay đổi văn hóa. 2. Cấu trúc thể chế (khung thể chế). Chúng ta đang tiếp cận đến những giới hạn phát triển của những tổ chức quan liêu phân cấp góp phần tạo ra xã hội hiện đại. Nhà nước quan liêu, đảng chính trị kỷ luật đầu sỏ, dây chuyền lắp ráp sản xuất hàng loạt, công đoàn kiểu cũ và công ty đa cấp đã đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc hy động và tổ chức năng lượng của quần chúng nhân dân. Chúng đã tạo ra khả năng của cách mạng công nghiệp và nhà nước hiện đại. Nhưng chúng đã đi thẳng đến một bước ngoặc – theo hai nguyên nhân: thứ nhất, chúng đang tiếp cận đến những giới hạn của hiệu quả mang tính chức năng của chúng; thứ hai, đến những giới hạn của sự chấp nhận quy mô của chúng. Hãy cùng nhau xem xét cả hai yếu tố này: Còn nữa. HỒNG PHƯỢNG STORE Liên hệ: Hồng Phượng Phone/Zalo: 0964 760 502 Email: hongphuongstore@yahoo.com Website: www.hongphuong.net Nơi mua sắm tin cậy cho bạn và gia đình! Cùng chuyên mục Khu vực quảng cáo: Quý khách hàng có thể gửi yêu cầu để chúng tôi tư vấn miễn phí tại đây. Yêu cầu tư vấn của bạn sẽ được gửi tới các chuyên gia của chúng tôi. Chúng tôi sẽ trả lời sớm nhất có thể thông qua Email, SĐT hoặc địa chỉ liên hệ. Xin cảm ơn! Địa chỉ order thuốc cho mẹ, bé và gia đình tin cậy XEM VIDEO LẤY THUỐC CỦA HỒNG PHƯỢNG STORE TRÊN YOUTUBE TẠI ĐÂY Xem các bài viết trên FACEBOOK lấy thuốc cho mẹ, bé và cả gia đình TẠI ĐÂY --------------------------------------------------------------------------- CÀ DẦM TƯƠNG XỨ NGHỆ Liên hệ: Hồng Phượng Phone/Zalo: 0964 760 502 Email: hongphuongstore@yahoo.com Website: cadamtuongxunghe.com Hương vị cà miền Trung - Cho bữa cơm gia đình thêm ngon! Xem nhanh Bài dịch (42) Viết (61) Quan tâm nhiều nhất Slide trình chiếu Triết học Mác - Lênin. Bài Ý thức Ăn cơm Tây, lấy vợ nên chọn... gái miền Trung! Slide bài giảng Triết học. Cặp phạm trù Nguyên nhân và Kết quả Bài viết mới Meta Đăng nhập RSS cho bài viết Sitemap Blogger.com Video Ảnh Đăng kí nhận bản tin của chúng tôi qua email Đăng ký để nhận tin về các bài viết mới nhất! Giới thiệu Đây là blog cá nhân của Mai K Đa. Chia sẻ những điều cóp nhặt được! Truy cập nhanh Trang chủ Giới thiệu Liên hệ Bài viết mới Liên kết Bếp Phượng Bánh mì Phượng's Cà dầm tương Xứ Nghệ Hồng Phượng Store Thông tin liên hệ USSH-VNU FB Mai K Đa maikda@outlook.com Chat với tôi | Email: maikda@outlook.com Bản quyền © www.maikda.com | Liên hệ Liên hệ hỗ trợ 24/7 Gọi số 0964 760 502 Chat Facebook Chat Zalo Trang chủ Giới thiệu Viết Tư liệu Triết học slide bài giảng Dịch (nghịch) Nước Nga Liên hệ
1614178347293.1.parquet/145648
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 16436, "url": "http://www.maikda.com/2018/12/hau-hien-dai-su-thay-doi-cac-gia-tri-va-xa-hoi.html" }
104.5
Chủ tịch UBND Nguyễn Thành Phong tham luận tại Đại hội XIII Trang chủ Giới thiệu chung Ban lãnh đạo TP Hồ Chí Minh Các cơ quan trực thuộc Lịch sử - Văn hóa Điều kiện tự nhiên Định hướng - Phát triển Tin tức - Sự kiện Chính trị Văn hóa - Xã hội Kinh tế Phát triển đô thị Doanh nhân Sài Gòn online Cổng TTĐT Chính phủ Báo Điện tử Chính phủ canhtranhquocgia.vn Trang chủ / Tin tức - Sự kiện / Chính trị Chủ tịch UBND Nguyễn Thành Phong tham luận tại Đại hội XIII 12:15, 27/01/2021 (Chinhphu.vn) - Sáng ngày 27/1, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã có phiên thảo luận về các dự thảo Văn kiện, thay mặt Đảng bộ TPHCM, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND TPHCM Nguyễn Thành Phong đã trình bày tham luận với chủ đề Phát triển kinh tế tri thức - kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn từ TPHCM. Cổng Thông tin điện tử Chính phủ trân trọng giới thiệu toàn văn bài tham luận. Kính thưa Đoàn Chủ tịch, Kính thưa Đại hội, Đoàn Đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh nhất trí cao với các văn kiện do Ban Chấp hành Trung ương khóa XII trình Đại hội XIII của Đảng. Các nội dung đã được chuẩn bị công phu, khoa học, chất lượng, phù hợp tình hình trong nước và quốc tế hiện nay, thể hiện sự kết tinh trí tuệ, tư duy về tầm nhìn chiến lược của Đảng ta và khát vọng phát triển của dân tộc. Tại Đại hội hôm nay, thay mặt Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, tôi xin trình bày tham luận “Phát triển kinh tế tri thức - Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn từ Thành phố Hồ Chí Minh”. Kính thưa Đại hội, Từ những năm 80 trở lại đây, dưới tác động mạnh mẽ của khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt công nghệ sinh học, công nghệ thông tin và truyền thông, công nghệ nano... nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc và phát triển toàn diện, chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Kinh tế tri thức đã và đang trở thành xu hướng phát triển chung của kinh tế thế giới, được nhiều quốc gia lựa chọn làm chiến lược phát triển, điển hình như: Mỹ, Canada, Tây Âu, Nhật Bản, Singapore, Hong Kong, Úc - nơi các yếu tố của nền kinh tế tri thức ở mức khá cao, trong đó các ngành công nghiệp dựa trên tri thức đã đóng góp trên 40% GDP [1]; và đang hình thành tại một số quốc gia đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia, Thái Lan… Tại những quốc gia này, những quyết sách để phát triển kinh tế tri thức nhằm tạo ra những bước đột phá, được tập trung vào những yếu tố sau: (1) Xác định tầm quan trọng của nguồn vốn con người như một nguồn lực cơ bản cho phát triển kinh tế, nhấn mạnh học tập suốt đời; ưu tiên đầu tư cho giáo dục và đào tạo, tạo lập môi trường kết nối hiệu quả giữa các cơ sở giáo dục đại học với doanh nghiệp. (2) Thực hiện chính sách vượt trội để thu hút lao động có kỹ năng và tài năng ở trong và ngoài nước vào tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, bao gồm cả khu vực công. (3) Chú trọng phát triển khoa học công nghệ, đô thị thông minh, kinh tế số; quan tâm chi đầu tư cho khoa học công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong các lĩnh vực. (4) Không ngừng cải cách, đổi mới để đảm bảo vai trò dẫn dắt, quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế. (5) Tập trung phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp và lan tỏa tinh thần khởi nghiệp, trong đó Chính phủ đóng vai trò trung tâm, hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp để tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp khởi nghiệp; quan tâm phát triển các tập đoàn công nghệ trở thành các trụ cột của kinh tế quốc gia. Kính thưa Đại hội, Đúc kết những kinh nghiệm từ thực tiễn thành công của một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới, Thành phố Hồ Chí Minh luôn xác định tầm quan trọng của việc phát triển kinh tế tri thức trong định hướng, chiến lược phát triển. Cụ thể: Thành phố khai thác có hiệu quả lợi thế của một đô thị đặc biệt, một trung tâm lớn về kinh tế, văn hoá, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ vào phát triển kinh tế tri thức, hình thành những nền tảng của kinh tế tri thức, bao gồm đội ngũ trí thức đông đảo, đô thị thông minh, khu công nghệ cao, trung tâm khởi nghiệp sáng tạo, các tập đoàn lớn về công nghệ, các trung tâm nghiên cứu phát triển, hạ tầng công nghệ thông tin trên nền tảng mạng 5G. Trên cơ sở đó, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng hàm lượng tri thức, tập trung phát triển các ngành công nghệ cao, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Trong thời gian qua, Thành phố Hồ Chí Minh đã thành lập và phát triển Chuỗi Công viên phần mềm Quang Trung, Khu Công nghệ cao, Khu Nông nghiệp Công nghệ cao, Trung tâm ươm tạo chuyên về trí tuệ nhân tạo, Công viên Khoa học và công nghệ tại Khu Công nghệ cao, Viện Khoa học và Công nghệ tính toán… Riêng Khu Công nghệ cao đến nay đã thu hút 162 dự án với tổng mức đầu tư hơn 7,65 tỷ USD, giá trị sản xuất sản phẩm công nghệ cao năm 2020 đạt hơn 20 tỷ USD, năng suất lao động bình quân gấp 20 lần bình quân của Thành phố và hơn 60 lần bình quân cả nước, thu hút nhiều tập đoàn đa quốc gia mạnh về công nghệ như Intel, Samsung, Nidec… Là địa phương đầu tiên ban hành Chương trình chuyển đổi số nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế số, chính quyền số và xã hội số. Ban hành Chương trình xây dựng Thành phố trở thành đô thị thông minh với 4 trụ cột: Kho dữ liệu dùng chung và hệ sinh thái dữ liệu mở; Trung tâm điều hành đô thị thông minh; Trung tâm mô phỏng dự báo kinh tế - xã hội và Trung tâm an toàn thông tin thành phố. Thành phố thông minh không chỉ tạo điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân mà còn là một “sản phẩm” thúc đẩy sáng tạo, “số hóa” phát triển công nghệ cao và làm “đầu kéo” cho tăng trưởng nhiều ngành. Đặc biệt, Thành phố đang nghiên cứu lập, xây dựng quy hoạch Khu đô thị sáng tạo tương tác cao phía Đông gắn với việc thành lập thành phố Thủ Đức. Khu vực này kỳ vọng góp phần thiết lập chuỗi giá trị gia tăng trên nền tảng công nghệ cao, hạ tầng kỹ thuật và xã hội hiện đại theo chuẩn quốc tế, hỗ trợ tài chính hiệu quả cho doanh nghiệp, là đòn bẩy và góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân; dự kiến sau khi thành lập và đi vào hoạt động thành phố Thủ Đức sẽ đóng góp 30%-35% GRDP của TP.HCM và chiếm khoảng 7% GDP cả nước. Năm 2020 vừa qua, được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, sự hỗ trợ tận tình của các bộ, ngành Trung ương, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 131/2020/QH14 về tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 1111/NQ-UBTVQH14 về sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và thành lập thành phố Thủ Đức thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là cơ sở quan trọng giúp Thành phố hình thành tổ chức bộ máy đủ mạnh để có thể hiện thực hóa mục tiêu trên. Bên cạnh đó, Thành phố Hồ Chí Minh cũng ban hành nhiều cơ chế, chính sách thúc đẩy các nghiên cứu khoa học công nghệ gắn với cuộc sống, hoàn thiện hệ sinh thái khởi nghiệp, hệ sinh thái đổi mới sáng tạo - nơi vừa có sự liên kết của các trường, viện nghiên cứu với các doanh nghiệp, vừa có vai trò của chính quyền trong hỗ trợ đầu tư mạo hiểm cho các dự án khởi nghiệp. Điển hình là hình thành Viện công nghệ tiên tiến và Đổi mới sáng tạo, Trung tâm khởi nghiệp sáng tạo, thành lập các Hội đồng phát triển kinh tế ngành với sự tham gia của nhà nước - nhà doanh nghiệp - nhà nghiên cứu và các tổ chức tín dụng. Đồng thời quan tâm, đầu tư phát triển nguồn nhân lực, đưa nội dung đào tạo công nghệ thông tin, kỹ năng số vào các chương trình đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng nguồn nhân lực số, hình thành đội ngũ chuyên gia và kỹ thuật viên đủ chuẩn quốc tế. Xây dựng chương trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ quốc tế ở 08 ngành (công nghệ thông tin - truyền thông, cơ khí - tự động hóa, trí tuệ nhân tạo, quản trị doanh nghiệp, tài chính ngân hàng, y tế, du lịch, quản lý đô thị). Không ngừng nâng cao tính hiệu lực hiệu quả của bộ máy chính quyền, xây dựng một nền quản trị côngnăng động. Tập trung nâng cao năng lực dự báo, phản ứng chính sách của chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh để hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm quản lý và phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số trong điều kiện phát triển mới; nâng cao năng lực của cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu quản lý, phát triển kinh tế tri thức. Một điều quan trọng không thể thiếu làtạo niềm tin trong lòng nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp thành phố. Thực tiễn cho thấy việc tham gia của người dân, cộng đồng doanh nghiệp có ý nghĩa then chốt trong phát triển kinh tế tri thức. Những ứng dụng của công nghệ thông tin vào dịch vụ hành chính công, chính quyền điện tử, phát triển giao thông thông minh, y tế thông minh, giáo dục thông minh, khởi nghiệp sáng tạo,… luôn được người dân và doanh nghiệp đồng tình và tích cực hưởng ứng. Thành phố cũng quan tâm ban hành nhiều cơ chế, chính sách thu hút các nhà khoa học, trí thức trong và ngoài nước, kiều bào ở nước ngoài tham gia vào mọi lĩnh vực trong đời sống kinh tế - xã hội của Thành phố, đóng vai trò nòng cốt trong phát triển kinh tế tri thức. Chủ động và đón đầu trong việc ứng dụng những thành tựu của cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào phát triển kinh tế dựa trên nền tảng tri thức. Những giải pháp trên đã giúp kinh tế Thành phố đạt mức tăng trưởng khá cao, nếu không tính năm 2020 do ảnh hưởng của đại dịch Covid - 19, giai đoạn 2016 - 2019 GRDP của Thành phố Hồ Chí Minh tăng bình quân 7,72%, duy trì vai trò đầu tàu kinh tế của đất nước, đóng góp hơn 22% GDP quốc gia, hơn 26% thu ngân sách cả nước. Kính thưa Đại hội, Ở Việt Nam, quan điểm phát triển kinh tế tri thức đã được đề cập, bàn bạc từ các nhà nghiên cứu, nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý… và được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau từ những năm đầu thời kỳ đổi mới. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và nhiều văn bản chính thức của Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định vị trí, vai trò kinh tế tri thức trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta, rất coi trọng vận dụng các yếu tố của kinh tế tri thức, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa mạnh mẽ và đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Trên tinh thần đó, Thành phố đề xuất 7 giải pháp trọng tâm phát triển kinh tế tri thức trong thời gian tới, đó là: Thứ nhất, đổi mới cơ chế, chính sách, tạo lập một khuôn khổ pháp lý mới phù hợp với sự phát triển nền kinh tế tri thức. Cần thiết xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế tri thức giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2045. Chiến lược cần đánh giá đúng thực trạng, xác định rõ quan điểm phát triển kinh tế tri thức, chỉ rõ mô hình, mục tiêu, khâu đột phá và định hướng phát triển kinh tế tri thức, đồng thời tổ chức thực hiện có hiệu quả các nội dung đề ra. Mô hình phát triển kinh tế tri thức ở nước ta vừa mang tính tổng thể ở tầm vĩ mô, vừa phải cụ thể hóa sát với điều kiện, thế mạnh của đất nước, từng địa phương, cấp, ngành và từng lĩnh vực. Trong chiến lược cần xác định và triển khai lộ trình, bước đi và giải pháp thích hợp, xác định rõ những khâu, những bước đột phá, không dàn trải; trước mắt ưu tiên phát triển kinh tế tri thức tại ngành ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ, các đô thị lớn, các vùng kinh tế trọng điểm để tạo nền tảng, lan tỏa đến các ngành, địa phương khác. Ngoài ra, Chiến lược cần nhấn mạnh khâu phân tích, tổng hợp kết quả đạt được định kỳ hàng năm để đánh giá rút kinh nghiệm, điều chỉnh kịp thời các định hướng, giải pháp phù hợp xu hướng phát triển kinh tế toàn cầu. Thứ hai, phát triển mạnh nguồn lao động chất lượng cao, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài. Tập trung đầu tư phát triển giáo dục, cải cách giáo dục theo hướngtăng cường thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn; đàm phán, hợp tác, chuyển giao chương trình đào tạo tiên tiến của các nước trong khu vực và trên thế giới. Tăng nhanh đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật và công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ quản lý, doanh nhân... Tập trung đào tạo nghề đạt chuẩn quốc tế đối với 8 lĩnh vực ngành nghề được tự do di chuyển theo thỏa thuận trong khuôn khổ Cộng đồng Kinh tế ASEAN (gồm nha khoa, điều dưỡng, kỹ thuật, xây dựng, kế toán, kiến trúc, khảo sát và du lịch). Thứ ba, tăng cường năng lực khoa học - công nghệ quốc gia để có thể tiếp thu, làm chủ, vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học - công nghệ mới nhất của thế giới cần thiết cho phát triển của đất nước, từng bước sáng tạo công nghệ đặc thù của đất nước, xây dựng nền khoa học - công nghệ tiến tiến của Việt Nam. Đẩy mạnh đầu tư cho nghiên cứu khoa học - công nghệ và biến khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp nhằm tạo nền tảng công nghệ phục vụ phát triển đất nước theo hướng hiện đại và tạo ra các yếu tố nền tảng của kinh tế tri thức. Đổi mới cơ chế quản lý nhà nước về khoa học - công nghệ. Cơ chế đó phải hướng vào việc thúc đẩy khoa học - công nghệ thực sự gắn kết với sản xuất - kinh doanh, khoa học xâm nhập vào thực tiễn sản xuất - kinh doanh làm ra của cải và tri thức mới phục vụ trực tiếp công cuộc phát triển kinh tế - xã hội… Cùng với việc đầu tư cho nghiên cứu (chú trọng cả khoa học - công nghệ cùng với khoa học - xã hội và nhân văn), việc đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện đại vào các khâu, các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế tạo ra khả năng lan tỏa trong nền kinh tế theo hướng hiện đại. Thứ tư, đầu tư phát triển mạnh mẽ hạ tầng công nghệ thông tin; đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghệ thông tin là chìa khóa để đi vào kinh tế tri thức. Muốn rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, rút ngắn khoảng cách với các nước, phải khắc phục khoảng cách về công nghệ thông tin. Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp trên thế giới, đây là tình huống xuất hiện các ngành, lĩnh vực mới liên quan đến chuyển đổi số, đó vừa là cơ hội, vừa là áp lực để nước ta phát triển mạnh mẽ kinh tế số trong thời gian tới. Thứ năm, ban hành các cơ chế, chính sách để hoàn thiện hệ sinh thái khởi nghiệp, hỗ trợ, khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Cơ chế, chính sách phải thực sự vừa khuyến khích nhưng vừa tạo ra sự đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới dựa trên công nghệ mới và thúc đẩy nhanh chóng sự ra đời các doanh nghiệp mới, nhất là các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm mới, công nghệ mới; trong đó khâu then chốt là cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Đồng thời, đề xuất Chính phủ cần lựa chọn và có chính sách đặc thù đối với một số doanh nghiệp có khát vọng và bản lĩnh, có đủ năng lực và quy mô cho đầu tư, nghiên cứu, phát triển công nghệ mới, tiên phong vươn tầm thế giới. Từ đó dẫn dắt các doanh nghiệp trong nước tham gia chuỗi giá trị khu vực, chuỗi giá trị toàn cầu; từng bước làm chủ công nghệ, xây dựng thương hiệu, nâng cao năng lực cạnh tranh và hấp dẫn trong “sân chơi” toàn cầu. Song song đó, cũng cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ mạnh dạn đổi mới công nghệ, quy trình trình sản xuất và quản lý (Thành phố Hồ Chí Minh hiện chỉ có khoảng 2% doanh nghiệp có quy mô lớn, 98% doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ, tỷ lệ này đối với cả nước cũng gần tương tự). Một khi doanh nghiệp coi trọng đổi mới sáng tạo, quan tâm đầu tư hoạt động nghiên cứu và phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ sẽ có nhu cầu tuyển dụng đội ngũ nhân sự chất lượng cao, từ đó góp phần lan tỏa ra xã hội, phát triển lực lượng lao động tay nghề cao, giàu chất xám, tri thức. Thứ sáu, không ngừng cải cách, đổi mới để đảm bảo vai trò dẫn dắt, quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế. Cần có cơ chế đặc thù để các khu công nghệ cao, khu công viên phần mềm phát huy vai trò là trung tâm đổi mới sáng tạo. Trên cơ sở đó, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng hàm lượng tri thức, tập trung phát triển các ngành công nghệ cao, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Từng bước thoát dần bẫy thu nhập trung bình. Ngoài ra, trong bối cảnh mới, nỗ lực tự thân của các doanh nghiệp cùng cách hỗ trợ thích hợp, thiết thực của nhà nước có ý nghĩa quyết định để doanh nghiệp ngày càng trưởng thành, bởi tinh thần kinh doanh vô cùng quan trọng nhưng chưa đủ, rất cần một hệ sinh thái hiệu quả, trong đó đặc biệt lưu ý đến vai trò then chốt của vốn đầu tư mạo hiểm, điều kiện rút vốn, tư vấn có kinh nghiệm và những vườn ươm công nghệ, trung tâm sáng tạo để kết nối hiệu quả bộ ba, đó là: Tài chính - nghiên cứu và phát triển - thiết lập mạng lưới hợp tác, để thúc đẩy doanh nghiệp phát triển. Cùng với đó, là đảm bảo tốt quyền sở hữu trí tuệ và thiết lập những quy chế, điều tiết thuận lợi cho đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Thứ bảy, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế nhằm tranh thủ nguồn ngoại lực, kết hợp nội lực để bắt kịp xu thế phát triển khoa học công nghệ tiên tiến, phục vụ cho mục tiêu hiện đại hóa lực lượng sản xuất của đất nước. Kính thưa Đại hội, Trong xu thế toàn cầu hóa và bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chắc chắn rằng tăng trưởng kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động rẻ sẽ nhường chỗ cho nền kinh tế tăng trưởng dựa vào hàm lượng công nghệ cao, đa dạng hóa và nâng cao giá trị gia tăng. Do vậy, để tiếp tục nâng cao tiềm lực, vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, phát triển kinh tế tri thức là xu hướng tất yếu, bảo đảm cho đất nước ta phát triển nhanh và bền vững, hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, nước ta là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước, trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Xin trân trọng cảm ơn Đại hội. -- [1] Tỷ lệ đóng góp các ngành công nghiệp dựa trên tri thức vào GDP ở Singapore 57,9%, Mỹ 55,3%, Nhật 53%, Canada 51% và Australia 48% (Báo cáo của nhóm nghiên cứu đặc trách thuộc APEC về kinh tế tri thức). Các tin mới nhận Tiếp nhận hồ sơ ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND TPHCM Phương hướng công tác phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí năm 2021 TPHCM đang làm gì để cùng cả nước đẩy lùi dịch bệnh? Những động lực cho giai đoạn phát triển mới của TPHCM TPHCM tạm dừng các dịch vụ không thiết yếu từ 12h ngày 9/2 Lãnh đạo TPHCM dâng hương, dâng hoa tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ Phó Chủ tịch UBND Lê Hòa Bình chúc Tết các nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước Thảnh ủy TPHCM gặp gỡ các cán bộ cao cấp nghỉ hưu Các tin khác Bổ nhiệm nhân sự lãnh đạo VKSND TP. Thủ Đức Ông Nguyễn Văn Hiếu làm Bí thư Thành ủy Thủ Đức Chính quyền Thành phố Thủ Đức hoạt động từ 22/1/2021 Thành phố Thủ Đức có Chủ tịch 41 tuổi Đoàn đại biểu Quốc hội TPHCM tổng kết nhiệm kỳ khóa XIV Gặp mặt kỷ niệm 75 năm Ngày Tổng tuyển cử đầu tiên TPHCM vinh danh 12 công dân trẻ tiêu biểu Công bố Nghị quyết thành lập thành phố Thủ Đức thuộc TPHCM Trình duyệt của bạn không hỗ trợ xem video Tin media Sẽ có Hội đồng hiệu trưởng các trường đại học (12/01/2017) Chống ùn tắc giao thông cho sân bay Tân Sơn Nhất (11/01/2017) Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh (11/01/2017) Liên kết website Cổng thông tin điện tử Chính phủ Di tích lịch sử Dinh Độc lập Webiste Thành phố Hồ Chí Minh Báo điện tử Chính phủ Trở về đầu trang | Liên hệ © CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ Tổng Giám đốc: Nguyễn Hồng Sâm Trụ sở: 16 - Lê Hồng Phong - Ba Đình - Hà Nội Điện thoại văn phòng: 080 43162 Cơ quan Thường trú tại Thành phố Hồ Chí Minh Địa chỉ: 7 - Lê Duẩn - Quận 1 - Thành phố Hồ Chí Minh; Điện thoại: 080.86070 Ghi rõ nguồn 'Cổng Thông tin điện tử Chính phủ' hoặc 'www.chinhphu.vn' khi bạn phát hành lại thông tin từ Website này
1614178347293.1.parquet/61178
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 17145, "url": "https://tphcm.chinhphu.vn/tham-luan-cua-dang-bo-tphcm-tai-dai-hoi-xiii" }
104.2
Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ: Hợp tác sức mạnh mềm - Redsvn.net Kênh chia sẻ tri thức cộng đồng Menu Skip to content Redsvn Thời sự⠀ Thời sự Việt Nam⠀ Thời sự quốc tế⠀ Tình hình biển đảo⠀ Mạng – Truyền thông Quân sự⠀ Chính trị⠀ Dân chủ – Pháp quyền⠀ Chủ quyền Việt Nam⠀ Địa chính trị⠀ An ninh chính trị⠀ Hình thái kinh tế – xã hội⠀ Tri thức⠀ Văn hóa – Giáo dục⠀ Triết học – Tư tưởng⠀ Tâm lý – Xã hội⠀ Kinh tế – Thị trường⠀ Tôn giáo – Tâm linh⠀ Lịch sử⠀ Hồ sơ – Tư liệu⠀ Âm vang sử Việt⠀ Dưới ánh sao vàng⠀ Biển đảo Việt Nam⠀ Giải phóng con người⠀ Nghệ thuật⠀ Toàn cảnh⠀ Âm nhạc⠀ Văn học⠀ Mỹ thuật – Tạo hình⠀ Sân khấu – Điện ảnh⠀ Môi trường⠀ Bức tranh môi trường⠀ Phát triển bền vững⠀ Bảo tồn⠀ Biến đổi khí hậu⠀ Sống xanh⠀ Khoảnh khắc⠀ Thời sự qua ảnh⠀ Hình ảnh lịch sử⠀ Đất Việt – Người Việt⠀ Cuộc sống muôn màu⠀ Thư giãn⠀ Marxist⠀ Phật giáo⠀ Cảm xúc⠀ Blog⠀ Đời thường⠀ Về người lính⠀ Suy ngẫm⠀ Tình yêu⠀ Lặng⠀ Tags Tìm kiếm Liên hệ Redsvn Posted on 15/03/2018 15/03/2018 Chính trị⠀Địa chính trị⠀ Quan hệ Việt Nam – Ấn Độ: Hợp tác sức mạnh mềm Quan hệ Ấn Độ-Việt Nam không phải mới hình thành gần đây; hai quốc gia có quá khứ lịch sử kéo dài nhiều thiên niên kỷ, và tầm quan trọng của nó chưa bao giờ mất đi trong tiến trình phát triển của thời kỳ hiện đại. Bài viết của tác giả Rajaram Panda, là Chủ tịch, Giáo sư liên kết của Hội đồng Quan hệ Văn hóa Ấn Độ (ICCR) tại Khoa Kinh tế và Doanh nghiệp, Đại học Reitaku, Nhật Bản. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả và không phản ánh quan điểm của ICCR hay Chính phủ Ấn Độ. Bài viết được đăng trên The Pioneer. Với quá khứ lịch sử phong phú, Ấn Độ và Việt Nam giờ đây đang tăng cường hợp tác trong lĩnh vực văn hóa thông qua một loạt sáng kiến, chẳng hạn như các chương trình trao đổi dành cho các nghệ sỹ, học giả, nhà báo, nông dân và các thành viên quốc hội. Quan hệ Ấn Độ-Việt Nam không phải mới hình thành gần đây; hai quốc gia có quá khứ lịch sử kéo dài nhiều thiên niên kỷ, và tầm quan trọng của nó chưa bao giờ mất đi trong tiến trình phát triển của thời kỳ hiện đại. Câu chuyện hiện tại về mối quan hệ song phương này – mà trong đó các khía cạnh kinh tế và an ninh là chủ đạo và đã trở nên có tầm quan trọng lớn hơn do những thay đổi về địa chính trị ở châu Á – được bổ trợ một cách thích hợp bởi quá khứ lịch sử thân thiện. Thành tố sức mạnh mềm này cũng quan trọng, và việc cả Ấn Độ lẫn Việt Nam đều tham gia tăng cường sự hợp tác này là điều thích hợp. Trung tâm nghiên cứu Ấn Độ (CIS) thuộc Học viện chính trị Hồ Chí Minh, Hà Nội, đã đi đầu trong việc tạo ra một nhận thức mới về giá trị của sức mạnh mềm. Với tầm nhìn như vậy, một êkíp của CIS đã tới thăm Ấn Độ vào tháng 8/2017 để trao đổi với các học giả thuộc các tổ chức tư vấn lớn. Để thúc đẩy hơn nữa công tác nghiên cứu, một hội nghị khoa học quốc tế đã được CIS tổ chức vào cuối tháng 12/2017 tại Hà Nội, nơi các học giả của cả 2 nước sẽ đi sâu tranh luận về việc làm thế nào để có thể tăng cường hơn nữa các lợi ích của công cụ ngoại giao quan trọng này. Tầm quan trọng của sức mạnh mềm Tầm quan trọng của sức mạnh mềm là gì? Dù vai trò của sức mạnh mềm đã và đang duy trì được tính thích đáng trong quá khứ cũng như ở hiện tại, chính Joseph Nye là người đã đưa ra lời giải thích mang tính lý luận cho khía cạnh quan trọng này. Theo ông, sức mạnh mềm đề cập đến khả năng của một quốc gia có được những kết quả mà nước này mong muốn, nhưng không thông qua sự đe dọa hay những phần thưởng, mà thông qua sức hấp dẫn của nước này, đặc biệt là sức hấp dẫn của nền văn hóa, các giá trị chính trị và các chính sách của nước đó. Khái niệm này là nền tảng của triết lý trong câu châm ngôn của chiến lược gia cổ đại người Trung Quốc Tôn Tử: “Tốt nhất là thắng mà không cần đánh”. Quan điểm thay thế Có thể có nhiều cách diễn giải về sức mạnh mềm và ý nghĩa của nó có thể khác nhau trong bối cảnh và tình hình mà ở đó nó được sử dụng và giải thích. Cách giải thích của châu Âu không nhất thiết phải giống như trong bối cảnh của châu Á, tuy vậy đường nét khái quát về định nghĩa của sức mạnh mềm vẫn không thay đổi. Kazuo Ogoura, nhà ngoại giao Nhật Bản, cựu Chủ tịch Trung tâm giao lưu văn hóa Nhật Bản, đã đưa ra một cách giải thích của châu Á về sức mạnh mềm. Ông lưu ý tới sự nhầm lẫn về khái niệm sức mạnh mềm và cảm thấy nó phần nào bị bóp méo, bị sử dụng sai, và trong các trường hợp cực đoan là bị lạm dụng. Theo ông, sức mạnh mềm làm giảm các phí tổn, hay điều mà lý thuyết hệ thống gọi là các phí tổn giao dịch, của việc đạt được các mục tiêu chính sách và do đó không chỉ liên quan đến việc thúc đẩy các ngành công nghiệp có “nội dung mềm”. Theo ông, vì sức mạnh mềm có vẻ hấp dẫn, nên người ta có xu hướng gọi bất kỳ điều gì “hấp dẫn” là sức mạnh mềm. Tuy nhiên, Ogoura cho rằng sức hấp dẫn đó làm giàu cho cuộc sống, nhưng chỉ riêng sức hấp dẫn thôi thì không phải là sức mạnh mềm. Do đó, vấn đề này được lập luận như sau: Sức hấp dẫn có thể là một nguồn tạo ra sức mạnh mềm, nhưng việc liệu nó có thể trở thành sức mạnh mềm hay không phụ thuộc vào bản thân mục tiêu chính sách và các phương thức được sử dụng để đạt được mục tiêu đó. Do vậy, đây có thể là một vấn đề phức tạp. Lập luận trên có thể được giải thích thêm trong bối cảnh của Các lực lượng phòng vệ Nhật Bản (SDF) chẳng hạn. Thuật ngữ “SDF” ngay lập tức gợi lên cảm giác rằng nó hoàn toàn liên quan đến sức mạnh cứng. Nhưng tùy thuộc vào cách thức và lý do tại sao SDF được huy động, và trong bối cảnh nào, mà các lực lượng này cũng có thể là nguồn sức mạnh mềm. Một ví dụ khác có thể là các chuyến thăm của các chính trị gia Nhật Bản, trong đó có các cựu thủ tướng, tới đền Yasukuni, ngôi đền vinh danh những người Nhật Bản đã chết trong chiến tranh (trong đó có một số người bị kết án là tội phạm chiến tranh hạng A sau Chiến tranh thế giới thứ hai), vốn bị chỉ trích cả bên trong lẫn bên ngoài Nhật Bản (Trung Quốc và Hàn Quốc). Nhưng đối với những người theo quan điểm bảo thủ, đền Yasukuni là sức mạnh mềm. Tuy nhiên, công luận đa số có thể thay đổi để tán thành với một quan điểm như vậy, đặc biệt là sau khi có những thay đổi về địa chính trị ở khu vực lân cận của Nhật Bản, chẳng hạn như các mối đe dọa từ Triều Tiên và sự quyết đoán của Trung Quốc trong các vấn đề lãnh thổ. Nếu một sự thay đổi như vậy diễn ra, đền Yasukuni thậm chí có thể không còn là một nguồn sức mạnh mềm nữa. Do vậy, việc giải thích sức mạnh mềm là gì và có thể định nghĩa sức mạnh mềm như thế nào phụ thuộc vào bối cảnh và tình hình mà ở đó nó được sử dụng. Định nghĩa của Nye về sức mạnh mềm, vốn chỉ dựa trên lợi ích quốc gia của Mỹ, có thể không được thừa nhận một cách phổ quát. Sự thật hiển nhiên là khó có thể đo lường và đánh giá được hiệu quả của sức mạnh mềm. Tuy nhiên, dù khó có thể định lượng sức mạnh mềm, nhưng khái niệm của nó có tầm quan trọng chính bởi các động lực của nền chính trị quốc tế được nêu rõ trong phương diện sức mạnh. Nhưng một lời giải thích như vậy có nhiều vấn đề hơn so với giả định. Thế mạnh sức mạnh mềm của Ấn Độ Tiềm năng sức mạnh mềm của Ấn Độ kể từ thời cổ đại vẫn còn rất lớn. Trong quá khứ, chưa bao giờ Ấn Độ sử dụng sức mạnh cứng trong công cuộc tìm kiếm của mình vươn tới nhân dân các nước khác, bất chấp thực tế rằng họ là nạn nhân của các cuộc xâm lược nước ngoài trong hàng thế kỷ. Thậm chí trước khi các tín đồ Hồi giáo xâm lược Ấn Độ vào thế kỷ 12 và thiết lập sự cai trị của họ, thì Ấn Độ chỉ kháng cự bằng các biện pháp phi bạo lực, trong khi đồng thời chấp nhận những ảnh hưởng tích cực của văn hóa Hồi giáo. Điều tương tự cũng đã xảy ra với những kẻ thống trị người Anh. Ấn Độ đã bị thực dân hóa nhưng cuối cùng tất cả các nước bên ngoài xâm lược Ấn Độ đều phải quay trở về. Sức mạnh của Ấn Độ, gắn liền với nền văn hóa bao dung và cùng chung sống hòa bình phong phú của họ, không bao giờ có thể bị xói mòn. Ấn Độ là điển hình mẫu mực cho tính độc nhất của họ trong sự đa dạng về văn hóa, ngôn ngữ, tôn giáo, tầng lớp, tín ngưỡng và phong tục… Phật giáo đã đi đến các vùng bờ biển nước ngoài và tìm thấy sức hấp dẫn phổ quát ở nhiều nước phương Đông và Đông Nam Á. Trong cuộc hành trình trên biển, các thương gia Ấn Độ đã mang theo các nhà sư đạo Phật truyền bá giáo lý của họ. Cộng đồng Ấn Độ đã đóng góp cho nền kinh tế địa phương và dễ dàng hòa nhập với cộng đồng địa phương. Các di tích của Ấn Độ giáo được tìm thấy ở nhiều nước như Thái Lan, Indonesia, Việt Nam và Campuchia là một bằng chứng cho thấy sự phồn thịnh về văn hóa của Ấn Độ mà thậm chí hiện nay vẫn còn nguyên vẹn. Với một lịch sử phong phú về việc truyền bá sức mạnh mềm của mình như vậy, nước này chưa bao giờ cần phải sử dụng sức mạnh cứng như một lựa chọn để đạt được kết quả mong muốn. Trong thời hiện đại, việc sử dụng sức mạnh mềm được cho là một khuôn khổ mang tính thể chế và hiện có tổ chức hơn với sự tham gia của người dân và các khu vực tư nhân. Trong thời hiện đại, tài sản sức mạnh mềm của Ấn Độ hầu như không liên quan đến chính phủ vì các khía cạnh quan trọng khác đã nổi lên. Trong khi các sáng kiến của chính phủ nhằm thúc đẩy sức mạnh mềm của đất nước là có tầm quan trọng lớn, thì các công cụ khác như Bollywood, các chương trình truyền hình và các sản phẩm có thể xuất khẩu về văn hóa đại chúng của Ấn Độ cũng quan trọng trong việc đưa Ấn Độ trở thành một siêu cường văn hóa. Sự khác biệt ở đây là các sáng kiến của chính phủ nhằm thúc đẩy sức mạnh mềm là để đáp ứng các mục đích chính trị. Tuy nhiên, kết quả cuối cùng là giống nhau và không có mâu thuẫn khi áp dụng. Điều mà các sáng kiến của chính phủ làm, như các thỏa thuận văn hóa hay vai trò mà Hội đồng quan hệ văn hóa Ấn Độ đảm nhận, là ưu tiên các mục tiêu trên quy mô toàn cầu theo một cách có tổ chức trái ngược với các văn hóa phẩm xuất khẩu vô hình, như vai trò mà Bollywood hay các bộ phim/vở kịch truyền hình đảm nhận. Các công cụ khác của văn hóa phẩm xuất khẩu do chính phủ khởi xướng tồn tại dưới hình thức kể chuyện lịch sử mang tính biểu diễn dựa trên thần thoại, như Ramayana, Mahabharata và các câu chuyện lịch sử khác, được thể hiện dưới nhiều thể loại khác nhau, như kịch, sân khấu và bài hát. Ví dụ như một vở nhạc kịch dựa trên sử thi Ramayana được biểu diễn trong Hội nghị cấp cao Đông Á ở Manila được tổ chức vào tháng 11/2017 đã cuốn hút các nhà lãnh đạo tại lễ khai mạc ASEAN. Vở kịch này phản ánh những mối liên kết văn hóa giữa Ấn Độ với Philippines và một vài quốc gia thành viên trong khối quyền lực gồm 10 thành viên này. Màn trình diễn âm nhạc dựa trên sử thi Ramayana đã nhận được một tràng pháo tay lớn từ một số nhà lãnh đạo và đại biểu thế giới. Ban lãnh đạo Campuchia tại hội nghị cấp cao này đã đề xuất rằng nên mời các đoàn kịch của ASEAN biểu diễn phiên bản Ramayana của riêng họ tại Hội nghị cấp cao đặc biệt kỷ niệm quan hệ Ấn Độ-ASEAN vào ngày 25/1/2018, đánh dấu kỷ niệm 25 năm quan hệ của Ấn Độ với tổ chức này. Đó là lần đầu tiên Ấn Độ mời các nhà lãnh đạo của 10 quốc gia Đông Nam Á tham dự lễ kỷ niệm Ngày Cộng hòa. Ấn Độ đã chấp nhận lời đề nghị và hoan nghênh các nhóm biểu diễn từ cả 10 quốc gia ASEAN với phần trình diễn dựa trên Ramayana, vì nó phản ánh những liên kết văn minh của Ấn Độ với các nước ASEAN. Kiểu công cụ sức mạnh mềm trong ngoại giao quốc tế này giúp làm sâu sắc thêm mối liên kết giữa các quốc gia. Sức mạnh mềm của Việt Nam Giống như trường hợp của Ấn Độ, sức mạnh mềm cũng có thể được định nghĩa bằng di sản văn minh và văn hoá phong phú của Việt Nam. Cả Ấn Độ lẫn Việt Nam đều hưởng lợi lớn từ nền văn hóa tương ứng của họ trong lịch sử và đã sử dụng thành công công cụ sức mạnh mềm như một yếu tố quan trọng để đạt được các mục tiêu cuối cùng của mình. Phần lớn việc áp dụng sức mạnh mềm vẫn chưa được biết tới khi chưa có công nghệ. Cuộc cách mạng thông tin hiện nay đã truyền bá các lợi ích của yếu tố ngoại giao quan trọng này. Bên cạnh việc là đối tác chiến lược của Ấn Độ, Việt Nam cũng có mối quan hệ văn hóa tương đối sâu sắc với Ấn Độ. Cả Ấn Độ lẫn Việt Nam đều mong muốn tăng cường hợp tác thông qua trao đổi văn hóa và xuất khẩu văn hóa phẩm, giúp thúc đẩy sự hiểu biết hơn nữa về di sản và lịch sử chung của họ. Sự hòa nhập giữa hai xã hội cần phải phát triển song song với sự hợp tác an ninh-chính trị và kinh tế. Trong câu chuyện chung về sự hòa nhập văn hóa này, lịch sử của các tương tác về văn hóa giữa Ấn Độ và Việt Nam được gắn trong bối cảnh văn hóa xã hội rộng lớn hơn ở Đông Nam Á. Chúng ta có thể thấy bằng chứng về lịch sử thuở sơ khai giữa Ấn Độ và Đông Nam Á, bắt đầu từ những cuộc khai quật từ thế kỷ I sau Công nguyên tại một số quốc gia Đông Nam Á. Các đền thờ nổi tiếng của Campuchia, như Angkor Wat và Ta Prohm, đều mang những dấu ấn mạnh mẽ của Ấn Độ. Các nước khác trong khu vực như Myanmar, Thái Lan, Indonesia, Lào và các nước khác đều chịu ảnh hưởng từ văn hóa Ấn Độ, vốn vẫn còn nguyên vẹn trong quan hệ giữa nhân dân các nước này cho đến ngày nay. Dvaravati của Thái Lan vào thế kỷ VII sau Công nguyên là minh chứng cho ảnh hưởng của nền văn hóa Ấn Độ, bao gồm truyền thống Phật giáo, Vaishnava và Shaiva. Nhưng điểm nổi bật liên quan tới Việt Nam là Vương quốc Chăm ở phía Nam nước này, nơi tầm ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ được minh chứng bởi khu vực thánh địa Mỹ Sơn nổi tiếng với một khu phức hợp gồm các đền thờ thần Shiva. Thương mại mạnh mẽ và năng động giữa Ấn Độ và khu vực đã giúp tăng cường những ảnh hưởng văn hoá như vậy từ mỗi nước. Chúng đã có từ triều đại Gupta khi thương mại nở rộ từ thế kỷ IV đến thế kỷ VI sau Công nguyên, kết nối Kedah trên bán đảo Malay và các tuyến đường biển với bờ biển Việt Nam và Thái Lan. Cũng có những bản khắc phản ánh ảnh hưởng về ngôn ngữ của Ấn Độ đối với các vương quốc ở Đông Nam Á, như Việt Nam và Indonesia. Tiếng Phạn cũng có ảnh hưởng mạnh mẽ không kém được phản ánh qua các bản khắc từ thế kỷ VI sau Công nguyên, bằng chứng cổ xưa nhất của ảnh hưởng này có thể tìm thấy ở Java từ thế kỷ V sau Công nguyên. Ngay cả tiếng Phạn trong các văn bản cổ của Ấn Độ cũng có âm hưởng ở nhiều nước Đông Nam Á. Chẳng hạn, Bahasa Malaysia (tiếng Malaysia) và Bahasa Indonesia (tiếng Indonesia) được sử dụng tương ứng ở Malaysia và Indonesia đều có nguồn gốc từ tiếng Phạn vì bản thân từ “Bahasa” cũng có nghĩa là tiếng Phạn. Từ “Bharat”, tên địa phương chỉ Ấn Độ, trong tiếng Bahasa có nghĩa là “phía Tây” (barat) và cho thấy nhận thức của họ từ trong lịch sử về Ấn Độ. Biên giới Ấn Độ đã được mở rộng ồ ạt với sự thâm nhập của Bollywood trên khắp các lục địa và chúng ta cũng không thể bỏ sót dấu ấn của nền điện ảnh tiếng Hindi ở Đông Nam Á. Với một truyền thống lịch sử phong phú như vậy, Ấn Độ và Việt Nam giờ đây đang tăng cường hợp tác trong lĩnh vực văn hóa thông qua hàng loạt sáng kiến, chẳng hạn như các chương trình trao đổi nghệ sĩ, học giả, nhà báo, nông dân, thành viên quốc hội và nhiều đối tượng khác. Các chương trình này tạo điều kiện thuận lợi cho sự di chuyển của người dân giữa cả hai nước để trực tiếp trải nghiệm hai nền văn hóa đẹp đẽ có sự hòa hợp này. Việc thành lập trường Đại học Nalanda – từng là trung tâm kiến thức nổi tiếng thế giới nơi các học giả từ khắp thế giới, bao gồm cả Đông Nam Á và Ấn Độ, trao đổi kiến thức và ý tưởng – là một minh chứng điển hình cho sức mạnh mềm vốn vẫn đang bao trùm toàn khu vực. Ấn Độ đã trao học bổng cho các sinh viên từ Campuchia, Lào, Myanmar, và Việt Nam để tới đó học tập. Sự đóng góp của những người Ấn Độ đến định cư tại nhiều nước Đông Nam Á từ thế kỷ XVIII và XIX là vô cùng to lớn. Dù lớn hay nhỏ, cộng đồng người Ấn Độ vẫn duy trì lối sống khiêm nhường và làm việc với tất cả sự chân thành tại các quốc gia họ đang sinh sống. Mặc dù có số lượng nhỏ ở Việt Nam, ước tính chỉ khoảng 1.500 người, nhưng những người định cư Ấn Độ đều sôi nổi, tuân thủ pháp luật, có trình độ học vấn và phát đạt. Họ duy trì mối quan hệ gia đình, văn hoá và kinh doanh mạnh mẽ với Ấn Độ, và do đó là cầu nối của nước này với Việt Nam. Theo NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG Tags: Việt Nam và quốc tế, Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ Redsvn Tìm kiếm cho: Tìm kiếm Dân chủ – Pháp quyền Kinh nghiệm thu hồi đất của một số quốc gia trên thế giới Chính quyền hiệu quả là một chính quyền như thế nào? Chuyện vi hành và chống tham nhũng của vua Lê Thánh Tông Vì sao người ta cố sống cố chết để được ‘làm cán bộ’? Chủ quyền Việt Nam Bàn về học thuyết xây dựng chính sách biển Việt Nam hiện đại Độc lập văn hóa: Yếu tố cốt tử để bảo vệ Tổ quốc Tại sao Việt Nam không bị đồng hóa sau 1.000 năm Bắc thuộc? Cái nhìn của giới trẻ về Trung Quốc và việc giành lại Hoàng Sa Địa chính trị Góc nhìn địa chính trị về cuộc chiến tranh Việt Nam – Trung Quốc 1979 Kênh đào Suez và lời cảnh tỉnh về Vành đai và Con đường của Trung Quốc Về vấn đề Diệt chủng trong chính trị quốc tế Lý thuyết, thực tiễn quan hệ đối tác chiến lược: Từ thế giới đến Việt Nam An ninh chính trị Vì sao Việt Nam không thể chấp nhận ‘dân chủ phương Tây’? Liên bang Nam Tư và bài học đau đớn về ‘lòng tốt’ của phương Tây Về Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam Vaccine nào cho virus ‘dân chủ rởm’ thời đại dịch COVID-19? Hình thái kinh tế – xã hội Từ thời tiền sử đến chủ nghĩa tư bản: Nhân loại đã thức tỉnh như thế nào? Nhận thức mới về chủ nghĩa tư bản của Marx và Engels thời kỳ cuối đời Một góc nhìn về chế độ độc tài và sự ổn định của quốc gia Góc nhìn quốc tế: Việt Nam đang theo chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa tư bản? © Copyright 2021 – Redsvn.net
1614178347293.1.parquet/67023
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 16011, "url": "https://redsvn.net/quan-he-viet-nam-an-do-hop-tac-suc-manh-mem/" }
102.5
Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới | Học viện Chính trị Công an Nhân dân Trang chủ Giới thiệu Cơ cấu - Tổ chức Giới thiệu chung Sứ mạng, tầm nhìn Tin tức Tin tức học viện Tin tức ngành Tin tức khác Đào tạo - Bồi dưỡng Đào tạo LLCT Đào tạo chính quy Đào tạo sau đại học Bồi dưỡng chức danh Nghiên cứu Khoa học NCKH cán bộ, giảng viên NCKH sinh viên Biểu mẫu Trang sinh viên LLCT-XDLL CAND Lý luận chính trị Nghiên cứu trao đổi Bài viết Bộ trưởng Chống diễn biến hòa bình Thư viên video Thư viện ảnh Thư viện tư liệu Liên hệ Trang chủ Giới thiệu Cơ cấu - Tổ chức Giới thiệu chung Sứ mạng, tầm nhìn Tin tức Tin tức học viện Tin tức ngành Tin tức khác Đào tạo - Bồi dưỡng Đào tạo LLCT Đào tạo chính quy Đào tạo sau đại học Bồi dưỡng chức danh Nghiên cứu Khoa học NCKH cán bộ, giảng viên NCKH sinh viên Biểu mẫu Chống diễn biến hòa bình LLCT-XDLL CAND Lý luận chính trị Nghiên cứu trao đổi Bài viết Bộ trưởng Liên hệ Thư viên video Thư viện ảnh Thư viện tư liệu Tin mới Những vấn đề trọng yếu trong việc tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh Bộ trưởng Tô Lâm phát động “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ” tại trụ sở mới của Học viện Chính trị Công an nhân dân “Phi chính trị hóa lực lượng vũ trang”- vấn đề nhìn từ Myanmar Về hội nhập quốc tế và tham gia tiến trình toàn cầu hóa của Việt Nam Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XIII họp phiên đầu tiên Những điểm mới trong chủ đề Đại hội XIII của Đảng LLCT- XDLL CAND Lý luận chính trị | Nghiên cứu trao đổi | Bài viết Bộ trưởng Thứ Hai, 31/8/2020 20:58'(GMT+7) Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới Nhân dịp kỷ niệm 75 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9 (1945-2020) và chuẩn bị tiến hành đại hội các đảng bộ trực thuộc Trung ương tiến tới Đại hội XIII của Đảng, đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, có bài viết quan trọng với tiêu đề "Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới". Trang Thông tin điện tử Học viện Chính trị Công an nhân dân trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết: Đã gần một thế kỷ nay (90 năm kể từ ngày có Đảng), đối với nước ta, cứ mỗi lần tổ chức, tiến hành Đại hội toàn quốc của Đảng là một lần được coi như một sự kiện trọng đại, có ý nghĩa lịch sử, đánh dấu bước phát triển mới của đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng lần này diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến rất nhanh, phức tạp, khó dự báo; đất nước đứng trước nhiều thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức với rất nhiều vấn đề mới đặt ra; cán bộ, đảng viên và nhân dân ta đặt kỳ vọng vào những quyết sách đúng đắn, mạnh mẽ, sáng suốt của Đảng. Với phương châm: Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Sáng tạo - Phát triển, Đại hội không chỉ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng mà còn nhìn lại 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020; đề ra phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ 2021-2026, xác định mục tiêu, phương hướng đến năm 2030 (kỷ niệm tròn 100 năm thành lập Đảng) và tầm nhìn phát triển đất nước đến năm 2045 (kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Vì vậy, đây chắc chắn cũng sẽ là một dấu mốc quan trọng trong quá trình phát triển của Đảng ta, dân tộc ta, đất nước ta, có ý nghĩa định hướng tương lai, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội lần này đã và đang được chuẩn bị một cách rất công phu, bài bản, chu đáo; quán triệt sâu sắc nguyên tắc kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, giữa kiên định và đổi mới, giữa kế thừa và phát triển; trên cơ sở phát huy tối đa dân chủ, lắng nghe các ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, cán bộ, đảng viên và nhân dân; lựa chọn, chắt lọc, tham khảo các đề xuất tâm huyết, trách nhiệm; kết tinh trí tuệ và sức sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Báo cáo chính trị là văn kiện trung tâm của Đại hội, cùng với Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2011-2020, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030; Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016- 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025; Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng. Các văn kiện trình Đại hội của Đảng đã thể hiện được những quan điểm, chủ trương, phương hướng lớn, cho thấy tầm nhìn, tư duy chiến lược của Đảng, khát vọng phát triển của dân tộc và quyết tâm chính trị của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thân yêu của chúng ta. Đại hội cấp cơ sở và trên cơ sở vừa qua đã tiến hành thảo luận chu đáo tất cả các dự thảo Văn kiện Đại hội. Tôi được biết, ý kiến đóng góp rất phong phú, đa dạng, nhiều chiều, dưới những góc độ khác nhau, cách tiếp cận khác nhau. Các Tiểu ban Văn kiện đã tổng hợp và tiếp thu, bổ sung, hoàn thiện các báo cáo. Đến đại hội các đảng bộ trực thuộc Trung ương và Đại hội đại biểu toàn quốc, các đại biểu, các đoàn đại biểu chắc chắn sẽ còn tiếp tục tham gia thảo luận. Tôi không trình bày lại từng nội dung báo cáo, mà đề cập những vấn đề chung có tính chất khái quát, tổng hợp, gợi mở thêm một số vấn đề lớn, quan trọng, để tiếp tục xin ý kiến Đại hội. * * * I- Nhìn lại nhiệm kỳ Đại hội XII, chúng ta vui mừng nhận thấy, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã phát huy tinh thần đoàn kết, thể hiện bản lĩnh, trí tuệ, sự nỗ lực sáng tạo, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm, đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng; đất nước tiếp tục phát triển nhanh và khá toàn diện, chuyển biến tích cực, với nhiều dấu ấn nổi bật: - Trong bối cảnh kinh tế và thương mại toàn cầu suy giảm, sau đó lại rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng do tác động của đại dịch COVID-19, kinh tế nước ta vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao (đạt khoảng 6%), là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất khu vực và thế giới. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện; kinh tế vĩ mô vẫn ổn định khá vững chắc; các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm; kỷ luật, kỷ cương tài chính-ngân sách nhà nước được tăng cường. Đầu tư xã hội, năng lực sản xuất kinh doanh tăng mạnh. Tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế tiếp tục được nâng lên một bước. Xã hội cơ bản ổn định, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao (tỉ lệ hộ nghèo từ 58% (năm 1993), 9,88% (năm 2016) giảm xuống còn dưới 3% vào năm 2020). Các lĩnh vực an sinh xã hội, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học-công nghệ, bảo vệ tài nguyên môi trường, phát triển văn hoá, xây dựng con người Việt Nam, v.v... có nhiều chuyển biến tích cực, có mặt khá nổi trội. - Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đặc biệt quan tâm, tiến hành toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, tạo dấu ấn nổi bật. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí chuyển biến mạnh mẽ, được triển khai quyết liệt, bài bản, đi vào chiều sâu, có bước đột phá và đạt nhiều kết quả cụ thể, rõ rệt, tích cực. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, tự diễn biến, tự chuyển hoá trong Đảng và hệ thống chính trị từng bước được kiềm chế. Nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng, nhất là các vụ án lớn, nghiêm trọng lần lượt được phát hiện, điều tra, tiến hành khởi tố, truy tố, xét xử nghiêm minh, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, tạo sức răn đe, cảnh tỉnh rất lớn, được cán bộ, đảng viên và nhân dân hoan nghênh, đánh giá cao và đồng tình ủng hộ. - Trước tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch tăng cường chống phá, quốc phòng, an ninh của nước ta tiếp tục được tăng cường. An ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, không ngừng mở rộng và đi vào chiều sâu, góp phần củng cố môi trường hoà bình, ổn định cho phát triển; kiên quyết, kiên trì giữ vững độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích chiến lược của đất nước; uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. - Đặc biệt, trong năm 2020, nhờ có sự lãnh đạo nhạy bén, đúng đắn của Đảng và Nhà nước; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, kịp thời của Chính phủ; sự vào cuộc đồng bộ, tích cực của cả hệ thống chính trị; sự đồng tình, hưởng ứng, ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài, chúng ta đã khống chế, cơ bản kiểm soát, ngăn chặn được sự lây lan của đại dịch COVID-19 trong cộng đồng, hạn chế tối đa những thiệt hại, tổn thất do dịch bệnh gây ra, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội cho nhân dân; từng bước khôi phục sản xuất kinh doanh, nỗ lực hoàn thành ở mức cao nhất các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của năm 2020 và cả giai đoạn 2016-2020. Việt Nam trở thành một điểm sáng trong việc khống chế, ngăn chặn đại dịch COVID-19 thành công, được thế giới ghi nhận và đánh giá cao, góp phần nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu đạt được 5 năm qua có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó quan trọng nhất là sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp uỷ đảng trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, giải quyết kịp thời, có hiệu quả nhiều vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn; sự quản lý, điều hành nhạy bén, quyết liệt của Chính phủ và chính quyền các cấp; sự nỗ lực đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Quốc hội; sự đoàn kết thống nhất, phối hợp đồng bộ của cả hệ thống chính trị; phát huy truyền thống yêu nước và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên; tinh thần lao động tích cực, sáng tạo, trách nhiệm của nhân dân; sự tín nhiệm, đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; góp phần tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của nước ta. Tôi đã nhiều lần nói rằng, với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể khẳng định: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Từ một nước nhỏ bé, nghèo nàn, lạc hậu, trình độ rất thấp, hầu như không có tên trên bản đồ thế giới, ngày nay Việt Nam đã vươn lên trở thành một nước có quy mô dân số gần 100 triệu người, đang phát triển, có thu nhập trung bình, có quan hệ với hầu hết các nước trên thế giới, tham gia hầu hết các tổ chức quốc tế và là thành viên, đối tác tin cậy và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Nói như thế để chúng ta có thêm niềm tin, niềm phấn khởi và tự hào, tiếp tục khẳng định con đường đi lên của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là sáng suốt, nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng đẩy mạnh công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta tiếp tục hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Năm năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng là thực tiễn nóng hổi rất sinh động, phong phú để chúng ta tiếp tục khẳng định, bổ sung và làm sâu sắc thêm những bài học kinh nghiệm đã được đúc rút từ những nhiệm kỳ trước: Thứ nhất, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng (xây dựng tổ chức, xây dựng con người) phải được triển khai toàn diện, đồng bộ, thường xuyên cả về tư tưởng, chính trị, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Kiên định, vững vàng trên nền tảng tư tưởng của Đảng đi đôi với xây dựng tổ chức bộ máy của Đảng và cả hệ thống chính trị thực sự tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Thấm nhuần sâu sắc di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh "cán bộ là cái gốc của mọi công việc", "muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém". Do đó, công tác tổ chức, cán bộ phải là điểm đột phá, là "then chốt" của nhiệm vụ "then chốt", có liên quan đến sự sống còn của Đảng, vận mệnh của chế độ; sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Phải hết sức chú trọng xây dựng và làm trong sạch đội ngũ cán bộ, nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; chức vụ càng cao càng phải gương mẫu. Thứ hai, trong lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện, phải có quyết tâm rất cao, nỗ lực rất lớn, thật sự năng động, sáng tạo, chú trọng tạo đột phá để phát triển; coi trọng chất lượng, hiệu quả thực tế của công việc và đề cao trách nhiệm người đứng đầu. Khắc phục bằng được sự yếu kém, chậm trễ trong công tác lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách. Giữ vững kỷ luật, kỷ cương trong tổ chức thực hiện luật pháp, chính sách, thực thi công vụ; đồng thời phải bảo vệ những cán bộ, đảng viên có ý chí chiến đấu cao, gương mẫu thực hiện nguyên tắc, kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước, dám đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động. Thứ ba, trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ, phải hết sức chú trọng tính đồng bộ, toàn diện để vừa đáp ứng những mục tiêu cấp bách, trước mắt, giải quyết dứt điểm những yếu kém, ách tắc, tồn đọng; vừa xây dựng đồng bộ thể chế phát triển để thực hiện các mục tiêu lâu dài, cơ bản và bền vững của đất nước theo hướng bảo đảm hài hoà giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, văn hoá, xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường; giữa phát triển kinh tế, xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữa độc lập, tự chủ với tăng cường đối ngoại, hội nhập quốc tế; thực sự coi trọng, phát huy vai trò của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ trong điều kiện mới. Thứ tư, trong bảo đảm quốc phòng, an ninh và đối ngoại, phải chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, chủ động có những phương án đối phó, không để bị động, bất ngờ; xử lý đúng đắn, hiệu quả mối quan hệ với các nước lớn, các đối tác chiến lược, các nước bạn bè truyền thống và các nước láng giềng; vừa quan tâm đến việc nâng cao uy tín, hình ảnh của đất nước, vừa hết sức cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, nham hiểm của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị luôn ráo riết chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, nhất là trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Thứ năm, trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, luôn xác định "dân là gốc", thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kiên trì thực hiện đúng nguyên tắc: "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng". Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Đảng phải chăm lo đầy đủ và sâu sắc đến đời sống, lợi ích của nhân dân; xây dựng mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên. Để củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, phải kiên quyết, tích cực làm trong sạch đội ngũ cán bộ của Đảng, khắc phục các hiện tượng sa sút, thoái hoá về phẩm chất, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, củng cố và xây dựng các tổ chức đảng thật trong sạch, vững mạnh, làm cho Đảng thật sự là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Những bài học kinh nghiệm quý báu đó là cơ sở quan trọng để Đảng ta tiếp tục vận dụng, phát huy trong lãnh đạo, chỉ đạo, giúp chúng ta có thêm bản lĩnh và tự tin trước nhiều khó khăn, thách thức mới, nặng nề hơn do tác động của đại dịch COVID-19 và suy thoái kinh tế toàn cầu khi bước vào nhiệm kỳ khoá XIII. II- Về phương hướng, nhiệm vụ của nhiệm kỳ Đại hội XIII và giai đoạn sắp tới: Dự báo trong những năm tới, bối cảnh quốc tế, khu vực tiếp tục có nhiều thay đổi phức tạp, nhanh chóng, khó lường. Dưới tác động của đại dịch COVID-19, thế giới rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng nhiều mặt, cả về y tế, kinh tế, xã hội và quản trị. Cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại tiếp tục diễn ra gay gắt. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia. Các nước nỗ lực điều chỉnh chiến lược và phương thức phát triển nhằm thích ứng với tình hình mới. Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng. Tại Đông Nam Á, môi trường an ninh, tình hình tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông tiếp tục diễn ra phức tạp. Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và các vấn đề an ninh phi truyền thống khác ngày càng tác động mạnh, nhiều mặt, đe doạ nghiêm trọng đến sự phát triển ổn định, bền vững của thế giới, khu vực và đất nước ta. Trong khi đó, dù đạt được những kết quả rất đáng tự hào, đất nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng, sau 4 năm đầu của nhiệm kỳ liên tục tăng trưởng cao, năm 2020 suy giảm mạnh, có thể chỉ còn 3%; chất lượng còn thấp và đang phải đối mặt với nhiều tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19. Tính tự chủ và khả năng chống chịu của nền kinh tế chưa cao. Kinh tế nhà nước, nhất là doanh nghiệp nhà nước hoạt động còn kém hiệu quả, đang gặp không ít khó khăn, ách tắc. Kinh tế tư nhân trong nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh nhưng chưa thật bền vững. Công tác lãnh đạo, quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ tài nguyên môi trường còn nhiều bất cập, gây bức xúc xã hội. Đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ còn phức tạp. Giá trị lịch sử, truyền thống văn hoá của dân tộc và con người Việt Nam chưa được phát huy đầy đủ. Năng lực xây dựng thể chế còn hạn chế; chất lượng luật pháp và chính sách còn thấp. Năng lực và phương thức lãnh đạo, sức chiến đấu của nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn chưa ngang tầm nhiệm vụ. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng, Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ; hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Những khó khăn, hạn chế và khuyết điểm đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị nước ta phải quyết tâm cao, nỗ lực lớn và hành động quyết liệt hơn nữa để khắc phục cho bằng được. Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, Đảng ta phải thật sự vững vàng, giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tin cậy, yêu mến, để vượt qua mọi khó khăn, thách thức, lãnh đạo thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động. Cần nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ giữa kiên định và đổi mới, vận dụng sáng tạo. Nếu chỉ "kiên định" một cách máy móc thì dễ dẫn đến giáo điều, cứng nhắc, bảo thủ, nhưng nếu không kiên định, mà "đổi mới" một cách vô nguyên tắc thì cũng rất dễ rơi vào chủ nghĩa xét lại, chệch hướng, "đổi màu". Cho nên phải hiểu rõ, vận dụng đúng phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin: Kiên định phải gắn liền với sáng tạo và sáng tạo phải trên cơ sở kiên định phù hợp với thực tiễn, với yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước. Tư tưởng chiến lược phát triển tổng thể của đất nước ta trong giai đoạn tới là phát triển nhanh và bền vững, bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Động lực và nguồn lực cho phát triển đất nước trong giai đoạn mới là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hoá, con người Việt Nam; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đó là truyền thống quý báu của dân tộc được Đảng ta vận dụng sáng tạo trong suốt 90 năm lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội; có ý nghĩa cực kỳ quan trọng khi đất nước đang ở bước ngoặt có tính lịch sử, cần huy động những nguồn lực vật chất và tinh thần to lớn để tiếp tục bứt phá, vươn lên. Việc chúng ta ngăn chặn và kiểm soát được đại dịch COVID-19 vừa qua là một ví dụ minh chứng hùng hồn khẳng định tính ưu việt của chế độ ta, truyền thống đoàn kết, lòng yêu nước, tình nhân ái và ý chí kiên cường của dân tộc ta, nhân dân ta; tuyệt đối không bao giờ được tự mãn, chủ quan, lơ là; càng trong khó khăn, thử thách, phẩm chất và truyền thống đó càng phải được phát huy, càng phải được nhân lên gấp bội. Nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc là tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân. Với một đảng cách mạng chân chính, trong sạch, vững mạnh, có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín lãnh đạo như Đảng ta, được nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ, chúng ta sẽ có một sức mạnh to lớn, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, không thế lực nào ngăn cản nổi dân tộc ta đi lên, lập nên những kỳ tích mới trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như Bác Hồ hằng mong ước. Phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, Đại hội sắp tới chúng ta cần có tầm nhìn xa hơn đến giữa thế kỷ XXI: Phấn đấu đưa nước ta trở thành một nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặt ra những mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể phải hoàn thành cho mỗi chặng đường; thể hiện rõ tính kế thừa và phát triển, tính liên tục và hoàn chỉnh trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; là tâm huyết, trí tuệ và niềm tin, là "ý Đảng, lòng Dân" hoà quyện cùng mong muốn, khát vọng và ý chí vươn tới một tương lai rạng rỡ của đất nước và toàn dân tộc. Báo cáo chính trị trình ra Đại hội lần này đề ra mục tiêu tổng quát là: Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; phát huy sức sáng tạo, ý chí, khát vọng phát triển và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên nguyên tắc bảo đảm tính khoa học, khả thi và thực tiễn; kế thừa và bổ sung phù hợp với những thay đổi trong từng giai đoạn phát triển của đất nước; đồng thời tham khảo kinh nghiệm của các nước và những chuẩn mực phát triển chung của thế giới, chúng ta xác định các mục tiêu cụ thể hướng tới những dấu mốc phát triển quan trọng của đất nước ta: - Đến năm 2025: Là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. - Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. - Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể mà Đại hội đề ra là cơ sở hết sức quan trọng để xác định phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm tính đồng bộ, khả thi, vừa đáp ứng được các yêu cầu lâu dài, vừa có trọng tâm và các khâu đột phá chiến lược cần ưu tiên triển khai thực hiện; tạo sự thống nhất từ nhận thức cho đến hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong giai đoạn từ nay đến giữa thế kỷ XXI. Cụ thể là: Một là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường, v.v..., khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước. Trước hết, tập trung hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở thống nhất nhận thức đây là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chú trọng xây dựng, hoàn thiện các thể chế, chính sách để giải quyết hiệu quả, hài hoà mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội. Đặc biệt, phải tạo được những bước đột phá thực sự về thể chế để giải quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra, rất thiết thực và cụ thể như: Huy động, quản lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển, khắc phục tình trạng tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong việc quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, tài sản công; tích tụ, tập trung đất đai cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao; phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết giữa các chủ thể kinh tế và các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh; đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước và doanh nghiệp nhà nước; khuyến khích, tạo thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế; tháo gỡ tình trạng không thống nhất, mâu thuẫn, chồng chéo trong xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đang cản trở sự phát triển và vận hành của nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại và hội nhập quốc tế. Hai là, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế trên cơ sở nhận thức đây là nhiệm vụ cơ bản, trọng yếu, có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững đất nước. Tạo bước chuyển căn bản nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng trên cơ sở sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tiến bộ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, phát huy tiềm năng, lợi thế của các ngành, lĩnh vực, các địa phương và cả nước. Đẩy mạnh đột phá xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại, đồng bộ tạo nền tảng thúc đẩy sự phát triển của những ngành mới, lĩnh vực mới, nhất là kinh tế số, xã hội số và chính phủ số. Xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh; phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, ứng dụng công nghệ cao; phát triển mạnh khu vực dịch vụ dựa trên nền tảng kinh tế số và ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại. Thực hiện nhất quán chủ trương khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tạo đột phá mạnh mẽ trong phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua đổi mới căn bản, toàn diện, đồng bộ giáo dục và đào tạo; trong đó chú trọng xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách, đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kiên quyết khắc phục bệnh thành tích, xử lý nghiêm các tiêu cực trong giáo dục và đào tạo. Ba là, thực hiện đúng, đầy đủ vấn đề quản lý phát triển xã hội bền vững; giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích trong xã hội. Xử lý hiệu quả mối quan hệ giữa thực hành dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội; chú trọng bảo đảm tính bền vững trong các chính sách dân số và phát triển, chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người, hướng đến việc làm bền vững, phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, tiến tới bao phủ toàn dân thông qua cải cách hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng, bền vững dựa trên nguyên tắc đóng - hưởng. Xây dựng và phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam; hoàn thiện và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hoá và chuẩn mực con người gắn với phát huy ý chí, khát vọng phát triển và sức mạnh con người Việt Nam trong thời kỳ mới; thực hiện những giải pháp đột phá, mạnh mẽ nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội. Bốn là, triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại; xây dựng nền ngoại giao hiện đại vì lợi ích quốc gia - dân tộc, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những nhân tố bất lợi, nhất là những nhân tố có thể gây đột biến; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch. Năm là, tăng cường xây dựng và chỉnh đốn Đảng, Nhà nước và toàn hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, với quyết tâm cao hơn, hành động mạnh mẽ, quyết liệt hơn, hiệu quả hơn, không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Tiếp tục tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; chức vụ càng cao càng phải gương mẫu. Kết hợp giữa tăng cường kỷ cương, kỷ luật, thượng tôn pháp luật, xây dựng Đảng nghiêm minh với giáo dục, bồi dưỡng nhân cách, đạo đức cách mạng để phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với các căn bệnh của chủ nghĩa cá nhân. Thực hiện tốt quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền. Xử lý nghiêm minh, đồng bộ cả kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính và xử lý bằng pháp luật cán bộ có vi phạm. Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng theo hướng phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử và các cơ quan quản lý nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội. Quá trình 35 năm đất nước ta thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh, trong đó có 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, cho thấy, cần nhận thức sâu sắc hơn, tiếp tục bổ sung, phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết các mối quan hệ lớn về mặt tư tưởng, lý luận, đề ra các quyết sách, tháo gỡ những rào cản, vướng mắc, tiếp tục phát triển đất nước nhanh và bền vững, đặc biệt chú trọng xử lý tốt hơn các mối quan hệ: Giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Đó là những mối quan hệ lớn phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới ở nước ta, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải nhận thức đầy đủ, thật sự thấm nhuần, quán triệt sâu sắc và thực hiện thật tốt, có hiệu quả. * * * Đại hội XIII của Đảng ta đã đến gần. Khối lượng công việc rất lớn trong khi thời gian không còn nhiều, các cấp uỷ và các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng phải đề cao hơn nữa trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, phấn đấu hoàn thành thắng lợi các mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội XII và nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015-2020 đã đề ra. Trong thời khắc quan trọng này, chúng ta hãy khắc sâu lời dạy của Bác Hồ kính yêu: "Đại hội Đảng rất quan hệ với tương lai cách mạng của Đảng ta và của nhân dân ta. Đại hội sẽ làm cho Đảng ta đã đoàn kết càng đoàn kết hơn nữa, tư tưởng và hành động đã nhất trí, càng nhất trí hơn nữa". Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta hãy đồng tâm nhất trí, chung sức đồng lòng, chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh", thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc. Nguyễn Phú Trọng Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trưởng Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIII của Đảng Tweet Tags: Phản hồi Ý kiến của bạn:(Không quá 1000 ký tự) Còn lại: 1000 ký tự Thông tin người gửi phản hồi Họ và tên* Email* Mã bảo vệ* Các tin khác Công an nhân dân – 75 năm đồng hành cùng đất nước Giải pháp cho nền kinh tế tuần hoàn trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam Giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh Tác động của biến đổi khí hậu đến hòa bình, an ninh quốc tế hiện nay và đề xuất đối với Việt Nam Ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với việc giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ hiện nay Một kỳ tích lịch sử Xây dựng Công an nhân dân vững mạnh xứng đáng là “thanh bảo kiếm” bảo vệ Đảng, Nhà nước và Nhân dân Đổi mới công tác cán bộ, thực hiện tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức - kết quả và những vấn đề đặt ra Trung Quốc thay đổi hệ hình quyền lực và bài toán mới cho các nước Á Đông Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay Công tác nghiên cứu lý luận chính trị trong tình hình hiện nay Xây dựng mô hình hệ sinh thái kinh tế tuần hoàn đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư Tập trung khắc phục hậu quả đại dịch COVID-19, nỗ lực cao nhất phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội đất nước Dự báo một số nét chính về chiều hướng vận động của tình hình thế giới trong 5 - 10 năm tới và những vấn đề đặt ra cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Thư viện Video Những dấu mốc phát triển nhìn từ Đại hội VI của Đảng Những dấu mốc phát triển nhìn từ Đại hội VI của Đảng Đại hội của niềm tin và khát vọng phát triển đất nước Gửi gắm niềm tin vào Đại hội Đảng lần thứ XIII Kỳ vọng của các tầng lớp nhân dân vào Đại hội Đảng XIII Thư viện Ảnh Các tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Học viện Chính trị Công an nhân dân tổ chức thành công Đại hội nhiệm kỳ 2020 – 2025 Tọa đàm khoa học “Kiểm soát quyền lực trong bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, chỉ huy Công an nhân dân - Những vấn đề đặt ra” Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến làm việc với Học viện Chính trị Công an Nhân dân Gặp mặt kỷ niệm 110 năm Ngày quốc tế phụ nữ (8/3/1910 - 8/3/2020), 1980 năm Khởi nghĩa Hai Bà Trưng và ngày Quốc tế hạnh phúc (20/3) Tạp chí LLCT CAND Xem nhiều nhất Tinh thần yêu nước sáng lên trong chống “giặc Covid” Đoàn kết sẽ đẩy lùi đại dịch Covid-19 Bộ trưởng Tô Lâm phát động “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ” tại trụ sở mới của Học viện Chính trị Công an nhân dân Vận dụng phương pháp luận triết học Mác - Lênin vào nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị trong công an nhân dân Những cơ sở lịch sử và pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa Nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa tuân theo các quy luật của kinh tế thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa Điều kiện tuyển sinh đại học chính quy các trường CAND năm 2020 Đảng Cộng sản Việt Nam - Nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam Về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ Nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa Liên kết website Liên kết website Báo an ninh thủ đô Báo CAND Báo Nhân dân Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam Cổng thông tin Chính phủ Cổng TTĐT Bộ Công an Cổng TTĐT Bộ Giáo dục - Đào tạo Cổng TTĐT Chính phủ Học viện An ninh nhân dân Học viện Cảnh sát nhân dân Học viện chính trị bộ quốc phòng Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Hội đồng lý luận Trung ương Tạp chí Cộng sản © Bản quyền thuộc về Học viện Chính trị Công an nhân dân. Địa chỉ: Số 29 đường Lê Văn Hiến, phường Đức Thắng, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội.. Điện thoại: 043. 8386977 - Email: webmaster@hvctcand.edu.vn - Website: hvctcand.edu.vn. Giấy phép thông tin số 3933/GP-TTĐT của Sở TTTT Hà Nội cấp ngày 10/8/2016. Tổng biên tập: Thiếu tướng Dương Như Hồng. Thiết kế bởi Acomm
1614178347293.1.parquet/144084
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 35751, "url": "http://hvctcand.edu.vn/llct-xdll-cand/nghien-cuu-trao-doi/chuan-bi-va-tien-hanh-that-tot-dai-hoi-xiii-cua-dang-dua-dat-nuoc-buoc-vao-mot-giai-doan-phat-trien-moi-1679" }
102.5
Vị thế chính trị Đài Loan – Wikipedia tiếng Việt Mở trình đơn chính Trang chính Ngẫu nhiên Lân cận Đăng nhập Tùy chọn Quyên góp Giới thiệu Wikipedia Lời phủ nhận Tìm kiếm Vị thế chính trị Đài Loan Quan hệ Đài-Trung trên trường quốc tế. Ngôn ngữ Theo dõi Sửa đổi Sự tranh cãi về vị thế chính trị Đài Loan xoay quanh tại việc Đài Loan, gồm cả quần đảo Bành Hồ (Pescadores hoặc Penghu), có nên tiếp tục tồn tại với tư cách là một vùng lãnh thổ độc lập của 1 quốc gia cộng hoà lập hiến,độc lập và dân chủ-tự do có tên là Trung Hoa Dân Quốc (THDQ), hay thống nhất với những vùng lãnh thổ hiện thuộc quyền quản lý của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH)(Trung Quốc), hay trở thành nước Cộng hòa Đài Loan về mặt chính thức. Tình trạng chính trị của Đài Loan rất phức tạp vì những tranh cãi về sự tồn tại của Trung Hoa Dân Quốc như một nhà nước, nói cách khác về vị thế chính trị của Trung Hoa Dân Quốc ở Đài Loan. Khu vực eo biển Đài Loan Hiện tại, Đài Loan; Kim Môn, Mã Tổ, Bành Hồ và các đảo khác bên ngoài bờ biển Phúc Kiến; và cùng quần đảo Đông Sa tại Biển Đông đang là những phần tạo thành nhà nước được gọi là Trung Hoa Dân Quốc (THDQ). Chính quyền Đài Loan cũng có tranh chấp chủ quyền tại vùng Biển Đông và trên thực tế đang chiếm đóng đảo Ba Bình (Itu Aba) THDQ từng kiểm soát đại lục Trung Quốc, đòi chủ quyền đối với Mông Cổ và Tannu Uriankhai (một phần của nó hiện nay là nước cộng hoà Tuva) trước khi chính phủ của nó buộc phải dời sang Thủ đô Đài Bắc năm 1949. Từ khi THDQ mất ghế tại Liên Hiệp Quốc năm 1971 (bị thay thế bởi CHNDTH), đa số các nước có chủ quyền đã quay sang công nhận ngoại giao đối với CHNDTH, coi nó là đại diện hợp pháp duy nhất của toàn bộ Trung Quốc, đáng chú ý nhất là việc Mỹ công nhận năm 1979(Dù quan hệ 2 nước Đài-Mỹ vẫn luôn thật rất tốt đẹp). Tới năm 2019, quốc gia này vẫn giữ các quan hệ ngoại giao thực tế rất bình thường một cách chính thức với 14 nước thành viên của Liên Hiệp Quốc và tòa thánh Vatican, dù trên thực tế các mối quan hệ vẫn được giữ rộng rãi và phổ biến một cách tích cực với nhiều nước. Những cơ quan như Văn phòng kinh tế và văn hóa Đài Bắc và Viện Hoa Kỳ tại Đài Loan đang hoạt động "trên thực tế" như những đại sứ quán, dù không có được đặc quyền ngoại giao theo luật: họ không thể cung cấp bất kỳ sự bảo vệ lãnh sự nào và các nhân viên của họ cũng không có được bất kỳ quyền miễn trừ ngoại giao nào. Địa điểm của văn phòng vẫn nằm tại nước chủ nhà. Chính phủ THDQ trong quá khứ từng coi mình là chính phủ hợp pháp duy nhất của Trung Quốc, cũng như những lãnh thổ cũ của họ. Lập trường này đã bắt đầu bị quên lãng từ đầu thập niên 1990, chuyển sang thành không tranh chấp về vị thế hợp pháp với việc CHNDTH thực tế cai quản đại lục Trung Quốc, dù những tuyên bố chủ quyền của THDQ vẫn chưa được rút lại thông qua việc sửa đổi hiến pháp. Các nhóm khác nhau có những quan niệm khác nhau về tình trạng chính trị thực tế hiện tại của Đài Loan. (Xem thêm: Độc lập Đài Loan, Thống nhất Trung Quốc, và Quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan) Hơn nữa, tình hình có thể bị hiểu nhầm bởi vì có các đảng phái khác nhau và những nỗ lực từ phía nhiều nhóm khác nhau để giải quyết tranh chấp thông qua một chính sách nhập nhằng có chủ định. Giải pháp chính trị được chấp nhận bởi nhiều nhóm hiện nay là giữ nguyên trạng: có nghĩa là, ở mức tối đa thì coi Đài Loan là một quốc gia không chính thức, và ở mức tối thiểu là chính thức tuyên bố không ủng hộ chính phủ nước này tuyên bố độc lập. Tuyên bố độc lập một cách chính thức là cái gì thì hiện vẫn chưa rõ ràng và có thể bị nhầm lẫn trước thực tế rằng Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa chưa bao giờ kiểm soát được Đài Loan từ khi nó được thành lập và sự thực là chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đang kiểm soát cả Đài Loan,tự coi mình là quốc gia có chủ quyền một cách hợp pháp. Tình trạng nguyên trạng được chấp nhận rất là tốt bởi vì nó không xác định tình trạng hợp pháp hay tình trạng tương lai của Đài Loan, khiến cho mỗi nhóm đều có thể giải thích tình trạng này theo một cách chính trị có thể chấp nhận được đối với các thành viên của mình. Cùng lúc ấy, một chính sách giữ nguyên trạng đã bị chỉ trích vì quá nguy hiểm bởi vì những bên khác nhau có cách giải thích khác nhau về cái gọi là nguyên trạng, dẫn tới khả năng xảy ra chiến tranh do việc tiến sát đến bên miệng hố chiến tranh hay do tính toán sai lầm.Việc hoà bình "Giữ nguyên trạng"giúp Trung Hoa Dân Quốc độc lập mà cũng ngăn chặn xứ Đài Loan độc lập hẳn. Mục lục 1 Bối cảnh 2 Vấn đề chủ quyền 2.1 Sự nhượng quyền, sự trả lại và sự tự quyết của Đài Loan 3 Quan điểm của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH) 4 Quan điểm của Trung Hoa Dân Quốc 5 Quan điểm của các nước và các tổ chức quốc tế khác 6 Sơ suất khi phát ngôn 7 Những giải pháp quân sự và can thiệp có thể xảy ra 7.1 Điều kiện của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về can thiệp quân sự 7.2 Cân bằng quyền lực 7.3 Khủng hoảng Eo biển Đài Loan lần thứ ba 8 Những phát triển gần đây và Triển vọng tương lai 8.1 Chính trị 8.2 Ý kiến công chúng 8.3 Thay đổi vị thế Đài Loan có chú ý đến hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc 9 Ghi chú về thuật ngữ 10 Xem thêm 11 Chú thích 12 Liên kết ngoài Bối cảnhSửa đổi Bài chi tiết: Lịch sử Đài Loan Đài Loan, cùng với quần đảo Bành Hồ, đã được Trung Quốc (lúc ấy ở thời nhà Thanh) nhượng lại cho Nhật Bản năm 1895. Nhật Bản đầu hàng Trung Quốc năm 1945 khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai sau 50 năm cai trị thuộc địa, và nó đã trở thành một tỉnh của Trung Hoa Dân Quốc. Khi thất trận trong cuộc Nội chiến Quốc-Cộng năm 1949, chính phủ THDQ phải dời sang Đài Bắc, và giữ quyền kiểm soát một số đảo dọc theo bờ biển đại lục Trung Quốc và tại Biển Đông, trong khi Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa được thành lập tại đại lục tháng 10 năm 1949, tuyên bố họ là nhà nước kế tục của THDQ. Đảo Kim Môn, Mã Tổ và Ô Khâu ở bờ biển Phúc Kiến, và đảo Ba Bình và quần đảo Đông Sa ở Biển Đông, hiện đang do THDQ chiếm giữ, nhưng chúng không được nhượng lại cho Nhật Bản. Một số tranh cãi ủng hộ độc lập cho Đài Loan không áp dụng cho những đảo này. (Đảo Ba Bình (Itu Aba) đang bị tranh chấp giữa Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan và một số quốc gia Đông Nam Á khác.) Vấn đề chủ quyềnSửa đổi Sự nhượng quyền, sự trả lại và sự tự quyết của Đài LoanSửa đổi Khi THDQ được thành lập năm 1912, Đài Loan "về mặt pháp lý" (de jure) là một phần của Nhật Bản. Trong thời nhà Thanh, Trung Quốc đã nhượng lại "vĩnh viễn" hòn đảo này cùng với quần đảo Bành Hồ cho Nhật Bản vào lúc kết thúc cuộc Chiến tranh Thanh-Nhật sau khi ký kết Thoả ước Shimonoseki. Tại Hội nghị Cairo năm 1943, các nước chính trong phe Đồng Minh đã đồng ý để Nhật Bản trả lại "toàn bộ lãnh thổ Nhật đã chiếm của Trung Quốc", gồm cả Đài Loan và Bành Hồ, cho Trung Hoa Dân Quốc khi Nhật đầu hàng. Theo cả Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Trung Hoa Dân Quốc, thoả thuận này có hiệu lực hợp pháp theo Văn kiện đầu hàng của Nhật Bản năm 1945. Đại sứ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tại Liên hiệp quốc, Vương Anh Phàm (王英凡), đã nhiều lần tuyên bố tại Liên hiệp quốc: "Đài Loan là một phần không thể tách rời của lãnh thổ Trung Quốc từ trong lịch sử lâu dài" và "cả Tuyên bố Cairo năm 1943 và Tuyên bố Potsdam năm 1945 đã tái khẳng định chủ quyền rõ ràng của Trung Quốc đối với Đài Loan là một nội dung của luật pháp quốc tế." Mặt khác, một số người ủng hộ Đài Loan độc lập cho rằng Đài Loan đã chỉ chính thức sáp nhập vào lãnh thổ Trung Quốc dưới thời nhà Thanh năm 1683, và trở thành một tỉnh năm 1885. Sau đó, bởi vì Hiệp ước Shimonoseki năm 1895, Đài Loan về mặt pháp lý là một phần của Nhật Bản khi THDQ được thành lập năm 1912 và vì vậy không phải là một phần của THDQ. Tuy nhiên, những người ủng hộ thống nhất chỉ ra rằng "nhà Thanh" nói chung đã được chấp nhận là một cái tên trong lịch sử của Trung Quốc. Do vậy, chính phủ THDQ là người kế tục của nhà Thanh. Cũng như vậy, vì Tuyên bố Cairo là một thông cáo không được ký kết, những người ủng hộ độc lập cho rằng tính hợp pháp của tuyên bố này cần phải được xem xét lại. Hơn nữa, họ chỉ ra rằng văn kiện đầu hàng của Nhật Bản chỉ đơn giản là một sự đình chiến, một tạm ước theo đúng tính chất, và chỉ là một thoả thuận tạm thời hay nhất thời và sẽ bị thay thế bởi một hiệp ước hoà bình. Vì thế, những người ủng hộ độc lập quả quyết rằng cả Hiệp ước hoà bình San Francisco và Hiệp ước Đài Bắc có tính pháp lý cao hơn văn kiện đầu hàng và rằng các hiệp ước đã không chuyển tư cách Đài Loan từ Nhật Bản sang cho Trung Quốc. Theo lý lẽ này, chủ quyền của Đài Loan được trả lại cho người dân Đài Loan khi Nhật Bản rút lại chủ quyền đối với Đài Loan tại Hiệp ước hoà bình San Francisco (SFPT) năm 1951, dựa trên chính sách tự quyết đã được áp dụng cho "những vùng lãnh thổ bị tách ra từ các quốc gia thù địch như là kết quả của Chiến tranh thế giới thứ hai" như được quy định bởi điều 76b và 77b của Hiến chương Liên hiệp quốc và bởi Nghị định thư của Hội nghị Yalta. Tuy nhiên, những người ủng hộ độc lập phản đối rằng cả THDQ và CHNDTH đều không ký kết vào Hiệp ước hoà bình San Francisco (SFPT), khiến cho SFPT không có quyền áp dụng hợp pháp vào tình trạng chủ quyền của Đài Loan. Những người ủng hộ độc lập chỉ ra rằng ở cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, các nước Đồng minh đã đồng ý rằng THDQ "tạm thời chiếm Đài Loan thay cho các lực lượng Đồng Minh" dưới sự cho phép của Tướng Douglas MacArthur ngày 2 tháng 9 năm 1945. Những người ủng hộ thống nhất chỉ ra sự thực rằng Tuyên bố Cairo và Tuyên bố Postdam đã được trích dẫn trong cả Văn kiện đầu hàng của Nhật Bản và Hiệp ước hoà bình giữa Nhật Bản và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, hoàn thành việc trao trả chủ quyền từ Nhật Bản sang Trung Quốc. Vì thế Tuyên bố Cairo, Tuyên bố Postdam và Văn kiện đầu hàng của Nhật Bản sau đó cùng với Hiệp ước hoà bình giữa Nhật Bản và Trung Quốc phải được coi là có tính pháp lý cao hơn lệnh của Tướng MacArthur. Thậm chí một số người coi Hiệp ước Đài Bắc năm 1952 là đã trực tiếp cho thấy rằng Nhật Bản công nhận chủ quyền của chính phủ THDQ đối với Đài Loan, Bành Hồ, và "các lãnh thổ hiện nay hay có thể từ đây nằm dưới quyền kiểm soát của chính phủ của nó," Nhật Bản đã bãi bỏ hiệp ước này ngay khi thiết lập các quan hệ ngoại giao với Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa năm 1972 bằng cách công nhận tuyên bố của CHNDTH rằng Đài Loan là một phần của Trung Quốc. Dù việc giải thích các hiệp ước hoà bình đã được sử dụng để bác bỏ tính hợp pháp của THDQ đối với Đài Loan trước thập niên 1990, việc tiến hành các cuộc bầu cử toàn dân ở Đài Loan đã làm tổn hại đến quan điểm này. Ngoại trừ những người ủng hộ độc lập cho Đài Loan một cách cực đoan, đa số dân Đài Loan ủng hộ thuyết chủ quyền nhân dân và không thấy có nhiều xung đột giữa thuyết chủ quyền này và lập trường THDQ. Theo nghĩa này, chính phủ THDQ hiện cai quản Đài Loan không phải là chính phủ THDQ đã chấp nhận sự đầu hàng của Nhật Bản bởi vì các chính quyền cai trị đã được uỷ nhiệm của nhân dân thông qua các cuộc bầu cử khác nhau: một là toàn bộ cử tri đại lục Trung Quốc, một là các cử tri của Đài Loan. Trên thực tế, tổng thống Trần Thủy Biển đã thường nhấn mạnh tới thuyết chủ quyền nhân dân trong những bài phát biểu của mình. Tuy nhiên, tới năm 2005, xung đột giữa hai thuyết vẫn còn chiếm một vị trí quan trọng bên trong chính trị Đài Loan. Thuyết chủ quyền nhân dân, được Phiếm Lục nhấn mạnh cho rằng Đài Loan cần phải có những thay đổi căn bản về hiến pháp thông qua biện pháp trưng cầu dân ý. Thuyết THDQ hợp pháp, được Phiếm Lam ủng hộ, cho rằng bất kỳ những thay đổi căn bản hiến pháp nào đòi hỏi phải thông qua thủ tục sửa đổi hiến pháp của THDQ. Quan điểm của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH)Sửa đổi Lập trường của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cho rằng Trung Hoa Dân Quốc đã ngừng tồn tại với tư cách là một chính phủ hợp pháp từ khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập ngày 1 tháng 10 năm 1949 và rằng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là chính thể tiếp nối của Trung Hoa Dân Quốc với tư cách chính phủ hợp pháp duy nhất của Trung Quốc, với quyền cai trị Đài Loan theo lý thuyết kế tục nhà nước. Như vậy, mặt khác quyền hợp pháp của Trung Hoa Dân Quốc trong việc chiếm lại lục địa vẫn không được chấp nhận rộng rãi mà còn đang bị tranh cãi. Những người ủng hộ thống nhất ở Lục địa Trung Quốc cho rằng Trung Hoa Dân Quốc và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là hai phe trong cuộc Nội chiến Trung Quốc, vốn chưa bao giờ chính thức kết thúc. Vì thế, cả hai bên đều thuộc về cùng một nước có chủ quyền - Trung Quốc. Bởi vì chủ quyền của Đài Loan thuộc về Trung Quốc, sự ly khai của Đài Loan phải được chấp nhận bởi 1.3 tỷ người Trung Quốc chứ không phải 23 triệu người đang sống ở Đài Loan. Hơn nữa, theo Nghị quyết 2758 của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, cho rằng "Công nhận rằng những đại diện của chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung hoa là những đại diện hợp pháp duy nhất của Trung Quốc trước Liên hiệp quốc", Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã chính thức được trao chủ quyền đối với toàn bộ Trung Quốc, kể cả Đài Loan. Vì thế, dựa trên tuyên bố chủ quyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đối với Đài Loan, nước này có quyền hợp pháp khi mở rộng quyền tại phán của mình đối với Đài Loan, kể cả bằng vũ lực nếu cần thiết. Tuy nhiên, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cho rằng Trung Hoa Dân Quốc không đáp ứng với tiêu chí thứ tư của Thỏa ước Montevideo, bởi vì họ chỉ được 25 nước (khá nhỏ và nghèo) công nhận và bị cấm tham gia vào các tổ chức quốc tế như Liên hiệp quốc. Những phản đối của Trung Hoa Dân Quốc cho rằng sức ép của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa với các nước đã khiến họ không thể được công nhận rộng rãi và rằng Điều 3 của Thỏa ước Montevideo đó cũng nói rõ, "Sự hiện diện chính trị của quốc gia độc lập với sự công nhận của các nước khác." Điều này đã được thực hiện bởi vì Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã có nhiều hành vi cưỡng ép nhằm cô lập Trung Hoa Dân Quốc về mặt ngoại giao. Tuy nhiên, những người ủng hộ thống nhất lại chỉ ra sự thật là Thỏa ước Montevideo chỉ được ký kết bởi 19 nước tại Hội nghị Quốc tế lần thứ 7 các nước châu Mỹ. vì thế, quyền lực của Liên hiệp quốc cũng như các Nghị quyết của Liên hiệp quốc có tính chất pháp lý cao hơn Thỏa ước Montevideo. Lập trường hiện tại của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cho rằng "Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là chính phủ hợp pháp duy nhất đối với Trung Quốc và Đài Loan là một phần không thể tách rời của Trung Quốc". Cộng hòa Nhân dân Trung hoa không muốn đàm phán với Trung Hoa Dân Quốc về bất kỳ một hình thức nào khác ngoài Chính sách Một Trung Quốc, nhưng đã tỏ ra thiện chí cho phép ý nghĩa "một Trung Quốc" được hiểu theo cách mơ hồ. Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa coi việc vi phạm vào Chính sách Một Trung Quốc, hay những hành động mâu thuẫn với chính sách đó như việc cung cấp vũ khí cho Trung Hoa Dân Quốc là một sự vi phạm vào quyền toàn vẹn lãnh thổ của họ. Các tổ chức thông tin quốc thế thường báo cáo rằng "Trung Quốc coi Đài Loan là một tỉnh phản loạn cần phải được thống nhất với lục địa bằng vũ lực nếu cần thiết", thậm chí khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không nói rõ ràng rằng Đài Loan là một tỉnh phản loạn. Tuy nhiên, phương tiện truyền thông đại chúng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và các quan chức của họ thường coi Đài Loan là "Tỉnh Đài Loan của Trung Quốc". (Những vùng Trung Hoa Dân Quốc tuyên bố chủ quyền Kim Môn, Ô Khâu và quần đảo Mã Tổ là một phần tỉnh Phúc Kiến của họ, các đảo ở Biển Đông thuộc tỉnh Quảng Đông và Hải Nam.) Quan điểm của Trung Hoa Dân QuốcSửa đổi Trang bìa một hộ chiếu Đài Loan. Trung Hoa Dân Quốc cho rằng họ có mọi tính chất của một nhà nước và rằng họ không phải bị "thay thế" hay "kế tục" bởi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bởi vì họ vẫn đang tiếp tục tồn tại một thời gian dài sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập. Theo Công ước Montevideo năm 1933, nguồn được trích dẫn nhiều nhất để định nghĩa một quốc gia là: một quốc gia phải sở hữu một dân số cố định, một lãnh thổ được xác định, một chính phủ và khả năng thiết lập quan hệ với các quốc gia khác. Trung Hoa Dân Quốc tuyên bố họ có đủ mọi tính chất đó bởi vì họ sở hữu một chính phủ có chủ quyền với quyền tài phán trên những vùng lãnh thổ đã được xác định rõ với hơn 23 triệu dân và một bộ ngoại giao thực sự. Quan điểm của Trung Hoa Dân Quốc luôn cho rằng họ trên thực tế là một quốc gia có chủ quyền. Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc thời cầm quyền độc tài của Quốc Dân Đảng luôn giữ lập trường rằng họ là chính phủ hợp pháp duy nhất của Trung Quốc cho tới tận năm 1991, khi Tổng thống Lý Đăng Huy tuyên bố rằng chính phủ của ông không còn tranh chấp quyền cai trị với những người Cộng sản ở lục địa nữa. Tuy nhiên, Quốc hội, cơ quan hiện không còn tồn tại nữa, chưa bao giờ chính thức thay đổi biên giới quốc gia, bởi vì Trung Quốc cho rằng đó sẽ là "sự chấm dứt nền độc lập của Đài Loan". Việc thay đổi biên giới quốc gia giờ đây đỏi hỏi phải có sự sửa đổi hiến pháp và được Lập pháp viện thông qua cũng như được phê chuẩn bởi đa số tuyệt đối của cử tri Trung Hoa Dân Quốc. Mặt khác, dù Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc được ban hành năm 1946 không chỉ rõ những vùng lãnh thổ nào bao gồm trong quốc gia, bản dự thảo hiến pháp năm 1925 đã liệt kê danh sách các tỉnh của Trung Hoa Dân Quốc và Đài Loan không phải là một trong số đó, bởi vì Đài Loan trên thực tế là một phần lãnh thổ của Nhật Bản chiếu theo Hiệp ước Shimonoseki năm 1895. Hiến pháp cũng quy định tại Khoản I.4, rằng "lãnh thổ Trung Hoa Dân Quốc là lãnh thổ nguyên thuộc quyền cai trị của họ; trừ khi được Quốc hội cho phép, điều này không thể được thay đổi." Tuy nhiên, vào năm 1946, Tôn Khoa, con trai Tôn Dật Tiên và là Viện trưởng Viện Hành pháp (Thủ tướng) Trung Hoa Dân Quốc, đã báo cáo với Quốc hội rằng "có hai kiểu thay đổi lãnh thổ: 1. từ bỏ lãnh thổ và 2. sáp nhập lãnh thổ mới. Ví dụ cho trường hợp đầu tiên là sự độc lập của Mông Cổ, và trường hợp thứ hai sẽ là việc giành lại Đài Loan. Cả hai đều là những ví dụ về sự thay đổi lãnh thổ." Nhật Bản đã từ bỏ mọi quyền đối với Đài Loan theo Hiệp ước San Francisco năm 1951 và Hiệp ước Đài Bắc năm 1952 mà không có bên nhận lại rõ ràng. Trong khi Trung Hoa Dân Quốc liên tục cầm quyền ở Đài Loan sau khi chính phủ cầm quyền Đài Loan theo Chỉ thị chung số 1 chấp nhận sự đầu hàng của Nhật Bản, chưa từng có một cuộc họp nào của Quốc hội Trung Hoa Dân Quốc để tiến hành thay đổi lãnh thổ theo Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc, dù các Điều khoản sửa đổi của Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc đã đề cập tới Tỉnh Đài Loan. Vì thế, nhiều người ủng hộ Đài Loan độc lập đã chỉ ra rằng Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc trên thực tế ngăn cản chính họ cai trị Đài Loan một cách hợp pháp.[1] Quốc hội, cơ quan hiện không còn tồn tại nữa, đã đưa ra các sửa đổi hiến pháp trao cho nhân dân "Vùng tự do Trung Hoa Dân Quốc", gồm cách lãnh thổ họ kiểm soát, đặc quyền thi hành chủ quyền của nhà nước Cộng hoà thông qua các cuộc bầu cử Tổng thống và toàn bộ ngành lập pháp cũng như thông qua các cuộc bầu cử để phê chuẩn những sửa đổi đối với Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc. Cũng như vậy, Chương I, Điều 2 Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc nói rằng "Chủ quyền của Trung Hoa Dân Quốc sẽ thuộc về toàn thể công dân." Đối với một số người, điều này có nghĩa rằng hiến pháp hoàn toàn chấp nhận rằng chủ quyền của Trung Hoa Dân Quốc bị giới hạn ở những vùng mà họ kiểm soát thậm chí nếu không có những sửa đổi hiến pháp quy định rõ ràng biên giới Trung Hoa Dân Quốc. Năm 1999, Tổng thống Lý Đăng Huy đề xuất lý thuyết hai nhà nước (hay lý thuyết quan hệ nhà nước – nhà nước, zh:兩國論) mà cả Trung Hoa Dân Quốc và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đều được coi là những nhà nước riêng biệt với quan hệ ngoại giao, văn hoá, lịch sử đặc biệt, và lý thuyết này đã được ủng hộ rộng rãi bên trong Đài Loan. Tuy nhiên, lý thuyết này khiến Cộng hoà nhân dân Trung Hoa phản ứng giận dữ, họ tin rằng Lý Đăng Huy ngầm ủng hộ Đài Loan độc lập. Tổng thống Trần Thủy Biển tin rằng "Đài Loan là một nước độc lập, có chủ quyền" nhưng với quan điểm là "Đài Loan là Trung Hoa Dân Quốc." Điều này đã được đưa ra trong Lý thuyết bốn giai đoạn của Trung Hoa Dân Quốc. Tuy nhiên, ông đã thận trọng giữ im lặng về vấn đề Đài Loan có phải hay không một phần của Trung Quốc và ý nghĩa của thuật ngữ Trung Hoa. Các giấy tờ của chính phủ đã ngụ ý rằng Đài Loan và Trung Hoa Dân Quốc, Trung Quốc và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa là đồng nghĩ. Trần Thuỷ Biển cũng đã từ chối tán thành Nguyên tắc Một Trung Quốc mà Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa yêu cầu, coi đó là điều kiện tiên quyết để bắt đầu đàm phán. Vì thế những nỗ lực tái khởi động các vòng đàm phán bán chính thức thông qua các công thức chiểu theo cuộc trưng cầu dân ý 1992 hay tinh thần 1992 đã không mang lại thành công. Sau khi trở thành chủ tịch Đảng tiến bộ dân chủ tháng 7 năm 2002, Trần Thuỷ Biển cho thấy xu hướng ngả theo lý thuyết hai nhà nước vào đầu tháng 8, 2002, ông bình luận rằng Đài Loan có thể "đi trên con đường riêng của Đài Loan" và rằng "rõ ràng rằng hai bên bờ eo biển là các quốc gia riêng biệt." Những lời bình luận đó đã bị các đảng đối lập ở Đài Loan chỉ trích mạnh mẽ. Lập trường của những người ủng hộ Đài Loan độc lập cho rằng Đài Loan không phải là một phần của Trung Quốc và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa là chính phủ hợp pháp duy nhất của Trung Quốc. Cho tới tận giữa thập kỷ 1990, những người ủng hộ Đài Loan độc lập phản đối Trung Hoa Dân Quốc và ủng hộ việc thành lập một nước Trung Hoa Dân Quốc độc lập. Từ giữa thập niên 1990, một sự thoả hiệp giữa đa số những người ủng hộ Đài Loan độc lập và Thống nhất Trung Quốc đã đạt được về việc Đài Loan tiếp tục ủng hộ sự tồn tại của Trung Hoa Dân Quốc nhưng chỉ là một chính phủ quản lý duy nhất Đài Loan và các hòn đảo của họ. Liên đoàn đoàn kết Đài Loan, đảng nhỏ bên trong Liên minh xanh, phản đối sự thoả hiệp này. Lập trường của những người ủng hộ Thống nhất Trung Quốc ở Đài Loan cho rằng Đài Loan là một phần của Trung Quốc nhưng Cộng hoà nhân dân Trung Hoa không phải là chính phủ hợp pháp duy nhất tại Trung Quốc, và rằng sự thống nhất không cần thiết phải xảy ra dưới chế độ cộng sản. Bên trong Đài Loan, sự ủng hộ Đài Loan độc lập và thống nhất Trung Quốc tồn tại như một phần của chính trị với sự quan tâm của đa số tầng lớp trung lưu. Theo truyền thống, thống nhất thường được những "người lục địa" (con cháu dân lục địa tới đây sau nội chiến) ủng hộ, trong khi những người ủng hộ độc lập là dân "Đài Loan bản xứ" (họ đã sống ở hòn đảo này trước khi xảy ra cuộc nội chiến). Tuy nhiên, cả hai nhóm đã hoà giải với nhau bởi các biện pháp cưỡng bức mà Cộng hoà nhân dân Trung Hoa thực hiện nhằm tiến hành cuộc thống nhất hay sáp nhập bằng vũ lực. Quan điểm của các nước và các tổ chức quốc tế khácSửa đổi Xem thêm: Quan hệ ngoại giao của Đài Loan Vì mục tiêu chống Cộng buổi đầu Chiến tranh Lạnh, Trung Hoa Dân Quốc ban đầu được Liên Hiệp Quốc và đa số quốc gia phương Tây công nhận là chính phủ hợp pháp duy nhất của cả Trung Hoa lục địa và Đài Loan. Nghị quyết 505 Đại hội đồng Liên hiệp quốc được thông qua ngày 1 tháng 2 năm 1952 đã coi những người Cộng sản Trung Quốc là những kẻ phiến loạn chống Trung Hoa Dân Quốc. Tuy nhiên, trong thập niên 1970 một sự thay đổi lớn trong chính sách ngoại giao khiến mọi quyền lợi chuyển từ tay Trung Hoa Dân Quốc sang Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ngày 25 tháng 10 năm 1971, Nghị quyết 2758 được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua, theo đó trục xuất Trung Hoa Dân Quốc và thay thế ghế của Trung Quốc tại Hội đồng bảo an (và mọi tổ chức Liên hiệp quốc khác) bởi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Nghị quyết tuyên bố "rằng những đại diện của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là những đại diện hợp pháp duy nhất của Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc." Nhiều nỗ lực của Trung Hoa Dân Quốc nhằm tái gia nhập Liên Hiệp Quốc, không phải với tư cách đại diện cho toàn bộ Trung Quốc nữa, mà chỉ là đại diện cho nhân dân tại các vùng lãnh thổ do họ quản lý vẫn chưa được hội đồng thông qua, chủ yếu vì áp lực ngoại giao của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, cho rằng Nghị quyết 2758 đã giải quyết vấn đề này. (Xem Trung Quốc và Liên hiệp quốc.) Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ chối giữ quan hệ ngoại giao với bất kỳ quốc gia nào công nhận Trung Hoa Dân Quốc, nhưng không từ chối trong trường hợp quốc gia đó chỉ giữ quan hệ kinh tế, văn hóa và các trao đổi khác không phải là quan hệ ngoại giao chính thức. Vì thế, nhiều nước có quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh vẫn giữ các văn phòng ngoại giao không chính thức tại Đài Bắc. Ví dụ, Hoa Kỳ giữ Viện Mỹ tại Đài Loan. Tương tự, chính phủ Đài Loan thiết lập các văn phòng kiểu ngoại giao tại đa số các quốc gia dưới những tên gọi khác nhau, thông thường nhất là Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Đài Bắc. Hoa Kỳ, Canada, Vương quốc Anh và Nhật Bản công nhận một nhà nước Trung Hoa và rằng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là chính phủ hợp pháp duy nhất của Trung Quốc. Tuy nhiên, Hoa Kỳ và Nhật Bản thừa nhận chứ không phải công nhận lập trường của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa rằng Đài Loan là một phần của Trung Quốc. Đối với Canada và Anh Quốc, văn bản thỏa thuận giữa hai bên ghi rõ rằng hai bên lưu ý lập trường của Bắc Kinh, nhưng từ ủng hộ không được sử dụng. Lập trường của chính phủ Vương quốc Anh đã nhiều lần khẳng định rằng "tương lai của Đài Loan phải được quyết định một cách hòa bình bởi nhân dân ở hai phía eo biển." Dù các phương tiện truyền thông tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tuyên bố rằng Hoa Kỳ phản đối sự độc lập của Đài Loan, Hoa Kỳ đã đề cập tới sự khác nhau tế nhị giữa "phản đối" và "không ủng hộ". Trên thực tế, đa số những lời tuyên bố do Washington đưa ra đều nói rằng họ "không ủng hộ nền độc lập của Đài Loan", chứ không phải "phản đối". Vì thế, Hoa Kỳ hiện không đưa ra tuyên bố lập trường chính trị, trừ với một điều kiện tiên quyết rằng phải có một giải pháp cho sự khác biệt giữa hai bên eo biển Đài Loan. Tất cả tình trạng mập mờ như vậy khiến Hoa Kỳ cuối cùng luôn phải đi trên một con đường hẹp với những lưu ý tới cả hai bên tranh chấp. Trung Hoa Dân Quốc vẫn giữ quan hệ ngoại giao chính thức với 15 quốc gia, chủ yếu tại Trung Mỹ, Caribe, châu Phi và châu Đại Dương. Đặc biệt, Tòa Thánh cũng công nhận Trung Hoa Dân Quốc, một quốc gia không có đa số tín đồ Thiên chúa/Cơ đốc, chủ yếu để phản đối sự đàn áp Cơ đốc giáo trong lục địa. Vatican đã nhiều lần nhắc lại ý định ngừng quan hệ với Đài Loan ngay khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tăng thêm các quyền tự do tôn giáo. Trong thập kỷ 1990, đã có một cuộc chiến tranh ngoại giao dữ dội trong đó Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Trung Hoa Dân Quốc cùng nỗ lực lôi kéo các nước nhỏ thiết lập quan hệ ngoại giao với mình. Tuy nhiên, tới năm 2001, nỗ lực này dường như đã chấm dứt khi sức mạnh kinh tế ngày càng tăng của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cộng với mối nghi ngờ tại Đài Loan về việc hành động đó có thực sự mang lại lợi ích cho họ. Tháng 3 năm 2004, Dominica chuyển sang công nhận Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa để đổi lấy một khoản viện trợ. Tuy nhiên, cuối năm 2004, Vanuatu đã thay đổi lập trường từ Bắc Kinh sang Đài Bắc trong một thời gian ngắn, dẫn tới việc Thủ tướng nước này bị mất chức và quay trở lại công nhận Bắc Kinh. Ngày 20 tháng 1 năm 2005, Grenada chuyển quan hệ ngoại giao từ Đài Bắc sang Bắc Kinh, đổi lại hàng triệu đô la viện trợ (US$1.500 cho mỗi người dân Grenada) đã được cung cấp. Ngày 26 tháng 10 năm 2005, Senegal cũng ngừng quan hệ ngoại giao với Trung Hoa Dân Quốc và thiết lập các tiếp xúc ngoại giao với Bắc Kinh. Ngày 5 tháng 8 năm 2006, Tchad chấm dứt quan hệ ngoại giao với Đài Bắc để chuyển sang công nhận Bắc Kinh. Ngày 26 tháng 4 năm 2007, Saint Lucia lại chuyển sang quan hệ ngoại giao với chính quyền Đài Bắc. Ngày 7 tháng 6 năm 2007, Costa Rica ngừng quan hệ ngoại giao với Đài Loan và thiết lập quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh. Tháng 1 năm 2008, Malawi chuyển sang công nhận Trung Quốc đại lục. Ngày 4 tháng 11 năm 2013, Gambia tuyên bố cắt đứt quan hệ ngoại giao với Đài Bắc và chuyển sang quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh. Tháng 12 năm 2016, São Tomé và Príncipe chuyển sang quan hệ ngoại giao từ Đài Loan đến Trung Quốc đại lục. Ngày 13 tháng 6 năm 2017, thêm một quốc gia đã tuyên bố cắt đứt quan hệ ngoại giao với Đài Loan là Panama. Ngày 1 tháng 5 năm 2018, Cộng hòa Dominica chấm dứt quan hệ ngoại giao với Đài Bắc và chuyển sang quan hệ ngoại giao với Trung Quốc đại lục. Ngày 25 tháng 5 năm 2018, Burkina Faso cắt đứt quan hệ ngoại giao với Đài Loan và chuyển sang thiết lập quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh. Ngày 21 tháng 8 năm 2018, El Salvador tuyên bố ngừng quan hệ ngoại giao với Đài Bắc và chuyển sang thiết lập quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh. Ngày 20 tháng 9 năm 2019, Kiribati tuyên bố chấm dứt quan hệ ngoại giao với Đài Bắc và chuyển sang quan hệ ngoại giao với Trung Quốc đại lục. Hiện tại, các nước đang giữ quan hệ ngoại giao chính thức với Trung Hoa Dân Quốc gồm: Belize (1989) Eswatini (1968) Guatemala (1960) Haiti (1956) Honduras (1965) Quần đảo Marshall (1998) Nauru (1980–2002, 2005) Nicaragua (1990) Palau (1999) Paraguay (1957) Saint Kitts và Nevis (1983) Saint Lucia (1984–1997, 2007) Saint Vincent và Grenadines (1981) Tuvalu (1979) Thành Vatican (Tòa Thánh) (1942) Dưới áp lực liên tiếp của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nhằm ngăn chặn bất kỳ một sự đại diện có thể mang tính chất quốc gia nào của Trung Hoa Dân Quốc, các tổ chức quốc tế đã đưa ra các chính sách khác nhau về vấn đề tham gia của Đài Loan. Trong trường hợp (Liên hiệp quốc và Tổ chức Y tế Thế giới) nơi hầu như toàn bộ các quốc gia thành viên đều là các quốc gia có chủ quyền, Trung Hoa Dân Quốc đã bị thay thế toàn bộ, nhưng trong những trường hợp khác, như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và Hội đồng Olympic Quốc tế (IOC) Trung Hoa Dân Quốc thường tham gia với cái tên: "Trung Hoa Đài Bắc" như trong trường hợp APEC và IOC, và "Lãnh thổ Thuế quan riêng biệt Đài Loan, Bành Hồ, Kim Môn, và Mã Tổ" (thường gọi tắt là Trung Hoa Đài Bắc") trong trường hợp WTO. Vấn đề tên gọi của Đài Loan đã được nghiên cứu kỹ trong giải 2006 World Baseball Classic. Những người tổ chức dự định gọi họ là Đài Loan, nhưng dưới sức ép của Trung Quốc đã buộc phải đổi thành "Trung Hoa Đài Bắc". Người Đài Loan phản đối quyết định này, tuyên bố rằng WBC không phải một sự kiện của Hội đồng Olympic Quốc tế, nhưng phản đối không mang lại kết quả. Bản hướng dẫn ISO 3166 về tên gọi các quốc gia và vùng lãnh thổ cấp mã riêng biệt cho Đài Loan (TW), ngoài mã của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CN), nhưng liệt kê Đài Đoan là "Đài Loan, tỉnh của Trung Quốc" dựa theo cái tên do Liên hiệp quốc sử dụng với sức ép từ phía Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Trong ISO 3166-2:CN, Đài Loan cũng được đánh mã CN-71 thuộc Trung Quốc, vì thế khiến Đài Loan thành một phần của Trung Quốc trong ISO 3166-1 và ISO 3166-2. Tên gọi của Trung Hoa Dân Quốc và Đài Loan vẫn là một vấn đề thường gây tranh cãi tại các tổ chức phi chính phủ. Một tổ chức đang gặp phải sự đối đầu kịch liệt trong vấn đề này là Lions Club. Sơ suất khi phát ngônSửa đổi Nhiều nhà lãnh đạo chính trị, dù ủng hộ một hình thức "Chính sách Một Trung Hoa" nào đó, đã lỡ lời coi Đài Loan là một quốc gia hoặc coi là Nhà nước Trung Hoa Dân Quốc. Các Tổng thống Ronald Reagan và George W. Bush trong thời gian nắm quyền từng coi Đài Loan là một quốc gia. Dù gần cuối nhiệm kỳ Ngoại trưởng, Colin Powell đã không có ý nói rằng Đài Loan là một quốc gia, nhưng đã dùng từ Republic of China (Trung Hoa Dân Quốc) hai lần trong một lần tường trình trước Ủy ban Quan hệ Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ ngày 9 tháng 3 năm 2001[2]. Tại Trung Quốc, trong diễn văn cuối cùng trước Đại hội Nhân dân Toàn Quốc, Thủ tướng Chu Dung Cơ đã sơ suất coi Đại lục Trung Quốc và Đài Loan là hai quốc gia riêng biệt[3]. Cũng có một số nhân vật Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã không chính thức tuyên bố Đài Loan là một quốc gia [4]. Gần đây hơn cả, Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld đã phát biểu trên một tờ báo tiếng Trung tại California tháng 7 năm 2005 rằng Đài Loan là "một quốc gia có chủ quyền". Tuy nhiên, Trung Quốc chỉ phát hiện ra điều đó ba tháng sau khi lời tuyên bố được đưa ra. Trong một bài diễn văn gây tranh cãi ngày 4 tháng 2 năm 2006, Ngoại trưởng Nhật Taro Aso đã gọi Đài Loan là một quốc gia có mức độ giáo dục rất cao nhờ ở thời kỳ thuộc địa Nhật Bản trước đó trên hòn đảo này[5]. Một tháng sau, ông đã nói với một ủy ban nghị viện Nhật rằng "nền dân chủ của Đài Loan đã rất thuần thục và những quy tắc kinh tế tự do đã ngấm rất sâu, vì thế đó là một đất nước của pháp luật. Theo nhiều cách, đó là một đất nước có cùng nhiều giá trị với Nhật Bản." Cùng lúc ấy, ông chấp nhận rằng "Tôi biết sẽ có vấn đề khi gọi Đài Loan là một quốc gia"[6]. Sau này, Bộ ngoại giao Nhật Bản đã tìm cách diễn đạt những lời lẽ trên theo cách khác. Những giải pháp quân sự và can thiệp có thể xảy raSửa đổi Cho tới năm 1979, cả hai bên đều có ý định giải quyết vấn đề bằng quân sự. Những cuộc va chạm không thường xuyên đã xảy ra trong suốt thập niên 1950 và 1960, với những lần leo thang dẫn tới Cuộc khủng hoảng Eo biển Đài Loan lần thứ nhất và và lần thứ hai. Năm 1979, khi Hoa Kỳ thay đổi chính sách đối ngoại, quay sang ủng hộ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Trung Hoa Dân Quốc mất đi đồng minh cần thiết để "tái chiếm lục địa." Trong lúc ấy, mong ước được cộng đồng quốc tế ủng hộ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa khiến họ phải đưa ra chính sách thống nhất hòa bình theo cái sau này được gọi là "một đất nước, hai chế độ," chứ không phải "giải phóng Đài Loan" xây dựng xã hội chủ nghĩa (nói cách khác, biến Đài Loan thành một Vùng hành chính đặc biệt). Điều kiện của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về can thiệp quân sựSửa đổi Bất kể như thế nào, chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sẽ ngay lập tức tiến hành chiến tranh với Đài Loan. Với các điều kiện: Nếu các sự kiện diễn ra dẫn tới việc chia tách Đài Loan khỏi Trung Quốc dưới bất kỳ tên gọi nào, hay Nếu Đài Loan bị tấn công và chiếm đóng từ phía nước ngoài, hay Nếu Đài Loan từ chối đàm phán thống nhất một cách vô hạn định. Đa số đe dọa của lục địa đều được đưa ra về vấn đề này, và Giang Trạch Dân, sau khi lên giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quân sự Trung ương, đã trở thành nhân tố chủ chốt. Điều kiện thứ ba đã đặc biệt gây nên sự lo ngại tại Đài Loan bởi thuật ngữ "một cách vô hạn định" có thể được diễn giải theo nhiều nghĩa. Một số bên coi nó mang nghĩa: Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa muốn giữ nguyên trạng và sự mập mờ không được họ chấp nhận, dù nước này đã nhiều lần nói rằng không hề có biểu thời gian xác định cho việc thống nhất. Lo ngại về một tuyên bố chính thức về nền độc lập theo pháp lý của Đài Loan là động cơ chính thúc đẩy việc tăng cường quân sự giữa Đài Loan và Trung Hoa lục địa. Một số người tin rằng Đài Loan vẫn nỗ lực tuyên bố độc lập trong thời gian Thế vận hội Mùa hè 2008 tại Bắc Kinh. Những người khác chỉ ra rằng bộ máy chính quyền Mỹ hiện nay đã công khai tuyên bố muốn giữ nguyên trạng, họ sẽ không giúp đỡ Đài Loan trong trường hợp hòn đảo này đơn phương tuyên bố độc lập. Theo tổng thống Trung Hoa Dân Quốc Trần Thủy Biển, Trung Quốc đã tăng tốc triển khai tên lửa chống lại Đài Loan tới con số 120 mỗi năm, khiến tổng kho tên lửa đạn đạo của họ lên tới 706 chiếc, với khả năng trang bị đầu đạn hạt nhân và mục tiêu chính là Đài Loan. Những tên lửa này được cho là có CEP (Giới hạn lỗi) hơn 100 mét, vì thế sẽ không gây thiệt hại lớn trong hoàn cảnh một cuộc chiến tranh thông thường. Một số người tin rằng việc triển khai chúng chỉ là mưu kế chính trị của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nhằm tăng áp lực lên Đài Loan, buộc nước này phải từ bỏ những nỗ lực nhằm đơn phương tuyên bố độc lập, ít nhất cũng trong thời điểm hiện tại. Cân bằng quyền lựcSửa đổi Khả năng chiến tranh, sự gần gũi địa lý giữa Trung Hoa Dân Quốc-kiểm soát Đài Loan và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa-kiểm soát lục địa Trung Quốc, và kết quả của những cuộc va chạm cứ vài năm lại xảy ra một lần, khiến cho đây trở thành một trong những địa điểm tập trung sự chú ý quốc tế tại Thái Bình Dương. Cả hai bên đã lựa chọn một sự tập trung lực lượng hải quân hùng hậu. Tuy nhiên, các chiến lược hải quân giữa hai phía đã có sự thay đổi lớn trong thập kỷ 1980 và 1990, khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tiếp cận vấn đề theo cách mạnh mẽ hơn khi xây dựng các sân bay, còn Đài Loan chấp nhận tư thế phòng thủ với việc xây dựng và mua nhiều phi đội tàu khu trục và tên lửa. Không quân Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được cho là lớn và mạnh mẽ, dù nó vẫn chưa đủ khả năng kiểm soát không phận Đài Loan trong trường hợp xảy ra xung đột. Không quân Trung Hoa Dân Quốc dựa chủ yếu vào các máy bay chiến đấu thế hệ thứ hai của họ. Trung Hoa Dân Quốc sở hữu khoảng 150 chiếc F-16 do Hoa Kỳ chế tạo, gần 60 chiếc Mirage 2000-5 của Pháp và gần 130 chiếc IDF (Máy bay chiến đấu phòng vệ trong nước) do họ tự phát triển. Tất cả các máy bay phản lực chiến đấu của Đài Loan đều có thể tham gia các trận đánh kiểu BVR (ngoài tầm nhìn) bằng các tên lửa BVR, trong khi chỉ một số ít máy bay chiến đấu của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có cùng tính năng như vậy. Năm 2003, Trung Hoa Dân Quốc đã mua bốn tàu khu trục tên lửa - kiểu USS Kidd cũ và ba tàu hộ tống, và tỏ vẻ rất quan tâm tới lớp Arleigh Burke. Nhưng với sự phát triển của hải quân và không quân của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, một số người nghi ngờ khả năng Trung Hoa Dân Quốc có thể đứng vững trước một cuộc tấn công quyết định từ phía lục địa Trung Hoa trong tương lai. Điều này cũng dẫn tới một số quan điểm rằng nền độc lập của Đài Loan, nếu nó được tuyên bố, cần phải được thực hiện càng sớm càng tốt khi Trung Hoa Dân Quốc vẫn còn có khả năng chống chọi với một cuộc xung đột quân sự toàn diện. Trong ba thập kỷ qua, những ước tính về thời gian Đài Loan đứng vững trước một cuộc tấn công tổng lực từ phía bên kia eo biển mà không có sự trợ giúp từ bên ngoài[7] đã giảm từ ba tháng xuống chỉ còn sáu ngày. Và cũng cần lưu ý rằng đa số những ước tính về bất cứ một sự hỗ trợ quân sự ở mức cao nhất nào từ phía Hoa Kỳ cũng cần ít nhất hai tuần chuẩn bị, những điều kiện hiện tại không hề có lợi cho Đài Loan. Nhiều báo cáo do Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Trung Hoa Dân Quốc và quân đội Mỹ đưa ra cho thấy những đánh giá hoàn toàn trái ngược về khả năng phòng thủ Đài Loan. Tất nhiên, khả năng chiến tranh không phải được đặt ra một cách tách biệt. Năm 1979, Nghị viện Hoa Kỳ đã thông qua Đạo luật Quan hệ Đài Loan, một đạo luật thường được diễn giải như một sự bảo đảm bảo vệ Đài Loan từ phía Hoa Kỳ trong trường hợp xảy ra một cuộc tấn công từ phía lục địa (Đạo luật được áp dụng cho Đài Loan và Bành Hồ, nhưng không áp dụng cho Kim Môn và Mã Tổ). Hoa Kỳ vẫn duy trì một hạm đội thường trực lớn nhất thế giới tại Vùng châu Á Thái Bình Dương gần Đài Loan. Hạm Đội 7, chủ yếu hoạt động từ các căn cứ tại Nhật Bản, là một lực lượng quân sự mạnh được xây dựng xung quanh chiếc tàu sân bay triển khai thường trực ngoài lãnh thổ duy nhất của thế giới, chiếc USS Kitty Hawk. Dù mục đích theo tuyên bố của hạm đội không phải là để bảo vệ Đài Loan, nhưng từ những hành động trong quá khứ của hạm đội này có thể thấy đó cũng là một trong những lý do giải thích sự hiện diện của nó trong vùng biển. Từ năm 2000, Nhật Bản đã sửa đổi các nghĩa vụ phòng vệ với Hoa Kỳ và cũng bắt đầu chương trình tái vũ trang, một phần để phản ứng trước lo ngại rằng Đài Loan sẽ bị tấn công. Một số nhà phân tích tin rằng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có thể tung ra những cuộc tấn công thăm dò vào các căn cứ quân sự tại Nhật Bản để xác định liệu các lực lượng Hoa Kỳ và Nhật Bản có muốn giúp Đài Loan hay không. Các nhà hoạch định chính sách Nhật Bản cũng coi nền độc lập của Đài Loan là điều sống còn, không chỉ bởi vì Đài Loan kiểm soát nhiều con đường hàng hải đông đúc, mà việc Trung Quốc chiếm giữ được nó sẽ khiến Nhật Bản rơi vào tình thế bất lợi hơn. Về mặt lịch sử, trong Chiến tranh thế giới thứ hai, dù Hoa Kỳ đã chiếm giữ Philippines, một mục tiêu khác chính là Đài Loan (khi ấy còn được gọi là Formosa) từ đó có thể tung ra một cuộc tấn công trực tiếp vào Nhật Bản. Tuy nhiên, những lời chỉ trích cho rằng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sẽ không bao giờ muốn trao cho Hoa Kỳ và Nhật Bản một cơ hội như vậy để họ có cớ can thiệp. Khủng hoảng Eo biển Đài Loan lần thứ baSửa đổi Tàu khu trục Kang Ding (Khang Định) của Hải quân Trung Hoa Dân Quốc với trực thăng S-70C Năm 1996, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bắt đầu tiến hành các cuộc tập trận quân sự gần Đài Loan, và phóng nhiều tên lửa đạn đạo qua hòn đảo này. Sự đe dọa được đưa ra trước khả năng Tổng thống Lý Đăng Huy, người đã đưa ra lý thuyết "hai nhà nước" gây nhiều tranh cãi cho các quan hệ xuyên eo biển, được tái đắc cử. Hoa Kỳ, ở thời cầm quyền của tổng thống Clinton, đã gửi hai nhóm tàu sân bay chiến đấu tới vùng này, cho chúng đi vào Eo biển Đài Loan. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, không thể theo dõi hoạt động của các con tàu, và có lẽ cũng không muốn leo thang xung đột, nhanh chóng xuống thang. Sự kiện ít gây ảnh hưởng tới kết quả cuộc bầu cử, bởi vì không một đối thủ nào của Lý Đăng Huy đủ mạnh để đánh bại ông ta, nhưng đa số người tin rằng, những hành động hiếu chiến của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đã không hề đe dọa được người dân Đài Loan mà còn tạo lợi thế cho Lý Đăng Huy để ông được tới hơn 50% số phiếu. Khả năng xảy ra chiến tranh tại Eo biển Đài Loan, dù khá thấp trong tương lai gần, vẫn buộc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Trung Hoa Dân Quốc và Hoa Kỳ duy trì cảnh giác và luôn đề phòng lẫn nhau. Mục tiêu của cả ba bên tại thời điểm này là duy trì nguyên trạng. Những phát triển gần đây và Triển vọng tương laiSửa đổi Chính trịSửa đổi Dù tình hình còn mù mờ, đa số các nhà quan sát tin rằng nó sẽ ổn định khi có đầy đủ sự hiểu biết lẫn nhau và sự đồng thuận của các quý ông nhằm giữ mọi điều không bùng phát thành một cuộc chiến. Sự tranh cãi hiện nay là về thuật ngữ Một Trung Quốc, như Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa yêu cầu Trung Hoa Dân Quốc chấp nhận trước khi có bất kỳ một cuộc đàm phán nào. Dù Đảng Tiến bộ Dân chủ đã giảm bớt ủng hộ dành cho chính sách Đài Loan độc lập, sự ủng hộ bên trong đảng vẫn còn chưa đủ để Trần Thủy Biển đồng ý với Chính sách Một Trung Quốc. Trái lại, Quốc Dân Đảng (KMT) và Đảng Thân Dân (PFP) đối lập dường như muốn có một số thay đổi với Chính sách Một Trung Quốc, và các nhà quan sát tin rằng lập trường của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có mục đích loại bỏ Trần Thủy Biển trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 2004 với hy vọng rằng một nhân vật ủng hộ tích cực hơn cho việc Thống nhất Trung Quốc sẽ lên nắm quyền. Một phần để đối đầu với chính sách này, Trần Thủy Biển đã thông báo vào tháng 7 năm 2002 rằng nếu Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không đáp ứng lại thiện chí của Đài Loan, Đài Loan có thể "đi trên con đường... của riêng mình." Với việc Trần Thủy Biển tái đắc cử năm 2004, hy vọng của Bắc Kinh về một giải pháp nhanh chóng hơn đã tan biến, dù chúng dường như một lần nữa lại có được hy vọng khi liên minh Toàn Lam chiếm đa số phiếu trong cuộc bầu cử lập pháp năm 2004. Tuy nhiên, phản ứng của dân chúng Đài Loan đối với luật chống ly khai được Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thông qua năm 2005 không hề thuận lợi. Sau hai chuyến thăm chớp nhoáng của các lãnh đạo KMT và PFP tới Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, sự cân bằng ý kiến dân chúng dường như mang lại nhiều hy vọng, với việc Liên minh Toàn Lục chiếm đa số phiếu trong cuộc bầu cử Quốc hội năm 2005, nhưng Liên minh Toàn Lam lại có được một thắng lợi áp đảo trong cuộc bầu cử thành phố năm 2005. Ý kiến công chúngSửa đổi Ý kiến công chúng Đài Loan về quan hệ với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa rất khó ước định, bởi vì kết quả của các cuộc trưng cầu thường có xu hướng rất nhạy cảm về việc các vấn đề được diễn đạt như thế nào và các ý kiến được đưa ra thế nào, và có một xu hướng từ tất cả các đảng chính trị là diễn đạt các kết quả đó theo cách ủng hộ quan điểm của họ. Đa số đồng ý rằng chính sách một đất nước, hai chế độ của Bắc Kinh là có thể chấp nhận được khi nó được áp đặt một phía xuống Đài Loan; tuy nhiên, ý kiến nhân dân về sự tự định đoạt quy chế của Đài Loan còn phức tạp hơn. Khi được đưa ra một lựa chọn giữa ba luồng ý kiến về độc lập, thống nhất, hay nguyên trạng, các kết quả thường thấy từ những cuộc khảo sát gần đây cho thấy 10% lựa chọn độc lập, 55% ủng hộ thống nhất và khoảng 35% thích giữ nguyên trạng. Tuy nhiên, có khoảng 70 tới 80% ủng hộ quan điểm rằng Đài Loan là một quốc gia độc lập dưới cái tên Trung Hoa Dân Quốc với một mối quan hệ đặc biệt với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, như cựu Tổng thống Lý Đăng Huy từng đề xuất. Sự phụ thuộc của các kết quả khảo sát vào cách diễn đạt được thể hiện bởi các kết quả từ một cuộc khảo sát gần đây. 72% số người được hỏi nói rằng họ sẽ không chiến đấu để chống lại một cuộc sáp nhập từ Đại lục. Tuy nhiên, khi câu hỏi được đổi rằng liệu họ sẽ chiến đấu nếu Đài Loan tuyên bố độc lập, số lượng câu trả lời khẳng định giảm xuống chỉ còn 18% [8]. Số lượng người theo chủ nghĩa thực dụng -những người sẽ lựa chọn thống nhất hay độc lập dựa trên tình hình thực tế- ngày càng gia tăng. Một cuộc khảo sát gần đây vào tháng 12 năm 2004 cho thấy, nếu có một cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề độc lập, thống nhất hay trở thành một bang của Hoa Kỳ, 41% người Đài Loan ủng hộ thống nhất với Đại lục, 24% lựa chọn phản đối và 5% muốn trở thành bang thứ 51 của Mỹ. 80% dân số đồng ý tưởng đề xuất thống nhất "Một Trung Quốc, hai chế độ" của Trung Quốc sau khi Luật chống li khai đã được thông qua.[9] Thay đổi vị thế Đài Loan có chú ý đến hiến pháp Trung Hoa Dân QuốcSửa đổi Chiếu theo Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc, hiện đang được các đảng chính trị lớn như KMT và DPP tôn trọng và công nhận, việc thay đổi tình trạng chính phủ của Trung Hoa Dân Quốc hay công bố rõ ràng vị thế chính trị Đài Loan chỉ xảy ra khi thay đổi hiến pháp. Nói cách khách, nếu những người ủng hộ thống nhất muốn thống nhất Đài Loan với lục địa, theo cách đó sẽ xóa bỏ hoàn toàn Trung Hoa Dân Quốc hay ảnh hưởng tới chủ quyền của Trung Hoa Dân Quốc, hay nếu những người ủng hộ độc lập muốn xóa bỏ Trung Hoa Dân Quốc để lập ra một nước Cộng hòa Đài Loan, họ sẽ cần phải sửa đổi hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc. Việc thông qua một sự sửa đổi như vậy đòi hỏi phải có được một sự đồng thuận chính trị chưa từng có, gồm sự đồng ý của ba phần tư số đại biểu Lập pháp viện. Sau khi thông qua luật pháp, những sự sửa đổi cần phải được phê chuẩn bởi ít nhất năm mươi phần trăm số cử tri Trung Hoa Dân Quốc, bất luận số lượng người đi bầu. Với những sự khó khăn như vậy trong việc sửa đổi hiến pháp, cả Liên minh Toàn Lục và Liên minh Toàn Lam đều không thể đơn phương thay đổi tình thế chính trị và tình trạng pháp luật của Đài Loan theo quy định của hiến pháp. Tuy nhiên, những người cực lực ủng hộ độc lập cho Đài Loan coi hiến pháp của nước này không hợp pháp và vì thế tin rằng không có căn cứ buộc phải có những sự sửa đổi hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc để thay đổi vị thế chính trị Đài Loan. Ghi chú về thuật ngữSửa đổi Một số nguồn học thuật cũng như các thực thể chính trị như Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa gọi tình trạng tranh cãi về vị thế chính trị Đài Loan là "Vấn đề Đài Loan", được dịch theo tiếng Trung Quốc thành 臺灣問題/台湾问题 (Đài Loan vấn đề). Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc không thích thuật ngữ đó, nhấn mạnh rằng điều này cần phải được gọi là "Vấn đề Lục địa" bởi vì quan điểm của Trung Hoa Dân Quốc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đang tạo ra một vấn đề hay gây nên một vấn đề bên ngoài Đài Loan. Để tránh sự ủng hộ tới bất kỳ bên nào về vấn đề này, bài viết này sử dụng thuật ngữ trung lập là "Vị thế chính trị Đài Loan". Xem thêmSửa đổi Vụ xô xát 228, hoàn cảnh lịch sử của cuộc xung đột Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa-Trung Hoa Dân Quốc Luật chống li khai của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Trung Quốc và Liên hiệp quốc Nội chiến Trung Quốc, hoàn cảnh lịch sử của cuộc xung đột Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa-Trung Hoa Dân Quốc Thống nhất Trung Quốc Đài Loan (Trung Quốc) Quan hệ ngoại giao của Trung Hoa Dân Quốc Lý thuyết Bốn giai đoạn của Trung Hoa Dân Quốc Tình trạng luật pháp của Đài Loan Chính trị Trung Hoa Dân Quốc Hội đồng các vấn đề Lục địa của Trung Hoa Dân Quốc Hội đồng thống nhất Quốc gia của Trung Hoa Dân Quốc Văn phòng sự vụ Đài Loan của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chú thíchSửa đổi ^ “蕃新聞”. 蕃新聞. Truy cập 8 tháng 2 năm 2018. ^ “US scrambles as Powell learns the art of 'diplospeak' - Taipei Times”. Truy cập 15 tháng 2 năm 2015. ^ “China and Taiwan `two countries': Zhu - Taipei Times”. Truy cập 15 tháng 2 năm 2015. ^ “BBC NEWS”. Truy cập 15 tháng 2 năm 2015. ^ “Good schools due to Japan: Aso - Taipei Times”. Truy cập 15 tháng 2 năm 2015. ^ “Japan's Aso calls Taiwan a `country' - Taipei Times”. Truy cập 15 tháng 2 năm 2015. ^ http://www.spacewar.com/2004/040811075029.onla5r7o.html ^ http://www.cna.tv/stories/taiwan/view/25594/1/gb/.html ^ “您所嘗試連結的頁面可能出現錯誤或不存在” (PDF). Truy cập 10 tháng 8 năm 2016. Liên kết ngoàiSửa đổi Wikisource có văn bản gốc Anh ngữ liên quan với bài: US-PRC Joint Communique Australian White Paper on Taiwan relations Cross-Strait Relations between China and Taiwan collection of documents and articles. PRC Government White Paper: The One-China Principle and the Taiwan Issue Taiwan Documents Project Taiwan Mainland Affairs Council Questions of Sovereignty -- the Montevideo Convention and Territorial Cession Comprehensive overview of Taiwan's presumed qualifying criteria for statehood under the Montevideo Convention, by Richard W. Hartzell Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Vị_thế_chính_trị_Đài_Loan&oldid=64106373” Sửa đổi lần cuối lúc 14:39 vào ngày 2 tháng 12 năm 2020 Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 3.0, ngoại trừ khi có ghi chú khác. Trang này được sửa đổi lần cuối vào ngày 2 tháng 12 năm 2020 lúc 14:39. Văn bản được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự; có thể áp dụng điều khoản bổ sung. Với việc sử dụng trang web này, bạn chấp nhận Điều khoản Sử dụng và Quy định quyền riêng tư. Wikipedia® là thương hiệu đã đăng ký của Wikimedia Foundation, Inc., một tổ chức phi lợi nhuận. Quy định quyền riêng tư Giới thiệu Wikipedia Lời phủ nhận Điều khoản sử dụng Máy tính để bàn Nhà phát triển Thống kê Tuyên bố về cookie
1614178347293.1.parquet/133178
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet", "token_count": 42748, "url": "https://vi.m.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%8B_th%E1%BA%BF_ch%C3%ADnh_tr%E1%BB%8B_%C4%90%C3%A0i_Loan" }
102.2