text
stringlengths
223
423k
id
stringlengths
25
31
metadata
dict
perplexity
float64
10.2
200
Tâm lý học là gì? Những điều cần biết về Tâm lý học [2021] Chuyển đến nội dung Test Nhanh 3S Menu Test IQ Test EQ Các bài Test khác MBTI DISC Trắc Nghiệm Holland Sinh Trắc Vân Tay Tâm lý học là gì? Những điều cần biết về Tâm lý học Tháng Mười Hai 22, 2020 Bởi Test Nhanh 3S Hãy cùng Test Nhanh 3S tìm hiểu về tâm lý học – Psychology nhé! Tâm lý học là khoa học nghiên cứu về tâm trí và hành vi. Các nhà tâm lý học tích cực tham gia vào việc nghiên cứu và hiểu các quá trình tâm thần, chức năng não và hành vi. Lĩnh vực tâm lý học được coi là “Khoa học trung tâm” có mối liên hệ chặt chẽ với khoa học y tế, khoa học xã hội và giáo dục (Boyack, Klavans, & Borner, 2005). Tại Bang Ohio, Khoa Tâm lý học được tổ chức thành tám khu vực, làm việc để điều tra các khía cạnh quan trọng của não bộ và hành vi của con người. Tâm lý học thực sự là một ngành khoa học rất mới, với hầu hết các tiến bộ đã xảy ra trong hơn 150 năm qua. Tuy nhiên, nguồn gốc của nó có thể bắt nguồn từ thời Hy Lạp cổ đại, 400 – 500 năm trước Công nguyên. Các quan điểm của Tâm lý học Chủ nghĩa cấu trúc và chủ nghĩa chức năng kể từ đó đã được thay thế bằng một số cách tiếp cận thống trị và có ảnh hưởng đến tâm lý học , mỗi cách tiếp cận được củng cố bởi một tập hợp chung các giả định về con người như thế nào, điều gì là quan trọng để nghiên cứu và cách nghiên cứu nó. Phân tâm học do Sigmund Freud (1856-1939) sáng lập là mô hình thống trị trong tâm lý học đầu thế kỷ XX. Freud tin rằng mọi người có thể được chữa khỏi bằng cách làm cho những suy nghĩ và động lực vô thức của họ được tỉnh táo lại, do đó có được sự sáng suốt. Phân tâm học của Freud là lý thuyết tâm lý học ban đầu, nhưng cách tiếp cận tâm lý học nói chung bao gồm tất cả các lý thuyết dựa trên ý tưởng của ông, ví dụ, Jung (1964), Adler (1927) và Erikson (1950). Các quan điểm cổ điển đương đại trong tâm lý học để áp dụng các chiến lược khoa học là các nhà hành vi học , những người nổi tiếng vì sự phụ thuộc vào các thí nghiệm có kiểm soát trong phòng thí nghiệm và từ chối bất kỳ lực lượng vô hình hoặc vô thức nào là nguyên nhân của hành vi. Sau đó, cách tiếp cận nhân văn trở thành ‘lực lượng thứ ba’ trong tâm lý học và đề xuất tầm quan trọng của kinh nghiệm chủ quan và sự phát triển cá nhân. Trong những năm 1960 và 1970, tâm lý học bắt đầu một cuộc cách mạng nhận thức , áp dụng một phương pháp tiếp cận khoa học nghiêm ngặt, dựa trên phòng thí nghiệm, ứng dụng vào tăng cường trí nhớ , nhận thức , phát triển nhận thức , bệnh tâm thần và nhiều hơn nữa. Mục tiêu của Tâm lý học Bốn mục tiêu chính của tâm lý học là mô tả, giải thích, dự đoán và thay đổi hành vi và các quá trình tâm thần của người khác Miêu tả Mô tả một hành vi hoặc nhận thức là mục tiêu đầu tiên của tâm lý học. Điều này có thể cho phép các nhà nghiên cứu phát triển các quy luật chung về hành vi của con người. Ví dụ, thông qua việc mô tả phản ứng của chó với các kích thích khác nhau, Ivan Pavlov đã giúp phát triển các định luật học tập được gọi là lý thuyết điều hòa cổ điển. Giải thích Khi các nhà nghiên cứu đã mô tả hành vi của các quy luật chung, bước tiếp theo là giải thích làm thế nào hoặc tại sao xu hướng này xảy ra. Các nhà tâm lý học sẽ đề xuất các lý thuyết có thể giải thích một hành vi Dự đoán Tâm lý học nhằm mục đích có thể dự đoán hành vi trong tương lai từ những phát hiện của nghiên cứu thực nghiệm. Nếu một dự đoán không được xác nhận, thì giải thích dựa trên nó có thể cần được sửa đổi. Ví dụ, điều kiện cổ điển dự đoán rằng nếu một người kết hợp một kết quả tiêu cực với một kích thích, họ có thể phát triển một nỗi ám ảnh hoặc chán ghét các kích thích. Thay đổi Một khi tâm lý học đã mô tả, giải thích và đưa ra dự đoán về hành vi, có thể cố gắng thay đổi hoặc kiểm soát một hành vi. Ví dụ, các biện pháp can thiệp dựa trên điều kiện cổ điển, chẳng hạn như giải mẫn cảm có hệ thống, đã được sử dụng để điều trị những người bị rối loạn lo âu bao gồm chứng ám ảnh sợ hãi. Khoa học thần kinh hành vi Các yếu tố ảnh hưởng đến độ dẻo của não và hành vi trong quá trình phát triển và đến tuổi trưởng thành Chức năng và sinh học hải mã Căng thẳng và não Sự hình thành thần kinh và sự dẻo dai của não trong suốt cuộc đời Sự khác biệt liên quan đến giới tính trong chức năng não Điều hòa nội tiết và miễn dịch của não và hành vi Sinh học thần kinh của kiểm soát nhận thức Tâm lý học nhận thức Phương pháp tiếp cận thực nghiệm, hình ảnh não và dựa trên mô hình để nhận thức, trí nhớ, ra quyết định, hành động và ngôn ngữ Lập mô hình xử lý quyết định trong trí nhớ, nhận thức, tính toán. Cách hệ thống thị giác của chúng ta tạo ra nhận thức ổn định của chúng ta về thế giới Các nghiên cứu về Neuroimaging (fMRI) kiểm tra cách chúng ta đánh giá và lựa chọn mọi thứ Việc tạo ra các mô hình mạng hợp lý về mặt sinh học về nhận thức của con người Cách chúng ta kiểm soát sự chú ý của mình trong các nhiệm vụ phức tạp Cách hệ thống thính giác giải quyết những thách thức trong việc hiểu ngôn ngữ nói Khoa học Quyết định Các quá trình nhận thức, tình cảm và xã hội ảnh hưởng đến phán đoán và lựa chọn như thế nào Cách tính toán (khả năng số) ảnh hưởng đến các quyết định trong thế giới thực Cách bộ não đại diện cho các giá trị và niềm tin chủ quan Vai trò của thái độ trong phán đoán và lựa chọn số Làm thế nào để cải thiện sự tự chủ Cách thông tin được diễn giải và tích hợp trong quá trình ra quyết định Mô hình hóa việc ra quyết định trong quá trình lão hóa và suy giảm nhận thức Tâm lý học phát triển Sự thay đổi trong học tập và phát triển trong nhận thức, hành vi và não bộ Ảnh hưởng của di truyền và môi trường lên não và hành vi Phát triển trí nhớ, phân loại và suy luận Phát triển nhận thức số và tư duy toán học Cách trẻ em học ngôn ngữ và sử dụng nó để hiểu thế giới của chúng Làm thế nào trẻ em phát triển vượt ra khỏi bề ngoài trong hiểu biết xã hội và đạo đức Làm thế nào trẻ em phát triển vượt ra ngoài bề ngoài trong hiểu biết xã hội và đạo đức Khuyết tật về Trí tuệ và Phát triển Cách cải thiện sức khỏe và hạnh phúc ở trẻ em và người lớn bị thiểu năng trí tuệ, rối loạn phổ tự kỷ và các rối loạn phát triển thần kinh khác Cách hỗ trợ tốt nhất cho các thành viên trong gia đình của người khuyết tật Tác động như thế nào đến kết quả và tiến trình của khuyết tật trí tuệ, rối loạn phổ tự kỷ và các rối loạn phát triển thần kinh liên quan Cách phát triển các công cụ tâm lý đo lường các đặc điểm cốt lõi và liên quan của khuyết tật trí tuệ, rối loạn phổ tự kỷ và các rối loạn phát triển thần kinh khác Cách điều trị các vấn đề về hành vi và cảm xúc ở trẻ em và người lớn bị thiểu năng trí tuệ, rối loạn phổ tự kỷ và các rối loạn phát triển thần kinh liên quan Tâm lý học Định lượng Phát triển, đánh giá và áp dụng các phương pháp định lượng mới để phân tích dữ liệu tâm lý Việc áp dụng các mô hình thống kê vào các vấn đề trong thế giới thực Mô hình Bayesean về nhận thức của con người Tâm lý xã hội Thái độ tự động và có chủ ý: Ảnh hưởng đến việc xử lý thông tin, phán đoán và hành vi Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các lĩnh vực STEM Động lực trong các tương tác xã hội hình thành các mối quan hệ, niềm tin, hạnh phúc và sức khỏe như thế nào Điều gì thúc đẩy hành vi xã hội Ảnh hưởng của hệ thống miễn dịch và các loại thuốc chống viêm thông thường (ví dụ Tylenol) lên cảm xúc, quyết định và hành vi xã hội Sự tương đồng trong hoạt động của não giữa mọi người làm cơ sở cho sự giống nhau trong suy nghĩ, thái độ và niềm tin Danh mục Blog Điều hướng bài viết Mười mẹo để đạt điểm A môn Sinh học Tự Kỷ Ám Thị Là Gì? 5 Cách Vượt Qua Tự Kỷ Ám Thị Viết một bình luận Hủy Bình luận Tên Thư điện tử Trang web Lưu tên của tôi, email, và trang web trong trình duyệt này cho lần bình luận kế tiếp của tôi. Test Online Kiểm Tra IQ Kiểm Tra EQ Sinh Trắc Vân Tay Trắc nghiệm MBTI Trắc nghiệm DISC Trắc nghiệm Holland Test Nhanh 3S Test IQ Test EQ Test DISC Sinh trắc vân tay Trắc Nghiệm MBTI Trắc Nghiệm Holland ID Danh mục: 1: Xem mã 2: Xem mã 3: Xem mã 4: Xem mã 5: Xem mã 6: Xem mã Chúng tôi Blog Giới thiệu Liên hệ Chính sách bảo mật Sitemap Partner – testiqfree.com © 2021 Test Nhanh 3S • Built with GeneratePress
1610704847953.98.parquet/45249
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 7159, "url": "https://www.rhumsaintaubin.com/tam-ly-hoc/" }
142.5
Bản in: Ai được hưởng lợi khi Vingroup phi lợi nhuận giáo dục và y tế? - Giáo dục Việt Nam Ai được hưởng lợi khi Vingroup phi lợi nhuận giáo dục và y tế? (GDVN) - Phi lợi nhuận không có nghĩa là miễn phí hay giảm giá dịch vụ, mà mô hình ấy sẽ mang lại lợi ích cho cả xã hội theo một cách khá mới ở Việt Nam. 29/09/2016 14:52 Theo Vietnamnet.vn Hai hệ thống đang phát triển mạnh mẽ của Vingroup là Vinmec và Vinschool dự kiến sẽ hoạt động phi lợi nhuận theo mô hình các hệ thống y tế - giáo dục hàng đầu thế giới. Vì sao một tập đoàn kinh tế tư nhân lại sẵn sàng cống hiến toàn bộ thành quả hoạt động cho xã hội? Chúng tôi đã có cuộc trao đổi với ông Lê Khắc Hiệp, Phó Chủ tịch Tập đoàn Vingroup xung quanh vấn đề này. Phi lợi nhuận không có nghĩa là giảm giá - Trong hình dung của khá nhiều người, nhắc đến phi lợi nhuận có nghĩa là sẽ được giảm giá, miễn phí dịch vụ. Vậy sau khi chuyển đổi, dịch vụ Vinmec và Vinschool có giảm giá không, thưa ông? Mô hình phi lợi nhuận và mô hình miễn phí hoàn toàn khác nhau. Công ty phi lợi nhuận là công ty mà cổ đông không được hưởng lợi nhuận do công ty mang lại mà đem tái đầu tư để phát triển và phục vụ cộng đồng, chứ không phải là miễn phí cho người sử dụng dịch vụ. Theo mô hình này, mọi hoạt động kinh doanh, vận hành của Vinmec và Vinschool vẫn sẽ diễn ra như bình thường, các mức phí vẫn theo thông lệ của thị trường. Hệ thống giáo dục của Vingroup sẽ đi theo mô hình phi lợi nhuận của các hệ thống giáo dục hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, điểm khác biệt của Vingroup so với thông lệ là dù theo luật hiện hành, công ty phi lợi nhuận chỉ cần dành ra trên 51% để nghiên cứu, đầu tư, phát triển hoặc nâng cấp chất lượng dịch vụ… nhưng Vingroup cam kết sẽ dành toàn bộ 100% lợi nhuận thu được cho các hoạt động tái đầu tư để phát triển và phục vụ cộng đồng - Vậy ai sẽ là người hưởng lợi từ việc chuyển đổi mô hình này, thưa ông? Chúng tôi hy vọng sẽ xây dựng các trường phổ thông và Đại học có đẳng cấp quốc tế để giảm số lượng các cháu nhỏ phải ra nước ngoài học tập, các cháu học xong có thể có kỹ năng sống tốt, năng lực làm việc đạt yêu cầu cao. Học sinh, sinh viên của hệ thống giáo dục thuộc Vingroup sẽ được tiếp cận với các chương trình giáo dục tiên tiến, hữu ích và được giảng dạy bởi các chuyên gia giỏi. Chúng tôi cũng mong sẽ xây dựng được các bệnh viện hiện đại với đội ngũ giáo sư, bác sỹ giỏi hàng đầu thế giới để hàng năm có thể cứu sống hàng ngàn bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo để khám, phát hiện, ngăn chặn tất cả các mầm bệnh nguy hiểm và để cho đồng bào ta có thể có được các dịch vụ về y tế như các nước tiên tiến trên thế giới. Người bệnh của Vinmec sẽ được các Giáo sư, bác sỹ hàng đầu thế giới và Việt Nam khám chữa bệnh bằng những trang thiết bị hiện đại nhất thế giới. Ông Lê Khắc Hiệp, Phó Chủ tịch Tập đoàn Vingroup. Dành 100% lợi nhuận để tái đầu tư - Ông có thể cho biết vì sao lĩnh vực y tế, giáo dục rất tiềm năng, có thể mang lại lợi nhuận lớn cho cổ đông mà Vingroup vẫn quyết định chuyển đổi sang mô hình phi lợi nhuận? Đúng là Vinmec, Vinschool hiện đang là những thương hiệu hàng đầu trong lĩnh vực y tế và giáo dục của Việt Nam. Hiện tại, cả hai thương hiệu này đều được các nhà đầu tư và các quỹ đầu tư nước ngoài đặc biệt quan tâm, bày tỏ mong muốn được tham gia góp vốn dài hạn. Tuy nhiên, Vingroup vẫn quyết định chuyển mô hình quản trị của hai thương hiệu này là vì muốn tạo ra sự phát triển đột phá. Nếu chúng ta chỉ tự mình làm và phát triển theo lộ trình sẽ rất khó thu hút các chuyên gia, các kỹ thuật gia và các nhà công nghệ hàng đầu thế giới tham gia hợp tác. Nhân sự đẳng cấp, trí tuệ của nhân loại là điều kiện tiên quyết để phát triển đỉnh cao, vì vậy chúng tôi quyết định hy sinh lợi ích vật chất của mình. Ngoài ra chúng tôi cũng cho rằng đất nước của chúng ta cũng đã đến lúc phải có những doanh nghiệp phi lợi nhuận có đẳng cấp, đó cũng là 1 nét để khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. - Sau khi chuyển đổi thành doanh nghiệp xã hội, Vinmec và Vinschool có tiếp tục được tập đoàn đầu tư thêm không? Việc chuyển đổi này có ảnh hưởng đến kế hoạch mở rộng chuỗi Vinmec, Vinschool như Vingroup đã công bố? Ngoài cam kết dành 100% lợi nhuận thu được từ hai hệ thống này để tái đầu tư, chúng tôi sẽ tiếp tục đầu tư vào Vinmec và Vinschool dưới nhiều hình thức khác nhau với quyết tâm đưa các thương hiệu này đến đẳng cấp quốc tế. Việc mở rộng của Vinmec và Vinschool vẫn diễn ra như kế hoạch ban đầu, thậm chí có thể sẽ nhanh hơn dự kiến. Phi lợi nhuận sẽ thu hút được các chuyên gia hàng đầu trong nước và quốc tế. - Ông có thể chia sẻ cụ thể hơn? Hiện tại, chúng tôi đã điều chỉnh chiến lược và kế hoạch của Vinmec, Vinschool theo hướng phát triển nhanh hơn và hướng đến những tiêu chuẩn đỉnh cao hơn. Ví dụ như Vinmec đã quyết định thành lập Trung tâm nghiên cứu y học tái tạo, là nơi nghiên cứu các vấn đề về gen và tế bào gốc để có các ứng dụng vào chữa các bệnh nan y như ung thư, tiểu đường, tự kỷ và chống lão hóa. Chúng tôi sẽ đầu tư mạnh mẽ vào hướng này, trong giai đoạn trước mắt là nhận chuyển giao các công nghệ đã thành công trên thế giới về ứng dụng ở Việt Nam, song song sẽ tập trung đầu tư nghiên cứu tiếp. Sau 4 năm hoạt động, Vinmec đã vươn lên thành hình mẫu của khu vực y tế ngoài công lập. - Nguồn đầu tư sẽ lấy từ đâu, thưa ông? Nguồn đầu tư là lợi nhuận thu được và vốn vay, một phần vay của tập đoàn, một phần vay của các ngân hàng. - Ông có thể cho biết sau khi chuyển đổi, Vingroup và các cổ đông sẽ đóng vai trò như thế nào? Có thêm sự tham gia quản lý, giám sát hoạt động của xã hội không? Vingroup vẫn là chủ sở hữu của các doanh nghiệp này. Ngoài cổ đông là Vingroup chắc chắn các doanh nghiệp này sẽ chịu sự giám sát của xã hội theo luật định. Chúng tôi sẽ mời kiểm toán định kỳ và công khai mọi khoản thu chi để mọi người có thể tiếp cận, nghiên cứu các thông tin này. Vingroup được lợi gì? - Ông có thể cho biết, Vingroup được gì từ việc chuyển đổi mô hình? Về phía Vingroup, quyết định chuyển Vinmec và Vinschool thành mô hình hoạt động phi lợi nhuận đem lại rất nhiều giá trị: Thứ nhất, cán bộ nhân viên của Vingroup sẽ cảm nhận được niềm tự hào to lớn khi được đóng góp cho xã hội, và đó sẽ là động lực để tất cả chúng tôi nỗ lực làm việc tốt hơn, hiệu quả hơn, để có thể cống hiến nhiều hơn nữa. Thứ hai, là khi Vinmec và Vinschool trở thành các thương hiệu có đẳng cấp quốc tế thì hệ sinh thái của Vingroup cũng được hưởng lợi, đặc biệt là các khách hàng của Vingroup. Thứ ba, là cùng với những thương hiệu khác cũng đang dần khẳng định vị thế trên thị trường, chúng tôi sẽ tạo dựng được một thương hiệu Việt Nam có đẳng cấp trên trường quốc tế. Thứ tư, là với sứ mệnh “Vì một cuộc sống tốt đẹp hơn cho người Việt”, chúng tôi hy vọng hành động tiên phong này sẽ thúc đẩy được các doanh nghiệp cùng hướng nhiều hơn đến các hoạt động thiện nguyện, giúp đỡ được nhiều hơn nữa cho những hoàn cảnh còn khó khăn trên đất nước ta. Trong tương lai, Tập đoàn Vingroup sẽ dành 5000 tỷ đồng xây dựng 2 trường Đại học Y và Đại học Quốc tế theo mô hình phi lợi nhuận. - Việc chuyển đổi mô hình hoạt động này ảnh hưởng thế nào đến Vingroup nói chung và chiến lược phát triển của Vingroup? Việc này sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến Vingroup về giá trị tài sản, tuy nhiên không ảnh hưởng đến chiến lược phát triển của tập đoàn. Vinmec và Vinschool không thay đổi về ngành nghề mà chỉ thay đổi mô hình hoạt động do đó, Vingroup vẫn giữ được chiến lược “hệ sinh thái các sản phẩm và dịch vụ” đồng bộ, toàn diện. Vingroup vẫn sẽ tiếp tục tham gia điều hành để 2 hệ thống này hoạt động hiệu quả và bền vững. - Liệu có chuyện Vinmec và Vinschool chuyển mô hình phi lợi nhuận một thời gian lấy danh tiếng rồi sau đó lại quay về mô hình cũ? Nếu bây giờ tạo danh tiếng để sau một thời gian hủy hoại nó thì tạo để nhằm mục đích gì? Với bề dày uy tín của Vingroup trên thương trường bao lâu nay, chúng tôi không bao giờ làm việc đó. - Xin cảm ơn ông! Theo Vietnamnet.vn Thông tin tòa soạn × © Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam Cơ quan chủ quản: Hiệp hội các Trường đại học, cao đẳng Việt Nam. Giấy phép hoạt động Báo điện tử số 74/GP-BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông cấp cho Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam ngày 26/02/2020. Tổng Biên tập: Nguyễn Tiến Bình. Phó Tổng Biên tập: Đào Ngọc Tước. Tầng 6B, tòa nhà số 14-16 phố Hàm Long, phường Phan Chu Trinh, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đường dây nóng: 0938.766.888 - 0243.5569666 Email: toasoan@giaoduc.net.vn
1610704847953.98.parquet/82362
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 7480, "url": "https://giaoduc.net.vn/ban-in/post171232.gd" }
142
Mang thai ngoài tử cung là gì có 9 dấu hiệu dễ nhận biết nhất Danh Mục Bệnh Bệnh Phụ KhoaBệnh Nam KhoaCẩm Nang Bệnh Giới ThiệuLiên Hệ MENU Mang thai ngoài tử cung là gì có 9 dấu hiệu dễ nhận biết nhất Chuyên mục Bệnh Phụ Khoa ‍Mang thai ngoài tử cung là gì? Dấu hiệu nhận biết mang thai ngoài tử cung ra sao? Cách phát hiện mang thai ngoài tử cung sớm nhất...Đây là những câu hỏi mà gần như chị em nào khi biết bản thân mang thai cũng đều quan tâm. Không chỉ không thể sinh được, việc mang thai ngoài tử cung nếu phát hiện muộn còn đặc biệt nguy hiểm đến khả năng sinh sản và thậm chí là cả tính mạng của nữ giới. Vì thế, đây là kiến thức thai sản đặc biệt cần thiết mà chuyên gia phòng khám Hưng Thịnh luôn khuyến khích nữ giới tìm hiểu. Mang thai ngoài tử cung là gì? Mang thai ngoài tử cung hay dân gian vẫn thường gọi là chửa ngoài dạ con là một tình trạng gặp phải ở nhiều thai phụ hiện nay. Trong y khoa, đây là hiện tượng thai bất thường, cần phải được xử lý ngay khi phát hiện nhằm tránh để xảy ra các vấn đề nguy hiểm.. Như chính tên gọi, thai ngoài tử cung là hiện tượng phôi thai không di chuyển đến tử cung để làm tổ như bình thường mà bám và phát triển ở những nơi khác bên ngoài lòng tử cung. Vị trí phổ biến nhất thường gặp là tại vòi trứng (chiếm hơn 90%). Ngoài ra, một số ít trường hợp bắt gặp thai làm tổ ở ổ bụng, vòi tử cung, cổ tử cung, buồng trứng… Có rất nhiều nguyên nhân khiến nữ giới mang thai ngoài tử cung. Trong đó, phổ biến nhất chính là việc chị em gặp phải một số vấn đề bất thường ở vòi trứng như: viêm vòi trứng, hẹp vòi trứng, vòi trứng co thắt hoặc xuất hiện khối u bất thường.. Bên cạnh đó, nếu đã từng phẫu thuật vùng bụng hay vùng xương chậu thì rất dễ làm ảnh hưởng đến buồng trứng, vòi trứng. Ngoài ra, nếu chị em thường xuyên sử dụng chất kích thích như: hút thuốc, uống rượu bia...cũng sẽ làm ảnh hưởng đến ống dẫn trứng, giảm cử động của phôi thai khi di chuyển về tử cung để làm tổ, kết quả dẫn đến tình trạng mang thai ngoài tử cung. Buồng tử cung vốn là vị trí dành riêng cho sự tồn tại và phát triển của thai nhi với nhiều điều kiện thuận lợi. Vì vậy, việc thai nhi phát triển ra ngoài, không được tử cung bảo vệ, không đủ không gian phát triển sẽ rất dễ gây vỡ tại vị trí xuất hiện, dẫn đến hiện tượng chảy máu ồ ạt vào ổ bụng. Đây là tình trạng hết sức nguy hiểm cần phải được xử lý nhanh chóng nhằm bảo toàn tính mạng cho thai phụ. Ngay cả khi không gây vỡ vòi trứng, việc mang thai ngoài tử cung cũng không thể giữ vì thai nhi sẽ không được cung cấp đầy đủ máu và các dưỡng chất cần thiết. Vì thế, thai thường chết trước thời điểm sinh nở. Trường hợp xấu bạn có thể phải tiến hành cắt bỏ vòi trứng để bảo đảm tính mạng cho người mẹ. Điều này đồng nghĩa với việc nữ giới sẽ không còn khả năng mang thai tự nhiên trong tương lai. Các chuyên gia cho biết, mang thai ngoài tử cung có thể gặp phải ở bất kỳ nữ giới nào. Tuy nhiên, những người bị viêm vùng chậu, từng phẫu thuật ống dẫn trứng, nữ giới lớn tuổi mang thai muộn, người nghiện thuốc lá hoặc có tiền sử chửa ngoài dạ con...là đối tượng có nguy cơ cao hơn gặp phải vấn đề này. Để đảm bảo quá trình thai kỳ diễn ra khỏe mạnh, tốt đẹp, chị em nên đến phòng khám, bệnh viện để kiểm tra theo đúng các dấu mốc quan trọng được thông báo nhằm tránh để xảy ra các trường hợp đáng tiếc. Mang thai ngoài tử cung là gì? 9 Dấu hiệu mang thai ngoài tử cung nữ giới nên biết Nhìn nhận về các dấu hiệu mang thai ngoài tử cung, các chuyên gia cho biết nhìn chung không có nhiều sự khác biệt so với việc mang thai bình thường. Thông thường, các dấu hiệu này thường xuất hiện khi nữ giới bước sang tuần thai thứ 4 và kéo dài cho đến hết tuần thứ 12 hoặc trễ hơn. Trong thời gian này, chị em cần chú ý đến những thay đổi bất thường của bản thân để có thể phát hiện và xử lý kịp thời tình trạng mang thai ngoài tử cung. 1. Chảy máu âm đạo có phải là mang thai ngoài tử cung Đây là dấu hiệu nhận biết mang thai ngoài tử cung điển hình nhất. Theo đó, việc phôi thai phát triển ở bên ngoài tử cung sẽ rất khó để bám chắc. Thêm vào đó, khi thai phát triển với kích thước lớn hơn sẽ cần nhiều diện tích hơn và bắt đầu ăn mòn các mạch máu của vòi trứng, khiến vòi trứng căng phồng. Áp lực này rất dễ làm vỡ các mạch máu và vòi trứng dẫn đến tình trạng chảy máu ồ ạt vào ổ bụng và xuất huyết âm đạo. Thông thường, máu chảy ra do việc mang thai ngoài tử cung thường sẽ kéo dài với màu sắc đỏ thẫm, đôi khi có lẫn màng. Nếu thời điểm chảy máu âm đạo gần với chu kỳ kinh nguyệt thì bạn cần chú ý phân biệt về màu sắc, lượng máu và tính chất. Nếu nhận thấy máu chảy ra có biểu hiện bất thường, bạn cần nhanh chóng đến cơ sở y tế để được kiểm tra nhanh chóng. 2. Dấu hiệu mang thai ngoai tử cung có phải là đau bụng dưới một bên Nếu bạn đang thắc mắc mang thai ngoài tử cung có dấu hiệu gì thì tình trạng đau bụng dưới một bên là biểu hiện thường gặp của hiện tượng này. Thực chất đây là cơn đau phát tác từ chính vị trí làm tổ của thai nhi. Cơn đau bụng mà chị em gặp phải có thể âm ỉ kéo dài nhưng có lúc lại trở nên dữ dội kèm theo tình trạng xuất huyết âm đạo. Theo thời gian, khi túi thai càng phát triển, cơn đau bụng càng trở nên nghiêm trọng hơn. Đặc biệt, khi túi thai vỡ, thai phụ sẽ có cảm giác đau bụng dữ dội, đau quặn thắt, toát mồ hôi, chân tay bủn rủn, hoa mắt, chóng mặt, khó thở và thậm chí là ngất xỉu. Trường hợp này cần phải được đi cấp cứu ngay nhằm tránh những ảnh hưởng nguy hiểm đến tính mạng. Dấu hiệu mang thai ngoài tử cung nữ giới nên biết 3. Tụt huyết áp có phải là dấu hiệu mang thai ngoài tử cung Nhiều người sẽ không nghĩ rằng việc tụt huyết áp cũng là dấu hiệu mang thai ngoài tử cung. Theo đó, các chuyên gia cho biết những phụ nữ chửa ngoài dạ con thường có chỉ số huyết áp thấp hơn so với những nữ giới mang thai bình thường. Nguyên nhân là do phôi thai phát triển làm vỡ mạch máu, gây mất máu, rò rỉ máu ra bên ngoài. Vì vậy, máu trong cơ thể lúc này lại phải bù đắp vào phần đã mất nên chỉ số huyết áp sẽ luôn thấp hơn bình thường. Nếu trong thai kỳ, chị em thường xuyên gặp phải tình trạng tụt huyết áp thì cần hết sức chú ý vì không loại trừ khả năng đây là dấu hiệu nhận biết mang thai ngoài tử cung. 4. Đau vai gáy có phải là dấu hiệu mang thai ngoai tử cung Mang thai ngoài tử cung có dấu hiệu gì? Đau vai gáy rất có thể là hệ quả của việc bản thân đang mang thai ngoài tử cung. Theo đó, khi phôi thai chèn ép lên các mạch máu sẽ khiến mạch máu bị vỡ ra, khiến cơ thể gặp phải những cơn đau nhức vùng vai, vùng đầu và lưng. Thông thường, cơn đau vai gáy thường xuất hiện kèm theo các biểu hiện như: đau bụng dưới, chảy máu âm đạo, cơ thể mệt mỏi, chán ăn… 5. Khó chịu khi đi vệ sinh liệu có phải là dấu hiệu mang thai ngoài tử cung Mang thai ngoài tử cung, khi thai càng lớn sẽ càng chèn ép đến các cơ quan xung quanh, đặc biệt là bàng quang và ruột. Điều này gây ra những cơn tiểu buốt, tiểu đau khiến chị em thường cảm thấy lo sợ khi đi tiểu tiện. Tuy nhiên, đây chỉ là yếu tố phụ để đánh giá nguy cơ mang thai ngoài tử cung. Nguyên nhân là bởi đây cũng có thể là triệu chứng của tình trạng nhiễm trùng đường tiết niệu. Vì thế, muốn chắc chắn hơn, bạn nên chú ý theo dõi và đến trực tiếp cơ sở y tế để được bác sĩ kiểm tra kỹ lưỡng. 6. Chóng mặt ù tai có phải là biểu hiện của mang thai ngoài tử cung Thai phát triển ở vòi trứng, buồng trứng, cổ tử cung với kích thước lớn sẽ dẫn đến tình trạng vỡ tại vị trí làm tổ. Điều này khiến người mẹ phải chịu đựng cơn đau buốt bụng dưới đột ngột, máu chảy ồ ạt vào ổ bụng và ra ngoài âm đạo gây hoa mắt, chóng mặt, ù tai và thậm chí là ngất xỉu. Trường hợp này cần phải được cấp cứu ngay nếu không sẽ đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng. 7. Que thử thai hiện 2 vạch mờ Que thử thai hoạt động dựa trên việc phát hiện nồng độ hCG trong nước tiểu của phụ nữ mang thai. Điều này không phụ thuộc vào vị trí làm tổ của thai nên chị em hoàn toàn có thể dùng que thử để kiểm tra bình thường. Dấu hiệu mang thai ngoài tử cung nữ giới nên biết Theo các chuyên gia, nồng độ hormone hCG ở phụ nữ mang thai ngoài tử cung sẽ thấp hơn những phụ nữ mang thai bình thường. Vì thế, que thử thường sẽ hiện 2 vạch mờ. Tuy nhiên, nếu chị em thử thai quá sớm hoặc thử không đúng cách, chất lượng que thử không đảm bảo cũng khiến que hiển thị 2 vạch mờ. Vì vậy, để chắc chắn hơn, chị em nên đi siêu âm thai để biết được thai có làm tổ đúng vị trí hay không. 8. Dấu hiệu mang thai ngoai tử cung có phải là buồn nôn Buồn nôn, nôn khi ngửi mùi đồ ăn, nghĩ đến đồ ăn là hiện tượng phổ biến ở hầu hết chị em khi mang thai. Với chị em không may mang thai ngoài tử cung thì hiện tượng này vẫn diễn ra bình thường, thậm chí trầm trọng hơn khiến cơ thể trở nên xanh xao, kiệt sức. Nếu điều này diễn ra trong thời gian dài, các chuyên gia khuyến cáo chị em nên đến cơ sở y tế để kiểm tra sớm nhằm bảo đảm tốt nhất cho sức khỏe. 9. Chuột rút Mang thai ngoài tử cung có dấu hiệu gì? Các chuyên gia cho biết chị em chửa ngoài dạ con cũng sẽ gặp phải hiện tượng chuột rút như bình thường. Tuy nhiên, nếu hiện tượng chuột rút trở nên quá nghiêm trọng hoặc kèm theo các dấu hiệu nguy hiểm khác như: chảy máu âm đạo, đau bụng dưới...thì bạn cần chú ý vì đây rất có thể là dấu hiệu nguy hiểm, cảnh báo thai sắp vỡ. Hy vọng với 9 dấu hiệu mang thai ngoài tử cung kể trên đã giúp chị em có được những kiến thức hữu ích để phát hiện sớm các hiện tượng bất thường. Các chuyên gia khuyến cáo, ngoài việc cần chú ý quan sát các biểu hiện của cơ thể, chị em khi mang thai cũng cần phải siêu âm theo đúng các cột mốc quan trọng để kiểm tra sức khỏe và sự phát triển của thai. Nếu muốn tư vấn thêm, bạn đọc có thể gọi điện tới hotline 0366.655.466 để được các bác sĩ Sản phụ khoa tư vấn nhanh chóng và hoàn toàn miễn phí Bài Viết Cùng Chuyên mục Mang thai ngoài tử cung là gì có 9 dấu hiệu dễ nhận biết nhất Mang thai ngoài tử cung là gì? Dấu hiệu nhận biết mang thai ngoài tử cung ra sao? Cách phát hiện mang thai ngoài tử cung sớm nhất để chị em có thể tham khảo Tác giả: Bác sĩ chuyên sản phụ khoa Trần Thị Thành 15 dấu hiệu mang thai tuần đầu tiên dễ nhận biết nhất 15 dấu hiệu mang thai tuần đầu tiên dễ nhận biết nhất sẽ được các chuyên gia phòng khám Hưng Thịnh chia sẻ trong nội dung bài viết này mời quý vị tham khảo Tác giả: Bác sĩ chuyên sản phụ khoa Trần Thị Thành Bản Quyền thuộc Phòng khám đa khoa Hưng Thịnh 380 Xã Đàn - Đống Đa - Hà Nội
1610704847953.98.parquet/17704
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 9004, "url": "https://phongkhamdakhoahungthinh.webflow.io/blog/mang-thai-ngoai-tu-cung-la-gi-co-9-dau-hieu-de-nhan-biet-nhat" }
141.9
Nhận thức về phát triển kinh tế thể thao SEA Games 31 Phó Tổng cục trưởng Nguyễn Hồng Minh: Tiểu ban Hậu cần và Dịch vụ công cần rà soát kỹ các phương án cho SEA Games 31 Tổng cục TDTT làm việc với UBND tỉnh Quảng Ninh về công tác tổ chức SEA Games 31 Bóng đá Việt Nam tập trung cho nhiệm vụ tại SEA Games 31 Trong nước Phong trào Olympic Thể thao đỉnh cao Thể thao phong trào Thể thao giải trí Đề án 641 Bơi an toàn - Phòng chống đuối nước Đại hội Đảng XIII: Báo cáo về công tác nhân sự khoá XIII Bộ môn Lặn Thanh Hóa dồn lực cho SEA Games Chính thức khai mạc Đại hội XIII của Đảng Quốc tế Tin tức & Sự kiện Nga vắng mặt tại Olympic Tokyo và World Cup 2022 Olympic khó có thể diễn ra vào Mùa Hè 2021 4 VĐV xô đổ KLTG ở giải Valencia Half Marathon 2020 Bóng đá Bóng đá trong nước Bóng đá quốc tế AFC hoãn và hủy một số giải đấu Quả bóng vàng Việt Nam 2020: Gọi tên Văn Quyết? CLB Hà Nội lần thứ tư giành Siêu Cúp Quốc gia Lý luận & Thực tiễn PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG CHUYỂN ĐỔI CỦA CÔNG TY XỔ SỐ CHÂU Á VÀ CHÂU ÂU PHƯƠNG PHÁP MÔ HÌNH "XỔ SỐ LOẠI TRỪ" TRONG XỔ SỐ BÓNG ĐÁ KỲ 2: TƯ DUY VÀ ỨNG DỤNG LƯỢNG HÓA ĐẦU TƯ TRONG XỔ SỐ BÓNG ĐÁ Thể thao & Cuộc sống Chuyện hậu trường 4 cầu thủ Brazil qua đời do tai nạn máy bay Hà Nội FC cùng “Cả nước chung tay vì người nghèo” Messi kiếm tiền giỏi nhất làng bóng đá thế giới năm 2020 Kinh tế Thể thao CLB Hóa chất Đức Giang Hà Nội: Thế lực mới trong làng bóng chuyền Việt Nam Hải Đăng Tây Ninh ghi dấu ấn lớn trong làng quần vợt Việt Nam Công tác xã hội hóa: Nguồn lực mạnh mẽ cho bóng bàn phong trào Văn hóa – Du lịch Văn hóa Du lịch Chung kết cuộc thi tìm kiếm MC tài năng Khoa Du lịch Đại học Văn hóa Hà Nội 2020 Một Hà Nội thu nhỏ trong tàu điện Triển lãm tranh in đồ họa độc bản “Cảm xúc tháng 6” Pháp luật TDTT Cải cách hành chính Công tác cải cách hành chính luôn là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Bộ VHTTDL Đoàn kiểm tra của Ban Chỉ đạo Cải cách hành chính của Chính phủ làm việc với Bộ VHTTDL Thứ trưởng Lê Khánh Hải làm việc với Sở VHTTDL Bắc Kạn về công tác cải cách hành chính Video/ Photo Video: Chuyên gia y tế hướng dẫn đeo khẩu trang đúng cách phòng nCOV Bài hát vang lên ở mọi điểm thi đấu asiad 18 Ngày hội U23 và tinh thần dân tộc Trang nhất Thứ năm, 28/01/2021 | 13:45 GMT+7 Nhận thức về phát triển kinh tế thể thao Trang chủ › Kinh tế Thể thao › Cập nhật 04:13 ngày 15/09/2020 (Kinh tế Thể thao) - Kinh tế học TDTT là một ngành khoa học, xem xét những biểu hiện cụ thể trong các mối quan hệ kinh tế - xã hội với các vấn đề thực tế của ngành công nghiệp thể thao. Mục đích quan trọng nhất của ngành khoa học này là phát triển các khuyến nghị dựa trên bằng chứng nhằm tăng cường sản xuất và dịch vụ. Sản phẩm cơ bản của ngành TDTT Văn hóa và thể thao là các ngành không sản xuất, mà kết quả lao động lại là các dịch vụ. Cùng với điều này, trong lĩnh vực TDTT còn có những cơ sở sản xuất ra các thiết bị thể thao, dụng cụ thể thao, quần áo, giày, găng… TDTT là loại hình dịch vụ nhằm đáp ứng những nhu cầu tinh thần và duy trì hoạt động sống hàng ngày của người sử dụng. Dịch vụ TDTT đáp ứng việc duy trì và phục hồi sức khỏe, phát triển thể chất và tinh thần cho mỗi cá nhân, nâng cao trình độ nghề nghiệp... Phần lớn các loại hình dịch vụ của ngành TDTT đều thuộc dịch vụ văn hóa - xã hội. Nguồn nhân lực trong ngành TDTT Lực lượng lao động trong các lĩnh vực phi sản xuất, đặc biệt là sản xuất các dịch vụ TDTT ít tuân theo cơ giới hóa, tự động hóa mà đòi hỏi sự tương tác cá nhân và hướng vào yếu tố con người. Do vậy, lực lượng lao động cần phải có sự sáng tạo và các kỹ năng tương đối cao. Trong mối quan hệ giữa kinh tế và thể thao, cần thiết phải có sự thay đổi các yêu cầu về đào tạo chuyên nghiệp không chỉ trong thực tiễn mà cả trong quá trình giảng dạy. Người tham gia hoạt động kinh tế thể thao không những phải nắm vững các nguyên tắc cơ bản của một nền kinh tế thị trường mà còn phải có khả năng tư duy kinh tế, nắm vững các yếu tố của kinh tế và văn hóa trong lĩnh vực kinh doanh thể thao. Theo đánh giá của các chuyên gia nước ngoài, dịch vụ chiếm khoảng 60% và hàng hóa là 40%, trong đó dịch vụ luôn có xu hướng gia tăng. Việc làm trong ngành công nghiệp TDTT có mức độ khác nhau, bao gồm tất cả các hình thức, các lớp học bắt buộc trong các cơ sở giáo dục, tổ chức việc làm tự nguyện, thể thao nghiệp dư và chuyên nghiệp... Có thể chia nguồn nhân lực trong hoạt động GDTC và huấn luyện thể thao thành 3 nhóm: Nhóm 1: Trực tiếp tham gia vào việc đào tạo và huấn luyện. Nhóm này bao gồm các giáo viên GDTC của các cơ sở giáo dục, HLV, giảng viên, hướng dẫn viên... Nhóm 2: Liên quan đến việc chuẩn bị các điều kiện cho VĐV và môn thể thao. Nhóm này bao gồm các kỹ sư, kỹ thuật viên, chuyên gia, công nhân, viên chức và người tham gia CLB cơ sở, các trường học thể thao, cơ sở thể thao, cơ sở đào tạo... Nhóm 3: Thể thao chuyên nghiệp. Nhóm này có mặt ở hầu hết các phần trong ngành công nghiệp - giải trí - dịch vụ tự do của người dân. Thị trường TDTT Dưới quan điểm kinh tế, TDTT là lĩnh vực phi sản xuất, không trực tiếp tham gia vào việc tạo ra một sản phẩm hữu hình. TDTT sản xuất và cung cấp dịch vụ, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người dân, bao gồm việc đảm bảo rằng một loạt các hoạt động về hậu cần, tổ chức và nhân sự phát triển của một mạng lưới các phòng tập TDTT, phí xây dựng và tổ chức phục vụ khách hàng của họ trong quá trình nghiên cứu bài tập, đào tạo, biểu diễn thể thao và xem các cuộc thi đấu; đào tạo chuyên nghiệp, tiến hành nghiên cứu, sản xuất, lưu trữ và bán hàng cho các mục đích thể thao, sửa chữa và cho thuê thiết bị và dụng cụ thể thao... Các hoạt động cung ứng của các doanh nghiệp, tổ chức khác nhau cung cấp các sản phẩm cho mỗi sự kiện theo hướng kinh doanh cốt lõi của nó đã tạo nên sự tích hợp, phụ thuộc lẫn nhau nhằm đáp ứng cùng một nhu cầu của người dân tham gia. Trạng thái cân bằng của ngành dịch vụ trong thị trường TDTT được thiết lập khi các nhà sản xuất hài lòng với công việc của họ và người tiêu dùng - phạm vi và chất lượng dịch vụ cung cấp. Lĩnh vực thương mại dịch vụ ở Việt Nam có tốc độ tăng trưởng nhanh, chủ yếu thuộc về các ngành bán buôn bán lẻ hàng hóa, bình quân giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng trưởng GDP ngành dịch vụ trung bình năm là 6,5% trong đó ngành bán buôn bán lẻ đạt 9,01%. Đóng góp cụ thể của dịch vụ TDTT là nhỏ và chưa cụ thể. Thị trường thể thao có thể đo được bằng nhiều cách, như lượng tiêu thụ các sản phẩm thể thao, chi phí xây dựng địa điểm thi đấu hay chi phí hoạt động của các bộ phận. Ngoài ra, có thể xác định độ lớn của thị trường thông qua ngân sách đầu tư cho thể thao của nhà nước và doanh nghiệp; cũng có thể là chi phí trung bình 1 người trả cho thể thao hàng năm, hay số lượng người tham gia và người làm việc trong ngành TDTT. Tuy nhiên, sẽ là rất khó để đưa ra con số chính xác cho thị trường này vì nó quá lớn và có nhiều đối tượng liên quan. Sự can thiệp của Chính phủ vào TDTT nhìn từ góc độ kinh tế Chính phủ của các quốc gia trên thế giới đều can thiệp đáng kể vào lĩnh vực TDTT thông qua nhiều cách khác nhau. Có thể thấy rằng, người tiêu dùng chi tiêu cho thể thao chiếm một phần tương đối nhỏ trong tổng chi tiêu cho giải trí, còn Chính phủ đầu tư vào TDTT lại là một khoản khá lớn trong tổng chi tiêu công 20 năm qua. Dưới góc độ tiếp cận, Luật Thể dục, thể thao ở một số nước châu Âu thường phân thành 2 mô hình: “Can thiệp” là một mô hình có quy định pháp luật cụ thể về cơ cấu và nhiệm vụ của phong trào thể thao quốc gia. Tất cả các mô hình luật thể thao khác đều được coi là mô hình “không can thiệp”. Ngoài phương thức kiểm soát thông qua pháp luật, Chính phủ các quốc gia còn kiểm soát phong trào TDTT thông qua các quỹ dành cho TDTT. Do kinh tế TDTT là ngành khá đặc thù nên mức độ và hình thức can thiệp của Chính phủ cũng có nhiều khác biệt so với các ngành kinh tế khác. Xét trên giác độ kinh tế học, sự can thiệp của Chính phủ cũng được giải thích bởi các yếu tố khác biệt về hướng sản phẩm, cung cầu thị trường. Sự phát triển của TDTT chịu ảnh hưởng của thị trường thể thao và của Chính phủ. Tác động của 2 yếu tố này khác nhau về động lực, phương tiện, mức độ và thời gian để tạo nên 2 cơ chế hoạt động đó là: Định hướng thị trường và định hướng Chính phủ. Căn cứ vào chuỗi giá trị thị trường thể thao có thể chia thị trường làm 3 nhóm dựa trên các mục đích hoạt động khác nhau, đó là: Nhóm 1: Các đối tượng được thành lập bởi nhà nước. Nhóm này bao gồm các cơ quan/tổ chức nhà nước ở cấp quốc gia, địa phương hay khu vực cũng như các tổ chức thuộc quyền quản lý nhà nước được thành lập với mục đích phát triển thể thao, quản lý các vấn đề luật pháp liên quan đến thể thao, nâng tầm sức khỏe cộng đồng... Nhóm 2: Các tổ chức phi lợi nhuận hay tổ chức hoạt động tình nguyện. Nhóm này bao gồm các CLB cấp khu vực, các tổ chức cộng đồng hay các tổ chức thể thao quốc tế như FIFA. Các hoạt động của nhóm này tập trung chủ yếu vào phát triển thể thao, tăng lượng người tham gia rèn luyện thể thao, tổ chức thi đấu. Nhóm 3: Các doanh nghiệp/tổ chức làm thể thao. Nhóm này được thành lập vì nhu cầu/mục đích kinh tế, bao gồm các đối tượng như CLB, giải thi đấu, các sự kiện thể thao được xây dựng với mục đích tạo lợi nhuận. Ngoài ra, nhóm này còn bao gồm rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh các sản phẩm liên quan đến thể thao như các công ty sản xuất hàng may mặc, dụng cụ, giày dép... hay các nhà bán buôn, bán lẻ, các công ty truyền thông. Hoạt động của 3 nhóm này không tách rời nhau và tạo thành một chuỗi giá trị. Bên cạnh đó, một phần các tổ chức phi lợi nhuận nhưng không trực thuộc quyền quản lý của nhà nước (như Ủy ban Olympic quốc tế). Nhận thức về kinh tế TDTT và sự tham gia của nhà nước Phân tích các mối quan hệ giữa nền kinh tế và sự phát triển của TDTT dựa trên 3 vấn đề chính: tài trợ cho thể thao; thể thao và quản lý kinh tế để tạo ra các thủ tục hợp tác kinh tế trong thị trường duy nhất của ngành công nghiệp thể thao; tương tác giữa thị trường và ngành công nghiệp thể thao. Các vấn đề tài chính cần thiết để phân tích gồm: ngân sách nhà nước và địa phương, xổ số thể thao, nguồn vốn quốc gia khác, các nhà tài trợ, doanh thu từ các sự kiện thể thao... cho sự phát triển của TDTT. Hoạt động quản lý kinh tế kết hợp với việc sử dụng hiệu quả nhất nhằm tăng thu nhập, hạch toán, phát triển các yêu cầu đối với hệ thống thuế, các quy tắc chi phí tối ưu cho sự kiện thể thao, cách để tăng sự đóng góp của tình nguyện viên, phân tích tiền công cho VĐV chuyên nghiệp và điều kiện làm việc của họ. Các môn thể thao, dịch vụ thể thao đại diện cho các hoạt động kinh tế liên quan đến tiêu thụ sản phẩm TDTT, tạo ra nhu cầu của thị trường đối với hàng hóa và dịch vụ thể thao, phục vụ như là một chuyên ngành và không chuyên sản xuất. TDTT đòi hỏi tạo ra một mạng lưới các phòng tập, cơ sở thể thao và do đó cần có thị trường xây dựng công trình thể thao. Duy trì tập thể dục, hồi phục, điều trị trong trường hợp chấn thương... đòi hỏi sự tham gia của thị trường thực phẩm, dược phẩm. Sự cạnh tranh giữa các môn thể thao trên thị trường tạo phạm vi hoạt động cho các phương tiện truyền thông, từ đó tạo điều kiện cho hoạt động của các nhà tài trợ. Nhà nước cần thiết phải tham gia thị trường thể thao vì mục đích cộng đồng, kinh tế và chính trị. Do vậy, nhà nước tác động lên hoạt động TDTT thông qua 4 hướng sau: Thứ nhất, nhà nước xây dựng/bảo trì các công trình thể thao, tìm kiếm, huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, cổ vũ, thúc đẩy phát triển phong trào rèn luyện TDTT cũng như cung cấp tài chính cho các tổ chức, các giải thi đấu hay những đợt vận động đăng cai tổ chức các giải thể thao lớn. Thứ hai, nhà nước chịu trách nhiệm phát triển thể thao thông qua việc đào tạo chính quy tại trường học hoặc các trung tâm đào tạo thể thao. Thứ ba, nhà nước là tổ chức có tiếng nói sâu rộng nhất trong vấn đề truyền bá thông tin lợi ích thể thao, các vấn đề liên quan đến sức khỏe, các chương trình thể thao vì cộng đồng hay các chương trình nâng tầm hiểu biết cho cộng đồng về lối sống lành mạnh. Thứ tư, nhà nước đưa ra các điều lệ tổ chức, ngăn chặn các hành vi xấu như doping, bán độ... Tuy nhiên, không giống các thị trường tiêu dùng thuần túy, ở thị trường TDTT, nhà nước thường can thiệp để giảm tính cạnh tranh tuyệt đối. Nhà nước không tham gia trực tiếp vào các hoạt động marketing mà thúc đẩy thể thao phát triển bằng cách đầu tư cho hoạt động truyền bá lợi ích sức khỏe do thể thao mang lại. PGS. TS Nguyễn Danh Hoàng Việt - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục TDTT Bình luận (0) Xác thực thông tin của bạn để gửi bình luận Họ tên Email Viết bình luận .... Gửi CLB Hóa chất Đức Giang Hà Nội: Thế lực mới trong làng bóng chuyền Việt Nam Hải Đăng Tây Ninh ghi dấu ấn lớn trong làng quần vợt Việt Nam Công tác xã hội hóa: Nguồn lực mạnh mẽ cho bóng bàn phong trào Điền kinh Việt Nam thành công trong công tác xã hội hóa Thị trường trang phục và dụng cụ thể thao lao đao bởi dịch COVID-19 Bắn súng Việt Nam: Nhiều khó khăn trong công tác xã hội hóa Giải pháp phát triển kinh tế thể thao trong giai đoạn mới Cầu lông Việt Nam còn nhiều tiềm năng phát triển kinh tế clip hot SEA Games 31 Trong nước Quốc tế Bóng đá Lý luận & Thực tiễn Thể thao & Cuộc sống Kinh tế Thể thao Văn hóa – Du lịch Pháp luật TDTT Video/ Photo TẠP CHÍ THỂ THAO Cơ quan của Tổng cục TDTT - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Địa chỉ: Tầng 5 - Nhà E, Tổng cục TDTT, 36 Trần Phú, Ba Đình, Hà Nội. Số ĐT: 04.3.8569520 - Fax: 04.3.7473941. Giấy phép số: 107/GP-TTĐT, Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 19/5/2010. Tổng Biên tập: Lý Đức Thùy
1610704847953.98.parquet/40342
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 11648, "url": "http://tapchithethao.vn/nhan-thuc-ve-phat-trien-kinh-te-the-thao-n5849.html" }
141.9
Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 - Thắng lợi của lòng yêu nước Đường dây nóng: 0912011882 - (024) 39364407Thứ năm, 28/01/2021 10:16 GMT+7 Trang chủ Chính trị Thời sự Đối ngoại biên phòng Chống diễn biến hòa bình Góc nhìn Theo gương Bác Lời Bác dạy ngày này năm xưa Người tốt - Việc tốt Quân sự-Quốc phòng Biên phòng toàn dân Xã hội Giao thông 24/7 Kinh tế Pháp luật Đời sống pháp luật Văn bản pháp luật Văn hóa Sáng tác Thể thao Phóng sự Ghi chép Bút ký Quốc tế Sự kiện-Bình luận Biên giới, biển, đảo các nước Liên hệ Quảng cáo: 0912.011.882 Hotline: 0912.011.882 - (024)39.364.407 Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về Chiến lược Bảo vệ biên giới quốc giaPhòng, chống dịch COVID-19 Chính trị Thời sựĐối ngoại biên phòngChống diễn biến hòa bìnhGóc nhìn Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 - Thắng lợi của lòng yêu nước Thứ sáu, 01/05/2020 14:49 GMT+7 Biên phòng - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Ngô Xuân Lịch nhấn mạnh Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là thắng lợi của lòng yêu nước nồng nàn và khát vọng hòa bình, độc lập, tự do. Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975: Thắng lợi của lòng yêu nước nồng nàn và khát vọng hòa bình, độc lập, tự do Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975: Nét độc đáo, sáng tạo của nghệ thuật quân sự Việt Nam Hội thảo “Vai trò của cơ quan Tổng hành dinh trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975” Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ảnh: Trọng Đạt/TTXVN Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày 30-4-1975 đã đi vào lịch sử dân tộc như một mốc son chói lọi. Từ đây, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tập trung sức lực và trí tuệ hàn gắn vết thương chiến tranh, tích cực xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, toàn diện. Nhân dịp kỷ niệm 45 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã trả lời phỏng vấn của phóng viên Thông tấn xã Việt Nam về chủ đề “Phát huy sức mạnh của ý chí thống nhất đất nước.” - Thưa Bộ trưởng, là người đã trực tiếp tham gia chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Bộ trưởng đánh giá như thế nào về ý nghĩa lịch sử của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử và vai trò của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong sự kiện đặc biệt quan trọng này? Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là cuộc đấu trí, đấu lực quyết liệt nhất giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và cuối cùng chúng ta đã giành thắng lợi vẻ vang. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Bác Hồ kính yêu, sự chỉ đạo, điều hành, tổ chức, chỉ huy mưu lược, trí tuệ, sáng tạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh, quân và dân cả nước đã anh dũng, kiên cường, chiến đấu, hy sinh, lập nên những chiến công oanh liệt, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào,” kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tạo ra một kỳ tích lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX. Đây là thắng lợi của lòng yêu nước nồng nàn - của khát vọng hòa bình, độc lập, tự do và thống nhất đất nước, đánh dấu một mốc son chói lọi, viết tiếp trang sử hào hùng trong chặng đường dựng nước và giữ nước qua hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc Việt Nam anh hùng. Chiến thắng đó đã giải phóng nhân dân miền Nam thoát khỏi ách thống trị của đế quốc và tay sai; kết thúc 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước và 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc; chấm dứt việc các cường quốc thế giới can thiệp quân sự trực tiếp vào Việt Nam trong suốt hơn 100 năm. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã lật đổ chế độ đế quốc và tay sai, mở đường cho sự hoàn thành trọn vẹn sự nghiệp cách mạng dân chủ nhân dân; là một sự kiện trọng đại trong lịch sử dân tộc, mở ra một thời kỳ mới, đưa cả nước vững bước vào kỷ nguyên độc lập, thống nhất và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đối với thế giới, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã đập tan cuộc phản kích lớn nhất vào các lực lượng của tên đế quốc đầu sỏ, phá vỡ phòng tuyến ngăn chặn phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và sự mở rộng của chủ nghĩa xã hội ở khu vực Đông Nam Á, góp phần làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của đế quốc Mỹ. Đây cũng là nguồn cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc và dân chủ tiến bộ trên thế giới, tiếp tục chứng minh chân lý của thời đại: Một dân tộc kiên quyết chống chủ nghĩa đế quốc có đường lối lãnh đạo đúng đắn, có sự đồng tình giúp đỡ của quốc tế nhất định sẽ giành được thắng lợi. Vai trò của Quân đội Nhân dân Việt Nam đối với thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là rất to lớn. Bởi đây là lực lượng nòng cốt, chủ yếu, luôn sát cánh cùng nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi mục tiêu giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Bằng sức mạnh hiệp đồng quân chủng, binh chủng tiến công dũng mãnh, càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng của các quân đoàn, sư đoàn chủ lực kết hợp với lực lượng vũ trang tại chỗ và sự nổi dậy của quần chúng nhân dân, chúng ta đã lần lượt tiến hành ba đòn tiến công chiến lược và giành thắng lợi trong các chiến dịch: Tây Nguyên, Huế-Đà Nẵng và Sài Gòn-Gia Định. Đặc biệt, trong trận quyết chiến chiến lược mang tên Bác Hồ kính yêu-Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, năm cánh quân hùng dũng của Quân đội ta đã “thần tốc, táo bạo,” đồng loạt tiến công mãnh liệt, đập tan các tuyến phòng thủ, tiêu diệt cơ quan đầu não của địch. Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, lá cờ của Quân giải phóng đã tung bay trên nóc Dinh Độc Lập - sào huyệt cuối cùng của chính quyền và quân đội Sài Gòn, báo hiệu Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam. Chiến công này đã đi vào lịch sử dân tộc như một biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại Hồ Chí Minh, là niềm tự hào chung của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. - Việc phát huy sức mạnh đoàn kết “quân với dân một ý chí” có ý nghĩa như thế nào trong việc góp phần vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, thưa Bộ trưởng? Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch: Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân phục vụ, dù bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, cán bộ, chiến sĩ Quân đội luôn gắn bó mật thiết với nhân dân. Việc xác định phương thức tiến hành giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã khái quát đầy đủ nội hàm của việc phát huy sức mạnh đoàn kết “quân với dân một ý chí.” Để giành thắng lợi vang dội trên các chiến trường, ngoài yếu tố quyết định là sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt, tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nền tảng tạo nên sức mạnh tổng hợp giành thắng lợi đó là sự đoàn kết “quân với dân một ý chí.” Ý chí đó thể hiện quyết tâm, khát vọng giành bằng được độc lập, tự do, thống nhất đất nước của quân và dân ta. Phương thức tác chiến kết hợp các đòn tiến công địch bằng sức mạnh của các binh đoàn cơ động chủ lực với sự nổi dậy của quần chúng nhân dân giành quyền làm chủ ở các địa phương đã tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn đánh thắng địch. Cần khẳng định thêm rằng, nếu không có các cơ sở cách mạng của ta trong nội đô và sự đùm bọc, che chở của nhân dân thì việc giành thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là rất khó khăn. Do đó, việc phát huy sức mạnh tổng hợp, sự đoàn kết “quân với dân một ý chí” là nét đặc sắc của nghệ thuật quân sự Việt Nam làm nên chiến thắng vang dội trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. - Thưa Bộ trưởng, thống nhất, hòa bình, ổn định đã mở ra cho Việt Nam nhiều hơn những cơ hội hợp tác quốc tế, xin Bộ trưởng làm rõ thêm về triển vọng này trên lĩnh vực hợp tác quốc phòng song phương và đa phương? Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch: Việt Nam đang đẩy mạnh hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng theo phương châm “Tích cực, chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả.” Do vậy, “thống nhất, hòa bình, ổn định” không chỉ là mục tiêu, điều kiện cần, mà còn là điều kiện đủ để đất nước ta mở rộng hợp tác quốc tế theo xu thế phát triển của thời đại, trong đó, hợp tác quốc phòng cũng cần những điều kiện cơ bản đó. Các nữ bác sỹ Bệnh viện Dã chiến cấp 2 số 1 lên đường sang nhận nhiệm vụ tại Nam Sudan, tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc ngày 15-10-2018. Ảnh: Xuân Khu/TTXVN Trước bối cảnh thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, đã và đang tác động không nhỏ đến hoạt động đối ngoại của đất nước nói chung và công tác đối ngoại quốc phòng nói riêng; với quyết tâm chính trị và tinh thần chủ động, sáng tạo, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân triển khai đồng bộ, toàn diện các mặt công tác đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới. Nổi bật là, công tác đối ngoại quốc phòng biên giới được đẩy mạnh; các cuộc gặp giữa lãnh đạo Bộ Quốc phòng với các nước được tăng cường, với sự đồng thuận về nhận thức, bàn thảo các giải pháp hóa giải những vấn đề còn tồn tại. Đồng thời, tận dụng tốt các diễn đàn đa phương, nhất là các diễn đàn trong khuôn khổ ASEAN, như Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội nghị an ninh châu Á (Đối thoại Shangri-La)… để vừa hợp tác, vừa đấu tranh, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với việc giữ vững chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc. Thời gian tới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn trên thế giới, cùng với việc giữ vững sự ổn định tình hình trong nước sẽ là môi trường thuận lợi để nước ta thực hiện thắng lợi các mục tiêu về công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế. Theo đó, Việt Nam tiếp tục thúc đẩy các quan hệ, hợp tác về quốc phòng, an ninh với các đối tác chủ chốt, phù hợp với quan hệ song phương theo các khuôn khổ của đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược và đối tác hợp tác toàn diện; tập trung vào những lĩnh vực phù hợp, có trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải, phân tán nguồn lực. Trong đó, ưu tiên quan hệ, hợp tác quốc phòng với các nước láng giềng, củng cố tình hữu nghị, xây dựng đường biên giới hòa bình, tạo vành đai an ninh, an toàn, ổn định trên tuyến biên giới phía Bắc và phía Tây, Tây Nam của đất nước. Đồng thời, Việt Nam chủ động thúc đẩy quan hệ, hợp tác quốc phòng với các nước lớn và các nước ASEAN trên cơ sở những văn bản đã ký kết, chú trọng lĩnh vực mà ta đang cần tăng cường năng lực như an ninh biển, an ninh mạng, đào tạo, tìm kiếm cứu nạn, khắc phục hậu quả chiến tranh... Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam là Chủ tịch ASEAN, Ủy viên không Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021, sẽ là điều kiện thuận lợi để công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước nói chung và đối ngoại quốc phòng nói riêng thêm khởi sắc, khẳng định rõ hơn vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Thông qua hợp tác, xây dựng lòng tin, tạo thế cân bằng chiến lược, đan xen lợi ích; xử lý hài hòa mối quan hệ với các nước lớn, không để bị hiểu lầm, nghi kỵ giữa nước ta với các nước và giữa các nước với nhau; qua đó, tiếp tục khẳng định chính sách đối ngoại quốc phòng nhất quán, đúng đắn, rộng mở của Việt Nam. Với các nước bạn bè truyền thống, tiếp tục duy trì quan hệ, củng cố lòng tin, tạo sự ủng hộ về chính trị đối với Việt Nam. Đồng thời, phát huy kết quả trong hội nhập quốc tế về quốc phòng thông qua việc ký với Liên minh châu Âu (EU) về thiết lập khuôn khổ Việt Nam tham gia các hoạt động quản lý khủng hoảng của EU (FPA) và việc Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 1 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại Nam Sudan và triển khai Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 2 thay thế; tiếp tục chuẩn bị triển khai Đội Công binh làm nhiệm vụ gìn giữ hòa bình theo yêu cầu của Liên hợp quốc. - Để tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng trong điều kiện mới, Bộ Quốc phòng đã triển khai hành động như thế nào nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc ngày nay, thưa Bộ trưởng? Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch: Với bề dày truyền thống hơn 75 xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ một đội quân với 34 cán bộ, chiến sỹ cùng trang bị vũ khí thô sơ, nhưng chưa đầy một năm sau Quân đội Nhân dân Việt Nam đã cùng toàn dân tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa làm nên thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành chính quyền về tay nhân dân, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á. Tiếp đó, đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, giành độc lập, tự do thu non sông về một mối. Ngày 19-8-1945, cả Thủ đô ngập tràn cờ đỏ sao vàng. Hàng chục vạn người dân ở Hà Nội và các tỉnh lân cận theo các ngả đường kéo về quảng trường Nhà hát lớn Hà Nội dự cuộc mít tinh lớn chưa từng có của quần chúng cách mạng, hưởng ứng cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Ảnh: Nguyễn Bá Khoản/TTXVN Sau ngày đất nước thống nhất, Quân đội ta cùng toàn dân tiến hành thắng lợi hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong cuộc trường chinh vĩ đại đó, Quân đội Nhân dân Việt Nam không chỉ hoàn thành nhiệm vụ cách mạng đối với dân tộc mà còn hoàn thành nghĩa vụ quốc tế vẻ vang, góp phần xứng đáng vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới. Kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang của Quân đội anh hùng của một dân tộc anh hùng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân triển khai đồng bộ, toàn diện nhiều giải pháp xây dựng Quân đội theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng. Trong đó, trước hết là tập trung xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tạo nền tảng vững chắc nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, đảm bảo cho Quân đội luôn giữ vững phương hướng, mục tiêu chiến đấu; tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới; đẩy mạnh hoạt động công tác dân vận, nhất là phong trào “Quân đội chung tay xây dựng nông thôn mới”, “Quân đội chung tay vì người nghèo-Không để ai bị bỏ lại phía sau”… Toàn quân tích cực triển khai thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam đến năm 2021; bảo đảm vũ khí, trang bị đến năm 2025; tích cực sắp xếp, điều chỉnh tổ chức, biên chế theo hướng “tinh, gọn, mạnh.” Đồng thời, toàn quân đẩy mạnh đổi mới, nâng cao chất lượng công tác huấn luyện, giáo dục, đào tạo, rèn luyện kỷ luật, thể chất, xây dựng chính quy, xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, “mẫu mực, tiêu biểu;” tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 765-NQ/QUTW ngày 20-12-2012 của Quân ủy Trung ương về nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2013-2020 và những năm tiếp theo; chú trọng đổi mới nội dung, hình thức tổ chức, phương pháp huấn luyện, diễn tập theo phương châm “cơ bản, thiết thực, vững chắc,” coi trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu, sát nhiệm vụ, thực tế chiến đấu, đối tượng tác chiến và tổ chức biên chế, trang bị, yêu cầu tác chiến trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao. Đặc biệt, tập trung tạo sự chuyển biến về chất lượng huấn luyện làm chủ vũ khí, trang bị thể hệ mới, hiện đại; huấn luyện, diễn tập tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng, diễn tập đối kháng trong các môi trường và tác chiến khu vực phòng thủ, làm cơ sở để nâng cao trình độ, năng lực tác chiến của Quân đội. Cùng với đó, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần chủ động phát huy thành tựu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đẩy mạnh ứng dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào nghiên cứu phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam, khoa học và công nghệ quân sự, công nghiệp quốc phòng, thúc đẩy nhanh hơn nữa tiến trình hiện đại hóa Quân đội, trước hết là các lực lượng được xác định tiến thẳng lên hiện đại, tạo bước chuyển mới, mang tính đột phá về trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu, sức mạnh chiến đấu của quân đội, xứng đáng là công cụ sắc bén, lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới. - Bộ trưởng có lời nhắn nhủ gì đến cán bộ, chiến sĩ và nhân dân cả nước trong dịp kỷ niệm 45 năm ngày đất nước thống nhất? Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch: Nhân dịp kỷ niệm 45 năm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thay mặt Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, tôi thân ái gửi tới cán bộ, chiến sỹ và nhân dân cả nước những tình cảm thân thiết và lời chúc mừng tốt đẹp nhất. Chúc độc giả và cán bộ, phóng viên, biên tập viên, nhân viên Thông tấn xã Việt Nam luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công! Phát huy tinh thần và hào khí của Đại thắng mùa Xuân năm 1975, tôi tin tưởng rằng, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tiếp tục đoàn kết, chung sức, đồng lòng, nỗ lực phấn đấu, hoàn thành thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu hằng mong muốn. Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng! Theo Hiền Hạnh/TTXVN Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Ngô Xuân Lịch Bình luận Tên của bạn Địa chỉ email Nội dung bình luận Gửi ý kiến 80 năm Ngày Bác Hồ về nước: Đưa cách mạng Việt Nam đến toàn thắng Mùa xuân năm 1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thư chúc Tết của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng Nhân dịp năm mới Tân Sửu 2021, thay mặt Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã gửi thư chúc mừng năm mới tới cán bộ, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng toàn quân. Báo Biên phòng trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam - Những bản hùng ca Ngày 15-2-1961, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (QGPMNVN) được thành lập, đáp ứng yêu cầu cần có lực lượng vũ trang (LLVT) làm nòng cốt cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Sau 15 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, ngày 7-7-1976 QGPMNVN đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử của mình. BĐBP đã trực tiếp đóng góp cho thành công chung của đất nước Trước thềm Xuân mới, sáng ngày 22-1-2021, đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ đã tới thăm, động viên, chúc Tết cán bộ, chiến sĩ (CBCS) cơ quan Bộ Tư lệnh BĐBP. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc dành nhiều thời gian trò chuyện, động viên CBCS của các đơn vị Biên phòng (BP); cấp ủy, chính quyền địa phương, nhân dân các dân tộc nơi biên giới và lực lượng tham gia phòng, chống dịch Covid-19 tại các chốt trên biên giới. Cục Chính trị BĐBP gặp mặt cán bộ hưu trí cao cấp tại khu vực phía Nam Chiều 22-1, tại thành phố Hồ Chí Minh, Cục Chính trị BĐBP tổ chức gặp mặt nguyên lãnh đạo Bộ Tư lệnh BĐBP, nguyên lãnh đạo Cục Chính trị BĐBP và Chỉ huy các các đơn vị trực thuộc tại khu vực phía Nam. Thiếu tướng Nguyễn Anh Tuấn, Chủ nhiệm Chính trị BĐBP chủ trì buổi gặp mặt. Lực lượng BĐBP đã thể hiện bản lĩnh, ý chí, trách nhiệm cùng với các lực lượng và nhân dân phòng, chống dịch Covid-19 hiệu quả Sáng 22-1, đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ đến thăm, làm việc, chúc Tết cán bộ, chiến sĩ BĐBP. Cùng dự có Thượng tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thăm, chúc Tết cán bộ, chiến sĩ BĐBP Hòa chung trong không khí vui tươi, phấn khởi đón chào Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và Tết Nguyên đán Tân Sửu 2021, ngày 22-1, đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ đến thăm, chúc Tết cán bộ, chiến sĩ BĐBP và giao lưu với nhân dân các dân tộc, cán bộ, chiến sĩ BĐBP qua 11 điểm đầu trực tuyến tại các đồn Biên phòng và tổ, chốt trên biên giới. Chọn người xứng đáng, có đức, có tài bầu vào Quốc hội khóa XV Sáng 21-1, Bộ Chính trị tổ chức Hội nghị toàn quốc triển khai công tác bầu cử đại biểu Quốc hội (QH) khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp nhiệm kỳ 2021-2026. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng chủ trì hội nghị. Dư luận quan tâm Công tác Đảng, công tác chính trị góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm... Thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong BĐBP có sự chuyển biến... Tự phê bình và phê bình - “như mỗi ngày phải rửa mặt” Kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa xây dựng và chỉnh đốn Đảng với... Phòng Công tác Quần chúng triển khai nhiệm vụ năm 2021 Triển khai thực hiện Chương trình phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc... Triển khai các quyết định về Biểu tổ chức, biên chế cơ quan Bộ... Lực lượng BĐBP đã thể hiện bản lĩnh, ý chí, trách nhiệm cùng với... Nhiệm vụ, giải pháp về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực,... Đọc báo in Fanpage báo biên phòng Video Your browser does not support the video tag. Bộ Tư lệnh BĐBP tăng cường lực lượng cho tuyến đầu phòng, chống dịch Covid-19 trong dịp Tết Nguyên đán 2021 Hiệu quả từ Chương trình "Đồng hành cùng phụ nữ biên cương" Tiếp thêm sức mạnh cho sự nghiệp bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia Những công trình hợp ý Đảng, lòng dân nơi biên giới THÔNG TIN CẦN BIẾT Xây nhà trọn gói và sửa chữa nhà uy tín tại thành phố Hồ Chí Minh iPhone 12 và iPhone 11 Pro Max: Phiên bản nào cho Tết 2021? Wondera Natural - 20 năm đồng hành cùng vẻ đẹp người Việt DBK Việt Nam - Sự khác biệt trong lĩnh vực dụng cụ thủy lực, thiết bị chân không Căn hộ Emerald Celadon 1 phòng ngủ: Đơn giản nhưng Sang trọng - Càng nhìn càng mê Điều trị Parkinson không dùng thuốc: 4 giải pháp tự nhiên giúp giảm nhẹ bệnh Chính trị Theo gương Bác Quân sự-Quốc phòng Biên phòng toàn dân Xã hội Kinh tế Pháp luật Văn hóa Thể thao Phóng sự Quốc tế © Copyright 2018 Biên phòng, All rights reserved ® Báo Biên phòng giữ bản quyền nội dung trên website này Thông tin Tòa soạn - Báo Biên phòng Quảng cáo Liên hệ Hotline: 0912011882 - (024) 39364407 Email: bpo@bienphong.com.vn ZALO
1610704847953.98.parquet/75234
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 20532, "url": "https://www.bienphong.com.vn/tong-tien-cong-va-noi-day-mua-xuan-1975-thang-loi-cua-long-yeu-nuoc-post428089.html" }
141.7
Cắt điện và cắt nước do vi phạm các quy định hành chính – "Huýt sáo để chơi bóng đá" | Cách mở bet365 tại Trung Quốc_bet365 là gì_ bet365 có những phương thức nạp tiền nào Cách mở bet365 tại Trung Quốc_bet365 là gì_ bet365 có những phương thức nạp tiền nào Cách mở bet365 tại Trung Quốc_bet365 là gì_ bet365 có những phương thức nạp tiền nào Cắt điện và cắt nước do vi phạm các quy định hành chính – “Huýt sáo để chơi bóng đá” Posted by admin 2020-07-06 in Thời sự 0 Đề xuất đình chỉ cung cấp dịch vụ điện, nước để thực hiện quyết định vi phạm hành chính vừa được đệ trình lên Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào sáng ngày 10/2 và việc sửa đổi được quy định tại Điều 86 của dự luật. Một số quy định pháp luật về vi phạm hành chính đã được cải thiện. Độc giả chia sẻ ý kiến ​​của họ: Việc sử dụng các biện pháp mất điện quốc gia để xử lý vi phạm hành chính, tôi nghĩ điều này là bất hợp pháp. Dịch vụ công cộng và nước thuộc về luật dân sự, và các quy định pháp luật công thuộc về quản lý hành chính. Vi phạm hành chính là vi phạm trật tự công cộng và an ninh. Bất kể hành vi bất hợp pháp, họ sẽ bị cơ quan có thẩm quyền xử lý. Tội phạm an toàn giao thông đường bộ được xử lý bởi cảnh sát giao thông, tội phạm biển báo bảo vệ giao thông được xử lý bởi thanh tra giao thông, luật thuế được xử lý bởi cơ quan thuế, và các hoạt động kinh tế có liên quan. Quản lý cảnh sát kinh tế, vi phạm an toàn tòa nhà với một vài thanh tra tòa nhà và vi phạm các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm thông qua thanh tra y tế … Tất cả khả năng của chính quyền để xử lý các vi phạm này là cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm giám sát việc thực thi pháp luật. – Việc xử lý vi phạm hành chính là thông qua việc thiết lập một sổ đăng ký phạt tại chỗ, nghĩa là phạt tiền theo luật định. Nếu các bên cố tình và ngoan cố đưa ra nhiều lý do không thực hiện các biện pháp trừng phạt, cơ quan có thẩm quyền có quyền khởi kiện ra tòa án hành chính. Sau khi tòa án đưa ra phán quyết, bên thua kiện phải tuân theo bản án trong thời hạn pháp lý. Sau thời hạn, nếu vẫn không tuân thủ, cơ quan thi hành án trực thuộc tòa án sẽ thi hành án ngay tại chỗ. Lúc này, cơ quan chính sẽ tiếp tục bị lung lay, và cảnh sát hình sự sẽ tham gia, bởi vì bây giờ anh ta đã phạm tội vi phạm luật pháp quốc gia và không hợp tác với các nhân viên thực thi pháp luật, điều này đã làm cho bản án hành chính trở nên trầm trọng hơn. Hồ sơ hình sự. Nhiều điểm trong luật của chúng tôi bị phá vỡ trong “quá trình nhấn mạnh” này, dẫn đến tình trạng quán tính. Hãy nhớ rằng, tòa án hành chính không chỉ ủy quyền cho chính quyền kiện công dân, mà nếu ai đó thấy rằng ai đó đã lạm dụng quyền lực của họ (vượt quá quyền của họ) hoặc cẩu thả (thực thi quyền lực của họ), mọi người cũng có thể kiện chính quyền. (Nhưng không chịu sự thao túng hoặc thao túng theo quy định của pháp luật). Nếu đối tượng là cơ quan của nhà nước, tòa án hành chính sẽ tuân theo luật xét xử, nghĩa là sự vô tư của bất kỳ đối tượng nào. Xin lưu ý rằng tư pháp là đảng chính trị độc lập thứ ba trong tiểu bang và cùng với cơ quan lập pháp (Quốc hội) và hành pháp (chính phủ), nó không bị kiểm soát bởi các cơ quan lập pháp và hành pháp. Các tổ chức chức năng nêu trên là các tổ chức chức năng của hệ thống hành chính và chịu trách nhiệm xử lý vi phạm các biện pháp trừng phạt của các nhà lập pháp. Nếu cảnh sát và cá nhân xung đột, nếu họ muốn phân biệt giữa đúng người và sai, họ phải được các cơ quan tư pháp đối xử. Trong trường hợp này, nếu chính cơ quan thực thi pháp luật “vừa đá bóng, vừa huýt sáo” – như cắt nước và điện. Mọi người có thể nghĩ rằng chính quyền đã phạm sai lầm, không phải luật pháp, vì vậy họ nghĩ rằng họ không tuân thủ. Vào thời điểm đó, các tổ chức này có quyền nộp đơn kiện cá nhân này tại tòa án hành chính. Nguyên tắc của pháp luật là mỗi pháp nhân phải có địa vị ngang nhau, vì các bên thứ ba không trao cho nhau – quyền tư pháp của hệ thống tư pháp. Cần phân biệt hệ thống tư pháp với hệ thống. Quyền hành pháp là Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ. Hai cơ quan này giải quyết cụ thể các xung đột trong hệ thống thực thi. Khác với các văn bản pháp lý cấp cao, Bộ Tư pháp có chức năng kiểm tra và xử lý (từ chối, thu hồi) các văn bản pháp lý cấp thấp. Bộ Nội vụ chịu trách nhiệm xử lý các vi phạm về nhân sự, trách nhiệm và các vấn đề tổ chức quyền lực của chính quyền và công chức. >> Bài viết liên quan đến tác giả: >> ‘Bằng tốt nghiệp nhưng sơ yếu lý lịch trắng sẽ chỉ khiến tôi trở thành một nhân viên nghèo “ Tôi không bao giờ từ bỏ công việc của mình vì lương cao >> ‘Các kỹ sư ngày nay không cần biết kiến ​​thức sâu sắc’ — Vì vậy, với sự tồn tại của hệ thống tư pháp, chính quyền không phải lúc nào cũng đúng. Chính quyền có nhiều vấn đề tiêu cực, nhưng mọi người không hiểu luật hoặc Họ nghĩ rằng “kiến đuổi khoai tây”, vì vậy họ đã không kiện chính quyền. Từ đó, vô số sự cố bất hợp pháp xảy ra ở cả hai phía: mọi người chủ động phản đối các quan chức nhà nước hoặc các cơ quan chính phủ hành xử dưới hình thức “chơi bóng đá và lên án” . > > Chia sẻ thông tin của bạn tại đây để truy cập trang “Nhận xét”. PrevBốn câu đố ở thủ đô châu Âu NextNhững nhà khoa học đã phát minh ra chất nổ? Add Comment Hủy Your email is safe with us. Name* Email* Lưu tên của tôi, email, và trang web trong trình duyệt này cho lần bình luận kế tiếp của tôi. Bài viết mới Ngôi làng cổ nào ở Hà Nội nổi tiếng vì nuôi rắn? Ngôi làng cổ nào ở Hà Nội nổi tiếng vì nuôi rắn? Ngôi làng cổ nào ở Hà Nội nổi tiếng vì nuôi rắn? Ngôi làng cổ nào ở Hà Nội nổi tiếng vì nuôi rắn? Ngôi làng cổ nào ở Hà Nội nổi tiếng vì nuôi rắn? Phản hồi gần đây Cách mở bet365 tại Trung Quốc_bet365 là gì_ bet365 có những phương thức nạp tiền nào
1610704847953.98.parquet/57798
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 5006, "url": "https://www.dentranthaibinh.com/thoi-su/1161.html" }
141.6
Đái tháo đường – Những điều bất cứ ai cũng cần phải biết Bệnh tiểu đường Back Biến chứng tiểu đường Tiểu đường thai kỳ Tiểu đường tuýp 1 Tiểu đường tuýp 2 Kiến Thức Bệnh Học Back Phương pháp điều trị Chế độ dinh dưỡng Hướng dẫn tập luyện Bảng chỉ số đường huyết Sống Khỏe Sản Phẩm Tin Tức Back Báo chí nói về chúng tôi Lương Y Dương Phú Cường Điểm Bán Liên Hệ Đái tháo đường – Những điều bất cứ ai cũng cần phải biết Được coi là “kẻ giết người thầm lặng”, bệnh đái tháo đường phát triển khá thầm lặng không có các triệu chứng rõ ràng, đã trở thành một đại dịch của thế kỷ 21. Một khi đã mắc bệnh thì sức khoẻ và tinh thần của người bệnh sẽ bị sụt giảm nhanh chóng, kèm theo nhiều biến chứng nguy hiểm. Làm sao để bảo vệ bản thân và gia đình khỏi căn bệnh nguy hiểm này? Cùng Hạ Đường SIKAI tìm hiểu qua bài viết dưới đây. Đái tháo đường là gì? Đái tháo đường (hay còn gọi là bệnh tiểu đường) là một căn bệnh mãn tính với biểu hiện lượng đường trong máu luôn cao hơn mức bình thường, do tuyến tụy không sản sinh đủ insulin cần thiết cho cơ thể hoặc tế bào mất khả năng sử dụng insulin có sẵn trong cơ thể, dẫn đến rối loạn chuyển hóa đường trong máu. Đối với người mắc phải bệnh đái tháo đường, cơ thể họ không thể chuyển hóa các chất đường bột từ thực phẩm ăn hàng ngày một cách hiệu quả để tạo ra năng lượng cho hoạt động. Đây là nguyên nhân gây ra hiện tượng lượng đường tích tụ tăng dần trong máu. Lượng đường trong máu thường xuyên ở mức quá cao sẽ làm tăng nguy cơ các bệnh tim mạch, gây ra các biến chứng nguy hiểm ở các cơ quan khác như mắt, thận, thần kinh và các bệnh lý nghiêm trọng khác. Phân loại bệnh đái tháo đường Dựa trên nguyên nhân, đối tượng và biểu hiện của bệnh, đái tháo đường được chia ra làm 3 nhóm chính gồm: Đái tháo đường type 1 Đái tháo đường type 1 là chứng rối loạn tự miễn, chiếm khoảng 5-10% tổng số bệnh nhân đái tháo đường. thay vì tấn công các yếu tố từ bên ngoài, hệ miễn dịch của người bệnh đái tháo đường type 1 tự tấn công các tế bào tuyến tụy. Do đó, cơ thể có rất ít hoặc không có insulin, từ đó gây ra tăng lượng đường huyết trong máu. Đái tháo đường type 1 phần lớn xảy ra ở trẻ em và người trẻ tuổi (< 20 tuổi). Những triệu chứng điển hình của bệnh đái tháo đường type 1: Khát nước nhiều, ăn nhiều những vẫn đói và sụt cân, mệt mỏi bơ phờ, mờ mắt, chậm phát triển… Cho tới nay vẫn chưa xác định được nguyên nhân chính xác nguyên nhân gây ra bệnh. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, yếu tố di truyền cũng như lối sống sinh hoạt không lành mạnh có thể là “thủ phạm” chính gây đái tháo đường type 1. Đái tháo đường type 2 Đái tháo đường type 2 xuất hiện khi cơ thể không sản xuất đủ insulin, chiếm 90% – 95% tổng số bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh đái tháo đường. Các tế bào của người bệnh trở nên đề kháng với insulin, làm tuyến tụy không thể tạo ra đủ lượng insulin. Thay vì di chuyển vào các tế bào để tạo ra năng lượng, đường sẽ tích tụ lại trong máu của người bệnh. Đái tháo đường type 2 có thể gặp ở bất kì lứa tuổi nào, nam và nữ. Những triệu chứng điển hình của bệnh đái tháo đường type 2: Khát nước nhiều, đi tiểu nhiều, ngứa, đau hoặc tê ở tay/chân, mờ mắt, chậm lành vết thương, mệt mỏi… Không xác định được chính xác nguyên nhân gây ra bệnh, nhưng các chuyên gia tin rằng yếu tố di truyền và môi trường có liên quan đến sự phát triển của bệnh đái tháo đường type 2. Thừa cân hay béo phì được xem là nguyên nhân chính cho sự phát triển bệnh đái tháo đường type 2. Đái tháo đường thai kỳ Đái tháo đường thai kỳ thường xảy ra trong nửa cuối thai kỳ. Mặc dù bệnh sẽ thường tự hết sau khi sinh con, tuy nhiên bệnh vẫn có thể gây nhiều biến chứng nguy hiểm cho cả mẹ và thai nhi nếu không được kiểm soát và điều trị kịp thời. Các biến chứng của đái tháo đường Theo như con số thống kê, tỷ lệ người mắc đái tháo đường đang gia tăng nhanh chóng trên toàn thế giới. Ước tính có khoảng 380 triệu người mắc bệnh đái tháo đường vào năm 2025. Mặc dù có khoảng 4% dân số thế giới mắc phải căn bệnh mãn tính này nhưng nhiều người vẫn không hiểu rõ về căn bệnh này. Hãy luôn thận trọng với bệnh đái tháo đường vì căn bệnh mãn tính này rất dễ gây nguy hiểm tính mạng. Nếu không được chẩn đoán và chữa trị kịp thời, bệnh đái tháo đường sẽ khiến bạn bị các biến chứng như: Biến chứng cấp tính Biến chứng cấp tính xảy ra đột ngột trong thời gian ngắn, có thể hôn mê, thậm chí rất dễ tử vong nếu không được cấp cứu kịp thời. Hạ đường huyết: Hạ đường huyết xảy ra khi lượng đường trong máu giảm đột ngột dưới mức cho phép (khoảng 3.6 mmol/l). Dấu hiệu hạ đường huyết khá dễ nhận biết, ví dụ như đói cồn cào, cơ thể uể oải mệt mỏi, chân tay bủn rủn, vã mồ hôi, choáng váng và tim đập nhanh. Hôn mê: Bệnh nhân bị tăng đường huyết quá cao có thể rơi vào tình trạng hôn mê do nhiễm toan ceton hay hội chứng tăng áp lực thẩm thấu. Khi bệnh nhân rơi vào tình trạng này đòi hỏi phải theo dõi sát và điều trị kịp thời. Biến chứng mãn tính Là những biến chứng sinh ra do lượng đường trong máu tăng cao mãn tính, cơ thể bị rối loạn chuyển hóa chất đường, chất đạm và chất béo, từ đó làm suy giảm chức năng của các cơ quan khác trong cơ thể. Tổn thương tim mạch: Là biến chứng cực kỳ nguy hiểm và rất thường gặp, phổ biến nhất là gây tắc mạch vành tim, cao huyết áp, xơ cứng động mạch, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não gây bại liệt hoặc tử vong. Tổn thương thần kinh: Cũng là biến chứng phổ biến và xuất hiện sớm nhất gồm bệnh thần kinh ngoại biên và thần kinh thực vật. Tổn thương thần kinh ngoại biên thể hiện ở việc bệnh nhân giảm cảm giác, tê bì hoặc kim châm, yếu cơ. Các dấu hiệu này thường hay xảy ra ở bàn chân mà cụ thể là gây loét bàn chân. Nếu không được điều trị kịp thời có thể dẫn tới bệnh nhân phải đoạt chi cao, thậm chí tử vong. Tổn thương thận: Hàm lượng đường trong máu luôn cao nên gây tổn thương hàng triệu vi mạch tại thận dẫn đến suy giảm các chức năng lọc, bài tiết của thận và dẫn đến suy thận. Tổn thương mắt: Do những mạch máu nhỏ tại võng mạc dễ bị nghẽn, vỡ trong lòng mắt dẫn đến các bệnh lý về võng mạc. Mặt khác, đái tháo đường cũng có thể gây đục thủy tinh thể, tăng nhãn áp, nguy hiểm hơn có thể gây mù lòa vĩnh viễn. Bệnh nhiễm trùng: Đường trong máu cao là điều kiện thuận lợi để vi khuẩn phát triển và làm suy yếu hệ miễn dịch của cơ thể, gây nên nhiễm trùng ở nhiều vùng trên cơ thể. Điển hình như nhiễm trùng răng miệng, lợi, nhiễm trùng da gây mụn nhọt, nấm, nhiễm trùng đường tiết niệu, sinh dục… Loét bàn chân: Có hơn 25% bệnh nhân đái tháo đường có các vấn đề về bàn chân. Biến chứng loét bàn chân có thể xảy ra trên cả type 1 và type 2. Điều đáng nói ở đây, biến chứng có nguy cơ đoạn chi tới hơn 80%. Tuy nhiên nếu được điều trị sớm, kết quả sẽ tốt hơn. Như vậy, biến chứng của đái tháo đường thực sự rất nguy hiểm nhưng người bệnh hoàn toàn có thể ngăn chặn nếu kiểm soát tốt hàm lượng đường trong máu. Đặc biệt, những người mắc bệnh đái tháo đường cần phải kiểm soát các bệnh phối hợp và liên quan như lipid máu tốt, huyết áp tốt để phòng tránh biến chứng và nên đi khám định kỳ cũng như tuân thủ chế độ điều trị của bác sĩ. Phương pháp điều trị đái tháo đường Nếu bệnh nhân đái tháo đường không có phương pháp điều trị bệnh đúng cách sẽ dẫn tới các biến chứng nguy hiểm thậm chí mang bệnh thêm vì tác dụng của thuốc gây nên. Điều chỉnh lối sống sinh hoạt hàng ngày Phương pháp này được áp dụng khi mới phát hiện ra đái tháo đường. Lúc này, chỉ số đường huyết không quá cao, chưa gây ra các biến chứng nguy hiểm. Thực hiện chế độ ăn uống lành mạnh: Người bệnh nên cắt giảm lượng đường tinh bột (glucose) như cơm trắng, bún, phở, mì, bánh mì… Tăng cường bổ sung rau xanh, trái cây ít ngọt, ngũ cốc nguyên hạt, hải sản… Đặc biệt, ngưng hút thuốc lá, uống rượu bia, không sử dụng thức ăn đóng hộp và nước ngọt đóng chai. Đối với tiểu đường type 2 kèm béo phì, cần có chế độ ăn ít calo (dưới 1.200 kcal mỗi ngày) để giảm 20-25% so với nhu cầu năng lượng. Tăng cường vận động thể lực: Luyện tập thể dục mỗi ngày không chỉ giúp tăng cường sức khỏe cho người bệnh mà còn mang lại lợi ích to lớn trong điều trị tiểu đường như: giúp giảm cân, giảm đề kháng insulin, cải thiện dung nạp glucose và nồng độ lipid máu. Ngoài ra, luyện tập phù hợp với thể trạng còn giúp tăng cường sức khỏe tim mạch, cơ bắp dẻo dai, ổn định hệ tiêu hóa… Luôn giữ tinh thần thoải mái: Thiền, yoga, thái cực quyền không chỉ mang lại lợi ích tương tự như vận động thể lực, mà còn giúp giảm stress oxy hóa trong tiểu đường – nguyên nhân gây đề kháng insulin và rối loạn tế bào β của đảo tụy. Sử dụng phương pháp Tây y Để điều trị đái tháo đường, các bác sĩ Tây y sẽ căn cứ vào các xét nghiệm máu, theo dõi chỉ số đường huyết và HbA1C, kết hợp với khám để đánh giá các biến chứng của bệnh tiểu đường như biến chứng ở mắt, biến chứng gây tổn thương thận, đo về tình trạng huyết áp, hiện trạng kháng insulin hay hiếu hụt insulin… mà đưa ra thuốc phù hợp. Sử dụng Insulin: Đây là chỉ định bắt buộc đối với đái tháo đường type 1, tiểu đường thai kỳ, đái tháo đường type 2 có mức đường huyết quá cao, nguy cơ gây biến chứng cấp tính hoặc người suy gan, suy thận nặng. Sử dụng thuốc uống hạ đường huyết: Thuốc được chỉ định sau khi đã thực hiện chế độ ăn và vận động thể lực kiểm soát đường huyết nhưng không hiệu quả. Các thuốc được chia theo nhóm công dụng như chậm hấp thu glucose, kích thích bài tiết insulin, tăng tác dụng glucose, giảm tân tạo glucose, giảm đề kháng insulin. Tuy nhiên, sau một thời gian sử dụng thuốc Tây, bệnh nhân có thể gặp các tác dụng phụ không mong muốn như đau cơ, phá hủy tế bào gan, dẫn đến tăng men gan hay hạ đường huyết quá mức khiến người bệnh run tay chân, vã mồ hôi lạnh hoặc thậm chí hôn mê sâu. Sử dụng phương pháp Đông y Ngoài Tây y, nhiều bệnh nhân đái tháo đường đã tìm đến cách trị bệnh tiểu đường bằng Đông y với những thành phần tự nhiên vô cùng an toàn và đã nhận được những kết quả bất ngờ. Theo Lương y Dương Phú Cường (Phó chủ tịch thường trực Hội Đông Y – Quận Gò Vấp) – với hơn 20 năm nghiên cứu và điều trị bệnh tiểu đường cho biết, để giúp hạ và ổn định đường huyết và ngăn ngừa các biến chứng nguy hiểm của đái tháo đường, người bệnh nên kết hợp dùng với sản phẩm chiết xuất từ các thảo dược như: Khổ Qua Rừng, Sa Sâm, Bố Chính Sâm, Sâm Đại Hành, Nam Dương Sâm… để giúp tuyến tụy phục hồi sản sinh insulin, điều khiển lượng đường trong máu hoạt động bình thường trở lại. Từ đó giúp hạ và ổn định được đường huyết, phòng tránh được các biến chứng nguy hiểm, ngăn chặn được nguy cơ mù lòa ở người đái tháo đường. Hiện nay, có rất nhiều người bệnh đái tháo đường type 2 bị kháng thuốc, nhờn thuốc, uống nhiều loại thuốc và uống thường xuyên trong một thời gian dài nhưng đường huyết vẫn cao và không ổn định. Bởi vậy, phương pháp được khuyến khích hiện nay là sử dụng Đông – Tây y kết hợp. Cụ thể, người bệnh vừa sử dụng thuốc theo đơn kê của bác sĩ, tái khám định kỳ cũng như sử dụng sản phẩm được chiết xuất từ thảo dược thiên nhiên để hạ và ổn định đường huyết lâu dài mà không lo sợ các tác dụng phụ của thuốc tây. Search for: BÀI VIẾT MỚI NHẤT Hạ Đường SIKAI đạt top 10 Sản Phẩm Chất Lượng Việt Nam năm 2018 HbA1c là gì? Tại sao cần làm xét nghiệm HbA1c? Biến chứng tiểu đường phá hủy cơ thể bạn như thế nào? 5 cách lựa chọn thức ăn cho người tiểu đường nên và không nên Kiểm soát biến chứng tiểu đường nhờ chỉ số “vàng” HbA1c Thực phẩm bảo vệ sức khỏe Hạ Đường Sikai. Hỗ trợ làm giảm các biến chứng do bệnh tiểu đường, ổn định đường huyết 124 Lương Trúc Đàm, P. Hiệp Tân, Q. Tân Phú, TP.HCM 0913 968 932 haduongsikai@gmail.com BÀI VIẾT MỚI NHẤT Hạ Đường SIKAI đạt top 10 Sản Phẩm Chất Lượng Việt Nam năm 2018 HbA1c là gì? Tại sao cần làm xét nghiệm HbA1c? Biến chứng tiểu đường phá hủy cơ thể bạn như thế nào? CHĂM SÓC KHÁCH HÀNG Hướng dẫn mua hàng Đặt hàng online Tư vấn Hỏi đáp Viên Uống SiKai - Ổn Định Đường Huyết Toàn Diện Copyright © 2020 Hạ Đường Sikai
1610704847953.98.parquet/201594
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 10826, "url": "https://haduongsikai.vn/dai-thao-duong-nhung-dieu-bat-cu-ai-cung-can-phai-biet/" }
141.4
Đề tài Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác thị trường khách Thái Lan tại Công ty Lữ hành Hanoitourist - Luận văn, đồ án, đề tài tốt nghiệp Đăng ký Đăng nhập Liên hệ LuanVan.net.vn - Luận văn, đồ án, tiểu luận, luận án, đề tài, đề án, chuyên đề thực tập, tốt nghiệp Thư viện luận văn, đồ án, tiểu luận, luận án, báo cáo, bài tập lớn, đề tài, đề án, chuyên đề thực tập, tốt nghiệp, thạc sĩ, tiến sĩ, cao học Trang Chủ Tài Liệu Upload Đề tài Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác thị trường khách Thái Lan tại Công ty Lữ hành Hanoitourist - Sự phát triển mạnh mẽ của nghành công nghiệp du lịch thế giới tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam đặc biệt khi chúng ta gia nhập WTO - Sự gia tăng nhanh chóng của số lượng khách Asean nói chung và khách Thái nói riêng đang làm nóng lên xu hướng tập trung khai thác thị trường các nước Đông Nam Á cũng như thị trường Thái Lan tại Các Công ty Lữ hành Việt Nam - Với Công ty Lữ hành Hanoitourist thị trường khách Thái ngày càng trở thành thị trường đem lại nhiều nguồn lợi cho Công ty - Việc tập trung khai thác thị trường Khách Thái đang là trọng điểm của Mảng thị trường Inbound, tuy nhiên trong quá trình triển khai các kế hoạch khai thác thị trường, vẫn còn có quá nhiều nguồn lực chưa được sử dụng một cách hiệu quả nhất. - Nhận thấy thực tế trên, tôi quyết định lựa chọn đề tài “ thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác thị trường khách Thái Lan tại Công ty Lữ hành Hanoitourist” 97 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Ngày: 12/12/2012 | Lượt xem: 2415 | Lượt tải: 10 Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác thị trường khách Thái Lan tại Công ty Lữ hành Hanoitourist, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên Lời mở đầu Lí do chọn đề tài : Sự phát triển mạnh mẽ của nghành công nghiệp du lịch thế giới tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam đặc biệt khi chúng ta gia nhập WTO Sự gia tăng nhanh chóng của số lượng khách Asean nói chung và khách Thái nói riêng đang làm nóng lên xu hướng tập trung khai thác thị trường các nước Đông Nam Á cũng như thị trường Thái Lan tại Các Công ty Lữ hành Việt Nam Với Công ty Lữ hành Hanoitourist thị trường khách Thái ngày càng trở thành thị trường đem lại nhiều nguồn lợi cho Công ty Việc tập trung khai thác thị trường Khách Thái đang là trọng điểm của Mảng thị trường Inbound, tuy nhiên trong quá trình triển khai các kế hoạch khai thác thị trường, vẫn còn có quá nhiều nguồn lực chưa được sử dụng một cách hiệu quả nhất. Nhận thấy thực tế trên, tôi quyết định lựa chọn đề tài “ thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác thị trường khách Thái Lan tại Công ty Lữ hành Hanoitourist” Phạm vi nghiên cứu Thị trường khách Thái Lan Toàn bộ phạm vị hoạt động kinh doanh của công ty liên quan đến thị Trường khách Thái. Phương pháp nghiên cứu Sử dụng bảng hỏi, phiếu điều tra, phỏng vấn trực tiếp Sử dụng nguồn số liệu sơ cấp và thứ cấp. Nội dung nghiên cứu Tâm lí và hành vi tiêu dùng của khách Thái Lan Các chính sách triển khai của Công Ty lữ hành Hanoitoursit cho thị trường khách Thái Chương I: cơ sở lí luận và một số vấn đề liên quan đến đề tài Dẫn nhập nội dung : Như chúng ta đều biết hoạt động khai thác thị trường khách du lịch là một quá trình mà trong đó Công ty lữ hành sử dụng nguồn lực của mình tác động vào thị trường khách dưới sự hỗ trợ của các tổ chức trung gian nhằm đưa khách du lịch đến với sản phẩm của mình một cách phù hợp nhất nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu của họ đồng thời đạt được mục tiêu của doanh nghiệp. Như vậy đẩy mạnh hoạt động khai thác thị trường khách cũng là một quá trình trong đó Công ty Lữ hành sử dụng một cách hợp lí các nguồn lực của mình trong quá trình khai thác thị trường khách nhằm đạt được các mục đích với một chi phí hợp lí nhất. phần cơ sở lí luận tôi cũng đi theo logic từ vấn đề Công ty lữ hành, khách du lịch , các yếu tố nội tại của khách du lịch (Nhu cầu, hanh vi tiêu dùnh của khách du lịch), cho đến sản phẩm du lịch. 1.1 Công ty Lữ hành & Các nhân tố ảnh hưởng đến việc khai thác khách của công ty lữ hành 1.1.1 Công ty lữ hành 1.1.1.1 Khái niệm công ty lữ hành Đã tồn tại khá nhiều định nghĩa khác nhau về Công ty Lữ hành xuất phát từ các góc độ khác nhau trong việc nghiên cứu các Công ty Lữ hành. Mặt khác bản thân hoạt động du lịch nói chung và lữ hành nói riêng có nhiều biến đổi theo thời gian. Ở mỗi một giai đoạn phát triển, hoạt động lữ hành luôn có những hình thức và nội dung mới. Thời kỳ đầu tiên : Công ty Lữ hành được định nghĩa như là một pháp nhân kinh doanh chủ yếu dưới dạng đại lý, đại diện của các nhà sản xuất ( khách sạn, hang ôtô, tàu biển,…) bán sản phẩm tới tận tay người tiêu dung với mục đích thu tiền hoa hồng. Thời kỳ phát triển cao hơn : Công ty Lữ hành được hiểu không phải là một trung gian thuần tuý, mà còn tự tạo ra các sản phẩm của mình bằng cách tập hợp các sản phẩm riêng rẽ như dịch vụ khách sạn, vé máy bay, ôtô, tàu thuỷ và các chuyến tham quan thành một sản phẩm (chương trình du lịch) hoàn chỉnh và bán cho khách du lịch với một mức giá gộp, đặc biệt Công ty Lữ hành là người có quyền quyết định chất lượng sản phẩm của mình. Ở Việt Nam, theo quy chế quản lý Lữ hành của Tổng cục du lịch thì : “ Doanh nghiệp Lữ hành là đơn vị có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập được thành lập nhằm mục đích sinh lợi bằng việc giao dịch, ký kết hợp đồng du lịch và tổ chức thực hiện các chương trình du lịch đã bán cho khách du lịch” 1.1.1.2 Phân loại công ty lữ hành Theo cách phân loại của Tổng cục du lịch Việt Nam thì các Công ty Lữ hành gồm hai loại : Công ty lữ hành quốc tế và Công ty Lữ hành nội địa Công ty lữ hành quốc tế có trách nhiệm xây dựng, bán các chương trình du lịch chọn gói hoặc từng phần theo yêu cầu của khách du lịch để trực tiếp thu hút khách đến Việt nam và đưa công dân Việt Nam, người nước ngoài vào cư trú tại Việt Nam đi du lịch nước ngoài, thực hiện các chương trình du lịch đã bán hoặc đã ký hợp đồng uỷ thác từng phần, trọn gói cho Lữ hành nội địa. Công ty lữ hành nội địa có trách nhiệm xây dựng, bán các chương trình du lịch trọn gói hoặc từng phần theo yêu cầu của khách du lịch để trực tiếp đưa công dân Việt nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam đi du lịch trong lãnh thổ Việt Nam. 1.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc khai thác khách của Công ty Lữ hành 1.1.2.1 Các nhân tố khách quan + Điều kiện thị trường khách du lịch (cầu trong du lịch) Nhu cầu du lịch là loại nhu cầu đặc biệt và tổng hợp của con người. Nhu cầu này được hình thành và phát triển trên nền tảng của nhu cầu sinh lý (đi lại) và nhu cầu tâm lý (giao tiếp) trong hệ thống các nhu cầu của con người. Tuy nhiên, nhu cầu du lịch của con người chưa phải là cầu du lịch. Để cho nhu cầu du lịch của cá nhân trở thành cầu thị trường về sản phẩm du lịch thì nó phải thoả mãn ba điều kiện : - Phải có khả năng thanh toán - Phải có thời gian rỗi - phải sẵn sàng mua sản phẩm du lịch. Khi thoả mãn ba điều kiện này thì nhu cầu du lịch của các nhân biểu hiện ở cấp độ nhất định. Nhu cầu du lịch ở cấp độ ý định của tất cả cá nhân ở một không gian và thời gian nhất định tạo ra thị trường khách du lịch hiện tại ở không gian và thời gian đó. Nếu nhu cầu du lịch của các cá nhân chưa thoả mãn một trong ba điều kiện nói trên thì tập hợp lại tạo ra thị trường khách du lịch tiềm năng. Khi mà trình độ sản xuất xã hội càng phát triển, các mối quan hệ xã hội càng hoàn thiện, mức độ toàn cầu hoá càng cao thì nhu cầu về du lịch càng lớn về số lượng và cơ cấu của nó. Cầu trong du lịch được tạo bởi các yếu tố : tâm lý cá nhân, tâm lý xã hội, các thành phần trong môi trường vĩ mô ở nơi đi du lịch, tính hấp dẫn của sản phẩm du lịch của nơi đến. Tâm lý cá nhân bao gồm : động cơ đi du lịch, nhận thức của cá nhân về du lịch, kinh nghiệm và thái độ của cá nhân đối với nơi đến du lịch. Tâm lý xã hội bao gồm : văn hoá chung, phong tục tập quán, truyền thống, tôn giáo tín ngưỡng, độ tuổi, giới tính, học vấn, nghề nghiệp, lối sống, thị hiếu của nhóm mà cá nhân là thành viên. Các thành phần trong môi trường vĩ mô ở nơi đi du lịch bao gồm : Kinh tế, nhân khẩu, tự nhiên, chính trị - luật pháp, văn hoá xã hội và công nghệ. Các thành phần trong môi trường vi mô ở nơi đi du lịch bao gồm : các nhà cung cấp sản phẩm du lịch cùng với mức độ cạnh tranh của nó, trung gian thị trường và số lượng tiêu dùng du lịch. Tính hấp dẫn của sản phẩm du lịch nơi đến được thể hiện ở ba nhóm : + Nhóm nhân tố cấp 1 : Tự nhiên, văn hoá, kết cấu hạ tầng. + Nhóm nhân tố cấp 2 : Đường lối phát triển du lịch, cung du lịch và chu kỳ sống của sản phẩm du lịch. + Nhóm nhân tố cấp 3 : Marketing, giá cả và tổ chức du lịch. Do phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố tạo cầu cho du lịch nên thị trường có nhiều loại khách du lịch cùng với những đặc điểm tiêu dùng tạo ra các đoạn thị trường mục tiêu khác nhau. Đặc điểm chung của người tiêu dùng du lịch là tính tiện lợi dễ dàng, tính tiện nghi, tính lịch sự chu đáo, tính vệ sinh, tính an toàn cao. Vì vậy, đây là điều kiện mang tính tiền đề cho các doanh nghiệp phát triển các loại hình kinh doanh lữ hành quốc tế, lữ hành nội địa, lữ hành gửi khách, lữ hành nhận khách hoặc kinh doanh lữ hành tổng hợp tuỳ thuộc vào năng lực và trình độ kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. + Điều kiện thị trường sản xuất du lịch (cung trong du lịch) Cung du lịch được hiểu là khả năng cung cấp dịch vụ và hàng hoá nhằm đáp ứng nội dung của cầu du lịch. Nó bao gồm hàng hoá du lịch được đưa ra thị trường. Các nhà sản xuất chính (cung du lịch) là: - Nhà sản xuất dịch vụ lưu trú - Nhà sản xuất dịch vụ ăn uống - Nhà sản xuất dịch vụ tham quan giải trí - Nhà sản xuất dịch vụ khách - Nhà sản xuất hàng hoá phục vụ cho du lịch. Hoạt động kinh doanh lữ hành của doanh nghiệp muốn phát triển được thì phải có sự tham gia đầy đủ của các nhà sản xuất du lịch hay chúng ta thường gọi là nhà cung ứng du lịch. Bởi chính các nhà sản xuất du lịch đảm bảm cung ứng những yếu tố đầu vào để các nhà kinh doanh lữ hành liên kết dịch vụ mang tính đơn lẻ của từng nhà cung ứng và thành dịch vụ mang tính nguyên chiếc và làm tăng giá trị sử dụng của chúng để bán cho khách du lịch với mức giá gộp. Yêu cầu mức giá gộp phải thấp hơn mức giá mà khách du lịch mua từng dịch vụ đơn lẻ gộp lại và tiết kiệm được thời gian, dễ dàng tìm kiếm thông tin, lựa chọn sản phẩm phù hợp với đặc điểm tiêu dùng du lịch của họ. Do vậy nếu thiếu nhà cung cấp dịch vụ đầu vào, số lượng và chất lượng bị hạn chế, mức giá cho các nhà kinh doanh lữ hành cao thì hoạt động khai thác khách của công ty lữ hành sẽ không có cơ sở duy trì và phát triển. Nếu không có mối quan hệ mật thiết giữa các nhà cung cấp thì công ty lữ hành không thể tổ chức được các chuyến đi. Vì các dịch vụ có trong chuyến du lịch không được thực hiện hoặc thực hiện với giá quá cao, khiến khách du lịch không thể hoặc không muốn đặt mua chương trình du lịch của công ty. Nhà cung cấp của doanh nghiệp lữ hành là những tổ chức kinh doanh và phi kinh doanh bảo đảm cung ứng các yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp sản xuât tiêu thụ, thực hiện sản phẩm là chương trình du lịch. Nhà cung cấp có thể tăng giá, cung cấp không thường xuyên, hoặc hạ thấp chất lượng sản phẩm cung cấp cho doanh nghiệp làm ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh chương trình du lịch của doanh nghiệp và do đó ảnh hưởng đến hoạt động khai thác thị trường khách của doanh nghiệp. + Điệu kiện về quan hệ quốc tế hoà bình và hữu nghị Trong nhiều thập kỷ vừa qua du lịch quốc tế đã có sự phát triển mạnh mẽ, xu hướng toàn cầu hoá sản phâm du lịch và thị trường du lịch ngày càng trở nên rõ nét, các mối quan hệ đa phương, song phương giữa các quốc gia trở thành một điều kiện hết sức quan trọng để phát triển du lịch. Khách du lịch ở một quốc gia này muốn đến một quốc gia khác để tiêu dùng sản phẩm du lịch thì trước hết phải có mối quan hệ ngoai giao giữa hai quốc gia đó. Mức độ hoà bình và hữu nghị trong mối quan hệ giữa hai quốc gia được thể chế hoá ở các đường lối chính sách và các ưu đãi ngoại giao mà mỗi quốc gia dành cho nhau. Sự tăng trưởng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam giai đoạn 1990 – 2000 là minh chứng thuyết phục (Từ 250.000 lượt khách năm 1990 lên 2,05 triệu lượt khác năm 2000) đến năm 2004 đạt 2,93 triệu lượt khác, dự kiến năm 2010 đón 5,5 đến 6 triệu lượt khách quốc tế. Mối quan hệ quốc tế hoà bình và hữu nghị giữa các quốc gia trước hết phụ thuộc vào thể chế chính trị của các quốc gia, đặc điểm kinh tế thế giới, giao lưu văn hoá giữa các dân tộc. Từ mối quan hệ này mà tạo điều kiện thuận lợi dễ dàng cho chuyến đi của khách, cửa vào của mỗi quốc gia được mở rộng. Mối quan hệ này Xuất phát từ nhu cầu của con người muốn được sống trong hoà bình, hữu nghị, được tự do đi lại để chiêm ngưỡng, thưởng thức các giá trị thẩm mỹ, để học hỏi và cuối cùng là để nâng cao chất lượng cuộc sống cảu con người. Và do đó khi mà các mối quan hệ hoà bình và hữu nghị được mở rộng sẽ tạo ra du lịch không biên giới làm cho cả cung và cầu du lịch phát triển. Hiện nay, ngành du lịch Việt Nam đã tích cực triển khai, mở rộng các hoạt động hợp tác du lịch. Từ chỗ chưa có vị thế trên trường quốc tế, du lịch Việt Nam đã vươn lên, tham gia chủ động dần trong hội nhập du lịch khu vực và thế giới. + Điều kiện về chính trị và luật pháp của nơi đi và nơi đến du lịch Các doanh nghiệp lữ hành chỉ có thể phát triển được hoạt động kinh doanh chương trình du lịch quôc tế, nội địa khi mà các điều kiện chính trị luật pháp của nơi đi và nơi đến du lịch cho phép. Điều kiện thuận lợi của chính trị và luật pháp cho hoạt động kinh doanh lữ hành của các doanh nghiệp được biểu hiện ở các khía cạnh : - Sự ổn định về chính trị và sự bảo đảm an ninh, an toàn cho người tiêu dùng du lịch và nhà sản xuất du lịch. - đường lối khuyến khích và phát triển du lịch cùng với hệ thống các chính sách, biện pháp đồng bộ để đạt được mục tiêu phát triển du lịch. - Thủ tục hành chính đơn giản, tiện lợi cho việc sản xuất và tiêu dùng du lịch - Quy định về tỷ giá chuyển đổi đơn vị tiền tệ. - Sự đầy đủ, toàn diện và đồng bộ của hệ thống luật pháp từ việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, thực thi pháp luật cho đến việc kiểm tra, thanh tra, giám sát thưc hiện pháp luật của các cơ quan công quyền. - Điều kiện chính trị và luật pháp trên đây tạo ra sự thống nhất trong xã hội để có sự phối kết hợp đồng bộ, thống nhất trong hành động định hướng cho kinh doanh lữ hành quôc tế, kinh doanh lữ hành nội địa của các doanh nghiệp, làm tăng hiệu quả và làm giảm bớt các rủi ro trong kinh doanh do yếu tố chính trị gây ra. 1.1.2.2 Các nhân tố chủ quan + Điều kiện về năng lực và trình độ kinh doanh lữ hành của doanh nghiệp Điều kiện này được thể trên thực lực về đội ngũ nhân lực, cơ sở vật chất kỹ thuật, Nguồn tài chính, trình độ quản lý kinh doanh lữ hành của mỗi doanh nghiệp Thứ nhất : Kinh doanh lữ hành muốn thành công trước hết phải nói đến con người tức là đội ngũ lao động trong doanh nghiệp lữ hành. Khác với loại hình kinh doanh khác, kinh doanh lữ hành đòi hỏi phải có đội ngũ lao động chuyên môn, có sức khỏe tốt, hình thức đảm bảo, có phẩm chất tốt, nhiệt tình, hăng say, năng động, tư duy sáng tạo và đặc biệt là tinh thâng trách nhiệm cao. Người lao động được trang bị vốn kiến thức rông trên hầu hết các lĩnh vực của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Với ngoại ngữ và tin học được xem như là công cụ để hành nghề của đội ngũ lao động trong lữ hành. Thứ hai, do đặc điểm và tính chất của sản phẩm lữ hành mà các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành phải được trang bị hệ thống trang thiết bị thu thập, sử lý và phổ biến thông tin theo công nghệ hiện đại Thứ ba : người ta thường nói Tài chính là huyết mạch của nền kinh tế, thật vậy với hoạt động kinh doanh lữ hành nói chung và hoạt động khai thác thị trường khách nói riêng thì nguồn lực về tài chíng luôn là mối quan tâm của doanh nghiệp khi tiến hành các chính sách kinh doanh. Thứ tư, điều kiện để hoạt động kinh doanh lữ hành được tiến hành thuận lợi thì phải có một cơ chế vận hành tổ chức một cách khoa học, đó chính là phương thức tổ chức quản lý kinh doanh của doanh nghiệp hay nói đúng hơn là trình độ quản lý và tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp, chỉ có phương thức quản lý khoa học, hiện đại mới có thể khiến doanh nghiệp có khả năng sử dụng và phát huy một cách hợp lý nguồn lực của chính mình. Ngoài ra còn có rất nhiều các nhân tố có ảnh hưởng tới hoạt động khai thác thị trường khách du lịch của công ty lữ hành với mức độ và cường độ khác nhau, có khi trực tiếp, đôi khi gián tiếp, có khi đơn lẻ có khi lại tổng hợp, tuy nhiên doanh nghiệp cần nắm rõ xu hướng ảnh hưởng của các nhân tố này để có thể sử dụng chúng như những lợi thế so sánh nhằm sử dụng hợp lý nguồn lực và đạt được hiệu quả kinh doanh. 1.2 Khách du lịch & các khái niệm liên quan 1.2.1 Khái niệm khách du lịch Hoạt động du lịch đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, nhanh chóng được coi là ngành “xuất khẩu vô hình” đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn. Tốc độ tưang thu nhập của ngành du lịch vượt xa nhịp độ tăng trưởng của nhiều ngành kinh tế khác. Để cho ngành du lịch hoạt động và phát triển thì “khách du lịch” là nhân tố quyết định. Chúng ta biết rằng nếu không có hoạt động của khách du lịch thì các nhà kinh doanh du lịch cũng không thể kinh doanh được. Không có khách thì hoạt động du lịch trở nên vô nghĩa. Đứng trên góc độ thị trường thì “cầu du lịch” chính là khách du lịch, còn “cung du lịch” là các nhà cung cấp sản phẩm du lịch. vậy khách du lịch là gì và họ cần nhu cầu gì? Do vậy đã có nhiều khái niệm khác nhau về khách du lịch của các tổ chức và các nhà nghiên cứu để xác định rõ hơn khách du lịch là ai ? + Nhà kinh tế học người Áo – Jozep stemder đã định nghĩa : Khách du lịch là những người đặc biệt, ở lại theo ý thích ngoài nơi cư trú thường xuyên, để thoả mãn những nhu cầu cao cấp mà không theo đuổi mục đích kinh tế + Nhà kinh tế người Anh – Olgilvi khẳng định rằng : “Để trở thành khách du lịch cần có hai điều kiên sau : Thứ nhất phải xa nhà một thời gian dưới một năm; thứ hai là phải dùng những khoản tiền kiếm được ở nơi khác” + Định nghĩa khách du lịch có tính chất quốc tế đã hình thành tại hội nghị Roma du Liên hợp quốc tổ chức vào năm 1963 : “Khách du lịch quốc tế là người lưu lại tạm thời ở nước ngoài và sống ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ trong thời gian 24h hay hơn” + Theo pháp lệnh du lịch của Việt Nam (điều 20) : Khách du lịch gồm khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế. + Khách du lịch nội địa là công dân Việt nam và người nước ngoài cư trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. + Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam đinh cư ở nước ngoài vào Việt Nam đi du lịch và công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch. Ngoài ra còn có các định nghĩa khác về khách du lịch như định nghĩa của hội nghị quốc tế về du lịch ở Hà Lan 1989 : “khách du lịch quốc tế là những người đi hoặc sẽ đi thăm quan một nước khác, với các mục đích khác nhau trong khoảng thời gian nhiều nhất là 3 tháng nếu trên 3 tháng, phải được cấp phép gia hạn. Sau khi kết thúc thời gian tham quan, lưu trú, du khách bắt buốc phải rời khỏi đất nước đó để trở về hoặc đến nước khác; Khách du lịch nội địa là những người đi xa nhà với khoảng cách ít nhất là 50 dặm vì các lí do khác nhau trừ khả năng thay đổi chỗ làm việc trong khoảng thời gian cùng ngày hoặc qua đêm”. 1.2.2 Phân loại khách du lịch Ngoài việc nhận thức rõ về định nghĩa khách du lịch quốc tế việc nghiên cứu cần có sự phân loại chính xác, đầy đủ. Đó là điều thuận lợi cho việc nghiên cứu, thống kê các chỉ tiêu về du lịch cũng như định nghĩa. Sau đây là một số cách phân loại khách du lịch. + Uỷ ban thông lệ Liên hợp quốc đã chấp nhận các phân loại sau, các định nghĩa chính của các phân loại: Khách tham quan du lịch là những cá nhân đi đến một đất nước khác ngoài nơi ở thường xuyên của họ trong một khoảng thời gian không quá 12 tháng với mục đích chủ yếu không phải kiếm tiền trong phạm vi lãnh thổ mà họ đến. Khách du lịch quốc tế là tất cả những khách du lịch đã ở lại đất nước mà họ đến ít nhất là một đêm. Khách tham quan trong ngày là tất cả những khách tham quan mà không ở lại qua đêm tại đất nước mà họ đến. Khách quá cảnh là khách không rời khỏi phạm vi khu vực quá cảnh trong thời gian chờ đợi giữa các chuyến bay tại sân bay hoặc tại các khu vực nhà ga khác. + Theo định nghĩa khách du lịch của pháp lệnh du lịch ban hành ngày 8/2/1999. Khách du lịch có hai loại: - Khách du lịch nội địa (*). - Khách du lịch quốc tế (*). Bên cạnh các phân loại này còn có các cách phân loại khác. + Phân loại khách du lịch theo nguồn gốc dân tộc: Cơ sở của việc phân loại này xuất phát từ yêu cầu của nhà kinh doanh du lịch cần nắm được nguồn gốc khách. Qua đó mới hiểu được mình đang phục vụ ai? họ thuộc dân tộc nào? để nhận biết được tâm lý của họ để phục vụ họ một cách tốt hơn. + Phân loại khách du lịch theo độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp: Cách phân loại này sẽ cho phép nhà cung cấp khám phá ra các yêu cầu cơ bản và những đặc trưng cụ thể về khách du lịch. + Phân loại khách theo khả năng thanh toán: Xác định rõ đối tượng có khả năng thanh toán cao hay thấp để cung cấp dịch vụ một cách tương ứng. Đây chỉ là một số tiêu thức phân loại khác du lịch. Mỗi một tiêu thức đều có những ưu nhược điểm riêng khi tiếp cận theo một hướng cụ thể. Cho nên cần phối hợp nhiều cách phân loại khi nghiên cứu khách du lịch. Khi nghiên cứu khái niệm và phân loại khách du lịch cho phép chúng ta từng bước thu thập một cách đầy đủ, chính xác các thông tin về khách du lịch. Tạo tiền đề cho việc hoạch ra các chính sách chiến lược kế hoạch Marketing của doanh nghiệp. Luận văn liên quan Nghiên cứu phát triển loại hình du lịch Mice tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 183 trang | Lượt xem: 2803 | Lượt tải: 14 Luận văn Đặc điểm tiêu dùng của khách du lịch Trung Quốc và các giải pháp khai thác nguồn khách này của công ty du lịch thanh niên Quảng Ninh 77 trang | Lượt xem: 2371 | Lượt tải: 15 Đề tài Quy trình tổ chức tiệc Buffet trưa tại khách sạn 5 sao Equatorial 78 trang | Lượt xem: 8019 | Lượt tải: 72 Đề tài Phát triển du lịch sinh thái ở Cát Bà theo hướng phát triển du lịch bền vững 56 trang | Lượt xem: 4539 | Lượt tải: 46 Đề tài Nghiệp vụ buồng tại khách sạn Hà Nội HORISON 79 trang | Lượt xem: 1635 | Lượt tải: 9 Nghiên cứu đánh giá tài nguyên du lịch sinh thái thác Trinh Nữ – huyện CưJút tỉnh Đăk Nông và những vấn đề môi trường liên quan 75 trang | Lượt xem: 1659 | Lượt tải: 3 Các Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ tại công ty khách sạn du lịch Kim liên 95 trang | Lượt xem: 1983 | Lượt tải: 7 Giải pháp nâng cao chất lượng tiệc hội nghị hội thảo tại khách sạn Holidays- Hà Nội 68 trang | Lượt xem: 3248 | Lượt tải: 23 Đề tài Tìm hiểu và đánh giá ý nghĩa của Carnaval Hạ Long đối với hoạt động du lịch tại Quảng Ninh 83 trang | Lượt xem: 3219 | Lượt tải: 18 Chuyên đề Những Vấn Đề Về Kinh Tế Du Lịch Sinh Thái Ở Thành Phố Cần Thơ Giai Đoạn 2009 – 2012 29 trang | Lượt xem: 2744 | Lượt tải: 22 Copyright © 2020 LuanVan.net.vn Website đang trong thời gian thử nghiệm, chờ xin giấy phép của Bộ TT & TT. Thư viện tài liệu và ebook cho sinh viên. Thư viện tài liệu Các bài Soạn văn hay nhất. Chia sẻ:
1610704847953.98.parquet/72498
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 20029, "url": "http://luanvan.net.vn/luan-van/de-tai-thuc-trang-va-giai-phap-nham-nang-cao-hieu-qua-khai-thac-thi-truong-khach-thai-lan-tai-cong-ty-lu-hanh-1079/" }
141.3
Hệ miễn dịch của trẻ còn non yếu, mẹ cần làm những gì? | WIKI0.INFO Skip to content WIKI0.INFO Main Menu Trang chủ Nấu Ăn Blog Hệ miễn dịch của trẻ còn non yếu, mẹ cần làm những gì? Leave a Comment / Mẹ và bé / By Luyến Vui Vẻ Thời điểm giao mùa là lúc mà trẻ rất dễ nhiễm bệnh. Để phòng tránh điều này, ba mẹ cần quan tâm nhiều hơn đến việc tăng sức đề kháng cho trẻ. Khác với người lớn, hệ miễn dịch của trẻ nhỏ vẫn chưa phát triển hoàn thiện, chính vì vậy, thời điểm giao mùa là lúc mà trẻ rất dễ nhiễm bệnh. Để phòng tránh điều này, ba mẹ cần quan tâm nhiều hơn đến việc tăng sức đề kháng cho trẻ. Là cha mẹ, ai cũng mong muốn con mình sẽ luôn khỏe mạnh, không bị ốm đau nhưng thực tế, điều này rất khó thực hiện bởi hệ miễn dịch của trẻ vẫn còn rất non nớt. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, việc duy trì một số thói quen tốt sẽ có tác dụng rất lớn trong việc tăng sức đề kháng cho bé và phòng ngừa bệnh tật. Vậy những thói quen đó là gì? Hãy cùng Hello Bacsi theo dõi tiếp những chia sẻ dưới đây để hiểu cặn kẽ vấn đề khi hệ miễn dịch của trẻ còn non yếu, mẹ cần làm những gì nhé. 1. Nuôi con bằng sữa mẹ giúp tăng sức đề kháng cho trẻ Sữa mẹ có chứa các tế bào bạch cầu và các kháng thể giúp tăng cường sức đề kháng của cơ thể trẻ. Chính vì vậy, việc cho bé bú mẹ sẽ giúp ngăn ngừa một số bệnh thông thường như nhiễm trùng tai, dị ứng, tiêu chảy, viêm phổi, viêm màng não, nhiễm trùng đường tiết niệu và hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh. Không những vậy, nhiều nghiên cứu còn chỉ ra rằng sữa mẹ còn có thể tăng cường trí thông minh và bảo vệ bé khỏi nguy cơ bị đái tháo đường týp 1. Sữa non – dòng sữa lỏng màu vàng tiết ra trong những ngày đầu sau sinh – rất giàu kháng thể, có thể giúp phòng tránh một số bệnh thường gặp. Viện Hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ (AAP) khuyến cáo các bà mẹ nên cho con bú trong một năm. Còn nếu điều kiện không cho phép thì cũng nên cố gắng cho con bú trong ít nhất 2 – 3 tháng đầu sau sinh để tăng cường hệ miễn dịch cho bé. 2. Tăng sức mạnh hệ miễn dịch của trẻ bằng việc cho bé ăn nhiều trái cây và rau xanh Cà rốt, đậu xanh, cam, dâu tây… là những thực phẩm có chứa rất nhiều chất dinh dưỡng giúp tăng sức đề kháng cho trẻ như vitamin C và caroten. Các chất dinh dưỡng sẽ kích thích cơ thể sản sinh ra nhiều tế bào bạch cầu và interferon, loại kháng thể có thể bao phủ bề mặt của tế bào, giúp ngăn ngừa vi khuẩn xâm nhập. Tài Trợ Không những vậy, nhiều nghiên cứu còn chỉ ra rằng, trẻ nhỏ ăn nhiều rau xanh và trái cây còn giảm nguy cơ bị ung thư khi lớn lên. Chính vì vậy, mỗi ngày, bạn nên cố gắng cho bé ăn khoảng 5 phần hoa quả và rau xanh. (Mỗi suất khoảng 2 thìa canh cho trẻ đang tập đi và 1 chén cho trẻ lớn hơn). 3. Quan tâm đến giấc ngủ của trẻ là cách giúp tăng cường sức đề kháng cho bé Các nghiên cứu được thực hiện ở người trưởng thành đã cho thấy việc thiếu ngủ có thể khiến con người dễ bị bệnh hơn do các tế bào xung kích tự nhiên (vũ khí của hệ miễn dịch có tác dụng tấn công vi khuẩn và tế bào ung thư) bị giảm dần đi. Điều này cũng đúng đối với trẻ nhỏ. Trẻ nhỏ thường rất dễ bị thiếu ngủ do nhiều nguyên nhân như mải chơi hoặc cha mẹ chiều, không quan tâm đến giờ giấc ngủ, nghỉ của bé. Vậy trẻ nhỏ cần ngủ bao nhiêu giờ/ngày? Khoảng thời gian này phụ thuộc vào độ tuổi của trẻ: trẻ sơ sinh cần ngủ khoảng 18 giờ mỗi ngày, trẻ tập đi cần ngủ khoảng 12 – 13 giờ và trẻ mẫu giáo cần ngủ khoảng 10 giờ. Nếu trẻ không có thói quen ngủ trưa, buổi tối hãy cố gắng cho trẻ đi ngủ sớm hơn. 4. Tập thể dục thường xuyên giúp củng cố sức mạnh hệ miễn dịch của trẻ Zalo Hệ miễn dịch của trẻ còn non yếu, mẹ cần làm những gì? Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc tập thể dục có thể làm tăng số lượng tế bào miễn dịch của cơ thể. Chính vì vậy, bạn nên khuyến khích trẻ ra ngoài chơi nhiều hơn thay vì cứ để trẻ ngồi mãi trong nhà “kết thân” với chiếc tivi hay máy tính bảng. Để rèn cho trẻ thói quen tập thể dục, việc quan trọng nhất là bạn phải làm gương cho trẻ. Hãy cùng trẻ tập thể dục mỗi ngày thay vì cứ ngồi đó và thúc giục trẻ. Đối với những trẻ nhỏ, bạn có thể mua các loại đồ chơi giúp tăng cường khả năng vận động. Còn với bé lớn, bạn có thể rủ trẻ ra ngoài chơi một số môn thể thao như đá bóng, đá cầu, đi xe đạp hoặc đánh cầu lông. 5. Tránh xa khói thuốc lá sẽ giúp bảo vệ sức đề kháng của trẻ Theo kết quả của nhiều nghiên cứu gần đây, khói thuốc có chứa đến hơn 4.000 độc tố mà hầu hết trong số đó có thể gây kích ứng hoặc tiêu diệt các tế bào trong cơ thể. Do hệ miễn dịch còn non nớt nên khi tiếp xúc với khói thuốc, trẻ nhỏ sẽ bị ảnh hưởng nhiều hơn so với người lớn. Những trẻ thường xuyên tiếp xúc với khói thuốc sẽ có nguy cơ bị đột tử (SIDS), viêm phế quản, nhiễm trùng tai và hen suyễn. Ngoài ra, khói thuốc còn có thể ảnh hưởng đến trí thông minh và sự phát triển thần kinh. Chính vì vậy, để giúp con có một sức khỏe tốt, nếu đang hút thuốc, bạn nên bỏ thuốc ngay hôm nay và để trẻ tránh xa những nơi có nhiều khói thuốc. 6. Bảo vệ sức đề kháng của trẻ bằng cách không lạm dụng kháng sinh Mỗi khi trẻ bị sổ mũi hay cảm lạnh, bạn đừng vội cho trẻ uống kháng sinh bởi loại thuốc này chỉ chỉ có tác dụng đối với các bệnh do vi khuẩn gây ra, trong khi trẻ nhỏ chủ yếu mắc các bệnh do virus. Không những vậy, việc lạm dụng thuốc kháng sinh còn làm cho sức đề kháng của trẻ bị suy yếu, khiến trẻ bị phụ thuộc vào thuốc. Khi trẻ mới chớm bệnh, bạn nên để cơ thể bé tự kiểm soát trong tình trạng hợp lý. Còn nếu bệnh tình của bé trở nặng, bạn nên đưa bé đến bác sĩ để được thăm khám nhé. Tài Trợ 7. Bảo vệ trẻ khỏi các vi trùng gây bệnh Mỗi ngày, trẻ sẽ phải tiếp xúc với hàng nghìn vi khuẩn, đặc biệt là làn da, cơ quan sở hữu diện tích lớn nhất cũng như là “tấm áo giáp” đầu tiên của cơ thể. Da có chức năng đề kháng tự nhiên gọi là đề kháng da, hoạt động liên tục để bảo vệ cơ thể với 3 lớp hàng rào: vật lý, hóa học và sinh học. Vì vậy, quan tâm chăm sóc làn da chính là việc bạn hãy chăm sóc để tăng đề kháng da của trẻ nhằm chống lại những tác nhân gây hại, đặc biệt là vi khuẩn gây bệnh. Nhắc nhở trẻ rửa tay bằng xà phòng trước và sau mỗi bữa ăn, sau khi đi vệ sinh, sau khi chơi bên ngoài, sau khi hỉ mũi, ho hay hắt hơi. Khi ra ngoài, bạn nên mang theo khăn ướt để làm sạch các vết bẩn cho trẻ. Quan trọng hơn cả, bạn nên chú ý việc vệ sinh cơ thể toàn thân cho trẻ bằng sản phẩm chăm sóc da phù hợp giúp làm sạch bụi bẩn, hạn chế sự phát triển quá mức của các vi khuẩn gây bệnh trên da, đồng thời tăng cường chức năng đề kháng da để bảo vệ trẻ khỏi vi khuẩn gây bệnh một cách hiệu quả nhất. Thông tin thêm cho bạn Ngoài việc duy trì một lối sống lạc quan, để tăng cường sức đề kháng da, chúng ta nên chú ý nhiều đến việc vệ sinh cơ thể đúng cách bằng một sản phẩm chăm sóc da phù hợp để làm sạch bụi bẩn, hạn chế sự phát triển quá mức của các vi khuẩn gây bệnh trên da mà không làm tổn thương đến khả năng đề kháng của da. Zalo Hệ miễn dịch của trẻ còn non yếu, mẹ cần làm những gì? Sữa tắm Lifebuoy với công thức ion bạc + (gồm ion bạc, Thymol và Terpineol) có khả năng hỗ trợ chức năng đề kháng da, giúp bảo vệ cơ thể khỏi vi khuẩn và đã được chứng minh không phá vỡ cấu trúc đề kháng da khi sử dụng lâu dài. Vệ sinh cơ thể sạch sẽ mỗi ngày cùng Lifebuoy chính là cách bảo vệ tối ưu cho khả năng đề kháng của da, từ đó bảo vệ sức khỏe bản thân và của cả gia đình. 0/5 (0 Reviews) Điều hướng bài viết ← Previous Bài viết Next Bài viết → Leave a Comment Cancel Reply Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu * Type here.. Name* Email* Website Copyright © 2021 WIKI0.INFO | Powered by Astra
1610704847953.98.parquet/124852
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 6673, "url": "https://wiki0.info/he-mien-dich-cua-tre-con-non-yeu-me-can-lam-nhung-gi/" }
141.3
Phòng kinh doanh làm công việc gì? Đăng ký Quên mật khẩu? ') // .end() // .find(".portlet-content"); // $(".portlet-header .ui-icon").click(function() { // $(this).toggleClass("ui-icon-minusthick"); // $(this).parents(".portlet:first").find(".portlet-content").toggle(); // }); // $(".column").disableSelection(); // $(".column2").disableSelection(); // $(".column3").disableSelection(); // }); // function save() { // var a = $('.column').sortable("toArray"); // alert(a); // } Trang Chủ Đăng ký Liên hệ Diễn đàn Các Môn Học Đại Cương Hướng Nghiệp Chatbox Các bạn vui lòng dùng từ ngữ lịch sự và có văn hóa,sử dụng Tiếng Việt có dấu chuẩn. Chúc các bạn vui vẻ! 17/11/2020 10:11 # 1 hienvuhr Cấp độ: 3 - Kỹ năng: 1 Kinh nghiệm: 24/30 (80%) Kĩ năng: 0/10 (0%) Ngày gia nhập: 10/09/2020 Bài gởi: 54 Được cảm ơn: 0 Phòng kinh doanh làm công việc gì? Phòng kinh doanh là một trong những bộ phận quan trọng, không thể thiếu của bất kỳ công ty nào. Đây là bộ phận chịu trách nhiệm tham mưu cho Ban Giám đốc các vấn đề liên quan đến việc bán các sản phẩm, dịch vụ của công ty ra thị trường; tư vấn về việc nghiên cứu và phát triển sản phẩm; mở rộng thị trường; xây dựng mối quan hệ với khách hàng. Vậy bạn có biết chức năng, nhiệm vụ và vai trò phòng kinh doanh là gì hay chưa? Hãy cùng HRchannels khám phá tất cả những điều đó qua bài viết sau đây nhé! Vai trò của phòng kinh doanh Trong các công ty, phòng kinh doanh giữ vai trò thúc đẩy, quảng bá và phân phối các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp đến tay người tiêu dùng bằng cách áp dụng rất nhiều phương thức khác nhau. Đồng thời giữ vai trò tham mưu cho Ban Giám đốc và phối hợp với các bộ phận, phòng ban khác trong công ty như phòng hành chính, phòng kế toán, phòng tài chính… để xây dựng các chiến lược kinh doanh nhằm gia tăng doanh số, lợi nhuận, giúp công ty tăng trưởng và phát triển ngày càng thêm vững mạnh. Chức năng của phòng kinh doanh Phòng kinh doanh của các công ty có các chức năng sau đây: 1. Chức năng tham mưu Phòng kinh doanh có chức năng tham mưu, đưa ra ý kiến, đề xuất cho Ban Giám đốc của công ty về các vấn đề liên quan đến hoạt động phân phối sản phẩm, dịch vụ của công ty ra thị trường sao cho hiệu quả và nhanh chóng nhất. 2. Chức năng hướng dẫn, chỉ đạo Phòng kinh doanh có chức năng hướng dẫn, chỉ đạo các hoạt động nghiên cứu và phát triển các loại sản phẩm, dịch vụ mới hoặc là nghiên cứu cải tiến các sản phẩm, dịch vụ đã có để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Các hoạt động này sẽ góp phần mở rộng và phát triển thị trường mục tiêu cho doanh nghiệp. 3. Chức năng xây dựng và phát triển nguồn khách hàng Để công ty phát triển thì phòng kinh doanh cần có phương án phát triển nguồn khách hàng tiềm năng mới cho doanh nghiệp. Đồng thời duy trì và phát triển mối quan hệ với khách hàng hiện có. 4. Chức năng theo dõi, kiểm soát và báo cáo Định kỳ phòng kinh doanh cần lập báo cáo theo đúng quy định của doanh nghiệp. Báo cáo cần thể hiện tất cả các hoạt động kinh doanh của công ty cũng như thể hiện các nhiệm vụ và quyền hạn được giao của phòng kinh doanh. 5. Chức năng thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm Phòng kinh doanh hỗ trợ cho Ban Giám đốc công ty toàn bộ các vấn đề liên quan đến việc thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của công ty như là thanh toán quốc tế, huy động vốn, cho vay, bảo lãnh, tư vấn tài chính, liên doanh, liên kết… Nhiệm vụ của phòng kinh doanh Nhiệm vụ của phòng kinh doanh được thể hiện qua 3 khía cạnh cụ thể sau đây: 1. Nhiệm vụ tổng quát Nghiên cứu và triển khai thực hiện việc tiếp cận thị trường mục tiêu và khách hàng. Xây dựng các chiến lược về việc giới thiệu sản phẩm và mở rộng thị trường nhằm thu hút sự quan tâm của khách hàng. Lập kế hoạch và thực hiện các hoạt động kinh doanh cũng như tính toán và lập báo cáo về giá thành sản phẩm, dịch vụ, để có căn cứ ký hợp đồng với khách hàng. Cung cấp thông tin, tài liệu và đảm nhận việc biên phiên dịch các tài liệu cho Ban Giám đốc. Theo dõi, giám sát tiến độ thực hiện các kế hoạch, chiến lược kinh doanh của các bộ phận khác. Đảm bảo việc thực hiện kế hoạch diễn ra đúng quy trình và tiến độ sản xuất sản phẩm đáp ứng đúng yêu cầu trong hợp đồng với khách hàng. Xây dựng kế hoạch thực hiện và phân bổ một cách hợp lý thời gian sản xuất kinh doanh cho các phân xưởng sản xuất và cho toàn bộ doanh nghiệp. Thực hiện các lệnh sản xuất, để đảm bảo lượng sản phẩm cần thiết và có biện pháp gia tăng nguồn hàng để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Đề xuất các chiến lược marketing cũng như các giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh theo từng giai đoạn cụ thể. Lập kế hoạch triển khai hoạt động phát triển thị trường và việc nghiên cứu, phát triển sản phẩm. Xây dựng và phát triển các mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng cũ và mở rộng mối quan hệ với khách hàng mới. Chịu trách nhiệm trước Ban Giám đốc về tất cả các hoạt động phát triển kinh doanh của doanh nghiệp theo đúng quyền hạn và nhiệm vụ đã được giao. 2. Nhiệm vụ trong hoạt động quan hệ khách hàng Nghiên cứu, xây dựng chính sách bán hàng (bao gồm chính sách giá, khuyến mãi, chiết khấu và quảng bá, tiếp thị). Xây dựng các chính sách riêng theo từng nhóm khách hàng, trình Ban Giám đốc phê duyệt và thực hiện theo đúng chính sách đã được duyệt. Xác định mục tiêu, xây dựng kế hoạch bán hàng cụ thể theo từng giai đoạn, trình Ban Giám đốc phê duyệt và thực hiện việc bán các sản phẩm, dịch vụ theo đúng kế hoạch để đạt được mục tiêu đã đặt ra. Tìm kiếm, kết nối và phát triển mạng lưới khách hàng mục tiêu cho công ty. Duy trì và chăm sóc các khách hàng hiện tại của công ty theo đúng chính sách đã đặt ra. Tìm kiếm đối tác thích hợp để kêu gọi đầu tư, góp vốn hoặc là tiến hành liên doanh, liên kết để thực hiện theo kế hoạch và chiến lược phát triển kinh doanh của công ty. Tiến hành thu thập và quản lý một cách khoa học, hiệu quả các thông tin và hồ sơ của khách hàng, đảm bảo tuân theo đúng quy định của công ty. 3. Nhiệm vụ của phòng kinh doanh về việc tư vấn tài chính và phát triển sản phẩm Đối với việc tư vấn tài chính: Tiến hành các hoạt động tư vấn tài chính, bao gồm dòng tiền, cấu trúc tài chính, kiểm soát chi phí, công nghệ thông tin, quản trị cũng như các vấn đề tài chính khác. Đối với việc phát triển sản phẩm: Định kỳ cần thu thập, nghiên cứu và phân tích thông tin ngành, nhu cầu thị trường để tư vấn cho Ban Giám đốc định hướng phát triển, xác định vị thế trên thị trường, định vị sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường. Định kỳ thực hiện việc đánh giá hiệu quả kinh doanh của các sản phẩm, dịch vụ hiện có. Từ đó tìm ra biện pháp cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ. Tiến hành nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới. Xây dựng các quy trình, quy chế liên quan đến việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ của công ty. Tham gia vào nhóm nghiên cứu và phát triển sản phẩm của công ty. Có trách nhiệm lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và đánh giá kết quả đạt được. Hy vọng với những gì HRchannels chia sẻ trong bài viết này, bạn đọc sẽ hiểu rõ hơn chức năng, nhiệm vụ và vai trò của phòng kinh doanh. Mong rằng những thông tin này có ích với các bạn. Nguồn ảnh: interne Các thành viên đã Thank hienvuhr vì Bài viết có ích: Trả lời nhanh Các bạn vui lòng dùng từ ngữ lịch sự và có văn hóa,sử dụng Tiếng Việt có dấu chuẩn. Biểu tượng vui Tùy chọn Hiển thị chữ ký Trích thông tin khi trả lời? Copyright© Đại học Duy Tân 2010 - 2021
1610704847953.98.parquet/65973
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 6123, "url": "https://forum.dtu.edu.vn/sites/index.aspx?p=forum_thread&forum=1173&thread=837665" }
141.2
Những thiên tài của thế kỷ 21 (phần 2) - VnExpress Thứ năm, 28/1/2021 Mới nhất International Mới nhất Thời sự Góc nhìn Thế giới Video Kinh doanh Giải trí Thể thao Pháp luật Giáo dục Sức khỏe Đời sống Du lịch Khoa học Số hóa Xe Ý kiến Tâm sự Hài Tất cả Trở lại Khoa học Khoa học Thứ năm, 1/3/2007, 07:00 (GMT+7) Những thiên tài của thế kỷ 21 (phần 2) "Tôi xin được phép hướng sự quan tâm của quý ngài vào một bài báo mà tôi vừa công bố". Với một câu ngớ ngẩn như thế, gửi qua mail đến một người bạn đồng nghiệp, mà cách mạng hóa thế giới toán học thì chỉ có Perelman mới có thể làm được. 4. Grigori Perelman - thiên tài toán học Perelman sinh năm 1966 tại St. Petersburg. Ông học tập ở Nga và những trường đại học danh tiếng của Mỹ. Ông đã từ chối những đề nghị mời giảng dạy. Hiện nay ông sống ở Nga, có thể là sống cùng với mẹ, thích đi xem hát kịch và không có việc làm. Trong thời gian học tập,ông đã dành thời gian cho toán học hình cầu của Henri Poincaré. Qua đó ông đã chạm phải siêu vấn đề về sự phỏng đoán Poincaré, bài giải của nó đã quyết định cuộc đời của ông. Trong bài báo mà ông đưa lên mạng vào năm 2002, Perelman đã chứng minh được phỏng đoán Poincaré và đã giải được vấn đề khó nhất của tất cả mọi thời đại - một bước ngoặt thế kỷ của toán học. Có lẽ đó là thành tích lớn nhất mà một bộ não riêng lẻ đã làm được. Một con người có thể tạo ra được hình thể của vũ trụ không? Bộ não của Perelman có năng suất hơn cả cơ thể của một vận động viên Olympic, thế nhưng ông lại giấu mình với thế giới. Henri Poincaré sống cách đây 100 năm và là cha đẻ của môn cấu trúc liên kết (hay còn gọi là Tô-pô học: Topology), một lĩnh vực chuyên môn của toán học, còn được gọi là hình học về miếng cao su. Poincaré nhận ra rằng, về nguyên tắc tất cả các hình thể của thế giới đều có thể dẫn trở về hình cầu. Nếu người ta lấy một quả cầu bằng cao su, người ta có thể nặn nó cho đến khi nó nhìn giống như một cái tai thỏ hoặc như một ống nghe điện thoại. Nhưng nếu người ta không được phép làm tổn thương đến bề mặt của quả cầu, thì không thể nặn nó trở thành một cái ly cà phê, vì ly cà phê có một cái lỗ ở quai. Poincaré phỏng đoán rằng, ý nghĩa cơ bản này của quả cầu không chỉ có giá trị trong không gian 3 chiều của chúng ta, mà còn cả trong những không gian nhiều chiều. Sự chứng minh cho phỏng đoán này phức tạp đến nỗi, 100 năm qua các nhà toán học đã hoài nghi - cho đến khi Grigori Perelman trình bày công trình của ông trên Internet. Công trình này tất nhiên không dễ hiểu: các đồng nghiệp của Perelman đã bỏ ra 4 năm miệt mài cho đến khi họ hiểu được công việc của ông. Kể cả ngày nay cũng chỉ có một số rất ít các nhà toán học hiểu được cách Perelman xây dựng luận chứng của ông như thế nào. Một thành tích vĩ đại như thế, vậy mà Perelman đã tạo ra bước đột phá chỉ có một mình. Ông đã làm việc trong một viện nghiên cứu nhỏ, không hề tiếp xúc với các nhà toán học khác. Ngay cả trong cái thế giới không bình thường của toán học thì Perelman vẫn luôn là một kẻ lập dị, người có hàng ngàn điều đồn thổi. Sau khi có tin rằng ông được đề cử nhận giải Nobel toán học, ông đã biến mất. Ông đã xin thôi việc, không trả lời phỏng vấn, không trả lời email. Các nhà chuyên môn ước tính, còn cần cả trăm năm nữa để có thể hiểu được toàn bộ công trình của Perelman. Điều đó hoàn toàn có ý nghĩa. Phỏng đoán Poincaré tạo ra những trình bày quan trọng về hình thể của cả vũ trụ. Nhờ có Perelman, những nhà nghiên cứu một ngày nào đó sẽ hiểu được vũ trụ nhiều hơn. 5. Marvin Minsky - cha đẻ của trí thông minh nhân tạo Marvin Minsky sinh năm 1927 ở New York, tốt nghiệp môn toán tại Đại học Havard, ông lấy học vị tiến sĩ ở đại học Princeton. Thế nhưng ông đã dành gần trọn cuộc đời nghiên cứu tại Học viện kỹ thuật Massachusets. Minsky đã nhận hàng loạt giải thưởng hàn lâm viện, và trước sau ông vẫn được xem là nhà tư tưởng tiên phong của công việc nghiên cứu trí thông minh nhân tạo. "Ông ấy là người thông minh nhất mà tôi đã từng gặp". Nhà nghiên cứu về ý thức Roger Schank nói về Marvin. Và trí thông minh của Minsky chỉ biết duy nhất có một mục đích: hiểu được trí thông minh – và đưa nó vào một chiếc máy. Khi Marvin Minsky bắt đầu mơ về những cái máy biết suy nghĩ, thì con người vẫn còn đang tính toán bằng chiếc bàn tính. Năm 1956, cách đây 50 năm, ông là nhà tiên phong mang tính quyết định của phạm vi nghiên cứu "trí thông minh nhân tạo". Kể từ đó Minsky đã đưa "chuyên ngành của ông" tiến tới. Ông đã thành lập phòng nghiên cứu về trí thông minh nhân tạo ở Học viện kỹ thuật Massachusets - một cơ sở nghiên cứu, được ví như là toà thánh Vatican trong địa phận về trí thông minh nhân tạo.Và Minsky ở đây rõ ràng là Đức Giáo Hoàng. Trí thông minh nhân tạo có hình thành trong hệ thống mạng lưới hay không? Khi những chiếc máy khá đơn giản có khả năng giải quyết các vấn đề, tạo thành một mạng lưới, sẽ phải hình thành một ý thức. Ông đã tạo ra những mạng thần kinh, những cánh tay cơ học và những bộ phận cơ thể khác cho robot, ngoài ra còn những cái máy làm thay đổi điệu nhạc. Sách của ông chất được đầy cả kệ, giải thưởng kín khắp tường. Nhưng thành tích lớn nhất của Minsky là cuốn "The Society of Mind" (Xã hội của trí tuệ). Trong đó ông đã trình bày một lý thuyết, làm sao để có thể tạo ra được trí thông minh nhân tạo. Ông hỏi: " Sự khéo léo kỳ diệu nào đã tạo ra trí thông minh của chúng ta?" Câu trả lời của ông: " Sự khéo léo đó là, chẳng có sự khéo léo nào hết. Người ta có thể chế tạo được một trí thông minh từ nhiều phần, mà tất cả những phần đơn lẻ đó hoàn toàn không có trí tuệ". Theo đó thì trí thông minh xuất hiện hoàn toàn tự nhiên, khi mà nhiều đơn vị được kết mạng với nhau, trong đó từng nhiệm vụ nhỏ và đơn giản được hoàn thành. Tất cả chúng ta đều mang cái bằng chứng tốt nhất cho lý thuyết này ở trong đầu: Bộ não của chúng ta. Trí tuệ hình thành trong não qua những mạng lưới vô cùng phức tạp từ những đơn vị đơn giản - những tế bào thần kinh. Lý thuyết mạng lưới của Minsky về trí thông minh đã lan tràn rất nhanh trong khoa học và kỹ thuật. Ngày nay mạng lưới máy vi tính có trong từng phòng làm việc, các nhà sinh học đã phát hiện trong nhiều loài sinh vật trí thông minh bầy đoàn: một nhóm lớn những sinh vật đơn lẻ không thông minh như ong đã hoàn thành sự suy luận kỳ diệu thực sự, khi những bộ não của chúng được liên kết trong bầy với nhau. Để làm được điều đó chỉ cần những nguyên tắc phản ứng đơn giản và một hình thức trao đổi thông tin nào đó. Các nhà nghiên cứu ngày nay thậm chí sử dụng những mạng lưới vi tính để tìm kiếm trí thông minh ngoài trái đất. Dự án SETI@home kết nối khoảng 5 triệu máy vi tính của cá nhân trên khắp thế giới. Năng suất làm việc không được sử dụng đến của những máy tính đó giúp khoa học tìm kiếm một thông điệp từ những tín hiệu vô tuyến đến từ vũ trụ. Cho đến ngày hôm nay, chúng ta vẫn chưa tạo ra được trí thông minh nhân tạo thực sự, nhưng điều đó có thể là ở chỗ, những mạng lưới của chúng ta vẫn chưa đủ phức tạp. Chuyện đó phải thay đổi: Nhà thần kinh học người Thụy Sĩ Henry Markram đang phỏng theo bộ não con người trên máy siêu vi tính. Ngay cả máy tính mạnh nhất cũng vẫn chỉ tạo được một đơn vị cấp thấp và nhỏ của bộ não. Markram hy vọng vào máy tính tương lai. Nó cần phải đủ mạnh để kết nối được hàng ngàn đơn vị cấp thấp đó với nhau. "Như thế có thể xuất hiện cái gì đó tương tự như ý thức nhân tạo", nhà nghiên cứu nghĩ thế. Mặc dù tuổi ngày càng cao, nhưng Marvin Minsky hãy còn lâu mới chịu nghỉ ngơi. Mới đây ông lại làm cuộc cách mạng hóa lĩnh vực chuyên môn của ông thêm lần nữa. Quyển sách "The Emotion Machine" (Máy cảm xúc) của ông xuất hiện trong tháng 11 qua sẽ chỉ ra cho việc nghiên cứu trí thông minh nhân tạo một con đường mới. Ông tin tưởng: "Cảm xúc chỉ là một thể loại khác của trí thông minh". Khi máy vi tính học cách suy nghĩ, thì trước tiên chúng phải biết được xúc cảm là gì. Những nhà nghiên cứu trong phòng thí nghiệm đang chuẩn bị, bằng những xảo thuật phần mềm, tạo cho máy vi tính cảm giác sợ hãi hoặc vui mừng. 6. Richard Dawkins - nhà cách mạng của sự tiến hóa Richard Dawkins sinh năm 1941 ở Kenia và đến nước Anh khi còn là một đứa trẻ. Lĩnh vực chuyên môn của Dawkins là nghiên cứu thái độ cư xử của người và động vật, còn được gọi là động vật tính học hoặc nhân tính học. Ông học tại Đại học Oxford, nơi ngày nay ông là giáo sư. Dawkins là một trong những tác giả viết sách về sinh học thành công và nhiều ảnh hưởng nhất. Thậm chí Đại học Oxford đã lập ra giải thưởng Dawkins dành cho những nhà nhân tính học đặc biệt giỏi. Ông không những đã suy nghĩ tiếp tục lý thuyết của Darwin mà còn cách mạng hóa nó nữa. Có phải gene của chúng ta là bất tử? Dù là người, chuột hay cây thông - tất cả những vật thể sống tồn tại chỉ là cái vỏ bảo vệ cho những đơn vị thông tin của gene. Kết luận của Dawkins: Không phải các loài là trung tâm của sự chọn lọc, mà là gene. Ông nhận thấy, gene điều khiển hành động của chúng ta để đảm bảo cho sự phát triển của chúng. "Cơ thể chỉ là những cái máy sinh tồn và là vỏ bọc cho gene, mà bản thân gene là bất tử", Dawkins nghĩ thế. Thật sự là gene nhờ có những phiên bản copy giống hệt nhau mà tồn tại qua những khoảng thời gian rất lớn trong nhiều chủng loại. Chẳng hạn như hồng cầu, một chất màu đỏ trong máu của tất cả những động vật có vú. Gene điều khiển sự sản xuất của nó đã phải được hình thành qua sự đột biến, khi cuộc sống không diễn ra ở dưới nước. Kể từ đó nó đã phát triển trên toàn trái đất. Tiền đề về gene bất tử của Dawkins giải quyết được một vấn đề đau đầu kể từ thời Darwin: tại sao những cá nhân lại hy sinh sự sống của chính mình cho những cá nhân khác? Sự hy sinh đó phản bác lại thuyết "sự tồn tại của kẻ mạnh". Từ khi có Dawkins thì sự việc rõ ràng: chúng ta giúp đỡ kẻ yếu, bởi vì chúng ta có cùng bộ gene với họ. Điều đó có giá trị trong gia đình, và cả trong một tập hợp nhỏ của cả một loài. Dawkins đã mở rộng ý tưởng về gene của ông thành ý tưởng về tài sản văn hóa. Tài sản văn hóa là những thông tin văn hóa lan truyền trong một xã hội, cũng như gene phát triển trong một vật thể sống. Gene tự sao chép trong mô hình của những phân tử DNA, và cả những thông tin văn hóa cũng để lại các dấu vết thực bằng cách chúng thay đổi cấu trúc não. Thông tin văn hóa có thể là những ý tưởng về thời trang, một giai điệu nhạc hay một công nghệ mới. Nếu chúng ta học một thông tin văn hóa, chẳng hạn như lái xe đạp, những liên kết mới sẽ được tạo ra trong bộ não của chúng ta. Và khi chúng ta dạy con cái học lái xe, chúng ta tiếp tục truyền thông tin văn hóa. Cũng giống như gene, thông tin văn hóa có thể gần như là bất tử và đột biến. Thông tin văn hóa về "chế tạo công cụ đập" đã có ít nhất là 600.000 năm, nhưng đã tự chuyển đổi từ cái nêm sang búa rìu. Một ý tưởng đã đặc biệt tác động đến Dawkins: tôn giáo. "Tất cả chỉ là virus ở trong đầu!" ông cho là như vậy. Cũng như virus máy vi tính, nó lan truyền và ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống tư tưởng. Chẳng có gì là lạ khi ngày nay Dawkins đang đứng giữa một cuộc chiến về văn hóa chống lại những tín đồ thiên chúa giáo bảo thủ. Ông bảo vệ sinh học chống lại việc tìm cách thay thế thuyết tiến hóa bằng Sáng thế thư của họ (Sáng thế thư là đoạn đầu của Cựu ước trong thánh kinh viết về sự sáng tạo ra thế giới của Tạo hóa). Phần cuối Hoàng An (theo Thế giới của những điều kỳ diệu) Trở lại Khoa họcTrở lại Khoa học Chia sẻ Copy link thành công ×
1610704847953.98.parquet/121210
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 9766, "url": "https://vnexpress.net/nhung-thien-tai-cua-the-ky-21-phan-2-2807797.html" }
140.9
Thời kỳ hoàng kim Hà Lan – Wikipedia tiếng Việt Mở trình đơn chính Trang chính Ngẫu nhiên Lân cận Đăng nhập Tùy chọn Quyên góp Giới thiệu Wikipedia Lời phủ nhận Tìm kiếm Thời kỳ hoàng kim Hà Lan Ngôn ngữ Theo dõi Sửa đổi Thời kỳ hoàng kim Hà Lan là một thời kỳ phát triển rực rỡ trong lịch sử Hà Lan. Thời kỳ này trải dài trong thế kỷ 17. Hà Lan trong thời kỳ này nằm trong nhóm các quốc gia hàng đầu về khoa học, mậu dịch, quân sự, nghệ thuật. Nửa đầu thời kỳ này chứng kiến cuộc chiến tranh 80 năm cho đến 1648. Thời kỳ hoàng kim Hà Lan tiếp tục diễn ra trong hòa bình đến cuối thế kỷ 17 trong giai đoạn Cộng hòa Hà Lan. Nguyên nhân dẫn đến thời kỳ hoàng kimSửa đổi Năm 1568, bảy tỉnh đã ký Liên hiệp Utrecht (tiếng Hà Lan: Unie van Utrecht) bắt đầu một cuộc nổi loạn chống lại Philip II của Tây Ban Nha đã dẫn đến cuộc chiến tranh tám mươi năm. Trước khi các nước ở xứ thấp có thể bị hoàn toàn chinh phục, một cuộc chiến tranh giữa Anh và Tây Ban Nha nổ ra, buộc quân đội Tây Ban Nha theo Philip II để ngăn chặn sự tiến quân của quân Anh. Trong khi đó, quân đội Tây Ban Nha của Philip đã chinh phục các thành phố thương mại quan trọng Bruges và Ghent. Antwerpen, thời điểm đó là cảng quan trọng nhất trên thế giới, phải bị chinh phục. Ngày 17 tháng 8 năm 1585 Antwerpen thất thủ, bắt đầu phân định Nam Hà Lan (phần lớn trùng với nước Bỉ ngày nay). Các tỉnh thống nhất (xấp xỉ diện tích ngày nay của Hà Lan) đã chiến đấu cho đến khi Hòa ước mười hai năm, không kết thúc chiến tranh. Hòa ước Westphalia, kết thúc Chiến tranh ba mươi năm, mang lại công nhận chính thức và không chính thức công nhận độc lập cho nước Cộng hòa Hà Lan năm 1648. Sự di cư của công nhân lành nghề sang Hà LanSửa đổi Theo các điều khoản đầu hàng Antwerpen năm 1585 dân Tin Lành (nếu không muốn chuyển đạo) đã được đưa ra hai năm để giải quyết công việc của mình trước khi rời khỏi thành phố và lãnh thổ Habsburg. Các sắp xếp tương tự đã được thực hiện ở những nơi khác. Những người Tin Lành đặc biệt là đại diện điển hình trong số các thợ thủ công lành nghề và thương nhân giàu có của thành phố cảng Bruges, Ghent và Antwerpen. Nhiều người hơn đã chuyển đến miền Bắc trong giai đoạn 1585-1630 hơn là số người Công giáo di chuyển theo một hướng khác, mặc dù cũng đã có nhiều người trong số này. Trong số những người chuyển đến phía bắc, nhiều người trong số những người di dân định cư ở Amsterdam, chuyển đổi một cảng nhỏ là vào năm 1585 trở thành một trong những cảng quan trọng nhất và các trung tâm thương mại trên thế giới theo 1630. Cuộc di cư này có thể được mô tả là 'tạo ra một Antwerpen mới '. Những đợt nhập cư hàng loạt từ Flanders và Brabant là một động lực quan trọng đằng sau kỷ nguyên hoàng kim Hà Lan. Ngoài di cư hàng loạt của người dân địa phương từ Hà Lan miền Nam, cũng có những các làn sóng nhập cư quan trọng của người tị nạn không bản địa trước đây mình đã chạy trốn khỏi các cuộc đàn áp tôn giáo, đặc biệt là người Do Thái Sephardi từ Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, và sau đó, người Huguenot từ Pháp. Các Giáo Phụ Pilgrim cũng dành thời gian ở đó trước khi đi đến Tân thế giới. Đạo đức Calvinist Ronald Findlay và Kevin H. O’Rourke đóng góp một phần uy thế của Hà Lan cho Đạo đức Calvinis, thúc đẩy tiết kiệm và giáo dục. Điều này góp phần vào tạo nên "lãi suất thấp nhất và tỷ lệ biết chữ cao nhất tại châu Âu. Sư phong phú về vốn giúp việc duy trì sự giàu có ấn tượng, thể hiện không chỉ ở quân đội lớn mạnh mà còn ở dự trữ dồi dào các loại hàng hóa được dùng để bình ổn giá và tận dụng các cơ hội sinh lời." Tham khảoSửa đổi Bài viết thuộc Chủ đề: Hà Lan này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn. x t s Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Thời_kỳ_hoàng_kim_Hà_Lan&oldid=42041418” Sửa đổi lần cuối lúc 14:02 vào ngày 25 tháng 8 năm 2018 Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 3.0, ngoại trừ khi có ghi chú khác. Trang này được sửa đổi lần cuối vào ngày 25 tháng 8 năm 2018 lúc 14:02. Văn bản được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự; có thể áp dụng điều khoản bổ sung. Với việc sử dụng trang web này, bạn chấp nhận Điều khoản Sử dụng và Quy định quyền riêng tư. Wikipedia® là thương hiệu đã đăng ký của Wikimedia Foundation, Inc., một tổ chức phi lợi nhuận. Quy định quyền riêng tư Giới thiệu Wikipedia Lời phủ nhận Điều khoản sử dụng Máy tính để bàn Nhà phát triển Thống kê Tuyên bố về cookie
1610704847953.98.parquet/142214
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 3699, "url": "https://vi.m.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%9Di_k%E1%BB%B3_ho%C3%A0ng_kim_H%C3%A0_Lan" }
140.7
Vô sinh hiếm muộn là gì nguyên nhân dấu hiệu triệu chứng cách chữa hiệu quả Danh Mục Bệnh Bệnh Phụ KhoaBệnh Nam KhoaCẩm Nang Bệnh Giới ThiệuLiên Hệ MENU Vô sinh hiếm muộn là gì nguyên nhân dấu hiệu triệu chứng cách chữa hiệu quả Chuyên mục Bệnh Nam khoa Vô sinh hiếm muộn là gì nguyên nhân dấu hiệu triệu chứng cách chữa hiệu quả là những bận rất đáng lo ngại. Ở nước ta, vô sinh hiếm muộn là tình trạng khá phổ biến ở các cặp đôi dưới 30 tuổi. Trong đó, nguyên nhân xuất phát từ người chồng chiếm khoảng 40% và được nhận định là ngày càng có xu hướng gia tăng nhanh. Tuy không nguy hiểm đến tính mạng nhưng điều này lại ảnh hưởng nghiêm trọng đến tâm lý và hạnh phúc gia đình. Cùng lắng nghe các chuyên gia chia sẻ về nguyên nhân, dấu hiệu và cách chữa vô sinh hiếm muộn nam qua nội dung bài viết dưới đây. Vô sinh hiếm muộn nam là gì? Thời xa xưa, người ta thường quan niệm việc không mang thai có con là lỗi của người phụ nữ. Điều này khiến không ít nữ giới phải chịu nhiều đắng cay, tủi nhục. Khi y học phát triển hơn, các nghiên cứu chỉ ra rằng, khả năng vô sinh hiếm muộn ở cả nam và nữ giới là như nhau. Thậm chí, trong xã hội hiện đại, số lượng nam giới bị vô sinh ngày càng gia tăng nhanh, trở thành mối lo ngại của không ít các quý ông. Thống kê cho thấy, có khoảng 40% trường hợp vô sinh có nguyên nhân xuất phát từ người chồng, 40% xuất phát từ người vợ và 20% xuất phát từ cả 2. Những năm trở lại đây, vô sinh hiếm muộn trở thành chủ đề được bàn luận nhiều ở các hội thảo, diễn đàn y khoa bởi số lượng người mắc và tốc độ trẻ hóa nhanh. Bệnh vô sinh ở nam giới hay còn được gọi là hiếm muộn con được hiểu đơn giản là tình trạng nam giới có quan hệ tình dục đều đặn với bạn tình mà không sử dụng biện pháp nhưng trong 1 năm người vợ vẫn không mang thai. Nguyên nhân xuất phát từ việc cơ thể, sức khỏe của nam giới gặp phải một số các vấn đề bất thường. Tùy vào nguyên nhân, hoàn cảnh mà vô sinh hiếm muộn ở nam giới được chia làm 2 loại là: vô sinh nguyên phát và vô sinh thứ phát. Cụ thể: Vô sinh nguyên phát: Là tình trạng hai vợ chồng trước giờ chưa từng có con, nguyên nhân chính được xác định là do người chồng. Vô sinh thứ phát: Vợ chồng đã từng có con hoặc từng mang thai nhưng bị sẩy hoặc phá thai, sau này không thể có con, nguyên nhân chính được chẩn đoán là do người chồng. Vốn không nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng nhưng vô sinh hiếm muộn nam lại ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của phái mạnh. Không ít trường hợp hôn nhân tan vỡ vì áp lực gia đình, gánh nặng về chi phí chữa trị và tâm lý bất ổn. Chính vì vậy, việc phòng tránh và chủ động điều trị sớm được xem là cách nam giới giữ gìn hạnh phúc gia đình hiệu quả nhất. Vô sinh hiếm muộn nam là gì? Nguyên nhân vô sinh ở nam giới hiện nay Để đưa ra cách chữa vô sinh hiếm muộn hiệu quả, việc đầu tiên cần phải làm là tìm ra nguyên nhân dẫn tới tình trạng này. Theo các chuyên gia, hiếm muộn ở nam giới xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, dễ gặp cả trong đời sống thường ngày. Cụ thể, thói quen sinh hoạt, ăn uống không lành mạnh, thường xuyên sử dụng chất kích thích hoặc mắc phải một số bệnh nam khoa lâu ngày cũng có thể khiến các quý ông khó có thể có con. Một số nguyên nhân gây vô sinh ở nam giới như sau: Do mắc phải một số bệnh nam khoa liên quan Giãn tĩnh mạch thừng tinh, ung thư tinh hoàn, dị tật ống dẫn tinh, rối loạn cương dương, xuất tinh ngược dòng...là những căn bệnh nam khoa ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cũng như hoạt động sản xuất tinh trùng của tinh hoàn. Vì vậy, nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời, nguy cơ bị vô sinh hiếm muộn ở nam giới là rất cao. Do bẩm sinh Theo thống kê, tỷ lệ nam giới bị vô sinh bẩm sinh cao hơn ở nữ giới. Đây được xem là nguyên nhân vô sinh nam khá phức tạp và có phần khó điều trị hiện nay. Cụ thể, trong quá trình thụ thai xảy ra những đột biến hoặc rối loạn nhiễm sắc thể khiến nội tiết tố trong cơ thể phái mạnh gặp phải một số vấn đề bất thường, tinh hoàn không sản xuất tinh trùng một cách đều đặn và đảm bảo về số lượng lẫn chất lượng. Do mắc phải một số bệnh xã hội Không chỉ các bệnh nam khoa, nếu nam giới mắc phải một số căn bệnh xã hội như: lậu, sùi mào gà, giang mai...thì nguy cơ vô sinh là rất cao. Hơn nữa, đây là những căn bệnh ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, thậm chí là cả tính mạng người mắc phải nên bạn tuyệt đối không được chủ quan, chậm trễ điều trị bệnh. Do tác động của môi trường Một trong những nguyên nhân vô sinh ở nam giới phải kể đến chính là yếu tố tác động từ môi trường. Nếu bạn thường xuyên làm việc trong môi trường ô nhiễm, tiếp xúc với các chất thải, hóa chất độc hại...nguy cơ mắc bệnh vô sinh hiếm muộn sẽ tương đối cao. Bên cạnh đó, việc thường xuyên làm việc căng thẳng, áp lực cũng sẽ khiến lượng hormone sinh dục trong cơ thể trở nên bất ổn, gây cản trở đến việc sản xuất tinh trùng, gây ra tình trạng vô sinh hiếm muộn. Thường xuyên sử dụng các chất kích thích Các nghiên cứu chỉ ra rằng, nếu nam giới thường xuyên hút thuốc lá, uống nhiều rượu bia hoặc sử dụng ma túy...thì nguy cơ bị vô sinh hiếm muộn là rất lớn. Những thói quen nguy hiểm này là tác nhân làm suy giảm tinh trùng rõ rệt, khiến tinh trùng yếu và chết dần, ảnh hưởng đến khả năng có con của phái mạnh. Chế độ ăn uống thiếu khoa học Chế độ ăn uống nghèo nàn, không đủ chất hoặc thường xuyên sử dụng chất béo, chất ngọt, đồ ăn nhanh...sẽ tác động không nhỏ đến khả năng sinh sản của cánh mày râu. Đặc biệt, với những nam giới phải ngồi nhiều, ít vận động thì rất dễ dẫn đến tình trạng thừa cân, béo phì. Theo nghiên cứu, béo phì cũng là một trong những nguyên nhân làm tăng nguy cơ vô sinh hiếm muộn ở nam giới. Như vậy, có thể kết luận rằng nguyên nhân gây vô sinh ở nam giới có thể xuất phát từ nhiều yếu tố. Không chỉ xuất hiện ở nam giới tuổi đã cao mà còn cả ở những thanh thiếu niên. Chính vì vậy, việc tìm hiểu các kiến thức sức khỏe sinh sản là đặc biệt cần thiết đối với mỗi nam giới. Nguyên nhân vô sinh ở nam giới hiện nay Dấu hiệu nhận biết vô sinh ở nam giới Theo các chuyên gia, dấu hiệu vô sinh ở nam giới khá dễ nhận biết. Tuy nhiên, do tâm lý e ngại, chủ quan mà nhiều nam giới thường bỏ qua các dấu hiệu bất thường của bản thân. Điều này khiến bệnh ngày càng phát triển trầm trọng hơn, gây ra nhiều hậu quả khó lường, tốn kém về thời gian và chi phí điều trị. Nhìn chung, triệu chứng vô sinh ở nam giới điển hình nhất gồm có: 1. Xuất tinh sớm Gần như, trong cuộc đời của mỗi người đàn ông đều đã từng gặp phải tình trạng xuất tinh sớm, đặc biệt là trong lần đầu tiên quan hệ. Đây là hiện tượng sinh lý bình thường nếu nó chỉ diễn ra với tần suất ít và không kèm theo bất kỳ các biểu hiện bất thường nào khác. Tuy nhiên, nếu các quý ông thường xuyên xuất tinh dưới 2 phút trong mỗi lần quan hệ (chiếm khoảng 50% số lần quan hệ) thì chứng tỏ bản thân đang mắc bệnh xuất tinh sớm. Đặc biệt hơn, ở những trường hợp nặng, xuất tinh quá nhanh khi chưa kịp đưa dương vật vào trong âm đạo để quan hệ thì trứng và tinh trùng hoàn toàn không có cơ hội gặp được nhau. Do đó, khả năng có thai gần như là không có. Ngay cả trong trường hợp nam giới đã đưa dương vật vào trong âm đạo nhưng ngay lập tức xuất tinh khiến phụ nữ chưa đạt được khoái cảm, tử cung không mở rộng nên tinh trùng khó di chuyển sâu vào bên trong trứng để thụ tinh. Vì vậy, nếu nam giới thường xuyên xuất tinh sớm thì không loại trừ khả năng đây là biểu hiện của vô sinh. 2. Rối loạn cương dương Rối loạn cương dương là tình trạng nam giới không thể kiểm soát được khả năng cương cứng của dương vật. Theo đó, thời gian cương cứng dương vật không đủ lâu hoặc mức độ cương cứng không đủ để có thể thực hiện quá trình giao hợp một cách bình thường. Đây là dấu hiệu vô sinh nam rất dễ nhận biết và có nhiều người gặp phải hiện nay. Rối loạn cương dương khiến nam giới không thể xuất tinh bình thường, tinh dịch xuất ra ít hoặc thậm chí không thể xuất tinh. Điều này sẽ khiến cho khả năng tinh trùng gặp trứng và thụ tinh giảm, dẫn tới khả năng mang thai cũng thấp đi. Bên cạnh đó, rối loạn cương dương cũng khiến các quý ông cảm thấy tự ti, e ngại hoặc suy giảm nhu cầu ham muốn tình dục, dẫn tới khả năng thụ thai ngày càng khó khăn. 3. Bất thường ở bộ phận sinh dục Thêm một cách nhận biết vô sinh ở nam giới là sự bất thường ở bộ phận sinh dục. Nếu ở bộ phận sinh dục nam gặp phải các vấn đề bất thường như: đau, sưng tấy, mọc mụn ở tinh hoàn, bìu và dương vật, đau sưng tinh hoàn...nhiều khả năng đây là dấu hiệu cảnh báo các căn bệnh nam khoa, bệnh xã hội nguy hiểm, đe dọa trực tiếp tới sức khỏe và khả năng sinh sản. Các chuyên gia nhận định, khi nhận thấy ở bộ phận sinh dục xuất hiện các biểu hiện bất thường, nam giới nên chú ý quan sát và đến cơ sở y tế để thăm khám sớm. Tuyệt đối không vì chủ quan hoặc e ngại mà chậm trễ kiểm tra khiến bản thân phải đối mặt với nhiều hậu quả nghiêm trọng trong tương lai. 4. Suy giảm ham muốn tình dục Một dấu hiệu vô sinh ở nam nữa không thể bỏ qua đó là tình trạng suy giảm ham muốn tình dục. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, suy giảm ham muốn tình dục có liên quan chặt chẽ đến tình trạng vô sinh ở nam giới do cùng chịu sự ảnh hưởng của nồng độ hormone sinh dục nam testosterone. Dấu hiệu nhận biết vô sinh ở nam giới Theo đó, khi nồng độ testosterone trong máu thấp, cơ thể nam giới sẽ trở nên mệt mỏi, suy giảm ham muốn tình dục, rối loạn cương dương, làm giảm số lượng và chất lượng tinh trùng...Điều này sẽ tác động trực tiếp đến khả năng sinh sản của phái mạnh, nguy cơ vô sinh hiếm muộn là rất lớn 5. Tinh dịch bất thường Nam giới có thể nhận biết dấu hiệu bị vô sinh một cách đơn giản qua sự bất thường ở tinh dịch. Cụ thể, nếu nam giới gặp phải các bất thường như: tinh dịch ra ít, không đạt được từ 2 - 5ml, tinh dịch bị vón cục, tinh dịch không hóa lỏng sau khoảng 15 - 30 phút, tinh dịch có màu sắc lạ...nhiều khả năng là đang mắc phải các bệnh lý nam khoa nguy hiểm. Tinh dịch là chất nuôi dưỡng tinh trùng, chứa tinh trùng và hỗ trợ tinh trùng di chuyển để gặp được trứng và thụ tinh. Vì vậy, khi tinh dịch có những vấn đề bất thường thì số lượng và chất lượng chắc chắn cũng bị ảnh hưởng, nguy cơ vô sinh hiếm muộn ở nam giới là điều gần như sẽ gặp phải nếu không được điều trị kịp thời và đúng cách. Ngoài những dấu hiệu của vô sinh trên, một số biểu hiện khác nam giới không nên bỏ qua là: tình trạng rụng tóc, béo bụng và tăng cân nhanh, nam giới thường xuyên bị stress, gặp nhiều áp lực, cơ thể gầy gò…Tốt nhất, khi nhận thấy bản thân có các dấu hiệu bất thường, nam giới nên chú ý quan sát và tới cơ sở y tế để được các bác sĩ thăm khám, kịp thời có phương án xử lý kịp thời, tránh các biến chứng nguy hiểm. Vô sinh có chữa được không? Cách chữa vô sinh nam hiệu quả hiện nay Nhận định về thắc mắc vô sinh có chữa được không, các chuyên gia nhận định điều này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: nguyên nhân, mức độ bệnh, khả năng kinh tế...Với những trường hợp bị vô sinh bẩm sinh hoặc do mắc phải các bệnh lý nam khoa nguy hiểm, phức tạp khả năng chữa khỏi bệnh sẽ thấp hơn so với trường hợp phát sinh từ yếu tố sinh lý hoặc bệnh lý thông thường. Tuy nhiên, với sự phát triển của y học hiện nay, việc điều trị bệnh có phần đơn giản và hiệu quả hơn rất nhiều. Hiện nay, tại các bệnh viện, phòng khám chuyên khoa, chữa vô sinh hiếm muộn đang được áp dụng 2 phương pháp là: điều trị bằng thuốc và phẫu thuật. Tùy vào nguyên nhân và tình trạng bệnh mà bác sĩ sẽ chỉ định phương án điều trị phù hợp. 1. Điều trị vô sinh bằng thuốc Chữa hiếm muộn bằng thuốc là phương pháp được áp dụng cho những trường hợp mắc bệnh nhẹ do tinh trùng ít hoặc yếu hoặc bị rối loạn cương dương. Thuốc được sử dụng có tác dụng tăng cường sản xuất hormone nam testosterone, hormone LH, FSH...từ đó cải thiện số lượng và chất lượng tinh trùng hiệu quả. Trong trường hợp nam giới mắc bệnh viêm nhiễm nam khoa, bác sĩ sẽ chỉ định sử dụng thêm một số loại thuốc kháng sinh. Một số trường hợp đặc biệt có thể cần phải tiêm một số chất kích thích để cơ thể có thể sản xuất tinh dịch bình thường. Việc dùng thuốc là cách chữa vô sinh đơn giản và đặc biệt tiết kiệm. Tuy nhiên, các quý ông tuyệt đối không được chủ quan, cần tuân thủ nghiêm ngặt các chỉ định của bác sĩ. Tuyệt đối không tự ý thay đổi liều lượng hay áp dụng thêm các phương pháp chữa trị nào khác khi chưa hỏi ý kiến bác sĩ điều trị để tránh gây ra tác dụng phục hoặc biến chứng nguy hiểm. 2. Điều trị vô sinh nam bằng phương pháp phẫu thuật Với những trường hợp bị khiếm khuyết về cơ quan sinh dục hoặc mắc các bệnh nam khoa như: tắc ống dẫn tinh, giãn tĩnh mạch thừng tinh, tinh hoàn ẩn...mức độ nặng, việc dùng thuốc sẽ không còn mang lại ý nghĩa. Lúc này, phẫu thuật là giải pháp được đưa ra nhằm nhanh chóng khắc phục các vấn đề tồn tại trên đồng thời đảm bảo chất lượng của tinh trùng. Vô sinh có chữa được không? Cách chữa vô sinh nam hiệu quả hiện nay Cách chữa vô sinh hiếm muộn này được nhận định là có độ hiệu quả cao, điều trị tận gốc bệnh. Tuy nhiên, phương pháp đòi hỏi những yêu cầu cao về năng lực bác sĩ thực hiện cũng như hệ thống trang thiết bị máy móc y tế phục vụ. Vì vậy, không phải cơ sở y tế chuyên khoa nào cũng có đủ điều kiện để thực hiện. Xem thêm: Khám vô sinh hiếm muộn ở đâu tốt nhất Hà Nội Tại Hà Nội, nam giới có thể yên tâm tới Phòng khám đa khoa Hưng Thịnh để được thăm khám kỹ lưỡng và thực hiện các phương pháp chữa vô sinh an toàn, hiệu quả. Đây là cơ sở y tế chuyên điều trị các bệnh nam khoa hoạt động nhiều năm tại thủ đô với nhiều thành công nổi bật. Trong đó, không ít các trường hợp nam giới bị vô sinh hiếm muộn nhiều năm chữa trị khắp nơi không khỏi nhưng sau khi tới phòng khám đã được chữa trị thành công, mang lại niềm vui, hạnh phúc làm cha. Chính điều này, ngày càng có nhiều cặp đôi tin tưởng, lựa chọn phòng khám là địa chỉ khám chữa vô sinh hiếm muộn uy tín tại Hà Nội. Theo đó, tùy vào bệnh lý nam khoa mắc phải mà bác sĩ sẽ tiến hành các phương pháp can thiệp phù hợp. Cụ thể, nếu là do giãn tĩnh mạch thừng tinh, các bác sĩ sẽ tiến hành cắt và thắt ở hai đầu tĩnh mạch tinh, loại bỏ máu đọng ở tĩnh mạch ngoại vi mà không làm tổn thương đên mạch bạch và động mạch. Phương pháp sử dụng kỹ thuật xâm lấn tối thiểu nên ít gây đau đớn, ít mất máu và thời gian thực hiện nhanh nên các quý ông không cần phải quá lo lắng. Với đội ngũ bác sĩ là những chuyên gia sức khỏe được đào tạo chuyên môn bài bản, có nhiều năm kinh nghiệm làm việc tại các bệnh viện lớn. Thêm vào đó, hệ thống máy móc hiện đại, được kiểm định chất lượng nghiêm ngặt, quy trình khám chữa bệnh luôn được thực hiện kỹ lưỡng, tuân thủ các yêu cầu về kỹ thuật và vệ sinh...kết quả điều trị vô sinh hiếm muộn nam tại phòng khám luôn có độ chính xác và an toàn cao. Đặc biệt, chi phí khám và điều trị vô sinh tại phòng khám luôn được công khai minh bạch, rõ ràng. Mức giá chữa vô sinh tại phòng khám được đánh giá là khá bình dân, không có sự chênh lệch với các cơ sở y tế khác nên bạn không cần phải quá lo lắng về vấn đề này. Đặc biệt, nếu bạn đặt lịch khám trước qua số điện thoại 0366.655.466 còn được bác sĩ ưu tiên lịch khám, giảm 30% chi phí tiểu phẫu điều trị bệnh. Vì vậy, nếu bản thân xuất hiện các biểu hiện của vô sinh, phòng khám đa khoa Hưng Thịnh là địa chỉ y tế uy tín mà bạn có thể tin tưởng lựa chọn. Như vậy, những thắc mắc liên quan đến căn bệnh vô sinh hiếm muộn nam đã được các chuyên gia giải đáp cụ thể trong bài viết. Hy vọng đây sẽ là những thông tin quan trọng giúp các quý ông có thể phòng tránh và điều trị bệnh hiệu quả, ngăn chặn các ảnh hưởng xấu có thể xảy ra với bản thân. Bài Viết Cùng Chuyên mục Liệt dương là gì? nguyên nhân, triệu chứng & cách chữa trị hiệu quả nhất hiện nay Bệnh liệt dương là gì?✅⭐️✅⭐️✅nguyên nhân, dấu hiệu triệu chứng và cách chữa bệnh liệt dương hiệu quả sẽ được chuyên gia bật mí trong nội dung bài viết này Tác giả: Tiến sĩ Bác Sĩ: Lê Nhân Tuân Giám đốc Phòng khám Hưng Thịnh Nên khám vô sinh hiếm muộn ở đâu? Top 8 địa chỉ uy tín tại Hà Nội Nên khám vô sinh ở đâu tốt nhất Hà Nội✅⭐️✅⭐️✅Top 8 địa chỉ khám vô sinh hiếm muộn uy tín sẽ được chuyên gia phong khám Hưng Thịnh chia sẻ trong bài viết này Tác giả: Tiến sĩ Bác Sĩ: Lê Nhân Tuân Giám đốc Phòng khám Hưng Thịnh [Tiết Lộ] Tinh trùng loãng như nước có sao không cách điều trị Tinh trùng loãng như nước có sao không?✅⭐️✅⭐️✅cách điều trị Tinh trùng loãng hiệu quả sẽ được BS: Trần Thị Thành bật mí trong bài viết sau đây Tác giả: Bác sĩ chuyên sản phụ khoa Trần Thị Thành Tinh trùng yếu nên hay không nên ăn uống gì? Cách chữa tại nhà hiệu quả Tinh trùng yếu nên hay không nên ăn uống gì? cách chữa tinh trùng yếu tại nhà hiệu quả. Hy vọng với những thông tin dưới đây sẽ giúp quý vị hiểu rõ hơn về bệnh Tác giả: Tiến sĩ Bác Sĩ: Lê Nhân Tuân Giám đốc Phòng khám Hưng Thịnh Vô sinh hiếm muộn là gì nguyên nhân dấu hiệu triệu chứng cách chữa hiệu quả Vô sinh hiếm muộn là gì nguyên nhân dấu hiệu triệu chứng cách chữa hiệu quả sẽ được chuyên gia phòng khám Hưng Thịnh bật mí trong nội dung bài viết này nhé Tác giả: Tiến sĩ Bác Sĩ: Lê Nhân Tuân Giám đốc Phòng khám Hưng Thịnh Xuất tinh sớm là gì? Chữa bệnh xuất tinh sớm ở đâu tốt nhất Hà Nội Chữa xuất tinh sớm ở đâu tốt nhất là câu hỏi gây ra không ít lo lắng, trăn trở cho các quý ông hiện nay, hãy cùng chúng tôi theo dõi bài viết này để hiểu hơn Tác giả: Tiến sĩ Bác Sĩ: Lê Nhân Tuân Giám đốc Phòng khám Hưng Thịnh Bản Quyền thuộc Phòng khám đa khoa Hưng Thịnh 380 Xã Đàn - Đống Đa - Hà Nội
1610704847953.98.parquet/198349
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 15506, "url": "https://phongkhamdakhoahungthinh.webflow.io/blog/vo-sinh-hiem-muon-la-gi-nguyen-nhan-dau-hieu-trieu-chung-cach-chua" }
140.3
Làm thế nào để đạt được các mục tiêu với 5 bước? | SONGPHAIHANHPHUC.COM SONGPHAIHANHPHUC.COM Kiến thức phát triển bản thân Home BÀI VIẾT Giới thiệu Làm thế nào để đạt được các mục tiêu với 5 bước? admin May 20, 2017 THÀNH CÔNG Làm thế nào để đạt được các mục tiêu? Thường thì nhiều người nghĩ rằng đạt được tất cả các mục tiêu trong cuộc sống là điều không thể. Hẳn những người mà có thể đạt được tất cả các mục tiêu phải là người may mắn hoặc có những phẩm chất đặc biệt nào đó. Trong thực tế có công thức chung để bất kỳ ai cũng có thể đạt được các mục tiêu của họ tuy nhiên có rất nhiều người không thể bởi vì họ đã không làm đúng những bước mà bài viết này chia sẻ bên dưới. Bạn có thể đạt được các mục tiêu khác nhau của mình, bất kể là gì trong cuộc sống này nếu bạn áp dụng đúng công thức. Bạn không cần phải là một người có những phẩm chất đặc biệt hay chờ đợi vào sự may mắn, trong bài viết này tôi sẽ cho bạn biết làm thế nào để đạt được các mục tiêu của mình bất kể mục tiêu đó là gì với 5 bước. 5 Bước để đạt được các mục tiêu *Hãy mong muốn điều đó thật mãnh liệt: Đây là bước đầu tiên để đạt được các mục tiêu, nếu bạn cho nó là rất quan trọng và cần thiết thì bạn sẽ tìm kiếm các cách khác nhau để đạt được chúng. Nếu mong muốn nó không đủ mạnh thì sẽ luôn có lý do để bạn trì hoãn, luôn có những việc khác mà bạn cho là quan trọng hơn hoặc dễ dàng hơn để làm thay vì nỗ lực làm gì đó cho mục tiêu của mình. Hãy coi điều đó như tất cả cuộc sống của bạn, hãy trung thực với bản thân mình rằng, bạn sẽ làm tất cả có thể để đạt được mục tiêu này thay vì sống một cuộc sống vô nghĩa. Bạn phải là người tạo ra số phận cho mình chứ không phải một ai đó hay điều gì khác. Bạn là người tao ra số phận của mình khi bạn quyết tâm đạt được bất cứ điều gì bạn muốn. Bác Hồ coi sự nghiệp giải phóng dân tộc là cuộc đời mình đã bất chấp mọi khó khăn gian khổ để biến điều đó trở thành sự thực. Còn tôi quyết phải tìm ra con đường giải phóng cuộc sống của bản thân mình chứ không cam chịu một cuộc sống tầm thường dù con đường đó có gian khổ chừng nào. *Không ngừng bổ sung kiến thức và kỹ năng cần thiết: Bươc tiếp theo để đạt được các mục tiêu cần phải có những kiến thức và kỹ năng cần thiết. Bạn không thể trở thành lãnh đạo nếu không biết quản lý, khuyến khích và truyền cảm hứng cho nhân viên. Bạn không thể trở thành doanh nghiệp thành công nếu bạn không thể bán sản phẩm của mình, không thể tạo môi trường tốt cho những người giúp bạn xây dựng công ty. Đơn giản bạn không thể giúp gia đình mình hạnh phúc nếu bạn không thể kiếm được nhiều tiền, không biết phát triển tình cảm của vợ chồng và những người thân trong gia đình. Bạn cần phải nỗ lực học tập từ sách, video, từ những khóa học, từ những chuyên gia để biết mình cần phải làm gì và tích cực rèn luyện những kỹ năng cần thiết. Bạn chỉ có thể thành công khi làm đúng việc cần làm. *Thay đổi niềm tin: Đây là bước quan trọng nhất để đạt được các mục tiêu. Có nhiều người nghĩ rằng thành công là cái gì đó có thể đạt được một cách nhanh chóng, hoặc nghĩ rằng thành công không phải là cơ hội giành cho tất cả mọi người. Trên thực tế, thành công là giành cho tất cả mọi người, nhưng nó đòi hỏi phải kiên trì và cố gắng liên tục cho tới khi tìm ra cách đúng và làm đúng mọi việc. Có như vậy dù hiện tại chưa thành công nhưng bạn biết nếu tiếp tục cố gắng cuối cùng bạn cũng sẽ đạt được thay vì từ bỏ ngay khi gặp những trở ngại đầu tiên hoặc sau một vài lần thất bại. *Thay đổi cách làm: Đây là bước quan trọng tiếp theo để đạt được các mục tiêu. Bởi vì không thể làm cùng một cách và cho các kết quả khác nhau, nếu hiện tại là những kết quả không như mong muốn hoặc không đạt được điều gì thì cần phải thay đổi cách làm khác, thay đổi cách tiếp cận khác cho tới khi tìm ra được cách làm đúng. Bằng việc học từ những thất bại của những cách làm trước, sau đó sửa chữa và thực hiện cách làm mới cho tới khi đạt được kết quả mong muốn. *Chấp nhận thất bại và vượt qua chúng: Thành công chỉ đến khi mà thực hiện đúng cách. Vấn đề là thường thì khi mới bắt đầu hoặc chưa có hiểu biết chúng ta làm theo những cách sai khác nhau. Điều này gây ra sự mất mát, thất vọng nhưng cần phải chấp nhận chúng vì đó là những gì bình thường trong cuộc sống. Việc chấp nhận nó để có thể học được những sai lầm và bỏ qua những cảm xúc tồi tệ đó để tiếp tục là điều cần thiết giúp đạt được các mục tiêu trong tương lai. Tuy nhiên có nhiều người không biết làm thế nào để vượt qua chúng, hãy đọc về cuộc đời và những trải nghiệm của những người thành công để hiểu họ cũng có những thất bại và đó là một phần mà họ phải trải qua trước khi đạt được thành công. Tìm tới các chuyên gia để họ giúp bạn tìm được vấn đề mình mắc lỗi nếu không thể tự mình làm được. Các mục tiêu có còn là ảo tưởng của bạn nữa không? Nếu bạn thực hiện đúng theo các bước trên thì chắc chắn bạn sẽ đạt được các mục tiêu trong cuộc sống của mình bất kể nó là mục tiêu gì. Thực hiện những bước này không dễ dàng nhưng đó chính là những gì cho phép một người thành công hay không. Hiểu rõ 5 bước này bạn sẽ không còn sợ thất bại nữa, bạn cũng thấy thành công không phải là gì đó kỳ diệu nữa. Chúng giải thích tại sao có được thành công và giải thích được tại sao ai đó đạt được các mục tiêu của mình trong cuộc sống. Bạn đã biết được 5 bước của công thức, nếu bạn muốn đạt được các mục tiêu của mình thì hãy làm đúng tất cả các bước. Bạn muốn xem thêm? Tại sao bạn sẽ đạt được mục tiêu nếu bạn không từ bỏ? Làm thế nào để đạt được mục tiêu của bạn một cách nhanh chóng? Ngay cả bạn cũng không nghĩ mình đã làm được 5 Điều phải thực hiện để đạt được thành công làm thế nào để đạt được các mục tiêu « Previous Post Next Post © 2021 SONGPHAIHANHPHUC.COM | Website http://songphaihanhphuc.com Quà Tặng Miễn Phí CHÀO MỪNG CÁC BẠN Trước khi tiếp tục đọc bài viết, SPHP gửi tặng bạn một món quà ý nghĩa 04 Ebooks giúp bạn có được tư duy đúng đắn để thành công hơn và gia tăng tài chính cá nhân nhanh chóng. (Bạn chỉ đơn giản điền thông tin vào bên dưới sau đó bấm nút đăng ký để được nhận quà tặng) X
1610704847953.98.parquet/182748
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 5650, "url": "http://songphaihanhphuc.com/lam-the-nao-de-dat-duoc-cac-muc-tieu-voi-5-buoc/" }
140.2
Ung thư Dạ Dày - Tạp chí Đừng Lo Thông Tin Y khoa Dịch Cúm Ung thư Ung thư Vú Ung thư cổ Tử Cung Ung thư Buồng Trứng Ung thư Phổi Ung thư Tiền Liệt Tuyến Ung thư Gan Ung thư Dạ Dày Ung thư Đại Trực Tràng Tin Tức Truyền thông Sự kiện Tâm sự & Hy Vọng Trung tâm y tế Ung bướu Singapore – Việt Nam Hệ thống Y tế Vinmec Type your search query and hit enter: All Rights Reserved Tạp chí Đừng Lo Type your search query and hit enter: Ung thư Dạ Dày Ung thư dạ dày là gì? Ung thư dạ dày là bệnh lý ác tính của dạ dày. Trên toàn thế giới, ung thư dạ dày là nguyên nhân thứ hai gây ra các ca tử vong do ung thư ở cả nam giới và nữ giới. Tỷ lệ mắc bệnh ung thư dạ dày đặc biệt phổ biến ở khu vực Đông Nam Á. Theo ghi nhận của Tổ chức Phòng chống Ung thư thế giới, mỗi năm tại Việt Nam có khoảng 15000 đến 20000 bệnh nhân mới mắc ung thư dạ dày. Nguyên nhân gây ra? Hiện nay, các nguyên nhân chính xác của ung thư dạ dày vẫn chưa được biết. Tuy nhiên, đã xác định được các yếu tố có thể làm tăng nguy cơ mắc ung thư dạ dày bao gồm: Chế độ ăn uống nhiều thức ăn hun khói và mặn Chế độ ăn uống ít trái cây và rau Tiền sử gia đình bị ung thư dạ dày Nhiễm khuẩn Helicobacter pylori, một loại vi khuẩn sống trong niêm mạc nhầy của dạ dày Viêm dạ dày mãn tính, trong đó đề cập đến một tình trạng viêm dạ dày lâu dài Thiếu máu ác tính, đó là sự sụt giảm các tế bào hồng cầu xảy ra khi ruột không thể hấp thụ vitamin B12 một cách bình thường Hút thuốc Các triệu chứng của ung thư dạ dày? Ung thư dạ dày ít có hoặc hầu như không có triệu chứng trong các giai đoạn đầu, điều này gây khó khăn cho việc phát hiện sớm bệnh. Bệnh nhân có thể bị mất cảm giác ngon miệng, sụt cân không giải thích được và đau bụng mãn tính. Tuy nhiên, dấu hiệu đau dạ dày hoặc rối loạn tiêu hóa (đau hoặc khó chịu ở vùng bụng trên) rất phổ biến và có thể gặp trong các bệnh thông thường như trào ngược acid hoặc viêm dạ dày. Do vậy, nhiều người ngay cả các bác sĩ, có thể không ngay lập tức nghi ngờ đó là các dấu hiệu của ung thư dạ dày. Đây chính là lý do tại sao ung thư dạ dày thường được phát hiện ở giai đoạn muộn. Ung thư dạ dày được chẩn đoán ra sao? Các xét nghiệm để chẩn đoán ung thư dạ dày bao gồm: Nội soi dạ dày – Đây là xét nghiệm phải được thực hiện khi nghi ngờ mắc bệnh ung thư dạ dày. Trong xét nghiệm này, bác sĩ đặt một ống nội soi (một ống mềm dài với một máy ảnh và đèn sáng ở cuối ống) vào miệng và xuống dạ dày cho phép họ có thể nhìn được vào bên trong dạ dày. Sinh thiết – Xét nghiệm này được thực hiện trong quá trình nội soi dạ dày. Trong sinh thiết, Bác sĩ sẽ lấy một mẫu mô nhỏ từ một vùng nghi ngờ bất thường của dạ dày, và sau đó một bác sĩ khác quan sát các tế bào dưới kính hiển vi. Các kiểm tra hình ảnh của dạ dày – Các kiểm tra hình ảnh như chụp cắt lớp vi tính (CT) và PET-CT tạo ra các hình ảnh bên trong của cơ thể để xem ung thư đã lan rộng ra những nơi khác hay chưa. Các bác sĩ cũng sẽ kiểm tra nhiễm khuẩn Helicobacter pylori. Điều này có thể được thực hiện theo những cách khác nhau, bao gồm cả các kiểm tra hơi thở, xét nghiệm máu, xét nghiệm trên mẫu sinh thiết của dạ dày và các xét nghiệm khác. Gói khám tầm soát ung thư ung thư Dạ dày, Đại tràng, Trực tràng Gói tầm soát ung thư dạ dày, đại tràng, trực tràng Colorectal Cancer Screening 1. Khám lâm sàng 1. Doctor Consultation 2. Các xét nghiệm 2. Laboratories/ Tumor marker Định lượng CA 19-9 CA 19-9 Định lượng CEA CEA Tìm máu trong phân (FOB) Fecal Occult Blood 3. Các khảo sát 3. Imaging Service *Nội soi dạ dày – đại tràng gây mê *Gastro-coloscopy under anesthesia (*) Những xét nghiệm có thể được thực hiện dựa theo độ tuổi, tình trạng bệnh sử cá nhân và gia đình theo chỉ định của bác sĩ. Ung thư dạ dày được điều trị ra sao? Ung thư dạ dày thường được điều trị với một hoặc nhiều cách sau đây: Phẫu thuật – Đây là phương pháp hiệu quả duy nhất để chữa khỏi ung thư dạ dày. Trong khi phẫu thuật, bác sĩ có thể cắt bỏ một phần hoặc toàn bộ dạ dày. Xạ trị – Sau khi phẫu thuật, xạ trị có thể được tiến hành cùng với hóa trị để tiêu diệt các tàn dư rất nhỏ của ung thư mà không thể nhìn thấy và loại bỏ trong quá trình phẫu thuật. Ở những bệnh nhân ung thư dạ dày nặng, xạ trị có thể hữu ích để giảm tắc nghẽn dạ dày. Hóa trị – Hóa trị sử dụng các loại thuốc để giúp tiêu diệt tế bào ung thư và thu nhỏ kích thước của khối u. Nó có thể được thực hiện một mình hoặc kết hợp với xạ trị sau phẫu thuật. Hóa trị cũng có thể được sử dụng để làm giảm các triệu chứng hoặc kéo dài cuộc sống cho những bệnh nhân bị ung thư dạ dày nặng mà không thể phẫu thuật được. Liệu pháp nhắm trúng đích – Các thuốc điều trị nhắm trúng đích tấn công các tế bào ung thư mà ít gây ra thiệt hại cho các tế bào lành. Làm thế nào để ngăn ngừa ung thư dạ dày? Mặc dù các nguyên nhân chính xác của ung thư dạ dày là chưa biết, có những bước chúng ta có thể làm để giảm nguy cơ phát triển ung thư dạ dày. Trong thực tế, ở nhiều nước phát triển, nơi mà có thể dùng tủ lạnh để giúp lưu trữ thực phẩm tươi, hạn chế dùng thực phẩm bảo quản muối, tỷ lệ ung thư dạ dày đã giảm đáng kể trong những năm qua. Đây là điều bạn có thể làm để hạn chế các nguy cơ mắc bệnh ung thư dạ dày: Ăn nhiều trái cây và rau Giảm ăn các thực phẩm hun khói và muối Ngừng hút thuốc lá Biết tiền sử bệnh lý của bạn và làm nội soi dạ dày thường xuyên nếu bạn bị một tiền sử nhiễm khuẩn Helicobacter pylori. All Rights Reserved
1610704847953.98.parquet/31705
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 4571, "url": "https://dunglo.vn/tag/ung-thu-da-day/" }
139.9
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ dự Đại hội Thi đua yêu nước TPHCM lần thứ VII Thursday, January 28, 2021 RSS Liên hệ Quảng cáo - Tài trợ : 028.38225933 (Hotline) - 028 3822 1188 (FM 95.6) - 028 38291 357 Search Điện thoại: 028.38225933 - 028.38225934 Đường dây nóng bạn nghe đài: 028.3891 357 - 0948747571 Trang Chủ Radio Radio Tin tức Thế giới Pháp luật Thể thao Kinh tế Giáo dục Giải trí Công nghệ Sức khỏe Đời sống Đẹp Kỹ năng Lịch phát sóng Video FAQ Radio Tin tức Thế giới Pháp luật Thể thao Kinh tế Giáo dục Giải trí Công nghệ Sức khỏe Đời sống Đẹp Kỹ năng Lịch phát sóng Video FAQ #Cập nhật Covid-19 #Vaccine Covid-19 #Đại hội XIII của Đảng #Tết Tân Sửu #Thành phố Thủ Đức Tin mới nhất Tin xem nhiều Sự kiện: tin tức tphcm Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ dự Đại hội Thi đua yêu nước TPHCM lần thứ VII (VOH) - Ngày 26/6, tại TPHCM, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình đã tham dự và phát biểu tại Đại hội Thi đua yêu nước TPHCM lần thứ VII, giai đoạn 2020-2025. Phát biểu tại Đại hội, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình bày tỏ vui mừng đến dự Đại hội Thi đua yêu nước TPHCM lần thứ VII, đồng thời ôn lại truyền thống đấu tranh cách mạng, xây dựng và phát triển đất nước của nhân dân ta những năm qua luôn gắn liền với các phong trào thi đua yêu nước do Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu phát động năm 1948. Từ đó đến nay, thi đua yêu nước đã trở thành phong trào cách mạng, là động lực mạnh mẽ để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, toàn dân tộc ta giành thắng lợi trong công cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước và thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa-xã hội, củng cố quốc phòng an ninh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình tặng cờ thi đua cho các đơn vị có thành tích xuất sắc Phó Thủ tướng Thường trực nhấn mạnh: Trong suốt chặng đường xây dựng và phát triển, Đảng bộ, nhân dân Thành phố luôn là trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, hội nhập quốc tế hàng đầu của đất nước ta. Thời gian qua, quán triệt các quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng và thực hiện Luật Thi đua khen thưởng, phong trào thi đua yêu nước của TPHCM tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong các lĩnh vực, thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động, chiến sĩ các lực lượng vũ trang tích cực tham gia vào các phong trào thi đua, các cuộc vận động do Đảng, Nhà nước, các bộ, ban, ngành, cơ quan Trung ương phát động. Thành ủy, UBND, các ban, ngành, cơ quan của Thành phố đã tổ chức các phong trào thi đua, các cuộc vận động như: “Giảm nghèo, tăng hộ khá”, “Xây dựng cuộc sống mới trên địa bàn dân cư”, “Bảo trợ bệnh nhân nghèo”, “Nụ cười trẻ thơ”, “Cả thành phố chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Vì biển đảo quê hương, vì tuyến đầu Tổ quốc”... của Thành phố; “Cán bộ thuế, thu được thuế, thu được lòng dân” của ngành thuế; “Làm hết trách nhiệm, thân thiện, minh bạch, hiệu quả” của ngành hải quan; “Kỷ cương, tình thương, trách nhiệm” của ngành giáo dục, “Mỗi ngày làm một việc tốt vì nhân dân” của công an Thành phố... Đề cập đến những hậu quả do đại dịch COVID-19 gây ra cho đất nước ta, nhất là ở các thành phố lớn như TPHCM, Phó Thủ tướng Thường trực cho biết: Đảng và Nhà nước đã hành động quyết liệt với những thông điệp mạnh như “chống dịch như chống giặc”, “mục tiêu kép-chống dịch đi đôi với duy trì, phát triển kinh tế”... Sau gần 70 ngày, đất nước ta không còn ca nhiễm mới trong cộng đồng, đưa Việt Nam trở thành một trong những nước đầu tiên trên thế giới kiểm soát được dịch COVID-19 với phương pháp chống dịch hiệu quả, chi phí thấp và nay bước vào trạng thái “bình thường mới”, vừa đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, vừa cảnh giác phòng, chống dịch. Trong thành công chung của cả nước có sự đóng góp to lớn và quan trọng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân TPHCM cùng nhau thi đua thực hiện các quyết sách quan trọng như: “Chống dịch như chống giặc”, “hy sinh quyền lợi kinh tế trong ngắn hạn để bảo đảm sức khỏe của nhân dân”; “cách ly tập trung”, “đi từng ngõ, gõ từng nhà”; “thần tốc, thần tốc hơn nữa ”..., mọi người dân Thành phố cùng tham gia chống dịch, đóng góp tiền của, công sức và trách nhiệm với cộng đồng đã tạo nên những điều kỳ diệu của đất nước chúng ta. Phó Thủ tướng Thường trực nhấn mạnh, các phong trào thi đua đã tạo ra động lực và khí thế để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của Thành phố - một trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, hội nhập quốc tế của cả nước và khu vực, góp phần to lớn vào việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của Đại hội XII của Đảng. Đặc biệt, Thành phố cùng với các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm phía nam đã cùng thi đua quyết không điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2020 trong bối cảnh đất nước và Thành phố chịu hậu quả nặng nề của đại dịch COVID-19 đang diễn biến ngày càng khó lường trên thế giới. Ghi nhận công lao và thành tích to lớn của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân TPHCM trong những năm qua, nhiều đơn vị và cá nhân của Thành phố đã được nhận nhiều hình thức khen thưởng và danh hiệu cao quý của Đảng và Nhà nước. Tại Đại hội hôm nay, Thành phố lại có thêm nhiều tập thể, cá nhân được đón nhận các phần thưởng cao quý của Đảng, Nhà nước và Thành phố trao tặng do có những thành tích xuất sắc trong các phong trào thi đua 5 năm qua. Bên cạnh những kết quả đạt được, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ cũng chỉ ra công tác thi đua, khen thưởng của Thành phố vẫn còn có những hạn chế nhất định. Một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa quán triệt sâu sắc tinh thần đổi mới công tác thi đua, khen thưởng của Đảng. Công tác chỉ đạo và tổ chức phong trào thi đua của nhiều cấp chính quyền, ban, ngành, cơ quan, đơn vị còn chưa thường xuyên, liên tục; công tác tuyên truyền, vận động còn chưa mạnh mẽ, thuyết phục, nội dung thi đua chưa cụ thể, phong phú, thiết thực, thiếu kiểm tra, đôn đốc; công tác phát hiện, bồi dưỡng, nhân rộng các điển hình tiên tiến, các gương người tốt việc tốt, phối hợp giữa thi đua với khen thưởng còn có những hạn chế, có phong trào thi đua còn mang tính hình thức, kết quả đạt được thấp. Để tiếp tục giữ vững vai trò đi đầu trong các phong trào thi đua của cả nước, Phó Thủ tướng Thường trực đề nghị các cấp ủy đảng, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể, cơ quan, đơn vị của Thành phố cần tiếp tục quán triệt sâu sắc tư tưởng về thi đua yêu nước của Bác Hồ, Chỉ thị “Tiếp tục đổi mới công tác thi đua khen thưởng” của Bộ Chính trị và Luật Thi đua, khen thưởng sửa đổi. Tăng cường tuyên truyền về nội dung, ý nghĩa của các phong trào thi đua; vận động thu hút sự tham gia tự giác, tích cực của đông đảo cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động, các tầng lớp nhân dân, chiến sĩ các lực lượng vũ trang Thành phố. Đồng thời, chú trọng đổi mới nội dung, hình thức thi đua; các phong trào thi đua phải có mục tiêu, nội dung cụ thể, thiết thực, gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị của Thành phố, của cơ quan, đơn vị mình, gắn với thực hiện công việc hằng ngày, thi đua phải thường xuyên, liên tục, có kiểm tra, đôn đốc; coi trọng việc phát hiện, bồi dưỡng, nhân rộng các điển hình tiên tiến, tổng kết rút kinh nghiệm. Thi đua phải gắn với khen thưởng, khen thưởng phải trên cơ sở kết quả thi đua, khen thưởng phải đúng đắn, kịp thời, đúng người, đúng việc, đúng thành tích với những tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến, những gương người tốt, việc tốt; hết sức quan tâm tới khen thưởng người lao động, công nhân, nông dân, trí thức, văn nghệ sĩ, doanh nhân, chiến sĩ các lực lượng vũ trang. Cán bộ lãnh đạo, quản lý phải gương mẫu, đi đầu trong các phong trào thi đua, nêu gương cho quần chúng noi theo. Cán bộ càng cao thì yêu cầu gương mẫu, nêu gương phải càng cao. Phó Thủ tướng Thường trực cho rằng, chúng ta phải có những phong trào thi đua thiết thực gắn với thực tiễn cuộc sống hằng ngày, từ thi đua “phố phường sạch đẹp, đô thị văn minh” đến thi đua “phát triển đô thị thông minh, hạ tầng khang trang, giao thông phát triển, môi trường trong lành”, “Thành phố Hồ Chí Minh vì miền Nam, vì cả nước; miền Nam và cả nước vì Thành phố Hồ Chí Minh”, nhất là trong bối cảnh hiện nay Thành phố cần có những phong trào thi đua “nhân lực chất lượng cao, tận dụng cơ hội cách mạng công nghiệp 4.0” nhằm tạo ra nguồn nhân lực chất lượng đáp ứng yêu cầu phát triển của công nghệ, của đất nước; phong trào “thủ tục nhanh, gọn, cán bộ liêm chính” trong bộ máy hành chính Thành phố tạo môi trường thuận lợi cho cho người dân và doanh nghiệp. Thành phố cần phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân là động lực của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tiếp tục tập trung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và đội ngũ kỹ thuật cao để sẵn sàng chờ đón các dòng vốn đầu tư nước ngoài, tạo cơ hội vàng cho Thành phố phát triển. “Với truyền thống yêu nước, bất khuất, kiên cường, năng động sáng tạo và những kết quả đạt được trong phong trào thi đua của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân TPHCM trong những năm qua, tôi tin tưởng rằng phong trào thi đua yêu nước của Thành phố mang tên Bác Hồ kính yêu trong thời gian tới nhất định sẽ đạt được nhiều thành quả to lớn, đóng góp tích cực vào phong trào thi đua chung của cả nước, đưa nước ta tới đài vinh quang”, Phó Thủ tướng Thường trực nói. Khai mạc Đại hội thi đua yêu nước TPHCM lần thứ VII Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X dự kiến diễn ra vào tháng 12/2020 Khai mạc trọng thể Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ IX BT #Đại hội thi đua yêu nước TPHCM
1610704847953.98.parquet/42888
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 8689, "url": "https://voh.com.vn/chinh-tri-xa-hoi/pho-thu-tuong-thuong-truc-chinh-phu-du-dai-hoi-thi-dua-yeu-nuoc-tphcm-lan-thu-vii-368929.html" }
139.7
Triết học nghệ thuật của Selinh - Tài liệu, ebook, giáo trình Trang chủ Đăng ký Đăng nhập Liên hệ Tài liệu - Ebook Thư viện tài liệu, ebook, đồ án, luận văn, giáo trình tham khảo cho học sinh, sinh viên Triết học nghệ thuật của Selinh Selinh đã tiếp nhận và bổ sung, phát triển cả ba luận điểm ấy với những suy ngẫm riêng trong hệ thống mỹ học của mình. Tư tưởng thẩm mỹ của Selinh đã được trình bày và phát triển ở “Hệ thống chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm”, “Về mối quan hệ của nghệ thuật tạo hình với tự nhiên”, đặc biệt là trong “Triết học nghệ thuật” và được coi là cơ sở thế giới quan của các nhà lãng mạn Đức. Selinh đã trở thành lãnh tụ tư tưởng của chủ nghĩa lãng mạn Đức ở thời kỳ đầu, rồi đến lượt mình, chính các đại biểu của chủ nghĩa lãng mạn Đức lại có nhiều ảnh hưởng tới ông. Nói chung, trong hệ thống của Selinh, cương lĩnh mỹ học của chủ nghĩa lãng mạn đã tìm thấy sự thể hiện khái quát triết học nhất. 12 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Ngày: 18/01/2014 | Lượt xem: 1469 | Lượt tải: 4 Bạn đang xem nội dung tài liệu Triết học nghệ thuật của Selinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên TRIẾT HỌC NGHỆ THUẬT CỦA SELINH NGUYỄN HUY HOÀNG(*) Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và phân tích quá trình hình thành và phát triển tư tưởng của Selinh về nghệ thuật qua các giai đoạn: triết học tự nhiên, triết học tiên nghiệm, triết học đồng nhất, triết học tự do và mặc khải. Trên bình diện triết học nghệ thuật, Selinh không chỉ là một mắt xích, một vòng khâu trong tiến trình phát triển của triết học cổ điển Đức, mà còn là sự tiếp nối, sự vượt qua Cantơ, Phíchtơ và là một trong những tiền đề xuất phát của mỹ học Hêghen. Với những đóng góp đó, Selinh đã trở thành một trong những nhà lập luận của chủ nghĩa lãng mạn Đức. Trong bài viết này, tác giả cũng đã đưa ra những đánh giá về hạn chế và đóng góp của Selinh từ lập trường mỹ học mácxít. Phriđrích Vinhem Giôdép Selinh (1775 – 1854) là một gương mặt sáng giá của triết học cổ điển Đức. Các học thuyết triết học của hầu hết các nhà triết học cổ điển Đức sau Selinh, ít nhiều, đều chịu ảnh hưởng của ông. Không chỉ là người khơi thông và tiếp nối dòng chảy từ Phíchtơ đến Hêghen, những tư tưởng của ông còn có ảnh hưởng lớn lao đến đời sống tinh thần của châu Âu thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX; hơn nữa, nhiều phương diện trong học thuyết của ông đã được lý giải, tiếp nhận và phát triển trong những giai đoạn khác nhau. Sự tác động mạnh mẽ của Selinh vào triết học Nga qua các nhà triết học tự nhiên, như Đ.V.Velanxki, M.G.Páplốp, M.A.Mắcximôvích... và nhóm “yêu sự thông thái” ở Mátxcơva, rồi cả V.Xalôviép, là điều không thể phủ nhận. Ở thế kỷ XX, những tư tưởng của Selinh đã được tiếp nhận và phát triển trong triết học đời sống và triết học hiện sinh. C.Mác và Ph.Ăngghen đã đánh giá cao phép biện chứng trong triết học tự nhiên, cũng như học thuyết phát triển của Selinh, coi đó là những nhân tố quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành triết học của Hêghen. Sự phát triển tư tưởng triết học của Selinh là một quá trình lâu dài và phức tạp. Trong quá trình suy ngẫm triết học của ông, chúng ta thấy nổi lên ba khái niệm vô cùng quan trọng: tự nhiên, đồng nhất và mặc khải. Ba khái niệm cơ bản ấy đã được cụ thể hoá trong các công trình cơ bản của ông, như triết học tự nhiên (từ giữa những năm 90 của thế kỷ XVIII), chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm (1800 – 1801), triết học đồng nhất (trước 1840), triết học tự do (trước 1813) và cuối đời là triết học mặc khải. Chủ nghĩa lãng mạn nảy sinh và phát triển vào thời kỳ lịch sử giữa cách mạng Pháp năm 1789 và cách mạng dân chủ tư sản châu Âu năm 1844. Chủ nghĩa lãng mạn là một bước ngoặt trong lịch sử văn hoá, nghệ thuật và tư tưởng thẩm mỹ của châu Âu. Trên bình diện lịch sử, chủ nghĩa lãng mạn đã thay thế trào lưu Khai sáng. Tuy nhiên, việc đối lập trực tiếp hai trào lưu này với nhau không đem lại cho chúng ta khả năng hiểu biết những đặc điểm của chủ nghĩa lãng mạn. Những nghiên cứu lịch sử cụ thể đã chỉ ra rằng, các đặc điểm quan trọng nhất của chủ nghĩa lãng mạn đã được chuẩn bị bởi thời đại Khai sáng. Mỹ học của chủ nghĩa lãng mạn được xây dựng trên cơ sở của hai tiền đề giá trị học: 1- Nghệ thuật là một giá trị cao quý nhất; 2- Người nghệ sỹ là thiên tài, là một kiểu mẫu cao cả. Đó cũng chính là sự tôn sùng nghệ thuật, tôn sùng tự nhiên và tôn sùng cá tính sáng tạo. Những vấn đề này ít nhiều đã được Selinh đề cập đến qua các tác phẩm đã nói ở trên trong quá trình tìm kiếm, xây dựng và phát triển lý luận mỹ học của mình. Đối với các nhà lãng mạn, nghệ thuật là hình thái hoạt động tinh thần cao nhất, vượt lên trước cả giác tính và lý tính. Nôvalisơ đã tuyên bố rằng, thi ca là nữ thần của triết học; rằng, triết học là lý luận về thi ca. Hơn nữa, ông còn khẳng định rằng, trong tương lai không xa, mọi người sẽ chỉ đọc các tác phẩm nghệ thuật. Nhà thơ thấu hiểu tự nhiên hơn các nhà khoa học, vì thi ca trực tiếp bắt nguồn từ tự nhiên. Tự nhiên không bao giờ cạn; nó vô cùng vô tận, phong phú hơn, phức tạp hơn tất cả những cái mà khoa học đã biết về nó. Bởi thế, nhà thơ - nhà lãng mạn nói về tự nhiên có một cái gì đó lớn hơn so với người bình thường. Nhà thơ sùng kính và ngưỡng mộ cái siêu nhiên thần bí và chưa được biết trong tự nhiên. Tài năng và cá tính sáng tạo của người nghệ sỹ là sức mạnh vừa tự nhiên, vừa siêu nhiên và thần bí. Nghệ sỹ là công cụ vô ý thức của lực lượng cao cả. Nghệ sỹ thuộc về tác phẩm của mình, nhưng tác phẩm lại không thuộc về anh ta. Selinh đã tiếp nhận và bổ sung, phát triển cả ba luận điểm ấy với những suy ngẫm riêng trong hệ thống mỹ học của mình. Tư tưởng thẩm mỹ của Selinh đã được trình bày và phát triển ở “Hệ thống chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm”, “Về mối quan hệ của nghệ thuật tạo hình với tự nhiên”, đặc biệt là trong “Triết học nghệ thuật” và được coi là cơ sở thế giới quan của các nhà lãng mạn Đức. Selinh đã trở thành lãnh tụ tư tưởng của chủ nghĩa lãng mạn Đức ở thời kỳ đầu, rồi đến lượt mình, chính các đại biểu của chủ nghĩa lãng mạn Đức lại có nhiều ảnh hưởng tới ông. Nói chung, trong hệ thống của Selinh, cương lĩnh mỹ học của chủ nghĩa lãng mạn đã tìm thấy sự thể hiện khái quát triết học nhất. Trong “Hệ thống chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm”, Selinh đã xem xét những vấn đề mỹ học gắn với việc xây dựng hệ thống triết học của mình. Ông tìm kiếm một khả năng nhận thức mà ở đó, dường như những mặt đối lập của nhận thức, những mâu thuẫn giữa chủ thể và khách thể, tự do và tất yếu đều được cởi bỏ với tư cách khái niệm xuất phát của hệ thống này. Ông coi khái niệm “trực cảm lý trí” chính là khái niệm cần tìm kiếm. Sự phân hoá bất tận của chủ thể và khách thể, “cái Tôi” và “cái Không phải Tôi” tạo nên đối tượng chủ yếu trong triết học và mỹ học của Phíchtơ đã được khắc phục ở Selinh trong “trực cảm lý trí”. Đối với Selinh, “trực cảm lý trí” đã trở thành công cụ chủ yếu để nhận thức triết học. Hơn nữa, thưởng ngoạn thẩm mỹ là hình thức cao nhất của “trực cảm lý trí”. Thưởng ngoạn thẩm mỹ là khách quan, có giá trị chung và cần thiết cho mọi hình thái nhận thức. Xác định vị trí của thưởng ngoạn thẩm mỹ trong hệ thống của mình, Selinh đã viết: “Toàn bộ hệ thống dường như được triển khai giữa hai cực đối lập nhau mà một cực là thưởng ngoạn lý trí, còn cực kia là thưởng ngoạn thẩm mỹ... Thưởng ngoạn lý trí là cần thiết chỉ ở mục đích định hướng tinh thần và được thể hiện chỉ trong triết lý, khi nó vẫn còn ở ngoài vòng ý thức thông thường; thưởng ngoạn thẩm mỹ... có tính khách quan và phổ biến, nảy sinh ở mọi ý thức”(1). Như vậy, ở mức độ thẩm mỹ, sự thưởng ngoạn là có tính khách quan và phổ biến. Tính phổ biến là quan trọng, bởi theo Selinh, không phải ai cũng hiểu được triết học. Do vậy, triết học nằm ngoài giới hạn “ý thức thông thường”, còn thưởng ngoạn thẩm mỹ lại được thể hiện ở mọi ý thức. Nghệ thuật cao hơn triết học, bởi lẽ, dù cho triết học có đạt tới những độ cao hùng vĩ nhất thì ở những độ cao ấy, nó cũng chỉ lôi cuốn được một phần nhỏ của con người; còn nghệ thuật cho phép đạt tới độ cao ấy với con người nguyên vẹn(2). Theo Selinh, tự nhiên đã tìm thấy sự hoàn tất của mình trong sáng tạo nghệ thuật và trong nghệ thuật, sự tự ý thức lại đi tới tự nhiên. Cái mà chúng ta vẫn gọi là tự nhiên, rốt cuộc, chỉ là một bản trường ca được ẩn giấu dưới những chữ viết bí ẩn và kỳ diệu(3). Selinh hoàn toàn tán đồng sự tôn thờ thiên nhiên của chủ nghĩa lãng mạn. Trong triết học tự nhiên, ông lưu tâm nhiều đến giới hữu cơ, đến sự sống; còn ở đây, trong thế giới tinh thần, ông coi nghệ thuật là cái giữ vai trò như vai trò của cơ thể trong tự nhiên. Tác phẩm hữu cơ của tự nhiên là sự hài hoà không chia cắt, còn tác phẩm nghệ thuật là sự kết hợp hài hoà sau khi đã có sự phân chia. Người nghệ sỹ đã tái tạo lại thế giới trong tác phẩm nghệ thuật của mình. Chính ở đây, lý luận sáng tạo của Selinh đã thể hiện sự tổng hợp độc đáo những quan điểm trái ngược nhau của thời kỳ lãng mạn, đã vượt qua chủ nghĩa chủ quan trong lý luận sáng tạo của Slegen. Theo ông, vào lúc khởi đầu của quá trình sáng tạo, người nghệ sỹ trải qua cảm giác về sự phân rã vô cùng tận - cái cảm giác mà Slegen đã cảm nhận thấy, nhưng trong kết quả, anh ta lại đi đến sự hài hoà vô tận - cái hài hoà đã được thể hiện trong tác phẩm nghệ thuật của mình (4). Để hiểu mỹ học của Selinh, không thể không nói đến diễn văn được đọc tại Viện Hàn lâm nghệ thuật Muynkhen vào ngày 12 tháng 10 năm 1807 với tiêu đề “Mối quan hệ của nghệ thuật tạo hình với tự nhiên”. Từ sớm, Selinh đã quan tâm đến mối quan hệ này. Song, mỗi lần đề cập đến mối quan hệ đó, ông luôn có những suy nghĩ mới. Trong bài diễn văn này, ông cho rằng, nhiệm vụ của nghệ thuật là bắt chước tự nhiên. Theo ông, sự khủng hoảng của lý luận bắt chước tự nhiên chỉ nảy sinh khi người ta hiểu nó một cách phiến diện, một chiều: bắt chước các hình thức của tự nhiên. Những nghệ sỹ vĩ đại của quá khứ chẳng bao giờ cho phép mình bắt chước một cách hình thức như thế cả. Họ luôn luôn mang vào nghệ thuật sự thấu hiểu tự nhiên, khởi nguyên tinh thần và ý nghĩa nào đó. Nhưng những ý định bắt chước các tác phẩm nghệ thuật vĩ đại cũng trở nên vô nghĩa như việc bắt chước các hình thức của tự nhiên, bởi trước mắt chúng ta chỉ là những kết quả của hoạt động tinh thần, chứ không phải là bản thân hoạt động ấy. Tất cả các nghệ sĩ vĩ đại đều xuất phát từ tinh thần của thời đại mình để hoạt động, còn lịch sử nhân loại là một quá trình phát triển tinh thần liên tục mà mỗi một giai đoạn mới lại đòi hỏi những hình thức mới. Do vậy, việc bắt chước các nghệ sỹ vĩ đại một cách thực sự là muốn nói đến sự sáng tạo. Ở đây và chính ở lúc này, cái chủ quan và cái khách quan đi tới sự hoà hợp và lý luận bắt chước tự nhiên có ý nghĩa đúng đắn của mình: quá trình sáng tạo đã tạo nên bản chất sâu xa nhất của tự nhiên. Như vậy, người nghệ sỹ cần bắt chước không phải những hình thức của tự nhiên, mà là bản chất của tự nhiên - quá trình sáng tạo. Với quan niệm này, Selinh cho rằng, “chúng ta cần phải thoát ra khỏi những giới hạn của chính hình thức này, để bằng sự thấu hiểu, lại một lần nữa, tìm thấy nó trong tính sống động và chân thật của nó”(5). Theo ông, quá trình sáng tạo của tự nhiên là quá trình thường xuyên, không ngừng tiến tới sự trọn vẹn, thống nhất, chỉnh thể. Quá trình tiến hoá diễn ra từ tự nhiên vô cơ tới thế giới sống. Ở trạng thái hữu cơ, tự nhiên dường như đang thống nhất tất cả những nỗ lực đã bị tản mát của mình trong giới vô cơ. Con người là thành tựu cao nhất của thế giới sống. Cá tính của con người thể hiện sự toàn vẹn cao nhất của tự nhiên có tổ chức. Cuộc sống bên trong của con người, lịch sử phát triển tinh thần của nhân loại là sự tiếp nối, là giai đoạn cao nhất trong quá trình sáng tạo của tự nhiên. Bởi thế, bắt chước tự nhiên không phải là bắt chước các hình thức, mà là sự thể hiện bản chất bên trong của con người. Cũng do vậy, xem xét toàn bộ tự nhiên qua lăng kính của con người là đòi hỏi bắt buộc trong sáng tạo nghệ thuật. Mỹ học của chủ nghĩa lãng mạn đã thể hiện một cách có hệ thống nhất trong “Triết học nghệ thuật” của Selinh. Song, công trình của Selinh không đơn giản là hệ thống hoá, sắp xếp lại những đoạn văn rời rạc được viết rải rác trong thời kỳ này, mà sâu xa hơn, là việc xây dựng mỹ học với tư cách triết học. Cống hiến chủ yếu của ông trong tác phẩm này là ở chỗ, lần đầu tiên, cái nhìn biện chứng xuyên qua toàn bộ thế giới nghệ thuật, qua lịch sử và hình thái của nó từ cấp độ quan niệm chung nhất đến những tác phẩm nghệ thuật đơn nhất, cụ thể đã được đặt ra. Nếu trong “Hệ thống chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm”, Selinh mới chỉ đề cập đến mỹ học trong sự gắn bó với các vấn đề chung của triết học, thì trong “Triết học nghệ thuật”, ông đã xây dựng một hệ thống mỹ học hoàn chỉnh. Có thể nói, sau “Phê phán năng lực phán đoán” của I.Cantơ, “Triết học nghệ thuật” là tác phẩm xuất sắc về mỹ học trong dòng triết học cổ điển Đức. Thật vậy, nghệ thuật luôn có một vị thế tinh thần lớn lao, nhưng điều đó không có nghĩa rằng sự vô trật tự, hỗn loạn của nghệ thuật có quyền thống trị trong đầu của nhà triết học. Triết học là khoa học, nhưng cũng là phi khoa học. Với tư cách là phi khoa học, triết học hướng tới sự chiêm nghiệm và tưởng tượng. Với tư cách là khoa học, nó đòi hỏi phải có hệ thống. Nếu phương pháp kiến tạo, cơ cấu hệ thống đã tỏ ra thích hợp trong triết học tự nhiên thì giờ đây, Selinh lại muốn tiếp tục áp dụng nó vào triết học nghệ thuật. Phương pháp kiến tạo của ông đối lập với sự nghiên cứu “bác học” về lịch sử thẩm mỹ – cái được xây dựng trên cơ sở của các sự kiện và nghiên cứu kinh nghiệm. Mục đích của triết học nghệ thuật không chỉ dừng lại ở nghiên cứu nghệ thuật mà là kiến tạo nghệ thuật, nghĩa là lấy toàn bộ các hiện tượng và những đặc trưng của nó từ khái niệm “cái tuyệt đối”. Định nghĩa khái niệm là chỉ ra vị trí của nó trong hệ thống vũ trụ. “Kiến tạo nghệ thuật là xác định vị trí của nó trong vũ trụ. Xác định vị trí này là cách định nghĩa duy nhất của nghệ thuật...”(6). Từ quan điểm hệ thống của Selinh thì thế giới là một chỉnh thể được phân ra thành hai mảng đối lập nhau: thế giới lý tưởng và thế giới hiện thực (tự nhiên). Sự thống nhất giữa lý tưởng và hiện thực là cái xuyên suốt toàn bộ thế giới. Song chỉ ở trong thế giới lý tưởng, ưu thế trong sự thống nhất này mới thuộc về lý tưởng, còn trong thế giới hiện thực, trong tự nhiên, thì ưu thế của sự thống nhất lại thuộc về hiện thực. Nghệ thuật là sản phẩm cao nhất của thế giới lý tưởng, song nó lại hợp nhất, thống nhất thế giới lý tưởng này với thế giới hiện thực, bởi nó chính là sự khách thể hoá cái lý tưởng. Hơn nữa, các sản phẩm của sự khách thể hoá ấy là các tác phẩm nghệ thuật cũng giống như tự nhiên trong tính chỉnh thể của nó có sản phẩm cao nhất là cơ thể sống, cá thể sống. Nhưng nghệ thuật là cơ thể sống trong thế giới lý tưởng, bởi nó là sản phẩm hoạt động tinh thần của con người và đối với nó, con người cũng chỉ như là cái tinh thần. Đồng thời, nghệ thuật còn được khách thể hoá trong sự vật cảm tính. Xuất phát từ tính hai mặt này, Selinh đã xác định bản chất của nghệ thuật trước hết là ở sự không phân biệt cái lý tưởng và cái hiện thực. Theo đó, quan điểm đồng nhất chủ thể và khách thể, lý tưởng và hiện thực đã trở thành điểm xuất phát của triết học nghệ thuật. Trong sự đồng nhất này, Selinh đã phân biệt những nhân tố mang ý nghĩa riêng biệt, do vậy, có thể xem xét nó từ phương diện lý tưởng, từ hiện thực hay không thể phân biệt rõ cái này với cái khác. Theo ông, “sự không phân biệt lý tưởng và hiện thực là sự không phân biệt được thể hiện ở thế giới lý tưởng thông qua nghệ thuật, bởi nghệ thuật tự nó không chỉ là hoạt động, là tri thức, mà còn là hoạt động xuyên suốt khoa học hay ngược lại, tri thức hoàn toàn trở thành hoạt động. Nói cách khác, nó là sự không phân biệt của cả cái này lẫn cái khác”(7). Tuy nhiên, sự không phân biệt lý tưởng và hiện thực không che lấp việc nghệ thuật là một chỉnh thể hữu cơ đa phương diện và bản chất của nó không được đặt vào những khuôn khổ của một công thức chết cứng. Selinh đã xới tung những phương diện khác nhau của nó: cái chủ quan và cái khách quan, tự do và tất yếu, hữu hạn và vô hạn, v.v.. Đó là các cặp phạm trù biện chứng và khái niệm cái đẹp nảy sinh trong sự giao nhau của chúng: “Cái đẹp không chỉ là cái chung hay cái lý tưởng (nó = chân lý), không chỉ là cái hiện thực (nó được biểu hiện trong hành động). Như vậy, cái đẹp chỉ là sự thâm nhập lẫn nhau, sự liên kết hoàn thiện của cái này với cái khác. Cái đẹp xuất hiện ở đâu thì ở đó, cái đặc thù (cái hiện thực) cũng xuất hiện một cách tương ứng ở mức độ như thế với khái niệm của mình. Nó là cái vô hạn nhập vào cái hữu hạn và được chiêm nghiệm trực tiếp (in concreto)”(8). Lý giải nghệ thuật như là sự thể hiện đầy đủ và hoàn chỉnh nhất bản chất của thế giới và với hy vọng triết học nghệ thuật sẽ tạo nên tri thức tương ứng với đối tượng của nó, Selinh đã chuyển từ những đặc trưng nói chung của nghệ thuật sang những thuộc tính đặc thù của nó và đưa các phạm trù vào nghệ thuật trong tính chỉnh thể của nó. Còn hệ thống nghệ thuật được ông triển khai theo những cấp độ xem xét ngày càng chi tiết hơn, cụ thể hơn. Theo ông, mỗi tiểu hệ thống của các hình thức đều phải được đối chiếu, so sánh ở một mức độ nào đó và mỗi hiện tượng cũng phải được xem xét từ vị trí của nó trong hệ thống. Phương pháp này được ông gọi là sự kiến tạo. Với phương pháp này, ông đã xem xét nghệ thuật phương Đông cổ đại, nghệ thuật Hy Lạp cổ đại và nghệ thuật Thiên Chúa giáo như là ba hình thái nghệ thuật tương quan với nhau một cách biện chứng và coi đó cũng là ba giai đoạn trong lịch sử nghệ thuật với tư cách một quá trình diễn tiến chẳng bao giờ khép kín. Sau khi xem xét các hình thái lịch sử của nghệ thuật, Selinh tiếp tục nghiên cứu các hình thức của nó trên phương diện hình thái học. Ở phương diện này, ông cũng đã xem xét các hình thức riêng biệt, khi tính đến sự biến đổi và sự chế định lịch sử của chúng. Ở Selinh, phương diện lịch sử và phương diện hình thái học không kết dính vào nhau như ở Hêghen sau này, mà được đặt ra để đối chiếu, so sánh với nhau. Selinh đã xem xét hình thái học nghệ thuật (các thể, loại, kiểu của nó) như một lĩnh vực của các hình thức thể hiện biểu tượng, hay ngôn ngữ biểu tượng, như sự phân hoá của một bản chất thống nhất. Toàn bộ sự đa dạng của các hình thức tạo nên một hệ chỉnh thể hữu cơ đang phát triển, một hệ thống mong muốn sử dụng toàn bộ những biến thể có khả năng của ngôn ngữ biểu tượng. Thể chế bên trong của “vũ trụ nghệ thuật” được sắp đặt để sao cho mỗi một hình thức đều có mặt đối lập đi kèm với nó, còn những mặt đối lập lại gắn bó với nhau một cách tương tự như thế ở bên trong. Như vậy, ở đây đã có sự thể hiện nguyên tắc tam đoạn luận biện chứng. Hệ thống các hình thức được triển khai trước hết thành hai dãy - lý tưởng và hiện thực. Tất cả những hình thức của nghệ thuật ngôn từ thuộc về dãy lý tưởng chừng nào chúng tồn tại trong hình thức các ý niệm của lý tính. Những hình thức còn lại thuộc về dãy thứ hai – dãy hiện thực. Đến lượt mình, dãy hiện thực được triển khai thành ba hình thức: âm nhạc, hội hoạ và tạo hình. Trong dãy lý tưởng, các thể loại của nghệ thuật ngôn từ cũng tương ứng với mức độ ấy. Bởi thế, có thể nói, thơ trữ tình, sử thi và kịch chính là âm nhạc, hội hoạ và tạo hình ở trong ngôn từ. Mỗi một tiểu hệ thống như thế đều có những tính quy luật của chúng. Ví dụ, âm nhạc tuân theo thước đo thời gian, hội hoạ sống trong thế giới phẳng hai chiều, còn tạo hình trong không gian ba chiều. Ngoài ra, âm nhạc và hội hoạ còn đối lập với nhau như lược đồ và phúng dụ (cách nói ngụ ý, bóng gió), còn tạo hình với tư cách biểu tượng chính là sự tổng hợp của chúng. Đến lượt mình, tạo hình bao gồm kiến trúc, phù điêu và tượng tròn. Ba hình thức này phản ánh dãy hình thức mà tạo hình cũng nằm trong đó: âm nhạc, hội hoạ và chính bản thân tạo hình. Bởi thế mà tượng tròn được xác định như “tạo hình vốn có”, còn kiến trúc là “âm nhạc bị chết cứng”(9). Đến lượt mình, âm nhạc lại được xem như là sự thống nhất của nhịp điệu, hoà âm và giai điệu, mà những nhân tố này lại tương ứng với những cơ sở vốn có của âm nhạc, hội hoạ và tạo hình trong kết cấu nội tại của nó. Hệ thống hình thái học của Selinh được triển khai đến tận các thể loại riêng biệt. Đương nhiên, ở Selinh, bản chất của hệ thống nghệ thuật không chỉ là ở việc phân loại các hình thức. Dù chứa đựng một sự gượng gạo nào đó, nhưng các hình thức nghệ thuật luôn nằm trong mối liên hệ nội tại. Với mối liên hệ này, chúng ta có thể hiểu được các hình thức nghệ thuật ấy. Lần đầu tiên, nghệ thuật đã được Selinh hình dung như một hệ thống phức hợp đang phát triển một cách biện chứng. Vậy, cái mới của Selinh là ở đâu? Cái mới của Selinh chính là ở chỗ, hệ thống các hình thái nghệ thuật dường như diễn ra từ bên trong và được diễn dịch từ một cơ sở thống nhất, chứ không phải được tạo thành bởi sự đối chiếu đơn thuần những dẫn liệu có tính chất kinh nghiệm nhằm miêu tả các thông số của từng loại hình hay từng loại(10). Đó là kết quả của việc vận dụng phương pháp mới vào nghiên cứu nghệ thuật. Phương pháp luận của hình thái học nghệ thuật mà Selinh đưa ra là mới mẻ, độc đáo và về nhiều điểm, nó đã dự báo trước sự xuất hiện của phương pháp luận Hêghen. Phương pháp nghiên cứu hệ thống như một chỉnh thể hữu cơ đã cho phép Selinh xem xét mỗi hình thức nghệ thuật như một chỉnh thể đa diện, có kết cấu nội tại. Phương pháp này giúp chúng ta nhận thấy rằng, quá trình triển khai hệ thống từ cái chung tới cái đặc thù thông qua việc phân tích từng hình thức bằng cách đối lập nó với những hình thức khác để đảm bảo có được sự xem xét đa dạng. Sự đa dạng này góp phần khắc phục tính công thức, sơ lược của các phạm trù đã được hệ thống hoá và giúp chúng ta hiểu một cách tổng thể từng hình thức. Với Selinh, các hình thức của nghệ thuật không phải là hình thức thuần tuý, mà là sự thống nhất của hình thức và ý nghĩa, là các hình thức mang ý nghĩa và tạo nên ý nghĩa. Từ quan niệm này, ông đã xem xét tính chỉnh thể hữu cơ của tất cả các hiện tượng nghệ thuật trong mối liên hệ chặt chẽ với nguyên tắc lịch sử, đồng thời coi nguyên tắc lịch sử là nguyên tắc xuất phát trong sự phân tích của mình. Thế nhưng, trong cái tuyệt đối của ông lại không có chỗ cho sự vận động và phát triển, cũng không có cả thời gian. Chừng nào mà hệ thống nghệ thuật phản ánh không phải cái gì khác ngoài cái tuyệt đối mà ở đó, thời gian lại ngừng tồn tại thì đương nhiên, nghệ thuật, rốt cuộc, cũng bị loại trừ ra khỏi thời gian. Song, nơi dừng lại của Selinh lại là nơi bắt đầu của Hêghen trong dòng chảy triết học cổ điển Đức. (*) Tiến sĩ, Trưởng phòng Triết học Văn hoá, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam. (1) Selinh. Tác phẩm gồm hai tập, t.1. Mátxcơva, 1987, tr. 483. (2) Xem: Selinh. Sđd., tr. 486. (3) Xem: Selinh. Sđd., tr. 484. (4) Xem: Selinh. Sđd., tr. 375-376. (5) Dẫn theo: Lý luận văn học của chủ nghĩa lãng mạn Đức. Mátxcơva, 1984, tr. 296. (6) Selinh. Triết học nghệ thuật. Mátxcơva, 1966, tr. 72. (7) Selinh. Sđd., tr. 80. (8) Selinh. Sđd., tr. 81 - 82. (9) Selinh. Sđd., tr. 281. (10) Xem: M.Cagan. Hình thái học của nghệ thuật. Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2004, tr. 100-101. Các file đính kèm theo tài liệu này: triet_hoc_93__8736.pdf Tài liệu liên quan Tiểu luận Triết học cổ điển Đức 9 trang | Lượt xem: 12712 | Lượt tải: 149 Tiểu luận Vai trò của lực lượng sản xuất trong đời sống xã hội và sự vận dụng của Đảng vào quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay 17 trang | Lượt xem: 4151 | Lượt tải: 15 Tiểu luận Nội dung của triết học Phật giáo, ảnh hưởng của nó đến đời sống xã hội Việt Nam 22 trang | Lượt xem: 17339 | Lượt tải: 289 Tiểu luận Xây dựng và phát triển văn hoá Công ty Tài Chính Dầu Khí – PVFC trong quá trình đổi mới 23 trang | Lượt xem: 1503 | Lượt tải: 3 Tiểu luận Tư tưởng nho giáo trong các gia đình Việt Nam hiện nay 10 trang | Lượt xem: 1995 | Lượt tải: 27 Tiểu luận Lịch sử về trái đất và hệ mặt trời từ cổ đại đến hiện nay 17 trang | Lượt xem: 5373 | Lượt tải: 21 Tiểu luận Đặc điểm nổi bật của hệ tư tưởng Nho giáo Việt Nam thời phong kiến 27 trang | Lượt xem: 4655 | Lượt tải: 55 Tiểu luận Phân tích và chứng minh luận điểm: Sự phân đôi của cái thống nhất và sự nhận thức các bộ phận đối lập của nó…đó là thực chất…của phép biện chứng 19 trang | Lượt xem: 5888 | Lượt tải: 17 Tiểu luận Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, lý luận lẫn thực tiễn 24 trang | Lượt xem: 13799 | Lượt tải: 125 Đề tài Nguồn gốc và cơ sở lý luận về con người 26 trang | Lượt xem: 3896 | Lượt tải: 35 Copyright © 2020 Doc.edu.vn - Chia sẻ những Thủ thuật tin học, phần mềm hay, hướng dẫn giải bài tập
1610704847953.98.parquet/11770
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 22549, "url": "http://doc.edu.vn/tai-lieu/triet-hoc-nghe-thuat-cua-selinh-55873/" }
139.4
Sigmund Freud -Người khai phá những miền sâu của cảm xúc con người - Tài liệu, ebook, giáo trình Trang chủ Đăng ký Đăng nhập Liên hệ Tài liệu - Ebook Thư viện tài liệu, ebook, đồ án, luận văn, giáo trình tham khảo cho học sinh, sinh viên Sigmund Freud -Người khai phá những miền sâu của cảm xúc con người Freud coi những giấc mơ như là “con đường trực tiếp dẫn tới những hiểu biết về trạng thái vô thức”. Những giấc mơ là sự thực hiện một cách trá hình những mong muốn vô thức. Khi lý giải ý nghĩa của những giấc mơ thông qua một quá trình giải thích, Freud dựa vào sự khác biệt cơ bản giữa nội dung biểu hiện (giấc mơ như bản thân nó hay như khi đượcnhớ lại lúc tỉnh giấc) và nội dung tiềm tàng (những suy nghĩ –mơ một cách vô thức). Freud tin chắc rằng, sự giải thích thông qua việc liên tưởng tới những thành tố đặc biệt của nội dung hiển hiện trái ngược với quá trình hình thành giấc mơ. Công việc mơ là công việc mà trong đó, rất nhiều cơ chế bóp méo khác nhau hoạt động vào những phần còn lại của ngày (những nhận thức và suy nghĩ từ ban ngày trước khi giấc mơ được mơ) và những suy nghĩ –mơ tiềm tàng để làm nên những giấc mơ hiển hiện. Chủ nghĩa tượng trưng ít nổi bật trong lý thuyết về giấc mơ của Freud hơn là mọi người vẫn nghĩ. 9 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Ngày: 18/01/2014 | Lượt xem: 3084 | Lượt tải: 12 Bạn đang xem nội dung tài liệu Sigmund Freud -Người khai phá những miền sâu của cảm xúc con người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên DANH NHÂN TRIẾT HỌC Sigmund Freud - Người khai phá những miền sâu của cảm xúc con người Sigmund Freud (1856 - 1939) – nhà thần kinh học, tâm lý học người Áo. Ông sinh ra trong một gia đình Do thái tại Freiburg. Năm lên bốn tuổi, Freud cùng gia đình chuyển đến Vienne sinh sống và ông nghiên cứu gần như trọn cuộc đời mình tại đây. Ngay từ khi còn nhỏ, Freud đã luôn thể hiện là một người thông minh, học giỏi. Năm 1873, ông thi đỗ và theo học ngành y tại Đại học Tổng hợp Vienne với thành tích rất tốt. Freud bắt đầu những nghiên cứu về một số hiện tượng giải phẫu – sinh lý học của hệ thần kinh, khi ông làm việc tại phòng thí nghiệm của E.W.Brucke vào năm 1876. Người có ảnh hưởng lớn nhất đến tư tưởng của Freud trong nghiên cứu về những nguyên nhân tâm lý đối với bệnh tâm thần là Jean Martin Charcot (1825 - 1893) - một nhà bệnh lý học và thần kinh học nổi tiếng người Pháp. Chính xuất phát từ đây, bằng kinh nghiệm chữa bệnh lâu năm và việc không ngừng tìm tòi nghiên cứu, Freud đã dần dựng nên nền tảng của ngành phân tâm học. Với những công trình nghiên cứu này, ông đã được thừa nhận là người đặt nền móng và phát triển lĩnh vực nghiên cứu về tinh thần. Mặc dù cho đến nay, lý thuyết về phân tâm học của ông vẫn còn gây nhiều tranh cãi, nhưng có một điều không thể phủ nhận được rằng, ông là một nhà tư tưởng có ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng hiện đại. Những ý niệm của Freud về trạng thái vô thức, về tinh thần bị phân liệt để chống lại chính nó, về ý nghĩa của những hành vi tưởng chừng như vô nghĩa, về sự thay thế và hoán chuyển của xúc cảm, về những giai đoạn của sự phát triển tâm lý tính dục và nguồn gốc tính dục của bệnh thần kinh, về sự lan tỏa và tầm quan trọng của động cơ tình dục cũng như rất nhiều ý niệm khác nữa của ông, đã giúp hình thành nên quan điểm hiện đại về ý thức. Ngôn ngữ của ông và cả của các bản dịch tác phẩm của ông như là những phần rõ rệt của tinh thần (Ví dụ: cái ấy, cái tôi và cái siêu tôi), những kiểu rối loạn (như rối loạn thần kinh chức năng gây ra ám ảnh…) hay cấu trúc của kinh nghiệm (ví dụ: phức cảm Oedipus, sự tự kỷ…) đã trở thành ngôn ngữ mà ngày nay, chúng ta hiện đang sử dụng để mô tả và tìm hiểu về bản thân và về những người khác. Theo đó, có thể nói, Freud chính là nhà tư tưởng tiên phong trong việc khai phá những miền sâu của cảm xúc con người. Bước khởi đầu cho những khám phá của Freud về những miền sâu của cảm xúc con người là những nghiên cứu để tìm ra phương pháp chữa trị căn bệnh hysteria – trạng thái rối loạn bao gồm một hệ thống những triệu chứng mà dường như, không có các nguyên nhân rõ ràng. Freud đã đi đến nhận định rằng, “chứng hysteria chịu tác động chủ yếu của sự hồi tưởng”, đặc biệt là sự chôn vùi, che giấu quá khứ bị tổn thương và những xúc cảm bị đè nén đã thể hiện ra ngoài dưới hình thức bóp méo của các triệu chứng thể chất. Từ nhận định đó, ông đưa ra cách “điều trị” bao gồm sự hồi tưởng những ký ức bị dồn nén nhằm dần loại bỏ, giải tỏa những mặc cảm và những xúc cảm bị đè nén trong quá khứ. Đó chính là phương pháp ám thị thôi miên - điều mà sau này tạo nền tảng cho lý thuyết về sự cám dỗ của Freud. Lý thuyết đó chỉ ra rằng, những triệu chứng hysteria là do những chấn thương bởi sự tấn công về tình dục từ thời niên thiếu, đặc biệt là từ người cha. Tuy nhiên, về sau, Freud đã từ bỏ lý thuyết này vì giả thuyết năng lượng vẫn còn mơ hồ của mình. Freud cho rằng, những hình ảnh tưởng tượng có thể có tác động giống như những ký ức về các sự kiện thực tế. Theo ông, sự lặp lại của các triệu chứng luôn được kích thích bởi năng lượng nội tâm, đặc biệt là năng lượng tình dục. Trên con đường khám phá những miền sâu của tâm lý con người, lấy cái vô thức làm đối tượng nghiên cứu chính, Freud đã nhận thấy nội dung của cái vô thức gắn liền với vấn đề tính dục một cách trực tiếp. Điều này đã được ông trình bày một cách khá rõ ràng trong các lý thuyết của mình, đặc biệt là lý thuyết về tình dục. Có một điều chắc chắn rằng, Freud đã nhận thấy ảnh hưởng của tính dục ở hầu hết mọi nơi, vì ông quan niệm tính dục không chỉ bao hàm sự giao hợp, mà còn là tình yêu. Thứ tình yêu đó, theo ông, là thứ tình yêu mãnh liệt, một thứ tình yêu đủ sức hấp dẫn tới mức, khi cần, người ta có thể hy sinh cả cuộc sống của chính mình. Và do vậy, nó phải là một cái gì mãnh liệt hơn tình yêu thông thường cả về số lượng và chất lượng(1). Freud còn cho rằng, bản năng tính dục (sex instinct) là nguồn gốc của mọi công trình mang tính sáng tạo nhất; nó được hiểu là cái được cấu thành từ các thành tố luôn biến thiên theo những chiều kích khác nhau (như nguồn gốc, mục đích và đối tượng). Trong cuốn Ba tiểu luận về lý thuyết tính dục (1905), Freud cho rằng rất khó có thể hiểu được những biến dạng phong phú của tính dục, mặc dù nó khác khái niệm thông thường về bản năng tính dục. Khái niệm tính dục được mở rộng của ông đã tạo ra sự dễ hiểu về những ưu tiên tình dục, nhấn mạnh đến những nguồn khác nhau của bản năng tính dục (những trung tâm kích thích trên cơ thể), những mục đích (những hành động, kiểu như sự giao hợp và nhìn nhau được thiết kế để đạt đến khoái cảm và sự thoả mãn), và những đối tượng (có thể cùng giới hoặc khác giới, hoặc thậm chí không phải là những người đang sống). Nó cũng cho phép nhận ra bản năng tính dục ở trẻ con, những hiện tượng mà bề ngoài tưởng như không mang dục tính (ví dụ trẻ sờ ti mẹ) đã thể hiện những đặc điểm bản chất của các hành vi tính dục rõ ràng (cảm giác của trẻ còn đang bú mẹ bao gồm sự kích thích dễ chịu của cùng khu vực gợi tình như ở người lớn, ví dụ như miệng, tương tự như sự kích thích ở các hành vi tình dục của người lớn, chẳng hạn như hôn) và có thể được hiểu như là những giai đoạn đầu trong sự phát triển của bản năng tính dục và thể hiện ở rất nhiều hình thức khác nhau của bản năng này khi chúng trưởng thành. “Chứng nhiễu tâm”, cái mà Freud coi là “tính tiêu cực của sự đồi truỵ” (nghĩa là, ở một số người, những mong muốn bị kiềm chế có thể dẫn họ đến những hành vi đồi truỵ, kết quả là dẫn tới chứng nhiễu tâm), thường có thể dẫn tới sự đấu tranh với phức cảm Oedipus “hạt nhân của chứng nhiễu tâm”. Phức cảm Oedipus, trong hình thức tích cực của nó, quy định những cảm giác mang dục tính đối với cha hay mẹ thuộc giới khác và sự chống đối một cách nước đôi với cha hay mẹ thuộc cùng giới. Nó gợi ý rằng, hình dáng phổ biến của trạng thái con người là một hình tam giác. Sự xung đột đạt đến đỉnh điểm vào khoảng giữa 3 đến 6 tuổi, trong giai đoạn dương vật của sự phát triển tâm lý tính dục (Freud chia sự tiến triển tâm lý giới tính ở con người làm ba giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là giai đoạn vòm miệng (đường miệng) từ lúc trẻ mới sinh ra cho đến hai tuổi và hội chứng Oedipus cũng bắt đầu xuất hiện ở giai đoạn này; giai đoạn thứ hai được gọi là giai đoạn hậu môn; giai đoạn thứ ba, từ 3 đến 6 tuổi, đứa trẻ bước vào giai đoạn dương vật, khi mà bộ phận sinh dục trở thành vật khoái cảm của nó). Cấu trúc cơ bản của những cảm xúc có nguồn gốc trong sự phụ thuộc kéo dài của con người ở thời thơ ấu. Sự phụ thuộc đó dẫn tới sự gắn bó - hình thức ban đầu của tình yêu - đối với người đầu tiên chăm sóc, mà ở đây, thường là người mẹ; từ đó, dẫn đến việc coi những người khác là người cạnh tranh về mặt thời gian, sự chú ý và mối quan tâm của người đầu tiên chăm sóc mình. Chúng ta không nên quá đơn giản hoá quan điểm của Freud về phức cảm Oedipus. Ví như những mong muốn tính dục được ám chỉ [trong đó] có tính vô thức đặc trưng và ngây thơ, và những bản năng tính dục ở trẻ con cùng những mong muốn liên quan không được thể hiện ra giống như bản năng tính dục ở tuổi trưởng thành. Bởi lẽ, cố gắng của ông là nhằm để giải thích những đặc điểm đặc biệt của sự phát triển tâm lý tính dục ở nữ giới, từ đó đưa ra đáp án cho câu hỏi vì sao các cô gái chứ không phải các chàng trai có hiểu biết mẫu mực về sự biến đổi trong giới tính của đối tượng tình yêu đầu tiên của họ (bao gồm cả người mẹ với tính cách một đối tượng). Các đối tượng tình yêu sau đó, bao gồm cả các nhà phân tâm học như những đối tượng của sự thay đổi những cảm xúc (trong hoạt động phân tích, chức năng phân tích như là một màn hình trống mà trên đó, bệnh nhân thể hiện cảm xúc của mình), là những kết quả của sự đổi chỗ hay thay đổi từ các đối tượng sớm hơn “sự tìm thấy một đối tượng trên thực tế là sự tìm lại nó”. Để có thể đi sâu vào nghiên cứu những xung đột và cảm xúc nội tâm của con người, Freud đã sử dụng cùng một cấu trúc để giải thích cho những triệu chứng và những hiện tượng thông thường hơn, ví dụ: những giấc mơ, những câu nói đùa và sự lỡ lời (nói nhịu). Tất cả có thể được xem như những cơ cấu điều hoà giữa sức ép của sự thể hiện (được xác định bởi lý thuyết cấu trúc của Freud về cái ấy, được hiểu là nguồn gốc của bản năng vô thức) và lực chế ngự (một số cũng ở trạng thái vô thức, cố gắng để đáp ứng sự cưỡng chế về đạo đức và thực tại). Theo kiểu mẫu nền tảng của Freud, quá trình cơ bản của hoạt động tâm lý, quá trình đầu tiên, sẽ dẫn tới sự giải phóng năng lượng tâm lý. Sự giải phóng này được biết đến như những khoái cảm và do vậy, nguyên lý chủ đạo của quá trình cơ bản được gọi là nguyên lý khoái cảm. Sự gia tăng của sức ép được hiểu là sự không thoả mãn và những tổ chức tâm lý hướng đến một trạng thái cân bằng hay nhẫn nại. Nhưng, kể từ khi sự khoái cảm trên thực tế chỉ có thể đạt được trong những điều kiện đặc biệt, cái mà đôi khi đòi hỏi sự sắp xếp, kế hoạch và trì hoãn, cá nhân cần phải học cách kiềm chế bản thân, và tư tưởng về quá trình thứ hai này được chỉ đạo bởi cái mà Freud gọi là nguyên lý thực tại. Mục đích vẫn là sự thỏa mãn, nhưng “những nhu cầu cấp bách của cuộc sống” đòi hỏi sự chú ý, lý luận và sự suy xét, đánh giá nhằm tránh rơi vào sự tưởng tượng được thỏa mãn mong muốn của giai đoạn đầu tiên. Đôi khi, những cơ chế phòng thủ được tạo ra để tránh sự gia tăng những căng thẳng hay sự không thỏa mãn có thể đổ vỡ và dẫn tới chứng rối loạn thần kinh chức năng (nhìn chung, theo lý thuyết này, chứng “rối loạn thần kinh chức năng” là một trạng thái rối loạn tâm lý có nguồn gốc từ những xung đột vô thức; nó có liên quan đến những giai đoạn đặc biệt của sự phát triển và những cơ chế phòng thủ đặc biệt). Sự kiềm chế, bao gồm việc chế ngự những phản kháng tâm lý ở trạng thái vô thức, là điều quan trọng nhất của những cơ chế phòng thủ. Nên hiểu là không giống như những ý nghĩ tiền ý thức, cái chỉ đơn thuần là trạng thái vô thức sống động (mặc dù, một người có thể không ý thức được về chúng ở thời điểm hiện tại, chúng cũng luôn sẵn sàng tiến tới trạng thái ý thức), những quan niệm vô thức theo đúng nghĩa của nó được kìm nén từ trạng thái có ý thức bằng sức mạnh của sự kiềm chế; chúng là trạng thái vô thức động – như đã được chứng minh bởi sự kháng cự nhằm tạo nên trạng thái có ý thức một cách vô thức trong phương pháp chữa bệnh. Sự phân chia sâu sắc của Freud về tinh thần giữa trạng thái vô thức và trạng thái có ý thức đã vượt ra ngoài việc phân tích những triệu chứng loạn thần kinh để giúp hiểu được những hình thức tương tự nhau của những điều phi lý (ví dụ như sự lừa dối bản thân, sự mâu thuẫn trong tư tưởng và sự kém ý chí), vốn là những điều còn mơ hồ trong mô hình của R.Đềcáctơ về trạng thái ý thức đơn nhất, không thể phân chia. Có lẽ, ví dụ tốt nhất về quá trình đầu tiên của tư tưởng là ví dụ mô tả đặc điểm của trạng thái vô thức (không bị giới hạn bởi thực tế của thời gian, của sự mâu thuẫn, của những căn nguyên, v.v.) có thể tìm thấy ở những giấc mơ. Freud coi những giấc mơ như là “con đường trực tiếp dẫn tới những hiểu biết về trạng thái vô thức”. Những giấc mơ là sự thực hiện một cách trá hình những mong muốn vô thức. Khi lý giải ý nghĩa của những giấc mơ thông qua một quá trình giải thích, Freud dựa vào sự khác biệt cơ bản giữa nội dung biểu hiện (giấc mơ như bản thân nó hay như khi được nhớ lại lúc tỉnh giấc) và nội dung tiềm tàng (những suy nghĩ – mơ một cách vô thức). Freud tin chắc rằng, sự giải thích thông qua việc liên tưởng tới những thành tố đặc biệt của nội dung hiển hiện trái ngược với quá trình hình thành giấc mơ. Công việc mơ là công việc mà trong đó, rất nhiều cơ chế bóp méo khác nhau hoạt động vào những phần còn lại của ngày (những nhận thức và suy nghĩ từ ban ngày trước khi giấc mơ được mơ) và những suy nghĩ – mơ tiềm tàng để làm nên những giấc mơ hiển hiện. Chủ nghĩa tượng trưng ít nổi bật trong lý thuyết về giấc mơ của Freud hơn là mọi người vẫn nghĩ. Thực vậy, phần nói về những biểu tượng chỉ xuất hiện ở phần bổ sung sau cùng của cuốn sách Lý giải những giấc mơ (1900). Freud dứt khoát loại bỏ phương thức lý giải cũ theo kiểu “cuốn sách giấc mơ”, tức là dưới dạng các biểu tượng cố định và ông tin chắc rằng, con người cần phải tìm lại ý nghĩa ẩn giấu của một giấc mơ thông qua những liên tưởng của mình (chứ không phải của người giải thích) đến những thành tố đặc biệt. Những liên tưởng như vậy là một phần của quá trình liên tưởng tự do, trong đó một bệnh nhân cần phải tường thuật lại cho nhà phân tâm học toàn bộ những suy nghĩ của mình mà không kiểm duyệt chúng dưới bất kỳ hình thức nào. Quá trình này là cái quyết định đối với phân tâm học, cái bao gồm cả kỹ thuật chữa bệnh bằng tâm lý lẫn phương pháp điều tra về hoạt động của tinh thần. Freud sử dụng kết quả nghiên cứu của mình nhằm suy xét nguồn gốc của đạo đức, tôn giáo và quyền lực chính trị. Ông hướng tới việc tìm ra nguồn gốc lịch sử và tâm lý của chúng ở những giai đoạn sớm trong sự phát triển của cá nhân. Cái được Freud coi là yếu tố cần thiết mà một xã hội có trật tự cần đến để điều hành công việc của nó chính là sự hy sinh bản năng được yêu cầu bởi đạo đức và thường đạt được bởi sự kiềm chế. Mỗi nền văn minh đều có được nguồn năng lượng cho những thành tựu nghệ thuật và khoa học thông qua sự thăng hoa của những nỗ lực bản năng. Nhưng, cái mà mỗi xã hội, mỗi nền văn minh phải trả - sự thất vọng, sự bất hạnh và trạng thái rối loạn thần kinh chức năng – có thể là quá cao. Phương pháp chữa bệnh riêng biệt của Freud có nghĩa là dẫn tới việc giải phóng những năng lượng bị kiềm chế (cái sẽ không tự bảo đảm được hạnh phúc); ông hy vọng nó cũng có thể cung cấp năng lượng để làm biến đổi thế giới và điều hòa những nhu cầu quá đáng nhằm đạt đến sự kiềm chế. Nhưng ngay khi tâm lý học cá nhân của Freud được hình thành trên cơ sở sự không thể tránh được của xung đột nội tâm, trong tư tưởng về xã hội, ông đã nhìn thấy một số giới hạn (đặc biệt đối với sự gây hấn – bản năng chết hướng ra phía ngoài) tất yếu và thể hiện sự bi quan về cuộc đấu tranh bất tận và hiển nhiên mà lý trí tiến hành (Nền văn minh và sự bất mãn của nó, 1930). Tóm lại, có thể nói, Freud đã có những cống hiến nhất định cho việc nghiên cứu quá trình tâm lý và chữa trị các trạng thái loạn thần kinh của con người, đặc biệt là phương pháp tự do liên tưởng, cách giải thích giấc mơ,... Tuy nhiên, trong việc giải thích các hiện tượng xã hội và lịch sử văn hóa, Freud đã mắc phải những sai lầm và điều này đã dẫn ông đến quan điểm của quyết định luận sinh vật, đi ngược lại quan điểm lịch sử. Chính là xuất phát từ những mâu thuẫn trong học thuyết của mình, nên cả lúc sinh thời, những giai đoạn sau đó và cho đến ngày nay, Freud và học thuyết của ông vẫn gặp phải những luồng tư tưởng khác nhau, cả thừa nhận, ủng hộ lẫn chối bỏ. Nhưng có một điều không thể phủ nhận được rằng, ảnh hưởng của học thuyết Freud đối với gần như toàn bộ nền văn hóa xã hội là rất lớn. Ông chính là người đã phát hiện ra những “vùng tối” của trí não con người mà trước đó, chưa ai làm được. Ngày nay, khoa học hiện đại, với những thành tựu vĩ đại của mình, đã có khả năng đi sâu, làm rõ bản chất của rất nhiều vấn đề hóc búa thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy vậy, đối với nó, cuộc sống tâm lý của con người với những miền sâu của cảm xúc, vẫn luôn là một điều bí ẩn. Trong sự nghiệp nghiên cứu khoa học của mình, Freud đã để lại một số lượng lớn các tác phẩm mà cho đến nay, nội dung của chúng vẫn còn là đề tài nghiên cứu, thậm chí tranh luận giữa nhiều học giả. Đó là những công trình: Studies on Hysteria (1895, Nghiên cứu về Hysteria), The Interpretation of Dreams (1900, Lý giải những giấc mơ), The psychopathology of Everyday life (1901, Tâm lý học đời sống thường ngày), Three Essays on the Theory of Sexuality (1905, Ba tiểu luận về lý thuyết tính dục), The Ego and the Id (1923, Tự ngã và bản ngã), Civilization and Its discontents (1930, Nền văn minh và sự bất mãn của nó), Moses and Monotheism (1939, Moses và độc thần giáo)… (1) Dẫn theo: Phạm Minh Lăng. S.Freud và tâm phân học. Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2000, tr.47. Các file đính kèm theo tài liệu này: yy_3376.pdf Tài liệu liên quan Sigmund Freud -Người khai phá những miền sâu của cảm xúc con người 9 trang | Lượt xem: 3084 | Lượt tải: 12 Khái quát chung về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy tâm trong triết học 29 trang | Lượt xem: 6868 | Lượt tải: 34 Tiểu luận Giai cấp và vấn đề giai cấp đối với Việt Nam hiện nay 20 trang | Lượt xem: 14942 | Lượt tải: 156 Khóa luận Kinh tế tri thức và việc dạy và học vấn đề này ở trường THPT hiện nay 19 trang | Lượt xem: 1467 | Lượt tải: 2 Tiểu luận Đổi mới và hoàn thiện pháp luật trong quản lý nhà nước về xuất bản ở Việt Nam hiện nay - Phương hướng và giải pháp 68 trang | Lượt xem: 4091 | Lượt tải: 40 Tiểu luận Phật giáo là một nhu cầu tinh thần của người Việt Nam trong lịch sử 15 trang | Lượt xem: 1679 | Lượt tải: 26 Tiểu luận Nghiên cứu lịch sử phát triển của phép biện chứng 11 trang | Lượt xem: 6460 | Lượt tải: 56 Tiểu luận Vai trò của nhân tố đối với sự phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay 15 trang | Lượt xem: 6874 | Lượt tải: 50 Tiểu luận Vận dụng quan điểm của Mác Lênin vào Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghãi xã hội 25 trang | Lượt xem: 18958 | Lượt tải: 223 Bài giảng Đại cương lịch sử triết học 72 trang | Lượt xem: 2004 | Lượt tải: 23 Copyright © 2020 Doc.edu.vn - Chia sẻ những Thủ thuật tin học, phần mềm hay, hướng dẫn giải bài tập
1610704847953.98.parquet/160057
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 17519, "url": "http://doc.edu.vn/tai-lieu/sigmund-freud-nguoi-khai-pha-nhung-mien-sau-cua-cam-xuc-con-nguoi-55916/" }
139.2
Diễn văn Khai mạc Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XX của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Thanh Hải Diễn văn Khai mạc Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XX của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Thanh Hải 14:16 | 12/10/2020 In bài biết Kính thưa đồng chí Phạm Bình Minh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Kính thưa đồng chí Uông Chu Lưu, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Kính thưa đồng chí Thượng tướng Phạm Thanh Ngân, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; Kính thưa các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, các đồng chí lãnh đạo các Ban, Bộ, ngành, đoàn thể, cơ quan Trung ương. Kính thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo tỉnh Bắc Thái, tỉnh Thái Nguyên. Kính thưa các Mẹ Việt Nam Anh hùng, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động. Kính thưa Đoàn Chủ tịch Đại hội. Kính thưa các vị đại biểu khách quý. Thưa toàn thể đại hội. Thực hiện Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam và Chỉ thị số 35, ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Sau một thời gian chuẩn bị tích cực, khẩn trương, nghiêm túc và trách nhiệm, được sự đồng ý của Bộ Chính trị, hôm nay, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên long trọng tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XX, nhiệm kỳ 2020-2025. Đây là một sự kiện chính trị trọng đại của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên Kính thưa toàn thể Đại hội! Đại hội chúng ta vui mừng được đón đồng chí Phạm Bình Minh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Bộ Chính trị về dự và chỉ đạo Đại hội; các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng; các đồng chí lãnh đạo các Ban, Bộ, ngành, đoàn thể và các cơ quan Trung ương; đại diện lãnh đạo Quân khu 1; các đồng chí lãnh đạo tỉnh Bắc Thái, tỉnh Thái Nguyên qua các thời kỳ; lãnh đạo tỉnh Bắc Giang, tỉnh Cao Bằng… anh em; đại biểu Mẹ Việt Nam Anh hùng; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động; đặc biệt Đại hội xin được nhiệt liệt chào mừng 350 đại biểu chính thức, những đảng viên ưu tú, tiêu biểu cho trí tuệ, bản lĩnh chính trị và sức mạnh đoàn kết, đại diện cho hơn 93 nghìn đảng viên của toàn Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã về dự Đại hội ngày hôm nay. Đại hội chào mừng và cảm ơn các cơ quan thông tấn, báo chí của Trung ương và địa phương đã về dự, theo dõi và đưa tin về Đại hội. Sự có mặt của các đồng chí đại biểu, khách quý thể hiện sự quan tâm, là niềm động viên, cổ vũ to lớn đối với Đại hội. Thay mặt Đoàn Chủ tịch Đại hội, tôi xin kính chúc toàn thể các đồng chí đại biểu, khách quý sức khỏe, hạnh phúc; chúc Đại hội thành công tốt đẹp. Kính thưa Đại hội. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm và tình cảm đặc biệt đối với tỉnh Thái Nguyên, nơi Người đã gắn bó trong suốt 9 năm kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Hòa bình lập lại, Người đã dành thời gian về thăm Thái Nguyên 7 lần. Đồng bào và nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên luôn nhớ ơn Người và mãi khắc ghi những lời căn dặn của Người. Trong giờ phút trọng thể này, với niềm tự hào và kính yêu vô hạn, Đại hội chúng ta thành kính tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của Đảng, của dân tộc, người đã sáng lập ra Đảng ta. Cùng với Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của Người mãi mãi là tài sản vô giá, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của cách mạng Việt Nam. Đại hội chúng ta thành kính tưởng nhớ các thế hệ cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, đồng bào, đồng chí, những người con ưu tú của quê hương Thái Nguyên đã cống hiến, hy sinh anh dũng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây cũng chính là nguồn động viên to lớn, tiếp thêm sức mạnh cho Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Thái Nguyên tiếp tục phấn đấu vươn lên, giành nhiều thắng lợi hơn nữa trong thời gian tới. Kính thưa Đại hội! Hướng về Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XX và Đại hội lần thứ XIII của Đảng, từ nhiều tháng nay, các cấp ủy Đảng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị trên các lĩnh vực, đồng thời tiến hành tổ chức các đại hội đảng bộ cấp cơ sở và cấp trên cơ sở thành công tốt đẹp, tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số trúng cử cấp ủy đều vượt chỉ tiêu, các đồng chí cán bộ chủ chốt đều có tỷ lệ phiếu bầu đạt cao. Thành công của đại hội đảng bộ các cấp là tiền đề, là điều kiện quan trọng, để tổ chức thành công Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XX ngày hôm nay. Công tác chuẩn bị các văn kiện trình Đại hội đã được thực hiện hết sức nghiêm túc và khoa học, đã có hàng nghìn lượt ý kiến tham gia tâm huyết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các Ban, Bộ, ngành, đoàn thể, cơ quan Trung ương; các đồng chí lãnh đạo tỉnh qua các thời kỳ; các tổ chức đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể, tổ chức xã hội; các nhà khoa học, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Báo cáo Chính trị trình Đại hội đã thực sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tỉnh nhà; phù hợp với định hướng của Trung ương và sát với tình hình thực tiễn của địa phương. Công tác chuẩn bị nhân sự được tiến hành nghiêm túc, bảo đảm dân chủ, khách quan, đúng quy định. Các nội dung chuẩn bị cho Đại hội Đảng bộ tỉnh đã được Bộ Chính trị đánh giá cao và đồng ý cho phép Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên được tổ chức Đại hội ngày hôm nay. Để thiết thực lập thành tích chào mừng đại hội đảng các cấp, nhiều phong trào thi đua sôi nổi đã được triển khai rộng rãi. Thông qua các phong trào thi đua đã xuất hiện nhiều gương điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực, đó là những thành quả rất đáng tự hào, thể hiện niềm tin, tình cảm sâu sắc của cán bộ, đảng viên và nhân dân hướng về Đại hội, Đại hội xin ghi nhận, hoan nghênh và nhiệt liệt biểu dương những đóng góp to lớn đó. Kính thưa Đại hội! Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, trong bối cảnh có nhiều thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen, tác động do suy giảm kinh tế toàn cầu và đại dịch Covid-19, song được sự quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ kịp thời của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Ban, Bộ, ngành, đoàn thể cơ quan Trung ương và sự hợp tác của các tỉnh, thành phố bạn; Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã phát huy những kết quả, thành tựu đạt được của nhiều nhiệm kỳ trước, cùng đoàn kết chung sức, một lòng nỗ lực phấn đấu giành được nhiều kết quả quan trọng trên tất cả các lĩnh vực: Kinh tế của tỉnh tiếp tục duy trì đà tăng trưởng; 19/19 chỉ tiêu đều đạt và vượt so với Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 19 đã đề ra; nổi bật là thu ngân sách nhà nước năm 2020 đạt gần 16.000 tỷ đồng, tăng gấp 2,1 lần so đầu nhiệm kỳ. GRDP bình quân đầu người đạt 90 triệu tăng 1,7 lần; là tỉnh đứng đầu 14 tỉnh Trung du miền núi phía Bắc về xây dựng Nông thôn mới; đứng thứ tư toàn quốc về giá trị sản xuất công nghiệp. Quốc phòng, quân sự địa phương, an ninh chính trị, an sinh xã hội được bảo đảm; trật tự, an toàn xã hội được giữ vững, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được tăng cường toàn diện trên các mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức và tổ chức cán bộ. Kính thưa toàn thể Đại hội. Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XX có các nhiệm vụ hết sức quan trọng như sau: Thứ nhất, Đại hội sẽ tiến hành kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ trong thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm và xác định mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trong 5 năm tới cũng như tầm nhìn cho những năm tiếp theo. Thứ hai, Đại hội sẽ thảo luận, góp ý cho dự thảo Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX. Thảo luận báo cáo tổng hợp các ý kiến tham gia đóng góp cho các dự thảo Văn kiện trình Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Thứ ba, Bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XX, nhiệm kỳ 2020-2025 là những đồng chí tiêu biểu về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, năng lực lãnh đạo, bản lĩnh và trí tuệ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Thứ tư, Bầu Đoàn đại biểu đại diện cho ý chí, nguyện vọng và trí tuệ của Đảng bộ tỉnh đi dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Kính thưa Đại hội! Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XX là một sự kiện chính trị đặc biệt được toàn thể nhân dân các dân tộc trong tỉnh hết sức quan tâm, trông đợi và kỳ vọng. Đại hội sẽ quyết định những chủ trương lớn, quan trọng mang tính định hướng chung cho sự phát triển của Tỉnh nhà trong nhiệm kỳ tới và tầm nhìn cho những năm tiếp theo. Phát huy truyền thống cách mạng, tinh thần đoàn kết, thống nhất, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên quyết tâm xây dựng tỉnh Thái Nguyên ngày càng phát triển giàu mạnh, đời sống của người dân ngày càng hạnh phúc, ấm no, sung túc, phấn đấu đến năm 2025 thu nhập bình quân đầu người đạt trên 100 triệu đồng; GRDP bình quân đầu người đạt 150 triệu đồng. Đưa Thái Nguyên trở thành trung tâm kinh tế, công nghiệp lớn, hiện đại không những chỉ của vùng trung du miền núi phía Bắc mà còn của vùng Thủ đô Hà Nội vào năm 2030. Xây dựng tỉnh Thái Nguyên, Thủ đô kháng chiến, Thủ đô gió ngàn năm xưa trở thành “một trong những tỉnh giàu có và phồn thịnh nhất miền Bắc nước ta” đúng như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người về thăm Thái Nguyên ngày 01/01/1964. Với những nhiệm vụ quan trọng và có ý nghĩa to lớn đó, với phương châm đoàn kết, dân chủ, kỷ cương, sáng tạo và phát triển và cùng với niềm tin tưởng sâu sắc, thay mặt Đoàn Chủ tịch Đại hội, tôi xin long trọng tuyên bố khai mạc Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XX, nhiệm kỳ 2020-2025. Kính chúc các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các đồng chí đại biểu, khách quý luôn mạnh khỏe, hạnh phúc. Chúc Đại hội thành công tốt đẹp! Xin trân trọng cảm ơn! Thainguyentv.vn BẢN QUYỀN © 2008 - 2016 BỞI ĐÀI PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH TỈNH THÁI NGUYÊN. Giám đốc - Tổng Biên tập - Chịu trách nhiệm nội dung: Nguyễn Thị Vũ Anh Giấy phép hoạt động số: 24/GP - TTĐT, do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 01/04/2015 Giấy phép sửa đổi bổ sung số: 198/GPSĐBS - TTĐT, ngày 11/11/2016 của Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử Địa chỉ: Số 226 Đường Bến Oánh - Phường Trưng Vương - TP.Thái Nguyên Điện thoại: (02083) 855.439 * FAX: (02083) 655.724. Email: daiptth@thainguyen.gov.vn; baodientutntv@thainguyen.gov.vn Website: https://thainguyentv.vn/ Đường dẫn bài viết: https://thainguyentv.vn/dien-van-khai-mac-dai-hoi-dai-bieu-dang-bo-tinh-thai-nguyen-lan-thu-xx-cua-dong-chi-bi-thu-tinh-uy-nguyen-thanh-hai-81634.html
1610704847953.98.parquet/108115
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 9837, "url": "https://thainguyentv.vn/apicenter@/print_article&i=81634" }
138.9
Làm thế nào để tăng dương vật - Titan Gel Giới thiệu Chính thức trang web Titan Gel Việt nam Deutschland UK España Italia 中国 Portugal France Bosni i Hercegovine България Belgique Österreich Magyarország 香港 Η ελλάδα საქართველო Danmark Κύπρος Latvija Lietuva Македонија المغرب Nederland Polska Հայաստան Беларусь Moldova România Србија Slovensko Slovenija 台湾 Україна Suomi Hrvatska Česká republika Die schweiz Sverige Eesti 日本 Tăng qui đầu dương vật Titan Gel Bài Làm thế nào để tăng dương vật Làm thế nào để tăng kích thước dương vật? Đàn ông thường hỏi câu hỏi này, bất kể kích thước, những suy nghĩ làm thế nào để trở thành nam tính hơn là mỗi người đàn ông ít nhất một lần trong đời. Phổ biến rộng rãi mối quan tâm về dương vật nhỏ đã sinh ra một triệu đô la toàn cầu ngành công nghiệp lâm sàng chưa được chứng minh sản phẩm để tăng cường nam tính. Mặc dù một số người sẵn sàng chấp nhận, và những người khác đã sẵn sàng để làm bất cứ gì để có được kết quả mong muốn. Kích thước vấn đề Nghiên cứu cho thấy kích thước của cơ quan sinh dục nam có thể thay đổi tùy thuộc vào cuộc đua, thậm chí quốc tịch. Các phép đo được coi là bình thường trong suốt trên thế giới: chiều dài của dương vật: 14 cm; đầu dương vật: 4 cm Các phép đo sẽ được thực hiện ở trong một trạng thái của cương cứng. Một cái đầu nhỏ của dương vật có thể là một trở ngại nghiêm trọng cho việc bình thường hành động tình dục, không phải một đối tượng của niềm tự hào. Thật vậy, các kích thước nhỏ của các bộ phận sinh dục gây ra vấn đề với thiếu tự tin và thông tin liên lạc, đó ảnh hưởng đến tất cả lĩnh vực của cuộc sống, bao gồm cả mối quan hệ cá nghề nghiệp. Làm thế nào để làm người đứng đầu lớn hơn Một số người đàn ông đang hạnh phúc với chiều dài của anh thành viên, nhưng muốn có một chu vi lớn. Đó là một ý kiến mà cô đóng vai trò quan trọng nhất trong tình dục. Cuối cùng, nó là điều không thể để xác định một phần quan trọng nhất của các cơ quan sinh sản khi nói đến tình dục. Ngoài ra, tăng của qui đầu dương vật thường xảy ra cùng một lúc với việc tăng của trục. Cách duy nhất là phẫu thuật. Tất cả các phương pháp khác nhằm tăng toàn bộ cơ thể. Hiện phương pháp được biết: phẫu thuật; điều trị nội tiết tố; đặc biệt bài tập; công cụ cho massage thiết bị y tế. Chỉ sau khi tham khảo ý kiến một bác sĩ trở nên rõ ràng, cho dù sự can thiệp y tế nếu có choáng với việc sử dụng các kỹ thuật cụ thể. Phương pháp phẫu thuật Phẫu thuật này chỉ dành cho bệnh nhân với một dương vật nhỏ kích thước khi bạn cần phải tăng nó bằng một vài centimet. Sau khi tư vấn với các bác sĩ phẫu thuật, các bệnh nhân sẽ phải trải qua một số thử nghiệm, để trải qua một cuộc kiểm tra y tế, tương tự như chuẩn bị cho bất kỳ khác phẫu thuật. Các phương pháp là thảo luận với từng cá nhân. Thường phẫu thuật để thay đổi sự xuất hiện của các bộ phận sinh dục đại diện cho việc tiêm mỡ lấy từ các phần khác nhau của cơ thể. Các báo cáo cho thấy một sự khác biệt nhỏ thay đổi chu vi 1,6-5,1 cm Tuy nhiên, tính toán của tích cực tác động đó được tổ chức cho những người quyết định trên sự thay đổi trong một thời gian dài, làm chứng cho những kết quả, kể cả biến dạng, sẹo và truyền nhiễm hoại tử. Ma trận Các bác sĩ phẫu thuật đặt một duy nhất ma trận dưới làn da của các bộ phận sinh dục. Thiết bị này giống như một cái gối. Nhiệm vụ chính của nó - kéo dài của da ở bộ phận sinh dục, cung cấp những thay đổi trong chiều dài. Phương pháp này là khá phổ biến, mặc dù nó có thể dẫn đến một số biến chứng. Ma trận thường từ chối bởi các mô, và điều này dẫn đến tình trạng viêm của các bộ phận sinh dục. Đặc biệt là trong trường hợp nghiêm trọng có thể phát triển hoại tử, dẫn đến cưa đi. Một tiềm năng vấn đề với ma trận là áp lực vào mạch máu quan trọng. Điều này dẫn đến sự đổ vỡ của cung cấp máu, ngăn ngừa việc làm của một thành viên với máu trong cương cứng. Một phương pháp vẫn còn trong giai đoạn thử nghiệm, bao gồm một tuần tự kéo dài của làn da của cơ quan để bọc chuyên khung bằng phân hủy tài liệu đầy với các tế bào sống quanh căn cứ. Sử dụng của phân hủy khung có một ý nghĩa tỷ lệ thành công hơn các điền đơn giản trong khối lượng chất béo. Nhược điểm của tiêm phương pháp điều trị là thời gian qua, cơ thể sẽ hấp thụ nó một lần nữa, và điều này sẽ dẫn đến sự kết quả phẫu thuật. Sự ra đời của gel với axit acid Một giải pháp thay thế là để tăng đầu dương vật với axit sinh đó là một thành phần rất phổ biến trong mỹ phẩm. Các công cụ làm việc giống như ma trận, nhưng nó không gây ra rất nhiều tác dụng phụ. Gel loại axit tương tự với các thành phần tự nhiên của con người da, mà hầu như loại trừ khả năng từ chối. Cả hai mô tả ở trên cung cấp gần như ngay lập tức có hiệu lực. Sự khác biệt kích thước của cơ quan sẽ được rõ ràng từ ngày đầu tiên. Bơm không cần thiết, tiền gửi Các thủ tục cho loại chất béo dưới bụng có thể làm cho nhân loại nhiều hơn ấn tượng. Hướng của thừa lớp mỡ xung quanh mu sẽ gây ra sự dày thành viên sẽ trở nên nổi bật hơn. Thu được kết quả thường ấn tượng cho người béo. Bơm khối lượng chất béo có thể dẫn đến sự thay đổi trong 3.7 cm trong việc ngắn hạn, nhưng béo trở về mu, nếu các người là một lần nữa được quá nhiều cân. Hoạt động cho bơm của cơ thể béo có thể cung cấp cho một người đàn ông tự tin vào chính mình, nhưng để cho các hiệu ứng duy trì trong thời gian dài, bạn phải xem xét lại các bữa ăn hàng ngày, để cống hiến nhiều thời gian để đào tạo vật lý. Tuy nhiên, như với tất cả các can thiệp phẫu thuật, các kỹ thuật mang nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực, các khả năng của biến chứng. Hormone Một phương pháp tăng cơ quan sinh dục nam được sử dụng của thuốc nội tiết tố. Rất tiếc, phương pháp này có nhiều bất lợi hơn thế. Những loại thuốc này có thể được chỉ định bởi một chuyên gia chỉ sau khi nội tiết tố chiếu phim. Điều trị mất vài tháng và kết quả sẽ được nhìn thấy sau 3 tháng. Những loại thuốc này là khá đắt tiền và có nhiều tác dụng phụ. Vì lý do này, các khối lượng biến đổi thành viên bằng cách này được sử dụng rất hiếm. Sự gia tăng trong sử dụng phương pháp Nếu bạn không muốn thay đổi cơ thể mạnh, bạn có thể thử phương pháp của tăng qui đầu dương vật ở nhà. Chúng bao gồm phương pháp đặc biệt của xa, tập thể dục. Mở rộng, máy bơm được yêu thích nhất thiết bị để tăng cường dương vật. Trước khi mua và sử dụng các thiết bị này, nên tham khảo ý kiến một bác sĩ chuyên khoa. Họ không đáng kể chống chỉ định, nhưng họ sẽ được thảo luận với bác sĩ. Chân các thiết bị được hiển thị thường sử dụng trong điều trị ngắn hạn vấn đề với bất lực. Nhưng lạm dụng, có thể gây thiệt hại da, dẫn đến yếu cương cứng đau đớn, trong lúc giao hợp. Mở rộng dây cung cấp đồng phục phân phối hoạt động là góp phần vào việc mở rộng dần dần của toàn bộ cơ thể. Họ có thể được mặc ở nhà, ở nơi làm việc và trong bất kỳ nơi thuận tiện. Các thiết bị được dễ dàng ẩn dưới quần áo, không gây khó chịu đáng kể. Máy bơm - một cách tốt để tăng qui đầu của dương vật, như bệnh nhân có thể kiểm soát hiệu quả chính mình. Thuốc và kem Các quỹ này thường có một loạt các Bổ sung tăng trưởng, thảo dược, rễ, phấn hoa, mà phải tăng cường nam tính. Mặc dù họ nghiêm trọng quảng cáo trong các phương tiện truyền thông, đó là hoàn toàn hợp lý không có bằng chứng khoa học rằng các loại kem làm việc, và một số thậm chí có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe tiềm năng. Tập thể dục Làm thế nào để tăng đầu dương vật với sự giúp đỡ của các phòng tập thể dục? Chỉ cần thực hiện các bài tập Jelcing. Nó là an toàn cho sức khỏe của đàn ông, nhưng hiệu quả vẫn còn dài như là bài tập thể dục một cách thường xuyên. Mục đích là để tăng máu chảy, căng mô, do đó tăng kích thước. Tốt nhất là để thực hiện các bài tập sử dụng loại kem đặc biệt để tăng cơ quan sinh dục hoặc gel. Phức tạp phải được hoàn thành trong vòng 12-15 phút mỗi ngày. Hiệu ứng đầu tiên sẽ được nhìn thấy sau một tuần. Một hiệu quả tập thể dục là nén của trục. Một tay bị bắt giữ trên chậm chạp và dần dần tăng áp lực cho đến tối đa độ cứng. Thư giãn tay vào cơ thể trở thành chậm chạp một lần nữa, và sau đó lặp lại phức tạp. Này sẽ mở rộng qui đầu của dương vật, góp phần khó khăn hơn cương cứng. Mặc dù nhiều lo lắng rằng mình là phẩm giá quá thấp, các nghiên cứu cho thấy hầu hết họ được coi là bình thường. Trước khi bạn chọn một trong những phương pháp này, bạn cần phải cân nhắc tất cả những rủi ro, các khuyết điểm là sự mở đầu. 19.04.2019 Bài Làm thế nào để tăng dương vật soda Làm thế nào để sử dụng soda để tăng các thành viên. Phải làm gì để mở rộng dương vật: phòng tắm, kem, kết thúc tốt đẹp dựa trên soda. Uống soda bên trong. 26.09.2019 Làm thế nào để sử dụng máy bơm dương vật mở rộng Bơm dương vật mở rộng sử dụng thành công bằng nhiều người đàn ông và là một lanh trong hình thức một bóng đèn và máy bơm để bơm không khí. 31.08.2019 Làm thế nào để làm cho gia lớn hơn 5 cm Làm thế nào để tăng thành viên của soda, cái gì là công thức nấu ăn, và nó có thể? 24.08.2019 Tất cả các bài báo Trật tự Titan Gel 50% giảm giá Tên của bạn Nhập thông số điện thoại Mua 1180000₫590000₫ Titan Gel Gel Gel để tăng dương vật Trang web chính thức ở Việt nam Sản phẩm gốc Kinh nghiệm Hướng dẫn sử dụng Đánh giá Thành phố Bài Dược Liên lạc
1610704847953.98.parquet/162502
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 8446, "url": "https://vn.titan-gel-official.site/b%C3%A0i/55_l%C3%A0m%20th%E1%BA%BF%20n%C3%A0o%20%C4%91%E1%BB%83%20t%C4%83ng%20d%C6%B0%C6%A1ng%20v%E1%BA%ADt" }
138.5
 Xúc động: Cầu xin hòa bình và tưởng nhớ nạn nhân đại dịch kinh hoàng tại cuộc gặp gỡ liên tôn ở Rôma Xúc động: Cầu xin hòa bình và tưởng nhớ nạn nhân đại dịch kinh hoàng tại cuộc gặp gỡ liên tôn ở Rôma Thế Giới Nhìn Từ Vatican 21/Oct/2020 Như chúng tôi đã đưa tin lúc 4g chiều thứ Ba 20 tháng 10, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tham dự cuộc gặp gỡ các vị lãnh đạo tôn giáo quốc tế do Cộng đồng thánh Egidio tổ chức tại Rôma để cầu nguyện cho hòa bình thế giới. Sinh hoạt này được cử hành theo tinh thần cuộc gặp gỡ hòa bình do Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II mời gọi lần đầu tiên tại Assisi hồi tháng Mười năm 1986. Chủ đề của cuộc gặp gỡ lần thứ 34 năm nay là “Không ai được cứu thoát một mình - Hòa bình và tình Huynh đệ”. Trong phần thứ nhất của cuộc gặp gỡ, Đức Thánh Cha Phanxicô, Đức Thượng Phụ Đại Kết Chính Thống Giáo Bácthôlômêô và đại diện các hệ phái Kitô khác đã cầu nguyện tại Vương cung thánh đường Đức Mẹ Aracoeli do dòng Phanxicô coi sóc, nằm cạnh tòa thị chính Rôma. Các tôn giáo khác cầu nguyện ở các địa điểm khác gần đó. Chúng tôi đã có bài tường thuật biến cố này. Phần thứ hai của cuộc gặp gỡ, diễn ra lúc 5g15, tại khu vực trước tòa thị chính Rôma. Tổng thống Sergio Mattarella và một số quan chức chính quyền Ý đã tham dự phần này. Trong diễn từ tại đây, Đức Thánh Cha nói: Anh chị em thân mến, Tôi vui mừng và tạ ơn Chúa vì ở đây trên Đồi Capitol, trung tâm thành phố Rôma, tôi có thể gặp gỡ các bạn, các nhà lãnh đạo tôn giáo ưu tú, các cơ quan công quyền và rất nhiều bạn bè yêu chuộng hòa bình. Ở bên nhau, chúng ta đã cầu xin bình an. Tôi xin chào Tổng thống Cộng hòa Ý, Sergio Mattarella đáng kính. Tôi rất vui khi được gặp thêm một lần nữa người anh em của tôi, Đức Thượng Phụ Đại Kết Bácthôlômêô. Tôi biết ơn nhất là, bất chấp những khó khăn trong việc đi lại trong những ngày này, hiền huynh và các nhà lãnh đạo khác đã mong muốn được tham gia buổi gặp gỡ cầu nguyện này. Theo tinh thần của Cuộc gặp gỡ Assisi do Thánh Gioan Phaolô II kêu gọi vào năm 1986, Cộng đồng Sant'Egidio tổ chức hàng năm, tại các thành phố khác nhau, những khoảnh khắc cầu nguyện và đối thoại cho hòa bình giữa các tín đồ thuộc các tôn giáo khác nhau. Cuộc gặp gỡ Assisi và viễn kiến hòa bình của cuộc gặp gỡ ấy chứa đựng một hạt giống tiên tri mà nhờ ân sủng của Thiên Chúa đã dần trưởng thành qua những cuộc gặp gỡ chưa từng có, những hành động xây dựng hòa bình và những sáng kiến mới mẻ của tình huynh đệ. Mặc dù những năm qua đã chứng kiến những sự kiện đau đớn, bao gồm xung đột, khủng bố và chủ nghĩa cực đoan, nhưng đôi khi nhân danh tôn giáo, chúng ta cũng ghi nhận được những bước tiến hiệu quả được thực hiện trong các cuộc đối thoại giữa các tôn giáo. Đây là một dấu chỉ của hy vọng khuyến khích chúng ta tiếp tục hợp tác với nhau như anh chị em. Nhờ đó, chúng ta đã được Văn kiện quan trọng về Tình huynh đệ của nhân loại vì Hòa bình Thế giới và sự Chung sống với nhau, mà tôi đã ký với Đại Giáo Trưởng của Đại Học Al-Azhar, là ngài Ahmad Al-Tayyeb, vào năm 2019. Thật vậy, “điều răn về hòa bình được khắc sâu trong các truyền thống tôn giáo” (Fratelli Tutti, 284). Tín hữu các tôn giáo hiểu rằng sự khác biệt tôn giáo không biện minh cho sự thờ ơ hay thù hằn. Đúng hơn, trên cơ sở đức tin tôn giáo của mình, chúng ta có khả năng trở thành những người kiến tạo hòa bình, thay vì thụ động khi đứng trước cái ác của chiến tranh và thù hận. Các tôn giáo đứng về phía phục vụ hòa bình và tình huynh đệ. Vì lý do này, cuộc họp mặt hôm nay của chúng ta cũng tiêu biểu cho một sự khích lệ đối với các nhà lãnh đạo tôn giáo và tất cả các tín hữu nhiệt thành cầu nguyện cho hòa bình, không cam chịu chiến tranh, nhưng làm việc với sức mạnh dịu dàng của đức tin để chấm dứt xung đột. Chúng ta cần hòa bình! Cần nhiều hòa bình hơn nữa! “Chúng ta không thể thờ ơ. Ngày nay thế giới có một khát khao hòa bình sâu sắc. Ở nhiều quốc gia, con người đang phải chịu đựng những đau khổ do chiến tranh, mặc dù chiến tranh thường bị lãng quên, nhưng nó luôn là nguyên nhân của đau khổ và nghèo đói” (Diễn văn với những người tham gia Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Hòa bình, Assisi, 20 tháng 1 năm 2016). Thế giới, đời sống chính trị và dư luận xã hội đều có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi sự ác độc của chiến tranh, đến mức xem nó đơn giản là một phần tất yếu của lịch sử nhân loại. “Chúng ta đừng sa lầy vào các cuộc thảo luận lý thuyết, mà hãy chạm vào da thịt bị thương của các nạn nhân… Chúng ta hãy nghĩ đến những người tị nạn và di tản, những người chịu ảnh hưởng của bức xạ nguyên tử và các cuộc tấn công hóa học, những bà mẹ mất con và những cậu bé và các trẻ em gái bị đày đọa hoặc bị tước đoạt tuổi thơ” (Fratelli Tutti, 261). Ngày nay, những đau khổ của chiến tranh càng trở nên trầm trọng hơn bởi những đau khổ do coronavirus gây ra và ở nhiều quốc gia, việc tiếp cận với sự chăm sóc cần thiết là điều không thể. Trong khi đó, các cuộc xung đột vẫn tiếp diễn, khiến nhân loại phải đau khổ và chết chóc. Chấm dứt chiến tranh là một nghĩa vụ nghiêm trọng trước mặt Thiên Chúa của tất cả những người nắm giữ trách nhiệm chính trị. Hòa bình là ưu tiên của mọi nền chính trị. Thiên Chúa sẽ chất vấn những ai thất bại trong việc tìm kiếm hòa bình, hoặc những ai gây ra những căng thẳng và xung đột. Ngài sẽ đòi họ phải trả lẽ về tất cả những ngày, những tháng và những năm chiến tranh đã qua mà các dân tộc trên thế giới phải chịu đựng! Những lời Chúa Giêsu nói với Thánh Phêrô thật sâu sắc và đầy khôn ngoan: “Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm” (Mt 26:52). Những người dùng gươm, có thể tin rằng vũ khí sẽ giải quyết các tình huống khó khăn một cách nhanh chóng, nhưng họ sẽ thấy nơi cuộc sống của chính họ, nơi cuộc sống của những người thân và cuộc sống của đất nước họ, những cái chết do gươm giáo mang lại. “Đủ rồi!” Chúa Giêsu nói (Lc 22,38) khi các môn đệ rút ra hai thanh gươm trước cuộc Khổ nạn của Người. “Đủ rồi!” Đó là phản ứng rõ ràng của Chúa đối với bất kỳ hình thức bạo lực nào. Lời duy nhất đó của Chúa Giêsu vang vọng qua nhiều thế kỷ và đến với chúng ta một cách mạnh mẽ trong thời đại này: gươm giáo, vũ khí, bạo lực và chiến tranh, đã quá đủ rồi! Thánh Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục đã lặp lại lời đó trong lời kêu gọi của ngài trước Liên Hiệp Quốc vào năm 1965: “Đừng chiến tranh nữa!” Đây là lời cầu xin của chúng ta và của tất cả những người nam nữ có thiện chí. Đó là ước mơ của tất cả những ai nỗ lực vì hòa bình khi nhận ra rằng “mỗi cuộc chiến đều khiến thế giới của chúng ta tồi tệ hơn trước đó” (Fratelli Tutti, 261). Làm thế nào chúng ta tìm ra được cách thoát khỏi những xung đột ngày càng quyết liệt hơn và tàn phá kinh hoàng hơn? Làm thế nào để chúng ta tháo gỡ những nút thắt của cơ man các cuộc xung đột vũ trang? Làm thế nào để chúng ta ngăn chặn được những xung khắc? Làm thế nào để chúng ta khơi dậy những suy nghĩ về hòa bình trong các kẻ gây chiến và những người dựa vào sức mạnh của vũ khí? Không một người nào, không một nhóm xã hội nào có thể một mình đạt được hòa bình, thịnh vượng, an ninh và hạnh phúc. Không một ai làm được. Nếu chúng ta muốn trung thực với chính mình thì hãy ngẫm nghĩ về bài học rút ra từ đại dịch gần đây. Chúng ta cần “nhận thức rằng chúng ta là một cộng đồng toàn cầu, tất cả cùng chung trong một con thuyền, nơi vấn đề của một người là vấn đề của tất cả. Một lần nữa chúng ta phải nhận ra rằng không ai được cứu một mình; chúng ta chỉ có thể được cứu cùng nhau” (Fratelli Tutti, 32). Tình huynh đệ, nảy sinh ra từ nhận thức rằng chúng ta là một gia đình nhân loại, phải thâm nhập vào đời sống của các dân tộc, các cộng đồng, các nhà lãnh đạo chính phủ và các cơ cấu quốc tế. Điều này sẽ giúp tất cả mọi người hiểu rằng chúng ta chỉ có thể được cứu cùng nhau thông qua gặp gỡ và thương lượng, gạt xung đột sang một bên và theo đuổi hòa giải, tiết chế ngôn ngữ chính trị và tuyên truyền, và phát triển các nẻo đường hòa bình đích thực (xem Fratelli Tutti, 231). Chúng ta đã tập hợp tối nay, với tư cách là những người thuộc các truyền thống tôn giáo khác nhau, để gửi đi một thông điệp hòa bình. Để chứng tỏ một cách rõ ràng rằng các tôn giáo không muốn chiến tranh và, thực sự, khước từ những ai hô hào bạo lực. Chúng ta kêu cầu mọi người cầu nguyện cho hòa giải và cố gắng giúp cho tình huynh đệ có thể mở ra những con đường hy vọng mới. Quả thật, với sự giúp đỡ của Thiên Chúa, chúng ta sẽ có thể xây dựng một thế giới hòa bình, và nhờ đó, anh chị em cùng được cứu rỗi. Cảm ơn các bạn. Source: Libreria Editrice Vaticana INTERNATIONAL MEETING OF PRAYER FOR PEACE: "NO ONE IS SAVED ALONE. PEACE AND FRATERNITY" © 2019 - VietCatholic Network - Designed by J.B. Đặng Minh An
1610704847953.98.parquet/75111
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 7591, "url": "http://www.vietcatholic.net/News/Html/261094.htm" }
138.1
Ngành Giáo dục cấm đi lễ hội trong giờ hành chính Ngành Giáo dục cấm đi lễ hội trong giờ hành chính Ngày đăng : 09:09, 29/01/2019 (Kiemsat.vn) - Trong công văn 168/BGĐT-VP gửi các cơ sở giáo dục về việc chuẩn bị Tết Nguyên đán Kỷ Hợi 2019, Bộ Giáo dục và đào tạo yêu cầu các đơn vị giáo dục duy trì thông suốt các hoạt động chuyên môn trước và sau kỳ nghỉ Tết. Bộ GD&ĐT yêu cầu người đứng đầu các cơ quan, đơn vị quán triệt, cấm cán bộ ngành giáo dục đi lễ hội trong giờ hành chính. (Ảnh: Zing.vn) Theo đó, Bộ GD&ĐT quán triệt việc không dùng ngân sách tổ chức đi thăm, chúc Tết, tặng quà đối với các lãnh đạo cơ quan, đơn vị các cấp; không sử dụng phương tiện, tài sản công vào các hoạt động mang tính cá nhân trong dịp Tết, Lễ hội. Đặc biệt, không đi lễ hội trong giờ hành chính. Thay vào đó, các cơ quan cần dành thời gian đi thăm hỏi các gia đình chính sách, các hộ nghèo, các gia đình bị ảnh hưởng của thiên tai, bão, lũ. Bộ này cũng yêu cầu, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị thực hiện nghiêm Quy định số 08-QĐ/TW về trách nhiệm nêu gương đối với người đứng đầu các cấp, các ngành, các cơ quan đơn vị và kỷ luật, kỷ cương hành chính. Thực hiện kịp thời, đầy đủ các chế độ chính sách của Đảng và Nhà nước; tổ chức thăm hỏi, chúc Tết các đồng chí lão thành cách mạng, bà mẹ Việt Nam anh hùng, nhà giáo lão thành, nhà giáo là thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng; quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần đối với các nhà giáo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, công tác tại các vùng biên giới, miền núi, hải đảo của Tổ quốc, nhất là các địa phương bị ảnh hưởng thiên tai, bão lũ trong năm 2018. Đáng chú ý, Bộ GD&ĐT đề nghị các trường chủ động liên hệ, phối hợp với các doanh nghiệp vận tải hành khách tổ chức bán vé tàu, xe tại trường cho sinh viên, học sinh về nghỉ Tết. Bố trí thời gian cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng, học sinh các trường dân tộc nội trú nghỉ tết và trở lại trường phù hợp, giảm áp lực giao thông trước và sau Tết Nguyên đán. Quan tâm tổ chức chu đáo việc đón tết đối với học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, không có điều kiện về quê đón tết cùng gia đình. Nghiêm chỉnh chấp hành luật giao thông, các quy định về an toàn giao thông. Bộ cũng nghiêm cấm cán bộ, công chức, viên chức, học sinh, sinh viên tàng trữ, vận chuyển, buôn bán, sử dụng pháo nổ./. Cẩm Thi Kiểm Sát Online - Cơ quan của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
1610704847953.98.parquet/38602
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 2109, "url": "https://kiemsat.vn/print/51668.html" }
137.8
Tìm hiểu về bệnh mề đay - Đông Y Đông Y Menu Sùi mào gà xương khớp Tai mũi họng Răng hàm mặt Da liễu Sức khỏe Thông tin mới Home / Da liễu / Tìm hiểu về bệnh mề đay Da liễu Tháng Tư 24, 2020 Tìm hiểu về bệnh mề đay Mề đay là một trong những bệnh về da liễu phổ biến, thường gặp. Thế nhưng, căn bệnh này lại gây nên nỗi ám ảnh vô cùng lớn cho những người mắc phải. hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về bệnh mề đay thông qua bài viết dưới đây nhé. Mề đay là gì? Mề đay là một trong những bệnh dị ứng về da, gây nên tình trạng ngứa ngáy và khó chịu. Căn bệnh này vô cùng phổ biến với nhiều nguyên nhân gây bệnh khác nhau. Khi bị mề đay, ban đầu, cơ thể người bệnh sẽ xuất hiện những nốt sưng phù. Nhìn qua, có vẻ như nốt muỗi đốt. Sau đó sẽ lan nhanh ra khắp cơ thể, đồng thời các nốt này cũng ngày một to lên. Trong trường hợp bệnh này, những nốt ngứa này sẽ lan rộng, dính vào nhau, không phân biệt được vị trí của các nốt nữa. Cả người bệnh sẽ trở nên sưng phù, đỏ ửng, bị bảo bọc bởi một lớp phù, tương đối cứng. Bệnh mề đay Các nốt này gây nên tình trạng ngứa ngáy vô cùng khó chịu. Điều này xảy ra do các mao mạch trên da phản ứng với nhiều yếu tố khác nhau. Tùy theo cơ địa của mỗi người mà sẽ bị dị ứng với từng loại yếu tố riêng biệt. Căn bệnh này tuy không khó để có thể phát hiện bởi các triệu chứng của nó rất rõ rệt. Tuy nhiên, bởi có nhiều yếu tố có khả năng gây bệnh, vì vậy để xác định chính xác nguyên nhân là điều khá khó khăn. Thông thường, mề đay sẽ xuất hiện trên cơ thể khoảng 30 phút. Đối với những trường hợp bệnh nặng có thể lên đến 36 giờ. Điều này gây nên nhiều phiền toái trong cuộc sống của người bệnh. Một số nguyên nhân gây nên hiện tượng nổi mề đay Như đã chia sẻ ở trên, có rất nhiều nguyên nhân gây nên hiện tượng nổi mề đay. Vì vậy, quá trình điều trị sẽ gặp nhiều khó khăn. Dưới đây là một số nguyên nhân phổ biến gây bệnh. – Dị ứng thời tiết: đối với một số bệnh nhân, việc thay đổi thời tiết đột ngột có khả năng gây nên bệnh mề đay. Có người sẽ thường xuyên bị vào mùa nóng, cũng có người xảy ra tình trạng bệnh vào mùa lạnh. – Dị ứng thức ăn: thức ăn là yếu tố gây nên tình trạng dị ứng phổ biến nhất. Tùy vào từng cơ địa của mỗi người mà sẽ dị ứng với các loại thực phẩm khác nhau. Trong đó, tôm, cua, ốc, cá biển,… là những món ăn dễ gây ra tình trạng mề đay. Dị ứng với thức ăn – Dị ứng do thuốc: hiện nay, theo nghiên cứu, hầu hết các loại thuốc đều có thể gây nên phản ứng phụ. Chính vì vậy, các thành phần có trong thuốc cũng là một trong những yếu tố có khả năng cao gây mề đay. Đặc biệt là các loại thuốc: vacxin, beta-lactam, macrolid,… – Yếu tố di truyền: các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, có đến khoảng hơn 50% người mắc bệnh do yếu tố di truyền. Nếu chỉ bố hoặc mẹ bị mắc bệnh, con cái cũng có khả năng mắc bệnh. Nếu cả bố và mẹ có tiền sử nổi mề đay, tỷ lệ con cái mắc bệnh sẽ lên đến 50%. Trên đây là một số những chia sẻ về bệnh dị ứng nổi mề đay để bạn đọc có thể tham khảo. hy vọng thông qua bài viết, các bạn có thể tìm thấy cho mình những thông tin hữu ích. Từ đó, có thêm kinh nghiệm cũng như cái nhìn khái quát hơn về căn bệnh này. Tweet Pin It 29 You might also like 4 nguyên nhân gây ngứa, sưng âm hộ Mặt sẽ vừa rỗ vừa tàn nhang nếu cứ duy trì những thói quen xấu này! No Responses Write a response Hủy Đông Y Copyright © 2021. Phòng Khám Đa Khoa Tâm Đức Số 47 Trần Phú, Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh - 0222 6501 015
1610704847953.98.parquet/168603
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 3091, "url": "http://phongkhamdongytamduc.net/2020/04/tim-hieu-ve-benh-day/" }
136.7
Ra khi hư có màu nâu đen trước kỳ kinh nguyệt là bệnh gì? cách điều trị Danh Mục Bệnh Bệnh Phụ KhoaBệnh Nam KhoaCẩm Nang Bệnh Giới ThiệuLiên Hệ MENU Ra khi hư có màu nâu đen trước kỳ kinh nguyệt là bệnh gì? cách điều trị Chuyên mục Bệnh Phụ Khoa Ra khí hư màu nâu đen trước kỳ kinh nguyệt là hiện tượng mà không ít chị em gặp phải hiện nay. Theo các chuyên gia, đây có thể chỉ là dấu hiệu thay đổi nội tiết tố thông thường nhưng cũng có thể là dấu hiệu cảnh báo một số bệnh lý phụ khoa nguy hiểm. Chính vì vậy, chị em tuyệt đối không được chủ quan với vấn đề này. Để biết rõ hơn về khái niệm khí hư là gì? Ra khí hư màu nâu trước kỳ kinh nguyệt có sao không? Mời bạn đọc theo dõi nội dung chia sẻ của các chuyên gia trong bài viết dưới đây. Khí hư là gì? Hiện tượng ra nhiều khí hư màu nâu đen trước kỳ kinh nguyệt Để biết được hiện tượng ra khí hư màu đen trước kỳ kinh nguyệt có sao không, chị em trước hết cần hiểu rõ về khí hư. Khí hư hay còn được gọi là huyết trắng là một chất dịch được tiết ra từ âm đạo, xuất hiện khi nữ giới bước vào tuổi dậy thì và giảm dần khi bước vào thời giai đoạn tiền mãn kinh. Sự xuất hiện của khí hư được coi là dấu mốc đánh dấu sự phát triển của bộ phận sinh dục nữ. Ở những phụ nữ khỏe mạnh, khí hư sẽ có màu trắng, hơi dai, không mùi hoặc có mùi hơi tanh. Lượng dịch tiết ra ở mỗi người là khác nhau do còn phụ thuộc vào nồng độ nội tiết tố. Trong giai đoạn rụng trứng, quan hệ tình dục hoặc mang thai, nồng độ estrogen tăng cao nên khí hư sẽ tiết ra nhiều hơn. Ngược lại, khi nữ giới bước vào giai đoạn tiền mãn kinh và mãn kinh thì hoạt động sản xuất nội tiết tố suy giảm nên khí hư cũng xuất hiện ít hơn. Khí hư đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sức khỏe của phụ nữ. Không chỉ là chất bôi trơn, giúp giữ ẩm môi trường sinh dục, khí hư còn ngăn chặn sự xâm nhập và gây hại của các tác nhân gây bệnh ở môi trường âm đạo, tạo điều kiện thuận lợi để tinh trùng có thể bơi sâu vào trong vòi trứng, gặp trứng và thụ tinh. Khí hư được xem là một trong những dấu hiệu nhận biết tình trạng sức khỏe nữ giới khá chính xác. Khi nhận thấy khí hư bất thường về màu sắc, tính chất, nguy cơ mắc phải các bệnh phụ khoa là rất lớn. Do đó, chị em cần đặc biệt chú ý theo dõi những thay đổi của dịch tiết âm đạo này. Khí hư là gì? Hiện tượng ra nhiều khí hư màu nâu đen trước kỳ kinh nguyệt Theo thống kê, có khoảng 5% nữ giới cho biết họ từng hoặc thường xuyên bị ra khí hư màu nâu trước kỳ kinh nguyệt. Lượng khí hư ở mỗi người là khác nhau đồng thời tính chất và dấu hiệu đi kèm cũng không giống. Có người ra khí hư màu nâu có mùi hôi, có người lại không. Có người xấu hiện thêm các triệu chứng như: ngứa ngáy âm đạo, đau khi quan hệ, chảy máu âm đạo bất thường...có người lại hoàn toàn không gặp phải vấn đề bất thường nào khác. Xem thêm: Phòng khám phụ khoa ở đâu uy tín tốt nhất Hà Nội Theo các chuyên gia, khí hư màu nâu đen trước kỳ kinh nguyệt có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm cả yếu tố sinh lý và bệnh lý. Vì vậy, nếu tình trạng này thường xuyên diễn ra, bạn nên đến trực tiếp cơ sở y tế để được thăm khám và kiểm tra kịp thời, tránh các ảnh hưởng xấu có thể xảy ra với bản thân. Ra khí hư màu nâu trước kỳ kinh nguyệt có sao không? Thông thường, trước kỳ kinh nguyệt khí hư sẽ ra nhiều hơn bình thường với đặc điểm là có màu trắng, không có mùi hoặc mùi hơi tanh. Tuy nhiên, một số trường hợp chị em thấy vùng kín của mình tiết ra nhiều khí hư có màu nâu đen có mùi hôi hoặc không trước kỳ kinh nguyệt. Nhận định về vấn đề này, các chuyên gia cho biết đây có thể xuất hiện từ các yếu tố tâm sinh lý hoặc bệnh lý. Cụ thể: Ra khí hư màu nâu đen do yếu tố tâm sinh lý Đây là nguyên nhân không quá đáng lo ngại vì nhìn chung ít nguy hiểm đến sức khỏe. Tuy nhiên, để có hướng xử lý kịp thời, tránh để xảy ra những rủi ro không đáng có trong tương lai, chị em cũng cần tuyệt đối lưu ý. Ra khí hư màu nâu trước kỳ kinh nguyệt có sao không? 1. Khí hư có màu nâu do mang thai Nếu trước đó chị em có quan hệ tình dục không sử dụng biện pháp phòng tránh thì nhiều khả năng khí hư ra màu nâu trước kỳ kinh nguyệt là do mang thai. Theo đó, khi mang thai, phôi thai bắt đầu di chuyển vào trong buồng tử cung để làm tổ. Chúng sẽ bắt đầu bám chặt vào phần niêm mạc tử cung để phát triển khiến cho lớp niêm mạc này bị xâm lấn, bong tróc ra gây chảy một lượng máu nhỏ. Vì vậy, phần khí hư có màu nâu này thực chất chính là hậu quả của việc bong tróc lớp niêm mạc tử cung gây ra. Khí hư màu nâu khi mang thai sẽ không có mùi hôi, không gây ngứa. Ngoài hiện tượng này, chị em khi mang thai còn thường gặp phải một số các triệu chứng khác như: chuột rút, căng tức ngực, không có kinh nguyệt… 2. Ra khí hư màu nâu không mùi do rụng trứng Nếu tình trạng ra khí hư màu nâu không mùi không ngứa xuất hiện trước chu kỳ kinh nguyệt khoảng 1 đến 2 tuần thì nhiều khả năng đây là dấu hiệu của ngày rụng trứng. Cụ thể, vào ngày rụng trứng, nội tiết tố tăng cao, dịch âm đạo tiết ra nhiều hơn, đặc và dính lại. Sự dao động của hormone trong thời điểm này sẽ làm xuất hiện một vài đốm nâu lẫn vào khí hư khiến chị em nhận thấy quần lót của mình có màu sắc lạ. Ngoài ra, ra khí hư màu đen trước kỳ kinh nguyệt có thể chính là lượng máu còn sót lại trong cơ thể từ chu kỳ trước. Trường hợp này cần phải đi kiểm tra vì nhiều khả năng tử cung hoặc vòi trứng bị chít hẹp khiến máu khó lưu thông. 3. Khí hư màu nâu do căng thẳng Ít ai biết rằng ra khí hư màu nâu đen có thể xuất phát từ chính tâm lý bất ổn của chị em. Theo các chuyên gia, việc thường xuyên căng thẳng, stress sẽ khiến cho nồng độ hormone trong cơ thể bị rối loạn, mất cân bằng dẫn đến tăng tiết dịch âm đạo, khí hư bất thường. Nhìn chung, nguyên nhân ra khí hư màu nâu không mùi do tâm lý không đáng lo ngại. Chị em chỉ cần tạo tâm lý thoải mái, xây dựng chế độ ăn uống và sinh hoạt lành mạnh thì hiện tượng này sẽ không xuất hiện trở lại. 4. Khí hư màu nâu do tác dụng phụ của thuốc tránh thai Khí hư màu nâu do tác dụng phụ của thuốc tránh thai Thành phần của thuốc tránh thai là các hormone nội tiết tố. Vì vậy, nếu chị em lạm dụng thuốc tránh thai sẽ khiến cho nồng độ nội tiết tố thay đổi dẫn đến hiện tượng ra nhiều khí hư màu nâu đen. Thậm chí, điều này về lâu dài có thể khiến khả năng thụ thai của chị em bị suy giảm, khó mang thai. 5. Khí hư ra màu nâu do thời kỳ tiền mãn kinh Ở độ tuổi tiền mãn kinh (từ 45 đến 50 tuổi), hoạt động nội tiết tố, buồng trứng suy giảm. Điều này sẽ khiến cho nữ giới thường xuyên gặp phải tình trạng khí hư bất thường, chậm kinh, mất kinh. Ra khí hư màu nâu đen trước kỳ kinh nguyệt do bệnh lý So với các nguyên nhân xuất phát từ yếu tố tâm sinh lý, bị ra khí hư màu nâu đen do bệnh lý nguy hiểm hơn rất nhiều. Những căn bệnh này không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, chức năng sinh lý, khả năng sinh sản mà một số trường hợp còn đe dọa đến tính mạng. Chính vì vậy, nếu nhận thấy bản thân thường xuyên bị ra khí hư màu nâu đen kèm theo các triệu chứng bất thường, bạn cần đến ngay cơ sở y tế để được các bác sĩ thăm khám và đưa ra phương án xử lý kịp thời. 1. Lạc nội mạc tử cung Ra khí hư màu nâu đen trước kỳ kinh nguyệt do bệnh lý Là tình trạng các mô trong tử cung “đi lạc” phát triển ra bên ngoài, thường được tìm thấy ở buồng trứng, vòi trứng. Khi di chuyển ra bên ngoài, các mô này vẫn liên tục phát triển, gây chảy máu cho các cơ quan chúng bám vào tương tự như niêm mạc tử cung vào chu kỳ kinh nguyệt. Lạc nội mạc tử cung gây kích thích, viêm và sưng cho các mô xung quanh. Sự phá hủy và gây chảy máu các mô hàng tháng lâu ngày sẽ hình thành nên mô sẹo, đôi khi gây sự kết dính các cơ quan lại với nhau, gây chảy máu và đau cho chị em trong khoảng thời gian trước và trong kinh nguyệt. Ngoài tình trạng ra khí hư màu nâu đen, chị em bị lạc nội mạc tử cung còn cảm thấy đau vùng chậu, đau khi quan hệ, tiểu buốt, tiểu rát, chu kỳ kinh nguyệt kéo dài… 2. Bệnh viêm vùng chậu Với thắc mắc khí hư có màu nâu đen là bệnh gì, các chuyên gia cho biết không loại trừ khả năng đây là dấu hiệu của bệnh viêm vùng chậu. Đây là bệnh lý nhiễm trùng ở cơ quan sinh sản của phụ nữ khi vi khuẩn từ âm đạo và cổ tử cung di chuyển sâu vào bên trong tử cung, buồng trứng, ống dẫn trứng và gây hại. Viêm vùng chậu có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng phổ biến nhất ở những phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, có đời sống quan hệ tình dục phức tạp. Triệu chứng của bệnh là tình trạng ra nhiều khí hư màu nâu, đau bụng dưới, đau khi đi tiểu hoặc khi quan hệ tình dục. Ngoài ra, một số nữ giới còn cảm thấy sốt hoặc ớn lạnh, buồn nôn, ói mửa... Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời sẽ gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm cho người bệnh như: nguy cơ mang thai ngoài tử cung, nguy cơ vô sinh, đau xương chậu mãn tính… 3. U xơ tử cung có ảnh hưởng đến khí hư màu nâu U xơ tử cung là căn bệnh phụ khoa thường gặp ở nữ giới hiện nay, đặc biệt là những chị em từ 30 - 35 tuổi. Bệnh là tình trạng lớp cơ của tử cung xuất hiện những khối u bất thường. Ban đầu, chúng chỉ có kích thước rất nhỏ, chỉ từ vài milimet nhưng sau một thời gian không ngừng phát triển có thể đạt tới kích cỡ của một quả dưa hấu. U xơ tử cung có ảnh hưởng đến khí hư màu nâu U xơ tử cung là một loại u lành tính và rất hiếm khi phát triển thành ung thư. Tuy nhiên, bệnh lại gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm đến sức khỏe như gây chèn ép lên các cơ quan xung quanh, gây rong kinh, đe dọa đến khả năng sinh sản, làm tăng nguy cơ sảy thai… Tùy theo vị trí và kích thước khối u mà triệu chứng u xơ tử cung sẽ có những triệu chứng khác nhau. Thế nhưng, đa phần người bệnh sẽ gặp phải tình trạng khí hư bất thường như :ra khí hư màu đen, khí hư có mùi hôi thối trước kỳ kinh nguyệt, đau tức vùng bụng dưới, rối loạn tiểu tiện, bụng to, táo bón… 4. Ung thư cổ tử cung Ra khí hư màu nâu là bị bệnh gì? Một trong những hậu quả nguy hiểm của tình trạng ra khí hư màu nâu chính là căn bệnh ung thư cổ tử cung. Đây là bệnh lý ác tính xảy ra khi các tế bào ở cổ tử cung phát triển một cách bất thường, nhân lên mất kiểm soát, xâm lấn khu vực xung quanh cũng như các bộ phận khác trong cơ thể. Đa phần, bệnh nhân bị ung thư cổ tử cung do nhiễm virus HPV gây ra. Đây là loại virus có hơn 200 chủng khác nhau, ngoài chủng virus HPV16 và HPV18 gây ung thư cổ tử cung, một số chủng khác gây nên căn bệnh sùi mào gà nguy hiểm toàn xã hội hiện nay. Điều trị ung thư cổ tử cung là một quá trình rất khó khăn. Nếu người bệnh thăm khám sức khỏe định kỳ, phát hiện bệnh ngay từ giai đoạn đầu thì kết quả chữa khỏi là hết sức khả quan. Tuy nhiên, nếu chị em chậm trễ với các triệu chứng của bệnh như: ra khí hư có mùi hôi nhưng không ngứa, đau vùng chậu, bất thường trong tiểu tiện, thiếu máu...thì việc điều trị hết sức phức tạp, đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng. 5. Mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục có ảnh hưởng đến khí hư Ngoài những nguyên nhân trên, ra khí hư có màu nâu đen có thể xuất phát từ việc chị em mắc phải các bệnh lây truyền qua đường tình dục như: bệnh lậu, mụn cóc sinh dục, chlamydia...Đây đều là những căn bệnh nguy hiểm, đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe, khả năng sinh sản của người bệnh. Vì vậy, chị em tuyệt đối không được chủ quan với những dấu hiệu khí hư bất thường. Tóm lại, hiện tượng ra khí hư màu nâu trước kỳ kinh nguyệt có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Để có hướng xử lý kịp thời, tránh các biến chứng nguy hiểm có thể xảy đến, cách tốt nhất là chị em đến trực tiếp cơ sở y tế để được bác sĩ thăm khám kịp thời. Mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục có ảnh hưởng đến khí hư Điều trị khí hư ra có màu nâu đen trước kỳ kinh nguyệt tại Phòng khám đa khoa Hưng Thịnh Như đã nói ở trên, để biết được hiện tượng ra khí hư màu nâu đen trước kỳ kinh nguyệt có nguy hiểm cần phải căn cứ vào nguyên nhân gây ra. Nếu mang thai ra khí hư màu nâu thì chị em không cần phải quá lo lắng, đây chỉ là những thay đổi của cơ thể nhằm chuẩn bị tốt cho thai kỳ. Tình trạng này sẽ biến mất sau vài ngày mà không cần phải điều trị. Tuy nhiên, nếu bà bầu ra khí hư màu nâu kéo dài hoặc chị em thường xuyên gặp phải tình trạng này thì cần nghĩ ngay đến yếu tố bệnh lý. Lúc này, việc thăm khám và điều trị sớm là đặc biệt cần thiết để có thể tránh xảy ra những vấn đề nguy hiểm cho sức khỏe, sinh lý cũng như khả năng sinh sản của chị em. Tại phòng khám đa khoa Hưng Thịnh, mỗi ngày đều có khá đông nữ giới tới thăm khám và điều trị tình trạng khí hư bất thường. Để đưa ra phác đồ điều trị hiệu quả và phù hợp, bác sĩ trước hết sẽ tiến hành thăm khám lâm sàng và cận lâm sàng sức khỏe của bệnh nhân. Điều trị bằng thuốc Tây Y Đối với những trường hợp ra khí hư có màu nâu trước kỳ kinh nguyệt do rối loạn nội tiết tố hoặc mắc phải các bệnh viêm phụ khoa, bệnh xã hội mức độ nhẹ, bác sĩ sẽ chỉ định bệnh nhân dùng thuốc. Rối loạn nội tiết tố: Bệnh nhân sẽ được chỉ định sử dụng một số loại thuốc tổng hợp hormone estrogen, progesterone để giúp cân bằng lại nội tiết tố. Ngoài liệu pháp hormone thay thế, một số loại thuốc an thần, vitamin...cũng sẽ được bác sĩ kê khai. Viêm phụ khoa nhẹ: Bệnh nhân được chỉ định sử dụng một số loại thuốc kháng sinh, tiêu viêm nhằm tiêu diệt virus. Ngoài ra, một số loại thuốc giảm đau, giảm ngứa có thể được chỉ định nếu bệnh nhân xuất hiện các triệu chứng. Bệnh xã hội giai đoạn đầu: Bác sĩ sẽ chỉ định bệnh nhân sử dụng một số loại thuốc kháng virus nhằm ức chế sự phát triển của tác nhân gây bệnh đồng thời hạn chế các triệu chứng của bệnh. Phẫu thuật điều trị bệnh Với những trường hợp bị ra khí hư màu nâu đen do bệnh lý phụ khoa, bệnh xã hội ở mức độ nặng, điều trị bằng thuốc sẽ không còn mang lại hiệu quả. Lúc này, bác sĩ sẽ nhận định vào tình trạng sức khỏe, loại bệnh mà chỉ định phương pháp can thiệp ngoại khoa. Ví dụ, nếu bệnh nhân bị u xơ tử cung với kích thước lớn, việc cắt bỏ sẽ được chỉ định nhanh chóng. Với phương pháp phẫu thuật hiện đại cộng với năng lực chuyên môn, tay nghề cao của bác sĩ tại phòng khám, phẫu thuật cắt bỏ khối u xơ tử cung không còn là vấn đề phức tạp. Bệnh nhân không còn cảm thấy đau đớn, mất nhiều máu cũng như không gây nguy hiểm đến sức khỏe và khả năng sinh sản. Vì vậy, chị em không cần phải quá lo lắng về vấn đề này. Điều trị khí hư ra có màu nâu đen trước kỳ kinh nguyệt Trong trường hợp ra nhiều khí hư màu nâu đen do mắc bệnh lậu nặng, các bác sĩ tại phòng khám đa khoa Hưng Thịnh sẽ tiến hành điều trị bệnh bằng công nghệ phục hồi gene DHA. Đây là công nghệ điều trị bệnh được đánh giá là hiệu quả và an toàn nhất hiện nay. Phương pháp tiêu diệt nhanh chóng và triệt để vi khuẩn lậu từ sâu bên trong bằng sóng điện từ đồng thời kích thích hệ miễn dịch cơ thể sản sinh ra kháng thể chống lại bệnh. Tỷ lệ điều trị khỏi bệnh lậu bằng công nghệ DHA là rất cao, trong quá trình điều trị bệnh nhân sẽ không thấy đau, không mất máu, thời gian phục hồi nhanh và hạn chế tối đa khả năng tái phát. Vì vậy, đây là địa chỉ điều trị bệnh uy tín được nhiều người dân thủ đô và các tỉnh thành lân cận yên tâm lựa chọn hiện nay. Bà bầu ra khí hư màu nâu cũng đừng lo lắng vì các bác sĩ tại phòng khám sẽ thăm khám và đưa ra phương án xử lý phù hợp nhất, vừa nhanh chóng đẩy lùi bệnh vừa không làm ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi. Với đội ngũ bác sĩ là những chuyên gia từng có nhiều năm công tác tại các bệnh viện lớn cùng dàn máy móc hiện đại, quy trình khám chữa bệnh nghiêm ngặt, kết quả điều trị bệnh tại đây luôn đảm bảo độ chính xác và an toàn cao trong thời gian ngắn. Đến điều trị khí hư có màu nâu trước kỳ kinh nguyệt tại phòng khám, chị em sẽ được thăm khám nhanh chóng, phục vụ tận tình. Đặc biệt, hiện nay phòng khám đang có chương trình ưu đãi với nhiều gói khám bệnh ưu đãi cho chị em như; khám phụ khoa 9 hạng mục tổng quát chỉ có giá 280.000 đồng/lượt, tiểu phẫu điều trị bệnh giảm 30% so với với giá gốc...Đây thực sự là cơ sở y tế uy tín mà chị em có thể yên tâm và chất lượng, dịch vụ và giá cả khi tới khám chữa bệnh. Như vậy, những thắc mắc về hiện tượng ra khí hư màu nâu đen có sao không cũng như cách chữa trị hiệu quả đã được các chuyên gia giải đáp cụ thể trong bài viết. Hy vọng điều này sẽ hữu ích với chị em trong việc phòng tránh và điều trị bệnh được an toàn, hiệu quả. Nếu có câu hỏi về sức khỏe hoặc muốn đặt lịch khám phụ khoa tại phòng khám Hưng Thịnh để nhận được nhiều ưu đãi lớn, bạn đọc hãy click vào biểu tượng tin nhắn hiển thị trên góc màn hình để nhận được sự hỗ trợ nhanh chóng và hoàn toàn miễn phí. Chúc bạn sức khỏe! Bài Viết Cùng Chuyên mục Chậm kinh bao nhiêu ngày thì có thai? Cách tính chính xác dành cho chị em Chậm kinh bao nhiêu ngày thì có thai✅chậm kinh có sao không⭐️✅⭐️chậm kinh mấy ngày là có thai là thắc mắc được rất nhiều chị em phụ nữ quan tâm Tác giả: Bác sĩ chuyên sản phụ khoa Trần Thị Thành [Giải Đáp] Uống cà phê có làm ngưng kinh nguyệt không? Uống cà phê có làm ngưng kinh nguyệt không✅⭐️✅⭐️✅Lời khuyên từ chuyên gia phòng khám đa khoa Hưng Thịnh phụ nữ không nên uống quá nhiều cà phê rất có hại cho SK Tác giả: Bác sĩ chuyên sản phụ khoa Trần Thị Thành Khi hư màu trắng đục là bệnh gì? nguyên nhân cách chữa trị Ra Khi hư màu trắng đục là bệnh gì? nguyên nhân cách chữa trị hiệu quả nhất sẽ được chuyên gia tư vấn sức khỏe bật mí trong nội dung bài viết này Tác giả: Bác sĩ chuyên sản phụ khoa Trần Thị Thành Ra khi hư có màu nâu đen trước kỳ kinh nguyệt là bệnh gì? cách điều trị Ra khi hư có màu nâu đen trước kỳ kinh nguyệt là bệnh gì?✅⭐️✅⭐️✅Cách điều trị hiệu quả sẽ có đầy đủ trong nội dung bài viết này mời các bạn vào tham khảo Tác giả: Bác sĩ chuyên sản phụ khoa Trần Thị Thành Đau bụng kinh là gì? nguyên nhân triệu chứng, cách chữa trị Đau bụng kinh là gì? nguyên nhân triệu chứng, cách chữa trị sẽ giúp chị em hiểu biết hơn về vấn đề này. Cũng như là các biện pháp phòng ngừa hiệu quả nhất Tác giả: Bác sĩ chuyên sản phụ khoa Trần Thị Thành 2 tháng không có kinh nguyệt phải làm sao? 2 tháng không có kinh nguyệt phải làm sao? có sao không là những câu hỏi đang được chị em quan tâm, vậy để hiểu rõ hơn xin mời quý vị xem nội dung bài viết này Tác giả: Bác sĩ chuyên sản phụ khoa Trần Thị Thành Next Bản Quyền thuộc Phòng khám đa khoa Hưng Thịnh 380 Xã Đàn - Đống Đa - Hà Nội
1610704847953.98.parquet/181870
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 15999, "url": "https://phongkhamdakhoahungthinh.webflow.io/blog/ra-khi-hu-co-mau-nau-den-truoc-ky-kinh-nguyet-la-benh-gi-cach-dieu-tri" }
136.5
Đánh giá việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định - Tài liệu, ebook, giáo trình Trang chủ Đăng ký Đăng nhập Liên hệ Thư Viện Tài liệu, Ebook, Luận Văn, Báo Cáo, Tiểu Luận, Giáo án, Giáo trình Thư viện tài liệu, ebook, đồ án, luận văn, giáo trình tham khảo miễn phí cho học sinh, sinh viên Đánh giá việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định Tài liệu Đánh giá việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định: ... Ebook Đánh giá việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định 118 trang | Chia sẻ: huyen82 | Ngày: 09/12/2013 | Lượt xem: 7484 | Lượt tải: 36 Tóm tắt tài liệu Đánh giá việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Tr­êng ®¹i häc N«ng nghiÖp hµ néi --------------- nguyÔn tuÊn hïng ®¸nh gi¸ viÖc thùc hiÖn quy ho¹ch sö dông ®Êt huyÖn nghÜa h­ng, tØnh nam ®Þnh luËn v¨n th¹c sÜ n«ng nghiÖp Chuyªn ngµnh : Qu¶n lý ®Êt ®ai M· sè : 60.62.16 Ng­êi h­íng dÉn khoa häc: pgs.ts. NguyÔn thÞ vßng Hµ néi - 2008 LỜI CAM ĐOAN - Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. - Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc. Tác giả luận văn Nguyễn Tuấn Hùng LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện đề tài, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự hướng dẫn nhiệt tình, chu đáo của các nhà khoa học, các Thầy, Cô giáo và sự giúp đỡ nhiệt tình, những ý kiến đóng góp quý báu của nhiều cá nhân và tập thể để tôi hoàn thành bản luận văn này. Nhân dịp này tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Thị Vòng đã trực tiếp hướng dẫn trong toàn bộ thời gian tôi thực hiện đề tài. Tôi xin chân thành cảm ơn sự góp ý chân thành của các Thầy, Cô giáo khoa Tài nguyên và Môi trường, khoa Sau đại học - Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Tôi xin chân thành cảm ơn Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Nam Định, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất tỉnh Nam Định, Phòng tài nguyên và Môi trường huyện Nghĩa Hưng và gia đình, bạn bè đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong thời gian thu thập thông tin, tài liệu, nghiên cứu làm luận văn. Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn. Tác giả luận văn Nguyễn Tuấn Hùng MỤC LỤC Lời cam đoan i Lời cảm ơn ii Mục lục iii Danh mục các chữ cái viết tắt vi Danh mục bảng vii Danh mục biểu đồ viii Tài liệu tham khảo………………………………………………………...107 Phần phụ lục……………………………………………………………....111 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CN Công nghiệp HĐND Hội đồng nhân dân HTX Hợp tác xã LM Làm mới MN Mầm non MR Mở rộng QH Quy hoạch QHSDĐ Quy hoạch sử dụng đất THCS Trung học cơ sở THPT Trung học phổ thông TT Thị trấn TTCN Trung tâm công nghiệp TTDV Trung tâm dịch vụ UBND Uỷ ban nhân dân XD Xây dựng DANH MỤC BẢNG Tên bảng Trang Bảng 4.1. Một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu các năm 56 Bảng 4.2: Phân bổ lao động theo các ngành kinh tế 59 Bảng 4.3. Diện tích, cơ cấu sử dụng đất huyện Nghĩa Hưng năm 2007 73 Bảng 4.4: Phương án quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 76 Bảng 4.5: Kết quả chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp đến năm 2007 78 Bảng 4.6. Kết quả thực hiện chuyển mục đích sang đất ở đến năm 2007 82 Bảng 4.7. Kết quả thực hiện quy hoạch đất phi nông nghiệp đến năm 2007 86 Bảng 4.8. Kết quả thực hiện đưa đất chưa sử dụng vào sử dụng đến năm 2007 88 Bảng 4.9. Kết quả thực hiện một số công trình giao thông đến năm 2007 93 Bảng 4.10. Kết quả thực hiện một số công trình thuỷ lợi giai đoạn 2000 – 2007 94 Bảng 4.11. Kết quả thực hiện một số công trình giáo dục giai đoạn 2000 – 2007 95 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Tên biểu đồ Trang Biểu đồ 01. Cơ cấu kinh tế qua các năm 56 Biểu đồ 02: Cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế 60 Biểu đồ 03. Biến động các loại đất chính 1990 - 2007 69 Biểu đồ 04. Biến động diện tích đất nông nghiệp giai đoạn 1990 – 2007 69 Biểu đồ 05. Biến động diện tích đất phi nông nghiệp giai đoạn 1990 – 2007 71 Biểu đồ 06. Biến động diện tích đất chưa sử dụng giai đoạn 1990 – 2007 71 Biểu đồ 07. Cơ cấu hiện trạng các loại đất năm 2007 72 Biểu đồ 08. Cơ cấu các loại đất nông nghiệp năm 2007 73 Biểu đồ 09. Cơ cấu các loại đất phi nông nghiệp 73 Biểu đồ 10. Cơ cấu các loại đất chuyên dùng 75 Biểu đồ 11: Chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp đến năm 2007 80 Biểu đồ 12: Kết quả chuyển mục đích sản xuất nông nghiệp các công trình 90 MỞ ĐẦU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Sử dụng nguồn tài nguyên đất đai một cách hợp lý và hiệu quả là một trong những vấn đề được cả thế giới đặc biệt quan tâm. Bởi vì đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt không gì có thể thay thế được, là môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các công trình kinh tế, văn hoá, xã hội và an ninh quốc phòng. Đất đai bao gồm các yếu tố tự nhiên và chịu sự tác động của các yếu tố kinh tế, tâm lý xã hội và ý thức sử dụng đất của mỗi con người. Đất đai có giới hạn về không gian nhưng vô hạn về thời gian sử dụng. Mác đã khẳng định: “Đất là kho tàng cung cấp cho con người mọi thứ cần thiết, vì vậy trong quá trình sử dụng đất muốn đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất thiết phải có kế hoạch cụ thể về thời gian và lập quy hoạch về không gian”. Quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai là một trong 13 nội dung quản lý Nhà nước về đất đai, được ghi nhận tại Điều 6 Luật Đất đai 2003. Điều 18 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành năm 1992 nêu rõ “Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch và theo pháp luật, đảm bảo sử dụng đất đúng mục đích và có hiệu quả [Hiến pháp năm 1992]. Huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh Nam Định ra quyết định số 3335/2002/QĐ-UBND ngày 31/12/2002 phê duyệt phương án quy hoạch sử dụng đất thời kỳ 2001 - 2010. Đó là căn cứ quan trọng để huyện triển khai thực hiện các chương trình phát triển kinh tế – xã hội của huyện. Tuy nhiên, quá trình triển khai lập và tổ chức thực hiện vẫn bộc lộ một số tồn tại nhất định. Đặc biệt sau khi phương án quy hoạch sử dụng đất được phê duyệt và đưa vào thực hiện thì tình hình theo dõi, giám sát còn nhiều bất cập dẫn đến tình trạng “quy hoạch treo” hoặc không điều chỉnh kịp thời những biến động về sử dụng đất trong quá trình thực hiện phương án quy hoạch tại địa phương. Với mục tiêu giúp địa phương nhìn nhận đánh giá kết quả thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2001 – 2010, phân tích, đánh giá những kết quả đã đạt được và những tồn tại bất cập trong quá trình thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất đến năm 2007; đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao tính khả thi của phương án quy hoạch sử dụng đất; khắc phục những nội dung sử dụng đất bất hợp lý, đề xuất, kiến nghị điều chỉnh những nội dung của phương án quy hoạch sử dụng đất không theo kịp những biến động trong phát triển kinh tế – xã hội của địa phương trong những năm tới. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định”. 1.2. Mục đích, yêu cầu của đề tài 1.2.1. Mục đích - Phân tích những biến động trong sử dụng đất đai huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định giai đoạn 1990 - 2007 - Đánh giá tiến độ thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất thời kỳ 2001 đến 2007 huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. - Đề xuất các giải pháp thực hiện quy hoạch sử dụng đất huyện Nghĩa Hưng trong các năm tới. 1.2.2. Yêu cầu - Số liệu điều tra, thu thập được khách quan, trung thực, chính xác. - Những đề xuất, kiến nghị đưa ra phải có tính khả thi và phù hợp với điều kiện thực tế địa phương. 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 2.1. Một số lý luận về sử dụng đất 2.1.1. Khái niệm đất đai và chức năng của đất đai Đất đai là một diện tích cụ thể của bề mặt trái đất, bao gồm tất cả các cấu thành của môi trường sinh thái ngay trên và dưới bề mặt đó như khí hậu bề mặt, thổ nhưỡng, dạng địa hình, mặt nước (hồ, sông suối, đầm lầy...), các lớp trầm tích sát bề mặt cùng với nước ngầm và khoáng sản trong lòng đất, tập đoàn thực vật và động vật, trạng thái định cư của con người, những kết quả hoạt động của con người trong quá khứ và hiện tại để lại (san nền, hồ chứa nước hay hệ thống tiêu thoát nước, đường xá, nhà cửa...) Các chức năng của đất đai đối với hoạt động sản xuất và sinh tồn của xã hội loài người được thể hiện theo các mặt sau: Sản xuất; Môi trường sự sống; Cân bằng sinh thái; Điều tiết khí hậu; Tàng trữ và cung cấp nguồn nước; Dự trữ (nguyên liệu và khoáng sản trong lòng đất); Kiểm soát ô nhiễm và chất thải; Không gian sự sống; Bảo tồn - bảo tàng sự sống; Phân dị lãnh thổ. Đất đai là điều kiện chung nhất (khoảng không gian lãnh thổ cần thiết) đối với mọi quá trình sản xuất trong các ngành kinh tế quốc dân và hoạt động của con người. Điều này có nghĩa - Thiếu khoảnh đất (có vị trí, hình thể, quy mô diện tích và yêu cầu về chất lượng nhất định) thì không một ngành nào, xí nghiệp nào có thể bắt đầu công việc và hoạt động được. Nói khác đi - không có đất sẽ không có sản xuất cũng như không có sự tồn tại của chính con người. Đất đai đóng vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, là cơ sở tự nhiên, là tiền đề cho mọi quá trình sản xuất. Các Mác đã nhấn mạnh “ Đất là mẹ, lao động là cha, sản sinh ra mọi của cải vật chất”. Tuy nhiên vai trò của đất trong các ngành sản xuất cũng rất khác nhau. Trong các ngành phi nông nghiệp, đất đai giữ vai trò là cơ sở không gian để thực hiện các quá trình lao động, là kho tàng dự trữ trong lòng đất (các ngành khai thác khoáng sản). Chất lượng sản phẩm được tạo ra từ các ngành phi nông nghiệp không phụ thuộc vào đặc điểm, độ phì nhiêu của đất, chất lượng thảm thực vật và các tính chất tự nhiên có sẵn trong đất. Trong nông nghiệp, đất đai đóng một vai trò khác hẳn, đất tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và làm ra sản phẩm phục vụ đời sống của con người và xã hội. Năng suất và chất lượng của sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng đất. Đất nông nghiệp là yếu tố đầu vào quan trọng tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp. 2.1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến sử dụng đất Sử dụng đất là hệ thống các biện pháp nhằm điều hoà mối quan hệ người - đất trong tổ hợp với các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác và môi trường. Căn cứ vào nhu cầu của thị trường sẽ phát hiện và quyết định phương hướng chung, mục tiêu sử dụng hợp lý tài nguyên, phát huy tối đa tiềm năng đất đai nhằm đạt hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường và sự phát triển bền vững. Vì vậy, phạm vi, cơ cấu và phương thức sử dụng đất vừa bị chi phối bởi các điều kiện và quy luật sinh thái tự nhiên vừa bị chi phối bởi các điều kiện, quy luật kinh tế - xã hội và các yếu tố kỹ thuật. Theo nghiên cứu của Viện Điều tra Quy hoạch đất đai [12] có 3 nhóm nhân tố ảnh hưởng đến sử dụng đất. * Nhân tố điều kiện tự nhiên Quá trình sử dụng đất đai cần phải chú ý đến các đặc tính và tính chất đất đai để xác định yếu tố hạn chế hay tích cực cho việc sử dụng đất hợp lý như chế độ nhiệt, bức xạ, độ ẩm, yếu tố địa hình, thổ nhưỡng, xói mòn... Các đặc tính, tính chất này được chia làm 2 loại: - Điều kiện khí hậu: Khí hậu là một thành phần rất quan trọng của hệ sinh thái đồng ruộng. Nó cung cấp năng lượng chủ yếu cho quá trình tạo thành chất hữu cơ, mang lại năng suất cho cây trồng. Có đến 90 - 95% chất hữu cơ của cây là do quá trình quang hợp với sự cung cấp năng lượng của ánh sáng mặt trời. Cây trồng tận dụng cao nhất điều kiện khí hậu sẽ cho tổng sản phẩm và giá trị kinh tế cao nhất. - Điều kiện đất đai: Các yếu tố địa hình, địa mạo, độ cao, độ dốc, hướng dốc, mức độ xói mòn... thường dẫn tới sự khác nhau về đất đai và khí hậu, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và hoạt động của các ngành. Địa hình là yếu tố phức tạp ảnh hưởng đến nhiều yếu tố khác. Trước hết, địa hình ảnh hưởng đến khí hậu, nếu có sự khác nhau về độ cao sẽ dẫn đến chế độ nhiệt và chế độ ẩm khác nhau. Theo nghiên cứu của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam [13] khẳng định: "Việc đánh giá sự phân bố của các yếu tố khí hậu và quy luật hoạt động của chúng kết hợp với nghiên cứu phân vùng khí hậu nông nghiệp, xác định các hệ thống cây trồng phù hợp với điều kiện sinh thái ở mỗi vùng, tạo điều kiện thuận lợi để sử dụng tốt nhất nguồn lợi thiên nhiên, đạt năng suất cao, ổn định, hạn chế sự thiệt hại do ngoại cảnh gây ra là một việc làm có tầm quan trọng". Ở vùng đồi núi, yếu tố quan trọng nhất của địa hình là độ dốc. Đối với đất nông nghiệp, độ dốc kết hợp với yếu tố lượng mưa, tính chất đất sẽ quyết định khả năng canh tác và hệ thống cây trồng phù hợp để khắc phục những yếu tố hạn chế. Đối với ngành phi nông nghiệp, yếu tố địa hình quyết định những thuận lợi hay khó khăn của việc thi công công trình hay khả năng lưu thông hàng hoá, gián tiếp ảnh hưởng đến khả năng và quy mô sản xuất (ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp...). Thành phần cơ giới của đất quyết định các tính chất đất như chế độ nước, nhiệt độ, không khí, dinh dưỡng và độ lún. Đất có thành phần cơ giới nhẹ: thoáng khí, dễ thoát nước, giữ nước kém, ít chất dinh dưỡng và độ lún thấp; đất thành phần cơ giới nặng: giữ nước và chất dinh dưỡng tốt nhưng thoát nước chậm, hay bị úng, ít không khí, độ lún cao. Mỗi cây trồng chỉ sinh trưởng tốt ở một điều kiện đất đai nhất định, một công trình có yêu cầu kỹ thuật về độ lún khác nhau. Mỗi vùng đất khác nhau có các điều kiện tự nhiên khác nhau, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sử dụng đất: khả năng sản xuất, xây dựng công trình, phát triển các ngành. Do đó, để có phương án sử dụng đất hợp lý cần phải tuân thủ theo quy luật tự nhiên, tận dụng tối đa những thuận lợi, khắc phục những hạn chế để sử dụng đất mang lại hiệu quả sử dụng đất cao nhất. * Nhân tố kinh tế - xã hội Các nhân tố kinh tế - xã hội bao gồm các thể chế, chính sách, thực trạng phát triển các ngành, điều kiện cơ sở hạ tầng: giao thông, thủy lợi, xây dựng..., trình độ phát triển khoa học kỹ thuật, trình độ dân trí, dân số, lao động, việc làm và đời sống văn hóa, xã hội. Các điều kiện tự nhiên là cơ sở để xây dựng phương án sử dụng đất nhưng các nhân tố kinh tế - xã hội sẽ quyết định phương án đã lựa chọn có thực hiện được hay không. Phương án sử dụng đất được quyết định bởi khả năng của con người và các điều kiện kinh tế - xã hội, kỹ thuật hiện có. Các điều kiện tự nhiên của mỗi vùng thường ít có sự khác biệt nhưng hiệu quả sử dụng đất thì có sự khác biệt lớn, nguyên nhân của vấn đề này là do điều kiện kinh tế - xã hội: vốn, nhân lực, cơ sở hạ tầng... quyết định. Trong thực tế càng minh chứng rõ vấn đề này, với điều kiện tự nhiên đồng nhất nhưng nếu vùng nào có kinh tế phát triển, vốn đầu tư lớn, nhận thức và trình độ của người lao động vùng nào cao hơn thì sử dụng đất sẽ có hiệu quả hơn. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau dẫn đến trình độ sử dụng đất khác nhau. Nhờ những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến mà chúng ta có những nghiên cứu về lai tạo giống cây trồng cho năng suất cao, phù hợp điều kiện sinh thái từng vùng, chế tạo ra máy móc, công cụ sản xuất theo công nghệ tiên tiến... tạo điều kiện nâng cao tối đa hiệu quả sản xuất, đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Nhờ có sự tiến bộ khoa học kỹ thuật trong việc đầu tư thâm canh và giống mới có năng suất cao nên sản lượng lương thực của Việt Nam nói chung và vùng đồng bằng sông Hồng nói riêng đã tăng lên đáng kể. Theo Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường [4]: “Sản lượng lúa của vùng đồng bằng sông Hồng chiếm 20% tổng sản lượng lúa của cả nước, năng suất lúa của vùng từ những năm 60 có xu hướng tăng lên: từ 2,2 triệu tấn vào năm 1960 đến trên 4,5 triệu tấn vào năm 1990”. Từ những lý luận trên cho thấy, các điều kiện kinh tế - xã hội có tác động không nhỏ tới việc sử dụng đất đai, thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình sử dụng đất hiệu quả của con người. Vì vậy, khi lựa chọn phương cách sử dụng đất, ngoài việc dựa vào quy luật tự nhiên thì các nhân tố kinh tế xã hội cũng không kém phần quan trọng. * Nhân tố không gian Trong thực tế, bất kỳ ngành sản xuất nào (nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, khai thác khoáng sản...) đều cần đến đất đai là điều kiện không gian cho các hoạt động. Tính chất không gian bao gồm: vị trí địa lý, địa hình, hình dạng, diện tích. Đất đai không thể di dời từ nơi này đến nơi khác nên sự thừa thãi đất đai ở nơi này không thể sử dụng để đáp ứng sự thiếu đất ở địa phương khác. Đất đai phải khai thác tại chỗ, không thể chia cắt mang đi, nên không thể có hai khoanh đất giống nhau hoàn toàn. Do đó, không gian là yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của việc sử dụng đất. Các quá trình sản xuất công nghiệp được thực hiện bởi tác động của con người lên đối tượng lao động thông qua tư liệu sản xuất nằm ở vị trí cố định, một không gian hạn chế. Trong sản xuất nông nghiệp thì khác, người sản xuất tác động trực tiếp vào đất đai thông qua các tư liệu sản xuất để mang lại năng suất, sản lượng cao nhất có thể. Vị trí và diện tích đất đai là bất biến nhưng điều kiện xã hội thay đổi từng ngày, các ngành kinh tế không ngừng phát triển, dân số ngày càng tăng, điều này đã gây áp lực lớn đối với đất đai và cũng là thử thách đối với toàn xã hội. Đặc điểm không thể chuyển dịch của đất đai dẫn đến những lợi thế hoặc khó khăn cho vùng, lãnh thổ. Nếu những khoanh đất có vị trí tại khu trung tâm, có nền kinh tế phát triển, thuận lợi giao thông, giao lưu buôn bán... thì hiệu quả sử dụng đất của khoanh đất đó sẽ lớn hơn rất nhiều so với khoanh đất tại vùng nông thôn, có nền kinh tế kém phát triển, không thuận tiện giao thông hay những khoanh đất tại vùng đồng bằng, địa hình bằng phẳng sẽ cho hiệu quả của sản xuất nông nghiệp cao hơn vùng đồi núi, địa hình phức tạp. Bên cạnh đó, hình dạng của mảnh đất có ảnh hưởng rõ rệt đến hiệu quả sử dụng đất trong cả nông nghiệp và phi nông nghiệp: làm đất, chăm sóc, vận chuyển, thiết kế công trình... Như vậy, các nhân tố không gian có ảnh hưởng tới quá trình sử dụng đất, nó sẽ gián tiếp quyết định hiệu quả của việc sử dụng đất. Từ những vấn đề nêu trên cho thấy, các yếu tố điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế xã hội tạo ra nhiều tổ hợp ảnh hưởng đến việc sử dụng đất đai. Tuy nhiên mỗi yếu tố giữ vị trí và có tác động khác nhau. Trong đó, điều kiện tự nhiên là yếu tố cơ bản để xác định công dụng của đất đai, có ảnh hưởng trực tiếp, cụ thể và sâu sắc, nhất là đối với sản xuất nông nghiệp; Điều kiện kinh tế sẽ kiềm chế tác dụng của con người trong việc sử dụng đất; Điều kiện xã hội tạo ra những khả năng khác nhau cho các yếu tố kinh tế và tự nhiên tác động tới việc sử dụng đất. Vì vậy, cần phải dựa vào quy luật tự nhiên và quy luật kinh tế - xã hội để nghiên cứu, xử lý mối quan hệ giữa các nhân tố tự nhiên, kinh tế - xã hội trong lĩnh vực sử dụng đất đai. Căn cứ vào yêu cầu của thị trường và của xã hội, xác định mục đích sử dụng đất, kết hợp chặt chẽ yêu cầu sử dụng với ưu thế tài nguyên của đất đai để đạt tới cơ cấu tổng thể hợp lý nhất, với diện tích đất đai có hạn sẽ mang lại hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội ngày càng cao và sử dụng đất đai được bền vững. Trong thực tế, mọi ngành sản xuất vật chất và phi vật chất (như các ngành nông nghiệp, công nghiệp, khai khoáng, xây dựng, mọi hoạt động kinh tế và hoạt động xã hội) đều cần đến đất đai như điều kiện không gian để hoạt động. Không gian, bao gồm cả vị trí và mặt bằng. Đặc tính cung cấp không gian của đất đai là yếu tố vĩnh hằng của tự nhiên ban phát cho xã hội loài người. Không gian mà đất đai cung cấp có đặc tính vĩnh cửu, cố định vị trí khi sử dụng và số lượng không thể vượt phạm vi quy mô hiện có. Do vị trí và không gian của đất đai không bị mất đi và cũng không tăng thêm trong quá trình sử dụng, nên phần nào đã giới hạn sức tải nhân khẩu và số lượng người lao động, có nghĩa tác dụng hạn chế của không gian đất đai sẽ thường xuyên xẩy ra khi dân số và kinh tế xã hội luôn phát triển. Sự bất biến của tổng diện tích đất đai không chỉ hạn chế khả năng mở rộng không gian sử dụng đất, mà còn chi phối giới hạn thay đổi của cơ cấu đất đai. Điều này quyết định việc điều chỉnh cơ cấu đất đai theo loại, số lượng được sử dụng căn cứ sức sản xuất của đất và yêu cầu sản xuất của xã hội nhằm đảm bảo nâng cao lực tải của đất đai. Khả năng không chuyển dịch của đất đai dẫn đến việc phân bố về số lượng và chất lượng đất đai mang tính khu vực rất chặt chẽ. Cùng với mật độ dân số của các khu vực khác nhau, tỷ lệ cơ cấu và lượng đầu tư sẽ có sự khác biệt rất rõ rệt. Tài nguyên đất đai có hạn, lại giới hạn về không gian, đây là nhân tố hạn chế lớn nhất đối với việc sử dụng đất ở nước ta. Vì vậy, cần phải thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả kết hợp bảo vệ tài nguyên đất và môi trường. Đối với đất xây dựng đô thị, đất dùng cho công nghiệp, xây dựng công trình, nhà xưởng, giao thông... mặt bằng không gian và vị trí của đất đai có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và giá trị kinh tế rất cao. Sử dụng đất là hệ thống các biện pháp nhằm điều hoà mối quan hệ người - đất trong tổ hợp các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác và môi trường. Căn cứ vào nhu cầu của thị trường sẽ phát hiện, quyết định phương hướng chung và mục tiêu sử dụng hợp lý nhất tài nguyên đất, phát huy tối đa công dụng của đất nhằm đạt tới hiệu ích sinh thái, kinh tế và xã hội cao nhất. Vì vậy, sử dụng đất thuộc phạm trù hoạt động kinh tế của nhân loại. Trong mỗi phương thức sản xuất xã hội nhất định, việc sử dụng đất theo yêu cầu của sản xuất và đời sống cần căn cứ vào thuộc tính tự nhiên của đất đai. Với ý nghĩa là nhân tố của sức sản xuất, các nhiệm vụ và nội dung sử dụng đất được thể hiện theo 4 mặt sau: - Sử dụng đất hợp lý về không gian, hình thành hiệu quả kinh tế không gian sử dụng đất; - Phân phối hợp lý cơ cấu đất đai trên diện tích đất được sử dụng, hình thành cơ cấu kinh tế sử dụng đất; - Quy mô sử dụng đất cần có sự tập trung thích hợp, hình thành quy mô kinh tế sử dụng đất; - Giữ mật độ sử dụng đất thích hợp, hình thành việc sử dụng đất một cách kinh tế, tập trung, thâm canh. 2.1.3. Các xu thế phát triển sử dụng đất Hiện nay, xu thế sử dụng đất được phát triển theo các hướng sau: Lịch sử phát triển của xã hội loài người chính là lịch sử biến đổi của quá trình sử dụng đất. Khi con người còn sống bằng phương thức săn bắn và hái lượm, chủ yếu dựa vào sự ban phát của tự nhiên, vấn đề sử dụng đất hầu như không tồn tại. Thời kỳ du mục, con người sống trong lều cỏ, những vùng đất có nước và đồng cỏ bắt đầu được sử dụng. Khi xuất hiện ngành trồng trọt với những công cụ sản xuất thô sơ, diện tích đất đai được sử dụng tăng lên nhanh chóng, năng lực sử dụng và ý nghĩa kinh tế của đất đai cũng gia tăng. Tuy nhiên trình độ sử dụng đất còn rất thấp, phạm vi sử dụng cũng rất hạn chế, mang tính kinh doanh thô, đất khai phá nhiều nhưng thu nhập rất thấp. Với sự tăng trưởng của dân số và phát triển của kinh tế, kỹ thuật, văn hoá và khoa học, quy mô, phạm vi và chiều sâu của việc sử dụng đất ngày một nâng cao. Yêu cầu sinh hoạt vật chất và tinh thần của người dân ngày càng cao, các ngành nghề cũng phát triển theo xu hướng phức tạp và đa dạng dần, phạm vi sử dụng đất càng mở rộng (từ cục bộ một vùng đã phát triển trên phạm vi cả thế giới, thậm chí cả ở những vùng đất trước đây không thể sử dụng được). Cùng với việc phát triển sử dụng đất theo không gian, trình độ tập trung cũng sâu hơn nhiều. Đất canh tác cũng như đất sử dụng theo các mục đích khác đều được phát triển theo hướng kinh doanh tập trung, với diện tích đất ít nhưng hiệu quả sử dụng cao. Tuy nhiên, thời kỳ quá độ từ kinh doanh quảng canh sang kinh doanh thâm canh cao trong sử dụng đất là một nhiệm vụ chiến lược lâu dài. Để nâng cao sức sản xuất và sức tải của một đơn vị diện tích, đòi hỏi phải liên tục nâng mức đầu tư về vốn và lao động, thường xuyên cải tiến kỹ thuật và công tác quản lý. Ở những khu vực khác nhau của một vùng hoặc một quốc gia, có sự khác nhau về trình độ phát triển kinh tế kỹ thuật cũng như các điều kiện đặc thù, do đó phải áp dụng linh hoạt, sáng tạo nhiều phương thức sử dụng đất tuỳ từng thời điểm khác nhau. Khoa học kỹ thuật và kinh tế của xã hội phát triển, sử dụng đất từ hình thức quảng canh chuyển sang thâm canh, kéo theo xu thế từng bước phức tạp hoá và chuyên môn hoá cơ cấu sử dụng đất. Khi kinh tế phát triển, nhu cầu của con người về vật chất, văn hoá, tinh thần và môi trường ngày một cao sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp đòi hỏi yêu cầu cao hơn đối với đất đai, ở thời kỳ mức sống còn thấp, việc sử dụng đất chủ yếu tập trung vào sản xuất nông nghiệp nhằm giải quyết vấn đề thường nhật của cuộc sống là đủ cơm ăn, áo mặc và chỗ ở. Khi đời sống đã nâng cao, chuyển sang giai đoạn hưởng thụ, vấn đề sử dụng đất ngoài việc sản xuất vật chất phải thoả mãn được nhu cầu vui chơi, giải trí, văn hoá, thể thao và môi trường trong sạch... đã làm cho cơ cấu sử dụng đất trở nên phức tạp hơn. Tiến bộ khoa học kỹ thuật đã cho phép mở rộng khả năng kiểm soát tự nhiên của con người, áp dụng các biện pháp bồi bổ và cải tạo sẽ nâng cao sức sản xuất của đất đai, thoả mãn các loại nhu cầu của xã hội. Trước đây, việc sử dụng đất rất hạn chế do kinh tế và khoa học kỹ thuật còn ở trình độ thấp, chủ yếu sử dụng bề mặt của đất đai, nông nghiệp độc canh, đất lâm nghiệp, đồng cỏ, mặt nước ít được sử dụng, khai thác khoáng sản còn hạn chế, xây dựng chủ yếu chọn đất bằng. Khi khoa học kỹ thuật hiện đại phát triển, ngay cả đất xấu cũng được khai thác triệt để, hình thức sử dụng đa dạng, ruộng nước phát triển... đã làm cho vấn đề sử dụng đất ngày một phức tạp hơn theo hướng sử dụng toàn diện, triệt để các chất dinh dưỡng, sức tải, vật chất cấu thành và sản phẩm của đất đai để phục vụ lợi ích con người. Hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân và phát triển kinh tế hàng hoá, dẫn đến sự phân công trong sử dụng đất theo hướng chuyên môn hóa. Do đất đai có đặc tính khu vực rất mạnh, sự sai khác về ưu thế tài nguyên hết sức rõ rệt, phương hướng và biện pháp sử dụng đất của các vùng cũng rất khác nhau. Để sử dụng hợp lý đất đai, đạt được sản lượng và hiệu quả kinh tế cao nhất cần có sự phân công và chuyên môn hoá theo khu vực. Cùng với việc đầu tư, trang bị và ứng dụng các công cụ kỹ thuật, công cụ quản lý hiện đại sẽ nẩy sinh yêu cầu phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp có quy mô lớn và tập trung, đồng thời cũng hình thành các khu vực chuyên môn hoá sử dụng đất khác nhau về hình thức và quy mô. Sử dụng đất phát triển theo hướng xã hội hoá và công hữu hoá Đất đai là cơ sở vật chất và công cụ để con người sinh sống và xã hội tồn tại. Vì vậy, việc chuyên môn hoá theo yêu cầu xã hội hóa sản xuất phải đáp ứng nhu cầu của xã hội hướng tới lợi ích cộng đồng và tiến bộ xã hội. Ngay cả ở xã hội mà mục tiêu sử dụng đất chủ yếu vì lợi ích của tư nhân, những vùng đất đai hướng dụng cộng đồng như nguồn nước, núi rừng, khoáng sản, sông ngòi, mặt hồ, biển cả hải cảng, danh lam thắng cảnh, động thực vật quý hiếm... vẫn cần có những quy định về chính sách thực thi hoặc tiến hành công quản, kinh doanh... của Nhà nước nhằm ngăn chặn, phòng ngừa việc tư hữu tạo nên những mâu thuẫn gay gắt của xã hội. Xã hội hóa sử dụng đất là sản phẩm tất yếu và là yêu cầu khách quan của sự phát triển xã hội hóa sản xuất. Vì vậy, xã hội hóa sử dụng đất và công hữu hóa là xu thế tất yếu. Muốn kinh tế phát triển và thúc đẩy xã hội hóa sản xuất cao hơn, cần phải thực hiện xã hội hóa và công hữu hóa sử dụng đất. 2.1.4. Chiếm dụng đất đai Cùng với sự phát triển của xã hội loài người trải qua các thời kỳ khác nhau, kết hợp với sự tăng trưởng dân số và phát triển nhanh chóng của kinh tế, kỹ thuật, văn hoá và khoa học, diện tích đất đai được sử dụng tăng lên nhanh chóng, ý nghĩa kinh tế của đất đai cũng gia tăng, quy mô, phạm vi và chiều sâu của việc sử dụng đất ngày một nâng cao, giá trị của đất đai ngày càng được khẳng định. Song song với sự phát triển sử dụng đất, quan hệ giữa người với người trong lĩnh vực sử dụng đất cũng ngày càng trở nên phức tạp. Có rất nhiều mâu thuẫn thực tế và tiềm tàng về đất giữa những người có liên quan đến việc sử dụng đất, một bên là những người sử dụng đất thực tế khác nhau, một bên là những cộng đồng và những người khác có ảnh hưởng đến việc sử dụng đất. Có nhiều loại chiếm dụng ruộng đất: - Quyền sở hữu pháp lý cho những loại đất không sử dụng thực tế (“ruộng đất vắng chủ” đất chỉ được giữ đơn thuần cho mục đích đầu tư ), như đã được xác nhận trong sổ và các văn bản của ngành địa chính. - Quyền sở hữu pháp lý cho những loại đất được sử dụng hoặc yêu cầu sử dụng theo một hình thức cụ thể hay đã được ấn định. - Quyền sở hữu pháp lý do một cá nhân hoặc tổ chức, nhưng việc sử dụng này đã được người khác đồng ý, họ được hưởng quyền hoa lợi. - Đất công cho việc sử dụng cụ thể hoặc không sử dụng, ví dụ: các khu công viên quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên... - Đất quốc gia có những hình thức ưu đãi cho các cá nhân hoặc công ty khai thác tài nguyên khoáng sản, sinh khối (khai thác gỗ, mỏ...) với yêu cầu (hoặc không yêu cầu) phải phục hồi lớp phủ của đất, các điều kiện bề mặt đất. - Đất có giá trị khảo cổ, di tích văn hoá cần được bảo vệ đầy đủ hoặc phải có những hạn chế nào đó về việc sử dụng nó. - Đất làng xã giao theo các quyền lợi truyền thống của những nhóm người bản địa hoặc những người chiếm giữ đất đầu tiên, ví dụ như những người thợ săn hoặc những người thu lượm sản phẩm trên đất không được giao. - Đất làng xã với những thoả thuận truyền thống giữa dân định cư và những nhóm người di cư về sử dụng đất theo mùa hoặc sử dụng một phần đất. - Đất với các quyền chuyển tiếp giữa các thế hệ sử dụng hoặc cho thuê quyền sử dụng và được phép chia nhỏ các quyền lợi về đất cho con trai, con gái, chẳng hạn như chỉ chia cho con đầu hoặc cho tất cả con cái. 2.1.5. Sử dụng đất và các mục đích kinh tế, xã hội, môi trường Trong thời kỳ cuộc sống xã hội phát triển ở mức cao, việc sử dụng đất luôn hướng tới mục tiêu kinh tế, nhằm đạt được lợi nhuận tối đa trên một đơn vị diện tích đất nhất định (xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, chuồng trại chăn nuôi quy mô lớn...). Bên cạnh đó, một phần diện tích đất không nhỏ được sử dụng để phục vụ nhu cầu sinh hoạt, ăn ở cũng như thỏa mãn đời sống tinh thần của con người (xây dựng nhà cửa, hệ thống giao thông, các công trình dịch vụ thể dục thể thao, văn hoá xã hội...). Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng đất, các mục đích sử dụng đất nêu trên luôn nẩy sinh mâu thuẫn làm cho mối quan hệ giữa người và đất ngày càng căng thẳng, những sai lầm liên tục của con người trong quá trình sử dụng đất (sai lầm có ý thức hoặc vô ý thức) dẫn đến huỷ hoại môi trường nói chung và môi trường đất nói riêng (các thảm hoạ sinh thái như lũ lụt, hạn hán, cháy rừng, trượt lở đất... liên tục xẩy ra với quy mô ngày càng lớn và mức độ ngày càng nghiêm trọng), làm cho một số chức năng của đất bị yếu đi. Việc sử dụng đất như một thể thống nhất tạo ra điều kiện để giảm thiểu những xung đột, tạo ra hiệu quả sử dụng cao và liên kết được sự phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ và nâng cao môi trường. Sử dụng đất hợp lý, bền vững là hài hoà được các mục tiêu kinh tế - xã hội và môi trường. Những xung đột giữa 3 lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường rất đa dạng: - Đất sản xuất nông nghiệp đối lập với quá trình đô thị hoá. - Phát triển thủy lợi đối lập với việc phân ._.chia các nguồn tài nguyên nước cho đô thị và phát triển công nghiệp. - Phát triển kinh tế - xã hội vùng ven biển đối lập với việc bảo vệ hệ sinh thái ven biển - Sản xuất thuốc phiện đối lập với sản xuất lương thực thực phẩm ở một số địa phương. - Quyền lợi của người bản địa và những người di cư. - Bảo vệ các giá trị sinh thái đối lập với nhu cầu về thực phẩm hoặc nông sản khác. - Các chủ sử dụng đất nhỏ mâu thuẫn với việc canh tác quy mô lớn ... - Sử dụng đất và mục tiêu kinh tế Sử dụng đất trước hết bao giờ cũng gắn với mục tiêu kinh tế, những mục tiêu kinh tế trong sử dụng đất giữa chủ sử dụng thực tế và cộng đồng lớn hơn có lúc trùng nhau và có lúc không trùng nhau. Các hộ nông dân trong việc sử dụng đất của mình luôn đặt ra mục tiêu làm ra sản phẩm để bán hoặc tự tiêu dùng, nếu thấy việc đó không có lợi họ có thể thay đổi cây trồng để sản xuất có hiệu quả hơn hoặc nếu việc canh tác không có lợi họ có thể bán phần đất của họ cho người nông dân khác, những người mà sản xuất nông nghiệp đem lại lợi nhuận cao hơn hoặc họ cũng có thể thay đổi mục đích sử dụng đất của mình kể cả việc bán đất sét cho nhà máy gạch, bán cát dưới dạng vật liệu xây dựng hoặc sử dụng đất làm khu vui chơi giải trí cho khách du lịch ... Trong khi đó cộng đồng (xã, huyện, tỉnh, cả nước) luôn có những mối quan tâm kinh tế lâu dài trong sử dụng đất, trước hết là đảm bảo các mục tiêu kinh tế lâu dài và cần thiết cho cả cộng đồng, đó là vấn đề an toàn lương thực; Có đất để mở mang đô thị, xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng các khu cụm công nghiệp, bảo vệ môi trường và các khu vui chơi giải trí .v.v... Như vậy các mối quan tâm kinh tế nhất thời của người sử dụng đất cụ thể mâu thuẫn với mối quan tâm lâu dài của cả cộng đồng. Sử dụng đất và các mục tiêu kinh tế được xem là hợp lý có nghĩa là quá trình xem xét cân nhắc để sử dụng đất hài hoà về mặt lợi ích của toàn thể cộng đồng và các chủ sử dụng đất cụ thể. Trong vấn đề này bao giờ cũng đặt ưu tiên cho việc sử dụng đất lâu dài và mối quan tâm chung của toàn thể cộng đồng. - Sử dụng đất và mục tiêu xã hội Sử dụng đất trước tiên liên quan đến nhu cầu thiết yếu của những người sống trên mảnh đất đó. Đây là mục tiêu xã hội của bất cứ một Nhà nước nào nhằm tạo ra hay duy trì các điều kiện có tác dụng giúp thoả mãn những nhu cầu thiết yếu này. Việc tạo ra công ăn việc làm trong quá trình phát triển bền vững là một phương pháp hữu hiệu nhằm cùng một lúc đạt được 3 mục tiêu (xã hội, kinh tế và môi trường). Những nhu cầu thiết yếu này bao gồm các cơ sở vật chất công cộng hoặc các phương tiện phục vụ cho sức khoẻ, giáo dục, định cư, thu nhập,... ngoài ra còn tạo ra một ý thức về công bằng xã hội và kiểm soát chính tương lai của họ. Công bằng xã hội là rất cần thiết cho mọi người. Trong sử dụng đất các Chính phủ thường có những dự án ưu đãi cho nhóm người nghèo trong xã hội. Việc làm giảm tình trạng căng thẳng giữa những nhóm dân số cũng là một mục tiêu xã hội của Chính phủ (mâu thuẫn giữa dân bản địa, dân di cư...). Một mục tiêu xã hội nữa cần phải kể đến là mâu thuẫn giữa các thế hệ về việc sử dụng đất. Đó là việc sử dụng đất của các thế hệ hiện tại không nghĩ đến lợi ích của các thế hệ con cháu. Đất là điều kiện vật chất cần thiết để tồn tại và tái sản xuất các thế hệ tiếp nhau của loài người. Vì vậy, trong sử dụng cần làm cho đất tốt hơn cho các thế hệ mai sau. - Sử dụng đất và mục tiêu môi trường Đối với bất kỳ vùng đất nào trong sử dụng đất đai gắn với mục tiêu môi trường thì điều quan trọng là phải phân biệt được mục tiêu chung và mục tiêu riêng. Chính phủ các nước đều đưa ra các tiêu chuẩn và mục tiêu về môi trường. Việc nhìn nhận “môi trường” không chỉ có nghĩa là một hệ thống các tiêu chuẩn về hoá học. Đất nước, phong cảnh thiên nhiên ... là các tài sản có giá trị. Vì thế, những vấn đề về môi trường chỉ có thể giải quyết một cách có hiệu quả nếu nó được thực hiện kết hợp với các mục tiêu kinh tế - xã hội. 2.2. Cơ sở khoa học của quy hoạch sử dụng đất 2.2.1. Khái niệm về quy hoạch sử dụng đất Theo FAO [15]: “Quy hoạch sử dụng đất là quá trình đánh giá tiềm năng đất và nước một cách có hệ thống phục vụ việc sử dụng đất và kinh tế - xã hội nhằm lựa chọn ra phương án sử dụng đất tốt nhất. Mục tiêu của quy hoạch sử dụng đất là lựa chọn và đưa ra phương án đã lựa chọn vào thực tiễn để đáp ứng nhu cầu của con người một cách tốt nhất nhưng vẫn bảo vệ được nguồn tài nguyên cho tương lai. Yêu cầu cấp thiết phải làm quy hoạch là do nhu cầu của con người và điều kiện thực tế sử dụng đất thay đổi nên phải nâng cao kỹ năng sử dụng đất”. Về mặt thuật ngữ, “quy hoạch” là việc xác định một trật tự nhất định bằng những hoạt động như phân bố, bố trí, sắp xếp, tổ chức...”, “đất đai” là một phần lãnh thổ nhất định (vùng đất, khoanh đất, vạt đất, mảnh đất, miếng đất...) có vị trí, hình thể, diện tích với những tính chất tự nhiên hoặc mới tạo thành(đặc tính thổ nhưỡng, điều kiện địa hình, địa chất, thuỷ văn, chế độ nước, nhiệt độ, ánh sáng, thảm thực vật, các tính chất lý hoá tính... ) tạo ra những điều kiện nhất định cho việc sử dụng theo các mục đích khác nhau. Như vậy, để sử dụng đất cần phải làm quy hoạch nhằm xác định ý nghĩa mục đích của từng phần lãnh thổ và đề xuất một trật tự sử dụng đất nhất định. Về mặt bản chất quy hoạch đất đai cần được xác định dựa trên quan điểm nhận thức: đất đai là đối tượng của các mối quan hệ sản xuất trong lĩnh vực sử dụng đất đai và việc tổ chức sử dụng đất như “tư liệu sản xuất đặc biệt” gắn chặt với phát triển kinh tế - xã hội. Như vậy, quy hoạch sử dụng đất đai sẽ là một hiện tượng kinh tế xã hội thể hiện đồng thời ba tính chất: kinh tế, kỹ thuật và pháp chế. Tính kinh tế: được thể hiện bằng hiệu quả sử dụng đất đai. Tính kỹ thuật: bao gồm các tác nghiệp chuyên môn kỹ thuật như điều tra, khảo sát, xây dựng bản đồ, khoanh định, xử lý số liệu... ; Tính pháp chế: xác nhận tính pháp lý về mục đích và quyền sử dụng đất theo quy hoạch nhằm đảm bảo sử dụng và quản lý đất đai đúng pháp luật. “Quy hoạch sử dụng đất là hệ thống các biện pháp của Nhà nước về tổ chức, quản lý nhằm sử dụng hiệu quả tối đa tài nguyên đất, bảo vệ môi trường để phát triển bền vững trên cơ sở phân bố quỹ đất vào các mục đích phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng của cả nước, các vùng và theo đơn vị hành chính các cấp ”[3]. “Quy hoạch sử dụng đất là bản “tổng phổ” của phát triển, trong đó phản ánh cụ thể các ý tưởng về tương lai của các ngành các cấp nhịp nhàng và cân đối, thông qua những trình tự hành chính và pháp lý nhất định để trở thành quy chế xã hội, mọi người đều có quyền và nghĩa vụ thực hiện. Quá trình tổ chức thành lập, thực hiện điều chỉnh quy hoạch là quá trình huy động lực lượng xã hội vào sự nghiệp công cộng theo phương thức dân chủ, nên đó cũng là quá trình xây dựng và củng cố chính quyền dân chủ nhân dân. Do đó quy hoạch sử dụng đất vừa là phương thức để phát triển vừa là công cụ để xây dựng và củng cố Nhà nước” [1]. “Quy hoạch sử dụng đất cần phải thực hiện trước một bước ít ra là một thời kỳ kế hoạch, được các hội đồng có đại diện của nhân dân tham gia thẩm định chặt chẽ và được cấp thẩm quyền phê duyệt. Dù lớn hay nhỏ thì bản quy hoạch sử dụng đất vẫn mang tính chất của một luận chứng khả thi về sử dụng đất, không nên quan niệm rằng chỉ cần một quyết định cấp đất nằm trong bộ hồ sơ quy hoạch tổng thể của dự án là xong”[3]. Từ đó có thể hiểu: “Quy hoạch sử dụng đất là hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và pháp chế của nhà nước về tổ chức sử dụng và quản lý đất đai đầy đủ, hợp lý, khoa học và có hiệu quả cao nhất thông qua việc phân bổ quỹ đất đai (khoanh định cho các mục đích và các ngành) và tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản xuất (các giải pháp sử dụng cụ thể), nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội, tạo điều kiện bảo vệ đất đai và môi trường” [5]. Sử dụng đất đai đầy đủ, hợp lý, khoa học và có hiệu quả được hiểu là: mọi loại đất đều được đưa vào sử dụng theo các mục đích nhất định; các đặc điểm tính chất tự nhiên, vị trí, diện tích phải phù hợp với yêu cầu và mục đích sử dụng; áp dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật và các biện pháp tiên tiến; đáp ứng đồng bộ cả ba lợi ích kinh tế - xã hội - môi trường. Như vậy, về thực chất quy hoạch sử dụng đất đai là quá trình hình thành các quyết định nhằm tạo điều kiện đưa đất đai vào sử dụng bền vững để mang lại lợi ích cao nhất, thực hiện đồng thời hai chức năng: điều chỉnh các mối quan hệ đất đai và tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản xuất đặc biệt với mục đích nâng cao hiệu quả sản xuất của xã hội kết hợp bảo vệ đất và môi trường. 2.2.2. Đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất Lịch sử phát triển của quy hoạch sử dụng đất đai gắn liền với lịch sử phát triển của xã hội. Mỗi hình thái kinh tế xã hội đều có một phương thức sản xuất, nó được thể hiện ở hai mặt là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Mối quan hệ sản xuất của con người với đất đai được hình thành trong quá trình sử dụng đất đai. Quy hoạch sử dụng đất đai thể hiện đồng thời vừa là yếu tố thúc đẩy lực lượng sản xuất vừa là yếu tố thúc đẩy mối quan hệ sản xuất. Vì vậy nó là một bộ phận của phương thức sản xuất xã hội. Đối tượng của quy hoạch là khai thác, sử dụng, bảo vệ và cải tạo toàn bộ tài nguyên đất đai cho nhu cầu của nền kinh tế quốc dân (gồm 3 loại đất chính: đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp, đất chưa sử dụng). Quy hoạch sử dụng đất đai đề cập đến nhiều lĩnh vực như: khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, dân số và đất đai, sản xuất nông - lâm nghiệp, sản xuất công nghiệp... Căn cứ vào các dự báo về xu thế biến động dài hạn của những yếu tố kinh tế xã hội quan trọng, từ đó xác định quy hoạch trung và dài hạn về sử dụng đất đai, đề ra phương hướng chính sách và giải pháp có tính chiến lược tạo căn cứ cho việc xây dựng kế hoạch sử dụng đất 5 năm và ngắn hạn. Quy hoạch đất đai dài hạn nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển về lâu dài kinh tế, xã hội, cơ cấu và phương thức sử dụng đất được điều chỉnh từng bước trong thời gian dài cùng với sự phát triển dài hạn của kinh tế, xã hội cho đến khi đạt được mục tiêu dự kiến. Thời hạn để xác định phương hướng chính sách và biện pháp sử dụng đất để phát triển kinh tế và hoạt động xã hội của quy hoạch sử dụng đất đai thường từ 10 đến 20 năm hoặc xa hơn. Quy hoạch sử dụng đất là quy hoạch mang tính chiến lược, các chỉ tiêu quy hoạch mang tính chỉ đạo vĩ mô, tính phương hướng và khái lược sử dụng đất của các ngành. Quy hoạch sử dụng đất đai thể hiện rất mạnh đặc tính chính trị và chính sách xã hội. Khi xây dựng phương án phải quán triệt các chính sách và quy định có liên quan đến đất đai của Đảng và Nhà nước đảm bảo thực hiện cụ thể trên mặt bằng đất đai các mục tiêu phát triển nền kinh tế quốc dân, phát triển ổn định kinh tế xã hội; tuân thủ các quy định, các chỉ tiêu khống chế về dân số, đất đai và môi trường sinh thái. Dưới tác động của nhiều nhân tố khó dự đoán trước, theo nhiều phương diện khác nhau, quy hoạch sử dụng đất đai chỉ là một trong những biện pháp biến đổi hiện trạng sử dụng đất sang trạng thái sử dụng đất thích hợp hơn cho việc phát triển kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Khi xã hội phát triển, khoa học kỹ thuật ngày càng tiến bộ, chính sách và tình hình kinh tế thay đổi, các dự kiến của quy hoạch sử dụng đất đai không còn phù hợp, việc chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện quy hoạch và điều chỉnh biện pháp thực hiện là cần thiết. Điều này thể hiện tính khả biến trong quy hoạch. Quy hoạch sử dụng đất đai luôn ở trạng thái động, một quá trình lặp lại theo chiều xoắn ốc ” quy hoạch - thực hiện - quy hoạch lại hoặc chỉnh lý - tiếp tục thực hiện...” với chất lượng, mức độ hoàn thiện và tính phù hợp ngày càng cao. Trong quá trình sản xuất, việc sử dụng tài nguyên đầy đủ hợp lý và có hiệu quả là một vấn đề cần thiết, một trong những biện pháp tốt nhất đó là thực hiện công tác quy hoạch sử dụng đất. Quy hoạch sử dụng đất có chức năng tổ chức sử dụng đất như một tư liệu sản xuất giống như các tư liệu sản xuất khác, để từ đó tìm ra các giải pháp sử dụng đất có hiệu quả trên cơ sở sử dụng hợp lý các nguồn lực, nhằm thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội, cùng với đó là nhiệm vụ bảo vệ môi trường và hệ sinh thái, không chỉ có vậy, quy hoạch sử dụng đất còn tham gia điều chỉnh các mối quan hệ về đất đai, giúp cho công tác quản lý tài nguyên đất đai của nhà nước được dễ dàng hơn. Sự phát triển của nền kinh tế quốc dân đòi hỏi phải tổ chức phân bổ hợp lý lực lượng sản xuất trong từng vùng và trên phạm vi cả nước. đây chính là nhiệm vụ quan trọng nhất của quy hoạch sử dụng đất. Trong nhiều trường hợp, khi quy hoạch sử dụng đất phải tiến hành trên quy mô lớn, có thể là một vùng lãnh thổ của một huyện, một tỉnh hoặc một vùng kinh tế lớn gồm nhiều tỉnh hợp lại thì nhiệm vụ của quy hoạch sử dụng đất là phải giải quyết vấn đề phân chia lại lãnh thổ, tổ chức sản xuất và lao động, bố trí lại mạng lưới điểm dân cư... Quy hoạch sử dụng đất có thể giải quyết các vấn đề về di chuyển dân cư, khai hoang xây dựng nền kinh tế mới, hoạch định ranh giới cho các nông lâm trường, xác định ranh giới hành chính cũng như ranh giới sử dụng đất mới của các tỉnh, huyện, xã mới thành lập. Ngoài ra quy hoạch sử dụng đất còn phải đáp ứng nhu cầu đất cho các ban ngành, các chủ sử dụng đất thông qua việc thành lập các đơn vị sử dụng đất mới hoặc chỉnh lý, hoàn thiện các đơn vị sử dụng đất đang tồn tại. 2.2.3. Phân loại quy hoạch sử dụng đất Quy hoạch sử dụng đất đóng vai trò quan trọng trong quá trình sử dụng đất. Luật đất đai quy định tiến hành quy hoạch sử dụng đất đai ở 4 cấp: cả nước, tỉnh, huyện, xã. Lập quy hoạch tiến hành theo trình tự từ trên xuống dưới và sau đó bổ sung hoàn chỉnh từ dưới lên đây là quá trình có mối quan hệ trực tiếp và chặt chẽ giữa tổng thể và cụ thể, giữa vĩ mô và vi mô, giữa trung ương và địa phương trong hệ thống chỉnh thể.[10] 2.2.3.1. Quy hoạch sử dụng đất cấp xã Cấp xã là cấp hành chính cơ sở bao gồm: xã, phường, thị trấn. Tài liệu quy hoạch sử dụng đất đai cấp xã cho thời hạn 5 - 10 năm có tính pháp quy và sẽ là văn bản duy nhất mang tính tiền kế hoạch. Vì vậy, trong quy hoạch cấp xã vấn đề sử dụng đất đai được giải quyết rất cụ thể, gắn chặt với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của xã. Quy hoạch sử dụng đất cấp xã giải quyết được những tồn tại về ranh giới hành chính, ranh giới sử dụng đất, làm cơ sở vững chắc để lập quy hoạch phân bổ đất đai cho các ngành, quy hoạch phân bổ đất đai theo lãnh thổ. Mặt khác quy hoạch sử dụng đất cấp xã còn là cơ sở để chỉnh lý quy hoạch sử dụng đất cấp cao hơn. Nhiệm vụ của quy hoạch sử dụng đất cấp xã: - Phản ánh cân đối trong việc phân bổ đất đai để tất cả các ngành sử dụng đất làm căn cứ xây dựng và phát triển ngành vừa phù hợp với nhiệm vụ chung, vừa không chồng chéo ảnh hưởng đến quy hoạch của nhau, nhằm sử dụng đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả cao nhất nguồn tài nguyên đất đai, bảo vệ, mở rộng diện tích, nâng cao chất lượng đất sản xuất nông lâm nghiệp. - Giúp chính phủ và UBND các cấp thực hiện được việc thống nhất quản lý đối với đất đai. - Quy hoạch sử dụng đất cấp xã cần đáp ứng nhu cầu về phân bố sử dụng đất đai hiện tại và trong tương lai của các ngành trên địa bàn lãnh thổ một cách tiết kiệm, hợp lý và có hiệu quả, nó được coi là cơ sở để lập kế hoạch sử dụng đất hàng năm, là căn cứ để xây dựng các biện pháp bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường, đảm bảo việc thống nhất quản lý nhà nước đối với đất đai. 2.2.3.2. Quy hoạch sử dụng đất cấp huyện Quy hoạch sử dụng đất cấp huyện dưới sự chỉ đạo của UBND huyện căn cứ vào đặc tính của nguồn tài nguyên đất và mục tiêu dài hạn phát triển kinh tế xã hội để giải quyết các vấn đề như: - Xác định phương hướng mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cơ bản sử dụng đất của huyện. - Xác định quy mô, cơ cấu và phân bổ sử dụng đất của các ngành. - Xác định cơ cấu, phạm vi và phân bố đất cho các công trình hạ tầng chủ yếu: xí nghiệp công nghiệp, du lịch và nhu cầu đất đai cho các nhiệm vụ đặc biệt như bảo vệ - bảo tồn, khu vực an ninh quốc phòng. Đề xuất chỉ tiêu khống chế sử dụng các loại đất theo từng khu vực các xã trong huyện. - Quy hoạch sử dụng đất cấp huyện ở nước ta là một cấp cơ bản trong hệ thống quy hoạch sử dụng đất, là cơ sở để cụ thể hoá quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh và cả nước. Có tác dụng chỉ đạo và khống chế quy hoạch sử dụng đất của nội bộ các ngành, xí nghiệp, kế thừa quy hoạch cấp trên và gợi ý cho quy hoạch cấp dưới. do đó, phải được tổ chức dưới sự lãnh đạo chủ chốt của cấp huyện, có sự tham gia của nhiều ngành, nhiều nhà khoa học, thực hiện một cách thiết thực, làm cho quy hoạch có tính khoa học, tính tiên tiến, tính thực tiễn và tính khả thi cao. 2.2.3.3. Quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh Quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng và cần thiết trong hệ thống quy hoạch sử dụng đất, nhằm đưa công tác quản lý đất đai có nề nếp, mang lại tính hiệu quả trên nhiều mặt cho đất nước và xã hội. Quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh do UBND tỉnh trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng và được Chính phủ trực tiếp phê duyệt. Trong hệ thống 4 cấp lập quy hoạch sử dụng đất, thì cấp tỉnh có vị trí trung tâm và là khung sườn giữa vĩ mô và vi mô, giữa tổng thể và cụ thể, giữa trung ương và địa phương. Quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh tác động trực tiếp đến việc sử dụng đất của các bộ, ngành, các vùng trọng điểm, các huyện và một số dự án quy hoạch phân bổ sử dụng đất cấp xã mang tính đặc thù, vừa cụ thể hoá thêm, vừa bổ sung hoàn thiện quy hoạch sử dụng đất cả nước để tăng thêm sự ổn định của hệ thống quy hoạch sử dụng đất. Quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh còn là một công cụ quan trọng để Nhà nước quản lý thống nhất toàn bộ đất đai của tỉnh thông qua tổ chức pháp quyền cấp tỉnh. mặt khác, quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh sẽ tạo ra những cơ sở có tầm quan trọng đặc biệt trong việc tiếp nhận những cơ hội của các đối tác đầu tư từ bên ngoài vào phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn toàn tỉnh. Quy hoạch tổng thể sử dụng đất cấp tỉnh coi quy hoạch sử dụng đất của toàn quốc, của vùng làm căn cứ. Quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh là sự cụ thể hoá quy hoạch toàn quốc trong phạm vi của tỉnh mình. Các vấn đề cần giải quyết gồm: xác định phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu sử dụng đất cho toàn tỉnh; điều hoà nhu cầu sử dụng đất của các ngành, xử lý mối quan hệ giữa khai thác sử dụng, cải tạo và bảo vệ; đề xuất cơ cấu, bố cục, phương thức sử dụng đất của tỉnh và các chỉ tiêu sử dụng đất và các biện pháp để thực hiện quy hoạch. 2.2.3.4. Quy hoạch sử dụng đất cấp quốc gia Quy hoạch sử dụng đất cấp quốc gia là chỗ dựa của quy hoạch sử dụng đất đai cấp tỉnh, được xây dựng căn cứ vào nhu cầu của nền kinh tế quốc dân, kế hoạch dài hạn phát triển kinh tế, xã hội, trong đó xác định phương hướng, mục tiêu và nhiệm vụ sử dụng đất cả nước nhằm điều hoà quan hệ sử dụng đất giữa các ngành, các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương; đề xuất các chính sách, biện pháp, bước đi để khai thác, sử dụng, bảo vệ và nâng cao hệ số sử dụng đất, điều chỉnh cơ cấu sử dụng đất và thực hiện quy hoạch. 2.2.4. Cơ sở pháp lý của lập và điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất Đất nước ta đang trong thời kỳ chuyển mình hoà nhập mạnh mẽ với nền kinh tế thế giới. Đặc biệt sau khi chúng ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO thì nền kinh tế của chúng ta có sự chuyển biến mạnh với sự đa dạng về các ngành nghề. Nhu cầu sử dụng đất của các ngành cũng tăng lên, vì vậy đã gây áp lực đến tài nguyên đất đai. Do đó, việc phân bổ sử dụng đất một cách hợp lý cho từng lĩnh vực của các ngành là vấn đề quan tâm của Đảng và Nhà nước ta. Điều này được thể hiện thông qua các văn bản pháp luật như Hiến pháp, Luật, Nghị định, Thông tư và các văn bản dưới luật tạo cơ sở pháp lý cho quy hoạch sử dụng đất. Để phù hợp với thực tiễn khách quan về tình hình quản lý sử dụng đất hiện tại và tương lai, trong điều kiện nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước, ngày 01/07/2004 Luật Đất đai 2003 chính thức có hiệu lực, trong đó đã quy định rõ việc lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất. Tại điều 6 Luật đất đai 2003 quy định: “Quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất là một trong 13 nội dung của quản lý nhà nước về đất đai”, Từ Điều 21 đến Điều 30 quy định rõ về công tác quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất. [ Luật đất đai 2003] Ngoài các văn bản có hiệu lực pháp lý cao của Nhà nước, còn có các văn bản dưới luật, các văn bản của ngành, của địa phương trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến vai trò, ý nghĩa, căn cứ, nội dung và phương pháp lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đối với địa bàn nghiên cứu đó là: Nghị định 181/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về việc hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2003. Thông tư 30/2004/TT-BTNMT ngày 01 tháng 11 năm 2004 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc hướng dẫn, điều chỉnh và thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. - Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Nam Định đến năm 2010. - Báo cáo quy hoạch sử dụng đất tỉnh Nam Định thời kỳ 2001-2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. - Căn cứ Quyết định số: 3335/2002/QĐ-UBND ngày 31/12/2002 của UBND tỉnh Nam Định về việc phê duyệt quy hoạch sử dụng đất huyện Nghĩa Hưng thời kỳ 2001-2010. 2.2.5. Trình tự, nội dung điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất 2.2.5.1. Nội dung điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất[11] Việc điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất của cả nước theo quy định tại khoản 7 Điều 16 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai có nội dung điều chỉnh được thực hiện như sau: - Điều tra, phân tích, đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố làm thay đổi cơ cấu sử dụng đất trong kỳ quy hoạch sử dụng đất đã được quyết định. - Xây dựng các phương án điều chỉnh phân bổ quỹ đất trong thời gian còn lại của kỳ quy hoạch sử dụng đất cụ thể đến từng vùng lãnh thổ. * Xác định diện tích đất để phân bổ cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của cả nước, các ngành và các địa phương gồm đất sản xuất nông nghiệp (đất trồng cây lâu năm, đất trồng cây hàng năm trong đó làm rõ diện tích đất trồng lúa nước); đất lâm nghiệp (đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, trong mỗi loại rừng cần phân rõ diện tích có rừng tự nhiên, có rừng trồng, diện tích khoanh nuôi phục hồi rừng và diện tích trồng rừng); đất nuôi trồng thuỷ sản; đất làm muối; đất nông nghiệp khác; đất ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị; đất chuyên dùng (đất xây dựng trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp; đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp; đất sử dụng vào mục đích công cộng); đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối và mặt nước chuyên dùng; đất tôn giáo, tín ngưỡng; đất nghĩa trang, nghĩa địa; đất phi nông nghiệp khác; * Đối với mỗi mục đích sử dụng đất quy định gồm đất sản xuất nông nghiệp (đất trồng cây lâu năm, đất trồng cây hàng năm trong đó làm rõ diện tích đất trồng lúa nước); đất lâm nghiệp (đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, trong mỗi loại rừng cần phân rõ diện tích có rừng tự nhiên, có rừng trồng, diện tích khoanh nuôi phục hồi rừng và diện tích trồng rừng); đất nuôi trồng thuỷ sản; đất làm muối; đất nông nghiệp khác; đất ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị; đất chuyên dùng (đất xây dựng trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp; đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp; đất sử dụng vào mục đích công cộng); đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối và mặt nước chuyên dùng; đất tôn giáo, tín ngưỡng; đất nghĩa trang, nghĩa địa; đất phi nông nghiệp khác cần xác định diện tích đất không thay đổi mục đích sử dụng so với hiện trạng sử dụng đất; diện tích đất từ các mục đích khác chuyển sang trong kỳ quy hoạch, trong đó phải xác định rõ diện tích đất phải xin phép khi chuyển mục đích sử dụng và diện tích đất dự kiến phải thu hồi (nếu có); * Xác định diện tích đất chưa sử dụng đưa vào sử dụng cho mục đích sản xuất nông nghiệp; lâm nghiệp, trong đó xác định rõ diện tích đất trồng rừng mới và diện tích khoanh nuôi tái sinh rừng; nuôi trồng thuỷ sản; làm muối; nông nghiệp khác; phi nông nghiệp; - Phân tích hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường của từng phương án phân bổ quỹ đất theo nội dung quy định để lựa chọn phương án hợp lý. * Trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, quy hoạch phát triển các ngành kinh tế, khái quát về hiệu quả phát triển kinh tế nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ trên mặt bằng sử dụng đất theo từng phương án quy hoạch sử dụng đất. * Đánh giá hiệu quả kinh tế đất của từng phương án quy hoạch sử dụng đất theo dự kiến các nguồn thu từ việc giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, các loại thuế có liên quan đến đất đai và chi phí cho việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. * Đánh giá khả năng bảo đảm an ninh lương thực của từng phương án quy hoạch sử dụng đất. * Đánh giá hiệu quả xã hội của từng phương án quy hoạch sử dụng đất đối với việc giải quyết quỹ nhà ở, mức độ ảnh hưởng đến đời sống các hộ dân phải di dời chỗ ở, số lao động mất việc làm do bị thu hồi đất, số việc làm mới được tạo ra từ việc chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất. * Đánh giá khả năng khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên, đánh giá tác động đến môi trường của từng phương án quy hoạch sử dụng đất. * Đánh giá khả năng phát triển diện tích phủ rừng của từng phương án quy hoạch sử dụng đất nhằm bảo vệ môi trường thiên nhiên và bảo tồn hệ sinh thái. * Đánh giá vấn đề tôn tạo di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, bảo tồn văn hoá các dân tộc của từng phương án quy hoạch sử dụng đất. - Xây dựng bản đồ điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất của từng vùng lãnh thổ trên cơ sở phương án điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất được lựa chọn và tổng hợp thành bản đồ điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất cả nước. 2.2.5.2. Nội dung điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất[11] - Phân tích, đánh giá kết quả thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch tính đến thời điểm điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất của cả nước và cụ thể đến từng vùng lãnh thổ theo các nội dung quy định: * Đánh giá về số lượng, chất lượng kết quả thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch sử dụng đất gồm: + Chỉ tiêu sử dụng đất đối với từng loại đất; + Chỉ tiêu chuyển đổi giữa các loại đất; + Chỉ tiêu đưa đất chưa sử dụng vào sử dụng; + Đánh giá tiến độ thực hiện kế hoạch sử dụng đất, kết quả thu hồi đất, việc xử lý tình trạng quy hoạch "treo". * Đánh giá kết quả thu ngân sách từ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, các loại thuế liên quan đến đất đai và đánh giá các khoản chi cho việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. * Đánh giá nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém trong việc thực hiện kế hoạch sử dụng đất. - Xác định phần chỉ tiêu chưa thực hiện đối với diện tích đất được phân bổ cho các nhu cầu sử dụng, diện tích đất phải chuyển mục đích sử dụng tính đến thời điểm điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất của cả nước và cụ thể đến từng vùng lãnh thổ. - Xác định tổng chỉ tiêu trong phương án điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất gồm các chỉ tiêu: Đất ở (đất ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị); đất chuyên dùng (đất xây dựng trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp; đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp; đất sử dụng vào mục đích công cộng); đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối và mặt nước chuyên dùng; đất tôn giáo, tín ngưỡng; đất nghĩa trang, nghĩa địa; đất phi nông nghiệp khác và các chỉ tiêu cần điều chỉnh. - Xác định các chỉ tiêu: Đất bằng chưa sử dụng, đất đồi núi chưa sử dụng, núi đá không có rừng cây mà có khả năng thực hiện để bố trí trong thời gian còn lại của kỳ kế hoạch; các chỉ tiêu không có khả năng thực hiện thì điều chỉnh cho kỳ kế hoạch sau hoặc công bố huỷ bỏ. - Cụ thể hoá các chỉ tiêu sử dụng đất của phương án điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất đến từng năm còn lại của kỳ kế hoạch và từng vùng lãnh thổ. - Điều chỉnh dự kiến thu ngân sách từ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, các loại thuế liên quan đến đất đai và các khoản chi cho việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với phương án điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất. - Xác định các giải pháp phù hợp với nhu cầu tổ chức thực hiện phương án điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất như: * Tạo điều kiện cho nông dân sản xuất lúa có đời sống ổn định, đồng thời kiểm soát chặt chẽ tình trạng tự phát chuyển đất trồng lúa sang đất trồng cây lâu năm, nuôi trồng thuỷ sản hoặc chuyển sang sử dụng vào các mục đích khác không theo quy hoạch; tiết kiệm cao nhất diện tích đất trồng lúa phải chuyển sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp. * Tạo điều kiện để nông dân dễ dàng chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên đất sản xuất nông nghiệp nhằm tăng hiệu quả sử dụng đất, phù hợp với nhu cầu thị trường. * Khuyến khích khai hoang phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, nuôi trồng thuỷ sản trên đất mặt nước hoang hoá nhằm đẩy nhanh tiến độ đưa đất chưa sử dụng vào sử dụng; đẩy mạnh trồng rừng và khoanh nuôi tái sinh rừng để tăng độ che phủ bằng rừng; bảo vệ nghiêm ngặt diện tích rừng phòng hộ đầu nguồn và rừng đặc dụng. * Bảo đảm cho đồng bào dân tộc miền núi có đất canh tác và đất ở; tổ chức tốt việc định canh, định cư; ổn định đời sống cho người dân được giao rừng, khoán rừng. * Huy động các nguồn vốn đầu tư để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình, dự án. * Giải quyết tốt việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất bảo đảm đủ quỹ đất theo quy hoạch cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển sản xuất kinh doanh công nghiệp và dịch vụ, xây dựng các công trình văn hoá, giáo dục - đào tạo, y tế, thể dục - thể thao; thực hiện tốt việc đào tạo nghề nghiệp, chuyển đổi cơ cấu lao động đối với người có đất bị thu hồi. * Khuyến khích ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ có liên quan đến sử dụng đất nhằm tăng hiệu quả sử dụng đất. * Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được quyết định. 2.3. Đánh giá việc thực hiện quy hoạch ở trong và ngoài nước 2.3.1. Đánh giá việc thực hiện quy hoạch ở một số nước trên thế giới Ở các quốc gia phát triển như Đức, Mỹ quy hoạch sử dụng đất luôn gắn liền với việc giải quyết các yêu cầu về môi trường, đảm bảo sử dụng đất hiệu quả bền vững. Vì vậy, quy._.ểm trước chưa nhìn nhận được sự cần thiết và có một số công trình đến giai đoạn này không còn phù hợp với quy hoạch. Bảng 4.9. Kết quả thực hiện một số công trình giao thông đến năm 2007 Tên công trình Địa điểm Quy hoạch (m2) Thực hiện (m2) Tỷ lệ (%) LM đường trong khu quy hoạch, MR đường nội đồng các thôn Nghĩa Thịnh 10252 10252 100 Nghĩa Minh 20927 19000 91 MR giao thông nội đồng Hoàng Nam 25340 25340 100 MR giao thông nội đồng Nghĩa Thái 32308 32308 100 MR giao thông nội đồng TT Liễu Đề 432 432 100 MR đường đò Mười, đường liên thôn, giao thông nội đồng Nghĩa Sơn 14295 14295 100 LM giao thông nội đồng Nghĩa Phú 23180 23180 100 MR đường liên xóm + đường WB 2 Nghĩa Bình 7139 7139 100 Nghĩa Hùng 1853 1853 100 Nghĩa Hải 1212 1212 100 MR đường liên xóm và nội đồng Nghĩa Thắng 6000 6000 100 MR giao thông Nghĩa Lợi 4300 4300 100 LM đường trục xã Nam Điền 650 650 100 Đất cơ sở văn hoá tăng 6,68 ha so với năm 2000 để xây dựng các nhà văn hoá thôn tại hầu hết các xã và một số thư viện thôn trên địa bàn huyện. Trong giai đoạn này, nền kinh tế của huyện có những bước khởi sắc nên hệ thống các công trình văn hoá được đầu tư đồng bộ. Riêng công trình trung tâm văn hoá tại thị trấn Liễu Đề chưa được thực hiện do hệ thống đường giao thông trên trục tỉnh lộ 56 đang xây dựng và kinh phí chưa được đầu tư. Bảng 4.10. Kết quả thực hiện một số công trình thuỷ lợi giai đoạn 2000 – 2007 Tên công trình Địa điểm Quy hoạch (m2) Thực hiện (m2) Tỷ lệ (%) LM + MR kênh mương nội đồng Nghĩa Thịnh 8650 8650 100 Nghĩa Minh 3959 3959 100 LM sông tiêu Hoàng Nam Nghĩa Châu 27000 27000 100 LM trạm bơm tiêu Hoàng Nam Nghĩa Châu 7000 7000 100 MR mương khu dân cưmới Hoàng Nam 2739 2739 100 Nghĩa Thái 8100 8100 100 Ấp túc đê Ninh Cơ TT Liễu Đề 650 650 100 LM mơng tiêu nước Nghĩa Sơn 264 264 100 Ấp túc đê Ninh Cơ Nghĩa Sơn 86754 32104 37 Ấp túc đê 56 Nghĩa Sơn 98203 24467 25 Từ chùa Giáo dục đến Nghĩa Tân Nghĩa Phú 24201 24201 100 Ấp túc đê biển Nghĩa Bình 5000 5000 100 LM mương bắc – Nam đường xã Nghĩa Bình 2586 2586 100 MR kênh nội đồng Nghĩa Bình 560 560 100 LM mương xóm 2 Nghĩa Hoà 9620 9620 100 Nghĩa Hùng 57840 31201 54 Đắp bờ vùng + Nạo vét sông Nghĩa Hải 6530 7187 110 LM + MR mương nội đồng Nghĩa Thắng 14575 14575 100 MR sông Âm Sa + kênh mương Nghĩa Lợi 31300 31300 100 Ấp túc đê biển Nam Điền 18000 18000 100 LM kênh tưới TT Rạng Đông 148260 148260 100 Giai đoạn 2000 – 2006, diện tích đất cơ sở giáo dục, đào tạo tăng 21,21 ha để thực hiện các công trình để đảm bảo cơ sở hạ tầng cho sự nghiệp giáo dục. Dù vậy, các công trình giáo dục vẫn chậm so với các chỉ tiêu quy hoạch do nguyên nhân chủ yếu là vốn đầu tư các công trình đào tạo đến năm 2007 đã thực hiện được thể hiện qua bảng 4.11. Bảng 4.11. Kết quả thực hiện một số công trình giáo dục giai đoạn 2000 – 2007 Tên công trình Địa điểm Quy hoạch (m2) Thực hiện (m2) Tỷ lệ (%) LM trường THCS Nghĩa Đồng 7922 7922 100,00 LM trường tiểu học Nghĩa Thịnh 7500 7200 96,00 LM trường MN Nghĩa Minh 3500 3500 100,00 LM trường MN trung tâm xã Nghĩa Châu 5000 5000 100,00 LM trường tiểu học B Hoàng Nam 5760 5760 100,00 LM trường PTCS TT Liễu Đề 4960 4960 100,00 LM trường MN Tân Liêu, Quần Liêu + trường tiểu học A, B, C Nghĩa Sơn 28248 25890 91,65 LM trường mầm non trung tâm, Đồng Tâm, Đồng Lợi + MR trường tiểu học A, B Nghĩa Lạc 17810 15020 84,33 MR trường MN, tiểu học, THCS + LM trường MN Thái Học, Thuận Môn Nghĩa Hồng 4083 4083 100,00 LM trường MN Nghĩa Phú 3821 3821 100,00 MR trường THPT B Nghĩa Tân 2499 2499 100,00 LM trường mầm non A Nghĩa Thành 2900 2900 100,00 LM trường MN Nghĩa Lâm 15638 LM nhà trẻ trung tâm xóm 1+ 2 Nghĩa Thắng 4000 4000 100,00 XD trường THCS Nghĩa Lợi 7833 7833 100,00 MR trường mầm non Nghĩa Phúc 100 100 100,00 MR trường THCS, trường tiểu học khu 1 Nam Điền 4500 6187 137,49 Đất cơ sở y tế tăng 0,95 ha so với năm 2000 do mở rộng bệnh viện huyện tại thị trấn Liễu Đề. Diện tích tăng lên ngoài dự tính quy hoạch do nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân tăng lên. Đất cơ sở thể dục, thể thao tăng 2,37 ha so với năm 2000 do xây dựng hệ thống sân chơi thể thao tại trung tâm các xã Nghĩa Thái, Nghĩa Thành, Nam Điền Còn lại, các công trình sân chơi thể thao tại trung tâm các xã khác và sân vận động tại thị trấn Liễu Đề chưa được thực hiện do nguồn kinh phí hạn hẹp đồng thời do khâu đền bù, giải phóng mặt bằng còn gặp nhiều khó khăn. Do nhu cầu trao đổi hàng hoá của nhân dân ngày càng tăng, hầu hết các xã đã xây dựng hệ thống chợ tạm. Do đó, trong giai đoạn 2000 – 2007, huyện đã xây dựng và làm mới tại Nghĩa Tân, Nghĩa Thành, Nam Điền với diện tích tăng thêm là 0,45 ha. Nền kinh tế của huyện có nhiều khởi sắc nên đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân trong huyện cũng có nhiều đổi thay, các công trình di tích di tích lịch sử được tôn tạo và bảo vệ. Đến năm 2007, diện tích đất có di tích danh thắng tăng 5,91 ha do sự thống kê lại diện tích theo bảng biểu mới đồng thời do thay đổi địa giới hành. Sự thay đổi diện tích đất có di tích danh thắng phù hợp với quy hoạch và kế hoạch sử dụng đến năm 2010 đã được phê duyệt. Do dân số ngày càng tăng, rác thải sinh hoạt trong đô thị cũng như nông thôn đã và đang là vấn đề cần quan tâm. Trong giai đoạn 2000 – 2007, diện tích đất bãi thải, xử lý chất thải tăng 0.98 ha để xây dựng bãi rác tại xã Nghĩa Đồng, Nghĩa Minh, Nghĩa Thịnh, Nghĩa Hoà, Nghĩa Châu, Nghĩa Thái. Đến năm 2007 diện tích đất bãi thải, xử lý chất thải là 6,58 ha. Đất tôn giáo, tín ngưỡng 6 năm qua đã tăng 40,18 ha lấy từ đất chợ, đất sông suối và mặt nước chuyên dùng và đất bằng chưa sử dụng để mở rộng đền, chùa như: đền Tràng Khê xã Nghĩa Châu và xây dựng chùa Liễu Đề. So với phương án quy hoạch đến năm 2010 thì tỷ lệ diện tích tăng lên và hệ thống công trình thực hiện đã tương đối hợp lý, đảm bảo đời sống tinh thần của nhân dân. Năm 2007 diện tích đất nghĩa trang, nghĩa địa tăng 19,21 ha do xây dựng các công trình tại xã Nghĩa Thịnh, Nghĩa Châu, Thị trấn Liễu Đề, Nghĩa Hồng, thị trấn Rạng Đông. Xét về mặt diện tích thì đất nghĩa trang, nghĩa địa tăng quá nhanh nhưng về công trình thì đất nghĩa trang, nghĩa địa tăng chậm hơn rất nhiều so với quy hoạch cũng như kế hoạch. Trong 6 năm qua, diện tích đất phi nông nghiệp khác giảm 0,44 ha do chuyển sang đất cơ sở sản xuất kinh doanh ngoài ước tính của phương án quy hoạch do một số nhu cầu phát sinh trong quá trình phát triển nền kinh tế: xây dựng khu nhà ở cho công nhân tại cho cụm công nghiệp xã Nghĩa Sơn * Đất bằng chưa sử dụng Trong giai đoạn 2000 – 2007, diện tích đất bằng chưa sử dụng năm 2007 là 1528,32 ha, tăng 219 ha do sự thống kê lại diện tích theo hệ thống biểu mới và diện tích đất bãi bồi hàng năm bồi đắp, đồng thời giảm 13,94 ha để chuyển sang mục đích phi nông nghiệp. So với phương án quy hoạch thì việc đưa diện tích đất chưa sử dụng và trồng rừng chưa được thực do nguồn kinh phí lớn và cần có sự phối hợp, nhất trí cao trong nhân dân. Do đó, trong những năm tới, huyện cần có sự đầu tư và chính sách hợp lý để khuyến khích nhân dân trồng rừng phòng hộ, bảo vệ đất và môi trường sinh thái. 4.3.2.5. Đánh giá chung về công tác thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2001 – 2010 * Chỉ tiêu sử dụng đất * Diện tích đất nông nghiệp giảm còn 17531.54 ha nhưng tổng sản lượng lương thực có xu hướng tăng lên, nông sản phẩm ngày càng đa dạng về chủng loại, chất lượng cao. Điều này chứng tỏ ngành nông nghiệp đã phát triển theo hướng đa dạng hoá cây trồng, nâng cao năng suất và hệ số sử dụng đất. Mặc dù vậy, trong kế hoạch phát triển của ngành nông nghiệp dự tính sẽ xây dựng vùng chuyên rau để nâng cao hiệu quả sử dụng đất nhưng chưa thực hiện được. Bên cạnh đó, diện tích đất trồng cây vụ đông tăng lên không đáng kể mà nguyên nhân chủ yếu là do người dân tập trung vào làm tại các khu công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Trái ngược với một bộ phận nhỏ trong nhân dân có tư tưởng bỏ ruộng để chuyên làm nghề tiểu thủ công nghiệp thì một số cộng đồng dân cư mất đất canh tác để xây dựng khu công nghiệp, không có trình độ, không tìm được việc làm. Đây là một thử thách đặt ra cho các nhà quản lý trong việc tập trung phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nhưng vẫn phải chú ý khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, đồng thời phải tạo công ăn, việc làm cho người dân bị mất đất. * Diện tích đất phi nông nghiệp tăng nhanh, đặc biệt là diện tích đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp tăng 46,45 ha. Mặc dù có chính sách kế hoạch hoá gia đình dân số của huyện trong những năm qua có chiều hướng giảm xuống nhưng diện tích đất ở vẫn tăng nhanh (tăng 187,84 ha so với năm 2000). Các công trình công cộng trong huyện tương đối đầy đủ về số lượng nhưng chất lượng đã xuống cấp do vậy trong những năm qua, huyện chủ yếu tập trung cải tạo, sửa chữa và mở rộng nên diện tích đất có mục đích công cộng không có nhiều biến động và phù hợp với quy hoạch đến năm 2010 đã được phê duyệt. * Diện tích đất chưa sử dụng chuyển đổi mục đích sang các loại đất khác trong những năm vừa qua theo quy hoạch thực hiện còn rất chậm như đất nông nghiệp mới chỉ thực hiện 69,25%, đất phi nông nghiệp thực hiện được 34% do nguồn vốn đầu tư chưa có trong khi nguồn đất này chủ yếu là đất mặn. * Vị trí không gian các công trình Bên cạnh những mặt tích cực trong công tác xây dựng các công trình theo quy hoạch đến năm 2007 thì những phát sinh trong quá trình thực hiện quy hoạch diễn ra khá phổ biến đó là trong quá trình thực hiện quy hoạch đã phát sinh nhiều tổ chức kinh tế trong và ngoài tỉnh có nhu cầu đầu tư sử dụng đất để phát triển công nghiệp, thương mại và dịch vụ nhưng không đăng ký khi xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Cụ thể về thực hiện phương án quy hoạch khu công nghiệp huyện thì mới chỉ thực hiện xây dựng được cụm Công nghiệp tại xã Nghĩa Sơn, các công trình giao thông trọng điểm như mở rộng đường tỉnh lộ 55 và 56 chưa thực hiện được chỉ thực hiện được khoảng 30% các công trình giao thông trong phương án quy hoạch. Ngoài ra công trình xây dựng nhà máy đóng tàu VinaShin hoàn toàn không có trong quy hoạch thì đến thời điểm hiện tại đã được đi vào hoạt động. Vì vậy, diện tích đất dành cho các mục đích này không có trong các hạng mục, công trình sẽ được xây dựng mới trong giai đoạn quy hoạch tới. Về các công trình ngoài quy hoạch thì lại rất nhiều chủ yếu là đất cơ sở sản xuất kinh doanh. Đến năm 2007 thì 80% các công trình đề ra theo phương án quy hoạch không thực hiện được do trong giai đoạn quy hoạch đưa ra không có giải pháp để thực hiện các công trình đó chủ yếu là các công trình xây dựng các cụm công nghiệp và khu công nghiệp trên địa bàn huyện. * Công tác quản lý quy hoạch, các chính sách thực hiện Việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai trên thực tế còn nhiều hạn chế như chưa thực sự gắn với quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương. Quy hoạch còn thiếu tính dự báo và khả thi, chưa đáp ứng kịp yêu cầu của sự phát triển, gây lãng phí lớn. Tình trạng quy hoạch chồng chéo, thiếu sự kết hợp giữa tỉnh và huyện, giữa ngành và lãnh thổ trên địa bàn huyện đã diễn ra phổ biến. Tình trạng giao đất nông nghiệp phục vụ phát triển công nghiệp, đô thị theo quy hoạch trên thực tế còn rất nhiều lãng phí. Nguyên nhân của những hạn chế về chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là do trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ địa chính xã còn yếu kém nên nhận thức của họ về vị trí, vai trò, yêu cầu, nhiệm vụ, nội dung và tầm quan trọng của công tác lập, xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa thật đầy đủ, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, ngành trong công tác lập và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, nhất là giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng, phát triển đô thị, quy hoạch sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản. Điều quan trọng hơn nữa là công tác kiểm tra, thanh tra với việc lập và triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa coi trọng, chưa thực hiện thường xuyên và chưa hiệu quả. Do đó, để nâng cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, khắc phục những hạn chế tại địa phương thì các nhà lãnh đạo, cơ quan chuyên môn cần có những giải pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả của quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. * Nguồn vốn đầu tư Việc thực hiện phương án quy hoạch đã phê duyệt còn gặp nhiều khó khăn do một số hạng mục công trình nằm trong quy hoạch nhưng thiếu nguồn vốn đầu tư, chưa có chính sách phù hợp để thu hút các nhà kinh doanh... nên tiến độ bị chậm lại hoặc chưa có điều kiện thực hiện (một số tuyến đường liên huyện, tỉnh lộ chưa được mở rộng và nâng cấp, hệ thống kênh mương nội đồng chưa được cứng hoá, khu nhà văn hoá, sân thể thao ở thị trấn Liễu Đề và Rạng Đông, sân thể thao và bể bơi ở hầu hết các xã chưa được xây dựng...) 4.4. Các giải pháp thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất 4.4.1. Giải pháp về vốn Tập trung huy động nguồn vốn đầu tư từ nhiều nguồn (nhân dân, Nhà nước và từ nhà đầu tư nước ngoài) là biện pháp thiết thực để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư phát triển trong giai đoạn quy hoạch. Nguồn vốn dự tính cho các hạng mục công trình cụ thể để tăng tính khả thi của phương án quy hoạch sử dụng đất của huyện đến năm 2010 như sau: - Giao thông: giai đoạn 2008 – 2010, sẽ tiếp tục thực hiện kế hoạch kỳ cuối với các công trình, nâng cấp, mở rộng 2 tuyến đường tỉnh lộ đi qua, đường 490 (đường 55 cũ) chạy dọc huyện từ Bắc xuống Nam là trục giao thông chính của huyện, đường 56 cắt ngang huyện tạo ra các thị tứ, trung tâm dịch vụ thương mại, đường liên xã và giao thông nông thôn cần được nâng cấp và mở rộng để đáp ứng nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hoá của nhân dân trong huyện thực hiện với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm (huy động đóng góp của nhân dân tính theo nhân khẩu) đồng thời thực hiện chủ trương huy động nguồn bằng cách phát hành công trái, đổi đất lấy cơ sở hạ tầng. - Thuỷ lợi: để đáp ứng nhu cầu tưới, tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp, trong giai đoạn tới cần có sự đầu tư cho việc kiên cố hoá kênh mương tại một số tuyến mương chính cấp I và cấp II. Đồng thời, huyện cũng cần đầu tư cho kè đê, tu sửa, thay mới hệ thống máy bơm. Nguồn kinh phí cho các hạng mục công trình này phần lớn do Nhà nước, phần nhỏ do nhân dân. - Cải tạo và mở rộng diện tích đất nông – lâm nghiệp: Dự tính, trong giai đoạn tới (đến 2010) sẽ cải tạo đất bằng chưa sử dụng chủ yếu là đất bồi lắng ven biển tại 2 xã Nghĩa Thắng và Nghĩa Phúc, để đưa vào trồng rừng phòng hộ và trồng cây lâu năm, trồng màu. Để thực hiện kế hoạch, cần có một nguồn kinh phí cho việc đầu tư cây giống, cải tạo đất và kỹ thuật chăm sóc rừng trồng trong nhân dân. Nguồn kinh phí xin từ các dự án đầu tư của Nhà nước cho phát triển rừng. - Xây dựng cơ bản: Trong giai đoạn tới của kỳ cuối, cần có kế hoạch xây dựng, nhà văn hoá xã, thôn, xóm, xây dựng hệ thống trường học nhà y tế cao tầng kiên cố cho các xã đảm bảo phục vụ nhu cầu của nhân dân trong huyện. Nguồn vốn cho các hạng mục công trình trên lấy từ sự đóng góp trong nhân dân, lấy cơ sở hạ tầng đối nguồn vốn và các nguồn thu khác của xã, huyện và tỉnh. Trong giai đoạn tới với phương hướng: Tạo môi trường chính sách khuyến khích tăng tích luỹ nội bộ nền kinh tế, nâng cao tích luỹ hộ gia đình Nhà nước phải có những chính sách và kế hoạch cụ thể như phát hành tín phiếu, trái phiếu.. Đồng thời, Nhà nước phải có biện pháp nhằm thu hút mạnh hơn nữa nguồn vốn đầu tư nước ngoài bằng việc tiếp tục cải thiện môi trường đầy tư và kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật đang hoàn thiện của cả nước, cải tiến thủ tục hành chính, điều chỉnh giá cho thuê đất hợp lý, đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, chú trọng đào tạo nguồn lao động có kỹ thuật, hoàn thiện kết cấu hạ tầng kỹ thuật các khu công nghiệp, mở rộng các hình thức gọi vốn đầu tư. Tập trung cao độ nguồn vốn đầu tư từ ngân sách của huyện, kết hợp với nguồn vốn hỗ trợ của tỉnh và Trung ương để đến năm 2010 hoàn thành những công trình cơ sở hạ tầng chủ yếu đảm bảo thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của huyện. 4.4.2 Giải pháp về chính sách * Quản lý quy hoạch Quá trình lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai cần bám sát chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Nghị quyết Đảng bộ của từng cấp định hướng phát triển kinh tế – xã hội của từng giai đoạn. Xây dựng một hệ thống chính sách, quy chế liên quan đến việc lập, tổ chức thực hiện và hoàn thiện quy hoạch sử dụng đất như đền bù giải phóng mặt bằng trong các phương án xây dựng đồng ruộng, chỉnh trang đô thị, phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển công nghiệp, dịch vụ. Các phương án đền bù giải phóng mặt bằng phải công khai như giải phóng mặt bằng tại cụm công nghiệp xã Nghĩa Sơn và dự án xây dựng mở rộng đường 55 và 56 không gây khiếu kiện cho người dân, đảm bảo việc thực hiện dự án đúng tiến độ, không gây tổn hại về kinh tế. * Khuyến khích đầu tư Cùng với những hoạt động trên, Nhà nước cũng phải có chính sách ưu tiên, khuyến khích phát triển nông nghiệp; Khuyến khích áp dụng những tiến bộ khoa học, kỹ thuật trong việc sử dụng đất bền vững và bảo vệ môi trường sinh thái; Ưu tiên phát triển và chuyển đổi cơ cấu đất nông nghiệp; Khuyến khích đầu tư sử dụng diện tích đất bằng và mặt nước chưa sử dụng..., đầu tư thâm canh, tăng vụ, tăng năng suất để bù đắp sản lượng lượng nông sản giảm đi do chu chuyển đất nông nghiệp; Ưu tiên dành đất cho những nhu cầu bắt buộc hoặc có ý nghĩa lớn cho việc phát triển kinh tế – xã hội như các khu công nghiệp tập trung, giao thông, thuỷ lợi...., đặc biệt quan tâm tới những nhu cầu về đất cho mục đích an ninh – quốc phòng. Với tình hình thực tại Nghĩa Hưng có thể đưa ra một số chính sách đầu tư về giống, một phần vốn cho cải tạo đất để nuôi trồng thuỷ sản. Đồng thời, huyện cần có chính sách cho nhân dân vay vốn với lãi suất thấp (hình thành quỹ tín dụng) thường xuyên tổ chức hội thảo, các buổi giao lưu, học hỏi kinh nghiệm về cách thức làm kinh tế. * Áp dụng khoa học kỹ thuật Để quy hoạch, kế hoạch thực sự mang tính khoa học và có tính khả thi cao, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp, sự phối hợp của các nhà khoa học, nhà quản lý, nhà doanh nghiệp, các chuyên gia về các lĩnh vực và người dân trong xây dựng và thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai nhằm đáp ứng đầy đủ nhu cầu đất đai cho các ngành và các lĩnh vực trong thời kỳ quy hoạch. Đồng thời ứng dụng công nghệ thông tin địa lý (GIS) để theo dõi, cập nhật, quản lý các biến động đất đai, phát hiện và kiến nghị điều chỉnh những bất hợp lý và có hiệu quả kinh tế cao. 4.4.3 Giải pháp về quản lý, hành chính Hiện nay, một số dự án trên địa bàn huyện chậm tiến độ là do công tác bồi thường giải phóng mặt bằng, nên cần phải thực hiện tốt công tác đền bù giải phóng mặt bằng, có thể áp dụng hình thức cưỡng chế hoặc xử phạt hành chính khi cần thiết, đồng thời có kế hoạch đào tạo nghề cho số lao động nông nghiệp bị thu hồi đất sản xuất. Từng bước giải quyết vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn khi tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp – dịch vụ và giảm dần tỷ trọng ngành nông – lâm nghiệp. Chú trọng đào tạo nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ địa chính ở các xã, thị trấn và đội ngũ cán bộ chuyên làm nhiệm vụ lập, quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; áp dụng đồng bộ các chính sách về đất đai, cụ thể hoá các điều khoản của Luật, các văn bản sau luật cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Các văn bản Luật đất đai, Thông tư, Nghị định, các quy định khác liên quan đến đất đai cần được phổ cập thường xuyên cho nhân dân thông qua hệ thống báo nói (đài truyền thanh huyện, xã) báo viết. Các cơ quan có thẩm quyền cần thực hiện tốt việc công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã duyệt; Giám sát, kiểm tra, thanh tra việc thẩm định, xét duyệt và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của các cấp; Hạn chế tối đa việc lấy đất chuyên lúa có năng suất cao, đất có mặt nước chuyên dùng sang phi nông nghiệp, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất và thu hồi đất. Huyện cần có những xử phạt hành chính hoặc thu hồi đất lấn chiếm trái phép và quá thời gian quy định mà không đưa vào sử dụng. Trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai đã được phê duyệt, chức năng, nhiệm vụ và chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội của huyện, các phòng, ban và từng xã, thị trấn cần xây dựng các chương trình, dự án, xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu và chính sách sử dụng đất cụ thể cho từng ngành, lĩnh vực quan trọng, phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động và dân cư. Tận dụng những lợi thế là một huyện vùng đồng bằng, có truyền thống trồng lúa nước lâu đời, Nghĩa Hưng cần xây dựng các vùng chuyên canh cây trồng các loại đặc sản có chất lượng cao như gạo tám thơm, tám xoan... 4.4.4 Các giải pháp khác Việc lập quy hoạch sử dụng đất ở các ngành, các cấp là một hoạt động quản lý Nhà nước, phải được tổ chức thống nhất, đồng bộ và cân đối, công khai suốt trong quá trình tiến hành và được quyết định theo nguyên tắc dân chủ tập trung, cần có sự tập trung thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, các tổ chức đoàn thể, các cấp chính quyền. Quy hoạch sử dụng đất phải gắn với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội và các quy hoạch ngành có liên quan khác. Nâng cao nhận thức cho từng cán bộ, Đảng viên và nhân dân trong huyện về vai trò và ý nghĩa của quy hoạch sử dụng đất đai trong việc phát triển kinh tế, xã hội và ổn định an ninh trật tự xã hội. Xây dựng hệ thống chính trị các cấp, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là lĩnh vực quản lý đất đai, xây dựng chính quyền cơ sở trong sạch, vững mạnh, gắn với phân cấp cho chính quyền địa phương các cấp để nâng cao tính chủ động, sáng tạo trong quản lý, điều hành và thực hiện tốt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Do nền kinh tế biến động trong cơ chế đổi mới theo hướng có lợi, không nên quan niệm và nhận thức quy hoạch đã được phê duyệt một cách cứng nhắc bất biến, mà phải điều chỉnh (định kỳ 2 – 3 năm đối với cấp xã và cấp huyện; 5 năm đối với cấp tỉnh) cho phù hợp với quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Đến năm 2010, huyện cần xây dựng hoàn thiện phương án điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất tại các xã và định hướng sử dụng đất đến năm 2020, đảm bảo quy hoạch là công cụ quan trọng, dẫn đường cho quá trình sử dụng đất, thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm việc sử dụng đất của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp khai thác, sản xuất vật liệu xây dựng, làm nghề thủ công gây ô nhiễm môi trường, đẩy nhanh tiến độ dự án cải tạo sông Đáy và sông Ninh Cơ để thoát lũ tốt hơn, bảo vệ môi trường nước cho nhân dân trong huyện. 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1 Kết luận (1) Nghĩa Hưng có vị trí thuận lợi, cơ sở hạ tầng đang dần được nâng cấp và hoàn thiện, xây dựng một hệ thống tương đối đồng bộ tạo điều kiện cho Nghĩa Hưng phát triển nền kinh tế theo hướng mở cửa, giao lưu trao đổi hàng hoá với các vùng lân cận. Nhưng nền kinh tế của huyện vẫn còn mang nặng tính thuần nông, sản xuất còn thiếu vốn đầu tư, khả năng thu hút vốn còn hạn chế, sản xuất kinh doanh không ổn định gây khó khăn cho phát triển kinh tế. Nguồn lao động trong huyện khá dồi dào lực lượng lao động trẻ, có trình độ. Đây là nguồn nội lực lớn để khai thác tối đa tiềm năng đất đai và phát triển kinh tế, xã hội của huyện trong giai đoạn tới, nhưng cũng là tạo khó khăn cho các cấp lãnh đạo của huyện trong vấn đề giải quyết việc làm. (2) Những năm qua, nền kinh tế của Nghĩa Hưng có bước nhảy vọt, ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có sự phát triển vượt bậc tạo nguồn vốn quan trọng cho đầu tư cơ sở hạ tầng, gây những biến động không nhỏ về tình hình sử dụng đất, ảnh hưởng đến chất lượng của việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2000 - 2010 của huyện đã phê duyệt. Đất nông nghiệp năm 2007 có diện tích 8954,05 giảm 407,88 ha so với năm 2000, đạt 96,32% so với kế hoạch và 96,51% so với quy hoạch. Nguyên nhân của vấn đề này là do nhu cầu đất phi nông nghiệp ngày càng tăng lên. Diện tích đất phi nông nghiệp tính đến năm 2007 là 4733,77 ha, tăng 421,82 ha, vượt quá quy hoạch 630,04 ha. Tăng nhanh nhất là diện tích đất khu công nghiệp, vượt chỉ tiêu quy hoạch 322,03 ha do một số nhà đầu tư cho công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp không đăng ký nhu cầu sử dụng đất khi xây dựng quy hoạch. Ngoài ra, nhu cầu sử dụng đất cho mục đích mở rộng, xây dựng mới nhằm hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng nên diện tích đất công cộng tăng lên đáng kể với diện tích 1876,30 ha vào năm 2007, đạt 93,12% so với chỉ tiêu quy hoạch. Bên cạnh những thành tựu, sự phát triển các ngành phi nông nghiệp đã sử dụng một phần không nhỏ diện tích đất sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là diện tích đất trồng lúa, làm cho một bộ phận nông dân không có đất canh tác nên tỷ lệ lao động thất nghiệp gia tăng, phát sinh nhiều tệ nạn xã hội. Một số diện tích đất đai thu hồi để xây dựng khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp còn bỏ trống dẫn đến tình trạng đất vẫn bị bỏ trống mà người dân vẫn không có đất canh tác. Nếu giải quyết được vấn đề này thì sự phát triển của ngành phi nông nghiệp sẽ đạt được hiệu quả cao nhất trên các mặt kinh tế và xã hội. (3) Về vị trí của các công trình trong quy hoạch đến năm 2007 để thực hiện khả thi được là không khả thi vẫn là chỉ vẽ ra trong quy hoạch còn thực hiện thế nào thi vẫn là một bài toán nan giải đối với các nhà quy hoạch. (4) Để phương án quy hoạch có tính khả thi cao cần có sự kết hợp của nhiều yếu tố với 4 giải pháp chính: giải pháp về vốn, chính sách, hành chính và một số giải pháp khác - Giải pháp về vốn Để thực hiện được quy hoạch cần có vốn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Nguồn vốn được huy động từ các nguồn: Đầu tư của Nhà nước, nhà đầu tư vốn nhàn rỗi trong nhân dân. Vốn được đầu tư trọng điểm xếp theo thứ tự ưu tiên nhằm giải quyết khâu trọng yếu để hoàn thiện cơ sở hạ tầng, thực hiện tốt phương án quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã phê duyệt. - Về chính sách Hệ thống chính sách, quy chế liên quan đến việc lập và thực hiện quy hoạch sử dụng đất phải đồng bộ, có những chính sách khuyến khích phát triển các ngành kinh tế phi nông nghiệp, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, ưu tiên dành đất cho nhu cầu bắt buộc: cụm công nghiệp tập trung, hệ thống giao thông quan trọng..., đặc biệt là nhu cầu đất an ninh, quốc phòng, nhưng vẫn đảm bảo dành đất cho phát triển sản xuất nông nghiệp, đảm bảo sử dụng đất tiết kiệm, có hiệu quả và bền vững. - Về quản lý hành chính Phương án quy hoạch phải được xây dựng có sự kết hợp chặt chẽ của nhiều nhà khoa học, nhà quản lý, nhà doanh nghiệp, các chuyên gia và người dân. Các hoạt động liên quan đến thực hiện quy hoạch phải được làm tốt như công tác giải phóng mặt bằng, tuyên truyền công khai các chính sách, pháp luật có liên quan đến đất đai, nâng cao trình độ của cán bộ chuyên môn, tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm với những hành vi vi phạm pháp luật.... - Về các giải pháp tác động khác Quy hoạch đựơc lập phải đảm bảo nguyên tắc khách quan, dân chủ và gắn với hệ thống quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội và các quy hoạch khác. Hệ thống quy hoạch sử dụng đất đã xây dựng nhưng phải có sự điều chỉnh để sát với tình hình thực tế. Đồng thời, xây dựng một hệ thống chính trị các cấp, đẩy mạnh cải cách hành chính nhất là trong lĩnh vực đất đai. 5.2 Kiến nghị Để thực hiện tốt phương án quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt cần thực hiện các vấn đề sau: - Rà soát lại một số chỉ tiêu quy hoạch sử dụng đất không còn phù hợp với thực tế phát triển kinh tế xã hội của huyện trong giai đoạn hiện tại. - Trên cơ sở những dự báo phát triển trong vòng 4 năm tới, kết hợp hệ thống chỉ tiêu sử dụng đất do Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành quy định các giải pháp bảo vệ đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đặc biệt là đất trồng lúa nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO I. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT 1. Vũ Thị Bình (1999), Giáo trình quy hoạch phát triển nông thôn, NXB nông nghiệp. 2. Nguyễn Đình Bồng (2002), Quỹ đất quốc gia, hiện trạng và dự báo sử dụng”, Khoa học đất, số 16, tháng 8. 3. Nguyễn Đình Bồng (2006) “Một số vấn đề về quy hoạch sử dụng đất ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”, Tài nguyên và Môi trường, số 9. 4. Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (1995), Báo cáo đề dẫn an toàn lương thực cho vùng đồng bằng sông Hồng, Hà Nội. 5. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2004), Quy hoạch sử dụng đất cả nước đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất đến năm 2005 của cả nước, Hà Nội. 6. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2008) Báo cáo kết quả thực hiện chỉ thị số 09/2007/CT-TTg về tăng cường quản lý sử dụng đất của các quy hoạch và dự án đầu tư trên địa bàn cả nước. 7. Cục thống kê tỉnh Nam Định (2000), Niên giám thống kê tỉnh Nam Định. 8. Cục thống kê tỉnh Nam Định (2007), Niên giám thống kê tỉnh Nam Định. 9. Kao Madilen, (2001), Nghiên cứu một số phương pháp quy hoạch sử dụng đất cấp cơ sở của một số nước trên thế giới, Việt Nam và khả năng áp dụng vào Cămpuchia, Luận văn thạc sỹ khoa học nông nghiệp, Đại học Nông nghiệp I Hà Nội. 10. Đoàn Công Quỳ, Vũ Thị Bình, Nguyễn Thị Vòng, Nguyễn Quang Học (2006), Giáo trình quy hoạch sử dụng đất, NXB Nông nghiệp. 11. Thông tư 30/2004/TT-BTNMT ngày 1/11/2004 của Bộ Tài nguyên và Môi trường (2004) về việc hướng dẫn lập điều chỉnh và thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. 12. Viện Điều tra Quy hoạch đất đai, Tổng cục Địa chính (1998), Cơ sở lý luận khoa học của quy hoạch sử dụng đất đai, Hà Nội. 13. Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam (1998), Nông nghiệp sinh thái, NXB Nông nghiệp. 14. Cao Như ý (2006), Những suy nghĩ về quy hoạch, sử dụng đất ở các khu công nghiệp, II. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG ANH. 15. FAO (1993), Guideline for Land use planning, Rome, page 1. 16. Land use law: an overview, use/ 17. Land use planning for Berlin. Keeping up with Change, Summary 2001, en.shtml. ._. Các file đính kèm theo tài liệu này: CHQL007.doc Tài liệu liên quan Thiết kế bài giảng điện tử trên microsoft fronpage hỗ trợ giáo viên tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh trong chương "các định luật bảo toàn" thuộc vật lý 10 Trung học phổ thông (THPT) ban cơ bản 110 trang | Lượt xem: 1471 | Lượt tải: 6 Nghiên cứu một số giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho lao động nữ huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh 181 trang | Lượt xem: 1433 | Lượt tải: 5 Điều tra đánh giá nguồn gen hoa cây cảnh họ Hành (Liliaceae) tại một số tỉnh, thành phố phía Bắc và nghiên cứu đặc điểm sinh học của một số loài phục vụ chọn tạo giống 108 trang | Lượt xem: 1363 | Lượt tải: 0 Ứng Dụng Hệ Thống Thông Tin Địa Lý (GIS) Trong Xây Dựng Và Quản Lý Cơ Sở Dữ Liệu Về Dân Số Của Thành Phố Long Xuyên, Tỉnh An Giang 68 trang | Lượt xem: 3101 | Lượt tải: 3 Tuyển chọn và phát triển một số dòng/giống lúa nếp mới có năng suất, chất lượng tốt cho huyện Quế Võ – tỉnh Bắc Ninh 118 trang | Lượt xem: 3103 | Lượt tải: 14 Đánh giá tình hình thực hiện một số dự án chuyển đổi mục đích sử dụng đất trên địa bàn huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh 138 trang | Lượt xem: 1299 | Lượt tải: 0 Sử dụng Matlab để giải một số bài toán mạch điện một pha 61 trang | Lượt xem: 7594 | Lượt tải: 8 Thực trạng & Một số giải pháp nhằm chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn ở xã Liệp Tuyết - Quốc Oai - Hà Tây 78 trang | Lượt xem: 1459 | Lượt tải: 1 Phân lập và giám định một số vi khuẩn hiếu khí thường gặp ở đường tiêu hoá của dê khoẻ mạnh và dê mắc hội chứng tiêu chảy nuôi tại các tỉnh Nam Trung Bộ 133 trang | Lượt xem: 1733 | Lượt tải: 7 Xây dựng bản đồ phân vùng sinh thái môi trường đất phục vụ quy hoạch phát triển nuôi tôm càng xanh huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp 112 trang | Lượt xem: 1342 | Lượt tải: 2 Copyright © 2018 ZBook.vn - Thư viện giáo án - Đề Thi Mẫu - Những bài soạn văn mẫu hay
1610704847953.98.parquet/88199
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 85189, "url": "http://www.zbook.vn/ebook/danh-gia-viec-thuc-hien-quy-hoach-su-dung-dat-huyen-nghia-hung-tinh-nam-dinh-47137/" }
136.4
Chỉnh sửa gene điều trị ung thư - VnExpress Sức khỏe Thứ năm, 28/1/2021 Mới nhất International Mới nhất Thời sự Góc nhìn Thế giới Video Kinh doanh Giải trí Thể thao Pháp luật Giáo dục Sức khỏe Đời sống Du lịch Khoa học Số hóa Xe Ý kiến Tâm sự Hài Tất cả Trở lại Sức khỏe Sức khỏe Tin tức Thứ bảy, 9/11/2019, 08:58 (GMT+7) Chỉnh sửa gene điều trị ung thư MỹCác bác sĩ lần đầu tiên thử nghiệm công nghệ chỉnh sửa gen CRISPR để điều trị ung thư cho 3 bệnh nhân. Công bố ngày 6/11, nhóm bác sĩ, nhà nghiên cứu của Đại học Pennsylvania ở Philadelphia đã lấy tế bào trong hệ miễn dịch từ máu của bệnh nhân và chỉnh sửa lại gene nhằm mục đích chống lại ung thư. Công nghệ này hạn chế tối đa phản ứng phụ và có thể kiểm soát được. Phương pháp điều trị này đã loại bỏ 3 loại gene gây cản trở quá trình nhận diện và tiêu diệt tế bào ung thư, sau đó thêm một loại gene mới có khả năng hỗ trợ các tế bào miễn dịch của cơ thể thực hiện tốt quá trình đẩy lùi bệnh. Tiến sĩ Edward Stadtmauer, Trưởng nhóm nghiên cứu cho biết: "Đây là bằng chứng cho thấy chúng ta hoàn toàn có thể chỉnh sửa gene của các tế bào này một cách an toàn". Sau 2 đến 3 tháng tiến hành liệu pháp này, sức khỏe một bệnh nhân tiếp tục xấu đi, một bệnh nhân khác hiện đã ổn định. Bệnh nhân thứ ba mới nhận được liệu trình điều trị và đang chờ đợi kết quả. Hai trong số bệnh nhân bị đa u tủy xương, ung thư máu và người thứ ba bị sarcoma, ung thư hình thành trong mô liên kết hoặc mô mềm. Tất cả họ đều đã thất bại khi sử dụng nhiều phương pháp điều trị hiện tại và tình nguyện tham gia vào nghiên cứu này. Các nhà khoa học tiến hành lọc máu của họ để loại bỏ những tế bào trong hệ thống miễn dịch, được gọi là tế bào T, sau đó tiến hành sửa đổi trong phòng thí nghiệm và trả lại cho bệnh nhân bằng phương pháp IV (truyền vào tĩnh mạch qua một cây kim). Phương pháp điều trị này chỉ cần áp dụng một lần. Sau khi các tế bào miễn dịch được trả lại cơ thể bệnh nhân, số lượng sẽ được nhân lên thành một "đội quân hùng hậu" trong cơ thể và hoạt động như một loại thuốc sống. Các túi tế bào T chỉnh sửa gen bằng công cụ CRISPR được chuẩn bị để đưa vào một người bệnh tại Trung tâm ung thư Abramson ở Philadelphia. Ảnh: AP. Đến nay, các tế bào đã sống sót và đã nhân lên đúng như kế hoạch, ông Stadtmauer chia sẻ. Đây là một liệu pháp hoàn toàn mới, vì vậy chưa rõ kết quả đem lại có khả quan hay không. Do đó, các nhà nghiên cứu cần theo dõi những bệnh nhân này trong một thời gian dài và thử nghiệm trên nhiều tình nguyện viên khác. Theo kế hoạch, họ sẽ tiến hành điều trị thử nghiệm thêm 15 bệnh nhân nữa nhằm đánh giá sự an toàn cũng như hiệu quả của nó. Các phương pháp điều trị tế bào khác đối với một số bệnh ung thư máu đã tạo một cú hích lớn trong công cuộc tìm kiếm phương pháp chữa trị căn bệnh ung thư. Chỉnh sửa gene cũng là một phương pháp có thể giúp cải thiện phần nào, bác sĩ Aaron Gerds, chuyên gia ung thư tại Trung tâm y khoa Cleveland, bang Ohio, Mỹ chia sẻ. Chỉnh sửa gene là phương pháp thay đổi vĩnh viễn DNA nhằm tấn công các nguyên nhân gốc rễ gây bệnh. CRISPR là một công cụ được tạo ra để cắt DNA tại một điểm cụ thể. Công cụ này từ lâu đã được sử dụng trong phòng thí nghiệm và đang được thử nghiệm cho một số loại bệnh khác. Nghiên cứu này không nhằm mục đích thay đổi DNA trong cơ thể người. Thay vào đó, nó tìm cách loại bỏ, thay đổi và tiếp thêm cho các tế bào của bệnh nhân một nguồn "siêu năng lực" đủ để chống lại căn bệnh ung thư. Nói cách khác, đây là một hình thức trị liệu miễn dịch. Minh Ngân (Theo PBS) Trở lại Sức khỏeTrở lại Sức khỏe Chia sẻ Copy link thành công ×
1610704847953.98.parquet/9943
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 3166, "url": "https://vnexpress.net/chinh-sua-gene-dieu-tri-ung-thu-4009406.html" }
135.6
Thắt chặt tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam-Liên bang Nga - Báo ảnh Việt Nam Tiêu điểm Asean Văn hóa Kinh tế Chân dung Phóng sự Chuyên đề Khám phá Ẩm thực Tin tức Bè bạn với Việt Nam Ôtô - Xe máy Chuyện lạ Việt Nam Y học thường thức Nhiếp ảnh Tin tức 28/06/2020 10:27 GMT+7 0 Thắt chặt tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam-Liên bang Nga Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh trao Huân chương Lao động hạng Nhì của Chủ tịch nước cho đại diện tập thể Hội Hữu nghị Việt-Xô. Ảnh: Dương Giang-TTXVN Ngày 27/6, Lễ kỷ niệm 70 năm ngày thành lập Hội hữu nghị Việt Nam - Liên Xô/Ngày truyền thống Hội hữu nghị Việt Nam - Liên bang Nga (23/5/1950 - 23/5/2020) và chào mừng kỷ niệm 70 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Liên bang Nga (1950-2020) đã diễn ra trọng thể tại Hà Nội. Tham dự buổi Lễ có: Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh; Ngài Konstantin Vnukov, Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Liên bang Nga tại Việt Nam; Đại sứ Nguyễn Phương Nga, Chủ tịch Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam; ông Trần Bình Minh, Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam, Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam-Liên bang Nga và đông đảo thành viên của Hội hữu nghị Việt Nam-Liên bang Nga trong toàn quốc. Thay mặt Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh đã trao Huân chương Lao động Hạng Nhì của Chủ tịch nước tặng Hội hữu nghị Việt Nam-Liên bang Nga vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức triển khai các dự án hòa bình, đoàn kết, hữu nghị, góp phần đẩy mạnh công tác đối ngoại nhân dân giữa hai nước Việt Nam-Liên bang Nga. Phát biểu tại sự kiện, Tổng Giám đốc Đài truyền hình Việt Nam, Chủ tịch Trung ương Hội hữu nghị Việt Nam-Liên bang Nga Trần Bình Minh cho biết: Hội hữu nghị Việt Nam - Liên Xô được thành lập ngày 23/5/1950, là sự kiện quan trọng đánh dấu mốc son lịch sử trong quan hệ hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Liên Xô. Trong sự nghiệp kháng chiến, cứu nước của nhân dân ta, Hội hữu nghị Việt-Xô đã tích cực vận động dư luận, tranh thủ sự ủng hộ và viện trợ của nhân dân Liên Xô. Hội hữu nghị Việt-Xô phối hợp chặt chẽ với Hội hữu nghị Xô-Việt trong việc tổ chức các phong trào đoàn kết, ủng hộ Việt Nam ở Liên Xô, tại các nước xã hội chủ nghĩa và trên thế giới. Thông qua Ủy ban đoàn kết Á-Phi-Mỹ Latinh, Ủy ban Hòa bình toàn Liên Xô, Ủy ban Hòa bình toàn Nga, Quỹ Hòa bình Mát-xcơ-va…, Hội hữu nghị Việt-Xô tổ chức nhiều hoạt động hòa bình, đoàn kết, kêu gọi nhân dân các nước quyên góp thuốc men, lương thực, hàng tiêu dùng… giúp đỡ Việt Nam. Sau ngày miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất, Hội hữu nghị Việt-Xô tiếp tục làm cầu nối tiếp nhận sự giúp đỡ của Liên Xô để khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng và phát triển đất nước trong những điều kiện mới. Trên cơ sở kế thừa tổ chức, kinh nghiệm hoạt động và mục tiêu, nhiệm vụ của Hội hữu nghị Việt-Xô, Hội hữu nghị Việt Nam - Liên bang Nga được thành lập ngày 19/12/1994. Hoạt động của Hội được triển khai theo những định hướng lớn là củng cố, phát triển tổ chức hội ở các địa phương và các cơ quan, đơn vị; đẩy mạnh xã hội hóa, tạo nguồn lực cần thiết cho hoạt động hội; thực hiện những chương trình hành động phong phú và cụ thể, đặc biệt là những hoạt động góp phần thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại; du lịch ; giáo dục - đào tạo ; khoa học - công nghệ giữa Việt Nam và Liên bang Nga; thu hút giới trẻ quan tâm và tham gia hoạt động hội, nâng cao hiểu biết về truyền thống và tiềm năng quan hệ Việt-Nga. Ngài Konstantin Vnukov, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Liên bang Nga tại Việt Nam khẳng định: Mối quan hệ giữa hai quốc gia trong suốt hàng thập kỷ qua đều nổi bật bởi cấp độ cao của tình hữu nghị và sự tin cậy lẫn nhau. Việt Nam là một đất nước gần gũi nhất đối với Nga trong toàn bộ khu vực Đông Nam Á. Liên bang Nga ủng hộ hoàn toàn các sáng kiến của Việt Nam về thúc đẩy quan hệ nhân văn Nga-Việt, giao lưu nhân dân giữa hai nước. Đại sứ quán Liên bang Nga tại Việt Nam cam kết tiếp tục dành cho Hội hữu nghị Việt-Nga sự trợ giúp và ủng hộ cần thiết. Chúc mừng Hội hữu nghị Việt Nam - Liên bang Nga đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhì, Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh khẳng định, đây là sự ghi nhận của Đảng, Nhà nước đối với những nỗ lực của Hội trong những năm qua, đồng thời cũng là kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân vào sự đổi mới, sáng tạo trong các hoạt động và tổ chức của Hội trong thời gian tiếp theo. Vui mừng nhận thấy trong những năm qua, quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga đã có những bước phát triển mạnh mẽ, Phó Chủ tịch nước nhấn mạnh, quan hệ chính trị hai nước có độ tin cậy cao. Các cuộc trao đổi đoàn và tiếp xúc các cấp, nhất là cấp cao được duy trì thường xuyên và trên tất cả các kênh. Nhiều cơ chế hợp tác đã được xác lập trên tất cả các lĩnh vực. Hợp tác kinh tế không ngừng phát triển. Hợp tác trên các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, khoa học, công nghệ, văn hóa, giáo dục, thể thao và giao lưu nhân dân không ngừng được mở rộng, củng cố và tăng cường. Những bước tiến về chất trong mối quan hệ giữa hai đất nước, hai dân tộc không chỉ là yêu cầu khách quan mà còn là nguyện vọng của lãnh đạo và nhân dân hai nước, là sự lựa chọn chiến lược, một trong những yếu tố bảo đảm thực hiện thành công công cuộc đổi mới và phát triển của mỗi nước; góp phần gìn giữ, củng cố hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển và thịnh vượng của khu vực và thế giới. Phó Chủ tịch nước đánh giá cao những nỗ lực, cố gắng của các thế hệ hội viên Hội hữu nghị Việt-Xô/Việt-Nga suốt bao năm tháng đã góp phần xây dựng mối quan hệ hữu nghị, tốt đẹp, tin cậy, chân thành giữa hai đất nước, hai dân tộc. Phó Chủ tịch nước tin tưởng, với ưu thế đội ngũ hội viên đông đảo, có mặt ở rất nhiều cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, trường học… khắp cả nước, những người gắn bó với Liên Xô/Liên bang Nga bằng công việc của mình, những người đã học tập, lao động ở nước bạn và cả những người chưa từng đến xứ sở Bạch Dương nhưng có tình cảm tha thiết, yêu mến con người và đất nước Nga, Hội hữu nghị Việt - Nga sẽ tiếp tục phát huy thế mạnh của mình, đổi mới, đa dạng phương thức và làm sâu sắc hơn các nội dung hoạt động, tăng cường trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm. Bên cạnh đó, Hội cần phối hợp hành động chặt chẽ với Hội Hữu nghị Nga - Việt, các đối tác Nga và cộng đồng người Việt Nam tại Liên bang Nga tích cực tham mưu cho Đảng, Nhà nước chủ trương, giải pháp, cách thức và cơ chế hợp tác mới và hiệu quả nhằm làm phong phú thêm mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt - Nga; tuyên truyền, giáo dục sâu rộng hơn nữa đến các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ hai nước thêm hiểu biết về con người, văn hóa, lịch sử hai đất nước, hai dân tộc; tiếp tục truyền lửa, truyền cảm hứng về lịch sử đoàn kết đặc biệt cũng như quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Liên bang Nga; động viên, thu hút ngày càng nhiều đại diện lớp trẻ tham gia hoạt động của Hội để các hoạt động của Hội mang lại hiệu quả thiết thực hơn và lan tỏa sâu rộng hơn. “Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp và khó lường, đại dịch COVID-19 đặt tất cả các quốc gia trước những thách thức chưa từng có, Hội hữu nghị Việt - Nga cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Hội hữu nghị Nga - Việt, với cộng đồng người Việt sinh sống và làm việc tại Liên bang Nga chủ động đề xuất các giải pháp để Việt Nam và Liên bang Nga chung tay, kề vai sát cánh, chia sẻ, hỗ trợ, giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn, thách thức và chiến thắng đại dịch”, Phó Chủ tịch nước nhấn mạnh./. TTXVN/VNP 0 CÁC BÀI ĐÃ ĐƯA Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Nhanh hơn, quyết liệt hơn để dập dịch ở Hải Dương, Quảng Ninh Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc: Triển khai các biện pháp hành chính mạnh mẽ trong chống dịch COVID-19 Phát hiện thêm 82 ca dương tính với virus SARS-CoV-2 tại Hải Dương và Quảng Ninh Tiếp tục thảo luận về các dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng Quảng Ninh khẩn trương truy vết, cách ly người tiếp xúc với trường hợp mắc COVID-19 Chương trình “Chợ Tết nhân đạo - Tết ấm yêu thương” Mang Tết sớm ra nhà giàn – Khép lại hành trình đầy cảm xúc Đại hội XIII của Đảng: Bảo đảm tiến bộ, công bằng, an sinh xã hội Đại hội XIII của Đảng: 23 tham luận đóng góp tâm huyết, trách nhiệm vào các dự thảo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng: Phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, nâng cao đời sống vùng đồng bào dân tộc, miền núi Thông cáo báo chí về ngày làm việc thứ hai của Đại hội XIII Khánh thành thư viện Dream Plus Library ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG: Học giả Ấn Độ tin tưởng Việt Nam sẽ vượt qua mọi thách thức hậu COVID-19 Tăng cường quan hệ hợp tác giữa Thành phố Hồ Chí Minh và các đối tác Ấn Độ ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG: Cộng đồng người Việt tại Lào gửi gắm niềm tin vào Đảng Thông điệp của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại Hội nghị Thượng đỉnh trực tuyến về Thích ứng với biến đổi khí hậu Quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ "kép", bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ quốc gia Đại hội XIII của Đảng: Tin tưởng đất nước tiếp tục có bước phát triển mới Đại hội XIII của Đảng: Các chính đảng, tổ chức và bạn bè quốc tế gửi thư, điện chúc mừng Toàn văn Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng Toàn văn Diễn văn khai mạc của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại Đại hội XIII của Đảng Khai mạc trọng thể Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam Du lịch nội địa dịp Tết Nguyên đán tăng mạnh Thông cáo báo chí về phiên trù bị Đại hội XIII của Đảng Phiên họp trù bị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam Tiêu điểm Asean Văn hóa Kinh tế Chân dung Phóng sự Chuyên đề Khám phá Tin tức Bè bạn với Việt Nam Ẩm thực Ôtô - Xe máy Chuyện lạ Việt Nam Y học thường thức Nhiếp ảnh Nhà cung cấp thông tin(ICP): Thông tấn xã Việt Nam | ISSN : 1606 - 0261 | Giấy phép số 18/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 5/1/2012 Cơ quan chủ quản: Thông tấn xã Việt Nam | Người chịu trách nhiệm chính: Tổng Biên tập Nguyễn Thắng Địa chỉ: 79 Lý Thường Kiệt - Hà Nội | Tel. (84-4) 3933 2303 | Fax:(84-4) 3933 2291 | Email: vietnamvnp@gmail.com Bản quyền © Báo ảnh Việt Nam
1610704847953.98.parquet/199902
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 9075, "url": "https://vietnam.vnanet.vn/vietnamese/that-chat-tinh-huu-nghi-giua-nhan-dan-viet-nam-lien-bang-nga/450009.html" }
135.5
Trắc Nghiệm Tính Cách MBTI - Trắc Nghiệm Nghề Nghiệp 2021 Chuyển đến nội dung Test Nhanh 3S Menu Test IQ Test EQ Các bài Test khác MBTI DISC Trắc Nghiệm Holland Sinh Trắc Vân Tay Trắc Nghiệm Tính Cách MBTI Test – Trắc Nghiệm Nghề Nghiệp Online Miễn Phí Bạn đã bao giờ nghe ai đó mô tả mình là INTJ hoặc ESTP và tự hỏi những chữ cái nghe có vẻ khó hiểu đó có nghĩa là gì? Những gì những người này đang đề cập đến là kiểu tính cách của họ dựa trên Chỉ số Kiểu Myers-Briggs (MBTI). Bạn đã bao giờ nghe các thuật ngữ như: trắc nghiệm tính cách, trắc nghiệm nghề nghiệp hay trắc nghiệm MBTI test chưa? Hãy cùng đến với bài test của Test Nhanh 3S nào! Xem thêm các bài test khác: IQ Test EQ Test Trắc Nghiệm Holland DISC Test Chỉ báo Loại Tính cách Myers-Briggs là một bản kiểm kê tự báo cáo được thiết kế để xác định loại tính cách, điểm mạnh và sở thích của một người. Bảng câu hỏi được phát triển bởi Isabel Myers và mẹ cô là Katherine Briggs dựa trên nghiên cứu của họ với lý thuyết của Carl Jung về các kiểu tính cách. Ngày nay, MBTI là một trong những công cụ tâm lý được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Trắc nghiệm MBTI là gì? MIBT test hay trắc nghiệm tính cách, trắc nghiệm nghề nghiệp là một phương pháp dùng các câu hỏi trắc nghiệm nhằm kiểm tra tâm lí, tính cách, phẩm chất, hay tài năng của một người dựa trên đáp án mà người đó chọn. Trắc nghiệm tính cách MBTI nhấn mạnh vào sự khác biệt về mặt tư duy của từng người dựa trên câu trả lời của họ. Và ra những cá tính, tính cách riêng biệt của từng người. Từ đó giúp họ ra quyết định trong cuộc đời, sự nghiệp dễ dàng và chính xác hơn. Sự phát triển của thử nghiệm Myers-Briggs Cả Myers và Briggs đều bị cuốn hút bởi lý thuyết của Jung về các loại tâm lý và nhận ra rằng lý thuyết này có thể có các ứng dụng trong thế giới thực. Trong Thế chiến thứ hai, họ bắt đầu nghiên cứu và phát triển một chỉ số có thể được sử dụng để giúp hiểu những khác biệt của từng cá nhân. Bằng cách giúp mọi người hiểu bản thân, Myers và Briggs tin rằng họ có thể giúp mọi người lựa chọn nghề nghiệp phù hợp nhất với kiểu tính cách của họ và có cuộc sống khỏe mạnh, hạnh phúc hơn. Myers đã tạo ra phiên bản bút chì đầu tiên của hành trang trong những năm 1940, và hai người phụ nữ bắt đầu thử nghiệm đánh giá trên bạn bè và gia đình. Họ tiếp tục phát triển đầy đủ nhạc cụ trong hai thập kỷ tiếp theo. Tổng quan về trắc nghiệm nghề nghiệp MBTI Dựa trên câu trả lời cho các câu hỏi trên hành trang, mọi người được xác định là có một trong 16 loại tính cách. Mục tiêu của MBTI là cho phép người trả lời khám phá và hiểu thêm về tính cách của họ bao gồm sở thích, không thích, điểm mạnh, điểm yếu, sở thích nghề nghiệp có thể có và khả năng tương thích với người khác. Không có kiểu tính cách nào là “tốt nhất” hoặc “tốt hơn” so với kiểu tính cách khác. Nó không phải là một công cụ được thiết kế để tìm kiếm các rối loạn hoặc bất thường. Thay vào đó, mục tiêu của nó chỉ đơn giản là giúp bạn tìm hiểu thêm về bản thân. Bản thân bảng câu hỏi được tạo thành từ bốn thang đo khác nhau. Hướng ngoại (E) – Hướng nội (I) Sự phân đôi hướng ngoại – hướng nội lần đầu tiên được Jung khám phá trong lý thuyết về các loại tính cách của ông như một cách để mô tả cách mọi người phản ứng và tương tác với thế giới xung quanh. Mặc dù những thuật ngữ này quen thuộc với hầu hết mọi người, nhưng cách chúng được sử dụng trong MBTI hơi khác so với cách sử dụng phổ biến của chúng. Người hướng ngoại (cũng thường được đánh vần là người hướng ngoại) “hướng ngoại” và có xu hướng hành động, thích giao tiếp xã hội thường xuyên hơn và cảm thấy tràn đầy năng lượng sau khi dành thời gian cho người khác. Người hướng nội “hướng nội” và có xu hướng định hướng suy nghĩ, thích các tương tác xã hội sâu sắc và có ý nghĩa, đồng thời cảm thấy nạp năng lượng sau khi dành thời gian ở một mình. Tất cả chúng ta đều thể hiện sự hướng ngoại và hướng nội ở một mức độ nào đó, nhưng hầu hết chúng ta đều có xu hướng có sở thích chung cho cái này hay cái kia. Cảm nhận (S) – Trực giác (N) Thang đo này liên quan đến việc xem xét cách mọi người thu thập thông tin từ thế giới xung quanh họ. Cũng giống như hướng ngoại và hướng nội, tất cả mọi người đều dành một khoảng thời gian để cảm nhận và khám phá tùy theo tình huống. Theo MBTI, mọi người có xu hướng chiếm ưu thế trong lĩnh vực này hay lĩnh vực khác. Những người thích cảm nhận có xu hướng chú ý nhiều đến thực tế, đặc biệt là những gì họ có thể học được từ các giác quan của chính mình. Họ có xu hướng tập trung vào các sự kiện và chi tiết và thích trải nghiệm thực tế. Những người thích trực giác quan tâm nhiều hơn đến những thứ như mẫu và ấn tượng. Họ thích suy nghĩ về các khả năng, tưởng tượng về tương lai và các lý thuyết trừu tượng. Suy nghĩ (T) – Cảm nhận (F) Thang đo này tập trung vào cách mọi người đưa ra quyết định dựa trên thông tin mà họ thu thập được từ các chức năng cảm nhận hoặc trực giác của họ. Những người thích suy nghĩ chú trọng nhiều hơn vào các sự kiện và dữ liệu khách quan. Họ có xu hướng nhất quán, logic và không cá tính khi cân nhắc một quyết định. Những người thích cảm giác có nhiều khả năng cân nhắc con người và cảm xúc khi đi đến kết luận. Đánh giá (J) – Nhận thức (P) Thang đo cuối cùng liên quan đến cách mọi người có xu hướng đối phó với thế giới bên ngoài. Những người nghiêng về phán đoán thích cấu trúc và quyết định chắc chắn. Những người nghiêng về nhận thức thường cởi mở, linh hoạt và dễ thích nghi hơn. Hai khuynh hướng này tương tác với các thang đo khác. Hãy nhớ rằng, tất cả mọi người ít nhất dành một chút thời gian để hướng ngoại. Thang đo nhận thức đánh giá giúp mô tả liệu bạn có hướng ngoại khi tiếp nhận thông tin mới (cảm nhận và suy nghĩ) hay khi bạn đưa ra quyết định (suy nghĩ và cảm nhận). Các loại MBTI Mỗi loại sau đó được liệt kê bằng mã bốn chữ cái của nó: ISTJ – Thanh tra ISTP – Người chế tạo ISFJ – Người bảo vệ ISFP – Nghệ sĩ INFJ – Người ủng hộ INFP – Người hòa giải INTJ – Kiến trúc sư INTP – Nhà tư tưởng ESTP – Người thuyết phục ESTJ – Giám đốc ESFP – Người biểu diễn ESFJ – Người chăm sóc ENFP – Nhà vô địch ENFJ – Người cho ENTP – Người tranh luận ENTJ – Chỉ huy Sử dụng Chỉ báo Loại Myers-Briggs có thể cung cấp nhiều thông tin chi tiết về tính cách của bạn, đó có thể là lý do tại sao công cụ này trở nên vô cùng phổ biến. Ngay cả khi không sử dụng bảng câu hỏi chính thức, bạn có thể ngay lập tức nhận ra một số khuynh hướng này ở bản thân. Theo Myers & Briggs Foundation, điều quan trọng cần nhớ là tất cả các loại đều bình đẳng và mọi loại đều có giá trị. Ví dụ, khi làm việc trong các tình huống nhóm ở trường hoặc tại nơi làm việc, việc nhận ra điểm mạnh của bản thân và hiểu điểm mạnh của người khác có thể rất hữu ích. Khi bạn đang làm việc để hoàn thành một dự án với các thành viên khác của nhóm, bạn có thể nhận ra rằng một số thành viên trong nhóm có kỹ năng và tài năng trong việc thực hiện các hành động cụ thể. Bằng cách nhận ra những khác biệt này, nhóm có thể phân công nhiệm vụ tốt hơn và cùng nhau đạt được mục tiêu của mình. MBTI khác biệt như thế nào với các công cụ khác Đầu tiên, MBTI không thực sự là một “bài kiểm tra”. Không có câu trả lời đúng hay sai và một loại không tốt hơn bất kỳ loại nào khác. Mục đích của chỉ báo không phải để đánh giá sức khỏe tâm thần hoặc đưa ra bất kỳ loại chẩn đoán nào. Ngoài ra, không giống như nhiều loại đánh giá tâm lý khác, kết quả của bạn không được so sánh với bất kỳ tiêu chuẩn nào. Thay vì nhìn vào điểm số của bạn so với kết quả của người khác, mục tiêu của công cụ chỉ là cung cấp thêm thông tin về tính cách độc đáo của bạn. Độ tin cậy và tính hợp lệ Theo Myers & Briggs Foundation, MBTI đáp ứng các tiêu chuẩn được chấp nhận về độ tin cậy và hiệu lực . Tuy nhiên, các nghiên cứu khác đã phát hiện ra rằng độ tin cậy và tính hợp lệ của công cụ này vẫn chưa được chứng minh đầy đủ. Các nghiên cứu đã phát hiện ra rằng từ 40% đến 75% người được hỏi nhận được một kết quả khác sau khi hoàn thành kiểm kê lần thứ hai. Một cuốn sách năm 1992 của Ủy ban về Kỹ thuật Nâng cao Hiệu suất Con người và Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia cho rằng “không có nghiên cứu đầy đủ, được thiết kế tốt để biện minh cho việc sử dụng MBTI trong các chương trình tư vấn nghề nghiệp. Phần lớn bằng chứng hiện tại dựa trên phương pháp luận không đầy đủ. MBTI Hôm nay Bởi vì Myers-Briggs Personality Indicator tương đối dễ sử dụng, nó đã trở thành một trong những công cụ tâm lý phổ biến nhất đang được sử dụng hiện nay. Khoảng hai triệu người trưởng thành ở Mỹ hoàn thành kiểm kê mỗi năm. Mặc dù có nhiều phiên bản MBTI trực tuyến, cần lưu ý rằng bất kỳ bảng câu hỏi không chính thức nào mà bạn có thể tìm thấy trên Internet chỉ là những điều gần đúng với thực tế. MBTI thực phải được quản lý bởi một học viên được đào tạo và đủ điều kiện, bao gồm cả việc theo dõi kết quả. Ngày nay, bảng câu hỏi có thể được quản lý trực tuyến thông qua nhà xuất bản công cụ, CPP, Inc., và bao gồm việc nhận được giải thích chuyên nghiệp về kết quả của bạn. Phiên bản hiện tại của Myers-Briggs Type Indicator bao gồm 93 câu hỏi lựa chọn bắt buộc ở phiên bản Bắc Mỹ và 88 câu hỏi lựa chọn bắt buộc ở phiên bản châu Âu. Đối với mỗi câu hỏi, có hai phương án khác nhau mà người trả lời phải chọn. Bốn kiểu tính cách cơ bản Hầu hết các cá nhân có xu hướng có các khía cạnh trong tính cách của họ đồng nhất với mỗi trong bốn tính khí. Tuy nhiên, thường có một hoặc hai khí chất chính được hiển thị ở mức cao hơn đáng kể. Một cá nhân có thể là bất kỳ sự kết hợp nào của bốn loại sau. Lạc quan loại cá được mô tả chủ yếu như là rất thích trò chuyện, nhiệt tình, năng động, và xã hội. Sanguines có xu hướng hướng ngoại hơn và thích trở thành một phần của đám đông; họ thấy rằng hòa đồng, hướng ngoại và lôi cuốn là điều dễ dàng đạt được. Những người có tính cách này gặp khó khăn khi không làm gì và tham gia vào hành vi tìm kiếm rủi ro nhiều hơn. Những người choleric có xu hướng hướng ngoại hơn. Họ được mô tả là độc lập, quyết đoán, có mục tiêu và tham vọng. Những điều này kết hợp với quan điểm chủ đạo, định hướng kết quả khiến họ trở thành những nhà lãnh đạo bẩm sinh. Trong tư tưởng Hy Lạp, Trung cổ và Phục hưng, họ cũng bạo lực, hay báo thù và nóng tính. Những người u sầu thường có xu hướng phân tích và chi tiết, và họ là những người suy nghĩ và cảm nhận sâu sắc. Họ sống nội tâm và cố gắng tránh bị lẻ loi trong đám đông. Tính cách đa sầu đa cảm dẫn đến những cá nhân tự chủ, hay suy nghĩ, dè dặt và thường lo lắng. Họ thường phấn đấu cho sự hoàn hảo bên trong bản thân và môi trường xung quanh, điều này dẫn đến hành vi ngăn nắp và hướng đến chi tiết. Những cá nhân có xu hướng thoải mái, ôn hòa, ít nói và dễ gần. Họ thông cảm và quan tâm đến người khác, tuy nhiên họ cố gắng che giấu cảm xúc của mình. Những người theo chủ nghĩa thực tế cũng rất giỏi trong việc đưa ra những ý tưởng hoặc vấn đề chung cho thế giới và đưa ra những thỏa hiệp. BẮT ĐẦU Test Nhanh 3S Test IQ Test EQ Test DISC Sinh trắc vân tay Trắc Nghiệm MBTI Trắc Nghiệm Holland ID Danh mục: 1: Xem mã 2: Xem mã 3: Xem mã 4: Xem mã 5: Xem mã 6: Xem mã Chúng tôi Blog Giới thiệu Liên hệ Chính sách bảo mật Sitemap Partner – testiqfree.com © 2021 Test Nhanh 3S • Built with GeneratePress
1610704847953.98.parquet/28611
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 9883, "url": "https://www.rhumsaintaubin.com/mbti/" }
134.9
Điều khoản sử dụng Kí tự đặc biệt Tạo font chữ đẹp Icon Facebook Biểu tượng cảm xúc Chữ nghệ thuật Kí hiệu Wiki Điều khoản sử dụng Điều khoản sử dụng Chào mừng bạn đến với https://kituaz.com Nếu bạn sử dụng trang web này có nghĩa là bạn cần phải tuân theo những điều kiện sử dụng mà chúng tôi quy định tại đây. Điều này nhằm đảm bảo lợi ích cho 2 bên. Do đó, nếu bạn không hài lòng với bất kỳ điều khoản nào dưới đây thì xin bạn hãy ngừng sử dụng trang web của chúng tôi. 1. Nội dung của trang web này có thể được sửa đổi mà không cần báo trước. Các thông tin trên trang này chỉ mang tính chất tổng quát, bạn có thể tham khảo nội dung không giới hạn. 2. Nội dung trên trang web này được xây dựng dựa trên ban quản trị. Nhưng không đảm bảo tính chính xác, kịp thời, đầy đủ. Bạn phải thừa nhận chúng tôi được miễn mọi trách nhiệm đối với bất kỳ thông tin không chính xác nào đến mức tối đa theo sự cho phép của pháp luật. 3. Việc bạn sử dụng thông tin trên trang web này là trách nhiệm hoàn toàn thuộc về bạn. Chúng tôi không chịu bất cứ thiệt hại nào xảy ra đối với bạn. 4. Nội dung được chúng tôi xây dựng do đó được sở hữu bởi chúng tôi. Sự sở hữu bao gồm, nhưng không giới hạn nội dung, giao diện đồ họa, thiết kế, bố trí và bố cục website. Bạn không có quyền sử dụng lại những nội dung từ trang web của chúng tôi để thực hiện các hoạt động thương mại. Đồng thời chúng tôi cũng không chịu bất cứ trách nhiệm trực tiếp cũng như gián tiếp nếu bạn sử dụng nội dung trên trang web này và gây thiệt hại cho bên thứ ba. 5. https://kituaz.com có thể liên kết với nhiều website khác. Chúng tôi không chịu bất cứ trách nhiệm gì về nội dung của những trang web được liên kết từ trang web của chúng tôi. Những điều khoản sử dụng có thể thay đổi mà không cần báo trước, chúng tôi cũng không chịu trách nhiệm cho bất cứ sự thay đổi nào. Do đó, bạn hãy tham khảo kỹ nội dung chính sách và điều khoản sử dụng đối với trang web này. Rất mong bạn tìm kiếm được những thông tin hữu ích cho mình. Xin chân thành cảm ơn! Cập nhật ngày 02-01-2021 Copyright 2020 Kituaz.com Liên Hệ Điều khoản Chính sách email
1610704847953.98.parquet/57711
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 1816, "url": "https://kituaz.com/p/dieu-khoan-su-dung" }
134.8
Dấu hiệu yếu sinh lý ở nữ giới là gì? 6 Cách điều trị hiệu quả Danh Mục Bệnh Bệnh Phụ KhoaBệnh Nam KhoaCẩm Nang Bệnh Giới ThiệuLiên Hệ MENU Dấu hiệu yếu sinh lý ở nữ giới là gì? 6 Cách điều trị hiệu quả Chuyên mục Bệnh Phụ Khoa Dấu hiệu yếu sinh lý ở nữ giới như thế nào?✅⭐️✅⭐️✅Cách điều trị hiệu quả là câu hỏi mà đại đa số chị em chúng ta đữa ra. Bởi yếu sinh lý không chỉ xảy ra ở nam giới mà các chị em cũng có thể gặp phải tình trạng này. Vậy yếu sinh lý ở nữ là như thế nào, làm cách nào để nhận biết dấu hiệu yếu sinh lý ở nữ và có những cách nào để điều trị yếu sinh lý hiệu quả? Nếu bạn đang quan tâm vấn đề này, hãy cùng theo dõi bài viết dưới đây nhé! Yếu sinh lý nữ là gì? Yếu sinh lý ở nữ còn có cách gọi khác là lãnh cảm. Đây là tình trạng nữ giới không còn hứng thú, mất cảm giác hay thậm chí là sợ hãi khi quan hệ tình dục với nửa kia của mình. Khi nhắc đến yếu sinh lý, thông thường người ta chỉ nhắc đến yếu sinh lý nam giới là nhiều bởi các triệu chứng biểu hiện khá rõ ràng. Còn yếu sinh lý nữ dường như còn khá mơ hồ vì không xác định được rõ ràng triệu chứng. Chính vì thế, bệnh yếu sinh lý ở nữ giới thường hay bị chủ quan bỏ qua. Lâu dần gây ra ảnh hưởng tới chất lượng đời sống tình dục cũng như khả năng sinh sản của nữ giới, làm rạn vỡ hạnh phúc gia đình. Dấu hiệu yếu sinh lý ở nữ Dấu hiệu yếu sinh lý ở nữ thường khá mờ nhạt so với nam giới. Chưa kể mức độ triệu chứng và biểu hiện lâm sàng còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Tuy nhiên, nếu chú ý quan sát một số dấu hiệu sau, nam giới có thể nhận biết được thế nào là yếu sinh lý ở nữ mà bạn đời của mình đang mắc phải. Giảm ham muốn hoặc không còn ham muốn tình dục Đây là dấu hiệu yếu sinh lý ở nữ có thể nhận thấy rõ nhất. Nội tiết tố mất cân bằng khiến nữ giới cảm thấy mệt mỏi, kém sức sống và ít nghĩ đến chuyện tình dục. Tình trạng này thường hay gặp nhất ở phụ nữ sau sinh hoặc đang trong độ tuổi tiền mãn kinh. Ngoài ra, tinh thần bất ổn, áp lực công việc, mâu thuẫn tình cảm cũng khiến cho nữ giới suy giảm ham muốn tình dục. Dấu hiệu yếu sinh lý ở nữ giới như thế nào cách điều trị Yếu sinh lý dẫn đến âm đạo khô Thông thường, khi có ham muốn và kích thích tình dục, niêm mạc âm đạo sẽ tiết dịch nhờn ra làm ẩm, mềm vùng kín giúp dương vật nam giới dễ thâm nhập được vào âm đạo. Khi không có ham muốn hoặc nồng độ nội tiết tố suy giảm, âm đạo nữ giới sẽ rơi vào trạng thái “khô hạn”, cảm thấy đau rát, khó chịu khi quan hệ tình dục. Khó đạt được cực khoái là dấu hiệu của bệnh yếu sinh lý Nữ giới bị yếu sinh lý thường có nhu cầu tình dục thấp, vùng kín đau rát, khô hạn gây khó chịu khi quan hệ tình dục. Đa số nữ giới khi gặp phải tình trạng này thường có xu hướng “chiều” chồng/bạn tình theo nghĩa vụ để làm hài lòng và nhanh chóng kết thúc hoạt động tình dục. Đau rát khi quan hệ tình dục Nữ giới đang mắc phải bệnh lý phụ khoa, bệnh lây truyền qua đường tình dục, hay cơ quan sinh dục bị dị tật bẩm sinh như hẹp âm đạo, âm vật bé hoặc có mô sẹo do di chứng phẫu thuật các cơ quan sinh dục thường cảm thấy đau rát vùng kín khi quan hệ tình dục. Điều này khiến cho chị em khó chịu, giảm hứng thú, khoái cảm khi quan hệ tình dục. Thể trạng kém là do yếu sinh lý Những nữ giới có chức năng sinh lý khỏe mạnh thường có sức khỏe tốt, thân hình hấp dẫn và săn chắc. Và ngược lại, những nữ giới yếu sinh lý đều có thể trạng kém, yếu ớt, cơ thể thiếu sự linh hoạt, kém uyển chuyển khi quan hệ tình dục. Biểu hiện yếu sinh lý là vòng 1 và vòng 3 thiếu săn chắc Vòng 1 và vòng 3 là một trong những điểm hấp dẫn ở nữ giới thu hút ánh nhìn và tăng ham muốn ở nam giới. Có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, nữ giới có vòng 1 và vòng 3 nảy nở, săn chắc có nồng độ hormone sinh dục estrogen sinh dục khá cao. Khi nồng độ hormone này suy giảm, ngoài việc chức năng sinh lý giảm, vòng 1 và vòng 3 sẽ bị chảy xệ, thiếu săn chắc, không còn đủ hấp dẫn cũng sẽ khiến nữ giới cảm thấy tự ti với bạn đời của mình, giảm ham muốn tình dục. Tăng kích thước vòng 2 Quan hệ tình dục không chỉ đem lại cảm xúc thăng hoa mà còn giúp nữ giới đốt cháy năng lượng dư thừa, duy trì hình thể cân đối, quyến rũ. Vì thế, nữ giới có tần suất quan hệ thấp vòng 2 sẽ có xu hướng gia tăng. Chưa kể, nồng độ nội tiết tố nữ suy giảm cũng tác động phần nhiều khiến cho nữ giới trở nên kém sắc, hình thể kém hấp dẫn. Tâm lý căng thẳng, dễ cáu cáu gắt Tính cách thay đổi thất thường, dễ căng thẳng, cáu gắt cũng là một dấu hiệu yếu sinh lý ở nữ. Nữ giới có đời sống tình dục viên mãn thường có mức độ căng thẳng ít hơn so với nữ giới bị yếu sinh lý. Nguyên nhân là do khi đạt được khoái cảm, thăng hoa khi quan hệ tình dục, cơ thể sẽ tăng tiết hormon endorphin giúp giảm căng thẳng, nâng cao tinh thần. Ngược lại, nữ giới yếu sinh lý có xu hướng lo âu quá mức, căng thẳng kéo dài, dễ cáu gắt. Vì thế, nếu quan hệ thường xuyên với tần suất vừa phải, nữ giới vừa có thể đảm bảo sức khỏe vừa giải phóng được những tiêu cực, căng thẳng, tạo tinh thần hứng khởi. Rối loạn kinh nguyệt là dấu hiệu yếu sinh lý ở nữ giới Rối loạn kinh nguyệt là dấu hiệu yếu sinh lý ở nữ giới Kinh nguyệt được coi như tín hiệu thông báo những dấu hiệu bất thường đang xảy ra trong cơ thể nữ giới. Nữ giới có chức năng sinh lý khỏe mạnh có chu kỳ kinh nguyệt khá đều đặn, trong khi đó nữ giới bị yếu sinh lý thường có chu kỳ kinh nguyệt không ổn định. Máu kinh ra nhiều hơn so với bình thường là một trong những biểu hiện của rối loạn kinh nguyệt. Nếu nữ giới bị yếu sinh máu kinh ra nhiều bất thường sẽ khiến cơ thể suy nhược, hay mệt mỏi, buồn nôn, hay cáu gắt. Dễ mắc bệnh phụ khoa Nội tiết tố sụt giảm khiến âm đạo nữ giới thường trong tình trạng khô ráp, ngứa ngáy. Môi trường âm đạo bị mất cân bằng là điều kiện thuận lợi cho các vi khuẩn, nấm dễ xâm nhập và phát triển gây ra các bệnh lý viêm nhiễm phụ khoa. Hay đổ mồ hôi, tóc rụng nhiều Nồng độ estrogen và progesterone suy giảm ở nữ giới mãn kinh khiến cho phụ nữ độ tuổi này giảm ham muốn tình dục, cùng với đó là triệu chứng tóc rụng nhiều, cơ thể bốc hỏa dễ đổ mồ hôi. Ngoài ra, nữ giới hay gặp căng thẳng, cơ thể suy nhược, căng thẳng thần kinh cũng gián tiếp tác động đến chức năng của buồng trứng khiến nồng độ estrogen giảm, dẫn đến giảm ham muốn tình dục ở nữ giới. Da sạm và kém mịn màng Nữ giới yếu sinh lý do nồng độ nội tiết tố bất ổn, sức khỏe kém thường có làn da sạm nám, kém mịn màng, nhiều nếp nhăn. Ngoài ra, nhiều nghiên cứu cho rằng nữ giới ít quan hệ tình dục có thể khiến cho làn da trở nên kém mịn màng. Bởi lẽ, các hormone và chất dẫn truyền thần kinh được sản sinh ra trong quá trình hoạt động tình dục có khả năng tăng lượng collagen giúp nuôi dưỡng làn da mịn màng, khỏe mạnh và làm chậm quá trình lão hóa. Đau nhức xương khớp Sụt giảm estrogen ở nữ giới không chỉ ảnh hưởng tới chức năng sinh lý mà còn ảnh hưởng tới quá trình phát triển và duy trì khối xương gây ra triệu chứng đau nhức xương khớp, mỏi vải, gặp khó khăn khi vận động. Giảm khả năng thụ thai Nồng độ nội tiết tố bất ổn khiến cho môi trường âm đạo mất ổn định, lượng dịch nhầy suy giảm khiến cho quá trình di chuyển của tinh trùng vào tử cung gặp khó khăn. Nên nữ giới bị yếu sinh lý thường khó thụ thai hơn so với nữ giới có chức năng sinh lý bình thường. Ngoài ra, suy giảm chức năng sinh lý khiến cho nữ giới ít có ham muốn tình dục, tần suất quan hệ tình dục giảm là nguyên nhân gián tiếp khiến cho vợ chồng khó có con. Nguyên nhân dẫn đến yếu sinh lý nữ ở nữ là: Bệnh lý ở nữ giới Suy giảm nồng độ hormone estrogen và progesterone khiến nữ giới giảm ham muốn tình dục, cơ thể mệt mỏi, tâm lý bất ổn. Nguyên nhân này xuất hiện phổ biến ở nữ giới đang trong độ tuổi tiền mãn kinh. Các bệnh lý phụ khoa như viêm âm đạo, viêm vùng chậu, ung thư cổ tử cung,... khiến cho âm đạo nữ giới ngứa ngáy, đau rát nhất là khi quan hệ tình dục. Cùng với đó, nữ giới bị bệnh phụ khoa thường cảm thấy thiếu tự tin khi ‘làm chuyện ấy” và lâu dần khiến họ không còn ham muốn tình dục. Chính vì thế, nữ giới mắc bệnh phụ khoa có nguy cơ cao bị yếu sinh lý. Nữ giới bị dị tật cơ quan sinh dục như âm đạo hẹp/ngắn, âm vật bé thường gặp khó khăn trong quan hệ tình dục; vùng kín dễ bị ngứa ngáy, đau rát, chảy máu khi “ân ái”. Nữ giới đang mắc các bệnh lý mãn tính như tiểu đường, cao huyết áp, viêm khớp, ung thư,... có thể tác động tiêu cực đến chức năng tình dục. Yếu tố tâm lý Nhiều nghiên cứu cho thấy, có đến 90% nữ giới bị yếu sinh lý do nguyên nhân tâm lý tác động. Nguyên nhân dẫn đến yếu sinh lý nữ Nữ giới gặp phải những vấn đề tiêu cực trong cuộc sống như áp lực gia đình, công việc bận rộn, vợ chồng mâu thuẫn thường không còn hứng thú, ham muốn quan hệ tình dục. Nữ giới sợ hãi quan hệ tình dục do những ám ảnh tâm lý như bị cưỡng hiếp, mặc cảm vì những khiếm khuyết của bản thân. E ngại khi quan hệ tình dục do kỹ năng quan hệ tình dục kém. Ảnh hưởng từ đời sống, thói quen sinh hoạt Thực tế cho thấy, nữ giới thường xuyên dung nạp thức ăn nhanh, chất kích thích, đồ uống có cồn có nguy cơ cao bị mắc các bệnh mãn tính gây ra yếu sinh lý. Một số loại thuốc điều trị như thuốc an thần, thuốc giảm đau, thuốc điều trị huyết áp,... nếu sử dụng sai cách sẽ gây ra tác dụng ảnh hưởng tới chức năng sinh lý nữ giới. Những chị em có thói quen hay thức khuya, hay không ngủ đủ giấc sẽ khiến cho buồng trứng giảm sản xuất hormone gây ra giảm ham muốn tình dục, cơ thể mệt mỏi. Đời sống tình dục phóng túng, quan hệ tình dục quá mức, quan hệ không an toàn có thể làm suy giảm chức năng sinh lý và khả năng sinh sản ở nữ giới. Các sản phẩm hỗ trợ kích thích tình dục như gel bôi trơn, thuốc kích dục, bao cao su có gai sẽ giúp cho cả nữ giới và nửa kia dễ dàng đạt khoái cảm, thăng hoa cảm xúc khi quan hệ. Tuy nhiên nếu lạm dụng quá mức nữ giới giảm hứng thú khi quan hệ tình dục thông thường khi không có các sản phẩm này hỗ trợ. Cách điều trị yếu sinh lý ở nữ giới Để khắc phục tình trạng yếu sinh lý ở nữ giới, cần phải dựa vào nguyên nhân gây bệnh và tình trạng đang mắc phải. Khi nghi ngờ bản thân đang gặp phải tình trạng yếu sinh lý, nữ giới nên tìm gặp các bác sĩ chuyên sản phụ khoa để được thăm khám, chẩn đoán kết quả và chỉ định phương pháp, cách chữa yếu sinh lý ở nữ phù hợp. Cách điều trị yếu sinh lý ở nữ giới bằng biện pháp tâm lý Trong trường hợp nữ giới yếu sinh lý do nguyên nhân căng thẳng, trầm cảm, ám ảnh chuyện tình dục thường được chỉ định điều trị bằng biện pháp tâm lý. Mục đích của việc điều trị bằng liệu pháp tâm lý sẽ giúp cho nữ giới loại bỏ những cảm xúc tiêu cực, thay đổi nhận thức, cải thiện cảm xúc và những hành vi bất thường. Ngoài ra, khi thực hiện liệu pháp tâm lý chị em có thể chia sẻ với bác sĩ để có những lời tư vấn giúp cải thiện kỹ năng tình dục. Điều trị yếu sinh lý ở nữ giới bằng thuốc Điều trị yếu sinh lý ở nữ giới bằng thuốc Đa số nữ giới bị yếu sinh lý đều bắt nguồn từ sự sụt giảm và mất cân bằng nội tiết tố. Tùy vào mức độ thiếu hụt nồng độ hormone estrogen và progesterone , các chị em có thể được bác sĩ chỉ định một số loại thuốc có tác dụng điều trị yếu sinh lý ở nữ giới: Thuốc bổ sung nội tiết Loại thuốc này có tác dụng cân bằng hormone estrogen và progesterone giúp tăng cường sinh lý nữ, giảm các triệu chứng như khô âm đạo, đau nhức xương khớp, cải thiện tóc và da. Đối với nữ giới đang trong giai đoạn tiền mãn kinh, mãn kinh, bị suy buồng trứng hoặc phải cắt bỏ buồng trứng thường được áp dụng cách điều trị này. Thuốc hỗ trợ tăng cường sinh lý nữ So với thuốc bổ sung nội tiết tố, thuốc hỗ trợ tăng cường sinh lý nữ có độ an toàn cao và phù hợp với nhiều đối tượng sử dụng, bởi vì thành phần của thuốc đều là các loại thảo dược tự nhiên lành tính. Những loại thảo dược này có tác dụng thúc đẩy khả năng sản sinh nội tiết tố nữ, cải thiện chức năng sinh lý. Tuy nhiên, thuốc hỗ trợ tăng cường sinh lý có hiệu quả khá là chậm. Lưu ý: khi sử dụng thuốc điều trị sinh lý ở nữ giới, các chị em cần sử dụng theo sự hướng dẫn và liều lượng bác sĩ chỉ định. Không nên tự ý mua thuốc hay bỏ dở thuốc giữa chừng, tránh trường hợp thuốc gây ra tác dụng phụ hoặc không đạt được hiệu quả như mong muốn. Cách chữa yếu sinh lý ở nữ bằng can thiệp ngoại khoa Nếu nữ giới được chẩn đoán yếu sinh lý do dị tật cơ quan sinh dục bẩm sinh, bác sĩ sẽ cân nhắc thực hiện phẫu thuật khắc phục dị tật. Ngoài ra, phương pháp can thiệp ngoại khoa cũng có thể áp dụng với nhiều chị em muốn chỉnh sửa “cô bé” như thu hẹp vùng kín (đối với nữ giới âm đạo bị rộng gây mất cảm giác khi dương vật thâm nhập), làm hồng vùng kín (do bẩm sinh hay quan hệ tình dục quá nhiều),... Việc thực hiện can thiệp phẫu thuật cần thực hiện tại các bệnh viện, phòng khám sản phụ khoa uy tín, hạn chế rủi ro và biến chứng sau khi phẫu thuật. Xây dựng lối sống lành mạnh cải thiện yếu sinh lý nữ Xây dựng lối sống lành mạnh cải thiện yếu sinh lý nữ Bên cạnh việc can thiệp các biện pháp y tế hỗ trợ cân bằng nội tiết tố và chức năng tình dục thì việc thực hiện chế độ chăm sóc sức khỏe khoa học sẽ thúc đẩy quá trình điều trị diễn ra nhanh, hiệu quả hơn, tăng cường sức khỏe, làm chậm quá trình lão hóa và giảm rối loạn chức năng sinh lý. Ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng, tăng cường bổ sung các loại thực phẩm cải thiện nội tiết tố nữ như hải sản, các loại rau xanh, các loại hạt, hoa quả,... Những loại thực phẩm này ngoài việc hỗ trợ cải thiện khả năng tình dục mà chế độ ăn uống khoa học còn giúp nữ giới tăng cường sức khỏe và hệ miễn dịch. Tránh sử dụng các loại thực phẩm chiên xào, nhiều dầu mỡ, đồ ăn nhanh vì có thể gây ra các bệnh lý như béo phì, huyết áp, mỡ máu ở nữ giới, dẫn đến triệu chứng yếu sinh lý. Đồng thời, những loại đồ ăn đóng hộp, đồ chế biến sẵn đều không đảm bảo cung cấp đủ dinh dưỡng cho cơ thể, dễ gây ra tình trạng cơ thể bị suy nhược, mệt mỏi, giảm ham muốn tình dục. Không nên sử dụng các chất kích thích, thức uống có cồn vì những thứ này có thể ảnh hưởng tới hệ thần kinh gây suy giảm chức năng sinh lý nữ giới. Sắp xếp thời gian làm việc và nghỉ ngơi hợp lý nhằm hạn chế căng thẳng, đảm bảo sức khỏe. Nên ngủ đủ giấc ít nhất là 8 tiếng mỗi ngày, tập thói quan không thức khuya để hormone trong cơ thể luôn được cân bằng. Các bạn nữ có thể giải tỏa căng thẳng bằng cách nghe nhạc, đọc sách, xem phim, gặp gỡ người thân để tâm sự, chia sẻ tâm tư với bạn đời để cả hai thấu hiểu nhau hơn. Mỗi khi mệt mỏi, căng thẳng sau một ngày làm việc vất vả, các chị em có thể sử dụng các loại tinh dầu thơm để trong phòng. Những loại tinh dầu thơm được chiết xuất từ sả, cam, bưởi, dầu dừa, hoa nhài có tác dụng làm thư giãn tinh thần rất tốt. Quan hệ tình dục chung thủy, quan hệ với tần suất phù hợp, tốt nhất là 2 - 3 lần/ tuần đảm bảo chức năng tình dục ở nữ giới. Tránh lạm dụng thủ dâm, sử dụng các sản phẩm hỗ trợ kích thích tình dục, sử dụng thuốc kích dục vì những hoạt động này lâu dần khiến cho nữ giới bị giảm ham muốn, khó đạt được khoái cảm khi thực hiện quan hệ tình dục trực tiếp. Tập thói quen hoạt động thể dục thể thao. Tập thể dục giúp nữ giới tăng cường sức khỏe, cơ thể săn chắc, dẻo dai, cải thiện xương khớp giúp nữ giới linh hoạt hơn khi “ân ái”. Đồng thời, các hoạt động thể chất cũng có thể làm chậm quá trình lão hóa, cải thiện nồng độ nội tiết tố, giảm căng thẳng và tăng ham muốn tình dục. Mỗi ngày nên dành từ 15 - 30 phút thực hiện một số hoạt động thể thao hỗ trợ cải thiện chức năng tình dục như bơi lội, tập yoga, aerobic, đi bộ. Các chị em cần có thói quen đi khám sức khỏe tổng quát, khám phụ khoa định kỳ 6 tháng/lần. Việc làm này sẽ giúp cho nữ giới phát hiện được các dấu hiệu yếu sinh lý từ sớm và có phương án điều trị kịp thời. Nếu bạn đang mắc các bệnh lý khác ảnh hưởng tới chức năng tình dục, bạn sẽ được chỉ định điều trị triệt để bệnh lý là nguyên nhân dẫn đến yếu sinh lý, hạn chế tình trạng này xảy ra. Nếu bạn đang sử dụng các loại thuốc điều trị bệnh mãn tính có tác dụng phụ ảnh hưởng đến chức năng sinh lý thì nên ngưng thuốc và gặp bác sĩ để được kê đơn thuốc phù hợp. Bên cạnh đó, nữ giới cũng không nên tùy ý sử dụng thuốc điều trị yếu sinh lý mà không có chỉ định liều lượng của bác sĩ, có thể thuốc sẽ không đạt hiệu quả chữa yếu sinh lý như mong muốn hoặc thậm chí gây ra tác dụng phụ ảnh hưởng tới chức năng tình dục. Cần phải làm gì khi vợ hoặc bạn tình của mình bị yếu sinh lý? Yếu sinh lý là nỗi lòng thầm kín của các chị em và khó có thể chia sẻ với bất kỳ ai, nhất là với người đàn ông của cuộc đời mình. Bên cạnh việc chị em tự âm thầm tìm cách điều trị, các quý ông cần thật sự tinh tế để giúp nửa kia của mình vượt qua nỗi khó khăn này. Cần phải làm gì khi vợ hoặc bạn tình của mình bị yếu sinh lý? Các ông chồng có thể chăm chút cho vợ bằng cách bổ sung những loại thực phẩm giúp tăng cường sinh lý nữ trong các bữa ăn hàng ngày. Bên cạnh khả năng cải thiện chức năng sinh lý, chế độ ăn đầy đủ dinh dưỡng sẽ giúp cho nữ giới khỏe mạnh, giảm bớt các ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe. Hỏi han, quan tâm vợ/bạn tình của mình sẽ giúp nữ giới xoa dịu được những căng thẳng trong cuộc sống. Chia sẻ, chuyện trò thân mật hơn với nhau để cả hai thấu hiểu nhau hơn, nhất là trong những chuyện “thầm kín” giữa cả hai. Những cặp đôi có sự tâm đầu ý hợp với nhau trong tư tưởng sẽ dễ dàng kéo dài cảm xúc thăng hoa khi quan hệ tình dục. Công việc thường ngày quá bận rộn nhiều khi làm cho người phụ nữ bỏ qua chuyện tình dục, ít có ham muốn. Chính vì thế, san sẻ công việc gia đình để nữ giới có thời gian nghỉ ngơi, đôi khi massage sẽ giúp cho họ cảm thấy được yêu thương, chiều chuộng. Khi đó có thể tăng cao nhu cầu ham muốn ở nữ giới. Nếu cả hai đang có mâu thuẫn, nên chủ động hơn với phái nữ. Bản thân nữ giới rất dễ mềm lòng khi được chồng/bạn trai dỗ dành. Khi tâm lý căng thẳng được giải tỏa, cảm xúc vui vẻ hạnh phúc sẽ thúc đẩy nữ giới có ham muốn tình dục hơn. Nếu cảm thấy đời sống tình dục cảm thấy nhàm chán, nên có sự trao đổi giữa cả hai để tìm kiếm tư thế quan hệ tình dục mới, thay đổi không gian nhằm tạo cảm giác mới mẻ, tăng sự hứng thú. Thi thoảng, nam giới nên làm một số hành động làm hâm nóng tình cảm cả hai như chủ động nấu ăn, thực hiện các buổi hẹn hò lãng mạn sẽ tăng kích thích ham muốn tình dục ở nữ giới hơn. Trường hợp cả hai không có tiếng nói chung từ cuộc sống thường ngày lẫn đời sống tình dục, có thể tìm gặp bác sĩ tâm lý để được tư vấn. Nam giới nên trở thành nguồn động viên cho nửa kia của mình, cùng vợ đi khám phụ khoa để tìm ra nguyên nhân gây yếu sinh lý, hỗ trợ nữ giới thực hiện điều trị hiệu quả hơn. Dù nữ giới bị yếu sinh lý từ nguyên nhân nào thì cũng cần có sự quan tâm từ chồng/bạn trai của mình. Những sự quan tâm đó sẽ giúp bệnh tình của nữ giới cải thiện đáng kể, đời sống chăn gối nhanh chóng trở lại giai đoạn mặn nồng như trước. Yếu sinh lý ở nữ giới tuy không gây nguy hiểm tới tính mạng nhưng lại ảnh hưởng tới khả năng sinh sản, chất lượng cuộc sống. Do đó, khi nghi ngờ những dấu hiệu yếu sinh lý ở nữ giới, các chị em nên tìm gặp các bác sĩ sản phụ khoa để được thăm khám và điều trị hiệu quả nhất. Mọi thắc mắc xin liên hệ 0366 655 466 để được chuyên gia tư vấn miễn phí. Bài Viết Cùng Chuyên mục Top 10+ địa chỉ khám chữa bệnh yếu sinh lý nam ở đâu Hà Nội uy tín Khám chữa bệnh yếu sinh lý nam ở đâu Hà Nội an toàn?✅bài viết dưới đây là những thông tin hữu ích dành cho bạn đọc hiểu hơn về địa chỉ khám chữa yếu sinh uy tín Tác giả: Tiến sĩ Bác Sĩ: Lê Nhân Tuân Giám đốc Phòng khám Hưng Thịnh Yếu sinh lý là gì? nguyên nhân dấu hiệu triệu chứng & cách chữa hiệu quả Yếu sinh lý nam và cách chữa yếu sinh lý được rất nhiều anh em tìm kiếm để khắc phục tình trạng một cách khách quan nhất để có thể tự tin trước bạn đời của mình Tác giả: Tiến sĩ Bác Sĩ: Lê Nhân Tuân Giám đốc Phòng khám Hưng Thịnh Dấu hiệu yếu sinh lý ở nữ giới là gì? 6 Cách điều trị hiệu quả Dấu hiệu yếu sinh lý ở nữ giới như thế nào?✅⭐️✅⭐️✅6 Cách điều trị hiệu quả sẽ được chuyên gia phòng khám bật mí trong nội dung bài viết này Tác giả: Bác sĩ chuyên sản phụ khoa Trần Thị Thành Bản Quyền thuộc Phòng khám đa khoa Hưng Thịnh 380 Xã Đàn - Đống Đa - Hà Nội
1610704847953.98.parquet/67469
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 18523, "url": "https://phongkhamdakhoahungthinh.webflow.io/blog/dau-hieu-yeu-sinh-ly-o-nu-gioi-la-gi-6-cach-dieu-tri-hieu-qua" }
134.7
About – Beacon Care Services Tiếng Việt Tiếng Việt English Nederlands Español Français Italiano Deutsch Polski Português Tagalog Русский Հայերեն العربية فارسی বাংলা ਪੰਜਾਬੀ 한국어 日本語 简体中文 Chọn ngôn ngữ Beacon Care Services Trang Chủ Trong khoảng Địa điểm Cuộc hẹn Arkansas Cuộc hẹn Georgia Tài nguyên Đặt lịch hẹn Bạn sẽ rời khỏi trang Beacon Care Services để tiếp tục đến công ty đặt lịch hẹn bên ngoài của chúng tôi. Ở lại trang web Tiếp tục Chính sách bảo mật Bạn có quan tâm đến BCS telehealth? Về chúng tôi Tại Beacon Care Services, sứ mệnh của chúng tôi là giúp mọi người sống hết mình với tiềm năng. Chúng tôi sống sứ mệnh đó mỗi ngày. Chúng tôi cam kết cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần thuận tiện và nhân ái trong cộng đồng. Chúng tôi lấy con người làm trung tâm Chúng tôi bắt đầu và kết thúc với những gì khách hàng mong muốn để có sức khỏe tốt hơn. Chúng tôi tập trung vào nhu cầu của họ. Chúng tôi giúp khách hàng hướng tới các giải pháp đáp ứng những nhu cầu đó. Chúng tôi xem các cá nhân là chuyên gia về cuộc sống của chính họ. Công việc của chúng tôi là lắng nghe nhu cầu của họ và giúp hướng đến các nguồn lực phù hợp. Chúng tôi tuân theo thực tiễn dựa trên bằng chứng Chúng tôi tự chịu trách nhiệm để biết phương pháp điều trị tốt nhất hiện có được hỗ trợ bởi bằng chứng khoa học. Beacon liên tục theo dõi các nghiên cứu mới nhất. Chúng tôi đào tạo nhân viên của chúng tôi với thông tin này. Chúng tôi tập trung vào sức khỏe tổng hợp Chúng tôi nhận ra tầm quan trọng của can thiệp “toàn bộ con người / toàn bộ sức khỏe”. Chúng tôi làm việc với một nhóm đa lĩnh vực. Chúng tôi đánh giá một loạt các yếu tố sức khỏe và cuộc sống có thể có. Chúng tôi tìm kiếm các kế hoạch điều trị giải quyết cả những vấn đề rõ ràng và ít rõ ràng hơn. Chúng tôi mong muốn tiếp cận nhanh chóng với dịch vụ chăm sóc hiệu quả Chúng tôi hiểu rằng đôi khi rất khó để đưa ra quyết định tìm kiếm sự chăm sóc. Chúng tôi làm việc để cung cấp phản hồi nhanh chóng cho mọi yêu cầu. Chúng tôi đáp ứng yêu cầu chăm sóc vào ngày làm việc tiếp theo. Nếu bạn đang gặp trường hợp khẩn cấp, vui lòng gọi 911 hoặc đến phòng cấp cứu bệnh viện gần nhất để được hỗ trợ. Chúng tôi cung cấp cho bạn phương pháp điều trị cụ thể cho nhu cầu của bạn Chúng tôi cung cấp một kế hoạch điều trị cá nhân bằng văn bản. Đó là một kế hoạch toàn diện, tiến bộ, được cá nhân hóa. Nó bao gồm tất cả các dịch vụ Sức khỏe Hành vi (BH) theo quy định. Nó tập trung vào bệnh nhân và nhu cầu của họ. Nó cũng tập trung vào việc phục hồi. Nó có thẩm quyền về mặt văn hóa. Kế hoạch giải quyết các mục tiêu và mục tiêu được cá nhân hóa. Nghề nghiệp Chính sách Bảo mật
1610704847953.98.parquet/187684
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 2292, "url": "https://www.beaconcareservices.com/vi/about/" }
133.6
Đề án Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lí kinh tế mới ở nước ta hiện nay - Tài liệu, ebook, giáo trình Trang chủ Đăng ký Đăng nhập Liên hệ Tài liệu - Ebook Thư viện tài liệu, ebook, đồ án, luận văn, giáo trình tham khảo cho học sinh, sinh viên Đề án Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lí kinh tế mới ở nước ta hiện nay MỤC LỤC Trang LỜIMỞĐẦU 1 NỘI DUNG 2 Phần A: Sự cần thiết khách quan của vai trò kinh tế của 2 Nhà nước nói chung I. Lịch sử ra đời và vai trò kinh tế của Nhà nước 2 II. Tính tất yếu khách quan của việc hình thành 3 vai trò kinh tế của Nhà nước Phần B: Sự hình thành cơ chế quản lí mới ở Việt Nam 5 I. Cơ chế quản lí cũ của Việt Nam 5 II. Cơ chế thị trường và sự vận dụng cơ chế thị 7 trường vào Việt Nam Phần C: Sự cần thiết tăng cường vai trò kinh tế của 12 Nhà nước Việt Nam trong cơ chế mới I. Nội dung cơ chế thị trường có sự quản lí của 12 Nhà Nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa II. Mục tiêu và chức năng để quản lí vĩ mô nền 13 kinh tế của Nhà nước Việt Nam III. Công cụ để Nhà nước sử dụng trong quản lí vĩ mô 16 IV. Thực trạng quản lí Nhà nước ở Việt Nam hiện nay 18 V. Các giải pháp cơ bản nhằm tăng cường vai trò 22 kinh tế của Nhà nước KẾT LUẬN 24 28 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Ngày: 29/08/2013 | Lượt xem: 1501 | Lượt tải: 1 Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề án Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lí kinh tế mới ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên ảm khiến cho các doanh nghiệp sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn ,điều đó sẽ khiến nhiều người lao vào thị trường cũng khiến cung cũng tăng lên. +Ba là chính sách thuế: Chính sách thuế của chính phủ có ảnh hưởng quan trọng đến quyết định sản xuất của các hãng do đó ảnh hưởng tới việc cung sản phẩm. Mức thuế cao sẽ làm cho phần thu nhập còn lại của người sản xuất ít đivà họ không có ý muốn cung hàng hoá ,mức thuế thấp sẽ khuyến khích các hãng mở rộng sản xuất làm tăng cung. +Bốn là số lượng người sản xuất:số lượng càng nhiều cung càng lớn. +Năm là các kì vọng, nếu sự mong đợi dự đoán có thuận lợi cho sản suất thì cung sẽ được mở rộng và ngược lại.Sự mong đợi đó có thể về giá cảu hàng hoá, giá của yếu tố sản xuất , chính sách thuế ...đếu có ảnh hưởng đến cung hàng hoá và dịch vụ. Giá cả thị trường là giá cả cần bằng nằm tại điểm lượng cung bằng lượng cầu, tức đạt trạng thái cân bằng cung cầu, việc cung hàng hoá đó đủ để thoả mãn cầu đối với nó trong một thời kỳ nhất định. Đặc điểm quan trong của mức giá cân bằng là nó không được xác định bởi từng cá nhân riêng lẻ mà nó được hình thành bởi hoạt động tập thể của toàn bộ người mua và bán. Đấy là cách quy định giá khách quan theo “Bàn tay vô hình”của cơ chế thị trường. Để đảm bảo cho nền kinh tế thị trường hình thành và phát triển cần có điều kiện sau: + Thứ nhất là phải có nền kinh tế hànghoá phát triển tức phải có sự phân công lao động xã hội phát triển và có hình thức, laọi hình, sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, các đơn vị kinh doanh phải có quyền chủ động sáng tạo. +Thứ hai phải có tự do trao đổi hàng hoá trên thị trường, tự do lựa chọn bạn hàng giữa các chủ thể kinh tế sản xuất kinh doanh. + Thứ ba sản xuất và trao đổi hàng hoá phải tuân theo các quy luật của thị trường theo giá cả thị trường. + Thứ tư là phải tham gia phân công lao động quốc tế, mở rộng quan hệ với bên ngoài, gắn thị trường trong nước với thị trường quốc tế. Trên thế giới đã tồn tại nhiều loại mô hình kinh tế thị trường như sau: - Kinh tế thị trường truyền thống Tây Âu - Kinh tế thị trường kiểu Nhật Bản - Kinh tế thị trường xã hội của cộng hoà liên bang Đức , Thuỵ Điển. - Kinh tế thị trường XHCN củaTrung Quốc - Kinh tế thị trường là sự quản lý của Nhà nước. Trong lịch sử loài người không ở đâu và lúc nào có một hệ thống thị trường thuần tuý. Bất cứ đâu nền kinh tế thị trường nào, người ta cũng thấy được sự hiện diện của vai trò Nhà nước. Nhà nước đã và đang thực hiện một loạt chức năng điều tiết các quan hệ tiền – hàng, tài chính. Hướng tới một trật tự nhất định trong xã hội do bản thân nền kinh tế thị trường có những ưu điểm và khuyết diểm sau: Về ưu thế của nền kinh tế thị trường: +Một là thúc đẩy sản xuất và gắn sản xuất với tiêu thụ, thực hiện mục tiêu sản xuất. Do đó người ta tìm mọi cách rút ngắn chu kỳ sản xuất, thực hiện tái sản xuất mở rộng, áp dụng nhanh chóng sản xuất- khoa học- công nhệ và quay nhanh tiền vốn, đạt tới lợi nhuận tối đa. + Hai là thúc đẩy và đòi hỏi các nhà sản xuất năng động thích nghi với các điều kiện biến động của thị trường. Thay dổi mẫu mã sản xuất, tìm mặt hàng mới và tìm cách đạt được lợi nhuận tối đa. +Ba là thúc đẩy sự tiến bộ khoa học – công nghệ đưa nhanh vào sản xuất, kích thích tăng năng suất lao động nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, đáp ứng nhiều mặt của khách hàng và của thị trường. +Bốn là thúc đẩy quá trình tăng trưởng dồi dào sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, thúc đẩy và kích thích sản xuất hàng hoá, phát triển , đề cao trách nhiệm của nhà kinh doanh với khách hàng, đáp ứng nhu cẩu ngày càng cao của xã hội. +Năm là đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất. Tích tụ và tập trung sản xuất là 2 con đường để mở rộng quy mô sản xuất. Một mặt các đơn vị chủ thể sản xuất kinh doanh làm ăn giỏi có hiệu quả cao, cho phép tích tụ, mở rộng quy mô sản xuất. Mặt khác do quá trình cạnh tranh làm cho sản xuất được tập trung vào các đơn vị kinh tế thực sự ‘ đứng’ được trên thị trường, làm ăn có hiệu quả. Chính quá trình cạnh tranh kinh tế là động lực thúc đẩy tích tụ và tập trung sản xuất. Tuy nhiên, vẫn còn những điểm cần khắc phục sau: + Một là nền kinh tế thị trường mang tính tự phát, tìm kiếm lợi nhuận bất kì giá nào, không đi đúng hướng của kế hoạch Nhà nước, mục tiêu về phát triển kinh tế vĩ mô của nền kinh tế. Tính tự phát của thị trường còn dẫn đến tập trung hoá cao, sinh ra độc quyền thủ tiêu cạnh tranh, làm giảm hiệu quả chung và tính tự điều chỉnh nền kinh tế. +Hai là kinh tế thị trường “ cá lớn nuốt cá bé” dẫn đến phân hoá đời sống dân cư, một bộ phận dẫn đến phá sản, phân hóa giàu- nghèo, dẫn đến khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, không có việc làm và số đông người lao động lâm vào cảnh nghèo khó. +Ba là xã hội phát sinh nhiều tiêu cực, tệ nạn xã hội gắn liền với hiện trang kinh tế sa sút, gây rối loạn xã hội. Nhà kinh doanh tìm đủ thủ đoạn, mánh khoé làm hàng giả, buôn lậu , trốn thuế, ..không từ một thủ đoạn nào để thu được lợi nhuận tối đa. +Bốn là vì lợi ích và lợi nhuận dẫn đến sử dụng bừa bãi, tàn phá tài nguyên và huỷ diệt một cách tàn khốc môi trường sinh thái. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường nước ta còn ở giai đoạn thấp, hệ thống pháp luật thiếu hoàn chỉnh, chưa đồng bộ, những ưu thế chưa thể hiện đầy đủ và rõ rệt, những khuyết tật có cơ hội nảy sinh. Nhà nước cần phải tăng cường điều chỉnh và quản lý vĩ mô một cách kiên quyết và khôn khéo để đưa mọi hoạt động vào khuôn khổ và tuân theo pháp luật. Chính vì vậy, sử dụng “bàn tay hữu hình” của Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc tạo ra hành lang và bước đi cho nền kinh tế thị trường vận động theo định hướng XHCN. 2.Sự vận dụng cơ chế thị trường vào Việt Nam Đất nước ta đang đồng thời diễn ra hai quá trình xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang kinh tế thị trường và xoá bỏ nền kinh tế lạc hậu để phát triển nền kinh tế hàng hoá lớn theo định hướng XHCN. Từ sau đại hội Vi, cơ chế thị trường đã đựoc Đảng ta vận dụng theo các hướng sau: Một là thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, theo nghị quyết của đại hội Đảng lần thứ ĩ, nước ta bao gồm 6 thành phần kinh tế: +Thành phần kinh tế Nhà nước +Thành phần kinh tế cá thể và tiểu chủ +Thành phần kinh tế tư bản tư nhân +Thành phần kinh tế tập thể +Thành phần kinh tế tư bản Nhà nước +Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài Trong các thành phần kinh tế trền thì thành phần kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo nhưng các thành phần kinh tế khác đều được tạo điều kiện phát triển để phát triển kinh tế đất nước. Hai là chuyển mạnh sang cơ chế thị trường với việc sử dụng mạnh mẽ các công cụ quản lí vĩ mô, điều tiết kinh tế như đổi mới hệ thống luật pháp và chính sách đổi mới các công cụ tài chính như thuế, phỉ..đổi mới chính sách sử dụng đòn bẩy giá cả, chuyển qua cơ chế giá cả kinh doanh trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng đắn các quy luật kinh tế khách quan,làm chủ cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Ba là thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế Đảng và Nhà nước ta đã xác định “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giói” theo các nguyên tắc “Bình dẳng,cùng có lợi, tôn trọng chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi quốc gia” mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế –xãhội. Bốn là cải cách một bước bộ máy quản lí theo hướng tinh giản hoá, hiệu quả hơn. Dứt bỏ cơ chế quản lý, hành chính quan liêu, bao cấp , cồng kềnh, phân định, rõ chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế với chức năng kinh daonh của đơn vị, phân định và kết hợp tốt quản lý Nhà nước về kinh tế và quản lý sản xuất- kinh doanh, tự chủ, tự mình chịu trách nhiệm về mặt tài chính của đơn vị cơ sở với việc thực hiện sự tập trung thống nhất của Trung ương và tăng cường chức năng hướng dẫn kiểm soát, điều tiết của Nhà nước. Năm là phát huy nội lực tại chỗ, tăng mạnh đàu tư nội bộ. Chính phủ tăng cường huy động các nguồn lực tài trò ở trong nước là chủ yếu và kết hợp với các nguồn tài trợ từ nước ngoài , giảm bớt sự phụ thuộc kinh tế vào nước ngoài, nâng cao tính độc lập và tự chủ về kinh tế. Đẩy mạnh sản xuất trong nước, tiêu dùng hàng trong nước, khuyến khích hàng xuất khẩu kiểm soát chặt chẽ việc vay nợ, giảm bớt quy mô nợ nước ngoài và trả nợ dịch vụ. Sáu là thúc đảy và cải thiện tình hình kinh doanh trong khu vực kinh tế-xã hội, tạo ra năng suất chất lượng và hiệu quả cao. Sử dụng và nâng cao hiệu quả sự phân phối các nguồn lực. Tuy nhiên, sự vận dụng kinh tế thị trường vào nước ta còn nhiều thiếu sót. Sự tự do cạnh tranh theo pháp luật chưa được quản lí triệt để dẫn đến nảy sinh ra các khuyết tật xã hội như đã trình bày ở trên như làm hàng giả..Bên cạnh đó, hệ thống thị trưòng của nước ta hình thành chưa đầy đủ và chưa đồng bộ. Thị trường vốn mới có trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh , với quy mô còn rất nhỏ và còn bị kiểm soát chặt chẽ bởi nhà nước gây ra sự thiếu hấp dẫn với các nhà đầu tư. Các thị trưòng khác như lao động, bất động sản , khoa học..còn rất sơ khai và thiếu tính đồng bộ. Sự đổi mưói trong hành chình Nhà nước cũng chưa triệt đẻ, bộ máy quản lí chưa thực sự tinh giản và hiệu quả. C.Sự cần thiết tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nứơc Việt nam trong cơ chế mới I.Nội dung cơ chế thị trường có sự quản lí Nhà nước theo định hướng XHCN : Một là Nhà nước phải dựa trên cương lĩnh luận điểm, tư tưởng khoa học để điều tiết quan hệ giữa cac giai cấp, cộng đồng dân tộc, nhóm xã hôị.. để thực hiện tổ chức và lãnh đạo nền kinh tế quốc dân theo định hướng XHCN, không để bỏ mặc cho các thành phần kinh tế” tự thân vận động “, nhất thiết phải có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, vai trò quản lí điều hành vì hiệu lực của Nhà nước. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Trong khi đó kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt, nắm những doanh nghiệp then chốt, trọng yếu, thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và là công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lí vĩ mô của mình. Gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội nâng cao đời sống văn hoá đạo đức, tinh thần của nhân đan, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài, đẩy lùi các hiện trượng tiêu cực trong xã hội. Kiện toàn hệ thống chính trị, tiếp tục đổi mới kinh tế, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao hiệu lực quản lí của Nhà nước và đổi mới tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Hai là quản lí Nhà nước về kinh tế phải tôn trọng tính quyết định của hệ thống các quan hệ sản xuất xã hội đối với cơ chế kinh tế, chính sách kinh tế. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, từng bước xây dựng cơ sở vật chất- kĩ thuật. Thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao, đa dạng hoá các loại hình sở hữu không ngừng đổi mới phương thức quản lí và phân phối. Ba là quản lí Nhà nước về kinh tế phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Khi xác định quan hệ kinh tế- chính trị phải đứng trên giác độ Nhà nước XHCN để xem xét lợi ích kinh tế của các giai cấp, trên cơ sở yếu tố con người được đề cao, giải phóng mọi tiềm năng và lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế theo định hướng XHCN. Bốn là quản lí Nhà nước về kinh tế phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa quyền quản lí tập trung và quyền tự chủ phải khống chế trong phạm vi tài chính cho phép và không làm tổn hại đến chính sách tập trung đầu tư. Chính sách thuế của Nhà nước, trên cơ sở thừa nhận sự tồn tại khách quan của những quan hệ hàng hoá- tiền tệ và vai trò của chủ sở hữu, người sản xuất hàng hoá ở các cơ sở kinh tế. Năm là quản lí Nhà nước phải bảo đảm sự thống nhất giữa các chính sách xã hội. Trong nền kinh tế thị trường cần ngăn chặn các mặt tiêu cực như cạnh tranh không lành mạnh…phải giảm bớt sự chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng trong cả nước. Phát triển nền kinh tế phải gắn liền với bảo vệ môi trường. Tạo điều kiện cho kinh tế hàng hoá phát triển đi đôi phân phối có hiệu quả. Sáu là quản lí Nhà nước về kinh tế phải kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc XHCN. Đây là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc, vừa phản ánh yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng XHCN ở nước ta trong tình hình hiện nay, giữ vững định hướng XHCN. Trên đây là mội dung của cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng XHCN. Những nội dung trên có ảnh hưởng lớn đến mục tiêu và chức năng vai trò kinh tế của Nhà nước Việt Nam. II. Mục tiêu và chức năng để quản lí vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước Việt Nam Mục tiêu quản lí kinh tế của Nhà nước: Nhằm phát triển lực lượng sản xuát và công bằng xã hội vì nhu cầu tạo ra của cải xã hội, khắc phục tính tự phát, vô tổ chức vốn có của kinh tế tư nhân, tư bản chủ nghĩa, cá thể trong sản xuát cũng như trên thị trường. Giải phóng mọi năng lực sản xuất, tạo điều kiện cho tất cả các thành phần kinh tế phát triển. Các đơn vị cá nhân sản xuất kinh doanh, yên tâm bỏ vốn vào đầu tư và phát triển sản xuất. Muốn vậy Nhà nước sẽ phải tạo ra hành lang và ổn định lành mạnh, các chính sách về quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền thừa kế tài sản và hướng thu nhập hợp pháp được thể chế hoá thành pháp luật. Mục tiêu, của quản lí kinh tế Nhà nước trong giai đoạn đẩu ( một bước quá dộ nhỏ trong thời kì từ quá độ) là thông qua đổi mới toàn diện đạt tới ổn định vững chắc các mặt trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội…tạo điều kiện phát triển nhanh ở các chặng sau . Nhiệm vụ đó thể hiện ở các mục tiêu sau đây: Thứ nhất là mục tiêu về sản lượng, ngày càng tăng thu nhập quốc dân, phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDp hàng năm là 7 đến 7,5% đến năm 2010 thìì GDP bình quân đầu người là gấp đôi năm 2000, đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Đẩy mạnh tăng trưởng ở cả ba lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ đảm bảo nhu cầu của nhân đân, đẩy mạnh xuất khẩu. Thức hai là mục tiêu về việc làm- giải quyết việc làm cho người lao động trung bình hàng năm là 1,5 triệu người , giảm tỉ lệ thất nghiệp, nâng cao các quỹ phúc lợi cho ngưòi lao động, tạo điều kiện tốt hơn cho lao động. Đồng thời chúng ta phải phân công lại lao động để tỉ lệ lao dộng trong nông nghiêp giảm xuống,tỉ lệ lao động trí óc ngày càng tăng lên.Đồng thời tốc độ tăng lao động ở trong các ngành dịch vụ bảo hiểm ngân hàng ,tài chính phải tăng nhanh hơn tốc độ tăng lao động ở các ngành sản xuất vật chất. Thứ ba là mục tiêu tài chính, ổn định giá cả, tránh việc giá cả biến động thất thường, giữ cho tỉ lệ lạm phát trong vòng một con số, chỉ số giá cả hàng năm không tăng quá 5%. Phải có dự phòng và chuẩn bị cho những biến động trong khu vự c và trên thế giới.Thực hiện đảm bảo một ngân sách Nhà nước thống nhất ,bao gồm ngân sách Chính phủ và ngân sách địa phương, bảo đảm cân đối giữa phương tiện và nhiệm vụ, kết hợp lợi ích của cả nước, bảo đảm nền kinh tế có tích luỹ nội bộ, đáp ứng các nhu cầu chi thưòng xuyên của bộ máy Nhà nước,nhu cầu đầu tư và phát triển, nhất là xây dựng các cơ sở hạ tầng ,nhu cầu an ninh, quốc phòng và các chính sách xã hội khác. Thứ tư là mục tiêu về kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo hành lang pháp lý để hấp dẫn các nước khác đến nước ta đầu tư để chúng ta có thể tranh thủ vốn, công nghệ, cách quản lý.. Thứ năm là mục tiêu về phân phối công bằng, giảm bớt sự chênh lệch giàu nghèo giữa các địa phương trong cả nước, phân phối theo đúng nguyên tắc dựa trên thành quả lao động. Thứ năm là mục tiêu định hướng XHCN, bố trí cơ cấu kinh tế hợp lí phù hợp với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa và cũng phù hợp với định hướng XHCN. Xây dựng một Nhà nước pháp quyền mạnh, một nền hành chính quốc gia chính quy và một đội ngũ công chức được đào tạo có hệ thống, có phẩm chất, có đạo đức và chuyên môn kỹ thuật giỏi.Hướng các thành phần kinh tế cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Các chức năng của Nhà nước trong cơ chế kinh tế mới: Trong quá trình đổi mới sang kinh tế thị trường Nhà nước phải giải quyết tốt chức năng cơ bản sau. Thứ nhất là ổn định kinh tế vĩ mô, phải tìm mọi cách tăng nhanh chu chuyển tiền tệ, đạt tới tính chuyển đổi trong nước của đồng tiền quốc gia, nâng cao tự chủ kinh tế doanh nghiệp và hạn chế việc phân phối hành chính các nguồn vật tư đã dẫ đến sự gia tăng các nguồn tài chính, tự do hoá giá cả ( trên đại bộ phận hàng hoá) và cắt giảm mạnh các khoản tài trợ nếu không lạm phát và nạn thâm hụt tràn lan dẫn đến sự trì trệ và suy thoái của kinh tế. Kết cục không thể loại bỏ được tình trạng thiếu hụt hàng hoá và ngân sách, Nhà nước phải tạo môi trường hành lang và điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh , duy trì trật tự an toàn xã hội, sống và làm việc theo Hiến pháp và phấp luật, thi hành nhất quán chính sách, thể chế quản lý vĩ mô theo hướng đổi mới, khống chế lạm phát ,điều tiết thị trường và ngăn ngừa xử lí những biến động xấu, phức tạp của kinh tế thị trường. Hai là xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, bảo đảm cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và kinh tế thị trường phát triển.Nhà nước xây dựng hệ thống cầu đường, các công trình công cộng phục vụ cho quá trình phát triển,đồng thời có tác dụng kích cầu,thúc đẩy kinh tế phát triển hơn nữa. Nhà nước cũng cho xây dựng các khu kinh tế để hấp dẫn đầu tư nước ngoài, kêu gọi các nguồn đầu tư trong nước. Và cũng không thể thiếu là các hệ thống thông tin ,điện,nhà ở... để đáp ứng nhu cầu của người dân và các nhu cầu cho phục vụ phát triển kinh tế. Ba là hỗ trợ và dẫn dắt phát triển, tận dụng khai thác tiềm năng, nguồn lực để phát triển các thành phần kinh tế, phát huy vai trò của kinh tế quốc doanh làm chỗ dựa cho các cơ sở và cá nhân trong kinh doanh và phát triển kinh tế đối ngoại..thông qua kế hoạch và chính sách của Nhà nước. Trên cơ sở nhận thức và vận dụng tính quy luật khách quan,Nhà nước sử dụng hệ thống bộ máy của mình lãnh đạo và điều tiết có ý thức về nhịp độ phát triển và cân đối cơ cấu nền kinh tế quốc dân theo định hướng XHCN. Xác định có căn cứ khoa học những mục tiêu kinh tế, chính trị xã hội, mục tiêu trước mắt và dài lâu, đồng thưòi lựa chọn những biện pháp chủ yếu để đạt tới các mục tiêu đó trong thời gian nhất định. Bốn là chức năng phối hợp bảo đảm cân đối những tỉ lệ quan trọng nhất và xử lí hoà giải những tranh chấp hoặc giải quyết những mâu thuẫn trong phân công chức trách, phân công lao động xã hội của bộ máy quản lý Nhà nước nhằm đạt mục tiêu xác định.Nhà nước lựa chọn các phương án đầu tư quan trọng ,phân bổ nguồn lực, tiết kiệm và đầu tư, điều tiết của Chính phủ và các xí nghiệp công cộng. Thông qua viẹc đầu tư có trọng điểm cho các ngành ,các vùng kinh tế và các khu vực Nhà nước khi cần thiết tác đọng vào các quan hệ cung cầu, hướng thị trường vào quỹ đạo Nhà nước. Năm là chức năng kích thích. Đây là một chức năng quan trọng và hết sức phức tạp trong quá trình thực hiện. Nó làm mọi ngưòi lao dộng quan tâm tới công việc, cũng như tự giác phát huy những năng lực khả năng của cá nhân. Nhà nước sử dụng đúng đắn và rộng rãi các đòn bẩy khuyến khích sản xuất.Các công cụ tiền lương ,tiền thưởng , tỷ giá hối đoái ,lãi suất,tín dụng...nếu được sử dụng đúng dắn thì sẽ có ý nghĩa quan trọng đặc biệt trong chính sách khuyến khích sản xuất. Sáu là chức năng kiểm soát và điều tiết kinh tế. Thực hiện trách nhiệm giữa các cấp khác nhau trong hệ thống thứ bậc, quản lý hành chính Nhà nước, bảo đảm chức năng kiểm soát kinh tế của Nhà nước theo luật đinh, kết hợp sự điều tiết của Nhà nước với tính tự chủ của xí nghiệp. Bảy là chức năng đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu phát triển bền vững. Nhà nước tạo hành lang pháp lý để các nước yên tâm đầu tư vào nước ta, tranh thủ vốn kỹ thuật, công nghệ và phong cách quản lí mới.Nhà nước tổ chức phát triển quan hệ hợp tác và hữu nghị với các nước khác theo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi và tôn trọng chủ quyền lãnh thổ ,độc lập của nhau. Trên đây là một số chức năng cơ bản của Nhà nước ta để có thể xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Để thực hiện chức năng đó thì Nhà nước cần phải sử dụng một số công cụ quản lí kinh tế vĩ mô sao cho hiệu quả , đạt được mục tiêu đề ra. III.Công cụ Nhà nước sử dụng trong quản lí vĩ mô: Trong nền kinh tế thị trường cần tăng cường và phát huy vai trò quan trọng của kế hoạch kinh tế của Nhà nước và để thực hiện vai trò quản lí kinh tế của mình Nhà nước phải sử dụng một số công cụ quản lí sau dây Một là hệ thống pháp luật, thể hiện vai trò định hướng và điều tiết, kiểm soát của Nhà nước, có tính bắt buộc đối với tất cả các thành phần kinh tế, hệ thống pháp luật có hai chức năng sau dây Cưỡng chế hành vi của các doanh nghiệp nếu hành vi đó gây tổn hại đến lợi ích xã hội như làm hàng giả, hàng kém chất lượng,..để nhằm hạn chế các khuyết tạt nảy sinh ra trong cơ chế thị trường, đưa nền kinh tế thị trường nứơc ta vào định hướng XHCN. Tạo hành lang pháp lý an toàn cho sản xuất và kinh doanh.Các doanh nghiệp yen tâm bỏ vốn đàu tư và làm ăn theo pháp luật. Từ đó có thể phát huy mọi ưu thế của các thành phầnkinh tế, tạo động lực cho nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững. Hai là kế hoạch hoá, nhằm mục đích định hướng và khai thác hết tiềm năng kinh tế, quản lí và điều chỉnh toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội. Đảng ta khẳng định “cần đổi mới nội dung và phương pháp kế hoạch hoá, sử dụng đúng đắn các quan hệ hàng hoá- tiền tệ, nhưng không coi nhẹ kế hoạch, coi nhẹ việc quản lí thị trường”, kế hoạch hoá gắn liền với hệ thống đòn bẩy kinh tế giải quyết và điều tiết các quan hệ về lợi ích, mà lợi ích của người sản xuất -kinh doanh là động lực trực tiếp đối với hoạt động kinh tế và tạo cơ sở cho việc đáp ứng các lợi ích khác.Trong nền kinh tế thị trường cần tăng cường và phát huy vai trò quan trọng của kế hoạch hoá kinh tế của Nhà nước. Muốn thế ,trước hết phải xác định phương hướng mục tiêu cơ bản và vạch ra phương thức bảo đảm tính thống nhất và hoàn chỉnh giữa kế hoạch và chính sách kinh tế.Từ đó đảm bảo thực thi có hiệu quả và đáp ứng một cách linh hoạt sự biến đổi của tình hình kinh tế trong nền kinh tế thị trường ,bảo đảm cho Chính phủ vận hành nền kinh tế ,điều chỉnh kế hoạch hoặc có chính sách và biện pháp cụ thể ,thúc đẩy sự nỗ lực đạt đến mục tiêu nhất định. Ba là chính sách tài khoá bao gồm chi tiêu chính phủ, thuế.Nếu chính phảu tăng chi tiêu thì sẽ làm cho cung cầu tăng, nền kinh tế phát triển mạnh. Nhưng lạm phát cũng tăng lên dù thất nghiệp có giảm đi. Do vậy chính phủ phải cân đối chi tiêu hợp lí, không đẻ bộc chi ngân sách kéo dài. Thuế cũng là một công cụ quan trọng để điều tiết kinhtế, nó có tác dụng giảm bớt cung của các hàng hoá không được khuyến khích phát triển hoặc gây tổn hại đến lợi ích xã hội. Đồng thời, thuế cũng là công cụ để nhà nước phân phối thu nhập một cách hợp lí hơn( thuế thu nhập cá nhân) và bảo đảm nguồn thu cho chính phủ. Một chính sách tài khoá mở rộng là khi chi tiêu chính phủ tăng thuế giảm và ngược lại, một chính sách tài khoá thắt chặt là khi chi tiêu chính phủ giảm mà thuế tăng. Bốn là các chính sách tiền tệ bao gồm lượng cung tiền tệ và lãi suất. Lượng cung tiền tệ tức là số lượng tiền tệ trong lưu thông. Nếu số lượng tăng sẽ làm cho chi tiêu tiêu dùgn tăng, chính phủ sẽ đầu tư nhiều hơn cho công trình công cộng, làm kích cầu, kinh tế phát triển ( trong ngắn hạn) nhưng sẽ thúc đẩy lạm phát lên cao. Còn khi lãi suất tăng lên số tiền dành cho đầu tư giảm khiến lượng cung hàng hoá giảm, thất nghiệp tăng nhưng lạm phát được kiểm soát. Một chính sách giảm lãi suất khiến kinh tế phát triển, giảm thất nghiệp, tức khôi phục được tình trạng kinh tế khi đang khó khăn khủng hoảng. Chính sách tiền tệ được coi là mở rộng khi tăng lượng cung về tiền tệ và giảm lãi suất còn chính sách tiền tệ là thu hẹp khi giảm cung tiền tệ, tăng lãi suất. Năm là chính sách thu nhập tức là các chính sách về tiền lương. Nếu chính phủ tăng tiền lươgn thì có tác dụng kích thích sản xuất. Cầu tăng, thất nghiệp giảm nhưng giá cả tăng tức lạm phát tăng cao. Chính sách tiền lương là một chính sách khó thực hiện và ảnh hưởng của nó rất sâu rộng. Và chính phủ cũng không thể giảm lượng công nhân được.Do vậy trong thời kì lạm phát cao, tiền lương được giữ cổ định và dùng các chính sách khác giảm lạm phát. Sáu là chính sách về kinh tế đối ngoại bao gồm ba công cụ là tỉ giá hối đoái, hạn ngạch quota, thuế quan. Tỉ giá gối đoái sẽ tácđộng đến sức mạnh của đồng tiền bản địa, nó ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu và nhập khẩu. Hạn ngạch và thuế quan là công cụ để kiểm soát xuất khẩu và nhập khẩu thúc đẩy nền kinh tế trong nước cũng như bảo vệ hàn hoá trong nước trước sự cạnh tranh khốc liệt của hàng hoá các nước phát triển trong khu vực và thế giới. Trên đây là các công cụ mà Nhà nước Việt Nam đưa ra để quản lí kinh tế nhằm các mục tiêu như điều hoà quan hệ cung cầu vốn, tiền mặt trong xã hội… Tuy nhiên bất cứ công cụ nào cũng có hai mặt của nó. Khi kinh tế phát triển thất nghiệp giảm tăng trưởng mạnh khiến lạm phát gia tăng. Do vậy phải tuỳ thời kì, điều kiện mà chính phủ sử dụng các công cụ đạt mục tiêu được ưu tiên nhất sao cho có hiệu quả. IV.Thực trạng quản lí Nhà Nước ở Việt Nam hi Các file đính kèm theo tài liệu này: KC104.doc Tài liệu liên quan Tiểu luận Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay 9 trang | Lượt xem: 2317 | Lượt tải: 26 Tiểu luận Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức được biểu hiện trên sản phẩm áo sơ mi 12 trang | Lượt xem: 5395 | Lượt tải: 20 Tiểu luận Toàn cầu hoá là một xu thế, một quá trình khách quan cho nên không thể đảo ngược 20 trang | Lượt xem: 1596 | Lượt tải: 6 Báo cáo thực tập tổng hợp tại Chi nhánh Ngân Hàng Ngoại Thương Hà Nội 22 trang | Lượt xem: 1109 | Lượt tải: 1 Tiểu luận Vai trò công ty mẹ công ty con trong nền kinh tế thế giới 21 trang | Lượt xem: 974 | Lượt tải: 1 Tiểu luận Một số giải pháp về công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn 25 trang | Lượt xem: 3423 | Lượt tải: 29 Tiểu luận Thực trạng về việc giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta hiện nay 17 trang | Lượt xem: 1529 | Lượt tải: 9 Báo cáo thực tập tại Hội Chữ Thập Đỏ Hà Nội 25 trang | Lượt xem: 1387 | Lượt tải: 6 Tiểu luận Lý luận giá cả thị trường của Mác, Marshall và Samuelson và sự vận dụng lý luận trên trong việc điều hành giá cả thị trường ở nước ta hiện nay 11 trang | Lượt xem: 1990 | Lượt tải: 11 Tiểu luận Ý thức và vai trò của ý thức trong đời sống xã hội 15 trang | Lượt xem: 14915 | Lượt tải: 89 Copyright © 2020 Doc.edu.vn - Chia sẻ những Thủ thuật tin học, phần mềm hay, hướng dẫn giải bài tập
1610704847953.98.parquet/174763
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 25636, "url": "http://doc.edu.vn/tai-lieu/de-an-tang-cuong-vai-tro-kinh-te-cua-nha-nuoc-la-nhan-to-quan-trong-de-hinh-thanh-va-hoan-thien-co-che-quan-li-kinh-te-34259/" }
132.9
[Bật mí] Ra kinh nguyệt không đều có sao không, có thai không Danh Mục Bệnh Bệnh Phụ KhoaBệnh Nam KhoaCẩm Nang Bệnh Giới ThiệuLiên Hệ MENU [Bật mí] Ra kinh nguyệt không đều có sao không, có thai không Chuyên mục Bệnh Phụ Khoa ‍Ra kinh nguyệt không đều có sao không, có thai không luôn là những băn khoăn của rất nhiều chị em phụ nữ bởi tình trạng này đã trở thành một trong các vấn đề phụ khoa thường gặp phổ biến. Chu kỳ kinh nguyệt không đều có thể xuất phát từ sinh lý nhưng đồng thời cũng nhiều nguy cơ là dấu hiệu cảnh báo các bệnh phụ khoa nguy hiểm. Để có lời giải đáp cụ thể nhất cho các câu hỏi trên, hãy cùng chuyên gia phòng khám phụ khoa Hưng Thịnh theo dõi nội dung bài viết dưới đây. Nguyên nhân gây kinh nguyệt không đều Một chu kỳ kinh nguyệt đều đặn sẽ kéo dài trong khoảng từ 28 - 30 ngày, nhưng nếu chậm hoặc nhanh hơn vài ngày thì nữ giới cũng không cần phải quá lo lắng bởi điều này vẫn là hiện tượng bình thường, phụ thuộc vào cơ địa của mỗi người khác nhau. Tuy nhiên, nếu chu kỳ kinh nguyệt của chị em ít hơn 21 ngày hoặc nhiều hơn 35 ngày, có thể kèm theo các biểu hiện thay đổi về tính chất và lượng máu kinh, số ngày kinh thì sẽ được gọi là kinh nguyệt không đều. Tình trạng này có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân, cụ thể như sau: Ra kinh nguyệt không đều nguyên nhân do sinh lý Một số thời điểm đặc biệt ở nữ giới như tuổi dậy thì, khi mang thai, giai đoạn cho con bú và phụ nữ tiền mãn kinh đều khiến cho kinh nguyệt gặp phải những rối loạn nhất định. Theo đó, 2 - 3 năm đầu tiên trong tuổi dậy thì buồng trứng chưa phát triển toàn diện dẫn đến kinh nguyệt không đều. Còn thời kỳ tiền mãn kinh chức năng hoạt động của buồng trứng đã bị suy giảm, biểu hiện qua triệu chứng lượng máu kinh ít và chu kỳ kéo dài hơn. Trong khi đó, nếu nữ giới mang bầu, niêm mạc của tử cung thay vì bong tróc sẽ dày lên để chuẩn bị cho trứng làm tổ, do đó chỉ ra một ít máu báo thai và sẽ không có kinh nguyệt trong suốt quá trình mang thai. Đối với phụ nữ cho con bú, Prolactin trong sữa mẹ sẽ gây ức chế cơ thể sản xuất hormone sinh sản, kết quả là nữ giới không có hoặc ra rất ít kinh nguyệt. Ra kinh nguyệt không đều nguyên nhân do bệnh lý Như đã chia sẻ, kinh nguyệt không đều cũng có khả năng cao xuất phát từ các bệnh lý trong cơ thể. Điển hình phải kể đến các vấn đề như bệnh tuyến giáp, hội chứng buồng trứng đa nang, u xơ tử cung, lạc nội mạc tử cung, các bệnh viêm nhiễm phụ khoa… Nếu không theo dõi cẩn thận và chữa trị từ sớm có thể gây tác động tiêu cực đến sức khỏe của người bệnh. Nguyên nhân gây kinh nguyệt không đều Ra kinh nguyệt không đều nguyên nhân do lối sống sinh hoạt Thêm một nguyên nhân thường gặp khác gây rối loạn kinh nguyệt chính là những thói quen trong cuộc sống hằng ngày của nữ giới. Ví dụ như việc giảm cân một cách đột ngột, chế độ dinh dưỡng không đủ chất sẽ làm ảnh hưởng đến quá trình hormone trong cơ thể sản sinh. Không chỉ vậy, yếu tố tâm lý như stress, căng thẳng kéo dài, mệt mỏi thường xuyên khiến cho tuyến thượng thận tiết ra một loại hormone được gọi là Cortisol, trực tiếp tác động và gây rối loạn nội tiết tố nữ. Mặt khác, ra kinh nguyệt không đều còn có thể bị ảnh hưởng bởi các nguyên nhân khác bao gồm luyện tập thể thao quá mức, tác dụng phụ của thuốc... Kinh nguyệt không đều có sao không? Thực tế cho thấy, vẫn còn nhiều chị em phụ nữ thường có suy nghĩ rằng tình trạng ra kinh nguyệt không đều sẽ không gây ảnh hưởng gì cho sức khỏe. Theo các chuyên gia sản phụ khoa Phòng khám đa khoa Hưng Thịnh, đây là một quan niệm hoàn toàn sai lầm bởi kinh nguyệt không đều nếu diễn ra thường xuyên mà không can thiệp điều trị có thể gây ra những tác hại bao gồm: Dẫn đến tình trạng thiếu máu trong cơ thể Chứng cường kinh (kinh nguyệt chảy ồ ạt), rong kinh là những biểu hiện thuộc nhóm kinh nguyệt không đều, khiến cho lượng máu kinh mà nữ giới mất đi nhiều hơn, cũng như số ngày kinh kéo dài hơn bình thường. Đặc biệt, có những trường hợp nữ giới còn xuất huyết bất thường giữa các chu kỳ kinh nguyệt lại càng làm gia tăng tình trạng cơ thể thiếu máu. Chị em phụ nữ sẽ cảm thấy mệt mỏi thường xuyên, da trở nên xanh xao, nhức đầu chóng mặt, nguy hiểm hơn là số lần ngất xỉu nhiều hoặc thậm chí đe dọa đến tính mạng. Kinh nguyệt không đều có nguy cơ mắc phải bệnh lý Một số trường hợp nữ giới ra kinh nguyệt không đều do các bệnh lý nhưng lại chủ quan, hoặc các triệu chứng kèm theo thường rất mơ hồ nên họ không hề biết rằng cơ thể mình đang gặp vấn đề bất thường. Kinh nguyệt bị rối loạn có thể là triệu chứng cảnh báo nhiều loại bệnh lý khác nhau, từ các bệnh phụ khoa như u xơ tử cung, u nang buồng trứng, đa nang buồng trứng… đến các bệnh về tuyến giáp. Dù xuất phát từ bất cứ nguyên nhân nào thì chúng cũng đều làm ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất nói chung và sức khỏe sinh sản nói riêng của người mắc. Thêm vào đó, nếu các bệnh lý diễn biến kéo dài mà không được chữa ngay từ sớm sẽ gây khó khăn và tốn kém cho quá trình điều trị về sau này. Gia tăng khả năng vô sinh hiếm muộn ở nữ giới Nếu chị em phụ nữ còn đang băn khoăn kinh nguyệt không đều có sao không thì hãy cẩn thận bởi tình trạng này hoàn toàn có nguy cơ dẫn đến vô sinh hiếm muộn nữ. Thứ nhất, quá trình rụng trứng và chu kỳ kinh nguyệt có mối quan hệ mật thiết với nhau, do đó kinh nguyệt không đều khiến nữ giới hầu như không thể tính ngày rụng trứng để tăng tỷ lệ mang thai. Hoạt động của buồng trứng lúc này đã biến đổi thất thường, các nang trứng không thể chín và được giải phóng theo đúng chu kỳ, hậu quả là khả năng thụ thai thành công sẽ suy giảm một cách đáng kể. Hơn nữa, trong trường hợp nữ giới bị vô kinh (không có kinh nguyệt) cũng đồng nghĩa với việc hiện tượng rụng trứng không diễn ra và không thể mang thai. Kinh nguyệt không đều có sao không? Gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng đời sống tình dục Người mắc chứng kinh nguyệt không đều có thể phải tạm thời kiêng quan hệ tình dục, bởi việc giao hợp trong “ngày đèn đỏ” sẽ tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ. Đầu tiên phải kể đến vấn đề vệ sinh, dễ mắc viêm nhiễm do các loại vi khuẩn thuận lợi xâm nhập tấn công. Thứ hai là nguy cơ mang thai ngoài ý muốn vì không đoán trước được thời gian rụng trứng. Cảm giác đau bụng kinh, ngứa rát âm đạo, khó chịu mệt mỏi… cũng khiến chị em mất tự tin, khó đạt khoái cảm và suy giảm ham muốn. “Chuyện ấy” gặp trục trặc trong thời gian dài thì hạnh phúc hôn nhân gia đình cũng theo đó mà trở nên rạn nứt, tan vỡ. Tác động đến vấn đề thẩm mỹ, nhan sắc của chị em phụ nữ Kinh nguyệt không đều có sao không? Tình trạng này còn là nguyên nhân hàng đầu gây biến đổi về hàm lượng nội tiết tố nữ trong cơ thể. Từ đó chị em sẽ bị xuống sắc nhanh chóng, làn da thô ráp, xanh xao và thiếu sức sống hơn hẳn. Nữ giới dễ xuất hiện nám da, tàn nhang, nổi mụn, gia tăng kích thước lỗ chân lông, đẩy nhanh quá trình lão hóa da, nhất là các chị em trong độ tuổi từ 30 trở lên. Mà chúng ta đều biết rằng mặt thẩm mỹ là vấn đề vô cùng quan trọng đối với phái nữ, vì vậy những sự thay đổi về nhan sắc chắc chắn sẽ khiến họ trở nên thiếu tự tin. Sức khỏe suy giảm, làm ảnh hưởng cuộc sống thường ngày Ra kinh nguyệt không đều không chỉ khiến cho chị em phụ nữ cảm thấy khó chịu, uể oải mệt mỏi mà tâm trạng cũng sẽ trở nên dễ cáu gắt, suy giảm về trí nhớ, nguy cơ cao mắc các vấn đề liên quan tới hệ xương khớp. Các triệu chứng kinh nguyệt bị rối loạn làm nữ giới không thể tập trung vào công việc riêng của mình hằng ngày, gián đoạn các hoạt động, chất lượng cuộc sống giảm sút. Có những người còn phải bỏ dở công việc, nghỉ làm hoặc nghỉ học do tình trạng sức khỏe không thể đáp ứng được. Kinh nguyệt không đều có thai không? Theo như những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ trong phần trước, ra kinh nguyệt không đều kéo dài có nguy cơ đe dọa sức khỏe sinh sản của nữ giới. Tuy nhiên, đối với câu hỏi kinh nguyệt không đều có thai không, các bác sĩ sản phụ khoa cho biết chị em phụ nữ vẫn có khả năng mang bầu và sinh con. Mặc dù vậy, quá trình thụ thai của họ thường sẽ khó khăn và mất nhiều thời gian hơn so với những người khỏe mạnh ổn định, có chu kỳ kinh nguyệt đều đặn vào mỗi tháng. Theo đó, chu kỳ kinh nguyệt không đều phần lớn là sự phản ánh của tình trạng quá trình rụng trứng bị rối loạn, hoặc không xảy ra sự rụng trứng. Trong trường hợp này, thời điểm rụng trứng của mỗi chu kỳ lại có sự khác biệt, không giống nhau. Điều đó khiến cho chị em phụ nữ gặp nhiều trở ngại khi muốn nắm bắt được chính xác thời điểm rụng trứng, chính vì thế sự thụ tinh giữa trứng và tinh trùng cũng sẽ không thể thuận lợi. Vậy đối với trường hợp ra kinh nguyệt có thai không? Nếu nữ giới đã mang thai thì sẽ không còn xuất hiện hành kinh trong suốt thai kỳ, do niêm mạc của tử cung lúc này đã trở nên dày hơn giúp trứng được thụ tinh có thể dễ dàng làm tổ, phát triển thành thai nhi. Kinh nguyệt không đều có thai không? Chị em cần phải phân biệt rõ ràng với máu báo thai (trứng thụ tinh đã bám vào tử cung thành công) xảy ra trong khoảng 1 - 2 ngày, có màu hồng nhạt và lượng máu chỉ rất ít. Trường hợp đã xác định mình mang thai nhưng vẫn thấy xuất huyết âm đạo vào những thời điểm khác, nữ giới phải thật cẩn trọng bởi có khả năng đây là biểu hiện của các vấn đề bất thường như thai trứng, nhiễm trùng, mang thai ngoài tử cung, dấu hiệu sảy thai… Làm thế nào để tăng khả năng mang thai nếu kinh nguyệt không đều? Bên cạnh câu hỏi kinh nguyệt không đều có thai không, rất nhiều chị em phụ nữ còn băn khoăn vậy nếu không may mắc phải tình trạng này thì liệu có những phương pháp nào giúp nâng cao tỷ lệ thụ thai thành công. Thứ nhất, thay vì áp dụng cách tính toán thông thường, nữ giới hãy thử nhận biết thời điểm rụng trứng của mình thông qua một số biểu hiện trên cơ thể: Tăng tiết dịch nhầy âm đạo, ham muốn gia tăng, thân nhiệt cao hơn… Tiếp đó, hai người nên giao hợp mà không sử dụng biện pháp bảo vệ với tần suất khoảng 2 đến 3 lần mỗi tuần nhằm tăng khả năng thụ thai. Nếu vẫn không đạt được hiệu quả, cách tốt nhất là các cặp vợ chồng nên tìm đến những địa chỉ y tế chuyên khoa uy tín để bác sĩ chẩn đoán nguyên nhân chính xác, điều trị bệnh lý hoặc áp dụng các biện pháp hỗ trợ sinh sản. Điều trị kinh nguyệt không đều như thế nào an toàn hiệu quả? Qua những thông tin trên đây, chắc hẳn chị em phụ nữ đều đã có những câu trả lời cho riêng mình về các vấn đề ra kinh nguyệt không đều có sao không, có thai không. Tình trạng rối loạn kinh nguyệt nhìn chung do nhiều nguyên nhân gây ra, vì vậy nữ giới cần tránh việc tự ý điều trị tại nhà mà phải nhanh chóng đến thăm khám bác sĩ. Dựa theo kết quả kiểm tra, đánh giá về mức độ nặng nhẹ cũng như nguyên nhân kinh nguyệt không đều, từ đó bác sĩ sẽ tư vấn, đưa ra phác đồ chữa trị sao cho phù hợp hiệu quả nhất. Cụ thể như sau: Chữa kinh nguyệt không đều do nội tiết tố mất cân bằng Trường hợp người bệnh được chẩn đoán mất cân bằng hàm lượng nội tiết tố trong cơ thể, bác sĩ có thể kê đơn một số loại thuốc giúp điều chỉnh và đồng thời điều hòa lại chu kỳ kinh nguyệt. Tuy nhiên, để bảo đảm an toàn thì nữ giới chỉ được dùng những loại thuốc do bác sĩ chỉ định, tuân thủ đúng hướng dẫn sử dụng về liều lượng, thời gian. Nếu tự ý mua thuốc uống mà chưa nắm rõ về tình hình sức khỏe của mình, người bệnh có thể gặp phải những tác dụng phụ không mong muốn hay thậm chí là gây ra biến chứng nguy hiểm. Điều trị ra kinh nguyệt không đều do các bệnh lý Các vấn đề bất thường trên cơ thể, đa phần là các bệnh phụ khoa cần phải được điều trị dứt điểm thì mới có thể cải thiện được tình trạng kinh nguyệt không đều. Theo đó, nếu những bệnh lý như viêm nhiễm phụ khoa, lạc nội mạc tử cung, buồng trứng đa nang… mới chỉ ở giai đoạn nhẹ, chưa kèm theo biến chứng thì có thể được điều trị bằng các loại thuốc Tây y với công dụng hỗ trợ thuyên giảm triệu chứng, giảm đau, chống viêm. Ngược lại, các trường hợp bệnh lý có diễn biến nặng nếu chỉ điều trị bằng thuốc có thể không đạt được kết quả, do đó bác sĩ cần áp dụng các phương pháp ngoại khoa để can thiệp. Nhờ sự phát triển của y học hiện đại, thay vì những cách chữa truyền thống thì hiện nay đã có rất nhiều công nghệ, kỹ thuật tiên tiến ra đời giúp người bệnh được chữa trị nhanh chóng, an toàn hiệu quả triệt để, sớm hồi phục và bảo đảm tính thẩm mỹ. Điều trị kinh nguyệt không đều như thế nào an toàn hiệu quả? Điều trị kinh nguyệt không đều do các thói quen thiếu khoa học Nếu bác sĩ nhận thấy người bệnh không gặp phải bệnh lý bất thường nào, mà kinh nguyệt rối loạn do lối sống chưa hợp lý sẽ tư vấn, hướng dẫn cách chăm sóc sức khỏe sao cho khoa học. Chị em phụ nữ có thể tham khảo một số lưu ý sau đây: Xây dựng một chế độ ăn uống cân bằng với đầy đủ dưỡng chất giúp cơ thể có đầy đủ năng lượng, giảm bớt mệt mỏi, điều hòa chu kỳ kinh nguyệt. Tránh để đầu óc phải thường xuyên ở trong trạng thái căng thẳng, stress, nên ngủ đủ giấc và không thức khuya, có thời gian nghỉ ngơi hợp lý. Tích cực luyện tập thể dục thể thao hằng ngày, tuy nhiên không được vận động quá sức mà chỉ nên ở mức điều độ, phù hợp với thể trạng của bản thân. Hạn chế việc lạm dụng các loại thuốc tránh thai, nếu cần thiết hãy tham khảo ý kiến tư vấn từ bác sĩ nhằm bảo vệ hiệu quả sức khỏe sinh lý và sinh sản. Trên đây là giải đáp bởi đội ngũ chuyên gia cho vấn đề ra kinh nguyệt không đều có sao không, có thai không mà nhiều chị em phụ nữ đang băn khoăn tìm kiếm. Nhìn chung, nếu nữ giới ra kinh nguyệt không đều thường xuyên phải nhanh chóng đến gặp bác sĩ chuyên khoa để được kiểm tra, chẩn đoán nguyên nhân và điều trị bởi sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và chức năng sinh sản. Bạn đọc có thể liên hệ đến số hotline 0366 655 466 nếu muốn đặt lịch khám nhanh chóng kèm theo ưu đãi, hoặc còn bất cứ thắc mắc nào khác cần sự hỗ trợ tư vấn của bác sĩ Bài Viết Cùng Chuyên mục Chậm kinh bao nhiêu ngày thì có thai? Cách tính chính xác dành cho chị em Chậm kinh bao nhiêu ngày thì có thai✅chậm kinh có sao không⭐️✅⭐️chậm kinh mấy ngày là có thai là thắc mắc được rất nhiều chị em phụ nữ quan tâm Tác giả: Bác sĩ chuyên sản phụ khoa Trần Thị Thành [Giải Đáp] Uống cà phê có làm ngưng kinh nguyệt không? Uống cà phê có làm ngưng kinh nguyệt không✅⭐️✅⭐️✅Lời khuyên từ chuyên gia phòng khám đa khoa Hưng Thịnh phụ nữ không nên uống quá nhiều cà phê rất có hại cho SK Tác giả: Bác sĩ chuyên sản phụ khoa Trần Thị Thành Khi hư màu trắng đục là bệnh gì? nguyên nhân cách chữa trị Ra Khi hư màu trắng đục là bệnh gì? nguyên nhân cách chữa trị hiệu quả nhất sẽ được chuyên gia tư vấn sức khỏe bật mí trong nội dung bài viết này Tác giả: Bác sĩ chuyên sản phụ khoa Trần Thị Thành Ra khi hư có màu nâu đen trước kỳ kinh nguyệt là bệnh gì? cách điều trị Ra khi hư có màu nâu đen trước kỳ kinh nguyệt là bệnh gì?✅⭐️✅⭐️✅Cách điều trị hiệu quả sẽ có đầy đủ trong nội dung bài viết này mời các bạn vào tham khảo Tác giả: Bác sĩ chuyên sản phụ khoa Trần Thị Thành Đau bụng kinh là gì? nguyên nhân triệu chứng, cách chữa trị Đau bụng kinh là gì? nguyên nhân triệu chứng, cách chữa trị sẽ giúp chị em hiểu biết hơn về vấn đề này. Cũng như là các biện pháp phòng ngừa hiệu quả nhất Tác giả: Bác sĩ chuyên sản phụ khoa Trần Thị Thành 2 tháng không có kinh nguyệt phải làm sao? 2 tháng không có kinh nguyệt phải làm sao? có sao không là những câu hỏi đang được chị em quan tâm, vậy để hiểu rõ hơn xin mời quý vị xem nội dung bài viết này Tác giả: Bác sĩ chuyên sản phụ khoa Trần Thị Thành Next Bản Quyền thuộc Phòng khám đa khoa Hưng Thịnh 380 Xã Đàn - Đống Đa - Hà Nội
1610704847953.98.parquet/693
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 13564, "url": "https://phongkhamdakhoahungthinh.webflow.io/blog/bat-mi-ra-kinh-nguyet-khong-deu-co-sao-khong-co-thai-khong" }
132.2
Thông báo DMCA Phimsex.Red Thông báo DMCA Nếu bạn chọn yêu cầu xóa nội dung bằng cách gửi thông báo vi phạm, vui lòng nhớ rằng bạn đang bắt đầu một quy trình pháp lý. Đừng tuyên bố sai. Việc sử dụng sai quy trình này có thể dẫn đến việc đình chỉ tài khoản của bạn hoặc hậu quả pháp lý khác. Chúng tôi cũng chấp nhận thông báo vi phạm bản quyền mẫu miễn phí. Trong trường hợp đó, theo DMCA, thông báo bằng văn bản (Thông báo DMCA về vụng trộm) phải bao gồm đáng kể những điều sau đây: Xác định tác phẩm có bản quyền mà bạn cho là đã bị vi phạm hoặc, nếu khiếu nại liên quan đến nhiều tác phẩm, một danh sách đại diện của các tác phẩm đó. Xác định tài liệu mà bạn cho là đang xâm phạm một cách đủ chính xác để cho phép chúng tôi xác định vị trí của tài liệu đó. Nếu khiếu nại của bạn không chứa URL cụ thể của video mà bạn cho rằng vi phạm quyền của mình, chúng tôi có thể không thể xác định và xóa nó. Thông tin chung về video, như URL kênh hoặc tên người dùng, thường không đầy đủ. Vui lòng bao gồm (các) URL của (các) video chính xác. Thông tin đầy đủ mà chúng tôi và (các) người tải lên của bất kỳ video nào bạn xóa, có thể liên hệ với bạn (bao gồm tên, địa chỉ bưu chính, số điện thoại và, nếu có, địa chỉ email). Một tuyên bố rằng bạn thực sự tin rằng việc sử dụng tài liệu có bản quyền không được chủ sở hữu bản quyền, đại lý hoặc luật pháp cho phép .. Một tuyên bố rằng thông tin trong thông báo bằng văn bản là chính xác và chịu hình phạt khai man, rằng bạn là chủ sở hữu hoặc đại lý được ủy quyền hành động thay mặt chủ sở hữu, về quyền độc quyền bị cáo buộc vi phạm. Khiếu nại hoàn chỉnh yêu cầu chữ ký vật lý hoặc điện tử của chủ sở hữu bản quyền hoặc người đại diện được ủy quyền hành động thay mặt họ. Để đáp ứng yêu cầu này, bạn có thể nhập tên pháp lý đầy đủ của mình để đóng vai trò là chữ ký của bạn ở cuối đơn khiếu nại. Xin vui lòng không gửi yêu cầu hoặc yêu cầu khác cho đại lý bản quyền được chỉ định của chúng tôi. Không có sự cho phép trước, đại lý bản quyền được chỉ định của chúng tôi không được phép chấp nhận hoặc từ bỏ dịch vụ của quy trình pháp lý chính thức và bất kỳ mối quan hệ đại lý nào vượt quá yêu cầu nhận Thông báo hoặc Thông báo phản đối DMCA hợp lệ (như được định nghĩa dưới đây) đều bị từ chối rõ ràng. Nếu bạn không tuân thủ tất cả các yêu cầu của Mục 512 (c) (3) của DMCA, Thông báo DMCA của bạn có thể không có hiệu lực. Xin lưu ý rằng nếu bạn cố tình xuyên tạc rằng tài liệu hoặc hoạt động trên trang web đang vi phạm bản quyền của bạn, bạn có thể phải chịu trách nhiệm về các thiệt hại (bao gồm chi phí và phí luật sư) theo Mục 512 (f) của DMCA. Tên chủ sở hữu bản quyền tên sẽ được xuất bản trên trang web thay cho nội dung bị vô hiệu hóa. Điều này sẽ trở thành một phần của hồ sơ công khai Thông báo DMCA của bạn, cùng với mô tả của bạn về (các) công việc bị cáo buộc vi phạm. Tất cả thông tin được cung cấp trong Thông báo DMCA, Thông báo DMCA thực tế (bao gồm thông tin cá nhân của bạn) hoặc cả hai có thể được chuyển tiếp đến người tải lên nội dung bị cáo buộc vi phạm. Bằng cách gửi Thông báo DMCA, bạn đồng ý tiết lộ thông tin của mình theo cách này. Tiếp xúc Riêng tư DMCA Phimsex.Red © 2020
1610704847953.98.parquet/14696
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 2845, "url": "https://phimsex.red/dmca" }
131.2
Tiểu luận: So sánh cơ chế bảo hiến của Hoa Kỳ và Pháp - Đề Thi Luật Trang chủ Đăng nhập Đề Thi Luật Góc học tập Sinh viên Luật Tài liệu ôn thi Trắc nghiệm Nhận định Tự luận Bài tập Đề thi Thảo luận – Tiểu luận Trang chủ » nhận định đúng sai môn luật hôn nhân và gia đình » Tiểu luận: So sánh cơ chế bảo hiến của Hoa Kỳ và Pháp Tiểu luận: So sánh cơ chế bảo hiến của Hoa Kỳ và Pháp 04/01/2017 04/01/2017 dethiluat 0 Comment 4.4 / 5 ( 8 bình chọn ) So sánh cơ chế bảo hiến của Hoa Kỳ và Pháp Lời mở đầu Mục Lục: Lời mở đầu So sánh cơ chế bảo hiến của Hoa Kỳ và Pháp Về cơ sở hình thành cơ chế bảo hiến Về chủ thể có thẩm quyền bảo hiến Về tính chất giám sát Về phạm vi thẩm quyền Về nhiệm kỳ của các cá nhân được trao quyền bảo hiến. Ở bất kỳ quốc gia nào, Hiến pháp cũng được tôn vinh như một đạo luật có hiệu lực pháp lý tối cao trong toàn bộ hệ thống pháp luật cũng như đời sống xã hội. Hiến pháp là văn bản giới hạn quyền lực Nhà nước nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân bằng những chuẩn mực pháp lý. Đó là đạo luật đặt nền tảng cho việc xây dựng tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trong khi hoạt động của các cơ quan công quyền, phạm vi điều chỉnh quan trọng của Hiến pháp luôn chứa đựng nguy cơ cao trong việc xâm hại những ranh giới hiến định. Chính hoạt động bảo hiến sẽ là sự bảo đảm để quyền con người, quyền công dân không bị xâm phạm bởi sự vi phạm đó. Hiến pháp là đạo luật gốc của quốc gia, là kim chỉ nam cho tất cả các đạo luật khác ban hành trên tất cả các lĩnh vực. Chủ thể ban hành văn bản pháp luật suy cho cùng cũng là những con người, không thể tránh khỏi những sai sót trong khi hậu quả của một đạo luật trái với Hiến pháp có khả năng gây thiệt hại rất lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Bảo hiến sẽ góp phần kiểm soát mọi hoạt động của các chủ thể, đặc biệt là cơ quan Nhà nước trong giới hạn của Hiến pháp, loại bỏ những đạo luật vi hiến khỏi đời sống xã hội. Vì tầm quan trọng đặc biệt đó, Hiến pháp đòi hỏi phải được mọi chủ thể trong xã hội tôn trọng, thực hiện và bảo vệ. Do đó, đã có Hiến pháp thì nhất định phải có cơ chế bảo hiến nếu không muốn đạo luật gốc của một quốc gia trở thành những lời tuyên ngôn sáo rỗng, hình thức. Điều kiện tối quan trọng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền là thực hiện và đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp, cũng chính là xây dựng cơ chế bảo hiến chuyên nghiệp và hiệu quả. Về cơ chế bảo hiến, không có một mô hình bảo hiến nào là tối ưu hoàn toàn và có thể áp dụng cho tất cả các quốc gia trên thế giới. Việc áp dụng cơ chế bảo hiến nào hoàn toàn phụ thuộc vào sự lựa chọn của Nhà nước đó dựa trên tổng thể các yếu tố lịch sử, xã hội, kinh tế, chính trị, đặc thù. Qua quá trình tìm hiểu, nhóm đã xác định được 3 mô hình bảo hiến được áp dụng phổ biến hiện nay dựa trên sự phân chia thẩm quyền bảo hiến cho các chủ thể khác nhau, đó là: mô hình chức năng bảo hiến thuộc về Quốc hội (thường ở các nước đại nghị như Anh), mô hình Tòa án thẩm quyền chung thực hiện cả chức năng bảo hiến (Mỹ, Nhật Bản…), mô hình cơ quan bảo hiến độc lập như Hội đồng bảo hiến của Pháp hay Tòa án Hiến pháp của Nga. Tiểu luận: So sánh cơ chế bảo hiến của Hoa Kỳ và Pháp – Ảnh: dethiluat.com So sánh cơ chế bảo hiến của Hoa Kỳ và Pháp Về cơ sở hình thành cơ chế bảo hiến Hoa Kỳ: là quốc gia đầu tiên trên thế giới trao cho các tòa án quyền phán quyết về tính hợp hiến của các văn bản luật và văn bản dưới luật. Trong toàn bộ Hiến pháp Mỹ nhìn chung không có điều nào quy định trao cho Tòa án thẩm quyền tuyên bố một đạo luật do Nghị viện ban hành là vi hiến. Việc tòa án được quyền phán quyết tính hợp hiến của các văn bản luật và văn bản dưới luật được xác định từ năm 1803 sau vụ án nổi tiếng của nước Mỹ – vụ án John Marbury chống Madison. Kết luận, cơ sở hình thành cơ chế bảo hiến của Hoa Kỳ là từ án lệ, Giải quyết vụ án Marbury và Madison, Chánh án Tòa án tối cáo John Marshall đã đưa ra các tuyên bố sau: Hiến pháp là luật tối cao của đất nước; những luật hay quyết định được đưa ra bởi cơ quan lập pháp là một bộ phận của Hiến pháp và không được trái với Hiến pháp; thẩm phán, người đã từng tuyên thệ bảo vệ Hiến pháp, phải tuyên bố hủy bỏ những luật lệ quy định nào của cơ quan lập pháp mâu thuẫn với Hiến pháp. Ba tuyên bố trên đây đã xác lập chức năng bảo hiến của tòa án và quyền tài phán của tòa án về các quyết định của lập pháp và hành pháp liên quan đến Hiến pháp. Trong vụ án này, J.Marshall đã rất khôn ngoan khi từ bỏ 1 lợi ích nhỏ để hướng đến một mục đích lớn hơn. Giúp cho hệ thống các cơ quan Tòa án Mỹ không những có chức năng xét xử các hành vi vi phạm pháp luật của công dân mà còn có chức năng kiểm soát, hạn chế quyền lực của các cơ quan lập pháp và hành pháp. Tòa án Mỹ có khả năng kìm chế đối trọng, đương đầu với 2 nhánh quyền lực còn lại (Lập pháp và Hành pháp) Pháp: Hiến pháp ngày 04/10/1958 đánh dấu sự ra đời của nền Cộng hòa thứ V – chính thể hiện hành của nước Pháp. Hiến pháp thiết lập chế độ Cộng hòa lưỡng tính dựa trên chế độ Nghị viện hợp lý và xu hướng đề cao vai trò của Tổng thống. Lần đầu tiên, Hiến pháp Pháp quy định việc thành lập một cơ quan chuyên trách bảo vệ Hiến pháp – Hội đồng Hiến pháp. Như vậy, cơ sở hình thành cơ chế bảo hiến của Pháp là do Hiến pháp quy định và trao cho Hội đồng bảo hiến của Cộng hòa Pháp được Tổng thống Charles De Gaulle thành lập năm 1958 thật ra là những toan tính, thủ đoạn chính trị của ông, là công cụ trong tay Tổng thống nhằm làm suy yếu Nghị viện, tăng cường quyền lực cho Tổng thống Cộng hòa Pháp (Tổng thống được phủ quyết Luật). Về chủ thể có thẩm quyền bảo hiến Hoa Kỳ: Bảo hiến ở Mỹ được thực hiện theo cơ chế giám sát tư pháp với mô hình phi tập trung (Diffuse system). Mô hình này theo hướng trao thẩm quyền trong giám sát việc bảo hiến cho hệ thống các cơ quan Tòa án, kể cả Tòa án của các bang và hệ thống Tòa án liên bang, trong đó Tối cao pháp viện là cơ quan thẩm định tối cao tính hợp hiến của các đạo luật cụ thể. Bất kỳ Tòa nào cũng có thẩm quyền phán quyết tính hợp hiến của một đạo luật nhưng phán quyết của Tối cao pháp viện – cấp tòa cao nhất của hệ thống Tòa án Mỹ mới có tính bắt buộc đối với các Tòa án còn lại. Tính phi tập trung còn thể hiện ở việc xem xét một đạo luật có vi hiến hay không chỉ được tiến hành khi đạo luật đó được áp dụng vào một vụ việc cụ thể, khi đó Tòa án xét xử vụ việc đó mới thực hiện bảo hiến – tức tuyên bố đạo luật đó vi hiến. Như vậy, tất cả các Tòa án ở Mỹ đều có quyền xem xét tính hợp hiến của các đạo luật trong một vụ việc cụ thể, họ phải áp dụng chúng và các Tòa án có quyền từ chối áp dụng những đạo luật này khi thấy chúng không phù hợp với Hiến pháp. Thẩm quyền này của Tòa án không được quy định trong Hiến pháp mà được hình thành từ chức năng giải thích Hiến pháp được chánh án J. Marshall – Tối cao pháp viện sáng tạo ra năm 1803 sau vụ án Marbury kiện Madison: “Chỉ có Tòa án mới có quyền và nghĩa vụ tuyên bố cái gì được gọi là luật”, “Một văn bản trái với Hiến pháp không phải là luật”. Tiền lệ này đã đặt nền tảng cho Mỹ về hoạt động bảo hiến với đặc điểm chính là sự giám sát bảo hiến do chính các Tòa án có thẩm quyền chung thực hiện. Ưu điểm của cơ chế bảo hiến theo mô hình phi tập trung là có nhiều cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động bảo hiến – tất cả các Tòa án đều có thể tuyên bố một đạo luật là vi hiến khi xem xét chúng trong một vụ việc cụ thể nên khả năng phát hiện và tiếp cận sẽ dễ dàng. Thêm vào đó, do sự độc lập của nhánh tư pháp và của các Tòa thuộc hệ thống Tòa án Liên bang và Tòa thuộc hệ thống Tòa án các tiểu bang nên sự ảnh hưởng trong hoạt động của mỗi cơ quan hầu như rất hạn chế. Nhược điểm của cơ chế giám sát này là do không có sự thống nhất trong hệ thống nên dễ tạo ra tình trạng mâu thuẫn giữa các Tòa – do cách giải thích Hiến pháp của các Chánh án là khác nhau. Việc tìm kiếm thông tin liên quan cũng gặp nhiều khó khăn – rất khó để tìm kiếm một cách nhanh chóng một đạo luật vì sao bị tuyên bố vi hiến theo phán quyết của một Tòa án nào đó trong hệ thống Tòa án ở Mỹ. Hơn nữa, do Tòa án nào cũng có thẩm quyền về bảo hiến nên đòi hỏi các Chánh án phải có trình độ chuyên môn cao, được đào tạo bài bản, có hiểu biết sâu rộng về Hiến pháp Liên bang để thực hiện tốt hoạt động bảo hiến. Pháp: Khác với mô hình giám sát bảo hiến phi tập trung của Mỹ – hoạt động bảo hiến gắn liền với hệ thống Tòa án, mọi vụ việc về những vấn đề liên quan đến Hiến pháp đều do các Tòa có thẩm quyền chung xem xét thì cơ chế bảo hiến ở Pháp được thực hiện theo mô hình tập trung, tức là thẩm quyền thực hiện bảo hiến chỉ thuộc về một cơ quan duy nhất là Hội đồng Hiến pháp – Conseil Constitutionnel (Hội đồng bảo hiến), được thành lập với sự tham gia của nhóm hành pháp và lập pháp. Việc tham gia của cả hai nhánh cơ quan quyền lực trên vào cơ quan bảo hiến chuyên trách này có thể tránh được khả năng phải phục tùng một nhánh, điều này đảm bảo được sự độc lập của Hội đồng Hiến pháp trong hoạt động giám sát các vấn đề hiến định của mình. Ưu điểm của cơ chế: do Hội đồng Hiến pháp là cơ quan chuyên trách về bảo hiến nên hoạt động của cơ quan này luôn được xuyên suốt và không gặp trở ngại từ các cơ quan khác, do đó, sẽ không xuất hiện tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn trong hoạt động bảo hiến như ở Mỹ. Ngoài ra, khi cần tìm kiếm thông tin liên quan đến vấn đề bảo hiến, chỉ cần liên hệ với Hội đồng Hiến pháp. Nhược điểm: do tính chất chuyên trách nên cần phải có một Hội đồng Hiến pháp với cơ cấu tổ chức chặt chẽ (đòi hỏi quy mô cả về cơ cấu tổ chức và chuyên môn nghiệp vụ) với các thành viên được đào tạo chuyên sâu, bài bản, có kiến thức sâu rộng về Hiến pháp và áp lực công việc đối với việc bảo hiến là rất lớn do khối lượng công việc nhiều hơn. Về tính chất giám sát Giám sát cụ thể hay trừu tượng Hoa Kỳ: ở Mỹ hình thành hệ thống giám sát cụ thể. Quyền bảo hiến gắn liền với việc giải quyết các vụ việc cụ thể. Trên cơ sở Hiến pháp và các đạo luật được áp dụng giải quyết một vụ việc. Tòa án sẽ xem xét áp dụng đạo luật đó hoặc từ chối áp dụng khi đạo luật có dấu hiệu vi hiến. Chỉ có tòa án mới được xem xét tính bảo hiến trong trường hợp có sự liên quan trực tiếp các quyền và lợi ích hợp pháp của người đề nghị. Như vậy, tiền đề để quyền bảo hiến được tòa án xem xét tới và giải quyết là khi có vụ kiện liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các chủ thể cụ thể. Ưu điểm: Cơ chế giám sát cụ thể luôn mang tính rõ ràng, thể hiện nội dung của đạo luật có vi hiến hay không ở điểm nào, mục nào, có thể vô hiệu trên thực tế ở những nội dung nào hay toàn bộ, có thể xác định rõ được đạo luật có vi hiến hay không về cả mặt câu chữ và cả mặt thực tiễn khi thi hành và áp dụng do nó được đặt trong một vụ việc, một tranh chấp cụ thể. Nhược điểm: việc giám sát cụ thể lại dựa trên kiện tụng – tiền đề xem xét của Tòa án về tính hợp hiến thì khả năng bao quát, cái nhìn toàn diện cho một đạo luật có hợp hiến hay không luôn bị thu hẹp và phụ thuộc nhiều vào cách đánh giá, nhìn nhận chủ quan của các Thẩm phán. Pháp: hình thành cơ chế giám sát mang tính trừu tượng. Quyền bảo hiến gắn liền với hoạt động giám sát trước khi công bố một đạo luật. Không cần tới một vụ kiện cụ thể, việc giám sát tuân thủ Hiến pháp diễn ra khi đạo luật chưa được áp dụng trên thực tế, việc tuyên bố một đạo luật là vi hiến cũng không dựa trên việc nó xâm phạm cụ thể đến quyền lợi của chủ thể nào trong xã hội mà dựa trên hiến pháp và các nguyên tắc có giá trị như hiến pháp, một đạo luật được xem xét tính hợp hiến bởi Hội đồng bảo hiến hoặc Hội đồng hiến pháp. Từng tính chất hay nội dung được giám sát chung, tổng quát dựa trên các lí do và cơ sở. Ưu điểm: Hệ thống giám sát này luôn đi kèm với việc ban hành một đạo luật có hợp hiến hay không, đảm bảo tính hợp hiến ngay từ khi có hiệu lực dựa trên hiến pháp. Nhược điểm: cách đánh giá một đạo luật có hợp hiến hay không chỉ dừng lại ở mặt lý thuyết, câu chữ, thiếu thực tế. Đạo luật bị hủy bỏ có thể vi hiến về mặt câu chữ nhưng khi áp dụng trên thực tế thì hoàn toàn hợp hiến và vẫn đảm bảo được quyền và lợi ích hơp pháp của các chủ thể. Giám sát trước hay sau Hoa kỳ: với cơ chế giám sát sau thì sau khi một đạo luật được ban hành bởi Nghị viện thì đạo luật đó có hiệu lực. Tòa án tư pháp không có thẩm quyền tuyên bố hủy hay vô hiệu một đạo luật đó dù nó có vi hiến. Đặc biệt, Tòa án chỉ được xem xét tính hợp hiến khi đạo luật đó đã chính thức có hiệu lực pháp luật. Ưu điểm: Cơ chế giám sát sau luôn được thể hiện một cách rõ ràng, khi mà những đạo luật bị xem xét trong một trường hợp cụ thể, thể hiện được tăng cường cơ chế kìm chế, đối trọng, nâng cao vai trò kiểm sát của tòa án đối với cơ quan lập pháp. Nhược điểm: việc giám sát sau nếu không được kiện tụng – tiền đề để xem xét, thì nó mãi luôn là đạo luật vi hiến ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong một tương lai gần (sự xâm hại của một đạo luật vi hiến luôn hiện hữu). Không những vậy, việc giám sát sau đồng nghĩa với việc công dân đã bị thiệt hại về quyền và lợi ích trên thực tế rồi mới được kiện tụng để xem xét tính hợp hiến của một đạo luật. (đạo luật vi hiến luôn có khả năng xâm hại đến chủ thể khác ít nhất là một lần) Pháp: cơ chế giám sát trước. Khi một đạo luật đã được Nghị viện thông qua, đang trong thời gian công bố và các Điều ước quốc tế đang chờ phê chuẩn thì việc giám sát tính hợp hiến được thực hiện bắt buộc đối với những đạo luật về tính chất và nội dung hoạt động của Nghị viện do Nghị viện ban hành trước khi có hiệu lực pháp luật; không bắt buộc đối với những đạo luật khác. Tổng thư ký văn phòng Chính Phủ có trách nhiệm kiểm tra các kiến nghị về việc xem xét tính hợp hiến trước khi ban hành. Ưu điểm Giám sát trước giúp cho đạo luật được hợp lý, đúng đắn hơn và không vi hiến, tránh được tình trạng đạo luật vi hiến gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân rồi mới đươc xem xét, sửa đổi Nhược điểm cơ chế giám sát trước thực hiện một cách hình thức, khi chưa có thực tiễn để nhận biết rõ đạo luật đó trên thực tế có vi hiến hay không để sửa đổi hay xóa bỏ. Về phạm vi thẩm quyền Hoa Kỳ: Hoạt động bảo hiến không tách rời khỏi hệ thống Tòa án nói chung; ở đây không có dạng vụ việc cụ thể về các vấn đề hiến định mà có thể có mặt ở bất cứ vụ việc dân sự, hình sự, hành chính, thương mại nào. Ở Mỹ không có sự phân chia cụ thể về phạm vi thẩm quyền trong lĩnh vực hiến pháp mà phạm vi này phụ thuộc vào tính chất của vụ việc được xem xét. Các Tòa án ở Hoa Kỳ có thể thực hiện tất cả các thẩm quyền thuộc lĩnh vực bảo hiến như: Thẩm quyền liên quan đến việc đảm bảo tính tối thượng của Hiến pháp trong hệ thống pháp luật quốc gia: giám sát tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật, giải thích Hiến pháp. Theo thẩm quyền này, nếu Tòa án cho rằng một đạo luật không hợp hiến thì đạo luật đó không được Tòa án áp dụng trong các vụ việc tiếp theo. Thẩm quyền liên quan tới sự đảm bảo tuân thủ nguyên tắc phân công quyền lực: xem xét những tranh chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước – giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp, giữa liên bang và các tiểu bang. Thẩm quyền liên quan tới việc bảo vệ các quyền tự do hiến định như các quyền công dân, quyền bầu cử, quyền trưng cầu dân ý,… Thẩm quyền liên quan tới việc bảo vệ hiến pháp khỏi sự xâm phạm của các quan chức nhà nước cao cấp. Ưu điểm: Như vậy, phạm vi thẩm quyền của Hoa Kỳ được xác định dựa trên thẩm quyền chung như là giải quyết một vụ việc cụ thể. Chúng có thể có mặt ở bất cứ vụ việc nào, cho dù đó là vụ hình sự, dân sự, hành chính, và được phán xét ở các toà có thẩm quyền chung, theo một trình tự chung. Phạm vi đó phụ thuộc vào tính chất của vụ việc được xem xét và trong nhiều trường hợp – vào sự suy xét của toà. Với cơ chế này, Tòa án không hề chịu bất cứ sự hạn chế nào về thẩm quyền trong việc xem xét tính vi hiến của một đạo luật. Miễn là đạo luật đó vi hiến và khi áp dụng đạo luật vào giải quyết vụ việc cụ thể sẽ xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể Nhược điểm: Tuy nhiên, việc trao thẩm quyền bảo hiến dựa trên thẩm quyền giải quyết một vụ việc cụ thể sẽ tạo ra quyền hạn quá lớn cho cơ quan tư pháp, phá vỡ cơ chế kiềm chế đối trọng giữa ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp. Cơ quan tư pháp hoàn toàn có thể sử dụng quyền năng này như một chiêu trò chính trị nhằm chống lại hoạt động của cơ quan lập pháp. Pháp: Do Hội đồng Hiến pháp là cơ quan chuyên biệt về bảo hiến ở Pháp nên có các thẩm quyền sau: Giải thích Hiến pháp và xem xét tính hợp hiến của các đạo luật: Thẩm tra tính hợp pháp của hoạt động ban hành pháp luật của các cơ quan nhà nước (Điều 37, 41 Hiến pháp Cộng hòa Pháp 1958); thẩm tra tính hợp hiến của các đạo luật (bắt buộc đối với các đạo luật tổ chức, không bắt buộc đối với các đạo luật khác), tính hợp hiến của các điều ước quốc tế (Điều 54, thẩm tra không bắt buộc); Giải quyết tranh chấp về bầu cử và trưng cầu ý dân: Thẩm tra tính hợp pháp của các thủ tục trưng cầu ý dân, bầu cử Tổng thống, bầu cử Nghị viện, tuyên bố kết quả bầu cử Tổng thống, tuyên bố Tổng thống tạm thời không đảm nhiệm được chức vụ hoặc xác định vị trí Tổng thống bị khuyết; Giám sát Hiến pháp về vấn đề quyền con người: Hội đồng đã phát triển một hệ thống án lệ cho phép bảo vệ các quyền và tự do cá nhân dựa trên lời mở đầu của Tuyên ngôn về quyền con người và quyền công dân và các nguyên tắc cơ bản được pháp luật thừa nhận. Giám sát Hiến pháp trong việc giải quyết tranh chấp giữa Nghị viện và Chính phủ; Khác với căn cứ xác định phạm vi thẩm quyền theo cơ chế bảo hiến Hoa Kỳ, phạm vi thẩm quyền theo cơ chế bảo hiến của Pháp được trao bởi chính Hiến pháp Cộng hòa Pháp. Phạm vi thẩm quyền này mang tính chất chuyên biệt mà các cơ quan tư pháp khác không có Ưu điểm của cơ chế này là phạm vi thẩm quyền được liệt kê một cách cụ thể và chịu sự giới hạn nhất định bởi Hiến pháp. Thẩm quyền được tập trung toàn bộ vào một cơ quan và cơ quan này sẽ phải chịu trách nhiệm về vấn đề bảo hiến, điều này đảm bảo sự độc lập trong hoạt động của Hội đồng Hiến pháp. Và việc giám sát bảo hiến cũng sẽ được diễn ra một cách khách quan và hiệu quả hơn – do chỉ thông qua một cơ quan duy nhất và độc lập với các nhánh quyền lực Nhược điểm: việc quy định phạm vi thẩm quyền bảo hiến một cách cụ thể sẽ kiềm hãm sự linh hoạt trong phạm vi thẩm quyền. Bởi lẽ, theo hình thức liệt kê sẽ có khả năng bỏ sót đi các thẩm quyền cần thiết cho hoạt động bảo hiến. Suy cho cùng, phạm vi thẩm quyền trong mô hình này là cứng nhắc trong khi các quan hệ xã hôi luôn phát triển theo xu hướng khách quan. Cho nên, phạm vi thẩm quyền khó mà dự liêu trước được những quan hệ xã hội sẽ phát sinh trong tương lai. Về thủ tục xem xét tính hợp hiến hay vi hiến của một đạo luật Ở Hoa Kỳ, theo thủ tục tố tụng thông thường. Không có một trình tự tố tụng dân sự hay hình sự thống nhất mà tùy theo pháp luật của liên bang cũng như của từng bang quy định. Tùy thuộc vào từng nội dung của vụ việc mà Tòa án Tối cao có thể xét xử vụ việc đó (có thể) theo thủ tục tố tụng dân sự hay thủ tục tố tụng hình sự. Thủ tục này không được quy định trong hiến pháp mà được hình thành dựa trên án lệ và được xác lập từ quyết định của Chánh án Tòa án Tối cao John Marshall trong vụ Marbury kiện Madism vào năm 1803 tạo thành một nguyên tắc trong việc xác định tính hợp hiến của các hành vi lập pháp và hành pháp. Tiếp theo án lệ này, một loạt các án lệ xác minh tính hợp hiến của các hành vi lập pháp liên tiếp ra đời, đơn cử như: Vụ Gibbons kiện Ogden (1824), Vụ Dred Scott kiện sandford (1857), Vụ Ban quan hệ lao động quốc gia (NLRB) kiện công ty thép Jones & Laughlin (1937), Vụ Brown kiện Ban giáo dục (1954),… Ưu điểm: Tòa án có thể dễ dàng xem xét được tính hợp hiến của các hành vi lập pháp, hành pháp, ngăn chặn được nhiều hành vi lập pháp, hành pháp vi hiến cụ thể. Như vậy, khả năng tiếp cận của các chủ thể trong xã hội là dễ dàng và rộng rãi hơn vì được xuất phát từ một vụ việc cụ thể và theo thủ tục thông thường – một thủ tục không quá xa lạ trong đời sống pháp luật của các chủ thể. Bất cứ ai cũng có thể yêu cầu Tòa án xem xét lại đạo luật mà khi tuân thủ đạo luật đó sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Nhược điểm: dễ tạo ra tình trạng bừa bãi, gây nhiều áp lực công việc lên cho tòa án các bang và các liên bang Pháp: Pháp luật Pháp quy định trình tự xem xét tính hợp pháp theo thủ tục hành chính-mệnh lệnh. (với một thủ tục đặc biệt được trao cho Hội đồng bảo hiến và dựa trên Hiến pháp) Khi có đề nghị của Tổng thống, Thủ tướng, Chủ tịch Thượng viện, Hạ viện hoặc 60 nghị sĩ thuộc Thượng viên hay Hạ viện, Hội đồng bảo hiến sẽ tiến hành phiên họp kín nhằm xác định tính hợp hiến của một đao luật (đối với các đạo luật hình thành bằng con đường trưng cầu dân ý, Hội đồng bảo hiến sẽ không xem xét tính hợp hiến). Đến cải cách tư pháp 2008, cá nhân cũng được quyền yêu cầu Hội đồng hiến pháp xem xét lại tính hợp hiến của các văn bản luật. Hội đồng sẽ làm việc theo tập thể và quyết định theo đa số. Cuộc họp phải có ít nhất bảy trên chín thành viên của Hội đồng bảo hiến tham dự thì mới được tiến hành. Đạo luật sẽ vi hiến trong trường hợp có quá nửa tổng số thành viên tham dự biểu quyết tán thành phán quyết cho rằng đạo luật đó vi hiến. Trong trường hợp biểu quyết ngang phiếu, thì quyền quyết định sẽ thuộc về Chủ tịch Hội đồng bảo hiến.Hội đồng Hiến pháp phải xem xét và cho ý kiến trong thời hạn một tháng. Tuy nhiên, trong trường hợp khẩn cấp, theo yêu cầu của Chính phủ, thời hạn này có thể rút gọn còn 8 ngày (Điều 61 Hiến pháp 1958 Cộng hòa Phap19. Nhược điểm: Với thủ tục này chỉ có một số chủ thể đặc biệt mới có quyền đưa ra yêu cầu xem xét tính hợp hiến của một đạo luật khiến cho khả năng tiếp cận cơ chế bảo hiến của các chủ thể tương đối khó khăn và bị giới hạn nhưng cũng đồng thời tạo ra sự khách quan khi tách bạch thẩm quyền lập pháp với việc xem xét sự hợp hiến của các đạo luật và không phụ thuộc, chồng chéo lẫn nhau. Về nhiệm kỳ của các cá nhân được trao quyền bảo hiến. Hoa Kỳ: Nhóm xin làm rõ nhiệm kỳ của các thẩm phán tòa án tối cao. Bởi tính ràng buộc áp dụng phán quyết của tòa án tối cao với các tòa án cấp dưới. Hiến pháp bảo đảm tính độc lập của nhánh tư pháp bằng cách quy định các thẩm phán liên bang được duy trì chức vụ “miễn là đạo đức tốt” – nhiệm kỳ suốt đời. Điều này có nghĩa là các thẩm phán phục vụ cho đến khi qua đời, về hưu hoặc từ nhiệm. Thẩm phán liên bang được bổ nhiệm bởi tổng thống và được phê chuẩn bởi Thượng viện. Như vậy, một thẩm phán liên bang được bổ nhiệm trọn đời bởi Tổng thống và được phê chuẩn bởi Thượng viện để hình thành nhánh lập pháp liên bang. Ưu điểm: Việc được bổ nhiệm trọn đời có thể giúp cho các thẩm phán có thể thực hiện được những phương hướng, quan điểm thống nhất trong một thời gian dài, không bị lệ thuộc vào những tổng thống về sau khi muốn bổ nhiệm ra thẩm phán, tạo nên khả năng kìm chế, đối trọng đúng nghĩa của nó. Nhược điểm: Tuy nhiên, việc bổ nhiệm trọn đời ảnh hưởng nhiều đến quan điểm chính trị, đáng phái của những đời tổng thống trước hay đảng phái trước, cản trở hay kìm kẹp đến những tổng thống và đảng phái sau này, gây ảnh hưởng đến tính khách quan của cơ chế bảo hiến Pháp: (Nhiệm kỳ của các thành viên trong hội đồng bảo hiến bị giới hạn) Điều 4 Luật Tổ chức Hội đồng bảo hiến quy định tư cách của thành viên có thể do hết nhiệm kì, không còn khả năng công tác, qua đời, thành viên không bị giới hạn ở độ tuổi, trình độ chuyên môn. Nhiệm kì của các thành viên là 9 năm, không được tái nhiệm.Cứ 3 năm 1 lần được thay đổi 1/3. Khi một thành viên bị chết, hay không còn khả năng công tác thì bổ sung thêm thành viên mới, thực hiện những nhiệm vụ còn lại. Nếu nhiệm vụ còn lại ít hơn 3 năm thì công tác đủ 9 năm là hết nhiệm kỳ. Ưu điểm: Việc Pháp quy định nhiệm kì của Hội đồng bảo hiến tạo nên sự khách quan, tính công bằng, không tạo sự ỷ lại, duy ý chí đối với việc bảo hiến như nhiệm kì trọn đời. Tuy nhiên, Việc thay đổi nhiệm kì, không được tái nhiệm tạo tư duy đổi mới, phù hợp với việc tạo ra và giám sát hiến pháp mới. Nhược điểm: quan điểm hay kinh nghiệm bảo vệ tính hợp hiến luôn bị thay đổi và ít nhiều chịu sự ảnh hưởng của đảng phái luôn nắm quyền. Về hệ quả pháp lý đối với một đạo luật bị tuyên là vi hiến Hoa Kỳ: Đối với các hành vi bị Tòa án Hoa Kỳ tuyên bố là vi hiến, Tòa án không có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung. Đặc điểm này xuất phát từ nguyên tắc phân quyền, cơ chế kiểm soát và cân bằng quyền lực giữa 3 nhánh lập pháp, hành pháp, tư pháp, không có nhánh quyền lực nào chiếm ưu thế. Quyền lập pháp thuộc về Nghị viện nên sửa đổi, bổ sung cũng là thẩm quyền của Nghị viện chứ không phải cơ quan tư pháp. Do vậy, Tòa án không có thẩm quyền hủy bỏ hiệu lực cũng như sửa đổi bổ sung đạo luật được phán xét là vi hiến. Về nguyên tắc, việc tuyên bố đạo luật là hợp hiến hay vi hiến chỉ có giá trị pháp lý trong một vụ việc cụ thể nhưng trên thực tế do hệ thống pháp luật của Hoa Kỳ tôn trọng nguyên tắc Stare Decisis (tuân thủ các pháp quyết trước đây và không phá vỡ những quy phạm pháp luật được thiết lập trong án lệ trong án lệ) cho nên khi Tòa án tối cao ra một phán quyết tuyên bố hành vi lập pháp, hành pháp là vi hiến thì Tòa án cấp dưới sẽ từ chối áp dụng hành vi vi hiến đó, từ đó hành vi vi hiến không bị bãi bỏ nhưng cũng không còn phát sinh hiệu lực trên thực tế. Do thủ tục xem xét hành vi lập pháp, hành pháp có vi hiến hay không là thủ tục thông thường – được xem xét theo thủ tục Tố tụng dân sự hoặc Tố tụng hình sự tùy theo tính chất vụ việc cụ thể – nên khi Tòa án đưa ra một phán quyết tuyên bố một hành vi lập pháp, hành pháp vô hiệu thì phán quyết này không có giá trị chung thẩm mà có thể bị kháng cáo, kháng nghị bởi một cơ quan cao hơn và bị cưỡng chế thi hành như là một vụ án thông thường. Ưu điểm: Việc chỉ cho phép Tòa án phán quyết về một hành vi lập pháp, hành pháp vi hiến mà không bãi bỏ sẽ giảm đi một quy trình không cần thiết và tốn thời gian bởi về mặt nguyên tắc, phán quyết này tuy chỉ có giá trị pháp lý trong một vụ việc cụ thể nhưng lại không thể được áp dụng bởi các tòa án cấp dưới. Đồng thời, việc cho phép cơ quan có địa vị pháp lý cao hơn so với Tòa án đưa ra phán quyết có thể kháng cáo, kháng nghị sẽ khắc phục được sai lầm của Tòa án cấp dưới trong việc đạo luật đó không vi hiến nhưng lại bị tòa án phán quyết vi hiến, đảm bảo được quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia vụ việc. Nhược điểm: gây khó khăn trong việc nghiên cứu pháp luật và ảnh hưởng đến khả năng tranh tụng của luật sư. Việc không bãi bỏ các hành vi lập pháp, hành pháp bị phán quyết là vi hiến dễ dẫn đến tình trạng gây nhầm lẫn đối với các đối tượng muốn nghiên cứu về hệ thống pháp luật Hoa Kỳ hoặc các luật sư muốn dùng án lệ để làm bằng chứng phải tốn nhiều thời gian hơn để lọc bỏ bớt các vụ việc vi hiến. Việc cho phép kháng cáo, kháng nghị của cơ quan cấp cao hơn đối với phán quyết vi hiến của Tòa án sẽ làm giảm tính tối cao của Hiến pháp. Pháp: Theo Điều 62 Hiến pháp 1958 của Cộng hòa Pháp thì khi một đạo luật bị Hội đồng hiến pháp tuyên bố là vi hiến thì sẽ không được ban hành và áp dụng. Phán quyết này của Hội đồng hiến pháp có giá trị chung thẩm, không bị khiếu nại hay kháng cáo, kháng nghị và có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các cơ quan quyền lực nhà nước và tất cả các cơ quan hành chính và tư pháp. Đạo luật sau khi được Hội đồng hiến pháp tuyên bố là vi hiến hay hợp hiến sẽ được thông qua bởi Nghị viên theo yêu cầu của Tổng thống. Theo cải cách Hiến pháp năm 2008 thì một đạo luật bị tuyên bố vi hiến theo cơ sở được quy định tại Điều 61-1 thì sẽ bị bãi bỏ giống với các văn bản được quyết định từ Hội đồng hiến pháp hoặc một thời điểm được quy định trong phán quyết đó. Việc lập ra một cơ quan riêng biệt thực hiện quyền bãi bỏ các đạo luật vi hiến sẽ tạo ra sự cân bằng giữa ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp, Hội đồng hiến pháp có thể bãi bỏ các đạo luật của cơ quan trong các nhánh quyền lực mà không chịu sự ảnh hưởng của các nhánh quyền lực tạo ra sự chính xác và hiệu quả hơn trong việc xác định tính hợp hiến của các đạo luật. Ưu điểm: Như vậy việc bãi bỏ ngay đạo luật vi hiến sẽ giúp cho hệ thống văn bản quy phạm pháp luật mang tính thống nhất cao và chỉ tuân thủ theo Hiến pháp. Các đạo luật vi hiến sẽ không có cơ hội xâm hại đến quyền và lợi ích của các chủ thể do đã bị bãi bỏ ngay từ khi chưa có hiệu lực pháp luật. Nhược điểm: Tuy nhiên, khi quy định cho các phán quyết có thẩm quyền chung thẩm, không bị kháng cáo, kháng nghị thì dễ dẫn đến việc sai lầm trong việc xác định tính hợp hiến của các đạo luật nhưng không thể sửa đổi được, gây nên việc lãng phí về thời gian, công sức khi đạo luật đó là hợp hiến nhưng lại bị tuyên là vi hiến. Điều này có thể làm cho quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của các chủ thể không thể bảo đảm. Mạnh Hùng – CTV dethiluat.com Tham khảo thêm: Cơ chế bảo hiến qua các bản Hiến pháp Việt Nam 0 0 vote Article Rating Category: Môn Luật Hiến pháp nước ngoài Tags: câu hỏi lý thuyết môn giám sát hiến pháp/ câu hỏi lý thuyết môn luật hiến pháp nước ngoài/ câu hỏi lý thuyết môn luật hiến pháp việt nam Bài viết liên quan: Cơ chế bảo hiến qua các bản Hiến pháp Việt Nam Thực trạng của cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay Những bất cập và kiến nghị hoàn thiện cơ chế bảo hiến ở Việt Nam Tác giả: dethiluat: View My Blog Posts Previous Post: « Cơ chế bảo hiến qua các bản Hiến pháp Việt Nam Next Post: Đề thi Pháp luật thương mại ASEAN lớp Chất lượng cao 38A » Subscribe Notify of new follow-up comments new replies to my comments {} [+] Name* Email* Website {} [+] Name* Email* Website 0 Comments Inline Feedbacks View all comments Primary Sidebar Tìm kiếm: Bài viết mới Hỏi đáp nhận định môn Luật Hôn nhân và gia đình Nhận định có đáp án áp dụng Luật Hôn nhân gia đình 2014 Nhận định Luật hôn nhân và gia đình – CÓ ĐÁP ÁN Luật Nuôi con nuôi 2010 Luật Hộ tịch 2014 – Số hiệu 60/2014/QH13 Phản hồi gần đây xuan hieu trong Đề thi môn luật ngân hàng lớp Văn bằng 2 năm 2018 có đáp án DANG NANG AN trong Đề thi môn luật tố tụng hành chính năm 2018 lớp CLC40D HOÀNG trong Đề thi hết môn Logic học lớp HC38A – HS38A – ĐH Luật TPHCM Trang trong Nhận định môn Luật Dân sự 2 – quyền sở hữu và quyền thừa kế nhitran trong Các nhận định có đáp án luật tố tụng dân sự thường gặp Xem thêm: Cơ chế bảo hiến qua các bản Hiến pháp Việt Nam Thực trạng của cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay Bạn bè: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam Copyright © 2021 · Paradise on Genesis Framework · WordPress · Log in wpDiscuz 0 0 Would love your thoughts, please comment.x () x | Reply Insert
1610704847953.98.parquet/166875
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 27654, "url": "https://dethiluat.com/so-sanh-co-che-bao-hien-cua-hoa-ky-va-phap/" }
131
Tài liệu Luận văn kinh tế so sánh pháp luật về hợp đồng lao động việt nam và hàn quốc Menu Luận văn - Báo cáo Kinh tế thương mại Công nghệ thông tin Quản trị mạng Lập trình Đồ họa Web Hệ thống thông tin Thương mại điện tử Lập trình di động Công nghệ - Môi trường Y khoa - Dược Khoa học xã hội Quan hệ quốc tế Giáo dục học Đông phương học Việt Nam học Văn hóa - Lịch sử Xã hội học Báo chí Tâm lý học Văn học - Ngôn ngữ học Khoa học tự nhiên Toán học Vật lý Hóa học Sinh học Địa lý - Địa chất Nông - Lâm - Ngư Lâm nghiệp Nông học Chăn nuôi Thú y Thủy sản Công nghệ thực phẩm Cao su - Cà phê - Hồ tiêu Báo cáo khoa học Thạc sĩ - Cao học Kinh tế Khoa học xã hội Khoa học tự nhiên Công nghệ thông tin Kỹ thuật Nông - Lâm - Ngư Kiến trúc - Xây dựng Luật Sư phạm Y dược - Sinh học Tiến sĩ Kinh tế - Quản lý Dịch vụ - Du lịch Bất động sản Tài chính - Ngân hàng Quản trị kinh doanh Kế toán Kiểm toán Xuất nhập khẩu Chứng khoán Tài chính thuế Marketing Bảo hiểm Định giá - Đấu thầu Lý luận chính trị Triết học Mác - Lênin Đường lối cách mạng Kinh tế chính trị Chủ nghĩa xã hội khoa học Tư tưởng Hồ Chí Minh Kỹ thuật Giao thông - Vận tải Điện - Điện tử Viễn thông Cơ khí - Vật liệu Kiến trúc - Xây dựng Tài chính - Ngân hàng Ngân hàng - Tín dụng Kế toán - Kiểm toán Tài chính doanh nghiệp Đầu tư chứng khoán Đầu tư Bất động sản Bảo hiểm Quỹ đầu tư Công nghệ thông tin Thủ thuật máy tính Kỹ thuật lập trình Quản trị mạng Thiết kế - Đồ họa Hệ điều hành Cơ sở dữ liệu Quản trị web Tin học văn phòng An ninh bảo mật Phần cứng Chứng chỉ quốc tế Giáo dục - Đào tạo Luyện thi - Đề thi Thi THPT Quốc Gia Môn toán Môn văn Môn tiếng Anh Vật lý Hóa học Sinh học Lịch sử Địa ly Công chức - Viên chức Đề thi lớp 1 Đề thi lớp 2 Đề thi lớp 3 Đề thi lớp 4 Đề thi lớp 5 Đề thi lớp 6 Đề thi lớp 7 Đề thi lớp 8 Đề thi lớp 9 Đề thi lớp 10 Đề thi lớp 11 Đề thi lớp 12 Tuyển sinh lớp 10 Môn toán Môn văn Môn tiếng Anh Luyện thi Đại học - Cao đẳng Khối A Môn toán Môn lý Môn hóa Môn tiếng Anh A1 Khối B Môn toán Môn hóa Môn sinh Khối C Môn văn Môn lịch sử Môn địa lý Khối D Môn toán Môn văn Môn tiếng Anh Quy chế tuyển sinh Quy chế tuyển sinh 2015 Mầm non - Mẫu giáo Mẫu giáo bé Mẫu giáo nhỡ Mẫu giáo lớn Tiểu học Lớp 1 Lớp 2 Lớp 3 Lớp 4 Lớp 5 Trung học cơ sở Lớp 6 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 9 Trung học phổ thông Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Cao đẳng - Đại học Đại cương Y dược Chuyên ngành kinh tế Khoa học xã hội Luật Công nghệ thông tin Sư phạm Kiến trúc xây dựng Kỹ thuật công nghệ Giáo dục hướng nghiệp Vật lý Toán học Sinh học Lịch sử Địa lý GDCD-GDNGLL Âm nhạc Mỹ thuật Thể dục Công nghệ Tin học Tiếng Anh Luật Văn học Hóa học Giáo án - Bài giảng Mầm non Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông Giáo án điện tử Bài giảng điện tử Sáng kiến kinh nghiệm Ngoại ngữ Tiếng Nhật - Hàn Tiếng Nga - Trung - Pháp TOEFL - IELTS - TOEIC Ngữ pháp tiếng Anh Anh ngữ phổ thông Anh văn thương mại Anh ngữ cho trẻ em Kỹ năng nghe tiếng Anh Kỹ năng nói tiếng Anh Kỹ năng đọc tiếng Anh Kỹ năng viết tiếng Anh Chứng chỉ A,B,C Kiến thức tổng hợp Kế toán - Kiểm toán Kế toán Kiểm toán Kinh tế - Quản lý Quản lý nhà nước Tiêu chuẩn - Qui chuẩn Quản lý dự án Quy hoạch đô thị Kinh doanh - Tiếp thị Quản trị kinh doanh Internet Marketing Kế hoạch kinh danh Thương mại điện tử Tiếp thị - Bán hàng PR - Truyền thông Kỹ năng bán hàng Tổ chức sự kiện Sách - Truyện đọc Truyện dài Ngôn tình Sách-Ebook Kinh tế Ngoại ngữ Công nghệ Văn hóa giải trí Giáo dục học tập Y học Truyện văn học Truyện thiếu nhi Truyện kiếm hiệp Truyện cười Truyện Ma - Kinh dị Truyện ngắn Tiểu thuyết Tự truyện Văn hóa - Nghệ thuật Báo chí - Truyền thông Âm nhạc Ẩm thực Khéo tay hay làm Chụp ảnh - Quay phim Mỹ thuật Điêu khắc - Hội họa Thời trang - Làm đẹp Sân khấu điện ảnh Du lịch Tôn giáo Kỹ thuật - Công nghệ Điện - Điện tử Kỹ thuật viễn thông Cơ khí chế tạo máy Tự động hóa Kiến trúc xây dựng Hóa học - Dầu khi Năng lượng Y tế - Sức khỏe Y học Sức khỏe - dinh dưỡng Sức khỏe trẻ em Sức khỏe phụ nữ Sức khỏe người lớn tuổi Sức khỏe giới tính Khoa học tự nhiên Toán học Vật lý Hóa học - Dầu khi Sinh học Môi trường Khoa học xã hội Triết học Lịch sử Địa lý Văn học Biểu mẫu - Văn bản Biểu mẫu Văn bản Thủ tục hành chánh Hợp đồng Nông - Lâm - Ngư Nông nghiệp Lâm nghiệp Ngư nghiệp Kỹ năng mềm Tâm lý - Nghệ thuật sống Kỹ năng quản lý Kỹ năng tư duy Kỹ năng giao tiếp Kỹ năng thuyết trình Kỹ năng lãnh đạo Kỹ năng phỏng vấn Kỹ năng đàm phán Kỹ năng tổ chức Kỹ năng làm việc nhóm Thể loại khác Phật Chưa phân loại Văn khấn cổ truyền Phong Thủy Upload Đăng nhập Trang chủ Luận văn - Báo cáo Kinh tế thương mại Luận văn kinh tế so sánh pháp luật về hợp đồng lao động việt nam và hà... Tài liệu Luận văn kinh tế so sánh pháp luật về hợp đồng lao động việt nam và hàn quốc Số trang: 162 | Loại file: PDF | Lượt xem: 155 | Lượt tải: 0 okyeuniterd Tham gia: 20/08/2016 Tải xuống Đang tải nội dung... Xem thêm (5 trang) Tải về Mô tả: LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực và tôi xin chịu trách nhiệm về tất cả những số liệu và kết quả nghiên cứu đó. Luận án này chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận án Park Jae Myung LỜI CẢM ƠN Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến Thầy giáo TS. Lưu Bình Nhưỡng và Cô giáo PGS.TS. Trần Thị Thuý Lâm đã trực tiếp hướng dẫn tận tình về phương pháp nghiên cứu và cách làm việc khoa học để tôi có thể hoàn thành được Luận án của mình. Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành Luận án, tôi đã nhận được sự giúp đỡ quý báu của các cán bộ, giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa sau đại học Trường Đại học Luật Hà nội. Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn tới Thầy giáo Lee John, gia đình và bạn bè, những người đã động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học của mình. Xin trân trọng cảm ơn! DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 1. BLLĐ Bộ luật lao động 2. HĐLĐ Hợp đồng lao động 3. ILO Tổ chức lao động quốc tế 4. LTCLĐ Luật tiêu chuẩn lao động 5. NLĐ Người lao động 6. NSDLĐ Người sử dụng lao động 7. Nxb Nhà xuất bản 8. NQLĐ Nội quy lao động 9. QHLĐ Quan hệ lao động 10. TTLĐ Thị trường lao động 11. TƯLĐTT Thỏa ước lao động tập thể 12. XHCN Xã hội chủ nghĩa MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ..................................... 6 1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước và nước ngoài ............................................... 6 1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam .................................................................. 6 1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Hàn Quốc ............................................................... 13 1.1.3. Tình hình nghiên cứu tại một số nước khác trên thế giới .............................. 16 1.2. Những vấn đề đã nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và một số nhận xét đánh giá ................................................................................................................. 18 1.3. Những vấn đề cơ bản cần giải quyết trong luận án .......................................... 21 1.4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu. ................................................. 22 Kết luận chương 1………………………………………………………………….23 CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNGVÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG ......................................................... 24 2.1. Một số vấn đề lý luận về hợp đồng lao động ................................................... 24 2.1.1. Khái niệm hợp đồng lao động ...................................................................... 24 2.1.2. Đặc điểm ..................................................................................................... 25 2.1.3. Vai trò của hợp đồng lao động ...................................................................... 27 2.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật hợp đồng lao động .................................... 28 2.2.1. Khái niệm pháp luật hợp đồng lao động ....................................................... 28 2.2.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật về hợp đồng lao động ................................... 29 Kết Luận chương 2…………………………………………………………………49 CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG TỪ GÓC ĐỘ SO SÁNH GIỮA VIỆT NAM VÀ HÀN QUỐC .................................... 50 3.1. Giao kết Hợp đồng lao động ........................................................................... 50 3.1.1. Chủ thể giao kết hợp đồng lao động ............................................................. 50 3.1.2. Về nguyên tắc giao kết Hợp đồng lao động .................................................. 57 3.1.3. Hình thức Hợp đồng lao động ...................................................................... 60 3.1.4. Nội dung Hợp đồng lao động ....................................................................... 63 3.1.5. Loại Hợp đồng lao động .............................................................................. 67 3.1.6. Trình tự giao kết Hợp đồng lao động ............................................................ 70 3.1.7. Hợp đồng lao động vô hiệu .......................................................................... 83 3.2. Thực hiện Hợp đồng lao động ......................................................................... 88 3.2.1. Điều chuyển công việc ................................................................................. 88 3.2.2. Sửa đổi, bổ sung Hợp đồng lao động ........................................................... 92 3.2.3. Tạm hoãn Hợp đồng lao động ...................................................................... 98 3.3. Chấm dứt Hợp đồng lao động ....................................................................... 101 3.3.1. Căn cứ và thủ tục chấm dứt Hợp đồng lao động ......................................... 101 3.3.2. Trách nhiệm và quyền lợi các bên khi chấm dứt Hợp đồng lao động .......... 122 3.4. Nhận xét, đánh giá chung về những điểm tương đồng và khác biệt trong pháp luật Việt Nam, Hàn quốc về hợp đồng lao động và cơ sở luận giải ....................... 127 Kết luận chương 3……….………………………………………………………..132 CHƯƠNG 4: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM VÀ HÀN QUỐC ....................................................................................... 133 4.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về Hợp đồng lao động của Việt Nam và Hàn Quốc.................................................................................................................... 133 4.1.1. Bảo đảm sự phù hợp trong điều chỉnh pháp luật với trình độ sự phát triển kinh tế, xã hội và sản xuất kinh doanh cũng như sự phát triển của quan hệ lao động . .. 133 4.1.2. Bảo đảm sự phù hợp với sự thay đổi trong hoàn cảnh lao động tuyển dụng 134 4.1.3. Bảo đảm sự phù hợp với những thay đổi trong quan điểm, nhận thức về quan hệ lao động .......................................................................................................... 134 4.1.4. Mở rộng hơn nữa quyền tự do thỏa thuận hợp đồng giữa các bên .............. 136 4.1.5. Phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế .......................................................... 137 4.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Hợp đồng lao động Việt Nam và Hàn Quốc ............................................................................................................ 137 4.2.1. Về đối tượng áp dụng của Luật lao động .................................................... 137 4.2.2. Về thời hạn hợp đồng lao động .................................................................. 140 4.2.3. Tạm hoãn hợp đồng lao động ..................................................................... 141 4.2.4. Điều chuyển người lao động sang vị trí làm việc khác ............................... 141 4.2.5. Về việc “chấm dứt hợp đồng lao động” vì lý do kinh tế hoặc doanh nghiệp có sự thay đổi ........................................................................................................... 142 4.3. Xây dựng Luật Hợp đồng lao động ở Việt Nam và Hàn Quốc ....................... 143 Kết luận chương 4 …………..……………………………………………………….146 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 148 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 149 PHỤ LỤC............................................................................................................ 154 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu HĐLĐ là sự thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng của chủ thể là NLĐ có nhu cầu về việc làm để có thu nhập bảo đảm cho cuộc sống của bản thân và gia đình; với NSDLĐ có nhu cầu thuê mướn lao động phục vụ sản xuất, kinh doanh vì lợi nhuận. Trong đó, NLĐ chịu sự quản lý của NSDLĐ, cam kết làm việc để hưởng lương và thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo thỏa thuận. Tại Việt Nam, BLLĐ đã được ban hành từ năm 1994 và được sửa đổi, bổ sung 3 lần vào các năm 2002, 2006 và 2007. Trong đó, Chương HĐLĐ được sửa đổi nhiều nhất (8/17 điều). Năm 2012, Việt Nam tiếp tục sửa đổi, bổ sung lần thứ 4 BLLĐ và dự kiến sẽ tiếp tục sửa đổi vào năm 2019 - 2020. Pháp luật lao động nói chung, pháp luật về HĐLĐ nói riêng đã góp phần quan trọng cho việc phát triển QHLĐ ở Việt Nam theo định hướng thị trường, từng bước góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát triển lành mạnh của TTLĐ và hội nhập quốc tế. Nội dung quy định của pháp luật về HĐLĐ hiện hành đã điều chỉnh được cơ bản các QHLĐ hình thành theo HĐLĐ, góp phần vào sự vận động của TTLĐ, bảo đảm tính linh hoạt, tự do, tự nguyện, của các bên trong QHLĐ. Nhiều nội dung của luật lao động, trong đó có chế định HĐLĐ đã tiếp thu và thích ứng các quy định về HĐLĐ của các nước trên thế giới và các tiêu chuẩn lao động quốc tế của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), như: bảo đảm nguyên tắc tự do thoả thuận và thực hiện các cam kết; các tiêu chuẩn và điều kiện về chủ thể; việc giao kết, thực hiện và chấm dứt HĐLĐ; giải quyết tranh chấp về HĐLĐ... Bên cạnh đó, những quy tắc về HĐLĐ còn được mở rộng và áp dụng vào lĩnh vực tuyển chọn, ký kết hợp đồng đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài. Tuy nhiên, TTLĐ, các QHLĐ ngày càng phát triển và không ngừng biến động, mặt khác, TTLĐ cũng như nhận thức của các chủ thể tham gia QHLĐ cũng đã có nhiều thay đổi. Trong khi đó, pháp luật HĐLĐ cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế, nhiều điều khoản quy định chung chung, không rõ ràng trong các phiên bản khác nhau của BLLĐ với 3 lần sửa đổi đã gây khó khăn trong việc tiếp thu, hiểu và thực hiện. Một số quy định về HĐLĐ hiện hành còn nhiều bất cập, hoặc thiếu các quy định cần thiết như: quy định về các loại HĐLĐ; các trường hợp chấm dứt HĐLĐ ; thủ tục về chấm dứt HĐLĐ; chế độ trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm; quy định về việc làm thử, thời gian làm thử;; các điều kiện chấm dứt HĐLĐ; trả trợ cấp thôi việc…Có những quy định pháp luật chưa theo kịp với thực tiễn vận hành của TTLĐ. Một số vấn đề mới đang đặt ra nhưng chưa được quy định chi tiết như: cho thuê lại lao động, HĐLĐ bán thời gian, … Ngoài ra, còn thiếu sự nhất quán giữa các chế định của BLLĐ với các văn bản pháp luật khác. Việc giải thích, áp dụng các quy định của pháp luật về HĐLĐ chưa thống nhất, ảnh hưởng tới quá trình thực hiện cũng như giải quyết các tranh chấp lao động. Tính hội nhập và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực HĐLĐ chưa cao. Thực tiễn thi hành các quy định pháp luật về HĐLĐ cũng phát 2 sinh nhiều vấn đề bất cập. Việc giao kết sai loại hợp đồng còn diễn ra phổ biến, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của NLĐ.. Rất nhiều HĐLĐ thực chất đã không được “giao kết” mà chủ yếu là “gia nhập”; các điều khoản trong văn bản HĐLĐ hầu hết được phía NSDLĐ soạn sẵn, nhiều điều khoản gây bất lợi cho NLĐ, tuy nhiên do sức ép có việc làm, ý thức pháp luật chưa cao hoặc do thiếu bản lĩnh nên NLĐ thường miễn cưỡng chấp nhận. Tình trạng “lách luật” trong giao kết, chấm dứt HĐLĐ, sa thải NLĐ trái pháp luật diễn ra khá phổ biến, dẫn tới việc nhiều tranh chấp lao động phát sinh. Tại Hàn Quốc, BLLĐ cũng đã được sửa đổi và bổ sung liên tục từ năm 1953 đến nay (01/09/2014). BLLĐ Hàn Quốc gồm nhiều luật, trong đó tiêu chuẩn luật lao động gồm 12 chương, trong đó chương 2: HĐLĐ được quy định rõ ràng, góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát triển lành mạnh của TTLĐ. LTCLĐ được quy định: NSDLĐ có từ 5 NLĐ thì quy định về HĐLĐ được áp dụng. Nếu NSDLĐ sử dụng dưới 5 NLĐ hoặc những NLĐ là thành viên trong gia đình thì không áp dụng quy định của luật HĐLĐ. Đồng thời, theo Điều 15 của LTCLĐ có quy định rõ ràng: nội dung của HĐLĐ giữa NSDLĐ với NLĐ nếu có bất kì một điều khoản nào khác hoặc thấp hơn so với quy định của luật lao động thì điều khoản đó bị vô hiệu, và phải sửa chữa theo quy định của LTCLĐ. Tuy nhiên, các QHLĐ ngày càng phát triển và không ngừng biến động, mặt khác, TTLĐ cũng như nhận thức của các chủ thể tham gia QHLĐ cũng đã có nhiều thay đổi. Trong khi đó, các quy định pháp luật về HĐLĐ cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế. Việc thay đổi liên tục các điều luật HĐLĐ khiến cho NLĐ cũng như NSDLĐ gặp nhiều hạn chế trong việc thực hiện và ghi nhớ các khoản mục trong HĐLĐ. Hiện tại rất nhiều các doanh nghiệp Hàn Quốc đầu tư vào Việt Nam và ngược lại cũng có một số doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang Hàn Quốc. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy NSDLĐ Hàn Quốc đầu tư tại Việt Nam, NLĐ Việt Nam làm việc tại Hàn Quốc chưa thực sự am hiểu pháp luật ở nơi mình đầu tư nên đôi khi còn theo thói quen áp dụng pháp luật của nước mình. Điều đó đã dẫn tới tình trạng áp dụng không đúng hoặc chưa đầy đủ pháp luật HĐLĐ, gây nên tranh chấp lao động. Mặc dù có sự chuẩn bị tốt từ khâu tuyển chọn NLĐ và quản lý lao động nhưng ở Việt Nam, QHLĐ trong các doanh nghiệp của Hàn Quốc vẫn là “điểm nóng” về tranh chấp lao động, nhất là tranh chấp lao động tập thể. Ở Hàn Quốc, trong những năm qua hàng nghìn NLĐ Việt Nam đã được đưa sang làm việc theo hợp đồng đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài thông qua các công ty môi giới lao động, góp phần giải quyết tình trạng thiếu lao động cho thị trường sản xuất phát triển bậc nhất thế giới. Tuy nhiên, do công tác tập huấn, hướng dẫn... của các doanh nghiệp đưa NLĐ đi làm việc tại Hàn Quốc chưa sâu sắc; trình độ, sự hiểu biết pháp luật lao động nói chung, pháp luật HĐLĐ Hàn Quốc của NLĐ Việt Nam chưa đáp ứng yêu cầu, do đó nhiều NLĐ vi phạm pháp luật Hàn Quốc. Từ đó đã ảnh hưởng đến môi trường sản xuất kinh doanh và quan hệ hợp tác về lao động giữa hai quốc gia. 3 Mặc dù vậy cho đến nay chưa có những nghiên cứu cụ thể về học thuật cũng như thực tiễn sâu sắc, có tầm cỡ, có tính khái quát cao để giúp các bên của QHLĐ trong các doanh nghiệp đầu tư của Hàn Quốc tại Việt Nam và trong các doanh nghiệp tại Hàn Quốc hiểu, áp dụng đúng pháp luật lao động nói chung, pháp luật HĐLĐ nói riêng và đặc biệt là tìm ra những điểm khác biệt trong pháp luật về HĐLĐ giữa Việt Nam và Hàn Quốc. Đây chính là xuất phát điểm của ý tưởng nghiên cứu so sánh pháp luật HĐLĐ Việt Nam và Hàn Quốc bằng một luận án tiến sỹ luật học. Vì vậy e đã chọn đề tài: “ So sánh pháp luật về HĐLĐ Việt Nam và Hàn Quốc” làm luận án tiến sĩ của mình. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về HĐLĐ cũng như pháp luật về HĐLĐ, đánh giá thực trạng pháp luật về HĐLĐ ở Việt Nam và Hàn Quốc, tìm ra những điểm giống và khác nhau về HĐLĐ trong pháp luật Việt Nam và Hàn Quốc cũng như cơ sở của sự khác biệt này. Trên cơ sở đó đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật về HĐLĐ của Việt Nam và Hàn Quốc Trên cơ sở mục đích nghiên cứu đó luận án tập trung vào giải quyết các nhiệm vụ chính sau đây: + Thứ nhất, phân tích và làm sáng tỏ hoàn thiện hơn những vấn đề lý luận về HĐLĐ và pháp luật HĐLĐ. Khái niệm, bản chất, đặc điểm, vai trò của HĐLĐ, khái niệm pháp luật HĐLĐ và nội dung điều chỉnh pháp luật về HĐLĐ. + Thứ hai, phân tích đánh giá thực trạng pháp luật về HĐLĐ của Việt Nam và Hàn Quốc, trên cơ sở đó chỉ ra những điểm bất cập, hạn chế trong các quy định pháp luật của hai nước. Đồng thời chỉ ra những điểm tương đồng cũng như khác biệt trong pháp luật hai nước về HĐLĐ đồng thời luận giải về cở sở của sự tương đồng, khác biệt này. + Thứ ba, phân tích và đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về HĐLĐ ở Việt Nam và Hàn Quốc để trên cơ sở đó thấy được thực trạng áp dụng pháp luật HĐLĐ trong các doanh nghiệp + Thứ tư, đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về HĐLĐ của Việt Nam và Hàn Quốc nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận, thực hiện và giải quyết các vấn đề có liên quan đến pháp luật về HĐLĐ của hai hệ thống pháp luật . 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu -Về Đối tượng nghiên cứu của luận án Đối tượng nghiên cứu của luận án là các quy định pháp luật về HĐLĐ của Việt Nam và Hàn Quốc mà cụ thể là Bộ luật lao động năm 2012 của Việt Nam và luật tiêu chuẩn lao động của Hàn Quốc cùng các văn bản hướng dẫn thi hành. Luận án cũng nghiên cứu pháp luật về HĐLĐ của tổ chức lao động quốc tế (ILO) và một số quốc gia ở một mức độ nhất định. -Về phạm vi nghiên cứu của luận án HĐLĐ có thể nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Trong luận án này, tác giả nghiên cứu HĐLĐ dưới góc độ luật học mà cụ thể là dưới độ pháp luật lao động. Bên cạnh đó, HĐLĐ cũng là vấn đề rộng gồm nhiều nội dung như giao kết HĐLĐ, thực hiện 4 HĐLĐ, chấm dứt HĐLĐ, giải quyết tranh chấp về HĐLĐ, xử lý vi phạm pháp luật về HĐLĐ... Tuy nhiên trong luận án này, tác giả chỉ nghiên cứu những nội dung chính về HĐLĐ như giao kết HĐLĐ, thực hiện HĐLĐ và chấm dứt HĐLĐ. Những nội dung khác về HĐLĐ như giải quyết tranh chấp về HĐLĐ, xử lý vi phạm pháp luật về HĐLĐ không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án. 4. Phương pháp nghiên cứu Để giải quyết những nhiệm vụ đặt ra, luận án đã sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử nghiên cứu những vấn đề liên quan đến nội dung của đề tài gắn với xây dựng, thực hiện pháp luật HĐLĐ trong sự phát sinh, phát triển, tiêu vong trên cơ sở các quy luật tự nhiên, kinh tế, xã hội gắn với hoạt động kinh tế, hoạt động lao động của con người. Cụ thể: Chương 1: Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong chương này là phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê và phương pháp khái quát hóa nhằm hệ thống hóa các công trình nghiên cứu cũng như nôi dung của các công trình này ở Việt Nam, Hàn Quốc cũng như một số các quốc gia về HĐLĐ Chương 2: Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong chương này là phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về HĐLĐ và pháp luật về HĐLĐ như khái niệm, đặc điểm HĐLĐ, khái niệm, nội dung pháp luật về HĐLĐ. Chương 3: Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong chương này là phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê. Đặc biệt phương pháp so sánh cũng được sử dụng khá nhiều ở chương này nhằm tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt trong pháp luật về HĐLĐ của Việt Nam và Hàn Quốc. Chương 4: Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong chương này là phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp khái quát hóa nhằm đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về HĐLĐ. 5. Những đóng góp mới của luận án Luận án là công trình đầu tiên ở bậc tiến sĩ nghiên cứu về pháp luật HĐLĐ của Việt Nam và Hàn Quốc dưới góc độ so sánh. Cụ thể luận án có những đóng góp mới sau đây: - Thứ nhất, Góp phần làm hoàn thiện và sâu sắc hơn những vấn đề lý luận về HĐLĐ cũng như pháp luật về HĐLĐ ở các nội dung khái niệm, đặc điểm của HĐLĐ, khái niệm và nội dung điều chỉnh pháp luật về HĐLĐ. - Thứ hai, phân tích và đánh giá một cách toàn diện hơn các quy định pháp luật của Việt Nam và Hàn Quốc về HĐLĐ, trong đó làm rõ những điểm hợp lý cũng như bất hợp lý trong các quy định của pháp luật về HĐLĐ, chỉ ra những điểm giống nhau và khác nhau trong quy định của pháp luật về HĐLĐ giữa Việt Nam và Hàn Quốc; việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn ở hai quốc gia ở các giai đoạn giao kết, thực hiện, chấm dứt HĐLĐ. 5 - Thứ ba, Luận án đã đánh giả tổng quan sự tương đồng và khác biệt trong pháp luật về HĐLĐ của Việt Nam và Hàn Quốc đồng thời luận giải được cơ sở của sự tương đồng và khác biệt trong pháp luật của hai quốc gia này. - Luận án đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện, nâng cao tính tương thích pháp luật về HĐLĐ của Việt Nam và Hàn Quốc nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận, thực hiện và giải quyết các vấn đề có liên quan đến pháp luật về HĐLĐ của hai hệ thống. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của Luận án góp phần làm sáng tỏ và đưa ra cách nhìn toàn diện, sâu sắc khoa học và thực tiễn hơn về pháp luật HĐLĐ của Việt Nam và Hàn Quốc, chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt cũng như cơ sở luận giải cho vấn đề này góp phần xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về HĐLĐ của Việt Nam và Hàn Quốc . - Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các hoạt động nghiên cứu, giảng dạy tại các cơ sở đào tạo, các nhà hoạch định chính sách, nhà làm luật, các chủ doanh nghiệp Việt Nam, Hàn Quốc cũng như NLĐ của hai quốc gia trong việc thực hiện pháp luật về HĐLĐ. Đây cũng là tài liệu tham khảo cho các cơ quan trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến HĐLĐ. 7. Kết cấu của luận án Luận án có cấu trúc gồm có 4 chương: - Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu - Chương 2: Một số vấn đề lý luận về HĐLĐ và pháp luật về HĐLĐ - Chương 3: Thực trạng pháp luật về HĐLĐ từ góc độ so sánh giữa Việt Nam và Hàn Quốc - Chương 4: Hoàn thiện pháp luật về HĐLĐ ở Việt Nam và Hàn Quốc 6 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước và nước ngoài 1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam Vấn đề HĐLĐ, nội dung HĐLĐ đối với NSDLĐ và NLĐ đã được đề cập đến trong nhiều giáo trình, sách tham khảo, một số đề tài khoa học cấp cơ sở, luận án, luận văn, bài viết đăng trên các tạp chí và các báo cáo, hội thảo khoa học... Cụ thể: 1.1.1.1. Giáo trình - Giáo trình luật lao động: các nội dung liên quan đến đề tài luận án được đề cập khá rõ nét trong các giáo trình Luật lao động dành cho việc giảng dạy các hệ đào tạo ở bậc đại học của một số cơ sở đào tạo luật và các chuyên ngành khác (như các cơ sở đào tạo về kinh tế, xã hội, cơ sở đào tạo của lực lượng công an…). Vấn đề liên quan đến đề tài luận án được trình bày chủ yếu ở chương HĐLĐ. Trong các giáo trình luật lao động đều đề cập tới: khái niệm, bản chất, vai trò, đặc điểm, các loại HĐLĐ, nguyên tắc giao kết hợp đồng, các bên tham gi a; quá trình giaokết, thực hiện, thay đổi, tạm hoãn, chấm dứt HĐLĐ và xử lý quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các chủ thể có liên quan, nhất là trách nhiệm của NLĐ và NSDLĐ khi chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật. Trong đó giáo trình Luật lao động Việt Nam (trước đó là “Tập bài giảng Luật lao động Việt Nam”) của Trường Đại học Luật Hà Nội ra đời sớm nhất (năm 1994), đã được tái bản có sửa chữa, bổ sung lần thứ 7 vào năm 2014 (Nxb Công an nhân dân); được trình bày tương đối khoa học, đề cập khá đầy đủ và sâu sắc những khía cạnh khoa học của HĐLĐ, được sử dụng làm tài liệu học tập và giảng dạy, nghiên cứu chính của nhiều cơ sở đào tạo, bồi dưỡng về luật của Việt Nam trong nhiều năm. Giáo trình Luật lao động của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội - Nxb Trường Đại học quốc gia Hà Nội năm 2011, ngoài khái niệm, nội dung của HĐLĐ thì giáo trình còn đề cập thêm thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐLĐ và trình bày sơ lược về HĐLĐ vô hiệu. Ngoài ra đối với chế độ pháp lý về thay đổi HĐLĐ thì được chia làm 2 loại là thay đổi chủ thể hợp đồng và khi thay đổi nội dung của HĐLĐ và trong khía cạnh chấm dứt HĐLĐ thì được chia làm 3 loại: Chấm dứt HĐLĐ do sự thỏa thuận của hai bên, chấm dứt do ý chí của bên thứ ba hoặc do sự kiện pháp lý khác, chấm dứt do một bên đơn phương chủ động. Giáo trình Luật lao động Việt Nam của Viện Đại học Mở Hà Nội - Nxb giáo dục năm 2012 giống như một số các giáo trình trong đó phân loại HĐLĐ thành làm 3 loại: theo thời hạn, theo hình thức và theo tính kế tiếp của trình tự giao tiếp. Giáo trình Luật lao động của Trường Đại học Lao động - Xã hội - Nxb lao động xã hội năm 2012 có thêm phân loại theo tính hợp pháp của HĐLĐ, tuy nhiên trong phần nguyên tắc giao kết hợp đồng thì chỉ nêu 3 nguyên tắc đó là: nguyên tắc tự do, tự nguyện, nguyên tắc bình đẳng, nguyên tắc không trái pháp luật và thỏa ước lao động tập thể; vi ệc chấm dứt HĐLĐ được chia làm 2 loại đó là chấm dứt HĐLĐ hợp pháp và không hợp pháp. Giáo trình luật lao động Việt Nam phần I - Nxb Đại học Huế năm 2013 ngoài các khái 7 niệm nội dung đã nêu ở trên còn đề cập đến các điều kiện trong quá trình thử việc. Giáo trình pháp luật lao động của Đại học Công đoàn - Nxb lao động năm 2015 có đề cập đến hậu quả pháp lý do vi phạm HĐLĐ; ngoàiratrong vấn đề chấm dứt hợp đồng chia làm 3 trường hợp: HĐLĐ đương nhiên chấm dứt, chấm dứt HĐLĐ do hoàn cảnh, chấm dứt HĐLĐ do ý chí của một bên; tạm hoãn HĐLĐ được trình bày khá kỹ lưỡng và chia làm 2 trường hợp: tạm hoãn thực hiện hợp đồng do ý chí của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tạm hoãn do hai bên thỏa thuận. Nhìn chung, các giáo trình đều là tài liệu mang tính lý luận cao, phân tích và khái quát những khía cạnh pháp lý cơ bản nhất xung quanh thể chế pháp lý về HĐLĐ. Tuy nhiên, vì luôn bám sát việc phân tích các quy định của pháp luật lao động nói chung, quy định về HĐLĐ nói riêng, nên các giáo trình thường phải được sửa đổi, bổ sung thông qua hoạt động tái bản nhằm cập nhật các quy định đã được sửa đổi, bổ sung của BLLĐ và pháp luật có liên quan. 1.1.1.2. Sách tham khảo - "Tìm hiểu BLLĐ Việt Nam" (2002) của Phạm Công Bảy, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách phân tích, giới thiệu các nội dung cơ bản của BLLĐ đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002, nhằm cung cấp những kiến thức về các quy định của Bộ luật làm cơ sở để vận dụng vào thực tế. Trong cuốn sách, tác giả đã tìm hiểu tất cả các chế định của BLLĐ. Theo đó, vấn đề liên quan đến các nội dung luận án được giới thiệu trong quá trình phân tích các chế định HĐLĐ, thỏa ước lao động tập thể và kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất. Đối với khái niệm về HĐLĐ tác giả đã trình bày một cách chi tiết đối với từng trường hợp cụ thể. Tuy nhiên để áp dụng các trường hợp đó vào thực tế thì vẫn chưa được rõ lắm. - “Pháp luật HĐLĐ Việt Nam - thực trạng và phát triển” (2003) của tác giả TS. Nguyễn Hữu Chí, Nxb Lao động – Xã Hội, Hà Nội. Trong đó đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất của HĐLĐ như đặc trưng của sức lao động, QHLĐ ở Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế thị trường và cơ chế thị trường Việt Nam và pháp luật lao động. Ngoài ra còn trình bày thực trạng thực hiện giao kết, thay đổi, tạm hoãn, chấm dứt HĐLĐ. Từ đó đưa ra các phương hướng hoàn thiện pháp luật HĐLĐ. - “Soạn thảo, kí kết HĐLĐ và giải quyết tranh chấp về HĐLĐ” (2005) của Phạm Công Bảy, Nxb Chính trị Quốc gia, cung cấp các kiến thức về quy định của pháp luật trong việc soạn thảo, ký kết và giải quyết các tranh chấp về HĐLĐ. Sách đã trình bày rất kỹ từ sự ra đời đến vai trò của HĐLĐ trong nền kinh tế thị trường. Đặc biệt tác giả đã đưa ra những vấn đề cơ bản cần nắm vững đối với việc soạn thảo HĐLĐ, như các chế độ, điều kiện, quyền lợi, nghĩa vụ các bên đều được giải thích rất kỹ càng cụ thể. Ngoài những nguyên tắc khái niệm về ký kết, sửa đổi, bổ sung, HĐLĐ vô hiệu thì tác giả còn đưa ra một số ví dụ về loại tranh chấp HĐLĐ thường gặp và hướng giải quyết, từ đó đã giúp tôi nghiên cứu đề tài thuận lợi hơn. -“Bình luận khoa học khoa học BLLĐ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của Tiến sĩ Lưu Bình Nhưỡng (Chủ biên), Nxb lao động năm 2015. Đã phân tích trên cơ sở phân tích sâu từng điều luật, giải thích từ ngữ phù hợp với quy định có tính chuyên 8 ngành thuộc lĩnh vực pháp luật lao động rất dễ hiểu. Nội dung và hình thức của cuốn sách có thể giúp tôi hiểu biết chính xác, sâu sắc đối với từng điều luật của BLLĐ từ đó vận dụng để nghiên cứu luận án được tốt hơn. Đặc biệt, khi nói về bản chất của HĐLĐ thì tác giả cho rằng, HĐLĐ cũng là một loại hợp đồng mua bán của NLĐ và NSDLĐ nhưng hàng hóa mà hai bên trao đổi lại là sức lao động. Sức lao động này không xác định bằng biện pháp thông thường và không chuyển giao được quyền sở hữu từ người bán sang người mua bằng biện pháp thông thường. Các bình luận trong Chương III về HĐLĐ giúp tôi có những cái nhìn mới và cụ thể về giao kết, thực hiện sửa đổi bổ sung chấp dứt, vô hiệu và cho thuê lại lao động. - “HĐLĐ, thỏa ước lao động tập thể và giải quyết tranh chấp lao động theo quy định của pháp luật Việt Nam” (2014) của Th.S Phan Thị Thanh Huyền (chủ biên) của Nxb tư pháp cung cấp các tài liệu tham khảo về các chế định: HĐLĐ, thỏa ước lao động tập thể và giải quyết tranh chấp lao động đã được hoàn thiện một cách đáng kể. Nhận thức để dẫn đến quá trình thực hiện đúng, đầy đủ, chính xác các quy định của BLLĐ năm 2012 nói chung, của các chế định cơ bản này nói riêng là nhu cầu cấp thiết của các bên chủ thể trong QHLĐ và các cá nhân tổ chức có liên quan. Quá trình hình thành và phát triển của HĐLĐ đã trình bày một cách tổng quát, từ đó giúp tôi có một bức tranh tổng quan về HĐLĐ. Trong phần thỏa ước lao động tập thể và giải quyết tranh chấp lao động đề cập tới những yếu tố liên quan đến HĐLĐ; HĐLĐ và thỏa ước lao động tập thể phụ thuộc và bổ sung cho nhau. Khi xảy ra tranh chấp lao động thì đều phải dựa trên HĐLĐ để giải quyết. Sách chuyên khảo “Pháp luật về quyền quản lý lao động của NSDLĐ ở Việt Nam” của TS. Đỗ Thị Dung, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, 2016, đã dành một phần ở Chương II và III nêu về HĐLĐ với tính cách là công cụ quản lý NLĐ của các NSDLĐ. Việc giao kết, ký kết và duy trì mối quan hệ HĐLĐ, trong đó quản lý NLĐ thực hiện các nghĩa vụ pháp lý đã được xác định trong HĐLĐ và áp dụng các điều khoản của HĐLĐ để xử lý trách nhiệm của NLĐ là biện pháp quản lý căn bản, bảo đảm hiệu quả của việc sử dụng lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh đó, còn một số các sách, tài liệu phục vụ đào tạo, bồi dưỡng pháp luật như: cuốn Những vấn đề pháp luật cơ bản của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam (Học viện Tư pháp); Tìm hi ểu pháp luật, Từ điển thuật ngữ luật học… cũng đã đề cập đến các thuật ngữ hoặc nêu các quy định của pháp luật lao động về tuyển dụng lao động, HĐLĐ, thỏa ước lao động tập thể, NQLĐ, xử lý kỷ luật lao động … 1.1.1.3. Đề tài khoa học - Pháp luật Việt Nam với các nhà đầu tư Nhật Bản (2009) của Trường Đại học Luật Hà Nội, do TS. Lưu Bình Nhưỡng làm Chủ nhiệm, trong đó có một chuyên đề mang tính tổng hợp, phân tích khoa học và hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật lao động, đặc biệt là pháp luật HĐLĐ, quản lý lao động phục vụ các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, cung cấp cho các chủ doanh nghiệp của Nhật Bản tại Việt Nam kiến thức về luật lao động nói chung, pháp luật HĐLĐ nói riêng để nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng lao động. - "Nghiên cứu nhằm góp phần sửa đổi, bổ sung BLLĐ trong giai đoạn hiện nay" 9 (2010) của Trường Đại học Luật Hà Nội do TS. Trần Thị Thúy Lâm làm Chủ nhiệm đề tài. Trong nội dung đề tài, có ba chuyên đề: đánh giá các quy định về HĐLĐ, trách nhiệm vật chất liên quan đến quyền QLLĐ của NSDLĐ. - "Áp dụng pháp luật lao động trong quản trị nhân sự tại doanh nghiệp" (2011) của Trường Đại học Luật Hà Nội do TS. Đỗ Ngân Bình làm Chủ nhiệm đề tài. Trong nội dung đề tài, có một số chuyên đề về áp dụng pháp luật lao động khi tuyển dụng lao động; ký kết và thực hiện HĐLĐ và duy trì kỷ luật lao động, xây dựng nề nếp lao động trong quản trị nhân sự tại doanh nghiệp... có liên quan tới một số nội dung của đề tài luận án. - "Cho thuê lại lao động - Một hướng điều chỉnh của pháp luật lao động Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế" (2012) của Trường Đại học Luật Hà Nội do TS. Nguyễn Xuân Thu làm Chủ nhiệm đề tài ; nghi ên cứu các vấn đề lý luận, quy định của pháp luật quốc tế và thực tiễn cho thuê lại lao động ở Việt Nam, từ đó kiến nghị hướng điều chỉnh hoạt động cho thuê lại lao động của pháp luật lao động ở Việt Nam. Một số chuyên đề về lý luận của hoạt động cho thuê lại lao động và thực trạng điều chỉnh pháp luật về hoạt động cho thuê lại ở Việt Nam. - Cuốn “72 vụ án lao động điển hình tóm tắt và bình luận” của ThS. Nguyễn Việt Cường (nguyên Chánh tòa lao động, Tòa án nhân dân tối cao) Chủ biên - Nxb Lao động 2004, đã phân tích 72 vụ án lao động xét xử các tranh chấp lao động được đưa ra tòa án xét xử, trong đó rất nhiều vụ tranh chấp có liên quan đến quan hệ HĐLĐ; cung cấp những vấn đề thực tiễn, cách giải thích pháp luật về HĐLĐ để áp dụng ra bản án, quyết định về vụ tranh chấp tại tòa án. 1.1.1.4. Luận án, luận văn - Luận án tiến sĩ “HĐLĐ trong cơ chế thị trường ở Việt Nam” (2002) của NCS Nguyễn Hữu Chí - Đại học luật Hà Nội là công trình nghiên cứu có hệ thống và khá toàn diện về HĐLĐ. Đã phân tích cơ sở lý luận đối với việc xây dựng, ban hành, thực hiện pháp luật HĐLĐ như: đặc trưng của sức lao động vớitư cách là hàng hóa; đặc thù của QHLĐ trong TTLĐ Việt Nam, từ đó đưa ra khái niệm HĐLĐ và các đặc trưng củanó... ; đánh gi á về thực trạng quy định và áp dụng pháp luật HĐLĐ về giao kết, thực hiện, thay đổi, tạm hoãn, chấm dứt HĐLĐ. Chủ yếu thông qua một số bản án của tòa để xác định tính hợp pháp của nó và giải quyết một số vấn đề khác liên quan như trợ cấp, bồi thường do vi phạm pháp luật...; đề xuất những định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về HĐLĐ trên cơ sở tôn trọng quyền tự do HĐLĐ, đảm bảo quyền và lợi ích các bên trong QHLĐ. Về thực tiễn, những nghiên cứu của luận án có ý nghĩa góp phần hoàn thiện pháp luật về HĐLĐ nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của HĐLĐ đối với QHLĐ trong cơ chế thị trường Việt Nam. Thời gian luận án hoàn thành khá lâu (2002) nên một số nội dung pháp luật thực định đã có sự thay đổi, tuy nhiên nội dung lý luận cơ bản về HĐLĐ trong cơ chế thị trường đến nay vẫn có giá trị cao, trình bày về vai trò quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường đã thực sự gợi mở nhiều vấn đề nghiên cứu cho tôi. Luận án là một trong những nguồn tài liệu rất hữu ích đối với nghiên cứu sinh, đặc biệt là phần khái niệm HĐLĐ (tr.38). 10 - Luận văn thạc sĩ “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về HĐLĐ (2001) và luận án tiến sĩ “HĐLĐ vô hiệu theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay” (2009) của tác giả Phạm Thị Thúy Nga: đề cập khá nhiều cách hiểu mở về cơ sở khoa học khi xây dựng quan niệm về HĐLĐ vô hiệu; thực trạng quan niệm về HĐLĐ vô hiệu trong pháp luật Việt Nam; nguyên tắc thiện chí trong xử lý HĐLĐ vô hiệu. Có một số nội dung rất đáng quan tâm khi tác giả cho rằng việc NLĐ cung cấp thông tin sai sự thật mà thông tin đó chính là điều kiện quan trọng, quyết định NLĐ có được tuyển dụng hay không thì đó cũng là căn cứ dẫn đến sự vô hiệu của HĐLĐ. Việc phân tích, đánh giá các quy định của BLLĐ được tác giả so sánh, đối chiếu với các quy định của Bộ luật dân sự hiện hành tạo nên sự gắn kết có hệ thống giữa các văn bản quy phạm pháp luật. - Luận án tiến sĩ “ Pháp luật về đơn phương chấm dứt HĐLĐ- những vấn đề lí luận và thực tiễn” Nguyễn Thị Hoa Tâm (2013) - trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh đã phân tích, so sánh, làm rõ một số nội dung trong BLLĐ 2012 về đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Từ đó, đưa ra các kiến nghị tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật điều chỉnh nội dung này để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam. Cụ thể là: hoàn thiện các quy định về quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của cả NLĐ và NSDLĐ, quy định về giải quyết quyền lợi của các bên khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ và các quy định giải quyết tranh chấp về đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Việc hoàn thiện pháp luật phải dựa trên nguyên tắc: đảm bảo lợi ích của NLĐ và NSDLĐ khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ; bình ổn các QHLĐ khác trong DN sau khi đơn phương chấm dứt một số QHLĐ cá nhân; đảm bảo tính khả thi cũng như đảm bảo tính thống nhất của các uy định pháp luật về đơn phương chấm dứt HĐLĐ trong mối tương uan với các vấn đề khác có liên quan. Từ đó đưa ra các giải pháp chủ yếu trong việc hoàn thiện pháp luật về đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật, Nhà nước còn phải áp dụng các giải pháp đồng bộ trong quá trình thực hiện pháp luật, giải thích pháp luật, nâng cao nhận thức pháp luật của các chủ thể...Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề liên quan chưa được nghiên cứu như: đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NLĐ là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam; vi ệc sử dụng án lệ khi giải quyết tranh chấp về đơn phương chấm dứt HĐLĐ là một nguồn của pháp luật Việt Nam… - Luận án tiến sĩ “Pháp luật về quyền quản lí lao động của người SDLĐ ở Việt Nam” (2014) của tác giả Đỗ Thị Dung - Đại học Luật Hà Nội đã nghiên cứu các vấn đề đến quyền QLLĐ của NSDLĐ. Từ các khái niệm, đến nội dung, vai trò của quyền QLLĐ trong nước và nước ngoài. Bên cạnh những điểm tiến bộ, tích cực, pháp luật về quyền QLLĐ của NSDLĐ cũng không tránh khỏi những bất cập. Những điểm bất cập này, dù ở mức độ khác nhau, nhưng được thể hiện ở hầu hết trong nội dung các quyền QLLĐ, từ quyền ban hành NQLĐ đến việc ký HĐLĐ, hợp đồng cho thuê lại lao động. Luận án đề cập đến HĐLĐ là một trong những quyền lợi lao động; là căn cứ để bảo vệ quyền lợi lợi ích của NLĐ cũng như lợi ích của NSDLĐ. Từ đó có thể giúp tôi nghiên cứu kỹ hơn vai trò của HĐLĐ. 1.1.1.5. Bài viết đăng trên tạp chí - Bài “Vài nét về HĐLĐ ở một số nước trên thế giới” của tác giả Lưu Bình Nhưỡng - 11 Tạp chí luật học tháng 5/1995 đã đưa ra những nét cơ bản nhất như hình thức, bản chất, các quy tắc duy trì quan hệ hợp đồng…. - Bài "HĐLĐ theo pháp luật Việt Nam" của tác giả Lưu Bình Nhưỡng - Tạp chí luật học số 1/1996 có trình bày những đặc trưng của HĐLĐ từ đó giúp tôi có cái nhìn khái quát về HĐLĐ thời kỳ đầu từ đó có thể có cái nhìn bao quát khi so sánh HĐLĐ. - Bài "Quy trình duy trì và chấm dứt HĐLĐ" của tác giả Lưu Bình Nhưỡng - Tạp chí luật học số 3/1997 có trình bày chi tiết về quá trình duy trì HĐLĐ là quá trình duy trì sự tồn tại của quan hệ HĐLĐ và quá trình này gồm: sự thực hiện HĐLĐ, sự thay đổi HĐLĐ, sự tạm hoãn HĐLĐ. - Bài “Quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ” của T.S Đào Thị Hằng- Tạp chí Luật học số 16 (2011) đã làm rõ một số nội dung về quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ tại chương IV BLLĐ. - Bài "HĐLĐ trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLLĐ" của tác giả Lưu Bình Nhưỡng, Tạp chí luật học số 5/2002 đã đưa ra một số ý kiến về luật sửa đổi bổ sung theo đó có một số điểm mới đó là việc bổ sung khoản phụ cấp lương vào khoản tiền bồi thường bên cạnh tiền lương; bổ sung các khoản tiền bồi thường pháp định mà NSDLĐ hoặc người có trách nhiệm trả cho bên kia khi chấm dứt HĐLĐ bất hợp pháp; bổ sung thêm về thỏa thuận bồi thường cho NLĐ khi NSDLĐ không muốn tiếp tục nhận NLĐ trở lại làm việc với điều kiện NLĐ đồng ý. - Bài “Một số vấn đề về chế độ HĐLĐ theo quy định của BLLĐ và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLLĐ” của tác giả Nguyễn Hữu Chí - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật 4/2003 trình bày về một số vấn đề chủ yếu trong HĐLĐ theo quy định của BLLĐ. - Bài“Những vấn đề cần sửa đổi về HĐLĐ trong BLLĐ” của TS. Trần Thị Thúy Lâm - Tạp chí Luật học số 9/2009, đã đưa ra các vấn đề cần sửa đổi về HĐLĐ trong BLLĐ như loại HĐLĐ, chấm dứt HĐLĐ hay hậu quả của việc chấm dứt HĐLĐ. - Bài "Thực tiễn áp dụng BLLĐ và hướng hoàn thiện pháp luật lao động" của ThS. Lưu Bình Nhưỡng, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 5 (142) T3/2009 dựa trên cơ sở khái quát thực trạng lao động việc làm trong hệ thống pháp luật lao động từ đó đề xuất một số phương hướng và nội dung để hoàn thiện pháp luật lao động trong đó có việc triển khai dự thảo BLLĐ sửa đổi. - Bài Bàn thêm về dự thảo BLLĐ sửa đổi, TS. Lưu Bình Nhưỡng – Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (Văn phòng Quốc hội) số 11/2012 có những phân tích về những điểm bất cập cần sửa đổi, bổ sung của BLLĐ, trong đó có vấn đề về loại HĐLĐ và mối QHLĐ. - Bài “Giao kết HĐLĐ theo BLLĐ năm 2012 từ quy định đến nhận thức thực hiện” của tác giả PGS.TS. Nguyễn Hữu Chí - tạp chí Luật học số 3/2013 đã khái quát nội dung mới chủ yếu, cơ bản về giao kết HĐLĐ trong BLLĐ 2012 và đồng thời đưa ra các ý kiến về khả năng thực hiện các quy định này trên thực tế. - Bài “Thực hiện, chấm dứt HĐLĐ theo BLLĐ năm 2012 từ quy định đến nhận thức và thực hiện” của tác giả PGS.TS. Nguyễn Hữu Chí và Th.S Bùi Kim Ngân - Tạp chí Luật học số 8/2013 đã nêu lên những điểm mới và những thách thức khi thực thi BLLĐ 12 2012 về thực hiện và chấm dứt HĐLĐ. - Bài “HĐLĐ- công cụ quản lý lao động của NSDLĐ” của tác giả Đỗ Thị Dung - Tạp chí luật học số 11/2014 đã trình bày các quan điểm về bản chất của công cụ quản lý lao động từ đó đưa ra các lý giải tại sao phải sử dụng công cụ quản lý lao động; đã trình bày rằng chính kết quả của sự thỏa thuận trong HĐLĐ đã tác động sâu sắc tới quyền quản lý lao động của NSDLĐ. Tính chất không minh bạch trong các nội dung của HĐLĐ như đã nêu thể hiện chủ ý của NSDLĐ trong việc giữ lại quyền quyết định ở các trường hợp cụ thể, tình huống cụ thể theo chiều hướng có lợi cho họ. - Bài “Pháp luật HĐLĐ từ quy định đến thực tiễn” của tác giả Lê Thị Hoài Thu – Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 23 (279) 12/2014 sau khi trình bày các quy định về giao kết HĐLĐ đã trình bày các quy định về thực hiện, sửa đổi, bổ sung và tạm hoãn HĐLĐ dựa trên những quy định đó thì khi đưa ra các dẫn chứng trong thực tế. - Bài “Một số vấn đề về thực hiện HĐLĐ theo quy định của BLLĐ năm 2012” của tác giả Đinh Thị Chiến- Tạp chí khoa học pháp lý số 2/2015 đã trình bày trên cơ sở phân tích những đặc trưng của giai đoạn thực hiện HĐLĐ bài viết này đã chỉ ra một số điểm còn tồn tại và đề xuất hoàn thiện một số quy định của BLLĐ về thực hiện HĐLĐ. - Bài “Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật về HĐLĐ trong các doanh nghiệp” của tác giả Lê Thị Hoài Thu – Tạp chí Nghiên cứu Lập Pháp số 08 (288) 4/2015 có phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới việc thực thi pháp luật về HĐLĐ trong các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Trình bày một cách khái quát về luật HĐLĐ từ kỹ thuật lập pháp đến nội dung của luật. - Bài“Hoàn trả chi phí đào tạo trong trường hợp NLĐ đơn phương chấm dứt hợp đồng theo khoản 3 điều 37 BLLĐ” – Tạp chí Tòa án nhân dân kỳ II tháng 9/2015 số 18 có nói về các quy định hiện hành có liên quan về quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ, việc hoàn trả chi phí đào tạo…, từ đó đưa ra các đề nghị sửa đổi bổ sung. - Bài “Điều khoản bảo mật- hạn chế cạnh tranh trong HĐLĐ” của Đoàn Thị Phương Diệp - Tạp chí “Nghiên cứu lập pháp” số 24 (304) kỳ 2- tháng 12/ 2015 có nêu các khái niệm và ý nghĩa của điều khoản hạn chế cạnh tranh và các quy định pháp luật hiện hành về điều khoản bảo mật - hạn chế cạnh tranh và đề xuất từ đó đề xuất hướng dẫn thi hành quy định của BLLĐ năm 2012 về điều khoản bảo mật - hạn chế cạnh tranh. 1.1.1.6. Báo cáo, hội thảo khoa học - Hội thảo về “Giải quyết tranh chấp HĐLĐ" (9/2015) được tổ chức tại CEO Coaching do luật sư Nguyễn Băng Tú- Công ty Luật TNHH TA Legal làm diễn giả có bàn về những sai lầm của NLĐ đi kèm với những quy định về sa thải, xử lý kỷ luật dựa trên HĐLĐ; cách xử lý tranh chấp đúng luật. - Bài “Một số đề xuất hoàn thiện các quy định về HĐLĐ trong Dự thảo BLLĐ” của Nguyễn Thị Bích, đánh giá những điểm còn hạn chế của Dự thảo lần 3 BLLĐ sửa đổi, đề xuất một số nội dung liên quan đến chấm dứt HĐLĐ, cho phép các bên ký nhiều loại HĐLĐ có thời hạn theo nhu cầu sản xuất ki nh doanh; quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ khi NLĐ cung cấp thông tin sai sự thật để được tuyển dụng vào làm việc . 13 - Tại Hội thảo “Góp ý sửa đổi, bổ sung BLLĐ” của Trường Đại học Luật TP.HCM tổ chức tháng 5/2012, có một số nội dung liên quan đến đơn phương chấm dứt HĐLĐ, tác giả Bùi Thị Kim Ngân tiếp tục góp ý sửa đổi Điều 41 theo hướng xác định: “Đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật là các trường hợp chấm dứt HĐLĐ không đúng với khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 37, khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 38 của Bộ luật này”. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Hàn Quốc 1.1.2.1. Giáo trình - “World of Labour Law in Korea” (2015) của Lee John, Nxb HUNE Nêu rõ HĐLĐ so với HĐLĐ thông thường thì “nguyên tắc thật thà” trở thành yêu cầu quan trọng trong nghĩa vụ trung thực với NLĐ, phát sinh nghĩa vụ chăm sóc đối với NSDLĐ; các nghĩavụ của NLĐ trong đó có nghĩa vụ cung cấp lao động, nghĩa vụ giữ bí mật, nghĩa vụ không được tham nhũng, không được xúi giục, nghĩa vụ báo cáo, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. NLĐ được quyền yêu cầu tiền lương, việc làm. NSDLĐ có nghĩa vụ cung cấp tiền lương, chăm sóc an toàn, đối xử bình đẳng. Xác lập HĐLĐ có kỳ hạn theo đúng nguyên tắc thời hạn HĐLĐ, tính ngoại lệ của HĐLĐ có kỳ hạn, hoàn thành việc kinh doanh cũng như hoàn thành công việc. Ngoài ra còn giải thích đối với quy chế của luật lao động nghiêm cấm lập kế hoạch vi phạm hợp đồng, nghiêm cấm tiết kiệm bắt buộc. - “Labour Law in Korea” (2011) của Kim hyung bae, Nxb Parkyoungsa Một phần của sách này giải thích nội dung của HĐLĐ và mối quan hệ giữa NLĐ và NSDLĐ trong HĐLĐ đồng thời giải thích khái niệm về NLĐ và NSDLĐ. Giải thích chính xác nội dung của điều kiện lao động và HĐLĐ đối với trẻ em tuổi vị thành ni ên; việc điều tra về NLĐ của NSDLĐ và nghĩa vụ thông báo với NSDLĐ của NLĐ. Đặc biệt, giải thích khoa học về hậu quả của vi phạm nghĩa vụ thông báo trong luật lao động; hậu quả và vấn đề tồn tại của việc vô hiệu, huỷ bỏ hợp đồng; gi ải thích việc thay đổi điều kiện hợp đồng dựa trên quy định của luật lao động. 1.1.2.2. Sách tham khảo - “HĐLĐ đồng thời soạn thảo và áp dụng của nội quy làm việc”(2013) của Kim soobok, Nxb Joong Ang Economy. Cuốn sách giới thiệu tính cụ thể quy tắc làm việc phải phù hợp với sự thay đổi của doanh nghiệp hiện nay. Hướng dẫn soạn thảo HĐLĐ và soạn thảo quy trình thoả thuận giữa NSDLĐ và NLĐ; vi ệc áp dụng quy tắc có hiệu lực và phán quyết của các cấp toà án. - “Hỏi đáp về luật lao động” (2016) của Bộ lao động Hàn Quốc, Nxb JINHANM&B. Giải thích sự liên quan đến luật lao động của cơ quan hành chính của Bộ lao động trong áp dụng tiêu chuẩn lao động, đưa ra các ví dụ minh hoạ dựa trên tính hợp lý để giải quyết mâu thuẫn NLĐ và NSDLĐ. Phản ánh ở các doanh nghiệp hiện tại có rất nhiều các ví dụ đa dạng về mâu thuẫn lao động. Trong một phần HĐLĐ chủ yếu giải thích điều kiện lao động, hạn chế của việc sa thải, hạn chế của việc sa thải dựa trên lý do kinh tế, thông báo trước của sa thải, quy định về việc cấm nộp phạt nếu không làm việc, chuyển nhượng lao động và vấn đề nghỉ việc… 14 1.1.2.3. Đề tài khoa học - “Đối với luật HĐLĐ của nước ngoài chủ yếu nghiên cứu thảo luận và áp dụng phương án đó vào đất nước mình” (2006), Hiệp hội luật lao động Hàn Quốc, Báo cáo của Bộ lao động được trình bày: Luật HĐLĐ cơ bản dựa trên sự tự quyết của cá nhân so với luật lao động mà mục đích bảo vệ NLĐ là khác nhau. Tuy nhiên vì NLĐ mà luật HĐLĐ đã phải xây dựng những quy định bảo vệ NLĐ. Vì vậy, phải cố gắng sao cho vị trí của luật lao động không trở nên nhỏ bé hoặc so với trước đây thì việc bảo vệ cho NLĐ không thể trở nên yếu kém hơn. Theo đó, nghiên cứu điều tra thực tế là điều rất cần thiết. - “Nghiên cứu QHLĐ thời kỳ quá độ” (2008), Viện nghiên cứu lao động Hàn Quốc. Dựa trên sự linh hoạt của TTLĐ, đa dạng hình thái tuyển dụng thì việc đánh giá NLĐ của NSDLĐ trong giai đoạn hình thành HĐLĐ là việc rất quan trọng. Việc tuyển dụng nội bộ, qua việc thực tập “QHLĐ thời kỳ quá độ ” của NLĐ trong quá trình tuyển dụng trở nên phổ biến. Tuy nhiên đối với việc nghiên cứu thì còn nhiều thiếu sót và Hàn Quốc đã tham khảo luật của Nhật Bản. 1.1.2.4. Luận án, luận văn - Luận án tiến sĩ “nghiên cứu về hạn chế của cấu trúc và tính chất của luật trong điều kiện lao động” (1987) của tiến sĩ Lee young hee - Department of law in Seoul National University. Luận án này đã phân tích từng quan điểm về luật lao động và luật dân sự đối với HĐLĐ của Hàn Quốc đồng thời phân tích bản chất, tính hợp pháp và đặc điểm của HĐLĐ. Trong quyền lợi và nghĩa vụ của HĐLĐ đã bao gồm quy chế và căn cứ luật về chỉ thị làm việc của NSDLĐ, phân tích tính hợp pháp và hiệu lực của sự bất lợi trong NQLĐ và quan hệ của HĐLĐ, thương lượng tập thể. Vị trí và nội dung của luật lao động đối với HĐLĐ, sự hạn chế tự do trong HĐLĐ chẳng hạn như áp dụng với tiêu chuẩn tối thiểu về luật pháp hạn chế với thời gian lao động, với việc hủy HĐLĐ. Vì vậy đã nghiên cứu về bản chất của HĐLĐ. - Luận án tiến sĩ “Nghiên cứu về luật HĐLĐ” (1999) của tiến sĩ Lee seung gil, Khoa luật Đại học Seong kyun Kwan. Đã phân tích đối với thử việc và thời gian thử việc và gia hạn thời gian thử việc; đồng thời sau khi kí kết hợp đồng thì điều kiện làm việc phải rõ ràng và việc vi phạm HĐLĐ phải có chính sách đền bù đúng đắn. Phân tích các vấn đề liên quan đến việc biến động khi điều động, thuyên chuyển công tác, hợp tác, sát nhập, chuyển nhượng 1 phần cho doanh nghiệp khác. Việc kết thúc HĐLĐ và các vấn đề liên quan đến vô hiệu, sa thải không chính đáng phải có sự đền bù và tiền bồi thường; tự do về hưu, người đã về hưu có nghĩa vụ không được phép làm ở công ty cạnh tranh với công ty cũ đã nghỉ hưu… - Luận án tiến sĩ “Pháp luật về HĐLĐ có thời hạn” (2004) của tiến sĩ No sang hyeon, Đại học Tokyo. Đã phân tích ý nghĩa tính hợp pháp, thời gian củaHĐLĐ; sosánh vấn đề pháp lý của HĐLĐ có xác định thời hạn giữa Hàn Quốc và Nhật Bản. - Luận án thạc sĩ “Nghiên cứu về vấn đề pháp luật trong việc giao kết HĐLĐ” (2008) của thạc sĩ Ryu jae yul, Khoa luật Đại học Hàn Quốc. Đã trình bày thực tế khi NSDLĐ tuyển dụng lao động trong nước phải cho NLĐ xem HĐLĐ cũng như thực hiện việc thông 15 báo được hay không được tuyển; thông báo HĐLĐ đã phát sinh hiệu lực. Tuy nhiên, HĐLĐ sinh ra là để bảo vệ NLĐ nên khi xảy ra việc huỷ bỏ HĐLĐ thì sẽ bị xử lý rất nghiêm khắc. - Luận án thạc sĩ “ Nghiên cứu về pháp lý và hạn chế trong vô hiệu và hủy của HĐLĐ”(2010) của thạc sĩ Kim tae woo, Khoa luật Đại học Hàn Quốc. Cho rằng, thông qua HĐLĐ, NLĐ cung cấp sức lao động cho NSDLĐ và NSDLĐ dựa trên mục đích của mình chi trả tiền lương cho NLĐ từ đó tạo nên sự kí kết hợp đồng1. Vốn dĩ tính pháp lý của HĐLĐ là dựa trên tính pháp lý của luật dân sự. Tuy nhiên HĐLĐ sinh ra là để bảo vệ quyền lợi của NLĐ. Vậy nên khi áp dụng theo luật dân sự thì quyền lợi của NLĐ sẽ không được đảm bảo nữa. Do đó sẽ không có sự công bằng giữa NLĐ và NSDLĐ. Vì vậy tính pháp lý của luật dân sự sẽ thay đổi sao cho phù hợp với luật HĐLĐ để bảo vệ quyền lợi của NLĐ. - “Nghiên cứu về tuyển dụng không chính thức, thử việc, học nghề trong luật lao động” (2007) của thạc sĩ Kim hyun soo, Khoa luật Đại học Hàn Quốc. Nêu phân tích về việc tuyển dụng không chính thức, thử việc, người học nghề đối với hình thái tuyển dụng trong giai đoạn quá độ, việc từ chối HĐLĐ chính thức đã phân tích khía cạnh tính pháp lý… 1.1.2.5. Bài viết đăng trên tạp chí - “Bản lý lịch kê khai nhầm và huỷ và huỷ bỏ của HĐLĐ”, cuốn thứ 30 số 4 (tháng 2 năm 2014) pp.89-117 của Ha kyung hyo, Tạp chí luật học về tài sản. Dựa trên phán quyết của toà án tối cao, NLĐ vào công ty cho dù không kê khai lý lịch học cao thì theo nguyên tắc vẫn phải kỉ luật một cách phù hợp. Tuy nhiên, vấn đề là do kê khai sai lý lịch dựa trên tính cơ bản ký kết của HĐLĐ và vấn đề thực hiện. Vì kê khai không đúng lý lịch đó mà sa thải thì sẽ là vấn đề nghiêm trọng. - “Nghiên cứu về thời hạn lao động, tạp chí nghiên cứu luật lao động” số 32 (năm 2012) trang 1- 66 của Khang heone, Trường đại học Seoul. Phân tích về ý nghĩa tính kinh tế tính xã hội của thời hạn ký kết tuyển dụng lao động. Rà soát thời hạn của HĐLĐ trong luật dân sự, luật lao động và “bảo vệ NLĐ có thời hạn làm việc đồng thời NLĐ thời gian làm việc ngắn”… Do đó đã phân tích hình thái đối với mỗi thời hạn lao động. - “Thay đổi điều kiện lao động và sa thải của NSDLĐ” số 14/12/2008 trang 71-110 của No byung ho, Tạp chí so sánh luật lao động – Hiệp hội so sánh luật lao động Hàn Quốc. NSDLĐ tuỳ thuộc vào điều kiện lao động để thay đổi và sa thải. Luận án này đã phân tích ở 2 quan điểm với NSDLĐ về việc thay đổi tuỳ thuộc vào điều kiện lao động. NSDLĐ nghiên cứu trường hợp thay đổi điều kiện lao động của NLĐ đối với quyền quản lý lao động của NSDLĐ; trường hợp thay đổi điều kiện lao động khi có sự đồng ý của tập thể lao động trường hợp thay đổi điều kiện lao động. Nếu như trường hợp tập thể lao động không có thì sẽ phải giải thích một cách hợp lý trường hợp thay đổi điều kiện làm viêc của NLĐ; ki ểm tra một cách chi tiết điều kiện sa thải và tranh chấp về sa thải… 1.1.2.6. Báo cáo, hội thảo khoa học - “Quy trình quản lý đối với NLĐ không kỳ hạn và bộ quy trình quản lý lao động đối với lao động có kỳ hạn” (2007) của Bộ lao động. Đã phân tích quy trình quản lý hình thái 1 Điểm 4 khoản 1 Điều 2 Luật lao động Hàn Quốc - Xem thêm - Tài liệu vừa đăng _luận văn thạc sĩ nâng cao năng lực tư vấn dự án quốc tế của viện kinh tế và quy hoạch thủy sản... _luận văn tiến sĩ về quản lý thị trường mặt hàng sữa... _luận văn thạc sĩ emba nâng cao mức độ thỏa mãn đối với người lao độngn tại công ty cp giari phá... _luận văn thạc sĩ giải pháp đẩy mạnh hoạt động tín dụng xnk tại ngân hàng vpbank... _luận văn thạc sĩ đẩy mạnh hoạt động bán bảo hiểm qua kênh ngân hàng tại công ty bảo việt nhân... Tài liệu xem nhiều Bài thu hoạch quốc phòng an ninh về dân quân tự vệ... Báo cáo thực tập tốt nghiệp công tác xã hội cá nhân... Trả lời câu hỏi cuộc thi tìm hiểu pháp luật về phòng chống tham nhũng năm 2016 bài có đáp án đầy... Tiểu luận vẽ kỹ thuật vẽ hình chiếu thứ 3 và hình chiếu trục đo từ 2 hình chiếu... Tiểu luận môn Khoa học quản lý đề tài VẬN DỤNG CÁC NGUYÊN TẮC PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ TẠI BAN THI ĐU... Tài liệu liên quan Bài thu hoạch quốc phòng an ninh về dân quân tự vệ... 18 48587 13 Báo cáo thực tập tốt nghiệp công tác xã hội cá nhân... 35 42580 73 Trả lời câu hỏi cuộc thi tìm hiểu pháp luật về phòng chống t... 11 35644 8 Tiểu luận vẽ kỹ thuật vẽ hình chiếu thứ 3 và hình chiếu trục... 11 25860 0 Tiểu luận môn Khoa học quản lý đề tài VẬN DỤNG CÁC NGUYÊN TẮ... 24 20585 27 Báo cáo thực tập chuyên ngành quản trị kinh doanh tại công t... 79 18803 42 đề thi gsat thi tuyển samsung (có đáp án)... 20 17995 7 Nâng cao hiệu quả kết hợp quản lý theo ngành, chức năng kết ... 51 16824 43 Bài cảm nhận sau khi đi bảo tàng chứng tích chiến tranh... 24 15715 2 Báo cáo thực tập tổng hợp khoa quản trị nhân lực tại công ty... 27 15335 35 Thuyết minh báo cáo kinh tế kỹ thuật công trình sơn lại toàn... 28 14455 25 Tiểu luận những vấn đề mới của luật doanh nghiệp 2015 dành c... 11 13940 15 Skkn phương pháp hướng dẫn học tốt cách phát âm trong tiếng ... 17 13880 13 Đo lường mức độ hài lòng của doanh nghiệp về chất lượng dịch... 105 13402 21 Bài tiểu luận môn pháp luật đại cương trình bày và so sánh ... 9 13093 0 Trang / 162 Tải xuống × Tải tài liệu Chi phí hỗ trợ lưu trữ và tải về cho tài liệu này là đ. Bạn có muốn hỗ trợ không? Không Có  Giới thiệu Thư viện tài liệu trực tuyến Hỗ trợ support@xemtailieu.com hotro_xemtailieu Giúp đỡ Điều khoản sử dụng Quy định duyệt tài liệu Hướng dẫn upload tài liệu Hướng dẫn kiếm tiền Xemtailieu.com là thư viện tài liệu trực tuyến, nơi chia sẽ trao đổi tài liệu như luận văn đồ án, sách, giáo trình, đề thi, truyện đọc.v.v.. Với kho tài liệu khủng lên đến hàng triệu tài liệu tại Xemtailieu.com hy vọng đáp ứng được nhu cầu của các thành viên. Xemtailieu.com không chịu trách nhiệm liên quan đến các vấn đề bản quyền tài liệu được thành viên tự nguyện đăng tải lên. × Đăng nhập Đăng nhập với Facebook hoặc Đăng nhập với Google - Đăng nhập
1610704847953.98.parquet/68851
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 51826, "url": "https://xemtailieu.com/tai-lieu/luan-van-kinh-te-so-sanh-phap-luat-ve-hop-dong-lao-dong-viet-nam-va-han-quoc-2039212.html" }
130.4
Người đàn ông giàu nhất Hồng Kông bị bắt giữa Trung Quốc và phương Tây | chơi bet365 làm thế nào để thắng_link vào bet365 mới nhất_bet365 là gì Search Người đàn ông giàu nhất Hồng Kông bị bắt giữa Trung Quốc và phương Tây Home / Phân tích / Người đàn ông giàu nhất Hồng Kông bị bắt giữa Trung Quốc và phương Tây Phân tích 2020-07-272020-07-27admin Đối với một số người, tỷ phú Li Ka-shing là người ủng hộ phong trào dân chủ Hồng Kông, đối mặt với Trung Quốc. Nhưng đối với những người khác, bao gồm cả Tổng thống Trump và các đồng minh, ông trung thành với Trung Quốc và không đáng tin cậy trong việc thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng lớn – tỷ phú giàu nhất Hồng Kông, khó khăn hơn bao giờ hết để tổ chức các cuộc họp với cả hai bên. Khi Bắc Kinh đối mặt với chính trị, kinh doanh, hoặc các quốc gia phương Tây Covid-19, đế chế kinh doanh tỷ phú 91 tuổi, trở thành một thử nghiệm quan trọng. Các công ty quốc tế có thể phản ứng linh hoạt với cuộc xung đột này? Mặc dù vậy, so với thị trường chứng khoán, tình trạng này vẫn không quá lạc quan. CK Hutchison Holdings là phần lớn nhất của đế chế Lý Gia Thành và giá trị thị trường hiện tại của nó chỉ bằng một nửa giá trị sổ sách, đây là giá trị thấp nhất kể từ khi công ty được tái cấu trúc vào năm 2015. So với mức giảm 7% của Chỉ số Hang Seng, giá cổ phiếu cũng đã giảm 30% trong năm qua. Giá cổ phiếu của CK Hutchison Whampoa từ đã liên tục giảm trong năm năm qua. Ảnh: Bloomberg – Mặc dù ông Li vẫn duy trì mối quan hệ chặt chẽ với Hồng Kông và Trung Quốc đại lục, 80% doanh thu của Hutchison Whampoa lao đến từ thị trường nước ngoài, chủ yếu ở các khu vực nhạy cảm. Chẳng hạn như năng lượng, cơ sở hạ tầng, viễn thông và cảng. Điều này đã khiến nhóm tỷ phú giàu nhất Hồng Kông dưới sự giám sát chính trị nhiều hơn hầu hết các công ty đa quốc gia khác có hoạt động tại Trung Quốc và phương Tây. “Đây là một hành động ‘cân bằng’.” Đại học Hồng Kông. “Anh ấy không muốn các nước phương Tây hiểu mối quan hệ của anh ấy với chính phủ Trung Quốc.” Tuy nhiên, mối quan hệ này đã được thảo luận thêm vào tháng 5 năm 2020, khi một công ty con của CK Hutchison Whampoa mất đấu thầu xây dựng. Một nhà máy ở Israel – dự án này có thể tạo ra 85 triệu đô la doanh thu hàng năm, tương đương 2,1 tỷ đô la trong suốt cuộc đời của ông. Một trong những tờ báo lớn nhất thế giới, Israel, nói rằng Ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo đã cảnh báo Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu rằng Hoa Kỳ lo ngại về đề nghị của CK Hutchison. Ông Pompeo nói trong một cuộc phỏng vấn trên truyền hình hai tuần trước khi hợp đồng được trao cho một công ty Israel: “Chúng tôi không muốn Trung Quốc có những bảo lưu về cơ sở hạ tầng của Israel.” — Đây không phải là chấn thương đầu tiên. Năm 2018, CK Hutchison đã chặn việc mua lại các nhà khai thác đường ống của Úc vì lý do tương tự. Từ đó đến nay, Tập đoàn APA mục tiêu của thỏa thuận đã đạt được khoản lãi 463 triệu đô la Úc (322 triệu đô la Mỹ). Tỷ phú Lý Gia Thành. Ảnh: Bloomberg (Bloomberg . ) Ông Li sinh ra ở Trung Quốc, nhưng đến Hồng Kông từ thời thơ ấu trong Thế chiến II. Người ta nói rằng tỷ phú 91 tuổi có mối quan hệ phức tạp với Trung Quốc. Kể từ khi Chủ tịch Tập Cận Bình lên nắm quyền vào năm 2013, “chuỗi” này đã duy trì mối quan hệ chặt chẽ với các nhà lãnh đạo Trung Quốc, nhưng hiện tại nó đã bị suy yếu rất nhiều. Vào năm 2015, nó đã bắt đầu nhận được những lời chỉ trích nặng nề khi ghi nhận CK Hutchison và CK Asset Holdings tại Quần đảo Cayman. Thay vì Hồng Kông, và thông tin về việc thoái vốn khỏi Thượng Hải. Các phương tiện truyền thông Trung Quốc bắt đầu đặt câu hỏi về “lòng trung thành” của ông. Đáp lại những lời chỉ trích, người đàn ông giàu nhất Hồng Kông đã đưa ra một tuyên bố dài ba trang phủ nhận những cáo buộc này. Đồng thời, ông nhấn mạnh sự tôn trọng đối với sự lãnh đạo của Chủ tịch Tập Cận Bình. Thông cáo báo chí cũng chỉ ra rằng Hutchison Whampoa đã mở 1.000 cửa hàng bán lẻ ở Trung Quốc trong hai năm qua và 87% số tiền quyên góp 17 tỷ USD (2,2 tỷ USD) của Hồng Kông là vì lợi ích của Trung Quốc và Hồng Kông. -Trong khi đó, ông Li đã mở rộng kinh doanh tại Trung Quốc, nhưng trên thực tế, đế chế của ông đã giảm quy mô kinh doanh trong những năm gần đây. . Kể từ năm 2015, CK Hutchison Whampoa, CK Assets và CK Architectural Holdings có kế hoạch tiến hành sáp nhập và mua lại toàn cầu (M & A), với tổng quy mô gần 60 tỷ đô la Mỹ. Tuy nhiên, chỉ có 1,6% số tiền được chuyển đến Trung Quốc hoặc Hồng Kông. Tập đoàn CK tại Trung Quốc và Hồng Kông năm 2015. Theo báo cáo thường niên năm 2019 của CK Hutchison, doanh thu của khu vực chỉ đạt 18%. Khi tỷ phú sở hữug Ủng hộ phong trào dân chủ ở Hồng Kông. Trong khi các ông trùm khác ủng hộ quan điểm của đất nước tỷ đô này, tỷ phú Lý Gia Thanh đã gửi một thông điệp mơ hồ kêu gọi chấm dứt bạo lực và nhấn mạnh tự do, khoan dung và tôn trọng luật pháp. . Tỷ phú giàu nhất Hồng Kông cũng kêu gọi chính phủ nuông chiều những người trẻ tuổi để đối phó với tình trạng bất ổn. Các sản phẩm như CK Group là nguồn gốc của bất bình đẳng xã hội. Vào thời điểm đó, tài sản của Li Ka-shing đạt 29 tỷ đô la Mỹ. Tại Đại hội cổ đông thường niên của CK Hutchison Whampoa vào giữa tháng 5, Victor Li, con trai cả của tỷ phú Li Ka-shing, nói rằng cuộc chiến thương mại Trung-Mỹ thực sự sẽ không ảnh hưởng đến nhóm viễn thông, cơ sở hạ tầng và Việc kinh doanh bán lẻ có tác động đáng kể và nó sẽ không có tác động đến lĩnh vực cảng. “Tôi trung thành với chiến lược tăng nguồn thu nhập ổn định và ổn định, đã tăng giá trị, Chủ tịch Victor Li nói với các cổ đông.” Tập đoàn có dòng tiền ổn định và sẵn sàng đáp ứng những thách thức mới. “Một số người ủng hộ phong trào dân chủ ở Hồng Kông rất vui khi nghĩ rằng tỷ phú Ly đứng về phía mình. Do đó, những người biểu tình đã đổ xô ủng hộ các siêu thị và nhà thuốc của Tập đoàn CK. Vào tháng 5, Huo Jianning, tổng giám đốc của Hutchison Whampoa, Do Covid-19 đóng cửa, doanh thu toàn cầu của doanh nghiệp bán lẻ sẽ giảm 50% trong sáu tháng đầu năm nay, nhưng lợi nhuận của các cửa hàng ở Hồng Kông và châu Á có thể bù lỗ ở châu Âu. Tỷ phú giàu nhất của Khổng Tử dường như đã rút khỏi áp lực từ Bắc Kinh. Một ngày sau khi Israel mất một dự án xây dựng, mặc dù bị các nước phương Tây lên án, Lee Kuan Yew đã công khai ủng hộ dự luật an ninh, và con trai ông đã từ bỏ sự trung lập. Thông qua các biện pháp này, Richard Harris, người sáng lập Công ty quản lý đầu tư tị nạn Hồng Kông, nói rằng thay vì thuyết phục các nước phương Tây trở nên độc lập với Trung Quốc, đế chế của ông sẽ gặp rắc rối. Con trai ông đã mua thêm cổ phiếu vào đầu năm nay, do đó bày tỏ sự tin tưởng vào tương lai của Tập đoàn CK. Tuy nhiên, sự sụt giảm của cổ phiếu vẫn mạnh hơn Chỉ số Hang Seng – điều này cho thấy các nhà đầu tư vẫn còn nghi ngờ về tương lai của tập đoàn .– –Minh Son (Báo cáo của Bloomberg) 0 Thông điệp sai cho cô ấy và doanh nhân2 xu hướng đầu tư bất động sản sau đại dịch Leave a Reply Cancel Reply Your email address will not be published. Save my name, email, and website in this browser for the next time I comment. Bài viết mới Người nói tiếng Séc đã thực hiện ước mơ trở thành một người vợ Việt Nam Ra mắt dự án Pho Noi House Mẹ của Michael Phelps đã biến con trai mình từ một đứa con trai hiếu động thành một ngư dân huyền thoại Bán chung cư cao cấp V-Citilight Kích thước của công cụ quảng cáo Facebook là gì? Phản hồi gần đây chơi bet365 làm thế nào để thắng_link vào bet365 mới nhất_bet365 là gì
1610704847953.98.parquet/66828
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 6173, "url": "https://www.vietnamexplorertours.com/phan-tich/5193.html" }
128.8
Tiểu luận Triết học: Những nét cơ bản nhất của lịch sử hình thành phép biện chứng - Luận văn, đồ án, đề tài tốt nghiệp Đăng ký Đăng nhập Liên hệ LuanVan.net.vn - Luận văn, đồ án, tiểu luận, luận án, đề tài, đề án, chuyên đề thực tập, tốt nghiệp Thư viện luận văn, đồ án, tiểu luận, luận án, báo cáo, bài tập lớn, đề tài, đề án, chuyên đề thực tập, tốt nghiệp, thạc sĩ, tiến sĩ, cao học Trang Chủ Tài Liệu Upload Tiểu luận Triết học: Những nét cơ bản nhất của lịch sử hình thành phép biện chứng Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy triết học gắn liền với cuộc đấu tranh của hai phương pháp tư duy biện chứng và siêu hình. Lịch sử phép biện chứng đã trải qua quá trình phát triển lâu dài và đã có lúc bị phép siêu hình thống trị. Song với tính chất khoa học và cách mạng của mình, phép biện chứng mà đỉnh cao là phép biện chứng duy vật đã khẳng định vị trí của mình là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện. Thực tiễn cách mạng đã chứng minh rằng chỉ khi nào con người nắm vững những lý luận về phép biện chứng và vận dụng sáng tạo các nguyên tắc phương pháp luận của nó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể thì quá trình cải tạo tự nhiên và biến đổi xã hội mới thực sự mang tính cách mạng triệt để. Ngược lại, quan điểm siêu hình luôn xem xét sự vật trong trạng thái biệt lập với lối tư duy cứng nhắc sẽ dẫn tới những hạn chế và sai lầm không thể tránh khỏi trong tiến trình phát triển xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của phép biện chứng, trên cơ sở đó vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng được đặt ra như một nhu cầu cần thiết và tất yếu. Tiến trình cải tổ nền kinh tế và đổi mới mọi mặt đời sống xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay hơn lúc nào hết cần phải quán triệt tư duy biện chứng triệt để dựa trên lập trường duy vật vững vàng. Lý luận về phép biện chứng duy vật nói riêng, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung là kim chỉ nam đưa cách mạng nước ta giành được thắng lợi trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự hình thành và phát triển phép biện chứng duy vật là một quá trình lâu dài và phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau với các trình độ phát triển cao thấp khác nhau. Trong khuôn khổ của bài tiểu luận triết học này, em xin được trình bày nhận thức của mình về những nét cơ bản nhất của lịch sử hình thành và phát triển phép biện chứng. Đề tài: Những nét cơ bản nhất của lịch sử hình thành phép biện chứng 31 trang | Chia sẻ: baohan10 | Ngày: 18/09/2020 | Lượt xem: 51 | Lượt tải: 0 Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Triết học: Những nét cơ bản nhất của lịch sử hình thành phép biện chứng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên LỜI NÓI ĐẦU Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy triết học gắn liền với cuộc đấu tranh của hai phương pháp tư duy biện chứng và siêu hình. Lịch sử phép biện chứng đã trải qua quá trình phát triển lâu dài và đã có lúc bị phép siêu hình thống trị. Song với tính chất khoa học và cách mạng của mình, phép biện chứng mà đỉnh cao là phép biện chứng duy vật đã khẳng định vị trí của mình là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện. Thực tiễn cách mạng đã chứng minh rằng chỉ khi nào con người nắm vững những lý luận về phép biện chứng và vận dụng sáng tạo các nguyên tắc phương pháp luận của nó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể thì quá trình cải tạo tự nhiên và biến đổi xã hội mới thực sự mang tính cách mạng triệt để. Ngược lại, quan điểm siêu hình luôn xem xét sự vật trong trạng thái biệt lập với lối tư duy cứng nhắc sẽ dẫn tới những hạn chế và sai lầm không thể tránh khỏi trong tiến trình phát triển xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của phép biện chứng, trên cơ sở đó vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng được đặt ra như một nhu cầu cần thiết và tất yếu. Tiến trình cải tổ nền kinh tế và đổi mới mọi mặt đời sống xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay hơn lúc nào hết cần phải quán triệt tư duy biện chứng triệt để dựa trên lập trường duy vật vững vàng. Lý luận về phép biện chứng duy vật nói riêng, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung là kim chỉ nam đưa cách mạng nước ta giành được thắng lợi trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự hình thành và phát triển phép biện chứng duy vật là một quá trình lâu dài và phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau với các trình độ phát triển cao thấp khác nhau. Trong khuôn khổ của bài tiểu luận triết học này, em xin được trình bày nhận thức của mình về những nét cơ bản nhất của lịch sử hình thành và phát triển phép biện chứng. Đề tài: Những nét cơ bản nhất của lịch sử hình thành phép biện chứng Tuy đã rất cố gắng song bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các đồng chí học viên lớp cao học Văn hoá học. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 20 tháng 1 năm 2006 I. PHÂN BIỆT PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ PHÉP SIÊU HÌNH Biện chứng và siêu hình là hai mặt đối lập trong tư duy. Phương pháp biện chứng là phương pháp tư duy triết học xem xét thế giới trong mối liên hệ phổ biến, trong sự vận động và phát triển vô cùng với tư duy mềm dẻo, linh hoạt. Trái lại, phương pháp siêu hình là phương pháp tư duy triết học xem xét thế giới trong trạng thái cô lập, phiến diện với tư duy cứng nhắc. Lịch sử đấu tranh giữa hai phương pháp biện chứng và siêu hình luôn gắn liền với cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng triết học cơ bản là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Chính cuộc đấu tranh lâu dài của hai phương pháp này đã thúc đẩy tư duy triết học phát triển và được hoàn thiện dần với thắng lợi của tư duy biện chứng duy vật. Hạn chế của phương pháp siêu hình thể hiện ở chỗ chỉ thấy những sự việc cá biệt mà không thấy mối liên hệ giữa những sự vật ấy, chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà không rhấy sự ra đời và biến đi của sự vật, chỉ thấy trạng thái tĩnh của sự vật mà không thấy trạng thái động của nó. Quan điểm biện chứng đã khắc phục được những hạn chế của phương pháp siêu hình bằng cách xem xét các sự vật trong mối liên hệ qua lại với nhau, không chỉ thấy sự tồn tại mà còn rhấy cả sự hình thành và tiêu vong của sự vật, không chỉ thấy trạng thái tĩnh mà còn thấy cả trạng thái vận động biến đổi không ngừng của sự vật. Tuy nhiên, Ăngghen cũng khẳng định rằng thế giới quan siêu hình là điều không thể tránh khỏi và sự ra đời của nó là hợp quy luật đối với một giai đoạn nhất định trong lịch sử phát triển của nhận thức khoa học – giai đoạn nghiên cứu các chi tiết của bức tranh toàn cảnh về thế giới tự nhiên. Muốn nhận thức được các chi tiết ấy, người ta buộc phải tách chúng ra khỏi những mối liên hệ tự nhiên, lịch sử của chúng để nghiên cứu riêng từng chi tiết một theo đặc tính của chúng, theo nguyên nhân, kết quả riêng của chúng. Thời kỳ này kéo dài từ cuối thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVIII. Đến cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, việc nghiên cứu tiến từ giai đoạn sưu tập sang giai đoạn chỉnh lý, nghiên cứu về các quá trình phát sinh, phát triển của sự vật, hiện tượng thì phương pháp siêu hình không còn đáp ứng được yêu cầu của nhận thức khoa học. Cuộc khủng hoảng Vật lý học cuối thế kỷ XIX do ảnh hưởng của quan niệm siêu hình là một minh chứng cho hạn chế của phương pháp siêu hình. Những kết quả nghiên cứu của khoa học tự nhiên, nhất là vật lý học và sinh học đã đòi hỏi và chứng tỏ rằng cần phải có một cách nhìn biện chứng về thế giới và khi đó, phép siêu hình đã bị phủ định nhường chỗ cho phép biện chứng. Trong lịch sử triết học, phương pháp biện chứng đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển cao thấp khác nhau, trong đó phép biện chứng duy vật là thành quả phát triển cao nhất và khoa học nhất của tư duy biện chứng. Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu sự hình thành phép biện chứng qua từng thời kỳ lịch sử nhất định, bắt đầu từ thời kỳ cổ đại đến thời kỳ phục hưng và cận đại, tiếp đó hình thành phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức và sau cùng hoàn chỉnh ở phép biện chứng duy vật Mácxít. II. SỰ HÌNH THÀNH PHÉP BIỆN CHỨNG THỜI KỲ CỔ ĐẠI Ba nền triết học tiêu biểu của thời kỳ cổ đại được biết đến là nền triết học Ấn Độ cổ đại, triết học Trung Quốc cổ đại và triết học Hy Lạp cổ đại. 1. Phép biện chứng trong triết học Ấn Độ cổ đại Ấn Độ cổ đại là một vùng đất thuộc nam châu Á có điều kiện khí hậu hết sức khắc nghiệt và địa hình tách biệt với các quốc gia, do đó Ấn Độ cổ đại trở thành một nền văn minh khép kín. Các tư tưởng tôn giáo rất phát triển trong xã hội Ấn Độ thường xuyên đan xen vào triết học làm nên nét đặc thù riêng của triết học Ấn Độ cổ đại. Có thể nói, triết học Ấn Độ tuy còn ở trình độ sơ khai song nó đã chứa đựng các yếu tố về bản thể luận và những tư duy biện chứng. Các tư tưởng biện chứng mộc mạc, thô sơ được tập trung thể hiện trong một số trường phái triết học Ấn Độ cổ đại sau: a. Triết học Samkhya Theo phái Samkhya, Prakriti là vật chất đầu tiên ở dạng tinh tế, trầm ẩn, vô định hình và trong nó chứa đựng khả năng tự biến hoá. Prakriti không ngừng biến hoá, phát triển trong không gian theo luật nhân quả dẫn tới xuất hiện tính đa dạng của giới tự nhiên. Tuy nhiên, về bản thể luận, phái Samkhya theo quan điểm nhị nguyên luận khi thừa nhận sự tồn tại hai bản nguyên của vũ trụ là bản nguyên vật chất Prakriti và bản nguyên tinh thần Prusa. b. Triết học Jaina Tư tưởng biện chứng của phái Jaina thể hiện ở học thuyết tương đối. Theo đó, tồn tại vừa bất biến, vừa biến chuyển. Cái vĩnh hằng là bản thể còn cái không vĩnh hằng luôn biến đổi là các dạng của bản thể. Điều đó có nghĩa là thế giới bao quanh con người vừa vận động lại vừa đứng im, đó là một mâu thuẫn mà con người cần phải chấp nhận. c. Triết học Lokayata Theo phái Lokayata, mọi sự vật, hiện tượng của thế giới được tạo ra từ bốn nguyên tố vật lý: đất, nước, lửa và không khí. Các nguyên tố này tự tồn tại, tự vận động trong không gian mà tạo thành tất cả các sự vật, kể cả con người. Đây là trường phái duy vật và vô thần triệt để nhất trong các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại. Nó ra đời từ phong trào đấu tranh chống sự thống trị của chủ nghĩa duy tâm trong Veda và giáo lý của đạo Bàlamôn đòi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội. d. Triết học Phật giáo Khi luận giải những vấn đề thuộc thế giới quan và nhân sinh quan triết học, Phật giáo đã đề cập tới hàng loạt những vấn đề thuộc phạm vi của phép biện chứng, với tư cách là học thuyết triết học về mối liên hệ phổ biến và sự biến đổi của mọi tồn tại. Thế giới quan triết học phật giáo và những tư tưởng biện chứng của nó được thể hiện qua một số phạm trù cơ bản là: vô ngã, vô thường và nhân quả. - Vô ngã là không có cái tôi bất biến. Cách nhìn này hoàn toàn đối lập với cách nhìn siêu hình về tồn tại. Cũng từ cách nhìn này, triết học Phật giáo đưa ra những nguyên lý về mối liên hệ tất định, phổ biến: không có cái nào là biệt lập tuyệt đối so với tồn tại khác, tất cả đều hoà đồng nhau. - Vô thường nói lên sự biến đổi không ngừng của vạn vật, không có cái gì đứng im. Quy luật vô thường của mọi tồn tại là Sinh - Trụ - Dị - Diệt. Đây là một phỏng đoán biện chứng về sự biến đổi của tồn tại. - Quy luật nhân quả cho rằng sự tồn tại đa dạng và phong phú của thế giới đều có nguyên nhân tự thân, đó là quy luật nhân quả, một định lý tất định và phổ biến của mọi tồn tại, dù đó là vũ trụ hay nhân sinh. Triết học ấn Độ là một trong những nôi triết học vĩ đại của loài người thời kỳ cổ đại. Nó chứa đựng những yếu tố duy vật, vô thần và đã manh nha hình thành các tư tưởng biện chứng sơ khai. Tuy nhiên, tư duy triết học thời kỳ này cũng bộc lộ nhiều hạn chế như: coi linh hồn con người là bất tử (đạo Phật) hay phán đoán về thế giới hiện tượng của phái Jaina. 2. Phép biện chứng trong triết học Trung Quốc cổ đại Trung Quốc là một quốc gia rộng lớn và có lịch sử phát triển lâu đời vào bậc nhất thế giới. Đó là một trong những trung tâm tư tưởng lớn nhất của nhân loại thời cổ. Triết học Trung Quốc cổ đại chịu sự chi phối trực tiếp của những vấn đề chính trị xuất phát từ hiện trạng xã hội biến động đương thời. Chính vì vậy trong thời kỳ này, các triết gia Trung Quốc thường đẩy sâu quá trình suy tư về các vấn đề thuộc vũ trụ quan và biến dịch luận. Song cần phải khẳng định rằng, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong triết học Trung Quốc cổ đại là chủ nghĩa duy vật chất phác và phép biện chứng tự phát. Có thể thấy một số tư tưởng biện chứng nổi bật của triết học Trung Quốc cổ đại qua một số trường phái triết học sau: a. Trường phái triết học Âm Dương gia Về căn bản, những kiến giải về vũ trụ quan của triết học Trung Quốc cổ đại mang tinh thần biện chứng sâu sắc (nếu hiểu theo nguyên tắc: phép biện chứng là học thuyết triết học về sự biến đổi). Điển hình cho tư duy này là học thuyết Âm - Dương. Nội dung triết học căn bản của phái Âm -Dương là lý luận về sự biến dịch, được khái quát thành những nguyên lý phổ biến, khách quan và tất yếu. Một là, phái Âm - Dương nhìn nhận mọi tồn tại không phải trong tính đồng nhất tuyệt đối. Trái lại, tất cả đều bao hàm sự thống nhất của các mặt đối lập, gọi là sự thống nhất của Âm và Dương. Nói cách khác, Âm -Dương là đối lập nhau nhưng là điều kiện tồn tại của nhau. Hơn nữa, học thuyết Âm - Dương còn thừa nhận mọi thực tại trên tinh thần biện chứng là trong mặt đối lập này đã bao hàm khả năng của mặt đối lập kia. Đây là một cách lý giải biện chứng về sinh thành, về vận động. Hai là, nguyên lý của sự sinh thành và vận động là có tính quy luật, chu kỳ và chu kỳ đó được bảo đảm bởi nguyên tắc cân bằng Âm - Dương. Ba là, nguyên lý phân đôi cái thống nhất trong lôgíc của sự vận động là một nguyên lý tất định. Nguyên lý đó được khái quát bằng một lôgíc như sau: Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái, Bát quái tương thôi sinh vô cùng (vạn vật). Về bản thể luận, phái Âm - Dương quy thế giới về những dạng vật chất cụ thể và coi chúng là nguồn gốc sinh ra vạn vật. Theo phái này, nguyên thuỷ của thế giới bao gồm Kim - Mộc - Thuỷ - Hoả - Thổ. b. Triết học của phái Đạo gia Người khởi xướng triết học phái Đạo gia là Lão Tử. Những ý kiến luận giải về Đạo, coi Đạo là nguyên lý duy nhất và tuyệt đối trong sự vận hành của vũ trụ đã thể hiện rất sâu sắc quan điểm biện chứng của Lão Tử. Trong đó nổi bật lên hai quan điểm về phép biện chứng của ông là quan điểm về luật quân bình và quan điểm về luật phản phục. Luật quân bình để giữ cho sự vận hành của vạn vật được cân bằng, không thái quá mà cũng không bất cập. Phản phục là nói lên tính tuần hoàn, tính chu kỳ trong quá trình biến dịch của vạn vật. Sự thống nhất biện chứng của các mặt đối lập cũng là một tư tưởng biện chứng độc đáo của Lão Tử. Ông cho rằng: có và không sinh lẫn nhau, dễ và khó tạo nên nhau, ngắn và dài làm rõ nhau, cao và thấp tựa vào nhau, trước và sau theo nhau. Trong đó, mỗi mặt đều trong mối quan hệ với mặt đối lập, không có mặt này thì cũng không có mặt kia và giữa chúng chỉ là tương đối. Tuy nhiên, sự đấu tranh chuyển hoá của các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng không theo khuynh hướng phát triển, xuất hiện cái mới mà theo vòng tuần hoàn của luật phản phục. Hơn nữa, Lão Tử không chủ trương giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh của các mặt đối lập mà ông chủ trương lấy cái tĩnh, cái vô vi để tạo thành sự chuyển hoá theo luật quân bình. Chính vì thế, phép biện chứng của ông mang tính chất máy móc, lặp đi lặp lại một cách tuần hoàn. Trang Tử cũng là một nhà tư tưởng lớn của phái Đạo gia. Học thuyết của Trang Tử có những yếu tố duy vật và biện chứng tự phát, nhưng thế giới quan của ông về cơ bản nghiêng về chủ nghĩa duy tâm. Khi quan niệm về vũ trụ (về Đạo), Trang Tử cho rằng Đạo trời là tự nhiên vốn có không ai sinh ra. Vạn vật đều sinh ra từ Đạo và biến hoá một cách tự nhiên. c. Triết học của phái Danh gia Các tư tưởng biện chứng của phái Danh gia trước hết được thể hiện qua thuyết tương đối của Huệ Thi. Huệ Thi quan niệm vạn vật trong vũ trụ luôn biến đổi, chúng có tính tương đối và hàm chứa trong đó những mặt đối lập liên hệ chuyển hoá qua lại với nhau. Nhưng do tuyệt đối hoá tính chất tương đối của sự vật, thực tại, tách rời nó với những điều kiện, những mối liên hệ cụ thể nên về cơ bản, triết học của Huệ Thi mang tính ngụy biện và tương đối luận. Một biện giả khác của phái Danh gia là Công Tôn Long. Tư tưởng biện chứng tự phát của Công Tôn Long thể hiện ở quan điểm về tính chất mâu thuẫn của sự vận động, sự thống nhất biện chứng giữa cái vô hạn và hữu hạn, giữa đồng nhất và khác biệt. Trong đó, Công Tôn Long đưa ra những mệnh đề có tính chất ngụy biện, chiết trung như: ngựa trắng không phải là ngựa, trứng có lông, bóng chim bay không hề động đậy. Nếu Huệ Thi chỉ chú trọng đến tính chất tương đối, sự luôn biến đổi của sự vật, hiện tượng trong hiện thực, phóng đại một cách phiến diện mặt tương đối của sự vật và đưa đến kết luận tương đối chủ nghĩa thì Công Tôn Long lại nhấn mạnh tính tuyệt đối, tính không biến đổi và sự tồn tại độc lập của những khái niệm so với cái được phản ánh trong khái niệm ấy. Công Tôn Long đã tách rời cái chung, cái phổ biến ra khỏi những cái riêng, cái cá biệt đi tới phủ nhận sự tồn tại của những cái cụ thể trong hiện thực. d. Triết học của phái Pháp gia Hàn phi là một đại biểu của phái Pháp gia. Kiên quyết phủ nhận lý luận chính trị thần quyền, Hàn Phi được coi là một nhà vô thần luận nổi tiếng của Trung Quốc cổ đại. Các tư tưởng triết học của ông biểu hiện rõ tính chất duy vật và biện chứng tự phát về lịch sử và phương pháp trị nước. Về lịch sử, Hàn Phi cho rằng lịch sử xã hội loài người luôn biến đổi, từ trước tới nay không có chế độ xã hội nào vĩnh viễn tồn tại. Mặt khác, ông cho rằng động lực căn bản quyết định sự biến đổi của lịch sử là do sự thay đổi dân số và của cải xã hội nhiều ít. Do vậy, khi bàn về phương pháp trị nước, ông cho rằng kẻ thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của lịch sử, tuỳ đặc điểm, hoàn cảnh thời thế mà lập ra chế độ, đặt chính sách và phương pháp trị nước mới cho phù hợp. Không có thứ luật nào luôn luôn đúng với mọi thời đại. Tuy Hàn Phi chưa thấy được động lực thực sự của lịch sử, nhưng ông đã cố gắng đi tìm nguyên nhân biến đổi của đời sống xã hội trong điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Tóm lại, do sự hạn chế của trình độ hoạt động thực tiễn và trình độ nhận thức, triết học Trung Quốc cổ đại mới chỉ dừng lại ở chủ nghĩa duy vật chất phác, cảm tính và phép biện chứng tự phát, sơ khai. Song với các quan điểm biện chứng trong cách kiến giải về vũ trụ quan, có thể nói triết học Trung Quốc cổ đại đã đặt cơ sở rộng lớn cho sự phát triển các tư tưởng biện chứng của triết học nhân loại. 3. Phép biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển vào thế kỷ thứ VI trước CN. Cơ sở kinh tế của nền triết học đó là quyền sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và người nô lệ. Khoa học lúc đó chưa phân ngành, các nhà triết học đồng thời là nhà toán học, vật lý học, thiên văn học,... Nhìn chung, triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phát và biện chứng sơ khai. Đời sống chính trị của Hy Lạp bấy giờ sôi động, những quan hệ thương mại với nhiều nước khác nhau trên Địa Trung Hải, sự tiếp xúc với điều kiện sinh hoạt và những tri thức muôn vẻ của nhân dân các nước ấy, sự quan sát các hiện tượng tự nhiên một cách trực tiếp như một khối duy nhất và lòng mong muốn giải thích chúng một cách khoa học đã góp phần quy định và làm phát triển thế giới quan duy vật và biện chứng sơ khai của Hy Lạp cổ đại. Có thể tìm hiểu các tư tưởng biện chứng nổi bật của triết học Hy Lạp cổ đại qua một số đại diện tiêu biểu sau đây: a. Talét Thành tựu nổi bật của Talét là quan niệm triết học duy vật và biện chứng tự phát. Ông cho rằng nước là yếu tố đầu tiên, là bản nguyên của mọi vật trong thế giới. Mọi vật đều sinh ra từ nước và khi phân huỷ lại biến thành nước. Theo Talét, vật chất tồn tại vĩnh viễn, còn mọi vật do nó sinh ra thì biến đổi không ngừng, sinh ra và chết đi. Toàn bộ thế giới là một chỉnh thể thống nhất, trong đó mọi vật biến đổi không ngừng mà nền tảng là nước. Tuy nhiên, các quan điểm triết học duy vật của Talét mới chỉ dừng lại ở mức độ mộc mạc, thô sơ, cảm tính. Ông chưa thoát khỏi ảnh hưởng của quan niệm thần thoại và tôn giáo nguyên thuỷ khi ông cho rằng thế giới đầy rẫy những vị thần linh. b. Anaximăngđrơ Ông là người Hy Lạp đầu tiên nghiên cứu nghiêm túc vấn đề phát sinh và phát triển của các loài động vật. Theo ông, động vật phát sinh dưới nước và sau nhiều năm biến hoá thì một số giống loài dần thích nghi với đời sống trên cạn, phát triển và hoàn thiện dần; con người hình thành từ sự biến hoá của cá. Phỏng đoán của ông còn chưa có căn cứ khoa học song đã manh nha thể hiện yếu tố biện chứng về sự phát triển của các giống loài động vật. Khi giải quyết vấn đề bản thể luận triết học, Anaximăngđrơ cho rằng cơ sở hình thành vạn vật trong vũ trụ là từ một dạng vật chất đơn nhất, vô định hình, vô hạn và tồn tại vĩnh viễn mà người ta không thể trực quan thấy được. Nếu so với Talét thì Anaximăngđrơ có bước tiến xa hơn trong sự khái quát trừu tượng về phạm trù vặt chất. c. Hêraclít Theo đánh giá của các nhà kinh điển Mác-Lênin, Hêraclít là người sáng lập ra phép biện chứng, hơn nữa, ông là người xây dựng phép biện chứng trên lập trường duy vật. Phép biện chứng của Hêraclít chưa được trình bày dưới dạng một hệ thống các luận điểm khoa học như sau này, nhưng hầu như các luận điểm cốt lõi của phép biện chứng đã được ông đề cập dưới dạng các câu danh ngôn mang tính thi ca và triết lý. Các tư tưởng biện chứng của ông thể hiện trên các điểm chủ yếu sau: Thứ nhất, quan niệm về vận động vĩnh viễn của vật chất. Theo Hêraclít, không có sự vật, hiện tượng nào của thế giới đứng im tuyệt đối mà trái lại tất cả đều trong trạng thái biến đổi và chuyển hoá thành cái khác và ngược lại. Thứ hai, quan niệm về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn trong mọi sự vật, hiện tượng. Điều đó thể hiện trong những phỏng đoán của ông về vai trò của những mặt đối lập trong sự biến đổi phổ biến của tự nhiên, về sự trao đổi của những mặt đối lập, về sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập. Thứ ba, theo Hêraclít, sự vận động và phát triển không ngừng của thế giới do quy luật khách quan (logos) quy định. Logos khách quan là trật tự khách quan của mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ. Logos chủ quan là từ ngữ, học thuyết, lời nói, suy nghĩ của con người. Logos chủ quan phải phù hợp với logos khách quan. Lý luận nhận thức của Hêraclít còn mang tính chất duy vật và biện chứng sơ khai, nhưng về cơ bản là đúng đắn. Ở thời cổ đại, xét trong nhiều hệ thống triết học khác không có tư tưởng biện chứng nào sâu sắc như vậy. Heraclít đã đưa triết học duy vật cổ đại tiến lên một bước mới với những quan điểm duy vật và những yếu tố biện chứng. Học thuyết của ông đã được nhiều nhà triết họ Luận văn liên quan Đề tài Lí luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân vào tình hình thực tiễn của Việt Nam 31 trang | Lượt xem: 1616 | Lượt tải: 5 Tiểu luận Cơ sở, nội dung và ý nghĩa của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng 15 trang | Lượt xem: 24794 | Lượt tải: 70 Tiểu luận Quản lý giáo dục đạo đức học sinh ở trường THPT bán công Nam Tiền Hải, huyện Tiền Hải, Thái Bình 38 trang | Lượt xem: 1824 | Lượt tải: 7 Tiểu luận môn Phân tích chính sách kinh tế xã hội 16 trang | Lượt xem: 3253 | Lượt tải: 37 Đồ án Showroom thời trang ninomaxx 46 trang | Lượt xem: 2289 | Lượt tải: 12 Đề tài Vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước 20 trang | Lượt xem: 3255 | Lượt tải: 11 Luận văn Thiết kế lưới không chế phục vụ đo vẽ bản đồ địa chính tỷ lệ từ 1:500 đến 1:5000 khu vực huyện hoà vang và quận cẩm lệ thành phố Đà Nẵng (phần phụ lục) 104 trang | Lượt xem: 3528 | Lượt tải: 20 Chuyên đề Tai nạn giao thông liên quan đến rượu bia ảnh hưởng của rượu bia đối với người điều khiển phương tiện giao thông 45 trang | Lượt xem: 1354 | Lượt tải: 9 Tiểu luận Mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế 15 trang | Lượt xem: 3764 | Lượt tải: 17 Đề tài Đặc điểm, thưc trạng và giải pháp cho Doanh nghiệp Nhà nước 15 trang | Lượt xem: 1237 | Lượt tải: 1 Copyright © 2020 LuanVan.net.vn Website đang trong thời gian thử nghiệm, chờ xin giấy phép của Bộ TT & TT. Thư viện tài liệu và ebook cho sinh viên. Thư viện tài liệu Các bài Soạn văn hay nhất. Chia sẻ:
1610704847953.98.parquet/98345
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 22262, "url": "http://luanvan.net.vn/luan-van/tieu-luan-triet-hoc-nhung-net-co-ban-nhat-cua-lich-su-hinh-thanh-phep-bien-chung-77740/" }
128.5
Sanofi và Luminostic hợp tác phát triển giải pháp tự xét nghiệm COVID-19 trên điện thoại thông minh - Sanofi Việt Nam Chào mừng bạn đến với Sanofi tại Việt Nam Sự hiện diện của chúng tôi trên thế giới 2020-04-16LL Sanofi và Luminostic hợp tác phát triển giải pháp tự xét nghiệm COVID-19 trên điện thoại thông minh Trang chủ Thông tin và Sự kiện Thông cáo báo chí Sanofi và Luminostic hợp tác phát triển giải pháp tự xét nghiệm COVID-19 trên điện thoại thông minh Hai công ty đàm phán để cùng hợp tác phát triển một giải pháp đột phá giúp tự xét nghiệm COVID-19 dựa trên công nghệ độc quyền của Luminostics Sanofi sẽ tận dụng mạng lưới phân phối toàn cầu của công ty để đảm bảo sản phẩm được tiếp cận trên toàn thế giới, theo các phê duyệt đăng ký liên quan. Paris – ngày 16 tháng 4 năm 2020 – Sanofi và Luminostics đã ký thỏa thuận cùng hợp tác phát triển một giải pháp đặc biệt giúp bệnh nhân tự xét nghiệm COVID-19. Đây là giải pháp sử dụng công nghệ tiên tiến của Luminostic, và đồng thời một lần nữa đánh dấu nỗ lực của Sanofi trong cuộc chiến chống dịch Covid-19 trên nhiều mặt trận. Luminostics sẽ tham gia hợp tác với công nghệ độc quyền giúp chẩn đoán và xét nghiệm COVID-19, trong khi đó Sanofi có kinh nghiệm và khả năng thử nghiệm nghiên cứu lâm sàng. Mục tiêu của lần hợp tác này là cung cấp một giải pháp trên điện thoại thông minh giúp giảm bớt nhu cầu cần sự quản lý của chuyên gia y tế và các phòng thí nghiệm phân tích xét nghiệm hiện nay. “Dự án hợp tác này sẽ đánh dấu một cột mốc quan trọng khác trong cuộc chiến chống lại COVID-19 của Sanofi. Việc phát triển một giải pháp tự xét nghiệm với Luminostics sẽ giúp xác định rõ ràng khả năng bị lây nhiễm của một cá thể chỉ trong vài phút ngắn ngủi.” ông Alan Main, Phó Chủ Tịch kiêm Tổng Giám đốc Khối ngành hàng Chăm sóc sức khỏe Người tiêu dùng, Sanofi toàn cầu, chia sẻ. “Sau khi công bố quan hệ hợp tác chưa từng có tiền lệ với GSK nhằm tìm kiếm vắc-xin Covid-19, tham vọng của công ty chúng tôi là tiếp tục tìm kiếm những giải pháp khác giúp đẩy lùi cơn đại dịch này.” Mục tiêu chung của sự hợp tác lần này là mang đến phương thức xét nghiệm trên cơ sở người tiêu dùng có khả năng phát hiện virus COVID-19 từ các mẫu xét nghiệm hô hấp với độ nhạy và độ đặc hiệu cao. Tổng thời gian từ khi thu thập mẫu xét nghiệm đến cho đến lúc có kết quả dự kiến là 30 phút hoặc nhanh hơn. Công nghệ độc đáo của Luminostics sử dụng quang học từ điện thoại thông minh của người tiêu dùng, và được điều khiển bởi ứng dụng iOS/Android đã được kết nối với một bộ chuyển đổi không đắt tiền, kết hợp với công nghệ nano phát sáng trong bóng tối và trí tuệ nhân tạo xử lý tín hiệu Nền tảng chẩn đoán bao gồm: một ứng dụng trên iOS/Android hướng dẫn người dùng cách xét nghiệm, cách thu thập và xử lý dữ liệu để hiển thị kết quả xét nghiệm, sau đó kết nối người dùng với dịch vụ tư vấn y tế qua điện thoại dựa trên kết quả; bộ chuyển đổi có thể tái sử dụng tương thích với hầu hết các dòng điện thoại thông minh; và sản phẩm dùng một lần để thu thập, chuẩn bị và xử lý mẫu xét nghiệm. Trong cuộc khủng hoảng COVID-19, công tác xét nghiệm hàng loạt nhanh chóng và đáng tin cậy là một trong những chiến lược quan trọng giúp ngăn chặn đại dịch thành công. Trong khi việc xét nghiệm tại các địa điểm y tế đã được thực hiện tương đối nhanh chóng - dù không đủ số lượng - hiện không có giải pháp tự xét nghiệm không cần kê đơn nào. Một giải pháp tự xét nghiệm nhanh chóng sẽ đi kèm với nhiều lợi thế, bao gồm: dễ dàng tiếp cận và luôn sẵn sàng cho bệnh nhân tại hàng ngàn điểm bán hàng, bao gồm cả hình thức bán hàng trên kênh thương mại điện tử; không cần tiếp xúc giữa người với người để tiến hành xét nghiệm, từ đó giảm nguy cơ lây nhiễm cho bệnh nhân, các chuyên gia chăm sóc sức khỏe và nhân viên phòng thí nghiệm; cũng như cung cấp kết quả ngay lập tức và cho phép quyết định nhanh chóng, mang lại lợi ích chi phí cho cả y tế cộng đồng và y tế tư nhân. Là một trong những đơn vị tiên phong trong cuộc chiến chống COVID-19, Sanofi đã tham gia vào nhiều thử nghiệm lâm sàng nhằm đánh giá các lựa chọn điều trị sẵn có (Kevzara® và Plaquenil®) cho các bệnh nhân COVID-19, đồng thời tiến hành hai chương trình phát triển vắc-xin. Dựa trên công nghệ và protypes hiện có của Luminostics, hai công ty dự kiến sẽ bắt đầu các hoạt động phát triển trong vài tuần tới. Song song đó, cả hai bên cũng mong muốn thực hiện thỏa thuận hợp tác cuối cùng, bao gồm kế hoạch tăng cường khả năng sản xuất cần thiết. Nếu các hoạt động phát triển được thực hiện thành công, hai bên sẽ hướng đến mục tiêu chuẩn bị giải pháp tự xét nghiệm không kê đơn sẵn sàng trước khi năm 2020 kết thúc, tùy thuộc vào sự cho phép của các quy định hiện hành. Về Luminostics Luminostics là công ty khởi nghiệp với trụ sở tại California. Sứ mệnh của công ty là tăng khả năng tiếp cận và hiệu quả chăm sóc sức khỏe bằng cách thiết kế, phát triển, sản xuất và cung cấp các sản phẩm có thể tiếp cận dễ dàng với giá cả phải chăng cho đến các giải pháp kiểm tra sức khỏe gắn với việc theo dõi tình trạng sức khỏe ngay lập tức. Luminostics hiện được tài trợ bởi các công ty đầu tư hàng đầu từ Thung lũng Silicon, công ty cũng có nhiều khoản tài trợ và hợp đồng Nghiên cứu & Phát triển liên bang về khoa học. Để biết thông tin chi tiết, vui lòng truy cập www.luminostics.com. Về Sanofi Sanofi luôn nỗ lực hỗ trợ bệnh nhân và người tiêu dùng để vượt qua các thách thức về sức khỏe của họ. Chúng tôi là một công ty sinh - dược phẩm toàn cầu, luôn đặt sức khỏe con người vào vị trí trung tâm trong mọi hoạt động của chúng tôi. Chúng tôi giúp ngăn ngừa bệnh tật bằng vắc-xin, cung cấp các phương pháp điều trị tiên tiến để giúp bệnh nhân vượt qua bệnh tật. Chúng tôi luôn đồng hành cùng một số ít người mắc các bệnh hiếm gặp và hàng triệu người mắc bệnh mãn tính lâu dài. Với hơn 100.000 nhân viên đang làm việc trên 100 quốc gia, Sanofi đang nỗ lực để chuyển đổi bản thân, mang những giải pháp khoa học tiên tiến áp dụng vào các giải pháp chăm sóc sức khỏe để cung cấp cho bệnh nhân và người tiêu dùng trên toàn thế giới. Sanofi, Empowering Life Về Sanofi tại Việt Nam Sanofi Việt Nam có trụ sở chính tại Thành phố Hồ Chí Minh với hơn 1.000 nhân viên làm việc trên toàn quốc, sản phẩm của Sanofi đã có mặt tại Việt Nam hơn 50 năm qua. Sanofi là tập đoàn dược phẩm đa quốc gia duy nhất sở hữu ba nhà máy đạt tiêu chuẩn WHO-GMP (Thực hành tốt Sản xuất thuốc) tại Thành Phố Hồ Chí Minh, cung ứng 80% sản lượng của Sanofi tại Việt Nam. Với bề dày lịch sử, danh mục sản phẩm đa dạng, cùng vị trí dẫn đầu thị trường đã tạo nên ưu thế vượt trội của Sanofi trong việc đáp ứng các nhu cầu của bệnh nhân. Năm 2018, Sanofi Việt Nam là công ty dược dẫn đầu thị trường với khoảng 4% thị phần. Năm 2019, theo Quyết định số 2542/QĐ-BYT của Bộ Y Tế, Sanofi Việt Nam được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dược cho phạm vi nhập khẩu thuốc theo Nghị định số 54/2017/NĐ-CP ngày 08/5/2017 của Chính phủ. Để biết thêm thông tin, xin vui lòng truy cập website www.sanofi.com.vn. Sanofi Việt Nam thuộc Tập đoàn Sanofi, là tập đoàn sản xuất dược phẩm đa quốc gia dựa trên nghiên cứu và pháp triển có trụ sở chính đặt tại Pháp và có công ty con và văn phòng đại diện tại hơn 100 quốc gia. Tại Sanofi, chúng tôi cam kết cung cấp cho mọi người trên khắp thế giới các giải pháp sáng tạo để họ tự chăm sóc sức khỏe của mình để có một cuộc sống khỏe hơn và trọn vẹn hơn. Với sự đầu tư về nghiên cứu phát triển và chất lượng sản xuất dược phẩm theo tiêu chuẩn thế giới, tại Việt Nam, Sanofi cung cấp các giải pháp cải tiến trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, bao gồm: sản phẩm điều trị cảm, ho và dị ứng; sản phẩm giảm đau; sản phẩm chăm sóc sức khỏe hệ tiêu hóa; sản phẩm bổ sung chất dinh dưỡng và các sản phẩm chăm sóc vệ sinh phụ nữ và em bé. Bên cạnh đó, với sự nỗ lực không ngừng trong nghiên cứu phát triển để mang đến những giải pháp phòng ngừa và điệu trị tiên tiến, Sanofi chuyên cung cấp các loại vắc xin phòng bệnh cũng như các sản phẩm chất lượng trong lĩnh vực điều trị bệnh đái tháo đường, các bệnh hiếm gặp, bệnh đa xơ cứng, tim mạch và ung thư….Các sản phẩm của Sanofi hiện đang hỗ trợ cho các bệnh nhân mắc bệnh hiếm cũng như hàng triệu người mắc các bệnh lý mãn tính. Sanofi, Empowering Life Liên hệ Trần Lê Thanh Vân – Trưởng Bộ phận Truyền thông, Sanofi Đông Dương Tel.: +84 933 313 388 lethanhvan.tran@sanofi.com © Sanofi 2007-2021 - All rights reserved
1610704847953.98.parquet/141723
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 7113, "url": "https://www.sanofi.com.vn/vi/thong-tin-va-su-kien/thongcaobaochi/sanofi-luminostic-hop-tac-phat-trien-giai-phap-tu-xet-nghiem-covid19-tren-dien-thoai-thong-minh" }
128.2
Động vật trong quân sự – Wikipedia tiếng Việt Mở trình đơn chính Trang chính Ngẫu nhiên Lân cận Đăng nhập Tùy chọn Quyên góp Giới thiệu Wikipedia Lời phủ nhận Tìm kiếm Động vật trong quân sự Ngôn ngữ Theo dõi Sửa đổi (đổi hướng từ Đội quân động vật) Động vật trong quân sự hay chiến binh động vật hay là đội quân động vật là thuật ngữ chỉ về những loài động vật được huấn luyện, sử dụng trong chiến tranh, trị an với nhiều vị trí, vai trò khác nhau như tấn công cận chiến, tuần tra, canh gác, chuyên chở, liên lạc, do thám, chống người nhái, phá hủy các mục tiêu bằng việc kích nổ, gieo rắc dịch bệnh.... Ngựa là loài được thuần hóa để sử dụng trong chiến tranh từ sớm, là động vật gắn liền với chiến trường, trận địa, với các vị danh tướng Mục lục 1 Tổng quan 2 Một số loài 2.1 Ngựa 2.2 Voi 2.3 Chó 2.4 Lạc đà 2.5 La 2.6 Bồ câu 2.7 Ong 2.8 Chim ưng 2.9 Rắn 2.10 Cá heo 2.11 Sư tử biển 2.12 Dơi 2.13 Chuột 2.14 Mèo 2.15 Lợn 2.16 Tuần lộc 2.17 Các loài khác 3 Tham khảo Tổng quanSửa đổi Một chú chó cứu hộ thuộc biên chế của quân đội Trong suốt lịch sử chiến tranh, không ít động vật đã được con người sử dụng trong chiến trận một số loài vật quen thuộc như ngựa, voi, lạc đà thì nhiều loài động vật khác cũng được sử dụng thậm chí chúng còn được bọc thép, biến thành cỗ máy hỗ trợ đắc lực cho con người trong các cuộc chiến. Và cho tới tận ngày nay, quân đội của một số nước thậm chí đã sử dụng các chiến binh động vật trong một phạm vi rộng lớn, từ dò tìm bom mìn tới tuần tra bờ biển. Và không có động vật nào khác có thể đóng một vai trò rất lớn trong lịch sử chiến tranh như ngựa, ngựa gắn liền với chiến trường, gắn liền với các vị danh tướng. Một số loàiSửa đổi NgựaSửa đổi Bài chi tiết: Ngựa trong chiến tranh Ngựa là con vật được sử dụng rộng rãi nhất trong suốt lịch sử các cuộc chiến tranh. Hình ảnh con ngựa còn gắn liền với các tướng lĩnh, nhất là các võ tướng trên chiến địa, gắn liền với hình ảnh của những chàng dũng sĩ trong chiến đấu, săn bắn. Ngựa trong chiến tranh được gọi là Ngựa chiến hay chiến mã. Ngựa gắn liền với binh chủng kỵ binh, kỵ xạ vốn là một lực lượng chủ lực, cơ động và tinh nhuệ có vai trò đột kích và tập kích chủ đạo của nhiều quốc gia trong suốt thời kỳ lịch sử, đặc biệt là các dân tộc du mục. Con người thuần hóa ngựa sớm nhất cách đây 5.500 năm ở Kazakhstan hiện đại, và sự phổ biến của ngựa trên khắp lục địa Á - Âu đã sớm dẫn đến việc sử dụng chúng trong chiến tranh quy mô lớn. Người Ai Cập và Trung Quốc cổ đại đã sử dụng xe ngựa kéo như một dạng chiến đấu cơ ổn định (chiến xa), trước khi sáng chế ra một yên cương và bàn đạp giúp tăng hiệu chiến đấu của chiến mã. Các hiệp sĩ mặc áo giáp trên lưng ngựa có thể gây nguy hiểm và chống lại hầu hết các loại lính chạy bộ. Một người ngồi trên lưng ngựa có thể tác chiến với 10 người dưới đất. Sự ổn định từ ngựa chiến được đóng yên cương và bàn đạp chân đã cho phép người Mông Cổ có thể tấn công và bắn tên hiệu quả từ trên lưng ngựa, đồng thời đem đến cho họ sự linh động để chinh phục phần lớn các vùng đất đã biết đến trên thế giới. Sự xuất hiện của ngựa trên các chiến trường thường báo hiệu sự khởi đầu của kết thúc đối với các nền văn minh thiếu phương tiện hỗ trợ quân lính tương tự. Vai trò chính của ngựa trên chiến trường đã không hề giảm sút cho tới kỷ nguyên chiến tranh hiện đại, khi xe tăng và súng máy nhập cuộc. VoiSửa đổi Bài chi tiết: Voi chiến Voi trong chiến trận Trong chiến tranh, với tầm vóc và sức mạnh của minh voi biến thành cỗ máy giết người khổng lồ, voi gắn liền với binh chủng tượng binh. Người Ấn Độ cổ đại có lẽ là những người đầu tiên chế ngự và sử dụng voi trong các cuộc chiến tranh với các nền văn minh khác. Loài động vật có vú lớn nhất còn sống trên Trái đất đã để lại dấu ấn của chúng trong chiến tranh như những sinh vật có khả năng tàn phá thành lũy của quân địch. Voi có thể giẫm đạp, dùng ngà đâm binh lính và thậm chí dùng vòi cuốn, quăng quật những con người không may mắn. Đôi khi, voi chiến được bọc giáp hoặc chuyên chở các cung thủ và lính phóng lao. Các vương quốc cổ đại của Ấn Độ có thể là những đế chế đầu tiên thuần dưỡng voi thành những cỗ xe tăng sống, nhưng việc làm này nhanh chóng phổ biến đến người Ba Tư ở Trung Đông. Alexander Đại đế từng phải đối mặt với voi chiến của kẻ thù trong những cuộc chinh phạt của ông ở thế giới cổ đại, và cuối cùng, người Hy Lạp, Carthage và La Mã đã sử dụng voi chiến vào những thời điểm nhất định. Ngựa sợ khi nhìn thấy và ngửi thấy mùi của voi. Trong khi đó, binh lính cũng có nỗi ám ảnh tâm lý khi phải đương đầu với loài động vật có vú khổng lồ này. Tuy nhiên, voi có thể nổi điên vì sợ hãi hay đau đớn sau khi nhấn quá nhiều hình phạt. Sự ra đời của súng trường và đại bác trên chiến trường về cơ bản đã kết thúc vai trò chiến đấu của chúng. Ở Việt Nam, Thái Lan, Lào, Chămpa, voi được sử dụng rất nhiều trong chiến trận, rất nhiều các danh tướng, anh hùng dân tộc của Việt Nam gắn liền với voi như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Trần Thái Tông, Lê Lợi, Quang Trung. Việt Nam có đội quân tượng binh đáng gờm và là lực lượng đột kích trong các trận chiến, chẳng hạn như quân đội nhà Trần, quân đội nhà Nguyễn và quân đội Tây Sơn. Thời Tây Sơn, người ta còn gắn các loại pháo nhỏ lên lưng voi để tăng hiệu quả tác chiến và voi không khác gì một chiếc xe tăng hiện đại. ChóSửa đổi Bài chi tiết: Chó nghiệp vụ và Chó chống tăng Chó đóng một vai trò rất lớn trong chiến tranh. Chúng là những chiến binh giúp đỡ rất hữu ích và trung thành trong chiến trường. Thời điểm những chú chó bắt đầu xuất hiện trong những cuộc chiến tranh gần như đồng thời với khi chiến tranh ra đời. Những giống chó lớn đóng vai trò như lính chiến đấu trên chiến trường và là lính gác phòng thủ cho tất cả mọi người từ người Ai Cập cho tới thổ dân Mỹ. Nhiều nơi, chúng được xem như một người lính thực thụ và đôi lúc còn được mặc áo giáp ra trận. Một con chó nghiệp vụ Trong lịch sử người Hy Lạp cổ đại thì chó từng là những chiến binh đầy sức mạnh trên chiến trường. Trong thế kỷ thứ VII TCN, một thành bang của Hy Lạp là Magnesia đã bổ sung vào quân đội của họ những chú chó kích thước lớn, có thể nặng tới 113 kg còn gọi là chó ngao. Với sự hung dữ của mình, những chiến binh chó sẽ đóng vai trò tiên phong tấn công làm rối loạn đội hình của quân địch giúp các binh sĩ theo sau tận dụng sự hỗn loạn để có thể dễ dàng đánh bại kẻ thù. Vào thời điểm đó chúng đã được đối đãi công bằng như bao người lính khác, thậm chí còn được trang bị áo giáp gai để bảo vệ cơ thể trong các trận chiến. Sau này, người La Mã đã trang bị các cổ áo nhọn và áo giáp cho một số con chó của họ. Sau này khi người Tây Ban Nha chinh phạt châu Mỹ, họ cũng dùng những con chó tấn công các chiến binh bản địa khiến người da đỏ rất hoang mang và hoảng sợ. Những kẻ xâm lược Tây Ban Nha cũng điều động các con chó chiến bọc giáp trong cuộc chinh phạt Nam Mỹ vào những năm 1500. Nhiều phe phái và các quốc gia châu Âu đã dùng chó chiến trong các cuộc xung đột thời cổ đại và suốt thời Trung cổ, nhưng các cuộc chiến tranh hiện đại hơn làm giảm vai trò của loài động vật này trên chiến trường thành làm sứ giả truyền tin, theo dõi, trinh sát và lính gác. Ở Nga, người đầu tiên ký một văn bản chính thức về việc sử dụng chó cho các đồn biên phòng chính là Nga Hoàng Alksandr Đệ tam. Trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất tất cả các bên tham chiến đều sử dụng chó làm các nhiệm vụ như cứu thương, liên lạc và cảnh giới. Các chú chó Kavka Ovcharka (chó chăn cừu) và Rottweiler (giống chó Đức) khi đánh hơi thấy kẻ địch đang đến gần lập tức sủa báo động. Quân đội Áo-Hung và Quân đội Đức là những quân đội sử dụng chó sớm nhất và nhiều nhất. Trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, Hồng quân Liên Xô đã thành lập gần 170 trung đoàn và tiểu đoàn huấn luyện và sử dụng chó chiến đấu. Hơn 500.000 con chó đã tham gia các hoạt động tác chiến trong suốt cuộc chiến tranh. Các chú chó cứu thương và vận tải đã chuyển đến các trận địa gần 3.500 tấn đạn dược, đưa được 700.000 binh sĩ bị thương nặng rời khỏi trận địa về tuyến sau. Các chú chó công binh đã phát hiện được gần 1 triệu quả mìn, bộc phá và các loại chất nổ khác. Chó liên lạc đã chuyển được 120.000 bản báo cáo, giúp rải gần 8.000 km đường dây diện thoại để nối lại liên lạc. Các chú chó diệt tăng đã phá hủy hơn 1.300 xe tăng, xe thiết giáp số những chú chó cảm tử bị thiệt mạng nhiều hơn số tăng bị diệt nhiều lần. Ngoài những chú chó chết cùng xe tăng địch thì một phần nữa do Quân Đức bắn chết khi tiếp cận mục tiêu, số chó chạy quay lại cũng bị Quân Nga buộc phải bắn hạ vì chúng mang thuốc nổ. Quân đội Mỹ và một số lực lượng khác gần đây huấn luyện chó nhiều hơn để đảm nhiệm công việc đánh hơi, phát hiện bom mìn ở Iraq và Afghanistan, nơi mà những bạn đồng hành bốn chân này được trang bị cả áo chống đạn cho riêng chúng. Ngày nay, Trong một quân đội hiện đại chó không còn chọc thủng vòng vây của kẻ thù và không lao mình vào xe tăng nữa, nhưng nhiều đơn vị sẽ không thể hoàn thành nhiệm vụ nếu thiếu những đôi mắt tinh tường và khứu giác tốt của những chú chó, nhất là các đơn vị biên phòng. Lạc đàSửa đổi Ở những vùng sa mạc, đặc biệt là Trung Đông, lạc đà đã trở thành một đội quân chủ lực trong những lần tác chiến trên sa mạc. Mùi hương của lạc đà có thể khiến cho ngựa của đối thủ sợ hãi nên loài vật này thường được sử dụng thay thế cho la và ngựa trong các trận đánh thời xưa. Một số chiến binh Ba Tư và Ả Rập còn bọc thép cho từng chiến binh lạc đà của họ. Lạc đà hiện chỉ được một số ít quân đội hiện đại điều động tham gia tuần tra. Tuy nhiên, có thời, loài động vật này từng tạo thành những đội kỵ binh lạc đà hùng mạnh ở một số khu vực trên thế giới. Lạc đà từng rất hữu ích ở những vùng khô cằn hay các khu vực sa mạc của Bắc Phi và Trung Đông thời cổ đại vì chúng có khả năng chống chịu những điều kiện khắc nghiệt và thường xuyên thiếu nước. Mùi của lạc đà cũng được cho là gây sợ hãi cho các đội chiến mã của kẻ thù. Kỵ binh lạc đà Người Parthia và người Ba Tư Sassanid thỉnh thoảng bọc giáp cho lạc đà của họ để biến chúng thành những kỵ binh thiết giáp hạng nặng. Các chiến binh Ảrập thường cưỡi lạc đà trong các cuộc tấn công chống lại những bộ lạc khác hoặc trong những cuộc chinh phục người Hồi giáo ở Bắc Phi và Trung Đông. Timur, một nhà lãnh đạo Mông Cổ trong trận đánh xâm chiếm Delhi những năm 1938 đã dùng lạc đà để phá đội quân đông và hùng mạnh của Sultan Mahmud Khan. Để khiến những con voi của đối thủ sợ hãi, Timur đã dùng những con lạc đà của mình chất đầy cỏ khô và đốt lửa, đẩy chúng đến phía những con voi. Vai trò chiến đấu của lạc đà sụt giảm nhanh chóng với sự phát triển của súng trong suốt những năm 1700 và 1800. Tuy nhiên, chúng vẫn được tướng Anh Lawrence điều động tham gia cùng lực lượng người Arập trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. LaSửa đổi Các con la đã đóng một vai trò thầm lặng nhưng rất quan trọng trong suốt lịch sử chiến tranh của loài người, thông qua công việc vận tải thực phẩm, vũ khí và các nhu yếu phẩm khác cho quân đội, đặc biệt trong thời kỳ cận đại chúng còn dùng để kéo pháo. Được sinh ra từ sự lai tạp lừa đực với ngựa cái, la được ưa chuộng hơn ngựa trong việc vận tải vì khả năng chịu đựng dẻo dai hơn của chúng. Các con la cũng thể hiển sự tinh khôn hơn và bướng bỉnh hơn. Trong lịch sử, các quân đoàn La Mã cổ đại đã huy động la tham gia các cuộc hành quân với tỉ lệ gần 10 lính lê dương kèm một con la. Bản thân Napoleon Bonaparte từng cưỡi một con la qua dãy núi Alps, ngoài việc đưa loài động vật này tham gia các đoàn chuyên chở hành lý của ông. Chỉ tính riêng quân đội Mỹ đã sử dụng khoảng 571.000 con ngựa và la trong Chiến tranh thế giới thứ nhất ở châu Âu và mất khoảng 68.000 con trong các cuộc giao tranh. Thậm chí, cho tới nay, các con la vẫn tiếp tục tỏ ra hữu dụng vì các lực lượng đặc nhiệm, thủy quân lục chiến và binh sĩ Mỹ vẫn dựa vào loài động vật này để duy trì nguồn cung cấp hậu cần mở cho những tiền đồn xa xôi ở các vùng núi của Afghanistan. Bồ câuSửa đổi Bài chi tiết: Bồ câu liên lạc Nhờ vào khả năng dẫn đường và kỹ năng điều hướng, chim bồ câu được sử dụng như là sứ giả quân sự trong nhiều thế kỷ và được sử dụng trong việc truyền tin. Các sứ giả chim bồ câu đã chuyển tải thông điệp cho các kẻ chinh phạt và tướng lĩnh trong suốt lịch sử loài người. Những khả năng thiên bẩm cho phép chúng vẫn có thể quay trở về nhà sau sứ mệnh kéo dài hàng trăm dặm. Trong cuộc chiến tranh Pháp Phổ (1870 1871), bồ câu đưa thư là phương tiện liên lạc duy nhất khi quân Pháp cố thủ trong thành Paris. Trước khi hệ thống thông tin liên lạc phát triển như ngày nay, một trong những “người đưa tin” hiệu quả nhất trong chiến trận là chim bồ câu. Tuy nhiên, chim bồ câu thu được nhiều chiến tích quân sự nổi tiếng trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, khi mà lực lượng quân Đồng minh sử dụng tới 200.000 chim bồ câu để truyền tin. Một con chim bồ câu với các thiết bị do thám Chiến binh chim bồ câu nổi tiếng là Cher Ami. Nó đã vượt qua mưa bom bão đạn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giải cứu hơn 500 binh sĩ của quân đội Mỹ mắc kẹt trên một sườn đồi, xung quanh đã bị quân địch bủa vây trong một nhiệm vụ năm 1918. Cher Ami thậm chí còn kiếm được tặng thưởng huân chương Croix de Guerre của Pháp vì đã chuyển thành công 12 thông điệp giữa các pháo đài tại khu vực Verdun, Pháp. Cher Ami đã chuyển thông điệp cuối cùng bất chấp các vết thương nghiêm trọng vì trúng đạn, và được cho là đã cứu "Tiểu đoàn đã mất" thuộc sư đoàn bộ binh thứ 77 của Mỹ, vốn bị lực lượng Đức phong tỏa. Trong Chiến tranh thế giới thứ II, quân đội Anh đã sử dụng 250.000 chú chim bồ câu để truyền tin đến những người lính ở phía sau chiến tuyến của quân Đức. Đây là một chiến thuật hoàn hảo vì mỗi chú chim bồ câu được huấn luyện có thể bay 1.800 km đến chính xác vị trí được chỉ định. Một lợi thế khác là chúng khó bị phát hiện và nghe lén như việc liên lạc bằng sóng radio. Tuy nhiên, người Đức cũng nhận ra những ưu điểm của phương pháp này và đã tương kế tựu kế, lập hẳn một đội quân bồ câu phục vụ cho chiến dịch xâm lược nước Anh. Phát xít Đức đã lập cả một đội quân bồ câu để thực hiện mưu đồ của mình. Một nhóm chim bồ câu khác được trao tặng 32 huy chương dũng cảm Dickin của Anh cho động vật vì thành tích trong Chiến tranh thế giới thứ hai, khi quân đội Đồng minh ngừng sử dụng vô tuyến và dựa vào những con chim bồ câu để truyền tin. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, nhà tâm lý học Mỹ B.F. Skinner đã thử nghiệm khả năng hướng dẫn bom của bồ câu. Chương trình mang tên “Pigeon Project” (Dự án Chim bồ câu) dựa trên việc đặt 3 chú chim bồ câu vào đầu quả bom với thấu kính đặc biệt hiển thị hình ảnh mục tiêu. Những chú bồ câu này được huấn luyện để nhận dạng mục tiêu từ xa và định hướng cho bom rơi đúng mục tiêu. Chim bồ câu kể từ đó nghỉ hưu khỏi các sứ mệnh quân sự vì những tiến bộ trong công nghệ viễn thông. OngSửa đổi Bài chi tiết: Ong đốt Loài ong từ lâu đã được sử dụng như một vũ khí để gây ra sự hoảng loạn cho kẻ thù trong lịch sử quân sự thế giới. Các con ong có vòi đốt thứ vũ khí hiệu quả khi bị chọc tức. Người Hy Lạp cổ đại, La Mã và các nền văn minh khác đôi khi sử dụng côn trùng như những vũ khí nhỏ để chống kẻ thù trong chiến tranh. Những kẻ bao vây đôi khi bắn các tổ ong qua các bức tường thành, và lực lượng bảo vệ Themiscyra của Hy Lạp được cho là đã đáp trả những kẻ tấn công La Mã bằng tổ ong. Người Heptakometes ở vùng Trebizond của Thổ Nhĩ Kỳ thậm chí lừa lính La Mã dưới sự chỉ huy của Pompey bằng việc cống nộp mật ong độc hại, dẫn đến thất bại của đội quân La Mã bị nhiễm độc và nôn mửa. Người La Mã cổ đại đã biết sự lợi hại của các loài ong độc nên đã sử dụng chúng như một loại vũ khí hiệu quả. Những tổ ong được buộc vào ná để bắn về phía quân thù. Việc tận dụng những con ong bị chọc giận tiếp tục diễn ra trong các cuộc vây hãm lâu đài thời Trung cổ cũng như trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và chiến tranh Việt Nam. Hiện nay, các nhà khoa học Mỹ đã tìm ra cách những cách sử dụng loài ong hòa bình hơn thông qua việc huấn luyện loài côn trùng này phát hiện các quả mìn gài dưới đất. Các nhà nghiên cứu đã thành công trong việc trộn chất nổ vào thức ăn của loài ong để sử dụng chúng như một công cụ phát hiện bom mìn. Chỉ cần quan sát vị trí ong tập trung, người ta sẽ biết được nơi có chất nổ. Trong chiến tranh Việt Nam, người Việt Nam đã sáng tạo ra cách đánh Mỹ bằng ong vò vẽ phối hợp với trận địa chông, mìn. Ong được bắt về điểm sẽ xây trận địa từ lúc tổ còn nhỏ, hàng ngày được nuôi bằng thịt trâu, bò để tổ mau lớn. Bên cạnh tổ ong thiết kế trận địa gồm hầm chông, mìn, và cắm cọc nhọn dày đặc dưới các mương gần đó. Khi quân địch tiến vào sẽ giật dây phá vỡ tổ khiến ong bay ra tấn công tới tấp, làm địch hoảng loạn, không biết xung quanh đã được bố trí trận địa. Người dân bắt ong về nuôi, hàng ngày đem áo, khăn của mình ra treo ở gần tổ ong khiến ong quen mùi xem như người quen nên khi lại gần tổ ong sẽ không sao. Nhưng khi quân Mỹ càn tới, ong thấy mùi lạ thì xông ra chích tới tấp khiến binh lính Mỹ phải bỏ chạy tán loạn. Chim ưngSửa đổi Chim ưng cũng đã được những người dân du mục huấn luyện cho việc săn bắt và chiến tranh, nó có thể bay liệng, bổ nhào và móc mắt kẻ thù, thông thường nó thường được dùng để truyền tin. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, quân Anh huấn luyện một lực lượng nhỏ chim ưng nhằm đánh chặn đội quân bồ câu của Đức quốc xã. Những chú chim ưng này sẽ bay tuần tra quanh bờ biển và tấn công bất cứ kẻ xâm nhập có cánh nào. Một đội quân chim ưng tuần tra đã được nuôi dưỡng để chống lại lực lượng bồ câu đưa thư của phát xít Đức. Ý tưởng dùng chim ưng này đã đem lại thắng lợi cho quân đội Anh trên mặt trận thông tin liên lạc khi rất nhiều chiến sĩ bồ câu của quân Đức đã bị đánh bại và ít nhất có hai con chim bồ câu của Đức đã bị bắt bởi lực lượng chim ưng tuần tra này. RắnSửa đổi Bài chi tiết: Rắn cắn Rắn cũng được sử dụng trong chiến tranh. Những con rắn độc được nạp vào trong bình và chậu sứ, vận chuyển đến địa cứ của quân đối lập, ném bình hoặc chậu vào, hay có thể dùng tên bắn vỡ để những con rắn lao ra tấn công quân. Trong lịch sử, sau khi kết thúc cuộc chiến tranh Punic với La Mã, Hannibal đã tiến hành một cuộc chiến khác chống lại vua Eumenes II của đế quốc Pergamon. Đây là một trận thủy chiến mà lực lượng Hannibal chỉ huy ít hơn nhiều so với đối thủ. Trước khi bước vào trận chiến, Hannibal đã quan sát kĩ để tìm ra chiến thuyền của vua Eumenes. Khi cuộc chiến bắt đầu, thuyền của Hannibal đã bỏ qua những thuyền chiến còn lại và nhanh chóng tiếp cận thuyền của Eumenes. Khi đã ở trong khoảng cách phù hợp, ông lập tức ra lệnh phóng những bình chứa đầy rắn độc lên thuyền chỉ huy. Điều đó khiến vua Eumenes hoảng sợ và quay thuyền bỏ chạy, kéo theo những chiếc tàu chiến còn lại. Những bình chứa rắn độc đã giúp Hannibal không phải tốn nhiều công sức để đánh bại kẻ thù đông hơn mình. Cá heoSửa đổi Bài chi tiết: Cá heo quân sự Cá heo là một trong những động vật thông minh và có thể dạy dỗ tốt nhất, do đó chúng thường được sử dụng trong chiến tranh. Cá heo quân sự có thể được đào tạo cho các mục đích khác. Kể từ thập niên 1960, Hải quân Mỹ đã thành lập một nhánh riêng nhằm nghiên cứu và đào tạo các sinh vật biển cho mục đích quân sự. Và một trong những ứng cử viên sáng giá là cá heo, bởi tài bơi lội và trí thông minh của chúng. Nhiệm vụ thông thường của cá heo là thăm dò mìn và thủy lôi ở dưới nước và sau đó cảnh báo cho các tàu tuần tra về mối nguy hiểm. Khi cần thiết, các chú cá heo còn có thể được trang bị thêm vũ khí để tấn công người nhái đối phương xâm nhập vào vùng chúng kiểm soát. Một con cá heo đang được huấn luyện vào mục đích quân sự Liên Xô cũng từng thành lập một đơn vị cá heo để phát hiện và tấn công tàu chiến kẻ địch bằng cách dạy chúng phân biệt các tiếng động của chân vịt gây ra dưới nước. Năm 2000, một số chú cá heo này được quân đội Nga bán cho Hải quân Iran nhằm kiểm soát vùng Vịnh Ba Tư. Cũng như sư tử biển, cá heo đã trợ giúp Hải quân Mỹ tuần tra các vùng biển từ những năm 1960. Những động vật có vú cư ngụ ở biển này đã sử dụng hệ thống định vị bằng siêu âm sinh học phức tạp của chúng để tìm kiếm bom mìn thông qua tiếng vang. Một con cá heo sẽ phát đi một loạt tiếng lách cách về phía các đối tượng và thu lại những phản hồi. Điều đó cho phép nó có được một hình ảnh của đối tượng và sau đó có thể báo cáo tới người quản lý bằng cách sử dụng những phản hồi "có" hoặc "không" nhất định. Người quản lý cũng có thể theo dõi một phản hồi "có" bằng cách gửi các con cá heo tới đánh dấu vị trí của đối tượng cùng với một dây phao dò. Khả năng phát hiện dấu vết của bom mìn này đã được tận dụng trong cả hai cuộc chiến tranh Vùng Vịnh và cuộc chiến Iraq. Trong đó, đội cá heo của Hải quân Mỹ từng góp phần giúp xóa sổ cảng Umm Qasr ở miền nam Iraq trong cuộc chiến sau này. Cá heo cũng có thể dò tìm các thợ lặn của đối phương. Tuy nhiên, Hải quân Mỹ phủ nhận những lời đồn đại về việc huấn luyện cá heo sử dụng vũ khí chống lại con người. Ngày nay, tận dụng các khả năng vượt trội của cá heo, Nga và Mỹ đều đang mở rộng công việc huấn luyện chúng phục vụ cho mục đích quân sự. Hiện nay, hàng trăm sinh vật biển đang được huấn luyện theo các chương trình khác nhau tại 7 căn cứ đặc biệt của hải quân Mỹ. Việc sử dụng cá heo cho mục đích quân sự có thể khiến loài cá heo hoang dã lâm nguy bởi tình trạng giết chóc cá heo một cách bừa bãi. Nếu như Mỹ và Nga đều chiêu mộ cá heo cho các mục đích quốc phòng thì bất cứ con cá heo nào tình cờ lọt vào khu vực hoạt động của hải quân đều có nguy cơ bị giết chết bởi nó bị nghi ngờ là kẻ địch. Sư tử biểnSửa đổi Sư tử biển cũng là động vật thông minh và có thể được huấn luyện để thực hiện các nhiệm vụ khác nhau. Những động vật biển này có tầm nhìn trong ánh sáng yếu và khả năng nghe dưới nước tốt. Chúng thậm chí có thể bơi với vận tốc 40 km/h và lặn nhiều lần tới độ sâu 300 mét. Hải quân Mỹ từng sử dụng những con sư tử biển California để tìm kiếm các thiết bị đã bị mất và xác định những kẻ xâm nhập bất thường vào khu vực. Sư tử biển là những chiến binh trong nước tinh nhuệ. Lực lượng hải quân Mỹ có đội ngũ sư tử biển tinh nhuệ, chuyên dùng phát hiện căn cứ của kẻ thù ở trong nước. Chúng còn được huấn luyện quấy rầy và làm gián đoạn công việc của thợ lặn đối phương. Các con sư tử biển California từng được vinh danh vì cống hiến trong chương trình động vật có vú ở biển của Hải quân Mỹ, cùng với cá heo và cá voi trắng. Hải quân Mỹ do đó đã đào tạo sư tử biển trở thành lính quét thủy lôi, có thể xác định vị trí và đánh dấu các quả mìn. Các con vật này thậm chí có thể gắn một chiếc cùm chân đặc biệt vào các thợ lặn con người hay những kẻ phá hoại, cho phép các thủy thủ lôi những nghi phạm lên bề mặt. Một con sư tử biển được trang bị đặc biệt cũng mang theo các camera để quay video trực tiếp dưới nước. Chỉ một con sư tử biển, hai con người điều khiển và một chiếc thuyền cao su có thể thay thế một tàu hải quân cùng toàn bộ phi hành đoàn và một nhóm thợ lặn người đi kèm trong việc tìm kiếm các đối tượng dưới đáy đại dương. DơiSửa đổi Bài chi tiết: Dơi đánh bom Tadarida brasiliensis loài dơi được sử dụng trong chiến tranh Chúng một phần của một thí nghiệm động vật trong Thế chiến II. Sau trận Trân Châu Cảng, một bác sĩ phẫu thuật nha khoa đã đề nghị gắn những quả bom lửa nhỏ vào các con dơi. Việc này nhằm tạo ra hàng ngàn ngọn lửa nhỏ khắp các thành phố của Nhật Bản khi những con dơi này bay tới đậu dưới mái của các tòa nhà. Ý tưởng này được Tổng thống Roosevelt cho phép Nhiều con dơi bất hợp tác đơn giản đã thả mình rơi như đá hoặc bay mất, dù quân đội Mỹ sử dụng tới 6.000 động vật có vú này trong các thí nghiệm của họ. Hải quân Mỹ đã tiêu tốn 2 triệu USD sau khi xúc tiến kế hoạch và cuối cùng đã phải bỏ cuộc. Tuy nhiên, các quả bom dơi rốt cuộc đã tìm được cách trở thành mồi lửa, thiêu rụi một ngôi làng của Nhật, một nhà chứa máy bay của quân đội Mỹ và xe hơi của một vị tướng. Ngày nay, các nhà khoa học thuộc Lầu Năm góc đang nghiên cứu các cơ chế bay của dơi với hy vọng có thể tìm thấy cảm hứng cho những thiết kế máy bay và robot do thám trong tương lai. ChuộtSửa đổi Bài chi tiết: Chuột đánh bom Trường hợp đầu tiên sử dụng loài chuột như một vũ khí là biến chúng thành một loại đuốc sống để tấn công các căn cứ của địch, đã có những con chuột bị cháy chạy vòng vòng, gây ra những trận hỏa hoạn lớn. Năm 1346, thành phố Caffa của Ý đã bị quân Mông Cổ (Tatars) vây hãm và tấn công bằng những vũ khí sinh học như súng, ná bắn xác chuột chết và thi thể các nạn nhân nhiễm bệnh, gây ra những dịch bệnh khủng khiếp, nhanh chóng làm suy yếu đội quân của lãnh chúa Genoa. Khi rút lui về cố thủ ở miền Nam Ý, tàn quân của Genoa đã gây ra những trận dịch hạch khắp châu Âu... Công ty của Bỉ đã huấn luyện thành công những chú chuột túi Gambia của châu Phi để rà bom mìn. Chuột có cơ thể nhỏ nhắn và linh hoạt nên có lợi thế hơn chó khi tiếp cận những khu vực có cây cối rậm rạp hay có địa hình hiểm trở. Hiện nay Bộ Quốc phòng Mozambique đang khai thác những đội quân chuột chính quy để phát hiện bom mìn còn sót lại sau cuộc nội chiến... MèoSửa đổi Mèo đóng vai trò quan trọng trong các cuộc chiến tranh từ thời xưa. 2500 năm trước, người Ba Tư đã biết những con mèo Ai Cập cổ đại là con vật linh thiêng nên họ cố tình đưa mèo đến chiến trường để ngăn chặn lính Ai Cập tấn công. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, mèo là cỗ máy dò khí độc vô cùng lợi hại. Mèo được dùng làm chiến binh trong trận đánh Pelusium nổ ra vào năm 525 TCN, là trận chiến lớn đầu tiên giữa đế quốc Ba Tư và nước Ai Cập. Do nhận biết được cách chiến đấu truyền thống sẽ không đem lại thành công nên vua Ba Tư đã lợi dùng lòng tôn kính mạnh mẽ với mèo của người Ai Cập, họ tin rằng các chiến binh Ai Cập sẽ không tấn công vì sợ làm tổn hại đến các loài động vật. Mèo cũng được quân Đồng minh sử dụng để diệt chuột trong các chiến hào trong chiến tranh thế giới thứ hai nhằm tránh một trận dịch hạch như trong chiến tranh thế giới thứ nhất. Đặc biệt, loài vật này còn được sử dụng như một công cụ phát hiện khí độc. Tuy nhiên, cách khai thác độc đáo nhất là sử dụng mèo như một loại bom của Cơ quan tình báo chiến lược Mỹ (OSS). OSS, cơ quan tiền thân của Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA), đã sử dụng mèo như một loại bom để đánh chìm tàu của phát xít Đức. Khi buộc mèo vào quả bom và thả xuống vùng gần tàu địch, do bản năng sợ nước, mèo sẽ tự điều chỉnh tư thế rơi để tránh nước và tạo ra một lực hướng dẫn bom rơi đúng sàn tàu... CIA từng sử dụng mèo như công cụ thông tin trong thời chiến tranh lạnh. Trong khuôn khổ dự án Operation Acoustic Kitty trị giá 15 triệu USD, các chuyên gia CIA đã phẫu thuật để đặt các thiết bị nghe lén vào cơ thể loài mèo và gắn antenna ở đuôi. Những chú mèo này được thả rong gần khu phức hợp của Liên Xô ở thủ đô Washington D.C. của Mỹ và đã trở thành công cụ nghe lén một thời gian dài. Mọi việc chỉ bại lộ khi một chú mèo bị xe cán chết và dự án bị hủy bỏ ngay sau đó. LợnSửa đổi Lợn cũng được tận dụng trên chiến trường Trong thời kỳ chiến tranh cổ đại, voi bọc thép thường được sử dụng như vũ khí đáng gờm, tuy nhiên những người La Mã đã biết được rằng voi rất sợ hãi tiếng lợn kêu nên những con lợn thường bị đem đốt (để kêu to hơn) và đem thả hướng về phía con voi của kẻ thù. Một trong những cách dùng lợn sáng tạo nhất là trong thời cổ đại. Binh lính sẽ giữ cho những con lợn đói đến mức cồn cào, và sau đó thả chúng vào các trại quân thù. Con lợn sẽ ăn bất cứ thứ gì nếu chúng đang đói, gặp phải trên đường đi bao gồm cả đồ ăn, vật tư, thậm chí vũ khí. Tuần lộcSửa đổi Tuần lộc có thể trở thành trợ thủ đắc lực cho lực lượng cảnh sát tại vùng lãnh nguyên, theo đó, chính quyền Nga đề xuất thành lập một một đội quân chống tội phạm tại lãnh thổ thuộc vòng Bắc cực, giúp tham gia giải quyết những vụ phạm tội do người dân tộc thiểu số vùng Siberia gây ra. Những nhóm người dân tộc thiểu số này có khả năng thuần hóa tuần lộc rất nhanh, dễ dàng điều khiển chúng chạy qua mặt băng và biến chúng thành phương tiện chạy trốn cảnh sát. Trong khi truy đuổi nghi phạm, cảnh sát chỉ có thể sử dụng xe máy chạy trên tuyết để di chuyển, nhưng những loại phương tiện đó không thể nào sánh được với một chú tuần lộc. Cảnh sát Nga đã yêu cầu được cung cấp tuần lộc từ năm 2012, nhưng loài động vật có móng này vẫn chưa được triển khai để sử dụng rộng rãi ở vùng lãnh nguyên. Trong khi đó, Bộ Quốc phòng Nga đã sử dụng những con lừa và con la chiến đấu cho lực lượng quân đội trên vùng núi cao và nhận được những phản hồi tích cực về tính hữu dụng của những loài vật này[1]. Các loài khácSửa đổi Tê giác cũng được sử dụng trong chiến tranh. Những con tê giác bọc thép là vũ khí chiến tranh đáng sợ bởi hành vi hung hăng, rất khó khăn để chinh phục. Bò được sử dụng để vận chuyển pháo binh thông qua các địa hình khó khăn. Loài vật này đóng vai trò quan trọng trong Chiến tranh. Bò là loài động vật rất thông minh có khả năng học hỏi rất nhiều mệnh lệnh. Bọ cánh cứng làm gián điệp, chúng là những vũ khí động vật kỳ lạ nhất được sử dụng, những con bọ cánh cứng được cấy ghép với các thiết bị ghi âm có khả năng thu thập cả âm thanh và video. Bọ khoai tây: Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, quân Đức từng sử dụng bọ khoai tây Calorado để phá hủy mùa màng của Pháp và chiến lược này cũng được phát xít Đức áp dụng trong chiến tranh thế giới thứ hai: những thùng côn trùng gây hại được thả trên đất Anh để cắt đứt nguồn lương thực của quân Anh. Ngỗng đóng vai trò hệ thống cảnh báo sớm. Ngỗng là loài vật thiêng liêng với người La Mã, khi thành Rome bị bao vây vào năm 390 trước CN, nó vẫn được chăm sóc liên tục, mặc dù nguồn cung cấp thực phẩm đang ở mức thấp. Chúng đứng nhởn nhơ ngoài khu trú ẩn và khi kẻ thù phát hiện ra lối vào bí mật và leo lên tấn công, những con ngỗng đã ngay lập tức bắt đầu bấm còi cảnh báo cho binh lính La Mã chuẩn bị cho trận chiến và đánh thắng đối phương. Tham khảoSửa đổi ^ Nga muốn thành lập cảnh sát tuần lộc Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. Blanchard, Lucy M, Chico, The story of a Homing Pigeon in the Great War (Diggory Press), ISBN 978-1-84685-039-4 Cooper, Jilly (2002). Animals In War. Guilford, Connecticut: The Lyons Press. ISBN 1-58574-729-7. Dyer, Walter A., Ben, the Battle Horse, ISBN 978-1-84685-038-7 Itoh, Mayumi (2010). Japanese Wartime Zoo Policy: The Silent Victims of World War II. Palgrave-MacMillan. ISBN 978-0230108943. Nocella, Anthony J. II, ed. et al., "Animals and War: Confronting the Military-Animal Industrial Complex" (2013, Lexington Books), ISBN 978-0739186510. Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Động_vật_trong_quân_sự&oldid=60342558” Sửa đổi lần cuối lúc 03:31 vào ngày 12 tháng 4 năm 2020 Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 3.0, ngoại trừ khi có ghi chú khác. Trang này được sửa đổi lần cuối vào ngày 12 tháng 4 năm 2020 lúc 03:31. Văn bản được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự; có thể áp dụng điều khoản bổ sung. Với việc sử dụng trang web này, bạn chấp nhận Điều khoản Sử dụng và Quy định quyền riêng tư. Wikipedia® là thương hiệu đã đăng ký của Wikimedia Foundation, Inc., một tổ chức phi lợi nhuận. Quy định quyền riêng tư Giới thiệu Wikipedia Lời phủ nhận Điều khoản sử dụng Máy tính để bàn Nhà phát triển Thống kê Tuyên bố về cookie
1610704847953.98.parquet/144029
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 27401, "url": "https://vi.m.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99i_qu%C3%A2n_%C4%91%E1%BB%99ng_v%E1%BA%ADt" }
127.3
Đội ngũ nhân viên Sanofi tại các nhà máy tiếp tục làm việc trong tâm “bão” COVID-19 - Sanofi Việt Nam Chào mừng bạn đến với Sanofi tại Việt Nam Sự hiện diện của chúng tôi trên thế giới LL Đội ngũ nhân viên Sanofi tại các nhà máy tiếp tục làm việc trong tâm “bão” COVID-19 Trang chủ Giới thiệu Empowering Life Đội ngũ nhân viên Sanofi tại các nhà máy tiếp tục làm việc trong tâm “bão” COVID-19 Đội ngũ nhân viên Sanofi tại các nhà máy tiếp tục làm việc trong tâm “bão” COVID-19 Facebook LinkedIn Google+ Sanofi là một mắt xích trong mối quan hệ hợp tác toàn cầu nhằm tìm ra các giải pháp phòng chống dịch bệnh COVID-19, công ty hiện đang tập trung phát triển vắc-xin và khám phá các lựa chọn điều trị hiện có để chữa trị COVID-19. Mặc dù cuộc sống thường ngày bị ảnh hưởng sâu sắc bởi bệnh dịch, Sanofi vẫn tiếp tục ưu tiên tập trung các nguồn lực thiết yếu để đảm bảo tính liên tục trong sản xuất và cung cấp thuốc cho bệnh nhân không bị đứt quãng dù trong bất kỳ điều kiện nào. Những bệnh nhân này là động lực để đội ngũ nhân viên Sanofi tại các nhà máy vẫn đều đặn duy trì hoạt động mỗi ngày, thậm chí vào các ngày cuối tuần, để đảm bảo đáp ứng được nhu cầu của các chính phủ, các cơ quan y tế, bệnh viện, các nhà thuốc lớn nhỏ trên toàn thế giới. “Chúng tôi đang ở tuyến đầu trong trận chiến chống lại Covid-19, và các bệnh nhân, các chuyên gia chăm sóc sức khỏe cùng các cơ quan y tế đặt niềm tin vào chúng tôi để có thể tiếp cận các loại thuốc họ cần. Đây là trọng trách của chúng tôi.” Ông Philippe Luscan, Phó Giám Đốc Điều hành Khối Nhà Máy, Sanofi toàn cầu, chia sẻ. “Hầu hết những sản phẩm của chúng tôi đều thiết yếu đối với hàng triệu bệnh nhân trên toàn thế giới. Chúng tôi phải đảm bảo nguồn cung các loại thuốc điều trị trong cuộc khủng hoảng này và hạn chế mức độ thiếu hụt khi tình hình bình thường trở lại.” Mạng lưới nhà máy của Sanofi trên toàn cầu vẫn hoạt động bình thường, ngay cả ở những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề bởi Covid-19 như Ý, Pháp và Mỹ. Tại Việt nam, chúng tôi vẫn tập trung để duy trì hoạt động của hai nhà máy Sanofi - nơi cung cấp cho thị trường Việt Nam 80% sản lượng của chúng tôi đồng thời cũng ưu tiên nguồn lực để đảm bảo các khâu phân phối thuốc cho thị trường vẫn được vận hành tốt. “Tại thời điểm hiện tại, hàng trăm nhân viên khối sản xuất của chúng tôi vẫn đến nhà máy mỗi ngày. Đây là nỗ lực của Sanofi để duy trì hoạt động sản xuất liên tục và đảm bảo nguồn cung cấp thuốc đến với bệnh nhân. Bên cạnh đó, trong quá trình sản xuất chúng tôi cũng nghiêm túc thực hiện các chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ cũng như Bộ Y tế về giữ khoảng cách an toàn, đảm bảo thực hành bảo vệ sức khỏe nghiêm chỉnh như đeo khẩu trang khi làm việc, thường xuyên thực hành rửa tay và bên cạnh đó nhà máy còn thực hiện những hoạt động khác nhằm đảm bảo an toàn và sức khỏe cho nhân viên. ” – chia sẻ của ông Eric Auschitzky, Giám đốc Khối Công nghệ, Sanofi Việt Nam Mối quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa đội ngũ Sanofi và các đối tác cung cấp đồng nghĩa với việc không có sự thiếu hụt nào trong cơn bệnh dịch. “Để làm được điều này, đội ngũ thuộc bộ phận Chuỗi Cung Ứng trên toàn cầu đã thành lập một Tháp Kiểm Soát từ đầu đến cuối để đảm bảo có thể quản lý tình huống đặc biệt này một cách nhanh chóng và hiệu quả, bên cạnh đó tập trung mang các phương pháp điều trị cho các bệnh nhân trên toàn thế giới.” ông Jeremy Goldnadel, Trưởng Bộ phận Chuỗi Cung ứng, Khối General Medicines. Đối với các nhân viên tại một trung tâm phân phối ở Pháp, trọng trách này có nghĩa họ phải làm việc suốt cuối tuần để đáp ứng nhu cầu. “Chúng tôi đã đi làm vào thứ bảy để quản lý việc vận chuyển một triệu hộp thuốc. Trung tâm phân phối của chúng tôi chưa từng có tiền lệ như vậy. Hơn 45 nhân viên từ nhiều phòng ban đã hợp tác cùng nhau để làm trọn bổn phận của họ: từ các nhân viên điều hành khâu đóng gói, tiếp nhận và điều phối, đến các giám sát viên và kỹ thuật viên dịch vụ, cùng các quản lý và nhân viên phụ trách dịch vụ khách hàng,” bà Isabelle Demolin, Giám đốc trung tâm phân phối, chia sẻ. © Sanofi 2007-2021 - All rights reserved
1610704847953.98.parquet/162068
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 3545, "url": "https://www.sanofi.com.vn/vi/gioi-thieu/empowering-life/doi-ngu-nhan-vien-Sanofi-tai-cac-nha-may-tiep-tuc-lam-viec-trong-tam-bao-covid19" }
127.2
Chân dung các loài chim quý hiếm, tuy đơn giản nhưng lại tuyệt đẹp Gamek Kenh14 Cafebiz Mobile Điện thoại Máy tính bảng INTERNET Digital Marketing Media KHÁM PHÁ Lịch sử Tri thức TRÀ ĐÁ CÔNG NGHỆ Tản mạn Ý tưởng sáng tạo TIN ICT THỦ THUẬT Sống EMAGAZINE APPS - GAMES ĐỒ CHƠI SỐ VIDEO Mobile Tin ICT Internet Khám phá Video Lộ tài liệu chứng minh Hải quân Mỹ đang thử nghiệm loại "vũ khí chỉnh sửa không thời gian" Cô gái vô tình ném cả Huawei Mate40 và iPhone 12 vào máy giặt, kết quả lúc lấy ra đầy bất ngờ 3 nguy cơ tiềm ẩn khi duyệt 'trang web không lành mạnh' trên smartphone, giờ biết cũng chưa muộn Trung Quốc triển khai xét nghiệm COVID-19 qua đường hậu môn Trên tay chiếc 'đồng hồ nguyên tử đeo tay' chính xác nhất thế giới, mỗi tội hơi nặng Trang chủ › Sống Chân dung các loài chim quý hiếm, tuy đơn giản nhưng lại tuyệt đẹp Đức Khương , Theo Trí Thức Trẻ Chia sẻ Dưới đây là chân dung của 25 loài chim quý hiếm, có những loài đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng được thực hiện bởi nhiếp ảnh gia Tim Flach. Trailer tiếp theo của Justice League với nhiều chi tiết mới, Steppenwolf được diện bộ giáp hầm hố hơn rất nhiều Internet thích thú với TikToker cải trang thành Spider-Man để mua cafe ở Starbucks, lộn cả đầu trên nóc ô tô cho ra dáng Người Nhện The Rock “đô con” đến mức không thể ngồi vừa siêu xe Porsche để quay cảnh rượt đuổi trong bom tấn của Netflix Tim Flach là một nhiếp ảnh gia được biết đến với những bức chân dung ấn tượng, nơi những con vật được đối xử ân cần như những người mẫu nổi tiếng. Nhiếp ảnh gia này đã chụp được những bức ảnh của cả các loài động vật hoang dã cũng như đã được thuần hóa. Lần này, Tim Flach lại tập trung vào những bức ảnh về loài chim quý hiếm và dưới đây là những tác phẩm nghệ thuật của anh ấy. Himalayan Monal Himalayan Monal hay còn gọi là Chim trĩ Himalaya chúng được coi là Quốc điểu của Nepal với bộ lông vô cùng sặc sỡ và quý tộc. Blue Tit Blue Tit còn được biết tới với cái tên là Sẻ ngô xanh, chúng là một loài chim trong họ Paridae. Loài chim này dễ nhận ra với bộ lông màu xanh da trời vàng. Con trống có một đốm trên đầu phản chiếu tia cực tím, được chúng phô bày trước con mái qua tư thế xù lông ở phía gáy. Loài chim này thường định cư và không di cư, là loài phổ biến và loài sinh sản phổ biến khắp châu âu và Tây Á ôn đới và cận cực trong rừng rụng lá hoặc rừng hỗn hợp với một tỷ lệ cao của gỗ sồi. Chúng thường làm tổ trong lỗ cây, mặc dù chúng dễ dàng thích ứng với các hộp làm tổ ở những nơi cần thiết. Các đối thủ chính cho các tổ và tìm kiếm thức ăn là lớn hơn nhiều sẻ ngô lớn. Sẻ ngô xanh thích ăn côn trùng và nhện. Ngoài mùa sinh sản, chúng còn ăn cả hạt giống và thực vật dựa trên các thực phẩm khác. Sẻ ngô xanh nổi tiếng với kỹ năng bám vào các nhánh cây ngoài cùng và treo ngược xuống khi tìm kiếm thức ăn. Inca Tern Inca Tern - Mòng biển Inca là một loài chim trong họ Laridae. Loài chim biển này chủ yếu sinh sống tại các vùng biển ở Peru và Chile. Chúng có lông màu xám, chân và mỏ màu vàng cam, đặc biệt có hai hàng ria trắng nối dài từ phần mỏ. Hiện nay, chỉ còn khoảng 150.000 cá thể do môi trường sống bị đe dọa nghiêm trọng. Mòng biển Inca sinh sản trên những vách đá. Chúng xây tổ trong các hang rỗng hoặc đôi khi dùng tổ cũ của chim cánh cụt Humboldt, và đẻ một hoặc hai quả trứng. Những quả trứng được ấp trong khoảng 4 tuần, và chim non rời tổ sau 7 tuần. Gouldian Finch Gouldian Finch là một loài chim đặc hữu ở Australia, thuộc họ Estrildidae. Chúng còn được biết tới với cái tên khác là Chim 7 màu, loài chim này được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1845 bởi nhà tự nhiên học người anh có tên là John Gould. Vì nhiều nguyên nhân khác nhau, từ thế kỷ 20 đã chứng kiến sự suy giảm nhanh chóng của số lượng chim 7 màu ngoài tự nhiên. Các nhà khoa học ước tính chỉ có khoảng 2500 cá thể chim trưởng thành còn tồn tại trong môi trường hoang dã. Vì vậy năm 1992, nó được phân loại là loài nguy cấp theo tiêu chí C2ai của IUCN. Silver Laced Polish Chicken Major Mitchell Major Mitchell là một loài vẹt rất dễ thuần hóa và rất quấn chủ, chúng nổi tiếng là giống chim “chỉ có một chủ”. Northern Red Cardinal Jacobin Pigeon Bồ câu Jacobin là một loại bồ câu nhà thuộc là giống chim bồ câu cảnh được thuần hóa tại châu Á với đặc trưng là bộ lông giống sư tử. Là một trong những giống chim bồ câu thuần hóa lâu đời nhất thế giới, cùng với nhiều loài chim bồ câu được thuần hóa khác, chúng là hậu duệ của chim gầm ghì đá (Columba livia), chúng có nguồn gốc từ Ấn Độ hoặc là loài bản địa của đảo Síp. Chúng xuất hiện ở châu Âu từ khoảng thế kỷ 16, sau đó được trải qua 4 giai đoạn phát triển do các chuyên gia lai tạo thực hiện. Philippine Eagle Đại bàng Philippines, còn được gọi là Đại bàng lớn Philippine hay Đại bàng ăn thịt khỉ, là một trong những loài chim cao nhất, hiếm nhất, lớn nhất, mạnh mẽ nhất thế giới. Loài chim này được coi là Quốc điểu của đất nước Philippines. Đây là chim săn mồi ăn thị thuộc Họ Accipitridae, được phát hiện vào năm 1896 bởi nhà thám hiểm và nhà tự nhiên học người Anh John Whitehead, người đã quan sát các loài chim và người phục vụ của ông là Juan đã thu thập các mẫu vật đầu tiên một vài tuần sau đó. Da của mẫu thu thập được đã được gửi đến William Robert Ogilvie-Grant tại Luân Đôn vào năm 1896, người ban đầu cho thấy nó và mô tả các loài một vài tuần sau đó. Black Jacobin Pigeon Longtail Broadbill Đây là một loài chim trong họ Eurylaimidae và được biết tới với cái tên khác là Mỏ rộng xanh sinh sống ở Hymalaya, Đông Nam Á. Chim trưởng thành bộ lông có màu xanh lục thẫm, đầu và gáy có màu đen, hai bên gáy có hai vệt vàng nhạt. Mặt, họng, vòng cổ vàng nghệ. Lông cánh sơ cấp và thứ cấp màu đen, xanh lục và lúc bay nhìn thấy có vệt trắng. Lông đuôi dài và hẹp, có màu xanh thẫm ở trên và đen ở dưới. Chim non có màu tối hơn và đầu xanh Chim trưởng thành bộ lông có màu xanh lục thẫm, đầu và gáy có màu đen. Loài chim này sống định cư và làm tổ ở rừng rậm những nơi có độ cao khoảng dướí 1500 - 1800m. Thường gặp kiếm ăn và làm tổ ở tầng trên của rừng. Victoria Crowned Pigeon Egyptian Vulture Kền kền Ai Cập hay còn gọi là Kền kền ăn xác thối là một loài kền kền nhỏ thuộc nhóm kền kền Cựu thế giới, được tìm thấy từ miền bắc châu Phi cho đến miền tây nam châu Á. Nó là thành viên duy nhất của chi Neophron trong họ Accipitridae. Toco Toucan Toco Toucan là loài chim phổ biến nhất trong các loài thuộc họ Toucan, tuy có nguồn gốc từ khu rừng nhiệt đới ở Nam Mĩ nhưng hiện nay chúng phân bố ở rất nhiều nơi khác trên thế giới. Điều khiến Toco Toucan trở thành một trong những loài chim được biết đến nhiều nhất chính là nhờ chiếc mỏ lớn, đầy màu sắc của chúng. Grey Crowned Crane Red Splash Jacobin Pigeon Shoebill Cò mỏ giày là một loài chim thuộc họ Balaenicipitidae. Cò mỏ giày tạo thành họ đơn loài Balaenicipitidae, thường được đặt trong bộ Ciconiiformes truyền thống, nhưng thực tế nó là dòng dõi rất khác biệt của bộ Pelecaniformes. Con chim trưởng thành cao 115 - 150 cm, dài 100 - 140 cm, sải cánh dài 230 - 260 cm và nặng 4 - 7 kg. Andean Cock Of The Rock Nó còn được gọi với cái tên khác là Rupicola peruvianus, chúng là một loài chim kích thước trung bình trong họ Cotingidae, gốc ở các khu rừng sương mù Andes thuộc Nam Mỹ. Nó là quốc điểu của Peru. King Vulture Kền kền vua là một loài chim thuộc họ Kền kền Tân thế giới. Kền kền vua có phạm vi sinh sống từ miền nam México tới miền bắc Argentina. Loài kền kền này sống chủ yếu ở các khu rừng đất thấp nhiệt đới trải dài từ miền Nam Mexico tới miền bắc Argentina. Vultrurine Guineafowl Hen Nicobar Pigeon Bearded Tit Silver-Laced Rooster Crested Miniature Duck Cửa sáng cho việc bảo vệ môi trường: Hộp đựng thực phẩm làm từ tre và bã mía sẽ phân hủy sinh học trong 60 ngày Theo Trí Thức Trẻ Copy link Link bài gốc Lấy link Chia sẻ Tags: nhiếp ảnh gia Người mẫu nổi tiếng chim quý hiếm NỔI BẬT TRANG CHỦ Lộ tài liệu chứng minh Hải quân Mỹ đang thử nghiệm loại "vũ khí chỉnh sửa không thời gian" Tuy nhiên cho đến nay, chưa có thử nghiệm nào chứng minh tính thực tế của các lý thuyết này. Cô gái vô tình ném cả Huawei Mate40 và iPhone 12 vào máy giặt, kết quả lúc lấy ra đầy bất ngờ Video Mobile Tin ICT Internet Khám phá Trà đá công nghệ Thủ thuật Apps - Game Đồ chơi số Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Bà Nguyễn Bích Minh Hà Nội: Tầng 20, Tòa nhà Center Building - Hapulico Complex, Số 1 Nguyễn Huy Tưởng, Thanh Xuân, Hà Nội. Email: info@genk.vn Điện thoại: 024.73095555, máy lẻ 62374 VPĐD tại TP.HCM: Tầng 4, Tòa nhà 123 Võ Văn Tần, Phường 6, Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh © Copyright 2010 - 2021 - Công ty Cổ phần VCCorp Tầng 17, 19, 20, 21 Toà nhà Center Building - Hapulico Complex, Số 1 Nguyễn Huy Tưởng, Thanh Xuân, Hà Nội. Trang tin điện tử trên internet: Giấy phép số 460/GP-TTĐT do Sở Thông tin và Truyền thông Hà Nội cấp ngày 03/02/2016 Liên hệ quảng cáo Hotline hỗ trợ quảng cáo: 0942 86 11 33 Email: giaitrixahoi@admicro.vn Hỗ trợ & CSKH: Admicro Address: Tầng 20, Tòa nhà Center Building - Hapulico Complex, Số 1 Nguyễn Huy Tưởng, Thanh Xuân, Hà Nội. Chat với tư vấn viên
1610704847953.98.parquet/6346
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 7046, "url": "https://genk.vn/chan-dung-cac-loai-chim-quy-hiem-tuy-don-gian-nhung-lai-tuyet-dep-20201119125817747.chn" }
126.9
Xây dựng "đại bàng" Việt để nâng cao năng lực kinh doanh 16:19 | 29/10/2020 Xây dựng "đại bàng" Việt để nâng cao năng lực kinh doanh (HQ Online) - Theo chuyên gia kinh tế Trần Đình Thiên, muốn nâng cao năng lực, sức cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt trong hội nhập kinh tế sâu rộng, phải đặt việc xây dựng lực lượng doanh nghiệp Việt thành một chương trình, chiến lược hành động quốc gia ưu tiên hàng đầu. Trong đó, việc xây dựng các doanh nghiệp mang tính chất đầu tàu, các "đại bàng" Việt phải là nhiệm vụ mang tính trụ cột. Đối tác ngoài nước chủ động tìm đến doanh nghiệp Việt Để cái bắt tay giữa FDI và doanh nghiệp nội chặt hơn Toàn cảnh diễn đàn Áp lực cạnh tranh lớn Phát biểu tại Diễn đàn "Nâng cao sức cạnh tranh hàng Việt trước thời cơ, thách thức từ các FTA thế hệ mới" diễn ra ngày 29/10, tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải đánh giá, việc tham gia các FTA đã giúp thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng và đa dạng hóa; thị trường dịch vụ tài chính phát triển hơn với sự tham gia của nhiều nhà đầu tư nước ngoài; hệ thống thể chế, chính sách cũng từng bước được hoàn thiện... Tuy nhiên, Bộ Công Thương đánh giá, bên cạnh những lợi ích do các FTA mang lại, các doanh nghiệp Việt cũng đứng trước nhiều thách thức khi hàng hóa của nhiều quốc gia sẽ tăng nhập khẩu vào Việt Nam nhờ được hưởng ưu đãi thuế quan. Hiện nay, trình độ phát triển của doanh nghiệp Việt Nam vẫn đang ở mức trung bình và thấp. Việc Việt Nam mở cửa thị trường cho hàng hóa, dịch vụ đến từ các nước đối tác khiến thị trường trong nước không còn là khái niệm “sân nhà”. Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông cũng nhấn mạnh, mặc dù là động lực phát triển quan trọng của nền kinh tế nhưng đa số doanh nghiệp Việt là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Các doanh nghiệp vừa và lớn chiếm tỷ trọng quá ít (khoảng 3%), tạo thành chỗ khuyết thiếu cơ cấu nghiêm trọng. Doanh nghiệp quy mô nhỏ bé nên chưa đầu tư vào công nghệ, chưa có chiến lược lâu dài để đầu tư cho sự phát triển dài hạn. Ngược lại, khi doanh nghiệp chưa có công nghệ và chiến lược, dẫn tới doanh nghiệp khó tạo được sự tin tưởng từ các đối tác. Lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đặc biệt nhấn mạnh vào yếu tố, đến nay, Việt Nam chưa tham gia được vào hệ sinh thái và chuỗi giá trị của các doanh nghiệp đầu chuỗi và doanh nghiệp nước ngoài. Mối liên kết giữa các doanh nghiệp tư nhân trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, giữa các doanh nghiệp nhỏ và các doanh nghiệp lớn là không đáng kể và còn hạn chế. Từ góc độ doanh nghiệp cụ thể, ông Nguyễn Khoa Đức Anh, Phó Giám đốc Khối Khách hàng doanh nghiệp kiêm Giám đốc Trung tâm Phát triển Giải pháp Tài chính Khách hàng (Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam) chỉ rõ, áp lực cạnh tranh từ các nhà cung cấp dịch vụ tài chính nước ngoài trên thị trường Việt Nam ngày càng lớn. Ngoài EVFTA, Việt Nam cũng đã mở cửa thị trường dịch vụ tài chính theo một số cam kết FTA khác (ví dụ trong ASEAN, trong Hiệp định Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương…) qua đó, mở đường cho nhiều nhà cung cấp dịch vụ tài chính nước ngoài vào đầu tư tại Việt Nam hoặc cung cấp dịch vụ xuyên biên giới cạnh tranh với các doanh nghiệp tài chính Việt Nam. Bên cạnh đó, nhu cầu của khách hàng đối với giao dịch tài chính ngày càng cao, không chỉ dừng lại ở giá mà đòi hỏi mức độ phong phú về dịch vụ, chất lượng dịch vụ. "Việt Nam đã gỡ bỏ dần các hạn chế đối với các nhà cung cấp dịch vụ tài chính nước ngoài, đặt các doanh nghiệp tài chính Việt Nam trong thế bắt buộc phải cạnh tranh bình đẳng hơn để thu hút khách hàng", ông Đức Anh nhấn mạnh. Xây dựng "đại bàng" Việt Nam Công ty CP Khóa Việt Tiệp là một trong những thương hiệu đã gắn bó lâu đời với người tiêu dùng Việt, không chỉ chinh phục tốt thị trường trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài. Ông Lương Văn Thắng, Chủ tịch HĐQT Công ty chia sẻ kinh nghiệm để có thể đối mặt với áp lực cạnh tranh trong hội nhập, hiện hàng năm, công ty nghiên cứu và cho ra đời 10 - 15 sản phẩm mới và sản phẩm cải tiến, thiết kế sang trọng, hiện đại. Tăng tính chủ động, nâng cao chất lượng, đa dạng mẫu mã là lối đi hiệu quả giúp doanh nghiệp Việt đứng vững trong hội nhập. Ảnh: Nguyễn Thanh Đến thời điểm hiện tại, Khóa Việt-Tiệp đưa ra thị trường hơn 300 mẫu sản phẩm với những cải tiến nổi bật về chất lượng, mẫu mã, bao bì, đồng thời giảm được chi phí sản xuất. Nhìn nhận câu chuyện gia tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt trong hội nhập sâu ở bình diện rộng, tổng quát, PGS.TS Trần Đình Thiên, Thành viên Tổ tư vấn của Chính phủ khẳng định, không thể bác bỏ thực trạng yếu kém thực lực của các doanh nghiệp Việt sau 35 năm chuyển sang kinh tế thị trường. Trong bối cảnh nền kinh tế và doanh nghiệp phải đặc biệt nỗ lực đạt được “trạng thái bình thường mới”, cần nhanh chóng triển khai các giải pháp “nóng”. Cụ thể đó là nỗ lực xây dựng các nền tảng của kinh tế thị trường đúng nghĩa; nhanh chóng đoạn tuyệt với hệ thống phân bổ nguồn lực theo nguyên tắc “xin – cho”. Đây là nguồn gốc cơ bản và trực tiếp của hệ thống tham nhũng, lãng phí, làm méo mó toàn bộ cấu trúc thị trường. “Các yếu tố nêu trên vận hành trong không gian công khai, minh bạch sẽ là nền tảng để phát triển môi trường cạnh tranh lành mạnh, cái mà các doanh nghiệp Việt Nam cần nhất hiện nay”, PGS.TS Trần Đình Thiên nói. Ngoài ra, vị chuyên gia này cho rằng cần áp dụng hệ thống khuyến khích “thưởng người thắng” thay cho cách điều hành nền kinh tế theo nguyên lý “chọn người thắng”. Sự thay thế này sẽ giúp kích thích tinh thần đua tranh giành thắng một cách đàng hoàng trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. PGS.TS Trần Đình Thiên đặc biệt nhấn mạnh phải đặt việc xây dựng lực lượng doanh nghiệp Việt thành một chương trình, chiến lược hành động quốc gia ưu tiên hàng đầu. Trong đó, việc gây dựng các doanh nghiệp mang tính chất đầu tàu, các "đại bàng" Việt phải là nhiệm vụ mang tính trụ cột, từ đó có tính dẫn dắt, lan tỏa cộng động doanh nghiệp cùng phát triển. Uyển Như Đường dẫn bài viết: https://haiquanonline.com.vn/xay-dung-dai-bang-viet-de-nang-cao-nang-luc-kinh-doanh-136028.html In bài viết Bản quyền thuộc Báo Hải quan.
1610704847953.98.parquet/161183
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 5363, "url": "https://haiquanonline.com.vn/apicenter@/print_article&i=136028" }
126.9
GHI CHÉP MÔ TẢ TRONG QUAN SÁT GHI CHÉP MÔ TẢ TRONG QUAN SÁT Chủ nhật, 17 Tháng 4 2016 16:08 Việc ghi chép mô tả nhằm tái hiện hành vi như nó đã xảy ra một cách trung thành ở mức độ nhất định nhiều hay ít. Loại hình chủ yếu của ghi chép mô tả là việc người quan sát thuật lại hành vi. Khi thu được những bản ghi chép mô tả người quan sát có thể phân loại, sắp xếp lại những điều đã ghi. Khi xem xét số liệu có thể thử nghiệm những giả thuyết riêng lẻ…Điều này nói lên sự khác nhau quan trọng giữa việc ghi chép mô tả và các hình thức khác của việc đo lường hành vi. Như vậy việc ghi chép mô tả được ghi thông tin đặc biệt cần thiết để đánh giá mục đích hay giả thuyết của việc nghiên cứu. Việc ghi chép trong quan sát có thể bao gồm và thực hiện việc ghi chép trong suốt quá trình quan sát, biểu đồ (để minh họa vị trí tương ứng của người tương tác cùng chẳng hạn), bức ảnh, đoạn phim quay lại…Newman (1991) đã liệt kê những hình thức ghi chép trong quan sát được sử dụng phổ biến nhất. Đầu tiên có kiểu sổ tay bỏ túi, nó được dùng trong lúc quan sát trên thực địa. Kiểu ghi chép này nói chung là rất ngắn gọn, thông thường là một số từ được ghi lại nhằm hỗ trợ trí nhớ về sau nó sẽ sao chép lại với sự mở rộng hơn sau mỗi buổi quan sát. Đôi khi đòi hỏi các nhà quan sát trong đo lường có thể tính toán chính xác những hoạt động và đề xuất nội dung quan sát. Ghi chép trong quan sát không chỉ bao gồm những từ mà có thể lựa chọn biểu đồ nhằm mục đích giới thiệu một số thông tin theo cách phù hợp nhất. Những biểu đồ cho phép nhà nghiên cứu tổ chức một số sự kiện trong một số hoàn cảnh quan sát. Những cuốn băng video được quay có thể là một công cụ rất có ý nghĩa nhằm thể hiện những buổi quan sát. Chúng ta có thể đưa ra kết luận rằng việc ghi chép trong tiến trình quan sát phải được thực hiện ngay khi có thể, sau những buổi quan sát. Nhìn chung nên ghi chép một cách chính xác về thời gian, địa điểm, những sự kiện liên quan cũng như ghi lại thời gian kéo dài một cách chính xác. Những phần này tách rời nhau được sử dụng để ghi lại những ghi chép trong quan sát một cách trực tiếp, những ghi chép cá nhân cũng như những phần diễn giải. PGS. TS. Hoàng Mộc Lan.
1610704847953.98.parquet/96023
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 1871, "url": "http://hcmup.edu.vn/index.php?option=com_content&id=21042&tmpl=component&task=preview&lang=vi&site=142" }
126
Nền kinh tế kỹ thuật số Malta: Phát triển vượt bậc, cạnh tranh toàn cầu - Đầu Tư Định Cư Malta Skip to content HOTLINE: 0902 655 499 Trang Chủ Định Cư Khác Định Cư Bồ Đào Nha Định Cư Síp Định Cư Hy Lạp Định Cư Ireland Hội Thảo Tin tức Liên hệ Nền kinh tế kỹ thuật số Malta: Phát triển vượt bậc, cạnh tranh toàn cầu Posted on 7 Tháng Một, 2021 by admin Nền kinh tế toàn cầu cũng đang trải qua quá trình chuyển đổi kỹ thuật số và nó đang diễn ra với tốc độ chóng mặt. Malta chú trọng phát triển kỹ thuật số trong kinh tế Công dân, doanh nghiệp và chính phủ kỹ thuật số là những trụ cột quan trọng trong chiến lược quốc gia về nền kinh tế kỹ thuật số, mang lại cho Malta lợi thế cạnh tranh toàn cầu. Bộ trưởng trong Văn phòng Thủ tướng Carmelo Abela cho biết điều này trong khi thảo luận chủ đề liên quan đến chiến lược kỹ thuật số của Liên minh châu Âu trong những năm tới. Cũng như sự tiến bộ của đất nước Malta trong lĩnh vực kỹ thuật số, nhu cầu tăng cường đổi mới công nghệ kỹ thuật số. Bộ trưởng Carmelo Abela đã nói về cách sử dụng công nghệ tiên tiến cải thiện chất lượng cuộc sống của con người, kể cả ở nơi làm việc ở Malta. Chính phủ sẽ tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp để có nền tảng bắt đầu kinh doanh, tìm kiếm dữ liệu họ cần, và cạnh tranh công bằng. Bộ trưởng Abela nhấn mạnh, đại dịch Covid-19 đã thúc đẩy nhu cầu chuyển đổi công nghệ và nền kinh tế sang kỹ thuật số như thế nào. Ủy ban châu Âu đang tích cực thúc đẩy một nền kinh tế xanh và kỹ thuật số, nơi các quốc gia EU có thể cạnh tranh với nhau và với các quốc gia khác trong một thế giới toàn cầu hóa. Nếu nhìn vào các khoản đầu tư thực tế mà chính phủ Malta đang thực hiện, chúng ta sẽ thấy rằng Malta rất tiên tiến. Đặc biệt, dịch vụ công của Malta vào năm 2020 một lần nữa được xếp hạng đầu tiên trong lĩnh vực chính phủ điện tử ở châu Âu. Hiện Malta đang đầu tư 40 triệu euro vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật số của đất nước. Nền kinh tế Malta dựa trên dịch vụ tài chính và nền kinh tế kỹ thuật số đại diện cho một phần quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Chỉ riêng dịch vụ tài chính đã sử dụng hơn 10.000 lao động. Ngày nay, lĩnh vực này có tính cạnh tranh cao và Malta đang tập trung vào các lĩnh vực sáng tạo, như Fintech, game, công nghiệp blockchain… Nền kinh tế kỹ thuật số không đòi hỏi lượng đất hoặc tài nguyên khổng lồ. Nó đòi hỏi sự linh hoạt, cởi mở cho kinh doanh và đổi mới. Lợi ích của việc phát triển nền kinh tế kỹ thuật số Việc phát triển nền kinh tế kĩ thuật số giúp ích rất nhiều cho người dân Malta trên các khía cạnh: Thay đổi hình thức làm việc: Thay vì làm việc ở văn phòng, mọi người có thể làm việc ở bất cứ đâu. Nó cũng giúp xuất hiện các doanh nghiệp toàn cầu, giúp người lao động làm việc xuyên biên giới. Trải nghiệm khách hàng: Trong nền kinh tế kỹ thuật số, tất cả mối quan hệ đều muốn tương tác với nhau bất cứ khi nào, ở đâu họ muốn và theo cách thuận tiện nhất. Ngoài ra, khách hàng có thể tương tác với thương hiệu thông qua trải nghiệm liền mạch, đa kênh, trực tiếp, và được cá nhân hóa. Mạng cung cấp kỹ thuật số: Việc số hóa mọi thứ đang tạo ra các mạng lưới kỹ thuật số thông minh mới về cơ bản thay đổi cách thức thương mại được quản lý, tối ưu hóa, chia sẻ và triển khai. Vạn vật kết nối Internet: Dễ quản lý, dễ vận hành dù doanh nghiệp ở bất cứ đâu bên ngoài lãnh thổ Malta. Nhiều thông tin hơn: Internet cho phép người tiêu dùng có nhiều thông tin và sự lựa chọn hơn. Ví dụ, nó giúp dễ dàng so sánh giá giữa các hãng. Điều này đặc biệt quan trọng đối với khách du lịch. Trước nền kinh tế kỹ thuật số, có lẽ không dễ tìm thấy giá khách sạn và lịch trình xe buýt. Tiết kiệm thời gian: Trước khi cần đồ dùng văn phòng, bạn sẽ phải đi vào thị trấn và mua. Bây giờ, bạn có thể đặt hàng qua internet và hàng sẽ đến vào ngày hôm sau. Điều này giúp tiết kiệm chi phí lao động của doanh nghiệp. Giảm chi phí: Các công ty có thể tiết kiệm chi phí thuê các tòa nhà đắt tiền bằng cách điều hành hầu hết hoạt động kinh doanh thông qua internet. Nền kinh tế kỹ thuật số cho phép các công ty cắt bỏ một khía cạnh của chuỗi bán lẻ và gửi hàng hóa trực tiếp từ nhà máy đến khách hàng, thay vì thông qua cửa hàng. Điều này cho phép giảm chi phí và giá thấp hơn. Cá nhân hóa: Nền kinh tế kỹ thuật số cho phép cá nhân hóa nhiều hơn mức có thể so với nền kinh tế truyền thống. Ví dụ, một cửa hàng truyền thống sẽ chỉ có đủ chỗ để dự trữ một số lượng màu và kích cỡ nhất định, nhưng với nền kinh tế kỹ thuật số, người tiêu dùng có thể chọn bất kỳ sở thích nào và sau đó sản phẩm có thể được chế tạo theo yêu cầu. Giảm các rào cản gia nhập: Giúp các công ty mới gia nhập dễ dàng hơn. Nếu một doanh nhân có một ý tưởng sáng tạo, họ có thể tạo ra một sản phẩm mới thách thức các công ty truyền thống. Nền kinh tế kỹ thuật số đã mang lại nhiều dịch vụ mới không thể tưởng tượng được trước đây, chẳng hạn như giao hàng tận nhà trực tuyến cho hàng tạp hóa cho đến các ứng dụng hẹn hò. Việc sản xuất hàng loạt dữ liệu có thể giúp thông báo cho các chính phủ và tổ chức từ thiện về những gì đang xảy ra trong nền kinh tế. Ví dụ: trong việc theo dõi sự lây lan COVID-19, việc sử dụng một ứng dụng trên điện thoại di động có thể chỉ ra nơi xuất hiện các điểm nóng lây truyền. Tóm lại, nền kinh tế kỹ thuật số đang được Malta chú trọng phát triển, tạo nền tảng vững chắc cho các công ty đa quốc gia trong lĩnh vực này này như game, tiền điện tử, tài chính….thuận lợi đầu tư. Nguồn: http://maltawinds.com/2020/11/12/a-digital-economy-offers-the-country-a-global-competitive-advantage/ This entry was posted in Tin tức. Bookmark the permalink. Bài viết liên quan Nơi tốt nhất để sống ở Malta do người nước ngoài lựa chọn Th1 19, 2021 Những công việc hấp dẫn nhất đang có nhu cầu ở Malta Th1 16, 2021 Malta miễn phí thuốc điều trị cho 6000 bệnh nhân phổi Th12 17, 2020 Định cư Malta chỉ 3 tỷ Định cư Bồ Đào Nha chương trình Golden Visa Designed by Kane. Copyright by DINHCUMALTA.VN Trang Chủ Định Cư Khác Định Cư Bồ Đào Nha Định Cư Síp Định Cư Hy Lạp Định Cư Ireland Hội Thảo Tin tức Liên hệ Call Now Button Loading...
1610704847953.98.parquet/82861
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 5181, "url": "https://dinhcumalta.vn/nen-kinh-te-ky-thuat-malta-phat-trien-vuot-bac-canh-tranh-toan-cau/" }
125.8
Cách tăng EQ - Làm thế nào để trở nên thông minh hơn về mặt cảm xúc | Test Nhanh 3S Chuyển đến nội dung Test Nhanh 3S Menu Test IQ Test EQ Các bài Test khác MBTI DISC Trắc Nghiệm Holland Sinh Trắc Vân Tay Cách tăng EQ – Làm thế nào để trở nên thông minh hơn về mặt cảm xúc Tháng Mười Hai 1, 2020 Tháng Chín 21, 2020 Bởi Test Nhanh 3S Mặc dù trí tuệ cảm xúc EQ có thể đến với một số người một cách tự nhiên, nhưng có những điều mà bất cứ ai cũng có thể làm để giúp cải thiện khả năng hiểu và suy luận bằng cảm xúc của họ. Điều này có thể đặc biệt hữu ích ở nơi làm việc, nơi các mối quan hệ và các quyết định kinh doanh thường dựa vào sự hiểu biết giữa các cá nhân, làm việc theo nhóm và giao tiếp. Bên cạnh chỉ số thông minh IQ thì EQ là chỉ số có thể đo được thông qua các bài test eq miễn phí của Test Nhanh 3S Các yếu tố như giáo dục và tính cách có xu hướng đóng một vai trò lớn trong sự phát triển của trí tuệ cảm xúc, nhưng nó là một kỹ năng có thể được cải thiện bằng nỗ lực và luyện tập. Một nghiên cứu năm 2011 cho thấy những người tham gia được đào tạo về các năng lực cảm xúc chính cho thấy những cải thiện lâu dài về trí tuệ cảm xúc. Họ cũng trải qua những cải thiện về thể chất và tinh thần, các mối quan hệ xã hội tốt hơn và mức cortisol (hormone căng thẳng) thấp hơn. Nếu bạn quan tâm đến việc cải thiện kỹ năng trí tuệ cảm xúc để mang lại lợi ích cho hiệu quả công việc tại nơi làm việc, hãy thực hiện các bước để cải thiện kỹ năng của bạn trong năm loại trí tuệ cảm xúc: Tự nhận thức, tự điều chỉnh, kỹ năng xã hội, đồng cảm và động lực. Trở nên tự nhận thức hơn Một trong những bước đầu tiên để sử dụng các kỹ năng trí tuệ cảm xúc ở nơi làm việc là thực hành nhận biết cảm xúc của chính bạn. Tự nhận thức bao gồm nhận thức về các khía cạnh khác nhau của bản thân, bao gồm cả cảm xúc và tình cảm của bạn. Nó là một trong những thành phần nền tảng của trí tuệ cảm xúc . Để nhận ra cảm xúc của bạn và hiểu điều gì đang gây ra những cảm giác này, trước tiên bạn cần phải tự nhận thức. Chú ý đến cảm giác của bạn . Những cảm xúc này ảnh hưởng đến cách bạn phản ứng như thế nào? Những điều bạn đang cảm thấy có tác động đến quyết định bạn đưa ra hoặc cách bạn tương tác với người khác không? Khi suy nghĩ về những câu hỏi này, bạn có thể nhận thấy rằng bạn trở nên ý thức hơn nhiều về cảm xúc của chính mình và vai trò của chúng trong cuộc sống hàng ngày của bạn. Ghi lại những điểm mạnh và điểm yếu về cảm xúc . Bạn giao tiếp với người khác tốt như thế nào? Bạn có thấy mình thường xuyên mất kiên nhẫn, tức giận hoặc khó chịu không? Một số cách bạn có thể đối phó với những cảm giác này một cách hiệu quả là gì? Nhận ra điểm yếu cho phép bạn tìm cách giải quyết chúng. Hãy nhớ rằng cảm xúc là thoáng qua . Đồng nghiệp có thể chọc tức bạn hoặc sếp của bạn có thể giao cho bạn một nhiệm vụ khó chịu để hoàn thành. Trước khi bạn phản ứng, hãy nhớ rằng những điều này chỉ là tạm thời. Đưa ra quyết định hấp tấp dựa trên cảm xúc mãnh liệt có thể gây bất lợi cho các mục tiêu dài hạn và thành công của bạn. Thực hành tự điều chỉnh Goleman xác định khả năng tự điều chỉnh là một phần quan trọng của trí tuệ cảm xúc. Nhận thức được cảm xúc là bước đầu tiên quan trọng, nhưng bạn cũng cần phải có khả năng quản lý cảm xúc của mình. Những người có khả năng tự điều chỉnh tốt có khả năng thích ứng tốt với các tình huống thay đổi. Họ không đóng chai mọi thứ; họ chờ đợi những cách thích hợp để thể hiện cảm xúc của mình hơn là phản ứng một cách bốc đồng. Để cải thiện kỹ năng tự điều chỉnh của bạn ở nơi làm việc: Tìm các kỹ thuật để giải phóng căng thẳng tại nơi làm việc . Có những sở thích ngoài công việc là một nơi tuyệt vời để bắt đầu. Tập thể dục cũng là một cách lành mạnh để giải phóng căng thẳng. Giữ bình tĩnh của bạn . Chấp nhận sự thật rằng bạn không thể kiểm soát mọi thứ. Hãy tìm những cách hữu ích để ứng phó mà không đổ thêm dầu vào lửa. Suy nghĩ trước khi đưa ra quyết định . Cảm xúc có thể khiến bạn choáng ngợp trong lúc nóng nảy. Bạn có thể đưa ra một lựa chọn bình tĩnh hơn, hợp lý hơn nếu cho mình thời gian để cân nhắc tất cả các khả năng. Cải thiện kỹ năng xã hội Nghiên cứu về tâm lý cảm xúc cho thấy rằng những người có EQ cao cũng có các kỹ năng xã hội mạnh mẽ. Bởi vì họ rất giỏi trong việc nhận biết cảm xúc của người khác, họ có khả năng phản ứng phù hợp với tình huống. Các kỹ năng xã hội cũng được đánh giá cao ở nơi làm việc vì chúng dẫn đến giao tiếp tốt hơn và văn hóa công ty tích cực hơn. Nhân viên và nhà lãnh đạo có kỹ năng xã hội tuyệt vời có thể xây dựng mối quan hệ với đồng nghiệp và truyền đạt ý tưởng của họ một cách hiệu quả. Những người có kỹ năng xã hội tốt không chỉ là những người chơi tuyệt vời trong đội mà họ còn có thể đảm nhận vai trò lãnh đạo khi cần thiết. Để nâng cao kỹ năng xã hội của bạn: Lắng nghe những gì người khác nói . Điều này không có nghĩa là chỉ nghe người khác nói một cách thụ động. Lắng nghe tích cực bao gồm việc thể hiện sự chú ý, đặt câu hỏi và cung cấp phản hồi. Cho dù bạn là người quản lý hay thành viên trong nhóm, việc lắng nghe tích cực có thể cho thấy bạn đam mê các dự án công việc và sẵn sàng làm việc với những người khác để giúp nhóm đạt được mục tiêu. Chú ý đến giao tiếp phi ngôn ngữ . Những tín hiệu mà mọi người gửi qua ngôn ngữ cơ thể của họ có thể truyền tải rất nhiều điều về những gì họ thực sự nghĩ. Rèn luyện kỹ năng thuyết phục của bạn . Có thể mang lại ảnh hưởng ở nơi làm việc và thuyết phục các thành viên trong nhóm và người giám sát lắng nghe ý tưởng của bạn có thể giúp bạn thăng tiến sự nghiệp một cách lâu dài. Tránh bộ phim văn phòng . Cố gắng hết sức để tránh xa những chính trị vụn vặt đôi khi chiếm đoạt nơi làm việc, nhưng lưu ý rằng xung đột không phải lúc nào cũng có thể tránh được. Tập trung lắng nghe những gì người khác nói và tìm cách giải quyết vấn đề và giảm thiểu căng thẳng. Trở nên đồng cảm hơn Những người thông minh về mặt cảm xúc rất giỏi trong việc xỏ chân vào vị trí của người khác và hiểu cảm giác của họ. Sự đồng cảm không chỉ là nhận biết cảm giác của người khác. Nó cũng liên quan đến cách bạn phản ứng với những cảm xúc này. Ở nơi làm việc, sự đồng cảm cho phép bạn hiểu được những động lực khác nhau giữa đồng nghiệp và người giám sát. Nó cũng cho phép bạn nhận ra ai là người nắm giữ quyền lực và nó ảnh hưởng như thế nào đến các hành vi, cảm xúc và tương tác từ các mối quan hệ đó. Nhìn mọi thứ từ quan điểm của người khác . Đôi khi nó có thể là một thách thức, đặc biệt là nếu bạn cảm thấy như người kia đã sai. Nhưng thay vì để những bất đồng tích tụ thành những xung đột lớn, hãy dành thời gian nhìn nhận tình hình từ góc độ của người khác. Đó có thể là một bước đầu tiên tuyệt vời để tìm ra điểm trung gian giữa hai quan điểm đối lập. Chú ý đến cách bạn trả lời người khác . Bạn có để họ có cơ hội chia sẻ ý kiến ​​của mình không? Bạn có thừa nhận ý kiến ​​đóng góp của họ, ngay cả khi bạn không đồng ý? Để người khác biết rằng nỗ lực của họ là xứng đáng thường giúp mọi người cảm thấy sẵn sàng thỏa hiệp hơn. Làm việc dựa trên động lực của bạn Một thành phần quan trọng khác của trí tuệ cảm xúc là động lực nội tại. Những người có EQ mạnh thường có động lực hơn để đạt được mục tiêu vì lợi ích của chính họ. Thay vì tìm kiếm những phần thưởng bên ngoài, họ muốn làm mọi thứ bởi vì họ thấy họ thỏa mãn và họ đam mê những gì họ làm. Tiền bạc, địa vị và sự ca ngợi là điều tuyệt vời, nhưng những người thành công cao ở nơi làm việc thường được thúc đẩy bởi những điều hơn thế. Họ đam mê những gì họ làm. Họ có cam kết với công việc của mình, họ thích đón nhận những thử thách mới và sự nhiệt tình của họ dường như có thể lây lan. Họ không bỏ cuộc khi đối mặt với những trở ngại và họ có thể truyền cảm hứng cho những người khác làm việc chăm chỉ và kiên trì để đạt được mục tiêu. Tập trung vào những gì bạn yêu thích trong công việc của bạn . Có thể có những điều về công việc mà bạn yêu thích và những điều bạn ghét. Hãy thử tập trung vào các khía cạnh của công việc mà bạn yêu thích , chẳng hạn như cảm giác đạt được khi hoàn thành một dự án lớn hoặc giúp khách hàng của bạn tiến bộ hơn Mục tiêu riêng. Xác định những yếu tố đó trong công việc của bạn và lấy cảm hứng từ chúng. Cố gắng duy trì một thái độ tích cực . Hãy để ý xem những người lạc quan ở nơi làm việc có xu hướng truyền cảm hứng và động lực cho người khác như thế nào. Chấp nhận kiểu thái độ này có thể giúp bạn cảm thấy tích cực hơn về công việc của mình. Một lời từ rất tốt Trí tuệ cảm xúc đóng một vai trò quan trọng không chỉ đối với hạnh phúc mà còn đối với sự thành công của bạn ở nơi làm việc. May mắn thay, có một số bài học bạn có thể rút ra từ tâm lý học cảm xúc sẽ cho phép bạn cải thiện EQ và thúc đẩy năng lực cảm xúc lớn hơn để cải thiện hiệu suất công việc và thành công trong sự nghiệp. Danh mục Blog Điều hướng bài viết Trí tuệ cảm xúc EQ là gì? ‘AQ’ có quan trọng hơn IQ không? Test Online Kiểm Tra IQ Kiểm Tra EQ Sinh Trắc Vân Tay Trắc nghiệm MBTI Trắc nghiệm DISC Trắc nghiệm Holland Test Nhanh 3S Test IQ Test EQ Test DISC Sinh trắc vân tay Trắc Nghiệm MBTI Trắc Nghiệm Holland ID Danh mục: 1: Xem mã 2: Xem mã 3: Xem mã 4: Xem mã 5: Xem mã 6: Xem mã Chúng tôi Blog Giới thiệu Liên hệ Chính sách bảo mật Sitemap Partner – testiqfree.com © 2021 Test Nhanh 3S • Built with GeneratePress
1610704847953.98.parquet/97014
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 8560, "url": "https://www.rhumsaintaubin.com/cach-tang-eq-lam-the-nao-de-tro-nen-thong-minh-hon-ve-mat-cam-xuc/" }
124.1
Tâm lý của nhân cách - khái niệm về cá tính và tự nhận thức về nhân cách trong tâm lý học Nhà Thiết kế nội thất Thực vật Cho phép vật nuôi Thời trang Hướng dẫn mua sắm Tin tức thời trang Bài học theo phong cách Vẻ đẹp và sức khỏe Sức khỏe phụ nữ Tư vấn phụ nữ Ngân hàng heo con của công thức nấu ăn dân gian Thức ăn Bài viết ngon Món tráng miệng Món ăn của thế giới Thai sản Mang thai Đứa trẻ và chăm sóc cho anh ta Sức khỏe trẻ em Sao Star News Báo chí về các ngôi sao Encyclopaedia of Stars Thể dục Dinh dưỡng hợp lý Chế độ ăn kiêng Giảm cân theo quy tắc Tâm lý và mối quan hệ Biết bản thân Tự phát triển Tình yêu Esoterics Dấu hiệu Kinh tế Âm mưu và nghi thức Châu Âu Thụy Sĩ Cộng hòa Séc Nước Bỉ Du lịch Châu Âu Châu Á Nam Mỹ Châu Á Indonesia Hàn Quốc Nhật Bản Nam Mỹ Chile Argentina Peru Châu phi Nam Phi Morocco Kenya Bắc Mỹ Panama Honduras Barbados Trung Đông Israel Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất Ả Rập Xê Út Úc và Châu Đại Dương Nước Úc New Zealand Tâm lý và mối quan hệ Biết bản thân Tâm lý học cá tính - Phát triển và đặc điểm của tính cách của một người Share on FacebookShare on Twitter Tâm lý của nhân cách là trung tâm của khoa học tâm lý, về vấn đề này đã viết một lượng lớn nghiên cứu. Hành vi của một người, suy nghĩ và ham muốn của anh xuất phát từ những đặc tính tâm linh anh sở hữu. Về cách thức cá nhân cụ thể phát triển, không chỉ tương lai của anh ấy còn phụ thuộc, mà còn là quan điểm của sự chuyển động của xã hội nói chung. Tâm lý của cá tính của người đó Khái niệm về tính cách trong tâm lý học đa dạng và đa dạng, được kết nối với chính hiện tượng cá tính. Các nhà tâm lý học của các hướng khác nhau đưa ra các định nghĩa khác nhau về khái niệm này, nhưng mỗi một trong số chúng chứa đựng một cái gì đó quan trọng. Phổ biến nhất là định nghĩa cá tính, như là một phức tạp không thể bắt chước của các đặc điểm tâm lý của nhân vật , khả năng, ham muốn và nguyện vọng làm cho một người độc đáo. Khi sinh, mỗi người là chủ sở hữu của một số khả năng và đặc điểm của hệ thống thần kinh, trên cơ sở đó nhân cách được hình thành. Trong trường hợp này, một đứa trẻ sơ sinh không được gọi là một người, mà là một cá nhân. Điều này có nghĩa là đứa trẻ thuộc về gia đình của mọi người. Sự bắt đầu của sự hình thành của nhân cách có liên quan với sự bắt đầu của sự xuất hiện của tính cách của trẻ. Đặc điểm của nhân cách trong tâm lý học Mọi người khác nhau trong cách họ giải quyết các vấn đề của cuộc sống, cách họ thể hiện bản thân trong các hoạt động của họ, và cách họ tương tác trong xã hội. Những khác biệt này có liên quan đến đặc điểm cá nhân. Các nhà tâm lý học nói rằng các tính chất cơ bản của nhân cách là những đặc điểm tinh thần ổn định ảnh hưởng đến hành vi của con người trong xã hội và các hoạt động của nó. Tính chất tinh thần của nhân cách Thuộc tính tâm linh bao gồm các quá trình tinh thần như vậy: Khả năng . Thuật ngữ này ngụ ý các tính năng, phẩm chất và kỹ năng cho phép bạn tìm hiểu hiệu suất của một hoạt động cụ thể và thực hiện hiệu quả nó. Chất lượng cuộc sống của một người phụ thuộc vào bao nhiêu họ nhận ra khả năng của mình và áp dụng chúng trong thực tế. Việc không sử dụng các khả năng dẫn đến sự suy giảm của họ và sự xuất hiện của một trạng thái chán nản và sự không hài lòng. Tính trực tiếp . Nhóm này bao gồm các động lực nhân cách như vậy: động cơ, mục tiêu, nhu cầu. Hiểu được mục tiêu và mong muốn của bạn sẽ giúp bạn xác định vectơ chuyển động. Cảm xúc . Bởi cảm xúc, chúng tôi có nghĩa là các quá trình tâm thần phản ánh thái độ của một người đến các tình huống hoặc với người khác. Hầu hết các cảm xúc phản ánh sự hài lòng - sự không hài lòng về nhu cầu và thành tích - thất bại trong việc đạt được mục tiêu. Một phần nhỏ của cảm xúc được kết nối với việc thu thập thông tin (cảm xúc trí tuệ) và tiếp xúc với các đối tượng nghệ thuật (cảm xúc thẩm mỹ). Tính chất tâm lý của nhân cách Ngoài những điều trên, các đặc tính tâm lý cá nhân của nhân cách cũng chứa các thành phần như vậy: Will . Willpower là khả năng kiểm soát ý thức hành động, cảm xúc, trạng thái và quản lý chúng. Một quyết định có ý nghĩa được thực hiện trên cơ sở phân tích các nhu cầu khác nhau, sau đó một số nhu cầu được đặt ở trên những người khác. Kết quả của sự lựa chọn này là sự hạn chế hoặc từ chối một số ham muốn và sự hoàn thành của những người khác. Trong quá trình thực hiện các hành động có ý định, một người không thể có được niềm vui cảm xúc. Đây là nơi đầu tiên bị chiếm đóng bởi sự hài lòng của kế hoạch đạo đức từ thực tế là nó đã có thể vượt qua những ham muốn và nhu cầu thấp hơn. Nhân vật . Nhân vật bao gồm một tập hợp các phẩm chất cá nhân, đặc điểm tương tác với xã hội và phản ứng với thế giới xung quanh. Người tốt hơn hiểu được những đặc điểm tiêu cực và tích cực của nhân vật của mình, anh ta có thể tương tác hiệu quả hơn với xã hội. Nhân vật không phải là hằng số và có thể được điều chỉnh trong suốt cuộc đời. Những thay đổi trong nhân vật có thể xảy ra cả dưới ảnh hưởng của những nỗ lực mạnh mẽ, và dưới áp lực của hoàn cảnh bên ngoài. Làm việc trên nhân vật của bạn được gọi là tự cải thiện. Tính khí . Bởi tính khí, chúng tôi có nghĩa là đặc điểm ổn định do cấu trúc của hệ thần kinh. Có bốn loại tính khí: choleric, sang trọng, đờm và u sầu . Mỗi loài có những đặc điểm tích cực của nó, mà nên được đưa vào tài khoản khi lựa chọn một nghề. Tính chất cảm xúc của nhân cách Tâm lý cảm xúc và cá tính được xem xét trong mối tương quan trực tiếp. Nhiều hành động có ý thức hoặc vô thức cam kết chính xác dưới ảnh hưởng của cảm xúc và cảm xúc. Cảm xúc được phân biệt bởi các đặc điểm như vậy: Sức mạnh của sự kích thích tình cảm - chỉ báo này cho bạn biết về sức mạnh của tác động cần thiết để người đó có phản ứng cảm xúc. Ổn định . Đặc điểm này cho biết phản ứng cảm xúc kéo dài bao lâu. Cường độ của cảm giác . Những cảm xúc và cảm xúc phát sinh có thể yếu, nhưng có thể nắm bắt một người như một toàn thể, thâm nhập vào tất cả các hoạt động của mình và can thiệp vào việc sống một cuộc sống bình thường. Trong trường hợp này, hãy nói về sự xuất hiện của niềm đam mê hoặc trạng thái tình cảm. Độ sâu . Đặc điểm này cho thấy tầm quan trọng của tính cách đối với cảm xúc của người đó và mức độ ảnh hưởng đến hành động và mong muốn của cô ấy. Đặc tính xã hội của nhân cách Tất cả những đặc điểm tính cách giúp cô liên lạc với xã hội xung quanh đều mang tính xã hội. Càng có nhiều người hướng đến giao tiếp, thì phẩm chất xã hội của cô càng phát triển và cô càng quan tâm đến xã hội. Con người của một người hướng nội có kỹ năng xã hội kém phát triển, không tìm kiếm sự giao tiếp, và có thể cư xử trong các mối liên hệ xã hội không hiệu quả. Các phẩm chất xã hội của một cá nhân bao gồm: xã hội; sự đồng cảm và đồng cảm; cởi mở để giao tiếp; sáng kiến, doanh nghiệp; kỹ năng lãnh đạo; khéo léo; khoan dung; xác tín tư tưởng; trách nhiệm. Phát triển nhân cách - tâm lý học Mỗi đứa trẻ được sinh ra với một bộ gen duy nhất và các tính năng của hệ thống thần kinh, đó là cơ sở cho sự phát triển của nhân cách. Ban đầu, nhân cách được hình thành dưới ảnh hưởng của gia đình cha mẹ và giáo dục, môi trường và xã hội. Ở trạng thái trưởng thành hơn, những thay đổi là do ảnh hưởng của những người sống cạnh nhau và môi trường. Sự phát triển như vậy sẽ bất tỉnh. Một ý thức tự phát triển, trong đó tất cả các thay đổi phát triển có ý thức và theo một hệ thống nhất định, có hiệu quả hơn và được gọi là tự phát triển. Tâm lý của phát triển nhân cách gọi những động lực như vậy của sự thay đổi của con người: môi trường (trường học của behaviorism); vô ý thức (trường phân tâm học); xu hướng bẩm sinh (tâm lý nhân văn); hoạt động (lý thuyết hoạt động); khủng hoảng cá nhân (lý thuyết của E. Erickson). Tự nhận thức về nhân cách trong tâm lý học Ý thức và tự nhận thức về nhân cách trong tâm lý học bắt đầu được nghiên cứu cách đây không lâu, nhưng có rất nhiều tài liệu khoa học về chủ đề này. Vấn đề tự nhận thức của cá nhân là một trong những điều cơ bản trong khoa học này. Không có ý thức, không thể hình dung được sự hình thành và tăng trưởng tâm lý của cá nhân, và của toàn xã hội nói chung. Tự ý thức giúp một người phân biệt bản thân với xã hội và hiểu anh ta là ai và theo hướng nào anh ta nên đi xa hơn. Dưới sự tự nhận thức của các nhà tâm lý học hiểu được sự hiểu biết về nhu cầu, cơ hội, khả năng và vị trí của con người trong thế giới và xã hội. Sự phát triển của sự tự nhận thức được thực hiện theo ba giai đoạn: Tình trạng sức khỏe. Ở giai đoạn này, có một nhận thức về cơ thể của bạn và sự tách biệt tâm lý của nó với các vật thể bên ngoài. Nhận thức về bản thân bạn như là một phần của một nhóm. Ý thức về một cá tính độc đáo độc đáo. Phẩm chất cá tính đã xài - tâm lý học Các đặc điểm tính cách mạnh mẽ nhằm mục đích thực hiện mong muốn và vượt qua những trở ngại phát sinh dọc theo con đường này. Những phẩm chất mạnh mẽ bao gồm: sáng kiến, kiên trì, quyết tâm, bền bỉ, kỷ luật, mục đích, tự chủ, năng lượng. Willpower không thuộc về bẩm sinh và được hình thành trong suốt cuộc đời. Để làm điều này, các hành động vô ý thức phải trở nên có ý thức, để chúng có thể được kiểm soát. Sẽ giúp một người cảm nhận được tính cá nhân của họ và cảm nhận được sức mạnh vượt qua những trở ngại của cuộc sống. Tự đánh giá nhân cách trong tâm lý học Lòng tự trọng và mức độ tuyên bố của nhân cách trong tâm lý học chiếm một trong những nơi hàng đầu. Lòng tự trọng đầy đủ cao và cùng một mức độ tuyên bố giúp một người thiết lập mối liên hệ hiệu quả trong xã hội và đạt được kết quả tích cực trong các hoạt động chuyên môn. Bằng lòng tự trọng được hiểu mức độ đánh giá của người đó về khả năng, khả năng, nhân vật và ngoại hình của người đó. Dưới mức độ tuyên bố hiểu mức độ mà một người muốn đạt được trong các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống. Tâm lý tự phát triển nhân cách Tự phát triển của một người giúp anh ta trở nên hiệu quả hơn, nhận ra mục tiêu và đạt được chúng. Mỗi thành viên của xã hội có sự hiểu biết riêng của mình về những gì một người lý tưởng nên được, vì vậy các chương trình tự phát triển của những người khác nhau có thể khác nhau rất nhiều từ mỗi khác. Tự phát triển có thể có một nhân vật có hệ thống, khi một người hành động theo kế hoạch được phát triển bởi anh ta, và hỗn loạn, khi tự phát triển xảy ra dưới áp lực của tình hình. Ngoài ra, sự thành công của tự phát triển phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển ý chí và mức độ tuyên bố. Tâm lý tự giác ngộ nhân cách Tự thực hiện liên quan đến việc đầu tư các lực lượng hiện có, năng lượng, tài năng trong một lĩnh vực quan trọng cho từng lĩnh vực. Một người đã không thành công trong việc nhận ra bản thân mình, có thể cảm thấy một sự trống vắng bên trong, kích thích, mệt mỏi mãn tính. Tự thực hiện bao gồm các thành phần như vậy: tự nhận thức của cá nhân trong xã hội; tự thực hiện trong sáng tạo hoặc thể thao; tự thực hiện trong lĩnh vực chuyên nghiệp. Related Articles Các giai đoạn phát triển của tập thể Tâm lý và mối quan hệ Nỗi bực bội Tâm lý và mối quan hệ Ma túy "muối" - thành phần và hậu quả của việc sử dụng một loại thuốc tổng hợp Tâm lý và mối quan hệ Tư duy logic hợp lý Tâm lý và mối quan hệ Bảng các mối quan hệ giữa các loại Tâm lý và mối quan hệ Rối loạn loạn xạ Tâm lý và mối quan hệ Làm thế nào để thoát khỏi một chàng trai? Tâm lý và mối quan hệ Tearfulness - Nguyên nhân Tâm lý và mối quan hệ Làm thế nào để thay đổi chữ viết tay? Tâm lý và mối quan hệ Panic Attack và Neurosis of the Heart Tâm lý và mối quan hệ Crossdresser - đó là ai - mẹo để bắt đầu quảng cáo chéo Tâm lý và mối quan hệ Ai là người hướng nội và hướng ngoại? Tâm lý và mối quan hệ Escapism - nó là gì và làm thế nào để thoát khỏi nó? Tâm lý và mối quan hệ Arachnophobia - nó là gì và làm thế nào để thoát khỏi chứng sợ nhện? Tâm lý và mối quan hệ Our users choice Kính bơi với diopters Vẻ đẹp và sức khỏe Coat Come Prima Thời trang Jasmine ướp với dầu ôliu Thức ăn Chụp cắt lớp cơ tim Vẻ đẹp và sức khỏe Có bao nhiêu calo trong bia? Thể dục Giày buồm Thời trang Useful and amazing Con gái của Beyoncé là một bản sao nhỏ của một ngôi sao lớn Thai sản Nguyên nhân cái chết của ca sĩ Prince Sao Sắc thái xanh lam Thời trang Làm thế nào để ghép zamiokulkas? Nhà Tủ quần áo góc ở hành lang Nhà Ta'Pin Châu Âu Pike nướng trong lò Thức ăn Top 25 hiện tượng tự nhiên đáng kinh ngạc nhất Du lịch Làm thế nào để tha thứ cho một người? Tâm lý và mối quan hệ Soi nội soi và mang thai Thai sản Lò vi sóng với lò nướng và đối lưu Nhà Biểu mô trong phết Vẻ đẹp và sức khỏe Chất nhầy trong phân của một người lớn Vẻ đẹp và sức khỏe Nappy-panties Haggis Thai sản Áo cưới với nơ Thời trang Chăn nuôi tổ tiên Nhà Tuần thứ 24 của thai kỳ - kích thước thai nhi Thai sản Back to top © 2021 vi.unistica.com
1610704847953.98.parquet/115512
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 11679, "url": "https://vi.unistica.com/tam-ly-hoc-ca-tinh-phat-trien-va-djac-djiem-cua-tinh-cach-cua-mot-nguoi/" }
123.5
Hệ thống tạo yêu cầu bộ phận trợ giúp | Phần mềm tạo yêu cầu hỗ trợ khách hàng ZOHO Desk Tính năng Biểu giá Hệ thống tạo yêu cầu đa kênh là gì? Vào một ngày lý tưởng, nhân viên của bạn chỉ làm việc và giải quyết một câu hỏi hoặc yêu cầu hỗ trợ mà họ nhận được từ khách hàng. Tuy nhiên, vào hầu hết các ngày, tình hình khá là hỗn loạn cho nhân viên khi nhận được nhiều yêu cầu từ nhiều khách hàng qua nhiều kênh khác nhau. Một phần mềm tạo yêu cầu hiệu quả cho bộ phận trợ giúp đảm bảo quá trình này diễn ra suôn sẻ, không gặp lỗi và giúp dễ dàng hơn cho mọi người liên quan đến dịch vụ khách hàng. Dùng thử miễn phí Giao tiếp đa kênh hợp nhất "Theo báo cáo của Forrester năm 2013, 42% nhân viên dịch vụ không thể giải quyết hiệu quả các sự cố của khách hàng do hệ thống bị ngắt kết nối, giao diện người dùng cũ và nhiều ứng dụng". Một hệ thống tạo yêu cầu đa kênh thu thập tất cả các yêu cầu hỗ trợ từ các kênh khác nhau và sắp xếp vào một tab. Tính năng này giúp nhân viên trả lời tất cả các yêu cầu từ cùng một tab. Các kênh này bao gồm: Email : Tất cả các email khách hàng được đưa vào một giao diện thuận tiện để bạn có thể dễ dàng trả lời. Đây là cách tốt nhất để xử lý email dịch vụ khách hàng, ngay cả khi bạn sử dụng một số địa chỉ email. Phương tiện truyền thông xã hội : Bạn có thể xem và quản lý giao tiếp của khách hàng của mình thông qua các phương tiện truyền thông xã hội như Facebook và Twitter. Bạn có thể trả lời tweet và bài đăng từ bộ phận trợ giúp và thậm chí là còn có thể đặt cảnh báo từ khóa. Tìm hiểu thêm. Chat trực tiếp : Bạn có thể chat với khách hàng để hiểu rõ hơn lo ngại của họ và hỗ trợ họ kịp thời hơn theo cách riêng. Phần mềm hệ thống tạo yêu cầu giúp bạn chuyển đổi cuộc trò chuyện thành yêu cầu nếu vấn đề cần chú ý chi tiết hơn. Điện thoại : Công cụ tạo yêu cầu hiệu quả cho phép bạn sử dụng điện thoại điện toán đám mây. Nhận và gọi điện thoại từ trong bộ phận trợ giúp. Ghi nhật ký, ghi lại, theo dõi các cuộc gọi này và chuyển đổi cuộc gọi thành yêu cầu hoặc liên kết cuộc gọi với các yêu cầu hiện có. Tìm hiểu thêm. Biểu mẫu web : Việc nhúng widget biểu mẫu web có thể tùy chỉnh trên trang web của bạn sẽ giúp khách hàng điền vào biểu mẫu với các chi tiết bạn cần và gửi câu hỏi dưới dạng yêu cầu. Thông tin khách hàng không bị phân tán “Trung bình, các nhân viên dành 11% thời gan cho tìm kiếm thông tin cần thiết để quản lý các tương tác với khách hàng”. (Nguồn: báo cáo của Aberdeen Group năm 2012) Yêu cầu khách hàng tự giới thiệu nhiều lần sẽ khiến họ khó chịu và lãng phí rất nhiều thời gian. Quy trình dịch vụ khách hàng sẽ trở nên dễ dàng hơn rất nhiều khi nhân viên có thể thấy yêu cầu trước đây của khách hàng đưa cho công ty từ bất kỳ kênh nào, cùng với yêu cầu mới nhất của họ. Được hỗ trợ với ngữ cảnh này, nhân viên có thể giải quyết các vấn đề của khách hàng tốt hơn và nhanh hơn. Tăng cường sự tự phục vụ Ngoài việc hợp lý hóa các cuộc trò chuyện của khách hàng, điều quan trọng là có thời gian cần thiết để xây dựng mối quan hệ với khách hàng. Nhưng khó có thể thực hiện được điều này khi có quá nhiều yêu cầu để giải quyết nhanh và một số yêu cầu có thể cần được chú ý nhiều hơn so với những yêu cầu khác. Giải pháp tốt nhất là gì? Hãy để khách hàng tự tìm câu trả lời. "Theo Forrester, 67% người tiêu dùng đã sử dụng kiến thức tự phục vụ web để tìm câu trả lời cho câu hỏi của họ." Với hệ thống tạo yêu cầu giải quyết sự cố thích hợp, bạn có thể tạo Trung tâm trợ giúp đa thương hiệu của riêng mình, hoàn chỉnh với Kho kiến thức, kho lưu trữ bài viết và các Câu hỏi thường gặp, qua đó khách hàng có thể chỉ cần tìm kiếm và tìm câu trả lời cho câu hỏi của họ. Bạn có thể tăng tương tác của khách hàng bằng cách thiết lập các cộng đồng và diễn đàn, qua đó họ có thể tương tác với nhau và thảo luận các câu hỏi phổ biến. Nếu khách hàng của bạn không hài lòng với bất kỳ bài viết nào trong Kho kiến thức, họ có thể liên hệ ngay với một nhân viên thông qua chat trực tiếp. Nhân viên có thể nhanh chóng nói chuyện và giải quyết vấn đề mà không cần khách hàng phải gửi biểu mẫu. Vận hành nhanh hơn Xử lý yêu cầu dễ dàng hơn khi nhân viên biết ai đang xử lý vấn đề gì. Với tính năng tự động hóa thông minh, dịch vụ khách hàng của bạn có thể hoạt động suôn sẻ. Bạn có thể thiết lập các quy tắc SLA và workflow khác nhau cho mỗi kênh và đảm bảo rằng khách hàng nhận được giải pháp kịp thời. Ngoài ra, bạn cũng có thể đặt quy tắc Phân công để đảm bảo rằng yêu cầu từ một kênh cụ thể được phân công cho nhân viên phù hợp. Tìm hiểu thêm. Thêm thông tin chi tiết và báo cáo Khi bạn có hệ thống tạo yêu cầu đa kênh từ bộ phận trợ giúp, bạn có thể đo lường mức độ cải thiện của dịch vụ khách hàng và mức độ hài lòng của khách hàng. Các chi tiết như kênh nào có lưu lượng yêu cầu cao nhất và thời gian giải quyết thông thường cho yêu cầu theo từng kênh sẽ giúp bạn tìm ra nút thắt và giải quyết nhanh yêu cầu. Một số công cụ tạo yêu cầu nhất định sẽ giúp bạn tạo báo cáo và bảng chỉ số khách hàng, sau đó lên lịch và xuất báo cáo và bảng chỉ số đó. Tìm hiểu thêm. Khả năng mở rộng Hệ thống quản lý yêu cầu cho phép bạn tích hợp với các ứng dụng hữu ích cho doanh nghiệp và tùy chỉnh theo nguyên tắc thương hiệu của bạn. Tính năng này giúp bạn làm quen với phần mềm nhanh hơn nhiều. Việc tích hợp CRM, phần mềm kho vận và lập hóa đơn với bộ phận trợ giúp cùng với API cũng sẽ giúp bạn quản lý nhiều ứng dụng từ một giao diện. Tìm hiểu thêm. Bạn nên mua hệ thống tạo yêu cầu nào? Khi nói đến phần mềm tạo yêu cầu, có rất nhiều tùy chọn để lựa chọn và hầu hết tất cả các tùy chọn này đều có thời gian dùng thử miễn phí, bao gồm Zoho Desk, một trong những giải pháp hệ thống tạo yêu cầu hàng đầu trong ngành, giúp bạn đặt dịch vụ khách hàng làm trọng tâm của doanh nghiệp. Bạn có thể đánh giá và so sánh Zoho Desk với những giải pháp đương thời, xem xét các gói giá và tự mình đưa ra quyết định. Mỗi thương hiệu đều có không gian riêng Dù công ty của bạn có bao nhiêu thương hiệu đi nữa thì bạn vẫn có thể tạo và duy trì các trung tâm trợ giúp riêng biệt như kho kiến thức, Câu hỏi thường gặp và cộng đồng cho mỗi thương hiệu. Khách hàng có thể trải nghiệm từng thương hiệu, trong khi bạn quản lý tất cả thương hiệu từ một vị trí trung tâm. Hệ thống tạo yêu cầu của bạn, theo cách của bạn Với khả năng tạo nhiều bộ phận theo nhu cầu của bạn, việc sao chép tổ chức vào Zoho Desk trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Bạn có thể tổ chức các nỗ lực dịch vụ khách hàng trong Zoho Desk theo cách bạn cần. Bạn quan tâm đến Zoho Desk? Dùng thử miễn phí Kiểm tra các gói giá
1610704847953.98.parquet/156111
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 5845, "url": "https://www.zoho.com/vi/desk/multi-channel-ticketing-system.html" }
123.1
voer – Tin tức mới Việt Nam và quốc tế nóng, nhanh, cập nhật 24h |Báo hải Dương Vui Skip to content T5. Th1 28th, 2021 Toggle Navigation Trang chủ Xã hội Giáo dục Pháp Luật Thế giới Toàn Cảnh Bình Luận Đọc Báo Nước Ngoài Giải trí Công sở Đẹp Hậu trường Kinh Tế Kinh Tế – Thế Giới Kinh Tế – Trong Nước Thể thao Thể thao quốc tế Thể thao trong nước Kinh Doanh Chứng Khoáng Bất động sản Doanh Nghiệp Văn Hóa Du Lịch Sổ Tay Du Lịch Công nghệ Điện thoại Điện Tử Gia Dụng Tin Tức Công Nghệ Mẹ và bé Tâm sự Hồ sơ Lý luận nhận thức Tự nhiên và xã hội Xã hội Lý luận nhận thức Th1 16, 2020 admin Bản chất của nhận thức Nhận thức là gì? Con người có thể nhận thức được thế giới hay không? Các quan điểm triết học khác nhau có những câu trả lời khác nhau đối với những vấn đề trên. Một số quan điểm ngoài Mác xít về nhận thức Quan điểm duy tâm Không thừa nhận thế giới vật chất tồn tại độc lập với ý thức, do đó không thừa nhận nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan. + Duy tâm chủ quan, tất cả mọi cái đang tồn tại đều là phức hợp những cảm giác của con người. Do đó, nhận thức, theo họ, chẳng qua là sự nhận thức cảm giác, biểu tượng của con người. + Duy tâm khách quan, mặc dù không phủ nhận khả năng nhận thức thế giới, song coi nhận thức cũng không phải là sự phản ánh hiện thực khách quan mà chỉ là sự tự nhận của ý niệm, tư tưởng tồn tại ở đâu đó ngoài con người. + Thuyết hoài nghi nghi ngờ tính xác nhận của tri thức, biến sự nghi ngờ thành một nguyên tắc nhận thức, thậm chí chuyển thành nghi ngờ sự tồn tại của bản thân thế giới bên ngoài. + Thuyết không thể biết lại phủ nhận khả năng nhận thức thế giới. Đối với họ, thế giới không thể biết được, lý trí của con người có tính chất hạn chế và ngoài giới hạn của cảm giác ra, con người không thể biết được gì nữa. Quan điểm của thuyết hoài nghi và thuyết không thể biết đã bị bác bỏ bởi thực tiễn và sự phát triển của nhận thức loài người. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình: Thừa nhận con người có khả năng nhận thức thế giới và coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người. Tuy nhiên, do hạn chế bởi tính siêu hình, máy móc và trực quan nên chủ nghĩa duy vật trước C.Mác đã không giải quyết được một cách thực sự khoa học những vấn đề của lý luận nhận thức. Nhìn chung chủ nghĩa duy vật trước C.Mác chưa thấy đầy đủ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về bản chất của nhận thức Nhận thức là gì ? Nhận thức là quá trình phản ánh tái tạo lại hiện thực trong tư duy con người trên cơ sở của thực tiễn – xã hội. Lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau đây: Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, ở ngoài con người, độc lập đối với cảm giác, tư duy và ý thức của con người – Hiện thực khách quan là đối tượng của nhận thức. Hai là, thừa nhận năng lực nhận thức thế giới của con người. Về nguyên tắc không có cái gì là không thể biết. Dứt khoát là không có và không thể có đối tượng nào mà con người không thể biết được, chỉ có những cái hiện nay con người chưa biết, nhưng trong tương lai với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, con người sẽ biết được. Với khẳng định trên đây, lý luận nhận thức macxít khẳng định sức mạnh của con người trong việc nhận thức và cải tạo thế giới. Ba là, là một quá trình biện chứng, tích cực, sáng tạo. Quá trình nhận thức diễn ra theo con đường từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng rồi từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Đó cũng là quá trình nhận thức đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn. Bốn là, cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức là thực tiễn. Thực tiễn còn là mục đích của nhân thức, là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý của nhận thức. Nhận thức là quá trình con người phản ánh một cách biện chứng, năng động sáng tạo thế giới khách quan trên cơ sở thực tiễn lịch sử – xã hội. Chủ thể và khách thể nhận thức Nhận thức là quá trình xảy ra do sự tương tác giữa chủ thể và khách thể nhận thức. Chủ thể nhận thức: Theo nghĩa rộng đó là xã hội, là loài người nói chung. Hay cụ thể hơn đó là những nhóm người như các giai cấp, dân tộc, tập thể, các nhà bác học.v.v.. Nhưng không phải con người bất kỳ nào cũng là chủ thể nhận thức, con người chỉ trở thành chủ thể nhận thức khi tham gia vào các hoạt động xã hội nhằm biến đổi và nhận thức khách thể. Do vậy, con người (cá nhân, nhóm người, giai cấp, dân tộc hoặc cả nhân loại) là chủ thể tích cực, sáng tạo của nhận thức. Khi nhận thức, các yếu tố của chủ thể như lợi ích, lý tưởng, tài năng, ý chí, phẩm chất đạo đức… đều tham gia vào quá trình nhận thức với những mức độ khác nhau và ảnh hưởng đến kết quả nhận thức. Còn khách thể nhận thức là một bộ phận nào đó của hiện thực mà nhận thức hướng tới nắm bắt, phản ánh, nó nằm trong phạm vi tác động của hoạt động nhận thức. Do vậy, khách thể nhận thức không đồng nhất hoàn toàn với hiện thực khách quan, phạm vi của khách thể nhận thức được mở rộng đến đâu là tuỳ theo sự phát triển của nhận thức, của khoa học. Trong hoạt động nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức quan hệ gắn bó với nhau, trong đó khách thể đóng vai trò quyết định chủ thể. Chính sự tác động của khách thể lên chủ thể đã tạo nên hình ảnh nhận thức về khách thể. Song chủ thể phản ánh khách thể như một quá trình sáng tạo, trong đó chủ thể ngày càng nắm bắt được bản chất, quy luật của khách thể. Cả chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức đều mang tính lịch sử – xã hội. Thực tiễn và nhận thức Phạm trù thực tiễn Phạm trù thức tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản không chỉ của lý luận nhận thức macxít mà còn của toàn bộ triết học Mác – Lênin nói chung. Các nhà duy vật trước C.Mác đã có công lớn trong việc phát triển thế giới quan duy vật và đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và thuyết không thể biết. Tuy nhiên, lý luận của họ còn nhiều hạn chế, thiếu sót, trong đó hạn chế lớn nhất là không thấy được vai trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức, do đó chủ nghĩa duy vật của họ mang tính chất trực quan. Mác đã chỉ rõ rằng, khuyết điểm chủ yếu, từ trước đến nay, của mọi chủ nghĩa duy vật (kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc) là không thấy được vai trò của thực tiễn. Có một số nhà triết học duy tâm, tuy đã thấy được mặt năng động, sáng tạo trong hoạt động của con người, nhưng cũng chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động tính thần, chứ không hiểu nó như là hoạt động hiện thực, hoạt động vật chất cảm tính của con người. Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu sót trong quan điểm về thực tiễn của các nhà triết học trước C.Mác, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đem lại một quan điểm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận, hai ông đã thực hiện một bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng. Lênin nhận xét: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”. Thực tiễn là gì? Thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Nếu con vật chỉ hoạt động theo bản năng nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngoài, thì con người, nhờ vào thực tiễn như là hoạt động có mục đích, có tính xã hội của mình mà cải tạo thế giới để thoả mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ động, tích cực với thế giới và để làm chủ thế giới. Con người không thể thoả mãn với những gì mà tự nhiên cung cấp cho mình dưới dạng có sẵn. Con người phải tiến hành lao động sản xuất ra của cải vật chất để nuôi sống mình. Để lao động và lao động có hiệu quả, con người phải chế tạo và sử dụng công cụ lao động. Bằng hoạt động thực tiễn, trước hết là lao động sản xuất, con người tạo nên những vật phẩm vốn không có sẵn trong tự nhiên. Không có hoạt động đó, con người và xã hội loài người không thể tồn tại và phát triển được. Vì vậy, có thể nói rằng thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới. Thực tiễn là cái xác định một cách thực tế sự liên hệ giữa sự vật với những điểu cần thiết đối với con người. Tuy trình độ và các hình thức hoạt động thực tiễn có thay đổi qua các giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội, nhưng thực tiễn luôn luôn là dạng hoạt động cơ bản và phổ biến của xã hội loài người. Hoạt động đó chỉ có thể được tiến hành trong các quan hệ xã hội. Thực tiễn cũng có quá trình vận động và phát triển của nó; trình độ phát triển của thực tiễn nói lên trình độ chinh phục giới tự nhiên và làm chủ xã hội của con người. Do đó, về mặt nội dung cũng như về phương thức thực hiện, thực tiễn có tính lịch sử – xã hội. Thực tiễn bao gồm nhiều yêu tố và nhiều dạng hoạt động. Bất kỳ quá trình hoạt động thực tiễn nào cũng gồm những yếu tố như nhu cầu, lợi ích, mục đích, phương tiện và kết quả. Các yếu tố đó có liên hệ với nhau, quy định lẫn nhau mà nếu thiếu chúng thì hoạt động thực tiễn không thể diễn ra được. Các loại hình cơ bản của thực tiễn: + Hoạt động sản xuất vật chất. Đây là dạng hoạt động thực tiễn nguyên thuỷ nhất và cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người và quyết định các dạng khác của hoạt động thực tiễn, nó tạo thành cơ sở của tất cả các hình thức khác của hoạt động sống của con người, giúp con người thoát khỏi giới hạn tồn tại của động vật. + Hoạt động chính trị – xã hội là loại hình thực tiễn nhằm biến đổi các quan hệ xã hội, chế độ xã hội. + Hoạt động thực nghiệm khoa học (bao gồm cả thực nghiệm khoa học tự nhiên và khoa học xã hội), đây là dạng hoạt động thực tiễn diễn ra trong những điều kiện ” nhân tạo” mà những kết quả của nó dù là thành công hay thất bại đều có ý nghĩa quan trọng vì nó rút ngắn được quá trình nhận thức nhằm làm cho hoạt động thực tiễn ngày càng hiệu quả. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức Thực tiễn là cơ sở, là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức. Ph. Ăngghen khẳng định: “… chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên”. Con người quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức ở con người được hình thành và phát triển. Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ những thuộc tính, những tính quy luật để cho con người nhận thức chúng. Ban đầu con người thu nhận những tài liệu cảm tính, sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá… để phản ánh bản chất, quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng trong thế giới, từ đó xây dựng thành các khoa học, lý luận. Như vậy, thực tiễn cung cấp những tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp đối vơi người này hay người kia, thế hệ này hay thế hệ khác, ở trình độ kinh nghiệm hay lý luận xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn. Trong quá trình hoạt động thực tiễn biến đổi thế giới, con người cũng biến đổi luôn cả bản thân mình, phát triển năng lực bản chất, năng lực trí tuệ của mình. Nhờ đó, con người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới, làm phong phú và sâu sắc tri thức của mình về thế giới. Thực tiễn còn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức. Nhu cầu thực tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, nó thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các ngành khoa học. Khoa học ra đời chính vì chúng cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người. Thực tiễn là mục đích của nhận thức. Nhận thức phải quay về phục vụ thực tiễn. Kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn. Ngày nay, công cuộc đổi mới xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ và phức tạp đòi hỏi lý luận phải đi sâu nghiên cứu để đáp ứng những yêu cầu đó. Chẳng hạn, đó là những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; về công nghiệp hoá, hiện đại hóa; về kinh tế thị trường; về đổi mới hệ thống chính trị, về thời đại ngày nay… Qua việc làm sáng tỏ những vấn đề do thực tiễn đặt ra trên đây, lý luận sẽ có được vai trò quan trọng, góp phần đắc lực vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý…”. Tất nhiên, nhận thức khoa học còn có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu chuẩn lôgíc. Nhưng tiêu chuẩn lôgíc không thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn, và xét đến cùng, nó cũng phụ thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn. Cần phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý một cách biện chứng; tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương đối. Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm chân lý, thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân lý. Nhưng tiêu chuẩn thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiễn không đứng nguyên một chỗ mà biến đổi và phát triển; thực tiễn là một quá trình và được thực hiện bởi con người không tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan. Tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép biến những tri thức của con người thành những chân lý tuyệt đích cuối cùng. Trong quá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức, những tri thức đạt được trước kia và hiện nay vẫn phải thường xuyên chịu kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo, tiếp tục được thực tiễn bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa và phát triển hoàn thiện hơn. Việc quán triệt tính biện chứng của tiêu chuẩn thực tiễn giúp chúng ta tránh khỏi những cực đoan sai lầm như chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ hoặc chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa tương đối. Sự phân tích trên đây về vai trò thực tiễn đối với nhận thức, đối với lý luận đòi hỏi chúng ta phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải “coi trọng tổng kết thực tiễn Việt Nam”. Nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, bệnh quan liêu. Biện chứng của quá trình nhận thức Nhận thức của con người là một quá trình trong đó có nhiều giai đoạn, trình độ, vòng khâu và hình thức khác nhau; chúng có nội dung cũng như vai trò khác nhau đối với việc nhận thức sự vật. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những giai đoạn khác nhau của cùng một quá trình nhận thức thống nhất. Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh động) Là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Nó được thể hiện dưới 3 hình thức là cảm giác, tri giác và biểu tượng. Cảm giác là hình thức đầu tiên của quá trình nhận thức và là nguồn gốc của mọi hiểu biết của con người. Cảm giác là sự phản ánh từng mặt, từng thuộc tính bên ngoài của sự vật vào các giác quan của con người. Sự vật hoặc hiện tượng trực tiếp tác động vào các giác quan con người thì gây nên cảm giác (chẳng hạn như cảm giác về màu sắc, mùi vị, âm thanh, nhiệt độ…). Cảm giác là kết quả của sự tác động vật chất của sự vật vào các giác quan con người, là sự chuyển hoá năng lượng kích thích bên ngoài thành yếu tố của ý thức. Cảm giác, theo Lênin, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tri giác là sự tổng hợp nhiều cảm giác; nó đem lại hình ảnh hoàn chỉnh hơn về sự vật. Tri giác nảy sinh trên cơ sở các cảm giác, là sự kết hợp của các cảm giác. So với cảm giác, tri giác là hình thức cao hơn của nhận thức cảm tính, nó đem lại cho chúng ta tri thức về sự vật đầy đủ hơn, phong phú hơn. Biểu tượng là hình ảnh của sự vật được giữ lại trong trí nhớ. Sự tiếp xúc trực tiếp nhiều lần với sự vật sẽ để lại trong chúng ta những ấn tượng, những hình ảnh về sự vật đó. Những ấn tượng, hình ảnh này đậm nét và sâu sắc đến mức có thể hiện lên trong ký ức của chúng ta ngay cả khi sự vật không ở trước mắt. Đó chính là những biểu tượng. Trong biểu tượng chỉ giữ lại những nét chủ yếu, nổi bật nhất của sự vật do cảm giác, tri giác đem lại trước đó. Biểu tượng thường hiện ra khi có những tác nhân tác động, kích thích đến trí nhớ con người. Hình thức cao nhất của biểu tượng là sự tưởng tượng; sự tưởng tượng đã mang tính chủ động, sáng tạo. Tưởng tượng có vai trò rất to lớn trong hoạt động sáng tạo khoa học và sáng tạo nghệ thuật. Biểu tượng tuy vẫn còn mang tính chất cụ thể, sinh động của nhận thức cảm tính, song đã bắt đầu mang tính chất khái quát và gián tiếp. Có thể xem biểu tượng như là hình thức trung gian quá độ cần thiết để chuyển từ nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính. Trên cơ sở những tài liệu do nhận thức cảm tính cung cấp, nhận thức sẽ phát triển lên một giai đoạn cao hơn, đó là nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính (hay còn gọi là tư duy trừu tượng) Là giai đoạn tiếp theo và cao hơn về chất của quá trình nhận thức, nó nảy sinh trên cơ sở nhận thức cảm tính. Nếu chỉ bằng cảm giác, tri giác thì nhận thức của con người sẽ rất hạn chế, bởi vì con người không thể bằng cảm giác mà hiểu được những cái như tốc độ ánh sáng, giá trị của hàng hoá, quan hệ giai cấp, hình thái kinh tế – xã hội, v.v.. Muốn hiểu được những cái đó phải nhờ đến sức mạnh của tư duy trừu tượng. Tư duy trừu tượng là sự phản ánh khái quát và gián tiếp hiện thực khách quan. Tư duy phải gắn liền với ngôn ngữ, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy. Tư duy có tính năng động sáng tạo, nó có thể phản ánh được những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, bên trong của sự vật, do đó phản ánh sự vật sâu sắc hơn và đầy đủ hơn. Muốn tư duy, con người phải sử dụng các phương pháp như so sánh, phân tích và tổng hợp, khái niệm hoá và trừu tượng hoá, v.v.. Nhận thức lý tính, hay tư duy trừu tượng, được thể hiện ở các hình thức như khái niệm, phán đoán và suy lý. Khái niệm là một hình thức của tư duy trừu tượng, phản ánh những mối liên hệ và thuộc tính bản chất, phổ biến của một tập hợp các sự vật, các hiện tượng nào đó, chẳng hạn, các khái niệm “cái nhà”, “con người”, “giai cấp”, v.v… Khái niệm đóng vai trò quan trọng trong tư duy khoa học. Khái niệm là những vật liệu tạo thành ý thức, tư tưởng. Khái niệm là những phương tiện để con người tích luỹ thông tin, suy nghĩ và trao đổi tri thức với nhau. Khái niệm có tính chất khách quan bởi chúng phản ánh những mối liên hệ, những thuộc tính khách quan của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Vì vậy, khi vận dụng khái niệm phải chú ý đến tính khách quan của nó. Nếu áp dụng khái niệm một cách chủ quan, tuỳ tiện sẽ rơi vào chiết trung và ngụy biện. V.I.Lênin chỉ rõ: “Những khái niệm của con người là chủ quan trong tính trừu tượng của chúng, trong sự tách rời của chúng, nhưng là khách quan trong chỉnh thể, trong quá trình, trong kết cuộc, trong khuynh hướng, trong nguồn gốc”. Nội hàm của khái niệm không phải là bất biến, bởi vì hiện thực khách quan luôn vận đông và phát triển cho nên khái niệm phản ánh hiện thực đó không thể bất biến mà cũng phải vận động, phát triển theo, liên hệ chuyển hoá lẫn nhau, mềm dẻo, linh hoạt, năng động. Vì vậy, cần phải chú ý đến tính biện chứng, sự mềm dẻo của các khái niệm khi vận dụng chúng. Phải mài sắc, gọt giũa các khái niệm đã có, thay thế khái niệm cũ bằng khái niệm mới để phản ánh hiện thực mới, phù hợp với thực tiễn mới. Phán đoán là hình thức của tư duy trừu tượng vận dụng các khái niệm để khẳng định hoặc phủ định một thuộc tính, một mối liên hệ nào đó của hiện thực khách quan. Phán đoán là hình thức liên hệ giữa các khái niệm, phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong ý thức của con người. Tuy nhiên, phán đoán không phải là tổng số giản đơn của những khái niệm tạo thành mà là quá trình biện chứng trong đó các khái niệm có sự liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau. Phán đoán được biểu hiện dưới hình thức ngôn ngữ là các mệnh đề theo những quy tắc văn phạm nhất định. Suy lý là một hình thức của tư duy trừu tượng trong đó xuất phát từ một hoặc nhiều phán đoán làm tiền đề để rút ra phán đoán mới làm kết luận. Nói cách khác, suy lý là quá trình đi đến một phán đoán mới từ những phán đoán tiền đề. Nếu như phán đoán là sự liên hệ giữa các khái niệm thì suy lý là sự liên hệ giữa các phán đoán. Suy lý là công cụ hùng mạnh của tư duy trừu tượng thể hiện quá trình vận động của tư duy đi từ những cái đã biết đến nhận thức những cái chưa biết một cách gián tiếp. Có thể nói, toàn bộ các khoa học được xây dựng trên hệ thống suy lý và nhờ có suy lý mà con người ngày càng nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn hiện thực khách quan. Tuy nhiên, để phản ánh đúng hiện thực khách quan, trong quá trình suy lý phải xuất phát từ những tiền đề đúng và phải tuân theo những quy tắc lôgíc. Do đó: nếu những tiền đề của chúng ta là đúng và nếu chúng ta vận dụng một cách chính xác những quy luật của tư duy đối với những tiền đề ấy thì kết quả phải phù hợp với hiện thực. Sự thống nhất biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có quan hệ với nhau như thế nào? Vai trò của từng giai đoạn nhận thức ra sao? * Trong lịch sử triết học, khi giải quyết những vấn đề đó thường có hai khuynh hướng cực đoan là chủ nghĩa duy cảm và chủ nghĩa duy lý. Những người theo chủ nghĩa duy cảm cường điệu vai trò của nhận thức cảm tính, của cảm giác, hạ thấp vai trò của nhận thức lý tính, của tư duy. Trái lại, những người theo chủ nghĩa duy lý khuyếch đại vai trò của nhận thức lý tính, lý trí; hạ thấp vai trò của nhận thức cảm tính, cảm giác; coi cảm tính là không đáng tin cậy. Tuy có những yếu tố hợp lý nhất định, song cả hai khuynh hướng trên đây đều phiến diện, đều không thấy được sự thống nhất biện chứng giữa hai giai đoạn của quá trình nhận thức. * Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng: + Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn khác nhau về chất, có đặc điểm và vai trò khác nhau trong việc nhận thức sự vật khách quan. Nhận thức cảm tính là sự phản ánh trực tiếp, cụ thể, sinh động sự vật, còn nhận thức lý tính là phản ánh gián tiếp, mang tính trừu tượng khái quát. Nhận thức cảm tính đem lại những hình ảnh bên ngoài, chưa sâu sắc về sự vật, còn nhận thức lý tính phản ánh được những mối liên hệ bên trong, bản chất, phổ biến, tất yếu của sự vật. Do đó, nhận thức lý tính phản ánh sự vật sâu sắc hơn và đầy đủ hơn. + Tuy nhiên, nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính lại thống nhất biện chứng với nhau, liên hệ, tác động lẫn nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, không tách rời nhau. Chúng đều cùng phản ánh thế giới vật chất, có cùng một cơ sở sinh lý duy nhất là hệ thần kinh của con người và đều cùng chịu sự chi phối của thực tiễn lịch sử – xã hội. Nhận thức cảm tính là cơ sở của nhận thức lý tính; không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính. Trái lại, nhận thức cảm tính mà không có nhận thức lý tính thì không thể nắm bắt được bản chất và quy luật của sự vật. Vì vậy cần phải phát triển nhận thức lý tính sẽ giúp cho nhận cảm tính trở nên chính xác hơn. Trên thực tế, chúng thường diễn ra đan xen vào nhau trong mỗi quá trình nhận thức. Một hình thức đặc biệt của hoạt động nhận thức là trực giác. Trực giác là năng lực nắm bắt trực tiếp chân lý không cần lập luận lôgíc trước. Khác với những người theo chủ nghĩa trực giác (như Bécxông, Lốtxki…) đã coi trực giác như khả năng nhận thức thần bí, siêu lý tính, không dung hợp với lôgíc và lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã giải thích một cách khoa học bản chất của trực giác. Trực giác có những tính chất như bỗng nhiên (bất ngờ), tính trực tiếp và tính không ý thức được. Tuy nhiên, tính bỗng nhiên, bất ngờ của trực giác không có nghĩa nó không dựa gì trên tri thức trước đó mà nó dựa trên những kinh nghiệm, những hiểu biết được tích luỹ từ trước. Trực giác là tri thức trực tiếp song có liên hệ với tri thức gián tiếp. Trực giác được môi giới bởi toàn bộ thực tiễn và nhận thức có trước của con người, bởi kinh nghiệm của quá khứ. Tính không ý thức được của trực giác không có nghĩa nó đối lập với ý thức, với những quy luật hoạt động của lôgíc. mà trực giác là kết quả của hoạt động trước đó của ý thức; có thể coi trực giác như một hành vi lôgíc (trực giác trí tuệ) mà ở đó nhiều khâu lập luận, nhiều tiền đề đã được giản lược. Trực giác là kết quả của sự dồn nén trí tuệ và tri thức dẫn đến sự “bùng nổ” bằng nhiều thao tác tư duy phát triển ở trình độ khác nhau. Trực giác là sản phẩm của tài năng và sự say mê, sự kiên trì lao động khoa học một cách nghiêm túc. Vì vậy, trong nhận thức khoa học, trực giác có vai trò hết sức to lớn, thể hiện tính sáng tạo cao. Trong lịch sử khoa học, nhiều phát minh khoa học đã ra đời bằng con đường nhận thức trực giác. Tóm lại, nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn của quá trình nhận thức thống nhất của con người. Từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính là sự chuyển hoá biện chứng, là bước nhảy vọt trong nhận thức. Đây là hai giai đoạn, hai yếu tố không thể tách rời nhau của một quá trình nhận thức thống nhất: từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính là sự chuyển hoá biện chứng, là sự nhảy vọt từ sự hiểu biết cụ thể cảm tính đến sự hiểu biết khái quát về bản chất của sự vật. Quán triệt sự thống nhất giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, trong việc khắc phục chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa giáo điều. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận Kinh nghiệm và lý luận là hai trình độ khác nhau của nhận thức, đồng thời lại thống nhất với nhau, bổ sung cho nhau, giả định lẫn nhau, thâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận không đồng nhất với nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, tuy chúng có quan hệ với nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính; bởi vì trong nhận thức kinh nghiệm đã bao hàm yếu tố lý tính. Do đó, có thể coi kinh nghiệm và lý luận là những bậc thang của lý tính, nhưng khác nhau về trình độ, tính chất phản ánh hiện thực, về chức năng cũng như về trật tự lịch sử. Nhận thức kinh nghiệm Chủ yếu thu nhận được từ quan sát và thí nghiệm, nó tạo thành tri thức kinh nghiệm. Trí thức kinh nghiệm nảy sinh một cách trực tiếp từ thực tiễn – từ lao động sản xuất, đấu tranh xã hội hoặc thí nghiệm khoa học. Có hai loại tri thức kinh nghiệm: 1. Tri thức kinh nghiệm thông thường (tiền khoa học) thu được từ những quan sát hàng ngày trong cuộc sống và lao động sản xuất. 2. Tri thức kinh nghiệm khoa học thu nhận được từ những thí nghiệm khoa học. Trong sự phát triển của xã hội, hai loại tri thức kinh nghiệm này ngày càng xâm nhập lẫn nhau. Tri thức kinh nghiệm giới hạn ở lĩnh vực các sự kiện, miêu tả, phân loại các dữ kiện thu nhận được từ quan sát và thí nghiệm. Tri thức kinh nghiệm đã mang tính trừu tượng và khái quát, song mới là bước đầu và còn hạn chế. Tri thức kinh nghiệm có vai trò không thiếu được trong cuộc sống hàng ngày của con người và nhất là trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội – một sự nghiệp rất mới mẻ và vô cùng khó khăn phức tạp. Ở đây, không thể tìm câu giải đáp cho mọi vấn đề của thực tiễn cách mạng đặt ra từ trong sách vở hay bằng suy diễn thuần tuý từ lý luận có sẵn. Chính kinh nghiệm của đông đảo quần chúng nhân dân trong xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ đem lại cho chúng ta những bài học quan trọng. Kinh nghiệm là cơ sở để chúng ta kiểm tra lý luận, sửa đổi, bổ sung lý luận đã có, tổng kết khái quát thành lý luận mới. Nhận thức lý luận (gọi tắt là lý luận): Là loại nhận thức gián tiếp, trừu tượng, khái quát về bản chất và quy luật của các sự vật hiện tượng khách quan. Nhận thức lý luận có chức năng gián tiếp vì nó được hình thành từ kinh nghiệm, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm. Nhận thức lý luận có tính trừu tượng và khái quát vì nó chỉ tập trung phản ánh cái bản chất mang tính quy luật của sự vật và hiện tượng. Do đó, lý luận thể hiện tính chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn, hệ thống hơn, nghĩa là có tính bản chất sâu sắc hơn và do đó, phạm vi ứng dụng của nó cũng phổ biến rộng hơn nhiều so với tri thức kinh nghiệm. Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận * Nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lý luận. Nó cung cấp cho nhận thức lý luận những tư liệu phong phú, cụ thể, nó là cơ sở hiện thực để kiểm tra, sửa chữa, bổ sung cho lý luận đã có và tổng kết, khái quát thành lý luận mới. Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm lại có hạn chế bởi nó chỉ mới đem lại sự hiểu biết về các mặt riêng rẽ, về các mối liên hệ bên ngoài của sự vật và còn rời rạc. Ở trình độ tri thức kinh nghiệm chưa thể nắm được cái tất yếu sâu sắc nhất, mối quan hệ bản chất giữa các sự vật, hiện tượng. Do đó, “sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu”. * Lý luận có vai trò rất lớn đối với thực tiễn, tác động trở lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người. Lý luận là “kim chỉ nam” cho hành động, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Lênin khẳng định: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”. Lý luận khi thâm nhập vào quần chúng thì biến thành sức mạnh vật chất. Lý luận có thể dự kiến được sự vận động của sự vật chất trong tương lai, chỉ ra những phương hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn. Lý luận khoa học làm cho hoạt động của con người trở nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng mò mẫm, tự phát. Vì vậy, Hồ Chí Minh ví “không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”. Tuy nhiên, cũng phải thấy, do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao trong sự phản ánh hiện thực nên lý luận có khả năng xa rời thực tiễn và trở thành ảo tưỏng. Khả năng ấy càng tăng lên nếu lý luận đó lại bị chi phối bởi những tư tưởng không khoa học hoặc phản động. Vì vậy, phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nhận thức khoa học và hoạt động cách mạng. “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác -Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”. Chính chủ nghĩa Mác – Lênin là tiêu biểu cho sự gắn bó mật thiết giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình hình thành và phát triển của nó. Lý luận Mác – Lênin là sự khái quát thực tiễn cách mạng và lịch sử xã hội, là sự đúc kết những tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận trên các lĩnh vực khác nhau. Sức mạnh của nó là ở chỗ nó gắn bó hữu cơ với thực tiễn xã hội, được kiểm nghiệm, được bổ sung và phát triển trong thực tiễn. Vì vậy, Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định phải “Kiên định và vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.”2. Việc quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa kinh nghiệm và lý luận có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong việc đấu tranh khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều. Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa là chỉ biết dựa vào kinh nghiệm, thoả mãn với vốn liếng kinh nghiệm của bản thân, coi kinh nghiệm là tất cả, tuyệt đối hoá kinh nghiệm mà coi nhẹ lý luận, ngại học tập lý luận, ít am hiểu lý luận, không chịu vươn lên để nắm lý luận, không quan tâm tổng kết kinh nghiệm để đề xuất lý luận. Hồ Chí Minh đã nói: “Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng một mắt mờ”3. Bệnh giáo điều: là tuyệt đối hoá lý luận, coi thường kinh nghiệm thực tiễn, coi lý luận là bất di bất dịch, nắm lý luận chỉ dừng lại ở những nguyên lý chung trừu tượng không xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử – cụ thể để vận dụng lý luận. Thực chất sai lầm của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều là vi phạm sự thống nhất giữa thực tiễn và lý luận, giữa kinh ngiệm và lý luận. Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học Khi căn cứ vào tính chất tự phát hay tính chất tự giác của sự xâm nhập vào bản chất của sự vật thì nhận thức lại có thể được phân chia thành nhận thức thông thường và nhận thức khoa học. Nhận thức thông thường (nhận thức tiền khoa học) Nhận thức thông thường được hình thành một cách tự phát và trực tiếp từ trong cuộc sống hàng ngày và trong lao động sản xuất. Do đó, nhận thức thông thường có trước nhận thức khoa học và tạo ra thành những chất liệu cho nhận thức khoa học. Nhận thức thông thường phản ánh môi trường xã hội và tự nhiên gần gũi với cuộc sống của con người, phản ánh quan hệ giữa người với người và giữa người với giới tự nhiên. Vì vậy, có thể nói nhận thức thông thường gần hơn với hiện thực trực tiếp của đời sống. Nó phản ánh đặc điểm của hoàn cảnh với tất cả những chi tiết cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật. Vì vậy, nhận thức thông thường mang tính phong phú, nhiều vẻ và gắn liền với những quan niệm sống thực tế hàng ngày. Vì thế nó có vai trò thường xuyên và phổ biến, chi phối hoạt động của mọi người trong đời sống xã hội. 8.3.3.2. Nhận thức khoa học Khác với nhận thức thông thường, nhận thức khoa học được hình thành một cách tự giác và mang tính trừu tượng, khái quát ngày càng cao. Nó thể hiện sức mạnh , tính năng động sáng tạo của tư duy trừu tượng. Nó phản ánh dưới dạng lôgíc trừu tượng những thuộc tính, kết cấu, những mối liên hệ bản chất, những quy luật của thế giới khách quan. Nhận thức khoa học hướng tới nắm bắt cái quy luật, cái bản chất của hiện thực; nó không dừng lại ở cái bề ngoài, cái ngẫu nhiên, cái đơn nhất. Nhận thức khoa học được thể hiện trong các phạm trù, quy luật của khoa học. Nhận thức khoa học vừa có tính khách quan, trừu tượng khái quát, lại vừa có tính hệ thống và tính có căn cứ và tính chân thực. Nó vận dụng một hệ thống các phương tiện và phương pháp nghiên cứu chuyên môn để diễn tả sâu sắc bản chất và quy luật của đối tượng nghiên cứu. Vì thế, nhận thức khoa học có vai trò ngày càng to lớn trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa học công nghệ hiện đại. Ngày nay đất nước ta đang chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc phát triển khoa học và công nghệ có ý nghĩa vô cùng quan trọng.Vì vậy, Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII khẳng định, phải “vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; phát triển và kết hợp chặt chẽ các nghành khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên và công nghệ… làm chỗ dựa khoa học cho vệc triển khai thực hiện Cương lĩnh, Hiến pháp, xác định phương hướng, bước đi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng pháp luật, các chính sách, kế hoạch và chương trình kinh tế – xã hội”. Vấn đề chân lý Vấn đề chân lý là một trong những vấn đề cơ bản của lý luận nhận thức. Từ thời cổ đại cho đến ngày nay, các nhà triết học đã đưa ra những quan niệm khác nhau về chân lý, về con đường đạt đến chân lý và tiêu chuẩn của chân lý. Khái niệm chân lý Chân lý là tri thức phù hợp với khách thể mà nó phản ánh và đã được thực tiễn kiểm nghiệm. Chân lý là sản phẩm của quá trình con người nhận thức thế giới. Vì vậy chân lý cũng được hình thành và phát triển từng bước phụ thuộc vào sự phát triển của sự vật khách quan, vào điều kiện lịch sử – cụ thể của nhận thức, vào hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người. V.I.Lênin nhận xét: “Sự phù hợp giữa tư tưởng và khách thể là một quá trình. Tư tưởng (=con người) không nên hình dung chân lý dưới dạng một sự đứng im chết cứng, một bức tranh (hình ảnh) đơn giản, nhợt nhạt (lờ mờ), không khuynh hướng, không vận động…”. Các tính chất của chân lý Tính khách quan của chân lý (hay chân lý khách quan), Tính khách quan của chân lý thể hiện ở chỗ nội dung phản ánh của chân lý là khách quan -tồn tại không lệ thuộc vào ý thức của con người. Luận điểm khoa học “quả đất quay xung quanh mặt trời” là chân lý khách quan, vì nội dung luận điểm trên phản ánh sự kiện có thực, khách quan, hoàn toàn không lệ thuộc vào chủ thể nhận thức, vào loài người.. Khẳng định chân lý có tính khách quan là một trong những đặc điểm nổi bật dùng để phân biệt quan niệm về chân lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng so với chủ nghĩa duy tâm và thuyết không thể biết. Đồng thời, đó cũng là sự thừa nhận nguyên tắc tồn tại khách quan của thế giới vật chất. Vì vậy, trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ hiện thực khách quan, hoạt động theo quy luật khách quan. Tính cụ thể của chân lý (hay chân lý là cụ thể) nghĩa là không có chân lý trừu tượng. Chân lý là cụ thể bởi vì đối tượng mà chân lý phản ánh bao giờ cũng tồn tại một cách cụ thể, trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể với những quan hệ cụ thể. Vì vậy, bất kỳ chân lý nào cũng phải gắn với điều kiện lịch sử – cụ thể. Nếu thoát ly khỏi điều kiện lịch sử – cụ thể thì cái vốn là chân lý, sẽ không còn là chân lý nữa. Nguyên lý tính cụ thể của chân lý có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong nhận thức và thức tiễn. Nguyên lý này đòi hỏi phải có quan điểm lịch sử – cụ thể khi xem xét, đánh giá sự vật, sự việc, con người. V.I.Lênin khẳng định: “Bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể mỗi tình huống cụ thể”. Quan điểm này đòi hỏi chúng ta phải chú ý điều kiện lịch sử – cụ thể trong nhận thức, phải xuất phát từ điều kiện cụ thể của từng quốc gia, từng dân tộc, từng địa phương khi vận dụng lý luận chung, sơ đồ chung, phải biết cụ thể hoá, cá biệt hoá vào cho cái riêng, tránh giáo điều, dập khuôn, máy móc. Việc vận dụng những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam đòi hỏi phải xuất phát từ điều kiện lịch sử – cụ thể của đất nước để vận dụng sáng tạo. Trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin có nghĩa là nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của nó và biết vận dụng đúng đắn, phù hợp với điều kiện nước ta. Cả chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa dân tộc cực đoan đều xa lạ với chủ nghĩa Mác – Lênin. Tính tuyệt đối và tính tương đối của chân lý. Chân lý tương đối là tri thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan nhưng chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện, cần phải được bổ sung, điều chỉnh trong quá trình phát triển tiếp theo của nhận thức. Điều đó có nghĩa là giữa nội dung của chân lý với khách thể được phản ánh chỉ mới phù hợp từng phần, từng bộ phận, ở một số mặt, một số khía cạnh nào đó trong những điều kiện nhất định.. Chân lý tuyệt đối là tri thức hoàn toàn đầy đủ, hoàn chỉnh về thế giới khách quan. Quan hệ giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối là quan hệ biện chứng giữa các trình độ nhận thức. Một mặt, tính tuyệt đối của chân lý là tổng số các tính tương đối. Mặt khác, trong mỗi tính tương đối bao giờ cũng chứa đựng những yếu tố của tính tuyệt đối V.I.Lênin viết: “Chân lý tuyệt đối được cấu thành từ tổng số những chân lý tương đối đang phát triển; chân lý tương đối là những phản ánh tương đối đúng của một khách thể tồn tại độc lập đối với nhân loại; những phản ánh ấy ngày càng trở nên chính xác hơn; mỗi chân lý khoa học, dù là có tính tương đối, vẫn chứa đựng một yếu tố của chân lý tuyệt đối”. Quan niệm đúng đắn về sự thống nhất biện chứng giữa chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối có ý nghĩa quan trọng trong việc phê phán và khắc phục những cực đoan sai lầm trong nhận thức và hành động. Nếu cường điệu chân lý tuyệt đối, hạ thấp chân lý tương đối sẽ rơi vào quan điểm siêu hình, chủ nghĩa giáo điều, bệnh bảo thủ trì trệ; ngược lại, nếu cường điệu chân lý tương đối, hạ thấp chân lý tuyệt đối sẽ rơi vào chủ nghĩa tương đối, và từ đó đi đến chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa xét lại, thuật nguỵ biện, thuyết hoài nghi và thuyết không thể biết. Như vậy, mỗi chân lý đều có tính khách quan, tính cụ thể, tính tương đối và tính tuyệt đối. Các tính chất đó của chân lý có quan hệ chặt chẽ với nhau không thể tách rời nhau, thiếu một trong các tính chất đó thì những tri thức đạt được trong quá trình nhận thức không thể có giá trị đối với đời sống của con người. Các phương pháp nhận thức khoa học Khái niệm phương pháp, phân loại phương pháp Thuật ngữ Phương pháp bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “methodos” có ý nghĩa là con đường, công cụ nhận thức. Theo nghĩa thông thường, phương pháp là những cách thức, thủ đoạn được chủ thể sử dụng để thực hiện mục đích nhất định. Còn theo nghĩa khoa học, phương pháp là hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ tri thức về các quy luật khách quan để điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu nhất định. Chủ nghĩa duy tâm coi phương pháp là những quy tắc do lý trí con người tự ý đặt ra để tiện cho nhận thức và hành động. Do đó, đối với họ phương pháp là một phạm trù thuần tuý chủ quan. Trái lại, chủ nghĩa duy vật biện chứng coi phương pháp có tính khách quan, mặc dù phương pháp là của con người sử dụng như những công cụ để thực hiện mục đích nhất định. Phương pháp gắn liền với hoạt động có ý thức của con người, không có phương pháp tồn tại sẵn trong hiện thực và ở ngoài con người. Nhưng như vậy không có nghĩa rằng phương pháp là một cái gì tuỳ ý, tuỳ tiện. Phương pháp là kết quả của việc con người nhận thức hiện thực khách quan và từ đó rút ra những nguyên tắc, những yêu cầu để định hướng cho mình trong nhận thức và những hành động thực tiễn tiếp theo. Những quy luật khách quan đã được nhận thức là cơ sở để con người định ra phương pháp đúng đắn. Sức mạnh của phương pháp là ở chỗ trong khi phản ánh đúng đắn những quy luật của thế giới khách quan, nó đem lại cho khoa học và thực tiễn một công cụ có hiệu quả để nghiên cứu thế giới và để cải tạo thế giới đó. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin rất coi trọng vai trò phương pháp, nhất là trong hoạt động cách mạng. Các ông nhấn mạnh rằng, vấn đề không phải chỉ là chân lý mà con đường đi đến chân lý là rất quan trọng, con đường đó (tức phương pháp) cũng phải có tính chân lý. Kinh nghiệm thực tiễn và lịch sử khoa học cho thấy rằng, sau khi đã xác định được mục tiêu thì phương pháp trở thành nhân tố góp phần quyết định thành công hay thất bại của việc thực hiện mục tiêu. Đối tượng nghiên cứu rất đa dạng nên các phương pháp nghiên cứu và cải biến hiện thực khách quan cũng hết sức phong phú. Tuỳ theo tiêu chí khác nhau mà phương pháp được chia ra thành nhiều loại khác nhau: phương pháp nhận thức và phương pháp hoạt động thực tiễn, phương pháp riêng, phương pháp chung và phương pháp phổ biến. Các phương pháp trên đây khác nhau về nội dung, về mức độ phổ biến và phạm vi ứng dụng, song lại có quan hệ biện chứng với nhau. Trong hệ thống các phương pháp khoa học mỗi phương pháp đều có vị trí nhất định, do đó không nên coi phương pháp là ngang bằng nhau hoặc thay thế nhau, không nên cường điệu phương pháp này và hạ thấp phương pháp kia mà phải biết sử dụng tổng hợp các phương pháp. Một số phương pháp nhận thức khoa học Có thể chia một cách tương đối các phương pháp nhận thức khoa học thành hai nhóm: nhóm các phương pháp nhận thức ở trình độ kinh nghiệm và nhóm các phương pháp xây dựng và phát triển lý thuyết khoa học. Các phương pháp thu nhận tri thức kinh nghiệm. Quan sát là sự tri giác các sự vật, hiện tượng được nghiên cứu nhằm một mục đích nhất định. Quan sát là phương pháp nghiên cứu để xác định các thuộc tính và quan hệ của sự vật, hiện tượng riêng lẻ của thế giới xung quanh xét trong điều kiện tự nhiên vốn có của nó. Bất kỳ quan sát nào cũng có một khách thể được quan sát và chủ thể tiến hành hoạt động quan sát. Sự tác động của khách thể lên các giác quan của chủ thể đem lại những thông tin về khách thể. Khác với quan sát thông thường, trong quan sát khoa học chủ thể có chủ định trước, có chương trình nghiêm ngặt để thu thập các sự kiện khoa học chính xác. Đồng thời, để hỗ trợ các giác quan của người quan sát, nâng cao độ chính xác và tính khách quan của kết quả thu nhận được, trong quan sát khoa học người ta thường sử dụng các công cụ, phương tiện kỹ thuật như máy chụp ảnh, kính hiển vi, kính thiên văn vô tuyến,v.v… Thí nghiệm là phương pháp nghiên cứu các sự vật, hiện tượng bằng cách sử dụng các phương tiện vật chất để can thiệp vào trạng thái tự nhiên của chúng nhằm tạo ra cho chúng những điều kiện nhân tạo, tách chúng thành các bộ phận và kết hợp chúng lại, sản sinh chúng dưới dạng “thuần khiết”. Nếu như trong quan sát, chủ thể không can thiệp vào trạng thái tự nhiên của khách thể, thì trong thí nghiệm chủ thể chủ động tác động lên khách thể, thay đổi những điều kiện tồn tại tự nhiên của khách thể, buộc khách thể phải bộc lộ bản tính của mình cho chủ thể nhận thức. Nhờ có thí nghiệm, người ta khám phá ra những thuộc tính của hiện tượng mà trong những điều kiện tự nhiên không thể khám phá được. Trong thí nghiệm, chủ thể vẫn tiến hành quan sát, nhưng ở mức độ cao hơn. Thí nghiệm bao giờ cũng được tổ chức thực hiện dưới sự chỉ đạo của một ý tưởng khoa học và trên cơ sở một lý thuyết khoa học nhất định – từ khâu lựa chọn thí nghiệm, lập kế hoạch, tiến hành thí nghiệm cho đến giải thích kết quả thí nghiệm. Thí nghiệm không chỉ nhằm thu thập các dữ kiện khoa học để tạo cơ sở cho sự khái quát lý luận mà còn nhằm bác bỏ hoặc chứng minh (kiểm chứng) một giả thuyết khoa học nào đó. Trong nhận thức khoa học, giả thuyết giữ vai trò quan trọng. Có thể nói giả thuyết là một hình thức phát triển của khoa học. Nhờ thí nghiệm người ta chính xác hoá, chỉnh lý các giả thuyết và lý thuyết khoa học. Ngày nay thí nghiệm đã được sử dụng rộng rãi trong khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và cả trong khoa học xã hội. Thí nghiệm như một dạng cơ bản của thực tiễn, giữ vai trò là cơ sở của nhận thức khoa học và là tiêu chuẩn để kiểm tra tính chân lý của nhận thức khoa học. Các phương pháp xây dựng và phát triển lý thuyết khoa học. Để xây dựng và phát triển lý thuyết khoa học, có rất nhiều phương pháp khác nhau. Dưới đây chỉ trình bày một số phương pháp phổ biến mà triết học nghiên cứu. Một là: Phân tích và tổng hợp Phân tích là phương pháp phân chia cái toàn bộ ra thành từng bộ phận để đi sâu nhận thức các bộ phận đó. Tổng hợp là phương pháp liên kết, thống nhất các bộ phận đã được phân tích lại nhằm nhận thức cái toàn bộ. Phân tích và tổng hợp có cơ sở khách quan trong cấu tạo và trong tính quy luật của bản thân sự vật cũng như trong hoạt động thực tiễn của con người. Trong hiện thực khách quan tồn tại cái toàn bộ và cái bộ phận, yếu tố và hệ thống, phân tán và kết hợp. Trong hoạt động thực tiễn của con người cũng có hai quá trình: quá trình chia tách các đối tượng và quá trình hợp nhất các đối tượng đã tách ra thành một thể thống nhất mới. Những quá trình đó được di chuyển vào tư duy thành thao tác tư duy, phương pháp tư duy. Các phương pháp phân tích và tổng hợp của tư duy chỉ là sự phản ánh những quá trình hoạt động thực tiễn của con người – quá trình phân chia các yếu tố ra và quá trình hợp nhất các yếu tố lại để nhận thức cái chỉnh thể. Tách ra trong ý thức những mặt này, mặt kia của chỉnh thể cần nghiên cứu và hợp nhất chúng lại nhằm thu được tri thức mới là một khâu cơ bản để chiếm lĩnh bằng lý luận các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp nhận thức khác nhau song lại thống nhất biện chứng với nhau. Sự thống nhất của phân tích và tổng hợp là một yếu tố quan trọng của phương pháp biện chứng. Do đó, không nên tách rời phân tích và tổng hợp hoặc cường điệu phương pháp này, coi nhẹ phương pháp kia và ngược lại. Ph. Ăngghen viết: “Tư duy bao hàm ở chỗ đem những đối tượng của nhận thức ra phân thành các yếu tố cũng như đem những yếu tố có quan hệ với nhau hợp thành một thể thống nhất nào đó. Không có phân tích thì không có tổng hợp”. Triết học Mácxít xem sự thống nhất hữu cơ của hai phương pháp trên đây là điều kiện tất yếu của sự trừu tượng hoá và khái quát hoá, cụ thể: + Không phân tích thì không hiểu được các bộ phận, và ngược lại, không tổng hợp thì không hiểu được cái toàn bộ như một chỉnh thể. + Không hiểu được cái bộ phận nếu không hiểu cái toàn bộ được cấu thành từ những bộ phận đó và ngược lại. Vì vậy, chỉ có phân tích hoặc chỉ có tổng hợp thì không đủ; phân tích phải đi liền với tổng hợp và được bổ sung bằng tổng hợp. Phân tích chuẩn bị cho tổng hợp, tổng hợp giúp cho phân tích đi sâu hơn vào bản chất của sự vật. Phân tích và tổng hợp giả định lẫn nhau, tạo tiền đề và khả năng cho nhau. Nhờ đó con người mới nhận thức được bản chất, quy luật của sự vật. Tuy nhiên, sự thống nhất biện chứng của hai phương pháp phân tích và tổng hợp không xóa nhoà ranh giới giữa chúng, cũng như không ngăn cản người nghiên cứu có thể nhấn mạnh ưu thế của phương pháp này hay phương pháp kia trong mỗi trường hợp nghiên cứu cụ thể. Hai là: Quy nạp và diễn dịch Quy nạp là phương pháp đi từ tri thức về cái riêng đến tri thức về cái chung, từ tri thức ít chung đến tri thức chung hơn. Diễn dịch là phương pháp đi từ tri thức về cái chung đến trì thức về cái riêng, từ tri thức chung đến tri thức ít chung hơn. Quy nạp và diễn dịch đều dẫn tới tri thức mới, từ cái biết rồi để tìm ra cái chưa biết, tức là khám phá ra tri thức mới. Quy nạp là quá trình rút ra nguyên lý chung từ sự quan sát một loạt những sự vật riêng lẻ. Điều kiện khách quan của quy nạp là tính lặp lại của một loại hiện tuợng nào đó. Phương pháp quy nạp giúp cho việc khái quát kinh nghiệm thực tiễn về những cái riêng để có được tri thức kết luận chung. Quy nạp đóng vai trò lớn lao trong việc khám phá ra quy luật, đề ra các giả thuyết. Tuy nhiên, quy nạp cũng có những hạn chế của nó, nhất là đối với loại quy nạp phổ thông theo lối liệt kê giản đơn như: thuộc tính chung được rút ra bằng quy nạp từ một số hiện tượng lại có thể không liên quan đến bản chất của hiện tượng và do các điều kiện bên ngoài quy định; quy nạp chưa thể xác định được thuộc tính đó là tất nhiên hay ngẫu nhiên. Để khắc phục hạn chế của quy nạp cần phải có diễn dịch và bổ sung bằng diễn dịch. Diễn dịch là quá trình vận dụng nguyên lý chung để xem xét cái riêng, rút ra kết luận riêng từ nguyên lý chung đã biết. Tuy nhiên, muốn rút ra kết luận đúng bằng con đường diễn dịch thì tiền đề phải đúng và phải tuân theo các quy tắc lôgíc, phải có quan điểm lịch sử – cụ thể khi vận dụng cái chung vào cái riêng. Nếu quy nạp là phương pháp dùng để khái quát các sự kiện và tài liệu kinh nghiệm thì diễn dịch là phương pháp thức xây dựng lý thuyết mở rộng. Phương pháp diễn dịch có ý nghĩa quan trọng đối với các khoa học lý thuyết, chẳng hạn như toán học. Ngày nay trên cơ sở diễn dịch, người ta xây dựng trong khoa học các phương pháp tiên đề, phương pháp giả thuyết – diễn dịch. Mặc dù quy nạp và diễn dịch là hai phương pháp nhận thức có chiều hướng đối lập nhau, nhưng có liên hệ hữu cơ với nhau, làm tiền đề cho nhau, cái này đòi hỏi cái kia và bổ sung cho cái kia. Do đó, không nên tách rời quy nạp với diễn dịch, cường điệu phương pháp này mà hạ thấp phương pháp kia và ngược lại. Do đó, “quy nạp và diễn dịch phải đi đôi với nhau một cách tất nhiên như tổng hợp và phân tích. Không được đề cao cái này lên tận mây xanh và hy sinh cái kia, mà phải tìm cách sử dụng mỗi cái cho đúng chỗ và chỉ có thể làm như vậy nếu người ta không quên rằng chúng liên hệ với nhau và bổ sung lẫn nhau”. Nhờ khái quát các tài liệu kinh nghiệm đã được tích luỹ, quy nạp chuẩn bị căn cứ để dự kiến về nguyên nhân các hiện tượng nghiên cứu, về sự tồn tại một mối liên hệ tất yếu nhất định. Còn diễn dịch thì luận chứng về mặt lý thuyết cho những kết luận thu được bằng con đường quy nạp, loại trừ tính không chắc chắn của các kết luận ấy và biến chúng thành tri thức đáng tin cậy. Quy nạp giúp ta hiểu được cái chung, còn diễn dịch giúp ta đi từ cái chung để hiểu cái riêng. Quá trình nhận thức là quá trình đi từ cái riêng đến cái chung và từ cái chung đến cái riêng. Vì vậy phải vận dụng tổng hợp cả hai phương pháp quy nạp và diễn dịch trong nhận thức và nghiên cứu khoa học. Ba là: phương pháp Lịch sử và lôgíc * Định nghĩa: Phương pháp lịch sử là phương pháp nghiên cứu sự vật trong quá trình hình thành và phát triển theo trật tự thời gian của các sự kiện để rút ra được cái bản chất và quy luật phát triển của sự vật. Khi nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội loài người trải qua nhiều giai đoạn phát triển từ thấp đến cao. Các Mác đã phát hiện ra quy luật vận động khách quan của xã hội và C. Mác đã đi đến kết luận: “tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử, tự nhiên” Đặc điểm của phương pháp lịch sử là nghiên cứu sự vật hiện tượng trong sự vận động và biến đổi của nó theo một trật tự thời gian với những biểu hiện cụ thể, nhiều hình nhiều vẻ, trong đó không chỉ có cái bản chất, cái tất nhiên mà còn có cái không bản chất, cái ngẫu nhiên, cả những bước quanh co của sự phát triển. Ý thức, tư tưởng cũng có lịch sử của mình với tính cách là lịch sử của quá trình phản ánh, nhận thức cũng là một quá trình. Phương pháp lô gích là phương pháp dùng trừu tượng khoa học nghiên cứu sự vật ở giai đoạn phát triển cao nhất của nó nhằm phát hiện ra bản chất của sự vật và quy luật phát triển của nó. Khi nghiên cứu bản chất của chủ nghĩa tư bản, C. Mác đã đi từ phạm trù hàng hoá. Ông giải phẫu nó, tìm ra tính hai mặt của nó là giá trị và giá trị sử dụng, lao động cụ thể và lao động trừu tượng, từ đó ông truy tìm bản chất của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị thặng dư được thực hiện trong nền sản xuất hàng hoá – thị trường. Phạm trù lôgíc có hai nghĩa: Thứ nhất, nó chỉ tính tất nhiên, tính quy luật của sự vật, đó là “lôgíc khách quan” của sự vật; Thứ hai, nó chỉ mối liên hệ tất yếu nhất định giữa các tư tưởng phản ánh thế giới khách quan vào ý thức con người. Đó là lôgíc của tư duy, của lý luận. Với nghĩa này, phương pháp lôgíc là sự tái tạo dưới dạng hình ảnh tinh thần khách thể đang vận động và phát triển với những mối liên hệ tất yếu nhất định. Lôgíc còn nói lên trật tự giữa các bộ phận của tư tưởng (các khái niệm, phạm trù, lý thuyết…). * Sự thống nhất giữa lô gích và lịch sử: Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng đây là sự thống nhất biện chứng cụ thể: + Thống nhất về mục đích: cả hai phương pháp đều nhằm phát hiện ra cái bản chất của đối tượng. + Phương pháp lịch sử đi theo cái lịch sử của đối tượng để tìm ra cái lô gích tất nhiên, còn phương pháp lô gích là “uốn nắn” cái lịch sử để tìm ra cái quy luật của lịch sử, cái lô gích tất nhiên. + Phương pháp lịch sử bổ sung cho phương pháp lô gích tính phong phú của đối tượng. Còn phương pháp lôgíc bổ sung cho phương pháp lịch sử tính sâu sắc của đối tượng. Tóm lại: lịch sử là tính thứ nhất, còn lôgíc của tư duy là tính thứ hai, lôgíc là phản ánh của lịch sử, lôgíc phải phục tùng lịch sử chứ không phải ngược lại. Do đó, lôgíc phải gắn bó hữu cơ lịch sử, phải phù hợp với lịch sử. Trong xã hội, lịch sử đồng nghĩa với phức tạp, lịch sử là bản thân cuộc sống, cho nên ta phải tìm bên trong cái bề bộn của bản thân cuộc sống cái xu hướng, cái tất yếu, cái lô gích, cái quy luật của nó. Thống nhất giữa lôgíc và lịch sử là một nguyên tắc phương pháp luận quan trọng của nhận thức khoa học và của việc xây dựng các lý thuyết khoa học. Sức mạnh của lôgíc tư duy là phát hiện ra bản chất của lịch sử, vạch ra quy luật phát triển của lịch sử, tước bỏ những cái gì là bề ngoài, ngẫu nhiên, không bản chất của lịch sử, tái hiện “lôgíc khách quan” của lịch sử trong lôgíc vận động của các khái niệm. * Ý nghĩa của phương pháp lịch sử và phương pháp lô gích trong nghiên cứu khoa học: Trong nghiên cứu khoa học cần phải áp dụng cả phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc. Cụ thể: Phương pháp lịch sử đòi hỏi phải phản ánh trong tư duy quá trình lịch sử – cụ thể của sự vật với những chi tiết của nó, phải nắm lấy sự vận động lịch sử trong toàn bộ tính phong phú của nó, phải bám sát lấy sự vật trong “máu thịt” của nó, phải theo dõi mọi bước đi của lịch sử theo trình tự thời gian. Do đó, phương pháp lịch sử có giá trị to lớn và quan trọng trong các khoa học lịch sử như lịch sử xã hội, lịch sử dân tộc. lịch sử đảng, lịch sử kinh tế, lịch sử văn hoá,.v.v.., không có phương pháp lịch sử sẽ không có khoa học lịch sử. Phương pháp lôgic vạch ra bản chất, tính tất nhiên, tính quy luật của sự vật dưới hình thức lý luận trừu tượng và khái quát. Phương pháp lôgic có nhiệm vụ dựng lại cái lôgic khách quan trong sự phát triển sự vật. Quá trình tư duy theo phương pháp lôgic phải bắt đầu từ khởi điểm của lịch sử và phải tập trung nghiên cứu sự vật dưới hình thức phát triển tương đối hoàn thịên và chín muồi nhất của nó. Kết luận: phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic là hai phương pháp nghiên cứu khác nhau, nhưng lại thống nhất biện chứng với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau. Bởi vì, muốn hiểu biết bản chất và quy luật của sự vật thì phải hiểu lịch sử phát sinh, phát triển của nó; đồng thời có nắm được bản chất và quy luật của sự vật thì mới nhận thức được lịch sử của nó một cách đúng đắn và sâu sắc. Phương pháp lịch sử cũng phải nắm lấy cái lôgic, phải rút ra sợi dây lôgic chủ yếu của lịch sử thông qua việc phân tích những sự kịên và hiện tượng cụ thể. Còn phương pháp lôgic phải dựa trên các tài liệu lịch sử để khái quát và chứng minh, và rốt cuộc phải đem lại lịch sử trong tính bản chất của nó. Tuỳ theo đối tượng nghiên cứu và yêu cầu cụ thể khác nhau mà người nghiên cứu có thể sử dụng phương pháp lịch sử hay phương pháp lôgic là chủ yếu, song dù các trường hợp nào cũng đều phải quán triệt nguyên tắc thống nhất lôgic và lịch sử. Lịch sử mà thiếu lôgic là mù quáng, còn lôgic mà thiếu lịch sử thì không có đối tượng, dễ rơi vào chủ quan, tư biện. Bốn là: Phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể * Các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan bao giờ cũng tồn tại dưới dạng cái cụ thể. Cái cụ thể khách quan được phản ánh vào nhận thức dưới hai hình thức: Cái cụ thể cảm tính là điểm bắt đầu của nhận thức, là “biểu tượng hỗn độn về cái toàn bộ” (Các Mác). Cái cụ thể trong tư duy là kết quả của tư duy lý luận, của sự nghiên cứu khoa học phản ánh cái cụ thể khách quan bằng hệ thống những khái nịêm, phạm trù, quy luật. Cái cụ thể trong tư duy là một tổng thể phong phú với rất nhiều tính quy định và quan hệ nó là cái phong phú và sâu sắc. * Cái trừu tượng là một trong những yếu tố vòng khâu của quá trình nhận thức. Cái trừu tượng là kết quả sự trừu tượng hoá một mặt, một mối liên hệ nào đó trong tổng thể phong phú của sự vật. Vì vậy, cái trừu tượng là một bộ phận của cái cụ thể, biểu hiện một mặt nào đó của cái cụ thể, là bậc thang của sự xem xét cái cụ thể. Ranh giới giữa cái trừu tượng và cái cụ thể cũng chỉ là tương đối, tuỳ thuộc vào mối quan hệ xác định. * Nhận thức là sự thống nhất của hai quá trình đối lập: từ cụ thể đến trừu tượng và từ trừu tượng đến cụ thể. + Theo quá trình thứ nhất là quá trình đi từ cái cụ thể đến cái trừu tượng: nhận thức xuất phát từ những tài liệu cảm tính, qua phân tích rút ra những khái niệm đơn giản, những định nghĩa trừu tượng, phản ánh từng mặt, từng thuộc tính của sự vật. Quá trình này tạo tiền đề cho quá trình thứ hai – quá trình từ trừu tượng đến cụ thể. + Quá trình thứ hai đi từ trừu tượng đến cụ thể: nhận thức phải từ những định nghĩa trừu tượng thông qua tổng hợp biện chứng đi đến cái cụ thể với tư cách là kết quả của tư duy chứ không phải với tư cách là điểm xuất phát trong hiện thực. Trong quá trình này, những sự quy định trừu tượng lại dẫn tới sự mô tả lại cái cụ thể bằng con đường của tư duy. Các Mác coi đi từ trừu tượng đến cụ thể là phương pháp nhận thức khoa học quan trọng. Nói cách khác thì “Phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể chỉ là cái phương pháp nhờ đó mà tư duy quán triệt được cái cụ thể và tái tạo ra nó với tư cách là một cái cụ thể trong tư duy”. Phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể có vai trò đặc biệt trong xây dựng lý thuyết khoa học, nó cho phép thâm nhập vào bản chất của đối tượng nghiên cứu, hình dung được tất cả các mặt và quan hệ tất yếu của đối tượng trong mối liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau của chúng. Theo phương pháp này, việc nghiên cứu phải bắt đầu từ cái trừu tượng, từ các khái niệm phản ánh những mối liên hệ phổ biến, đơn giản của khách thể nhận thức. Tuy nhiên không phải lấy bất kỳ cái trừu tượng nào làm khâu xuất phát, mà cái trừu tượng xuất phát phải là cái phản ánh những mối liên hệ phổ biến nhất, đơn giản nhất nhưng có vai trò quyết định trong cái cụ thể cần nghiên cứu. Từ cái trừu tượng xuất phát đó, tư duy theo dõi những vòng khâu, những trạng thái quá độ trong sự phát triển của sự vật được thể hiện bằng các khái niệm ngày càng cụ thể hơn. Bằng cách đó, tư duy tái hiện quá trình hình thành và phát triển của khách thể nghiên cứu với toàn bộ các mặt và các quan hệ tất yếu, bản chất, những quy luật vận động, phát triển của nó. Trong bộ tư bản, Mác đã đưa ra một kiểu mẫu về việc sử dụng phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể để nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa: C.Mác đã bắt đầu từ sự phân tích phạm trù “hàng hóa”, một phạm trù cơ bản và giản đơn nhất của quá trình sản xuất tư bản như là cái trừu tượng xuất phát, cái “tế bào kinh tế” của xã hội tư bản. Từ đó, Mác tiến đến phân tích các phạm trù cụ thể hơn như tiền tệ, tư bản, giá trị thặng dư, lợi nhuận, lợi tức, địa tô, ..Từ sự phân tích các phạm trù cơ bản cùng với các quá trình tổng hợp, ông đã tái hiện xã hội tư bản chủ nghĩa như một chỉnh thể cụ thể trong sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng trên cơ sở vạch ra quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Ngoài những phương pháp đã trình bày trên đây, trong nhận thức khoa học còn nhiều phương pháp cụ thể khác. Kết luận Lí luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã trả lời đầy đủ mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học với câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức thế giới khách quan và quy luật của nó hay không ? Việc đưa phạm trù thực tiễn vào lí luận nhận thức đã là cơ sở khoa học để làm sáng tỏ những vấn đề về bản chất của nhận thức. Đây là một bước phát triển của nhận thức luận trong triết học. Với sự phân tích sâu sắc về biện chứng của quá trình nhận thức, lí luận nhận thức đã làm sáng tỏ cơ sở lí luận của nguyên lí sự thống nhất giữa lí luận và thực tiễn, và nguyên lý này được coi là cơ sở phương pháp luận cho việc nhận thức để hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới. Tự nhiên và xã hội Xã hội Sự ra đời và phát triển của triết học Mác-Lênin Th1 16, 2020 admin hững điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác Điều kiện kinh tế – xã hội * Nền đại công nghiệp cơ khí ra đời và phát triển nhờ cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19: + Nước Anh đã trở thành cường quốc tư bản chủ nghĩa lớn nhất với lực lượng công nghiệp hùng mạnh. Cuộc cách mạng công nghiệp ở Pháp đang được hoàn thành. + Ở Đức và một số nước Tây Âu khác, cuộc cách mạng công nghiệp cũng làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa lớn lên nhanh chóng trong lòng xã hội phong kiến. Nhờ vậy, tính hơn hẳn của chế độ tư bản chủ nghĩa so với chế độ phong kiến được thể hiện một cách rõ rệt. “Giải cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”1. * Cùng với nền đại công nghiệp cơ khí là CNTB được xác lập và giữ địa vị thống trị; giai cấp công nhân công nghiệp ra đời. Đây là giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất mới có bản chất cách mạng triệt để nhất. * Mặt khác, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho những mâu thuẫn xã hội vốn có của nó bộc lộ ngày càng gay gắt. Nhiều cuộc đấu tranh của công nhân đã mang ý nghĩa là: + Cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở Lyông (Pháp) năm 1831 -1834 + Ở Anh có phong trào Hiến chương vào cuối những năm 1930 là “phong trào cách mạng vô sản to lớn đầu tiên thật sự có tính chất quần chúng và có hình thức chính trị”2. + Cuộc khởi nghĩa tự phát của thợ dệt Xilêdi năm 1844 đến sự xuất hiện “Đồng minh những người chính nghĩa” – một tổ chức vô sản cách mạng. * Trong điều kiện lịch sử xã hội đó, giai cấp vô sản không còn đóng vai trò là giai cấp cách mạng, vì vậy giai cấp vô sản xuất hiện trên vũ đài lịch sử không chỉ là “ kẻ phá hoại” chủ nghĩa Tư bản mà còn là lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ. Thực tiễn xã hội, đặc biệt là thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản nảy sinh yêu cầu khách quan là phải được soi sáng bằng lý luận khoa học. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác là sự giải đáp về mặt lý luận những vấn đề thời đại đặt ra trên lập trường của giai cấp vô sản cách mạng. Nguồn gốc lý luận và những tiền đề khoa học tự nhiên của triết học Mác Nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác nói chung, của triết học Mác nói riêng. Một là: triết học cổ điển Đức, đặc biệt với hai nhà triết học tiêu biểu là Hêghen và Phiơbắc, là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác. * C.Mác và Ph. Ăngghen đánh giá cao tư tưởng biện chứng của triết học Hênghen. C. Mác cho rằng tính chất thần bí mà biện chứng đã mắc phải ở triết học Hênghen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức hình thái vận động chung của phép biện chứng ấy. Ở Hêghen, phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất; chỉ cần dựng nó lại sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý của nó sau lớp vỏ thần bí. * Kế thừa những giá trị trong chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc; đồng thời đã cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ, khắc phục tính siêu hình và những hạn chế lịch sử của nó. Từ đó, Mác và Ăngghen xây dựng học thuyết mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ gọi là chủ nghĩa duy vật biện chứng, một hình thức mới, một giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa duy vật triết học. Từ những giá trị của phép biện chứng của Hêghen và chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, Mác và Ăng ghen đã xây dựng lên học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ là chủ nghĩa duy vật biện chứng, một hình thức mới, một giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa duy vật triết học. Hai là: thừa kế và cải tạo kinh tế chính trị học Anh với những đại biểu xuất sắc là A.Xơmít và Đ. Ricácđô là một nhân tố không thể thiếu được góp phần làm hình thành quan niệm duy vật về lịch sử của triết học Mác. Ba là: cải tạo một cách phê phán chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu tiêu biểu là Xanh Ximông và S. Phuriê. Nhờ đó, triết học Mác trở thành vũ khí lý luận cải tạo xã hội bằng cách mạng. Những thành tựu của khoa học tự nhiên Những phát minh lớn của khoa học tự nhiên có vai trò quan trọng không thể thiếu được cho sự ra đời của triết học Mác. Những phát minh lớn của khoa học tự nhiên làm bộc lộ rõ tính hạn chế, chật hẹp và những bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong việc nhận thức thế giới; đồng thời cung cấp cơ sở tri thức khoa học để phát triển tư duy biện chứng, hình thành phép biện chứng duy vật. Trong số những thành tựu khoa học tự nhiên thời đó, Ăngghen nêu bật ý nghĩa của ba phát minh lớn đối với sự hình thành triết học duy vật biện chứng: định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, thuyết tế bào và thuyết tiến hoá của Đắcuyn. Với những phát minh lớn của khoa học tự nhiên đã làm cho quan niệm mới về tự nhiên đã được hoàn thành trên những nét cơ bản Như vậy, triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác đã ra đời như một tất yếu lịch sử không những vì nó một sự phản ánh thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân mà còn là sự phát triển hợp logíc của lịch sử tư tưởng nhân loại. Những giai đoạn chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của triết học Mác Quá trình chuyển biến tư tưởng của C. Mác và Ph.Ăngghen từ chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản. Các Mác sinh ngày 5-5-1818. Thời thơ ấu và niên thiếu, ông sống ở tỉnh Ranh, một vùng khá phát triển cả về kinh tế và chính trị của nước Đức. Những ảnh hưởng tốt của gia đình, nhà trường và các quan hệ xã hội khác đã làm hình thành và phát triển ở Mác tinh thần nhân đạo chủ nghĩa và xu hướng yêu tự do. Phẩm chất đạo đức – tinh thần cao đẹp đó không ngừng được bồi dưỡng trở thành định hướng cho cuộc đời sinh viên và đưa Mác tới chủ nghĩa dân chủ cách mạng và quan điểm vô thần. * Sau khi nhận bằng tiến sĩ triết học vào tháng 4 – 1841, Mác chuẩn bị vào dạy triết học ở trường đại học Tổng hợp Bon và dự định xuất bản một tờ tạp chí với tên gọi tư liệu của chủ nghĩa vô thần. Nhưng hy vọng của ông đã không thực hiện được vì vua Phriđrích Vinhem IV thực hiện chính sách phản động và đàn áp những người dân chủ cách mạng. * Sự chuyển biến bước đầu diễn ra trong thời kỳ C.Mác làm việc ở báo sông Ranh (5-1842 đến 4-1843).Thực tiễn đấu tranh trên báo chí cho tự do dân chủ đã làm cho tư tưởng dân chủ -cách mạng ở C.Mác có nội dung chính xác hơn, đó là đấu tranh cho lợi ích của “quần chúng nghèo khổ bất hạnh về chính trị và xã hội”. * Về thế giới quan triết học, nhìn chung Mác vẫn đứng trên lập trường duy tâm trong việc xem xét bản chất nhà nước. Nhưng việc phê phán chính quyền nhà nước đường thời đã cho Mác thấy rằng, cái quan hệ khách quan quyết định hoạt động của nhà nước không phải là hiện thân của tinh thần tuyệt đối như Hêghen đã tìm cách chứng minh bằng triết học, mà là những lợi ích; còn chính quyền nhà nước lại là “cơ quan đại diện đẳng cấp của những lợi ích tư nhân”. Như vậy, qua thực tiễn, nguyện vọng muốn cắt nghĩa hiện thực, xác lập lý tưởng tự do trong thực tế đã làm nảy nở khuynh hướng duy vật ở Mác. * Sau khi báo Sông Ranh bị cấm, Mác đã viết cuốn sách Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, ông đã phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, tiếp nhận có chọn lọc quan điểm duy vật của triết học Phoiơbắc đã tăng cường mạnh mẽ xu hướng duy vật trong quan điểm của Mác. * Cuối tháng 10-1943, Mác sang Pari để viết Niên giám Pháp – Đức đã đánh dấu bước hoàn thành sự chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật. Trong bài Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, lời nói đầu, được in trong niên giám Pháp- Đức, C.Mác đã chỉ ra “cái khả năng tích cực” của giai cấp vô sản. Tư tưởng về vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản là điểm xuất phát của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Như vậy, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng triết học duy vật biện chứng và triết học duy vật lịch sử cũng đồng thời là quá trình hình thành chủ nghĩa cộng sản khoa học,. Cũng trong thời gian ấy, thế giới quan cách mạng của Ăngghen đã hình thành một cách độc lập với Mác. Ph. Ăngghen sinh ngày 28-11-1820, trong một gia đình chủ xưởng sợi ở Bácmên thuộc tỉnh Ranh. Khi còn học sinh trung học, Ph. Ăngghen đã căm ghét sự chuyên quyền và độc đoán của bọn quan lại. Việc nghiên cứu triết học trong thời gian ở Béclin, khi làm nghĩa vụ quân sự, đã dẫn ông đi xa hơn trên con đường khoa học. Song, chỉ thời gian gần hai năm sống ở Manchextơ (Anh), từ mùa thu năm 1842, việc nghiên cứu đời sống kinh tế và sự phát triển chính trị của nước Anh, nhất là việc trực tiếp tham gia vào phong trào công nhân mới dẫn đến bước chuyển biến căn bản trong thế giới quan của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản. Niên giám Pháp – Đức cũng đăng các tác phẩm Phác thảo góp phần phê phán kinh tế chính trị học và Tình cảnh nước Anh, Tômát Cáclây, Quá khứ và hiện tại của Ăngghen gửi đến từ Mansextơ. Các tác phẩm đó cho thấy ở Ăngghen, quá trình chuyển từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ – cách mạng sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản cũng đã hoàn thành. Ông đã đứng trên quan điểm duy vật và lập trường của chủ nghĩa xã hội để phê phán kinh tế chính trị học của A.Xmít và Đ.Ricácđô, vạch trần quan điểm chính trị phản động của Cáclây, một người phê phán chủ nghĩa tư bản trên lập trường của giai cấp quý tộc phong kiến. Sự nhất trí về tư tưởng đã dẫn đến tình bạn vĩ đại của Mác và Ăngghen, gắn liền tên tuổi của hai ông với sự ra đời và phát triển một thế giới quan mới mang tên Mác – thế giới quan cách mạng của giai cấp vô sản. Giai đoạn đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Giai đoạn từ năm 1844 đến năm 1848 Là quá trình Mác – Ăngghen từng bước xây dựng nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được thể hiện ở các tác phẩm kinh điển sau: * Trong tác phẩm Bản thảo kinh tế – triết học năm 1844: + Mác phê phán kinh tế chính trị học cổ điển của Anh và triết học duy tâm Hêghen; đồng thời ông cũng vạch ra “mặt tích cực”của nó là phép biện chứng. + Những quan điểm mới của Mác được thực hiện trong việc phân tích sự tha hoá của lao động với phạm trù “lao động bị tha hoá”, Mác xem sự tha hoá của lao động như một tất yếu lịch sử gắn liền với sở hữu tư nhân, và chính sở hữu tư nhân được sinh ra do “lao động bị tha hoá”, nhưng sau đó lại trở thành nguyên nhân của sự tha hoá lao động và sự tha hoá của con người. Bởi vậy, việc khắc phục sự tha hoá ấy chính là xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân, giải phóng người lao động. Với sự phân tích trên, Mác luận chứng cho tính tất yếu của chủ nghĩa cộng sản trong sự phát triển xã hội. Theo Mác “chủ nghĩa cộng sản coi như chủ nghĩa tự nhiên hoàn bị = chủ nghĩa nhân đạo” 1. Ông bác bỏ mọi thứ chủ nghĩa cộng sản bình quân mà ông gọi là chủ nghĩa cộng sản thô thiển, phủ nhận cá tính của con người, là sự quay lại với “sự giản dị không tự nhiên của con người nghèo khổ và không có nhu cầu”2. Từ góc độ triết học, Mác đã nhận thức chủ nghĩa cộng sản như một nấc thang lịch sử cao hơn chủ nghĩa tư bản với những tiền đề do chính chủ nghĩa tư bản tạo ra. * Tác phẩm Gia đình thần thánh do Mác và Ănghen viết chung được xuất bản tháng 2-1845. Cùng với việc phê phán quan điểm duy tâm về lịch sử của “phái Hêghen trẻ”, đứng đầu là anh em nhà Bauơ, hai ông đã đề xuất một số nguyên lý cơ bản của triết học Mácxít và của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Tác phẩm Gia đình thần thánh đã chứa đựng “quan điểm đã gần thành của Mác về vai trò cách mạng của giai cấp vô sản” và cho thấy “Mác đã tiến gần như thế nào đến tư tưởng cơ bản của toàn bộ “hệ thống” của ông… tức là tư tưởng về những quan hệ sản xuất xã hội”. * Tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, được Mác và Ăngghen viết chung vào cuối năm 1845 – đầu năm 1846, đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình hình thành triết học Mác. Thông qua việc phê phán các trào lưu triết học và chủ nghĩa xã hội đương thời ở Đức, Mác và Ăngghen đã trình bày quan niệm duy vật lịch sử một cách hệ thống và nhiều nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản khoa học như những hệ quả của quan niệm duy vật lịch sử. *Trong Hệ tư tưởng Đức, hai ông khẳng định: “Tiền đề của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống”2. Song, đó là những con người hiện thực mà sản xuất vật chất là hành vi lịch sử đầu tiên của họ. + Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội. Do đó, để hiểu được con người, Mác đã đi sâu tìm hiểu sự sản xuất vật chất của con người trong xã hội. Nghiên cứu biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Với tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, một số quan điểm về chủ nghĩa xã hội khoa học được nêu lên nhưng chưa có được sự diễn đạt rõ ràng; Mác và Ăngghen nhận định Chủ nghĩa cộng sản là một lý tưởng cao đẹp của nhân loại, nhưng lý tưởng đó được thực hiện từng bước với những mục tiêu cụ thể nào, bằng con đường nào; điều đó tuỳ thuộc vào điểm xuất phát và chỉ có qua phong trào thực tiễn mới tìm ra được những hình thức và bước đi thích hợp. * Luận cương về Phoiơbắc của Mác được Ăngghen đánh giá là văn kiện đầu tiên chứa đựng mầm mống thiên tài của một thế giới quan mới. Tư tưởng cơ bản xuyên suốt của Luận cương là vai trò quyết định của thực tiễn đối với đời sống xã hội; từ đó nêu lên sứ mệnh góp phần “cải tạo thế giới” của triết học Mác (luận đề thứ 11). Với quan điểm thực tiễn đúng đắn, Mác đã vạch ra “khuyết điểm chủ yếu” của toàn bộ chủ nghĩa duy vật trước kia, kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc; đồng thời cũng phê phán và bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về tính năng động, sáng tạo của tư duy. Cũng từ quan điểm duy vật biện chứng về thực tiễn, Mác đi tới nhận thức về mặt xã hội của bản chất con người. “Trong tính hiện thực của nó, Mác viết – bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”. * Tác phẩm Sự khốn cùng của triết học (1847) và Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (tháng 2 – 1848), chủ nghĩa Mác được trình bày như một chỉnh thể các quan điểm lý luận nền tảng với ba bộ phận hợp thành của nó. Trong Sự khốn cùng của triết học, Mác tiếp tục đề xuất các nguyên lý triết học, chủ nghĩa cộng sản khoa học và đặc biệt là, như chính Mác sau này đã nói, “chứa đựng những mầm mống của học thuyết được trình bày trong bộ Tư bản sau hai mươi năm trời lao động”1. Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác; trong đó cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác được trình bày một cách thiên tài, thống nhất hữu cơ với các quan điểm kinh tế và các quan điểm chính trị – xã hội. “Tác phẩm này trình bày một cách hết sức sáng sủa và rõ ràng thế giới quan mới, chủ nghĩa duy vật triệt để – chủ nghĩa duy vật này bao quát cả lĩnh vực sinh hoạt xã hội – phép biện chứng với tư cách là học thuyết toàn diện nhất và sâu sắc nhất về sự phát triển, lý luận đấu tranh giai cấp và vai trò cách mạng -trong lịch sử toàn thế giới – của giai cấp vô sản, tức là giai cấp sáng tạo một xã hội mới, xã hội cộng sản”. Với Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, triết học Mác và chủ nghĩa Mác nói chung đã hình thành và sẽ được Mác và Ăngghen tiếp tục bổ sung, phát triển trong suốt cuộc đời của hai ông trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn của phong trào công nhân và khai quát các thành tựu khoa học. Giai đoạn Mác và Ăngghen bổ sung và phát triển lý luận triết học Từ sau Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, học thuyết Mác tiếp tục được bổ sung và phát triển trong sự gắn bó mật thiết hơn nữa với thực tiễn cách mạng mà Mác và Ăngghen vừa là những đại biểu tư tưởng, vừa là lãnh tụ thiên tài của phong trào công nhân. Bằng hoạt động lý luận của mình, Mác và Ăngghen đã đưa phong trào công nhân từ tự phát thành phong trào tự giác và phát triển ngày càng mạnh mẽ; và chính trong quá trình đó, học thuyết của các ông cũng không ngừng được phát triển. * Các tác phẩm chủ yếu của Mác như Đấu tranh giai cấp ở Pháp, Ngày 18 tháng Sương Mù của Lui Boonapáctơ, Nội chiến ở Pháp, Phê phán Cương lĩnh Gôta…, cho thấy việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của phong trào công nhân có tầm quan trọng như thế nào trong sự phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng. Bộ Tư bản không chỉ là công trình đồ sộ của Mác về kinh tế học mà còn là sự bổ sung, phát triển của triết học Mác nói riêng, của học thuyết Mác nói chung. Lênin đã nhận xét: về phương diện triết học, nếu như Mác không để lại cho chúng ta một “lôgíc học với chữ Lôgíc viết hoa” thì Mác đã để lại cho chúng ta cái lôgíc của bộ Tư bản. Trong khi đó, Ăngghen với những tác phẩm chủ yếu của mình như Chống Đuyrinh, Biện chứng của tự nhiên, Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tự hữu và của nhà nước, Lútsvích Phoiơbắc vá sự cáo chung của nền triết học cổ điển Đức, v.v đã trình bày học thuyết Mác nói chung, triết học Mác nói riêng dưới dạng một hệ thống lý luận. Ngoài ra cũng cần chú ý rằng, những ý kiến bổ sung, giải thích của Ăngghen sau khi Mác qua đời đối với một số luận điểm của các ông trước đây cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển học thuyết Mác. Thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện Sự ra đời triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử phát triển triết học của nhân loại. * Mác và Ăngghen đã kế thừa một cách có phê phán những thành tựu của tư duy nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triệt để, không điều hoà với chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình. * Triết học Mác đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện chứng trong lịch sử phát triển của triết học, Mác đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên “hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người, chủ nghĩa duy vậy lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học”. Đó là cuộc cách mạng thật sự trong triết học xã hội, yếu tố chủ yếu của bước ngoặt cách mạng mà Mác và Ăngghen đã thực hiện trong triết học. Với sự ra đời của triết học Mác, vai trò xã hội của triết học cũng như vị trí của triết học trong hệ thống tri thức khoa học cũng biến đổi. “Các nhà triết học đã chỉ Giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”2. Luận điểm đó của Mác nói lên sự khác nhau về chất giữa triết học của ông với các học thuyết triết học duy vật trước Mác. Mác khâm phục và đánh giá rất cao chủ nghĩa vô thần chiến đấu của các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVII -XVIII. Song, “khuyết điểm chủ yếu” của mọi học thuyết duy vật trước Mác là chưa có quan điểm đúng đắn về thực tiễn và chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm về lịch sử xã hội. Triết học Mác đã khắc phục được những hạn chế đó, đi tới chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cho chủ nghĩa duy vật trở thành triệt để. * Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, giai cấp tiến bộ và cách mạng nhất, một giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích cơ bản của nhân dân lao động và sự phát triển xã hội. Sự kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân đã tạo nên bước chuyển biến về chất của phong trào từ trình độ tự phát lên tự giác. * Vai trò cách mạng to lớn của triết học Mác được nâng cao còn vì sự thống nhất tính khoa học với tính cách mạng trong bản thân lý luận của nó. Sự thống nhất hữu cơ chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng làm cho triết học mácxít mang tính cách mạng sâu sắc nhất. Sức mạnh “cải tạo thế giới” của triết học mácxít chính là ở sự gắn bó mật thiết với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản cách mạng, với quần chúng nhân dân đông đảo, nhờ đó lý luận “trở thành lực lượng vật chất”. Mác và Ăngghen đã xây dựng lý luận triết học của mình trên cơ sở khái quát các thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học ngày nay càng chứng tỏ sự cần thiết phải có tư duy biện chứng duy vật và, ngược lại, phải phát triển lý luận triết học của chủ nghĩa Mác dựa trên những thành tựu của khoa học hiện đại. V.I.Lênin phát triển triết học Mác V.I.Lênin (1870 – 1924) đã vận dụng sáng tạo học thuyết của Mác để giải quyết những vấn đề của cách mạng vô sản trong thời đại chủ nghĩa đế quốc và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ông đã có đóng góp to lớn vào sự phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng. * Trong những tác phẩm lớn ban đầu của mình, như Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ – xã hội ra sao? và Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân tuý và sự phê phán trong cuốn sách của ông Xtơruvê về nội dung đó, Lênin đã vạch trần bản chất phản cách mạng, giả danh “người bạn của dân” của bọn dân tuý ở Nga vào những năm 90 thế kỷ XIX, ông đã phê phán quan điểm duy tâm chủ quan về lịch sử của những nhà dân tuý. Lênin không những bảo vệ chủ nghĩa Mác khỏi sự xuyên tạc của những người dân tuý mà còn phát triển, làm phong phú thêm quan điểm duy vật lịch sử, nhất là lý luận về hình thái kinh tế -xã hội của Mác. * Những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong lĩnh vực khoa học tự nhiên đã có những phát minh lớn “mang tính vạch thời đại”, nhất là những phát minh về điện tử và cấu tạo nguyên tử đã làm đảo lộn căn bản quan niệm về thế giới của vật lý học cổ điển, dẫn tới “cuộc khủng hoảng vật lý”. Lợi dụng tình hình đó, chủ nghĩa duy tâm trong đó có chủ nghĩa Makhơ (một thứ chủ nghĩa duy tâm chủ quan), tấn công chủ nghĩa duy vật nói chung, chủ nghĩa duy vật Mác xít nói riêng. Ở nước Nga, sau thất bại của cuộc cách mạng 1905-1907, những người theo chủ nghĩa Makhơ viện cớ “bảo vệ chủ nghĩa Mác”, nhưng thực chất là xuyên tạc triết học Maxcít. Do vậy, trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán xuất bản năm 1900, Lênin không chỉ phê phán quan điểm duy tâm, siêu hình của những người theo chủ nghĩa Makhơ mà còn bổ sung, phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử dựa trên sự phân tích, khái quát những thành tựu khoa học mới nhất, trước hết là khoa học tự nhiên thời đó. Với định nghĩa của Lênin về vật chất với tính cách là một phạm trù triết học, nhiều vấn đề căn bản của nhận thức luận Mácxít đã được làm sâu sắc thêm, được nâng lên một trình độ mới. Phương pháp của Lênin trong việc phân tích “cuộc khủng hoảng vật lý” có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của khoa học tự nhiên hồi đó và cho đến cả ngày nay. * Tác phẩm Bút ký triết học – gồm những ghi chép và nhận xét của Lênin khi đọc các tác phẩm của nhiều nhà triết học, được thực hiện chủ yếu trong những năm từ 1914 đến năm 1915, cho thấy ông đặc biệt quan tâm nghiên cứu về phép biện chứng, nhất là triết học Hêghen. Lênin đã tiếp tục khai thác cái “hạt nhân hợp lý” của triết học Hêghen để làm phong phú thêm phép biện chứng duy vật, đặc biệt là lý luận về sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Tinh thần sáng tạo của tư duy biện chứng cũng đã giúp cho Lênin có những đóng góp quan trọng vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác về triết học xã hội như vấn đề nhà nước, cách mạng bạo lực, chuyên chính vô sản, lý luận về Đảng kiểu mới, v.v… Luận điểm của Lênin về khả năng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội bắt đầu ở một số nước, thậm chí ở một nước riêng lẻ, được rút ra từ sự phân tích quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản, đã có ảnh hưởng rất lớn tới tiến trình cách mạng ở nước Nga cũng như trên toàn thế giới. Trong khi lãnh đạo công cuộc xây dựng những cơ sở ban đầu của chủ nghĩa xã hội, Lênin tiếp tục có những đóng góp mới quan trọng vào việc phát triển triết học Mác. Đồng thời, ông đã nêu lên những mẫu mực về sự thống nhất giữa tính Đảng với yêu cầu sáng tạo trong việc vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác. Để bảo vệ chủ nghĩa Mác, Lênin không chỉ phê phán không khoan nhượng đối với mọi kẻ thù của chủ nghĩa Mác, mà còn kịch liệt phê phán những người nhân danh lý luận của Mác trên lời nói nhưng thực tế là chủ nghĩa xét lại, hoặc ít ra đã xa rời học thuyết của Mác. Đồng thời, Lênin chú trọng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng và dựa vào những thành quả mới nhất của khoa học để bổ sung, phát triển di sản lý luận mà Mác và Ăngghen để lại. Với tinh thần biện chứng duy vật, xem chân lý là cụ thể, có khi Lênin đã phải thay đổi một cách căn bản đối với một quan niệm nào đó của mình về chủ nghĩa xã hội, không chấp nhận mọi thứ biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều. Chính vì thế mà một giai đoạn mới trong sự phát triển của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng đã gắn liền với tên tuổi của V.I.Lênin và được gọi là triết học Mác – Lênin nói riêng, chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung. Vận dụng và phát triển triết học Mác – Lênin trong điều kiện thế giới ngày nay Sự phát triển của triết học Mác – Lênin từ sau khi Lênin mất đến nay diễn ra trong những điều kiện mới. Trong các nước xây dựng chủ nghĩa xã hội, triết học Mác – Lênin được truyền bá một cách rộng rãi và thuận lợi, có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng và trên mọi mặt của đời sống xã hội. Với tư cách là một bộ phận hợp thành, đồng thời là cơ sở lý luận chung của chủ nghĩa Mác -Lênin – nền tảng và kim chỉ nam cho hành động của các Đảng cộng sản – triết học Mác – Lênin đóng vai trò quan trọng không thể thiếu được trong sự phát triển của thực tiễn xây dựng xã hội mới với những thành tựu to lớn không thể phủ nhận được. Triết học Mác – Lênin không chỉ trang bị thế giới quan và phương pháp luận khoa học mà còn góp phần tích cực vào việc trau dồi năng lực tư duy lý luận cho chủ thể xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội lại làm nảy sinh hàng loạt vấn đề cần được giải đáp về mặt lý luận mà điều đó không hề có trong di sản lý luận của các nhà kinh điển. Điều đó đòi hỏi các Đảng cộng sản phải biết “dùng lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin” như chủ tịch Hồ Chí Minh nói, để tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn, nhờ đó hiểu được quy luật, định ra được đường lối, phương châm, bước đi cụ thể thích hợp của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chẳng hạn, xóa bỏ chế độ tư hữu, xây dựng chế độ công hữu là một quan điểm cơ bản mang tính nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội khoa học; song, thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội đã cho thấy tính chất phức tạp trong việc nhận thức và giải quyết vấn đề này. Phải chăng trong chủ nghĩa xã hội chỉ có sở hữu cá nhân đối với tư liệu sinh hoạt mà không có sở hữu cá nhân đối với tư liệu sản xuất?. Hoặc vấn đề kế hoạch hoá trong việc quản lý nền sản xuất của xã hội xã hội chủ nghĩa: các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội khoa học đã từng nhấn mạnh vai trò của kế hoạch hoá, nhấn mạnh vai trò của nhà nước trong việc tổ chức, quản lý nền sản xuất trên phạm vi toàn xã hội. Vì vậy phải thực hiện kế hoạch hoá như thế nào để không dẫn đến tình trạng tập trung quan liêu? Các nhà kinh điển đã thấy rõ nguy cơ quan liêu hoá bộ máy nhà nước dù đó là nhà nước kiểu mới. “Ăngghen luôn luôn nhấn mạnh rằng không những dưới chế độ quân chủ, mà cả dưới chế độ cộng hoà dân chủ, nhà nước vẫn là nhà nước, nghĩa là vẫn giữ nguyên đặc tính chủ yếu của nó là: biến những viên chức, “công bộc của xã hội”, những cơ quan của mình thành những ông chủ đứng trên đầu xã hội”1. Mác rất chú ý những biện pháp của Công xã Pari mà ông cho là có thể ngăn ngừa tình trạng đó một cách hữu hiệu. Từ kinh nghiệm lãnh đạo Nhà nước Xô viết, Lênin càng thấy rõ nguy cơ làm suy sụp chế độ Xô viết bởi tệ quan liêu và tính chất khó khăn phức tạp của việc phòng chống tệ nạn này. Vì vậy, phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn, theo Lênin, “là một trong những nhiệm vụ cấu thành của cuộc đấu tranh vì cách mạng xã hội”2 của quá trình đổi mới hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội hiệnnay nói riêng. Thực tiễn đã chứng tỏ, chủ nghĩa chủ quan và duy ý chí không những đã dẫn đến nhiều sai lầm khuyết điểm nghiêm trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội mà còn là trở ngại cho việc phát triển lý luận. Những hạn chế, những khuyết tật của chủ nghĩa xã hội hiện thực, do điều kiện lịch sử cũng như do sai lầm chủ quan gây nên, cũng được phản ánh vào tư duy lý luận, chi phối quá trình phát triển của triết học. Thực tế đã chứng tỏ, cơ chế quản lý kinh tế và quản lý xã hội mang tính chất tập trung quan liêu là trở lực to lớn với sự phát triển năng lực sáng tạo của con người, của tư duy lý luận nói riêng. Chúng ta biết rằng, chủ nghĩa chủ quan trong tư duy chính trị và bệnh giáo điều trong công tác lý luận là trở lực trực tiếp và chủ yếu đối với sự phát triển tư duy lý luận. Đến lượt mình, sự lạc hậu lý luận đã trở thành một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội. Kỷ nguyên khoa học và kỹ thuật cũng làm nảy sinh những vấn đề mang tính nhân loại phổ biến. Ngày nay, hơn bao giờ hết, yêu cầu bổ sung và phát triển lý luận của triết học Mác – Lênin là rất cấp thiết. Đặc điểm của thời đại ngày nay là sự tương tác giữa hai quá trình cách mạng – cách mạng khoa học công nghệ và cách mạng xã hội, đã tạo nên sự biến đổi rất năng động của đời sống xã hội. Trong những điều kiện đó, quá trình tạo ra những tiền đề của chủ nghĩa xã hội diễn ra trong các xã hội tư bản chủ nghĩa phát triển được đẩy mạnh như một xu hướng khách quan. Sự ra đời các công ty cổ phần từ cuối thế kỷ trước đã được Mác xem là “hình thái quá độ từ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sang phưong thức sản xuất tập thể”, là sự thủ tiêu tư bản với tư cách là sở hữu tư nhân ở trong những giới hạn của bản thân phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa”3. Song, đó là hiện thực khách quan vượt khỏi giới hạn nhận thức chật hẹp của tư duy không biện chứng. Sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội làm cho yêu cầu phát triển triết học Mác – Lênin càng trở nên cấp bách. Thực tiễn cuộc đấu tranh bảo vệ những thành quả mà chủ nghĩa xã hội đã giành được, nhất là công cuộc đấu tranh bảo vệ để đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội vượt qua thách thức to lớn hiện nay và tiếp tục tiến lên, đòi hỏi các Đảng cộng sản phải nắm vững lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Trước hết, phải thấm nhuần thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng khoa học của nó. Cả thành công cũng như thất bại trong quá trình đổi mới, “cải tổ” chủ nghĩa xã hội chứng tỏ sự cần thiết phải kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại, đồng thời phải khắc phục bệnh giáo điều trong việc vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Chúng ta không thể đổi mới thành công nếu xa rời lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin, rơi vào chủ nghĩa xét lại. Chủ nghĩa chủ quan và bệnh giáo điều còn dẫn đến sự vận dụng lý luận theo lối chủ nghĩa chiết trung, mà đó lại là cách xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin của chủ nghĩa cơ hội. “Trong việc xuyên tạc chủ nghĩa Mác theo cách cơ hội chủ nghĩa thì việc dùng chủ nghĩa chiết trung để xuyên tạc phép biện chứng là dễ đánh lừa quần chúng hơn cả, nó làm cho quần chúng tựa hồ như được thoả mãn; nó làm ra vẻ xét đến mọi phương diện của quá trình, mọi xu hướng của sự phát triển, mọi ảnh hưởng có tính chất mâu thuẫn, v.v.; những kỳ thực, nó không đưa ra được một quan niệm nào hoàn chỉnh và cách mạng về quá trình phát triển của xã hội”. Đương nhiên, những vấn đề của chủ nghĩa xã hội do quá trình đổi mới đặt ra không thể giải thích được chỉ bằng lý luận triết học và bản thân tư duy triết học cũng cần phải được đổi mới để phát triển. Việc tìm giải pháp cho những vấn đề của chủ nghĩa xã hội cũng như việc bổ sung và phát triển lý luận triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin phải được thực hiện thông qua tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Muốn vậy, việc tổng kết thực tiễn lại phải được thực hiện theo phương pháp khoa học Mácxít. Có như vậy mới có thể làm sáng tỏ những điều ngộ nhận, những quan điểm xuyên tạc, phủ định các giá trị cơ bản của học thuyết Mác – Lênin. Như vậy, phát triển lý luận triết học mácxít và đổi mới chủ nghĩa xã hội trong thực tiễn là một quá trình thống nhất, bởi vì “thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin”2. KẾT LUẬN Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng, Mác và Ăngghen đã làm biến đổi căn bản mối quan hệ giữa triết học với các khoa học khác. Triết học Mác- Lênin có ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận to lớn đối với các khoa học cụ thể. Hiểu biết các quy luật chung nhất của hiện thực khách quan sẽ giúp nghiên cứu có kết quả quy luật đặc thù, điều đó đúng ở cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Nếu không có quan điểm duy vật biện chứng về đời sống xã hội thì không thể tạo ra được kinh tế học chính trị như một khoa học, không thể hiểu được những mặt khác nhau của đời sống xã hội. Sự thống nhất giữa triết học Mác-Lênin với các khoa học cụ thể là một đảm bảo cho việc học tập mang tính tích cực, sáng tạo các môn khoa học chuyên ngành của sinh viên. Tự nhiên và xã hội Xã hội Lịch sử tư tưởng triết học Tây Âu trước Mác Th1 16, 2020 admin Triết học Hy Lạp cổ đại Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Hy lạp cổ đại Hoàn cảnh lịch sử: * Xã hội Hy Lạp cổ đại tồn tại và phát triển trong khoảng thời kỳ lịch sử từ thế kỷ thứ VIII tr.CN đến thế kỷ III. Thời kỳ này phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ phát triển mạnh mẽ, với hai trung tâm kinh tế – chính trị điển hình là thành bang Aten (với hai tầng lớp cơ bản là dân chủ và chủ nô) và thành bang Spac (chủ yếu là tầng lớp chủ nô quý tộc). * Tương ứng với hai trung tâm kinh tế – chính trị này là hai thế chế nhà nước khác nhau về hình thức: Nhà nước chủ nô dân chủ Aten và nhà nước chủ nô quân chủ Spac. * Người Hy Lạp cổ đại đã kế thừa được rất nhiều kiến thức của người phương Đông mà trước hết phải kể tới những kiến thức về khoa học tự nhiên của người Ai Cập, Babilon và một phần là những kiến thức của người Ấn Độ cổ đại. Đặc điểm của triết học Hy lạp cổ đại: Thứ nhất, sự phân chia và đối lập giữa các trường phái triết học, duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình, vô thần và hữu thần là nét nổi bật của quá trình phát sinh, phát triển triết học; trong đó điển hình là cuộc đấu tranh giữa hai “đường lối” triết học: đường lối duy vật của Đêmôcrít và đường lối duy tâm của Platôn. Thứ hai, các hệ thống triết học Hy Lạp cổ đại nói chung đều có xu hướng đi sâu giải quyết các vấn đề về bản thể luận và nhận thức luận triết học – là những vấn đề của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Triết học Hy Lạp cổ đại gồm nhiều trường phái lớn: Phái duy vật Milê với những nhà triết học tiêu biểu là Talet (624-547 tr.CN), Anaximanđrơ (610 – 546 tr.CN) và Anaximen (585 – 525 tr.CN); Phái Êphedơ với triết gia biện chứng tiêu biểu là Hêraclít (520 – 460 tr.CN); phái Pitago với những tư tưởng triết học duy tâm về các con số của Pitago (571 – 479 tr.CN); Phái Êlê với các triết gia là Xênôphan (570 – 487 tr.CN), Pácmênit (cuối TK VI đầu TK V tr.CN) và Dênôn (490 – 430 tr.CN); Phái duy vật nguyên tử với các triết gia Lơxíp (500 – 440 tr.CN) và Đêmôcrít (460 – 370 tr.CN); Phái duy vật thô sơ với các đại biểu Anaxago (500 – 428 tr.CN) và Ămpêđôclơ (490 – 430 tr.CN); Phái duy tâm chủ quan của Xôcrát (469 – 399 tr.CN) và cuối cùng là Arixtốt (384 – 322 tr.CN) – nhà “bách khoa vĩ đại nhất của người Hy Lạp cổ đại”. Một số nhà triết học tiêu biểu Hêraclít (520 – 460 tr.CN) * Ông cho rằng là vật chất, bản nguyên đầu tiên của thế giới là lửa. Theo ông, lửa là bản nguyên vật chất, là nguyên tố đầu tiên của mọi dạng vật chất; “tất cả đều được trao đổi với lửa và lửa trao đổi tất cả như vàng thành hàng hóa, và hàng hoá thành vàng”. * Hêraclít còn là nhà biện chứng đầu tiên trong lịch sử triết học. Ông đã có quan niệm về vận động vĩnh viễn của vật chất. Theo Hêraclít: mọi vật đã trôi đi, chảy đi, không có cái gì giữ nguyên tại chỗ, tất cả mọi vật đều vận động, không có cái gì tồn tại mà cố định. Ông khẳng định:không thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông, bởi vì nước không ngừng chảy trên sông. * Hêraclít còn nêu lên những phỏng đoán thiên tài về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Theo ông, cái đồng nhất trong sự khác biệt, đó là cái hài hòa của những cái căng thẳng đối lập. Ông còn nêu lên vấn đề sự phân đôi cái đơn nhất, về sự nhận thức nhữnbộ phận mâu thuẫn của nó, về sự chuyển hóa từ mặt đối lập này sang mặt đối lập khác, về sự trao đổi những mặt đối lập. * Hêraclít đã có những quan điểm đúng đắn về lý luận nhận thức. Ông cho rằng, nhận thức thế giới là nhận thức lôgôt của vũ trụ, nghĩa là nhận thức tự nhiên và xã hội trong trạng thái đấu tranh và hài hòa của những mâu thuẫn của chúng. Ông rất coi trọng nhận thức cảm tính nhưng không tuyệt đối nó. Theo ông, thị giác thường bị lừa vì tự nhiên thích giấu mình nên muốn nhận thức được nó phải tư duy, phải có óc sáng suốt. Ông còn nêu lên tính tương đối của nhận thức tùy theo hoàn cảnh và điều kiện mà thiện – ác, xấu -tốt, lợi – hại chuyển hóa cho nhau. Với phép biện chứng, mặc dầu chỉ là phép biện chứng tự phát và chất phát, Hêraclít đã đưa triết học duy vật cổ đại tiến lên một bước phát triển mới. Đêmôcrít (460 – 370 tr.CN) Đêmôcrít là một trong những nhà duy vật lớn nhất thời cổ đại. * Đêmôcrít cho rằng, tất cả mọi vật đều hình thành từ những nguyên tử, đó là phần tử vật chất bé nhỏ, là cơ sở của mọi vật và không phân chia được nữa. * Thừa nhận vũ trụ là vô tận và vĩnh cửu, Đêmôcrít cho rằng có vô số thế giới vĩnh viễn phát sinh, phát triển và tiêu diệt. * Đêmôcrít phỏng đoán rằng, vận động không tách rời vật chất; đó là một phỏng đoán thiên tài. Theo ông vận động của nguyên tử là vĩnh viễn, không có điểm kết thúc. * Đêmôcrít nêu ra khái niệm không gian. Theo ông không gian là khoảng “chân không rộng lớn”, trong đó những nguyên tử vận động vĩnh viễn. Không gian là những khoảng trống giữa các vật thể, nhờ đó các vật thể có thể tụ lại hoặc giãn ra. Xuất phát từ học thuyết nguyên tử, Đêmôcrít cho rằng không gian là gián đoạn và có thể phân chia vô cùng tận. * Đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa duy vật Đêmôcrít là “quyết định luận” (thừa nhận rằng sự ràng buộc theo luật nhân quả và tính quy luật của các hiện tượng tự nhiên) nhằm chống lại “mục đích luận” (là quan điểm duy tâm cho rằng cái thống trị trong tự nhiên không phải là tính nhân quả mà tính có mục đích). Đêmôcrít có nhiều công lao trong việc xây dựng lý luận về nhận thức. Ông đặt ra và giải quyết một cách duy vật vấn đề đối tượng của nhận thức, vai trò của cảm giác với tính cách là điểm bắt đầu của nhận thức và vai trò của tư duy trong việc nhận thức tự nhiên. * Nét đặc sắc khác trong triết học duy vật của Đêmôcrít là chủ nghĩa vô thần. Đêmôcrít cho rằng, sở dĩ con người tin vào thần thánh là vì con người đã bất lực trước những hiện tượng khủng khiếp của tự nhiên. Theo ông, thần thánh chỉ là sự nhân cách hóa những hiện tượng tự nhiên hay là những thuộc tính của con người. Platôn (427 – 347 tr.CN) Platôn là người xây dựng hệ thống triết học duy tâm khách quan hoàn chỉnh đầu tiên của chủ nghĩa duy tâm khách quan, đối lập với thế giới quan duy vật. Ông đã tiến hành cuộc đấu tranh gay gắt chống lại chủ nghĩa duy vật, đặc biệt là chống lại những đại biểu của chủ nghĩa duy vật thời bấy giờ như Hêraclít và Đêmôcrít. * Theo Platôn, giới tự nhiên – thế giới của những vật cảm tính – bắt nguồn từ những thực thể tinh thần tức là từ những ý niệm; vật thể cảm tính chỉ là cái bóng của ý niệm. * Về nhận thức: Ông cho rằng, để nhận thức đ ược chân lý, ngư ời ta phải từ bỏ mọi cái hữu hình cảm tính; “hồi tưởng” lại những gì mà linh hồn bất tử đã quan sát được trong giới ý niệm. Thuyết “hồi tưởng” thần bí này được xây dựng trên cơ sở thừa nhận tính bất tử, tính độc lập của linh hồn với thể xác. * Phép biện chứng của Platôn là phép biện chứng lệ thuộc vào triết học duy tâm. Do đó, “Đường lối Platôn” chống lại “đường lối Đêmôcrít” trong triết học cổ đại, chống lại thuyết nguyên tử của Đêmôcrít. Các hiện tượng của tự nhiên bị ông quy thành những quan hệ toán học. Đạo đức học của Platôn được xây dựng dựa trên cơ sở học thuyết về linh hồn bất tử là một hình thức của lý luận tôn giáo, là bộ phận quan trọng nhất của ý thức tư tưởng của tầng lớp chủ nô quý tộc. * Là kẻ thù chính trị của chế độ dân chủ chủ nô Aten, Platôn coi “chế độ quý tộc” tức là chế độ nhà nước của tầng lớp chủ nô thượng lưu là “nhà nước lý tưởng”. Arixtốt (384 – 322 tr.CN) Arixtốt là đại biểu cho trí tụê bách khoa của Hy Lạp cổ đại. C.Mác gọi Arixtốt là nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ đại; Ph.Ăngghen coi Arixtốt là khối óc bách khoa nhất trong số những nhà triết học Hy Lạp cổ đại. Arixtốt đã nghiên cứu triết học, lôgic học, khoa học tự nhiên, sử học, chính trị học, mỹ học…. * Sự phê phán của Arixtốt đối với Platôn là một đóng góp quan trọng trong lịch sử triết học. Arixtốt đã đề ra một loạt luận điểm quan trọng phản bác lại chủ nghĩa duy tâm của Platôn. Ông thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất; giới tự nhiên là toàn bộ những sự vật có một bản thể vật chất mãi mãi vận động và biến đổi. Do đó, muốn giải thích thế giới vận động, biến đổi thì không cần đến những ý niệm của Platôn. Khi phê phán Platôn, Arixtốt đã chống lại những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy tâm nói chung, nhưng học thuyết đó của ông cũng chưa vượt qua được những tư tưởng thần học và mục đích luận. Do đó, nó mâu thuẫn với tất cả những tiến bộ trong “khoa học bách khoa” của ông, gần gũi với “đường lối Platôn” và bộc lộ rõ chủ nghĩa duy tâm. Nhận định về sự do dự của Arixtốt giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm giải thích tính chất duy tâm trong học thuyết của Arixtốt, V.I.Lênin viết: “Đương nhiên, đó là chủ nghĩa duy tâm, nhưng một chủ nghĩa duy tâm khách quan hơn, xa xôi hơn và chung hơn so với chủ nghĩa duy tâm của Platôn, và do đó, trong triết học tự nhiên, nó thông thường là = chủ nghĩa duy vật”. Ở Arixtốt, chủ nghĩa duy tâm không phải là một hệ thống như ở Platôn mà chỉ một số quan niệm duy tâm tự mâu thuẫn với xu hướng duy vật trong triết học về tự nhiên của ông. Nhận thức luận của Arixtốt có vai trò to lớn trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại. Bác bỏ thế giới “ý niệm” của Platôn, Arixtốt thừa nhận thế giới vật chất là đối tượng thực tế của nhận thức, là nguồn gốc của cảm giác. Cảm giác luận và kinh nghiệm luận trong lý luận về nhận thức của Arixtốt đối lập với thuyết “Hồi tưởng” duy tâm của Platôn. Nếu Platôn coi nguồn gốc duy nhất của hiểu biết là do linh hồn bất tử nhớ lại thế giới “ý niệm”, thì Arixtốt cho rằng không ai cảm giác là không nhận thức và không hiểu biết gì hết. Ở điểm này, Arixtốt là nhà cảm giác luận duy vật. Arixtốt đã nghiên cứu một cách sâu sắc những vấn đề của phép biện chứng và lôgic học. Phép biện chứng của ông thể hiện rõ trong cách giải thích cái chung và cái riêng. Nếu như Platôn coi “ý niệm” với tính cách là cái chung hoàn toàn tách rời khỏi sự vật với tính cách là cái riêng, thì Arixtốt lại đặt cái chung trong sự thống nhất với cái riêng. Arixtốt người đặt nền móng cho lôgic học (khoa học về những quy luật và những hình thức của tư duy). Lần đầu tiên ông đưa tư duy trở thành đối tượng nghiên cứu của một môn khoa học. Đó là khoa học lôgic. Lôgic hình thức của Arixtốt đã nêu ra những phương pháp cơ bản của việc xây dựng các khái niệm, phán đoán suy lý tam đoạn thức và chứng minh. Ông cũng là người đầu tiên nêu các quy luật cơ bản của lôgic học hình thức: “quy luật đồng nhất, quy luật phi mâu thuẫn lôgic và quy luật gạt bỏ cái thứ ba”. Như vậy, lịch sử triết học cổ đại Hy Lạp là lịch sử hình thành và phát triển thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm. Nét nổi bật của chủ nghĩa duy vật Hy Lạp cổ đại là tính chất mộc mạc, thô sơ. Nó khẳng định thế giới vật chất tồn tại khách quan không phải do thần thánh hoặc một lực lượng siêu nhiên nào tạo nên. Thế giới vật chất xuất hiện từ vật chất, từ những nguyên thể vật chất đầu tiên như nước, lửa, không khí, nguyên tử,…Song, do trình độ còn thấp của khoa học nên các nhà triết học duy vật đương thời chỉ có thể quan sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên và phỏng đoán để rút ra những kết luận triết học. Tuy vậy, quan niệm duy vật thô sơ này đã có tác dụng rất lớn trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, chống tôn giáo, chống thần học cổ đại. Nhiều nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã nhận thức được và phát hiện nhiều yếu tố của phép biện chứng như mối quan hệ giữa các sự vật và hiện tượng, sự vận động vĩnh viễn của vật chất, tính thống nhất của những mặt đối lập của sự vật,…Những yếu tố biện chứng đó chính là những phỏng đoán thiên tài, chưa được chứng minh một cách khoa học và cũng chưa được nghiên cứu một cách tự giác. Mác và Ăngghen gọi đó là phép biện chứng tự phát, ngây thơ nhưng đó là hình thức đầu tiên, hình thức cổ đại của phép biện chứng. Chủ nghĩa duy tâm trong triết học cổ đại đã có nhiều trào lưu khác nhau: chủ nghĩa duy tâm chủ quan (trường phái Pitago), chủ nghĩa duy tâm khách quan (trường phái Platôn), chủ nghĩa hoài nghi (trường phái Acađêmi) – chủ nghĩa bất khả tri cổ đại của Pirông. Chúng thường gắn với tín ngưỡng, tôn giáo và do đó thường được giai cấp thống trị sử dụng như một công cụ tinh thần của mình. Triết học Tây Âu thời trung cổ Điều kiện kinh tế – xã hội và đặc điểm của triết học Tây Âu thời trung cổ Điều kiện kinh tế – xã hội Lịch sử phát triển của xã hội Tây Âu thời kỳ trung cổ kéo dài hàng ngàn năm khoảng từ thế kỷ IV đến thế kỷ XV. Đây là giai đoạn mà xét về góc độ triết học là bước thụt lùi so với thời kỳ cổ đại, song xét về sự phát triển của hình thái kinh tế-xã hội thì như Ăng ghen đánh giá: là thời kỳ đầu cho sự phát triển mới, mà trong sự đau thương mất mát đã chứa đựng một nền văn minh của tương lai. Những đặc điểm kinh tế-xã hội nổi bật sau đây: * Về kinh tế: đây là giai đoạn thực hiện bước chuyển từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang xã hội phong kiến: + Từ thế kỷ thứ V những cuộc nổi dậy của nô lệ và những cuộc đấu tranh giai cấp khác bên trong cùng với sự tiến công của các man tộc bên ngoài đã dẫn tới sự sụp đổ của đế quốc La mã phương Tây – chế độ nô lệ chấm dứt, chế độ phong kiến ra đời trên sự hoang tàn của kinh tế và văn hoá. Nghề thủ công suy sụp, thương nghiệp giảm bớt, các thành phố cổ đại tiêu điều nhường chỗ cho nền kinh tế nông nghiệp, trung tâm của cuộc sống chuyển về nông thôn với việc xác lập nền kinh tế tự nhiên, nô lệ trở thành những nông dân tự do. + Đặc điểm của nền kinh tế phong kiến là nền kinh tế mang tính tự nhiên, tự cung tự cấp, đóng kín và trì trệ dựa trên lao động thủ công thô sơ với hình thức bóc lột phát canh thu tô của địa chủ đối với nông dân. Nhìn chung đây là nền kinh tế thụt lùi so với thời cổ đại. Song, cuối thời kỳ phong kiến (thế kỷ XII -XIV) nền kinh tế bắt đầu có sự phát triển: kinh tế tiền tệ dần thay thế nền kinh tế tự nhiên, thủ công nghiệp và thương nghiệp phát trỉển, nhiều thành phố thương cảng mọc lên, một số ngành kỹ thuật khá phát triển. Sự tiến bộ này tạo tiền đề cho thời kỳ phục hưng, cho sự quá độ từ phong kiến lên Tư bản. * Về chính trị-xã hội: xã hội phân hóa thành hai giai cấp lớn là địa chủ và nông dân. Quyền chiếm hữu ruộng đất, các tư liệu sản xuất khác cũng như sản phẩm làm ra thuộc về địa chủ phong kiến. Cuối thời kỳ này diễn ra các cuộc thập tự chinh thúc đẩy công thương nghiệp phát triển, tạo ra một tầng lớp thị dân đương đầu với lãnh chúa đồng thời giúp cho văn hoá phương tây giao lưu với văn hoá phương Đông. * Về mặt tinh thần: thời kỳ trung cổ ở Tây Âu lúc đầu là cơ đốc giáo sau là thiên chúa giáo là hệ tư tưởng thống trị, những giáo lý tôn giáo trở thành những nguyên lý về chính trị, kinh thánh có vai trò như luật lệ trong mọi cuộc xét sử, tín điều nhà thờ là điểm xuất phát của mọi tư duy, thế giới quan thần học bao trùm lên triết học, luật học và chính trị. Giáo hội thiên chúa giáo là thế lực phong kiến quan trọng, giáo hội có quyền sở hữu đối với nhiều ruộng đất, là đại diện cho pháp luật và chính trị, là công cụ thống trị quần chúng về mặt tinh thần. Toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội đều đặt dưới sự thống trị của nhà thờ thiên chúa giáo. Thời kỳ này, nông dân, thậm chí cả võ sỹ phong kiến không có học và không biết chữ, chỉ có tầng lớp tăng lữ có học để viết sách và giảng kinh, tăng lữ độc quyền thống trị văn hoá, dẫn tới thời kỳ này văn hoá phát triển chậm chạp và trì trệ. Các sử gia gọi đây là “đêm trường trung cổ”. Và là thời kỳ mà chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh viện đã ngự trị trong đời sống tinh thần của nhân dân. Tóm lại: Giai đoạn lịch sử Tây Âu trung cổ là sự phát triển hợp quy luật, mặc dù thời kỳ đầu xét trên bình diện tư duy triết học và thế giới quan khoa học là một bước lùi so với thời kỳ cổ đại. Nhưng trong tổng thể của của tiến trình vận động, phát triển của lịch sử thì những thành quả của kinh tế văn hoá, khoa học trong giai đoạn này là những tiền đề tất yếu cho sự phát triển liên tục của lịch sử châu Âu. Đó là những điều kiện không thể thiếu cho sự ra đời, phát triển và phục hưng của các giá trị kinh tế, văn hoá và khoa học của châu Âu hiện đại. Đặc điểm của triết học Tây Âu thời kỳ trung cổ Đặc điểm 1: Triết học Tây Âu trung cổ bị chi phối mạnh bởi tư tưởng thần học và tôn giáo của thiên chúa giáo. Triết học thời kỳ này mang đậm tính tôn giáo, hầu hết các nhà triết học là và chứng minh cho những tín điều tôn giáo của nhà thờ. Đây là thời kỳ thụt lùi so với thời kỳ cổ đại. Đặc điểm 2: Triết học thời kỳ này với đặc trưng bao trùm là triết học kinh viện, được nghiên cứu sáng tạo chủ yếu bởi các nhà triết học thần học trong các cơ sở giáo dục của cơ đốc giáo (tu viện, trường dòng), do đó nó xa rời thực tiễn của xã hội và con người. Triết học tập trung giải quyết một vấn đề xuyên suốt toàn bộ lịch sử triết học Tây Âu khoảng một nghìn năm và cũng là vấn đề trung tâm: đó là mối quan hệ giữa niềm tin tôn giáo và trí tuệ lý trí của con người và họ coi niềm tin tôn giáo giữ vị trí vai trò hàng đầu trong quan hệ với lý trí. Đặc điểm 3: Các nhà triết học đều giải quyết mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng (giữa khái niệm và các sự vật riêng lẻ), trên cơ sở đó nảy sinh hai khuynh hướng triết học phổ biến là chủ nghĩa Duy thực và chủ nghĩa Duy danh. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa Duy thực và chủ nghĩa Duy danh là biểu hiện của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa Duy vật và chủ nghĩa Duy tâm của thời Trung cổ. Đặc điểm 4: Tinh thần nhân bản trong triết học Tây Âu thời kỳ Trung cổ là tinh thần nhân bản phi thực tế. Nó không hướng vào con người trong thực tế mà hướng tới những lực lượng siêu nhiên như đức chúa trời, thượng đế… Đặc điểm 5: Sự tồn tại và phát triển của triết học Tây Âu thời kỳ Trung cổ không phải là sự đứt đoạn tuyệt đối với triết học cổ đại, mặc dù nó là bước lùi rất xa so với triết học Tây Âu cổ đại, nhưng đây là bước lùi hợp quy luật của sự phát triển, là đoạn đứt trong tính liên tục của sự phát triển đúng quy luật, cuối thời kỳ này đã bắt đầu xuất hiện những tư tưởng triết học tiến bộ đóng vai trò chuẩn bị cho sự phát triển mới của triết học ở thời kỳ Phục hưng với hai đại biểu là R.Bêcơn và U. Ôccam. Một số đại biểu của phái Duy danh và Duy thực Tômát Đacanh (1225 – 1274) Là đại biểu của phái Duy thực trong giai đoạn hưng thịnh của chủ nghĩa kinh viện. Học thuyết của ông được thừa nhận là triết học chính thức duy nhất của giáo hội thiên chúa. Tômát Đacanh nghiên cứu nhiều lĩnh vực: thần học, triết học, pháp quyền, đạo đức, chế độ nhà nước và kinh tế. Với 18 cuốn sách trong tuyển tập của ông, hợp thành bộ bách khoa toàn thư về hệ thống tư tưởng thống trị thời trung cổ hưng thịnh. Tômát Đacanh cho rằng triết học không có mâu thuẫn với thần học nhưng triết học thấp hơn thần học, giống như lý trí con người thấp hơn “lý trí của thần”. Giới tự nhiên do trời sáng tạo ra từ hư vô. Sự phong phú, hoàn thiện và trật tự của giới tự nhiên được quyết định bởi sự thông minh của trời. Trật tự đó được trời quyết định theo thứ bậc như sau: bắt đầu từ các sự vật không có linh hồn, tiến qua con người, tới các thần thánh và sau cùng là bản thân chúa trời. Mỗi bậc dưới đều cố gắng đạt lên tới bậc trên, toàn bộ hệ thống mong tiến tới chúa trời. Theo Tômát, con người do chúa trời tạo ra theo “hình dáng của mình” và sắp xếp theo các đẳng cấp khác nhau. Nếu người nào vượt khỏi đẳng cấp của mình là có tội với chúa trời. Chính quyền nhà vua là thừa lệnh “ý của trời”. Quyền lực tối cao bao trùm hết thảy thuộc về giáo hội. Tóm lại, nguyên lý cơ bản của triết học Tômát Đacanh là sự hài hoà giữa đức tin và lý tính, lý tính có thể chứng minh một cách hợp lý sự tồn tại của thượng đế và có thể bác bỏ những ý kiến chống lại chân lý của đức tin. Vì thế ông được coi là nhà duy thực ôn hoà. Bắt đầu từ năm 1879, hệ thống kinh viện của ông được coi là triết học chân thực của đạo thiên chúa và được các nhà tư tưởng chống cộng sử dụng để đấu tranh chống lại thế giới quan khoa học mác xít. Đơn Xcốt (1265 – 1308) Được coi là nhà duy danh lớn nhất thế kỷ XIII. * Vấn đề chủ yếu mà Đơn Xcốt quan tâm là giải quyết mối quan hệ giữa thần học và triết học. Ông có ý tưởng muốn giải phóng triết học khỏi áp bức của giáo hội, cắt đứt mối liên hệ giữa triết học với thần học. Theo ông, thần học nghiên cứu thượng đế, còn triết học nghiên cứu hiện thực khách quan. Lý trí của con người, theo Đơn Xcốt, chỉ có thể nhận thức ở tồn tại những gì mà nó không thể tách rời khỏi các tài liệu cảm tính. Cho nên, con người không có được một khái niệm nào về bản chất phi vật chất như Chúa trời, Thượng đế. Tuy nhiên, Đơn Xcốt không hạ thấp lòng tin tôn giáo. Ông cho rằng, Thượng đế là một tồn tại bất tận, không thể chứng minh được bằng lý trí mà phải dựa vào lòng tin. Đơn Xcốt đứng trên lập trường của phái duy danh trong việc giải quyết mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Ông cho rằng cái chung không chỉ là sản phẩm của lý trí, nó có cơ sở trong bản thân các sự vật. Điều đó có nghĩa là cái chung vừa tồn tại trong sự vật với tính cách là bản chất của sự vật, vừa tồn tại với tính cách là những khái niệm được lý trí của con người trừu tượng hoá khỏi bản chất của sự vật. Về lý luận nhận thức, Đơn Xcốt cho rằng tinh thần và ý trí là hình thức của thân thể con người và gắn liền với thân thể con người đang sống do thượng đế ban cho từ khi con người mới được sinh ra. Tri thức của con người được hình thành từ thần và từ đối tượng nhận thức. Tinh thần tuy có sức mạnh to lớn trong nhận thức, nhưng vẫn phải phụ thuộc vào đối tượng nhận thức. Chỉ có những sự vật đơn nhất và cá biệt là thực tại cao nhất. Rôgiê Bêcơn (1214 – 1294) Là người Anh, một tu sĩ đã phải sống 14 năm trong các nhà giam của giáo hội, ông được coi là người đề xướng vĩ đại nhất khoa học thực nghiệm, ông phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa kinh viện, giáo hội và nhà nước phong kiến. R.Bêcơn đã đưa ra một quan niệm mới về đối tượng của triết học có ý nghĩa quan trọng trong đấu tranh chống triết học kinh viện, mở đường cho mối quan hệ giữa triết học và các khoa học bộ phận. Theo ông, triết học là khoa học lý luận chung giải thích mối quan hệ giữa khoa học bộ phận và đem lại cho các khoa học đó những quan điểm cơ bản, bản thân triết học được xây dựng trên thành quả của các khoa học đó. R.Bêcơn nêu ra những nguyên nhân cản trở chân lý là: do sự sùng bái trước các uy tín không có căn cứ và không xứng đáng; do thói quen lâu đời đối với những quan niệm đã có; do tính vô căn cứ của sự ngu dốt của các nhà bác học dưới các mặt nạ của sự thông thái hư ảo. Theo R.Bêcơn, nguồn gốc của nhận thức là uy tín, lý trí và thực nghiệm; kinh nghiệm là tiêu chuẩn của chân lý, thước đo của lý luận. Trong tri thức khoa học “không có sự nguy hiểm nào lớn hơn sự ngu dốt”. Đây chính là sự tiến bộ của thời ông và có tác dụng chống lại chủ nghĩa kinh viện. Đối lập với chủ nghĩa kinh viện chính thống chuyên nghiên cứu thần học, R.Bêcơn hướng sự nghiên cứu của mình vào khoa học tự nhiên. Ông coi khoa học thực nghiệm là chúa tể của khoa học. Bản thân ông đã có nhiều đóng góp cho các ngành khoa học thực nghiệm. R.Bêcơn cũng có những tư tưởng xã hội tiến bộ. Ông bênh vực quyền lợi của nhân dân, lên án áp bức bóc lột của phong kiến. Ông cũng chống Giáo hoàng và bóc trần những xấu xa của tầng lớp thầy tu, nhưng không chống tôn giáo nói chung. Tóm lại, triết học của R.Bêcơn bộc lộ xu hướng duy vật, ông đã nắm bắt được những biến đổi xã hội vừa mới xuất hiện, và đi trước thời đại ông trong những mơ ước và ý tưởng về sự tiến bộ khoa học. Vì vậy, ông luôn luôn bị nhà nước phong kiến giáo hội truy nã, cầm tù. Tuy nhiên, R.Bêcơn không thể thoát khỏi những hạn chế của thời mình, thời đại thống trị của tôn giáo và nhà thờ. Vì vậy, bên cạnh những tư tưởng tiến bộ, ông tuyên bố: triết học phụ thuộc vào lòng tin, và ông cũng đã dành thời gian để nghiên cứu về “tính chất rõ ràng của tư tưởng” xuất phát từ mẫu mực đầu tiên của thượng đế, và về “lý trí hoạt động tiên nghiệm” Tóm lại: Các nước Tây Âu thời trung cổ đã chìm đắm trong đêm trường của những tư tưởng duy tâm, tôn giáo, thần học và chủ nghĩa ngu dân. Trong đó chủ nghĩa kinh viện, với phương pháp suy luận hình thức, cóp nhặt và tư tưởng khắc kỷ giả dối đã thống trị tư tưởng xã hội. Tuy nhiên, sự đấu tranh dai dẳng chống lại trào lưu duy thực của trào lưu duy danh đã góp phần khai tử chủ nghĩa kinh viện vào thế kỷ XV và chuẩn bị cho sự ra đời của khoa học và triết học thời Phục hưng và cận đại. Triết học thời phục hưng và cận đại Hoàn cảnh ra đời và nét đặc điểm của triết học Tây Âu thời kỳ Phục hưng Hoàn cảnh lịch sử * Về kinh tế: Thời kỳ phục hưng của các nước Tây Âu là giai đoạn lịch sử quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản (thế kỷ XV – XVI). Sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản đã hình thành trong lòng xã hội phong kiến có xu hướng trở thành phương thức sản xuất thống trị, phá vỡ những cát cứ phong kiến lâu đời trung cổ. Việc phát hiện ra châu Mỹ (1492) và con đường hàng hải vòng quanh châu Phi mở đường sang Ấn Độ, Trung Quốc(thế kỷ XVI) đã đem lại cho thương nghiệp, hàng hải, công nghiệp một đà phát triển chưa từng có. * Về chính trị – xã hội: Đi cùng với phương thức sản xuất TBCN là sự ra đời của giai cấp tư sản, giai cấp này có xu hướng ngày càng lớn mạnh đối lập với lực lượng phong kiến bảo thủ. Song, giai cấp tư sản mới lên còn non yếu phải dựa vào nhà nước tập quyền phong kiến của vua chúa để phát triển nền kinh tế theo phương thức sản xuất mới. * Về khoa học: Do yêu cầu của thực tiễn sản xuất, các ngành khoa học tự nhiên (đặc biệt là thiên văn học) được phát triển. Thời kỳ này có những nhà khoa học và triết học tiêu biểu như: Nicôlai Côpécních, Brunô, Galilê, Nicôlai Kuzan, Tômát Morơ, v.v.. Trong số lớn những thành tựu khoa học tự nhiên có ảnh hưởng to lớn đến nhận thức duy vật về thế giới, nổi hơn cả thuyết nhật tâm (lấy mặt trời làm trung tâm) của Nicôlai Côpécních (1475 -1543), để bác bỏ thuyết địa tâm của Ptôlêmê (người Hy Lạp thế kỷ II), một giả thuyết sai lầm coi quả đất là trung tâm của hệ mặt trời. Thuyết nhật tâm của Côpécních đã giáng một đòn nặng nhất vào thần học, vào thế giới quan tôn giáo, vào những truyền thuyết của tôn giáo. Phát minh của Côpécních là “một cuộc cách mạng trên trời” báo trước một cuộc cách mạng trong các lĩnh vực các quan hệ xã hội. Sự phát triển của khoa học tự nhiên đã tạo nên vũ khí tư tưởng mạnh mẽ để giai cấp tư sản chống lại hệ tư tưởng duy tâm và tôn giáo. Khoa học tự nhiên phát triển đã đặt ra nhiệm vụ cho triết học là phải định ra một phương pháp nhận thức mới dựa trên kinh nghiệm, dựa trên sự nghiên cứu tự nhiên bằng thực nghiệm. * Về mặt tinh thần Trong thời đại phục h ưng ở Tây Âu, các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản đã bênh vực triết học duy vật, chống lại chủ nghĩa kinh viện và thần học trung cổ. Tuy vậy, trong các hệ thống triết học ở thời đại này, các yếu tố của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm thường xen kẽ nhau, xu hướng vô thần biểu hiện dưới cái vỏ phiếm thần luận. Cuộc đấu tranh của chủ nghĩa duy vật chống chủ nghĩa duy tâm thường được biểu hiện dưới hình thức đặc thù là khoa học chống tôn giáo, tri thức thực nghiệm đối lập những lập luận kinh viện. Đây là thời kỳ xuất hiện những người “khổng lồ” về tư tưởng như Montaigne, Canvanh (Pháp), Wiliam, Shakespeare (Anh), Leonađơ Vixi, Raphaen, Miken Langiêlo (Ý). Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm vào cuối thế kỷ XVI rất quyết liệt. Tòa án của giáo hội đã quyết án tử hình Brunô, thiêu sống ông trên “quảng trường hoa” ở La Mã chỉ vì Brunô đấu tranh bảo vệ học thuyết Côpécních và bảo vệ quan điểm duy vật về thế giới. Sự chuyên chính của giáo hội và sự thống trị của chủ nghĩa kinh viện trung cổ đã không ngăn cản được sự phát triển bước đầu của khoa học thực nghiệm và triết học duy vật – tiền đề cho những thành tựu mới và những đặc điểm mới của triết học trong các thế kỷ tiếp theo. Đặc điểm của triết học Tây Âu thời kỳ Phục hưng: * Triết học thời kỳ này chưa thoát hết yếu tố duy tâm, các yếu tố duy tâm và duy vật xen kẽ nhau, nó mang yếu tố “phiếm thần luận”, hay “tự nhiên thần luận”. * Triết học chịu ảnh hưởng lớn của của khoa học tự nhiên tới mức khó xác định được gianh giới giữa chúng, nhà triết học đồng thời là nhà khoa học tự nhiên, họ sử dụng những thành quả của khoa học tự nhiên làm cơ sở phát triển CNDV, chống thế giới quan thần học và triết học kinh viện. * Cuộc đấu tranh giữa CNDV và CNDT biểu hiện dưới đặc thù là khoa học chống tôn giáo, tri thức kinh nghiệm đối lập với những lập luận kinh viện. Đặc biệt CNDV thời kỳ này còn được thể hiện qua nền văn hoá nghệ thuật. * Triết học thời kỳ này mang đặc sắc của chủ nghĩa nhân văn, phản ánh khát vọng của giai cấp tư sản đang ở trong quá trình hình thành phát triển. Nền triết học này đã hướng con người trở về với đời sống hiện thực, thoát khỏi những ảo tưởng tôn giáo, đấu tranh cho sự giải phóng con người. Vấn đề quan hệ giữa con người với thế giới trở thành trung tâm của triết học. Triết học Tây Âu thời kỳ Cận đại Tình hình kinh tế – xã hội,và khoa học Thời cận đại (thế kỷ XVII – XVIII) ở các nước Tây Âu là thời kỳ giai cấp tư sản đã giành được thắng lợi chính trị (Cách mạng tư sản Hà Lan cuối thế kỷ XVI; Cách mạng tư sản Anh thế kỷ XVII và Cách mạng tư sản Pháp thế kỷ XVIII). Trong số các cuộc Cách mạng tư sản Tây Âu, thì Cách mạng tư sản Pháp (1789 – 1794) là cuộc cách mạng triệt để nhất – nó xóa bỏ toàn bộ chế độ phong kiến trung cổ, xác lập nền cộng hòa tư sản Pháp. Phương thức sản xuất tư bản được xác lập và trở thành phương thức sản xuất thống trị, công nghiệp và kỹ thuật rất phát triển. Đây là thời kỳ chuyển từ nền “ văn minh nông nghiệp” sang “văn minh công nghiệp”, là thời kỳ phát triển mạnh mẽ thị trường, tạo ra thị trường thống nhất toàn quốc và mở rộng thị trường quốc tế. * Sự phát triển khoa học tự nhiên Phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa đã tạo ra những vận hội mới cho khoa học, kỹ thuật phát triển mà trước hết là khoa học tự nhiên, trong đó cơ học đã đạt tới trình độ là cơ sở cổ điển. Khoa học tự nhiên thời kỳ này mang đặc trưng là khoa học tự nhiên – thực nghiệm. Đặc trưng này tất yếu dẫn đến “thói quen” nhìn nhận đối tượng nhận thức trong sự trừu tượng, tách rời cô lập, không vận động, không phát triển có đề cập tới sự vận động thì chủ yếu là sự vận động cơ giới, máy móc. Đặc điểm của triết học Tây Âu thời kỳ Cận đại Thứ nhất, đây là thời kỳ thắng lợi của chủ nghĩa duy vật đối với chủ nghĩa duy tâm, của những tư tưởng vô thần đối với hữu thần luận. Thứ hai, chủ nghĩa duy vật thời kỳ này mang hình thức của chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc. Phương pháp siêu hình thống trị, phổ biến trong lĩnh vực tư duy triết học và khoa học. Thứ ba, đây là thời kỳ xuất hiện những quan điểm triết học tiến bộ về lĩnh vực xã hội, nhưng nhìn chung vẫn chưa thoát khỏi quan niệm duy tâm trong việc giải thích xã hội và lịch sử. Những đặc trưng ấy được thể hiện rõ nét ở một số triết gia điển hình Hà Lan, Anh và Pháp như: Xpinôda, Ph.Bêcơn, T.Hốpxơ, R.Đêcáctơ, G.La méttri, Đ.Điđơrô, P.Hônbách, G.Rútxô. Trước sự phát triển mạnh mẽ của tư tưởng duy vật, vô thần của thời cận đại, chủ nghĩa duy tâm và thần học buộc phải có những bước cải cách nhất định. Nhu cầu ấy đã được phản ánh đặc biệt rõ nét trong triết học duy tâm chủ quan của nhà triết học thần học G.Béccli. Một số triết gia tiêu biểu Phranxi Bêcơn(1561 – 1621) người sáng lập triết học duy vật Anh. * Thế giới quan: Bêcơn thừa nhận sự tồn tại của thế giới vật chất. Khoa học không biết một cái gì khác ngoài thế giới vật chất, ngoài giới tự nhiên. Bêcơn cho rằng những thuộc tính cơ bản của vật chất là vận động, vật chất luôn ở trong trạng thái vận động vĩnh viễn, vật chất có nhiều tính chất, do đó, vận động cũng có tính đa dạng. * Lý luận nhận thức: Ông cho rằng con người cần thống trị, phải làm chủ giới tự nhiên. Điều đó có thực hiện được hay không, tất cả phụ thuộc vào sự hiểu biết của con người. Bêcơn cho rằng tri thức là sức mạnh, sức mạnh là tri thức. Nhằm xây dựng một cách nhìn mới, ông đã liệt kê và phê phán hai cách phương pháp đang sử dụng phổ biến lúc bấy giờ: Một là phương pháp của các nhà kinh viện chủ nghĩa. Ông ví họ như những con nhện (phương pháp con nhện), chỉ biết nhả tơ và đan lưới, đưa ra những tiền đề vô căn cứ về bản chất của sự vật. Hai là phương pháp của các nhà kinh nghiệm chủ nghĩa. Ông ví họ như như những con kiến (phương pháp con kiến), chỉ biết tha mồi không biết chế biến, chỉ biết sưu tầm lượm lặt, mô tả từng li từng tý các sự kiện vụn vặt. Ông cho rằng các nhà khoa học chân chính phải như con ong (phương pháp con ong), vừa biết kiếm nguyên liệu trong các loài hoa, vừa biết chế ra mật tinh khiết. Để tránh những sai lầm, theo Bêcơn, phương pháp nhận thức tốt nhất là phương pháp quy nạp tức là phương pháp đi từ cái riêng lẻ, ít chung hơn đến cái khái quát trừu tựơng, nhiều chung hơn. Tri thức chân chính chỉ có thể đạt được bằng cách giải thích những liên hệ nhân quả. Bêcơn coi phương pháp thực nghiệm là công cụ chủ yếu của nhận thức khoa học; khoa học cần nhận thức giới tự nhiên, chứ không cần những giáo lý của thần học. Nhận xét về triết học của Bêcơn, Mác viết: “ở Bêcơn, người đầu tiên sáng tạo ra nó, chủ nghĩa duy vật còn che giấu, dưới những hình thức ngây thơ, những mầm mống của sự phát triển mọi mặt. Vật chất mỉm cười với toàn bộ con người, trong vẻ lộng lẫy của cái cảm tính nên thơ của nó”. Chủ nghĩa duy vật của Bêcơn là chủ nghĩa duy vật siêu hình nhưng đã có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của khoa học, nó giáng một đòn rất mạnh vào uy tín của giáo hội và tôn giáo. Tômát Hốpxơ (1588 – 1679) Hốpxơ là nhà triết học duy vật nổi tiếng của Anh thế kỷ XVII, ông đã hệ thống hoá chủ nghĩa duy vật Bêcơn, loại bỏ nhiều yếu tố thần học và tiếp tục cuộc đấu tranh rất kiên quyết chống chủ nghĩa duy tâm và thần học. Hốpxơ cho rằng, sự sợ hãi và ngu dốt sinh ra tôn giáo. * Về thế giới quan: Theo ông giới tự nhiên tồn tại một cách khách quan, không do thần thánh tạo ra và cũng không phụ thuộc vào ý thức con người. Hốpxơ chia triết học thành “triết học tự nhiên”, nghiên cứu những vật thể thiên nhiên và “triết học thông thường” nghiên cứu những vật thể nhân tạo nghĩa là xã hội loài người. Trong một mức độ nhất định, Hốpxơ đã đồng nhất đối tượng của triết học với đối tượng của khoa học cụ thể. Tuy nhiên, cách đặt vấn đề của ông về đối tượng và nhiệm vụ của triết học theo hướng tiến bộ, nhằm chống lại chủ nghĩa kinh viện. Hốpxơ mong muốn đưa ra một hệ thống triết học bao gồm hết thảy, gạt bỏ tính chất thần học và chống lại thuyết về “chân lý hai mặt” của Bêcơn. Khác với Bêcơn, Hốpxơ là một nhà duy vật cơ học điển hình. Ông coi cơ học và toán học là mẫu mực của bất kỳ tư duy khoa học nào. Theo Hốpxơ, vận động là sự thay đổi vị trí của các vật thể, vận động không phải là cái vốn có bên trong của vật chất. Là một nhà cơ học, Hốpxơ không thấy đặc điểm riêng của giới hữu cơ. Ông cho rằng trái tim là gì, nếu không phải là chiếc lò xo, dây thần kinh là gì, nếu không phải là những sợi dây chỉ, còn khớp xương là gì, nếu không phải là những bánh xe làm cho toàn thể cơ thể chuyển động. Lý luận nhận thức: Hốpxơ đã phát triển tư tưởng đúng đắn cho rằng, cơ sở nhận thức là tri giác cảm tính. Nhưng do hạn chế về mặt lịch sử, Hốpxơ vẫn chưa thể hiểu được mối quan hệ biện chứng của nhận thức cảm tính và lý tính. * Về xã hội: Hốpxơ là nhà vô thần, nhưng không triệt để. Ông cho rằng tôn giáo và giáo hội có thể có lợi ích đối với nhà nước để làm “dây trói buộc trong xã hội”. Rơnê Đêcáctơ (1596 – 1654). Đêcáctơ là nhà triết học xuất sắc nhất của Pháp thế kỷ XVII, ông vừa là nhà triết học, toán học, vật lý học, vừa là nhà bách khoa trên nhiều lĩnh vực khác. Về triết học ông là nhà triết học nhị nguyên điển hình Với tính chất nhị nguyên. Ông cho rằng, hai thực thể vật chất và tinh thần tồn tại độc lập với nhau, nhưng cả hai thực thể này đều phục tùng nguyên thể thứ ba – nguyên thể tối cao là thần linh. Nhị nguyên luận của Đêcáctơ biểu hiện tính chất thoả hiệp của hệ tư tưởng tư sản. Gạt bỏ những đạo lý kinh viện của tôn giáo, Đêcáctơ đưa lý trí lên vị trí hàng đầu trong lý luận về nhận thức. Đềcáctơ cho rằng sự ghi nhớ là điểm xuất phát của phương pháp khoa học. Đêcáctơ nhấn mạnh dù anh nghi ngờ mọi cái nhưng không thể nghi ngờ rằng anh nghi ngờ. Đêcáctơ nói: tôi tư duy, vậy tôi tồn tại, và ông cho đó là nguyên lý cơ bản, bất di bất dịch. Ý nghĩa tiến bộ của nguyên lý trên là ở chỗ, nó đề cao vai trò của lý trí, phủ nhận một cách tuyệt đối tất cả những gì người ta mê tín. Nhưng nguyên lý ấy lại thể hiện tính chất duy tâm vì Đêcáctơ đã không nhìn thấy rằng không thể đi tìm tiền để xuất phát của nhận thức ở ngay trong nhận thức mà phải tìm từ bản thân đời sống thực tiễn xã hội. Trong học thuyết về tự nhiên, ông cho rằng tự nhiên là một khối thống nhất gồm những hạt nhỏ vật chất có quảng tính và vận động vĩnh viễn theo đúng những quy luật cơ học. Đêcáctơ thừa nhận sự xuất hiện của thế giới thực vật và động vật trong quá trình vận động. Nhưng ông chưa thấy sự khác nhau về chất giữa thế giới sinh vật, coi cơ thể sống chỉ là một cỗ máy phức tạp. Ông cho rằng, sự khác biệt của con người với động vật là ở chỗ: con người không chỉ là một cơ thể vật chất mà còn là thực thể có lý trí. Nhưng lý trí, theo ông không phụ thuộc vào quá trình vật chất. Điều này biểu hiện quan điểm duy tâm trong triết học Đêcáctơ. Xpinôda (1632 – 1677) là một trong những nhà triết học vĩ đại của thế kỷ XVII. Vấn đề trung tâm của triết học Xpinôda là thuyết thực thể. Theo Xpinôda, thực thể là nguyên nhân đầu tiên của mọi cái đang tồn tại. Vì thực thể đồng nghĩa với bản chất vô tận cho nên thuộc tính của nó cũng nhiều vô tận. Thực thể đồng nhất với tự nhiên không chỉ ở quảng tính mà còn ở tư duy. Nếu Đêcáctơ quan niệm quảng tính và tư duy là những thuộc tính của hai thực thể khác nhau – thực thể vật chất và thực thể tinh thần – thì đối với Xpinôda, hai thuộc tính này cũng là một thực thể thống nhất. Như vậy, học thuyết của Xpinôda về thực thể đã bác bỏ quan niệm nhị nguyên luận của Đêcáctơ, đồng thời còn chống lại quan niệm cổ truyền của mọi tôn giáo cho rằng thượng đế là đấng sáng tạo ra tự nhiên và con người. Tuy nhiên, học thuyết về thực thể của Xpinôda cũng chưa thoát khỏi tính siêu hình. Ông cho rằng, thực thể bất động và bất biến, vận động không phải là thuộc tính vốn có thực thể mà là một dạng thức vận động vô tận tách rời thực thể, dùng để chuyển từ thực thể bất động thành thế giới của dạng thức vận động. Đấy là hạn chế của Xpinôda trong việc giải thích nguồn gốc của vận động. Xpinôda là một nhà vô thần, trong hệ thống triết học duy vật của mình, ông đã phê phán tôn giáo, nêu ra nguồn gốc vai trò xã hội và bản chất tôn giáo. Song, chủ nghĩa vô thần của Xpinôda còn có những hạn chế vì ông quan niệm rằng mê tín là cần thiết để xác định đạo đức, hành vi của quần chúng. Giôn Lốccơ (1632 – 1704) cũng là một đại biểu nổi tiếng của chủ nghĩa duy vật Anh. Tiếp tục phát triển kinh nghiệm của Bêcơn, Lốccơ đưa duy giác luận vào triết học. Nếu Bêcơn khẳng định rằng mọi tri thức đều bắt nguồn từ kinh nghiệm thì Lôcơ cho rằng kinh nghiệm là do những tài liệu cảm tính, những cảm giác hợp thành. Lốccơ bác bỏ thuyết “tư tưởng bẩm sinh” của Đêcáctơ. Ông khẳng định: “không có tư tưởng bẩm sinh”, mà tư tưởng khái niệm của con người xuất hiện trong quá trình con người tiếp xúc với thế giới xung quanh. Cảm giác được hình thành khi con người tiếp cận với thế giới; đó là căn cứ đầu tiên và có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nhận thức. Lốccơ là một trong những người sáng lập ra tự nhiên thần luận. Vào thời bấy giờ, tự nhiên thần luận có tính chất tương đối tiến bộ, đồng thời có tính thoả hiệp. Lốccơ bác bỏ những thuyết tín ngưỡng đương thời, phê phán những giáo lý và tổ chức giáo hội, nhưng ông lại thừa nhận mọi thứ tôn giáo phi lý “tự nhiên” gọi là tự nhiên thần luận. Theo Lốccơ, thần linh là một nguyên thể duy lý cao nhất sáng tạo ra thế giới và những quy luật gắn liền với thế giới, nhưng sau đó thần linh không can thiệp vào thế giới mà mình đã sáng tạo. Do tính chất mâu thuẫn và thoả hiệp nên triết học của Lốccơ về mặt tư tưởng và lý luận là điểm xuất phát cho hai trào lưu tư tưởng đối lập nhau ra đời. Các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII đã đánh giá Lốccơ rất cao, đã phát triển duy giác luận của ông, làm cho nó thoát khỏi những lớp duy tâm phủ bên ngoài. Còn các nhà duy tâm chủ quan Anh mà tiêu biểu Béccli thì lại lợi dụng những yếu tố hạn chế trong duy giác luận của Lốccơ và đưa những yếu tố ấy đến chỗ hoàn toàn phi lý. V.I.Lênin nhận xét: duy giác luận tự nó chưa phải là chủ nghĩa duy vật “ Béccli và Điđơrô, cả hai đều xuất phát từ Lốccơ”. Gióocgiơ Béccli (1684 – 1753) Là đại biểu lớn của chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Điểm xuất phát của triết học Béccli là kinh nghiệm cảm tính được giải thích theo nghĩa “những tập hợp ý niệm” “những phức hợp cảm giác”. Béccli đưa ra một công thức chung: tồn tại tức là được tri giác. Mọi vật chỉ tồn tại trong chừng mực người ta cảm giác được, không có chủ thể thì không có khách thể. Công thức này không tránh khỏi dẫn tới chủ nghĩa duy ngã, nghĩa là ngoài cái “tôi” ra thì không có gì hết. Tính chất phi lý hiển nhiên của chủ nghĩa duy ngã được Béccli “giải quyết” bằng cách cho rằng, mọi vật trong vũ trụ, sở dĩ tồn tại cũng vì chúng được Thượng đế tri giác. Triết học Béccli chống lại nhận thức luận duy vật, thù địch với học thuyết về vật chất. Béccli biết rằng phạm trù vật chất trong tất cả các thời đại đều là nền tảng của các học thuyết triết học vô thần. Vì thế, để chống lại các học thuyết vô thần, Béccli đã tập trung công kích, bác bỏ phạm trù vật chất, “viên đá tảng” của toà lâu đài duy vật triết học. Ông ta cố biện bạch rằng chỉ có cái riêng lẻ, cái đơn nhất là tồn tại, còn tất cả những gì phổ biến – trước hết là thực thể vật chất -đều bị xem là trừu tượng trống rỗng. Đavít Hium (1711 – 1766) Nhà triết học Anh tiếp tục đường lối duy tâm chủ quan của Béccli. Nhưng khác với Béccli, Hium đi đến chủ nghĩa hoài nghi và thuyết “không thể biết”. Hium không thừa nhận bất cứ một thực thể nào. Thực thể, theo ông, chỉ là một sự trừu tượng giả dối được hình thành trên cơ sở của thói quen tâm lý giản đơn. Chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII Các nhà triết học duy vật Pháp thế kỷ XVIII mà các đại biểu xuất sắc là LaMettri (1709 -1751), Hônbách (1729 – 1789), Điđơrô (1713 – 1784), Henvêtruýt (1715 – 1771) đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của triết học duy vật và vô thần. Họ đấu tranh kiên quyết chống lại tôn giáo, kêu gọi đẩy mạnh nghiên cứu với giới tự nhiên. Họ cho rằng, không nắm được các quy luật của tự nhiên thì con người không thể có hạnh phúc. Mục đích của khoa học và triết học là phải nhận thức và chinh phục giới tự nhiên. Trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, các nhà duy vật Pháp thừa nhận vật chất, giới tự nhiên là cái có trước, ý thức là cái có sau. Các nhà duy vật Pháp quan niệm rằng, vật chất là vĩnh cửu và vô tận, không thể biến đổi vật chất thành hư vô, cũng như không thể từ hư vô tạo nên vật chất, vật chất không do ai sáng tạo ra và không thể tiêu diệt được; không gian và thời gian là thuộc tính cơ bản của vật chất. Vận động theo họ, biểu hiện hoạt tính của vật chất và gắn liền với vật chất. Nhờ vận động mà giới tự nhiên luôn chuyển động từ trạng thái này sang trạng thái khác. Các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII là những nhà nhất nguyên luận duy vật, nhưng cũng như các nhà duy vật trước Mác, họ chưa thấy được ý thức không chỉ là sản phẩm của dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người, mà còn là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Tuy đã đi xa hơn các nhà duy vật của thế kỷ XVII, những nhà duy vật Pháp của thế kỷ XVIII vẫn không tránh khỏi tính chất siêu hình và cơ giới trong quan niệm về vật chất và vận động. Vận động, theo họ, chỉ là sự chuyển dịch vị trí của các vật thể trong không gian. Các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII cũng chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Họ đã phạm sai lầm khi khẳng định rằng, sự phát triển của xã hội và các quan hệ xã hội giữa con người đều phụ thuộc vào ý kiến, đặc biệt là ý kiến của những người cầm đầu nhà nước. Mặc dù có những thiếu sót nhất định, chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII đã có tác động tích cực đến sự phát triển tri thức khoa học tự nhiên và khoa học xã hội và có ảnh hưởng to lớn đến cuộc đấu tranh chính trị – xã hội thời bấy giờ. Nó đóng vai trò là cơ sở triết học cho những tư tưởng cách mạng của Cách mạng tư sản Pháp. Triết học cổ điển Đức Điều kiện kinh tế – xã hội và nét đặc thù của triết học cổ điển Đức Khái niệm “triết học cổ điển Đức” dùng để chỉ sự phát triển triết học của nước Đức ở nửa cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, được mở đầu từ hệ thống triết học của Cantơ, trải qua Phíchtơ, Sêlinh đến triết học duy tâm khách quan của Hêghen và triết học duy vật nhân bản của Phoiơbắc. Điều kiện kinh tế-xã hội của nước Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX * Về kinh tế: Nước Đức vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX vẫn còn là một giang sơn phong kiến điển hình, với 360 quốc gia tự lập trong một Liên bang Đức hình thức, lạc hậu về kinh tế và chính trị. Trong khi đó ở nước Anh cuộc cách mạng công nghiệp, ở nước Pháp cuộc cách mạng tư sản đã nổ ra làm rung chuyển châu Âu, đưa châu Âu bước vào nền văn minh công nghiệp. * Về chính trị-xã hội: Với tấm gương các nước Tây Âu đã thức tỉnh tinh thần phản kháng cách mạng của giai cấp tư sản Đức. Nhưng giai cấp này sống rải rác ở những vương quốc nhỏ tách rời nhau, nhỏ bé về số lượng, yếu kém về kinh tế và chính trị, họ vừa muốn làm cách mạng lại vừa muốn thoả hiệp với tầng lớp phong kiến quý tộc Phổ đang thống trị thời đó, giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết những vấn đề phát triển đất nước. * Về tư tưởng: Giai cấp tư sản Đức không làm được cuộc cách mạng tư sản trên thực tiễn nhưng lại làm được cuộc cách mạng về phương diện tư tưởng. Đặc biệt trong lĩnh vực triết học, nước Đức đã có nền triết học phát triển rực rỡ nhất từ trước tới lúc đó. Trên một ý nghĩa nhất định, triết học cổ điển Đức không chỉ là sự phản ánh của những điều kiện kinh tế – chính trị và xã hội nước Đức mà còn cả các nước châu Âu lúc đó. Đặc điểm của triết học cổ đỉển Đức * Do điều kiện kinh tế, chính trị-xã hội hết sức đặc biệt của nước Đức, nên triết học cổ điển Đức chứa đựng một nội dung cách mạng nhưng hình thức của nó thì cực kỳ “rối rắm” và có tính chất bảo thủ. Tiêu biểu nhất trong triết học của Hêghen. * Triết học cổ điển Đức đề cao vai trò tích cực của hoạt động con người, coi con người là một thực thể hoạt động, là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học. Tuy nhiên, các nhà triết học cổ điển Đức đã thần thánh hoá trí tuệ và sức mạnh của con người tới mức coi con người là chúa tể của tự nhiên. * Triết học cổ điển Đức tiếp thu tư tưởng biện chứng trong triết học thời cổ đại, từ đó, xây dựng phép biện chứng trở thành phương pháp triết học đối lập với phương pháp tư duy siêu hình trong việc nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Một số nhà triết học tiêu biểu I.Cantơ (1724 – 1804) * Nét nổi bật trong triết học của Cantơ là những quan niệm biện chứng về giới tự nhiên. Trong tác phẩm Lịch sử tự nhiên phổ thông và lý thuyết bầu trời, ông đã nêu giả thuyết và giá trị về sự hình thành của vũ trụ bằng cơn lốc và kết tụ của các khối tinh vân. Cantơ cũng đưa ra một luận đề sau này được khoa học chứng minh về ảnh hưởng lên xuống của thuỷ triều do lực hấp dẫn giữa trái đất và mặt trăng gây ra đã ảnh hưởng tới trái đất, làm cho vòng xoay của trái đất quanh trục của nó mỗi ngày một chậm lại. Ăngghen đã đánh giá những phỏng đoán của Cantơ là sự công phá vào quan điểm siêu hình (kể cả trong triết học và khoa học). * Triết học Cantơ là triết học nhị nguyên: + Một mặt là nhà triết học duy vật khi ông thừa nhận sự tồn tại của thế giới các “vật tự nó” ở bên ngoài con người, thế giới đó có thể tác động tới các giác quan của chúng ta. + Mặt khác, là nhà triết học duy tâm khi ông lại cho rằng thế giới các vật thể quanh ta mà ta thấy được lại không liên quan gì đến cái gọi là “thế giới vật tự nó”, chúng chỉ là “các hiện tượng …phù hợp với cái cảm giác và tri thức do lý tính của ta tạo ra”. “Vật tự nó” là cái gì không thể nhận thức được, siêu nghiệm và ở bên kia thế giới. Tức nhận thức con người chỉ biết được hiện tượng bề ngoài mà không xâm nhập được vào bản chất đích thực của sự vật. Như vậy, trong lĩnh vực nhận thức luận Cantơ, là người theo thuyết “không thể biết” (mặc dù có khác với thuyết “không thể biết” của Hium. Cantơ chia thế giới thành: + Thế giới những vật tự nó: tồn tại khách quan, không nhận thức được, phụ thuộc thế giới siêu nghiệm, là bản chất của sự vật, không phải là đối tượng của nhận thức. + Thế giới các hiện tượng: tồn tại chủ quan, nhận thức được, phụ thuộc thế giới kinh nghiệm, là hiện tượng của sự vật, là đối tượng của nhận thức (là những gì cảm giác và tri giác được như: đất, nước, cây, núi…) C.Mác, Phoiơbắc, Ăngghen và V.I. Lênin đánh giá cao những công trình của Cantơ về khoa học tự nhiên, về những vấn đề phép biện chứng, nhưng đã bác bỏ thuyết không thể biết và nghiêm khắc phê phán những quan điểm duy tâm của Cantơ về không gian và thời gian, về các phạm trù, bởi vì Cantơ coi phạm trù chỉ là hình thức tiên thiên lý tính của con người. Hêghen (1770 – 1831) Là nhà biện chứng, đồng thời là nhà triết học duy tâm khách quan, đại diện lớn của nền triết học cổ điển Đức.Triết học của ông đầy mâu thuẫn. Nếu phương pháp biện chứng của ông là hạt nhân hợp lý, chứa đựng thiên tài về sự phát triển, thì hệ thống triết học duy tâm của ông phủ nhận tính chất khách quan của những nguyên nhân bên trong, vốn có của sự phát triển của tự nhiên và xã hội. * Hệ thống duy tâm trong triết học Hêghen: Ông cho rằng khởi nguyên của thế không phải là vật chất mà là “ý niệm tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới”. Tính phong phú, đa dạng của thế giới hiện thực là kết quả của sự vận động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. “Ý niệm tuyệt đối” tồn tại vĩnh viễn. “Ý niệm tuyệt đối”, theo nhận xét của Lênin, chỉ là một cách nói theo đường vòng, một cách khác nói về thượng đế mà thôi. Cho nên, triết học của Hêghen là sự biện hộ cho tôn giáo. * Phép biện chứng – hạt nhân hợp lý trong triết học Hêghen: Hêghen đã có công trong việc phê phán tư duy siêu hình và ông là người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một quá trình, nghĩa là trong sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Hêghen đã phát hiện ra các quy luật, các phạm trù cơ bản của phép biện chứng, xây dựng nó trở thành khoa học về sự phát triển của tất cả mọi sự vật và tư tưởng. Song, rất đáng tiếc phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm. Ông cho rằng sự vận động, biến đổi, phát triển của tự nhiên, xã hội là do sự vận động và phát triển của bản thân tư duy, ý niệm tuyệt đối. Trong hệ thống triết học của Hêghen, ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới là tính thứ nhất, giới tự nhiên là tính thứ hai, do ý niệm tuyệt đối và tinh thần thế giới sinh ra và quyết định. Nó là một sự “tồn tại khác” của tinh thần, sau khi trải qua giai đoạn “tồn tại khác” ấy, ý niệm tuyệt đối hay tinh thần thế giới mới trở lại “bản thân mình” và đó là giai đoạn cao nhất, giai đoạn tột cùng, được Hêghen gọi là “tinh thần tuyệt đối”. + Trong các quan điểm xã hội: Hêghen đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa Sôvanh, đề cao dân tộc Đức, miệt thị các dân tộc khác, coi nước Đức là “hiện thân của tinh thần vũ trụ mới”. Chế độ nhà nước Phổ đương thời được Hêghen xem nó như đỉnh cao của sự phát triển nhà nước và pháp luật. Tóm lại, Hêghen là nhà triết học duy tâm khách quan đồng thời là nhà triết học biện chứng: + Là nhà triết học duy tâm khách quan, Hêghen cho rằng “ý niệm tuyệt đối” là cái có trước vật chất, tồn tại vĩnh viễn, không phụ thuộc vào con người, tạo ra thực tại khách quan. Giới tự nhiên chỉ là sự tồn tại khác của ý niệm tuyệt đối. Tính đa dạng của thực tiễn được Hêghen xem như kết quả tác động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. + Là nhà biện chứngông đã có công nêu ra những phạm trù và quy luật cơ bản của phép biện chứng. Nhưng phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm, cho nên Mác gọi đó là phép biện chứng lộn ngược đầu xuống đất, vì đó là những quy luật của sự phát triển “ý niệm tuyệt đối” mà thôi. Mặc dù vậy, ông vẫn chỉ là người đầu tiên trình bày thế giới tự nhiên, lịch sử và tinh thần dưới dạng một quá trình không ngừng vận động biến đổi, phát triển và cố gắng vạch ra mối liên hệ bên trong của sự vận động phát triển ấy. C.Mác và Ph. Ăngghen đã phê phán một cách triệt để tính chất phản khoa học và thần bí của “ý niệm tuyệt đối” trong triết học Hêghen; đồng thời hai ông đánh giá cao và tiếp thu “hạt nhân hợp lý” trong phép biện chứng của Hêghen để xây dựng và phát triển học thuyết về phép biện chứng duy vật của mình. Lútvích Phoiơbắc (1804 – 1872) Là một trong những nhà duy vật lớn nhất của thời kỳ trước C.Mác. Công lao vĩ đại của Phoiơbắc là ở chỗ trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm và thần học, ông đã khôi phục lại vị trí xứng đáng của triết học duy vật; đã giáng một đòn rất nặng vào triết học duy tâm của Hêghen và vào chủ nghĩa duy tâm nói chung. * Quan niệm duy vật triệt để về tự nhiên: Phoiơbắc chứng minh rằng thế giới là vật chất; giới tự nhiên không do ai sáng tạo ra, nó tồn tại độc lập với ý thức và không phụ thuộc vào bất cứ thứ triết học nào. Do đó, cơ sở tồn tại của giới tự nhiên nằm ngay trong lòng giới tự nhiên. * Triết học nhân bản: Phoiơbắc đấu tranh chống các quan niệm tôn giáo chính thống của đạo thiên chúa, đặc biệt quan niệm về thượng đế. Trái với các quan niệm truyền thống của tôn giáo và thần học cho rằng thượng đế tạo ra con người, ông khẳng định, chính con người sáng tạo ra thượng đế. Phoiơbắc nói đến sự tha hoá của bản chất con người và thượng đế. Ông lập luận rằng, bản chất tự nhiên của con người là muốn hướng tới cái chân, cái thiện, nghĩa là hướng tới cái gì đẹp nhất trong một hình tượng đẹp nhất về con người, nhưng trong thực tế, những cái đó con người không đạt được nên đã gửi gắm tất cả ước muốn của mình vào hình tượng thượng đế; từ đó Phoiơbắc phủ nhận mọi thứ tôn giáo và thần học về một vị thượng đế siêu nhiên đứng ngoài sáng tạo con người, chi phối cuộc sống con người. Tuy nhiên triết học nhân bản của Phoiơbắc cũng bộc lộ những hạn chế đó là: con người trong quan niệm của Phoiơbắc là con người trừu tượng, phi xã hội, mang những thuộc tính sinh học bẩm sinh. Triết học nhân bản của Phoiơbắc chứa đựng những yếu tố của chủ nghĩa duy tâm. Ông nói rằng bản tính con người là tình yêu, tôn giáo cũng là một tình yêu. Từ sai lầm này mà Phoiơbắc đã trượt từ chủ nghĩa duy vật trong quan niệm về tự nhiên sang chủ nghĩa duy tâm trong xã hội khi ông cho rằng cần thay thế cho thứ tôn giáo tôn sùng một vị thượng đế siêu nhiên bằng một thứ tôn giáo mới phù hợp với tình yêu của con người. Ông cho rằng cần phải biến tình yêu thương giữa con người thành mối quan hệ chi phối mọi quan hệ xã hội khác, thành lý tưởng xã hội. * Nhận thức luận: Công lao của Phoiơbắc ở chỗ ông công nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới, những gì hôm nay chưa nhận thức được thì các thế hệ mai sau tiếp tục nhận thức. Đối tượng nhận thức là giới tự nhiên, là thế giới vật chất không phụ thuộc vào ý thức của con người. Ông đã phê phán kịch liệt những người theo chủ nghĩa hoài nghi và thuyết không thể biết. Trong khi phát triển lý luận nhận thức duy vật, Phoiơbắc chỉ mới hiểu được thực tiễn là tổng hợp những yêu cầu của con người về tinh thần, về sinh lý, mà chưa nhận thức được nội dung cơ bản của thực tiễn là hoạt động vật chất của con người, là lao động sản xuất vật chất, là đấu tranh giai cấp trong xã hội của con người, và hoạt động thực tiễn của nó là cơ sở của nhận thức cảm tính và lý tính. Đó là những hạn chế của ông trong lý luận nhận thức. Phê phán chủ nghĩa duy tâm của triết học Hêghen: Phoiơbắc phê phán “tinh thần tuyệt đối” của Hêghen nhưng lại vứt bỏ luôn phép biện chứng- mặt tiến bộ, hạt nhân hợp lý trong hệ thống triết học của Hêghen. Mặc dù triết học của Phoiơbắc có những hạn chế nhưng cuộc đấu tranh của ông chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo đã có ý nghĩa lịch sử lớn lao. Vì vậy, triết học duy vật của Phoiơbắc là một trong những nguồn gốc lý luận của triết học Mác. Nhận định về nền triết học cổ điển Đức Triết học cổ điển Đức là một giai đoạn lịch sử tương đối ngắn nhưng nó đã tạo ra những thành quả kỳ diệu trong lịch sử triết học. Trước hết, nó đã từng bước khắc phục những hạn chế siêu hình của triết học duy vật thế kỷ XVII – XVIII. Thành quả lớn nhất của nó là những tư tưởng biện chứng đạt tới trình độ một hệ thống lý luận – điều mà phép biện chứng thời cổ đại Hy Lạp đã chưa có thể đạt được tới và chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII Tây Âu cũng không có khả năng tạo ra. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của triết học cổ điển Đức là tính chất duy tâm, nhất là duy tâm khách quan của Hêghen, còn chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc thì xét về thực chất không vượt qua trình độ chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII Tây Âu. Tóm lại, triết học cổ điển Đức là phản ánh tư tưởng của giai cấp tư sản Đức đó là: vừa biểu hiện tính thoả hiệp thủ tiêu đấu tranh, sợ phong trào quần chúng không dám tiến hành cuộc cách mạng đưa nước Đức phát triển theo con đường Tư bản chủ nghĩa như Anh, Pháp, Hà Lan, vừa phản ánh mặt cách mạng, tiến bộ của thời đại, sự phát triển của khoa học kỹ thuật trong thời kỳ này ở các nước Tây Âu. Do đó, triết học cổ điển Đức thể hiện tính hai mặt: vừa có tính cách mạng, vừa có tính phản động. Những hạn chế và thành quả của triết học cổ điển Đức đã được triết học Mác khắc phục, kế thừa và nâng lên ở trình độ mới của chủ nghĩa duy vật hiện đại. Tự nhiên và xã hội Xã hội Khái lược lịch sử triết học trước Mác Th1 16, 2020 admin Triết học phương đông cổ trung đại Triết học Ấn Độ cổ trung đại. Điều kiện kinh tế-xã hội và đặc điểm về tư tưởng triết học Ấn độ cổ, trung đại. Điều kiện kinh tế-xã hội: * Điều kiện tự nhiên: Ấn Độ cổ trung đại là một lục địa lớn ở phía nam châu Á, có những yếu tố địa lý rất trái ngược nhau: vừa có núi cao lại vừa có biển rộng; vừa có sông Ấn chảy về phía Tây, lại vừa có sông Hằng chảy về phía Đông; vừa có đồng bằng phì nhiêu, lại có sa mạc khô cằn; vừa có tuyết rơi giá lạnh, lại có nắng cháy nóng bức… * Điều kiện kinh tế-xã hội: + Đặc điểm nổi bật về điều kiện kinh tế-xã hội của xã hội Ấn Độ cổ, trung đại là sự tồn tại từ rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế-xã hội theo mô hình “công xã nông thôn”. + Trong xã hội Ấn Độ cổ, trung đại đã phân hóa và tồn tại dai dẳng bốn đẳng cấp lớn: tăng lữ (Bràhman), quý tộc (Ksatriya), bình dân tự do (Vai’sya) và tiện nô (K’sudla). Ngoài sự phân biệt đẳng cấp, xã hội Ấn Độ cổ đại còn có sự phân biệt về chủng tộc, dòng dõi, nghề nghiệp, tôn giáo. * Về văn hóa: người Ấn Độ cổ đại đã tích lũy được những kiến thức phong phú về thiên văn, sáng tạo ra lịch pháp, giải thích hiện tượng nhật thực, nguyệt thực, đã biết quả đất xoay tròn và tự xoay xung quanh trục của nó. Ở đây, toán học cũng xuất hiện rất sớm. Từ thời đó họ đã phát minh ra số thập phân, biết đại số, biết lượng giác, biết phép khai căn, giải phương trình bậc 2, 3. Về y học, ở đây đã xuất hiện những danh y nổi tiếng, chữa bệnh bằng cây thuốc, bằng thuật châm cứu, chủng đậu, ngoại khoa, ..v.v.. Nét nổi bật của văn hóa Ấn Độ cổ, trung đại là thường mang dấu ấn sâu đậm về mặt tín ngưỡng, tôn giáo, tâm linh và có yếu tố thần bí. Triết học Ấn Độ cổ đại được chia ra làm hai phái: chính thống và không chính thống. Phái chính thống (àstika) là phái thừa nhận kinh Vêda gồm có: Sàmkhya, Mimànsa, Vedànta, Yoga, Nỳaya và Vai’sesika. Phái không chính thống hay tà giáo (nàstika) là phái không thừa nhận kinh Vêda gồm có: Jaina, Lokàyata và Buddha (phật giáo). Đặc điểm của triết học Ấn độ cổ đại Thứ nhất: Nền triết học chịu ảnh hưởng lớn của những tôn giáo, triết học có sự đan xen với tôn giáo, các quan niệm triết học, kể cả các quan niệm duy vật đều bị ẩn sau các nghi lễ huyền bí của kinh Vêda, các quan niệm hiện thực pha trộn các quan niệm huyền thoại, cái trần tục trực quan xen lẫn cái ảo tưởng xa xôi, cái bi kịch của cuộc đời xen lẫn cái thần tiên, cõi niết bàn… Tôn giáo Ấn Độ đều tập trung lý giải và thực hành những vấn đề nhân sinh quan dưới góc độ tâm linh tôn giáo nhằm đạt tới sự “ giải thoát”, tức là đạt tới sự đồng nhất tinh thần cá nhân với tinh thần vũ trụ (Át man với Brahman). Thứ hai: Triết học Ấn Độ cổ trung đại thường tôn trọng quá khứ và có khuynh hướng phục cổ: + Đa số các hệ thống triết học đều dựa vào tri thức đã có trong kinh Vê da, lấy các tư tưởng trong kinh Vê da làm điểm xuất phát. + Các luận thuyết triết học về sau thường dựa vào các luận thuyết triết học có trước và tuyên bố sự lệ thuộc vào hệ thống triết học có trước. + Các nhà triết học sau chỉ là bảo vệ, lý giải, hoàn thiện thêm các quan niệm ban đầu Thứ ba: Khi bàn đến vấn đề bản thể luận, một số trường phái triết học xoay quanh vấn đề “tính không” đem đối lập “không” với “có”, quy cái “có” về cái “không” thể hiện một trình độ tư duy trừu tượng cao. Các tư tưởng triết học cơ bản của các trường phái triết học Các trường phái triết học chính thống Một là: Trường phái Sàmkhya: * Theo ngôn ngữ Ấn độ cổ đại Samkhya là người đếm, người tính toán. Phái này đặt cho mình mục đích nhận thức đúng hiện thực bằng cách tính đếm các khách thể và là phương tiện cơ bản để nhận thức. * Những tư tưởng của phái Sàmkhya sơ kỳ đã bộc lộ những tư tưởng có tính duy vật và ít nhiều biện chứng về bản nguyên hiện hữu. Đây là trường phái triết học đi sâu vào cặp nhân-quả, từ đó họ đưa ra những luận điểm nhân quả là quá trình liên tục. Theo họ, kết quả đã tiềm ẩn trong nguyên nhân; bởi vậy, nếu vạn vật của thế giới này là vật chất thì yếu tố tạo nên vạn vật của thế giới với tính cách là nguyên nhân cũng phải là vật chất; đó là “vật chất đầu tiên” (Prakriti) – một dạng vật chất không thể dùng cảm giác mà có thể biết được. * Bất kỳ vật thể nào trong thế giới cũng đều là kết quả của sự thống nhất, hợp nhất, chuyển hoá, tác động liên hệ của ba yếu tố: + Sattva: nhẹ, trong sáng, thuần khiết, tươi vui. + Rajas: kích thích, động, linh hoạt. + Tama: tính ỳ, thụ động, nặng. Khi sự cân bằng của ba yếu tố này bị phá vỡ thì nó biến hoá không ngừng, phát triển trong không gian và thời gian, chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác, do đó, nó chính là nguyên nhân tạo ra sự đa dạng của giới tự nhiên * Những nhà tư tưởng của phái Sàmkhya hậu kỳ lại có khuynh hướng nhị nguyên khi thừa nhận sự tồn tại song song của hai yếu tố đầu tiên là vật chất (Prakriti) và tinh thần (Purusa). Yếu tố Purusa – yếu tố tinh thần mang tính phổ quát vĩnh hằng và bất biến, nó truyền sinh khí, năng lượng biến hóa vào yếu tố vật chất. Hai là: Trường phái Mimànsà * Xuất phát điểm của nó chủ yếu dựa vào bộ kinh Vêda và Upanishad. * Mục đích cơ bản là chú giải, diễn tả những phương pháp cúng bái, lễ nghi, tế lễ và thực hiện các quy tắc xã hội theo bổn phận của mỗi người một cách cụ thể, chặt chẽ. * Các nhà triết học Mimànsà sơ kỳ không thừa nhận sự tồn tại của thần. Họ cho rằng, không tìm được bằng chứng nào về sự tồn tại của thần. Cảm giác không thể nhận ra thần mà các nguồn khác của tri thức thì suy cho cùng cũng dựa trên cảm giác. Họ chống lại quan điểm triết học duy tâm vì nếu tin rằng thế giới hiện thực là không tồn tại, chỉ do ý thức sinh ra thì nghi lễ mà Mimànsà coi trọng và hiệu quả của nó trở nên vô nghĩa. * Những nhà triết học Mimànsà hậu kỳ thừa nhận sự tồn tại của thần. Ba là: Trường phái Vedànta Vêdànta chính là: + Sự hoàn thiện kinh Vêda. + Là học thuyết triết học Tôn giáo, ra đời trên cơ sở tư tưởng của Upanishad. + Trên cơ sở chú giải kinh Vêda và Upanishad, trường phái Vêdànta đưa ra những kết luận triết lý siêu hình biện giải duy tâm về nguyên nhân hình thành vũ trụ và vạn vật. Họ coi Brahman là linh hồn vũ trụ, vĩnh hằng; còn Atman là linh hồn cá thể, một bộ phận của linh hồn tối cao, tức Thượng đế Brahman. Bốn là: Trường phái Yoga Là trường phái có tính cực đoan của chủ nghĩa duy tâm, biểu hiện khuynh hướng suy thoái về tư tưởng của xã hội Ấn Độ trong thời kỳ cổ điển. Yoga có nghĩa là “ sự liên kết” hay “ hợp nhất tâm thể về một khối”. Nội dung cơ bản là đề cập tới những phương pháp tu luyện mà người tu hành phải thực hiện, nhằm giải thoát linh hồn khỏi sự tác động của các giác quan và sự giàng buộc của thể xác, của thế giới vật chất để trở nên trong sạch, để đạt dược sự hiểu biết siêu phàm, tối cao và vĩnh hằng. Trường phái Yoga, Vedànta và Mimànsà đều có xu hướng giải quyết vấn đề nhân sinh quan theo chủ đích đạt tới sự “giải thoát” tối hậu: hòa đồng cái Tôi (Tiểu ngã) với cái vũ trụ (Đại ngã). Năm là: Trường phái Nyàya – Vai’sesika Đây là hai phái khác nhau nhưng có những quan điểm triết học tương đồng, nhất là vào giai đoạn hậu kỳ của mỗi phái. Những tư tưởng triết học căn bản của hai phái này là học thuyết nguyên tử, lý luận nhận thức và lôgic học. * Thuyết nguyên tử: – Bản nguyên của thế giới: đó là bốn yếu tố vật chất: đất – nước – lửa – gió (hay không khí). Những yếu tố này lại được quy vào bản nguyên duy nhất chính là các Anu- hay còn gọi là nguyên tử. Đó là những hạt nhỏ vật chất không đồng nhất, bất biến, vĩnh hằng, được phân biệt ở chất lượng, khối lượng và hình dạng, tồn tại trong một môi trường đặc biệt, trong không gian và thời gian, sự kết hợp của các nguyên tử khác nhau sự tạo ra sự đa dạng của giới tự nhiên. – Phái này còn cho rằng có sự tồn tại của những linh hồn ở những trạng thái phụ thuộc hoặc ở ngoài những nguyên tử vật chất, được gọi là Ya; mà đặc tính của nó được thể hiện ra như ước vọng, ý chí, vui, buồn, giận hờn, v.v… Để phối hợp, điều phối sự tác động của các linh hồn giải thoát ra khỏi các nguyên tử. Năng lực này, phái Nyàya cho là thần Isvara, còn phái Vai’sesika thì gọi là năng lực vô hình, không thể dùng tư duy, ngôn ngữ để biện giải. * Về nhận thức luận và lôgíc học – Thừa nhận sự tồn tại khách quan của đối tượng nhận thức; đề cao vai trò của kinh nghiệm trong nhận thức..v.v. Thước đo duy nhất để kiểm tra tính chân lý của các tri thức là thực tiễn. – Lôgíc: Hình thức biện luận được phái này đưa ra có thể gọi là “ngũ đoạn luận”, gồm năm mệnh đề: 1. Luận đề : Đồi có lửa cháy; 2. Nguyên nhân: Vì đồi bốc khói; 3. Bất cứ cái gì bốc khói đều có lửa cháy; thí dụ: bếp lò; 4. Suy đoán: đồi bốc khói thì không thể không có lửa cháy; 5. Kết luận: Do đó, đồi có lửa cháy. Các phái Nyàya và Vai’sesika ban đầu có tư tưởng vô thần đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm triết học. Song ở giai đoạn cuối, họ lại có thần và cho rằng thần đã dùng nguyên tử để xây dựng nên thế giới. Các trường phái không chính thống Một là: Trường phái Jaina Jaina là một tôn giáo xuất hiện gần đồng thời với phật giáo. Người sáng lập trường phái này tên là Mahavira, còn có hiệu là Jaina (nghĩa là chiến thắng). Trường phái này tự đặt cho mình nhiệm vụ là tìm ra con đường và phương tiện đưa lại sự giải thoát cho con người, nhưng lại phủ nhận sự tồn tại của Brahman (tinh thần vũ trụ). * Về bản thể luận: Học thuyết triết học này đề cao thuyết tương đối, theo thuyết này: + Tồn tại đầu tiên là bất biến, vô thủy, vô chung, sự biến chuyển của vạn vật là không cùng. + Thế giới vạn vật vừa bất biến vừa biến chuyển. Cái bất biến, vĩnh hằng là vật chất; cái không bất biến, không vĩnh hằng là các dạng của vật chất, giống như đất sét không thay đổi, nhưng những cái bình nặn bằng đất sét thì luôn thay đổi. * Về nhận thức luận: Jaina cho rằng nhận thức là sự phản ánh thế giới, phản ánh tính biến chuyển liên tục của thế giớiTôma. Để nhận thức thế giới phải xây dựng và sử dụng hệ thống các khái niệm như là các công cụ đồng thời cũng là kết quả của sự nhận thức. Một số khái niệm chủ yếu như sau: – Tồn tại – không tồn tại. – Vừa tồn tại vừa không tồn tại. * Jaina tin vào thuyết “luân hồi” và “nghiệp”. Để giải thoát luân hồi, con người cần phải tu luyện theo luật Ahimsa ( không sát sinh, không bạo lực, sống khổ hạnh…) Hai là: Trường phái Lokàyata Lokàyata là trường phái duy vật tương đối triệt để và vô thần. * Về bản thể luận: phái này cho rằng: mọi sự vật, hiện tượng của thế giới đều tạo ra bởi bốn yếu tố vật chất (đất – nước – lửa – không khí). Những yếu tố này có khả năng tự tồn tại, tự vận động trong không gian và cấu thành vạn vật, kể cả con người. + Tính đa dạng của vạn vật chính là do sự kết hợp với những phương thức, tỷ lệ, trật tự khác nhau của những yếu tố bản nguyên đấy. + Không có linh hồn bất tử. bản thân linh hồn hay ý thức cũng do sự liên kết của các nguyên tử vật chất theo cách thức đặc biệt, vật chất sinh ra ý thức cũng như gạo nấu thành rượu, nhưng rượu lại có tính chất mà gạo không có là làm người ta say. Từ đó, phái Lokàyata phủ nhận thuyết “luân hồi” và “nghiệp”, chế giễu “sự giải thoát”. Họ cho con người không phải gì khác là thân thể có ý thức, khi con người chết thì linh hồn cũng mất. * Về lý luận nhận thức, phái này có khuynh hướng duy vật theo lập trường kinh nghiệm luận. Họ cho rằng cảm giác là nguồn gốc duy nhất, xác thực của nhận thức. Các kết luận, các suy lý chỉ có giá trị trong mối liên hệ với thế giới một cách kinh nghiệm. Họ phủ nhận tính chân xác của những tri thức lý tính. Ba là: Triết học Phật giáo (Buddha) Triết học Phật giáo là một trường phái triết học – tôn giáo điển hình thuộc phái không chính thống và có ảnh hưởng rộng rãi, lâu dài trên phạm vi thế giới. Phật giáo được hình thành vào thế kỷ VI tr.CN. Người sáng lập là Siddharta (Tất Đạt Đa). Sau này ông được tôn xưng với nhiều danh hiệu khác nhau, nhưng phổ biến nhất là Sakyamuni (Thích Ca Mâu Ni) còn có hiệu là Buddha (phật). Tư tưởng triết học của Phật giáo nguyên thủy chứa đựng những yếu tố duy vật và biện chứng chất phát, thể hiện rõ nét nhất ở quan niệm về tính tự thân sinh thành, biến đổi của vạn vật, tuân theo tính tất định và phổ biến của luật nhân – quả. Những tư tưởng này được thể hiện trong bộ “ tam tạng”- bộ kinh điển của đạo phật. Đó là: 1. Tạng kinh: ghi lời phật dạy. 2. Tạng luật: Gồm các giới luật của đạo phật. 3. Tạng luận: gồm các bài kinh, các tác phẩm luận giải bình chú về giải pháp của các cao tăng học giả về sau. * Về giới tự nhiên + Phật giáo cho rằng thế giới có bản nguyên đầu tiên là vật chất. Thế giới vận động một cách “vô thường”, “sắc sắc”, “không không”. Sinh, trụ, dị, diệt. Do đó, phật giáo có thế giới quan. + Phật giáo cho rằng vũ trụ là vô thuỷ vô chung, nếu đi tìm nguyên nhân thứ nhất của cũ trụ thì uổng công vô ích, vì khi vất vả đi tìm nguyên nhân thứ nhất, chúng ta sẽ phát hiện ra rằng trước nguyên nhân thứ nhất lại có một nguyên nhân nữa, rồi cứ thế xoay vần mãi không thôi, sẽ mãi mãi không tìm ra nguyên nhân thứ nhất cố định, bất biến. Phật giáo cho rằng vạn vật vũ trụ là do “ nhân duyên hội tụ” lại mà thành, không có vật nào lại tồn tại mãi mãi mà không biến đổi, nhân duyên hợp thì sinh, nhân duyên rời là diệt. + Phạm trù “vô ngã” bao hàm tư tưởng cho rằng, vạn vật trong vũ trụ chỉ là sự “giả hợp” do hội đủ nhân duyên nên thành ra có (tồn tại). Ngay bản thân sự tồn tại của thực thể con người chẳng qua cũng là do “ngũ uẩn” (năm yếu tố) hội hợp lại ngũ uẩn đó là: sắc (vật chất), thụ (cảm giác) tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức). Như vậy, thì không có cái gọi là “tôi” (vô ngã). + Phạm trù “vô thường” nghĩa là vạn vật biến đổi vô cùng theo chu trình bất tận: sinh – trụ -dị – diệt. Vậy thì “có có” – “không không” luân hồi bất tận; “thoáng có”, “thoáng không”, cái còn mà chẳng còn, cái mất mà chẳng mất. * Về nhân sinh quan Phật giáo đặc biệt chú trọng triết lý về nhân sinh, Phật giáo đặt vấn đề tìm kiếm mục tiêu nhân sinh ở sự “giải thoát” (Moksa) khỏi vòng “luân hồi”, “nghiệp báo” để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn (Nirvana). Nội dung triết học nhân sinh của phật giáo tập trung ở bốn luận đề (“tứ diệu đế”), được Phật giáo coi là bốn chân lý vĩ đại. Luận đề thứ nhất: Khổ đế, là luận điểm khái quát về thực trạng của đời người, theo triết lý nhân sinh của Phật giáo thì cuộc sống nhân có 8 nỗi khổ trầm luân bất tận mà từ bất cứ ai cũng phải gánh chịu: Sinh; Lão; Bệnh;Tử (chết); Thụ biệt ly (yêu thương nhưng phải chia lìa ); Oán tăng hội (oán ghét nhau mà phải sống với nhau); Sở cầu bất đắc (cái mong muốn mà không đạt được); Ngũ thụ uẩn( 5 yếu tố vô thường nung nấu làm nên sự đau khổ) Luận đề thứ hai: tập đế hay nhân đế: là luận đề lý giải về những nguyên nhân gây đau khổ. Đó là 12 nguyên nhân (thập nhị nhân duyên): 1. Vô minh: là không sáng suốt, ngu tối. 2. Hành: là ý muốn thúc đẩy hành động, tạo ra nghiệp lành-dữ. 3. Thức: là nhận thức, ý thức phân biệt cái tâm trong sáng, cân bằng với cái tâm ô nhiễm, mất cân bằng. 4. Danh sắc: là sự thống nhất, kết hợp cái vật chất (sắc) và cái tinh thần (danh) để sinh ra 6 cơ quan cảm giác. 5. Lục nhập: quá trình thâm nhập của thế giới xung quanh vào các giác quan. 6. Xúc: là sự tiếp xúc, phối hợp giữa các lục căn với lục trần (giác quan với thế giới bên ngoài). 7. Thụ: là sự cảm thụ (vui, buồn, sướng, khổ). 8. Ái: là sự yêu thích mà nảy sinh ham muốn dục vọng, từ đây tạo động cơ thúc đẩy thân,khẩu, ý để tạo nghiệp mới. 9. Thủ: giữ lấy, chiếm đoạt cái mà mình yêu thích. 10. Hữu: là sự tồn tại để hưởng cái mà mình chiếm đoạt được. 11. Sinh: đã có nghiệp (hữu) tức là nghiệp nhân thì ắt có nghiệp quả. 12. Lão, Tử: đã có sinh ắt có già và chết. Đó là 12 nguyên nhân và kết quả nối tiếp nhau tạo ra cái vòng luẩn quẩn của nỗi khổ đau nhân loại. Trong 12 nhân duyên ấy thì “Vô minh” (avidya) là ngu tối, không sáng suốt là nguyên nhân đầu tiên. Luận đề thứ ba: Diệt đế, cho rằng có thể tiêu diệt được nỗi khổ, đạt tới trạng thái Niết bàn. Khái niệm niết bàn của triết học phật giáo được hiểu theo nghĩa đó là trạng thái con người đã thoát khỏi khổ đau. Luận đề thứ tư:Đạo đế, chỉ ra con đường diệt khổ đạt tới giải thoát. Đó là con đường “tu đạo”, hoàn thiện đạo đức cá nhân gồm 8 nguyên tắc (bát chính đạo): 1.Chính kiến (hiểu biết đúng sự thật nhân sinh, là trực kiến của chính bản thân mình). 2. Chính tư duy (suy nghĩ đúng đắn, muốn vậy phải gạt bỏ “ vô minh”). 3. Chính ngữ (giữ lời nói chân chính, ngay thẳng ). 4. Chính nghiệp (giữ đúng trung nghiệp, không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm). 5. Chính mệnh (giữ ngăn dục vọng, tuân theo các điều răn). 6. Chính tinh tiến (rèn luyện không mệt mỏi). 7. Chính niệm (có niềm tin vững chắc vào sự giải thoát). 8. Chính định (tập trung tư tưởng cao độ, làm cơ sở cho chính kiến, chính tư duy ở trình độ cao). (Tám nguyên tắc này có thể thâu tóm vào ba điều học tập, rèn luyện là: Giới – Định -Tuệ (tức là: Giữ giới luật, thực hành thiền định và khai thông trí tuệ Bát nhã). Tóm lại: Phật giáo là một trào lưu triết học lớn ở Ấn Độ cổ đại, ở giai đoạn đầu, học thuyết triết học ấy chứa đựng những yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng, nó nói lên được tiếng nói phản kháng chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, phê phán sự bất công, đòi tự do, bình đẳng xã hội. Đồng thời nó cũng nêu lên khát vọng giải thoát con người khỏi những bi kịch của cuộc đời, khuyên con người sống lương thiện, từ bi, bác ái. Chính vì thế, ngay từ đầu học thuyết ấy đã đi sâu vào lòng người, truyền bá một cách nhanh chóng và rộng rãi không chỉ ở Ấn Độ mà ở nhiều nước khác. Tuy nhiên, điểm hạn chế lớn của triết học phật giáo là lý giải con đường giải thoát con người khỏi nỗi khổ đau của cuộc đời có tính chất duy tâm và ảo tưởng. TỔNG KẾT. Triết học Ấn Độ cổ trung đại là một trong hai nền tư tưởng lớn của phương Đông, có một vai trò rất lớn trong quá trình phát triển tư tưởng văn hoá vùng châu Á. Một là: So với các nền triết học khác, triết học Ấn Độ cổ trung đại là một trong những trào lưu triết học ra đời và phát triển rất sớm, là một trong những cội nguồn, cái nôi của triết học thế giới nói riêng và của nền văn minh nhân loại nói chung. Hai là: Với bề dày thời gian hàng ngàn năm ấy, nền triết học Ấn độ cổ trung đại đã làm nên một vóc dáng đồ sộ, chứa đựng những tư tưởng quý báu của nhân loại. Tính đồ sộ của nó không chỉ ở quy mô, số lượng của các tác phẩm để lại, ở sự đa dạng của các trường phái mà còn ở sự phong phú trong cách thể hiện và đặc biệt là sự sâu rộng về nội dung phản ánh. Sự phong phú về nội dung: các trường phái đều đề cập tới nhiều vấn đề lớn của triết học như: vũ trụ quan, nhân sinh quan và phép biện chứng mà tiêu biểu là những quan điểm về bản thể luận, về tính vô cùng vô tận của thế giới, về biện chứng của quá trình biến đổi vũ trụ và nhân sinh, và đặc biệt là con người với đời sống tâm linh và con đường giải thoát. Sự đa dạng về hình thức: văn xuôi, văn vần, thơ ca, bằng các tác phẩm viết ra bằng chữ, và còn bằng cả hình thức truyền miệng. Ba là: Triết học Ấn Độ cổ trung đại đặc biệt chú ý tới vấn đề con người: hầu hết các trường phái triết học thường tập trung giải quyết vấn đề “ nhân sinh” và con đường “ giải thoát”, nhưng nguyên nhân của sự đau khổ không phải trong đời sống kinh tế-xã hội mà ở trong ý thức, trong sự “ vô minh”, sự “ ham muốn” của con người, vì vậy con đường giải thoát đều mang sắc thái duy tâm, yếm thế. Bốn là: Các quan điểm duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình không được thể hiện một cách rạch ròi, tách bạch nhau mà chúng thường đan xen nhau, xen kẽ lẫn nhau trong quá trình vận động và phát triển. Chính sự đan xen đó một mặt tạo ra “ vẻ đẹp” thâm trầm, uyển chuyển của triết học Ấn Độ cổ trung đại, mặt khác, tạo ra lực cản không nhỏ đối với sự phát triển của nền triết học ấy. Tóm lại: Triết học Ấn Độ cổ trung đại là một nền triết học lớn của phương Đông. Nó để lại nhiều tư tưởng quý báu cho nhân loại, khiến cho nhiều thế hệ các nhà triết học của các dân tộc đã, đang và sẽ hướng tới. Tuy nhiên, nền triết học Ấn Độ cổ, trung đại vẫn còn ảnh hưởng sâu sắc nhiều quan niệm thần bí và tôn giáo. Đây là những vấn đề mà khoa học hiện đại còn tiếp tục nghiên cứu để khẳng định hay bác bỏ. Triết học Trung Hoa cổ đại Điều kiện kinh tế-xã hội và đặc điểm của triết học Trung hoa cổ đại. Điều kiện kinh tế-xã hội : Trung Hoa thời cổ là một quốc gia rộng lớn, có lịch sử lâu đời từ cuối thiên niên kỷ thứ III tr.CN kéo dài tới tận cuối thế kỷ III tr.CN, với sự kiện Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa bằng uy quyền bạo lực mở đầu thời kỳ Trung Hoa phong kiến. Trong khoảng 2000 năm đó, lịch sử Trung Hoa được phân chia làm hai thời kỳ lớn: Thời kỳ từ thế kỷ IX tr.CN trở về trước; và thời kỳ từ thế kỷ VIII tr.CN đến cuối thế kỷ III tr.CN. Trong thời kỳ thứ nhất: Gồm các triều đại nhà Hạ, nhà Thương và Tây Chu: Bắt đầu từ khoảng thế kỷ XXI tr.CN, kết thúc vào khoảng thế kỷ thứ XI tr.CN với sự kiện nhà Chu đưa chế độ nô lệ ở Trung Hoa lên tới đỉnh cao. Trong thời kỳ thứ nhất này, những tư tưởng triết học ít nhiều đã xuất hiện, nhưng chưa đạt tới mức là một hệ thống. Thế giới quan thần thoại, tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm thần bí là thế giới quan thống trị trong đời sống tinh thần xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ. Thời kỳ thứ hai (thường gọi là thời Xuân Thu-Chiến Quốc) là thời kỳ chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến với những đặc điểm cơ bản sau đây: + Đất đai trước đây thuộc về nhà Vua thì nay bị một tầng lớp mới, tầng lớp địa chủ chiếm làm tư hữu. + Một sự phân hóa sang hèn dựa trên cơ sở tài sản bắt đầu xuất hiện. + Xã hội lúc này ở vào tình trạng hết sức đảo lộn: sự tranh giành địa vị xã hội của các thế lực cát cứ đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt liên miên. Đây chính là điều kiện lịch sử đòi hỏi phải giải thể chế độ nô lệ thị tộc, hình thành xã hội phong kiến. Trong tình hình đó, một loạt học thuyết chính trị – xã hội và triết học đã xuất hiện và hầu hết đều có xu hướng giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị – đạo đức của xã hội. Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ “bách gia chư tử” (trăm nhà trăm thầy), “bách gia minh tranh” ( trăm nhà đua tiếng). Điều đó trở thành nét đặc trưng chủ yếu của triết học Trung Hoa cổ đại. Đặc điểm của triết học Trung hoa cổ, trung đại: * Thứ nhất: Triết học Trung hoa cổ, trung đại là nền triết học nhấn mạnh tinh thần nhân văn, còn triết học tự nhiên có phần mờ nhạt. * Thứ hai là các triết gia Trung hoa đều xem thực hành đạo đức như là hoạt động thực tiễn căn bản nhất của một đời người, là vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội, do đó, triết học Trung hoa cổ, trung đại là nền triết học chính trị đạo đức, đây cũng là nguyên nhân triết học dẫn đến sự kém phát triển về nhận thức luận và sự lạc hậu về khoa học thực chứng của Trung hoa. * Thứ ba là nhấn mạnh sự hài hoà thống nhất giữa tự nhiên và xã hội. Khi khảo cứu các vận động của tự nhiên, xã hội và nhân sinh, đa số các nhà triết học TiềnTần đều nhấn mạnh sự hài hoà thống nhất giữa các mặt đối lập, coi trọng tính đồng nhất của các mối liên hệ tương hỗ của các khái niệm, coi việc điều hoà mâu thuẫn là mục tiêu cuối cùng để giải quyết vấn đề. * Thứ tư là triết học dựa trên tư duy trực giác, phương thức tư duy trực giác đặc biệt coi trọng tác dụng của cái tâm, coi tâm là gốc rễ của nhận thức. Vì vậy, các khái niệm và phạm trù chỉ là trực giác, thiếu suy luận lô gích, làm cho triết học Trung hoa cổ trung đại thiếu đi những phương pháp cần thiết để xây dựng một hệ thống lý luận khoa học. Một số học thuyết tiêu biểu của triết học Trung hoa cổ, trung đại Thuyết Âm- Dương, Ngũ hành Một là:Tư tưởng triết học về Âm – Dương Triết học Âm – Dương có thiên hướng suy tư về nguyên lý vận hành đầu tiên và phổ biến của vạn vật, đó là sự tương tác của hai thế lực đối lập nhau: Âm và Dương. + “Âm” là một phạm trù rất rộng, phản ánh khái quát những thuộc tính phổ biến của vạn vật như: nhu, thuận, tối, ẩm, phía dưới, phía phải, đàn bà v.v. + “Dương” là phạm trù đối lập với “Âm”, phản ánh khái quát những tính chất phổ biến như: cương, cường, sáng, khô, phía trên, phía trái, đàn ông .v.v.. + Hai thế lực Âm – Dương không tồn tại biệt lập mà là thống nhất với nhau, chế ước lẫn nhau theo ba nguyên lý căn bản sau: – Âm – Dương thống nhất trong Thái cực (Thái cực được coi như nguyên lý của sự thống nhất của hai mặt đối lập là âm và dương). Nguyên lý này nói lên tính toàn vẹn, chỉnh thể, cân bằng của cái đa và cái duy nhất. Chính nó bao hàm tư tưởng về sự thống nhất giữa cái bất biến và cái biến đổi. -Trong Âm có Dương và trong Dương có Âm. Do đó, trong động có tĩnh, trong tĩnh có động, Âm – Dương có động mới giao nhau, mới biến mà sinh sinh- hoá hoá → nguyên nhân căn bản của sự biến đổi là giao cảm của Âm-Dương. Hai nguyên lý này thường được các học giả phái Âm – Dương khái quát bằng vòng tròn khép kín (tượng trưng cho thái cực), trong đó được chia thành hai nửa đối lập (đen – trắng) và trong nửa này đã bao hàm nhân tố của nửa kia (trong phần đen có nhân tố của phần trắng và ngược lại), biểu tượng cho nguyên lý: trong Âm có Dương và trong Dương có Âm. – Sự khái quát sơ đồ hình Thái cực Âm – Dương còn bao hàm nguyên lý: Dương tiến đến đâu thì Âm lùi đến đó và ngược lại, đồng thời “Dương cực Âm sinh”, “Âm thịnh thì Dương khởi”. Để giải thích lịch trình biến hoá trong vũ trụ, người Trung Hoa đã đưa ra cái Lôgic tất định: Thái cực sinh Lưỡng nghi (Âm – Dương); Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (Thái Dương – Thiếu Âm -Thiếu Dương – Thái Âm) và tứ tượng sinh Bát quái (Càn – Khảm – Cấn – Chấn – Tốn – Ly – Khôn -Đoài); Bát quái sinh vạn vật (vô cùng vô tận). Tư tưởng triết học về Âm – Dương đạt tới mức là một hệ thống hoàn chỉnh trong tác phẩm kinh dịch, Tinh hoa của kinh dịch là dịch, tượng, từ với nguyên lý Âm-Dương, cụ thể: + “ Dịch”: là sự biến hoá, phát triển của vạn vật ( biến dịch ) với quy luật là: không rõ ràng → rõ ràng → sâu sắc → kịch liệt→ cao điểm → mặt trái. Nguyên nhân căn bản tạo nên sự biến hoá của sự vật là sự giao cảm của Âm-Dương trong thái cực. + “ Tượng”: chỉ sự biến dịch của vạn vật, biểu hiện qua các quẻ. + “ Từ”: là biểu thị tượng về phương diện lành hay dữ, động hay tĩnh. + “ Nguyên lý Âm-Dương” nói lên khả năng biến đổi Âm – Dương đã bao hàm trong mỗi mặt đối lập của Thái cực, là nguyên nhân căn bản tạo nên sự biến hoá trong vũ trụ. Hai là: những tư tưởng triết học về Ngũ hành * Tư tưởng triết học về ngũ hành có quan hệ với việc sùng bái của con người với 5 loại vật chất của tự nhiên cần thiết, đó là: Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ, năm loại vật chất ấy luôn vận động biến đổi, và khi tác động vào các giác quan của con người cho ta những biến thái về tâm sinh lý: * Năm yếu tố này không tồn tại biệt lập tuyệt đối, mà trong một hệ thống ảnh hưởng sinh -khắc với nhau theo hai nguyên tắc sau: +Tương sinh (sinh hóa cho nhau): Thổ sinh Kim; Kim sinh Thủy; Thủy sinh Mộc; Mộc sinh Hoả; Hỏa sinh Thổ;.v.v. + Tương khắc (chế ước lẫn nhau); Thổ khắc Thủy; Thủy khắc Hỏa; Hỏa khắc Kim; Kim khắc Mộc; và Mộc khắc Thổ;.v.v.. + Gianh giới tương sinh, tương khắc là tương đối. + Tương sinh, tương khắc là quy luật chung của sự vận động và biến hoá. + Là hai điều kiện không thể thiếu để duy trì thăng bằng tương đối trong hết thảy mọi vật. Nho gia (thường gọi là Nho giáo) Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỉ VI tr.CN dưới thời Xuân Thu, người sáng lập là Khổng Tử (551 tr.CN – 479 tr.CN). Sau khi Khổng Tử chết, nho gia chia làm tám phái, nhưng quan trọng nhất là phái Mạnh Tử và Tuân Tử với hai xu hướng khác nhau: duy tâm và duy vật, trong đó dòng nho gia Khổng – Mạnh có ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Hoa và một số nước lân cận. Kinh điển của Nho giáo thường được kể tới là Tứ Thư (Luận Ngữ, Đại học, Trung Dung, Mạnh Tử) và Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ Dịch, Xuân Thu). Quan điểm về xã hội, về chính trị – đạo đức của Nho gia được thể hiện ở những tư tưởng chủ yếu sau: * Về vũ trụ và giới tự nhiên + Khổng tử tin vào vũ trụ quan “dịch”, tin vào sự vận hành biến hoá không ngừng của sự vật, cuộc vận hành ấy có trật tự, có hoà điệu, mà nguyên nhân của trật tự và hoà điệu ấy con người không thể cưỡng lại được, nên Khổng Tử gọi đó là “ thiên mệnh” , ông cho “Trời” có ý chí làm chúa tể của vũ trụ, chi phối mọi sự biến hóa cho hợp lẽ điều hoà. Tin vào mệnh trời, Khổng Tử coi việc hiểu biết mệnh trời là điều kiện để trở thành người hoàn thiện. + Khổng Tử tin có quỷ thần, nhưng quan niệm quỷ thần của ông có tính chất lễ giáo nhiều hơn là tôn giáo. Khổng Tử cũng cho rằng quỷ thần không có tác dụng chi phối đời sống của con người, ông phê phán sự mê tín quỷ thần. * Quan niệm về chính trị- đạo đức Thứ nhất, Nho gia coi những quan hệ chính trị – đạo đức là những nền tảng của xã hội, trong đó quan hệ quan trọng nhất là quan hệ vua – tôi, cha – con và chồng – vợ (gọi là Tam cương). Nếu xếp theo “tôn ty trên – dưới” thì vua ở vị trí cao nhất, còn nếu xếp theo chiều ngang của quan hệ thì vua – cha – chồng xếp ở hàng làm chủ. Điều này phản ánh tư tưởng chính trị quân quyền và phụ quyền của Nho gia. Thứ hai, xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong kiến, một xã hội đầy những biến động loạn lạc và chiến tranh, nên lý tưởng của Nho gia là xây dựng một “xã hội đại đồng”. Đó là một xã hội có trật tự trên – dưới, có vua sáng – tôi hiền, cha từ – con thảo, trong ấm – ngoài êm; trên cơ sở địa vị và thân phận của mỗi thành viên từ vua chúa, quan lại đến thứ dân. Đó chính là thuyết chính danh ( theo Khổng tử chỉ có một lối để phục hưng trật tự xã hội là thu xếp thế nào để cho vua ở địa vị của vua, thần ở địa vị của thần, dân ở địa vị của dân, như vậy thì vật nào ở địa vị chính danh của vật đó, trong xã hội ai cũng thực hiện đúng chính danh của mình thì xã hội ổn định). Thứ ba, Nho gia lấy giáo dục làm phương tiện chủ yếu để đạt tới xã hội lý tưởng “đại đồng”. Nền giáo dục Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo đức con người, mà chuẩn mực gốc là “Nhân”. Những chuẩn mực khác như: Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu, v.v.. đều là những biểu hiện của Nhân. Thứ tư, Nho gia không có sự thống nhất quan điểm về vấn đề bản chất con người. + Mạnh Tử: Theo ông “bản tính người vốn là thiện”. Thiện là tổng hợp những đức tính của con người từ khi mới sinh: Nhân, Nghĩa, Lễ…Do đó, ông đề cao sự giáo dục để con người trở về đường thiện với những chuẩn mực đạo đức có sẵn. + Tuân Tử lại coi bản tính người vốn là ác. Mặc dù bản tính con người là ác, nhưng có thể giáo hóa thành thiện (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín…).Do đó, Tuân Tử chủ trương đường lối trị nước là kết hợp Nho gia với Pháp gia. So với các học thuyết khác, Nho gia là học thuyết có nội dung phong phú và mang tính hệ thống hơn cả; hơn thế nữa để trở thành hệ tư tưởng chính thống, Nho gia đã được bổ sung và hoàn thiện qua nhiều giai đoạn lịch sử trung đại: Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh, nhưng tiêu biểu hơn cả là dưới triều đại nhà Hán và nhà Tống, gắn liền với tên tuổi của các bậc danh Nho như Đổng Trọng Thư (thời Hán), Chu Đôn Di, Trương Tải, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy (thời Tống). Quá trình bổ sung và hoàn thiện Nho gia thời trung đại được tiến hành theo hai xu hướng cơ bản: Một là, hệ thống hóa những quan điểm và chuẩn mực hóa những quan điểm triết học của Nho gia theo mục đích ứng dụng vào đời sống xã hội, phục vụ lợi ích thống trị của giai cấp phong kiến, vì thế Đổng Trọng Thư đã làm nghèo nàn đi nhiều giá trị nhân bản và biện chứng của Nho gia cổ đại. Tính duy tâm thần bí của Nho gia trong các quan điểm về xã hội cũng được đề cao. Tính khắc nghiệt một chiều trong các quan hệ Tam cương, Ngũ thường thường được nhấn mạnh. Hai là, hoàn thiện các quan điểm triết học về xã hội của Nho gia trên cơ sở bổ sung bằng những quan điểm triết hoc của thuyết Âm Dương – Ngũ hành, những quan niệm về bản thể của Đạo gia, tư tưởng về pháp trị của Pháp gia, v.v.. Vì vậy, có thể nói: Nho gia thời trung đại là tập đại thành của tư tưởng Trung Hoa. Nho gia còn có sự kết hợp với cả tư tưởng triết học ngoại lai Phật giáo. Sự kết hợp những tư tưởng triết học của Nho gia đã có ngay từ thời Hán và ít nhiều có cội nguồn từ Mạnh Tử. Tuy nhiên, sự kết hợp nhuần nhuyễn và sâu sắc chỉ có dưới thời nhà Tống (960 – 1279). Ảnh hưởng của Nho giáo đến Việt Nam: Nho giáo vào nước ta từ những năm cuối trước Công nguyên. Từ cuối thế kỷ XIII trở đi, Nho giáo dần dần lấn át Phật giáo và trở thành quốc giáo. Nó được phát triển trong sự ảnh hưởng của tư tưởng truyền thống Việt Nam và Phật giáo. Tư tưởng của Nho giáo có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực: + Nho giáo góp phần xây dựng các triều đại phong kiến vững mạnh, bảo vệ chủ quyền dân tộc. Nho giáo đã có công trong việc đào tạo tầng lớp nho sỹ Việt Nam, trong đó có nhiều nhân tài kiệt xuất như: Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn, Nguyễn Du, Ngô Thì Nhậm… Nho giáo hướng nhân dân vào con đường ham tu dưỡng đạo đức theo nhân – nghĩa – lễ – trí – tín, ham học hỏi để phò vua giúp nước. Ảnh hưởng chính của Nho giáo là thiết lập được kỷ cương và trật tự của xã hội phong kiến Việt Nam. + Mặt tiêu cực: Nho giáo góp phần không nhỏ vào việc duy trì quá lâu chế độ phong kiến, kìm hãm quan hệ kinh tế tư bản phát triển ở nước ta. Dưới ảnh hưởng của Nho giáo, truyền thống tập thể đã biến thành chủ nghĩa gia trưởng chuyên quyền độc đoán. Nho giáo không khuyến khích thúc đẩy sự phát triển của các ngành khoa học tự nhiên… Những mặt tiêu cực đó phản ánh tính chất bảo thủ và lạc hậu của nho giáo ở nước ta. Đạo gia (hay học thuyết về Đạo) Người sáng lập ra Đạo gia là Lão Tử (khoảng thế kỷ VI tr.CN). Học thuyết của ông được Dương Chu và Trang Chu thời Chiến Quốc hoàn thiện và phát triển theo hai hướng ít nhiều khác nhau. Quan điểm về Đạo : – “Đạo” là bản nguyên của vạn vật – tất cả từ Đạo mà sinh ra và trở về với cội nguồn của Đạo. – “Đạo” là cái vô hình, hiện hữu, là cái “có”, song Đạo và hiện hữu không thể tách rời nhau mà trái lại, Đạo là cái bản chất, hiện hữu là cái biểu hiện của Đạo. Bởi vậy có thể nói: Đạo là nguyên lý thống nhất của mọi tồn tại. – “Đạo” là nguyên lý vận hành của mọi hiện hữu, nguyên lý ấy là “Đạo pháp tự nhiên”. Chính trong quan niệm về “Đạo” đã thể hiện một trình độ tư duy khái quát cao về những vấn đề bản nguyên thế giới, nhìn nhận thế giới trong tính chỉnh thể thống nhất của nó. Quan niệm về tính biện chứng: – Mọi hiện hữu đều biến dịch theo nguyên tắc “bình quân” và “phản phục” (cân bằng và quay trở lại cái ban đầu). – Các mặt đối lập trong thể thống nhất, quy định lẫn nhau, là điều kiện tồn tại của nhau, trong cái này đã có cái kia. Đạo gia không nhấn mạnh tư tưởng đấu tranh với tư cách là phương thức giải quyết mâu thuẫn nhằm thực hiện sự phát triển; trái lại, đã đề cao tư tưởng điều hòa mâu thuẫn, coi đó là trạng thái lý tưởng. Bởi vậy, triết học của Đạo gia không bao hàm tư tưởng về sự phát triển. Cốt lõi chủ thuyết chính trị – xã hội là luận điểm “Vô vi”. Vô vi là khuynh hướng trở về với nguồn gốc để sống với tự nhiên, tức hợp thể với đạo.Vô vi không phải là cái thụ động, bất động hay không hành động mà có nghĩa là hành động theo bản tính tự nhiên của “Đạo”. Về nhận thức luận: Lão tử đề cao tư duy trừu tượng, coi thường nghiên cứu cụ thể. Ông cho rằng” không cần ra cửa mà biết thiên hạ, không cần nhòm qua khe cửa mà biết đạo trời”. Mặc gia Phái Mặc gia do Mặc Tử tức Mặc Địch (khoảng 479 – 381 tr.CN) sáng lập thời Xuân Thu. Sang thời Chiến Quốc đã phát triển thành phái Hậu Mặc. Đây là một trong ba học thuyết lớn nhất đương thời (Nho – Đạo – Mặc). Về vũ trụ quan: Tư tưởng triết học trung tâm của Mặc gia thể hiện ở quan niệm về “Phi Thiên mệnh”. Theo quan niệm này thì mọi sự giàu, nghèo, thọ, yểu… không phải là do định mệnh của Trời mà là do người, rằng nếu người ta nỗ lực làm việc, tiết kiệm tiền của thì ắt giàu có, tránh được nghèo đói. Đây là quan điểm khác với quan điểm Thiên mệnh có tính chất thần bí của Nho giáo dòng Khổng – Mạnh. Về nhận thức luận Về quan hệ danh thực, ông chủ trương “ lấy thực đặt tên”, đúng sai là dựa vào thực tế khách quan. Học thuyết “Tam biểu” của Mặc gia thể hiện rõ xu hướng duy vật và cảm giác luận, đề cao vai trò kinh nghiệm, coi nó là bằng chứng chân xác của nhận thức. Về tư tưởng nhân nghĩa + Nhân là kiêm ái, tức là thương yêu mọi người, không phân biệt đẳng cấp, thân sơ, trên dưới…yêu người như yêu mình, yêu người ngoài cũng như yêu người thân. + Nghĩa là lợi: làm lợi và trừ hại cho mọi người. Thuyết “Kiêm ái” là một chủ thuyết chính trị – xã hội, mang đậm tư tưởng tiểu nông. Mặc Địch phản đối quan điểm của Khổng Tử về sự phân biệt thứ bậc, thân sơ…trong học thuyết “Nhân”. Ông chủ trương mọi người thương yêu nhau, không phân biệt thân sơ, đẳng cấp… Những người thuộc phái Mặc gia hậu kỳ đã phát triển những tư tưởng của Mặc gia sơ kỳ chủ yếu trên phương diện nhận thức luận. Pháp gia: Người sáng lập phái Pháp gia là Hàn Phi Tử (khoảng 280- 233 tr.CN). Phái Pháp gia chú trọng vào những tư tưởng chính trị – xã hội và đề cao phép trị quốc bằng luật pháp. Pháp trị của Hàn Phi Tử dựa trên những luận cứ triết học cơ bản sau đây: – Thừa nhận tính khách quan và uy lực của những lực lượng khách quan mà ông gọi là “lý”. Đó là cái chi phối quyết định mọi sự vận động của tự nhiên và xã hội. – Thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội, cho rằng không thể có chế độ nào là không thay đổi. Do đó không thể có khuôn mẫu chung cho xã hội. Ông đã phân tích sự tiến triển của xã hội làm ba giai đoạn chính: thời thượng cổ, thời trung cổ, và thời cận cổ. Động lực căn bản của sự thay đổi xã hội được ông quy về sự thay đổi của dân số và của cải xã hôi. – Chủ thuyết về tính người: ông cho rằng bản tính con người vốn là “ác”, tức là tính cá nhân vụ lợi, luôn có xu hướng lợi mình hại người, tránh hại cầu lợi… Trên cơ sở những luận điểm triết học cơ bản ấy Hàn Phi Tử đã đề ra học thuyết Pháp trị, nhấn mạnh sự cần thiết phải cai trị xã hội bằng luật pháp. Ông phản đối phép nhân trị, đức trị của Nho gia và phép “vô vi trị”của Đạo gia. Phép trị quốc của Hàn Phi Tử bao gồm ba yếu tố tổng hợp: Pháp, Thế và Thuật. Kết luận về triết học Trung Hoa cổ,trung đại Nghiên cứu triết học Trung Hoa cổ, trung đại, chúng ta rút ra một số kết luận sau đây: Một là: Sự ra đời và phát triển của các học phái tư tưởng triết học Trung Hoa thường xuyên chịu sự chi phối trực tiếp của những vấn đề chính trị. Điều này đặc biệt rõ nét trong thời kỳ Xuân thu – Chiến quốc. Sự chi phối này khiến cho các triết gia Trung Hoa đặc biệt quan tâm, suy tư, tìm cách lý giải và tìm ra những triết lý, những biện pháp nhằm khắc phục hiện trạng xã hội biến động trong lịch sử chính trị, cai trị của các triều đại. Điều này lý giải rõ trong các trường phái triết học họ đặc biệt quan tâm bàn về những vấn đề chính trị và đạo đức của xã hội và con người, chính vì vậy, thế mạnh của nền triết học Trung Hoa, đặc biệt là Trung Hoa cổ đại trước hết thể hiện trên lĩnh vực triết học trên lĩnh vực xã hội, chính trị và đạo đức. Đây là nội dung lớn nhất khi nghiên cứu về nội dung triết học Trung Hoa. Hai là: Thời cổ đại Trung Hoa, các học phái triết học diễn ra trong một bối cảnh học thuật hết sức “tự do tư tưởng”. Có người gọi đây là thời kỳ “ trăm hoa đua nở” “ trăm nhà tranh luận” (bách gia chư tử, bách gia tranh minh). Đây là đặc điểm triết học riêng có thời cổ đại Trung hoa. Điều này hoàn toàn chấm dứt khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc, và về cơ bản không tái diễn trong suốt chiều dài lịch sử phong kiến trung đại sau này. Trong thời đại phong kiến Trung Quốc, nhìn chung, chỉ có Nho giáo giữ địa vị thống trị và chi phối trong lịch sử tư tưởng, một số tư tưởng của các học phái khác được các nho gia kế thừa trong việc củng cố học thuyết nho giáo. Ba là: Về căn bản những kiến giải về vũ trụ quan của triết học Trung Hoa mang tính biện chứng sâu sắc, điển hình như học thuyết Âm dương- Ngũ hành. Bốn là: Triết học Trung Hoa phát triển trong sự đan xen giữa các quan điểm duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình. Năm là: Các học thuyết triết học Trung Hoa cổ đại thường không được trình bày dưới hình thức hệ thống lý luận lôgích như các tác phẩm triết học hiện đại. Ngay cả các bộ kinh điển được coi là rất có hệ thống của nho giáo (như tứ thư và ngũ kinh) về căn bản cũng là tập hợp các luận lý qua nhiều thời kỳ và có thêm những chú giải, làm rõ của người biên soạn. Sáu là: Trong suốt chiều dài lịch sử hai nghìn năm phong kiến Trung Hoa, các học thuyết cổ đại thường được các nhà tư tưởng phong kiến kế thừa, thừa nhận thuộc về trường phái đã có nào đó từ thời cổ đại mà không lập học thuyết mới. Điều này khiến cho một số học giả phương Tây nhìn nhận triết học Trung Hoa nói riêng, phương Đông nói chung không có sự phát triển. Song thực ra khi kế thừa các nhà tư tưởng sau đã phát triển rất nhiều cho phù hợp với điều kiện lịch sử của thời đại họ. Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam là một bộ môn khoa học vừa mới ra đời đang đòi hỏi những sự tìm tòi và khám phá mới, những khái quát mới. Ở đây, bước đầu xin nêu lên một số nội dung cơ bản. Những nội dung thể hiện lập trường duy vật và duy tâm Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm trong lịch sử tư tưởng Việt Nam thời kỳ phong kiến Đây là cuộc đấu tranh thuộc một hình thái đặc biệt: + Không thành trận tuyến, không trải ra trên khắp mọi vấn đề. + Đó là sự mâu thuẫn trong bản thân thế giới quan của một “trường phái”, thậm chí trong mỗi nhà tư tưởng. + Lập trường duy vật hoặc duy tâm trong lịch sử tư tưởng Việt Nam thể hiện trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tâm và vật, giữa linh hồn và thể xác, giữa lý và khí …Lập trường đó còn thể hiện trong việc giải quyết nguyên nhân và nguồn gốc tạo nên những sự kiện cơ bản của đất nước, xã hội và con người, như an nguy của quốc gia dân tộc, trị loạn của xã hội, hưng vong của các triều đại , vấn đề số mệnh và bản tính con người, vấn đề đạo trời và đạo người v.v.. Nội dung cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử tư tưởng Việt Nam Dù là khách quan hay chủ quan, chủ nghĩa duy tâm ở Việt nam đều mang nặng màu sắc tôn giáo. Nó có nguồn gốc ở “Tam giáo” và tín ngưỡng dân gian cổ truyền . Một là: Nếu trong Nho giáo “Thiên mệnh” (mệnh trời) là điều thường được nhắc đến trong lịch sử. Thì chủ nghĩa duy tâm chủ quan Phật giáo lại có quan niệm về “nghiệp” và “kiếp”, số mệnh con người không phải là do trời gây nên, mà là do mình làm ra, do “nghiệp” và “kiếp” đã được bản thân tạo ra từ quá khứ. Hai là: Đối lập với quan điểm “mệnh trời” còn có quan điểm về “thời”. Với thời không còn bóng dáng của mệnh, không còn sự ám ảnh của ý chí một ông trời có nhân cách. Ba là: Quan điểm của quần chúng nhân dân. Bằng sự quan sát hàng ngày, bằng kinh nghiệm cuộc sống và quan điểm thực tế, quần chúng nhân dân đã phản ứng lại các quan điểm duy tâm bằng kinh nghiệm của mình như “được làm vua, thua làm giặc”; “Bao giờ dân nổi can qua, con vua thất thế lại ra quét chùa”; “Ăn trộm, ăn cướp thành phật, thành tiên, đi chùa đi chiền bán thân bất toại”; “Hòn đất mà biết nói năng, thì thầy địa lý hàm răng không còn”. Họ không có lý luận, để làm người ta phải ngẫm lại và hoài nghi với các luận điểm của chủ nghĩa duy tâm tôn giáo. Nội dung của tư tưởng yêu nước Việt Nam Có thể nói sự phát triển tư tưởng yêu nước là sợi chỉ đỏ của lịch sử tư tưởng Việt Nam. Yêu nước là một truyền thống lớn của dân tộc. Nhưng yêu nước có thể là một ý chí, một tâm lý, một tình cảm xã hội, đồng thời cũng có thể là những lý luận. Những nhận thức về dân tộc và dân tộc độc lập * Cộng đồng người Việt được hình thành sớm trong lịch sử, có tên là Việt; để phân biệt với nhiều tộc Việt ở miền nam Trung Quốc, nó được gọi là Lạc Việt. * Nhận thức về dân tộc và dân tộc độc lập của người Việt là một quá trình. Nó bắt nguồn từ cuộc chiến đấu của họ để tự vệ và phát triển lên cùng với các cuộc chiến đấu đó: + Phải chứng minh được cộng đồng người Việt khác với cộng đồng người Hán và ngang hàng với cộng đồng người Hán như: – Các nhà tư tưởng người Việt nêu lên rằng: Lạc Việt ở về phía Sao Dực, Sao Chẩn (các sao ở về phương Nam), khác với Hoa Hạ ở về phía Sao Bắc Đẩu (sao của phương Bắc), nên hai dân tộc người đó phải độc lập với nhau. – Họ chứng minh rằng “Núi sông nước Nam thì vua nước Nam trị vì”. đó là định phận của sách trời (quan điểm của Lý Thường Kiệt) để chứng tỏ tính chất hiển nhiên không thể báo bỏ được của sự riêng biệt Việt, Hán. * Trên lĩnh vực nhận thức lý luận, các nhà tư tưởng đã đi sâu hơn, khái quát cao hơn, toàn diện hơn về khối cộng đồng dân tộc Việt. Nguyễn Trãi là người đã thực hiện được sứ mệnh này. Trong Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi đã viết: “ Như nước Đại việt ta từ trước. Vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Núi sông bờ cõi đã chia. Phong tục Bắc Nam cũng khác….” Điều đó chứng minh rằng, cộng đồng tộc Việt có đủ các yếu tố: văn hiến, lãnh thổ, phong tục, lịch sử, nhân tài, nên nó đã là một cộng đồng người của phương Nam, không thể phụ thuộc vào phương Bắc. Nhận thức đó của Nguyễn Trãi đã nêu lên được các yếu tố cần thiết làm nên một dân tộc, đã đặt cơ sở lý luận cho sự độc lập của dân tộc. Lý luận trên của Nguyễn Trãi đạt tới đỉnh cao của quan niệm về dân tộc và dân tộc độc lập dưới thời kỳ phong kiến ở Việt Nam. Nó đã tạo nên sức mạnh cho cộng đồng tộc Việt trong cuộc đấu tranh chống quân Minh xâm lược ở đầu thế kỷ XV và cả các giai đoạn lịch sử sau này. Nhưng khi phải hơn nửa thế kỷ sau, vào những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh mới tìm ra được lý luận cứu nước mới và Người đã làm cho khái niệm dân tộc và dân tộc độc lập có sắc thái mới ngang tầm thời đại mới. Những quan niệm về Nhà nước của một quốc gia độc lập và ngang hàng với phương Bắc * Trước khi người Hán đến, tộc Việt đã có nhà nước Văn Lang và Âu Lạc của mình. * Người Hán đến, Nhà nước Âu Lạc bị tiêu diệt, lãnh thổ của dân tộc Việt biến thành một bộ phận của tộc Hán. Người Việt đấu tranh chống lại sự thống trị của người Hán cũng có nghĩa là đấu tranh giành quyền tổ chức ra nhà nước riêng của mình, chế độ riêng của mình. Quyền xây dựng nhà nước riêng, chế độ riêng là mục tiêu hàng đầu của các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Cụ thể: Xây dựng nhà nước trong lúc bấy giờ không thể không tính tới các yếu tố: quốc hiệu, quốc đô, đế hiệu, niên hiệu,…Làm sao để các danh hiệu đó vừa thể hiện được sự độc lập của dân tộc, vừa cho thấy sự bền vững, sự phát triển và sự ngang hàng với phương bắc. Cụ thể: Quốc hiệu: sau khi quét sạch lũ trị phương Bắc, Lý Bí đã từ bỏ luôn các tên “Giao Chỉ”, “Giao Châu”, “Nam Giao”, “Lĩnh Nam”,.v.v. và đặt tên nước là Vạn Xuân. Tiếp đến nhà Đinh là Đại Cồ Việt, nhà Lý gọi là Đại Việt… Tên hiệu của người đứng đầu trong nước cũng được chuyển từ Vương sang Đế để chứng tỏ sự độc lập và ngang hàng với hoàng đế phương Bắc, như Lý Nam Đế, Mai Hắc Đế, Đinh Tiên Hoàng … Kinh đô cũng được chuyển từ Cổ Loa đến Hoa Lư, rồi từ Hoa Lư đến Thăng Long nơi “Trung tâm bờ cõi đất nước…”. Như vậy là đầu thời kỳ độc lập, Việt Nam – một quốc gia dân tộc phong kiến về mặt chính thể từ quốc hiệu, đế hiệu, đến niên hiệu, kinh đô,.v.v.. đều được nhận thức đầy đủ và ở đó mỗi tên gọi là một tư thế của sự độc lập, tự chủ tự cường. Những nhận thức về nguồn gốc về động lực của cuộc chiến tranh cứu nước và giữ nước Những quy luật đã được rút ra trong suốt những cuộc chiến đấu trường kỳ dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt nam là: Thứ nhất: Phải coi trọng sức mạnh của cộng đồng để nó sẽ trở thành một sức mạnh vô địch. Các nhà chỉ đạo cuộc chiến tranh đã thấy rằng: để có sức mạnh cộng đồng, thì phải biết chú ý tới quyền lợi của mỗi con người. Trần Quốc Tuấn yêu cầu: “Trên dưới một lòng, lòng dân không chia”, vì “Vua tôi đồng lòng, anh em hoà mục, nước nhà góp sức giặc tự bị bắt”, “có thu phục được quân lính một lòng như cha con thì mới dùng được”. Nguyễn Trãi nói: “Thết quân rượu hoà nước, dưới trên đều một dạ cha con”. Tư tưởng này đến thời cận đại, được các nhà tư tưởng nêu lên là, có “hợp sức”, “hợp quần” thì mới có sức mạnh. Và đến Hồ Chí Minh, thời kỳ hiện đại, nêu lên thành nguyên lý “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết – Thành công, thành công, đại thành công”. Thứ hai: Phải coi trọng vai trò của nhân dân, đây là một tư tưởng lớn trong ý thức dân tộc ở các nhà tư tưởng. Lý Công Uẩn nói: “Trên vâng mệnh dưới theo ý dân, dân thấy thuận tiện thì thay đổi”. Nguyễn Trãi nói: “Chở thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân”, “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Đến Hồ Chí Minh, thời đại ngày nay, thì quan niệm về dân đã được phát triển đến một trình độ cao hơn và mang một chất mới. Lời nói tuy khác nhau, nhưng họ đều là những người yêu nước nhiệt thành, đều thấy cần phải nêu trách nhiệm đối với dân, phải bồi dưỡng sức dân. Qua những điều trình bày trên cho thấy có một tư tưởng yêu nước Việt Nam khác biệt với tư tưởng yêu nước của các dân tộc khác. Nó được đúc kết bằng xương máu và bằng trí tuệ trong trường kỳ lịch sử của các cuộc đấu tranh cứu nước, dựng nước và giữ nước. Những quan niệm về đạo đức làm người Một trong những vấn đề được các nhà tư tưởng Việt Nam trong lịch sử đặc biệt quan tâm là “đạo” (có khi gọi là “đạo trời”, “đạo người”). Họ phải quan tâm đến “đạo” bởi nó là cơ sở tư tưởng để hành động chính trị, để đối nhân xử thế. Trong ba đạo truyền thống: Nho, Phật, Đạo thì sau thời kỳ Lý – Trần, người ta thường hướng về đạo Nho trước hết. * Kẻ sĩ Việt Nam đều chọn con đường của đạo Nho và luôn đề cao đạo làm người của Nho, nhưng ở mỗi người một khác, các nhà yêu nước và nhân đạo chủ nghĩa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thì Nhậm… thì thường phát huy những khái niệm nào đó của nhà Nho có sức diễn đạt được nội dung yêu nước, yêu dân, yêu con người và tin ở năng lực con người. Các nhà Nho khác thì chỉ chú trọng các khái niệm, các nguyên lý nói lên tính chất tôn ti trật tự và đẳng cấp khắc nghiệt trong Nho giáo. Do vậy, cũng đều là nhà Nho nhưng giữa họ có những lập trường triết học và chính trị khác nhau, thậm chí đối lập nhau. * Phật giáo là chỗ dựa tinh thần cho con người, và khi thất thế trên đường danh lợi, người ta lại tìm đến đạo của Lão – Trang. Do đó, thế giới quan Nho – Phật – Đạo thường là thế giới quan chung của Việt Nam nói chung và kẻ sĩ nói riêng. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta “Đạo” được biến thành biểu tượng của truyền thống yêu nước, thương nòi. Đã có biết bao tấm gương hy sinh để bảo vệ độc lập cho đất nước. Nhưng vì “đạo” đó là thế giới quan cũ, không giúp hiểu được xu thế của thời đại, không giúp hiểu rõ được kẻ thù của dân tộc, không chỉ ra được con đường hữu hiệu để cứu nước, vì vậy, lúc bấy giờ yêu “đạo” bao nhiêu thì càng ngậm ngùi bấy nhiêu. Vấn đề đặt ra cho thời kỳ này là phải có một “đạo” ngang tầm với thời đại. Đó là một trong những điều kiện để chủ nghĩa Mác – Lênin du nhập vào Việt Nam. Những thành tựu đạt được về lịch sử tư tưởng triết học của dân tộc là công lao của các nhà lãnh đạo đất nước, của các nhà lý luận trong lịch sử: họ đã vượt qua bao nhiêu khó khăn và hạn chế của thời đại và của bản thân để xây dựng nên lý luận sắc bén cho đất nước mình, nhất là trong lĩnh vực đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Nhưng khách quan mà nói, lý luận đó còn có nhiều hạn chế. Nó không chú trọng vấn đề nhận thức luận và phương pháp tư duy là những vấn đề quan trọng của triết học. Nó không dám trái với kinh điển của thánh hiền, không biết lấy thực tiễn đất nước để kiểm nghiệm chân lý, không biết lấy việc xây dựng lý luận cho mình làm mục tiêu phấn đấu: vì thế đã không tạo ra được những nhà triết học và những phái triết học riêng biệt. Ngày nay, chúng ta đã được trang bị triết học Mác – Lênin – một triết học khoa học và cáchmạng của loài người, nhờ đó nhiều vấn đề thực tiễn của đất nước đã được nhận thức trên bình diện lý luận, và lịch sử tư tưởng triết học của dân tộc Việt Nam đã có điều kiện chuyển sang một bước ngoặt mới. Tự nhiên và xã hội Xã hội Triết học và vai trò của nó trong đời sống xã hội Th1 16, 2020 admin TRIẾT HỌC LÀ GÌ? Triết học và đối tượng của triết học Triết học và đối tượng của triết học Khái niệm triết học Triết học xuất hiện cả ở phương Đông và phương Tây vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ III (TrCN)(1). – Ở phương Đông: + Trung Quốc: Người Trung quốc cổ đại quan niệm “ triết” chính là “ trí”, là cách thức và nghệ thuật diễn giải, bắt bẻ có tính lý luận trong học thuật nhằm đạt tới chân lý tối cao. + Theo người Ấn Độ: triết học được đọc là darshana, có nghĩa là chiêm ngưỡng nhưng mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải. – Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy lạp được la tinh hoá là Philôsôphia -nghĩa là yêu mến, ngưỡng mộ sự thông thái. Như vậy Philôsôphia vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người Tóm lại: Dù ở phương Đông hay phương Tây, triết học được xem là hình thái cao nhất của tri thức, nhà triết học là nhà thông thái có khả năng tiếp cận chân lý, nghĩa là có thể làm sáng tỏ bản chất của mọi vật. Có nhiều cách định nghĩa khác nhau, nhưng bao hàm những nội dung giống nhau, đó là: triết học nghiên cứu thế giới một cách chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể đó nói chung, của xã hội loài người, của con người trong cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nó một cách có hệ thống dưới dạng duy lý. Khái quát lại ta có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí vai trò của con người trong thế giới đó. Nguồn gốc của triết học Triết học xuất hiện do hoạt động nhận thức của con người nhằm phục vụ nhu cầu cuộc sống, song với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, triết học không thể xuất hiện cùng sự xuất hiện của xã hội loài người, mà chỉ xuất hiện khi có những điều kiện nhất định. Nguồn gốc nhận thức: + Đứng trước thế giới rộng lớn, bao la, các sự vật hiện tượng muôn hình muôn vẻ, con người có nhu cầu nhận thức thế giới bằng một loạt các câu hỏi cần giải đáp: thế giới ấy từ đâu mà ra?, nó tồn tại và phát triển như thế nào?, các sự vật ra đời, tồn tại và mất đi có tuân theo quy luật nào không? … trả lời các câu hỏi ấy chính là triết học. + Triết học là một hình thái ý thức xã hội có tính khái quát và tính trừu tượng cao, do đó, triết học chỉ xuất hiện khi con người đã có trình độ tư duy trừu tượng hoá, khái quát hoá, hệ thống hoá để xây dựng nên các học thuyết, các lý luận. – Nguồn gốc xã hội: Lao động đã phát triển đến mức có sự phân công lao động thành lao động trí óc và lao động chân tay, xã hội phân chia thành hai giai cấp cơ bản đối lập nhau là giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Giai cấp thống trị có điều kiện nghiên cứu triết học. Bởi vậy ngay từ khi Triết học xuất hiện đã tự mang trong mình tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của những giai cấp, những lực lượng xã hội nhất định. Những nguồn gốc trên có quan hệ mật thiết với nhau, mà sự phân chia chúng chỉ có tính chất tương đối. Đối tượng của Triết học; Sự biến đổi đối tượng triết học qua các giai đoạn lịch sử * Khi mới xuất hiện, Triết học Cổ đại còn được gọi là Triết học tự nhiên – bao hàm trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực, không có đối tượng riêng. Đây là nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm sau này cho rằng Triết học là khoa học của mọi khoa học. * Thời kỳ Trung cổ, ở Tây Âu khi quyền lực của giáo hội Thiên chúa bao trùm mọi lĩnh vực đời sống xã hội thì Triết học trở thành một bộ phận của thần học. Triết học chỉ có nhiệm vụ lý giải và chứng minh cho sự đúng đắn của nội dung trong kinh thánh. Triết học tự nhiên bị thay thế bởi nền Triết học kinh viện. * Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18, để đáp ứng yêu cầu của sản xuất công nghiệp, các bộ môn khoa học chuyên ngành có tính chất là khoa học thực nghiệm đã ra đời với tính cách là các khoa học độc lập. Triết học lúc này có tên gọi là Siêu hình học – Khoa học hậu vật lý. Đối tượng của Triết học thời kỳ này là nghiên cứu cái ẩn dấu, cái bản chất đằng sau các sự vật, hiện tượng “vật thể” có thể thực nghiệm được. + Triết học duy vật dựa trên cơ sở tri thức của khoa học thực nghiệm đã phát triển nhanh chóng, đạt tới đỉnh cao mới với các đại biểu như Ph. Bây cơn, T.Hốpxơ (Anh), Diđrô, Hen Vêtiúyt (Pháp), Xpinôda (Hà Lan)… + Mặt khác, tư duy Triết học cũng được phát triển trong các học thuyết duy tâm mà đỉnh cao là Triết học Hêghen. + Song, cũng chính sự phát triển của các bộ môn khoa học độc lập chuyên ngành cũng từng bước làm phá sản tham vọng của Triết học muốn đóng vai trò “Khoa học của mọi khoa học”, mà Triết học Heghen là Triết học cuối cùng mang tham vọng đó. Heghen xem Triết học của mình là một hệ thống phổ biến của nhận thức, trong đó những ngành khoa học riêng biệt chỉ là những mắt khâu phụ thuộc vào Triết học. * Đầu thế kỷ 19, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, cùng với sự chuyển biến tính chất từ khoa học thực nghiệm sang khoa học lý thuyết là cơ sở khách quan cho triết học đoạn tuyệt triệt để với quan niệm “khoa học của mọi khoa học”. Triết học Mác – Triết học duy vật biện chứng ra đời thể hiện sự đoạn tuyệt đó. Triết học Mác xít xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện chứng và nghiên cứu những qui luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. * Do tính đặc thù của Triết học là xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm cách đưa ra một hệ thống lý luận về chỉnh thể đó.Và điều đó chỉ thực hiện được bằng cách tổng kết toàn bộ lịch sử của khoa học, lịch sử của bản thân tư tưởng Triết học. Cho nên, vấn đề tư cách khoa học của Triết học và đối tượng của nó đã gây ra cuộc tranh luận kéo dài cho đến hiện nay. Tóm lại, cái chung trong các học thuyết Triết học từ cổ tới kim là nghiên cứu những vấn đề chung nhất của giới tự nhiên, của xã hội và con người, mối quan hệ của con người nói chung, của tư duy con người nói riêng với thế giới xung quanh. Triết học – hạt nhân lý luận của thế giới quan * Thế giới quan: Là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới. *Thế giới quan là sự hoà nhập giữa tri thức và niềm tin: Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới quan; niềm tin định hướng cho hoạt động của con người, từ đó tri thức trở thành niềm tin, niềm tin phải trên cơ sở tri thức. * Các loại thế giới quan (phân chia theo sự phát triển): +Thế giới quan huyền thoại: Là phương thức cảm nhận thế giới của người nguyên thuỷ, có đặc điểm là các yếu tố tri thức và cảm xúc, lý trí và tín ngưỡng, hiện thực và tưởng tượng, cái thật và cái ảo, cái thần và cái người hoà quyện vào nhau thể hiện quan niệm về thế giới. + Thế giới quan tôn giáo: Niềm tin tôn giáo đóng vai trò chủ yếu, tín ngưỡng cao hơn lý trí, cái ảo lấn át cái thật, cái thần trội hơn cái người. + Thế giới quan triết học diễn tả quan niệm dưới dạng hệ thống các phạm trù, qui luật đóng vai trò như những bậc thang trong quá trình nhận thức. Như vậy, Triết học được coi như trình độ tự giác trong quá trình hình thành phát triển của thế giới quan. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, đóng vai trò định hướng, củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử. VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC. CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY TÂM TRIẾT HỌC. Vấn đề cơ bản của triết học Khái niệm vấn đề cơ bản của triết học: Triết học cũng như các khoa học khác phải giải quyết rất nhiều những vấn đề có liên quan với nhau, trong đó vấn đề cực kỳ quan trọng, là nền tảng và là điểm xuất phát để giải quyết những vấn đề còn lại được gọi là vấn đề cơ bản của triết học. Ăngghen định nghĩa vấn đề cơ bản của triết học như sau: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi Triết học, đặc biệt là Triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”. * Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt: + Mặt thứ nhất: Giữa tư duy và tồn tại thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? + Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thể giới hay không? * Tại sao nó là vấn đề cơ bản của triết học: + Trên thực tế những hiện tượng chúng ta gặp hàng ngày hoặc là hiện tượng vật chất tồn tại bên ngoài ý thức của chúng ta, hoặc là hiện tượng tinh thần tồn tại trong ý thức của chúng ta, không có bất kỳ hiện tượng nào nằm ngoài hai lĩnh vực ấy. + Bất kỳ trường phái triết học nào cũng phải đề cập và giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy. + Kết quả và thái độ của việc giải quyết vấn đề đó quyết định sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận của nhà nghiên cứu, xác định bản chất của các trường phái triết học đó, cụ thể: – Căn cứ vào cách trả lời câu hỏi thứ nhất để chúng ta biết được hệ thống triết học này, nhà triết học này là duy vật hay là duy tâm, họ là triết học nhất nguyên hay nhị nguyên. – Căn cứ vào cách trả lời câu hỏi thứ hai để chúng ta biết được nhà triết học đó theo thuyết khả tri hay bất khả tri. + Đây là vấn đề chung, nó mãi mãi tồn tại cùng con người và xã hội loài người. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà triết học thành hai trường phái lớn: + Chủ nghĩa duy vật: Là những người cho rằng vật chất giới tự nhiên là cái có trước và quyết định ý thức của con người; học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật. + Chủ nghĩa duy tâm: là những người cho rằng ý thức, tinh thần có trước giới tự nhiên; học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy tâm. * Chủ nghĩa duy vật và các hình thức cơ bản của nó Ngay từ thời cổ đại, khi xuất hiện triết học thì đã phân chia ra chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Lịch sử phát triển của chủ nghĩa duy vật từ đó đến nay luôn gắn với lịch sử phát triển của khoa học và thực tiễn. Chủ nghĩa duy vật đã trải qua nhiều hình thức khác nhau, nhưng đều có quan điểm thống nhất coi vật chất là cái có trước, quyết định ý thức, đều xuất phát từ bản thân thế giới để giải thích thế giới. Cụ thể: + Chủ nghĩa duy vật chất phác ngây thơ thời cổ đại: Là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời cổ đại mang tính trực quan nên ngây thơ và chất phác, tuy còn nhiều hạn chế nhưng với nguyên tắc cơ bản là đúng. Trường phái này giải thích giới tự nhiên từ chính bản thân tự nhiên, không viện dẫn thần linh hay thượng đế. + Chủ nghĩa duy vật máy móc siêu hình thế kỷ thứ XVII – XVIII. Là kết quả nhận thức của các nhà triết học từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII. Từ sự phát triển rực rỡ của cơ học khiến cho quan điểm xem xét thế giới theo kiểu máy móc chiếm vị trí thống trị và tác động mạnh mẽ đến các nhà duy vật. + Chủ nghĩa duy vật biện chứng. Là kết quả nhận thức của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác. Mác, Ăngghen, Lênin đã kế thừa những tinh hoa của các học thuyết trước đó, đồng thời khắc phục những hạn chế, sai lầm của chủ nghĩa duy vật siêu hình, dựa trên những thành tựu của khoa học hiện đại đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng của triết học Mác Lênin mang tính chất cách mạng triệt để và biện chứng khoa học, không chỉ phản ánh hiện thực đúng như bản thân nó mà còn là công cụ hữu ích giúp con người cải tạo hiện thực đó. * Chủ nghĩa duy tâm và các hình thức cơ bản của nó: + Duy tâm chủ quan thừa nhận ý thức là tính thứ nhất, phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực. Mọi sự vật hiện tượng chỉ là phức hợp cảm giác của cá nhân, của chủ thể. + Duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, nhưng đó là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người. Thực thể tinh thần khách quan này thường mang tên gọi khác nhau như: ý niệm; tinh thần tuyệt đối; lý tính thế giới… Một hình thức biến tướng của chủ nghĩa duy tâm khách quan là chủ nghĩa duy tâm tôn giáo, với sự thừa nhận thượng đế; chúa trời sáng tạo thế giới. Tuy nhiên có sự khác nhau đó là, chủ nghĩa duy tâm tôn giáo thì lòng tin là cơ sở chủ yếu, đóng vai trò chủ đạo; còn chủ nghĩa duy tâm triết học lại là sản phẩm của tư duy lý tính dựa trên cơ sở tri thức và lý trí. Nguồn gốc của chủ nghĩa duy tâm: +Về phương diện nhận thức luận, sai lầm của chủ nghĩa duy tâm bắt nguồn từ cách xem xét phiến diện, tuyệt đối hoá, thần thánh hoá một mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận thức mang tính biện chứng của con người. Khả năng sáng tạo đặc biệt của tư duy, tính vượt trước của ý thức đối với với hiện thực. +Về phương diện xã hội, sự tách rời giữa lao động trí óc với lao động chân tay, và địa vị thống trị của lao động trí óc đối với lao động chân tay trong các xã hội cũ đã tạo ra quan niệm về vai trò quyết định của các nhân tố tinh thần. Mặt khác, các giai cấp thống trị và lực lượng xã hội phản động ủng hộ, sử dụng chủ nghĩa duy tâm làm nền tảng lý luận cho những quan điểm chính trị-xã hội của mình. * Triết học nhị nguyên: vật chất và ý thức song song tồn tại, không có cái nào có trước, cả hai đều là nguồn gốc tạo nên thế giới, triết học nhị nguyên có khuynh hướng điều hoà chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm. Xét về thực chất, Triết học nhị nguyên thể hiện sự dao động ngả nghiêng, cuối cùng cũng rơi vào chủ nghĩa duy tâm. Thuyết khả tri; bất khả tri và hoài nghi luận – Giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản “con người có nhận thức được thế giới không?”: + Thuyết khả tri( Thuyết có thể biết) là những nhà Triết học cả duy vật và duy tâm trả lời một cách khẳng định: Con người có khả năng nhận thức được thế giới +Hoài nghi luận xuất hiện từ thời Cổ đại (từ chữ Hy Lạp skeptikos và skiptomai có nghĩa là tôi thẩm tra) mà đại biểu là Pirôn (nhà triết học Hy Lạp cổ đại). Họ là những người đã luận nâng sự hoài nghi lên thành nguyên tắc trong việc xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng con người không thể đạt tới chân lý khách quan. Hoài nghi luận thời Phục hưng lại có tác dụng quan trọng trong cuộc đấy tranh chống hệ tư tưởng Trung cổ và uy tín của Giáo hội thời trung cổ vì nó thừa nhận sự hoài nghi đối với cả Kinh thánh và các tín điều tôn giáo. +Thuyết bất khả tri (thuyết không thể biết): là sự phát triển mặt tiêu cực của trào lưu hoài nghi luận. Theo thuyết này, con người không thể hiểu được thế giới hay ít ra là không thể nhận thức được bản chất của nó, hoặc có chăng chỉ là hiểu cái bề ngoài vì các hình ảnh về đối tượng do giác quan con người mang lại không bảo đảm tính chân thực, từ đó họ phủ nhận khả năng nhận thức của con người và các hình thức cơ bản của nó. Đại biểu nổi tiếng nhất của “thuyết không thể biết” là Hium (nhà triết học Anh) và Cantơ (nhà triết học Đức). Theo Hium, chẳng những chúng ta không thể biết được sự vật là như thế nào, mà cũng không thể biết được sự vật đó có tồn tại hay không. Còn Cantơ thì thừa kế nhận có một thế giới sự vật tồn tại, ông gọi đó là “vật tự nó”; nhưng chúng ta không thể nhận thức được bản chất thế giới ấy mà chỉ là nhận thức những hiện tượng của nó mà thôi. Thuyết không thể biết đã bị Hêghen và Phoiơbắc phê phán gay gắt. Song, đúng như Ph. Ăngghen đã nhận xét, chính thực tiễn của con người đã bác bỏ thuyết không thể biết một cách triệt để nhất. “Sự bác bỏ một cách hết sức đanh thép những sự vặn vẹo triết học ấy, cũng như tất cả những triết học khác, là thực tiễn, chính là thực nghiệm và công nghiệp. Nếu chúng ta có thể chứng minh được tính chính xác của quan điểm của chúng ta về một hiện tượng tự nhiên nào đó, bằng cách tự chúng ta làm ra hiện tượng ấy, bằng cách tạo ra nó từ những điều kiện của nó, và hơn nữa, còn bắt nó phải phục vụ mục đích của chúng ta, thì sẽ không còn có cái “vật tự nó” không thể nắm được của Cantơ nữa”. SIÊU HÌNH VÀ BIỆN CHỨNG Trong lịch sử triết học không những có sự đối lập giữa CNDV và CNDT khi tìm hiểu bản chất của thế giới, mà đồng thời còn phải trả lời các câu hỏi: thế giới là bất động, đứng im hay là không ngừng vận động và phát triển? Các sự vật, hiện tượng của thế giới ở trạng thái cô lập, tách rời nhau hay có liên hệ với nhau, tác động qua lại và chuyển hoá lẫn nhau. Lịch sử đã biết đến hai quan điểm, hai cách xem xét nhìn nhận trái ngược nhau trong khi giải đáp những câu hỏi trên. Đó là phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình Sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng Phương pháp siêu hình Phương pháp biện chứng +Thừa nhận đối tượng ở trạng thái cô lập,tách rời với các chỉnh thể khác và giữa các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối +Thừa nhận đối tượng qua các mối liên hệ của nó với các đối tượng khác và sự ảnh hưởng ràng buộc lẫn nhau giữa chúng + Thừa nhận đối tượng ở trạng thái tĩnh tại; nếu có biến đổi thì đấy chỉ là biến đổi về mặt số lượng, nguyên nhân của mọi sự biến đổi nằm ngoài đối tượng. + Thừa nhận đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi có khuynh hướng chung là phát triển, có sự thay đổi về chất, mà nguyên nhân của mọi sự biến đổi ấy là do nguồn gốc bên trong đối tượng. Đó là sự đấu tranh của các mặt đối lập. – Phương pháp siêu hình chỉ nhìn thấysự vật riêng biệt mà không thấy mối liên hệ qua lại giữa chúng; chỉ thấy sự tồn tại mà không thấy quá trình sự phát sinh và tiêu vong .(Về bản chất là không hiểu được mối quan hệ giữa vận động và đứng im, hay đứng im chỉ là một hình thức vận động đặc biệt).– Tư duy của nhà siêu hình chỉ dựa trên những phản đề tuyệt đối không thể dung nhau được, họ nói có là có, không là không. Đối với họ, một sự vật hoặc tồn tại hoặc không tồn tại, một hiện tượng không thể vừa là chính nó lại vừa là cái khác, cái khẳng định và cái phủ định tuyệt đối bài trừ lẫn nhau, v.v…Nguồn gốc của phương pháp siêu hình: Là bắt nguồn từ việc muốn nhận thức đối tượng, trước hết con người phải tách đối tượng ra khỏi những mối liên hệ và nhận thức nó ở trạng thái không biến đổi trong một không gian và thời gian xác định. Tuy phương pháp đó là cần thiết và có tác dụng trong một phạm vi nhất định, nhưng thực tế thì hiện thực không rời rạc và ngưng đọng như phương pháp này quan niệm. – Phương pháp biện chứng không chỉ thấy những sự vật cá biệt mà còn thấy cả mối quan hệ qua lại giữa chúng, không chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà còn thấy cả sự sinh thành và sự tiêu vong của sự vật.– Phương pháp biện chứng thể hiện tư duy mềm dẻo, linh hoạt trong sự phản ánh hiện thực,– Phương pháp biện chứng thừa nhận trong những trường hợp cần thiết thì bên cạnh cái “ hoặc là.. hoặc là” còn có cái “vừa là… vừa là”; đối tượng hay chỉnh thể trong lúc tồn tại là nó thì cũng đồng thời bao hàm sự tồn tại không là nó; cái khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ nhau vừa gắn bó nhau. Do đó, nó phản ánh hiện thực ngày càng chân thực chính xác, và nó trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới. Tóm lại, phương pháp siêu hình là phương pháp xem sét sự vật trong trạng thái biệt lập, ngưng đọng với một tư duy cứng nhắc; còn phương pháp biện chứng là phương pháp xét sự vật trong mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau và trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng với tư duy mềm dẻo, linh hoạt. Các giai đoạn phát triển cơ bản của phương pháp biện chứng * Hình thức thứ nhất là phép biện chứng tự phát thời Cổ đại. thể hiện rõ nét trong “thuyết Âm – Dương” của triết học Trung Quốc, đặc biệt là trong nhiều học thuyết của triết học Hy Lạp cổ đại. Các nhà triết học đều thấy các sự vật hiện tượng của vũ trụ sinh thành, biến hoá trong những mối liên hệ vô cùng tận. Cách nhận xét thế giới như vậy, theo Ăngghen, là một cách nhận xét còn nguyên thuỷ, ngây thơ, nhưng căn bản là đúng và là kết quả của một trực kiến thiên tài, song chưa phải là kết quả cuả những sự nghiên cứu và thực nghiệm khoa học. Chính vì hạn chế này mà phép biện chứng Cổ đại phải nhường bước cho phép siêu hình, phương pháp thống trị trong tư duy triết học ở thế kỷ XVIII là điều không thể tránh khỏi. Đây là giai đoạn khám phá kết cấu, thuộc tính của đối tượng. * Hình thức thứ hai là phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức, bắt đầu từ Cantơ và hoàn chỉnh ở Hêghen. Lần đầu tiên trong lịch sử phát triển tư duy nhân loại, các nhà triết học cổ điển Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung của phép biện chứng. Tuy nhiên, đây mới chỉ dừng lại ở biện chứng của khái niệm, của tinh thần, và tai hại hơn là họ cho rằng giới hiện thực chỉ là sự sao chép của tinh thần, bởi vậy phép biện chứng cổ điển Đức là có tính chất duy tâm. * Hình thức thứ ba là phép biện chứng duy vật. Trên cơ sở kế thừa những hạt nhân hợp lý của phép biện chứng duy tâm, sau khi gạt bỏ tính chất duy tâm thần bí của nó, Mác – Ăng ghen xây dựng phép biện chứng duy vật với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất. VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI Vai trò thế giới quan và phương pháp luận Vai trò thế giới quan của triết học * Tồn tại trong mối quan hệ với thế giới xung quanh, dù muốn hay không con người cũng phải nhận thức thế giới và nhận thức bản thân mình. Những tri thức này cùng với niềm tin vào nó dần dần hình thành nên thế giới quan. * Thế giới quan là nhân tố định hướng cho quá trình hoạt động sống của con người. Thế giới quan như một “thấu kính” qua đó con người xác định mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức đạt mục đích đó. * Trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng nhất định. * Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học. + Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận của hai thế giới quan cơ bản đối lập nhau. Chính vì vậy chúng đóng vai trò là nền tảng thế giới quan của các hệ tư tưởng đối lập. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học biểu hiện bằng cách này hay cách khác cuộc đấu tranh giữa những giai cấp, những lực lượng xã hội đối lập nhau. Do vậy: + Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực giúp cho con người sáng tạo trong hoạt động. + Thế giới quan sai lầm làm cho con người sống thụ động hoặc sai lệch trong hoạt động. + Việc nghiên cứu triết học giúp ta định hướng hoàn thiện thế giới quan. Vai trò phương pháp luận của triết học Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống quan điểm có tính nguyên tắc chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp. * Triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất + Tri thức triết học là hệ thống tri thức chung nhất về thế giới và vai trò con người trong thế giới, nghiên cứu các qui luật chung nhất chi phối cả tự nhiên, xã hội và tư duy. + Mỗi luận điểm triết học đồng thời là một nguyên tắc trong việc xác định phương pháp, là lý luận về phương pháp. Việc nghiên cứu triết học giúp ta có được phương pháp luận chung nhất, trở nên năng động sáng tạo trong hoạt động phù hợp với xu thế phát triển chung. Vai trò của triết học Mác – Lê nin Triết học Mác – Lênnin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy triết học nhân loại. Nó được C.Mác và Ph. Ăngghen sáng tạo ra và V.I.Lênin phát triển một cách xuất sắc. Đó là chủ nghĩa duy vật biên chứng trong việc xem xét giới tự nhiên cũng như xem xét đời sống xã hội và tư duy con người. * Với tư cách là một hệ thống nhận thức khoa học có sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương pháp: triết học Mác-Lênin như Lê nin nhận xét: “Là một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị” và “là một công cụ nhận thức vĩ đại”, triết học Mác-Lênin là cơ sở triết học của một thế giới quan khoa học, là nhân tố định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, là nguyên tắc xuất phát của phương pháp luận. + Trong triết học Mác – Lênin, lý luận và phương pháp thống nhất hữu cơ với nhau. Chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng là phép biện chứng duy vật. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để, và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học; nhờ đó triết học mácxít có khả năng nhận thức đúng đắn cả giới tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy con người. + Nắm vững triết học triết học Mác-Lênin không chỉ là tiếp nhận một thế giới quan đúng đắn mà còn là xác định một phương pháp luận khoa học. Nguyên tắc khách quan trong sự xem xét đòi hỏi phải biết phân tích cụ thể theo tinh thần biện chứng, đồng thời nó ngăn ngừa thái độ chủ quan tuỳ tiện trong việc vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn. * Trong quan hệ với các khoa học cụ thể, mối quan hệ giữa triết học Mác- Lênin và các khoa học cụ thể là mối quan hệ biện chứng, cụ thể là: các khoa học cụ thể là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của triết học. Đến lượt mình, triết học Mác- Lênin cung cấp những công cụ phương pháp luận phổ biến, định hướng sự phát triển của các khoa học cụ thể. Mối quan hệ này càng đặc biệt quan trọng trong kỷ nguyên cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ. Chính vì vậy, để đẩy mạnh phát triển khoa học cụ thể cũng như bản thân triết học, sự hợp tác chặt chẽ giữa những người nghiên cứu lý luận triết học và các nhà khoa học khác là hết sức cần thiết. Điều đó đã được chứng minh bởi lịch sử phát triển của khoa học và bản thân triết học. Ngày nay trong kỷ nguyên cách mạng khoa học công nghệ, sự gắn bó càng trở nên đặc biệt quan trọng. Trong kỷ nguyên này, cuộc đấu tranh chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm không bị thủ tiêu mà vẫn tiếp tục diễn ra với những nội dung và hình thức biểu hiện mới. Trong tình hình đó, lý luận triết học sẽ trở nên khô cứng và lạc hậu, nếu không được phát triển dựa trên sự khái quát khối tri thức hết sức lớn lao của khoa học chuyên ngành. Ngược lại, nếu không đứng vững trên lập trường duy vật khoa học và thiếu tư duy biện chứng thì đứng trước những phát hiện mới mẻ người ta có thể mất phương hướng và đi đến kết luận sai lầm về triết học. Tuy nhiên, triết học Mác không phải là đơn thuốc vạn năng chứa sẵn mọi cách giải quyết các vấn đề đặt ra trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn. Để có thể tìm lời giải đáp đúng đắn cho những vấn đề đó, bên cạnh tri thức triết học cần có hàng loạt những tri thức khoa học cụ thể cùng với những tri thức kinh nghiệm do cuộc sống tạo nên một cách trực tiếp ở mỗi con người. Thiếu tri thức đó, việc vận dụng những nguyên lý triết học không những khó mang lại hiệu quả, mà trong nhiều trường hợp có thể còn dẫn đến những sai lầm mang tính giáo điều. Do vậy, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta cần tránh cả hai thái cực sai lầm: + Xem thường triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, dễ bằng lòng với những biện pháp cụ thể nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thiếu nhìn xa trông rộng, thiếu chủ động và sáng tạo trong công tác; + Tuyệt đối hóa vai trò của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng một cách máy móc những nguyên lý, những quy luật vào từng trường hợp riêng mà không tính đến tình hình cụ thể trong từng trường hợp riêng và kết quả là dễ bị vấp váp, thất bại. Bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư duy biện chứng để phòng và chống chủ nghĩa chủ quan, tránh phương pháp tư duy siêu hình, đó vừa là kết quả vừa là mục đích trực tiếp của việc nghiên cứu lý luận triết học nói chung, triết học Mác – Lênin nói riêng. KẾT LUẬN Nghiên cứu khái niệm và nguồn gốc của triết học cho chúng ta hiểu được Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí vai trò của con người trong thế giới đó. Triết học đóng vai trò hạt nhân lý luận của thế giới quan, giữ vai trò định hướng cho quá trình củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng người trong lịch sử. Nghiên cứu vấn đề cơ bản của triết học cho chúng ta hiểu được sự hình thành các trường phái triết học duy vật và duy tâm trong lịch sử, cũng như hai phương pháp nghiên cứu đối lập nhau trong lịch sử là phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng, giúp chúng ta xây dựng được phương pháp biện chứng trong nhận thức và cải tạo thế giới. Với chức năng thế giới quan và phương pháp luận, triết học trở thành công cụ đắc lực trong hoạt động chế ngự thiên nhiên và sự nghiệp giải phóng con người của những lực lượng xã hội tiến bộ. Tự nhiên và xã hội Xã hội Xã hội- một bộ phận đặc thù của tự nhiên Th1 16, 2020 admin Khái niệm tự nhiên Xã hội- một bộ phận đặc thù của tự nhiên * Tự nhiên theo nghĩa rộng: Là toàn bộ thế giới vật chất tồn tại khách quan. Với nghĩa này thì con người, xã hội loài người là một bộ phận, hơn nữa là một bộ phận đặc thù của thế giới tự nhiên. Xét về mặt tiến hoá, con người có nguồn gốc từ tự nhiên, là con đẻ của tự nhiên, là sản phẩm và là sản phẩm cao nhất của quá trình tiến hoá của thế giới vật chất. Con người với bộ óc hoàn chỉnh là sản phẩm của thế giới vật chất. Sự ra đời của con người không chỉ là kết quả của các qui luật sinh học mà quan trọng hơn cả là kết quả của quá trình lao động. Đó là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào thế giới tự nhiên, khai thác và cải biến giới tự nhiên tạo ra những sản phẩm vật chất để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của mình.Chính quá trình đó con người làm biến đổi tự nhiên và làm biến đổi chính bản thân mình.Chính quá trình lao động nhu cầu trao đổi, hợp tác lao động đã làm xuất hiện ngôn ngữ. Lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não của loài vật thành bộ não của loài người, từ tâm lý động vật sang ý thức con người. Con người được hình thành từ lao động và ngôn ngữ, quá trình đó gắn liền với quá trình hình thành quan hệ giữa con người với con người. Quá trình chuyển biến từ động vật thành con người cũng là quá trình chuyển biến từ cộng đồng mang tính bày đàn, hoạt động theo bản năng thành một cộng đồng mới khác hẳn về chất. Đây cũng là quá trình chuyển biến từ vận động sinh học thành vận động xã hội. Ta gọi đó là xã hội. Như vậy, con người là hạt nhân của sự thống nhất biện chứng giữa tự nhiên và xã hội. * Tự nhiên theo nghĩa hẹp Gồm toàn bộ thế giới vật chất không kể lĩnh vực xã hội (khi nghiên cứu quan hệ tự nhiên -xã hội ở đây là tự nhiên theo nghĩa hẹp đặc biệt là môi trường tự nhiên.) Môi trường tự nhiên gồm: + Điều kiện địa lý tự nhiên: đất đai, rừng núi, sông ngòi, khí hậu. + Của cải tự nhiên: tài nguyên, khoáng sản, lâm sản, thuỷ hải sản … + Nguồn năng lượng trong tự nhiên: sức gió, sức nước, ánh nắng mặt trời… Khái niệm xã hội Xã hội là một hình thái vận động cao nhất của thế giới vật chất. Hình thái vận động này lấy mối quan hệ của con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng. Xã hội biểu hiện tổng số những mối liên hệ và các quan hệ của các cá nhân với nhau. Theo Mác “Xã hội – cho dù nó có hình thức gì đi nữa – là cái gì? Là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa con người” Con người là sản phẩm cao nhất của tự nhiên, bằng hoạt động của mình con người làm nên lịch sử, làm nên xã hội. Vì vậy, xã hội không thể là cái gì khác mà chính là bộ phận đặc thù được tách ra một cách hợp qui luật của tự nhiên. Xã hội là hình thái tổ chức cao nhất của vật chất trong quá trình vận động tiến hoá lâu dài và phức tạp. Xã hội là một bộ phận đặc thù của giới tự nhiên. Tính đặc thù của xã hội được thể hiện: khác với phần còn lại của tự nhiên chỉ có những nhân tố vô thức tác động lẫn nhau, xã hội, nhân tố hoạt động là con người có ý thức. Hành động của họ có suy nghĩ và theo đuổi những mục đích nhất định. Hoạt động của con người không chỉ tái sản xuất ra chính bản thân mình mà còn tái sản xuất ra giới tự nhiên. Đặc điểm của quy luật xã hội Là một bộ phận đặc thù của tự nhiên, vừa là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa người với người, để tồn tại và phát triển xã hội vừa phải tuân theo những qui luật của tự nhiên vừa phải tuân theo những qui luật riêng chỉ tồn tại trong lĩnh vực xã hội. Điều đó chỉ rõ, trước hết qui luật xã hội phải mang đầy đủ những đặc trưng cơ bản của qui luật chung, đó là tính khách quan, phổ biến và tính tất yếu. Qui luật xã hội mang đậm dấu ấn hoạt động của con người. Tính khách quan Tính khách quan của qui luật thể hiện ở chỗ: Qui luật xã hội là qui luật hoạt động của con người có ý thức, nhưng nó không phụ thuộc vào ý thức, ý chí của bất kỳ một cá nhân, một lực lượng xã hội nào. Bởi vì bằng hoạt động thực tiễn con người làm ra lịch sử, song những hoạt động của con người thực hiện trong những điều kiện vật chất nhất định, sinh hoạt vật chất nhất định, trong những mối quan hệ nhất định giữa con người và tự nhiên, con người và con người. Những điều kiện và những mối quan hệ đó là khách quan với mỗi thời đại, mỗi dân tộc, mỗi thế hệ, mỗi con người khi họ theo đuổi mục đích của bản thân. Qui luật xã hội thường được biểu hiện ra như những xu hướng mang tính xu hướng. Những mối liên hệ và tác động phức tạp lẫn nhau giữa người và người đã tạo ra những hoạt động khác nhau trong xã hội. Tổng hợp những lực tác động lẫn nhau đó tạo thành xu hướng của lịch sử, trong đó, lực hoạt động của khối đông người chiếm ưu thế. Điều đó có nghĩa là, mặc dù hoạt động của con người trong xã hội biểu thị cho nhiều mục đích, ý muốn khác nhau, thậm chí những mục đích, ý muốn đó là chồng chéo nhau, đối lập nhau nhưng qui luật xã hội chỉ phản ánh ý muốn, mục đích của khối đông người, phù hợp với xu thế vận động phát triển của lịch sử. Xu hướng này là khách quan, qui luật là hợp lý khách quan. Tính tất yếu và phổ biến Nghĩa là những quan hệ của con người được hình thành một cách tất yếu và phổ biến, nhằm thoả mãn nhu cầu sống của con người – nhu cầu tồn tại và phát triển của xã hội. Quan hệ của con người và con người trong xã hội có nhiều cấp độ khác nhau: Có loại quan hệ xã hội tồn tại phổ biến ở mọi hình thái kinh tế – xã hội như quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng…Tạo nên những qui luật chi phối mọi hình thái kinh tế -xã hội như: qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng… Các quan hệ xã hội chỉ tồn tại trong một số hình thái kinh tế – xã hội như quan hệ gia đình, giai cấp, dân tộc… Loại quan hệ chỉ tồn tại ở một số hình thái kinh tế – xã hội như quan hệ giữa địa chủ và nông dân, quan hệ giữa tư sản và vô sản… Loại quan hệ chỉ tồn tại ở từng lĩnh vực riêng lẻ như lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá… như quan hệ giữa các Đảng, phái chính trị, quan hệ đạo đức, tôn giáo… Qui luật xã hội phản ánh các loại quan hệ xã hội đó với mức độ tất yếu và phổ biến khác nhau. Ngoài những đặc trưng của qui luật nói chung, qui luật xã hội còn có những đặc trưng riêng. Qui luật xã hội tồn tại và tác động trong những điều kiện nhất định Khi những điều kiện tồn tại tất yếu của qui luật bị xoá bỏ thì qui luật cũng không tồn tại. Ví dụ: đấu tranh giai cấp là một trong những động lực của lịch sử, là qui luật của xã hội có phân chia giai cấp đối kháng. Qui luật đấu tranh giai cấp sẽ chấm dứt hoạt động khi xã hội không còn phân chia giai cấp đối kháng. Hình thức biểu hiện sự tác động của các qui luật thường bị biến dạng do hoàn cảnh lịch sử ở mỗi thời đại, giai đoạn, từng nước khác nhau. Nó cũng tuỳ thuộc vào trạng thái các quan hệ xã hội. Các qui luật thể hiện rõ rệt khi các quan hệ vốn có đạt đến độ chín muồi nhất định. Sự tác động của qui luật xã hội thường thông qua hoạt động của con người mà con người lại bị lợi ích là động cơ chi phối hoạt động. Do đó, lợi ích trở thành yếu tố quan trọng trong cơ chế hoạt động của qui luật xã hội, chi phối sự nhận thức của con người về qui luật. Điều này không làm mất đi tính khách quan của qui luật xã hội. Tuy nhiên lợi ích ở đây là lợi ích của cộng đồng, giai cấp, của khối đông người. Như vậy, qui luật xã hội khác qui luật tự nhiên ở chỗ nó phải thông qua hoạt động của con người có ý thức, bị tác động bởi yếu tố lợi ích. Để nhận thức qui luật xã hội cần có phương pháp khái quát hoá và trừu tượng rất cao Bởi vì: sự biểu hiện và tác động của các qui luật xã hội thường diễn ra trong thời gian rất lâu, do đó, không thể dùng thực nghiệm để kiểm tra, cũng không thể dùng lối suy diễn một cách đơn thuần. – Do vậy để nhận thức các qui luật xã hội cần: Phải nghiên cứu các nguyên nhân thúc đẩy sự vận động và phát triển của xã hội. Qui luật xã hội là qui luật hoạt động của con người. Nguyên nhân thúc đẩy hoạt động của con người là một chuỗi nhân quả xã hội. Hoàn cảnh bên ngoài, gồm những điều kiện khách quan, nhưng quan trọng nhất là điều kiện kinh tế: nhu cầu, lợi ích, mục đích – hoạt động thực hiện mục đích. Trong đó nhu cầu và lợi ích giữ vai trò rất quan trọng, là khâu đầu tiên chuyển hoá những điều kiện khách quan thành tư tưởng bên trong thúc đẩy con người hoạt động. Vì vậy, nhu cầu và lợi ích là động cơ trực tiếp thúc đẩy con người hoạt động, qua đó cũng là nguyên nhân thúc đẩy sự vận động và phát triển của xã hội. Con người là hạt nhân của sự thống nhất biện chứng giữa xã hội và tự nhiên, do vậy, qui luật xã hội và qui luật tự nhiên gắn bó chặt chẽ với nhau trong hoạt động của con người. Để đạt được sự phát triển lâu bền của xã hội, một mặt con người phải tôn trọng và tuân theo qui luật xã hội, đồng thời cũng phải tuân theo qui luật của tự nhiên. Qui luật xã hội mang tính khách quan, việc con người có nhận thức được hay không? Có tự giác vận dụng hay không? thì qui luật xã hội vẫn luôn tồn tại và tác động ngoài ý thức của con người. Khi con người chưa nhận thức và chưa vận dụng được qui luật thì chúng tác động như một lực lượng tự phát và biến con người trở nên bị động trước tính tất yếu. Ngược lại, khi con người nhận thức và vận dụng được qui luật xã hội vào các hoạt động có mục đích của mình thì con người làm chủ được tính tất yếu, thì con người đạt đến tự do. Điều đó chỉ rõ con người tự do là nhận thức được qui luật và hành động theo qui luật. Nghĩa là tự do trên cơ sở nắm được tính tất yếu. Tự do là sản phẩm của sự phát triển lịch sử. Quá trình phát triển của xã hội cũng là quá trình con người vươn đến tự do. Đến xã hội Cộng sản chủ nghĩa con người được giải phóng khỏi mọi áp bức, bóc lột con người mới thật sự làm chủ bản thân, tự nhiên, làm chủ xã hội, trở thành con người thực sự tự do. Sự tác động qua lại giữa tự nhiên và xã hội Vai trò của yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội trong hệ thống tự nhiên – xã hội + Hệ thống tự nhiên xã hội? Hệ thống tự nhiên – xã hội là một chỉnh thể trong đó những yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội tác động qua lại lẫn nhau, qui định sự tồn tại và phát triển của nhau. Hệ thống này được xây dựng trên cơ sở cấu trúc liên hoàn chặt chẽ của sinh quyển và được đảm bảo bởi cơ chế hoạt động của chu trình sinh học. Đó là chu trình trao đổi chất, năng lượng và thông tin giữa các hệ thống vật chất sống với môi trường tồn tại của chúng trong tự nhiên. Chu trình hoạt động tuân theo qui luật chung với nguyên tắc: tự tổ chức, tự điều chỉnh, tự bảo vệ theo một trật tự liên hoàn chặt chẽ, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của cả hệ thống. + Vai trò của yếu tố tự nhiên trong hệ thống tự nhiên – xã hội – Tự nhiên là điều kiện đầu tiên, thường xuyên và tất yếu của quá trình sản xuất vật chất: Là một trong những yếu tố cơ bản của những điều kiện sinh hoạt vật chất. Tự nhiên vừa là nhà ở, vừa là công xưởng, vừa là phòng thí nghiệm và là bãi chứa chất thải khổng lồ của xã hội. Vai trò đó thay đổi cùng với sự phát triển của xã hội. – Tự nhiên là môi trường sống của con người và xã hội. Vai trò này không thể thay thế và mất đi dù xã hội có phát triển ở trình độ nào. Tự nhiên cung cấp những thứ cần thiết nhất cho cuộc sống của con người. Cũng chỉ có tự nhiên cung cấp những điều kiện cần thiết nhất cho sản xuất xã hội. Theo Các Mác, “công nhân không thể sáng tạo ra cái gì hết, nếu không có giới tự nhiên, nếu không có thế giới hữu hình bên ngoài. Đó là vật liệu trong đó lao động của anh ta được thực hiện, trong đó lao động của anh ta tác động và nhờ đó, lao động của anh ta sản xuất ra sản phẩm” . – Tự nhiên luôn là tiền đề, điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Tự nhiên có thể tác động thuận lợi hoặc gây cản trở sản xuất xã hội, qua đó có thể kìm hãm hoặc thúc đẩy sự phát triển của xã hội. + Vai trò của xã hội trong hệ thống tự nhiên – xã hội Xã hội gắn bó với tự nhiên trước hết là nhờ lao động sản xuất. Lao động là đặc trưng cơ bản để phân biệt hoạt động của con người với động vật. Lao động đồng thời cũng là yếu tố đầu tiên cơ bản và quan trọng nhất tạo nên sự thống nhất giữa tự nhiên và xã hội. Vì, “lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên”. Sự trao đổi chất giữa con người và tự nhiên thể hiện trước hết: nếu tự nhiên cung cấp cho con người tất cả nguồn vật chất vốn có của mình thì con người và xã hội là người tiêu thụ. Quá trình sử dụng nguồn vật chất của tự nhiên, con người, xã hội loài người làm biến đổi tự nhiên nhanh chóng nhất, mạnh mẽ nhất so với tất cả những thành phần khác của chu trình sinh học. Trong chu trình trao đổi chất giữa xã hội và tự nhiên có nét nổi bật: Thứ nhất: xã hội có thể sử dụng tất cả nguồn vật chất vốn có của sinh quyển, từ động vật, thực vật, đến vi sinh vật; từ cát sỏi, đất đá đến các loại khoáng sản, dầu mỏ, khí đốt,…; từ nguồn vật chất có hạn và tái tạo tới ánh sáng, nước, không khí… Thứ hai là sự trao đổi chất của mắt khâu xã hội đạt hiệu quả thấp. Con người sử dụng lãng phí các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Do vậy, nếu trong chu trình này con người không kiểm tra, điều tiết quá trình khai thác các nguồn vật chất trong tự nhiên sẽ dẫn đến khủng hoảng sinh thái, sự thống nhất giữa tự nhiên và xã hội bị phá vỡ. Chính vì vậy mà yếu tố xã hội ngày càng giữ vị trí quan trọng trong sự tác động giữa tự nhiên và xã hội. Những yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội Quan hệ giữa tự nhiên và xã hội chịu sự tác động của các yếu tố: trình độ phát triển của xã hội, việc nhận thức qui luật tự nhiên, qui luật xã hội, cũng như sự vận dụng vào hoạt động thực tiễn của con người. Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội Lịch sử của xã hội loài người được làm nên bởi quan hệ giữa con người với tự nhiên và giữa những con người với nhau. Chính thông qua quan hệ với tự nhiên con người đã làm cải biến tự nhiên. Con người với hoạt động của mình đã làm cho lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội gắn bó với nhau, qui định lẫn nhau. Mối quan hệ đó phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội mà tiêu chí đánh giá nó là cách thức sản xuất ra của cải vật chất ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định của con người. Sự ra đời của những phương thức sản xuất cao hơn phương thức sản xuất trước đó đã quyết định những chuyển biến về chất của xã hội loài người đưa xã hội từ dã man sang văn minh. Phương thức sản xuất qui định tính chất của mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên vì mỗi phương thức có những công cụ sản xuất khác nhau. Khi công cụ sản xuất thay đổi, mục đích sản xuất thay đổi kéo theo quan hệ giữa tự nhiên và xã hội thay đổi. Do yêu cầu của thực tiễn mà con người luôn cải tạo, chinh phục tự nhiên, phục vụ cho cuộc sống của mình. Điều đó làm cho vai trò, phạm vi tác động của xã hội đối với tự nhiên ngày càng lớn. Khi trình độ mọi mặt của con người được nâng cao thì phạm vi tác động của xã hội ngày càng lớn đối với tự nhiên. Tuy nhiên, sự tác động của xã hội đối với tự nhiên còn phụ thuộc vào tính chất chế độ xã hội. Tính chất của chế độ chính trị cũng qui định tính chất của môi trường tự nhiên. Điều đó chỉ rõ tính chất chế độ chính trị của xã hội nó qui định sự tác động của xã hội đối với tự nhiên nhiều hay ít? Thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển tự nhiên ? Vì tự nhiên chỉ là khả năng, nó có vai trò to lớn đối với sự phát triển sản xuất, phát triển xã hội. Nhưng việc khai thác tự nhiên như thế nào? đến đâu là phụ thuộc vào con người, hoạt động của con người, hoạt động đó phụ thuộc vào chế độ chính trị, xã hội. Chế độ chính trị càng tiến bộ, khả năng huy động sức mạnh trong hoạt động của con người ngày càng lớn, tác động với mục đích tích cực hơn đến tự nhiên. Do vậy việc hướng tới một chế độ xã hội tốt đẹp trở thành một mục tiêu tất yếu của xã hội loài người để giải quyết tốt mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội. Ngày nay, con người đã đạt đến đỉnh cao trong sản xuất là nền đại công nghiệp cơ khí tự động hoá nhưng vì mục đích nền sản xuất mà con người coi tự nhiên chủ yếu là đối tượng khai thác đã dẫn đến khủng hoảng sinh thái ở một số nơi đe doạ sự sống của cả nhân loại. Vì vậy, để tồn tại và phát triển bền vững không còn con đường nào khác con người phải quay trở về chung sống với tự nhiên, thay đổi phương thức khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên, thay đổi mục đích sản xuất vì lợi nhuận, quan trọng hơn cả là thay đổi sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội phụ thuộc vào trình độ nhận thức và vận dụng các qui luật trong hoạt động thực tiễn Hoạt động sản xuất vật chất của con người là hoạt động chinh phục tự nhiên. Hoạt động này có thể làm cho tự nhiên thay đổi theo hai hướng: Một là, nếu con người tác động vào tự nhiên theo đúng qui luật của thì con người tạo ra “Thiên nhiên thứ hai” hài hoà với sự phát triển của xã hội. Hai là, nếu con người bất chấp qui luật, chỉ khai thác những cái sẵn có trong tự nhiên sẽ là nghèo tự nhiên và sự phá vỡ cân bằng giữa tự nhiên và xã hội là điều không thể tránh khỏi. Việc nhận thức qui luật tự nhiên và sử dụng những qui luật đó một cách hiệu quả để đảm bảo sự cân bằng của hệ thống tự nhiên – xã hội không thể tách rời việc nhận thức và vận dụng qui luật xã hội. Đó là tiền đề để từng bước điều chỉnh một cách có ý thức mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội. Chỉ có nắm vững và vận dụng triệt để các qui luật xã hội mới xác định đúng đắn được mục đích của nền sản xuất, mới có ý thức tự giác để lựa chọn những công cụ, những phương tiện hợp lý để thực hiện mục đích đó, đảm bảo cho việc phát triển xã hội bền vững trong quan hệ hài hoà tự nhiên – xã hội. Xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, thiết lập một chế độ xã hội mới – xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn thấp là xã hội xã hội chủ nghĩa là con đường duy nhất thực hiện sự hài hoà giữa tự nhiên và xã hội. Chủ nghĩa cộng sản cho phép giải quyết mâu thuẫn giữa con người với con người, con người với tự nhiên, tạo nên sự thống nhất xã hội và tự nhiên. Tóm lại, tự nhiên và xã hội là hai yếu tố có quan hệ biện chứng với nhau, trong mối quan hệ đó tính chất môi trường xã hội quyết định tính chất môi trường tự nhiên. Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội cần phê phán một số quan điểm siêu hình như sau: + Tự nhiên và xã hội là hai thế giới hoàn toàn tách biệt song song tồn tại, giữa chúng không hề có mối quan hệ với nhau. + Hoặc tự nhiên là “tồn tại tự nó”, là “huyền bí” con người không thể nhận thức được tự nhiên, càng không thể cải tạo tự nhiên. Họ cho rằng: đứng trước tự nhiên con người thấy bất lực không thể giải thích được tự nhiên, từ đó họ không có năng lực cải tạo tự nhiên. Sự tác động của con người vào tự nhiên chỉ là sự tác động ngẫu nhiên, mù quáng, vô thức. Thực chất quan điểm trên là những quan điểm sai lầm, nó tác động tới tính năng động chủ quan của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên, làm chủ tự nhiên. Dân số, môi trường trong sự phát triển xã hội Vai trò của dân số đối với sự phát triển của xã hội Khái niệm dân số: Dân số là số lượng người làm ăn, sinh sống trong một vùng lãnh thổ nhất định nào đó: một quốc gia, một địa phương. Vấn đề dân số nói đến nhiều mặt: số lượng dân số, chất lượng dân cư, mật độ dân cư, sự gia tăng dân số, sự phân bố dân cư theo lãnh thổ… Những yếu tố đó thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau, đồng thời phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, điều kiện chính trị xã hội. Vai trò của dân số đối với sự phát triển của xã hội * Được thể hiện ở hai bình diện: số lượng và chất lượng dân cư Số lượng dân cư là số lượng người của dân số. Số lượng dân cư, mật độ dân cư thể hiện sức mạnh về lượng của dân số theo nghĩa số người càng đông, sức mạnh càng lớn. Thực chất đây là sức mạnh được tính theo cơ bắp, sức mạnh thuộc về thể lực của con người. Sức mạnh về lượng của dân số phụ thuộc rất lớn vào trình độ tổ chức, quản lý, vào sự đoàn kết, liên kết giữa người với người trong cộng đồng. Sức mạnh về chất của dân số là thể hiện sức mạnh trí lực của con người-lao động trí tuệ như kỹ năng, kỹ xảo năng lực thực hành những hoạt động có hàm lượng khoa học cao, sự thông minh nhạy bén, ý chí, nghị lực… Sức mạnh về chất của dân cư phụ thuộc rất lớn vào chất lượng cuộc sống, vào trình độ giáo dục, dân trí, vào truyền thống văn hoá, vào trình độ phát triển của khoa học công nghệ… * Vai trò của dân số đối với sự phát triển của xã hội còn thể hiện ở việc dân số là điều kiện thường xuyên, tất yếu của sự phát triển xã hội. Bất kỳ một xã hội nào cũng cần có một số lượng dân cư nhất định để tồn tại, phát triển. Số lượng dân cư, mật độ dân cư ảnh hưởng trực tiếp đến lao động xã hội, đến tổ chức phân công lao động xã hội. Số lượng dân cư hợp lý, mật độ dân cư phù hợp sẽ tạo điều kiện cho lao động xã hội phát triển, thúc đẩy xã hội phát triển. Ngược lại, các yếu tố của dân cư không hợp lý sẽ gây nên khó khăn cho sản xuất, qua đó, ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội. Sức mạnh dân cư về số lượng chỉ được phát huy mạnh khi trình độ sản xuất còn thấp, chủ yếu mới sử dụng cơ bắp với sự hỗ trợ của các công cụ lao động thô sơ. Từ cuối thế kỷ XVII với sự ra đời của công nghệ cơ khí thì vai trò của sức mạnh dân số giảm xuống. Ngày nay, khi công nghệ cơ khí dần bị thay thế bởi công nghệ tin học thì lao động trí tuệ cũng dần thay thế cho lao động cơ bắp, sức mạnh chất lượng dân cư dần thay thế cho sức mạnh số lượng dân cư. Số lượng dân cư, mật độ dân cư chịu ảnh hưởng của sự gia tăng dân số, qua đó ảnh hưởng tới sự phát triển của xã hội. Sự gia tăng dân số quá nhanh hoặc quá chậm so với các điều kiện kinh tế – xã hội đều có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của xã hội. Dân số tăng quá nhanh sẽ dẫn đến những khó khăn về lương thực, thực phẩm, chăm sóc sức khoẻ, việc làm… ảnh hưởng đến chất lượng dân cư, tạo nên sự di cư tự phát, ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự xã hội. Ngược lại, nếu dân số tăng quá chậm sẽ dẫn đến thiếu lao động xã hội, gây khó khăn cho sản xuất, dịch vụ, phúc lợi xã hội…vấn đề dân số vừa phụ thuộc vào qui luật tự nhiên, liên quan đến môi trường tự nhiên, vừa phụ thuộc vào các điều kiện xã hội liên quan đến bản chất xã hội và các chính sách của nhà nước trong xã hội đó. Giải quyết tối ưu vấn đề dân số là trách nhiệm của mỗi quốc gia nhưng nó là vấn đề toàn cầu. Nó yêu cầu phải xác định và giữ được tỷ tăng dân số hợp lý. Phân bố dân cư phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội đồng thời nó yêu cầu phải tăng cường chất lượng dân cư để xã hội phát triển bền vững. Khi nghiên cứu về vai trò của dân số đối với sự phát triển xã hội, cần phê phán một số quan điểm sai trái như sau: Lý thuyết Mantuýt (1798) trong cuốn “Tình trạng lý thuyết dân số” đã đưa ra kết luận: lương thực thực phẩm tăng theo cấp số cộng dân số tăng trưởng theo cấp số nhân, dẫn tới khoảng cách ngày càng xa giữa dân số và lương thực là nguyên nhân dẫn đến tình trạng đói nghèo của nhân loại. Nguyên nhân chính là do quần chúng lao động nghèo sinh đẻ quá nhiều từ đó đưa ra hai giải pháp: (1) Con người cần kiềm chế khôn ngoan: thanh niên nâng cao tuổi kết hôn, kêu gọi con người giảm bớt tần suất hoạt động tình dục. (2) Đưa ra biện pháp kiềm chế mạnh: sử dụng chiến tranh để loại bớt “người thừa trong bữa tiệc thiên nhiên”. Lý thuyết này sau được phái tân Mantuýt đẩy lên cao ở thế kỷ XX và trở thành lý thuyết cực kỳ phản động: họ phàn nàn các cuộc chiến tranh đẫm máu trong lịch sử trên thế giới chưa đủ tiêu diệt bớt số dân cần thiết. Vì vậy, phải đẩy mạnh chiến tranh – thậm chí chiến tranh hạt nhân: “Bom nguyên tử là câu trả lời của tự nhiên với sự ngoan cố của nhân loại không muốn hạ thấp mức sinh. Thuyết này kết tội các nhà y học phát hiện ra những thành tựu y học ngăn chặn bệnh tật gây chết người hàng loạt. Họ khẳng định để giải quyết tình trạng đói nghèo nhất thiết phải cưỡng bức quần chúng tiệt dục. Đó là những lý thuyết đầu tiên và có diện rộng về dân số đặt ra tất cả những vấn đề cấp bách của nó. Tuy nhiên, giải quyết vấn đề dân số không chỉ có những biện pháp cực đoan trên mà có thể sử dụng nhiều biện pháp tổng hợp khác, mang tính tích cực. Điều đó phụ thuộc vào bản chất chế độ xã hội, vào nhận thức và vận dụng qui luật khách quan của con người. Cũng cần phê phán các quan điểm sai trái khác về dân số như lý thuyết phân biệt chủng tộc về dân số, lý thuyết dân số tối ưu…. Vai trò của môi trường đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội Khái niệm môi trường Môi trường là toàn bộ những điều kiện mà trong đó con người sinh sống. Môi trường bao hàm cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Môi trường tự nhiên còn được sử dụng dưới nhiều tên gọi khác nhau như sinh quyển, môi trường sinh – địa – hoá, môi trường sống …thường được gọi chung là môi trường sinh thái. Vai trò của môi trường tự nhiên với sự phát triển của xã hội Môi trường tự nhiên là nơi sinh tồn của con người, xã hội. Ở trình độ mông muội, khi con người chỉ biết chủ yếu hái lượm những sản phẩm có sẵn trong tự nhiên thì con người hoàn toàn lệ thuộc vào tự nhiên, cuộc sống của xã hội phụ thuộc chủ yếu vào môi trường tự nhiên. Khi trình độ văn minh cao hơn, nhất là khi khoa học kỹ thuật phát triển thì con người từng bước chinh phục tự nhiên, khai thác tự nhiên để phục vụ cho nhu cầu của mình. Nhưng nhìn chung, tự nhiên vẫn có vai trò to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Tự nhiên tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây khó khăn cho quá trình sản xuất xã hội, qua đó ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội. Khi con người tác động mạnh mẽ vào tự nhiên một cách bất chấp qui luật con người sẽ vấp phải những vấn đề mới ảnh hưởng đến sự bền vững của hệ thống tự nhiên xã hội. Môi trường tự nhiên không chỉ gây nên khó khăn cho quá trình sản xuất mà nó còn đe doạ tới sự sống còn của xã hội. Biểu hiện trước hết là sự khan hiếm và cạn dần các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nạn ô nhiễm môi trường, các hiện tượng xa mạc hoá, thủng tầng ôzôn… Có nhiều nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng trên xong cơ bản và sâu xa nhất là chế độ xã hội. Chủ nghĩa tư bản đã từng tận dụng một cách triệt để khoa học công nghệ để bóc lột con người, khai thác tự nhiên bất chấp qui luật tự nhiên. Muốn tự nhiên phát triển phục vụ cho con người thì việc xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân, tư bản là cần thiết. Đó là điều kiện nhưng chưa đủ để đảm bảo thống nhất hài hoà giữa tự nhiên và xã hội. Muốn đảm bảo sự cân bằng của hệ thống tự nhiên – xã hội cần xác định rõ mục tiêu sinh thái phải kết hợp với mục tiêu kinh tế làm cơ sở hoạt động sản xuất xã hội trên cơ sở nâng cao nhận thức về tự nhiên, xây dựng ý thức về sinh thái đặc biệt là đạo đức sinh thái. Kết luận Tự nhiên và xã hội hai yếu tố của hệ thống tự nhiên – xã hội. Xã hội và tự nhiên luôn có sự tác động qua lại ảnh hưởng lẫn nhau. Tự nhiên có vai trò rất to lớn đối với xã hội là điều kiện thường xuyên và tất yếu của sự tồn tại và phát triển của xã hội, còn xã hội tác động trở lại tự nhiên thông qua hoạt động lao động sản xuất của con người. Vì vậy bản chất chế độ xã hội, sự hoạt động của con người sẽ tác động rất to lớn đến môi trường tự nhiên theo những khuynh hướng khác nhau qua đó ảnh hưởng tới sự phát triển của xã hội. Giải quyết vấn đề sinh thái, vấn đề dân số là trách nhiệm của mỗi người, mỗi chế độ xã hội. Popular Categories Ẩm thực (49) Ăn non – khéo tay (3) Bất động sản (14) Bê tông (55) Bình Luận (26) Bốc xếp – Lao động (6) Camera quan sát (13) Chứng Khoáng (5) Chương trình giảm giá (5) Công nghệ (2) Công sở (12) Doanh Nghiệp (12) Du Lịch (16) Đẹp (12) Điện thoại (9) Điện Tử Gia Dụng (4) Đọc Báo Nước Ngoài (34) FAQ (2) Giải mã giấc mơ (5) Giải trí (11) Giáo dục (18) Hậu trường (16) Hồ sơ (20) How (8) Huấn luyện thú cưng (7) Kinh Doanh (3) Kinh Tế – Thế Giới (15) Kinh Tế – Trong Nước (27) Lao động – Bốc xếp (1) Mã giảm giá (5) Mẹ và bé (12) Pháp Luật (17) Phế liệu (41) Sổ Tay Du Lịch (7) STT Hay (37) Sức khỏe (11) Tâm sự (16) Thế giới (25) Thể thao (18) Thể thao quốc tế (43) Thể thao trong nước (42) Tiền tệ (9) Tin khuyến mãi (9) Tin Tức (34) Tin Tức Công Nghệ (15) Toàn Cảnh (38) TTDN (21) Tự nhiên và xã hội (13) Tư vấn & đánh giá (7) Văn Hóa (4) What (10) When (1) Where (10) Why (2) Xã hội (34) Xây dựng (63) You missed Bất động sản Thông tin về dự án căn hộ Asahi Tower Th2 21, 2020 Vân Tùng Bất động sản Asahi Tower nằm trên Đại lộ Võ Văn Kiệt Th2 19, 2020 Vân Tùng Bất động sản Tin Tức Dự án căn hộ asahi tower tiện nghi sang trọng giá bình dân Th2 17, 2020 Vân Tùng Du Lịch Toàn Cảnh Phát hiện muộn màng khi người nhiễm virus đã rời du thuyền ở Campuchia Th2 17, 2020 admin Công ty seo | đào tạo seo Home Home Mã giảm giá
1610704847953.98.parquet/168605
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 239427, "url": "http://phylliszullodesigns.com/tag/voer/" }
122.3
Suy nghĩ về công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay - Tài liệu, ebook Đăng ký Đăng nhập Liên hệ Thư viện tài liệu, ebook tổng hợp lớn nhất Việt Nam Website chia sẻ tài liệu, ebook tham khảo cho các bạn học sinh, sinh viên Trang Chủ Tài Liệu Upload Trang Chủ › Các Môn Đại Cương› Triết Học Mác - Lênin› Suy nghĩ về công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay Suy nghĩ về công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay có lẽ không cần phải chứng minh dài dòng rằng công bằng từ ngàn xưa đã là một trong những khát vọng lớn nhất, một trong những lý tưởng xã hội cao nhất của mọi con người. (Trong tiểu luận “Công bằng xã hội và kinh tế”, tôi đã trình bày khái quát về vấn đề này, xin được khỏi nhắc lại). Ðối với người Việt Nam, công bằng bao giờ cũng được coi là một thứ đạo lý sống của cộng đồng cũng như của mỗi cá nhân. “Công bằng là đạo người ta ở đời .”, nhiều người đã thuộc lòng câu này từ thời nhỏ tuổi. Thật ra, chưa có một tác giả nào nói một cách kỹ lưỡng và có hệ thống về đạo lý này của người Việt cả. Nhưng qua những lẽ sống và những hiện thực sống của người Việt xưa nay, có thể hiểu được những nội dung cơ bản của nó. Và cũng như ở các nước khác, khái niệm “công bằng” được hiểu, được xác định từ những cái ngược lại với nó, mà theo ngôn ngữ khoa học, đó là sự xác định theo lối tiêu cực: công bằng được hiểu từ những bất công. 15 trang | Chia sẻ: aloso | Ngày: 03/09/2013 | Lượt xem: 1638 | Lượt tải: 2 Bạn đang xem nội dung tài liệu Suy nghĩ về công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên Suy nghĩ về công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay Nguyễn Kiến Giang 1. “Công bằng là đạo người ta ở đời” Có lẽ không cần phải chứng minh dài dòng rằng công bằng từ ngàn xưa đã là một trong những khát vọng lớn nhất, một trong những lý tưởng xã hội cao nhất của mọi con người. (Trong tiểu luận “Công bằng xã hội và kinh tế”, tôi đã trình bày khái quát về vấn đề này, xin được khỏi nhắc lại). Ðối với người Việt Nam, công bằng bao giờ cũng được coi là một thứ đạo lý sống của cộng đồng cũng như của mỗi cá nhân. “Công bằng là đạo người ta ở đời...”, nhiều người đã thuộc lòng câu này từ thời nhỏ tuổi. Thật ra, chưa có một tác giả nào nói một cách kỹ lưỡng và có hệ thống về đạo lý này của người Việt cả. Nhưng qua những lẽ sống và những hiện thực sống của người Việt xưa nay, có thể hiểu được những nội dung cơ bản của nó. Và cũng như ở các nước khác, khái niệm “công bằng” được hiểu, được xác định từ những cái ngược lại với nó, mà theo ngôn ngữ khoa học, đó là sự xác định theo lối tiêu cực: công bằng được hiểu từ những bất công. Người Việt cảm nhận rất sâu sắc những nỗi bất công lớn qua cuộc đời của mình cũng như qua những quá trình lịch sử của dân tộc mình: những bất công mà cộng đồng mình gánh chịu đối với những thế lực bên ngoài cộng đồng, những bất công trong nội bộ cộng đồng về địa vị, tài sản, công tội, trí tuệ v.v... Khi sự độc lập tự chủ của đất nước bị xâm phạm và tước đoạt thì nỗi bất công lớn nhất chiếm lĩnh tim óc mọi người Việt là thân phận nô lệ của mình đối với những thế lực xâm lược bên ngoài. Mà trong lịch sử Việt Nam không ít lần cả dân tộc rơi vào cảnh nô lệ ấy. Vì thế, công bằng trước hết được cảm nhận như sự thoát khỏi thân phận nô lệ cho nước ngoài. Bằng cảm nhận ấy - và nó đã trở thành một tâm thức chủ đạo của người Việt - không ít lần người Việt đứng lên chiến đấu một mất một còn giành lại độc lập tự chủ của đất nước. Ðạo lý công bằng này được nói rõ trong những “tuyên ngôn” lớn, chỉ tính một ngàn năm trở lại đây, nó thể hiện nổi bật từ “Nam quốc sơn hà nam đế cư” đến “Không có gì quý hơn độc lập tự do”... Trong nội bộ cộng đồng dân tộc, sự cảm nhận về bất công cũng được thể hiện rất rõ trong các quan hệ xã hội khác nhau: thống trị - bị trị; giàu - nghèo; sang - hèn... Xin nói ngay, các quan hệ này không được coi là bất công tự bản thân chúng. Ðạo lý Nho giáo, Phật giáo và cả Ðạo giáo nữa ăn rất sâu vào tâm thức người Việt, khiến người ta coi những quan hệ thứ bậc (hierarchique) như một cái gì tự nhiên, do Trời định đoạt, do phúc đức cha ông, do đức độ cá nhân tạo nên. Ở người Việt ngày trước, không hề có khái niệm “giai cấp” (do đó, cũng không có khái niệm “đấu tranh giai cấp”) mà khái niệm chiếm ưu thế trong các quan hệ xã hội là “hòa”, là “nhường”, là “nhẫn”. Thỉnh thoảng có nổi lên những cuộc đấu tranh xã hội quyết liệt nhưng không phải là để xóa bỏ hệ thứ bậc xã hội cũ mà là xóa bỏ những hiện tượng loạn cương, như xã hội học gọi tên. Có vua là tự nhiên, người ta chỉ chống lại hôn quân (bạo chúa) và ủng hộ minh quân (minh chúa). Có quan cai trị cũng là tự nhiên, người ta chỉ chống tham quan ô lại và ưa thích những liêm quan, những vị quan trung nghĩa. Giàu nghèo cũng là tự nhiên, người ta chỉ bài bác những ác bá, trọc phú và tán dương những người giàu ân đức. Trong quan hệ gia đình cũng vậy, người ta không chống lại quyền uy gia trưởng mà chỉ bài bác những người bố ác nghiệt với con cái, những anh em bất nghĩa với nhau. Người ta tin vào “mệnh trời”, vào sự sáng suốt của trời (“Trời có mắt”), vào “ác giả ác báo”, vào “luân hồi” như một sự điều chỉnh tự nhiên... Một xã hội công bằng đối với người Việt xưa là vậy. Công bằng về đạo lý hơn là về xã hội, về tính chính đáng (legitimité) hơn là về quyền lợi kinh tế. Nó hướng tới một trạng thái “đại đồng” nhưng “tiểu dị”, tới một trật tự được coi là tự nhiên, mà thật ra, đó là một trật tự noi theo những khuôn mẫu (stéréotyes) lâu đời. Nói như thế, không phải là tuyệt đối không có xu hướng bình quân trong ý thức xã hội. Những vết tích thị tộc nguyên thủy, những tác động dòng họ thường là chỗ dựa khá bền vững cho xu hướng bình quân, nhất là ở các làng xã. Nhưng xu hướng này chưa bao giờ là xu hướng chủ đạo và cũng chưa bao giờ được “lý luận hóa”. Người Việt đấu tranh cho đạo lý công bằng một cách bền bỉ và đôi khi cũng khá quyết liệt, nhất là vào những thời kỳ suy tàn của các triều đại (Lý, Trần, Lê, Nguyễn), bằng những cuộc nổi dậy mà một số nhà sử học gọi chưa thật chính xác lắm là các cuộc “khởi nghĩa nông dân” hay “cách mạng nông dân” (mô phỏng theo những cách gọi cuộc “chiến tranh nông dân” ở châu Âu thời Trung đại và Cận đại). Trên thực tế, đó là những cuộc nổi dậy nhằm thay đổi triều đại hơn là những cuộc khởi nghĩa mang những lý tưởng công bằng xã hội của nông dân (như các cuộc nổi dậy Hoàng Cân hay Thái Bình thiên quốc ở Trung Quốc ngày xưa, dù rằng những cuộc nổi dậy này vẫn chưa thoát khỏi hệ tư tưởng quân chủ cổ truyền). Song nhìn chung, các cuộc đấu tranh cho công bằng chủ yếu vẫn diễn ra một cách “hòa bình”, bằng những hình thức bài bác, chế giễu và kiện tụng. Từ cuối thế kỷ thứ XIX - đầu thế kỷ thứ XX, các quá trình xã hội mới được mở đầu ở Việt Nam. Một mặt, sự thống trị của thực dân Pháp được thiết lập; đất nước mất độc lập tự chủ; dân Việt Nam trở thành nô lệ cho nước ngoài; nỗi bất công lớn nhất đối với dân Việt Nam xuất hiện và đây không chỉ là bất công về chính trị. Những sự bóc lột của thực dân Pháp (chiếm đất đai làm đồn điền, độc quyền mua bán, khai thác hầm mỏ, v.v...) dẫn tới chỗ của cải đất nước phần lớn lọt vào tay những “ông chủ” nước ngoài, gây ra cùng khổ, đói nghèo của số đông dân chúng. Mặt khác, các quan hệ kinh tế và xã hội mới đã hình thành theo hướng phân hóa giai cấp ngày càng rõ rệt, những bất công và giàu nghèo tăng lên. Ngoài những bất công về đạo lý, về chính trị, còn chồng chất thêm những bất công mới gắn liền với đời sống vật chất - kinh tế hàng ngày của người dân. Ý thức về những bất công ấy ngày càng lan rộng và ăn sâu trong xã hội. Lúc đầu, ý thức này nảy sinh dưới ảnh hưởng của thuyết tiến hóa (Darwin, Spencer...), lý giải những bất công đối với dân tộc theo lối “mạnh được yếu thua”. Về sau, từ khi chủ nghĩa Mác-Lênin du nhập vào Việt Nam thì những bất công trong các quan hệ giữa dân tộc và chủ nghĩa thực dân và giữa các giai cấp xã hội khác nhau được giải thích theo thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp. Khái niệm “công bằng xã hội” không phải được hiểu từ những kiểu bất công “đối ngoại” và “nội bộ” ấy mà chủ yếu là từ kiểu bất công thứ nhất, vì không một người Việt Nam nào, dù thuộc giai cấp nào, lại không cảm thấy nỗi nhục mất nước để nuôi khát vọng độc lập và tự do của dân tộc. Không những thế, các cuộc đấu tranh chống ách áp bức nước ngoài được tiến hành chủ yếu bằng sức mạnh bạo lực. Những bất công trong nội bộ cộng đồng tạm thời được đặt xuống dưới và được giải quyết bằng những biện pháp ôn hoà, trừ một số trường hợp cực đoan (như thời kỳ xô viết Nghệ An, với khẩu hiệu “trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ!”). Song không phải vì thế mà ý thức về công bằng xã hội bị lu mờ. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc nào, ngoài mục tiêu giành độc lập dân tộc ra, cũng noi theo những lý tưởng xã hội nào đó. Ở Việt Nam, sự du nhập và truyền bá chủ nghĩa cộng sản đã mang lại cho những bộ phận quần chúng nhất định, nhất là trong các tầng lớp nghèo khổ, một ý thức công bằng xã hội mạnh mẽ. Ðằng sau sự vẫy gọi của lòng yêu nước, ở chân trời xa còn hiện lên hình ảnh mờ ảo nhưng tha thiết của một xã hội công bằng, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn. Cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và những năm đầu kháng chiến chống Pháp, lòng yêu nước quật khởi và ý thức công bằng xã hội trở thành những động lực tinh thần mạnh mẽ của người Việt Nam. Phải nói rằng đó là những năm đẹp nhất, hào hùng nhất trong lịch sử dân tộc hàng nghìn năm. Công bằng xã hội lúc đó thể hiện ở tinh thần cùng nhau hy sinh cho đất nước, ở những sự điều hòa quyền lợi giữa các tầng lớp xã hội khác nhau (vận động giảm tô, hiến điền, “thóc gạo khao quân”...). Nhưng chẳng bao lâu, với sự du nhập chủ nghĩa Mao từ Trung Quốc đầu những năm 50, vấn đề công bằng xã hội được đặt ra theo tinh thần “đấu tranh giai cấp”, mô phỏng những kinh nghiệm “đấu tố” của Trung Quốc trong các phong trào cải cách ruộng đất, “tam phản”, “ngũ phản”, v.v..., mà về thực chất, đó là quan niệm về công bằng xã hội theo chủ nghĩa bình quân của nông dân nghèo khổ. Hậu quả của các cuộc vận động “giảm tô” và “cải cách ruộng đất” thật ghê gớm. Chưa bao giờ xã hội Việt Nam bị chia cắt thô bạo đến thế, chưa bao giờ công bằng xã hội vốn là đạo lý của người Việt lại được thực hiện một cách vô đạo lý đến thế. Việc sửa sai đã giúp giảm bớt những hậu quả tai hại ấy nhưng những cuộc “đấu tố” dã man trong cải cách ruộng đất vẫn là một ký ức nặng nề của toàn xã hội. Ngày nay nhìn lại, nhiều người cho rằng hoàn toàn có thể tiến hành cải cách ruộng đất theo lối ôn hòa hơn nhiều và có hiệu quả hơn nhiều (như kinh nghiệm Ðài Loan cho thấy). Nhưng chưa học xong bài học đau xót của cải cách ruộng đất, thì cuối những năm 50 - đầu những năm 60 (tức là ngay sau cải cách ruộng đất), người ta lại giải quyết vấn đề công bằng xã hội theo lối “xóa bỏ các giai cấp bóc lột” dưới hình thức “cải tạo xã hội chủ nghĩa” mà về thực chất, đó là những sự tước đoạt. Không những các “giai cấp bóc lột” (như tư sản, phú nông, tiểu chủ...) bị tước đoạt, mà cả những người lao động có sở hữu tư nhân (nông dân, tiểu thương, thợ thủ công, v.v...) cũng bị tước đoạt. Những cấu trúc kinh tế và xã hội “mới”, hoàn toàn giả tạo, được thiết lập cho phù hợp với “chủ nghĩa xã hội”. Cấu trúc kinh tế chỉ gồm hai thành phần: kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Tương ứng với cấu trúc kinh tế đó là cấu trúc xã hội gồm hai giai cấp chính: giai cấp công nhân và giai cấp nông dân tập thể. Cộng thêm vào đó là “tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa” mà trên thực tế, mang tính chất viên chức hơn là tính chất trí thức. Cách giải quyết vấn đề công bằng xã hội theo lối đó đã dẫn tới những hậu quả tai hại như thế nào cho sự tồn tại và phát triển bình thường của xã hội Việt Nam, tưởng không cần phải chứng minh nữa. Một quan niệm thô sơ về công bằng xã hội như vậy, sau khi giải phóng miền Nam, còn được áp dụng trong cả nước, cũng với những cuộc “cải tạo xã hội chủ nghĩa” như đã được làm ở miền Bắc trước đó. Toàn xã hội lâm vào ngõ cụt, cho tới khi bắt đầu công cuộc “đổi mới” từ năm 1986. Có thể nói một cách tổng quát rằng: việc giải quyết vấn đề công bằng xã hội theo lối “xã hội chủ nghĩa” ấy đã thất bại. 2. Thực trạng bất công trong xã hội Việt Nam hiện nay Sự thất bại về công bằng xã hội, như kinh nghiệm các nước xã hội chủ nghĩa trước đây cho thấy, không những biểu hiện ở sự bất lực trong việc giải quyết những bất công, mà còn biểu hiện ở sự xuất hiện những bất công mới. Lúc đầu, đúng là có những đảo lộn xã hội thật lớn lao trước sự vui mừng của một số người và sự tuyệt vọng của một số người khác. Và đây không phải là điều gì mới. Ngay sau Cách mạng tháng Mười Nga, Pierre Pascal, một trí thức Pháp hưởng ứng cuộc cách mạng này sớm nhất, đã mô tả không khí xã hội Nga hồi đó: “Một cảnh tượng độc nhất làm say lòng người: sự sụp đổ của một xã hội. Bây giờ chính là lúc thực hiện thánh thi thứ tư trong những lời kinh chủ nhật và Magnificat (Văn chầu Thánh Mẫu): Những kẻ cường quyền bị hạ bệ và kẻ nghèo khổ đứng lên khỏi bùn đen. Những ông chủ nhà bị dồn vào một gian phòng, và ở mỗi gian phòng khác có một gia đình đến ở. Không còn người giàu nữa: chỉ có những người nghèo và những người nghèo hơn. Trí thức không được coi là đặc quyền và không còn được tôn trọng nữa. Người thợ trước đây được đề bạt lên làm giám đốc, chỉ huy các kỹ sư. Tiền lương từ trên xuống dưới gần ngang nhau. Quyền sở hữu chỉ còn lại những bộ áo quần người ta mặc hàng ngày. Quan tòa không còn phải áp dụng luật pháp. Hôn nhân chỉ còn là một sự đăng ký giá thú và ly hôn có thể được báo bằng tấm danh thiếp. Con cái được ăn học để giám sát bố mẹ. Những tình cảm hào hiệp bị sự khốn khó xua đuổi: trong gia đình người ta tính từng mẩu bánh hay vài gam đường. Vẻ dịu dàng bị coi là tội lỗi. Sự hiếu thảo bị giết bởi cái chết hiện ra khắp nơi. Tình bạn chỉ còn như là tình đồng chí”. (Pierre Pascal, Journal, t.2, trích theo R. Furet, Le passé d’une illusion, Robert Laffont, Paris, 1995, tr. 131). Không phải cảnh tượng này diễn ra ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đúng hệt như vậy, nhưng những đảo lộn xã hội ở mức độ khác nhau đã xảy ra khắp nơi. Và những thể chế về công bằng xã hội sau khi thiết lập chế độ xã hội chủ nghĩa thì gần như giống nhau. Ðại đa số dân chúng biến thành những người làm công cho Nhà nước hoặc trực tiếp (công nhân, viên chức), hoặc gián tiếp (nông dân tập thể, xã viên hợp tác xã). Tất cả đều do một bộ máy toàn năng điều khiển. Sự phân phối bình quân, hay gần như bình quân, được thiết lập về tư liệu sinh hoạt. (“Một yêu anh có may-ô, Hai yêu anh có cá khô ăn dần...” là một hiện thực cách đây chưa xa ở nước ta). Và hẳn người ta còn nhớ cảnh gắp thăm mua phụ tùng xe đạp, mua quần đen... Những cảnh đó đã chấm dứt với “đổi mới”, với “kinh tế thị trường”, được nhiều người cảm nhận như một biến đổi xã hội quan trọng. Có người nói rất đúng rằng, trong một nền kinh tế “thiếu hụt” (économie de deficit) thì đó là sự phân phối nạn nghèo khổ cho mọi người. Chế độ bao cấp quả tình cũng thật chu đáo: từ chiếc tã cho trẻ sơ sinh đến tấm vải liệm cho người chết. Không ai chết đói cả, hoặc nếu có thì, như người ta nói, chỉ là “có nơi có lúc” nhưng hầu hết không đủ no và thiếu dinh dưỡng. Ðứng về một mặt nào đó, một xã hội “đại đồng” (hiểu theo nghĩa “rất giống nhau”) đã hiện lên trước mắt chúng ta. Và bây giờ, sau khi xóa bỏ chế độ bao cấp, không phải không có người còn luyến tiếc! Nhưng đó chỉ làm một mặt của tấm huân chương. Còn mặt khác của nó (thật khó phân định đây là mặt phải hay mặt trái) là sự hình thành một xã hội thứ bậc (societé hiérarchique) với những đặc quyền lớn và nhỏ. Ở đô thị, xã hội phân chia thành hai hạng người: người của Nhà nước được hưởng các loại tem phiếu do cơ quan, xí nghiệp phát và người không phải của Nhà nước chỉ có phiếu N (nhân dân) do các phường, các khu phố phát. Và ngay trong “những người của Nhà nước”, sự chênh lệch về mức cung cấp rất lớn, nếu tính từ phiếu E đến bìa A (chưa nói tới một số ít người được cung cấp “theo nhu cầu”). Chưa nói tới rất nhiều bất công khác làm người ta công phẫn: từ trường học cho con em đến những khả năng tiến thân khác nhau, từ nhà nghỉ đến chỗ chữa bệnh, từ vé đi xem các cuộc trình diễn đến vé nghỉ mát, v.v... Cũng chưa nói đến những cơ hội đi nước ngoài học hành và công tác... Và cũng chưa nói tới những bất công về mặt chính trị theo sự phân chia lý lịch: “trong sạch” và “có liên quan” (với chế độ cũ, với gia đình bóc lột ngày xưa, với đủ mọi thứ đáng nghi ngờ). Bất công hiện lên khắp nơi và khắp các lĩnh vực. Xin nhấn mạnh: đó là những bất công được chính thức thừa nhận, không cần che đậy, nhân danh “cách mạng”, “chủ nghĩa xã hội”, “thời kỳ quá độ”... Có những bất công có thể hiểu được, nhưng có những bất công không thể hiểu được vì những chế độ xã hội “lạc hậu” trước đây cũng không thấy có. Những bất công thời “quan liêu bao cấp” này đã làm triệt tiêu những động lực lành mạnh của con người và ở một mức độ nào đó, làm “lưu manh hóa” con người. Chúng phỉ báng nhân cách tốt đẹp của con người, đưa con người vào trạng thái bệnh hoạn. Bởi vì để tồn tại và nhất là để tiến thân, người ta buộc phải đi theo những tính toán nhỏ nhen: dìm dập nhau, xu nịnh, giả dối, v.v... Ðạo đức suy đồi vì thế, guồng máy hỗn loạn vì thế và cả nền kinh tế nữa, cũng mất hiệu năng vì thế. Có người nói: nhắc lại cái “thời đã qua” ấy làm gì? Tôi nghĩ khác: phải nhắc lại và nhắc lại nhiều hơn, không chỉ vì để tránh cho xã hội ngày mai lại đi vào “vết xe đổ” ấy (ngày nay, không phải không có người muốn trở lại), mà còn vì những hệ quả của những bất công này vẫn còn rất nặng nề, gây khó khăn rất lớn cho việc tạo ra một không khí xã hội bình thường và lành mạnh, do đó, cả cho sự phát triển xã hội hiện nay và sau này. Không có gì bí mật khi nói rằng một bộ phận khá lớn những người giàu có hôm nay chính là những quan chức chiếm giữ những đặc quyền đặc lợi hôm qua và bây giờ đang dựa vào những quyền lực sẵn có trong tay để làm giàu. Ðúng là ta đang khuyến khích “dân giàu” (để cho “nước mạnh”). Nhưng sự giàu có cần khuyến khích là sự giàu có do năng lực (trí tuệ, kinh doanh) tạo ra, chứ không phải là bất cứ sự giàu có nào, nhất là sự giàu có do tham nhũng, ăn cướp của dân, đầu cơ, buôn lậu... Một hiện tượng khá phổ biến ở các nước xã hội chủ nghĩa trước khi chuyển sang kinh tế thị trường là chủ nghĩa tư bản quan chức (capitalism nomenclatura): những quan chức có thế lực đang dùng tài sản đục khoét bằng mọi kiểu (từ đặc quyền đặc lợi đến tham nhũng), cũng dùng quyền lực hiện có để làm giàu vô cùng nhanh chóng kiểu mafia. Họ thông đồng với những thế lực buôn bán phi pháp để trục lợi. Pháp luật không đụng tới họ (một bộ phận trong bộ máy giám sát và xử lý về luật pháp cũng dựa vào quyền lực của mình để làm giàu). Và không ít trường hợp, họ và con cái họ đang trở thành những “bà chủ”, “ông chủ” của những đơn vị kinh doanh mới, trở thành những “nhân vật mới” có thế lực trong nền kinh tế thị trường hoặc công khai, hoặc ngấm ngầm. Chưa nói tới việc họ dùng những đồng tiền ăn cắp hoặc ăn cướp để xây dựng nhà cửa nguy nga, mua sắm những thiết bị sang trọng, sống phè phỡn như đế vương. Chỉ cần nhìn hàng loạt ngôi nhà đồ sộ mọc lên gần đây ở các thành phố và thị xã, cũng đủ nhận diện thứ “chủ nghĩa tư bản quan chức” này không khó khăn gì. Rồi nhà cửa, đất đai (nhất là đất đai) họ được Nhà nước giao cho sử dụng theo lối đặc quyền đặc lợi trước đây cũng đang dần dần biến thành tài sản “hợp pháp” của họ. Một số người đưa ra ý kiến đáng chú ý: “Thôi thế cũng được, miễn là những tài sản họ nắm trong tay được họ đưa ra kinh doanh một cách hợp pháp, coi như thứ “tiền chuộc” (rachat) đối với họ, như vậy cũng tốt cho sự phát triển kinh tế của đất nước”. Tôi tán thành ý kiến này về nguyên tắc nhưng trong thực tế, rất khó xảy ra điều đó. Bởi vì nói chung, chủ nghĩa tư bản quan chức là thứ chủ nghĩa tư bản ăn bám tuyệt đối, chỉ làm cho nền kinh tế đất nước hỗn loạn thêm và èo uột đi. Chừng nào nó còn tồn tại, chừng đó không thể nói tới một sự phát triển kinh tế lành mạnh được. Chủ nghĩa tư bản quan chức là tác nhân ung thư đối với xã hội hiện nay. Nó là sự kết hợp những đặc quyền đặc lợi kiểu phong kiến thời quan liêu bao cấp với những hoạt động làm giàu kiểu mafia thời kinh tế thị trường. Quyền lực chính trị đẻ ra quyền lực kinh tế, trước đây đã như vậy, ngày nay lại càng như vậy. Chủ nghĩa tư bản quan chức là sự thách thức nghiêm trọng nhất đối với sự phát triển của đất nước; nó tạo ra những bất công lớn nhất, nhức nhối nhất trong xã hội hiện nay. Chính nó, chứ không phải là sự phân hóa giàu nghèo của kinh tế thị trường, đang đặt đất nước trước những triển vọng nguy hiểm về kinh tế về xã hội. Một số người lên tiếng báo động về tình trạng phân hóa giàu nghèo hiện nay ở nước ta, coi đó như nguồn gốc của mọi bất công xã hội hiện nay. Ý kiến này, theo tôi, có mặt đúng và có mặt chưa đúng. Phân hóa giàu nghèo đang là một hiện tượng đập vào mắt mọi người. Chấp nhận kinh tế thị trường có hiệu quả cao nhất thì không thể không chấp nhận sự phân hóa giàu nghèo. Nếu coi đó là một sự bất công xã hội thì đó là một sự bất công xã hội cần thiết. Kinh nghiệm phát triển kinh tế của các nước trên thế giới cho thấy sự phân hóa giàu nghèo là điều tự nhiên, kinh tế càng phát triển thì, một mặt, khoảng cách giàu nghèo dần dần thu hẹp lại và, mặt khác, ngay cả những tầng lớp nghèo cũng có mức sống ngày càng tăng lên. Như vậy còn tốt hơn là sự chia đều nhau một chiếc bánh ngày càng nhỏ lại vì kinh tế không có hiệu quả (vả lại, khi chiếc bánh nhỏ dần đi thì không thể chia đều được, một số người có thế lực sẽ chiếm lấy phần lớn hơn và một số người “hẩm hiu” sẽ chỉ được hưởng “bụi bánh”). Công bằng xã hội, hiểu theo nghĩa mọi người đều giàu có ngang nhau, là một ảo tưởng. Tất cả vấn đề là sự phân hóa giàu nghèo phải mang tính chất lành mạnh, phần hưởng thụ tương xứng với hiệu quả hoạt động kinh tế, không giới hạn hiệu quả đó cũng như phần hưởng thụ tương xứng với nó. Ði đôi với những cạnh tranh chính đáng, hợp pháp trong kinh tế thị trường, xã hội phải tính đến việc bảo đảm một mức sống cần thiết tối thiểu cho những thành viên mất khả năng hoạt động, gặp khó khăn lớn hoặc gặp rủi ro, ngoài ý muốn của họ. Ðiều đặc biệt quan trọng là xã hội tạo ra những cơ may ngang nhau cho mọi người khi bước vào những hoạt động độc lập bằng cách bảo đảm cho mỗi người có trình độ học vấn tối thiểu ngang nhau, có khả năng thể lực tối thiểu ngang nhau... Tất cả cùng đứng ngang nhau ở “vạch xuất phát”, sau đó, ai đạt được hiệu quả cao hay thấp là tùy theo năng lực của mỗi người. Ở nước ta, sự phân hóa giàu nghèo hiện nay về cơ bản là kết quả của những bất công lưu cữu ngày càng được khoét rộng ra. Số người giàu lên bằng cách làm ăn chính đáng, hợp pháp không nhiều, trong khi những kẻ giàu lên bằng chụp giật, tham nhũng, buôn lậu, chiếm đoạt... lại quá nhiều. Ngày xưa, để giàu có, phải mất cả một đời, còn bây giờ thì chỉ trong một thời gian rất ngắn, có khi chỉ mấy tháng, mấy ngày là có thể trở thành người giàu có. Cả một lớp người giàu có hãnh tiến đang đè nặng lên toàn xã hội, không chỉ về đời sống kinh tế mà cả về đời sống văn hóa, đạo đức. Bên cạnh đó, nhiều người “không may” gần như không hề nhận được một sự giúp đỡ và bảo đảm nào của xã hội từ ăn ở, học hành, chữa bệnh,... trở đi. Và trong những người “không may” này, chua xót nhất là những người đã hi sinh cả một phần thân thể mình, hy sinh con cái mình, nhà cửa, tài sản của mình trong các cuộc chiến đấu giải phóng toàn vẹn đất nước. Một bên là chủ nghĩa tư bản quan chức, các tầng lớp giàu có hãnh tiến, bất hợp pháp và một bên là những tầng lớp, những người nghèo khổ làm không đủ ăn và “không may” - đó là nét nổi bật nhất trong bức tranh về công bằng xã hội ở nước ta hiện nay. Ngoài ra, còn phải kể tới nhiều bất công khác: giữa những vùng có nhiều thuận lợi kinh tế hơn và những vùng hẻo lánh, nghèo nàn, thiếu những điều kiện kinh tế cần thiết; giữa những công dân “đặc quyền” và những công dân không có khả năng thực hiện các quyền của mình; giữa thành thị và nông thôn; giữa những trẻ em có “cơ may” không ngang nhau... Ở đây, tôi không có ý định làm một bản liệt kê đầy đủ và có hệ thống mà chỉ muốn nêu lên một số hiện tượng bất công dễ nhìn thấy khi bàn tới bức tranh chung về thực trạng bất công ở nước ta hiện nay. 3. Ði tới công bằng xã hội như thế nào? Trước hết, xin nói ngay rằng không bao giờ có thể đạt tới công bằng xã hội tuyệt đối, lý tưởng cả. Công bằng xã hội là một giá trị định hướng để con người sống ngày càng tốt hơn trong các quan hệ giữa các thành viên của cộng đồng, về mặt vật chất cũng như về mặt tinh thần. Vì thế, không thể bàn về công bằng xã hội theo lối trừu tượng, ngoài không gian và thời gian. Ở đây, xin bàn về công bằng xã hội trong những điều kiện xã hội cụ thể của nước ta hiện nay. Chúng ta đã từ bỏ quan niệm công bằng xã hội vừa có tính chất bình quân, vừa chứa đựng đặc quyền đặc lợi của chế độ quan liêu bao cấp trước đây. Chúng ta đang đương đầu với những bất công cũ và mới, có hại cho sự phát triển của đất nước, trong một xã hội đang chuyển biến mạnh mẽ. Ðịnh hướng của sự phát triển đã được nêu ra: đi tới một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Ðịnh hướng này đang được sự hưởng ứng rộng rãi trong dân chúng. Nhưng khi đi sâu vào những mục tiêu ấy, có nhiều điều cần phải làm rõ hơn. Chẳng hạn, về mục tiêu xã hội công bằng là mục tiêu có liên quan trực tiếp với những điều chúng ta đang bàn. Những câu hỏi trực tiếp đặt ra là thế nào là công bằng xã hội trong hoàn cảnh hiện nay? Mối quan hệ của nó với sự phát triển xã hội là như thế nào? Làm thế nào để đạt tới công bằng xã hội khi nó đã được quan niệm một cách tương đối thống nhất? Xin lần lượt trình bày ý kiến của tôi để trả lời những câu hỏi đó. Và vì ở đây, tôi không có tham vọng đưa ra một chương trình cụ thể về công bằng xã hội nên chỉ dừng lại ở những quan niệm và định hướng giải pháp chung. 3.1. Công bằng xã hội trong những điều kiện cụ thể hiện nay là thế nào? Tuy chưa định hình rõ ràng, xã hội Việt Nam hiện nay đang mở ra khả năng ngày càng rộng lớn cho các cá nhân, các tầng lớp xã hội khác nhau phát huy những năng lực và những nguồn lực vốn có và có thể có để vừa mưu cầu lợi ích của mình, vừa tạo nên sức mạnh chung của cộng đồng (“dân giàu, nước mạnh”), đưa đất nước từng bước tiến tới trình độ hiện đại (“văn minh”). Như vậy, công bằng xã hộ cần được hiểu theo những yêu cầu ấy. Quan niệm công bằng xã hội theo chủ nghĩa bình quân đi ngược lại những yêu cầu ấy đã đành, mà cả quan niệm “mạnh được yếu thua”, “may nhờ rủi chịu”, để mặc cho mọi thứ bất công hoành hành, có hại cho lợi ích của đại đa số dân chúng, cũng không thể chấp nhận được. Có người nói: đã là kinh tế thị trường thì phải chấp nhận mọi thứ bất công. Một nền kinh tế thị trường “dã man”, vô chính phủ, để mặc cho các thế lực mafia chi phối thì đúng là thế thật. Và như kinh nghiệm một số nước cho thấy, một nền kinh tế thị trường như vậy không giúp gì cho sự phát triển của đất nước, ngay cả trong lĩnh vực kinh tế, sớm muộn gì cũng sẽ dẫn đất nước tới hỗn loạn, nghèo khổ và ngày càng lạc hậu. Nền kinh tế thị trường mà chúng ta muốn có là một nền kinh tế thị trường “văn minh”, có luật pháp, có điều tiết theo những lợi ích chung của sự phát triển đất nước và bảo đảm cho mọi người sống ngày càng ổn định và khá lên thì không thể chấp nhận tất cả mọi bất công đang có và có thể có. Một quan niệm thích hợp về công bằng xã hội hiện nay đòi hỏi phải phân biệt giữa những loại bất công khác nhau: loại bất công tự nhiên: tính từ “tự nhiên” ở đây bao hàm cả những khả năng, những năng lực khác nhau về mặt tự nhiên (chẳng hạn, về nguồn gốc sinh học) cũng như những khác biệt về trình độ phát triển do lịch sử lâu đời để lại như thành thị và nông thôn, miền núi..., và trước mắt, cố gắng đến mức tối đa để bù đắp những thiệt thòi do những bất công này gây ra, không để trở thành những căng thẳng và xung đột có hại cho sự phát triển nói chung. loại bất công “hợp lý”: tính từ “hợp lý” ở đây cũng được hiểu rất tương đối, theo nghĩa không thể tránh khỏi nếu muốn đưa đất nước lên con đường “dân giàu, nước mạnh”. Ai cũng biết rằng, nói “dân giàu” nhưng không phải ai cũng giàu ngang nhau và cũng không thể loại bỏ tình trạng nghèo khổ tương đối. Sự phân hóa giàu nghèo là không thể tránh khỏi nhưng không thể để xẩy ra tình trạng “làm giàu vô tội vạ” trên lưng đại đa số dân chúng, cũng như không thể để xảy ra tình trạng người nghèo “vô phương làm ăn”, không có một sự giúp đỡ có hiệu quả nào của cộng đồng. Nói cách khác, chúng ta chấp nhận sự làm giàu chính đáng, hợp pháp, có lợi cho sự phát triển của đất nước khi đó là sự làm giàu dựa vào những năng lực và cả những nguồn lực chính đáng. Sự làm giàu này không vấp phải một hạn chế nào. Tài kinh doanh, óc tổ chức, sáng kiến và cả chỗ dựa chính đáng về nguồn lực nữa, đều có đất phát huy đến mức cao nhất (qua cạnh tranh lành mạnh). loại bất công “phi lý” - và cũng là phi pháp: đó là tất cả những bất công nào hoàn toàn đi ngược lại lợi ích của sự phát triển xã hội, làm cho đời sống xã hội biến dạng và đạo đức xã hội suy đồi như đã phân tích về những cách làm giàu phi pháp (tham nhũng, buôn lậu, chiếm đoạt, đầu cơ) của “chủ nghĩa tư bản quan chức’’ trên đây. Ðó cũng là những bất công hoàn toàn giả tạo dựa trên những sự phân biệt về các quyền công dân, về nguồn gốc xã hội v.v... Những bất công này phải bị xóa bỏ càng sớm càng tốt, càng triệt để càng tốt. Xóa bỏ những bất công “phi lý”, điều tiết những bất công “tự nhiên” và “hợp lý” dù sao cũng chỉ là mặt tiêu cực của việc thực hiện công bằng xã hội. Mặt quan trọng không kém - nếu không nói là quan trọng hơn - là mặt tích cực: xã hội phải dần dần tạo ra được những điều kiện thuận lợi cho những cơ may ngang nhau giữa các thành viên của xã hội. Vì chỉ riêng việc xóa bỏ và điều tiết những bất công không đủ để thực hiện công bằng xã hội: xử lý và tước đoạt những tài sản do tham nhũng và những hoạt động phi pháp cũng chưa có nghĩa là tạo ra những cơ may ngang nhau về học tập, sức khỏe và tiến thân. Ðể làm công việc này, cần có những chính sách và những đầu tư xã hội lớn. Khi nhà trường phổ thông và các bệnh viện phổ thông còn đòi người ta phải trả tiền thì không thể nói tới những cơ may ngang nhau. Ngày nay, ở nhiều nước đang phát triển, cũng đã thực hiện việc Nhà nước chi ngân sách cho giáo dục phổ thông và bảo hiểm y tế ở mức tối thiểu ngang nhau. Còn ở nước ta lại đang thực hiện một cách phổ biến chế độ nộp học phí và viện phí ở những cấp cơ sở, làm sao có thể hiểu được? Trong những lĩnh vực phúc lợi xã hội cần thiết tối thiểu này, cần thực hiện ngay lập tức công bằng xã hội, không thể viện lý do “cơ chế thị trường” như người ta vẫn làm hiện nay. Ðặc biệt, tất cả những người có công với công cuộc giải phóng dân tộc, cũng phải được hưởng những trợ cấp thường xuyên đủ duy trì mức sống tối thiểu mà không phải là những chiếu cố “tình nghĩa” hay “nhân đạo” theo lối ban phát. Thực hiện những cơ may ngang nhau không dễ nhưng phải làm từng bước để đi tới chỗ đó. Có ý kiến nói rằng: khi chưa thực hiện được công bằng xã hội theo chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, thì phải thực hiện công bằng xã hội theo “pháp quyền tư sản” như Marx từng nói (xem Phê phán cương lĩnh Gôta). Thật ra, đó là cách đặt vấn đề trên cơ sở hệ tư tưởng (vô sản/tư sản) hơn là trên cơ sở sự phát triển kinh tế xã hội một cách bình thường theo hướng đi tới một xã hội công bằng và văn minh. Lúc này, có lẽ không nên để mất quá nhiều thì giờ và công sức để tranh cãi nhau về hệ tư tưởng. Chỉ nên giới hạn vấn đề này trong khuôn khổ những mục tiêu đã đưa ra: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. 3.2. Công bằng xã hội và sự phát triển đất nước Như vậy, tiêu chí hàng đầu của công bằng xã hội ở nước ta hiện nay là có lợi hay có hại cho sự phát triển đất nước. Ðây là bài toán cực khó, mà loài người, ít ra trong cả một thế kỷ vừa qua, đang cố đi tìm những lời giải tối ưu nhưng chưa tìm thấy. Kinh nghiệm cho thấy rõ: đặt công bằng xã hội lên trên hết (theo lối “chủ nghĩa xã hội hiện thực” hay “Nhà nước phúc lợi”) sẽ dẫn tới chỗ triệt tiêu những yếu tố phát triển kinh tế nhưng đặt hiệu quả kinh tế lên hàng đầu lại dẫn tới chỗ khoét sâu những ngăn cách xã hội và nhất là dồn một số người không nhỏ vào tình trạng nghèo khổ và bế tắc, cuối cùng cũng tạo ra những trở ngại lớn cho hiệu quả và phát triển kinh tế, những nguy cơ bùng nổ xã hội. Phải đi tìm một công thức mới, trong đó, không để hai mặt công bằng xã hội và phát triển kinh tế đối kháng nhau, loại bỏ nhau (còn sự đối lập của hai mặt đó là không thể tránh), mà cần phải làm sao để cho hai mặt đó trở thành tiền đề của nhau, hơn nữa, để cho mặt này bao hàm cả mặt kia ở một mức độ hợp lý nhất. Ðiều đó càng cần thiết vì ngày nay, mọi lý luận về sự phát triển đều bác bỏ cách hiểu phát triển đồng nghĩa với tăng trưởng kinh tế và đều nhấn mạnh nội dung cơ bản và mục tiêu cao nhất của sự phát triển là phát triển con người với tư cách cá nhân trong một cộng đồng đầy nhân tính. Sự kết hợp, sự giao nhau của hai mặt đó phải được tính toán theo những điều kiện cụ thể của mỗi nước, chủ yếu là theo trình độ phát triển kinh tế và theo những truyền thống, theo tâm lý dân tộc. Ở đây, không có và cũng không thể có đơn thuốc pha chế sẵn nào cả. Trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, sự kết hợp hai mặt đó vấp phải những khó khăn không dễ vượt qua được. Một mặt, chủ nghĩa bao cấp vừa bình quân vừa đặc quyền còn để lại rất nhiều di sản nặng nề không những trong đời sống vật chất mà cả trong ý thức con người. Mặt khác, quá trình chuyển sang kinh tế thị trường chứa đầy những yếu tố độc quyền, lũng đoạn và vô chính phủ, tự phát làm cho kinh tế thị trường mang trạng thái dã man, tuy có kích thích những hoạt động kinh tế nào đó nhưng đưa con người vào những “mê cung” đầy bất trắc và nhất là, tạo nên một sức ép tâm lý và xã hội của lối sống hãnh tiến, chạy theo đồng tiền một cách trơ tráo (cynique). Không thể phủ nhận rằng kinh tế thị trường đã giúp cho đời sống kinh tế đất nước rời khỏi “điểm chết” và phục hồi lại sức sống kinh tế của xã hội. Ðó là một trong những thành quả lớn nhất của “đổi mới” và, xét về triển vọng rất có lợi cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Nhưng cũng không thể phủ nhận rằng kinh tế thị trường dã man này đã tạo ra những bất công xã hội mới, ghê gớm và, xét về triển vọng, sẽ ngăn cản sự phát triển xã hội nói chung. Tội lỗi không phải thuộc về bản thân kinh tế thị trường mà ở những tác nhân phá hoại của nó, biến nó thành dã man. Chúng ta cần có kinh tế thị trường như một môi trường thuận lợi nhất cho các hoạt động kinh tế nhưng đó phải là một nền kinh tế thị trường văn minh, với những hoạt động sinh lợi thật sự và được luật pháp kiểm soát chặt chẽ có lợi cho quốc kế dân sinh. Hơn nữa, bản thân kinh tế thị trường không tự động bảo đảm cho công bằng xã hội. Phải có những điều tiết của xã hội (thông qua nhà nước) để phân phối lại những kết quả hoạt động kinh tế theo hướng đảm bảo công bằng xã hội ở mức cần thiết tối thiểu. Ðó là cái mà các nhà kinh tế học gọi là “kinh tế thị trường xã hội” đã và đang được thực hiện ở một số nước phát triển. Tiếc thay, ở nước ta, chưa có những sự điều tiết như vậy. Những bất công phi lý, phi pháp đang biến thành những trở lực lớn đối với sự phát triển kinh tế. Khi nói rằng phát triển kinh tế là tiêu chí hàng đầu của công bằng xã hội, thì đồng thời, ngay trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, cũng phải nói rằng công bằng xã hội (ở mức độ như đã quan niệm trên đây) là một điều kiện của sự phát triển kinh tế, không có cái này mà không có cái kia. Mọi thái độ coi nhẹ công bằng xã hội rốt cuộc dẫn tới chỗ làm cho phát triển kinh tế bị hạn chế và què quặt. Không thể đồng ý với quan niệm cho rằng nếu coi trọng công bằng xã hội thì khó lòng tập trung các nguồn lực (bên trong và bên ngoài) để phát triển kinh tế. Ðứng về ngắn hạn mà xét, có thể là như vậy, nhưng nếu xét theo triển vọng lâu dài thì quan niệm này rất có hại. Xin lấy một ví dụ: đầu tư. Tất nhiên, trước mắt cần tập trung đại bộ phận các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế (nhất là vào các cấu trúc hạ tầng và vào những lĩnh vực kinh doanh có khả năng sinh lợi nhanh), để từ đó có thêm những nguồn lực ném vào giáo dục, y tế, trợ cấp xã hội... Nhưng nếu ngày nay, không đầu tư thích đáng cho những lĩnh vực này thì liệu trong mười - mười lăm năm nữa, chúng ta có thể bảo đảm nguồn nhân lực có chất lượng cho sự phát triển kinh tế không? Hay lúc đó, nhân lực dồi dào của nước ta sẽ trở thành một gánh nặng vì thiếu học vấn, thiếu trình độ nghề nghiệp và không đủ sức khỏe? Theo tư duy kinh tế mới, đầu tư cho các lĩnh vực xã hội cũng là trực tiếp đầu tư cho kinh tế, nhất là xét theo triển vọng dài hạn. Ðầu tư cho cấu trúc hạ tầng, chẳng hạn, không chỉ bó hẹp vào những cấu trúc hạ tầng kinh tế mà phải mở rộng ra những cấu trúc hạ tầng xã hội (con người). Do đó, phải tính những đầu tư này như những đầu tư kinh tế. Ở đây, chúng ta lại có thêm một luận cứ nữa để đặt công bằng xã hội và phát triển kinh tế trong sự thống nhất của chúng. 3.3. Gợi ý một số giải pháp về công bằng xã hội Công bằng xã hội đụng tới tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hóa, xã hội. Không thể giải quyết vấn đề công bằng xã hội bằng cách khuôn nó vào cái thường được gọi là “chính sách xã hội” một cách tách bạch. Công bằng xã hội phải được giải quyết - và chỉ có thể được giải quyết - gắn liền với xã hội công dân, nhà nước pháp quyền, chế độ dân chủ, kinh tế và văn hóa ngày càng phát triển. Nó phải được giải quyết trên cơ sở xác lập các quyền công dân và quyền con người một cách thật sự bình đẳng. Bất cứ sự phân biệt nào về các quyền công dân và quyền con người đều ngăn cản thực hiện công bằng xã hội. Nói cách khác, vạch xuất phát của mỗi người về quyền công dân và quyền con người phải ngang nhau. Xóa bỏ những đặc quyền về kinh tế, chính trị và tư tưởng là nội dung đầu tiên của việc thực hiện công bằng xã hội. Mỗi công dân, trước hết, phải được bảo đảm sự tự chủ về đời sống kinh tế của mình, từ sở hữu đến nghề nghiệp. Vấn đề sở hữu (tài sản, trí tuệ, lao động) phải được xác định rõ ràng để cho mỗi người có sở hữu riêng và dùng sở hữu ấy theo khả năng và sở thích của mình, được luật pháp bảo vệ vững chắc. Mọi công dân đều ngang nhau trước luật pháp - điều này không những phải được khẳng định mà còn phải trở thành hiện thực. Một nhà nước pháp quyền chịu trách nhiệm trước công dân (kể cả các cá nhân công dân) là một điều kiện không thể thiếu được để có công bằng xã hội. Công bằng xã hội đòi hỏi một chế độ dân chủ thực sự. Không thể có một nhóm người hay một tổ chức nào - dưới bất cứ danh nghĩa gì - tự coi mình đứng lên trên xã hội và luật pháp để áp đặt ý chí của mình cho những người khác và có thái độ đối địch với những người có những tín niệm khác. Sự lựa chọn tự do của các công dân phải được tôn trọng đầy đủ. Trong các hoạt động kinh tế, phải loại bỏ những thế lực và những phương thức độc quyền, lũng đoạn, bảo đảm cho mọi người bình đẳng về quyền kinh doanh và nghĩa vụ đối với Nhà nước, đối với xã hội. Nhất thiết tách Nhà nước và các cơ quan hành chính ra khỏi kinh doanh. Thực hiện chế độ khai báo tài sản minh bạch của mọi nhân viên Nhà nước từ trên xuống dưới. Bảo đảm cho viên chức Nhà nước có mức lương xứng đáng với trách nhiệm của mình, và cấm nhân viên Nhà nước hoạt động kinh doanh dưới mọi hình thức, trực tiếp hoặc gián tiếp. Coi những tội phạm kinh tế (phá hoại, tham nhũng, đầu cơ, buôn lậu, chiếm đoạt...) nghiêm trọng như tội phạm quốc gia và khi xử lý về pháp luật, phải tịch thu toàn bộ tài sản do những tội phạm ấy mà có. Trong thời hạn ngắn nhất, thực hiện chế độ giáo dục phổ thông và chữa bệnh phổ thông không mất tiền. Ngân sách phải được đầu tư đầy đủ cho các cấu trúc hạ tầng xã hội, bằng cách giảm bớt những đầu tư kinh tế tốn kém quá mức và kém sinh lợi cũng như những đầu tư phô trương (nhất là xây các trụ sở, các nhà khách...). Trường học và bệnh viện phải được coi là những ưu tiên về xây dựng cơ bản. Ban hành những chế độ trợ cấp xã hội ổn định và thường xuyên cho những người có công và những nạn nhân chiến tranh hay những nạn nhân khác mất khả năng kiếm sống. Trợ cấp và giúp đỡ cho những người tàn phế. Thực hiện chế độ đảm phụ ở những thành thị và những vùng có lợi thế kinh tế để tài trợ cho những vùng bị chiến tranh tàn phá và những vùng bất lợi về phát triển kinh tế (vùng núi, vùng hẻo lánh...) Sử dụng có hiệu quả những viện trợ nhân đạo và phát triển của các nước và các tổ chức quốc tế, nghiêm khắc loại bỏ tình trạng “ăn chặn” và sử dụng sai mục đích. Giúp đỡ các tổ chức từ thiện hoạt động có hiệu quả và khuyến khích mọi hoạt động từ thiện, đồng thời chống lại việc lợi dụng hoạt động “từ thiện” để mưu cầu lợi riêng. Vấn đề công bằng xã hội cũng được đặt ra trong các quan hệ đối ngoại, đặc biệt về mặt kinh tế. Những ưu đãi cần thiết đối với các nhà kinh doanh nước ngoài phải đi đôi với sự kiểm tra chặt chẽ những hoạt động của họ, tránh những tổn thất đáng tiếc cho đất nước (nhất là về môi trường tự nhiên và môi trường xã hội). Vấn đề phân phối lại thu nhập của người làm ăn với nước ngoài để tránh sự hình thành một tầng lớp “mại bản” mới, cũng như để tránh những bất công Các file đính kèm theo tài liệu này: Suy nghĩ về công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay.doc Tài liệu liên quan Thế nào là một đạo sĩ 17 trang | Lượt xem: 3341 | Lượt tải: 0 Lý luận của chủ nghĩa Mác về con người và vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước 33 trang | Lượt xem: 1631 | Lượt tải: 8 Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức 15 trang | Lượt xem: 7840 | Lượt tải: 16 Bài giảng Những nguyên lý cơ bản của CN Mác - Lênin (Phần 2) - Chương 6 Học thuyết kinh tế về chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước 60 trang | Lượt xem: 1665 | Lượt tải: 2 24 vấn đề trong thi học kỳ môn Mác-Lê 2 34 trang | Lượt xem: 914 | Lượt tải: 1 Bài giảng Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin - Chương 4 Học thuyết giá trị 33 trang | Lượt xem: 5972 | Lượt tải: 8 Sinh tử trong Nho giáo 10 trang | Lượt xem: 1528 | Lượt tải: 1 Vấn đề thiện, ác; họa, phúc; tốt, xấu; chính, tà 8 trang | Lượt xem: 1495 | Lượt tải: 2 Triết lí phát triển Hồ Chí Minh – những nội dung cơ bản 8 trang | Lượt xem: 858 | Lượt tải: 1 Bài giảng môn Những nguyên lý cơ bản của CN Mác - Lênin - Chương I Chủ nghĩa duy vật biện chứng 32 trang | Lượt xem: 986 | Lượt tải: 2 Copyright © 2020 TaiLieu.tv - Tổng hợp luận văn mẫu tham khảo cho sinh viên. Chia sẻ:
1610704847953.98.parquet/60145
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 39004, "url": "http://tailieu.tv/tai-lieu/suy-nghi-ve-cong-bang-xa-hoi-o-viet-nam-hien-nay-15954/" }
121.8
Mẫu chuyên đề tốt nghiệp luật hay và ấn tượng nhất | Hỗ trợ làm chuyên đề báo cáo Tốt nghiệp, Cao học, Tiến sỹ Chuyển tới nội dung Hỗ trợ làm chuyên đề báo cáo Tốt nghiệp, Cao học, Tiến sỹ Hỗ trợ làm chuyên đề báo cáo Tốt nghiệp, Cao học, Tiến sỹ Dịch vụ viết thuê chuyên đề tốt nghiệp các ngành Kinh tế, Tài chính, Kỹ thuật, CNTT, KHTN uy tín – chuyên nghiệp – nhanh chóng Tìm kết quả cho: Tìm kiếm Trang chủ Tài liệu Tin tức Mẫu chuyên đề tốt nghiệp luật hay và ấn tượng nhất Đăng vào 05/02/2020 05/02/2020 Tác giả Bruce Ruiz Bạn đang cần tham khảo một vài tài liệu về chuyên đề tốt nghiệp luật? Bạn không biết bắt đầu như thế nào nhưng lại muốn hoàn thiện chuyên đề của mình trong thời gian sớm nhất? Hãy xem ngay mẫu chuyên đề tốt nghiệp mà chuyendetotnghiep.net chia sẻ trong bài viết này. Mẫu chuyên đề tốt nghiệp luật hay và ấn tượng nhất Đề tài: Luật thuế thu nhập doanh nghiệp của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ 1.1. Khái niệm thuế Thuế gắn liền với sự tồn tại, phát triển của Nhà nước và là một công cụ quan trọng mà bất kỳ quốc gia nào cũng sử dụng để thực thi chức năng, nhiệm vụ của mình. Tùy thuộc vào bản chất của Nhà nước và cách thức Nhà nước sử dụng, các nhà kinh tế có nhiều quan điểm về thuế khác nhau. >>> Xem thêm: Mẫu chuyên đề tốt nghiệp thẻ tín dụng Adam Smith (Dadaurop & FI. Poliauskia, 1976, trang 35) quan niệm về thuế như sau: “Các công dân của mỗi nước phải đóng góp cho Chính phủ theo tỷ lệ khả năng của mỗi người, nghĩa là tỷ lệ với lợi tức mà họ được thụ hưởng do sự bảo vệ của Nhà nước”. Theo đó, Adam Smith khẳng định tính chất bắt buộc các công dân phải nộp thuế cho Nhà nước theo tỷ lệ thu nhập của mỗi người. Karl Marx (Dadaurop & FI. Poliauskia, 1976, trang 37) cho rằng thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy Nhà nước, là “khoản đóng góp nghĩa vụ cần thiết để nuôi dưỡng Nhà nước pháp quyền, thuế là nguồn sống… đối với Nhà nước hành pháp. Chính phủ mạnh và thuế cao là hai khái niệm đồng nhất”. Như vậy, Karl Marx quan niệm rằng thuế gắn liền với Nhà nước và đảm bảo sự tồn tại của bộ máy Nhà nước. Paul A. Samuelson và William D. Nordhaus (2004, trang 56) lại khẳng định rằng bên cạnh các nghĩa vụ người dân phải thực hiện đối với Nhà nước thì “thuế là một dạng cưỡng bức quan trọng. Tất cả mọi người đều phải tuân theo Luật thuế. Sự thật là toàn bộ công dân tự mình đặt gánh nặng thuế lên mình và mỗi công dân cũng được hưởng phần hàng công cộng do Chính phủ cung cấp”. Theo định nghĩa về thuế của Black’s Law Dictionary (2003, trang 1307) thì “thuế là gánh nặng tài chính đánh lên các cá nhân hay người sở hữu tài sản để hỗ trợ nhà nước (…) một khoản do chính quyền lập pháp buộc người dân phải nộp. Thuế “không phải là một khoản tiền đóng góp tự nguyện hay hiến tặng, mà là một đóng góp bắt buộc, do cơ quan lập pháp quy định”. Sở thuế Hoa Kỳ (Internal Revenue Service) đưa ra định nghĩa về thuế trong Rev. Rule 77.29 như sau: “Thuế là khoản đóng góp bắt buộc do chính quyền lập pháp quy định. Thuế không phải là khoản chi trả cho một đặc quyền hay dịch vụ nhất định nào và đây là điểm phân biệt thuế với các khoản thu khác nhằm những mục đích cụ thể của chính phủ hay cơ quan quyền lực khác”. Từ những quan điểm nêu trên, chúng ta có thể kết luận: Thuế là hình thức đóng góp theo nghĩa vụ do Luật quy định cho các tổ chức và cá nhân trong xã hội nộp cho Nhà nước bằng một phần thu nhập của mình nhằm tập trung một bộ phận của cải xã hội vào Ngân sách Nhà nước để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước thích ứng với từng giai đoạn phát triển của đời sống kinh tế xã hội. Như vậy, thuế và Nhà nước là hai khái niệm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bản chất giai cấp của Nhà nước quy định bản chất của thuế. 1.2. Đặc điểm của thuế Thuế có một số đặc điểm cơ bản như sau: Thứ nhất, thuế là một khoản thu không bồi hoàn, không mang tính hoàn trả trực tiếp. Thuế thể hiện sự chuyển giao1 các nguồn lực tài chính từ khu vực tư nhân sang khu vực công (Nhà nước). Tuy nhiên, người nộp thuế có thể nhận lại một phần đền bù từ việc hưởng các hàng hóa công cộng mà Nhà nước cung cấp. Nộp thuế là một trong những nghĩa vụ cơ bản của mỗi tổ chức và công dân được ghi rõ trong Hiến pháp và các đạo luật của Nhà nước. Tính không hoàn trả trực tiếp của thuế đồng nghĩa với việc thuế không có tính đối giá, tức là người nộp thuế không có quyền yêu cầu đối giá với khoản thuế phải nộp. Đặc điểm này trái ngược với hình thức huy động ngân sách khác như lệ phí, phí. Lệ phí là khoản nộp cho ngân sách Nhà nước mang tính đối giá với các dịch vụ được cung cấp bởi chính phủ. Sự chuyển giao (transfer) được hiểu là sự chuyển giao một chiều hàng hóa, dịch vụ, tiền tệ… từ chủ thể này sang chủ thể khác. Ngược lại, giao dịch (transfer) là sự trao đổi hai chiều của hàng hóa, dịch vụ… giữa các chủ thể. Thứ hai, thuế là một khoản thu mang tính bắt buộc, đây cũng là đặc điểm quan trọng phân biệt giữa thuế và các hình thức động viên tài chính khác của Nhà nước, như công trái, quyên góp mang tính tự nguyện. Joseph E. Stiglitz2 (1986) cho rằng thuế khác đa số các khoản chuyển giao tiền từ người này sang người khác. Trong khi các khoản chuyển giao đó là tự nguyện thì thuế là bắt buộc. Tính bắt buộc của thuế do những nguyên nhân sau: Trước hết, chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không gắn với lợi ích cụ thể của người nộp thuế nên không thể sử dụng phương pháp tự nguyện trong chuyển giao. Để đảm bảo nhu cầu chi tiêu, Nhà nước phải sử dụng quyền lực của mình để bắt buộc người dân nộp thuế. Ngoài ra, trong xã hội văn minh nhu cầu của các thành viên cộng đồng về hàng hóa công cộng mà Nhà nước cung cấp ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, hàng hóa công cộng là một loại hàng hóa đặc biệt, không thể phân bổ theo khẩu phần và bản thân người sử dụng cũng không muốn phân bổ theo khẩu phần. Hơn nữa, đây lại là mặt hàng không cạnh tranh, không thể đem trao đổi ngang giá và trực tiếp để bù đắp chi phí. Vì vậy, trong xã hội xuất hiện “kẻ ăn không”, tức là những người không tự nguyện trả tiền cho việc thụ hưởng hàng hóa công cộng. Do đó Nhà nước phải bắt buộc tất cả thành viên trong xã hội, kể cả “kẻ ăn không” phải chuyển giao thu nhập cho Nhà nước. Thứ ba, thuế có tính pháp lý cao. Nhà nước sử dụng hệ thống luật pháp để ban hành các sắc thuế, vì vậy thuế thường được quy định dưới dạng văn bản pháp luật hay pháp lệnh. Trốn thuế hay gian lận thuế đều bị coi là những hành vi vi phạm pháp luật và phải chịu xử phạt về hành chính hoặc hình sự. Thứ tư, thuế không có tính mục đích nhất định, tức là một loại thuế cụ thể trong một mức độ cụ thể không được dùng để tài trợ cho một dự án cụ thể của chính phủ mà được tài trợ bởi tổng thể khoản thu của ngân sách Nhà nước. Khoản thu của Joseph E. Stiglitz là nhà kinh tế học người Mỹ, nhận giải Nobel kinh tế năm 2001 1.3. Vai trò của thuế Cùng với sự phát triển của xã hội, thuế ngày càng đa dạng và vai trò của thuế cũng càng phức tạp. Tuy nhiên, vai trò cơ bản của thuế bao gồm: 1.3.1. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước Không một chính phủ nào trên thế giới có thể hoạt động mà không có ngân sách, và chính phủ cũng không có một hệ thống riêng biệt nào chuyên chịu trách nhiệm hoạt động sinh lời, tạo doanh thu cho ngân sách. Nói cách khác, một nhà nước chỉ có thể điều hành các bộ ban của mình thông qua nguồn quỹ công cộng được tích lũy thông qua hình thức thu thuế. Trong các nguồn thu ngân sách của các quốc gia (thông thường gồm các khoản thu như thuế, phí, lệ phí, các khoản vay, thu từ hoạt động đầu tư…), nguồn thu từ thuế luôn chiếm tỉ trọng lớn nhất và là khoản thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước. Theo báo cáo đăng trên cổng thông tin chính thức của chính phủ Trung Quốc (http://english.gov.cn/2008-03/05/content_910305.htm) thì trong năm 2007 tổng thu từ thuế chiếm 88,9% tổng thu ngân sách Nhà nước, ở Nhật tỷ lệ này là 57%, ở Singapore thu từ thuế cũng chiếm tới 91,3% tổng thu Ngân sách Nhà nước (Singapore’s Ministry of Finance, trang 23). Sử dụng công cụ thuế để huy động nguồn thu cho ngân sách có những ưu điểm sau: Thứ nhất, phạm vi thu thuế rộng, đối tượng nộp thuế bao gồm toàn bộ thể nhân và pháp nhân hoạt động kinh tế và phát sinh nguồn thu nhập phải nộp thuế. Thứ hai, thông qua thu thuế, một bộ phận đáng kể thu nhập xã hội tập trung trong tay Nhà nước để đảm bảo các nhu cầu chi tiêu và thực thi các biện pháp kinh tế xã hội. Mặt khác, nguồn thu thuế là từ tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong nước tạo ra, đó là nguồn thu xuất phát từ nội tại nền kinh tế nên có tính lâu dài, bền vững và ổn định. Thứ ba, hình thức động viên thu nhập bằng thuế có lợi thế hơn các hình thức khác ở chỗ kết hợp giữa phương thức cưỡng chế bằng pháp luật với kích thích vật chất tạo ra sự quan tâm của đối tượng nộp thuế đến hiệu quả kinh doanh, qua đó kích thích nền kinh tế phát triển. Một chỉ tiêu thường được sử dụng làm thước đo mức độ đóng góp của thuế là phần trăm tổng thu nhập từ thuế so với GDP, thể hiện mức độ Nhà nước kiểm soát các nguồn lực. Tỷ lệ này có thể sử dụng như một thước đo thể hiện vai trò của khu vực công trong nền kinh tế. Tại Việt Nam, trong 5 năm từ 2001-2005 tỷ trọng thu thuế chiếm 21,4% GDP (2005, “Kinh tế Việt Nam và thế giới”, Thời báo kinh tế Việt Nam, tr. 15). Theo Báo cáo thường niên về chỉ số tự do kinh tế năm 2010 của Qũy Heritage và tạp chí Wall Street Journal, tổng thu thuế năm 2008 của Hoa Kỳ tương đương 28,3% GDP, của Pháp tương đương 45% GDP, của Trung Quốc là 18,3% GDP và của Việt Nam là 23,2% GDP. Các nước với tỉ lệ này cao thường có xu hướng lấy tiền từ túi công chi cho các dịch vụ mà công dân thường đáng ra phải tự trả bằng tiền của mình. Tuy nhiên, mức thuế suất cao không đảm bảo tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Mức thuế suất không hợp lý có thể cản trở sự phát triển kinh tế, và khuyến khích các hoạt động trốn thuế, lậu thuế. Kết quả là nguồn thu ngân sách từ thuế không tăng, và nền kinh tế cũng gặp cản trở. Vì vậy, Chính phủ có thể tối đa hóa số thuế thu được thông qua xác định thuế suất tại mức tối ưu, điều này được thể hiện qua đường cong Laffer: t* là mức thuế suất tối ưu, tại đó Nhà nước đạt được số thu ngân sách từ thuế lớn nhất. Khi thuế suất nằm dưới mức tối ưu này, thì nâng thuế suất cho phép tăng thu ngân sách. Nhưng nếu thuế suất đã cao hơn mức tối ưu này mà lại tiếp tục nâng thuế suất thì số thu ngân sách từ thuế lại giảm đi. 1.3.2. Thuế là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước có thể sử dụng chính sách thuế để điều tiết vĩ mô nền kinh tế, do chính sách thuế ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập, giá cả, quan hệ cung cầu, cơ cấu đầu tư và sự phát triển hoặc suy thoái của nền kinh tế. Theo trường phái Keynes thì thuế là một trong những công cụ điều tiết tổng cầu của nền kinh tế, chẳng hạn khi tổng cầu tăng quá mức có thể tăng thuế để hạ nhiệt nền kinh tế và kiềm chế lạm phát. Trên thực tế, nhiều nước đã sử dụng chính sách thuế linh hoạt để đối phó với suy thoái kinh tế. Chẳng hạn, trong năm 2009 kế hoạch cứu trợ để đối phó với khủng hoảng kinh tế của nhiều nước sử dụng công cụ thuế: Bỉ cắt giảm thuế suất thuế giá trị gia tăng cho nguyên liệu xây dựng từ 21% xuống 6%, Phần Lan mở rộng phạm vi đối tượng được giảm thuế và tăng ưu đãi thuế, Pháp miễn 2/3 thuế thu nhập cá nhân cho đối tượng có thu nhập chịu thuế ở mức 5,5% (mức thuế suất thấp nhất trong biểu thuế suất lũy tiến), Rumani miễn thuế thu nhập cá nhân cho phần thu nhập từ lãi suất tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm từ ngày 1/1/2009… Việc điều chỉnh chính sách thuế còn góp phần điều tiết sản xuất và thị trường nhằm hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, có những ngành kinh tế rất quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội nhưng lại không được các nhà đầu tư quan tâm vì lợi nhuận không cao, nên cần phải có sự đầu tư của Nhà nước. Điều này đòi hỏi phải huy động một tỷ lệ thuế tương đối cao với một số ngành có điều kiện phát triển thuận lợi trong thời kỳ nhất định và một tỷ lệ tương đối thấp với những ngành kém thuận lợi nhằm tạo cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế. Đồng thời, việc phân biệt thuế suất với từng loại sản phẩm, ngành hàng đã góp phần điều chỉnh giá cả, quan hệ cung cầu và hướng dẫn các nhà đầu tư bỏ vốn vào những sản phẩm, ngành hàng theo định hướng của Nhà nước. Chẳng hạn, ở Việt Nam hiện nay, một số loại nông sản, hay các sản phẩm phục vụ hoạt động sản xuất nông nghiệp như phân bón, thức ăn gia súc… là các lĩnh vực được ưu tiên phát triển được áp dụng mức thuế suất thuế giá trị gia tăng ưu đãi là 5%; các lĩnh vực được đặc biệt khuyến khích như xuất khẩu hàng hoá dịch vụ, vận tải quốc tế, dịch vụ cấp tín dụng… được áp dụng thuế suất ưu đãi 0% trong khi các loại hàng hoá dịch vụ khác chịu thuế suất thuế giá trị gia tăng 10%. Chính sách ưu đãi phát triển các ngành công nghệ cao còn được thể hiện ở các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, hay thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu các mặt hàng công nghệ cao… Thuế cũng là một công cụ quan trọng để thực hiện chính sách đối ngoại và bảo hộ nền sản xuất trong nước, thúc đẩy sự hòa hợp kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Tổ chức thương mại thế giới (WTO) cũng ra đời trên cơ sở hợp tác giữa các quốc gia liên quan đến vấn đề thuế quan. Ngày nay, tuy xu hướng sử dụng các rào cản phi thuế quan ngày càng được các quốc gia ưa chuộng, nhưng thuế quan vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc bảo hộ nền sản xuất trong nước cũng như thúc đẩy sự hợp tác quốc tế. 1.3.3. Thuế là công cụ điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong phân phối Trong nền kinh tế thị trường, nếu không có sự can thiệp của Nhà nước và để thị trường tự điều chỉnh thì sự phân phối của cải và thu nhập sẽ mang tính tập trung rất cao, tạo ra hai cực đối lập nhau, dẫn đến tình trạng phân hóa giàu nghèo. Chính vì vậy Nhà nước phải can thiệp vào sự phân phối để quản lý và điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế thông qua hệ thống luật pháp, công cụ kinh tế, tài chính, trong đó thuế là công cụ quan trọng. Trong chính sách thuế, Nhà nước thiết kế các mức thuế suất và ưu đãi khác nhau cho các đối tượng khác nhau. Đồng thời, các chính sách thuế cũng phải thống nhất giữa các thành phần kinh tế và tầng lớp dân cư, không phân biệt các đơn vị, cá nhân. Các tổ chức, cá nhân có hoàn cảnh hay điều kiện tương tự nhau đều phải nộp thuế như nhau (công bằng theo chiều ngang). Người có thu nhập thấp không đủ đảm bảo đời sống thì không phải nộp thuế, người có thu nhập nhiều hơn thì phải nộp thuế nhiều hơn (công bằng theo chiều dọc). Sự công bằng trong chính sách thuế sẽ kích thích mọi tổ chức cá nhân tập trung đầu tư phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh để có thu nhập chính đáng. Đồng thời thuế còn thực hiện chức năng phân phối lại thu nhập xã hội, thể hiện thông qua việc Nhà nước sử dụng ngân sách thu từ thuế để chi tiêu cho các hoạt động phục vụ lợi ích của công dân, cung cấp hàng hóa công cộng, trợ cấp, điều hòa thu nhập xã hội. Loại thuế thể hiện tính chất phân phối lại rõ nhất, thể hiện công bằng xã hội chính là thuế trực thu thể hiện ở thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp. 1.4. Phân loại thuế Phân loại thuế có ý nghĩa rất quan trọng trong việc làm rõ bản chất của từng loại thuế, qua đó có thể sử dụng công cụ thuế một cách công bằng, hợp lý và hiệu quả hơn. Để phân loại thuế người ta thường căn cứ vào các tiêu thức phân loại khác nhau, phụ thuộc vào từng mục đích khác nhau như: phân loại thuế dựa trên phương thức đánh thuế, phân loại thuế dựa trên cơ sở tính thuế, phân loại thuế dựa trên phạm vi điều chỉnh của sắc thuế, phân loại thuế theo tên gọi của sắc thuế. Dưới đây là một số tiêu thức phân loại thuế cơ bản thường được áp dụng: 1.4.1. Phân loại thuế căn cứ vào phương thức đánh thuế Cách phân loại cổ điển nhất và thường được sử dụng nhất là cách phân loại dựa vào phương thức đánh thuế trực tiếp hay gián tiếp vào thu nhập chịu thuế của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Theo cách này, thuế được phân thành thuế trực thu và thuế gián thu. Theo John Bouvier4 (1856, tr. 2311), thì “Thuế được chia thành thuế trực thu và thuế gián thu. Thuế trực thu đánh vào tài sản, cá nhân, doanh nghiệp, thu nhập… của người nộp thuế. Thuế gián thu đánh vào hàng hóa trước khi đến tay người tiêu dùng và được nộp bởi người chịu thuế cuối cùng không phải với tư cách thuế, mà với tư cách một phần của giá cả thị trường của hàng hóa đó”. Ngoài ra, theo Hội đồng cơ mật (Privacy Council) của Canada, thuế trực thu và thuế gián thu được định nghĩa như sau: “Thuế gồm có thuế gián thu và thuế trực thu. Thuế trực thu là thuế đánh vào chính đối tượng mà nó nhắm đến. Thuế gián thu là thuế đánh vào một cá nhân với kì vọng hay ý định là anh ta sẽ tự trả thuế cho mình bằng chi phí của người khác. Người sản xuất và nhập khẩu một loại hàng hóa được yêu cầu trả thuế cho hàng hóa đó, không phải với ý định áp đặt một khoản đóng góp lên anh ta, mà để thông qua anh ta đánh thuế lên những người tiêu dùng hàng hóa, và anh ta được cho là sẽ bù được khoản thuế bỏ ra bằng việc tăng giá hàng hóa”. Như vậy, cách hiểu về thuế trực thu và thuế gián thu trên thế giới không có nhiều điểm khác biệt. Có thể tổng kết những đặc điểm cơ bản của thuế trực thu và thuế gián thu như sau: Thuế trực thu là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của các đối tượng nộp thuế. Thuế trực thu có đặc điểm là đối tượng nộp thuế theo luật định cũng chính là đối tượng chịu thuế, ví dụ như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế đánh vào quà tặng, quà biếu… Thuế trực thu khác với thuế gián thu ở chỗ không được cộng vào giá hàng hóa và dịch vụ. Ưu điểm của thuế trực thu là động viên trực tiếp thu nhập của từng tổ chức và cá nhân có thu nhập, cho nên đảm bảo được tính công bằng xã hội hơn thuế gián thu, vì phần đóng góp thường phù hợp với khả năng của từng đối tượng, thu nhập cao thì chịu thuế cao, thu nhập thấp thì chịu thuế thấp, thu nhập chỉ đủ trang trải chi phí cần thiết hoặc không có thu nhập thì không phải nộp thuế. Do đó, thuế trực thu có tác dụng rất lớn trong việc điều hòa thu nhập, giảm bớt sự chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Tuy nhiên, thuế trực thu cũng có khuyết điểm, đó là phần nào hạn chế sự cố gắng tăng thu nhập của đối tượng nộp thuế do thu nhập càng cao thì số thuế nộp càng nhiều. Việc quản lý thuế trực thu phức tạp và chi phí quản lý thường cao hơn thuế gián thu. Thuế gián thu là loại thuế không trực tiếp đánh vào thu nhập hay tài sản của người nộp thuế mà điều tiết gián tiếp thông qua giá cả hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân khi tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ, ví dụ như thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt. Thuế trực thu có đặc điểm là người nộp thuế không phải là người chịu thuế. Thuế này do người sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ nộp cho Nhà nước, nhưng người chịu thuế là người tiêu dùng cuối cùng những hàng hóa dịch vụ đó. Bởi vì, tiền thuế được cộng vào giá cả khi mua hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng trả tiền. Ưu điểm của thuế gián thu là đảm bảo được sự tự lựa chọn của người chịu thuế với các loại hàng hóa, dịch vụ mà họ quyết định mua, đảm bảo tính tự nguyện chịu thuế. Đồng thời, thuế gián thu còn tránh được quan hệ trực tiếp giữa người chịu thuế và cơ quan thuế nên dễ thu hơn so với thuế trực thu. Thuế gián thu cũng dễ điều chỉnh tăng hơn thuế trực thu vì những người chịu thuế thường không cảm nhận ngay gánh nặng của loại thuế này. Bên cạnh đó, thuế gián thu còn là công cụ điều tiết, bảo hộ sản xuất kinh doanh trong nước, và hướng dẫn tiêu dùng. Hiện nay trên thế giới có xu hướng coi trọng thuế gián thu hơn thuế trực thu vì nó có đối tượng chịu thuế rất rộng, đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách, dễ thu, dễ quản lý, đồng thời chi phí phải bỏ ra để thu thuế cũng thấp. Tuy nhiên, nhược điểm của thuế gián thu là tính lũy thoái của nó. Vì thuế gián thu đánh thuế như nhau trên cùng một loại hàng hóa, dịch vụ nên người giàu và người nghèo nếu cùng tiêu dùng một loại hàng hóa, dịch vụ và số lượng như nhau thì chịu thuế như nhau, nhưng thực chất khi xét tỷ lệ động viên thuế gián thu so với thu nhập thì người giàu chịu thuế thấp hơn người nghèo; người có thu nhập càng cao thì tỷ lệ nộp thuế gián thu càng thấp. 1.4.2. Phân loại thuế căn cứ vào đối tượng đánh thuế Theo cách phân loại này thì thuế gồm có: – Thuế đánh vào hoạt động sản xuất, kinh doanh như: thuế doanh thu, thuế giá trị gia tăng. – Thuế đánh vào hàng hóa như: thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt. – Thuế đánh vào tài sản như: thuế nhà đất. – Thuế đánh vào thu nhập như: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân. Việc phân loại thuế theo đối tượng như trên vừa phát huy tác dụng riêng của từng loại thuế, vừa hỗ trợ cho nhau để bảo đảm thực hiện chức năng toàn diện của cả hệ thống thuế. Tuy nhiên, việc phân loại thuế theo đối tượng đánh thuế chỉ là tương đối, chẳng hạn như thuế giá trị gia tăng, theo cách phân loại này là thuế đánh vào hàng hoá nhưng lại được thu ở khâu sản xuất kinh doanh, do đó thuế đánh vào hoạt động sản xuất kinh doanh hay thuế đánh vào hàng hoá thực chất chỉ là một. 1.4.3. Phân loại thuế căn cứ vào chế độ phân cấp và điều hành ngân sách Theo tiêu thức này, thuế thường được phân chia thành thuế trung ương và thuế địa phương. Thuế trung ương: Là loại thuế được Nhà nước ban hành thành các văn bản pháp quy và được điều tiết hoàn toàn vào Ngân sách Nhà nước ở Trung ương. Thuế trung ương bao gồm các nguồn thu lớn từ các hoạt động sản xuất kinh doanh có phạm vi rộng lớn trên lãnh địa quốc gia, hoặc thu từ các tài nguyên lớn thuộc sở hữu Nhà nước. Thuế địa phương: là loại thuế được Nhà nước quy định thu trên phạm vi lãnh thổ được phân công quản lý và được điều tiết vào Ngân sách Nhà nước ở địa phương. Thuế địa phương bao gồm các nguồn phát sinh trên địa bàn, phần lớn có quy mô vừa và nhỏ, đối tượng nộp thuế nhiều và quản lý phức tạp. 1.5. Tiêu chuẩn đánh giá hệ thống thuế Trong tác phẩm kinh điển Của cái các quốc gia (The wealth of Nations), nhà kinh tế học Adam Smith (1723–1790) đã hệ thống hóa các quy tắc kiểm soát và điều chỉnh hệ thống thuế hợp lý. Trải qua thời gian, những tiêu chuẩn này vẫn giữ được tính phù hợp và có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đánh giá hệ thống thuế nói chung cũng như từng sắc thuế nói riêng. Trong Quyển V, Chương 2 của cuốn Của cải các quốc gia, Adam Smith đưa ra 4 tiêu chuẩn chung: Các đối tượng đánh thuế phải đóng góp cho sự hỗ trợ của chính phủ, càng gần mức được hỗ trợ càng tốt, theo tỷ lệ khả năng tương ứng của mình. Đó là tỷ lệ trong phần doanh thu mà họ được hưởng tương ứng dưới sự bảo vệ của Nhà nước. Số thuế mỗi cá nhân phải nộp cần chắc chắn, không tùy tiện. Thời gian nộp, cách thức nộp, giá trị phải nộp, tất cả đều phải rõ ràng và đơn giản đối với người đóng góp và với mọi người khác. Mỗi loại thuế nên được đánh vào một thời điểm và theo một cách thức sao cho có thể thuận tiện nhất cho người đóng thuế. Mỗi loại thuế nên được xử lý linh hoạt sao cho chi phí tiến hành thu thuế thấp nhất. Nhìn chung, những quy tắc này cũng tương đồng với những tiêu chuẩn quan trọng được các nhà kinh tế hiện đại chấp nhận, gồm những tiêu chuẩn chính sau: 1.5.1. Tính công bằng (Equity) Có hai hướng tiếp cận về tính công bằng của thuế được nhiều nhà kinh tế thừa nhận, đó là xem xét tính công bằng theo lợi ích được hưởng và theo khả năng chi trả. Thứ nhất, tính công bằng tiếp cận theo lợi ích được hưởng. Theo cách tiếp cận này thì các cá nhân phải được đánh thuế theo lợi ích mà họ nhận được từ những chương trình chi tiêu được tài trợ từ tiền thuế của chính phủ. Cách tiếp cận này coi hàng hóa công cộng giống như hàng hóa tư nhân. Chẳng hạn, tại Mỹ nguồn thu từ thuế xăng dầu sẽ được dùng để xây dựng và bảo dưỡng đường xá. Vì người mua xăng cũng là người sử dụng đường nên thuế xăng dầu có thể được coi là cách công bằng để thanh toán cho dịch vụ này của chính phủ. Đánh thuế theo lợi ích được hưởng đã công khai ràng buộc chính sách thuế với chính sách chi tiêu của chính phủ. Khó khăn lớn của việc tiếp cận này là tính toán lợi ích của chi tiêu công cộng, do vậy trên thực tế khó có thể đảm bảo thực hiện đánh thuế theo lợi ích một cách đúng nghĩa. Thứ hai, tính công bằng tiếp cận theo khả năng chi trả. Theo cách tiếp cận này, thuế đánh vào người dân cần phải dựa vào khả năng gánh vác gánh nặng thuế của họ. Khác với cách tiếp cận dựa trên lợi ích thụ hưởng, mức đóng thuế không liên quan trực tiếp đến việc sử dụng dịch vụ công cộng. Nguyên tắc đánh thuế theo khả năng chi trả dẫn đến hai hệ quả về công bằng: công bằng ngang và công bằng dọc. Công bằng ngang phản ánh nguyên tắc những người nộp thuế có hoàn cảnh điều kiện giống hay tương tự nhau sẽ nộp thuế ngang nhau, bởi vì họ có khả năng trả thuế ngang nhau. Trên thực tế, nguyên tắc bình đẳng này hay bị coi nhẹ, cả cố ý lẫn vô ý. Những vi phạm cố ý thường nhằm mục đích chính trị hơn là kinh tế, chẳng hạn như những ưu đãi thuế cho nông dân, tầng lớp trung lưu hay miễn thuế cho thu nhập từ lãi suất trái phiếu chính phủ. Công bằng dọc được hiểu là đối xử khác nhau với những đối tượng khác nhau, có xét đến khả năng trả thuế. Nguyên tắc này thường được hiểu là các loại thuế nên được đánh theo cấu trúc lũy tiến. Và theo cách hiểu đó, các loại thuế gián thu đã vi phạm nguyên tắc này. 1.5.2. Tính hiệu quả (Efficiency) Yêu cầu về tính hiệu quả của thuế nảy sinh từ bản chất của nền kinh tế thị trường. Mặc dù có nhiều ví dụ trái ngược, các nhà kinh tế nhìn chung vẫn tin rằng thị trường có tác động lớn đối với việc đưa ra quyết định cho những lựa chọn như là tiêu dùng, sản xuất và đầu tư. Do đó, họ cho rằng chính sách thuế nên hạn chế can thiệp vào sự phân bổ các nguồn lực kinh tế. Có nghĩa là hệ thống thuế nên gây ít tác động lên các quyết định của từng cá nhân. Thuế không nên phân biệt thiên vị hay định kiến với những khoản chi tiêu, phương tiện sản xuất, những hình thức tổ chức hay những ngành nghề nhất định. Tất nhiên, điều này không có nghĩa là các mục tiêu kinh tế xã hội không thể có những cân nhắc ngoại lệ. Chẳng hạn, rất nên đánh thuế ô nhiễm như là một công cụ để bảo vệ môi trường. Tính hiệu quả hay trung lập của thuế hướng vào việc xem xét các sắc thuế có khiến người nộp thuế phải tham gia vào các hoạt động khác với ngành nghề để tránh nộp thuế hay không. Thuế được xem như trung lập khi nó không bóp méo các quyết định của các cá nhân, ngược lại nếu thuế bóp méo hành vi quyết định của người nộp thuế, thuế đó không trung lập. Xét trên phạm vi quốc tế, cần thiết xem xét liệu hệ thống thuế có khuyến khích tính trung lập trong xuất nhập khẩu vốn. Tính trung lập trong xuất khẩu vốn được thừa nhận khi sự lựa chọn của người nộp thuế giữa việc đầu tư trong nước hay nước ngoài không bị tác động bởi thuế. Tính trung lập trong nhập khẩu vốn được thừa nhận nếu công ty hoạt động ở nước ngoài có cùng địa vị nộp thuế như các đối thủ cạnh tranh địa phương. 1.5.3. Các tiêu chuẩn khác Tính đơn giản Tiêu chuẩn đơn giản có nghĩa là các quy định thuế cần dễ hiểu, dễ tiếp cận, dễ sử dụng và không rối rắm. “Đơn giản” là một thuật ngữ tổng quát bao gồm các khái niệm sau: Tính có thể lĩnh hội: Thuế phải dễ hiểu đối với người nộp. Tính chắc chắn: Việc áp dụng thuế cho một giao dịch nhất định cần dự báo được, xác định được và tương đối chắc chắn, không mập mờ đa nghĩa – đối với cả người nộp thuế lẫn cơ quan quản lí thuế. Tính thuận tiện trong quản lí: Người nộp thuế không phải tốn quá nhiều thời gian hay chi phí để thi hành nghĩa vụ thuế. Tính khó trốn tránh: Luật thuế cần tạo ra ít cơ hội nhất có thể cho các hành vi không tuân thủ. Tính ổn định Tính ổn định của thuế có ý nghĩa quan trọng trong việc tài trợ cho các nhu cầu của chính phủ, đảm bảo duy trì tính liên tục trong các chính sách về ngân sách của chính phủ. Ngoài ra, những thay đổi thường xuyên về thuế suất và các luật lệ về thuế sẽ khiến cho khu vực tư nhân gặp khó khăn trong lập kế hoạch dài hạn. Khi hệ thống thuế không ổn định, nó sẽ trở thành một nguồn rủi ro và gây ra tình trạng kém hiệu quả cho kinh tế đất nước. Chi phí quản lý thuế và chấp hành thuế phải hợp lý Số thuế thu được là để tài trợ cho các nhu cầu của chính phủ nên chi phí thu thuế cao sẽ làm giảm số thu ròng còn lại cho chính phủ. Nguyên tắc này yêu cầu phải tổ chức bộ máy thu thuế gọn nhẹ với chi phí thấp nhất. 2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP 2.1. Khái niệm thuế thu nhập doanh nghiệp Trước khi đưa ra khái niệm thuế TNDN, cần phải làm rõ các khái niệm về doanh nghiệp, và thu nhập doanh nghiệp. Thuế thu nhập doanh nghiệp (ở một số nước còn gọi là thuế thu nhập công ty, thuế công ty hay thuế lợi tức) được áp dụng từ lâu ở nhiều nước trên thế giới. Sự khác biệt về tên gọi của sắc thuế này giữa các quốc gia là do sự khác nhau trong ngôn ngữ luật pháp giữa các nước quy định về những hình thức đầu tư của các loại hình doanh nghiệp khác nhau, cũng như sự khác nhau giữa chính sách thuế của các nước đối với “loại hình kinh doanh có tổ chức” này. Trước hết, chúng ta cần xem xét khái niệm “doanh nghiệp” trên cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Xét theo nghĩa rộng, doanh nghiệp là tất cả các loại hình kinh doanh có tổ chức như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty Nhà nước… Xét theo nghĩa hẹp, khái niệm doanh nghiệp chỉ được dùng để chỉ các công ty cổ phần. Chính vì những quan niệm như trên nên ở một số nước tồn tại một sắc thuế riêng với công ty cổ phần và các hình thức kinh doanh có tổ chức khác phải chịu sự điều chỉnh của các sắc thuế thu nhập khác. Đôi khi hình thức thuế này chỉ đánh vào các công ty cổ phần lớn trong khi các công ty cổ phần nhỏ lại bị đánh thuế như các tổ chức kinh doanh còn lại. Chính vì vậy, đối tượng nộp thuế của thuế TNDN ở các nước khác nhau không phải bao giờ cũng giống nhau. Bên cạnh đó, khái niệm “thu nhập doanh nghiệp” cũng cần được làm rõ. Thu nhập được hiểu là tổng các giá trị mà một chủ thể nhận được trong nền kinh tế thông qua quá trình phân phối thu nhập quốc dân trong một thời gian, không phân biệt nguồn gốc hình thành từ lao động, tài sản hay đầu tư. Trên thực tế, thu nhập được định nghĩa bằng các yếu tố cụ thể sẽ đưa vào trong cơ sở tính thuế (thu nhập từ việc làm, từ lợi nhuận kinh doanh, tiền cho thuê) chứ không thông qua một công thức tổng quát. Điều này đúng với các quốc gia áp dụng hệ thống thuế phân theo loại hình thu nhập. Theo hệ thống thuế truyền thống thì thu nhập gồm tiền mặt nhận được và các khoản tương đương, cũng bao gồm các khoản sẽ nhận được hay dự kiến nhận được. Có quốc gia lại phân chia thu nhập thành thu nhập (hay thu nhập thông thường) và lãi vốn. Lãi vốn chịu thuế theo quy định riêng và thuế suất riêng. Ở Úc, thu nhập thông thường dùng để phân biệt với thu nhập theo pháp luật (gồm tất cả thu nhập và lãi vốn có trong cơ sở tính thuế theo quy định của pháp luật). Phần lớn các quốc gia xác định thu nhập theo các bước khác nhau: thu nhập ban đầu (ví dụ tổng thu nhập) giảm dần sau khi khấu trừ các khoản miễn giảm cá nhân, khấu trừ thuế… để xác định thu nhập chịu thuế. Trong bước trung gian và bước cuối gồm có thu nhập điều chỉnh của tổng thu nhập, thu nhập kê khai (Canada), thu nhập chịu thuế (Anh) và thu nhập ròng. Do sự khác biệt trong hệ thống thuế của từng quốc gia, việc so sánh các thuật ngữ với nhau thường ít được thực hiện. Cuối cùng, chúng ta xem xét khái niệm thuế TNDN. Cho đến nay, chưa có một khái niệm thống nhất nào định nghĩa thuế thu nhập doanh nghiệp. Tuy nhiên, có thể xem xét một số quan điểm sau: Chuyên gia về thuế của trường Đại học Luật New York, Daniel N. Shaviro (2009, tr. 3) cho rằng thuế TNDN “có thể hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Hiểu theo nghĩa hẹp, thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ đơn giản là thuế đánh vào các doanh nghiệp. Mở rộng khái niệm này, thuế thu nhập doanh nghiệp còn chỉ việc đánh thuế vào các nguồn lợi nhuận tài chính của các cá nhân trong các doanh nghiệp, chẳng hạn như cổ phần hay các khoản nợ”. Author O’Sullivan và Steven M.Shefrin trong cuốn Economics: Principles in action cho rằng thuế TNDN là loại thuế do luật pháp quy định, đánh vào lợi nhuận (profit) của công ty. Hai tác giả này quan niệm thuế TNDN là loại thuế đánh vào giá trị của lợi nhuận của một doanh nghiệp. Từ các khái niệm trên, chúng ta có thể kết luận rằng thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp trong kinh doanh. Bản chất của thuế TNDN là thuế đánh vào thu nhập của chủ sở hữu trong khu vực sản xuất, kinh doanh. Điều này gây ra nhiều tranh luận trên thế giới về sự tồn tại của sắc thuế này. Cùng một khoản thu nhập của chủ sở hữu công ty nhưng lại chịu sự điều chỉnh của cả hai loại thuế là thuế TNDN và thuế thu nhập cá nhân. Tuy vậy, thuế TNDN là sắc thuế hợp lý và nó vẫn tồn tại như một thực thể khách quan vì những lí do sau: Thứ nhất, doanh nghiệp là một thực thể tồn tại độc lập khách quan nên phải thực hiện nghĩa vụ thuế giống như một đối tượng chịu thuế độc lập. Sự tập hợp các khoản vốn của các chủ sở hữu mới chỉ đơn giản là khâu huy động vốn và chưa thể nói là đã hình thành một công ty. Công ty chỉ có thể hình thành và tồn tại được khi các nhân tố về vốn, lao động, công nghệ, thị trường… được tập hợp lại thành một hệ thống. So với cá nhân tự bỏ vốn ra kinh doanh, các công ty có lợi thế hơn ở nhiều mặt, đó là khả năng cạnh tranh, khả năng ứng dụng công nghệ, khả năng vay nợ, khả năng hạn chế rủi ro… Khi những khả năng nổi trội trên xuất hiện thì sự hiện diện của công ty kinh doanh có tính độc lập tương đối với các chủ sở hữu. Công ty càng lớn, mức độ xã hội hóa càng cao thì sự độc lập này càng thể hiện rõ hơn. Sự hoạt động của các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn được thực hiện chủ yếu thông qua một nhóm các nhà quản trị, trong khi đó sự tham gia của các chủ sở hữu rất hạn chế và không ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của công ty. Thứ hai, doanh nghiệp được hưởng những ưu đãi, lợi thế mà Nhà nước tạo ra, vì thế phải hoàn lại dưới hình thức thuế TNDN. Khi tham gia kinh doanh trên lãnh thổ một quốc gia nào đó các doanh nghiệp đã được Nhà nước đó tạo ra những điều kiện để có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh an toàn, thuận lợi như: cơ sở hạ tầng kỹ thuật, sự bảo vệ về mặt pháp luật, chính sách hỗ trợ về công nghệ, vốn, kỹ thuật… Có thể nói một phần thu nhập do các doanh nghiệp tạo ra có phần đóng góp của toàn xã hội, do vậy các doanh nghiệp phải nộp thuế, có như thế mới đảm bảo tính công bằng về quyền và nghĩa vụ. Thứ ba, còn có quan điểm cho rằng thuế TNDN là loại thuế thu trước hoặc thu gộp hay thuế bổ sung của thuế TNCN để tránh tình trạng thất thu thuế và giảm bớt các đầu mối thu. Đối với các cơ quan thuế, việc kiểm soát, quản lý thu nộp thuế từ các công ty rõ ràng thuận lợi hơn so với việc kiểm soát, quản lý thu từng cá nhân. Vì vậy, việc đánh thuế TNDN vừa giảm được các đầu mối quản lý thu vừa có thể hạn chế khả năng thất thu thuế do thiếu kiểm soát chặt chẽ thuế TNCN. Điều này đặc biệt thích hợp cho các nước đang phát triển khi thuế TNCN chưa có hoặc đã có nhưng mới chỉ ở dạng sơ khai. Như vậy, sự tồn tại của thuế TNDN là hoàn toàn hợp lý, và vai trò của loại thuế này ngày càng quan trọng trong đảm bảo ổn định nguồn thu ngân sách và thực hiện điều tiết thu nhập. 2.2. Quá trình hình thành, phát triển của thuế thu nhập doanh nghiệp Đánh thuế trên thu nhập doanh nghiệp là một khái niệm hiện đại, và xuất hiện khá muộn sau các hình thức thuế khác trong lịch sử loài người. Để đánh thuế trên thu nhập, xã hội cần phải phát triển đến một mức độ nhất định để có hệ thống kế toán để ghi chép chính xác các chi phí, doanh thu, lợi nhuận… Trong lịch sử, thuế TNDN được thể hiện dưới các hình thức thuế thu nhập khác nhau như thuế lợi nhuận đất đai, nhà cửa… Hình thức thuế thu nhập này đã xuất hiện từ thời cổ đại và được đánh vào cá nhân. Đến đầu thế kỷ 19 khi các loại hình công ty xuất hiện nhiều ở các nước châu Âu và châu Mỹ, thì luật thuế ở các nước mới có những quy định riêng dành cho loại hình kinh doanh có tổ chức này. Vào những năm 1820, luật thuế ở các tiểu bang của Hoa Kỳ như Luật thuế bang New York năm 1823 hay Luật thuế chung bang Massachusetts năm 1832 không đề cập một sắc thuế nào đánh riêng vào thu nhập của các công ty, mà chỉ có thuế tài sản đánh vào cá nhân. Tuy nhiên, với sự bùng nổ của các công ty bảo hiểm, công ty xây dựng, đường sắt… thời đó, luật thuế các bang này mới có quy định về thuế đánh vào tài sản của các công ty với quan điểm rằng tự nhiên nhân hay các pháp nhân đều phải chịu thuế trên tài sản mình sở hữu. Do kế toán thời kì đó chưa phát triển nên các sắc thuế này đều căn cứ vào biểu hiện bằng tài sản như số người làm công, bất động sản, động sản khác. Tuy nhiên, các công ty hay cá nhân đều có cùng phương pháp đánh thuế như nhau do Luật thuế tài sản điều chỉnh. Thuế thu nhập thực sự đầu tiên được đánh trực tiếp vào lợi nhuận kế toán, khi công tác kế toán chính thức được áp dụng cho các nhà máy và cơ sở sản xuất trong việc xác định lợi nhuận tính thuế. Sự tập trung vốn và sự mở rộng các hình thức đầu tư đã thúc đẩy sự ra đời của thuế thu nhập doanh nghiệp với tư cách một sắc thuế độc lập với các sắc thuế khác vào cuối thế kỷ 19 ở nước Phổ (năm 1891). Ở nước Phổ, thuế TNDN, hay còn gọi là “Gewerbesteue’r” theo tiếng Phổ, đã tồn tại cùng với thuế thu nhập, thuế đất đai, thuế nhà cửa… và được tách thành sắc thuế riêng vào năm 1891. Thuế TNDN của Phổ đã có quy định rõ về những loại doanh nghiệp phải nộp thuế cũng như thuế suất và cách tính thu nhập chịu thuế. Thu nhập chịu thuế được hình thành từ các khoản thu nhập ròng hàng năm từ bốn khoản mục bao gồm vốn, bất động sản, kinh doanh và sản xuất công nghiệp, và tài sản xa xỉ. Các khoản thu nhập không thường xuyên như thu nhập từ thừa kế, bảo hiểm nhân thọ, bán bất động sản (không nhằm mục đích kinh doanh) và các khoản thu không thường xuyên khác không được coi là thu nhập, mà coi là vốn tư bản. Các điều khoản chi tiết cũng quy định rõ về những khoản khấu trừ từ tổng thu nhập để tính thu nhập chịu thuế. Từng loại hình công ty, như công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty cổ phần chịu mức thuế suất không giống nhau. Sau đó, thuế TNDN lan sang Đức, và các nước châu Âu khác. Canada áp dụng thuế TNDN từ cuối thế kỷ 19. Đến đầu thế kỷ 20, các nước khác như Pháp, Thụy Sỹ, Liên Xô và Trung Quốc cũng bắt đầu áp dụng thuế TNDN. Việt Nam, kể từ sau năm 1945, hình thức ban đầu của thuế TNDN là thuế tính trên lợi tức kinh doanh theo biểu thuế lũy tiến từng phần áp dụng từ năm 1951. Thuế đánh vào lợi tức doanh nghiệp nằm trong thuế công thương nghiệp chung với thuế buôn chuyến, thuế môn bài. Đến năm 1956, Luật thuế lợi tức doanh nghiệp ra đời, áp dụng cho mọi cơ sở kinh doanh. Sau đó, từ năm 1965 đến 1990, chính sách thuế lợi tức được tách riêng cho khu vực kinh tế quốc doanh và kinh tế ngoài quốc doanh, theo đó khu vực kinh tế quốc doanh nộp “Thu quốc doanh”, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nộp “Thuế lợi tức doanh nghiệp”. Đến năm 1990, Quốc hội thông qua Luật thuế lợi tức (30/6/1990) áp dụng cho tất cả mọi loại hình doanh nghiệp, không phân biệt thành phần kinh tế. Do những bất cập của thuế lợi tức với tình hình kinh tế đất nước nên Quốc hội đã ban hành Luật thuế TNDN năm 1997, sau đó sửa đổi năm 2003 và gần đây nhất là Luật thuế TNDN ban hành năm 2008. 2.3. Đặc điểm của thuế thu nhập doanh nghiệp 2.3.1. Đối tượng nộp thuế TNDN Đối tượng nộp thuế TNDN là các doanh nghiệp có phát sinh thu nhập chịu thuế. Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều doanh nghiệp không chỉ kinh doanh ở một quốc gia mà ở nhiều quốc gia khác nhau. Vì vậy, luật thuế TNDN của các quốc gia thường đánh thuế dựa trên cơ sở thường trú hoặc nguồn phát sinh thu nhập. Đây là một vấn đề quan trọng xác định nghĩa vụ nộp thuế khi ban hành chính sách thuế TNDN. Đa số các nước trên thế giới áp dụng hình thức đánh thuế trên cơ sở thường trú. Đặc trưng của hình thức này là đối tượng thường trú bị đánh thuế trên thu nhập từ mọi nơi trên thế giới, đối tượng không thường trú thì chỉ bị đánh thuế trên thu nhập phát sinh tại nước đó. Hiện nay, trên thế giới chưa có một sự nhất quán nào về các tiêu chuẩn xác định thường trú. Chẳng hạn, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Thái Lan cho rằng các công ty thường trú là công ty có báo cáo tài chính hợp nhất ở nước của họ. Malaysia lại định nghĩa công ty thường trú là công ty mà cơ quan quản lý và điều hành đầu não được đặt ở Malaysia. Tuy nhiên, có những nước sử dụng cả hai tiêu chuẩn hợp nhất báo cáo tài chính và sự quản lý điều hành của công ty để xác định tình trạng thường trú đó. Hình thức đánh thuế dựa trên cơ sở nguồn phát sinh thu nhập có cơ sở tính thuế hẹp hơn cách tính thuế dựa trên cơ sở thường trú khi trên lãnh thổ của một quốc gia có nhiều công ty nước ngoài hoạt động kinh doanh. 2.3.2. Cơ sở thuế TNDN Thuế TNDN đánh vào thu nhập chịu thuế, hay thu nhập ròng (đã trừ chi phí) của doanh nghiệp. Về nguyên tắc, thu nhập chịu thuế là bất cứ khoản thu nhập phát sinh nào không phân biệt từ nguồn sản xuất, kinh doanh, đầu tư sau khi trừ đi những khoản khấu trừ được pháp luật quy định. Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là toàn bộ các khoản thu từ hoạt động kinh doanh và các khoản thu khác trong một thời kì nhất định (thường là một năm). Chi phí được khấu trừ trong kỳ tính thuế phải được xác định cùng khoảng thời gian với doanh thu tính thu nhập chịu thuế. Thu nhập chịu thuế TNDN chính là thu nhập của doanh nghiệp xác định theo nguyên tắc kế toán có sự điều chỉnh theo quy định của Luật thuế. Ở một số nước, thu nhập chịu thuế là thu nhập kế toán có sự điều chỉnh nên thu nhập tính thuế và thu nhập kế toán có sự khác nhau. Chính vì vậy, việc so sánh thu nhập tính thuế giữa các quốc gia khó có thể thực hiện được, nên khó có thể thực hiện việc đánh giá so sánh gánh nặng thuế TNDN giữa các nước. Trên thực tế, các nhà hoạch định chính sách và các nhà kinh doanh thường so sánh các mức thuế suất thuế TNDN giữa các nước với nhau. Điều này giải thích vì sao làn sóng cải cách thuế ở các nước hiện nay đều hướng tới mở rộng cơ sở tính thuế và giảm thuế suất thuế TNDN (tương tự như cải cách thuế TNCN). Sự khác biệt lớn nhất của cơ sở thuế phát sinh từ những nguyên nhân sau: Sự khác nhau về chi phí được khấu trừ khi xác định thu nhập chịu thuế Sự khác nhau trong quy định về khấu hao tài sản Sự khác nhau về các ưu đãi thuế, và các quy định về chuyển lỗ. Chi phí được khấu trừ là phần rất quan trọng của Luật thuế TNDN. Mỗi quốc gia đều có quy định cụ thể về các khoản chi phí được khấu trừ khi tính thuế TNDN và các quy định này không hoàn toàn thống nhất với nhau. Tuy nhiên, hầu hết các quốc gia đều thống nhất về nguyên tắc khấu trừ các chi phí như sau: chi phí phải có liên quan đến hoạt động tạo ra thu nhập của doanh nghiệp; chi phí phải được thật sự chi ra trong thời gian và không gian nhất định; mức chi phải ở mức hợp lý và hợp lệ. Sự khác biệt trong quy định về khấu hao giữa các quốc gia cũng tạo ra khác biệt trong cơ sở thuế TNDN. Chẳng hạn, thời gian khấu hao với từng nhóm tài sản thường được quy định khác nhau ở các quốc gia. Theo Luật của Việt Nam, tài sản cố định là vườn cây ăn quả, vườn cây lâu năm có thể được khấu hao trong thời gian từ 6 đến 40 năm (Thông tư 203/2009/TT-BTC, Phụ lục 1), trong khi thời gian khấu hao với tài sản là vườn cây ăn quả… mà Luật thuế TNDN Hoa Kỳ cho phép là 10 năm (Luật thuế nội địa Hoa Kỳ, Sec. 168). Ngoài ra, cơ sở thuế còn chịu sự ảnh hưởng của các quy định về ưu đãi thuế hoặc chuyển lỗ từ các năm trước sang năm tính thuế hiện tại. Thông thường các nước thường cho phép chuyển lỗ trong thời gian nhất định, chẳng hạn như ở Việt Nam các doanh nghiệp được phép chuyển lỗ không quá 5 năm kể từ năm phát sinh lỗ. Có những quốc gia có quy định rất đặc biệt về chuyển lỗ, chẳng hạn như Hoa Kỳ. Trong Luật thuế của Hoa Kỳ, doanh nghiệp không chỉ được chuyển lỗ về các năm sau mà còn được chuyển lỗ lùi về những năm trước đó; và doanh nghiệp còn có thể thực hiện các giao dịch mua bán các khoản lỗ này. 2.3.3. Thuế suất thuế TNDN Việc đánh thuế TNDN có thể áp dụng thuế suất cố định hoặc lũy tiến. Các quốc gia áp dụng thuế suất cố định như Việt Nam, Trung Quốc… trong khi thuế suất luỹ tiến được áp dụng ở Hoa Kỳ, Anh, Singapore, Hàn Quốc… Nhìn chung, trên thế giới nguồn thu ngân sách của các nước đang phát triển phụ thuộc khá nhiều vào thuế TNDN so với các nước phát triển, nên thuế suất thuế TNDN ở các nước này có xu hướng cao hơn. 3. Dowload chuyên đề tốt nghiệp luật miễn phí Để xem toàn bộ chuyên đề tốt nghiệp này, bạn có thể tải về tại đây Điều hướng bài viết Bài cũ hơnMẫu chuyên đề tốt nghiệp về chứng khoán Bài tiếp theoKhái niệm bản chất nhà nước, đặc trưng và các mối quan hệ Tìm kết quả cho: Tìm kiếm Chuyên mục My Blog Bài viết mới Cơ sở lý luận về công tác xã hội hóa giáo dục và đào tạo Tất tần tật về tâm lý học quản trị kinh doanh Tổng quan về tâm lý học quản lý Mẫu luận văn quản lý giáo dục Thái Bình chi tiết nhất Mẫu luận văn quản trị giáo dục mầm non © 2021 Hỗ trợ làm chuyên đề báo cáo Tốt nghiệp, Cao học, Tiến sỹ / Mã nguồn WordPress / Giao diện thiết kế bởi Design Lab
1610704847953.98.parquet/4755
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 40045, "url": "https://chuyendetotnghiep.net/mau-chuyen-de-tot-nghiep-luat-hay-va-an-tuong-nhat/" }
121.2
Hé lộ các bước trong quy trình tung sản phẩm mới ra thị trường - Timviec24h.vn Tìm Việc Làm Tìm Ứng Viên Review Công ty CV xin việc Việc ngay Cẩm nang Đăng Ký Đăng Nhập Tìm Việc Làm Tìm Ứng Viên Review Công ty CV xin việc Việc ngay Cẩm nang Đăng Nhập Đăng Ký Trang chủ Cẩm nang Góc chia sẻ Hé lộ các bước trong quy trình tung sản phẩm mới ra thị trường Mục lục Với các sản phẩm mới nếu như khi được đưa ra thị trường mà không hề có một kế hoạch cụ thể, chi tiết nào được xây dựng thì điều này đồng nghĩa với việc bạn đang tự tay vứt đi cơ hội phát triển của chính mình. Như vậy thì bao nhiêu công sức nghiên cứu và đầu tư cho sản phẩm mới đó đều bị “đổ sông, đổ bể” chỉ vì những sai sót trong quy trình tung sản phẩm mới ra thị trường. Vì vậy, dưới đây sẽ là những bước cơ bản bạn cần nắm bắt để có thể thực hiện thành công quy trình tung sản phẩm mới ra thị trường và tạo ra được những tín hiệu tích cực nhất cho công ty và doanh nghiệp mình. 1. Thực hiện xác định đối tượng mục tiêu cần hướng tới Điều này là bước đầu tiên trong quy trình tung sản phẩm mới ra thị trường và cũng là bước đóng vai trò quan trọng nhất trong quy trình. Hiểu đơn giản rằng việc xác định được đúng đối tượng mục tiêu sẽ giúp bạn có thể xây dựng được các chiến lược sau đó một cách chính xác nhất. Nếu không xác định hay xác định nhầm đối tượng thì hiệu quả kinh doanh của bạn sẽ bị ngưng trệ ngay lập tức, thậm chí có thể xảy ra những trường hợp không mấy khả quan cho lắm. Việc xác định đúng và rõ ràng đối tượng mục tiêu giúp bạn định hướng được cách tiếp thị tốt hơn, chính xác hơn và giúp bạn kết nối tốt hơn với khách hàng của mình. Sai đối tượng sẽ dẫn đến sai ngôn ngữ và từ đó quá trình giao tiếp, thấu hiểu sẽ bị ngăn cản và trở nên rất khó để tạo dựng các liên kết sau này. 2. Nắm bắt được cách thức tiếp cận đối tượng Khi đã biết được đối tượng mục tiêu của mình là gì thì bạn sẽ có thể thấu hiểu được khách hàng của mình một cách rõ ràng và chi tiết hơn. Bạn biết cách nào có thể tạo được ấn tượng cũng như có được sự quan tâm của họ và cách mà họ sẽ diễn giải cũng như suy nghĩ về các quảng cáo mà bạn đưa ra. Từ đó, bạn có thể xây dựng được một cách tiếp cận khách hàng phù hợp với tệp đối tượng mục tiêu của mình. Điều này bao gồm cả việc chiếm lĩnh được tâm lý, tinh thần của khách hàng luôn có sự hướng tới sản phẩm và thương hiệu của bạn. Việc biết rõ khách hàng muốn gì cũng như mình cần làm gì sẽ giúp cho quy trình tung sản phẩm mới ra thị trường được thực hiện một cách hiệu quả hơn. Như các cụ nhà ta vẫn hay nói rằng “biết người biết ta, trăm trận trăm thắng” đấy thôi. 3. Hiểu được vấn đề mà mình đang thực hiện, giải quyết là gì Sẽ thực sự là rất khó khăn nếu như bạn đang không biết mình làm gì và mình sẽ phải đối mặt với những điều gì. Sự mung lung này sẽ khiến bạn không có được một sự định hướng cụ thể trong công việc và từ đó sẽ dẫn đến hậu quả là bạn không làm được bất cứ điều gì cũng như tạo ra thành tựu gì sau cả một quá trình làm việc không đâu. Có được một sự hiểu biết chắc chắn về những thách thức và những công việc cụ thể mình cần phải thực hiện là điều rất quan trọng. Bởi điều này đồng nghĩa với việc bạn biết điều mình cần phải làm là gì để có thể thực hiện nó một cách hiệu quả nhất cũng như việc biết các thách thức có thể xảy ra để chuẩn bị một tâm lý và phương pháp dự bị để khắc phục điều đó. Nếu như chưa biết, hãy bình tĩnh, tự nhìn nhận và kiểm tra vấn đề của chính bạn, nói chuyện với đồng nghiệp hoặc các khách hàng của mình để hiểu rõ hơn về những điều hay những nhu cầu chưa được đáp ứng và điều gì cần phải được ưu tiên thực hiện trước. 4. Nắm bắt được rõ ràng quá trình mua hàng Có thể nói, quá trình mua hàng chính là bệ phóng nền tảng cho các hoạt động tiếp thị và bán hàng. Việc hiểu biết rõ và sâu sắc quá trình mua hàng sẽ giúp bạn có thể hiểu được nhiều hơn những thông tin mà bạn có về khách hàng. Bạn có thể biết được điểm yếu của họ là gì, điều họ mong muốn ở sản phẩm mà mình lựa chọn ra sao cũng như những nhân tố có ảnh hưởng tới việc mua hàng của người tiêu dùng. Từ sự nhận thức và hiểu biết một cách chi tiết như vậy bạn sẽ có thể tạo ra và triển khai các hoạt động, sự kiện thúc đẩy tích cực nhất tới hành động mua hàng. Mỗi một khách hàng khác nhau sẽ có những sự kỳ vọng khác nhau về sản phẩm cũng như cách mà họ sẽ có thể tham gia với bạn trong việc mua hàng. Điều này phần nào phụ thuộc vào địa điểm mà họ đang diễn ra quá trình mua hàng. 5. Thực hiện việc bảo mật danh tính trực tuyến Hiện nay, trong thời đại cạnh tranh khá gay gắt thì việc bảo mật thông tin sản phẩm mới trước khi được đưa ra thị trường là rất quan trọng. Có rất nhiều trường hợp các sản phẩm mới chuẩn bị được tung ra thị trường nhưng chưa kịp ra mắt đã bị nhiều kẻ tấn công mạng ăn cắp thông tin và bị công ty đối thủ cho ra mắt trước sản phẩm tương tự như của mình. Điều này sẽ gây ra hậu quả tổn thất và thiệt hại rất nặng nề cho công ty, doanh nghiệp. Vì vậy, việc đảm bảo chắc chắn mọi thông tin về sản phẩm mới được giữ kín bao gồm cả tên sản phẩm hay bất cứ điều gì trước khi được tung ra thị trường là rất quan trọng. Cho dù việc bảo mật này tốn khá nhiều chi phí thì đây cũng là điều cần phải được quan tâm và thực hiện một cách nghiêm túc để tránh xảy ra những trường hợp không mong muốn sau đó. 6. Tạo sự khác biệt cho mình trên thị trường cạnh tranh Việc dựa theo xu hướng để phát triển và kiếm được lợi ích cho mình từ đó là cách mà khá nhiều doanh nghiệp áp dụng. Thực tế thì việc cập nhật xu hướng và áp dụng xu hướng đó vào quá trình tung sản phẩm mới ra thị trường là cách khá hiệu quả và có thể tạo ra được những kết quả có giá trị ngay lập tức. Tuy nhiên, nếu như có quá nhiều sự “đu trend” được áp dụng cùng một lúc thì điều này sẽ trở nên bão hòa và đây không còn là cách để bạn có thể tạo ra một hiệu ứng thu hút mạnh mẽ cho sản phẩm mới của mình trên thị trường. Vì thế, thay vì việc hòa mình vào số đông thì hãy cố gắng tìm ra sự thiếu trong thị trường và tạo nên sự khác biệt cho mình để lấp đầy chỗ trống của sự thiếu vắng đó. Việc này sẽ giúp bạn tạo nên điểm nhấn riêng biệt của bạn trên thị trường đang bị bão hòa này cũng như giúp cho khách hàng có thể ghi nhớ sản phẩm và thương hiệu của bạn một cách nhanh hơn, lâu hơn và sâu sắc hơn. Điều này đặc biệt được ứng dụng với các thương hiệu lớn. Bởi ngoài việc quan tâm đến lợi nhuận thì họ còn có tham vọng trở thành người dẫn đầu trong việc tạo nên các xu hướng cũng như tác động đến sự đổi mới của thị trường sản phẩm mà họ đang hoạt động. 7. Xây dựng các bản demo sản phẩm hoặc sử dụng miễn phí để trải nghiệm Đây được coi là một bước khá quan trọng trong quy trình tung sản phẩm mới ra thị trường. Với bất kỳ sản phẩm hay dịch vụ nào trước khi được chính thức ra mắt thị tường thì việc tạo ra các bản dùng thử miễn phí hay demo sẽ giúp ích rất lớn cho việc cải thiện chất lượng sản phẩm, dịch vụ. Bởi thông qua hoạt động dùng thử này thì các công ty, doanh nghiệp có thể nhận lại được những ý kiến đóng góp, những sự phản hồi của khách hàng về sản phẩm một cách chi tiết nhất. Qua đó có thể tiến hành cải thiện chất lượng để khi sản phẩm được tung ra thị trường sẽ là một phiên bản đem đến trải nghiệm tốt nhất cũng như mang lại sự hài lòng cao nhất cho khách hàng của mình. Suy cho cùng, mỗi một sản phẩm mới khi được tung ra thị trường nhằm mục tiêu hướng đến khách hàng là chính. Vì vậy, thay vì ngồi suy ngẫm xem khách hàng muốn gì thì việc có thể trực tiếp nắm bắt được nhu cầu của họ một cách chính xác nhất sẽ là điều giúp cho chiến dịch của bạn có thể nắm chắc được sự thành công cao nhất. 8. Tạo ra một kế hoạch chiến lược cụ thể và toàn diện Trước khi thực hiện việc tung bất kỳ một sản phẩm, dịch vụ mới nào ra thị trường thì tốt nhất các công ty, doanh nghiệp hãy xây dựng và xác định cho mình một kế hoạch chiến lược cụ thể nhất. Điều này nhằm mục đích xác định được các bước cũng như hướng đi cho một quy trình tung sản phẩm mới ra thị trường một cách rõ ràng nhất có thể. Điều này có thể bao gồm khá nhiều công việc khác nhau như việc đánh giá thị trường, đánh giá sự cạnh tranh, phân tích SWOT hay lập kế hoạch truyền thông cho sản phẩm,... Khi những điều này được thực hiện và chuẩn bị một cách kỹ lưỡng thì việc tung sản phẩm mới ra thị trường của bạn sẽ được thực hiện một cách chuẩn hơn vì đã có những sự đánh giá trước đó. 9. Thực hiện việc thống nhất các hoạt động trên kênh Thống nhất toàn bộ hoạt động trên các kênh truyền thông của công ty là điều rất cần thiết. Bởi việc không có sự thống nhất giữa các hoạt động về sản phẩm của công ty được thể hiện trên các kênh mà khách hàng tiếp cận sẽ tạo nên một sự hoang mang cho khách hàng vì những thông tin mà họ nắm bắt được không có sự đồng nhất. Khách hàng sẽ không biết mình nên làm theo cách nào và đâu mới là sự lựa chọn đúng cần được thực hiện. Sự thống nhất các hoạt động sẽ giúp khách hàng có được những trải nghiệm tốt nhất về sản phẩm và dịch vụ của công ty. Điều này sẽ giúp cho công ty, doanh nghiệp có thể phát triển và thành công lâu dài hơn. 10. Xây dựng nguyên tắc tiếng nói cho thương hiệu Điều này cần được thực hiện với các thương hiệu mạnh và đã có uy tín trên thị trường. Thực tế, việc xây dựng nguyên tắc, cách thức giao tiếp của riêng mình với thị trường và với thế giới sẽ giúp bạn có thể tạo được điểm nhấn cũng như là chìa khóa khẳng định thương hiệu của bạn trên thị trường. Vì vậy, việc thiết lập một nguyên tắc tiếng nói chung sẽ giúp cho việc định hình được cách thức giao tiếp của nhân viên, doanh nghiệp tốt hơn khi thực hiện việc phát ngôn thông điệp thay cho thương hiệu. Trên đây là các bước trong quy trình tung sản phẩm mới ra thị trường. Hy vọng rằng thông qua bài viết này các bạn đã nắm bắt được quy trình tung sản phẩm mới ra thị trường một cách hiệu quả nhất để có thể áp dụng cho công việc của mình trong thực tế. Đăng ngày 20/11/2020, 9 lượt xem Tin tức khác Đối tác kinh doanh là gì? - Cách hiểu đúng để xây dựng thành công Bật mí bạn mẫu đơn xin việc gửi qua mail chuyên nghiệp nhất! Phần mềm dịch thuật - TOP 10 công cụ hỗ trợ dịch thuật tốt nhất Hé lộ bản mô tả công việc đầu bếp bánh chi tiết nhất CV trợ giảng - Tạo dấu ấn tốt đẹp ngay từ ấn tượng ban đầu Mô tả công việc kỹ sư M&E chi tiết và đầy đủ nhất Tất tần tật thông tin về doanh nhân - Tỷ phú Jack Ma đầy đủ nhất! Pain point là gì! Cách khai thác “điểm đau” khách hàng hiệu quả nhất! Trang thông tin việc làm hàng đầu Timviec24h - Tìm việc làm, tìm việc nhanh, tuyển dụng uy tín và hiệu quả! Email hỗ trợ: ntd.timviec24h.vn@gmail.com hoặc Hotline hỗ trợ: 0977 768 602 Tìm việc làm Tìm việc 24h Việc làm 24h Tìm việc nhanh Thông tin công ty viec lam hai phong Mẫu CV xin việc ×
1610704847953.98.parquet/45213
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 9857, "url": "https://timviec24h.vn/he-lo-cac-buoc-trong-quy-trinh-tung-san-pham-moi-ra-thi-truong-pr462.html" }
121.2
Semalt: Quét dữ liệu bằng Javascript Semalt: Quét dữ liệu bằng Javascript Giống như CSS và HTML, JavaScript giúp cạo dữ liệu trong vài phút và cung cấp thông tin hữu ích cho các lập trình viên và nhà phát triển một cách thường xuyên. Phần lớn các trang web và blog sử dụng JavaScript. Các công cụ JavaScript được nhúng trong các phần mềm và khung công tác web khác nhau và sở hữu rất nhiều tính năng. Các khung nổi tiếng nhất được thảo luận dưới đây. 1. Phòng thí nghiệm kimono: Bạn cần học cả C ++ và JavaScript để được hưởng lợi từ Phòng thí nghiệm Kimono. Nó là một ứng dụng web phế liệu nổi tiếng phù hợp cho các lập trình viên và nhà phát triển. Kimono được cung cấp bởi một số tính năng và lưu dữ liệu của chúng tôi mà không làm hỏng nó. Sau khi được cài đặt và kích hoạt, Kimono Labs có thể cạo dữ liệu của bạn trong vài phút và cung cấp kết quả chính xác. Nó sẽ tải thông tin ở định dạng CSV và JSON và sử dụng API để tạo và lưu trữ các trang web chất lượng. Kimono hoạt động khá nhanh và có thể cạo dữ liệu từ các trang web mua sắm và nguồn cấp dữ liệu RSS một cách thuận tiện. 2. Khung JSON: Với Khung JSON, bạn có thể trích xuất dữ liệu từ các tệp JSON và CSV. Nó cũng loại bỏ thông tin từ các tài liệu HTML và các tệp PDF một cách thuận tiện. Ngoài ra, bạn có thể sử dụng khung JavaScript này để điều hướng qua các trang web khác nhau. Nó thực hiện nhiệm vụ của mình ở tốc độ nhanh và với độ chính xác cao, tiết kiệm thời gian và năng lượng của bạn đến một mức độ. 3. Màn hình cạp: Với Trình quét màn hình, bạn có thể xử lý các tác vụ khó khăn khác nhau, bao gồm trích xuất dữ liệu chính xác, chỉ trong ba phút. Đây là một trong những khung JavaScript tốt nhất và toàn diện nhất cho đến nay. Trình quét màn hình chỉ có thể được sử dụng khi bạn có kỹ năng lập trình tuyệt vời và có đủ kiến thức về JavaScript, Python và C ++. Ngoài ra, bạn nên có kiến thức cơ bản về XML và HTML để được hưởng lợi từ khung này. Nó loại bỏ thông tin từ các tài liệu HTML và bạn có thể kiểm tra dịch vụ này với Citrix hoặc một nền tảng tương tự khác. Sau khi tải xuống và cài đặt, Screen Scraper sẽ xử lý cùng một số tác vụ. Nó phù hợp cho cả doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bạn chỉ cần có các kỹ năng mã hóa cơ bản để sử dụng khung này theo cách tốt hơn. 4. Mật hoa: Khung JavaScript này chuyên phát triển các phần mềm tự động hóa khác nhau và phù hợp cho các doanh nghiệp và quản trị web. Uipath cũng được sử dụng bởi những người không phải là lập trình viên và không yêu cầu bạn phải học bất kỳ ngôn ngữ lập trình nào ngoài JavaScript. Một số tính năng đặc biệt của nó là điều hướng trang, quét các tệp PDF và đào qua flash. Bạn chỉ cần mở trình hướng dẫn và tô sáng thông tin bạn muốn cạo. Uipath sẽ trích xuất dữ liệu dựa trên yêu cầu và mong đợi của bạn. Chúng tôi có thể thêm bao nhiêu trang web vào khung cào này theo ý muốn. 5. Nhập khẩu: Nó là một ứng dụng máy tính để bàn miễn phí giúp cạo thông tin từ các trang web mong muốn. Import.io là một khung JavaScript toàn diện, phù hợp cho các doanh nghiệp, lập trình viên và không lập trình viên. Nó không chỉ là một dữ liệu cào mà còn là một trình thu thập thông tin có thể quét tới hai nghìn trang web trong ba phút.
1610704847953.98.parquet/128914
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 2543, "url": "http://vi.mobizware.com/" }
120.4
Chính sách quyền riêng tư của Vidmore Các sản phẩm Phần mềm máy tính để bàn Chuyển đổi video Thử Thử Mua Mua Trình ghi màn hình Thử Thử Mua Mua DVD Monster Thử Thử MuaMua Trình tạo DVD Thử Mua Vidmore Player Thử Thử Mua Mua Trình nâng cao video Thử Thử Mua Mua Quái vật Blu-ray Thử Giải pháp trực tuyến Chuyển đổi video trực tuyến miễn phí Trình ghi màn hình trực tuyến miễn phí Chuyển đổi âm thanh trực tuyến miễn phí Máy ghi âm trực tuyến miễn phí Máy nén video trực tuyến miễn phí Trình ghép video miễn phí trực tuyến Máy nén hình ảnh trực tuyến miễn phí Công cụ chuyển đổi HEIC trực tuyến miễn phí Nguồn Ủng hộ Chính sách bảo mật Cập nhật lần cuối: ngày 19 tháng 3 năm 2019 Vidmore cam kết bảo vệ sự riêng tư của bạn mọi lúc. Mục đích của Chính sách Bảo mật này là để thông báo cho bạn về những thông tin chúng tôi thu thập, sử dụng và chia sẻ khi bạn truy cập các trang web của chúng tôi và / hoặc sử dụng các sản phẩm và dịch vụ của chúng tôi. Chính sách bảo mật này áp dụng cho tất cả các trang web, sản phẩm, dịch vụ của Vidmore hiển thị hoặc liên kết đến chính sách bảo mật này. Vidmore sẽ chỉ thu thập thông tin cá nhân của bạn khi có sự đồng ý của bạn và cho các mục đích pháp lý. Chúng tôi không phân phối hoặc chia sẻ thông tin cá nhân của bạn vượt quá những gì cần thiết để thực hiện nghĩa vụ của chúng tôi đối với bạn. Chúng tôi sẽ không bán thông tin cá nhân của bạn dưới bất kỳ hình thức nào. Vui lòng đọc Chính sách Bảo mật này để bạn biết và hiểu thông tin chúng tôi thu thập và cách chúng tôi sử dụng, bảo vệ và chia sẻ thông tin. Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào về Chính sách này, vui lòng liên hệ với chúng tôi: support@vidmore.com Chúng tôi thu thập thông tin gì và chúng tôi thu thập như thế nào Khi bạn truy cập trang web của chúng tôi, sử dụng sản phẩm của chúng tôi hoặc liên hệ với chúng tôi qua email hoặc cách khác, chúng tôi có thể thu thập hoặc yêu cầu bạn cung cấp thông tin sau để giúp chúng tôi quản lý mối quan hệ của chúng tôi với bạn. Sử dụng Cookie "Cookie" là các tệp văn bản nhỏ được đặt trên máy tính hoặc thiết bị của bạn khi bạn truy cập trang web của chúng tôi. Chúng được sử dụng rộng rãi để làm cho các trang web hoạt động hoặc hoạt động hiệu quả hơn. Dữ liệu chúng tôi thu được từ cookie có thể được Google Analytics xử lý và có thể được sử dụng để xác định vị trí địa lý của bạn để chúng tôi có thể cung cấp nội dung bằng ngôn ngữ địa phương của bạn. Bằng cách sử dụng trang web của chúng tôi, bạn đồng ý với việc sử dụng cookie như được mô tả trong chính sách bảo mật này. Nhưng bạn có thể chấp nhận hoặc từ chối cookie. Hầu hết các trình duyệt web đều tự động chấp nhận cookie, bạn thường có thể sửa đổi cài đặt trình duyệt của mình để từ chối cookie nếu bạn muốn. Dưới đây là một số hướng dẫn về cách xóa hoặc tắt cookie trên trình duyệt của bạn: Người dùng Safari: cách xóa và tắt trên Safari Người dùng Chrome: cách xóa và tắt trên Google Chrome Người dùng IE: cách xóa và tắt trên Internet Explorer Người dùng Firefox: cách xóa và tắt trên Firefox Người dùng Opera: cách xóa và tắt trên Opera Người dùng Edge: cách xóa và tắt trên Microsoft Edge Google Analytics là một dịch vụ phân tích trang web do Google cung cấp. Vidmore sử dụng cookie của Google Analytics để giúp chúng tôi hiểu được việc khách truy cập sử dụng trang web của chúng tôi, biên soạn báo cáo về hoạt động của trang web và cung cấp các dịch vụ khác liên quan đến hoạt động của trang web và việc sử dụng internet. Bằng cách sử dụng trang web này, bạn đồng ý với việc Google xử lý dữ liệu về bạn. Chính sách bảo mật của Google có sẵn tại https://policies.google.com/privacy Sử dụng mạng xã hội Nếu bạn chọn 'chia sẻ' các sản phẩm Vidmore với bạn bè thông qua Facebook, Twitter hoặc các mạng xã hội khác, bạn có thể nhận được cookie từ các trang web này. Chúng tôi không kiểm soát việc cài đặt các cookie này, vì vậy vui lòng kiểm tra các trang web đó để biết thêm thông tin về cookie và cách quản lý chúng. Đặt hàng Khi bạn mua các sản phẩm hoặc dịch vụ "trả phí" từ Vidmore, việc thanh toán sẽ do nhà cung cấp dịch vụ bên thứ ba, người đại diện cho chúng tôi xử lý; do đó, bạn sẽ mua hàng trực tiếp từ nhà cung cấp dịch vụ chứ không phải từ Vidmore. Việc xử lý thông tin cá nhân của bạn sẽ được điều chỉnh bởi bất kỳ chính sách bảo mật hoặc điều khoản dịch vụ nào do nhà cung cấp dịch vụ công bố. Nhà cung cấp dịch vụ có thể yêu cầu thông tin thanh toán như tên, địa chỉ email, địa chỉ nhà riêng hoặc cơ quan, số điện thoại hoặc số điện thoại di động, thông tin thanh toán bao gồm số thẻ tín dụng, ngày hết hạn, mã bảo mật, tên ngân hàng phát hành của bạn, v.v. Mục đích của thông tin này là để thực hiện các đơn đặt hàng, xử lý thanh toán, cung cấp sản phẩm, cung cấp dịch vụ khách hàng và những thứ tương tự. Nhà cung cấp dịch vụ bên thứ ba có thể chuyển một số thông tin cá nhân của bạn cho chúng tôi, nhưng không bao gồm thông tin thanh toán. Chúng tôi có thể sử dụng thông tin chúng tôi nhận được để xác minh đăng ký của bạn, để liên hệ với bạn về trạng thái đơn đặt hàng của bạn, để gia hạn đăng ký của bạn hoặc cho các ưu đãi khác mà bạn có thể quan tâm, nếu có. Chúng tôi có thỏa thuận với tất cả các nhà cung cấp dịch vụ bên thứ ba rằng họ sẽ không sử dụng thông tin cá nhân của người dùng cho mục đích tiếp thị của riêng họ và sẽ không chia sẻ thông tin này với các bên khác. Đăng ký nhận tin Trang web của chúng tôi cung cấp tin tức và thông tin bằng các bản tin. Nếu bạn quyết định đăng ký nhận bản tin của chúng tôi, bạn sẽ được yêu cầu cung cấp địa chỉ email. Thông tin bạn cung cấp sẽ được sử dụng để cung cấp tin tức và cập nhật mới nhất của chúng tôi, và tất nhiên, các ưu đãi đặc biệt chỉ dành cho người đăng ký của chúng tôi. Bạn có thể tự do hủy đăng ký của mình bất kỳ lúc nào bằng cách nhấp vào liên kết "hủy đăng ký" bên trong bất kỳ e-mail nào bạn nhận được từ chúng tôi. Liên hệ với chúng tôi và dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật Chúng tôi có thể thu thập hoặc yêu cầu bạn cung cấp thông tin cần thiết khi bạn liên hệ với chúng tôi qua email, bằng cách đăng ký Chương trình liên kết của chúng tôi hoặc bằng cách yêu cầu hỗ trợ trực tuyến. Thông tin này có thể bao gồm nhưng không giới hạn tên của bạn, địa chỉ email, trang web của bạn, những tính năng nào bạn sử dụng trong phần mềm của chúng tôi, cách bạn sử dụng phần mềm của chúng tôi, máy tính hoặc thông tin thiết bị của bạn như phiên bản phần cứng và hệ thống, dịch vụ hệ thống, quy trình, khởi động các mục, mục đăng ký, tệp kết xuất, nhật ký sự cố, v.v. Nói chung, chúng tôi không thu thập nhiều thông tin hơn mức cần thiết để điều tra vấn đề bạn gặp phải. Thông tin này được thu thập để giúp chúng tôi cung cấp dịch vụ và hỗ trợ, xác định và loại bỏ vi-rút máy tính hoặc thiết bị, đồng thời giúp chúng tôi giải quyết các vấn đề công nghệ mà bạn đang gặp phải. Bằng cách gửi thông tin liên quan cho chúng tôi, bạn đồng ý chia sẻ chúng với Vidmore. Nếu bạn không muốn chia sẻ thông tin với Vidmore, bạn có thể đóng cửa sổ liên quan. Chúng tôi sẽ chỉ sử dụng bất kỳ thông tin nào như vậy khi cung cấp hỗ trợ hoặc hỗ trợ cá nhân, và sẽ không lưu giữ thông tin đó lâu hơn mức cần thiết cho mục đích này. Chúng tôi cam kết rằng chúng tôi sẽ không bao giờ xuất bản hoặc chia sẻ bất kỳ thông tin nhận dạng cá nhân nào của bạn ra bên ngoài Vidmore, cũng như không cho phép bất kỳ ai khác sử dụng thông tin đó để liên hệ với bạn cho các mục đích tiếp thị mà không có sự đồng ý của bạn. Thông tin phi cá nhân Chúng tôi có thể thu thập một số thông tin phi cá nhân nhằm mục đích xác thực đăng ký của bạn và để biết cách bạn sử dụng phần mềm hoặc dịch vụ của chúng tôi. Thông tin có thể bao gồm hệ điều hành, ID thiết bị, địa chỉ giao thức Internet, loại trình duyệt, ngôn ngữ trình duyệt, các trang giới thiệu / thoát, dữ liệu dòng nhấp chuột của các trang web và sản phẩm hoặc dịch vụ của chúng tôi và các trang hoặc tính năng của phần mềm hoặc dịch vụ của chúng tôi mà bạn đã truy cập và thời gian ở đó. Cách chúng tôi sử dụng thông tin chúng tôi thu thập Vidmore thu thập và sử dụng thông tin cá nhân của bạn để vận hành và cải thiện các trang web và sản phẩm của mình và cung cấp các dịch vụ hoặc thực hiện các giao dịch mà bạn yêu cầu. Những mục đích sử dụng này có thể bao gồm việc cung cấp cho bạn dịch vụ khách hàng hiệu quả hơn; làm cho các trang web hoặc dịch vụ dễ sử dụng hơn bằng cách loại bỏ nhu cầu bạn phải nhập nhiều lần cùng một thông tin; thực hiện nghiên cứu và phân tích nhằm cải thiện các sản phẩm, dịch vụ và công nghệ của chúng tôi; và hiển thị nội dung và quảng cáo được tùy chỉnh theo sở thích và sở thích của bạn. Chúng tôi cũng sử dụng thông tin cá nhân của bạn để liên lạc với bạn. Chúng tôi có thể gửi một số thông tin liên lạc dịch vụ bắt buộc như thư chào mừng, lời nhắc thanh toán, thông tin về các vấn đề dịch vụ kỹ thuật và thông báo bảo mật. Một số dịch vụ của Vidmore, chẳng hạn như Bản tin, có thể gửi thư định kỳ cho thành viên được coi là một phần của dịch vụ. Đôi khi chúng tôi cũng có thể gửi cho bạn thư quảng cáo để thông báo cho bạn về các sản phẩm hoặc dịch vụ khác có sẵn từ Vidmore. Thông tin cá nhân được thu thập trên các trang web và dịch vụ của Vidmore có thể được lưu trữ và xử lý tại Hoa Kỳ hoặc bất kỳ quốc gia nào khác mà Vidmore, các công ty con hoặc đại lý duy trì cơ sở vật chất và bằng cách sử dụng trang web hoặc dịch vụ của Vidmore, bạn đồng ý với bất kỳ việc chuyển giao thông tin nào như vậy ra bên ngoài Quốc gia của bạn. Cách chúng tôi bảo vệ thông tin chúng tôi thu thập Vidmore cam kết bảo vệ an toàn thông tin cá nhân của bạn. Chúng tôi đã triển khai nhiều công nghệ và quy trình bảo mật khác nhau để giúp bảo vệ thông tin cá nhân của bạn khỏi bị truy cập, sử dụng hoặc tiết lộ trái phép. Các biện pháp này bao gồm: Lưu trữ thông tin của bạn Chúng tôi lưu trữ thông tin cá nhân mà bạn cung cấp trên hệ thống máy tính hoặc thiết bị có quyền truy cập hạn chế, được đặt trong các cơ sở được kiểm soát. Các biện pháp bảo vệ công nghệ Khi chúng tôi truyền thông tin có tính bảo mật cao (chẳng hạn như số thẻ tín dụng hoặc mật khẩu) qua Internet, chúng tôi bảo vệ thông tin đó thông qua việc sử dụng mã hóa, chẳng hạn như giao thức Lớp cổng bảo mật (SSL). Không ai có thể đảm bảo và chúng tôi không đảm bảo rằng thông tin cá nhân của bạn luôn được bảo mật hoàn toàn. Bạn cũng có trách nhiệm duy trì tính bảo mật của thông tin cá nhân của bạn để bảo vệ nó khỏi bị truy cập hoặc sử dụng trái phép. Nếu mật khẩu được sử dụng để giúp bảo vệ tài khoản và thông tin cá nhân của bạn, bạn có trách nhiệm giữ bí mật mật khẩu của mình. Không chia sẻ thông tin này với bất kỳ ai. Nếu bạn đang chia sẻ máy tính hoặc thiết bị với bất kỳ ai, bạn nên chọn đăng xuất trước khi rời khỏi trang web hoặc dịch vụ để bảo vệ quyền truy cập vào thông tin của bạn khỏi những người dùng tiếp theo. Kiểm soát "Spam" hoặc E-mail không được yêu cầu Vidmore lo ngại về việc kiểm soát email thương mại không được yêu cầu, hoặc "thư rác". Vidmore có Chính sách chống thư rác nghiêm ngặt, nghiêm cấm việc sử dụng tài khoản khách hàng để gửi thư rác. Vidmore sẽ không bán, cho thuê hoặc cho thuê danh sách người đăng ký email của mình cho các bên thứ ba. Trong khi Vidmore tiếp tục tích cực xem xét và triển khai công nghệ mới, chẳng hạn như các tính năng lọc mở rộng, không có công nghệ hiện có nào có thể ngăn chặn hoàn toàn việc gửi và nhận email không mong muốn. Sử dụng các công cụ như Trình bảo vệ hộp thư đến và thận trọng với việc chia sẻ địa chỉ email của bạn khi trực tuyến sẽ giúp giảm lượng email không mong muốn mà bạn nhận được. Cách chúng tôi chia sẻ thông tin của bạn Vidmore không chia sẻ hoặc tiết lộ thông tin cá nhân của bạn cho bất kỳ bên thứ ba nào với hai trường hợp ngoại lệ như sau: Nhà cung cấp dịch vụ bên thứ ba Chúng tôi có thể thuê các công ty khác để thay mặt chúng tôi cung cấp các dịch vụ hạn chế, chẳng hạn như xử lý việc xử lý và gửi thư, cung cấp hỗ trợ khách hàng, lưu trữ trang web, xử lý giao dịch hoặc thực hiện phân tích thống kê các dịch vụ của chúng tôi. Các công ty đó sẽ chỉ được phép lấy thông tin cá nhân mà họ cần để cung cấp dịch vụ. Họ được yêu cầu duy trì tính bảo mật của thông tin và bị cấm sử dụng cho bất kỳ mục đích nào khác. Chính phủ và Thi hành Luật Chúng tôi có thể truy cập và / hoặc tiết lộ thông tin cá nhân của bạn nếu chúng tôi tin rằng hành động đó là cần thiết để: (a) tuân thủ luật pháp hoặc quy trình pháp lý được cung cấp trên Vidmore; (b) bảo vệ và bảo vệ các quyền hoặc tài sản của Vidmore (bao gồm cả việc thực thi các thỏa thuận của chúng tôi); hoặc (c) hành động trong những trường hợp khẩn cấp để bảo vệ quyền an toàn cá nhân của người sử dụng dịch vụ Vidmore hoặc các thành viên của công chúng. Cách thay đổi hoặc xóa thông tin cá nhân của bạn Nếu bạn muốn chúng tôi chỉnh sửa, sửa đổi hoặc xóa thông tin cá nhân, đăng ký nhận bản tin hoặc phiếu hỗ trợ của bạn, vui lòng liên hệ với chúng tôi theo yêu cầu của bạn. Chúng tôi sẽ trả lời yêu cầu của bạn trong một khung thời gian hợp lý. Tuy nhiên, một số thông tin có thể vẫn còn trong các bản sao lưu / sao lưu để tuân thủ các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi, giải quyết tranh chấp và thực thi các thỏa thuận của chúng tôi. Đối với thông tin được xử lý bởi các đối tác bên thứ ba, bạn có quyền truy cập thông tin cá nhân của mình. Nếu bạn muốn truy cập, chỉnh sửa, sửa đổi hoặc xóa dữ liệu không chính xác trên nền tảng đối tác bên thứ ba của chúng tôi, bạn nên liên hệ trực tiếp với họ vì họ là người kiểm soát dữ liệu và Vidmore không có quyền kiểm soát những thông tin đó. Các thay đổi đối với Chính sách Bảo mật này Đôi khi chúng tôi sẽ cập nhật Chính sách Bảo mật này để phản ánh những thay đổi trong dịch vụ của chúng tôi và phản hồi của khách hàng. Khi chúng tôi đăng các thay đổi đối với Chính sách Bảo mật này, chúng tôi sẽ sửa đổi ngày "Cập nhật Lần cuối" ở đầu tuyên bố này. Chúng tôi khuyến khích bạn định kỳ xem lại Chính sách Bảo mật này để được thông báo về cách Vidmore đang bảo vệ thông tin của bạn. Thông tin liên lạc Vidmore thường xuyên đánh giá việc tuân thủ Chính sách Bảo mật này. Vui lòng gửi bất kỳ câu hỏi hoặc thắc mắc nào liên quan đến Chính sách Bảo mật này bằng cách liên hệ với support@vidmore.com. Vidmore sử dụng cookie để đảm bảo bạn có được trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Tìm hiểu thêm Hiểu rồi Cửa hàng chính thức Chọn ngôn ngữ Những ngôn ngữ khác Chọn ngôn ngữ của bạn Tiếng Anh Deutsch Français Italiano Español Português Dansk Suomi Norsk Nederlands Polski Svenska Ελληνικά Čeština Иврит Hrvatski Magyar Română Pусский Türkçe عربى हिंदी Tiếng việt ไทย Tiếng Mã lai Tiếng bahasa indonesia 한국어 日本語 中文 (简体) 中文 (繁體) Công ty Về chúng tôi Liên hệ chúng tôi Phòng báo chí Sơ đồ trang web Các sản phẩm Chuyển đổi video Trình ghi màn hình DVD Monster Vidmore Player Trình tạo DVD Giải pháp trực tuyến Trình ghi màn hình trực tuyến miễn phí Chuyển đổi video trực tuyến miễn phí Chuyển đổi âm thanh trực tuyến miễn phí Máy nén hình ảnh trực tuyến miễn phí Công cụ chuyển đổi HEIC trực tuyến miễn phí Ủng hộ Trung tâm hỗ trợ Trung tâm câu hỏi thường gặp Nguồn Bản quyền © 2021 Vidmore. Đã đăng ký Bản quyền.Điều khoản và điều kiện Chính sách bảo mật Thỏa thuận cấp phép
1610704847953.98.parquet/116307
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 12836, "url": "https://www.vidmore.com/vi/company/privacy-policy/" }
119.5
In bài viết Đưa quân đến Ả Rập Saudi, Mỹ bỏ phương án không kích Iran? Đưa quân đến Ả Rập Saudi, Mỹ bỏ phương án không kích Iran? Lầu Năm Góc cho biết việc lực lượng được triển khai có quân số vừa phải, không lên đến hàng ngàn người và chủ yếu mang tính phòng thủ. Tướng Joseph Dunford, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ, cho biết quyết định về kế hoạch triển khai chi tiết sẽ được đưa ra vào cuối tuần này và thông báo chính thức sẽ có vào tuần tới. Mỹ cũng có kế hoạch chi tiết nhằm đẩy nhanh quá trình cung cấp thiết bị quân sự cho cả Ả Rập Saudi và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE). Trước đó, hãng tin Reuters đưa tin Lầu Năm Góc đang xem xét việc gửi hệ thống phòng thủ tên lửa, máy bay không người lái và máy bay chiến đấu. Mỹ cũng cân nhắc duy trì tàu sân bay trong khu vực vô thời hạn. Hệ thống phòng thủ tên lửa MIM-104 Patriot PAC-3 của Mỹ. Ảnh: RT "Đáp lại yêu cầu của Ả Rập Saudi, Tổng thống Donald Trump đã phê duyệt triển khai lực lượng Mỹ nhằm mục đích phòng vệ, chủ yếu tập trung vào lĩnh vực phòng không và phòng thủ tên lửa. Chúng tôi cũng sẽ hợp tác để đẩy nhanh việc cung cấp thiết bị quân sự cho Ả Rập Saudi và UAE để tăng cường khả năng tự vệ" - Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mark Esper nói tại một buổi họp báo. Động thái nói trên dường như cho thấy Mỹ ít có khả năng ra quyết định không kích trả đũa Iran sau vụ tấn công cơ sở dầu mỏ Ả Rập Saudi cuối tuần rồi. Vụ việc gây náo loạn thị trường toàn cầu và làm lộ ra những lỗ hổng lớn trong hệ thống phòng không của Ả Rập Saudi. Bộ trưởng Quốc phòng Esper nhấn mạnh Mỹ không tìm cách gây chiến với Iran nhưng cũng có sẵn các phương án khác. Theo ông, một hệ thống phòng thủ nhiều lớp có thể bảo vệ Ả Rập Saudi tốt hơn trong trường hợp bị các máy bay không người lái và tên lửa bao vây. Tuy nhiên, bộ trưởng này cảnh báo không có hệ thống nào có thể ngăn chặn toàn bộ các cuộc tấn công tương tự. Động thái mới nhất của Mỹ nhằm đáp trả vụ tấn công vào hai cơ sở lọc dầu của Tập đoàn Aramco tại Ả Rập Saudi hôm 14-9. Washington và Riyadh cho rằng Tehran là thủ phạm đứng sau vụ việc dù cho Iran đã phủ nhận và lực lượng vũ trang Houthi tại Yemen lên tiếng nhận trách nhiệm. Bộ trưởng Ngoại giao Iran Javad Zarif hôm 19-9 nói với đài CNN rằng một cuộc tấn công vào Iran đồng nghĩa với một cuộc chiến tranh toàn diện. Xuân Mai (Theo Reuters, Sputnik)
1610704847953.98.parquet/121671
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 1974, "url": "https://nld.com.vn/Print.aspx?NewsID=20190921091723535" }
118.6
VPS - Công ty Cổ phần Chứng khoán VPS - Bảo mật và An ninh Trang chủ Giới thiệu Tin tức Công bố thông tin Tuyển dụng Liên hệ Hotline: 1900 6457 Cổ phiếu| Tin tức Đăng nhập Khách hàng Cá nhân Khách hàng Tổ chức Tiếng Việt | English Dịch vụ Khách hàng Cá nhân Dịch vụ Khách hàng Tổ chức Dịch vụ Ngân hàng Đầu tư Dịch vụ Khách hàng Cá nhân Cao cấp Thông tin Thị trường Ưu đãi đặc quyền Mở tài khoản Bảo mật và An ninh Khi cung cấp dịch vụ cho người sử dụng dù khách hàng cá nhân hay đại diện của khách hàng tổ chức, VPBS có thể phải thu thập thông tin cá nhân của người sử dụng. Để duy trì sự tin tưởng của người sử dụng, VPBS cam kết bảo quản những thông tin cá nhân trên một cách thích hợp bằng việc tuân thủ chính sách bảo mật dưới đây. Chính sách này quy định cách thức và các loại thông tin cá nhân mà VPBS thu thập được về người sử dụng trang thông tin điện tử của VPBS, các trường hợp mà VPBS chia sẻ, tiết lộ thông tin và các biện pháp được thực hiện để đảm bảo bí mật thông tin. Trong Chính sách này, cụm từ “VPBS” được hiểu là “Công ty Chứng khoán Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng” cùng các chi nhánh, phòng giao dịch, văn phòng đại diện và các công ty con, công ty liên kết của Công ty. 1. Bảo mật thông tin của người sử dụng trên trang thông tin điện tử của VPBS Khi truy cập vào trang thông tin điện tử của VPBS, người sử dụng phải chấp nhận các điều khoản của Chính sách bảo mật này. Chính sách này có thể được VPBS điều chính tùy từng thời điểm mà không cần thông báo trước với người sử dụng. Bất kì sự thay đổi hay cập nhật sẽ có hiệu lực ngay lập tức kể từ khi được đăng lên trang thông tin điện tử. Người sử dụng đồng ý truy cập thường xuyên vào trang thông tin điện tử này đồng nghĩa với việc người sử dụng đồng ý với các thay đổi đó. Chính sách này không được áp dụng khi VPBS tiếp cận thông tin dưới hình thức khác, chẳng hạn khi người sử dụng giao dịch với nhân viên tại chi nhánh hoặc liên lạc qua điện thoại. Trong trường hợp này, các chính sách bảo mật khác sẽ được áp dụng. Chính sách này cũng không áp dụng đối với các thông tin mà người sử dụng cung cấp cho các trang web của bên thứ ba nơi hiển thị quảng cáo trực tuyến của VPBS hoặc truy cập vào các trang thông tin điện tử của bên thứ ba mà VPBS không vận hành hoặc kiểm soát. Xin vui lòng đọc chính sách bảo mật và các điều khoản điều kiện của các trang thông tin điện tử của bên thứ ba và cân nhắc xem họ có bảo vệ thỏa đáng quyền lợi của người sử dụng hay không. 2. Thông tin mà VPBS thu thập VPBS thu thập hai loại thông tin trực tuyến: phi cá nhân và cá nhân. 1. Thông tin phi cá nhân Khi người sử dụng truy cập trang thông tin điện tử của VPBS, VPBS tự động ghi lại thông tin chi tiết về việc truy cập (địa chỉ IP của người sử dụng, các loại phần mềm trình duyệt được sử dụng, ngày và thời gian của các lần truy cập). VPBS cũng thu thập thông tin liên quan đến máy tính hoặc thiết bị di động ("Thiết bị") được sử dụng để truy cập vào trang thông tin điện tử này, chẳng hạn như hệ điều hành, tên model cũng như cấu hình và thông số cài đặt. 2. Thông tin cá nhân VPBS thu thập thông tin cá nhân khi người sử dụng tự nguyện điền thông tin vào các biểu mẫu trên trang thông tin điện tử: a. Đơn đăng ký mở tài khoản hoặc các biểu mẫu khác để yêu cầu hoặc đăng ký sử dụng sản phẩm dịch vụ cụ thể của VPBS. b. Đơn tuyển dụng c. Liên lạc thông qua email Thông tin trên có thể bao gồm: Họ và tên, địa chỉ và các chi tiết liên lạc khác; tuổi, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân; thông tin tài chính mở rộng, bao gồm kinh nghiệm đầu tư và mục tiêu đầu tư, mức độ chấp nhận rủi ro; số hộ chiếu, chứng minh nhân dân hoặc giấy phép lái xe, mã số thuế, v.v 3. Cách VPBS sử dụng thông tin VPBS có thể sử dụng thông tin cá nhân của người sử dụng để: · Quản trị, vận hành, hỗ trợ và quản lý mối quan hệ, giao dịch và/hoặc tài khoản của người sử dụng với VPBS. Điều này có thể bao gồm việc chia sẻ thông tin trong nội bộ cũng như tiết lộ thông tin đó cho các bên thứ ba như quy định tại Mục 5 dưới đây. · Liên lạc với người sử dụng, nếu có thể, hoặc người được ủy quyền của người sử dụng bằng đường bưu điện, điện thoại, thư điện tử, fax...liên quan đến mối quan hệ, giao dịch và/hoặc tài khoản của người sử dụng. · Cung cấp cho người sử dụng những thông tin (như nghiên cứu đầu tư), đề xuất hoặc ý kiến tư vấn về sản phẩm và dịch vụ mà VPBS cung cấp; · Hỗ trợ cho các hoạt động kinh doanh của VPBS, bao gồm việc đánh giá và quản lý rủi ro và tuân thủ quy định của công ty và của pháp luật. Nếu giao dịch của người sử dụng với VPBS chấm dứt, VPBS sẽ vẫn tiếp tục xử lý các thông tin cá nhân của người sử dụng, trong phạm vi VPBS có thể, như được miêu tả trong Chính sách này. 4. Cách VPBS bảo vệ thông tin cá nhân của người sử dụng · VPBS sử dụng biện pháp bảo mật, phù hợp với luật pháp hiện hành, để bảo vệ thông tin cá nhân đối với việc truy cập hoặc sử dụng trái phép. Tuy nhiên, bản chất mở của hệ thống thông tin toàn cầu là thông tin cá nhân có thể bị lan truyền vượt ngoài tầm kiểm soát của các biện pháp an ninh mà VPBS sử dụng; và thông tin có thể bị truy cập và sử dụng bởi những người khác mà không phải là người cần thiết được nhận thông tin đó. · Để bảo vệ chống lại sự truy cập trái phép thông tin cá nhân của bên thứ ba, tất cả các thông tin cá nhân điện tử sẽ được VPBS lưu giữ trên hệ thống được bảo vệ bởi kiến trúc mạng an toàn có chứa các bức tường lửa và thiết bị phát hiện xâm nhập. Các máy chủ lưu giữ thông tin cá nhân được "sao lưu" (ghi lại) một cách thường xuyên bằng mọi nỗ lực để tránh việc vô ý tẩy xóa hoặc phá hủy thông tin cá nhân, và được lưu trữ trong hệ thống an ninh và hệ thống phản ứng thích hợp. · Khi người sử dụng liên hệ VPBS để hỏi về trang thông tin điện tử hoặc dịch vụ, VPBS có thể xác nhận danh tính của người sử dụng trên điện thoại trước khi trao đổi thông tin. Các câu hỏi và câu trả lời mà người sử dụng chọn khi đăng nhập vào trang thông tin điện tử này lần đầu tiên sẽ được sử dụng cho quá trình nhận dạng này. 5. Các trường hợp VPBS được phép tiết lộ thông tin 0. VPBS có thể tiết lộ, chia sẻ thông tin cá nhân của khách hàng cho các chi nhánh, phòng giao dịch, văn phòng đại diện và các công ty con, công ty liên kết của Công ty VPBS theo quy định pháp luật để thực hiện việc cung cấp các dịch vụ. 1. VPBS cũng có thể chia sẻ thông tin cá nhân với các cơ quan chính phủ và cơ quan thực thi pháp luật khi được yêu cầu hoặc theo quy định của pháp luật, quy tắc, quy định hay quy trình pháp lý, bao gồm nhưng không giới hạn, báo cáo cho các cơ quan chính phủ hoặc thực thi bất kỳ nghĩa vụ nào mà VPBS có thể có khi cần thiết, chẳng hạn như cung cấp thông tin theo yêu cầu của tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền hoặc với các tổ chức khác như Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, các Sở Giao dịch Chứng khoán và Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam. 2. VPBS có thể tiết lộ thông tin cá nhân của người sử dụng (i) cho kiểm toán viên nội bộ hoặc kiểm toán viên bên ngoài hoặc luật sư của VPBS; (ii) khi VPBS cho rằng việc tiết lộ thông tin là cần thiết hoặc thích hợp để ngăn chặn thiệt hại về thể chất hoặc tổn thất tài chính đi kèm một cuộc điều tra về các giao dịch bất hợp pháp hoặc nghi ngờ là bất hợp pháp. 3. VPBS có thể tiết lộ hoặc chia sẻ thông tin cá nhân về khách hàng của mình cho bên thứ ba độc lập mà VPBS đã ký hợp đồng để cung cấp dịch vụ thay mặt của công ty, VPBS sẽ yêu cầu bên thứ ba đồng ý tuân thủ các tiêu chuẩn bảo mật và an ninh thích hợp hoặc cam kết cung cấp mức độ bảo mật tương tự và hợp lý như VPBS khi xử lý thông tin cá nhân. Ngoài ra, VPBS có thể chia sẻ cho một pháp nhân kế nhiệm trong trường hợp sáp nhập, mua lại hoặc giao dịch tương tự thông tin cá nhân và thông tin khác thu thập thông qua trang thông tin điện tử và thông qua việc cung cấp dịch vụ. 6. Quyền lợi của người sử dụng Khi cung cấp thông tin cá nhân cho VPBS, người sử dụng có quyền truy cập vào bất kỳ dữ liệu cá nhân của họ được lưu giữ bởi VPBS bằng cách gửi văn bản đề nghị đến VPBS. Người sử dụng sẽ được cung cấp quyền truy cập hợp lý để tiếp cận thông tin của mình và khi cần thiết có thể điều chỉnh và loại bỏ các thông tin không chính xác theo quy định của VPBS. VPBS sẽ hợp tác trong việc cung cấp quyền truy cập đó. Người sử dụng có trách nhiệm bảo mật tuyệt đối mật khẩu truy nhập vào trang thông tin điện tử này. Trong trường hợp mật khẩu bị mất cắp hoặc nghi ngờ đã để lộ, người sử dụng phải ngay lập tức gửi thư điện tử thông báo cho VPBS. Trong vòng 24 (hai mươi bốn) giờ kể từ khi nhận được yêu cầu đó, VPBS sẽ tiến hành kích hoạt lại mật khẩu truy cập và thông báo cho người sử dụng. Việc người sử dụng không thông báo hoặc chậm thông báo cho VPBS về việc mật khẩu bị mất hoặc nghi ngờ bị mất sẽ là căn cứ hợp lý loại bỏ/miễn trừ trách nhiệm của VPBS đối với bất kỳ thiệt hại, tổn thất nào đối với thông tin của người sử dụng. 7. Các quy định khác · Các điều khoản của Chính sách này là một phần của bất kỳ điều khoản nào khác mà người sử dụng đã ký/thỏa thuận với VPBS như các chính sách, thông báo bảo mật và bất kỳ quy định pháp luật hiện hành bắt buộc áp dụng. · VPBS có thể thỉnh thoảng liên lạc với người sử dụng qua đường bưu điện, điện thoại, thư điện tử, fax… để cung cấp thông tin về sản phẩm, dịch vụ mà VPBS tin rằng người sử dụng quan tâm đến. Nếu người sử dụng không muốn được liên lạc theo cách này, hoặc nếu người sử dụng muốn thực hiện các quyền của mình về điều chỉnh và truy cập thông tin, hoặc nếu người sử dụng cần thêm thông tin liên quan đến chính sách bảo mật, vui lòng liên hệ VPBS. Hội sở: 65 Cảm Hội, Quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội. Tel: +84 24 7308 0188 | Fax: +84 24 3974 3656 Chi nhánh Tp.Hồ Chí Minh: Lầu 3 - 76 Lê Lai - Quận 1 - Tp.Hồ Chí Minh Tel: +84 28 7308 0188 | Fax: +84 28 3823 8609/10 Chi nhánh Đà Nẵng: 112 Phan Châu Trinh - Quận Hải Châu – Tp.Đà Nẵng Tel: +84 236 356 5419 | Fax: +84 236 356 5418 Copyright © 2019 VPS, All rights reserved. Trang Chủ / Sơ đồ website / Điều khoản sử dụng / Chính sách bảo mật Chat với SmartRobo x
1610704847953.98.parquet/200676
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 8535, "url": "https://www.vps.com.vn/PrivacySecurity.aspx" }
118.5
Với Thế Hệ Millennials, Sức Khỏe Là Một Lối Sống Chứ Không Phải Là Một Mối Quan Tâm Nhất Thời - Sanofi Việt Nam Chào mừng bạn đến với Sanofi tại Việt Nam Sự hiện diện của chúng tôi trên thế giới 2019-07-22LL Với Thế Hệ Millennials, Sức Khỏe Là Một Lối Sống Chứ Không Phải Là Một Mối Quan Tâm Nhất Thời Trang chủ Giới thiệu Lĩnh vực điều trị Chăm sóc sức khỏe Với Thế Hệ Millennials, Sức Khỏe Là Một Lối Sống Chứ Không Phải Là Một Mối Quan Tâm Nhất Thời Với Thế Hệ Millennials, Sức Khỏe Là Một Lối Sống Chứ Không Phải Là Một Mối Quan Tâm Nhất Thời Trên thế giới, “Tự Chăm sóc Bản thân” (self-care) là một khái niệm đã dần quen thuộc với người tiêu dùng. Và thị trường các sản phẩm để phục vụ nhu cầu của NTD trong việc tự chăm sóc bản thân vì thế mà cũng sôi động hơn và ngày càng có những chuyển đổi mạnh mẽ và nhanh chóng hơn bao giờ hết. Điều đó vừa là thuận lợi nhưng cũng là thách thức cho chính họ. Thị trường sôi động cũng phản ánh nhu cầu thay đổi liên tục của NTD – và khi những nhu cầu ấy không được đáp ứng, sẽ ngày càng có nhiều NTD sẽ phải chịu những nguy cơ có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của họ. Chính vì lẽ đó, Khối Ngành Hàng Chăm Sóc Sức Khỏe Người Tiêu Dùng đã thực hiện một khảo sát trên 3.200 NTD và các chuyên gia y tế thuộc thế hệ Millennials (là những người được sinh ra trong giai đoạn 1981 – 1996) tại 8 thị trường mang tính đại diện (bao gồm: Pháp, Anh, Nga, Mỹ, Brazil, Trung Quốc, Nhật Bản và Nam Phi) để tìm hiểu về quan điểm cũng như cách thức thực hiện việc tự chăm sóc bản thân của họ trong thời điểm hiện tại. Kết quả của cuộc khảo sát này được công bố thông qua báo cáo “Be Your Best 2019 - Trao Quyền Cho Thế Hệ Millennials Để Giúp Họ Tự Chăm Sóc Bản Thân Một Cách Tốt Nhất”. Báo cáo chỉ ra rằng thế hệ này có những suy nghĩ, quan điểm cũng như cách thức thực hiện các hoạt động tự chăm sóc bản thân khác nhiều so với các thế hệ đi trước. Quan điểm của thế hệ này về tự chăm sóc bản thân rất độc đáo và thậm chí đã tác động đến cách các công ty chăm sóc sức khỏe làm kinh doanh. Thế hệ này coi trọng sức khỏe, do đó, họ chủ động tìm cách tiếp cận thông tin từ các chuyên gia chăm sóc sức khỏe (bao gồm cả dược sĩ), bất cứ khi nào họ có thời gian thuận tiện. Đối với họ, sức khỏe không phải mối quan tâm nhất thời, mà đó chính là lối sống của họ. Đối với họ, tự chăm sóc bản thân có nghĩa là sống khỏe mạnh với một vóc dáng cân đối, là tinh thần luôn được thoải mái, thư thả, là có thể kiểm soát được cảm xúc cũng như căng thẳng. Chính những quan điểm này đã thúc đẩy họ luyện tập thể thao nhiều hơn, ăn sạch- uống khỏe hơn, ít hút thuốc và sử dụng ít rượu bia hơn. Họ cũng cố gắng để giữ cân bằng giữa cuộc sống và công việc, chăm sóc sức khỏe cả thể chất lẫn tinh thần, đồng thời theo dõi sức khỏe của mình sát sao hơn để sớm phát hiện ra các vấn đề bất thường. Trao quyền cho thế hệ Millennials để giúp họ chăm sóc bản thân tốt nhất Xem Infographic tóm tắt tại đây Là những con người của kỷ nguyên công nghệ, thế hệ này liên tục chủ động tìm kiếm những thông tin có liên quan và đáng tin cậy trước khi đưa ra bất kỳ quyết định gì, đặc biệt là trong vấn đề mua sắm một sản phẩm nào đó. Do đó, kiến thức về tự chăm sóc bản thân vừa là động lực thúc đẩy NTD đưa ra quyết định đúng đắn nhưng nếu họ không được tiếp cận thông tin đúng đắn, chính xác thì đó sẽ là rào cản khiến họ không đưa ra được quyết định chính xác để có thể thực hiện các hoạt động tự chăm sóc bản thân chính xác để nâng cao sức khỏe của mình. Khảo sát này cho thấy 1 trong 5 chuyên viên y tế (22%) cho rằng NTD ở thế hệ này cần phải được tiếp cận với những nguồn thông tin về việc tự chăm sóc bản thân tốt hơn, chính xác hơn và đáng tin cậy hơn. Bên cạnh đó, một tín hiệu tích cực đối với các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm về tự chăm sóc bản thân là NTD thế hệ này chủ động tìm kiếm những lời khuyên của cộng đồng y bác sĩ về các loại dược phẩm không kê toa (OTC – over the counter) - những sản phẩm có thể giúp họ ngăn ngừa hoặc điều trị các triệu chứng nhẹ. Họ cũng chủ động trong việc tìm kiếm những sự lựa chọn tốt nhất về việc tự chăm sóc bản thân cũng như tìm kiếm những sản phẩm phù hợp có thể giúp họ sống theo cách họ mong muốn. Báo cáo này cũng cho biết thế hệ này cũng chủ động đến các nhà thuốc thường xuyên hơn để mua các sản phẩm OTC thay vì thăm khám tại các phòng khám đa khoa. Tuy nhiên, thế hệ này cần có những kiến thức sâu sắc hơn về lĩnh vực tự chăm sóc bản thân cũng như các giá trị của các sản phẩm không kê toa và giá trị của việc tự điều trị. Đó sẽ là những tiền đề giúp họ tích lũy và xây dựng một nền tảng vững chắc cho việc tự chăm sóc bản thân. Tại Việt Nam, khái niệm về “Tự Chăm sóc Bản thân” là một khái niệm hoàn toàn mới với đại đa số người tiêu dùng, mặc dù, trong cuộc sống họ đã và đang thực hiện rất nhiều hoạt động tự chăm sóc bản thân như: ngủ đủ giấc, tập thói quen thường xuyên vận động, kiểm soát sự căng thẳng, ăn sạch – uống khỏe, bổ sung các chất dinh dưỡng… Chính điều này cũng sẽ là trở ngại đối với thế hệ Millenials tại Việt Nam để tìm kiếm thông tin chính xác để tự chăm sóc bản thân tốt hơn và hiệu quả hơn, mặc dù hiện nay họ đang có nhiều công cụ để tìm kiếm thông tin hơn các thế hệ đi trước. Do đó, việc nâng cao nhận thức của người tiêu dùng nói chung và thế hệ Millennials nói riêng về vấn đề tự chăm sóc bản thân là điều tối quan trọng đối với tất cả những bên liên quan như các nhà hoạch định chính sách, cơ quan truyền thông và chắc chắn không thể thiếu vai trò chủ động của các doanh nghiệp đang kinh doanh trong lĩnh vưc cung cấp giải pháp tự chăm sóc sức khỏe tại Việt Nam. Thông tin và kiến thức chính xác sẽ thúc đẩy NTD thay đổi thói quen để có một cuộc sống khỏe mạnh hơn, đầy đủ hơn, từ đó cũng giúp giảm áp lực lên hệ thống y tế quốc gia. Khám phá quan điểm của thế hệ Millennials về việc tự chăm sóc bản thân Xem báo cáo đầy đủ © Sanofi 2007-2021 - All rights reserved
1610704847953.98.parquet/145275
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 5223, "url": "https://www.sanofi.com.vn/gioi-thieu/linh-vuc-dieu-tri/cham-soc-suc-khoe/tu-cham-soc-ban-than-voi-the-he-millennials" }
116
Làm thế nào để giải quyết các vấn đề của cuộc sống? | SONGPHAIHANHPHUC.COM SONGPHAIHANHPHUC.COM Kiến thức phát triển bản thân Home BÀI VIẾT Giới thiệu Làm thế nào để giải quyết các vấn đề của cuộc sống? admin May 20, 2017 THÀNH CÔNG Điều gì xảy ra nếu không giải quyết các vấn đề của cuộc sống? Bạn tự hỏi: làm thế nào để giải quyết các vấn đề của cuộc sống? Có thể bạn đang cảm thấy mình bế tắc, không thực sự tìm ra được một giải pháp nào khả thi để có được điều bạn muốn. Bạn không thể kiếm được nhiều tiền hơn, bạn mãi không học được thêm kỹ năng mới để cải thiện cơ hội kiếm tiền hay có một mối quan hệ mới tốt đẹp. Hẳn là bạn đã cố gắng và thử nhiều cách khác nhau nhưng chớ trêu thay mọi thứ vẫn không theo ý của bạn. Chính những điều này khiến cuộc sống của bạn không thực sự hạnh phúc. Và trong bài viết trước của tôi Tại sao tôi không thể tìm thấy hạnh phúc có nói rằng ai đó chỉ có thể có được hạnh phúc thực sự khi nhu cầu cuộc sống của họ được đáp ứng hoặc ít nhất là những nhu cầu quan trọng nhất chẳng hạn tiền bạc, mối quan hệ, hoặc giải quyết vấn đề của công việc bạn đang làm. Càng có nhiều vấn đề không được giải quyết thì cuộc sống của chúng ta càng trở nên tồi tệ hơn. Những vấn đề của cuộc sống sẽ sinh ra những cảm xúc tồi tệ như áp lực, lo lắng, sợ hãi, thiếu thốn, mất mát, cô đơn, thất vọng… chúng sẽ giết chết ai đó khi họ kiệt sức và không thể chịu đựng được thêm nữa. Tôi từng trải qua tất cả chúng và đã có được hạnh phúc hơn, tôi muốn mọi người khác cũng vậy và qua bài viết này tôi sẽ cho bạn biết làm thế nào để giải quyết các vấn đề của cuộc sống. Lý do nhiều người không giải quyết được các vấn đề của họ? Có rất nhiều vấn đề có thể xảy ra trong cuộc sống của mọi người đó có thể là, vấn đề tiền bạc, thời gian bên gia đình, mối quan hệ vợ chồng, áp lực trong công việc. Một số người trải qua đã giải quyết được, tuy nhiên không phải tất cả mọi người có thể giải quyết được chúng một cách tốt nhất. Hầu hết mọi người thất bại khi cố gắng giải quyết chúng vì một lý do. Mọi người chỉ sử dụng những nguồn lực bản thân đã có để giải quyết vấn đề của cuộc sống. Ví dụ như trình độ, hiểu biết, kinh nghiệm và cả tiền bạc hoặc những mối quan hệ hạn chế của mình để cố gắng giải vấn đề của mình. Sau khi sử dụng tất cả những nguồn lực đó mà vấn đề vẫn không được giải quyết mọi người quyết định chấp nhận thất bại và nghĩ rằng không còn cơ hội nào khác. Một điều hiển nhiên sau những nỗ lực của những người này đó là thất bại, bởi vì dù có cố gắng bao nhiêu với những gì họ có thì họ vẫn thất bại. Những nguồn lực đã có sẵn đó không đủ để giải quyết vấn đề. Đó là lý do tại sao họ thất bại. Trong khi đó, để thành công hoặc có thể giải quyết được tất cả các vấn đề trong cuộc sống yêu cầu mọi người tiếp tục cố gắng, sửa lỗi cho tới khi làm đúng cách. Có một ví dụ trong giải quyết vấn đề hôn nhân gia đình, cô gái đã chịu đựng cảnh chồng ngoại tình trong một thời gian dài tới 9 năm, cô phải chịu khủng hoảng tâm lý trầm trọng đó là trầm cảm, và tự tạo ra những nỗi đau về thể xác. Chỉ vì những suy nghĩa và hiểu biết của mình và cô đã để xảy ra tình trạng chồng không còn yêu cô nữa, tình trạng hôn nhân và tình trạng sức khỏe, tinh thần của cô trở lên tồi tệ trong một thời gian dài như vậy. Chúng tỏ rằng với những nguồn lực đã có sẵn của cô không thể giải quyết được vấn đề. Đến một ngày cô gặp chuyên gia tâm lý, người đã đả thông tư tưởng cho cô, sau đó cô đã nhanh chóng có được cuộc sống mới khác hoàn toàn, cô có tự do, niềm hy vọng mới, hạnh phúc và niềm vui mới thay vì như trước đó. Hoặc giống như việc bạn cố gắng học một kỹ năng nào đó nhiều năm nhưng không có kết quả gì khả quan, bạn cố gắng giải quyết vấn đề của mình bằng phương pháp và kinh nghiệm của bản thân biết được trước đó. Nhưng kết quả nó không giúp ích với bạn trong nhiều năm. Bạn vẫn đang trăn trở về việc làm sao học được kỹ năng này. Lý do quan trọng khiến nhiều người bị mắt kẹt với những kết quả không như mong muốn khi họ cố gắng giải quyết vấn đề của mình bằng việc chỉ sử dụng những nguồn lực mà họ đã có được thay vì tìm kiếm các nguồn lực từ bên ngoài để giải quyết vấn đề của mình. Làm thế nào để mọi người có thể giải quyết các vấn đề của cuộc sống? Dưới đây sẽ là 3 bước để mọi người có thể giải quyết được tất cả các vấn đề của cuộc sống mà họ gặp phải: *Bước một, sử dụng những nguồn lực hiện có: Đầu tiên là sử dụng tất cả những gì đã có của mọi người để cố gắng giải quyết vấn đề. Tuy nhiên sẽ luôn không thể tránh khỏi việc mọi người có thể gặp phải một vấn đề lớn hoặc phức tạp. Hãy cố gắng thử vài lần nếu vẫn không có kết quả điều đó chứng tỏ mọi người cần một nguồn lực khác ngoài những gì mọi người đang có. Những thứ đang có không thể giải quyết được vấn đề. *Bước hai, tìm kiếm nguồn lực khác bên ngoài: Đó có thể là kinh nghiệm, kỹ năng mới, phương pháp mới từ những chuyên gia. Vấn đề có thể được giải quyết khi mọi người có môi trường mới tốt hơn. Để có được những điều đó và đảm bảo giải quyết được vấn đề yêu cầu mọi người tiếp tục cố gắng, nỗ lực và đầu tư công sức, thời gian và tiền bạc cho tới khi đạt được kết quả mong muốn. *Bước ba, tin rằng bạn có thể làm được điều đó: Thường thì mọi người từ bỏ vì không tin rằng mình có thể làm được, hoặc nghĩ rằng nó quá khó khăn, không biết đến khi nào có thể đạt được. Bạn cần thay đổi niềm tin sai lầm đó. Chẳng qua đó là những thứ bạn không biết, chưa biết, chưa quen. Nhưng nếu bạn cố gắng, không ngừng bổ sung hiểu biết cho mình thì mọi thứ sẽ dần trở nên dễ dàng. Chỉ cần tiếp tục cố gắng, sửa chữa những sai lầm, không ngừng học hỏi rồi bạn sẽ tìm ra và làm đúng cách. Đó là lý do vì sao bạn nên tin tưởng bản thân có thể làm được. Thành công là tất cả về số lần thử, cố gắng và học hỏi từ những sai lầm cho tới khi tìm ra một cách làm đúng. Bạn muốn xem thêm? Làm sao để sống một cuộc sống hạnh phúc? Không phải dễ dàng để có được hạnh phúc Làm thế nào để trở thành một người thành công? Bí mật thực sự của những người thành công? làm thế nào để giải quyết các vấn đề của cuộc sống « Previous Post Next Post © 2021 SONGPHAIHANHPHUC.COM | Website http://songphaihanhphuc.com Quà Tặng Miễn Phí CHÀO MỪNG CÁC BẠN Trước khi tiếp tục đọc bài viết, SPHP gửi tặng bạn một món quà ý nghĩa 04 Ebooks giúp bạn có được tư duy đúng đắn để thành công hơn và gia tăng tài chính cá nhân nhanh chóng. (Bạn chỉ đơn giản điền thông tin vào bên dưới sau đó bấm nút đăng ký để được nhận quà tặng) X
1610704847953.98.parquet/199990
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 6204, "url": "http://songphaihanhphuc.com/lam-the-nao-de-giai-quyet-cac-van-de-cua-cuoc-song/" }
115.4
In bài viết Chủ tịch Trung Quốc yêu cầu quân đội nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu Chủ tịch Trung Quốc yêu cầu quân đội nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu Tại căn cứ quân sự, ông Tập nói với thủy quân lục chiến nên nỗ lực trở thành một lực lượng chiến đấu "đa chức năng, phản ứng nhanh trong mọi điều kiện thời tiết và khu vực". Theo đài truyền hình nhà nước Trung Quốc CCTV, Chủ tịch Tập nói rằng: "Các binh sĩ nên tập trung ý chí và sức lực vào công tác huấn luyện cho chiến tranh và luôn cảnh giác cao độ. Thuỷ quân lục chiến có rất nhiều nhiệm vụ khác nhau và yêu cầu cũng sẽ khác. Do đó, các binh sĩ nên tập luyện đề phòng chiến tranh, nâng cao tiêu chuẩn huấn luyện và khả năng chiến đấu". Chủ tịch Tập Cận Bình có chuyến thăm tại một căn cứ quân đội ở tỉnh Quảng Đông hôm 13-10. Ảnh: CCTV Dường như đề cập đến các tranh chấp ở biển Đông, ông Tập cũng nhấn mạnh với lực lượng thủy quân lục chiến rằng họ phải gánh vác "trách nhiệm quan trọng" là bảo vệ lãnh thổ và chủ quyền của Trung Quốc, các lợi ích hàng hải của đất nước và các lợi ích của nước này ở nước ngoài. Chuyến thăm của ông Tập diễn ra trong bối cảnh căng thẳng gia tăng ở eo biển Đài Loan và quan hệ giữa Mỹ và Đài Loan gần gũi hơn. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Triệu Lập Kiên hôm 13-10 cho biết Bắc Kinh sẽ trả đũa việc Quốc hội Mỹ đang xem xét 3 thỏa thuận cung cấp vũ khí tối tân cho Đài Loan. Ông Tập nói với người dân ở Sán Đầu rằng Trung Quốc sẽ đạt được mục tiêu "trẻ hóa quốc gia" bất chấp những thách thức. Ảnh: Tân Hoa Xã Ông Tập cũng đã đến thăm TP Sán Đầu và cho rằng Trung Quốc sẽ đạt được mục tiêu "trẻ hóa quốc gia" bất chấp những thách thức mà nước này phải đối mặt. Sán Đầu là một trong 4 đặc khu kinh tế được Bắc Kinh thiết lập trong những ngày đầu cải cách nhưng đã tụt hậu so với Thâm Quyến, nơi hiện là trung tâm công nghệ cao của Trung Quốc. Chủ tịch Trung Quốc sẽ tham dự lễ kỷ niệm 40 năm thành lập đặc khu kinh tế Thâm Quyến trong ngày 14-10. Xuân Mai (Theo SCMP)
1610704847953.98.parquet/191585
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 1773, "url": "https://nld.com.vn/Print.aspx?NewsID=20201014071456298" }
114.9
Báo cáo tốt nghiệp: “Kế toán thu nhập - chi phí và xác định kết quả kinh doanh tại NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá, thực trạng và giải pháp” - TaiLieu.VN OPTADS360 intTypePromotion=1 Danh mục Tài Liệu Tham Khảo Kinh Doanh-Marketing Kinh Tế - Quản Lý Tài Chính - Ngân Hàng Công Nghệ Thông Tin Ngoại Ngữ Kỹ Thuật - Công Nghệ Khoa Học Tự Nhiên Khoa Học Xã Hội Văn Hoá - Nghệ Thuật Biểu mẫu - Văn bản Sáng kiến kinh nghiệm Ôn thi ĐH-CĐ Giáo án điện tử Bài giảng điện tử Đề thi - Kiểm tra Bài tập SGK Bộ Tài Liệu 4.0 Bộ Sưu Tập Luận Văn & Đề Tài Mẫu Slide Powerpoint Khóa Học Online Tài Liệu Phổ Thông Bài học SGK Giải SGK Soạn văn Văn mẫu Đề Thi Trắc nghiệm Online Học trực tuyến Học Online Đề thi Online Tư liệu NÂNG CẤP Đăng Nhập | Đăng Ký Chủ đề » Báo cáo thực tập kế toán Luận văn kế toán Luận văn kiểm toán Luận văn bảo hiểm Đề tài thực tập ngân hàng Thực tập tốt nghiệp ngân hàng HOT CMO.03: Bộ Tài Liệu Hệ Thống Quản Trị Marketing... LV.07: Bộ Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Giáo... Bộ 70+ CV Marketing CEO.23: Bộ 230+ Tài Liệu Quản Trị Mua Hàng Và... CEO.22: Bộ Tài Liệu Quy Trình Kiểm Toán, Kiểm... CEO.25: Bộ Tài Liệu Ứng Dụng Công Nghệ Thông... CEO.21: Bộ Tài Liệu Quản Trị Sản Xuất Chất... CEO.24: Bộ 240+ Tài Liệu Quản Trị Rủi Ro Doanh... LV.05: Bộ 150+ Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nhân... LV.11: Bộ Luận Văn Tốt Nghiệp Chuyên Ngành Tài... YOMEDIA Trang Chủ » Luận Văn - Báo Cáo » Tài chính - Ngân hàng Báo cáo tốt nghiệp: “Kế toán thu nhập - chi phí và xác định kết quả kinh doanh tại NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá, thực trạng và giải pháp” Chia sẻ: Ryr Ryr | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:64 0 Thêm vào BST Báo xấu 89 lượt xem 29 download Báo cáo tốt nghiệp: “Kế toán thu nhập - chi phí và xác định kết quả kinh doanh tại NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá, thực trạng và giải pháp” Mô tả tài liệu Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ Tham khảo luận văn - đề án 'báo cáo tốt nghiệp: “kế toán thu nhập - chi phí và xác định kết quả kinh doanh tại nhno & ptnt chi nhánh số 7 tỉnh thanh hoá, thực trạng và giải pháp”', luận văn - báo cáo, tài chính - kế toán - ngân hàng phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả YOMEDIA/ Chủ đề: hệ thống ngân hàng ngân hàng thương mại kinh tế thị trường trung gian thanh toán Nghiệp vụ tài sản nợ đại lí về chứng khoán Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận! Đăng nhập để gửi bình luận! Lưu Nội dung Text: Báo cáo tốt nghiệp: “Kế toán thu nhập - chi phí và xác định kết quả kinh doanh tại NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá, thực trạng và giải pháp” Báo cáo tốt nghiệp “Kế toán thu nhập - chi phí và xác định kết quả kinh doanh tại NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá, thực trạng và giải pháp” mục lục lời nói đầu Chương I: Ngân Hàng Thương Mại và hoạt động của Ngân Hàng Thương Mại trong nền kinh tế thị trường I. Khái quát về ngân hàng. ...................................................................... 6 1. Sự ra đời và phát triển của ngân hàng. ............................................ 6 2. Quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt N am. .............................................................................................. 7 2.1. Giai đoạn hệ thống ngân hàng hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung(1951-1988). ...................................................... 7 2.2.Giai đoạn hệ thống ngân hàng Việt Nam hoạt động theo cơ chế thị trường. .............................................................................. 8 3.Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. ....................... 9 3.1.Vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường .9 3.2.Chức năng của ngân hàng thương mại : ...................................... 10 3.2.2.Chức năng trung gian thanh toán: ........................................ 11 3.2.3.Chức năng tạo tiền. .............................................................. 12 3.3 Các nhgiệp vụ ngân hàng thương mại ................................ ......... 13 3.3.1 Nghiệp vụ tài sản nợ ............................................................ 13 3 .3.1.2. Vốn huy động .......................................................... 13 3 .3.1.2.Nguồn vốn đi vay. .................................................... 15 3 .3.1.3. Các nguồn vốn khác: ............................................... 15 3 .3.1.4. Vốn tự có và coi như tự có. ...................................... 15 3.3.2.Nghiệp vụ Tài sản có. .......................................................... 16 3 .3.2.1.Nghiệp vụ về ngân quỹ. ............................................ 16 3 .3.2.2. Nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng Thương mại. ..... 16 3 .3.2.3. Nghiệp vụ đầu tư kinh doanh khác. .......................... 17 3 .3.2.4 - Tài sản cố định. ...................................................... 17 3.3.3 - Nghiệp vụ trung gian. ........................................................ 18 3 .3.3.1- Nghiệp vụ thu chi chuyển tiền cho khách hàng. ....... 18 3 .3.3.2. Nghiệp vụ đại lí về chứng khoán. ............................ 18 3 .3.3.3-Nghiệp vụ uỷ thác. ................................ ................... 19 3 .3.3.4 - Nghiệp vụ tư vấn về đầu tư. .................................... 19 4 - V ai trò của hạch toán kế toán đối với hoạt động của Ngân hàng Thương m ại. ................................ ................................................. 19 II. Cơ chế tài chính của Ngân hàng Thương mại . .............................. 20 1. Cơ chế tài chính của Ngân hàng Thương mại nói chung. ............. 20 2. Cơ chế tài chính của NHNo & PTNT Việt nam . .......................... 21 III. K ết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại ....... 24 1. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của N gân hàng Thương mại . .............................................................. 24 1.1- N ăng lực quản lý của Ngân hàng Thương mại. ..................... 24 1.2- Môi trường kinh doanh . ........................................................ 24 1.3- Các điều kiện về cạnh tranh . ................................................. 25 1.4- Tỷ trọng đầu tư vào tài sản sinh lời . ..................................... 25 1.5- Sự biến động của lãi suất. ...................................................... 25 1.6- Mức độ rủi ro tín dụng và các rủi ro khác. ............................. 25 2. Các khoản thu nhập của Ngân hàng Thương mại . ....................... 25 3. Các khoản chi phí của Ngân hàng Thương mại . ......................... 26 Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh và k ết quả kinh doanh của NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá I. Khái quát tình hình phát triển kinh tế của địa phương và hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá ...... 29 1. Khái quát tình hình phát triển kinh tế của Thanh hoá và ảnh hưởng của nó đến hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá. ................................................................ ......... 29 2. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá . ........................................................................ 31 2.1. Hoạt động tín dụng . .............................................................. 31 2.1.1. Về nguồn vốn. .................................................................... 31 2.1.2.Về sử dụng vốn. ................................................................... 35 2.2. Ho ạt động kinh doanh đối ngoại. ............................................... 38 2.3. Công tác kế toán thanh toán và ngân quỹ. .................................. 38 2.4. Các hoạt động kinh doanh khác: ................................................ 39 II. Thực trạng tình hình thu nhập - chi phí và kết quả kinh doanh của NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá . ............................... 40 1. Tình hình thu nhập của NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá. ................................................................ ............................. 40 2. Tình hình chi phí của NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá .............................................................................................. 44 3. Kết quả hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá ............................................................................ 48 Chương III Một số giải pháp nhằm tăng thu nhập, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh tại NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá I. Một số giải pháp nhằm tăng thu nhập cho NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá . ................................................................. 52 1. Mở rộng hoạt động đầu tư tín d ụng, tăng cường chất lượng công tác cho vay. ........................................................................................ 52 2. Đa dạng hoá các hoạt động dịch vụ N gân hàng và mở thêm các nghiệp vụ mới nhằm tăng thu nhập cho Ngân hàng. ..................... 56 3. Tăng cường uy tín của Ngân hàng đối với khách hàng bằng nhiều b iện pháp khác nhau từ đó không ngừng tăng quy mô và chất lượng nguồn vốn huy động. .................................................................... 59 II. Một số biện pháp quản lý, tiết kiệm các khoản chi phí của Ngân hàng. ................................................................ ....................................... 60 kết luận Tài liệu tham khảo lời nói đầu Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã vạch ra đường lối đổi mới cho nền kinh tế nước ta, chuyển từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đây thực sự là một bước ngoặc có tính quyết định đối với sự phát triển của đất n ước. Chế độ tự chủ về tài chính được xác lập, mỗi doanh nghiệp là một đơn vị hạch toán kinh tế độc lập, và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của mình. Cùng với sự đổi mới của đất nước, ngành Ngân hàng cũng phải tự hoàn thiện mình, đổi mới toàn diện cả về cơ cấu tổ chức cũng như phương thức hoạt động, cơ chế nghiệp vụ để xứng đáng là ngư ời dẫn đường trong nền kinh tế thị trường Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt có vai trò quan trọng và cần thiết cho nền kinh tế đó là trung gian tài chính quan trọng nhất để tích tụ và tập trung vốn đáp ứng c ho công cuộc CNH- HĐH đất nước. Vói phương châm đổi mới toàn diện, triệt để và sâu sắc nên đã đòi hỏi Ngân hàng phải không ngừng đổi mới phương thức hoạt động của mình với mực đích là hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Trong nền kinh tế thị trường, đối với mọi doanh nghiệp lợi nhuận chính là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh trên tất cả các ph ương diện. Chính vì vậy đánh giá kết quả kinh doanh là một hoạt động tất yếu, một yêu cầu quan trọng đối với các nhà quản trị kinh doanh Ngân hàng, để Ngân hàng có thể tồn tại và phát triển trong cạnh tranh. Muốn xác định đầy đủ hiệu quả kinh doanh phải tính toán, phân tích mọi khoản thu nhập, chi phí phát sinh trong qúa trình hoạt động, nhằm phát hiện các “mảnh đất màu mỡ” có khả năng mang lại lợi nhuận cao, hạn chế nh ững khoản chi phí bất hợp lý và th ực hiện tốt chế độ hạch toán kinh tế. Đồng thời thấy đ ược những nguyên nhân tồn tại, những tác động tích cực và tiêu cực đến hoạt động kinh doanh, từ đó có những biện pháp khắc phục và hướng đi đúng đắn. Nhận thức được tầm quan trọng của việc phân tích, quản lý các khoản thu nhập, chi phí đối với hoạt động kinh doanh Ngân hàng, qua thời gian thực tập tại NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá đ ược sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo Khoa Kế toán - Kiểm toán Ngân hàng - Học viện Ngân hàng và đồng nghiệp của NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá, em đã mạnh dạn chọn đề tài : “Kế toán thu nhập - c hi phí và xác định kết quả kinh doanh tại NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá, thực trạng và giải pháp”. Tuy nhiên do thời gian nghiên c ứu, kinh nghiệm thực tế và khả năng của bản thân còn hạn chế nên dù đã hết sức cố gắng, luận văn của em không thể tránh được những thiếu sót. Vậy em kính mong các thầy cô giáo Khoa Kế toán - Kiểm toán ngân hàng và Ban lãnh đạo NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá đóng góp ý kiến để luận văn của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cám ơn ! Chương I: Ngân Hàng Thương Mại và hoạt động của Ngân Hàng Thương Mại trong nền kinh tế thị trường I. Khái quát về ngân hàng. 1. Sự ra đời và phát triển của ngân hàng. Nghề kinh doanh tiền tệ ra đời tiền thân của ngân hàng ra đời gắn liền với quan hệ thương mại. Khi có sự giao lưu hàng hoá giữa các vùng các quốc gia với các loại tiền khác nhau đã gây việc khó khăn trở ngại cho việc mua bán thanh toán và đặc biệt phức tạp trong việc chuyển đổi bảo quản tiền tệ. Vì thế đã thúc đẩy sự ra đời của những tổ chức chuyên nghề kinh doanh tiền tệ để đảm nhận những chức năng riêng biệt do lưu thông tiền tệ đòi hỏi. Nghiệp vụ đầu tiên của các tổ chức kinh doanh tiền tệ là thực hiện việc đổi tiền giữa các vùng, giữa các nước để phục vụ cho quan hệ giao lưu hàng hóa. Đổi các loại tiền khác nhau ra vàng bạc nén và ngược lại theo yêu cầu của sự phát triển các quan hệ tiền tệ hàng hoá. Nghiệp vụ đổi tiền đã kéo theo các nghiệp vụ khác mà trư ớc hết là tiền gửi, nhận bảo quả vàng bạc đã tạo ra nh ững chuyển biến về chất trong hoạt động của các tổ chức kinh doanh tiền tệ. Việc nhận tiền gửi bảo quản vàng bạc ngày càng phát triển đã tạo điều kiện cho phép các tổ chức kinh doanh tiền tệ phát hành những chứng phiếu (giấy nhận nợ) làm phương tiện thanh toán thay cho tiền. Lúc đầu các giấy nhận nợ chỉ là các biên lai xác nhận quyền sở hữu số tiền-vàng đã gửi để làm căn c ứ cho việc nhận lại số tiền vàng đó, tiến tới phát hành các loại chứng phiếu đảm bảo cho khách hàng có thể sử dụng nó trong việc mua bán thanh toán thay cho việc rút tiền vàng đã gửi. Khi cần người có chứng phiếu sẽ đem nó đến nơi phát ra để rút lại tiền vàng. Nghiệp vụ nhận tiền gửi phát triển cùng với việc sử dụng rộng rãi các loại chứng phiếu thanh toán thay cho tổ chức mà nghiệp vụ ban đầu chỉ làm d ịch vụ chuyển đổi tiền. Số tiền dự trữ đã đ ược cho vay để sinh lời. Đây là một sự kiện quan trọng trong việc chuyển những tổ chức hoạt động dịch vụ thuần tuý thành những tổ chức ngân hàng chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ tín dụng. Cùng với quá trình phát triển của sản xuất lưu thông hàng hoá hệ thống ngân hàng ngày càng phát triển và hoàn thiện. Quá trình phát triển và phân hoá trong hệ thống ngân hàng đã diễn ra các giai đoạn lịch sử để tiến tới một hệ thống ngân hàng với đầy đủ các nội dung như h iện nay. * Thời kỳ đầu tư thế kỷ 15 tới thế kỷ 18 các ngân hàng có hai đặc trưng: - Các ngân hàng hoạt động độc lập ch ưa tạo thành một hệ thống, không chựu sự ràng buộc phụ thuộc lẫn nhau. - Mỗi ngân hàng đều có những chức năng hoạt động nh ư nhau bao gồm nhận trung gian, triết khấu và cho vay, phát hành kỳ phiếu ngân hàng, thực hiện các dịch vụ tiền tệ nh ư đổi tiền, chuyển tiền, thanh toán.. * Th ời kỳ thứ 2 từ thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 20: Đến đầu thế kỷ 18 lưu thông hàng hoá được mở rộng về phạm vi, về quy mô trong khi nhiều ngân hàng phát hành với nhiều loại giấy bạc ngân hàng khác nhau đã cản trở quá trình giao lưu hàng hoá nói riêng và quá trình phát triển kinh tế nói chung. Vì vậy nhà nước đã can thiệp vào lĩnh vực hoạt động ngân hàng bằng các đạo luật để hạn chế số lượng các ngân hàng được phép phát hành. Thời kỳ này hệ thống ngân hàng được chia làm hai loại: - Các ngân hàng không được phép phát hành tiền là các ngân hàng trung gian trong đó chủ yếu là các ngân hàng thương mại. - Các ngân hàng được phép phát hành tiền tệ là các ngân hàng phát hành. * Th ời kỳ thứ 3: Từ đầu thế kỷ 20 đến nay: Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, phần lớn các nước đã thực hiện cơ chế một ngân hàng đ ộc quyền phát hành nhưng các ngân hàng này vẫn thuộc quyền sở hữu tư nhân. Điều này không cho phép ngân hàng can thiệp một cách thường xuyênvào các hoạt động kinh tế thông qua tác động của tiền tệ. Khủng hoảng kinh tế năm 1929 - 1933 đã buộc chính phủ các nước tăng cường hơn nữa sự can thiệp của ngân hàng vào các lĩnh vực kinh tế. Ngoài việc điều tiết kinh tế thông qua hệ thống luật pháp, chính sách thuế, nhà nước thấy cần thiết phải nắm lấy phương tiện c ơ bản của kinh tế thị trường tiền tệ để góp phần giải quyết tình trạng bất ổn trong nền kinh tế. Muốn vậy khâu c ơ bản là phải nắm lấy ngân hàng phát hành để qua đó điều tiết kinh tế vĩ mô. Do vậy sau khủng hoảng kinh tế 1929 -1933 một số nước đã tiến hành quốc hữu hoá ngân hàng, một số khác tuy ngân hàng không hoàn toàn thuộc sở hữu nhà nước nhưng hoạt động vẫn mang tính nhà nước vì cơ quan quản lý cao nhất của ngân hàng là do nhà nước bổ nhiệm. Đến đây hệ thống ngân hàng phân thành hai cấp độ rõ rệt ngân hàng trung ương và ngân hàng kinh doanh (hay gọi là ngân hàng thương mại). 2. Quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Ngân hàng quốc gia Việt nam (hay là ngân hàng nhà nước) được thành lập ngày 6 tháng5 năm 1951. Quá trình phát triển của ngân hàng Việt Nam gắn liền với các giai đoạn phát triển của đất nước. Tuy nhiên, xét về hình thức quản lý kinh tế, quá trình này có thể chia thành hai giai đoạn đó là : Giai đoạn ngân hàng hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung và giai đoạn ngân hàng hoạt động theo cơ chế thị trường. 2.1. Giai đoạn hệ thống ngân hàng hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung(1951-1988). Vào giai đoạn này h ệ thống ngân hàng Việt Nam tổ chức theo hệ thống ngân hàng một cấp ra đời và tồn tại gắn liền với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung. Ngân hàng quốc gia Việt Nam ra đời đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng ở n ước ta, lần đầu tiên chính thể dân chủ mới ở ta đã có một ngân hàng mang đầy đủ tính độc lập, tự chủ của dân tộc và xây dựng trên quan điểm một ngân hàng quốc gia duy nhất, to lớn hoạt động bao quát trong phạm vi cả nước, vừa quản lý vừa kinh doanh theo nguyên tắc tập trung thống nhất. Gắn liền với công cuộc xây dựng chủ nghĩa x ã hội và đấu tranh cách mạng của đất n ước. Ngân hàng quốc gia Việt Nam( Đầu 1960 đ ược đổi tên thành ngân hàng nhà nước Việt Nam ) đã từng b ước phát triển trưởng thành cả về hệ thống tổ chức cũng như chức năng hoạt động. Sau 1977, bên cạnh bộ máy tổ chức ngân hàng nhà nước là bộ máy tổ chức các ngân hàng chuyên nghiệp nằm trong tổ chức ngân hàng nhà nước thống nhất. Các ngân hàng chuyên nghiệp này chỉ có bộ máy ở trung ương mà không có các tổ chức cơ sở, do đó hoạt động của chúng mang tính chất nhà nước là một chức năng của ngân hàng nhà nước. Đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI - 1 986 đã vạch ra đ ường lối phát triển cho nền kinh tế Việt Nam, chuyền từ c ơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Mô hình tổ chức ngân hàng một cấp đã không còn phù hợp, đòi hỏi nghành ngân hàng phải có sự đổi mới cơ bản toàn diện về tổ chức bộ máy cũng như cơ chế hoạt động ngân hàng. 2.2.Giai đoạn hệ thống ngân hàng Việt Nam hoạt động theo cơ chế thị trường. Từ sau đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI, cả nước bước vào thời kỳ đổi mới cơ bản về tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của ngân hàng là một khâu quan trọng. Sau khi thực hiện thí điểm việc đổi mới hoạt động kinh doanh ngân hàng ở một số chi nhánh ngân hàng nhà nước tỉnh, thành phố. Ngày 26/3/88 Hội đồng bộ trưởng(nay là chính phủ) đã ban hành nghị đ ịnh 53/HĐBT có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử xây dựng và phát triển hệ thống ngân hàng ở nước ta. Triển khai Nghị định này ngân hàng nhà nước đã tổ chức lại, hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp tách bạch rõ chức năng quản lý tiền tệ, tín dụng ngân hàng. Các ngân hàng thương mại là các tổ chức kinh tế trực thuộc ngân hàng nhà nước hoạt động kinh doanh tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng trực tiếp đối với nền kinh tế quốc doanh. Pháp lệnh “ngân hàng nhà nước” và pháp lệnh “ngân hàng, hợp tác xã và công ty tài chính. ngày 24/05/90 là cơ sở pháp lý nhằm tiếp tục đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống ngân hàng đưa hệ thống ngân hàng hoạt động theo kỷ cương luật pháp, bảo đảm cho hệ thống ngân hàng thực hiện tốt nhiệm vụ, chức năng của nó. Thực hiện hai pháp lệnh này hệ thống ngân hàng tiếp tục được xắp xếp, tách bạch rõ giữa quản lý vĩ mô và kinh doanh tác nghiệp(các ngân hàng chuyên doanh được tách ra khỏi hệ thống tổ chức ngân hàng nhà nước, hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính, ngân hàng nhà nước là cơ quan của chính phủ có chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ tín dụng ngân hàng trông cả n ước, nhằm ổn định giá trị đồng tiền thực hiện các chức năng vai trò của ngân hàng trung ương), với nhiều loại mô hình, nhiều thành phần sở hưũ và kinh doanh đa dạng. Tháng 12/1997 luật ngân hàng nhà nư ớc Việt Nam và luật các tổ chức tín dụng được quốc hội thông qua đã tạo ra chuẩn mực mới về pháp lý cho các hoạt động ngân hàng ở Việt Nam, góp phần đảm bảo tính đồng bộ của c ơ chế tài chính - tiền tệ quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước và hội nhập của hệ thống tài chính - tiền tệ quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước và hội nhập của hệ thống tài chính - tiền tệ quốc tế và khu vực. 3.Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. 3.1.Vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường . Nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế trong đó giải quyết mối quan hệ cung cầu thông qua việc mua bán và bị chi phối bởi một số công cụ điều tiết. kinh tế thị trường là một nền kinh tế mà sự phân phối và trao đổi sản phẩm đều được thực hiện trên thị trường bằng phương th ức mua bán thoả thuận giữa các bên. Đồng thời thông qua thị trường mà các ngân hàng kinh doanh có thể biết được nhu cầu của khách hàng để quyết định kinh doanh mặt hàng nào, chất lượng giá cả ra sao. Trong nền kinh tế thị trường ngân hàng thương mại đóng vai trò vô cùng quan trọng, nó được coi là hệ thống thần kinh của nền kinh tế. Bởi ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt mà đối tượng kinh doanh là tiền tệ trong đó hoạt động tín dụng là đặc trưng chủ yếu được thực hiện bằng cách thu hút vốn tiền tệ trong xã hội để cho vay. Ngân hàng thương mại tham gia trên thị trường với tư cách là một trung gian tài chính lớn nhất trong nền kinh tế quốc dân. Hay nói cách khác, ngân hàng thương mại là người trung gian giữa những người thừa vốn và những người cần vay vốn. Thông qua các ngân hàng thương mại, các nguồn vốn trong xã hội được chuyển một cách gián tiếp từ nguồn vốn tiết kiệm sang người có nhu cầu đầu tư. Cách đầu tư gián tiếp mang lại cho chủ đầu tư(người gửi tiền) một khả năng an toàn cao hơn và rất dễ dàng, thuận tiện, đáp ứng vốn cho các chủ thể đang thiếu vốn có nhu cầu về khối lượng, thời hạn... một cách nhanh chóng nhất. Ngoài ra ngân hàng còn cung cấp cho thị trường hàng loạt các dịch vụ tiện ích khác như : dịch vụ thanh toán, chuyển tiền, tư vấn đầu tư.. Với những vai trò hết sức quan trọngcủa ngân hàng thương mại nói trên đòi hỏi toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại không ngừng đổi mới, đơn giản hoá thủ tục, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng,đa dạnghoákinh doanh ... để tạo đà cho sự phát triển của nền kinh tế. 3.2.Chức năng của ngân hàng thương mại : 3.2.1.Chức năng trung gian tín dụng. Đây là ch ức năng chủ yếu và quan trọng bậc nhất của các ngân hàng thương mại nó quyết định sự tồn tại cũng nh ư sự lớn mạnh và phồn vinh của các ngân hàng thương mại. Ngay từ khi hình thành các ngân hàng thương mại, chức năng trung gian tín dụng của các ngân hàng thương mại cũng ra đời. Xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình sản xuất xã hội đã phát sinh mâu thuẫn giữa hiện tượng vốn tiền tệ nhàn dỗi ở chủ thể kinh tế này, trong khi chủ thể kinh tế khác lại có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung. Quan hệ tín dụng trực tiếp giữa các chủ thể gặp nhiều hạn chế nhiều các chủ thể khó có thể biết nhau cũng như về nhu cầu và khả năng của nhau. Hơn thế nữa giữa họ khó có đủ sự tin tưởng để thực hiện quan hệ chuyển nhượng vốn cho nhau. Ngân hàng thương mại với tư cách là một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng có khả năng giải quyết mâu thuẫn này bằng cách huy động mọi nguồn vốn tiền tệ chưa sử dụng của các chủ thể kinh tế khác nhau trong xã hội( doanh nghiệp cá nhân, cơ quan đoàn thể, ngân sách nhà nước ...) để hình thành quỹ cho vay tập trung. Trên cơ sở nguồn vốn huy động các ngân hàng sử dụng để cho vay đáp ứng nhu cầu vốn cho các thành phần kinh tế với các mục đích khác nhau. Như vậy, ngân hàng làm môi giới trung gian giữa người đi vay và người cho vay mà thực chất ngân hàng thực hiện một nghiệp vụ kinh doanh bằng việc đi vay để cho vay. Với chức năng trung gian tín dụng ngân hàng thương mại có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Các ngân hàng thương mại đã đáp ứng những nhu cầu, vốn lưu động cần thiết đảm bảo quá trình sản xuất lưu thông hàng hoá liên tục, để mở rộng phạm vi, quy mô hoạt động làm tăng năng lực sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đó. Với chức năng trung gian tín dụng các ngân h àng thương mại còn góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển hàng hoá và vòng quay của đồng tiền nhằm thúc đẩy quá trình phát triển sản xuất lưu thông hàng hoá. Mặt khác hoạt động chức năng trung gian tín dụng quyết định sự phát triển và lớn mạnh của các ngân hàng thương mại. 3.2.2.Chức năng trung gian thanh toán: Bên cạnh chức năng trung gian tín dụng các ngân hàng thương mại còn thực hiện một chức năng quan trọng khác là chức năng trung gian thanh toán của nền kinh tế. Nếu coi nền kinh tế của một quốc gia là một cơ thể sống, có thể nói rằng “ thanh toán” là bộ não xử lý và điều hành mọi hoạt động của c ơ thể. Trong nền kinh tế phát triển thanh toán giữa các đ ối tượng trong xã hội bằng hình thức này hay phương thức khác song phương hay đa phương... hầu hết được thực hiện qua hệ thống các ngân hàng thương mại. Khi sản xuất lưu thông hàng hoá còn ở trình độ thấp, sản phẩm hàng hoá cũng chưa được nâng cao, người ta thanh toán với nhau bằng tiền mặt phù hợp với điều kiện sản xuất, trao đổi hàng hoá lúc đó vì khối lượng thanh toán nhỏ, phạm vi hẹp. Việc sử dụng tiền mặt để thanh toán khá linh hoạt, người ta có thể chuyển giao tiền mặt cho nhau một cách dễ dàng. Nhưng khi nền kinh tế ngày càng phát triển, sản xuất lưu thông hàng hoá ở trình độ cao, các ngân hàng thương mại trên cơ sở nhận tiền gửi của khách hàng, thực hiện các khoản thanh toán chi trả cho khách hàng. Bởi hàng ngày n ền kinh tế xuất hiện hàng loạt các quan hệ giao dịch khối lượng các khoản thanh toán lớn. Nếu mọi khoản thanh toán đều thực hiện bằng tiền mặt trực tiếp sẽ dẫn đến các khoản chi phí thanh toán tốn kém như việc in ấn, vận chuyển, đếm nhận, bảo quản tiền và lượng thời gian cũng mất khá nhiều mà hệ số an toàn thấp. Với hoạt động của ngân hàng thương mại trong quá trình làm trung gian tín dụng đã thu hút các nhà kinh doanh buôn bán mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng và tạo điều kiện để ngân hàng giữ vai trò trung gian thanh toán theo lệnh của chủ tài khoản như tính tiền trên tài khoản cuả người mua để chuyển sang tài khoản của nguời bán, cho người này vay để chuyển vào tài khoản của người khác... hoặc phục vụ quá trình thanh toán về hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng. Như vậy, ngân hàng đóng vai trò là “Thủ quỹ” cho các doanh nghiệp, khi hệ thống thanh toán của ngân hàng thương mại ngày càng phát triển với chất lượng các dịch vụ thanh toán ngày càng cao, các nhà doanh nghiệp không cần tiền mặt để thực hiện các khoản thanh toán. Mọi quan hệ thanh toán chi trả đều thực hiện qua tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng thương mại. Ngân hàng thực hiện mọi khoản thu, chi theo lệnh của tài khoản. Chức năng trung gian thanh toán của ngân hàng đã góp phần thực hiện các khoản thanh toán nhanh chóng làm tăng tốc độ luân chuyển vốn. Đồng thời tiết giảm dần tiền mặt trong lưu thông dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt về in ấn, đến nhận, bảo quản. 3.2.3.Chức năng tạo tiền. Người ta đã cho rằng “một trong những chức năng chủ yếu của ngân hàng thương mại là tạo và huỷ tiền”, c ơ sở của chức năng này dựa trên chức năng trung gian tín dụng và chức năng trung gian thanh toán. Nói đến ngân hàng thương mại tạo tiền có nghĩa là ngân hàng thương mại có khả năng tạo tiền gửi mới mà cụ thể ngân hàng có khả năng mở rộng TG. Từ khoản tiền gửi ban đầu vào ngân hàng, thông qua cho vay bằng chuyển khoản trong một hệ thống ngân hàng thương mại số tiền gửi ban đầu đã tăng lên gấp bội, khả năng tăng lên bao nhiêu lần so với tiền gửi ban đầu là do hệ số mở rộng tiền gửi quyết định. Hệ số mở rộng tiền gửi của ngân h àng thương mại chịu sự tác động của nhiều yếu tố nh ư: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ rút tiền mặt của khách hàng và tỷ lệ dự trữ dư thừa. Giả sử trong điều kiện không xuất hiện khoản thanh toán nào bằng tiền mặt, không có khách hàng nào rút tiền mặt (vay vốn bằng tiền mặt) và cũng không có các khoản dự trữ thừa (các ngân hàng đều cho vay hết quỹ cho vay), hệ số mở rộng tiền gửi được tính theo công thức: 1 H= Tỷ lệ dự trữ bắt (H= hệ số mở rộng tiền gửi ) buộc Khi đó giá đ ịnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định của ngân h àng thương mại là 10%, hệ số mở rộng tiền gửi H=10. Nghĩa là hệ thống ngân hàng có khả năng mở rộng tiền gửi gấp 10 lần khoản tiền gửi ban đầu. Trên thực tế nếu có một khách hàng nào đó vay bằng tiền mặt để thanh toán, quá trình tạo tiền sẽ chấm dứt. Nếu khách hàng ch ỉ rút một phần tiền mặt để thanh toán hay nếu các ngân hàng không cho vay hết quỹ cho vay của mình, khả năng mở rộng tiền gửi trong thực tế được tính bằng công thức: 1 H= Tỷ lệ dự trữ bắt buộc + Tỷ lệ thanh toán bằng + Tỷ lệ dự trữ dư thừa tiền mặt của Như vậy khả năng thanh toán mở rộng tiền gửi của ngân hàng thương mại phải được thực hiện trên cơ sở sự kết hợp chặt chẽ giữa nghiệp vụ cho vay và thanh toán không dùng tiền mặt. Do đó đòi hỏi ngân hàng ngày càng hiện đại hoá hệ thống thanh toán để tạo thành thói quen thanh toán qua ngân hàng. Đồng thời phải tận dụng quỹ cho vay để giảm đến mức thấp nhất các khoản dự trữ dư thừa. Chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại có ý nghĩa kinh tế to lớn. Qua hoạt động này làm cho nguồn vốn của ngân hàng thương mại tăng lên tạo điều kiện thanh toán không dùng tiền mặt. Với chức năng tạo tiền ngân hàng trung ương coi ngân hàng thương mại nh ư một kênh quan trọng qua đó ngân hàng trung ương có thể cung ứng tiền vào lưu thông hay thu hẹp khối lượng tiền tệ ngoài lưu thông nhằm đảm bảo sự cân đối giữa cung và cầu tiền tệ, thực hiện chính sách giá cả, tăng trưởng kinh tế lành mạnh và tạo công ăn việc làm. Các chức năng của ngân hàng thương mại có mối quan hệ bổ sung hỗ trợ lẫn nhau trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản tạo c ơ sở cho việc thực hiện các chức năng khác. Đồng thời thực hiện tốt chức năng trung gian thanh toán và “tạo tiền” gốp phần mở rộng hoạt động của chức năng trung gian tín dụng. Ngoài các chức năng chủ yếu kể trên ngân hàng thương mại còn tham gia làm dịch vụ tài chính và nhiều dịch vụ khác nh ư : Tư vấn cho khách hàng trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán, dịch vụ uỷ thác, dịch vụ bảo quản an toàn các tài sản có giá trị, dịch vụ kinh doanh ngoại hối.. nhằm hỗ trợ v à mở rộng hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại trong thị trường tài chính. 3.3 Các nhgiệp vụ ngân hàng thương mại 3.3.1 Nghiệp vụ tài sản nợ N ghiệp vụ tài sản nợ là nghiệp vụ tạo lập vốn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Căn cứ vào tính chất vai trò và nguồn hình thành, nguồn vốn của ngân hàng có các loại sau đây. 3.3.1.2. Vốn huy động Là khoản vốn mà ngân hàng huy động được thông qua hoạt động kinh doanh của mình và đ ược sử dụng vào mục đích hoạt động kinh doanh của chính ngân hàng đó. N guồn vốn huy động là kho ản vốn mà ngân hàng chỉ được phép sử dụng hay nói cách khác đây là khoản vốn tách dời tính sở hữu tính sử dụng rõ nét, nó có tính biến động lớn do đặc thù tạo vốn là không có kỳ hạn , có kỳ hạn dưới 1 năm là chủ yếu và chiếm một tỷ trọng rất lớn do đó các ngân hàng thương mại rất chú ý đến vấn đề an toàn khả năng chi trả, luôn quan tâm đảm bảo vấn đề thanh khoản . N guồn vốn huy động được hình thành từ các bộ phận sau : a)Tiền gửi thanh toán: Là loại tiền gửi để sử dụng phương tiện thanh toán của ngân hàng thương mại hay còn gọi là tiền giao dịch. Tiền gửi này chiếm tuyệt đại bộ phận trong vốn tiền gửi của các doanh nghiệp, thông thường doanh nghiệp, cá nhân ,tổ chức kinh tế gửi tiền vào ngân hàng dưới dạng tiền gửi thanh toán với mục đích sử dụng dịch vụ ngân hàng. Mặt khác các doanh nghiệp còn gửi tiền vào tài kho ản bảo quản với mục tiêu đảm bảo tính an toàn trong thời gian cất giữ tạm thời chưa sử dụng đến. Loại tiền gửi này giá rẻ chi phí đầu vào thấp nhưng lại không ổn định thường xuyên biến động b) Tiền gửi có kỳ hạn Khác với tiền gửi thanh toán, tiền gửi định kỳ là tiền gửi tạm thời chưa sử dụng hoặc là tiền để dành của cá nhân, vì vậy mục đích gửi tiền vào Ngân hàng là nhằm tìm kiếm lợi tức. Đối với Ngân hàng Thương mại, đây là nguồn vốn ổn định trong kinh doanh, do đó lãi suất mà Ngân hàng chi trả cho loại tiền gửi này thường cao hơn đối với tiền gửi thanh toán cá nhân. Mặt khác để khuyến khích khách hàng gửi tiền theo kỳ hạn dài Ngân hàng thường áp dụng nguyên tắc kỳ hạn càng dài lãi suất càng cao. c/ Tiền gửi tiết kiệm. Loại tiền gửi này khách hàng gửi vào Ngân hàng với mục đích rõ ràng là hưởng lãi. Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của mỗi cá nhân, gửi vào Ngân hàng nhằm hưởng lãi suất định kỳ. Đây là một dạng tích luỹ tính toán đặc biệt trong lĩnh vực tiêu dùng cá nhân. Đối với các Ngân hàng Thương mại Việt nam tiền gửi tiết kiệm hết sức đa dạng và phong phú, được chia ra làm các loạ i sau: + Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Theo ph ương thức này người gửi tiền có thể ký thác nhiều lần và rút theo nhu cầu sử dụng. Lãi suất của loại tiền gửi này không cao. + Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: Theo Quyết định số 15/QD-NH1- NHNN Việt nam về tiết kiệm xây dựng nhà ở. Đây là loại hình tiết kiệm trung dài hạn nhằm mục đích xây dựng nhà ở. Người tham gia tiết kiệm loại này sẽ được vay mức tối đa bằng số dư trên tài khoản tiết kiệm xây dựng nhà ở. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn có 2 loại: -Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn được hưởng lãi:loại tiền gửi này có lãi suất cao h ơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. -Tiền gửi tiết kiệm có lãi và có thưởng: Ngoài lãi suất được h ưởng, người gửi còn được thưởng dưới hình thức bằng vàng, tiền, hiện vật thông qua sổ số định kỳ. d/ Các nguồn huy động khác. Cùng với việc huy động tiền gửi, Ngân hàng còn huy động vốn bằng các hình th ức khác: Phát hành trái phiếu, phát hành chứng chỉ tiền gửi. Các loại phiếu nợ này phát hành theo từng đợt và xác định trước thời hạn, lãi suất và cách trả lãi đồng thời được sử dụng vào những mục đích cụ thể. 3.3.1.2.Nguồn vốn đi vay. Đây là nguồn vốn mà các Ngân hàng Thương mại phải sử dụng khi đã huy động hết khả năng của mình mà vẫn thiếu vốn hoạt động. Nguồn vốn này các Ngân hàng Thương mại phải chịu lãi suất cao hơn nguồn vốn huy động nên các Ngân hàng Thương mại rất hạn chế đi vay. Các Ngân hàng Thương mại có thể đi vay Ngân hàng Trung ương và các Tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên Ngân hàng. Tại một thời điểm nào đó có những Ngân hàng thừa vốn, có những Ngân hàng thiếu vốn họ có thể thoả thuận vay vốn lẫn nhau. Khoản vay này chủ yếu được sử dụng để đáp ứng nhu cầu thanh khoản, cho nên thời hạn vay chủ yếu là ngắn hạn thông thường là thời hạn qua đêm (overnight). Vay Ngân hàng Trung ương: Khi Ngân hàng Thương mại gặp khó khăn trong thanh toán, Ngân hàng Thương mại có thể tái tạo vốn tại Ngân hàng Trung ương thông qua việc xin tái cấp vốn (tái chiết khấu). Tuy nhiên việc cho vay của Ngân hàng Trung ương với các Ngân hàng Thương mại không phải với mục đích kinh doanh mà là thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ.Mức lãi suất mà Ngân hàng Thương mại phải chịu khi đi vay thường do Ngân hàng Trung ương và các Tổ chức tín dụng cho vay vốn quy định. 3.3.1.3. Các nguồn vốn khác: Các nguồn này có thể là vốn phát sinh trong thanh toán, phát sinh từ các nghiệp vụ đại lí. Những loại vốn này được tạo ra từ sự chênh lệch trong quá trình thanh toán và sự nhàn rỗi do chưa đến hạn giải ngân cho nên Ngân hàng có thể sử dụng vào kinh doanh. 3.3.1.4. Vốn tự có và coi như tự có. * Vốn tự có của Ngân hàng Thương mại bao gồm vốn điều lệ, quỹ dự trữ của Ngân hàng Thương mại và thuộc sở hữu của Ngân hàng. Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có khi thành lập Ngân hàng được h ình thành theo tính chất sở hữu của các Ngân hàng Thương mại. Vốn điều lệ là vốn đ ược ghi trong điều lệ của Ngân hàng Thương mại nguồn vốn này tối thiểu phải bằng vốn pháp định tương ứng cho từng loại hình Tổ chức tín dụng. Đối với Ngân hàng Thương mại quốc doanh vốn điều lệ là vốn do Ngân sách Nhà nước cấp khi thành lập, các Ngân hàng Thương mại cổ phần vốn điều lệ là do các cổ đông đóng góp... Quỹ dự trữ của Ngân hàng có hai loại: Quỹ dự trữ để bổ sung vốn điều lệ và quỹ dự trữ đặc biệt để bù đắp rủi ro. Việc h ình thành các qu ỹ này làm tăng vốn tự có của Ngân hàng đồng thời đảm bảo an toàn trong kinh doanh. Vì khi Ngân hàng gặp rủi ro trong kinh doanh nếu không có quỹ dự trữ để bù đắp rủi ro sẽ làm giảm nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng. Thậm chí nếu khoản rủi ro lớn sẽ làm giảm khả năng thanh toán của Ngân hàng ảnh hưởng đến uy tín dẫn đến Ngân hàng có nguy cơ bị phá sản. * Vốn coi như tự có của Ngân hàng như: Lợi nhuận chưa chia hoặc các qu ỹ chưa sử dụng như: Qu ỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ Ngân hàng, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ khấu hao TSCĐ... Trong các nguồn vốn của Ngân hàng Thương mại: Vốn tự có chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng mang tính chất ổn định và là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác. Nó không phải là vốn dùng trực tiếp vào kinh doanh nhưng lại có vai trò quan trọng trong kinh doanh của Ngân hàng Thương mại. Vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nh ưng nó thường xuyên biến động nhất là bộ phận tiền gửi không kỳ hạn. Nó là bộ phận vốn quan trọng trong kinh doanh của Ngân hàng Thương mại do đó Ngân hàng phải tìm mọi biện pháp khơi tăng nguồn vốn này để mở rộng phạm vi, quy mô hoạt động kinh doanh. 3.3.2.Nghiệp vụ Tài sản có. Nghiệp vụ Tài sản có là nghiệp vụ sử dụng vốn của Ngân hàng Thương mại. Trên cơ sở hình thành nguồn vốn, Ngân hàng Thương mại sử dụng vốn vào các nghiệp vụ sau: 3.3.2.1.Nghiệp vụ về ngân quỹ. Nghiệp vụ Ngân quỹ là nghiệp vụ nhằm đáp ứng khả năng chi trả và thanh toán của Ngân hàng, hay nói cách khác là tạo nên nguồn dự trữ sơ cấp trong Ngân hàng. Nghiệp vụ này bao gồm: +Tiền mặt tại quỹ Ngân hàng Thương mại: để đáp ứng nhu cầu chi trả tiền mặt thường xuyên cho khách hàng. Hiện nay ở các Ngân hàng Thương mại Việt nam khoản mục này chiếm tỷ trọng khá cao từ 15% - 20%. Nguyên nhân của thực trạng này là do việc sử dụng các phương tiện thanh toán như séc, thẻ thanh toán còn nhiều hạn chế, vì vậy việc rút tiền mặt từ tài khoản ở Ngân hàng hoặc vay bằng tiền mặt để thực hiện các khoản chi trả chiếm một tỷ trọng khá cao. + Tiền gửi của Ngân hàng Thương mại tại Ngân hàng Trung ương: Bao gồm tiền gửi dự trữ bắt buộc (được tính bằng tỷ lệ % của số tiền gửi mà Ngân hàng Thương mại huy động được) theo yêu cầu mục tiêu của chính sách tiền tệ và tiền gửi thanh toán để phục vụ cho các khoản thanh toán giữa các Ngân hàng qua vai trò trung gian thanh toán của Ngân hàng Trung ương. + Tiền gửi tại các Ngân hàng Thương mại: để có thể thực hiện các nghiệp vụ thanh toán chuyển tiền cho khách hàng. Bộ phận này có thể phát sinh hoặc không tuỳ theo mỗi Ngân hàng Thương mại. Nghiệp vụ về Ngân qu ỹ không đem lại nguồn thu nhập cho Ngân hàng hoặc nếu có chỉ là rất ít, nhưng nó lại vô cùng cần thiết cho sự đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả nhanh và đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại. Vì vậy nó tạo ra uy tín của Ngân hàng và là cơ sở để thực hiện các nghiệp vụ khác. 3.3.2.2. Nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng Thương mại. Nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ sinh lợi chủ yếu cho các Ngân hàng Thương mại. Nghiệp vụ này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng Tài sản có của Ngân hàng. Các Ngân hàng Thương mại thực hiện nghiệp vụ này dưới các hình thức: +Nghiệp vụ chiết khấu: Thực chất là nghiệp vụ cho vay ngắn hạn nhưng khoản vay mang tính chất đặc biệt vì người vay chuyển quyền đòi n ợ trên Thương phiếu sang Ngân hàng. Do đó người nhận tiền vay không phải là người trả nợ Ngân hàng, nhận tiền vay đồng thời với việc trả lãi và khi cùng mức lãi suất danh nghĩa, lãi suất chiết khấu thực tế lớn hơn lãi suất tiền vay, khoản chiết khấu giúp Ngân hàng chống được rủi ro vì có cơ sở đảm bảo chắc chắn là thương phiếu. + Cho vay ứng trước: Thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng trong đó khách hàng được sử dụng một mức tiền vay trong một thời hạn nhất định. Cho vay ứng trước được thực hiện bằng hai h ình thức: ứng trước có đảm bảo và ứng trước không có đảm bảo mà chỉ dựa vào uy tín của khách hàng đối với Ngân hàng. + Ngoài ra còn có các hình thức: Cho vay vượt chi trên tài khoản vãng lai, tín dụng ngân quỹ, tín dụng bằng chữ ký ( bảo lãnh của Ngân hàng ), tín dụng thuê mua, tín dụng trả góp ... Thông qua nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng không những thu được lợi nhuận từ chênh lệch giữa lãi suất Cho va y và lãi suất huy động vốn mà Ngân hàng còn cung cấp nguồn vốn đáng kể cho nền kinh tế. Nghiệp vụ này của Ngân hàng Thương mại đã giúp cho những người có tiền nhàn rỗi có cơ hội đầu tư để thu lợi tức còn người đi vay có vốn để sản xuất kinh doanh. Nghiệp vụ này đã đem lại cho Ngân hàng một khoản thu nhập cao nhất nhưng cũng là một nghiệp vụ có rủi ro lớn nhất. Do vậy, khi thực hiện nghiệp vụ này Ngân hàng cần phải quan tâm tới vấn đề rủi ro và phải lựa chọn thời hạn tín dụng thật hợp lý đồng thời phải quan tâm tới tính chất kết cấu của nguồn vốn, chấp hành các giới hạn do pháp luật và Ngân hàng Trung ương quy định. 3.3.2.3. Nghiệp vụ đầu tư kinh doanh khác. Với mục đích tìm kiếm lợi nhuận, năng cao khả năng thanh khoản, đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh nhằm phân tán rủi ro cho hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Ngoài các nghiệp vụ tín dụng, nghiệp vụ ngân quỹ các Ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ khác: đầu tư theo dự án, đầu tư vào chứng khoán, liên doanh liên kết với các tổ ch ức kinh tế khác... Các nghiệp vụ kinh doanh này không những làm tăng thêm thu nhập cho Ngân hàng mà còn giúp cho Ngân hàng vươn lên mở rộng phạm vi ảnh hưởng tới các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác. 3.3.2.4 - Tài sản cố định. Khác với các xí nghiệp công nghiệp, Tài sản cố định của các Ngân hàng thường chiếm tỷ trọng nhỏ(khoảng 10% so với Tài sản có ) bao gồm: trụ sở làm việc, xe ô tô, hệ thống máy vi tính, các trang thiết bị khác... Tuy không tạo ra nguồn thu nhập cho Ngân hàng nhưng đây là phương tiện vô cùng cần thiết và quan trọng không thể thiếu đối với bất kỳ Tổ chức tín dụng nào để làm cơ sở và phương tiện cho Ngân hàng Thương mại tiến hành hoạt động kinh doanh của mình. Nhìn chung mọi khoản mục của Tài sản có đều mang lại lợi ích cho Ngân hàng, tuỳ từng loại Tài sản có mà thu nhập mang lại cho Ngân hàng cao hay thấp. Việc Ngân hàng Thương mại quản lý phù hợp, hài hoà giữa các loại Tài sản có là cơ hội để giảm thiểu rủi ro và tối đa hoá lợi nhuận cho hoạt động kinh doanh của mình. 3.3.3 - Nghiệp vụ trung gian. Ngoài các hoạt động nói trên, Ngân hàng còn có khả năng làm các nghiệp vụ trung gian để hưởng hoa hồng khác. Đối với các Ngân h àng Thương mại, các nghiệp vụ trung gian này ngày càng chiếm vị trí quan trọng và mang lại nguồn thu đáng kể. Hơn nữa việc thực hiện tốt các nghiệp vụ này cũng là một trong các công cụ để cạnh tranh của các Ngân hàng Thương mại trên thị trường. Các nghiệp vụ trung gian có thể hình thành nguồn vốn hoặc phản ánh việc sử dụng vốn của Ngân hàng Thương mại. 3.3.3.1- Nghiệp vụ thu chi chuyển tiền cho khách hàng. Đây là nghiệp vụ hoàn toàn mang tính chất dịch vụ đơn thuần, Ngân hàng không cần sử dụng tới nguồn vốn kinh doanh của mình để hoạt động phục vụ khách hàng. Nghiệp vụ này xuất phát từ yêu cầu của khách hàng bằng tất cả điều kiện và phương tiện tài sản của Ngân hàng sẽ đáp ứng nhanh chóng chính xác yêu cầu đó qua đó Ngân hàng thu được một khoản thanh toán phí phục vụ hay còn gọi là lệ phí. Nghiệp vụ thu hộ: Nghiệp vụ này áp dụng chủ yếu trong thanh toán tiền hàng giữa người mua và người bán trên cơ sở hợp đồng kinh tế hay đơn đặt hàng. Sau khi hoàn thiện việc giao hàng, người bán lập uỷ nhiệm thu số tiền hàng đã bán nhờ Ngân hàng đứng ra thu hộ và Ngân hàng được hưởng một khoản phí. Nghiệp vụ chi hộ: Được áp dụng trong thanh toán tiền hàng dịch vụ cũng như thanh toán phí. Bên chi trả chủ động lập uỷ nhiệm chi tới Ngân hàng xin trích tài khoản tiền gửi trả cho người thụ h ưởng. Nghiệp vụ chuyển tiền: nghiệp vụ này là hình thức thanh toán đơn giản trong đó người chuyển tiền uỷ nhiệm cho Ngân hàng chuyển một số tiền nhất định cho người thụ hưởng. Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường, nghiệp vụ thu chi, chuyển tiền qua Ngân hàng ngày càng được mở rộng. Tuy nó là một nghiệp vụ hết sức đơn giản mang tính chất truyền thống nhưng nghiệp vụ này ngày càng thay đổi về chất, do có sự ứng dụng công nghệ tin học vào hoạt động Ngân hàng làm đẩy nhanh tốc độ thanh toán, đảm bảo an toàn. Do vậy đã tạo cho Ngân hàng một khoản thu đáng kể. 3.3.3.2. Nghiệp vụ đại lí về chứng khoán. Ngân hàng thương mại tham gia trên thị trường chứng khoán với tư cách bình thường như các chủ thể khác. Nhưng do đặc trưng của hoạt động kinh doanh Ngân hàng đã cho phép Ngân hàng Thương mại làm các nghiệp vụ như: làm đại lí phát hành chứng khoán, mua bán và bảo quản chứng khoán cho khách hàng... 3.3.3.3-Nghiệp vụ uỷ thác. Nghiệp vụ uỷ thác của Ngân hàng thực hiện quản lý tài sản của khách hàng theo chúc thư, hợp đồng. Nghiệp vụ này đư ợc các Ngân hàng Thương mại quan tâm và phát triển từ giữa thế kỷ 20 này, đã đem lại cho Ngân hàng nguồn thu nhập đáng kể. Ngoài thu nhập nghiệp vụ uỷ thác còn mang lại cho Ngân hàng hai lợi thế khác. Đó là: Ngân hàng không phải mất vốn mà vẫn có thể thực hiện việc kiểm soát ở những mức khác nhau đối với các công ty và vốn cuả các công ty, thông qua hợp đồng uỷ thác Ngân hàng có thể có mối quan hệ tốt đối với khách hàng đặc biệt là khách hàng có doanh số hoạt động lớn. 3.3.3.4 - Nghiệp vụ tư vấn về đầu tư. Thông qua hoạt động Ngân hàng có thể giúp cho khách hàng biết sử dụng các nguồn vốn đầu tư sao cho có hiệu quả nhất. Bởi vì hoạt động Ngân hàng có liên quan đến nhiều lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh khác nhau, có điều kiện năm bắt được nhiều thông tin, từ đó có thể cung cấp những chỉ tiêu d ự báo cho khách hàng, để khuyên khách hàng nên hay không nên thực hiện đầu tư kinh doanh vào một lĩnh vực nào đó. Để thực hiện nghiệp vụ này các Ngân hàng thường tiến hành thành lập các công ty tư vấn đầu tư - trực thuộc Ngân hàng. Ngoài ra nghiệp vụ trung gian còn bao gồm các nghiệp vụ khác như : + Nghiệp vụ mua bán, bảo quản vàng bạc, đá quý, ngoại tệ, vật có giá... + Nghiệp vụ thanh lí tài sản khi doanh nghiệp bị giải thể, phá sản + Nghiệp vụ bảo lãnh ... Các nhà quản lý Ngân hàng Thương mại ở nhiều nước đã đánh giá rất cao ý nghĩa của nghiệp vụ trung gian để h ưởng hoa hồng và coi đây là chìa khoá mở ra hướng hoạt động của Ngân hàng trong tương lai. Các nghiệp vụ của Ngân hàng Thương mại có quan hệ bổ xung hỗ trợ lẫn nhau trong đó nghiệp vụ Tài sản nợ là cơ sở để thực hiện nghiệp vụ Tài sản có. Nhưng nghiệp vụ Tài sản có làm tăng khả năng sinh lời của Ngân hàng Thương mại sẽ góp phần mở rộng nguồn vốn của Ngân h àng do vốn dự trữ, tăng khả năng huy động vốn. Trên cơ sở nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng Thương mại mà có thể thực hiện được các nghiệp vụ trung gian, nhưng thực hiện tốt các nghiệp vụ trung gian sẽ tạo điều kiện khơi tăng nguồn vốn và mở rộng việc sử dụng vốn vì nghiệp vụ trung gian vừa là nghiệp vụ Tài sản nợ vừa là nghiệp vụ Tài sản có. 4 - Vai trò của hạch toán kế toán đối với hoạt động của Ngân hàng Thương mại. Hạch toán kế toán là khoa học quản lý, nghiên cứu quá trình sản xuất xã hội thông qua sự vận động của tài sản trong nền kinh tế. Nó cũng đề ra phương pháp ghi chép bằng con số, biểu hiện giá trị bằng tiền tệ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh một cách kịp thời, đầy đủ, chính xác, có hệ thống theo tr ình tự thời gian, phân loại tính toán tổng hợp lưu trữ và cung cấp thông tin cho các đối tượng nhằm mục đích bảo vệ an toàn tài sản, quản trị kinh doanh và quản lý kinh tế . Đối với Ngân hàng Thương mại cũng như đối với các doanh nghiệp khác, hạch toán kế toán cung cấp các thông tin về tình hình tài chính, sự biến động của nguồn vốn, phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cũng nh ư thu nhập, chi phí và lợi nhuận của từng loại nghiệp vụ, dịch vụ. Nó nhằm giúp cho giám đốc Ngân hàng ra các Quyết định điều hành kịp thời, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh, đồng thời giúp đề ra chiến lược cho Ngân hàng mình. Hơn nữa hạch toán kế toán giúp cho các Ngân hàng Thương mạ i nắm bắt được thực trạng tài sản, tình hình kinh doanh, triển vọng và khả năng trả nợ của các doanh nghiệp khách hàng. Tạo điều kiện cho các Ngân hàng Thương mại đưa ra các Quyết định cho vay phù hợp và hiệu quả cao nhất. Các Ngân hàng được tổ chức thành hệ thống, mỗi Ngân hàng gồm nhiều chi nhánh đặt tại các khu vực để phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Nên hạch toán kế toán cung cấp cho Ngân hàng Thương mại Trung ương các thông tin về tình hình tài chính, hiệu quả kinh doanh của các Ngân hàng chi nhánh để thực hiện việc điều hoà vốn và phân phối lợi nhuận trong toàn hệ thống. Tóm lại, hạch toán kế toán có vai trò quan trọng và không thể thiếu để thực hiện các chế độ hạch toán kinh doanh đối với các doanh nghiệp và các Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường. II. Cơ chế tài chính của Ngân hàng Thương mại . 1. Cơ chế tài chính của Ngân hàng Thương mại nói chung. Mỗi Ngân hàng Thương mại là một đ ơn vị kinh doanh độc lập, có đầy đủ tư cách pháp nhân, có vốn tự có ban đầu và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của mình. Đồng thời các Ngân hàng Thương mại được quyền tự do kinh doanh theo khả năng của mình và được quyền cạnh tranh với nhau trong khuôn khổ pháp luật và những quy định của Ngân hàng Trung ương như: Tỷ lệ dụ trữ bắt buộc, khung lãi suất chỉ đạo, các hệ số an toàn trong kinh doanh và các chế độ thể lệ... Vì v ậy cơ chế tài chính của các Ngân hàng Thương mại có những đặc trưng cơ bản sau: Nguồn vốn kinh doanh của các Ngân hàng Thương mại bao gồm:vốn do Ngân sách Nhà nước cấp (đối với các Ngân hàng Thương mại Quốc doanh), vốn cổ phần (đối với các Ngân hàng Thương mại Cổ phần), vốn huy động, vốn liên doanh liên kết, vốn vay (vay Ngân hàng Nhà nước, vay các Tổ ADSENSE ADSENSE CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD LV.01: Bộ Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Kinh Doanh MBA 165 tài liệu 1774 lượt tải Mẫu bìa báo cáo tốt nghiệp 22 p | 5250 | 1707 Báo cáo tốt nghiệp “Thị trường tài chính Việt Nam, thực trạng và giải pháp phát triển” 21 p | 1695 | 500 Báo cáo tốt nghiệp "Nâng cao chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp trong nước" 24 p | 845 | 399 Báo cáo tốt nghiệp: Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp xây dựng Binh đoàn 11 67 p | 563 | 261 Báo cáo tốt nghiệp: "u thực trạng công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn của nước ta trong giai đoạn hiện nay và các giải pháp của quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn. 34 p | 495 | 245 Báo cáo tốt nghiệp "Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam" 25 p | 459 | 231 Báo cáo tốt nghiệp: “Hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Xí nghiệp xây dựng 244 62 p | 499 | 225 Báo cáo tốt nghiệp: Hạch toán các nghiệp vụ thanh toán với người bán, khách hàng và Nhà nước với việc tăng cường quản lý tài chính tại công ty cổ phần đầu tư và phát triển công nghệ Đông Á 85 p | 633 | 223 Báo cáo tốt nghiệp: Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Cơ khí và sửa chữa công trình cầu đường bộ II 65 p | 474 | 196 Báo cáo tốt nghiệp Vai trò của khoa học công nghệ đối với sự phát triển công nghiệp Việt Nam 28 p | 436 | 179 Hướng dẫn làm Báo cáo tốt nghiệp (hoặc báo cáo đồ án môn học) - BM. Điện tử Viễn thông 9 p | 913 | 133 Hướng dẫn viết báo cáo tốt nghiệp 187 p | 339 | 111 BÁO CÁO TỐT NGHIỆP: "Phân tích tình hình thực hiện doanh thu bán hàng tại Công ty giầy Thuỵ Khuê" 64 p | 325 | 109 Báo cáo tốt nghiệp: Một số công tác nhằm hoàn thiện công tác lập báo cáo và phân tích báo cáo tài chính tại công ty cơ khí và thiết bị điện Đà Nẵng 63 p | 317 | 106 Báo cáo tốt nghiệp: " XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÁO CÁO BỘ PHẬN PHỤC VỤ QUẢN LÝ NỘI BỘ Ở CÔNG TY DU LỊCH VIÊT NAM TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG " 48 p | 307 | 91 báo cáo tốt nghiệp "Một số giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao khả năng thắng thầu của Công ty xây dựng 319" 71 p | 198 | 88 BÁO CÁO TỐT NGHIỆP: "Nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty cổ phần ăn uống khách sạn Hà Tây" 62 p | 230 | 60 BÁO CÁO TỐT NGHIỆP: "Hoàn thiện các hình thức trả lương, trả thưởng tại Công ty dệt kim Thăng Long" 58 p | 154 | 49 Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn: Đồng ý Thêm vào bộ sưu tập mới: *Tên bộ sưu tập Mô Tả: *Từ Khóa: Tạo mới Báo xấu Hãy cho chúng tôi biết lý do bạn muốn thông báo. Chúng tôi sẽ khắc phục vấn đề này trong thời gian ngắn nhất. Không hoạt động Có nội dung khiêu dâm Có nội dung chính trị, phản động. Spam Vi phạm bản quyền. Nội dung không đúng tiêu đề. Hoặc bạn có thể nhập những lý do khác vào ô bên dưới (100 ký tự): Vui lòng nhập mã xác nhận vào ô bên dưới. Nếu bạn không đọc được, hãy Chọn mã xác nhận khác.. Đồng ý YOMEDIA THÔNG TIN Về chúng tôi Quy định bảo mật Thỏa thuận sử dụng Quy chế hoạt động TRỢ GIÚP Hướng dẫn sử dụng Upload tài liệu Hỏi và đáp HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG Liên hệ Hỗ trợ trực tuyến Liên hệ quảng cáo Theo dõi chúng tôi Chịu trách nhiệm nội dung: Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA LIÊN HỆ Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM Hotline:0933030098 Email: support@tailieu.vn Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved. Đang xử lý... Đồng bộ tài khoản Login thành công! ' ); //2 jQuery.fancybox( ' ' ); }); ' ); vo }); 2=>2
1610704847953.98.parquet/83209
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 44364, "url": "https://tailieu.vn/doc/bao-cao-tot-nghiep-ke-toan-thu-nhap-chi-phi-va-xac-dinh-ket-qua-kinh-doanh-tai-nhno-ptnt-ch-1237221.html" }
114.7
etetet.net : in file /home/admin/lab307PL1/sysFuncHTML.php on line 140: include_once(/home/tehat.com/web/public/slideshow/cssSlideShow.php): failed to open stream: No such file or directory [phpBB Debug] PHP Notice: in file /home/admin/lab307PL1/sysFuncHTML.php on line 140: include_once(): Failed opening '/home/tehat.com/web/public/slideshow/cssSlideShow.php' for inclusion (include_path='.:/opt/local/lib/php') Register . Login bìa đối thoại chuyện cổ tích tình sầu đại mạc tàn phai mùa vô bếp anh sẽ đón em đi vào mơ đưa em đến không gian tuyệt vời bỏ quên mưa gió, rời xa giông bão vui như tháng năm không già và câu hát say mê đời chợt cao vút. cuộc đời như là chiêm bao cơn vui thoáng qua đã mất em ơi, tuổi Xuân đâu có bao nhiêu đừng nhìn xa vời em ơi xin em hãy mơ thật gần xin em hãy coi ngày vui là đây... _______________________________________________ Ngày... Tháng... Năm... - thơ - Phiến Băng _______________________________________________ Trời đất lại bắt đầu giao mùa mọi thứ trên đời đang thay đổi nhưng anh vẫn ngồi viết không phải là những bài thơ với nội dung to lớn không là những áng văn chương vĩ đại chỉ là những giấc mơ nho nhỏ những khắc khoải trong anh - trong em xem tiếp... _______________________________________________ Tuyết Rơi - văn - Lam Giang _______________________________________________ Trắng bừng một màu bạch tuyết, đất và thông xanh ẩn màu dưới lớp tuyết mịn màng. Qua một đêm, con đường, ngọn cây, mái nhà... đã phủ miên man tuyết trắng. xem tiếp... _______________________________________________ Auld Lang Syne - nhạc - npn _______________________________________________ xem tiếp... _______________________________________________ Happy New Year - ảnh - Đỗ Danh Đôn _______________________________________________ xem tiếp...
1610704847953.98.parquet/70152
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 991, "url": "http://etetet.net/bb/?spost=25189" }
114.5
Trí tuệ cảm xúc EQ là gì? | Test Nhanh 3S Chuyển đến nội dung Test Nhanh 3S Menu Test IQ Test EQ Các bài Test khác MBTI DISC Trắc Nghiệm Holland Sinh Trắc Vân Tay Trí tuệ cảm xúc EQ là gì? Tháng Mười Hai 1, 2020 Tháng Chín 20, 2020 Bởi Test Nhanh 3S Nếu bạn cho rằng chỉ số IQ quan trọng hơn, bạn có thể ngạc nhiên về những gì bạn sẽ học được trong phần này. Một số người cho rằng nó quan trọng đối với sự thành công của chúng ta hơn là trí thông minh nhận thức. Nếu bạn không chắc trí tuệ cảm xúc là gì, thì bạn đã đến đúng nơi. Đọc để tìm hiểu về nó là gì và tại sao bạn nên biết về nó. Trước khi bạn đọc tiếp, chúng tôi nghĩ bạn có thể muốn làm bài Test EQ nhanh miễn phí của Test Nhanh 3S. Các bài tập dựa trên khoa học này sẽ không chỉ nâng cao khả năng hiểu và làm việc với cảm xúc của bạn mà còn cung cấp cho bạn công cụ để thúc đẩy trí tuệ cảm xúc của khách hàng, sinh viên hoặc nhân viên của bạn. Trí tuệ cảm xúc là gì? Được rút ra từ một số nguồn khác nhau, một định nghĩa đơn giản về trí tuệ cảm xúc (còn được gọi là Chỉ số cảm xúc, hoặc EQ) mô tả khả năng theo dõi cảm xúc của chính bạn cũng như cảm xúc của người khác, để phân biệt và gắn nhãn các cảm xúc khác nhau một cách chính xác và sử dụng thông tin cảm xúc để hướng dẫn suy nghĩ và hành vi của bạn và ảnh hưởng đến người khác (Goleman, 1995; Mayer & Salovey, 1990). Trí tuệ cảm xúc là những gì chúng ta sử dụng khi chúng ta đồng cảm với đồng nghiệp của mình, trò chuyện sâu sắc về mối quan hệ của chúng ta với những người quan trọng và cố gắng quản lý một đứa trẻ ngỗ ngược hoặc quẫn trí. Nó cho phép chúng ta kết nối với những người khác, hiểu bản thân mình hơn và sống một cuộc sống đích thực, lành mạnh và hạnh phúc hơn. Mặc dù có nhiều loại trí thông minh và chúng thường được kết nối với nhau, nhưng có một số khác biệt rất đáng kể giữa chúng. EQ so với IQ EQ là trí tuệ cảm xúc, như đã nói ở trên, là tất cả về việc xác định cảm xúc trong bản thân và người khác, liên quan đến người khác và truyền đạt cảm xúc của chúng ta (Cherry, 2018a). Giống như EQ thì IQ cũng có thể biết được thông qua các bài IQ test online Mặt khác, IQ là trí thông minh nhận thức. Đây là trí thông minh mà mọi người thường quen thuộc nhất, vì nó là loại thường được nhắc đến nhiều nhất khi sử dụng từ “thông minh”. Đây cũng là loại thường được đo lường nhất thông qua kiểm tra và ước tính thông qua những thứ như điểm trung bình. Trí tuệ xã hội so với Trí tuệ cảm xúc Trí tuệ xã hội có liên quan mật thiết đến trí tuệ cảm xúc hơn là chỉ số IQ, vì cả hai đều liên quan đến việc điều hướng các tình huống xã hội hoặc cảm xúc. Tuy nhiên, đây là hai loại trí thông minh khác biệt ngay cả khi chúng có phần trùng lặp. Trí tuệ cảm xúc liên quan nhiều hơn đến hiện tại, trong đó nó được sử dụng để xác định và quản lý cảm xúc trong thời điểm này. Trí tuệ xã hội sử dụng một số kỹ năng và khả năng giống nhau nhưng thường tập trung vào tương lai. Nó cho phép bạn hiểu được cảm xúc, tính cách và hành vi của bản thân và những người khác để tìm kiếm kết quả tích cực (Chou, 2016). Trí tuệ cảm xúc trong Tâm lý học Trí tuệ cảm xúc đã lấp đầy một khoảng trống trong hiểu biết chính thống về trí thông minh, đặc biệt là đối với các nhà tâm lý học. Mọi người dường như luôn hiểu rằng IQ không phải là tất cả, nhưng các lý thuyết về cái gì, chính xác, các thành phần quan trọng khác rất khác nhau và các nhà tâm lý học không thể thống nhất về một khái niệm hoặc ý tưởng. Khi ý tưởng về trí thông minh cảm xúc lần đầu tiên được giới thiệu, các nhà tâm lý học nhận ra rằng đó là khía cạnh của trí thông minh mà họ đã thiếu. 5 Kỹ năng Chính trong Khung Trí tuệ Cảm xúc Đây khuôn khổ trí tuệ cảm xúc đã được điều chỉnh để phù hợp với kinh doanh và bối cảnh của tổ chức. Trong bối cảnh tổ chức này, có một số kỹ năng và khả năng phụ trong mỗi thành phần góp phần nâng cao trí tuệ cảm xúc và thành công lớn hơn với tư cách là nhân viên, thành viên nhóm và thành viên tổ chức: Tự nhận thức: Nhận thức cảm xúc: nhận biết cảm xúc của một người và ảnh hưởng của chúng; Tự đánh giá chính xác: biết điểm mạnh và giới hạn của bản thân; Sự tự tin: sự chắc chắn về giá trị và năng lực của bản thân. Tự điều chỉnh: Kiểm soát bản thân: quản lý những cảm xúc và xung động gây rối loạn; Đáng tin cậy: duy trì các tiêu chuẩn về sự trung thực và chính trực; Tận tâm: chịu trách nhiệm về kết quả làm việc của cá nhân; Khả năng thích ứng: linh hoạt trong việc xử lý sự thay đổi; Tính đổi mới: thoải mái và cởi mở với những ý tưởng mới và thông tin mới. Động lực bản thân: Động lực thành tích: phấn đấu để cải thiện hoặc đạt tiêu chuẩn xuất sắc; Cam kết: phù hợp với mục tiêu của nhóm hoặc tổ chức; Sáng kiến: sẵn sàng hành động khi có cơ hội; Lạc quan: kiên trì theo đuổi mục tiêu bất chấp những trở ngại và thất bại. Đồng cảm / Nhận thức xã hội: Đồng cảm: cảm nhận được cảm xúc và quan điểm của người khác, đồng thời tích cực quan tâm đến mối quan tâm của họ; Định hướng dịch vụ: đón đầu, nhận biết và đáp ứng nhu cầu của khách hàng; Phát triển người khác: cảm nhận những gì người khác cần để phát triển và củng cố khả năng của họ; Tận dụng sự đa dạng: nuôi dưỡng cơ hội thông qua những người đa dạng; Nhận thức chính trị: đọc các dòng cảm xúc của một nhóm và các mối quan hệ quyền lực. Kỹ năng xã hội: Ảnh hưởng: sử dụng các chiến thuật hiệu quả để thuyết phục. Giao tiếp: gửi thông điệp rõ ràng và thuyết phục. Lãnh đạo : truyền cảm hứng và hướng dẫn các nhóm và mọi người. Chất xúc tác thay đổi: khởi xướng hoặc quản lý sự thay đổi. Quản lý xung đột: thương lượng và giải quyết các bất đồng. Xây dựng mối quan hệ: nuôi dưỡng các mối quan hệ công cụ. Hợp tác và hợp tác: làm việc với những người khác hướng tới mục tiêu chung (xem trí tuệ cảm xúc ở nơi làm việc ). Năng lực nhóm: tạo ra sức mạnh tổng hợp của nhóm trong việc theo đuổi các mục tiêu tập thể (Goleman, 1998). 4 Kích thước của Trí tuệ Cảm xúc (và Biểu đồ) Theo “những người cha sáng lập” EQ Salovey và Mayer, có bốn khía cạnh hoặc nhánh riêng biệt của trí tuệ cảm xúc hình thành một hệ thống phân cấp các kỹ năng và khả năng cảm xúc: Nhận thức cảm xúc; Sử dụng cảm xúc để tạo điều kiện cho suy nghĩ; Hiểu biết về cảm xúc; Quản lý cảm xúc. Chiều thứ nhất, nhận thức cảm xúc, liên quan đến nhận thức và nhận biết trạng thái của người khác (cả trạng thái thể chất và tâm lý, như đau đớn về thể xác hoặc cảm thấy yếu ớt), xác định cảm xúc ở người khác, thể hiện cảm xúc và nhu cầu của chính mình một cách chính xác và phù hợp, và phân biệt giữa cảm giác chính xác, trung thực và cảm giác không chính xác, không trung thực. Sử dụng cảm xúc để thúc đẩy suy nghĩ bao gồm việc chuyển hướng và ưu tiên suy nghĩ của bạn dựa trên cảm xúc liên quan đến những suy nghĩ đó, tạo ra cảm xúc sẽ tạo điều kiện cho khả năng phán đoán và ghi nhớ tốt hơn, tận dụng những thay đổi tâm trạng để bạn có thể đánh giá cao nhiều quan điểm và sử dụng trạng thái cảm xúc để cải thiện kỹ năng giải quyết vấn đề và sáng tạo. Chiều hướng hiểu biết về cảm xúc bao gồm hiểu mối quan hệ giữa các cảm xúc khác nhau, nhận thức nguyên nhân và hậu quả của cảm xúc, hiểu cảm giác phức tạp và trạng thái mâu thuẫn, và hiểu sự chuyển đổi giữa các cảm xúc. Chiều hướng cuối cùng, quản lý cảm xúc, đề cập đến việc cởi mở với cả những cảm giác dễ chịu và khó chịu; theo dõi và phản ánh cảm xúc của bạn; lôi cuốn, kéo dài hoặc tách khỏi trạng thái cảm xúc; và quản lý cảm xúc của cả bản thân và người khác (Emmerling, Shanwal, & Mandal, 2008; Mayer & Salovey, 1997). Giải thích về đặc điểm trí tuệ cảm xúc Để cập nhật nhanh về đặc điểm so với trạng thái, hãy xem mô tả bên dưới. Một nhà nước là một tạm thời kiểu mẫu suy nghĩ / cảm giác / hành vi đó là gián tiếp và phụ thuộc nhiều vào môi trường cũng như cá tính của cá nhân. Một đặc điểm là một mô hình tư tưởng vĩnh viễn hoặc bán kiên cố / cảm giác / hành vi đó là phù hợp, lâu dài và tương đối ổn định với những đặc điểm được nhiều hơn nữa phụ thuộc vào cá tính hơn môi trường. Dựa trên những mô tả này, chúng ta có thể thấy rằng trí tuệ cảm xúc thường thuộc về mặt đặc điểm của sự liên tục trạng thái – đặc điểm, mặc dù trí tuệ cảm xúc và các kỹ năng và khả năng liên quan đến EQ của chúng ta chắc chắn có thể thay đổi tùy theo hoàn cảnh của chúng ta. Ví dụ, một người có thể thông minh về mặt cảm xúc trong các mối quan hệ cá nhân hơn là trong các tình huống công việc, hoặc ngược lại. Tuy nhiên, trí tuệ cảm xúc thường được coi là một đặc điểm. Bám sát việc hình thành khái niệm đặc điểm, chúng ta hãy đi sâu hơn một chút vào điều gì khiến ai đó có chỉ số EQ cao. Tại sao việc phát triển kỹ năng trí tuệ cảm xúc lại quan trọng? Tại sao chúng ta nên quan tâm đến việc phát triển các kỹ năng trí tuệ cảm xúc của mình ? Có thể hiểu được cảm xúc của bạn là điều cơ bản để hiểu được điều gì sẽ dẫn bạn đến sự thăng hoa và hoạt động hiệu quả hơn. Đó là bởi vì là con người, chúng ta có xu hướng trở thành những sinh vật có cảm xúc và xã hội cao. Thông minh về mặt cảm xúc sẽ giúp bạn kết nối với những người khác, nâng cao hiệu suất trong công việc, cải thiện kỹ năng giao tiếp, trở nên kiên cường hơn và hơn thế nữa. Nó chỉ ra rằng có một mức EI cao có thể giúp bạn thành công trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Trí tuệ cảm xúc cho Học viên Tâm lý Tích cực Nếu bạn là người thực hành tâm lý học tích cực theo bất kỳ cách nào — có thể là một huấn luyện viên, một nhà trị liệu hoặc cố vấn hoặc một nhà giáo dục — thì bạn có thể đã biết những lợi ích của trí tuệ cảm xúc cao. Có thể hiểu, nhận biết và quản lý hiệu quả cả cảm xúc tích cực và tiêu cực sẽ giúp các nhà tâm lý học tích cực tương tác với khách hàng, thúc đẩy hiệu suất của chính họ và tỷ lệ thành công của khách hàng. Các chuyên gia không sử dụng trí tuệ cảm xúc với khách hàng của họ có thể thấy các biện pháp can thiệp của họ không hiệu quả. Nếu khách hàng của bạn gặp khó khăn khi “đọc” bạn và không thể sử dụng bạn như một ví dụ về trí tuệ cảm xúc , họ sẽ gặp khó khăn trong việc nâng cao EQ của chính họ. Quản lý bản thân và quản lý mối quan hệ Quản lý bản thân và quản lý mối quan hệ là hai kỹ năng quan trọng cần có trong cuộc sống. Chúng không chỉ giúp chúng ta có cuộc sống hạnh phúc hơn, khỏe mạnh hơn mà còn giúp chúng ta vượt qua cả ngày — đặc biệt là một ngày đầy thử thách. Tự quản lý là bước đầu tiên, vì chúng ta phải học cách quản lý bản thân trước khi có thể quản lý các mối quan hệ lành mạnh và phù hợp với những người khác. Học cách quản lý bản thân cho phép bạn kiểm soát cảm xúc của chính mình (ở một mức độ nhất định) và tạo động lực cho bản thân trong mọi tình huống. Cải thiện kỹ năng quản lý mối quan hệ cho phép bạn xây dựng các mối quan hệ lành mạnh và giao tiếp hiệu quả trong mọi tình huống, bao gồm cởi mở với người khác, hiểu rõ quan điểm của bạn, thuyết phục người khác và trung thực mà không xa lánh hoặc xúc phạm người khác. Xây dựng trí thông minh cảm xúc của bạn có thể giúp bạn với cả hai kỹ năng quan trọng này, bên cạnh các kỹ năng khác. Ví dụ, trí tuệ cảm xúc có thể giúp bạn ở nơi làm việc — cho dù bạn là nhân viên, người quản lý hay chủ doanh nghiệp. Trí tuệ cảm xúc ở nơi làm việc Chỉ một tổ chức có các thành viên sở hữu trí tuệ cảm xúc mới có thể hoạt động đạt hiệu quả tối đa. Trí tuệ cảm xúc chỉ làm tăng thành công của tổ chức, bất kể thành công đó được đo lường như thế nào. Điểm mấu chốt là nó rất cần thiết cho sự xuất sắc trong kinh doanh. Trí tuệ cảm xúc có thể làm nên điều kỳ diệu cho doanh nghiệp của bạn vì sử dụng nó trong công việc sẽ khiến bạn hiểu được cách thức hoạt động của mọi người và các mối quan hệ. Các đồng nghiệp thông minh về cảm xúc sẽ luôn xuất sắc trong khả năng lãnh đạo, làm việc theo nhóm, quan hệ đối tác và tầm nhìn bởi vì họ sẽ có cái nhìn sâu sắc về mối quan hệ của họ với nhân viên, tổ chức, giám đốc, khách hàng, đối thủ cạnh tranh, kết nối mạng, v.v. Một tổ chức gồm những người thông minh về mặt cảm xúc sử dụng các nhân viên có động lực, năng suất, hiệu quả, hiệu quả, được khen thưởng và đáng yêu và mục tiêu của họ sẽ phù hợp hơn với chương trình nghị sự của tổ chức. Điều này là do trí tuệ cảm xúc có thể áp dụng cho mọi tương tác của con người trong kinh doanh; có một đội ngũ nhân viên có EQ trung bình cao sẽ giúp thực hiện dịch vụ khách hàng, động não các ý tưởng, thuyết trình về công ty và vô số các hoạt động khác. Trí tuệ cảm xúc ở nơi làm việc sẽ giúp bạn đánh giá con người tốt hơn, hiểu cách các mối quan hệ phát triển, hiểu cách niềm tin của chúng ta tạo ra kinh nghiệm của chúng ta và học cách ngăn chặn các cuộc tranh giành quyền lực, phán xét tiêu cực, phản kháng, v.v. để tăng tầm nhìn và thành công. Trí tuệ cảm xúc ảnh hưởng đến việc ra quyết định như thế nào Liên quan đến điểm trước đó, trí tuệ cảm xúc cao cũng sẽ cải thiện khả năng ra quyết định. Những người hiểu rõ về bản thân và những người xung quanh có nhiều khả năng cân nhắc tất cả các lựa chọn, giữ một tâm trí cởi mở và loại bỏ tất cả những cảm xúc không liên quan khỏi quá trình ra quyết định (Huffington Post, 2013). Điều đáng chú ý là những người có EQ cao không loại bỏ tất cả cảm xúc khỏi quá trình ra quyết định của họ, mà chỉ là những cảm xúc có thể gây trở ngại (như lo lắng). Điều này giúp họ khách quan hơn đồng thời cho phép họ dựa vào cảm xúc của mình một cách lành mạnh. Trí tuệ cảm xúc và Giao tiếp Để mở rộng một chút về phần trước, trí tuệ cảm xúc có liên quan mật thiết đến kỹ năng giao tiếp; những người có EQ cao có xu hướng thành thạo khả năng giao tiếp của họ. Những người có trí tuệ cảm xúc cao: Cân nhắc cảm xúc của người khác; Xem xét cảm xúc của chính họ; Thực hành sự đồng cảm với người khác và liên hệ với họ trong cuộc trò chuyện; Hoạt động dựa trên sự tin tưởng, nghĩa là họ xây dựng lòng tin thông qua các tín hiệu bằng lời nói và phi ngôn ngữ và giao tiếp một cách trung thực; Nhận ra, xác định và giải tỏa mọi hiểu lầm (Schmitz, 2016). Từ danh sách này, rõ ràng EI ảnh hưởng đến giao tiếp như thế nào: Chỉ số EQ cao dẫn đến năng lực trong các cuộc trò chuyện và năng lực trong cuộc trò chuyện là một yêu cầu cho cả cuộc sống cá nhân lành mạnh và cuộc sống nghề nghiệp lành mạnh. Tầm quan trọng của trí tuệ cảm xúc trong các mối quan hệ (Để khám phá sâu hơn về chủ đề này, hãy xem: Trí tuệ cảm xúc trong các mối quan hệ .) Giao tiếp dẫn trực tiếp đến lý do tiếp theo tại sao điều quan trọng là phải phát triển trí tuệ cảm xúc: xây dựng và duy trì các mối quan hệ lành mạnh. Thật dễ dàng để thấy việc có EQ cao có thể dẫn đến các mối quan hệ tốt hơn như thế nào. Những người có EQ cao có thể: Đọc cảm xúc của người khác và phản ứng thích hợp và hiệu quả với chúng; Hiểu và điều tiết cảm xúc của chính mình để không làm chai sạn mọi thứ hoặc để cảm xúc tiêu cực bùng phát; Hiểu rằng suy nghĩ của họ tạo ra cảm xúc của họ và việc điều chỉnh suy nghĩ của chúng ta cho phép chúng ta gián tiếp điều chỉnh cảm xúc của mình; Kết nối hành động của họ với phản ứng cảm xúc của người khác; họ biết những hành động của họ sẽ gây ra những hậu quả gì đối với người khác và những người khác có thể cảm thấy và hành xử như thế nào khi phản ứng lại (Hall, 2018). Không có gì lạ khi những người thông minh về cảm xúc có những mối quan hệ ổn định, hài lòng và chất lượng cao hơn những người có trí tuệ cảm xúc thấp. Những người thông minh về mặt cảm xúc để ý cảm xúc của người khác, phản ứng phù hợp với người khác, điều chỉnh cảm xúc của họ và quan sát hành vi của chính họ để đảm bảo họ không xúc phạm hoặc làm người khác khó chịu một cách không cần thiết. Đây là những yếu tố tạo nên một mối quan hệ lành mạnh, tôn trọng, cho dù mối quan hệ đó là giữa người yêu, bạn bè, thành viên gia đình hay đồng nghiệp. Trí tuệ cảm xúc trong điều dưỡng và chăm sóc sức khỏe Trí tuệ cảm xúc đã trở thành một chủ đề lớn trong lĩnh vực điều dưỡng, và vì lý do chính đáng. Điều dưỡng viên có trí tuệ cảm xúc cao không chỉ làm tốt hơn đồng nghiệp của họ mà còn có khả năng ở lại vị trí hiện tại của họ, ít bị kiệt sức hơn và có nhiều khả năng duy trì sức khỏe thể chất và tinh thần tốt. Y tá và các nhân viên chăm sóc sức khỏe chuyên nghiệp khác phát triển trong nghề nghiệp của họ khi họ có thể xác định chính xác cảm xúc trong bản thân, bệnh nhân, người nhà bệnh nhân và đồng nghiệp và đồng nghiệp của họ. Trí tuệ cảm xúc cho phép các chuyên gia chăm sóc sức khỏe suy luận hiệu quả; những người có EQ cao cảm thấy thoải mái khi “tin tưởng vào ruột của mình” nhưng cũng có thể kết hợp hiệu quả lý luận khách quan với cảm xúc chủ quan của họ (Codier, 2012). Xây dựng khả năng phục hồi bằng trí tuệ cảm xúc Cuối cùng, một lý do quan trọng khác để chú ý đến trí tuệ cảm xúc là cách nó ảnh hưởng đến khả năng phục hồi của một người. Những người có chỉ số EI cao nói chung cũng có thể tự nhặt được khi bị ngã. Trên thực tế, trí tuệ cảm xúc được một số người coi là nguồn gốc trực tiếp của khả năng phục hồi. Các nhà nghiên cứu Magnano, Craparo và Paolillo (2016) đã phát hiện ra rằng trí tuệ cảm xúc có liên quan trực tiếp đến khả năng phục hồi và thông qua kết nối đó, nó liên quan đến thành tích và động lực thành tích. Nói cách khác, những người có mức trí tuệ cảm xúc cao có nhiều khả năng phấn đấu để đạt được thành công và theo đuổi mục tiêu của họ, đạt được những mục tiêu đó và trở lại đúng hướng sau khi thất bại hoặc thất vọng. Danh mục Blog Điều hướng bài viết IQ cao quan trọng như thế nào? Cách tăng EQ – Làm thế nào để trở nên thông minh hơn về mặt cảm xúc Test Online Kiểm Tra IQ Kiểm Tra EQ Sinh Trắc Vân Tay Trắc nghiệm MBTI Trắc nghiệm DISC Trắc nghiệm Holland Test Nhanh 3S Test IQ Test EQ Test DISC Sinh trắc vân tay Trắc Nghiệm MBTI Trắc Nghiệm Holland ID Danh mục: 1: Xem mã 2: Xem mã 3: Xem mã 4: Xem mã 5: Xem mã 6: Xem mã Chúng tôi Blog Giới thiệu Liên hệ Chính sách bảo mật Sitemap Partner – testiqfree.com © 2021 Test Nhanh 3S • Built with GeneratePress
1610704847953.98.parquet/49387
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 15938, "url": "https://www.rhumsaintaubin.com/eq-la-gi/" }
112.1
Tài liệu sự cần thiết, vai trò của chính sách công Menu Luận văn - Báo cáo Kinh tế thương mại Công nghệ thông tin Quản trị mạng Lập trình Đồ họa Web Hệ thống thông tin Thương mại điện tử Lập trình di động Công nghệ - Môi trường Y khoa - Dược Khoa học xã hội Quan hệ quốc tế Giáo dục học Đông phương học Việt Nam học Văn hóa - Lịch sử Xã hội học Báo chí Tâm lý học Văn học - Ngôn ngữ học Khoa học tự nhiên Toán học Vật lý Hóa học Sinh học Địa lý - Địa chất Nông - Lâm - Ngư Lâm nghiệp Nông học Chăn nuôi Thú y Thủy sản Công nghệ thực phẩm Cao su - Cà phê - Hồ tiêu Báo cáo khoa học Thạc sĩ - Cao học Kinh tế Khoa học xã hội Khoa học tự nhiên Công nghệ thông tin Kỹ thuật Nông - Lâm - Ngư Kiến trúc - Xây dựng Luật Sư phạm Y dược - Sinh học Tiến sĩ Kinh tế - Quản lý Dịch vụ - Du lịch Bất động sản Tài chính - Ngân hàng Quản trị kinh doanh Kế toán Kiểm toán Xuất nhập khẩu Chứng khoán Tài chính thuế Marketing Bảo hiểm Định giá - Đấu thầu Lý luận chính trị Triết học Mác - Lênin Đường lối cách mạng Kinh tế chính trị Chủ nghĩa xã hội khoa học Tư tưởng Hồ Chí Minh Kỹ thuật Giao thông - Vận tải Điện - Điện tử Viễn thông Cơ khí - Vật liệu Kiến trúc - Xây dựng Tài chính - Ngân hàng Ngân hàng - Tín dụng Kế toán - Kiểm toán Tài chính doanh nghiệp Đầu tư chứng khoán Đầu tư Bất động sản Bảo hiểm Quỹ đầu tư Công nghệ thông tin Thủ thuật máy tính Kỹ thuật lập trình Quản trị mạng Thiết kế - Đồ họa Hệ điều hành Cơ sở dữ liệu Quản trị web Tin học văn phòng An ninh bảo mật Phần cứng Chứng chỉ quốc tế Giáo dục - Đào tạo Luyện thi - Đề thi Thi THPT Quốc Gia Môn toán Môn văn Môn tiếng Anh Vật lý Hóa học Sinh học Lịch sử Địa ly Công chức - Viên chức Đề thi lớp 1 Đề thi lớp 2 Đề thi lớp 3 Đề thi lớp 4 Đề thi lớp 5 Đề thi lớp 6 Đề thi lớp 7 Đề thi lớp 8 Đề thi lớp 9 Đề thi lớp 10 Đề thi lớp 11 Đề thi lớp 12 Tuyển sinh lớp 10 Môn toán Môn văn Môn tiếng Anh Luyện thi Đại học - Cao đẳng Khối A Môn toán Môn lý Môn hóa Môn tiếng Anh A1 Khối B Môn toán Môn hóa Môn sinh Khối C Môn văn Môn lịch sử Môn địa lý Khối D Môn toán Môn văn Môn tiếng Anh Quy chế tuyển sinh Quy chế tuyển sinh 2015 Mầm non - Mẫu giáo Mẫu giáo bé Mẫu giáo nhỡ Mẫu giáo lớn Tiểu học Lớp 1 Lớp 2 Lớp 3 Lớp 4 Lớp 5 Trung học cơ sở Lớp 6 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 9 Trung học phổ thông Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Cao đẳng - Đại học Đại cương Y dược Chuyên ngành kinh tế Khoa học xã hội Luật Công nghệ thông tin Sư phạm Kiến trúc xây dựng Kỹ thuật công nghệ Giáo dục hướng nghiệp Vật lý Toán học Sinh học Lịch sử Địa lý GDCD-GDNGLL Âm nhạc Mỹ thuật Thể dục Công nghệ Tin học Tiếng Anh Luật Văn học Hóa học Giáo án - Bài giảng Mầm non Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông Giáo án điện tử Bài giảng điện tử Sáng kiến kinh nghiệm Ngoại ngữ Tiếng Nhật - Hàn Tiếng Nga - Trung - Pháp TOEFL - IELTS - TOEIC Ngữ pháp tiếng Anh Anh ngữ phổ thông Anh văn thương mại Anh ngữ cho trẻ em Kỹ năng nghe tiếng Anh Kỹ năng nói tiếng Anh Kỹ năng đọc tiếng Anh Kỹ năng viết tiếng Anh Chứng chỉ A,B,C Kiến thức tổng hợp Kế toán - Kiểm toán Kế toán Kiểm toán Kinh tế - Quản lý Quản lý nhà nước Tiêu chuẩn - Qui chuẩn Quản lý dự án Quy hoạch đô thị Kinh doanh - Tiếp thị Quản trị kinh doanh Internet Marketing Kế hoạch kinh danh Thương mại điện tử Tiếp thị - Bán hàng PR - Truyền thông Kỹ năng bán hàng Tổ chức sự kiện Sách - Truyện đọc Truyện dài Ngôn tình Sách-Ebook Kinh tế Ngoại ngữ Công nghệ Văn hóa giải trí Giáo dục học tập Y học Truyện văn học Truyện thiếu nhi Truyện kiếm hiệp Truyện cười Truyện Ma - Kinh dị Truyện ngắn Tiểu thuyết Tự truyện Văn hóa - Nghệ thuật Báo chí - Truyền thông Âm nhạc Ẩm thực Khéo tay hay làm Chụp ảnh - Quay phim Mỹ thuật Điêu khắc - Hội họa Thời trang - Làm đẹp Sân khấu điện ảnh Du lịch Tôn giáo Kỹ thuật - Công nghệ Điện - Điện tử Kỹ thuật viễn thông Cơ khí chế tạo máy Tự động hóa Kiến trúc xây dựng Hóa học - Dầu khi Năng lượng Y tế - Sức khỏe Y học Sức khỏe - dinh dưỡng Sức khỏe trẻ em Sức khỏe phụ nữ Sức khỏe người lớn tuổi Sức khỏe giới tính Khoa học tự nhiên Toán học Vật lý Hóa học - Dầu khi Sinh học Môi trường Khoa học xã hội Triết học Lịch sử Địa lý Văn học Biểu mẫu - Văn bản Biểu mẫu Văn bản Thủ tục hành chánh Hợp đồng Nông - Lâm - Ngư Nông nghiệp Lâm nghiệp Ngư nghiệp Kỹ năng mềm Tâm lý - Nghệ thuật sống Kỹ năng quản lý Kỹ năng tư duy Kỹ năng giao tiếp Kỹ năng thuyết trình Kỹ năng lãnh đạo Kỹ năng phỏng vấn Kỹ năng đàm phán Kỹ năng tổ chức Kỹ năng làm việc nhóm Thể loại khác Phật Chưa phân loại Văn khấn cổ truyền Phong Thủy Upload Đăng nhập Trang chủ Luận văn - Báo cáo Thạc sĩ - Cao học Khoa học xã hội sự cần thiết, vai trò của chính sách công... Tài liệu sự cần thiết, vai trò của chính sách công Số trang: 22 | Loại file: DOCX | Lượt xem: 10016 | Lượt tải: 23 xiemnguyenthi Tham gia: 13/06/2016 Tải xuống Đang tải nội dung... Xem thêm (5 trang) Tải về Mô tả: Chính sách công A, PHẦN MỞ ĐẦU Chính sách công đang ngày càng trở thành một công cụ quản lý của nhà nước ngày càng quan trọng đối với mọi quốc gia trên thế giới. Thông qua một hệ thống chính sách công, các nhà nước điều tiết những vấn đề nảy sinh trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước theo những mục tiêu mong muốn, tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển bền vững. Ở Việt Nam, Nhà nước ta đã ban hành và thực thi có hiệu quả nhiều chính sách công. Thời gian qua, việc hoạch định chính sách công ở nước ta đã cho ra đời nhiều chính sách phù hợp với thực tế, thực thi đem lại hiệu quả mà biểu hiện cụ thể là đã góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta trong hơn 30 thực hiện công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, việc nghiên cứu, phân tích vận động chính sách công với tư cách là một khoa học, nhất là sự cần thiết và vai trò của nó chưa được đề cập nhiều. Vì vậy, việc nghiên cứu vận động chính sách công dưới góc độ lý luận là một yêu cầu quan trọng đặt ra đối với yêu cầu phát triển khoa học hành chính ở nước ta hiện nay. B, PHẦN NỘI DUNG 1. Những vấn đề chung về vận động chính sách công 1.1 Chính sách Thuật ngữ “chính sách” được sử dụng phổ biến trong các tài liệu và trên các phương tiện truyền thông, tuy nhiên nó khó thể đưa ra định nghĩa một cách rõ ràng. Theo Từ điển tiếng Anh Oxford (Oxford English Dictionary) định nghĩa như sau: chính sách là một đường lối hành động được thông qua và theo đuổi bởi chính quyền, đảng, nhà cai trị, chính sách… Theo sự giải thích này, chính sách không chỉ đơn thuần là một quyết định, mà đó là một đường lối, một phương hướng hành động. Cách hiểu này rất gần với quan điểm về chính sách của David Easton “một chính sách… bao gồm một chuỗi các quyết định và các hành động mà phân phối… các giá trị” [3 tr.7]. Hugh Heclo (năm 1972) định nghĩa về chính sách như sau: Một chính sách có thể được xem như là một đường lối hành động hoặc không hành động thay vì những quyết định của các hành động cụ thể. Còn Smith (năm 1976) quan niệm rằng “khái niệm chính sách bao hàm… sự lựa chọn có chủ định hành động hoặc không hành động, thay vì những lực lượng có tác động quan hệ với nhau”. Ông còn nhấn mạnh “không hành động” cũng như “hành động” và khẳng định “sự quan tâm sẽ không chỉ tập trung vào các quyết định mà tạo ra sự thay đổi, mà còn phải thận trọng với những quyết định chống lại sự thay đổi và khó quan sát bởi vì chúng không được tuyên bố trong quá trình hoạch định chính sách” [4, tr.7]. Như vậy, khó có thể đưa ra một định nghĩa rõ ràng và cụ thể về chính sách. Các chính sách đôi khi có thể được nhận thấy dưới hình thức các quyết định đơn lẻ, nhưng thông thường nó bao gồm một tập hợp các quyết định hoặc như được nhìn nhận như là một sự định hướng. Việc các tác giả nỗ lực đưa ra một định nghĩa cũng cho thấy rằng khó có thể xác định những thời điểm cụ thể mà chính sách được ban hành. Chính sách thường sẽ được tiến hóa trong giai đoạn thực hiện, chứ không phải trong giai đoạn hoạch định của chu trình chính sách. 1.2 Chính sách công Thuật ngữ “chính sách” khi đi với từ “công” thành “chính sách công” không chỉ đơn giản là một từ, mà có sự thay đổi đáng kể về nghĩa bởi vì có sự khác biệt về chủ thể ban hành chính sách, mục đích chính sách, vấn đề chính sách hướng tới giải quyết. Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về chính sách công. Thomas Dye (năm 1972) đưa ra định nghĩa về chính sách công như sau “chính sách công là bất kỳ những gì nhà nước lựa chọn làm hoặc không làm” [5, tr.4]. Đây là một định nghĩa khá đơn giản về chính sách công. Nó chưa đưa ra được một sự phân định những hoạt động nào là của nhà nước được gọi là chính sách và những hoạt động nào không được gọi là chính tranh trong các hoạt động của nhà nước. Tuy nhiên, định nghĩa này đem lại cho chúng ta những hiểu biết nhất định về chính sách công như sau: Thứ nhất, chủ thể ban hành chính sách công là nhà nước Trong xã hội, chỉ có nhà nước mới được quyền ban hành chính sách công. Còn các quyết định kinh doanh của tư nhân, các quyết định của các tổ chức chính trị - xã hội khác, của cá nhân, lợi ích không phải chính sách công. Cho dù trong thực tế, các hoạt động của họ có thể ảnh hưởng đến những gì nhà nước làm, nhưng bản thân những quyết định hoặc những hoạt động của chủ thể đó không tạo nên chính sách công. Chính sách công là công cụ, biện pháp nhà nước thực hiện trên thực tế. Thứ hai, chính sách công bao gồm sự lựa chọn cơ bản cho nhà nước về việc làm hoặc không làm gì. Quyết định này được cán bộ, công chức nhà nước và các cơ quan nhà nước ban hành. Nói một cách đơn giản nhất, chính sách công là một sự lựa chọn của nhà nước để thực hiện một đường lối hành động. Khái niệm “không làm gì” có nghĩa là nhà nước quyết định không tạo ra một chương trình mới hay đơn giản chỉ là duy trì tình trạng hiện tại. Tuy nhiên, đây là quyết định có tính suy tính, ví dụ nhà nước quyết định không tăng thuế để tạo ra các quỹ bổ sung dùng cho các hoạt động mở rộng sản xuất hoặc tăng sức tiêu dùng của xã hội. B.Guy Peter định nghĩa (1990) “chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến cuộc sống của mọi người dân” [6, tr.41]. Với quan điểm này, tác giả muốn nhấn mạnh đến sự tác động của chính sách công đến đời sống của nhân dân hay cộng đồng xã hội, thay vì tác động lên một cá nhân, một tổ chức cụ thể. Nói cách khác, chính sách công hướng đến giải quyết vấn đề công và việc giải quyết vấn đề này sẽ ảnh hưởng đến một hoặc nhiều nhóm dân số trong xã hội. Điều này cũng đưa ra gợi ý về tiêu chuẩn đánh giá chính sách công là đánh giá tác động của nó đến xã hội. Theo Từ điển bách khoa Việt Nam “chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa” [6, tr.475]. Hay theo Nguyễn Hữu Hải “Chính sách công là những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức cá nhân, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển” [2, tr.14]. Với các cách hiểu trên, mục đích chính sách công là thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng chứ không đơn giản chỉ là dừng lại ở việc giải quyết vấn đề công. Nói cách khác, chính sách công là công cụ để thực hiện mục tiêu chính trị của nhà nước. Ở Việt Nam, chính sách công là công cụ để thực hiện các đường lối, chủ trương của Đảng nhằm xây dựng xã hội Xã hội chủ nghĩa với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [1, tr.70]. Trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội, xuất hiện nhiều vấn đề mà Nhà nước cần phải giải quyết bằng chính sách. Tuy nhiên, các chính sách công được ban hành phải đảm bảo phù hợp với định hướng chính trị đã được Đảng xác định. Như vậy, cho dù nhiều quan điểm khác nhau về chính sách công, nhưng chúng ta có thể rút ra những quan điểm cơ bản về chính sách công như sau: Thứ nhất, chính sách công bắt nguồn từ các quyết định do nhà nước ban hành và bao hàm các quyết định của nhà nước. Thứ hai, chính sách công bao gồm một tập hợp các quyết định diễn ra qua một giai đoạn dài và kéo dài vượt ngoài quá trình hoạch định chính sách ban đầu. Ở cấp hoạch định, chính sách công luôn không được thể hiện một cách rõ ràng trong một quyết đinh đơn lẻ, mà có xu hướng được xác định dưới dạng một chuỗi các quyết định gắn liền với nhau, giúp chúng ta nhận thức được chính sách là gì. Thứ ba, chính sách công hướng tới giải quyết vấn đề công và việc giải quyết vấn đề này sẽ làm ảnh hưởng đến một hoặc nhiều nhóm dân số trong xã hội. Thứ tư, chính sách công hướng đến việc thay đổi hành vi của đối tượng và thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng. Thứ năm, chính sách công bao gồm hai bộ phận cấu thành là mục tiêu và giải pháp chính sách. Thứ sáu, các chính sách công luôn thay đổi theo thời gian, vì những quyết định sau có thể có những điều chỉnh tăng dần so với các quyết định trước đó, hoặc do có những thay đổi trong định hướng trong định hướng chính sách ban đầu. Đồng thời kinh nghiệm thực thi chính sách công có thể được phản hồi vào quá trình ra quyết định. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các chính sách công luôn thay đổi, mà do quá trình chính sách năng động chứ không cố định và định nghĩa về các vấn đề chính sách cũng thay đổi theo thời gian. Thứ bảy, về cơ bản, chính sách công được xem là đầu ra của quá trình quản lý nhà nước, là sản phẩm trí tuệ của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, thậm chí của cả xã hội. Từ phân tích những quan niệm về chính sách công nêu trên và những đặc trưng của chính sách công, có thể đưa ra một khái niệm về chính sách công như sau: Chính sách công là một tập hợp các quyết định liên quan với nhau, do nhà nước ban hành, bao gồm các mục tiêu và giải pháp để giải quyết một vấn đề công nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng nhất định. Trên thực tế, có nhiều loại chính sách công khác nhau đang tồn tại. Mỗi loại chính sách đều có những tính năng, tác dụng nhất định phù hợp với mục đích yêu cầu sử dụng của chủ thể. Tùy theo mục đích, yêu cầu của chủ thể quản lý để lựa chọn cách phân loại độc lập hay kết hợp giữa các cách phân loại sau đây: Theo lĩnh vực hoạt động (kinh tế, xã hội, y tế, quốc phòng, đối ngoại, dân tộc…) Theo thời gian phát huy tác dụng (dài hạn, trung hạn, ngắn hạn) Như vậy, các chính sách công được ban hành và thực thi đều có ảnh hưởng tới xã hội, mọi người và cuộc sống của chúng ta. 1.3 Vận động chính sách công Vận động là hành động (nói, hay viết) để ủng hộ một vấn đề nào đó. Như vậy, một “người vận động” là người có hành động như nói hay viết để ủng hộ một việc nào đó. Theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông, vận động là việc tuyên truyền, giải thích, động viên làm cho người khác tự nguyện làm một việc gì đó, thông thường là theo một phong trào. Chẳng hạn, vận động toàn dân tham gia thực hiện quy ước văn minh trong tang, lễ, cưới hỏi ; vận động thanh niên tham gia phong trào thanh niên tình nguyện ; vận động toàn dân thực hiện sinh đẻ có kế hoạch… Như vậy, khi nói đến vận động, thông thường, chủ thể của việc vận động là Nhà nước, các tổ chức chính trị, chính trị – xã hội…Còn đối tượng của việc vận động là các tầng lớp nhân dân. Từ khái niệm về vận động nêu trên, có thể nêu, vận động chính sách công là việc tuyên truyền, giải thích, động viên những người nghiên cứu, soạn thảo và ban hành các chính sách tự nguyện xây dựng các chính sách theo nguyện vọng chính đáng của người vận động. Trong điều kiện ở nước ta hiện nay, khái niệm nêu trên bao hàm trong nó một quy trình ngược. Bởi lẽ, xây dựng, ban hành các chính sách là quyền của cơ quan Nhà nước các cấp, thể hiện ý chí của người quản lý đối với người bị quản lý. Vì vậy, sẽ khó có thể xẩy ra việc người bị quản lý lại tuyên truyền, giải thích, động viên những người có chức năng, quyền hạn trong quản lý làm theo nguyện vọng của mình mặc dù đó là những nguyện vọng chính đáng, hợp pháp. Vận động chính sách công được hiểu là quá trình tác động vào những nhà hoạch định chính sách, những người ra quyết định để tạo ra một chính sách phù hợp hơn, minh bạch và hiệu quả hơn. Thông qua việc thực thi các chính sách đã ban hành trong thực tế, nếu có những ý kiến và cần thiết phải thay đổi chính sách hiện hành để tạo nên những tác động tích cực cho cộng đồng và thực hiện công bằng xã hội tốt hơn thì chúng ta cần phải tham gia vào quá trình vận động chính sách. Thông qua vận động chính sách, chúng ta có cơ hội đóng góp ý kiến với các nhà hoạch định chính sách để thay đổi các chính sách hiện hành đáp ứng được yêu cầu của các bên liên quan. Nếu chúng ta đứng bên lề cuộc sống, thì mọi việc sẽ không thay đổi được. 2. Sự cần thiết của vận động chính sách công 2.1 Vận động chính sách công là tất yếu, khách quan Vận động chính sách là những nỗ lực có tính hệ thống nhằm tác động đến những người ra quyết định nhằm tạo ra những chính sách phù hợp hơn với điều kiện thực tiễn. Vận động chính sách có vai trò bổ sung, tác động mạnh mẽ tới các bước của quá trình ra quyết định. Vận động chính sách được coi là chiến lược nhằm kết nối tích cực giữa các bên liên quan. Kết quả của Vận động chính sách là mong muốn đat được mục tiêu vì công bằng, dân chủ và phát triển của xã hội. Như vậy, vận động chính sách ngày càng trở thành công cụ trong tiến trình dân chủ hóa, từng bước tiếp cận với những người ra quyết định và cải thiện quá trình ra quyết định. Khi vận động chính sách cần lưu ý các vấn đề sau: Vận động luôn là quá trình gây ảnh hưởng đến các nhà hoạch định chính sách. Vận động là các hành động được tính toán kỹ lưỡng. Có nghĩa người đi vận động luôn phải hiểu mình muốn thay đổi chính sách nào và cần tác động đến những ai. Người ra quyết định chính sách có nhiều cấp độ và loại hình khác nhau. Vận động chính sách liên quan đến các vấn đề xã hội nhằm mang lại sự thay đổi, cải thiện cuộc sống của con người, nhất là những người bị thiệt thòi trong xã hội. Trong nền hành chính nhà nước, chính sách công là bộ phận nền tảng trọng yếu của thể chế hành chính, là cơ sở và chi phối các yếu tố cấu thành khác của nền hành chính như: bộ máy hành chính; đội ngũ cán bộ - công chức; tài chính công. Ở Việt Nam, với hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì chính sách công là công cụ tiền đề, không thể thay thế và chi phối các công cụ quản lý khác như pháp luật, kế hoạch, phân cấp - phân quyền… Điều đó giải thích vì sao trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm tới việc nâng cao vai trò của chính sách công như là một công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước nói riêng và đẩy mạnh chất lượng của sự nghiệp đổi mới nói chung. 2.2 Những vấn đề đặt ra trong quá trình vận động chính sách công Trong thời gian qua, hoạt động hoạch định chính sách công đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ cả về số lượng và chất lượng trên các lĩnh vực trọng yếu, cấp bách về kinh tế, chính trị (tổ chức bộ máy nhà nước, an sinh xã hội, quân sự, ngoại giao…). Một số chính sách công quan trọng đã được luận chứng khoa học hơn, bám sát thực tiễn đất nước, địa phương và ngành. Nhờ đó, bước đầu đã tạo lập và hoàn thiện được một hệ thống chính sách công khá phù hợp, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của quản lý hành chính nhà nước, phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong lĩnh vực kinh tế, một số chính sách mới được ban hành đã đáp ứng được về cơ bản yêu cầu phát triển và hoàn thiện thể chế của nền kinh tế thị trường, đặc biệt, có tính ứng phó khá tốt với tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu như: chính sách kích cầu, chính sách điều chỉnh tiền lương cơ bản, chính sách hạ thấp lãi suất cho vay của ngân hàng, lãi suất tối đa cho tiền gửi bằng đồng Việt Nam, chính sách mang ngoại tệ, tiền Việt Nam của cá nhân khi xuất nhập cảnh, chính sách điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân, chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp… Theo đó, nhiều chính sách đã phát huy được tác dụng trong kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định giá cả thị trường và mức độ tăng trưởng của nền kinh tế trong điều kiện khủng hoảng kinh tế. Điều đó được đánh giá như những phản ứng kịp thời của nhà nước trước những biến động lớn của kinh tế toàn cầu và khu vực. Bên cạnh đó, việc tổ chức thực thi chính sách công cũng đạt được những yêu cầu cơ bản như: kịp thời, đồng bộ, hiệu quả trong phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, ngành. Một số địa phương đã chủ động, linh hoạt và sáng tạo trong triển khai thực thi chính sách cho phù hợp với đặc điểm của mình, có tính đến đặc điểm của đối tượng thụ hưởng chính sách. Công tác tổng kết thực tiễn thi hành chính sách cũng đã bắt đầu được chú ý hơn; một số chính sách được sơ kết, tổng kết khá công phu, có quy trình khoa học và có giá trị tham khảo lớn. Nhìn tổng thể, việc thực thi chính sách đã đi vào nề nếp, nghiêm minh với không ít kinh nghiệm bổ ích đã được đúc rút từ thực tiễn. Hoạt động phân tích, đánh giá chính sách công đã bắt đầu được quan tâm với tư cách là một trong những công đoạn quan trọng của quy trình chính sách công. Tuy chưa nhiều và chưa thật sự phát huy hết hiệu quả nhưng một số cơ quan nhà nước, viện nghiên cứu và cá nhân có những sản phẩm phân tích, đánh giá chính sách công rất tốt, giúp cho việc ban hành, sửa đổi nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách hiện hành theo hướng khả thi, hiệu quả, mang lại lợi ích cho xã hội. Đặc biệt, vai trò của một số tổ chức phi nhà nước trong việc phân tích, đánh giá chính sách công được dư luận xã hội thừa nhận về chất lượng, về chính kiến và ảnh hưởng của chúng như: Viện nghiên cứu, tư vấn chính sách, pháp luật và phát triển thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam… Nhờ đó, từ chỗ là công việc khá lạ lẫm trong quy trình chính sách, thì đến nay hoạt động phân tích, đánh giá chính sách công đã bắt đầu được quan tâm nhiều hơn không chỉ từ phía các cơ quan nhà nước mà còn là của xã hội. Mặc dù vậy, khi đánh giá về hạn chế, khuyết điểm trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Đảng ta nhận định: Năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu… Năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn yếu. Có thể thấy những hạn chế, bất cập đó trên các khía cạnh chủ yếu sau đây: Lý luận về mô hình phát triển chung còn nhiều vấn đề chưa được làm sáng tỏ đã và đang tác động không nhỏ tới lý luận và thực tiễn của nhiều lĩnh vực vĩ mô như: về mối quan hệ giữa cải cách hệ thống chính trị với đổi mới kinh tế, về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về tăng trưởng đi đôi với thực hiện công bằng xã hội trong từng bước và trong cả quá trình phát triển, về bảo vệ môi trường trong phát triển bền vững… Trong đó, còn nhiều vấn đề đặt ra rất bức xúc nhưng chưa được kiến giải thấu đáo ở phương diện lý luận hay nói cách khác, lý luận còn bất lực trước nhiều vấn đề thực tế mà cội rễ của nó là tư duy chưa thật sự bắt kịp được yêu cầu ngày càng cao, phức hợp của công cuộc đổi mới. Thực tiễn của Việt Nam, của từng địa phương, từng ngành vẫn chưa thật sự được quan tâm như là một tiền đề, điều kiện tối quan trọng để xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện chính sách. Vì thế, vẫn còn không ít những chính sách xa với thực tế, gây khó khăn khi tổ chức thực hiện và không được dư luận thật sự đồng tình. Đặc biệt, những căn bệnh chủ quan, duy ý chí, chạy theo thành tích, thích “đánh bóng hình ảnh”, lợi ích cục bộ của từng bộ, ngành hoặc lợi ích của một số nhóm trong xã hội vẫn tồn tại dai dẳng đã gây những hậu quả không nhỏ cho xã hội, cho từng ngành và địa phương từ hoạt động hoạch định cho tới tổ chức thực thi chính sách công. Quy trình hoạch định chính sách công tuy đã được nghiên cứu cải tiến theo hướng hiện đại, tiện lợi, dân chủ nhưng vẫn còn những bất cập chủ yếu như: Có quá nhiều chính sách của các bộ, ngành trong khi chúng được xây dựng phân tán; thiếu sự phối hợp giữa các bộ, ngành một cách hợp lý và có cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm đích thực nên chất lượng không cao. Trong khi đó, hầu hết các chiến lược hay chính sách đều thể hiện sự liệt kê mục tiêu, quan điểm định hướng, yêu cầu mà thiếu hẳn những kế hoạch hành động cụ thể hay các biện pháp cần có. Chưa hình thành được những kênh thông tin chính thống cần thiết giữa nhà nước với xã hội trong việc xây dựng, ban hành, thực thi chính sách công để phúc đáp những lợi ích cơ bản của đôi bên. Vai trò của các cơ quan thẩm định, phê duyệt chính sách chưa được phát huy nên đã tạo những kẽ hở đáng kể cho việc ra đời một số chính sách có chất lượng chưa cao, thậm chí xã hội không đồng tình. Hiện tượng “vận động chính sách” (lobby) tuy chưa được chính thức thừa nhận ở phương diện luật pháp nhưng đã xuất hiện dưới nhiều hình thức với những biểu hiện tiêu cực khác nhau làm ảnh hưởng đến tính công bằng của chính sách, gây những nguy hại nhất định cho xã hội lại chưa được quan tâm nghiên cứu để có phương hướng và biện pháp xử lý có hiệu lực, hiệu quả. Trong lĩnh vực tổ chức thực thi chính sách công bộc lộ những hạn chế, bất cập chủ yếu về tính kịp thời, đồng bộ, nhất quán trong tổ chức thực hiện, nhất là ở một số chính sách về kinh tế - xã hội và môi trường trong thời gian gần đây. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, thuyết phục, vận động nhằm định hướng dư luận trong quá trình thực hiện chính sách chậm được đổi mới về hình thức, phương pháp, nội dung; còn nhiều biểu hiện hình thức, “làm cho có”… nên kém hiệu quả. Công tác hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra chưa kịp thời, thường xuyên và thiếu thực chất. Việc xử lý khiếu nại, tố cáo các vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện còn chậm, nhiều trường hợp thiếu công bằng, nghiêm minh đã ảnh hưởng xấu đến thực hiện chính sách công. Công tác tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm cho hoạch định và thực thi chính sách chưa được coi trọng, chưa làm thường xuyên, kịp thời. Trong một thời gian dài, hoạt động này chưa thật sự được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quan tâm, coi trọng do sự bất cập trong tư duy làm chính sách. Điều này không chỉ đúng với quy trình chính sách của chính quyền địa phương mà còn của Chính phủ, các bộ, ngành. Trong những năm gần đây, thực tiễn cho thấy xã hội đã bắt đầu ý thức rõ hơn về vai trò quan trọng của hoạt động này trong tổng thể quy trình chính sách. Tuy vậy, xét về tổng thể, hoạt động phân tích, đánh giá chính sách công còn ở trong tình trạng lẻ tẻ, rời rạc, hình thức; không có nhiều những sản phẩm nghiên cứu có tầm cỡ về nội dung, chất lượng và quy mô để có thể tạo ra được những đột phá về chính sách trong từng lĩnh vực. Vì những lý do rất khác nhau mà những kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá chính sách công được ứng dụng vào thực tế một cách hữu ích chưa nhiều, gây lãng phí, thiệt thòi cho toàn bộ quy trình chính sách công hoặc từng công đoạn trong đó. Việc tiếp thu các kết quả phân tích, đánh giá chính sách công từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền còn rất dè dặt, cứng nhắc; thậm chí có những trường hợp tỏ thái độ phân biệt, phê phán, “chụp mũ”… Số lượng các cơ quan hoặc cá nhân nghiên cứu về chính sách công chưa đủ để đáp ứng nhu cầu thực tế của lĩnh vực này, trong đó bản thân họ cũng gặp những khó khăn nhất định về khung pháp lý và phản ứng của một số cơ quan nhà nước. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả của các hoạt động hoạch định và thực thi chính sách công ở nước ta trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo, cần đặt trọng tâm vào các vấn đề sau: Tiếp tục nâng cao nhận thức để trên cơ sở đó mở rộng sự tham dự một cách có hiệu quả của mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và nhất là của cá nhân người lãnh đạo, quản lý vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách công. Nói cách khác, làm cho chính sách công từ chỗ chỉ là chức năng đặc quyền của các cơ quan nhà nước thành mối quan tâm chung và trách nhiệm của toàn xã hội. Đổi mới quy trình hoạch định chính sách công theo hướng dân chủ, huy động sự tham gia đắc lực của toàn xã hội, nhất là của đội ngũ chuyên gia vào xây dựng chính sách. Từng bước tạo lập một quy trình làm chính sách gọn, tiện lợi nhưng khoa học, có hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện cơ chế thẩm định và phê duyệt chính sách, nhất là với những chính sách lớn, quan trọng, có tác động trực tiếp và lâu dài tới lợi ích chung của toàn xã hội. Chấn chỉnh để nâng cao tính kịp thời, đồng bộ, nghiêm túc, hiệu quả của quá trình tổ chức thực thi chính sách cônh. Đặc biệt, coi trọng tính tiên phong của các khâu tuyên truyền, vận động, định hướng dư luận xã hội trong quy trình thực hiện chính sách. Tăng cường công tác đôn đốc, kiểm tra, giám sát về tiến độ, hiệu quả thực hiện chính sách công. Phát hiện và xử lý kịp thời, công bằng, minh bạch các khiếu kiện, vi phạm pháp luật nảy sinh. Coi trọng hoạt động tổng kết thực tiễn về hoạch định, thực thi chính sách công theo hướng thường xuyên, thiết thực; tránh phô trương, hình thức, lãng phí để rút kinh nghiệm cần thiết, bổ ích cho các hoạt động đó. Đề cao vai trò của hoạt động phân tích, đánh giá chính sách công như là một điều kiện tối quan trọng để từng bước cải thiện chất lượng của quy trình hoạch định và thực thi chính sách. Có cơ chế ràng buộc các cơ quan nhà nước trong việc phản hồi ý kiến, tiếp nhận các kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá chính sách công. 3. Vai trò của vận động chính sách công 3.1 Vị trí trong vận động chính sách công Vận động chính sách công hoạt động như một công cụ để làm cầu nối, đề đạt tâm tư nguyện vọng của người dân tới các nhà hoạch định chính sách. Do vậy có thể có bốn vị trí để vận động chính sách công: Vị trí 1: Cá nhân, tổ chức vận động chính sách công đứng hoàn toàn về phía Nhà nước. Với vị trí này, vận động chính sách công không thể hiện vai trò cầu nối, hoạt động theo định hướng từ trên xuống. Vị trí 2: Cá nhân, tổ chức vận động chính sách công đứng hoàn toàn về phía người dân. Với vị trí này, chính sách công không thể hiện vai trò cầu nối, hoạt động như một công cụ của người dân với các nhà hoạch định chính sách (Vị trí các tổ chức cộng đồng). Vị trí 3: Cá nhân, tổ chức vận động chính sách đứng ở giữa. Đây là vị trí là cầu nối, tích cực truyền tải bức thông điệp của người dân tới các nhà hoạch định chính sách một các thuyết phục nhất (Vị trí của các tổ chức phi chính phủ). Vị trí 4: Cá nhân/tổ chức vận động chính sách đứng ở giữa (cầu nối độc lập). Đây cũng là vị trí cầu nối, nhưng giữ vai trò độc lập hơn và thể hiện vai trò là người đàm phán với cả hai bên (Vị trí của các nhà vận động hành lang). Sự tham gia của tổ chức xã hội vào quá trình xây dựng chính sách công là một cách thể hiện và phát huy vai trò của dân chủ. Mức độ tham gia vào quá trình ra quyết định dựa vào: Cách thức điều hành của chính quyền (Nhà nước) Tính chất đặc thù của vấn đề Thời điểm xây dựng chính sách Sự tham gia của tổ chức xã hội vào xây dựng chính sách theo cách điều hành của chính quyền có thể diễn ra theo các hình thức sau đây: Kiểu cực đoan độc đoán (đối với những vấn đề quan trọng, phạm vi hẹp) Kiểu cực đoan sáng suốt (thông qua các nghiên cứu) Kiểu hỏi ý kiến (mở rộng hơn sự đóng góp ý kiến) Kiểu có sự tham gia (đối thoại) Kiểu tản quyền (đồng ra quyết định) Kiểu hợp tác (người dân trở thành đối tác trong quá trình ra chính sách) Kiểu tạo điều kiện (người dân trở thành những người khởi xướng của quá trình ra chính sách) Đặc trưng vận động chính sách ở Việt Nam Đó chính là việc đưa ra những ý kiến đề xuất, góp ý, phản biện cho các chính sách kinh tế và xã hội để những nhà hoạch định chính sách đưa ra những chính sách phù hợp, minh bạch và hiệu quả hơn. Chủ thể của việc vận động phải là những nhà hoạch định chính sách theo một quy trình nhất định. Đối tượng của việc vận động là các tầng lớp nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp… Việc đưa ra những ý kiến đề xuất, góp ý, phản biện cũng phải tuân thủ pháp luật và theo những quy định, quy trình nhất định 3.2 Ý nghĩa, vai trò của việc vận động chính sách Ý nghĩa của việc vận động chính sách Nâng cao nhận thức về vai trò của người dân đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Tăng cường tính công khai minh bạch, khả năng tiếp cận thông tin về các CS của nhà nước. Tăng cường sự tham gia của người dân trong quá trình xây dựng và thực hiện luật pháp. Tạo ra khả năng ‘dân biết’, ‘dân bàn’, ‘dân làm’, ‘dân kiểm tra’ trong quá trình ra các quyết định của nhà nước. Góp phần xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa Nhà nước - Doanh nghiệp Xã hội dân sinh. Vai trò của vận động chính sách Trong quá trình quản lý, nhà nước sử dụng chính sách công để làm công cụ chủ yếu giải quyết những vấn đề chung nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng nhất định. Vai trò của chính sách công được thể hiện ở những khía cạnh sau đây: Thứ nhất, vai trò định hướng Một trong những vai trò quan trọng của chính sách công là định hướng cho các hoạt động của các thực thể kinh tế - xã hội. Mục tiêu chính sách công thể hiện thái độ ứng xử của nhà nước trước vấn đề công, nên nó thể hiện rõ xu hướng tác động của nhà nước lên các thực thể xã hội để chúng vận động phù hợp với những giá trị tương lai mà nhà nước theo đuổi. Các giá trị này phản ánh ý chí của nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản của đời sống xã hội. Nếu các thực thể xã hội tiến hành những hoạt động phù hợp với mục tiêu chính sách thì cũng có nghĩa đạt được mục tiêu phát triển chung và sẽ nhận được những sự trợ giúp của nhà nước. Hơn nữa, bản thân các giải pháp chính sách cũng có vai trò định hướng cho các thực thể kinh tế - xã hội trong việc đề ra các biện pháp. Thứ hai, vai trò khuyến khích và hỗ trợ Để đạt được mục tiêu chính sách công, nhà nước ban hành nhiều giải pháp, trong đó có giải pháp mang tính khuyến khích và hỗ trợ về tài chính như miễn, giảm thuế, hỗ trợ lãi suất, về trợ giá, trợ cấp… và các biện pháp kỹ thuật như đơn giản hóa thủ tục hành chính, hỗ trợ kỹ thuật để tạo thuận lợi cho các thực thể xã hội tham gia. Cần lưu ý rằng, các biện pháp này không mang tính bắt buộc, nó tạo ra cơ chế khuyến khích sự tham gia tự nguyện các thực thể kinh tế - xã hội tiến hành những hoạt động mà nhà nước mong muốn. Ví dụ chính sách khuyến khích đầu tư trong nước, chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhà nước ban hành nhiều biện pháp nhằm khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn xây dựng, đầu tư nhà máy để tiến hành các hoạt động kinh doanh như miễn, giảm tiền thuê đất, đơn giản hóa thủ tục hành chính, hỗ trợ giải phóng mặt bằng… Hay như trong chính sách tam nông, nhà nước ban hành giải pháp khuyến nông như hỗ trợ về giống, hướng dẫn kỹ thuật cho nông dân, thu mua lương thực với giá bảo đảm cho người nông dân có một mức lợi nhuận nhất định, cho vay vốn lãi suất thấp… Vai trò tạo lập Thông qua các chính sách công, nhà nước đưa ra những điều kiện cần thiết nhằm tạo ra môi trường thuận lợi cho các thực thể kinh tế - xã hội tiến hành các hoạt động. Ví dụ, chính sách phát triển thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường khoa học – công nghệ, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường dịch vụ… Để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển một cách ổn định, nhà nước ban hành nhiều chính sách bảo đảm các cân đối vĩ mô chính yếu như: cân đối giữa cung – cầu, tiền – hàng, xuất – nhập khẩu, đầu tư – tiêu dụng, tiết kiệm – tiêu dụng… Vai trò điều tiết Nhà nước cũng sử dụng các chính sách công để điều tiết thu nhập giữa các cá nhân và doanh nghiệp trong xã hội, điều tiết các thị trường lao động, vốn… như thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, quy định giá cả một số hàng hóa thiết yếu, bình ổn giá trên thị trường, chính sách tiền lương, lãi suất, chính sách tỉ giá… Nhà nước dùng các chính sách công để đảm bảo sự phát triển đồng đều giữa các vùng, miền, thông qua việc phân bổ và tái phân bổ các nguồn lực xã hội. Vai trò hiệu chỉnh những khuyết điểm của nền kinh tế thị trường Kinh tế thị trường được hiểu là một thể chế kinh tế với sự không tập trung (phân tán) về kế hoạch hoá và sự điều khiển quá tŕnh kinh tế được tiến hành theo sự điều phối của cơ chế giá cả. Trong nền kinh tế thị trường, phạm vi nhiệm vụ của Nhà nước ít nhất là phải tạo ra các điều kiện khung để khuyến khích đầy đủ được chức năng điều phối từ sự cạnh tranh, thi đua cũng như khuyến khích việc sẵn sàng cung cấp các loại hàng hoá công cộng không sinh lợi của kinh tế tư nhân. Đồng thời mỗi một đề án về các chính sách kinh tế như chính sách thời vận, chính sách cơ cấu và chính sách xă hội cần bổ sung thêm nhiệm vụ làm hạn chế tính tự trị của kế hoạch hoá cá nhân. Kinh tế thị trường còn được hiểu là một hệ thống kinh tế mà trong đó các kế hoạch và tổ chức sản xuất kinh doanh của từng đối tượng kinh tế đều hoạt động dựa trên nền tảng của việc tự do tạo lập giá cả và được điều tiết theo giá cả. Đó là một nền kinh tế hàng hoá trao đổi và tự do cạnh tranh, thi đua là thực sự cần thiết. Sự cạnh tranh đầy đủ trong nền kinh tế thị trường không chỉ điều tiết nền kinh tế cả theo chiều dọc và chiều ngang mà c nc thường xuyên điều chỉnh các diễn biến kinh tế và kích thích tính hiệu quả của nền kinh tế. Hiệu quả hoạt động của nền kinh tế thị trường được thể hiện ở động cơ sản xuất và năng xuất, ở mức thu nhập quốc dân và mức sống xă hội cao cũng như các khả năng cung ứng tốt các hàng hoá và dịch vụ. Các chức năng trật tự, điều hành và điều phối cân bằng cần phải được đảm bảo nhằm chế ngự được tính độc quyền của sản xuất hàng hoá nhưng đồng thời cũng phải mang lại khả năng thịnh vượng chung cho toàn xă hội. Khái niệm về kinh tế thị trường đến nay đă trải qua nhiều giai đoạn phát triển với nhiều góc độ nhh n nhận khác nhau. Nhưng dù sao khi thiết lập các nguyên tắc hoạt động trong luật kinh tế, nhà nước cũng phải đảm bảo được tác động thực sự của sự cạnh tranh trên thị trường. Đồng thời, cũng đề cập đến những định mức chuẩn như thu hẹp tính độc quyền cá nhân, uốn nắn những lệch lạc, sai phạm hoặc ngăn cản sự cạnh tranh. Bên cạnh đó, nhà nước với chính sách kinh tế cũng điều tiết và định hướng cho sự phát triển của hệ thống kinh tế thị trường. Tuy nhiên, các nguyên tắc này cũng không bảo hành cho các mục tiêu chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân như đầy đủ việc làm, ổn định giá cả… Mặc dù nguyên tắc tự điều chỉnh nền kinh tế thông qua cạnh tranh là điều kiện rất cần thiết nhưng cũng cần phải được bổ sung trong lĩnh vực kinh tế vĩ mô thông qua các biện pháp điều chỉnh tổng thể của nhà nước. Hiện nay, trên thế giới có nhiều mô hình kinh tế thị trường khác nhau, điều đó phụ thuộc vào sự thích ứng của từng nước đối với điều kiện, hoàn cảnh tự nhiên, kinh tế xă hội cũng như tập quán dân tộc mà lựa chọn một mô hình kinh tế thích hợp. Sẽ không bao giờ có một mô hình kinh tế thị trường khuôn mẫu thích hợp cho tất cả các nước hoặc dù chỉ điển hình cho một nhóm nước cùng thực hiện. ở đây phải kể ra một số mô hình kinh tế thị trường tiêu biểu như: kinh tế thị trường xă hội của Cộng hòa liên bang Đức, kinh tế thị trường tự do tương đối của Mỹ, mô hình của nhà nước thịnh vượng trong nền kinh tế thị trường của Thụy Điển, kinh tế thị trường xă hội xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc, kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước ở Việt Nam… Điều cần xem xét chung là khi tiến hành nền kinh tế thị trường người ta phải biết chấp nhận cả những bất lợi do hậu quả của nền kinh tế thị trường mang lại cho xă hội và ở mỗi nước khác nhau đều có cách nhh n nhận và giải quyết vấn đề này một cách khác nhau. Cụ thể là vấn đề thời vận kinh tế nhất là lúc suy thoái, nạn lạm phát và nạn thất nghiệp. Điều đó có nghĩa là không có sự bảo hành trên con đường tiến hành kinh tế thị trường. Do vậy, phải có các biện pháp mang tính bị động nhằm ngăn chặn hoặc hạn chế những hậu quả xấu xẩy ra đối với xă hội cũng như đối với các tầng lớp dân cư “yếu” hơn trong xă hội. Và điều này được nhh n nhận một cách đơn giản là những công cụ nhằm mục đích bảo đảm xă hội, ổn định xã hội trong mọi tình huống – đây là một trong những nhiệm vụ chính của chính sách xă hội. Chúng ta có thể minh hoạ thêm về khái niệm kinh tế thị trường thông qua nền kinh tế thị trường xă hội của Cộng hòa liên bang Đức và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước ở Việt Nam để hiểu rõ thêm về bản chất nền kinh tế thị trường. Tư tưởng xây dựng nền kinh tế thị trường xă hội được hình thành ở cộng hòa liên bang Đức từ những năm 50 trên cơ sở lựa chọn, khắc phục nhược điểm của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không thể kiểm tra được với nền kinh tế hành chính tập trung quan liêu. Nền kinh tế thị trường xă hội là khả năng của sự hòa hợp giữa sự tự do về kinh tế với tư tưởng Nhà nước xă hội, tương tự như sự bảo đảm xã hội và sự bình đẳng cần đạt được. Trong nền kinh tế thị trường, người ta luôn đặt ra mối quan hệ giữa thị trường và những người chịu trách nhiệm tích cực, các ông chủ doanh nghiệp và người lao động làm thuê, sự bảo đảm xă hội cũng như vai trò, trách nhiệm của Nhà nước. Điều đó được thể hiện ở chỗ: sự tự do trên thị trường (cho các ông chủ doanh nghiệp) nối liền với sự bảo đảm xă hội xác định được (cho người lao động) trong đó nhiệm vụ của Nhà nước là xây dựng và thực hiện pháp luật theo hướng các chính sách tổng thể và chính sách quá trình. Quá tŕnh hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường xă hội được đặt dưới sự cân nhắc về mặt xă hội. Diễn giải về từ “xã hội” thu hoạch được từ hệ thống “kinh tế thị trường xă hội” này là tất yếu với nó thực hiện trước hết cho sự phát triển kinh tế thông qua các khả năng, hiệu quả của nền kinh tế thị trường cạnh tranh có tổ chức, “sự thịnh vượng cho tất cả” là có thể được và thứ hai là sự tự do kinh tế cho tất cả được tôn trọng. Con người trong hệ thống này một mặt là một cá nhân, sự tự do và đặc tính cá thể của nó được bảo vệ và khuyến khích. Mặt khác, về góc độ bản chất xã hội, con người được nối liền với nghĩa vụ và những ràng buộc của tự do trong xã hội. Nguyên tắc cao nhất của nền kinh tế thị trường xă hội là sự nối liền tự do trên thị trường với đ ci hỏi cân bằng xă hội theo phương thức: Sự quyết định tự do của các chủ thể kinh tế (ngân sách của cá nhân hoặc ngân sách doanh nghiệp) về thị trường được bảo đảm đảm mà ở đó sự cố gắng đạt được một cách đồng đều về bảo đảm xã hội và sự thịnh vượng chung toàn xã hội. Ở Việt Nam, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước đã thể hiện rõ sự phát triển của nền kinh tế thị trường nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh gắn liền sự phát triển của một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Điều đó có nghĩa là sự tôn trọng, khuyến khích và sử dụng tối đa các đặc tính ưu việt của nền kinh tế thị trường có tổ chức, của các tổ chức kinh tế nhằm đáp ứng cho sự phát triển nhanh và mạnh nền kinh tế quốc dân. Và nhịp độ phát triển kinh tế này luôn được gắn chặt với sự phát triển con người và xã hội. Vì vậy, vai trò của nhà nước đối với sự phát triển nền kinh tế thị trường mang đặc trưng riêng ở nước ta giữ vai trò hết sức quan trọng. Đặc điểm chung là nền kinh tế thị trường của nước ta được chuyển biến từ một nền kinh tế kế hoạch hóa hành chính tập trung. Trải qua ba mưoi năm chuyển đổi, với sự điều chỉnh từng bước của Nhà nước đã không gây nên những biến động làm ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội cũng như đời sống của đại bộ phận người lao động và dân cư trong toàn xã hội. Trái lại, sự thành công của công cuộc chuyển đổi kinh tế đã mang lại bộ mặt mới cho đời sống xã hội cả nước. Thành công đó là do một mặt chúng ta từng bước áp dụng các yếu tố kinh tế thị trường vào từng ngành, từng khu vực; từng bước đa dạng hoá các thành phần kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh và bình đẳng của các thành phần kinh tế; chuyển đổi cơ cấu kinh tế; tạo ra các hành lang pháp lý cần thiết cho hoạt động thị trường đi đúng hướng, mặt khác nhà nước ta rất coi trọng công cụ điều tiết xã hội, sử dụng toàn diện các công cụ của chính sách xă hội như: xoá đói giảm nghèo, cho vay vốn ưu đãi để sản xuất kinh doanh; khuyến khích người lao động tự tạo việc làm và tăng thêm thu nhập; nâng cao chất lượng cung cấp cho các đối tượng hưởng ưu đãi xã hội; từng bước quan tâm đến vấn đề nhà ở cho mọi người dân…nhằm từng bước phấn đấu mang lại sự công bằng, bình đẳng cả về mặt chính trị, tinh thần lẫn đời sống kinh tế cho từng thành viên hay nhóm thành viên trong xă hội. Để hạn chế sự xuất hiện của các rủi ro xã hội cũng như điều tiết cân bằng hậu hoạ của các rủi ro. Các chính sách sẽ can thiệp vào quá trình kinh tế theo phương thức đa dạng. Tất nhiên các tác động của chính sách đến nền kinh tế thị trường luôn dẫn đến các mâu thuẫn và tranh chấp cơ bản về sự can thiệp của các chính sách xă hội một mặt được coi như là nguyên tắc chống đối lại cơ chế thị trường và theo cách tính toán lợi nhuận của các chủ doanh nghiệp thì đó là các chi phí ngọai lai làm giảm bớt lợi nhuận. Nhưng mặt khác nó lại là các điều kiện cần thiết cho sự ổn định về kinh tế – xã hội và đồng thời đảm bảo cho các khả năng phát triển của toàn bộ hệ thống kinh tế. Sự can thiệp của chính sách vào quá trình kinh tế được thể hiện đầy đủ ở các mặt sau: Thông qua các quy định của luật pháp, nhất là các quy định về thị trường lao động và quan hệ lao động nhằm khuyến khích phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng trong phạm vi xă hội kiểm soát được, đồng thời ngăn ngừa hoặc làm giảm bớt các hậu quả xấu của việc sản xuất kinh doanh gắn liền với quy mô của từng đơn vị kinh tế riêng (ví dụ như: điều kiện làm việc, tiền lương, lợi nhuận cho phép…). Thông qua việc chi trả bằng tiền nhằm điều tiết bổ sung cho việc phân phối lại thu nhập từ những đối tác tham gia vào thị trường cũng như hiệu quả của thị trường nhằm loại trừ sự nghèo đói, giúp đỡ vượt qua những rủi ro làm mất mát thu nhập trong quá trình làm việc cũng như xem xét đến việc bảo đảm những nhu cầu thiết yếu. Thông qua các nguồn phúc lợi bằng hiện vật hoặc bằng tiền trong lĩnh vực sức khoẻ nói riêng và và lĩnh vực xã hội nói chung mà đảm bảo đáp ứng đầy đủ các nhu cầu sống tối thiểu cho các thành viên trong xã hội và họ không phải chi trả cho những phúc lợi đó. Tổ chức tài chính cho các hoạt động của chính sách xă hội, đây được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước. Các nguồn thu từ thuế và từ đóng góp nghĩa vụ căn cứ vào thu nhập trong quá trình hoạt động kinh tế. - Xem thêm - Tài liệu vừa đăng Mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở việt nam ... Giải pháp giảm nghèo bền vững ở hà nội... Chính sách của mỹ đối với iran từ năm 1979 đến năm 2016... Năng lực cạnh tranh của ngành lúa gạo việt nam... Quyền giáo dục ở việt nam hiện nay... Tài liệu xem nhiều Luận văn - tác động của mạng xã hội đến giới trẻ... Tiểu luận vận dụng các nguyên lý về đảng kiểu mới của lê nin trong xây dựng đảng vào đảng cộng s... sự cần thiết, vai trò của chính sách công... Luận văn công tác dân vận của đảng... Thiết kế trò chơi vận động cho trẻ nhà trẻ 24 – 36 tháng tuổi trường mầm non hoa hồng – huyện mộ... Tài liệu liên quan Luận văn - tác động của mạng xã hội đến giới trẻ... 140 32968 134 Tiểu luận vận dụng các nguyên lý về đảng kiểu mới của lê nin... 27 13757 16 sự cần thiết, vai trò của chính sách công... 22 10017 23 Luận văn công tác dân vận của đảng... 35 8834 10 Thiết kế trò chơi vận động cho trẻ nhà trẻ 24 – 36 tháng tuổ... 62 8671 1 Công tác đảng, công tác chính trị trong xây dựng quân dự bị ... 112 8464 3 Luận văn ths. truyền thông đại chúng tác động của mạng xã hộ... 140 8238 29 Tiếp cận và giảng dạy các tác phẩm văn học nước ngoài ở trườ... 77 7217 24 Luận văn phong cách hồ chí minh... 77 6748 17 Thực trạng và giải pháp phòng chống ma túy đối với thanh niê... 117 5959 41 Nghiên cứu thực trạng bạo lực học đường ở các trường trung h... 90 5924 29 Nghiên cứu phát triển du lịch huyện đảo lý sơn - tỉnh quảng ... 132 5665 5 Khảo sát hệ thống điện sử dụng phần mềm powerworld... 72 5620 21 Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tíc... 16 5479 9 So sánh đối chiếu trợ từ ngữ khí trong tiếng hán và tiếng vi... 93 4822 10 Trang / 22 Tải xuống × Tải tài liệu Chi phí hỗ trợ lưu trữ và tải về cho tài liệu này là đ. Bạn có muốn hỗ trợ không? Không Có  Giới thiệu Thư viện tài liệu trực tuyến Hỗ trợ support@xemtailieu.com hotro_xemtailieu Giúp đỡ Điều khoản sử dụng Quy định duyệt tài liệu Hướng dẫn upload tài liệu Hướng dẫn kiếm tiền Xemtailieu.com là thư viện tài liệu trực tuyến, nơi chia sẽ trao đổi tài liệu như luận văn đồ án, sách, giáo trình, đề thi, truyện đọc.v.v.. Với kho tài liệu khủng lên đến hàng triệu tài liệu tại Xemtailieu.com hy vọng đáp ứng được nhu cầu của các thành viên. Xemtailieu.com không chịu trách nhiệm liên quan đến các vấn đề bản quyền tài liệu được thành viên tự nguyện đăng tải lên. × Đăng nhập Đăng nhập với Facebook hoặc Đăng nhập với Google - Đăng nhập
1610704847953.98.parquet/104933
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 44074, "url": "https://xemtailieu.com/tai-lieu/su-can-thiet-vai-tro-cua-chinh-sach-cong-1119176.html" }
111.5
Chuyên gia Semalt: Lý do nên sử dụng Google Analytics Chuyên gia Semalt: Lý do nên sử dụng Google Analytics Không quan trọng bạn đã sở hữu một tên miền trong nhiều năm hoạt động hay chỉ trong vài ngày, có hai bộ lọc Google Analytics quan trọng bạn cần sử dụng. Lý do cho điều này là để đảm bảo rằng các báo cáo được tạo luôn chính xác và bạn sẽ tiếp tục tận hưởng lưu lượng truy cập có lợi nhuận. Trước hết, không một doanh nhân trực tuyến tự trọng nào có trang web có thể làm mà không có tài khoản Google Analytics miễn phí và dễ tạo. Nó là điều bắt buộc đối với tất cả các doanh nghiệp, điều này làm cho người có nó trở thành chủ doanh nghiệp thông minh nhất. Ngoài ra, là một quản trị viên, người ta không nên bỏ qua các tùy chọn quản trị để tạo các bộ lọc. Hầu hết mọi người quên rằng khả năng tạo dữ liệu quan trọng và đáng tin cậy nhất nằm ở chức năng quản trị viên của Google Analytics. Artem Abalan, Giám đốc thành công khách hàng cao cấp của Semalt , đề nghị bạn làm quen với hai bộ lọc sau đây chắc chắn sẽ tạo ra sự khác biệt lớn về độ chính xác của tất cả các báo cáo hàng tháng từ Google Analytics. lựa chọn 1 Như đã đề cập trước đó, một điều cần chú ý là thư rác giới thiệu. Google Analytics theo dõi hoạt động của chủ sở hữu theo mặc định. Đây là một vấn đề không hữu ích khi xác định những thứ như trang đích hàng đầu, tỷ lệ chuyển đổi chính xác, thời gian dành cho trang web hoặc các trang trên mỗi lượt truy cập. Cách đơn giản nhất để khắc phục sự cố này là tạo bộ lọc chặn tất cả lưu lượng truy cập đến từ một hoặc một địa chỉ IP cụ thể. Để đạt được điều này, hãy thực hiện các bước sau: Chuyển đến tab quản trị và chọn bộ lọc; Tạo bộ lọc mới "+ Bộ lọc mới"; Đặt tên cho bộ lọc mới; Đảm bảo kiểm tra hộp cho bộ lọc được xác định trước; Chọn để loại trừ lưu lượng truy cập từ một địa chỉ IP; Bước tiếp theo là chèn địa chỉ cụ thể mà người ta muốn loại bỏ. Google "IP của tôi là gì" để xác định địa chỉ IP hiện tại; Tiết kiệm. Lựa chọn 2 Một số công ty quá lười biếng để tạo mã nguồn cho trang web của họ. Thay vào đó, họ đánh cắp mã nguồn từ các công ty khác và sử dụng chúng như của riêng họ. Mặc dù thực tế là đáng xấu hổ và thảm hại, đó là điều mà các chủ doanh nghiệp phải đối phó theo thời gian. Những hành động như vậy có thể ảnh hưởng đến thông tin lưu lượng truy cập cho một trang web do một số công ty tham gia hack này quên xóa tập lệnh Google Analytics khỏi mã. Cuối cùng, cả lưu lượng truy cập từ chủ sở hữu ban đầu và công ty khác kết hợp và trộn dữ liệu lưu lượng. Cách duy nhất để khắc phục lỗi như vậy là thiết lập bộ lọc chỉ chấp nhận lưu lượng truy cập đến từ miền của công ty. Đây là cách để làm điều này: Cho đến khi người ta phải kiểm tra hộp bộ lọc được xác định trước, chọn chỉ bao gồm lưu lượng truy cập đến tên máy chủ chứa tên miền gốc; Nhập tên miền gốc; Tiết kiệm.
1610704847953.98.parquet/120485
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 2531, "url": "http://vi.apps-vietjetair.com/" }
109.7
Bệnh Crohn, nguyên nhân, triệu chứng & điều trị - doisongbiz.com Doisongbiz - Sức khỏe đời sống văn hóa 365 ngày Trang chủ Sức khỏe Bệnh thường gặp Bệnh hệ tiêu hóa Bệnh Hô Hấp Bệnh Mắt Bệnh Nội Tiết Bệnh tim mạch Bệnh truyền nhiễm Bệnh xương khớp Da – Tóc – Móng Hệ Thần Kinh Tai – Mũi – Họng Thận – Tiết liệu Ung thư Sức khỏe giới tính Sức khỏe sinh sản Làm đẹp Tất cả các Trị Mụn Chăm sóc da Tăng cân - Giảm cân Làm đẹp Tình dầu cho tóc, lợi ích và cách dùng Làm đẹp Các loại hình thức cấy tóc, bạn đã tìm hiểu chưa Làm đẹp Lời khuyên sau khi cấy tóc từ chuyên gia Prev Next Dinh Dưỡng Tất cả các An toàn thực phẩm Chế độ ăn uống Dinh Dưỡng 12 lợi ích sức khỏe đáng kinh ngạc của omega 3 Dinh Dưỡng 7 loại nước ép detox giảm cân Dinh Dưỡng 10 Siêu thực phẩm giúp tăng cường trí não Prev Next Mẹ và bé Tất cả các Mang thai Nuôi dạy con Nuôi dạy con Lợi ích của hạt phỉ đối với trẻ em Nuôi dạy con Chuột rút khi ngủ ở trẻ em, thông tin quan trọng Mang thai Tuần thứ 21 của thai kỳ, biểu hiện thế nào Prev Next Y Học Thông tin thuốc & Biệt dược Bài thuốc hay Cây Thuốc Cây thuốc tăng cường sinh lý Cây thuốc chữa sỏi thận Đời Sống Thần số học Mẹo Vặt Ẩm Thực Nhà Đẹp Công Nghệ Bệnh Crohn, nguyên nhân, triệu chứng & điều trị 0 176 Share Bệnh Crohn là một bệnh viêm ruột (IBD). Nó gây viêm đường tiêu hóa của bạn, có thể dẫn đến đau bụng, tiêu chảy nghiêm trọng, mệt mỏi, giảm cân và suy dinh dưỡng. Viêm do bệnh Crohn gây ra có thể liên quan đến các khu vực khác nhau của đường tiêu hóa ở những người khác nhau. Tình trạng viêm do bệnh Crohn gây ra thường lan sâu vào các lớp mô ruột bị ảnh hưởng. Bệnh Crohn có thể vừa đau đớn vừa suy nhược, và đôi khi có thể dẫn đến các biến chứng đe dọa tính mạng. Mặc dù không có cách chữa trị căn bệnh Crohn được biết đến, các liệu pháp có thể làm giảm đáng kể các dấu hiệu và triệu chứng của nó và thậm chí mang lại sự thuyên giảm lâu dài. Với điều trị, nhiều người mắc bệnh Crohn có thể hoạt động tốt. Triệu chứng Ở một số người mắc bệnh Crohn, chỉ có đoạn cuối của ruột non (hồi tràng) bị ảnh hưởng. Ở những người khác, bệnh chỉ giới hạn ở ruột kết (một phần của ruột già). Các khu vực phổ biến nhất bị ảnh hưởng bởi bệnh Crohn là phần cuối cùng của ruột non và ruột kết. Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh Crohn có thể từ nhẹ đến nặng. Chúng thường phát triển dần dần, nhưng đôi khi sẽ xuất hiện đột ngột, không báo trước. Bạn cũng có thể có những khoảng thời gian khi bạn không có dấu hiệu hoặc triệu chứng (thuyên giảm). Khi bệnh đang hoạt động, các dấu hiệu và triệu chứng có thể bao gồm: Bệnh tiêu chảy Sốt Mệt mỏi Đau bụng và chuột rút Máu trong phân của bạn Loét miệng Giảm sự thèm ăn và giảm cân Đau hoặc dẫn lưu gần hoặc xung quanh hậu môn do viêm từ đường hầm vào da (lỗ rò) Các dấu hiệu và triệu chứng khác Những người bị bệnh Crohn nghiêm trọng cũng có thể gặp: Viêm da, mắt và khớp Viêm gan hoặc ống mật Chậm tăng trưởng hoặc phát triển tình dục, ở trẻ em Khi nào đi khám bác sĩ Gặp bác sĩ nếu bạn có những thay đổi liên tục trong thói quen đại tiện hoặc nếu bạn có bất kỳ dấu hiệu và triệu chứng nào của bệnh Crohn, chẳng hạn như: Đau bụng Máu trong phân của bạn Các cơn tiêu chảy đang diễn ra không đáp ứng với các loại thuốc không kê đơn (OTC) Sốt không rõ nguyên nhân kéo dài hơn một hoặc hai ngày Giảm cân không giải thích được Nguyên nhân Nguyên nhân chính xác của bệnh Crohn vẫn chưa được biết. Trước đây, chế độ ăn kiêng và căng thẳng đã bị nghi ngờ, nhưng bây giờ các bác sĩ biết rằng những yếu tố này có thể làm nặng thêm nhưng không gây ra bệnh Crohn. Một số yếu tố, chẳng hạn như di truyền và hệ thống miễn dịch bị trục trặc, có khả năng đóng một vai trò trong sự phát triển của nó. Hệ miễn dịch. Có khả năng virus hoặc vi khuẩn có thể kích hoạt bệnh Crohn. Khi hệ thống miễn dịch của bạn cố gắng chống lại vi sinh vật xâm nhập, một phản ứng miễn dịch bất thường cũng khiến hệ thống miễn dịch tấn công các tế bào trong đường tiêu hóa. Di truyền. Crohn là phổ biến hơn ở những người có thành viên gia đình mắc bệnh, vì vậy gen có thể đóng một vai trò trong việc làm cho mọi người dễ mắc bệnh hơn. Tuy nhiên, hầu hết những người mắc bệnh Crohn không có tiền sử gia đình mắc bệnh. Các yếu tố rủi ro Các yếu tố rủi ro đối với bệnh Crohn có thể bao gồm: Tuổi tác. Bệnh Crohn có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng bạn có khả năng mắc bệnh khi còn trẻ. Hầu hết những người phát triển bệnh Crohn được chẩn đoán trước khi họ khoảng 30 tuổi. Dân tộc. Mặc dù bệnh Crohn có thể ảnh hưởng đến bất kỳ nhóm dân tộc nào, người da trắng có nguy cơ cao nhất, bao gồm cả người gốc Do Thái Đông Âu (Ashkenazi). Tuy nhiên, tỷ lệ mắc bệnh Crohn đang gia tăng ở những người da đen sống ở Bắc Mỹ và Vương quốc Anh. Lịch sử gia đình. Bạn có nguy cơ cao hơn nếu bạn có người thân, chẳng hạn như cha mẹ, anh chị em hoặc con cái mắc bệnh. Có đến 1/5 người mắc bệnh Crohn có thành viên gia đình mắc bệnh. Hút thuốc lá. Hút thuốc lá là yếu tố rủi ro có thể kiểm soát quan trọng nhất để phát triển bệnh Crohn. Hút thuốc cũng dẫn đến bệnh nặng hơn và nguy cơ phẫu thuật cao hơn. Nếu bạn hút thuốc, điều quan trọng là phải dừng lại. Thuốc chống viêm không steroid. Chúng bao gồm ibuprofen (Advil, Motrin IB, những loại khác), naproxen natri (Aleve), diclofenac sodium (Voltaren) và các loại khác. Mặc dù chúng không gây ra bệnh Crohn, nhưng chúng có thể dẫn đến viêm ruột khiến bệnh Crohn trở nên tồi tệ hơn. Bạn sống ở đâu. Nếu bạn sống ở khu vực thành thị hoặc ở một nước công nghiệp, bạn có nhiều khả năng mắc bệnh Crohn. Điều này cho thấy các yếu tố môi trường, bao gồm chế độ ăn nhiều chất béo hoặc thực phẩm tinh chế, có thể đóng một vai trò trong bệnh Crohn. Biến chứng Bệnh Crohn có thể dẫn đến một hoặc nhiều biến chứng sau: Tắc ruột. Bệnh Crohn ảnh hưởng đến độ dày của thành ruột. Theo thời gian, các bộ phận của ruột có thể sẹo và hẹp, có thể chặn dòng chảy của nội dung tiêu hóa. Bạn có thể yêu cầu phẫu thuật để loại bỏ phần bị bệnh của ruột. Loét. Viêm mãn tính có thể dẫn đến vết loét mở (loét) bất cứ nơi nào trong đường tiêu hóa của bạn, bao gồm cả miệng và hậu môn của bạn, và trong khu vực bộ phận sinh dục (đáy chậu). Lỗ rò. Đôi khi các vết loét có thể kéo dài hoàn toàn qua thành ruột, tạo ra một lỗ rò – một kết nối bất thường giữa các bộ phận cơ thể khác nhau. Lỗ rò có thể phát triển giữa ruột và da, hoặc giữa ruột của bạn và một cơ quan khác. Lỗ rò gần hoặc xung quanh khu vực hậu môn (quanh hậu môn) là loại phổ biến nhất.Khi lỗ rò phát triển trong bụng, thức ăn có thể bỏ qua các khu vực của ruột cần thiết cho sự hấp thụ. Rò rỉ có thể xảy ra giữa các vòng ruột, vào bàng quang hoặc âm đạo, hoặc qua da, gây ra sự thoát nước liên tục của nội dung ruột lên da của bạn.Trong một số trường hợp, lỗ rò có thể bị nhiễm trùng và hình thành áp xe, có thể đe dọa tính mạng nếu không được điều trị. Nứt hậu môn. Đây là một vết rách nhỏ ở mô dọc theo hậu môn hoặc ở vùng da xung quanh hậu môn nơi nhiễm trùng có thể xảy ra. Nó thường liên quan đến việc đi tiêu đau đớn và có thể dẫn đến lỗ rò quanh hậu môn. Suy dinh dưỡng. Tiêu chảy, đau bụng và chuột rút có thể khiến bạn khó ăn hoặc để ruột hấp thụ đủ chất dinh dưỡng để giữ cho bạn được nuôi dưỡng. Nó cũng phổ biến để phát triển thiếu máu do sắt thấp hoặc vitamin B-12 gây ra bởi bệnh. Ung thư ruột kết. Có bệnh Crohn ảnh hưởng đến đại tràng của bạn làm tăng nguy cơ ung thư ruột kết. Hướng dẫn sàng lọc ung thư đại tràng chung cho những người không mắc bệnh Crohn yêu cầu nội soi đại tràng cứ sau 10 năm bắt đầu ở tuổi 50. Hỏi bác sĩ xem bạn có cần thực hiện xét nghiệm này sớm hơn và thường xuyên hơn không. Các vấn đề sức khỏe khác. Bệnh Crohn có thể gây ra vấn đề ở các bộ phận khác của cơ thể. Trong số các vấn đề này là thiếu máu, rối loạn da, loãng xương, viêm khớp và bệnh túi mật hoặc gan. Rủi ro về thuốc. Một số loại thuốc bệnh Crohn hoạt động bằng cách ngăn chặn các chức năng của hệ thống miễn dịch có liên quan đến nguy cơ phát triển ung thư nhỏ như ung thư hạch và ung thư da. Chúng cũng làm tăng nguy cơ nhiễm trùng.Corticosteroid có thể liên quan đến nguy cơ loãng xương, gãy xương, đục thủy tinh thể, tăng nhãn áp, tiểu đường và huyết áp cao, trong số những người khác. Làm việc với bác sĩ của bạn để xác định rủi ro và lợi ích của thuốc. Chẩn đoán Bác sĩ của bạn có thể sẽ chẩn đoán bệnh Crohn chỉ sau khi loại trừ các nguyên nhân có thể khác cho các dấu hiệu và triệu chứng của bạn. Không có xét nghiệm nào để chẩn đoán bệnh Crohn. Bác sĩ của bạn có thể sẽ sử dụng kết hợp các xét nghiệm để giúp xác nhận chẩn đoán bệnh Crohn, bao gồm: Xét nghiệm máu Xét nghiệm thiếu máu hoặc nhiễm trùng. Bác sĩ có thể đề nghị xét nghiệm máu để kiểm tra thiếu máu – một tình trạng không có đủ tế bào hồng cầu để mang đủ oxy đến các mô của bạn – hoặc để kiểm tra các dấu hiệu nhiễm trùng. Hướng dẫn chuyên gia hiện không khuyến nghị xét nghiệm kháng thể hoặc di truyền cho bệnh Crohn. Xét nghiệm máu huyền bí trong phân. Bạn có thể cần cung cấp một mẫu phân để bác sĩ có thể kiểm tra máu ẩn (huyền bí) trong phân của bạn. Thủ tục Nội soi đại tràng. Xét nghiệm này cho phép bác sĩ của bạn xem toàn bộ đại tràng và phần cuối của hồi tràng (hồi tràng cuối) bằng một ống mỏng, linh hoạt, được chiếu sáng với một camera gắn kèm. Trong thủ tục, bác sĩ cũng có thể lấy các mẫu mô nhỏ (sinh thiết) để phân tích trong phòng thí nghiệm, có thể giúp xác nhận chẩn đoán. Các cụm tế bào viêm được gọi là u hạt, nếu có, giúp xác nhận chẩn đoán của Crohn. Chụp cắt lớp vi tính (CT). Bạn có thể chụp CT – một kỹ thuật X-quang đặc biệt cung cấp nhiều chi tiết hơn so với chụp X-quang tiêu chuẩn. Xét nghiệm này xem xét toàn bộ ruột cũng như các mô bên ngoài ruột. CT enterography là một CT scan đặc biệt cung cấp hình ảnh tốt hơn của ruột non. Xét nghiệm này đã thay thế tia X barium ở nhiều trung tâm y tế. Chụp cộng hưởng từ (MRI). Máy quét MRI sử dụng từ trường và sóng vô tuyến để tạo ra hình ảnh chi tiết của các cơ quan và mô. MRI đặc biệt hữu ích để đánh giá lỗ rò quanh vùng hậu môn (MRI vùng chậu) hoặc ruột non (chụp cắt lớp MR). Nội soi viên nang. Đối với thử nghiệm này, bạn nuốt một viên nang có máy ảnh trong đó. Máy ảnh chụp ảnh ruột non của bạn, được truyền đến một máy ghi âm bạn đeo trên thắt lưng. Các hình ảnh sau đó được tải xuống máy tính, hiển thị trên màn hình và kiểm tra các dấu hiệu của bệnh Crohn. Máy ảnh thoát ra khỏi cơ thể bạn không đau trong phân của bạn. Bạn vẫn có thể cần nội soi với sinh thiết để xác nhận chẩn đoán bệnh Crohn. Nội soi hỗ trợ bóng. Đối với thử nghiệm này, một phạm vi được sử dụng cùng với một thiết bị được gọi là overTube. Điều này cho phép bác sĩ nhìn xa hơn vào ruột non nơi ống nội soi tiêu chuẩn không với tới. Kỹ thuật này rất hữu ích khi nội soi viên nang cho thấy sự bất thường, nhưng chẩn đoán vẫn còn trong câu hỏi. Sự đối xử Hiện tại không có cách chữa trị cho bệnh Crohn và không có cách điều trị nào phù hợp với tất cả mọi người. Mục tiêu của điều trị y tế là giảm viêm gây ra các dấu hiệu và triệu chứng của bạn. Nó cũng là để cải thiện tiên lượng lâu dài bằng cách hạn chế các biến chứng. Trong những trường hợp tốt nhất, điều này có thể không chỉ giúp giảm triệu chứng mà còn thuyên giảm lâu dài. Thuốc chống viêm Thuốc chống viêm thường là bước đầu tiên trong điều trị bệnh viêm ruột. Chúng bao gồm: Corticosteroid. Corticosteroid như prednison và budesonide (Entocort EC) có thể giúp giảm viêm trong cơ thể bạn, nhưng chúng không có tác dụng đối với mọi người mắc bệnh Crohn. Các bác sĩ thường chỉ sử dụng chúng nếu bạn không đáp ứng với các phương pháp điều trị khác.Corticosteroid có thể được sử dụng để cải thiện triệu chứng ngắn hạn (ba đến bốn tháng) và gây ra sự thuyên giảm. Corticosteroid cũng có thể được sử dụng kết hợp với thuốc ức chế hệ thống miễn dịch. Uống 5-aminosalicylates. Những loại thuốc này bao gồm sulfasalazine (Azulfidine), có chứa sulfa và mesalamine (Asacol HD, Delzicol, những loại khác). Thuốc uống 5-aminosalicylates đã được sử dụng rộng rãi trong quá khứ nhưng hiện nay thường được coi là có lợi ích hạn chế. Ức chế hệ thống miễn dịch Những loại thuốc này cũng làm giảm viêm, nhưng chúng nhắm vào hệ thống miễn dịch của bạn, tạo ra các chất gây viêm. Đối với một số người, sự kết hợp của các loại thuốc này hoạt động tốt hơn một loại thuốc đơn thuần. Thuốc ức chế miễn dịch bao gồm: Azathioprine (Azasan, Imuran) và mercilaurine (Purinethol, Purixan). Đây là những thuốc ức chế miễn dịch được sử dụng rộng rãi nhất để điều trị bệnh viêm ruột. Sử dụng chúng đòi hỏi bạn phải theo dõi chặt chẽ với bác sĩ và kiểm tra máu thường xuyên để tìm kiếm các tác dụng phụ, chẳng hạn như giảm sức đề kháng với nhiễm trùng và viêm gan. Chúng cũng có thể gây buồn nôn và nôn. Infliximab (Remicade), adalimumab (Humira) và certolizumab pegol (Cimzia). Những loại thuốc này, được gọi là chất ức chế TNF hoặc sinh học, hoạt động bằng cách trung hòa một protein hệ thống miễn dịch được gọi là yếu tố hoại tử khối u (TNF). Methotrexate (Trexall). Thuốc này đôi khi được sử dụng cho những người mắc bệnh Crohn không đáp ứng tốt với các thuốc khác. Bạn sẽ cần phải được theo dõi chặt chẽ cho các tác dụng phụ. Natalizumab (Tysabri) và vedolizumab (Entyvio). Những loại thuốc này hoạt động bằng cách ngăn chặn một số phân tử tế bào miễn dịch – integrins – liên kết với các tế bào khác trong niêm mạc ruột của bạn. Bởi vì natalizumab có liên quan đến nguy cơ mắc bệnh não chất trắng đa ổ tiến triển hiếm gặp nhưng nghiêm trọng – một bệnh não thường dẫn đến tử vong hoặc tàn tật nặng – bạn phải đăng ký vào một chương trình phân phối hạn chế đặc biệt để sử dụng nó.Vedolizumab gần đây đã được chấp thuận cho bệnh Crohn. Nó hoạt động như natalizumab nhưng dường như không có nguy cơ mắc bệnh não. Ustekinumab (Stelara). Thuốc này được sử dụng để điều trị bệnh vẩy nến. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng nó cũng hữu ích trong việc điều trị bệnh Crohn và có thể được sử dụng khi các phương pháp điều trị y tế khác không thành công. Kháng sinh Thuốc kháng sinh có thể làm giảm lượng thoát nước và đôi khi chữa lành lỗ rò và áp xe ở những người mắc bệnh Crohn. Một số nhà nghiên cứu cũng nghĩ rằng thuốc kháng sinh giúp giảm vi khuẩn đường ruột có hại có thể đóng vai trò kích hoạt hệ thống miễn dịch đường ruột, dẫn đến viêm. Thuốc kháng sinh thường được kê đơn bao gồm ciprofloxacin (Cipro) và metronidazole (Flagyl). Thuốc khác Ngoài việc kiểm soát tình trạng viêm, một số loại thuốc có thể giúp làm giảm các dấu hiệu và triệu chứng của bạn, nhưng luôn nói chuyện với bác sĩ trước khi dùng bất kỳ loại thuốc không kê đơn nào. Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của bệnh Crohn, bác sĩ có thể đề nghị một hoặc nhiều điều sau đây: Chống tiêu chảy. Một chất bổ sung chất xơ, chẳng hạn như bột psyllium (Metamucil) hoặc methylcellulose (Citrucel), có thể giúp làm giảm tiêu chảy nhẹ đến trung bình bằng cách thêm số lượng lớn vào phân của bạn. Đối với tiêu chảy nặng hơn, loperamid (Imodium AD) có thể có hiệu quả. Thuốc giảm đau. Đối với cơn đau nhẹ, bác sĩ có thể khuyên dùng acetaminophen (Tylenol, các loại khác) – nhưng không phải là thuốc giảm đau thông thường khác, chẳng hạn như ibuprofen (Advil, Motrin IB, những người khác), naproxen natri (Aleve). Những loại thuốc này có khả năng làm cho các triệu chứng của bạn tồi tệ hơn, và có thể làm cho bệnh của bạn trở nên tồi tệ hơn. Chất sắt. Nếu bạn bị chảy máu đường ruột mãn tính, bạn có thể bị thiếu máu do thiếu sắt và cần phải bổ sung sắt. Vitamin B-12 mũi tiêm. Bệnh Crohn có thể gây thiếu vitamin B-12. Vitamin B-12 giúp ngăn ngừa thiếu máu, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển bình thường, và rất cần thiết cho chức năng thần kinh thích hợp. Bổ sung canxi và vitamin D. Bệnh Crohn và steroid được sử dụng để điều trị nó có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh loãng xương, do đó bạn có thể cần phải bổ sung canxi có bổ sung vitamin D. Liệu pháp dinh dưỡng Bác sĩ của bạn có thể đề nghị một chế độ ăn uống đặc biệt được cung cấp qua ống truyền dinh dưỡng (dinh dưỡng qua đường ruột) hoặc các chất dinh dưỡng được tiêm vào tĩnh mạch (dinh dưỡng ngoài đường tiêu hóa) để điều trị bệnh Crohn của bạn. Điều này có thể cải thiện dinh dưỡng tổng thể của bạn và cho phép ruột nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi ruột có thể làm giảm viêm trong thời gian ngắn. Bác sĩ của bạn có thể sử dụng liệu pháp dinh dưỡng ngắn hạn và kết hợp nó với các loại thuốc, chẳng hạn như thuốc ức chế hệ thống miễn dịch. Dinh dưỡng qua đường ruột và đường tiêm thường được sử dụng để giúp mọi người khỏe mạnh hơn trước khi phẫu thuật hoặc khi các loại thuốc khác không kiểm soát được các triệu chứng. Bác sĩ cũng có thể đề nghị một chế độ ăn ít chất xơ hoặc ít chất xơ để giảm nguy cơ tắc nghẽn đường ruột nếu bạn bị hẹp ruột (hẹp). Một chế độ ăn ít chất thải được thiết kế để giảm kích thước và số lượng phân của bạn. Phẫu thuật Nếu chế độ ăn uống và thay đổi lối sống, điều trị bằng thuốc hoặc các phương pháp điều trị khác không làm giảm các dấu hiệu và triệu chứng của bạn, bác sĩ có thể đề nghị phẫu thuật. Gần một nửa số người mắc bệnh Crohn sẽ cần ít nhất một lần phẫu thuật. Tuy nhiên, phẫu thuật không chữa khỏi bệnh Crohn. Trong quá trình phẫu thuật, bác sĩ phẫu thuật sẽ loại bỏ một phần hư hỏng của đường tiêu hóa của bạn và sau đó kết nối lại các phần khỏe mạnh. Phẫu thuật cũng có thể được sử dụng để đóng lỗ rò và dẫn lưu áp xe. Những lợi ích của phẫu thuật đối với bệnh Crohn thường là tạm thời. Bệnh thường tái phát, thường xuyên gần các mô được kết nối lại. Phương pháp tốt nhất là theo dõi phẫu thuật bằng thuốc để giảm thiểu nguy cơ tái phát. Lối sống và biện pháp khắc phục tại nhà Đôi khi bạn có thể cảm thấy bất lực khi đối mặt với bệnh Crohn. Nhưng những thay đổi trong chế độ ăn uống và lối sống của bạn có thể giúp kiểm soát các triệu chứng của bạn và kéo dài thời gian giữa các đợt bùng phát. Chế độ ăn Không có bằng chứng chắc chắn rằng những gì bạn ăn thực sự gây ra bệnh viêm ruột. Nhưng một số loại thực phẩm và đồ uống có thể làm nặng thêm các dấu hiệu và triệu chứng của bạn, đặc biệt là trong lúc bùng phát. Nó có thể hữu ích để giữ một cuốn nhật ký thực phẩm để theo dõi những gì bạn đang ăn, cũng như bạn cảm thấy như thế nào. Nếu bạn phát hiện ra một số thực phẩm đang khiến các triệu chứng của bạn bùng phát, bạn có thể thử loại bỏ chúng. Dưới đây là một số gợi ý có thể giúp: Hạn chế các sản phẩm sữa. Nhiều người mắc bệnh viêm ruột thấy rằng các vấn đề như tiêu chảy, đau bụng và khí cải thiện bằng cách hạn chế hoặc loại bỏ các sản phẩm sữa. Bạn có thể không dung nạp đường sữa – nghĩa là cơ thể bạn không thể tiêu hóa được đường sữa (đường sữa) trong thực phẩm từ sữa. Sử dụng một sản phẩm enzyme như Lactaid có thể giúp ích. Hãy thử các loại thực phẩm ít chất béo. Nếu bạn mắc bệnh Crohn ở ruột non, bạn có thể không tiêu hóa hoặc hấp thụ chất béo bình thường. Thay vào đó, chất béo đi qua ruột của bạn, làm cho bệnh tiêu chảy của bạn tồi tệ hơn. Cố gắng tránh bơ, bơ thực vật, nước sốt kem và thực phẩm chiên. Hạn chế chất xơ, nếu đó là một thực phẩm có vấn đề. Nếu bạn bị bệnh viêm ruột, thực phẩm giàu chất xơ, chẳng hạn như trái cây và rau quả tươi và ngũ cốc, có thể làm cho các triệu chứng của bạn tồi tệ hơn. Nếu trái cây và rau sống làm phiền bạn, hãy thử hấp, nướng hoặc hầm chúng.Nói chung, bạn có thể gặp nhiều vấn đề hơn với các loại thực phẩm trong họ cải bắp, chẳng hạn như bông cải xanh và súp lơ, và các loại hạt, hạt, ngô và bỏng ngô. Bạn có thể được yêu cầu hạn chế chất xơ hoặc thực hiện chế độ ăn ít chất cặn bã nếu bạn bị hẹp ruột (hẹp). Tránh các thực phẩm có vấn đề khác. Thực phẩm cay, rượu và caffeine có thể làm cho các dấu hiệu và triệu chứng của bạn tồi tệ hơn. Các biện pháp ăn kiêng khác Ăn nhiều bữa nhỏ. Bạn có thể thấy bạn cảm thấy tốt hơn khi ăn năm hoặc sáu bữa nhỏ mỗi ngày thay vì hai hoặc ba bữa lớn hơn. Uống nhiều chất lỏng. Cố gắng uống nhiều nước hàng ngày. Nước là tốt nhất. Rượu và đồ uống có chứa caffeine kích thích ruột của bạn và có thể làm cho bệnh tiêu chảy nặng hơn, trong khi đồ uống có ga thường xuyên tạo ra khí gas. Cân nhắc vitamin tổng hợp. Bởi vì bệnh Crohn có thể cản trở khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng của bạn và vì chế độ ăn uống của bạn có thể bị hạn chế, bổ sung vitamin tổng hợp và khoáng chất thường hữu ích. Kiểm tra với bác sĩ trước khi dùng bất kỳ vitamin hoặc chất bổ sung. Nói chuyện với một chuyên gia dinh dưỡng. Nếu bạn bắt đầu giảm cân hoặc chế độ ăn uống của bạn trở nên rất hạn chế, hãy nói chuyện với một chuyên gia dinh dưỡng. Hút thuốc Hút thuốc làm tăng nguy cơ phát triển bệnh Crohn và một khi bạn mắc bệnh, hút thuốc có thể làm cho bệnh nặng hơn. Những người mắc bệnh Crohn hút thuốc có nhiều khả năng tái phát và cần dùng thuốc và phẫu thuật lặp lại. Bỏ hút thuốc có thể cải thiện sức khỏe tổng thể của đường tiêu hóa của bạn, cũng như cung cấp nhiều lợi ích sức khỏe khác. Nhấn mạnh Mặc dù căng thẳng không gây ra bệnh Crohn, nhưng nó có thể làm cho các dấu hiệu và triệu chứng của bạn trở nên tồi tệ hơn và có thể gây ra bùng phát. Mặc dù không phải lúc nào cũng có thể tránh được căng thẳng, bạn có thể tìm hiểu các cách giúp quản lý nó, chẳng hạn như: Tập thể dục. Ngay cả việc tập thể dục nhẹ cũng có thể giúp giảm căng thẳng, giảm trầm cảm và bình thường hóa chức năng ruột. Nói chuyện với bác sĩ của bạn về một kế hoạch tập thể dục phù hợp với bạn. Phản hồi sinh học. Kỹ thuật giảm căng thẳng này có thể giúp bạn giảm căng cơ và làm chậm nhịp tim với sự trợ giúp của máy phản hồi. Mục tiêu là giúp bạn bước vào trạng thái thư giãn để bạn có thể dễ dàng đối phó với căng thẳng hơn. Thường xuyên thư giãn và tập thở. Một cách để đối phó với căng thẳng là thường xuyên thư giãn và sử dụng các kỹ thuật như thở sâu, chậm để bình tĩnh. Bạn có thể tham gia các lớp học yoga và thiền hoặc sử dụng sách, CD hoặc DVD tại nhà. Liều thuốc thay thế Nhiều người bị rối loạn tiêu hóa đã sử dụng một số dạng thuốc bổ sung và thay thế (CAM). Tuy nhiên, có rất ít nghiên cứu được thiết kế tốt về sự an toàn và hiệu quả của chúng. Một số liệu pháp thường được sử dụng bao gồm: Thảo dược và bổ sung dinh dưỡng. Phần lớn các liệu pháp thay thế không được quy định bởi Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm. Các nhà sản xuất có thể tuyên bố rằng các liệu pháp của họ là an toàn và hiệu quả nhưng không cần phải chứng minh điều đó. Hơn nữa, ngay cả các loại thảo mộc và chất bổ sung tự nhiên có thể có tác dụng phụ và gây ra các tương tác nguy hiểm. Hãy cho bác sĩ của bạn nếu bạn quyết định thử bất kỳ bổ sung thảo dược. Probiotic. Có một số bằng chứng cho thấy rằng một số chế phẩm Bifidobacterium có thể giúp những người mắc bệnh Crohn duy trì sự thuyên giảm, nhưng một số nghiên cứu đã không tìm thấy lợi ích nào trong việc điều trị bệnh Crohn bằng men vi sinh. Nghiên cứu thêm là cần thiết để xác định hiệu quả của họ. Dầu cá. Các nghiên cứu được thực hiện trên dầu cá để điều trị Crohn chưa cho thấy lợi ích. Châm cứu. Một số người có thể thấy châm cứu hoặc thôi miên hữu ích cho việc quản lý Crohn, nhưng không có liệu pháp nào được nghiên cứu kỹ cho việc sử dụng này. Prebiotic. Không giống như men vi sinh – vốn là vi khuẩn sống có lợi mà bạn tiêu thụ – prebiotic là các hợp chất tự nhiên có trong thực vật, như atisô, giúp cung cấp nhiên liệu cho vi khuẩn đường ruột có lợi. Các nghiên cứu đã không cho thấy kết quả tích cực của prebiotic đối với những người mắc bệnh Crohn. Đối phó và hỗ trợ Bệnh Crohn không chỉ ảnh hưởng đến bạn về mặt thể chất – nó cũng gây ra nhiều tổn thương về mặt cảm xúc. Nếu các dấu hiệu và triệu chứng nghiêm trọng, cuộc sống của bạn có thể xoay quanh nhu cầu liên tục phải chạy vào nhà vệ sinh. Ngay cả khi các triệu chứng của bạn là nhẹ, khí và đau bụng có thể gây khó khăn khi ra ngoài nơi công cộng. Tất cả những yếu tố này có thể thay đổi cuộc sống của bạn và có thể dẫn đến trầm cảm. Dưới đây là một số điều bạn có thể làm: Được thông báo. Một trong những cách tốt nhất để kiểm soát nhiều hơn là tìm hiểu càng nhiều càng tốt về bệnh Crohn. Tìm kiếm thông tin từ Crohn’s & Col Viêm Foundation. Tham gia một nhóm hỗ trợ. Mặc dù các nhóm hỗ trợ không dành cho tất cả mọi người, họ có thể cung cấp thông tin có giá trị về tình trạng của bạn cũng như hỗ trợ về mặt cảm xúc. Thành viên nhóm thường xuyên biết về các phương pháp điều trị y tế mới nhất hoặc các liệu pháp tích hợp. Bạn cũng có thể thấy yên tâm khi nằm trong số những người khác mắc bệnh Crohn. Nói chuyện với một nhà trị liệu. Một số người thấy hữu ích khi tham khảo ý kiến ​​chuyên gia sức khỏe tâm thần, người quen thuộc với bệnh viêm ruột và những khó khăn về cảm xúc có thể gây ra. Mặc dù sống chung với bệnh Crohn có thể làm nản lòng, nghiên cứu vẫn đang tiếp tục và triển vọng đang được cải thiện. Chuẩn bị cho cuộc hẹn của bạn Các triệu chứng của bệnh Crohn trước tiên có thể khiến bạn phải đến bác sĩ gia đình hoặc bác sĩ đa khoa. Bác sĩ có thể khuyên bạn nên đi khám bác sĩ chuyên khoa điều trị các bệnh về tiêu hóa (bác sĩ tiêu hóa). Bởi vì các cuộc hẹn có thể ngắn gọn và thường có rất nhiều thông tin để thảo luận, nên chuẩn bị tốt. Dưới đây là một số thông tin để giúp bạn sẵn sàng và những gì mong đợi từ bác sĩ của bạn. Bạn có thể làm gì Hãy nhận biết bất kỳ hạn chế trước cuộc hẹn. Tại thời điểm bạn thực hiện cuộc hẹn, hãy chắc chắn hỏi nếu có bất cứ điều gì bạn cần làm trước, chẳng hạn như hạn chế chế độ ăn uống của bạn. Viết ra bất kỳ triệu chứng nào bạn gặp phải, bao gồm bất kỳ triệu chứng nào có vẻ không liên quan đến lý do bạn lên lịch hẹn. Viết thông tin cá nhân quan trọng, bao gồm bất kỳ căng thẳng lớn hoặc thay đổi cuộc sống gần đây. Lập danh sách tất cả các loại thuốc, vitamin hoặc chất bổ sung mà bạn đang dùng. Yêu cầu một thành viên gia đình hoặc bạn bè đi cùng với bạn đến cuộc hẹn của bạn. Đôi khi có thể khó lấy tất cả các thông tin được cung cấp trong một cuộc hẹn. Một người nào đó đi cùng bạn có thể nhớ một cái gì đó mà bạn đã bỏ lỡ hoặc quên. Viết ra câu hỏi để hỏi bác sĩ của bạn. Thời gian của bạn với bác sĩ của bạn bị hạn chế, vì vậy việc chuẩn bị một danh sách các câu hỏi có thể giúp bạn tận dụng tối đa chuyến thăm của bạn. Liệt kê các câu hỏi của bạn từ quan trọng nhất đến ít quan trọng nhất trong trường hợp hết thời gian. Đối với bệnh Crohn, một số câu hỏi cơ bản để hỏi bác sĩ của bạn bao gồm: Điều gì gây ra những triệu chứng này? Có những nguyên nhân có thể khác cho các triệu chứng của tôi? Tôi cần những loại xét nghiệm nào? Những xét nghiệm này có yêu cầu sự chuẩn bị đặc biệt nào không? Là tình trạng này tạm thời hoặc lâu dài? Những phương pháp điều trị có sẵn, và bạn đề nghị gì? Có loại thuốc nào tôi nên tránh? Những loại tác dụng phụ tôi có thể mong đợi từ điều trị? Có sự thay thế nào cho cách tiếp cận chính mà bạn đang đề xuất không? Tôi có điều kiện sức khỏe khác. Làm thế nào tôi có thể quản lý chúng tốt nhất với nhau? Tôi có cần phải tuân theo bất kỳ hạn chế chế độ ăn uống? Có một sự thay thế chung cho loại thuốc bạn đang kê đơn cho tôi không? Có tài liệu quảng cáo hoặc tài liệu in nào khác mà tôi có thể mang theo bên mình không? Những trang web nào bạn đề nghị? Nếu tôi mắc bệnh Crohn, nguy cơ con tôi sẽ phát triển là gì? Tôi cần loại thử nghiệm tiếp theo nào trong tương lai? Ngoài những câu hỏi mà bạn đã chuẩn bị để hỏi bác sĩ, đừng ngần ngại đặt thêm câu hỏi trong cuộc hẹn. Những gì mong đợi từ bác sĩ của bạn Bác sĩ của bạn có thể hỏi bạn một số câu hỏi. Sẵn sàng trả lời họ có thể dành thời gian để đi qua các điểm bạn muốn dành nhiều thời gian hơn. Bác sĩ có thể hỏi: Lần đầu tiên bạn bắt đầu trải qua các triệu chứng? Các triệu chứng của bạn đã liên tục hoặc tắt và bật? Các triệu chứng của bạn nghiêm trọng đến mức nào? Các triệu chứng của bạn có ảnh hưởng đến khả năng làm việc hoặc làm các hoạt động khác không? Có bất cứ điều gì dường như cải thiện các triệu chứng của bạn? Có bất cứ điều gì bạn đã nhận thấy làm cho các triệu chứng của bạn tồi tệ hơn? Bạn có hút thuốc không? Bạn có dùng thuốc chống viêm không steroid theo toa hoặc theo toa (NSAID) – ví dụ, ibuprofen (Advil, Motrin IB, các loại khác), natri naproxen (Aleve, Anaprox), hoặc diclofenac natri (Voltaren)? Nguồn: Mayo Clinic 0 176 Share FacebookTwitterReddItPinterestE-mailLinkedinTumblrStumbleUpon Bài Trước Hội chứng nôn chu kỳ, nguyên nhân & điều trị Bài Sau Nhiễm trùng đường hô hấp trên, nguyên nhân, chẩn đoán & điều trị Bạn cũng có thể thích Cùng Tác Giả Ngộ độc rượu: Nguyên nhân, triệu chứng & điều trị Các triệu chứng của viêm hạch Vàng da: Nguyên nhân, triệu chứng & điều trị Thiếu vitamin B12: Triệu chứng và điều trị Phì đại tử cung: nguyên nhân, triệu chứng & cách điều trị Tổng quan về Sarcoma mô mềm Tải ... Tải bài viết khác Không có bài viết Để lại một bình luận Bài Mới Bệnh cường giáp có chữa khỏi được không? Dấu hiệu nhận biết bệnh bạch hầu Viêm kết mạc cấp nên kiêng ăn gì? Huyết áp cao là gì? nguyên nhân và cách điều trị Không còn nỗi lo rụng tóc Bệnh tiểu đường : Nguyên nhân, triệu chứng và điều trị Cách loại trừ nội dung WordPress khỏi Google Tìm kiếm Bệnh suy vỏ thượng thận là gì? Nguyên nhân chính gây bệnh giang mai Bệnh tiểu đường nên ăn gì để nhanh khỏi? © 2021 - doisongbiz.com. All Rights Reserved. * Lưu ý: Mọi thông tin trên website chỉ mang tính chất tham khảo. không dùng cho tư vấn chẩn đoán hay điều trị Website Design: doisongbiz.com
1610704847953.98.parquet/99729
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 26176, "url": "https://doisongbiz.com/benh-crohn-nguyen-nhan-trieu-chung-dieu-tri.html" }
109.6
Bản mô tả công việc giám đốc nhân sự ngành chế biến thực phẩm - Timviec24h.vn Tìm Việc Làm Tìm Ứng Viên Review Công ty CV xin việc Việc ngay Cẩm nang Đăng Ký Đăng Nhập Tìm Việc Làm Tìm Ứng Viên Review Công ty CV xin việc Việc ngay Cẩm nang Đăng Nhập Đăng Ký Trang chủ Cẩm nang Góc chia sẻ Bản mô tả công việc giám đốc nhân sự ngành chế biến thực phẩm Mục lục 1. Mô tả công việc Giám đốc nhân sự ngành chế biến thực phẩm chi tiết Thực tế cho thấy, ngành chế biến thực phẩm của nước ta đang có xu hướng tăng trưởng mạnh và từng bước khẳng định được vị thế của mình. Hiện nay, chế biến thực phẩm đang dần dần từng bước cung ứng các sản phẩm có sức cạnh tranh cao và chiếm lĩnh được thị trường tiêu thụ nội địa và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu ra các thị trường nước ngoài. Có lẽ vì lý do đó mà không chỉ các nhà đầu tư trong nước, các nhà đầu tư nước ngoài cũng không thể bỏ qua lĩnh vực được coi là “mỏ vàng” trong tương lai này. Chính vì vậy, đây là ngành thu hút cũng như đòi hỏi rất nhiều nguồn nhân lực tham gia. Điều này đặt ra vấn đề về việc quản lý nhân sự đối với mỗi công ty, doanh nghiệp. Vậy nên, sự quản lý, điều hành của Giám đốc nhân sự đang đóng góp và tạo nên những ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển chung. Vậy Giám đốc nhân sự làm gì? Dưới đây sẽ là mô tả công việc Giám đốc nhân sự ngành chế biến thực phẩm gửi tới bạn đọc. mo-ta-cong-viec-giam-doc-nhan-su-nganh-che-bien-thuc-pham.doc 1.1. Cố vấn, tham mưu cho Ban lãnh đạo về cơ cấu tổ chức của công ty Với vị trí Giám đốc nhân sự, đây sẽ là người nắm rõ tình hình cũng như có sự hiểu biết rõ nhất về nguồn nhân lực trong công ty mình. Vì thế, Giám đốc nhân sự sẽ nắm bắt được điểm mạnh, điểm yếu cũng như các tố chất phát triển của mỗi nhân viên trong công ty, do vậy, họ sẽ có những ý định nhất định với từng vị trí cho mỗi nhân viên đó. Để có thể đạt được kết quả làm việc tốt nhất thì Ban lãnh đạo sẽ lắng nghe ý kiến của Giám đốc nhân sự về việc sắp xếp các vị trí và cơ cấu tổ chức, bộ máy trong công ty, làm sao để mỗi người khi đảm nhận công việc ở vị trí đó đều có thể hoàn thành tốt được công việc cũng như phát triển được năng lực bản thân. Điều này rất quan trọng bởi nếu làm công việc không phù hợp thì năng suất của nhân viên sẽ bị giảm, không mang lại hiệu quả tốt, thậm chí còn có thể lãng phí một nhân tài đáng tiếc. Bên cạnh đó, Giám đốc nhân sự cũng sẽ tham mưu về việc tuyển dụng nhân sự để phục vụ cho việc sản xuất, kinh doanh của công ty, doanh nghiệp. Bởi lĩnh vực chế biến thực phẩm luôn là ngành đòi hỏi nguồn nhân lực khá nhiều kể cả trong sản xuất và hoạt động kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm. Do vậy, cần có những kế hoạch tham mưu tuyển dụng cụ thể, phù hợp để có thể tăng khả năng phát triển, cạnh tranh của công ty, doanh nghiệp. 1.2. Thực hiện xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực Đây là một nhiệm vụ quan trọng đối với Giám đốc nhân sự ngành chế biến thực phẩm. Việc xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực phù hợp với chiến lược phát triển của công ty, doanh nghiệp là rất quan trọng. Nhân sự trong công ty nếu không phù hợp với mục tiêu, chiến lược phát triển thì sẽ rất khó để làm việc cũng như đạt được hiệu quả công việc cao. Do đó sẽ có những ảnh hưởng trực tiếp tới tình hình chung của công ty. 1.3. Thực hiện xây dựng cơ cấu tổ chức toàn công ty theo từng giai đoạn Việc này cần được thực hiện hết sức cẩn thận và nghiêm túc. Ở mỗi giai đoạn nhất định, công ty, doanh nghiệp sẽ có tình hình phát triển cung như định hướng khác nhau. Do vậy, Giám đốc nhân sự cần nắm bắt được tình hình chung để có những kế hoạch sắp xếp phù hợp các vị trí trong từng phòng ban nhằm đảm bảo được rằng các vị trí của mỗi bộ phận đều đang hoạt động đúng với năng lực của mình và tạo ra được những kết quả công việc phù hợp, đem lại lợi ích cho công ty, doanh nghiệp. Sự điều chỉnh nhân lực phù hợp với từng giai đoạn cụ thể sẽ có những ảnh hưởng và đóng góp tích cực tới công ty, doanh nghiệp. Ví dụ như trong giai đoạn khó khăn, việc giảm bớt nhân sự cũng sẽ là một cách để công ty, doanh nghiệp có thể cắt giảm được một khoản chi phí đáng kể và vẫn đảm bảo hoạt động được trong tình hình đó. 1.4. Thực hiện xây dựng các quy định, nội quy theo pháp luật hiện hành Nội quy, quy định là điều bắt buộc phải có ở mỗi công ty, doanh nghiệp hiện nay. Các quy định được đặt ra nhằm mục đích nhân viên có thể thực hiện để phát triển văn hóa làm việc tại công ty doanh nghiệp một cách khoa học, chuyên nghiệp. Và đây cũng là một yếu tố cho thấy sự quản lý, vận hành nghiêm túc của Ban lãnh đạo cũng như một môi trường làm việc quy củ, chuyên nghiệp. Một điều lưu ý chính là các quy định cần tuân theo pháp luật hiện hành, điều này đảm bảo được tính công bằng cho toàn bộ nhân viên cũng như đối với ban lãnh đạo của công ty, doanh nghiệp. Ngoài ra, các nội quy, quy định được đặt thêm cần phải dựa trên sự trưng cầu ý kiến cũng như chấp thuận của toàn bộ nhân viên trong công ty, doanh nghiệp, thể hiện được sự dân chủ trong khâu tổ chức, quản lý và điều hành của ban lãnh đạo. 1.5. Thực hiện xây dựng và triển khai hệ thống đào tạo, phát triển nhân lực Nhân lực được coi là yếu tố chủ chốt đóng vai trò quan trọng của mỗi công ty, doanh nghiệp hiện nay. Vì vậy, việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu và cần thiết phải thực hiện. Việc xây dựng kế hoạch đào tạo và phát triển nhằm cho thấy sự nghiêm túc trong việc quản lý nhân sự của mình. Thêm vào đó, kế hoạch chi tiết sẽ giúp cho việc thực hiện công tác đào tạo được dễ dàng hơn, chỉn chu hơn và chuẩn chỉnh hơn. Bên cạnh đó, việc đề ra kế hoạch đánh giá, luân chuyển hệ thống nhân sự cũng giúp cho toàn bộ nắm bắt được tình hình ban đầu về những công việc và sự thay đổi sắp tới. Thông qua đó có thể chuẩn bị những công việc và các yếu tố cần thiết để có thể hoàn thành được nhiệm vụ. 1.6. Thực hiện xây dựng văn hóa doanh nghiệp Công việc này chính là một trong những nhiệm vụ của giám đốc nhân sự. Với một hệ thống nhân sự nhiều như trong ngành chế biến thực phẩm thì việc hình thành và duy trì văn hóa doanh nghiệp là khá cần thiết. Văn hóa doanh nghiệp có sự ảnh hưởng khá nhiều tới chất lượng công việc của nhân viên. Vì vậy cần xây dựng văn hóa doanh nghiệp lành mạnh, chuyên nghiệp có những yếu tố thuận lợi để nhân viên có thể phát triển được năng lực cá nhân và năng lực nghề nghiệp của mình. 1.7. Thực hiện xây dựng mức lương và phúc lợi cho nhân viên Đây là công việc khá quan trọng đối với Giám đốc nhân sự. Việc mức lương và phúc lợi ra sao sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới việc nhân viên có quyết định cống hiến hết mình với công việc và doanh nghiệp hay không. Việc xây dựng thang lương và phúc lợi xã hội cần đảm bảo sự công bằng và phù hợp với từng vị trí nhất định. Bởi mỗi vị trí sẽ có công việc và nhiệm vụ khác nhau vì thế, các đãi ngộ cũng sẽ có những sự khác nhau để phù hợp với khối lượng công việc và những đóng góp đem lại cho công ty, doanh nghiệp. tuy nhiên, trong những trường hợp cụ thể và điều kiện cho phép thì việc nâng cao các phúc lợi xã hội với nhân viên sẽ được khuyến khích bởi điều này sẽ làm tăng sự tích cực và mong muốn cống hiến cho công ty, doanh nghiệp lên cao hơn. 1.8. Thực hiện xây dựng kế hoạch tuyển dụng và tổ chức tuyển dụng Tuyển dụng nhân sự luôn là một công việc, nhiệm vụ quan trọng đối với bộ phận nhân sự nói chung và Giám đốc nhân sự nói riêng. Ngành chế biến thực phẩm luôn yêu cầu nguồn nhân sự nhiều, vì thế cần có kế hoạch, quy trình tuyển dụng phù hợp, thống nhất để đảm bảo được số lượng cũng như không gây ra những lãng phí về nguồn lực và chi phí không cần thiết. Việc xác định được các vấn đề như mục tiêu, số lượng, yêu cầu ở ứng viên,...sẽ giúp cho quy trình tuyển dụng được thực hiện bài bản hơn và tăng khả năng tìm kiếm được nguồn nhân lực phù hợp cũng cao hơn. Bên cạnh đó, việc tổ chức tuyển dụng cũng cần được lưu ý, bởi cách thức tổ chức cũng sẽ thể hiện được sự làm việc chuyên nghiệp hay không của công ty, doanh nghiệp với ứng viên tham dự phỏng vấn. Công tác xây dựng kế hoạch tuyển dụng, quy trình tuyển dụng và khâu tổ chức tuyển dụng cần phải được thực hiện nghiêm túc, cẩn thận và đảm bảo tìm được những nhân sự giỏi, phù hợp và đáp ứng được yêu cầu công việc. 1.9. Thực hiện xây dựng hình ảnh nhân sự công ty Ngoài việc quản lý nguồn nhân sự trong toàn công ty, doanh nghiệp thì các Giám đốc nhân sự cũng cần phải xây dựng một hình ảnh nhân sự chuyên nghiệp, năng động và tự tin đối với nguồn nhân sự công ty mình. Điều này có thể giúp cho việc quảng bá hình ảnh của công ty, doanh nghiệp trở nên tốt hơn trong mắt những ứng viên. Thêm vào đó cũng giúp cho nhân sự cảm thấy mình được coi trọng hơn đối với sự phát triển chung của công ty, doanh nghiệp mình đang làm việc. Những hình ảnh đẹp sẽ luôn lan tỏa những hiệu ứng tích cực nhất. Trên đây là những công việc chi tiết mà các Giám đốc nhân sự ngành chế biến thực phẩm phải thực hiện. Ngoài những công việc này thì họ còn phải thực hiện những công việc khác theo sự chỉ đạo, yêu cầu của ban lãnh đạo công ty, doanh nghiệp. các công việc đó có thể như tiếp khách, gặp gỡ đối tác hay những chuyến công tác bất ngờ có thể xảy ra theo sự yêu cầu của cấp trên,... Có thể nói, khối lượng công việc của giám đốc nhân sự cũng khá nhiều và có những áp lực công việc nhất định riêng. 2. Yêu cầu công việc với vị trí Giám đốc nhân sự ngành chế biến thực phẩm Là một vị trí quan trọng, có những sự ảnh hưởng, tác động tới tình hình phát triển của công ty, doanh nghiệp nên vị trí này sẽ có những yêu cầu nhất định và quy trình tuyển dụng cũng rất khắt khe. Đối với vị trí này, yêu cầu tuổi tác cũng đáng được quan tâm. Thông thường các giám đốc nhân sự sẽ yêu cầu trong độ tuổi từ 20 - 45 tuổi. Tốt nghiệp cử nhân đại học trở lên chuyên ngành kinh tế, luật, quản trị nhân lực, lao động,... Điều này nhằm đảm bảo được ứng viên có nền tảng kiến thức vững vàng cũng như có sự quan sát, nhìn nhận về con người một cách thấu đáo hơn. Một Giám đốc nhân sự cần nắm chắc kiến thức về lĩnh vực công việc của mình cũng như vận dụng được những kinh nghiệm cuộc sống, nhìn người của bản thân để có thể thấu hiểu và quản lý “con người” tốt hơn. Về kinh nghiệm làm việc thì vị trí này yêu cần ứng viên cần có ít nhất 2 năm kinh nghiệm làm việc ở vị trí tương đương hoặc có thể là 5 năm kinh nghiệm với vị trí Trưởng phòng nhân sự tại các công ty, doanh nghiệp sản xuất với quy mô khá lớn, 500 cán bộ, công nhân viên trở lên. Đặc biệt là ưu tiên với người có kinh nghiệm trong ngành chế biến thực phẩm. Với yêu cầu này, nhằm mục đích đảm bảo được kinh nghiệm làm việc và quản lý nhân sự của các ứng viên. Cho thấy được họ có đủ tố chất để đáp ứng được yêu cầu của công việc. Bên cạnh đó,là các yêu cầu về kiến thức chuyên môn như luật doanh nghiệp, luật lao động, điều lệ công ty hay các kiến thức về quy trình tổ chức tuyển dụng, quy trình quản lý, cách xây dựng bảng lương, phúc lợi xã hội,... Ngoài ra, Giám đốc nhân sự cũng phải có một số tố chất và kỹ năng nhất định để phục vụ trong công việc như: Kỹ năng giao tiếp, trình bày vấn đề, kỹ năng quản lý, kỹ năng sắp xếp công việc, sử dụng thành thạo tin học và các phần mềm liên quan,.... Một vài tố chất có thể kể đến như biết lắng nghe, quan tâm và tìm hiểu đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân viên trong công ty. Biết cảm thông và giúp đỡ người khác,...và đặc biệt à cần có sức khỏe tốt cũng như khả năng chịu được áp lực công việc. 3. Quyền lợi và đãi ngộ của vị trí Giám đốc nhân sự ngành chế biến thực phẩm ra sao? Được coi là một vị trí quản lý cấp cao, Giám đốc nhân sự ngành chế biến thực phẩm sẽ nhận được các quyền lợi và mức đãi ngộ tuyệt vời cho mình. với vị trí này, các Giám đốc nhân sự sẽ có được một phòng làm việc riêng cho mình, có những thư ký, trợ lý hỗ trợ sắp xếp công việc và đặc biệt là tự thỏa thuận đưa ra mức lương mà mình mong muốn. Có khả năng tự làm chủ và quyết định công việc hàng ngày của mình. Bên cạnh đó, Giám đốc nhân sự cũng sẽ nhận được các mức ưu đãi theo như quy định của pháp luật khi đã ký kết hợp đồng lao động chính thức. Thêm vào đó là các chính sách riêng của công ty dành cho vị trí này như các gói chăm sóc sức khỏe, những chuyến du lịch trong nước và quốc tế từ 1- 2 lần trong năm, ưu đãi khi sử dụng sản phẩm, dịch vụ của công ty, doanh nghiệp,... Hơn hết, là vị trí quản lý cũng sẽ đem lại những mối quan hệ và những cơ hội phát triển trong tương lai cho các Giám đốc nhân sự. Một điều thu hút ở vị trí này chính là mức lương hấp dẫn không thể chối từ. Trung bình, một Giám đốc nhân sự tại các doanh nghiệp chế biến thực phẩm sẽ có mức thu nhập từ 20 - 30 triệu đồng, tùy thuộc vào quy mô, tính chất doanh nghiệp đó. Nhưng với một Giám đốc nhân sự có kinh nghiệm quản lý tốt, được đào tạo bài bản và đem lại những hiệu quả tích cực thì mức thu nhập sẽ được tính bằng đô và có thể lên đến 9 con số. Có thể nói, Giám đốc nhân sự sẽ có những quyền lợi và mức đãi ngộ mà hầu như ai cũng mong muốn mình được nhận. 4. Bí kíp ứng tuyển vị trí Giám đốc nhân sự ngành chế biến thực phẩm Số lượng các công ty, doanh nghiệp theo lĩnh vực chế biến thực phẩm khá nhiều và có quy mô lớn. Do vậy, để có được những cơ hội trở thành Giám đốc nhân sự vừa là cơ hội cũng vừa là thách thức, bởi sự cạnh tranh sẽ diễn ra khá quyết liệt. Vì thế, việc nắm bắt các thông tin tuyển dụng là vô cùng quan trọng và ảnh hưởng tới công việc của bạn sau này. Một gợi ý cho bạn ngay lúc này chính là website tìm việc đang được yêu thích và sử dụng phổ biến hiện nay là Timviec365.vn. Đây là một trang web chuyên cung cấp các thông tin về việc làm và tuyển dụng chi tiết nhất. Với việc cập nhật nhanh chóng và thường xuyên, Timviec365.vn sẽ luôn mang đến các cơ hội mới nhất, phù hợp nhất dành cho ứng viên. Thêm vào đó, Timviec365.vn còn có một kho chứa hàng ngàn mẫu CV chuyên nghiệp. Tiện ích này đã giúp cho việc tạo lập CV và ứng tuyển online trở nên dễ dàng và thuận tiện hơn. Không chỉ với ứng viên mà các nhà tuyển dụng cũng sẽ rất phù hợp với Timviec365.vn. thông qua việc đăng ký tài khoản dành cho nhà tuyển dụng thì các công ty, doanh nghiệp chế biến thực phẩm có thể đăng tải thông tin tuyển dụng của mình lên trang web và cũng có thể tìm kiếm các ứng viên tiềm năng qua CV online được tạo lập trên đó. Có thể nói, Giám đốc nhân sự ngành chế biến thực phẩm là một công việc có nhiều tiềm năng và cơ hội phát triển sau này. Không chỉ vậy, đây cũng là vị trí công việc có những mức đãi ngộ hấp dẫn với các ứng viên. Vì thế mà vị trí này hứa hẹn một sự chọn lựa khắt khe trong quá trình tuyển dụng. Mong rằng bài viết này đã giúp các bạn hiểu hơn về công việc của vị trí Giám đốc nhân sự cũng như mô tả công việc Giám đốc nhân sự ngành chế biến thực phẩm chi tiết gửi tới độc giả. Và đừng quên Timviec365.vn sẽ là một cánh cửa mở ra để giúp bạn tiến đến nắm bắt được cơ hội việc làm hấp dẫn này nhé! Đăng ngày 20/11/2020, 9 lượt xem Tin tức khác Hàn 6G là gì? Công nghệ “cũ” nhưng hấp dẫn người lao động tìm việc Tải và viết mẫu đơn xin từ chức để lại những kỷ niệm đẹp Cách lập kế hoạch về bản thân cho 5 năm tới hiệu quả nhất Mô tả công việc trưởng phòng bảo trì chi tiết nhất Học Bách Khoa có vất vả không? Thông tin hữu ích không thể bỏ qua CTP là gì? Những thông tin bạn cần biết về CTP Cập nhật mẫu quyết định giải thể doanh nghiệp mới nhất Thông tin tổng hợp chứng chỉ hành nghề thiết kế xây dựng Trang thông tin việc làm hàng đầu Timviec24h - Tìm việc làm, tìm việc nhanh, tuyển dụng uy tín và hiệu quả! Email hỗ trợ: ntd.timviec24h.vn@gmail.com hoặc Hotline hỗ trợ: 0977 768 602 Tìm việc làm Tìm việc 24h Việc làm 24h Tìm việc nhanh Thông tin công ty viec lam hai phong Mẫu CV xin việc ×
1610704847953.98.parquet/183439
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 14283, "url": "https://timviec24h.vn/ban-mo-ta-cong-viec-giam-doc-nhan-su-nganh-che-bien-thuc-pham-pr1489.html" }
109.4
Ý tưởng kinh doanh tốt, khả năng lãnh đạo giỏi nhưng doanh nghiệp của bạn vẫn không làm hài lòng các nhà đầu tư, nguyên nhân là do đâu? Home Tags Kiến Thức Quản Trị Tài Chính Doanh Nghiệp Câu Chuyện Kinh Doanh Kỹ Năng Sales Kinh Nghiệm Sống Nhân Vật & Sự Kiện Khóa Học Online Thoughts, stories and ideas. Ý tưởng kinh doanh tốt, khả năng lãnh đạo giỏi nhưng doanh nghiệp của bạn vẫn không làm hài lòng các nhà đầu tư, nguyên nhân là do đâu? 20 Jun 2019 Ý tưởng hôm nay là chiến thắng ngày mai. Ý tưởng được thực hiện một cách xuất sắc cùng với sự đầu tư đúng đắn sẽ là bước đệm vững chắc cho sự thành công của doanh nghiệp bạn trong tương lai, đó là tư duy kinh doanh của nhiều doanh nghiệp lớn như Apple, Google, McDonald, Amazon... đã sử dụng cho hành trình phát triển của mình. Nhưng tại sao mặc dù những ý tưởng của bạn tưởng chừng như đã quá tuyệt vời, đầy hứa hẹn sẽ là nền tảng vững chắc cho việc kinh doanh của công ty, thế nhưng khi bắt đầu kêu gọi nhà đầu tư thì thứ bạn nhận lại chỉ là sự im lặng và từ chối? Tại sao các nhà đầu tư ngần ngại đổ tiền vào doanh nghiệp của bạn? Mọi thứ đều có lý do của nó, những thứ bạn tưởng như là hoàn hảo đối với việc kinh doanh của mình nhưng thực ra lại còn thiếu vài thứ khiến các nhà đầu tư chùn bước khi quyết định đổ vốn, hãy cùng tìm hiểu xem đó là những thiếu sót nào mà bạn cần phải củng cố. Không hiệu quả hoặc thiếu phẩm chất lãnh đạo Ý tưởng kinh doanh không hiệu quả là yếu tố quan trọng nhất kéo sự thành công của một doanh nghiệp xuống con số 0, thậm chí là số âm nếu như không nhận ra kịp thời. Điều này cũng có thể được gọi là thiếu phẩm chất lãnh đạo. Các nhà đầu tư luôn muốn đảm bảo rằng họ không bị mất tiền một cách vô ích thông qua một công ty có mô hình kinh doanh đầy phi thường nhưng không có nhà lãnh đạo kinh doanh hiệu quả, lành nghề để phát triển để làm cho nó thành công và phát triển. Chính vì thế nên khi kêu gọi các nhà đầu tư, bạn cần đưa ra một triển vọng rõ ràng cùng một bảng kế hoạch chi tiết về việc thực hiện các mục tiêu để họ có thể thấy được bạn là một người có năng lực như thế nào trong công cuộc chèo lái công ty trong tương lai. Thiếu sự tin cậy Một nhà đầu tư khi quyết định đổ vốn vào một doanh nghiệp thường dựa trên cơ sở uy tín và sự đáng tin cậy của doanh nghiệp đó. Đây là lý do vì sao ngoài việc có một kế hoạch kinh doanh hợp lý với các mục tiêu rõ ràng thì bạn cũng cần phải thiết lập tính toàn vẹn về việc bảo mật số tiền của các nhà đầu tư và cách họ đầu tư vào doanh nghiệp mình như thế nào cùng các chiến lược kinh doanh của các nhà đầu tư đề ra khi bỏ vốn vào doanh nghiệp của bạn. Nếu một nhà đầu tư có cảm giác rằng startup có thể không có đủ khách hàng để thực hiện các khoản nợ tài chính của mình hoặc doanh nghiệp của bạn đang che giấu một số thông tin, điều đó sẽ khiến cho lòng tin của họ bị giảm xuống đáng kể. Chính vì thế, việc hoàn toàn minh bạch và thiết lập niềm tin của thương hiệu kinh doanh là một điều rất quan trọng để nhận được sự ủng hộ từ các nhà đầu tư. Thiếu kinh nghiệm trong quản lý kinh doanh Bạn có một ý tưởng kinh doanh tuyệt vời được hỗ trợ bởi một kế hoạch kinh doanh hợp lý cùng sự tin cậy vững chắc dựa trên sự minh bạch của công ty, nhưng bạn lại không có kinh nghiệm trong việc quản lý một doanh nghiệp. Đây là một lý do nghiêm trọng để một nhà đầu tư từ chối đổ tiền vào doanh nghiệp của bạn. Họ không thể bỏ tiền của mình vào chỉ để cho bạn sử dụng số tiền đó để học hỏi, trau dồi khả năng lãnh đạo của mình. Điều này sẽ khiến cho các nhà đầu tư rất không ưng ý vì việc thiếu kinh nghiệm quản lý của bạn chính là một yếu tố rủi ro lớn cho tương lai của doanh nghiệp sau này, chính vì thế, chẳng dại gì họ lại đầu tư vào một công ty tiềm tàng đầy rủi ro như thế. Mô hình kinh doanh không đủ tiếng vang Bạn có một ý tưởng kinh doanh, một chuyên gia tư vấn hiệu quả, một nhà lãnh đạo có năng lực và kinh nghiệm quản lý cùng một ấn tượng tuyệt vời về sự tin cậy đối với các nhà đầu tư. Thế nhưng mọi thứ giữ chân các nhà đầu tư lại khiến họ chùn bước khi quyết định đầu tư vào doanh nghiệp bạn đó là chiến lược kinh doanh và mô hình kinh doanh của bạn, chúng không đủ độ vang để cạnh tranh lại với thị trường và không đủ khả năng để tăng trưởng trong tương lai. Trong hầu hết các trường hợp, một mô hình kinh doanh sẽ là điều khiến cho một nhà đầu tư suy nghĩ hai lần và họ sẽ lùi bước nếu mô hình kinh doanh của bạn không đủ thu hút. Chính vì thế, nên nhớ rằng, mô hình và chiến lược kinh doanh của bạn sẽ quyết định làm thế nào để công ty và sản phẩm của bạn có thể cạnh tranh lại với thị trường và xa hơn là sẽ trở thành người chiến thắng trên thương trường đầy khốc liệt đó. Cách tiếp cận các nhà đầu tư Một sai lầm lớn đối với nhiều doanh nghiệp mới đó chính là nghĩ rằng chỉ cần tự tin vào tiềm năng cùng mô hình kinh doanh vững chắc và triển vọng trong tương lai thì doanh nghiệp đã có thể dễ dàng thu hút các nhà đầu tư. Nhưng thực tế bên ngoài không hề đơn giản như thế, để nhà đầu tư biết đến ý tưởng kinh doanh của bạn, thì bạn cần phải đưa ý tưởng đến cho họ. Thế nhưng việc tiếp cận và đưa ý tưởng như thế nào để các nhà đầu tư biết đến bạn, đó mới chính là vấn đề cốt lõi. Đây là lý do vì sao nếu không có sự chuẩn bị đúng đắn và tỉ mỉ thì bạn sẽ trở thành "tên ngốc" khi cố tiếp cận các nhà đầu tư. Hầu hết các nhà đầu tư đều sẽ nhận hàng trăm mail mỗi ngày vì thế nếu bạn tiếp cận họ bằng cách thông qua các phương tiện xã hội như vậy thì họ cũng sẽ lạnh lùng cho qua mà thôi. Lời khuyên đưa ra là bạn nên gửi cho các nhà đầu tư các đề xuất thật chi tiết, nếu được thì nên nhờ sự giúp đỡ, hỗ trợ từ những người có mối liên hệ với họ hay lời giới thiệu từ những tổ chức uy tín, như vậy bạn sẽ dễ lọt vào tầm ngắm của các nhà đầu tư hơn. Nhắm mục tiêu vào sai nhà đầu tư Mỗi doanh nghiệp đều có một danh sách các khách hàng mục tiêu đúng không? Không phải tất cả các khách hàng đều quan tâm đến mọi sản phẩm trên thị trường. Tương tự như vậy, không phải tất cả các nhà đầu tư đều quan tâm đến lĩnh vực kinh doanh cùng ý tưởng của bạn. Thường thì họ sẽ dựa trên kinh nghiệm của mình với các ngành nghề mình từng trải và quyết định đổ tiền vào các doanh nghiệp và lĩnh vực mà họ nắm rõ như lòng bàn tay để hạn chế những rủi ro lớn nhất. Vì vậy, nhắm mục tiêu vào một nhà đầu tư không có hứng thú với doanh nghiệp của bạn thì sẽ chỉ hao tốn năng lượng và mang lại sự thất vọng, chán nản không cần thiết mà thôi. Nên nhớ rằng, khi muốn tiềm kiếm nhà đầu tư cho phần mềm máy tính mới của mình thì đừng chăm chăm vào các nhà đầu tư chuyên kinh doanh bất động sản, điều này hoàn toàn không tương xứng và bảo đảm tỉ lệ phần trăm thất bại sẽ lớn gấp nhiều lần so với rủi ro kinh doanh của bạn. Rõ ràng tìm kiếm một nhà đầu tư cho một doanh nghiệp mới không phải là một nhiệm vụ dễ dàng mà còn cần phải xem xét đến sự cạnh tranh rất lớn mà doanh nghiệp cần phải đối phó. Nhưng nếu ý tưởng kinh doanh của bạn là duy nhất và bạn đang thực hiện đúng với mọi yêu cầu ở bên trên thì việc lọt vào mắt xanh của các nhà đầu tư sẽ không còn quá xa xôi như bạn vẫn tưởng nữa. Theo Trí thức trẻ quynhanh © 2021 Lãnh Đạo Tài Ba
1610704847953.98.parquet/111354
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 6521, "url": "https://blog.lanhdaotaiba.com/u-tuong-kinh-doanh-tot-kha-nang-lanh-dao-gioi-nhung-doanh-nghiep-cua-ban-van-khong-lam-hai-long-cac-nha-dau-tu-nguyen-nhan-la-do-dau/" }
108.8
Bản in bài viết | Thượng đỉnh Nga-Triều: Trọng tâm là vấn đề hạt nhân Thượng đỉnh Nga-Triều: Trọng tâm là vấn đề hạt nhân 04:30 CH, 25/04/2019 (Chinhphu.vn) - Theo hãng tin TASS (Nga), lúc 14h10' ngày 25/4 (giờ địa phương), Tổng thống Nga Vladimir Putin và nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un đã bắt đầu cuộc gặp song phương tại trường Đại học Liên bang Viễn Đông (FEFU), trên đảo Russky ở thành phố Vladivostok thuộc vùng Viễn Đông của Nga. Cuộc hội đàm sẽ diễn ra theo hai thể thức, gồm hội đàm kín chỉ riêng giữa hai nhà lãnh đạo dự kiến kéo dài gần một giờ và hội đàm mở rộng có sự tham gia của các thành viên trong đoàn của hai nước trong khoảng 3 giờ. Điện Kremlin thông báo không có kế hoạch về các văn kiện chung. Khoảng 300 nhà báo, trong đó có các nhà báo từ các nước khu vực châu Á-Thái Bình Dương như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, tham gia đưa tin về cuộc gặp giữa Tổng thống Nga Vladimir Putin và nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un. Đây là chuyến công du nước ngoài đầu tiên của nhà lãnh đạo Kim Jong-un sau cuộc gặp thượng đỉnh với Tổng thống Mỹ Donald Trump tại Hà Nội hồi tháng 2 vừa qua và cũng là cuộc gặp riêng đầu tiên giữa hai nhà lãnh đạo kể từ khi ông Kim Jong-un nhậm chức năm 2011. Trợ lý Tổng thống Nga Yuri Ushakov cho biết, ngoài việc hai nhà lãnh đạo thảo luận về các khía cạnh khác nhau của quan hệ song phương, trong đó có quan hệ chính trị, kinh tế và văn hóa-nhân văn, thì chủ đề chính của cuộc gặp là giải pháp hòa bình cho vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên và bảo đảm an ninh cho khu vực Đông Bắc Á nói chung. Trước đó, trong phát biểu đầu tiên khi đặt chân đến Nga, nhà lãnh đạo Triều Tiên cho biết ông mang theo tình cảm ấm áp của nhân dân Triều Tiên và hy vọng chuyến thăm sẽ thành công và có kết quả hữu ích. Ông cũng hy vọng sẽ thảo luận chi tiết với lãnh đạo Nga vấn đề giải quyết tình hình trên bán đảo Triều Tiên và phát triển quan hệ song phương. Trong một diễn biến liên quan về khả năng nối lại đàm phán sáu bên về vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, lãnh đạo Ủy ban Đối ngoại Duma quốc gia Nga (Hạ viện) Leonid Slutski nhấn mạnh rằng Nga đã dành nỗ lực lớn trong nhiều năm để tháo gỡ căng thẳng trong vấn đề phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên và giờ đây việc nối lại định dạng này sẽ là hữu ích. Ông Slutski cũng cho rằng Mỹ hiện chưa đạt được bước tiến gì trong tiến trình này và Nga, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc có thể hợp tác và tác động tích cực đến tình hình. Trước đó, khi được hỏi về khả năng Tổng thống Vladimir Putin đề xuất Triều Tiên nối lại đàm phán sáu bên về vấn đề hạt nhân, người phát ngôn Tổng thống Nga Dmitry Peskov cho biết tất cả các nỗ lực giải quyết vấn đề Triều Tiên đều xứng đáng được ủng hộ nếu có mục tiêu giải quyết thực sự. Ông Peskov nhấn mạnh đàm phán sáu bên thực sự là định dạng nhằm thúc đẩy tìm ra được cách tháo gỡ vấn đề phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên. Theo ông, ngoài định dạng này, hiện nay không có cơ chế quốc tế hiệu quả nào khác trên thế giới. Còn tại cuộc gặp người đồng cấp Triều Tiên trong khuôn khổ Diễn đàn An ninh quốc tế tổ chức tại Moskva ngày 25-26/4, Bộ trưởng Quốc phòng Nga Sergey Shoigu cho biết Nga dự định tiếp tục phát triển hợp tác với Triều Tiên. Nga mong muốn làm sâu sắc hơn đối thoại chính trị với Triều Tiên và cuộc hội đàm Nga-Triều ngày 25/4 sẽ thúc đẩy củng cố hợp tác song phương trong lĩnh vực quốc phòng. Trong khi đó, Bộ trưởng Quốc phòng Triều Tiên No Kwang Chol cho rằng: "Chúng tôi hy vọng hợp tác hiệu quả và thảo luận về quan hệ giữa hai nước. Chúng tôi sẽ đóng góp vào phát triển nền an ninh quốc tế". Ông cũng khẳng định cuộc gặp giữa hai phái đoàn đóng vai trò rất lớn trong hợp tác quân sự song phương. Tuyết Minh Lê Minh Hùng
1610704847953.98.parquet/198433
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 3140, "url": "http://baochinhphu.vn/Utilities/PrintView.aspx?distributionid=364468" }
108.5
TWSaver - Chính sách bảo mật Toggle navigation TWSaver.com Trang Chủ Làm thế nào để Tải xuống video từ Twitter Tải xuống video Twitter bằng cách mở rộng FAQ Tiếng Việt English Arabic Español Français Deutsch Nederlands Italiano Português Polski Română Türk Русский 日本語 한국어 繁體中文 Tiếng Việt ไทย Chính sách quyền riêng tư Bằng cách sử dụng https://twsaver.com, bạn đồng ý tuân theo tất cả các chính sách bảo mật được quy định trên trang này: Thông tin nhận dạng cá nhân Chúng tôi có thể thu thập thông tin nhận dạng cá nhân từ Người dùng theo nhiều cách, bao gồm, nhưng không giới hạn, khi Người dùng truy cập trang web của chúng tôi, điền vào biểu mẫu và liên quan đến các hoạt động, dịch vụ, tính năng hoặc tài nguyên khác mà chúng tôi cung cấp trên Trang web của mình . Người dùng có thể được yêu cầu tên, địa chỉ email nếu thích hợp. Tuy nhiên, người dùng có thể truy cập Trang web của chúng tôi một cách ẩn danh. Chúng tôi sẽ chỉ thu thập thông tin nhận dạng cá nhân từ Người dùng nếu họ tự nguyện gửi thông tin đó cho chúng tôi. Người dùng luôn có thể từ chối cung cấp thông tin nhận dạng cá nhân, ngoại trừ việc điều đó có thể ngăn họ tham gia vào một số hoạt động liên quan đến Trang web. Thông tin nhận dạng phi cá nhân Chúng tôi có thể thu thập thông tin nhận dạng phi cá nhân về Người dùng bất cứ khi nào họ tương tác với Trang web của chúng tôi. Thông tin nhận dạng phi cá nhân có thể bao gồm tên trình duyệt, loại máy tính và thông tin kỹ thuật về Người dùng có liên quan đến Trang web của chúng tôi, chẳng hạn như hệ điều hành và các nhà cung cấp dịch vụ Internet được sử dụng và các thông tin tương tự khác. Cookie của trình duyệt web Trang web của chúng tôi có thể sử dụng "cookie" để nâng cao trải nghiệm Người dùng. Trình duyệt web của người dùng đặt cookie trên ổ cứng của họ với mục đích lưu trữ hồ sơ và đôi khi để theo dõi thông tin về chúng. Người dùng có thể chọn cài đặt trình duyệt web của họ từ chối cookie hoặc thông báo cho bạn khi cookie được gửi. Nếu họ làm như vậy, hãy lưu ý rằng một số phần của Trang web có thể không hoạt động bình thường. Cách chúng tôi sử dụng thông tin thu thập được TWSaver.com có ​​thể thu thập và sử dụng thông tin cá nhân của Người dùng cho các mục đích sau: Để cải thiện Trang web của chúng tôi Chúng tôi có thể sử dụng phản hồi mà bạn cung cấp để cải thiện các sản phẩm và dịch vụ của chúng tôi. Để gửi email định kỳ Chúng tôi có thể sử dụng địa chỉ email để gửi thông tin Người dùng và các cập nhật liên quan đến đơn đặt hàng của họ. Nó cũng có thể được sử dụng để trả lời các yêu cầu, câu hỏi và / hoặc các yêu cầu khác của họ. Cách chúng tôi bảo vệ thông tin của bạn Chúng tôi áp dụng các biện pháp thu thập, lưu trữ và xử lý dữ liệu thích hợp và các biện pháp bảo mật để bảo vệ chống lại việc truy cập trái phép, thay đổi, tiết lộ hoặc phá hủy thông tin cá nhân, tên người dùng, mật khẩu, thông tin giao dịch và dữ liệu được lưu trữ trên Trang web của bạn. Chia sẻ thông tin cá nhân của bạn Chúng tôi không bán, trao đổi hoặc cho thuê thông tin nhận dạng cá nhân của Người dùng cho người khác. Chúng tôi có thể chia sẻ thông tin nhân khẩu học tổng hợp chung không được liên kết với bất kỳ thông tin nhận dạng cá nhân nào liên quan đến khách truy cập và người dùng với các đối tác kinh doanh, các chi nhánh và nhà quảng cáo đáng tin cậy của chúng tôi cho các mục đích nêu trên. Quảng cáo Quảng cáo xuất hiện trên trang web của chúng tôi có thể được phân phối cho Người dùng bởi các đối tác quảng cáo, những người có thể đặt cookie. Những cookie này cho phép máy chủ quảng cáo nhận ra máy tính của bạn mỗi khi họ gửi cho bạn một quảng cáo trực tuyến để biên dịch thông tin nhận dạng không phải cá nhân về bạn hoặc những người khác sử dụng máy tính của bạn. Thông tin này cho phép các mạng quảng cáo, trong số những thứ khác, phân phối các quảng cáo được nhắm mục tiêu mà họ tin rằng bạn sẽ quan tâm nhất. Chính sách bảo mật này không bao gồm việc sử dụng cookie của bất kỳ nhà quảng cáo nào. Google Adsense Một số quảng cáo có thể được phân phát bởi Google. Việc Google sử dụng cookie DART cho phép Google phân phát quảng cáo cho Người dùng dựa trên lượt truy cập của họ vào Trang web của chúng tôi và các trang web khác trên Internet. DART sử dụng "thông tin không nhận dạng cá nhân" và KHÔNG theo dõi thông tin cá nhân về bạn, chẳng hạn như tên, địa chỉ email, địa chỉ thực của bạn, v.v. Bạn có thể chọn không sử dụng cookie DART bằng cách truy cập vào quyền riêng tư của mạng nội dung và quảng cáo của Google chính sách tại http://www.google.com.vn/privacy_ads.html Các thay đổi đối với chính sách bảo mật này TWSaver.com có ​​toàn quyền cập nhật chính sách bảo mật này bất cứ lúc nào. Khi chúng tôi thực hiện, chúng tôi sẽ sửa lại ngày cập nhật ở cuối trang này. Chúng tôi khuyến khích Người dùng thường xuyên kiểm tra trang này để biết bất kỳ thay đổi nào để được cập nhật về cách chúng tôi đang giúp bảo vệ thông tin cá nhân mà chúng tôi thu thập. Bạn thừa nhận và đồng ý rằng bạn có trách nhiệm xem xét chính sách bảo mật này theo định kỳ và nhận thức được các sửa đổi. Bạn chấp nhận các điều khoản này Bằng cách sử dụng Trang web này, bạn có nghĩa là bạn chấp nhận chính sách này. Nếu bạn không đồng ý với chính sách này, vui lòng không sử dụng Trang web của chúng tôi. Việc bạn tiếp tục sử dụng Trang web sau khi đăng các thay đổi đối với chính sách này sẽ được coi là bạn chấp nhận những thay đổi đó. Các thay đổi đối với Chính sách Bảo mật của chúng tôi Nếu chúng tôi quyết định thay đổi chính sách bảo mật của mình, chúng tôi sẽ đăng những thay đổi đó trên trang này. TWSaver không liên quan về mặt xã hội với Twitter. Nó không có hoặc tham gia vào bất kỳ nội dung ăn cắp hoặc bản quyền nào trên nhân viên của mình và tất cả các bản ghi được tải xuống đều được thực hiện hợp pháp từ nhân viên CDN của họ trên các thiết bị của khách hàng cá nhân. Bản quyền © 2020 TWSaver. Đã đăng ký Bản quyền. Giới thiệu Câu hỏi thường gặp Điều khoản sử dụng Chính sách Bảo mật Phản hồi
1610704847953.98.parquet/131789
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 4970, "url": "https://twsaver.com/vi/privacy-policy.php" }
107.7
Cập nhật mẫu hợp đồng hợp tác kinh doanh mới nhất 2020! - Timviec24h.vn Tìm Việc Làm Tìm Ứng Viên Review Công ty CV xin việc Việc ngay Cẩm nang Đăng Ký Đăng Nhập Tìm Việc Làm Tìm Ứng Viên Review Công ty CV xin việc Việc ngay Cẩm nang Đăng Nhập Đăng Ký Trang chủ Cẩm nang Góc chia sẻ Cập nhật mẫu hợp đồng hợp tác kinh doanh mới nhất 2020! Mục lục 1. Khái quát chung nhất về hợp đồng hợp tác kinh doanh trong hệ thống pháp luật Việt Nam Trước khi đến với phần hướng dẫn viết hợp đồng kinh doanh hiệu quả, ta cần phải nắm vững các thông tin quan trọng liên quan tới bản hợp đồng này gắn với quy định của pháp luật. Rõ ràng, với sự tăng trưởng nhanh chóng của kinh tế thị trường, các chủ đầu tư ngày càng hăng hái trong việc mở rộng hoạt động doanh nghiệp bằng cách kết nối với nhiều tổ chức khác. Giao dịch đầu tư kể từ đó cũng trở nên đa dạng hơn và được thực hiện theo nhiều hình thức. Tuy nhiên, thực tế cho thấy sự kết hợp giữa hai bên cũng nảy sinh nhiều mối nguy hiểm tiềm ẩn, có thể phát sinh ra việc lợi dụng lẫn nhau để chuộc lợi hoặc đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Chính vì liên quan đến mặt tài chính, nhà nước đã thể hiện mối quan tâm sâu sắc về việc thực thi nghĩa vụ và đảm bảo quyền lợi của mỗi bên trong quá trình thực hiện giao dịch, trong đó, hệ thống pháp luật đã dùng một sợi dây uy quyền để trói buộc hai bên với nhau - đó chính là bản hợp đồng hợp tác kinh doanh. Theo quy định của Luật đầu tư năm 2014: “Hợp đồng hợp tác kinh doanh là hợp đồng được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập tổ chức kinh tế”. Như vậy, hợp đồng hợp tác kinh doanh được hiểu là văn bản có hiệu lực pháp lý được ký kết bởi hai hay nhiều bên trước khi tiến hành đầu tư tại Việt Nam. Trong bản hợp đồng đó bắt buộc đề cập tới quyền lợi, trách nhiệm của từng bên và phạt vi phạm đối với những cá nhân không thực hiện đúng nhiệm vụ của mình. Thông thường, khi thực hiện xây dựng mẫu hợp đồng hợp tác kinh doanh, các doanh nghiệp cần căn cứ vào các văn bản pháp luật sau: Luật đầu tư năm 2014 Bộ luật dân sự năm 2015 Luật thương mại năm 2005 Các văn bản khác của các bên tham gia hợp đồng. Tuy nhiên, cho dù giao ước giữa các bên là gì, nhà đầu tư cũng cần ưu tiên các bộ luật của nhà nước trước, không thể tự ý phát sinh ra điều luật mới vi phạm vào quy định nhà nước. Về hình thức làm hợp đồng: Trên thực tế, nhà nước không quá khắt khe với hình thức làm hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa các chủ đầu tư. Bởi vậy, tùy theo mối quan hệ và thiện chí giữa các bên, nhà đầu tư có thể chọn văn bản, lời nói hoặc qua hành vi cụ thể khác. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi ở mức tối đa, hợp đồng viết trên giấy tờ vẫn được ưa chuộng hơn cả. Đây cũng chính là hình thức timviec24h.vn muốn đề cập trong bài viết này. Tuy nhiên, đối với các hợp đồng hợp tác kinh doanh ký kết giữa nhà đầu tư trong nước và đối tác nước ngoài thì việc thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư là bắt buộc. Bởi vậy, hợp đồng hợp tác kinh doanh ở đây bắt buộc phải lập thành văn bản. Các hợp đồng có thể được xây dựng rất đa dạng, tùy theo nguyện vọng giữa các bên. Tuy nhiên, theo Luật đầu tư 2014 quy định, cho dù với nội dung gì, hợp đồng hợp tác kinh doanh cũng phải có đủ các nội dung sau: Thông tin cá nhân của các bên tham gia hợp đồng: Họ và tên, địa chỉ, người đại diện có thẩm quyền của các bên; địa chỉ giao dịch hoặc địa chỉ thực hiện dự án. Mục tiêu và phạm vi hoạt động đầu tư kinh doanh. Đóng góp của các bên tham gia hợp đồng và phân chia kết quả đầu tư kinh doanh giữa các bên. Tiến độ và thời hạn thực hiện hợp đồng. Quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng. Quy định về sửa đổi, chuyển nhượng, chấm dứt hợp đồng. Phạt vi phạm: Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, phương thức giải quyết tranh chấp. 2. Hướng dẫn viết mẫu hợp đồng hợp tác kinh doanh chi tiết nhất cho các nhà đầu tư Sau khi nắm vững các quy định pháp luật liên quan đến hợp đồng hợp tác kinh doanh, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu cách xây dựng từng mục trong bản hợp đồng này thế nào nhé. Timviec365.vn đã lấy mẫu hợp đồng theo Công ty luật Minh Khuê để làm ví dụ trong một số phần mong các bạn sẽ có hình dung rõ hơn về hình thức từng mục và hướng dẫn cách ghi trong điều lệ cụ thể. Một số biểu mẫu ví dụ cho phần hai: Mẫu hợp đồng hợp tác kinh doanh chuẩn: mau-hop-dong-hop-tac-kinh-doanh-chuan.docx Mẫu hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa hai doanh nghiệp: mau-hop-dong-hop-tac-kinh-doanh-giua-hai-doanh-nghiep.docx Mẫu hợp đồng hợp tác kinh doanh cho cá nhân: mau-hop-dong-hop-tac-kinh-doanh-ca-nhan.docx 2.1. Phần mở đầu của hợp đồng hợp tác kinh doanh Đầu tiên, để bắt đầu xây dựng một hợp đồng hợp tác kinh doanh, các nhà đầu tư cần viết quốc hiệu, tiêu ngữ. Chữ “CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM” được viết in hoa tất cả các chữ, bên dưới là “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” in thường. Hai dòng này cần phải được căn đều giữa hai lề. Sau khi viết quốc hiệu tiêu ngữ, người làm hợp đồng cần viết tên hợp đồng, cần ghi rõ ràng là “HỢP ĐỒNG HỢP TÁC KINH DOANH” căn đều hai lề, cách quốc hiệu tiêu ngữ một khoảng cách vừa đủ. Tiếp theo, trước khi bắt đầu viết hợp đồng, nhà đầu tư cần nêu rõ căn cứ xây dựng hợp đồng của hai bên và đề cập tới số hiệu hợp đồng. Như đã nói trên, cho dù ý chí của hai bên là gì thì đều phải căn cứ theo quy định của pháp luật trước. Ví dụ về phần điền căn cứ có thể được viết như sau: Số: …/HĐHTKD Căn cứ theo quy định của Bộ luật dân sự 2015; Căn cứ theo quy định của Luật thương mại 2005; Căn cứ vào tình hình thực tế của Hai bên; Dựa trên tinh thần trung thực và thiện chí hợp tác của các Bên; 2.2. Phần hai: Nội dung hợp đồng hợp tác kinh doanh 2.2.1. Thông tin cá nhân của các đối tác làm hợp đồng Trước khi đi vào từng quy định cụ thể, chủ đầu tư các bên cần điền rõ thông tin cá nhân của mình trong bản hợp đồng sau dòng chữ “Chúng tôi gồm có”. Trong mục thông tin cá nhân, cả bên A và bên B cần cung cấp địa chỉ, đại diện người làm hợp đồng, chức vụ, số điện thoại, số tài khoản và ngân hàng. Đó là những thông tin cơ bản nhất, hai bên có thể cung cấp thêm thông tin cá nhân nhưng nên ưu tiên các mục trên trước. Ví dụ cho phần này như sau: Chúng tôi gồm có: ………………………………………………. (Sau đây gọi tắt là Bên A) Địa chỉ:………………………………………………………................ Đại diện : Ông …………………….. Chức vụ: ………….….....……. Điện thoại : …………………………........................................…….. Số tài khoản : …………………………… tại: ……………........……… Và …………………………….………………… (Sau đây gọi tắt là Bên B) Địa chỉ:……………………………………………………...………….. Đại diện : Ông…………………….Chức vụ:……...……………...… Điện thoại:................................................................ Số tài khoản:.......................................... tại:........................................ 2.2.2. Mục tiêu và phạm vi hợp tác kinh doanh giữa các bên Ngay sau khi điền thông tin cá nhân giữa các bên, các doanh nghiệp bắt đầu xây dựng nội dung hợp tác kinh doanh dựa trên các điều khoản. Trong đó, mục tiêu và phạm vi hợp tác kinh doanh chính là điều khoản đầu tiên cần chú ý xây dựng. Hãy viết thật rõ ràng: “Điều 1. Mục tiêu và phạm vi hợp tác kinh doanh” trong một dòng và in đậm để dễ tìm thấy các chủ đầu tư nhé. Tiếp theo đó, tùy theo hình thức phối hợp và nguyện vọng các bên, người làm hợp đồng sẽ liệt kê đầy đủ mục tiêu và phạm vi hợp tác của nhà đầu tư, hay nói cách khác là đề cập tới các bên sẽ chịu trách nhiệm trong lĩnh vực nào khi kết hợp kinh doanh. Điều này sẽ giúp các nhà đầu tư phân định rõ ràng nhiệm vụ của mình, tránh trường hợp chồng chéo giữa nhiệm vụ hai bên. 2.2.3. Thời hạn của hợp đồng Thời hạn của hợp đồng là khoảng thời gian các bên ký kết từ lúc tham gia đến khi kết thúc hợp đồng. Trong thời gian của hợp đồng, người thiết lập cần nêu rõ thời gian ngày, tháng, năm cụ thể. Hai bên cũng có thể đề cập tới việc “Gia hạn hợp đồng” trong trường hợp dự án vượt quá tiến trình đề ra hoặc vì nguyên nhân nào khác. 2.2.4. Góp vốn và phân chia kết quả kinh doanh Đề cập tới số tiền đầu tư của hai bên đã góp vào trong giao dịch thương mại, cần nêu rõ số phần trăm góp vốn mỗi bên và tương đương với số tiền là bao nhiêu. Trong mục phân chia kết quả kinh doanh, người làm hợp đồng cần chú ý đề cập tới: tỷ lệ phân chia lợi nhuận mỗi bên được hưởng sau khi hoàn thành nghĩa vụ với nhà nước, thời điểm chia lợi nhuận và nêu phương án giải quyết trong trường hợp phát sinh ra lỗ. 2.2.5. Các nguyên tắc tài chính Các nguyên tắc tài chính giống như sợi dây ràng buộc trách nhiệm của hai bên trong quá trình giao dịch, đảm bảo công việc được thực thi đầy đủ, minh bạch nhất. Nguyên tắc tài chính thường được áp dụng chính là quy định pháp luật Việt Nam cùng với các bản kê khai, báo cáo định kỳ của hai bên. 2.2.6. Ban điều hành hoạt động kinh doanh Sự hợp tác kinh doanh bất kỳ lúc nào cũng cần một người đứng ra điều hành và theo dõi tiến độ hoạt động, chính vì vậy, các nhà đầu tư luôn cần thành lập một ban điều hành. Những người điều hành này không chỉ chịu trách nhiệm đảm bảo hai bên thực thi đúng tiến độ công việc mà còn cần theo dõi sát sao để đảm bảo những công việc đó được thực hiện đúng như điều khoản trong hợp đồng. Trong mục ban điều hành, cả bên A và bên B sẽ ghi họ và tên người đại diện, cùng với đó là hình thức biểu quyết của ban điều hành liên quan đến nội dung hợp tác quy định trong hợp đồng. Thông thường, quyết định chỉ được thông qua khi có quá bán số thành viên đồng ý và có chữ kỹ xác nhận của toàn bộ thành viên trong ban điều hành. Trong phần này, các bên làm đơn cũng cần ghi rõ trụ sở ban điều hành đặt tại đâu. 2.2.7. Nghĩa vụ và quyền của hai bên Đây cũng có thể coi là phần quan trọng nhất của bản hợp đồng, hai bên cùng bàn luận, trao đổi kỹ lưỡng để vạch ra quyền lợi cụ thể trong giao dịch, hưởng bao nhiêu phần trăm từ lợi nhuận sau thuế từ hoạt động kinh doanh. Quyền hạn và nghĩa vụ của các bên phụ thuộc vào ý chí, nguyện vọng của họ, pháp luật không có ràng buộc cụ thể nào về vấn đề này. Nhờ quyền hạn và nghĩa vụ, các bên sẽ không thể lấn chiếm quyền lợi của nhau hoặc chối bỏ trách nhiệm khi phát sinh sự cố. Đồng thời, việc giải quyết công việc sẽ diễn ra tốt hơn khi nghĩa vụ đề cập trong hợp đồng hợp tác kinh doanh rõ ràng. 2.2.8. Điều khoản chung Điều khoản chung thường đề cập tới phương án xử lý vấn đề cụ thể giữa hai bên trong và ngoài phạm vi điều chỉnh của pháp luật Nhà nước. Trong phần điều khoản chung, một số nội dung có thể được đề cập là: cách thức thông tin giữa hai bên; điều lệ sửa đổi bổ sung hợp đồng; cách giải quyết các tranh chấp phát sinh; đền bù thiệt hại khi một bên vi phạm hợp đồng. 2.2.9. Hiệu lực hợp đồng Quy định về thời hạn kết thúc hợp đồng kinh doanh và việc cần thực hiện ngay sau khi chấm dứt hợp đồng. Ngoài ra, hiệu lực hợp đồng còn đề cập tới giá trị pháp lý của hợp đồng. Ví dụ về hiệu lực hợp đồng như sau: Điều 9. Hiệu lực Hợp đồng 9.1. Hợp đồng chấm dứt khi hết thời hạn hợp đồng theo quy định tại Điều 2 Hợp đồng này hoặc các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Khi kết thúc Hợp đồng, hai bên sẽ làm biên bản thanh lý hợp đồng. 9.2. Hợp đồng này được lập thành 02 (hai) bản bằng tiếng Việt, mỗi Bên giữ 01 (một) bản có giá trị pháp lý như nhau và có hiệu lực kể từ ngày ký. 2.3. Phần cuối: Kết thúc hợp đồng hợp tác kinh doanh Để kết thúc hợp đồng hợp tác kinh doanh, đại diện bên A và bên B sẽ cùng nhau ký vào hợp đồng tại hai bên. 3. Cần chú ý gì khi thiết lập hợp đồng hợp tác kinh doanh Ngoài việc thiết lập hợp đồng hợp tác kinh doanh theo mẫu kể trên, các nhà đầu tư còn cần chú ý một số điểm liên quan tới việc xây dựng ràng buộc như sau: Thứ nhất, để hợp đồng bằng văn bản có hiệu lực, nhất thiết hợp đồng phải được công chứng đối với những mục có ghi trong quy định của nhà nước. Ví dụ như việc sử dụng đất, mua bán phương tiện vận chuyển, bất động sản,... Nếu không có công chứng, hai bên ký kết sẽ không được pháp luật bảo vệ dù cho điều khoản đề cập và căn cứ thực hiện giao dịch chi tiết tới đâu. Thứ hai, khi thiết lập hợp đồng hợp tác kinh doanh nhất định chủ thể giữa các bên phải tham gia giao dịch, không có bên nào được vắng mặt, ngoài ra, chủ thể ký kết hợp đồng phải là người có thẩm quyền hoặc do người có thẩm quyền ủy quyền trách nhiệm. Thứ ba, cần xem xét đối tượng hợp đồng. Tưởng như là điều đơn giản nhưng thực chất lại vô cùng cần thiết đối với các nhà đầu tư. Việc xem xét đối tượng chủ thể sẽ cho họ cái nhìn tổng quan nhất về người thực hiện giao dịch với mình - liệu người này có đặc điểm thế nào, đã đáp ứng điều kiện quy định pháp luật Việt Nam hay chưa. Thứ tư, chú ý đến phạt vi phạm trong hợp đồng. Theo quy định tại Điều 418 Bộ luật dân sự năm 2015 “Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm”. Bởi phạt vi phạm được tạo dựng nên bởi thỏa thuận giữa hai bên chứ không được quy định rõ ràng về mức phạt trong hệ thống pháp luật nên các bên ký kết cần phải thỏa thuận rõ ràng, chi tiết về nội dung này. Tránh việc vi phạm phát sinh như không có điều khoản để áp dụng với đối phương. Thứ năm, hợp đồng hợp tác kinh doanh cần phải được xây dựng thật sạch sẽ, không nhàu nát, sau khi đã in ra không được chỉnh sửa bằng bút xóa hoặc bất kỳ hình thức nào khác. Nếu có chỉnh sửa phải là hai bên cùng tham dự, lưu lại bản cũ vào trong hồ sơ và thiết lập bản mới chỉn chu, đầy đủ hơn và không gạch xóa. Trên đây là hướng dẫn viết mẫu hợp đồng hợp tác kinh doanh, cùng với đó là một số lưu ý cụ thể mà timviec24h.vn đã nghiên cứu và tổng hợp lại theo nhiều nguồn, trong đó có quy định của nhà nước và các công ty tư vấn luật tại Việt Nam. Rất mong qua phần này, các chủ đầu tư sẽ có cái nhìn rõ ràng hơn về ràng buộc giao dịch để đảm bảo quyền lợi cho mình. Trên thực tế, các lưu ý dành cho việc viết hợp đồng có rất nhiều, đòi hỏi người có thẩm quyền phải nắm vững quy định pháp luật. Nếu còn thắc mắc về các mẫu hợp đồng hợp tác trong các lĩnh vực cụ thể khác, hãy ghé thăm timviec24h.vn để được nghe hướng dẫn cụ thể hơn bạn nhé. Timviec365.vn với nhiều tính năng: tìm việc làm, kết nối nhà tuyển dụng với ứng cử viên, cung cấp các bản mô tả công việc, giải thích thuật ngữ, hướng dẫn cách viết hồ sơ xin việc,... chắc chắn sẽ đáp ứng đa dạng yêu cầu của các bạn đó. Chúc các bạn thành công! Đăng ngày 20/11/2020, 6 lượt xem Tin tức khác Những phương tiện truyền thông hiệu quả sử dụng cho doanh nghiệp CV trưởng phòng hành chính nhân sự ăn điểm tuyệt đối Chuỗi giá trị là gì? Ứng dụng của chuỗi giá trị như thế nào? Mô tả công việc nhân viên kỹ thuật đầy đủ và chi tiết nhất! Khám phá những bí ẩn về nghiệp vụ thanh toán trong kinh doanh CV thư ký dự án - Nắm bắt để giành lấy cơ hội hấp dẫn Kỳ vọng là gì? Kỳ vọng có ý nghĩa như thế nào trong cuộc sống? Đại học Harvard học phí bao nhiêu? Tại sao nên du học Harvard? Trang thông tin việc làm hàng đầu Timviec24h - Tìm việc làm, tìm việc nhanh, tuyển dụng uy tín và hiệu quả! Email hỗ trợ: ntd.timviec24h.vn@gmail.com hoặc Hotline hỗ trợ: 0977 768 602 Tìm việc làm Tìm việc 24h Việc làm 24h Tìm việc nhanh Thông tin công ty viec lam hai phong Mẫu CV xin việc ×
1610704847953.98.parquet/94652
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 13522, "url": "https://timviec24h.vn/cap-nhat-mau-hop-dong-hop-tac-kinh-doanh-moi-nhat-2020--pr1250.html" }
107.5
Viện Dầu khí tổ chức Hội thảo quốc tế nhằm cải thiện hệ số thu hồi dầu Viện Dầu khí tổ chức Hội thảo quốc tế nhằm cải thiện hệ số thu hồi dầu Thứ năm, 18/06/2020 | 13:00 Cuối tháng 9 tới đây, Viện Dầu khí Việt Nam (VPI) cho biết đang hợp tác với Hiệp hội Kỹ sư Dầu khí thế giới (SPE) tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế: “Phát triển mỏ trưởng thành và công nghệ cải thiện/gia tăng hệ số thu hồi dầu” (Mature field development and IOR/EOR technology) tại Hà Nội. Hội thảo nằm trong khuôn khổ chương trình nghiên cứu dài hạn do VPI đang thực hiện nhằm tìm kiếm các giải pháp nâng cao thu hồi dầu cho các mỏ trưởng thành của Việt Nam. TS. Nguyễn Hữu Trung - chuyên gia của VPI cho biết sau một thời gian dài khai thác, các mỏ dầu lớn của Việt Nam (như Bạch Hổ, Rạng Đông, Sư Tử Đen…) đã đi vào giai đoạn suy giảm sản lượng, cùng với đó là độ ngập nước tăng cao tại một số giếng khai thác, đồng thời xuất hiện các hiện tượng phức tạp như: sa lắng muối, hình thành paraffin hay xuất hiện cát trong lòng giếng, làm giảm khả năng khai thác của giếng. Việc nghiên cứu các giải pháp kiềm chế đà suy giảm sản lượng, cải thiện hiệu quả khai thác và gia tăng hệ số thu hồi dầu đối với các mỏ dầu khí đã trưởng thành là nhiệm vụ cấp thiết đối với ngành Dầu khí hiện nay. Hội thảo sẽ tập trung trao đổi kiến thức và chia sẻ kinh nghiệm về nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài sản các mỏ đã trưởng thành, ứng dụng các công nghệ mới để tối ưu khai thác/tăng cường thu hồi dầu và các trường hợp nghiên cứu/ứng dụng cụ thể trên thế giới. Hội thảo gồm 9 phân ban (session) với các chủ đề chính: Thách thức quản lý mỏ trưởng thành và EOR; Đặc trưng và mô hình hóa vỉa chứa; Kỹ thuật, công nghệ các giải pháp EOR cao cấp; Quản lý khai thác mỏ trưởng thành; Cải thiện thu hồi dầu thứ cấp. Đặc biệt, trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0, Hội thảo sẽ dành nhiều thời gian trao đổi về các giải pháp ứng dụng công nghệ số hóa dữ liệu khai thác và trí tuệ nhân tạo (AI) trong quản lý mỏ trưởng thành, nhằm kiềm chế đà suy giảm sản lượng, cải thiện hiệu quả khai thác và gia tăng hệ số thu hồi dầu cho các mỏ tại Việt Nam… Hội thảo là diễn đàn kết nối các chuyên gia, nhà khoa học trong ngành công nghiệp dầu khí thế giới; đồng thời là nơi các tổ chức nghiên cứu, các công ty dầu khí và các đơn vị tư vấn/dịch vụ cập nhật các kết quả nghiên cứu mới nhất, các cải tiến công nghệ hiện đại, các giải pháp và vấn đề liên quan đến công nghệ cải thiện/gia tăng hệ số thu hồi dầu và quản lý khai thác mỏ trưởng thành. Được thành lập năm 1978, các kết quả nghiên cứu khoa học của VPI là cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách, chiến lược, quyết định của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) và tư vấn cho Nhà nước trong các hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác, vận chuyển, tàng trữ, chế biến, an toàn môi trường và kinh tế quản lý dầu khí… VPI đặt mục tiêu trở thành hạt nhân đổi mới sáng tạo, nơi hội tụ trí tuệ thế giới để tạo giá trị khoa học công nghệ cho ngành Dầu khí Việt Nam, đáp ứng nhu cầu phát triển khoa học công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. SPE là Hiệp hội Kỹ sư Dầu khí uy tín có trụ sở chính tại Mỹ với hơn 153.000 thành viên từ 143 nước trên toàn thế giới và được đánh giá cao về các hoạt động khoa học chuyên môn. Việt Hà In trang Hủy
1610704847953.98.parquet/107727
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 2929, "url": "http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/vien-dau-khi-to-chuc-hoi-thao-quoc-te-nham-cai-thien-he-so-thu-hoi-dau-72648.htm?print=print" }
105
Cùng đương đầu với thử thách mang tên COVID-19 – Thông điệp từ CEO Paul Hudson - Sanofi Việt Nam Chào mừng bạn đến với Sanofi tại Việt Nam Sự hiện diện của chúng tôi trên thế giới 2020-04-09LL Cùng đương đầu với thử thách mang tên COVID-19 – Thông điệp từ CEO Paul Hudson Trang chủ Giới thiệu Empowering Life Cùng đương đầu với thử thách mang tên COVID-19 – Thông điệp từ CEO Paul Hudson Cùng đương đầu với thử thách mang tên COVID-19 – Thông điệp từ CEO Paul Hudson Facebook LinkedIn Google+ Gửi đến các bệnh nhân, các cơ quan y tế, các nhân viên và đối tác của Sanofi, Khi cuộc sống thường nhật ở mọi nơi trên toàn cầu trở nên bấp bênh, điều quan trọng hơn hết chúng ta cần làm là hướng về nhân loại và tập trung vào mục tiêu của chính mình. Trong cơn khủng hoảng mang tên COVID-19, tôi một lần nữa ấn tượng bởi ý thức và sự nỗ lực của đội ngũ Sanofi – từ các nhân viên làm việc thầm lặng tại các trung tâm phân phối cho đến những người túc trực trong phòng thí nghiệm - nhằm sản xuất và cung cấp thuốc cho các bệnh nhân trên toàn thế giới. Tôi được truyền cảm hứng mạnh mẽ khi chứng kiến hàng triệu người trên toàn cầu thực hiện nhiệm vụ của họ đối với nhân loại, cụ thể thông qua việc thực hành các biện pháp ngăn chặn sự lây lan của COVID-19 và chăm sóc những người bị ảnh hưởng bởi virus trong cộng đồng. Ở một góc nhìn khác, nhiệm vụ này đặt các cơ quan chăm sóc sức khỏe vào những tình huống tiềm tàng nguy hiểm, vì thế chúng tôi đặc biệt tán dương sự dũng cảm và tận tâm của họ. Sanofi nói riêng, cũng như ngành công nghiệp dược phẩm và công nghệ sinh học nói chung, đang tiếp tục sản xuất và cung cấp thuốc cho các bệnh nhân trên toàn thế giới, bên cạnh đó chúng tôi cũng bảo vệ các nhân viên, gia đình của họ và cộng đồng. Để làm được điều này, Sanofi sẽ đương đầu với với đại dịch COVID-19 trên ba mặt trận: chúng tôi chiến đấu chống lại virus, chiến đấu vì hàng nghìn bệnh nhân đang sử dụng thuốc của chúng tôi, và chiến đấu để xây dựng một tương lai vững chắc và tốt đẹp hơn. Tôi rất tự hào vì mỗi ngày hàng nghìn nhân viên Sanofi đang nỗ lực làm trọn bổn phận của mình trên các mặt trận này. Để đảm bảo rằng chúng tôi đang làm mọi thứ có thể để bảo vệ các bệnh nhân và nhân viên trong giai đoạn hỗn loạn này, tôi muốn chia sẻ những nỗ lực của Sanofi nhằm tạo ra những tác động lập tức và lâu dài đến cộng đồng: Chiến đấu chống lại virus Tình huống trớ trêu bắt buộc cô lập và cách ly đã giúp chúng tôi kết nối và đoàn kết hơn với đội ngũ nhân viên, các cơ quan y tế và các cơ quan chính phủ trong công cuộc phòng chống virus. Chúng tôi đã bắt đầu hai mối tan hệ hợp tác nhằm tìm ra vắc-xin COVID-19, bao gồm sự hợp tác với công ty Translate Bio và sự hợp tác với Cơ Quan Nghiên Cứu Và Phát Triển Y Sinh Tiên Tiến (BARDA), một đơn vị trực thuộc của Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ. Chúng tôi tin rằng càng theo đuổi nhiều hướng tiếp cận thì khả năng tìm kiếm ứng viên vắc-xin phù hợp cho phát triển lâm sàng sẽ càng cao. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng hợp tác với Regeneron để khởi xướng một chương trình thử nghiệm lâm sàng với mục tiêu đánh giá một loại thuốc hiện có của Sanofi trong việc điều trị các bệnh nhân nhiễm virus COVID-19 nghiêm trọng tại Ý, Tây Ban Nha, Đức, Pháp, Canada, Nga và Mỹ. Chúng tôi cũng đang hỗ trợ thử nghiệm lâm sàng quốc tế của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) có tên là Solid Solidityity, nhằm nghiên cứu việc sử dụng một số loại thuốc trong việc quản lý COVID-19. Với nỗ lực cung cấp các loại thuốc thiết yếu cho bệnh nhân, các sản phẩm tiêu dùng được sản xuất bởi Sanofi hiện cũng đang được sử dụng như phương chính giúp pháp giảm đau và sốt ở bệnh nhân. Chiến đấu vì bệnh nhân và cộng đồng Tại nhiều quốc gia, đội ngũ nhân viên Sanofi được đào tạo y khoa đã tình nguyện hỗ trợ các nhân viên y tế trong công tác chăm sóc và điều trị các bệnh nhân nguy kịch ở bệnh viện. Nhận thức được rủi ro mà các nhân viên tình nguyện đang gặp phải, chúng tôi đã thực hiện tất cả các biện pháp cần thiết để bảo vệ sức khỏe và phúc lợi của họ cũng như của các nhân viên làm việc tại các trung tâm sản xuất và phân phối và các nhân viên thực hiện nghiên cứu quan trọng. Đội ngũ của chúng tôi trên khắp thế giới đã chia sẻ thông điệp “Chúng tôi đi làm để bạn có thể yên tâm ở nhà” để đảm bảo Sanofi sẽ tiếp tục mang thuốc đến với các bệnh nhân. Chúng tôi vẫn giữ liên lạc chặt chẽ với các đối tác cung cấp trên toàn cầu, và cho đến hôm nay mạng lưới sản xuất của chúng tôi vẫn hoạt động bình thường, kể cả tại các quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh như Pháp, Tây Ban Nha, Ý và Hoa Kỳ. Chúng tôi đã quyết định trao thưởng cho các nhân viên đảm nhận các vị trí quan trọng trên toàn cầu vì sự tận tâm và cống hiến phi thường của họ. Chiến đấu cho tương lai của chúng ta Trong cuộc khủng hoảng y tế toàn cầu này, trách nhiệm của Sanofi là duy trì cam kết lâu dài với khoa học, chẳng hạn qua việc duy trì thử nghiệm lâm sàng, để không trì hoãn những loại thuốc có khả năng thay đổi tương lai. Tại Trung Quốc, ở đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng, đội ngũ nhân viên Sanofi đã chuyển sang làm việc tại nhà để theo dõi và đảm bảo các thử nghiệm lâm sàng đi đúng hướng. Với các công cụ thông tin điện tử, họ đã giám sát kết quả và tác dụng phụ khi sử dụng thuốc từ xa, cũng như phân phối thuốc trực tiếp đến nhà bệnh nhân để giảm nguy cơ nhiễm virus trong bệnh viện. Dù không liên quan đến COVID-19, ý định được công bố gần đây của Sanofi nhằm thành lập một công ty chuyên cung cấp thành phần dược học có hoạt tính (API) tại Pháp cũng đáng chú ý. Mục đích của chúng tôi là đảm bảo sản xuất và cung ứng các thành phần có hoạt tính quan trọng cho các bệnh nhân ở Châu Âu, và hơn thế nữa. Chính đội ngũ nhân viên Sanofi đã dạy cho chúng tôi biết rằng sự kiên cường và đoàn kết là vũ khí quan trọng trong trận chiến này, đồng thời cũng là chìa khóa giúp chúng tôi vẽ ra một kế hoạch chi tiết cho tương lai của ngành dược – một tương lai thúc đẩy khả năng suy nghĩ, phát triển và sáng tạo cùng nhau. Chúng tôi rất tự hào về cách đội ngũ của mình đương đầu với trận chiến này. Với sự quyết tâm của tập thể, tôi tin chắc chúng ta có thể cùng đối diện với thử thách mang tên COVID-19 và giữ lời hứa của Sanofi đối với các bệnh nhân. Trân trọng, Paul Hudson, Giám đốc Điều hành Sanofi toàn cầu. © Sanofi 2007-2021 - All rights reserved
1610704847953.98.parquet/120983
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 5431, "url": "https://www.sanofi.com.vn/vi/gioi-thieu/empowering-life/cung-duong-dau-voi-thu-thach-mang-ten-covid-19-thong-diep-tu-ceo-Paul-Hudson" }
105
Lực lượng Cảnh sát biển nâng cao năng lực, hiệu quả thực thi pháp luật trên biển - Tạp chí Quốc phòng toàn dân Tòa soạn: 38A Lý Nam Đế, Hoàn Kiếm, Hà Nội ĐT: (0243)8.457.044; (069)552.364 Fax: (0243)7.479.956 Vấn đề chung Tin tức - Thời sự | Những chủ trương công tác lớn Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII | Nghiên cứu, thực hiện nghị quyết | Bảo vệ Tổ quốc | Theo gương Bác Tổng kết thực tiễn Tổng kết thực tiễn và kinh nghiệm | Giáo dục QP và AN - Giáo dục pháp luật Bình luận - Phê phán Phòng, chống "DBHB" - "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" | Quốc phòng, quân sự nước ngoài | Sinh hoạt tư tưởng Nghiên cứu - Tìm hiểu Nghiên cứu - Trao đổi | Tìm hiểu truyền thống quân sự Thông tin - Tư liệu Biển, đảo Việt Nam | Văn bản, chính sách mới | Chính sách Quân đội | Tư liệu Tạp chí và Tòa soạn Tạp chí | Tòa soạn | Cấu trúc Website Thứ Năm, 28/01/2021, 21:37 (GMT+7) Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Bảo vệ Tổ quốc QPTD -Thứ Năm, 11/05/2017, 07:46 (GMT+7) Lực lượng Cảnh sát biển nâng cao năng lực, hiệu quả thực thi pháp luật trên biển Quản lý, bảo vệ chủ quyền, giữ gìn an ninh, an toàn biển đảo là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; trong đó, Cảnh sát biển là lực lượng nòng cốt, chuyên trách. Quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước về quản lý, bảo vệ vùng biển trong tình hình mới, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả thực thi pháp luật trên biển. Lực lượng Cảnh sát biển được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về an ninh, trật tự, an toàn; duy trì thực thi pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia trên các vùng biển đảo của Tổ quốc. Quá trình thực hiện nhiệm vụ, Cảnh sát biển Việt Nam luôn thể hiện và khẳng định là lực lượng của một quốc gia có trách nhiệm trong giữ vững an ninh, trật tự, an toàn hàng hải theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Gần 20 năm xây dựng và trưởng thành, lực lượng Cảnh sát biển đã có sự phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biển đảo Tổ quốc. Hoạt động của lực lượng Cảnh sát biển thường xuyên và trực tiếp đấu tranh với các hành vi vi phạm, xâm phạm chủ quyền; các loại tội phạm: cướp biển, buôn lậu, gian lận thương mại, tội phạm ma túy. Các đối tượng này rất khôn ngoan, xảo quyệt, thậm chí còn liều lĩnh chống trả bằng vũ khí “nóng” khi bị truy đuổi. Để không bị động, bất ngờ, hoàn thành tốt nhiệm vụ trên biển, đòi hỏi lực lượng Cảnh sát biển phải có năng lực thực thi pháp luật, tinh nhuệ, hiện đại, tính chuyên nghiệp cao. Trước tình hình đó, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển triển khai đồng bộ nhiều giải pháp thực hiện, trong đó tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau: Một là, xây dựng lực lượng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Do đặc thù môi trường thực hiện nhiệm vụ, Cảnh sát biển phải thường xuyên chịu đựng gian khổ, đương đầu với nguy hiểm khó lường và rủi ro cao. Vì thế, đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định lý tưởng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân; nhạy bén về chính trị, có tinh thần cảnh giác cao để chống lại những âm mưu, thủ đoạn của tội phạm và các thế lực thù địch. Để đáp ứng yêu cầu đó, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh thường xuyên coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ; trong đó, lấy xây dựng lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước, sẵn sàng hy sinh vì chủ quyền, an ninh biển đảo là mục tiêu hàng đầu. Bộ Tư lệnh chỉ đạo các đơn vị thường xuyên giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn biển, đảo nói riêng. Đồng thời, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống trong sạch, nâng cao ý chí khắc phục khó khăn, xây dựng ý thức tổ chức kỷ luật cho cán bộ, chiến sĩ. Bên cạnh đó, thường xuyên củng cố và tăng cường đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân; xây dựng tình cảm gắn bó với ngư dân và đồng bào ven biển; bồi dưỡng năng lực vận động, giác ngộ quần chúng trong đấu tranh bảo đảm an ninh, an toàn trên biển, xứng đáng là lực lượng chuyên trách, nòng cốt của Nhà nước về thực thi pháp luật trên biển. Thực tiễn hoạt động thực thi nhiệm vụ trong những năm qua đã xuất hiện nhiều tập thể, cá nhân là tấm gương sáng về sự hy sinh, dũng cảm trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, khắc phục khó khăn, đoàn kết, hiệp đồng, bình tĩnh, khôn khéo trong bảo vệ chủ quyền và vượt qua mọi hiểm nguy để tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, bảo vệ ngư dân, v.v. Để xây dựng lực lượng Cảnh sát biển vững mạnh về tổ chức, Bộ Tư lệnh chỉ đạo các cơ quan, đơn vị quán triệt sâu sắc nguyên tắc mà Quân ủy Trung ương xác định: “Cảnh sát biển được tổ chức, chỉ huy thống nhất từ Bộ Tư lệnh đến đơn vị cơ sở”; quán triệt quan điểm: “Bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Chủ tịch nước, Chính phủ, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đối với việc xây dựng lực lượng Cảnh sát biển và công tác bảo vệ chủ quyền, an ninh, an toàn vùng biển, đảo của Tổ quốc”. Hệ thống tổ chức Cảnh sát biển phải nằm trong tổng thể tổ chức Quân đội, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ huy thống nhất, thông suốt, nhanh chóng và có hiệu lực trong công tác thực thi pháp luật trên biển. Theo đó, lực lượng Cảnh sát biển đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng, các ngành có liên quan và nhân dân ven biển đẩy mạnh xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân trên biển; vận dụng hợp lý, khoa học, đồng bộ hệ thống văn bản pháp luật về tổ chức và chức năng, nhiệm vụ trong xây dựng, phát triển lực lượng. Cùng với đó, xây dựng kế hoạch, quy hoạch phát triển lực lượng Cảnh sát biển: tinh, gọn, mạnh, chuyên nghiệp, cơ động nhanh, quân số hợp lý, phát triển theo trang bị; giỏi về nghiệp vụ, quân sự, pháp luật và đối ngoại, biết kết hợp chặt chẽ các biện pháp công tác để kịp thời xử lý tốt các tình huống trên biển. Vì thế, chỉ trong thời gian ngắn, lực lượng Cảnh sát biển từng bước được hoàn thiện về pháp lý, mô hình tổ chức phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ và định hướng là lực lượng thực thi pháp luật mạnh trong khu vực. Hai là, chủ động tham mưu hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về quản lý, bảo vệ vùng biển và nâng cao chất lượng hiệu quả biện pháp nghiệp vụ. Hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến quản lý, bảo vệ vùng biển của Tổ quốc được xây dựng dựa trên quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật Việt Nam và luật pháp quốc tế, nhưng cần phải cụ thể hóa các quyền, nghĩa vụ của nước ta và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các lực lượng, trong đó có lực lượng Cảnh sát biển, nhất là sau những tác động của việc Trung Quốc mở rộng xây dựng và quân sự hóa các đảo ở hai quần đảo: Hoàng Sa và Trường Sa; phán quyết của Tòa Trọng tài quốc tế (PCA) về vụ kiện của Phi-líp-pin đối với Trung Quốc ở Biển Đông. Hiện nay, xúc tiến hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật là việc làm cần thiết, quan trọng nhằm tạo cơ sở pháp lý trong quản lý, bảo vệ vùng biển trong bối cảnh tình hình Biển Đông đang có những diễn biến phức tạp, khó lường và những hành vi vi phạm thường liên quan nhiều đến yếu tố nước ngoài. Mặt khác, những hành vi vi phạm pháp luật trên biển có nhiều đặc điểm khác ở đất liền, đó là hiện trường khó để lại, đối tượng vi phạm có nhiều điều kiện để che giấu,... do đó cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển phải tinh thông về nghiệp vụ, từ khả năng phát hiện, phân tích, đánh giá đến các biện pháp tố tụng để xử lý nghiêm minh. Trước tình hình đó, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh coi trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả các biện pháp nghiệp vụ khi thực thi nhiệm vụ trên biển; đồng thời quan tâm nhiều đến công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ pháp luật thông qua huấn luyện tập trung, hội thảo trong nước và quốc tế về kinh nghiệm quản lý, bảo vệ biển, đảo. Ba là, nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ, chiến sĩ. Với bản chất là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và vai trò là lực lượng thực thi pháp luật trên biển, đòi hỏi chất lượng cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển phải được chuyên môn hóa, chất lượng tổng hợp cao, giỏi về nghiệp vụ, quân sự, pháp luật và đối ngoại, có khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao trong mọi hoàn cảnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh, an toàn vùng biển đảo trong giai đoạn mới. Muốn vậy, trước hết, cần phải bảo đảm chặt chẽ khâu tuyển chọn theo hướng lựa chọn kỹ, bảo đảm tin cậy về chính trị; cán bộ, chiến sĩ phải được huấn luyện, đào tạo bài bản, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ quân sự, pháp luật, kỹ thuật nghiệp vụ tốt, giỏi ngoại ngữ và nắm chắc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các điều ước quốc tế liên quan. Hiện nay, khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, do vậy, nhiệm vụ cấp thiết là phải xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Để có một lực lượng tinh nhuệ, mỗi cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển cần phải có đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, quản lý, nhất là ngoại ngữ. Do vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được Đảng ủy, Bộ Tư lệnh hết sức quan tâm; trong đó, coi trọng công tác tự bồi dưỡng. Đây cũng là một trong các giải pháp quan trọng để nâng cao trình độ cho lực lượng Cảnh sát biển. Trước mắt, Bộ Tư lệnh tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn về nghiệp vụ tại Trung tâm huấn luyện Cảnh sát biển; đồng thời, cử cán bộ tham gia các khóa huấn luyện về chuyên môn, nghiệp vụ cũng như đào tạo dài hạn tại các cơ sở giáo dục cả ở trong và ngoài nước. Về lâu dài, khi Trung tâm Huấn luyện Cảnh sát biển đi vào hoạt động, cần coi trọng việc bổ sung nhân lực, cơ sở vật chất để nâng cấp thành Trường Cảnh sát biển với đầy đủ các chuyên ngành đào tạo, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ và sự phát triển của lực lượng. Bốn là, bảo đảm trang bị, vũ khí, phương tiện kỹ thuật và chính sách cho lực lượng Cảnh sát biển. Xác định con người là nhân tố quyết định trong việc nâng cao năng lực, hiệu quả thực thi pháp luật trên biển, song việc trang bị cơ sở vật chất, vũ khí, phương tiện phục vụ nhiệm vụ thực thi pháp luật cũng là yếu tố không thể xem nhẹ. Trang bị vũ khí, phương tiện là yếu tố cơ bản thể hiện sức mạnh của lực lượng, đồng thời cũng để bắt kịp xu thế phát triển, phù hợp, tương thích với trang bị của các lực lượng phối hợp trong nước và hợp tác quốc tế. Thời gian qua, Cảnh sát biển đã được Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng quan tâm, đầu tư xây dựng theo hướng tiến thẳng lên hiện đại, được trang bị nhiều tàu, thuyền và máy bay, nhất là các tàu có độ giãn nước lớn, hiện đại, có thể hoạt động dài ngày trong điều kiện thời tiết phức tạp, có khả năng hiệp đồng tác chiến cao. Tuy nhiên, Cảnh sát biển cũng cần được tăng cường hệ thống chỉ huy, điều hành và giám sát hiện đại, được trang bị vũ khí sát thương và phi sát thương đủ mạnh để thực thi pháp luật trên biển. Hệ thống các phương tiện quan sát, thông tin liên lạc cũng cần được nâng cấp để phục vụ kịp thời công tác lãnh đạo, chỉ huy và tuần tra, kiểm soát, xử lý các tình huống đột xuất. Những phương tiện trinh sát, kỹ thuật nghiệp vụ, công cụ hỗ trợ việc thực thi pháp luật trên biển; thiết bị bảo đảm an toàn, cứu hộ, cứu nạn, phòng ngừa và khắc phục ô nhiễm môi trường biển,… cần tiếp tục được chuẩn hóa. Thời gian tới, lực lượng Cảnh sát biển cần phải quản lý, khai thác, sử dụng các trang bị, phương tiện hiện có một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, cũng cần có chế độ, chính sách chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ; chính sách thu hút cụ thể và thiết thực đối với Lực lượng. Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam và Trung Quốc hợp tác kiểm tra tàu cá trong vùng đánh cá chung, ngày 18-4-2017. (Ảnh: canhsatbien.vn) Năm là, nâng cao năng lực, hiệu quả trong hợp tác quốc tế về thực thi pháp luật trên biển. Những năm qua, Cảnh sát biển đã thể hiện rõ là lực lượng có trách nhiệm của một quốc gia có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế trên lĩnh vực giữ gìn an ninh biển. Cảnh sát biển Việt Nam đại diện cho Chính phủ Việt Nam trong tổ chức Chống cướp biển, cướp có vũ trang ở khu vực châu Á, tham gia tổ chức Cảnh sát biển khu vực. Lực lượng Cảnh sát biển đã ký quy chế phối hợp, thỏa thuận song phương với hầu hết các lực lượng thực thi pháp luật ở khu vực ASEAN và các cường quốc, như: Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, v.v. Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển nhận thức rằng, hợp tác quốc tế liên quan chặt chẽ với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán trên biển. Mặt khác, hợp tác quốc tế còn góp phần quan trọng vào hình thành “thế nước” trong cộng đồng quốc tế, tạo cấu trúc an ninh mới, góp phần chủ động kiểm soát tình hình, thúc đẩy xu thế hòa bình, giải quyết tranh chấp bằng pháp luật. Từ vấn đề đó, Bộ Tư lệnh quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước và chỉ đạo của Bộ Quốc phòng về hợp tác quốc tế trong tình hình mới; mở rộng hợp tác trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ biển theo chức năng thực thi pháp luật của Lực lượng; đồng thời, có tư tuy đổi mới, phát triển phù hợp với tình hình. Thông qua tăng cường công tác đối ngoại, mở rộng hợp tác quốc tế để tận dụng các diễn đàn quốc tế và khu vực, tranh thủ sự ủng hộ của các nước trên thế giới, nhằm khẳng định và đấu tranh bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia đối với các vùng biển đảo của Tổ quốc. Đây cũng là cách để Cảnh sát biển tích cực tham gia xây dựng và chấp hành luật pháp quốc tế cũng như thông lệ và thỏa thuận quốc tế, nhằm bảo vệ các giá trị chân chính của luật pháp, thông lệ và thỏa thuận. Theo đó, Đảng ủy Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của hợp tác quốc tế cũng như các quan điểm, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước liên quan đến bảo vệ chủ quyền, giữ gìn an ninh trật tự trên các vùng biển đảo. Trong giáo dục, chú trọng bồi dưỡng về quan điểm, đường lối đối ngoại theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đồng thời, tích cực bồi dưỡng cho cán bộ, chiến sĩ những kiến thức cơ bản về Luật Biên giới quốc gia, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, Luật Biển Việt Nam 2012 và các hiệp định, hiệp ước về biển đảo mà Việt Nam ký kết. Qua đó, tạo sự thống nhất cả trong nhận thức và tổ chức thực hiện nhiệm vụ quan hệ quốc tế của cán bộ, chiến sĩ. Một vấn đề được Đảng ủy, Bộ Tư lệnh quan tâm, coi trọng là nâng cao trình độ ngoại ngữ cho cán bộ, chiến sĩ, nhất là lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ trên biển, tham gia vào các hoạt động hợp tác quốc tế. Đảng ủy, Bộ Tư lệnh ra nghị quyết chuyên đề về tăng cường đào tạo ngoại ngữ trong lực lượng, nhằm tạo tiền đề để giao lưu, học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm, hợp tác với các lực lượng thực thi pháp luật trên biển của nước ngoài. Những năm qua, lực lượng Cảnh sát biển được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Thời gian tới, để hoàn thành tốt nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn biển đảo, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Cảnh sát biển Việt Nam sẽ tiếp tục phát huy những thành tích đã đạt được, không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực, chất lượng, hiệu quả thực thi pháp luật trên biển. Trung tướng, TS. NGUYỄN QUANG ĐẠM, Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam TAG Cảnh sát biển,pháp luật trên biển In bài Ý kiến bạn đọc (0) 中文 Đọc tạp chí in Tiêu điểm Phát huy truyền thống, xây dựng Bộ Tham mưu Binh chủng Đặc công ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, trực tiếp là Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Binh chủng Đặc công, hơn 50 năm qua, các thế hệ cán bộ, nhân viên Bộ Tham mưu Binh chủng Đặc công đã phát huy bản lĩnh, trí tuệ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao,... Tin, bài xem nhiều Lực lượng vũ trang tỉnh Bình Thuận phát huy vai trò nòng cốt trong xây dựng khu vực phòng thủ Sư đoàn 7 nâng cao chất lượng huấn luyện lực lượng dự bị động viên Binh đoàn 16 xây dựng địa bàn biên giới nam Tây Nguyên vững mạnh Bộ đội Biên phòng Bình Phước đẩy mạnh công tác đối ngoại Viện Chiến lược Quốc phòng nâng cao chất lượng nghiên cứu, tham mưu chiến lược, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Ba đột phá trong giáo dục, đào tạo ở Trường Sĩ quan Lục quân 2 Bộ đội Biên phòng Tây Ninh quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia Thông tin tiện ích Tỷ giá Cập nhật : 17:28 - 28/01/2021 EUR27,041.4728,454.17 GBP30,710.6131,993.35 USD22,940.0023,150.00 Nguồn : Vietcombank Giá vàng Cập nhật : 15:14 - 28/01/2021 HCM SJC 56.150 56.650 Hà Nội SJC 56.150 56.670 Đà Nẵng SJC 56.150 56.670 Nguồn : SJC | Vấn đề chung | Sự kiện lịch sử | Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống | Tổng kết thực tiễn | Bình luận - Phê phán | Nghiên cứu - Tìm hiểu | Thông tin - Tư liệu | Tạp chí và Tòa soạn Giấy phép số 389/GP-BTTTT, Bộ Thông tin và Truyền thông, cấp ngày 01-02-2013. Tổng Biên tập: Thiếu tướng, TS. ĐỖ HỒNG LÂM Phó Tổng Biên tập: Đại tá, TS. NGUYỄN VĂN BẢY; Đại tá, ThS. ĐỖ HẢI ÂU; Đại tá, ThS. NGUYỄN MẠNH TUẤN © 2013 Bản quyền thuộc về Tạp chí Quốc phòng toàn dân. Bảo lưu mọi quyền Địa chỉ: 38A - Lý Nam Đế - Hoàn Kiếm - Hà Nội; ĐT: (024)38.457.044; (069)552.364 Fax: (024)37.479.956 - Email: tkts@tapchiqptd.vn; thukytoasoan.qptd@gmail.com Đại diện phía Nam: 161-163, Trần Quốc Thảo, Quận 3, TP Hồ Chí Minh; Fax: (028) 62.905.671; ĐT: (069) 667.446
1610704847953.98.parquet/75556
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 16256, "url": "http://tapchiqptd.vn/vi/bao-ve-to-quoc/luc-luong-canh-sat-bien-nang-cao-nang-luc-hieu-qua-thuc-thi-phap-luat-tren-bien/10118.html" }
104.6
Bệnh Alzheimer là gì dấu hiệu triệu chứng cách chữa Danh Mục Bệnh Bệnh Phụ KhoaBệnh Nam KhoaCẩm Nang Bệnh Giới ThiệuLiên Hệ MENU Bệnh Alzheimer là gì dấu hiệu triệu chứng cách chữa Chuyên mục Cẩm Nang Bệnh ‍Alzheimer là căn bệnh phổ biến ở người cao tuổi, tuy nhiên người mắc bệnh Alzheimer đang dần bị trẻ hóa trở thành vấn đề đáng lo ngại hiện nay. Vậy bệnh Alzheimer là gì? Dấu hiệu bệnh Alzheimer là gì và cách chữa bệnh Alzheimer hiệu quả, chúng ta hãy cùng tìm hiểu về căn bệnh này qua bài viết sau đây. Bệnh Alzheimer là gì? Bệnh Alzheimer là một hội chứng về não phổ biến gây mất trí nhớ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến não bộ làm chức năng nhận thức bị suy giảm và dần biến mất, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh. Ngoài ra, bệnh Alzheimer còn gây ra tác động xấu đến khả năng ngôn ngữ và hệ thống tư duy. Bệnh Alzheimer gây ra tổn thương não bộ kéo dài và không thể hồi phục được. Người mắc bệnh Alzheimer sẽ dần bắt đầu xuất hiện tình trạng đãng trí nhẹ, sau đó tiến triển thành hiện tượng mất trí nhớ không thể phục hồi, cảm xúc biến đổi thất thường và tính cách thay đổi gây khó khăn trong việc duy trì đến cuộc sống bình thường. Trung bình người mắc bệnh Alzheimer sẽ tử vong trong khoảng thời gian từ 8-10 năm mắc bệnh do bệnh ở giai đoạn cuối gây ra tổn thương nặng nề ở não bộ. Nguyên nhân gây bệnh Alzheimer là gì? Hiện nay, vẫn chưa có nghiên cứu chứng minh chính xác nguyên nhân gây bệnh Alzheimer. Trong quá trình nghiên cứu các chuyên gia chỉ có thể tìm ra những yếu tố có liên quan đến bệnh. Khi bị bệnh Alzheimer là lúc các tế bào lưu trữ và xử lý thông tin ở não bắt đầu bị suy yếu và chết đi. Điều này xảy ra do sự xuất hiện của các protein bất thường được tạo ra, hình thành các mảng bám, tích tụ bên trong các tế bào não bộ làm gián đoạn chức năng vận chuyển thần kinh, gây cản trở khả năng truyền thông tin ở não bộ. Những yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh Alzheimer gồm có: - Yếu tố gen di truyền: Gia đình có tiền sử người từng mắc bệnh Alzheimer thì khả năng cao bạn cũng có thể có nguy cơ mắc bệnh - Hormone sinh dục nữ giảm: Phụ nữ bị suy giảm hàm lượng nội tiết Estrogen sau thời kỳ mãn kinh, theo nghiên cứu cho thấy có sự liên quan đến hội chứng suy giảm trí nhớ, tinh thần trở nên sa sút. Nguyên nhân gây bệnh Alzheimer là gì? - Yếu tố môi trường: Người thường xuyên tiếp xúc trong môi trường độc hại nhiều kim loại (kẽm, đồng) cũng có thể có nguy cơ cao mắc căn bệnh này. - Yếu tố bệnh lý: Người mắc một số bệnh lý về tim mạch, huyết áp, hoặc hàm lượng cholesterol trong máu tăng cao và tình trạng tăng nồng độ homocysteine cũng sẽ có nguy cơ mắc hội chứng Alzheimer Dấu hiệu nhận biết bệnh Alzheimer Alzheimer là căn bệnh khởi phát âm thầm, có tốc độ phát triển chậm những triệu chứng ban đầu thường bị người bệnh bỏ qua không chú ý đến, cho nên thường đến khi phát hiện thì bệnh đã ở giai đoạn nặng. Tùy thuộc vào giai đoạn phát triển bệnh sẽ có những biểu hiện khác nhau, các triệu chứng bệnh Alzheimer điển hình gồm có: Suy giảm trí nhớ Suy giảm trí nhớ và nhận thức là những biểu hiện bệnh Alzheimer điển hình, phổ biến nhất của bệnh. Nhất là ở giai đoạn đầu của bệnh, người bị Alzheimer hoàn toàn không thể nhớ được các thông tin hay những việc vừa mới xảy ra, nhưng vẫn có thể nhớ lại những ký ức từ rất lâu đây được gọi là mất trí nhớ gần. Ở giai đoạn sau, trí nhớ bị quên xa, những trí nhớ dài hạn dần theo thời gian biến mất, khả năng tập trung cũng bị suy giảm, làm rối loạn khả năng định hướng và di chuyển, không còn nhớ chỗ để đồ vật. Dần bệnh sẽ làm ảnh hưởng các kỹ năng năng, thói quen, các thông tin ghi nhận, kho lưu trữ ký ức từ ngày xưa hoàn toàn bị ảnh hưởng. Suy giảm khả năng nhận thức và tư duy Alzheimer dần làm mất khả năng lập kế hoạch, khả năng phán đoán và thay đổi nhận thức hoàn toàn bị suy giảm. Thời gian đầu khiến người bệnh không thể làm những công việc sinh hoạt hàng ngày, cần có người giúp đỡ. Khi ở giai đoạn cuối người bệnh hoàn toàn được chăm sóc toàn diện, không tự thay quần áo và vệ sinh chăm sóc cá nhân. Suy giảm khả năng ngôn ngữ Người bị mắc bệnh Alzheimer sẽ gặp phải tình trạng khó khăn trong việc diễn đạt bằng ngôn ngữ, khả năng tư duy và suy bị suy giảm, không làm được các công việc phức tạp. Đồng thời khả năng ứng biến, xử lý tình huống cũng dần biến mất. Tình trạng tiến triển nặng sẽ khiến người bệnh mất tự chủ khi tham gia một cuộc trò chuyện, một câu hỏi họ có thể lặp đi lặp lại nhiều lần. Càng về sau khả năng sử dụng ngôn ngữ bị hạn chế, họ quên nghĩa của từ gây khó khăn trong việc giao tiếp. Thay đổi bất thường về hành vi, tâm trạng và tính cách Người bị bệnh Alzheimer thường sẽ thay đổi về tính cách, cảm xúc thất thường, thường xuyên có cảm giác bối rối, đa nghi, ngại giao tiếp, dễ dàng kích động, mất khả năng kiềm chế. Điều này khiến người bệnh tự cách xa khỏi các hoạt động xã hội, công việc ảnh hưởng hoàn toàn đến chất lượng cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Do vậy, ngay khi nhận thấy cơ thể có bất kỳ các dấu hiệu bất thường trên, thì bạn cần kịp thời đến cơ sở y tế chuyên khoa để được kiểm tra và kịp thời phát hiện bệnh sớm, từ đó nhận được phương pháp điều trị bệnh kịp thời và hỗ trợ tư vấn chế độ chăm sóc sức khỏe phù hợp , tránh những tình huống xấu có thể xảy ra. Dấu hiệu nhận biết bệnh Alzheimer Biến chứng bệnh Alzheimer gây ra là gì? Người bị bệnh Alzheimer sẽ gặp phải tình trạng mất trí nhớ, khả năng phán đoán và nhận thức bị suy giảm không chỉ làm ảnh hưởng đến cuộc sống mà còn gây khó khăn hơn quá trình điều trị các bệnh lý khác. Bệnh nhân Alzheimer có thể gặp khó khăn trong việc thông báo với người chăm sóc hoặc người xung quanh rằng họ đang bị đau ở bất kỳ bộ phận nào trên cơ thể và hoàn toàn không đủ nhận thức để có thể tuân thủ đúng phác đồ điều trị bệnh. Từ việc mất khả năng kiểm soát và chăm sóc bản thân bệnh nhân Alzheimer sẽ có thể dễ dàng gặp phải những biến chứng sau đây: Nhiễm trùng: Bệnh nhân Alzheimer mất khả năng kiểm soát dẫn đến tình trạng đi tiểu không tự chủ. Do vậy, bệnh nhân Alzheimer thường phải đặt thông tiểu, từ đó làm tăng nguy cơ nhiễm trùng đường tiết niệu. Tình trạng này nếu kéo dài, không được điều trị kịp thời bệnh sẽ tiến triển ngày càng nặng hơn, thậm chí có thể đe dọa đến tính mạng người bệnh. Mất định hướng bị ngã và gặp chấn thương: Tình trạng suy giảm trí nhớ, mất khả năng nhận thức khiến bệnh nhân Alzheimer sẽ gặp khó khăn trong việc định hướng khoảng cách và mất phương hướng, từ đó sẽ phải đối mặt với nguy cơ té ngã trong quá trình di chuyển và vận động. Điều này có thể khiến người bệnh bị gãy xương, trong nhiều trường hợp gặp phải tình trạng chấn thương nghiêm trọng ở vùng đầu hoặc cổ, thậm chí còn dẫn đến khả năng xuất huyết, tụ máu… với trường hợp nặng cần phải thực hiện phẫu thuật và chăm sóc nội trú đặc biệt. Viêm phổi: Biến chứng này xảy ra do người bệnh gặp phải tình trạng khó nuốt thức ăn và khó khăn khi uống nước dễ hít vào phổi hoặc có thể vào đường hô hấp làm phổi bị phù nề, nhiễm trùng. Cách chẩn đoán và điều trị bệnh Alzheimer Kỹ thuật y tế dùng để chẩn đoán bệnh Alzheimer Hiện nay, để có thể chẩn đoán bệnh Alzheimer các bác sĩ sẽ tiến hành thực hiện kiểm tra sức khỏe tổng quát, tiền sử bệnh và tham vấn bằng các bài test giúp đánh giá chuyên biệt để xác định cụ thể từng chức năng hoạt động nhận thức về trí nhớ, ngôn ngữ, cấu trúc thị giác, khả năng tập trung và điều hành. Bên cạnh đó, các chuyên gia cũng sẽ tiến hành kiểm tra đánh giá hành vi tâm thần để xác định xem người bệnh có biểu hiện rối loạn hay không như tình trạng trầm cảm, ảo giác, hoang tưởng,... Sau đó, các chuyên gia sẽ chỉ định làm các xét nghiệm chuyên sâu, kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh như thủ thuật chụp MRI hoặc CT não, chụp cắt lớp phát xạ positron PET để có thể phân biệt và sàng lọc loại trừ các bệnh lý khác như hội chứng Parkinson, trầm cảm, suy giáp, đột quỵ,... Sau khi thực hiện chẩn đoán chính xác cơ thể người bệnh, tùy thuộc vào tình trạng cụ thể bác sĩ chuyên khoa sẽ đưa ra phương pháp hỗ trợ điều trị hiệu quả và tư vấn biện pháp chăm sóc phù hợp nhất. Phương pháp điều trị bệnh Alzheimer Bệnh Alzheimer có chữa được không là thắc mắc mà rất nhiều người quan tâm. Theo các chuyên gia cho biết, bệnh Alzheimer là một căn bệnh rất phức tạp, cho đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có thể tìm ra được hướng điều trị bệnh Alzheimer một cách triệt để và đưa não bộ trở về tình trạng bình thường. Những biện pháp điều trị bệnh Alzheimer hiện tại được đưa ra chỉ có khả năng giúp giảm thiểu sự phát triển của bệnh, duy trì chức năng tâm thần, quản lý và cải thiện triệu chứng hành vi nhất thời. Các biện pháp giúp hạn chế sự phát triển của bệnh như sử dụng thuốc ức chế cholinesterase và memantine hoặc các loại thuốc kiểm soát hành vi, để giúp giảm thiểu các triệu chứng và giải quyết một số vấn đề về hành vi dành cho người bệnh. Cách chẩn đoán và điều trị bệnh Alzheimer Ngoài ra, để có thể hạn chế mức độ phát triển của bệnh, chúng ta cần cần cố gắng không thay đổi môi trường sống của bệnh nhân như nhà ở, người chăm sóc,... Bởi bệnh nhân Alzheimer sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình thích nghi với sự thay đổi môi trường sống. Biện pháp phòng ngừa bệnh Alzheimer Bất kỳ ai khi về già cũng có thể sẽ phải đối mặt với bệnh Alzheimer, do vậy bạn cần phải phòng ngừa khả năng mắc căn bệnh này bằng những cách dưới đây: Bổ sung nhiều thực phẩm có hàm lượng axit béo Omega 3 giúp duy trì hệ thần kinh khỏe mạnh, giảm nguy cơ mắc bệnh Alzheimer và làm chậm sự lão hóa của não bộ từ các thực phẩm như dầu gan cá, hạt óc chó, rong tảo biển, cá hồi,... Thường xuyên kiểm soát cân nặng và huyết áp phù hợp là cách hiệu quả để giúp hạn chế những ảnh hưởng của bệnh. Tăng cường vận động, tập thể dục thể thao mỗi ngày để giúp tăng khả năng kết nối các tĩnh mạch trong não và kích thích sự phát triển khả năng nhận thức não bộ. Tránh xa các chất độc hại ảnh hưởng đến sức khỏe não bộ như nhôm, thủy ngân. Tránh để tình trạng căng thẳng, stress thường xuyên, xây dựng chế độ nghỉ ngơi hợp lý. Hy vọng rằng bài viết trên đây sẽ có thể giúp bạn đọc giải đáp được thắc mắc về bệnh Alzheimer là gì dấu hiệu triệu chứng cách chữa bệnh alzheimer như thế nào, để có thể có những biện pháp bảo vệ tốt cho sức khỏe bản thân một cách hiệu quả nhất. Bài Viết Cùng Chuyên mục Bệnh não cá vàng nghĩa là gì? Tại sao gọi là não cá vàng cách chữa hiệu quả Bệnh não cá vàng nghĩa là gì? ✅⭐️✅⭐️✅Tại sao gọi là não cá vàng cách chữa hiệu quả sẽ được các chuyên gia phòng khám hưng thịnh bật mí trong bài viết này Tác giả: Tiến sĩ Bác Sĩ: Lê Nhân Tuân Giám đốc Phòng khám Hưng Thịnh Bệnh Alzheimer là gì dấu hiệu triệu chứng cách chữa Bệnh Alzheimer là gì dấu hiệu triệu chứng cách chữa trị sẽ được các chuyên gia sức khỏe tư vấn trong nội dung bài viết này mời quý vị và các bạn tham khảo Tác giả: Bác sĩ chuyên sản phụ khoa Trần Thị Thành Bản Quyền thuộc Phòng khám đa khoa Hưng Thịnh 380 Xã Đàn - Đống Đa - Hà Nội
1610704847953.98.parquet/124505
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 9643, "url": "https://phongkhamdakhoahungthinh.webflow.io/blog/benh-alzheimer-la-gi-dau-hieu-trieu-chung-cach-chua" }
104.1
etetet.net : in file /home/admin/lab307PL1/sysFuncHTML.php on line 140: include_once(/home/tehat.com/web/public/slideshow/cssSlideShow.php): failed to open stream: No such file or directory [phpBB Debug] PHP Notice: in file /home/admin/lab307PL1/sysFuncHTML.php on line 140: include_once(): Failed opening '/home/tehat.com/web/public/slideshow/cssSlideShow.php' for inclusion (include_path='.:/opt/local/lib/php') Register . Login bìa đối thoại chuyện cổ tích tình sầu đại mạc tàn phai mùa vô bếp l Ệ .đ Á . . __________________________________________________________________________ trong hơi thở đá nằm nghe lạnh quá hồn phong linh quạnh quẽ tiếng rung buồn. Dung bỏ đi gió ngừng khuây đoản mộng. núi đồi kia chờ mãi bóng Dung về trang sách cũ những lời ru của đá. Ta thẫn thờ gió cất điệu vãn ca. n g u y ễ n t ư p h ư ơ n g _______________________________________________ Ngày... Tháng... Năm... - thơ - Phiến Băng _______________________________________________ Trời đất lại bắt đầu giao mùa mọi thứ trên đời đang thay đổi nhưng anh vẫn ngồi viết không phải là những bài thơ với nội dung to lớn không là những áng văn chương vĩ đại chỉ là những giấc mơ nho nhỏ những khắc khoải trong anh - trong em xem tiếp... _______________________________________________ Tuyết Rơi - văn - Lam Giang _______________________________________________ Trắng bừng một màu bạch tuyết, đất và thông xanh ẩn màu dưới lớp tuyết mịn màng. Qua một đêm, con đường, ngọn cây, mái nhà... đã phủ miên man tuyết trắng. xem tiếp... _______________________________________________ Auld Lang Syne - nhạc - npn _______________________________________________ xem tiếp... _______________________________________________ Happy New Year - ảnh - Đỗ Danh Đôn _______________________________________________ xem tiếp...
1610704847953.98.parquet/137913
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 961, "url": "http://etetet.net/bb/?spost=24978" }
96.1
Comming soon Bí quyết để điều hành một công ty với 1.000 nhân viên một cách "đơn giản" Nhiều doanh nhân mơ ước điều hành một công ty với hàng nghìn người. Tất nhiên, rất nhiều doanh nhân trong số đó phải vật lộn với việc quản lý hàng trăm, hàng chục, hoặc thậm chí một nhóm ba người. Việc quản lý con người rất khó khăn vì những người làm việc cho bạn có những mong muốn, tính cách và thách thức khác nhau mà bạn sẽ phải đáp ứng. Làm cho mọi người hạnh phúc và hiệu quả là đủ khó với một số ít. Đối với hầu hết các nhà quản lý, việc quản lý hàng nghìn người là gần như không thể. Ông Scott Chiu, Chủ tịch Hội đồng Quản trị của HCG China. Ảnh: Legacy Đối với ông Scott Chiu, Chủ tịch Hội đồng Quản trị của HCG China, điều này là có thể. Năm 1931, ông Scott Chiu bắt đầu với một xưởng gốm nhỏ tại một thị trấn nhỏ ở thành phố Yinko, Đài Loan. Vào thời điểm đó, không ai có thể đoán được rằng doanh nghiệp gia đình nhỏ của ông ấy cuối cùng sẽ trở thành Tập đoàn HCG, nhà sản xuất các bộ phận xây dựng bằng gốm sứ lớn nhất có nhà máy ở Trung Quốc và Philippines nổi tiếng thế giới. Ông đã có những chia sẻ của mình về việc điều hành doanh nghiệp gia đình và quản lý đội ngũ 1.000 nhân viên tại Trung Quốc. Theo ông Scott Chiu, việc điều hành một công ty với 1.000 nhân viên là "đơn giản". Ông tuyên bố rằng mặc dù giữ được lượng lớn người không phải là không có khó khăn, nhưng có một số điểm chính cần tập trung để thành công. Ảnh minh họa: Freepik. 1. Biết những phẩm chất của nhân viên Biết những gì nhân viên của bạn mang lại cho bạn là rất quan trọng để nhận được những điều tốt nhất ở họ. Nhiều nhân viên của ông Chiu là lao động nhập cư đến từ các tỉnh khác nhau ở Trung Quốc. Công ty của ông ấy đặt mục tiêu là hiểu càng nhiều càng tốt về mọi nhân viên và nền tảng của họ để họ có thể điều chỉnh các điều kiện để tạo động lực. "Mặc dù Trung Quốc là một quốc gia, nhưng mỗi tỉnh có phương ngữ khác nhau, văn hóa khác nhau", ông khẳng định. “ Bạn phải hiểu phần lớn nhân viên của mình ở đâu từ đó tạo ra sự khác biệt nhưng cũng tạo ra lợi thế”. 2. Khiến nhân viên cảm thấy làm việc cũng như ở nhà Nhiều người trong số lao động nhập cư làm việc tại công ty của ông đã làm việc xa nhà, để lại nhà cửa và gia đình của họ ở phía sau. Nhiều người rời khỏi nhà để tìm kiếm một cơ hội tốt hơn, đôi khi bỏ lại vợ / chồng và con cái của họ cho một phần lớn thời gian trong năm. Công ty sử dụng các nguồn lực để tạo ra một môi trường đáng nhớ và đầy cảm hứng cho các nhân viên làm việc hàng ngày. Họ sẽ có động lực để cống hiến hết mình nếu họ cảm thấy được chăm sóc. 3. Giúp họ đạt được ước mơ của họ Trong một thời gian dài, chỉ có các thành phố ven biển mới có cơ hội phát triển ở Trung Quốc. Tuy nhiên, đất nước đang trải qua một sự thay đổi cơ sở hạ tầng khiến các thành phố nội địa cuối cùng cũng có cơ hội phát triển và thịnh vượng. Điều này đang khiến việc giữ chân nhân viên trở nên khó khăn hơn đối với các công ty thành phố ven biển, buộc họ phải đánh giá lại cách họ thúc đẩy nhân viên ở lại. Ông Chiu làm việc với các nhân viên để biết được mục tiêu của họ và có thể là hỗ trợ gia đình họ, thăng tiến hoặc một cuộc sống tốt hơn cho con cái của họ. Một khi nhân viên đang đi đúng hướng để hoàn thành ước mơ của họ, họ càng có ít lý do để rời đi. Theo Inc, Legacy.ypo, NCĐT
1610704847953.98.parquet/136964
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 3022, "url": "http://www.nhuongquyenvietnam.com/controller/printer/printer.php?id=41031.htm" }
91.6
Tâm lý học tham vấn – Wikipedia tiếng Việt Tâm lý học tham vấn Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Bước tới điều hướng Bước tới tìm kiếm Bài viết này không được chú giải bất kỳ nguồn tham khảo nào. Mời bạn giúp cải thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích cho từng nội dung cụ thể trong bài viết tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. Tâm lý học tham vấn Phương pháp can thiệp ICD-10-PCS GZ6 ICD-9-CM 94.45-94.49 MeSH D003376 Tâm lý học tham vấn là một chuyên ngành tâm lý học bao gồm những nghiên cứu và ứng dụng trong nhiều lĩnh vực rộng lớn khác nhau: đào tạo và đầu ra; giám sát và đào tạo; tư vấn và phát triển hướng nghiệp; can thiệp và sức khỏe. Một số chủ đề chính mà các nhà tham vấn tâm lý thường tập trung vào bao gồm vấn đề về tài chính và sức khỏe, môi trường tương giao cá nhân, giáo dục và phát triển hướng nghiệp, các tương giao ngắn hạn và tập trung vào tính toàn thể của nhân cách. Ở Hoa Kỳ, một trong các tạp chí chuyên ngành học thuật hàng đầu là Tạp chí tâm lý học tham vấn và Tạp chí các nhà tâm lý tham vấn. Còn tại châu Âu, có các tạp chí học thuật chuyên ngành như Tạp chí tâm lý tham vấn châu Âu (dưới sự bảo trợ của Hiệp hội tâm lý học tham vấn châu Âu, tên tiếng Anh: European Journal of Counselling Psychology), Điểm báo Tâm lý học tham vấn (dưới sự bảo trợ của Hiệp hội Tâm lý học Liên hiệp Anh, tên tiếng Anh: Counselling Psychology Review), và một tạp chí liên ngành quốc tế: Tam cá nguyệt san Tâm lý học tham vấn (tạp chí 3 tháng/kỳ, tên tiếng Anh: Counselling Psychology Quarterly) là một xuất bản phẩm của nhà Routledge (thuộc hội Taylor & Francis). Tại Hoa Kỳ, các hoạt động tham vấn tâm lý được hợp thức hóa bởi Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ (APA), còn các chương trình tham vấn được thông qua bởi Hội luật gia về tham vấn và các chương trình giáo dục liên kết (CACREP). Trên tất cả 50 bang, các nhà tham vấn có thể hành nghề với bằng thạc sĩ, đáp ứng chuẩn tiêu chí của bang và quốc gia. Để có giấy phép hành nghề như một nhà tham vấn tâm lý, bạn cần đáp ứng tiêu chí đòi hỏi ở một nhà tâm lý (với bằng tiến sĩ sau cử nhân từ 4 đến 7 năm, 1 năm thực tập gồm 3000 giờ thực hành có giám sát và các bài kiểm tra). Cả bằng tiến sĩ về tâm lý học tham vấn và tiến sĩ cho chuyên viên tham vấn đều có thể hoạt động trong các lĩnh vực ứng dụng hành nghề, cũng như trong giảng dạy và nghiên cứu. Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn] Cũng giống như nhiều chuyên ngành tâm lý học hiện đại khác, tâm lý học tham vấn khởi sinh như một hệ quả từ Thế Chiến II. Trong thời kỳ thế chiến, quân đội Mỹ có nhu cầu rất lớn về việc huấn luyện và chọn nghề. Trong những năm 1940 và 1950, hội quản lý cựu binh (như hội cựu chiến binh ở VN) đã sáng lập nên một chuyên ngạch gọi là "tâm lý tham vấn" và phân khu 17 (hiện nay là Hiệp hội tham vấn tâm lý) của APA được thành lập. Tổ chức này đã bảo trợ cho việc huấn luyện tham vấn viên, và bước đầu thiết lập các chương trình đào tạo bậc tiến sĩ về tâm lý học tham vấn đầu tiên. Các chương trình đào tạo bậc tiến sĩ về tâm lý học tham vấn đã được áp dụng trong các trường Đại học như Đại học Minnesota, Đại học bang Ohio, Đại học Maryland, Cao đẳng Park, Đại học Missouri, Cao đẳng sư phạm thuộc Đại học Columbia và Đại học Texas ở Austin. Việc làm và lương[sửa | sửa mã nguồn] Các nhà tâm lý học tham vấn có thể được tuyển dụng trong các lĩnh vực khác nhau tùy vào dịch vụ mà họ cung cấp và số lượng khách hàng mà họ phục vụ. Một số có thể xin làm giảng viên tại các trường đại học hoặc cao đẳng, làm người giám sát, nghiên cứu hoặc nhà cung cấp dịch vụ. Một số khác có thể hoạt động độc lập trong việc cung cấp dịch vụ tham vấn cho cá nhân, tư vấn cho cặp đôi hoặc gia đình, cho nhóm hoặc các tổ chức, cung cấp tâm lý liệu pháp, đánh giá và dịch vụ tư vấn khác. Ngoài ra còn có một số lĩnh vực khác mà các nhà tham vấn tâm lý có thể tham gia như các trung tâm chăm sóc sức khỏe tâm trí cộng đồng, các trung tâm ý tế hội cựu chiến binh với các bộ phận khác, các dịch vụ gia đình, các tổ chức bảo vệ sức khỏe, các cơ sở giáo dưỡng, các tổ chức thương mại và công nghiệp hoặc tham vấn trong các công ty. Lương trung bình của các nhà tham vấn Hoa Kỳ ở mức 64 nghìn Đô la Mỹ. Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn] Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Tâm_lý_học_tham_vấn&oldid=63511953” Thể loại: Tâm lý học ứng dụng Chuyên viên y tế Thể loại ẩn: Hoàn toàn không có nguồn tham khảo Trình đơn chuyển hướng Công cụ cá nhân Chưa đăng nhập Thảo luận cho địa chỉ IP này Đóng góp Mở tài khoản Đăng nhập Không gian tên Bài viết Thảo luận Biến thể Giao diện Đọc Sửa đổi Sửa mã nguồn Xem lịch sử Thêm Tìm kiếm Xem nhanh Trang Chính Bài viết chọn lọc Tin tức Bài viết ngẫu nhiên Thay đổi gần đây Phản hồi lỗi Quyên góp Tương tác Hướng dẫn Giới thiệu Wikipedia Cộng đồng Thảo luận chung Giúp sử dụng Liên lạc Công cụ Các liên kết đến đây Thay đổi liên quan Trang đặc biệt Liên kết thường trực Thông tin trang Trích dẫn trang này Khoản mục Wikidata In/xuất ra Tạo một quyển sách Tải về dưới dạng PDF Bản để in ra Ngôn ngữ khác العربية Български Čeština Dansk Deutsch Eesti English Esperanto فارسی Français 한국어 Հայերեն हिन्दी עברית Қазақша Македонски ਪੰਜਾਬੀ Русский Українська 中文 Sửa liên kết Trang này được sửa đổi lần cuối vào ngày 20 tháng 8 năm 2020 lúc 22:56. Văn bản được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự; có thể áp dụng điều khoản bổ sung. Với việc sử dụng trang web này, bạn chấp nhận Điều khoản Sử dụng và Quy định quyền riêng tư. Wikipedia® là thương hiệu đã đăng ký của Wikimedia Foundation, Inc., một tổ chức phi lợi nhuận. Quy định quyền riêng tư Giới thiệu Wikipedia Lời phủ nhận Phiên bản di động Nhà phát triển Thống kê Tuyên bố về cookie
1610704847953.98.parquet/148776
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 4960, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A2m_l%C3%BD_h%E1%BB%8Dc_tham_v%E1%BA%A5n" }
87.4
Mục tiêu chiến lược Mục tiêu chiến lược Trở thành Học viện Quản lý Phát triển Thành Phố Hồ Chí Minh Từ 2015 trở đi, mỗi năm cung cấp cho xã hội tối thiểu 1.000 sinh viên, học viên có trình độ đại học, sau đại học với trình độ ngoại ngữ thành thạo và có chuyên môn sâu cho ngành và cho xã hội. Hàng năm thực hiện bồi dưỡng nâng cao kiến thức và kỹ năng cho khoảng 10.000 lượt cán bộ quản lý nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp, cán bộ quản lý doanh nghiệp và cán bộ khuyến nông, đủ khả năng giải quyết vấn đề nảy sinh trong thực tiễn quản lý. Hàng năm thực hiện tối thiểu 5-10 hợp đồng nghiên cứu khoa học và tư vấn đạt chất lượng cao, giải quyết được các vấn đề cấp bách của xã hội, của doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước, quản lý doanh nghiệp, quản lý nông nghiệp và nông thôn trên tầm vĩ mô và vi mô.
1610704847953.98.parquet/198175
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 741, "url": "http://cmard2.edu.vn/index.php?view=article&catid=85%3Athongtincoban&id=162%3Amuctieuchienluoc&tmpl=component&print=1&layout=default&page=&option=com_content&Itemid=270&lang=vi" }
87.2
Những học thuyết và ví dụ về Child Development Parenting Expert & Writing /Author Bài viết 1:1 Coaching Publications Online Courses More All Posts Better Writing Freelancing Living Marketing Parenting Working Search Linh Phan Jul 18, 2020 11 min read Những học thuyết và ví dụ về Child Development Những lý thuyết về Child Development (sự phát triển của trẻ) tập trung giải thích cách trẻ thay đổi và phát triển trong suốt thời thơ ấu. Chúng chủ yếu nghiên cứu rất nhiều khía cạnh bao gồm: Sự tăng trưởng trong khả năng giao tiếp xã hội, cảm xúc và sự phát triển nhận thức. Nhìn chung, nghiên cứu về sự phát triển của con người là một đề tài phong phú và đa dạng. Bởi dù tất cả chúng ta đều có những trải nghiệm cá nhân, nhưng đôi lúc chúng ta lại khó có thể hiểu cách thức và lý do mình phát triển, học tập và hành động như thế nào. Tại sao trẻ lại hành xử như vậy? Liệu hành vi của trẻ có liên quan gì đến độ tuổi, mối quan hệ gia đình hay tính cách cá nhân hay không? Các nhà tâm lý học đã luôn tìm tòi câu trả lời cho những câu hỏi như vậy, đồng thời cố gắng hiểu, giải thích và dự đoán những hành vi xảy ra suốt cuộc đời của một đứa trẻ. Một số lý thuyết về sự phát triển của trẻ cũng đã được đưa ra nhằm giải thích các khía cạnh khác nhau trong sự phát triển của con người. Hiểu biết cơ bản Những lý thuyết của sự phát triển cung cấp cho chúng ta phần khung để có nhận thức rõ ràng về sự tăng trưởng và học tập của con người. Thế nhưng, chúng ta học về sự phát triển để làm gì? Các lý thuyết về tâm lý học cung cấp cho chúng ta kiến thức gì về sự phát triển của con người? Câu trả lời là, nếu bạn tò mò về những tác động thúc đẩy suy nghĩ và hành vi của một người, thì hiểu biết về những lý thuyết trên sẽ cung cấp cho chúng ta cái nhìn hữu ích về mỗi cá nhân và xã hội. Sự hiểu biết của chúng ta đã thay đổi như thế nào Sự phát triển của trẻ từ khi mới sinh ra cho đến khi trưởng thành phần lớn đều bị bỏ qua trong suốt lịch sử phát triển loài người. Trẻ con thường bị xem như một phiên bản thu nhỏ của người lớn nên thường ít được chú ý đến khả năng nhận thức, sử dụng ngôn ngữ và sự phát triển thể chất trong suốt khoảng thời gian còn thơ ấu cho đến khi thành thiếu niên. Những quan tâm dành cho sự phát triển của trẻ nhỏ bắt đầu nhen nhóm vào đầu thế kỷ 20, nhưng lại chỉ tập trung vào các hành vi tiêu cực. Sau đó, các nhà nghiên cứu đã quan tâm hơn đến các khía cạnh khác bao gồm sự phát triển của trẻ, cùng những tác động thể chất ảnh hưởng đến nó. Làm sao để hiểu hơn về những sự thay đổi Tại sao hiểu biết về sự phát triển, học tập và thay đổi của trẻ lại quan trọng tới vậy? Lý do là bởi nó cho phép chúng ta có những đánh giá toàn diện về nhận thức, cảm xúc, thể chất, xã hội và giáo dục mà trẻ trải qua từ khi mới sinh ra đến khi trưởng thành. Một số lý thuyết quan trọng thường sử dụng cách tiếp cận giai đoạn để mô tả từng khía cạnh trong sự phát triển của trẻ. Còn những lý thuyết nhỏ hơn lại tập trung vào một số khía cạnh khá hạn chế khác, ví dụ như nhận thức hay kỹ năng xã hội của trẻ. Có rất nhiều lý thuyết về sự phát triển của trẻ đã được đề xuất bởi các nhà nghiên cứu và lý thuyết. Nhiều lý thuyết gần đây còn phác thảo các giai đoạn phát triển của trẻ và xác định những độ tuổi điển hình của từng mốc tăng trưởng. Lý thuyết phát triển tâm tính dục của Freud Lý thuyết về tâm tính dục bắt nguồn từ nghiên cứu của bác sĩ Sigmund Freud. Nhờ thường xuyên phải tiếp xúc với các bệnh nhân tâm lý, bác sĩ Freud đã tin rằng những trải nghiệm thời thơ ấu và những ham muốn vô thức có tác động khá lớn đến hành vi của một người khi trưởng thành. Theo bác sĩ Freud, những xung đột nảy sinh trong mỗi giai đoạn phát triển có tác động tới tính cách và hành vi suốt cuộc đời sau này của một người. Bác sĩ Freud cũng đã đưa ra một trong những lý thuyết lớn nhất về sự phát triển của trẻ. Theo lý thuyết về tâm tính dục của bác sĩ Freud, sự phát triển của trẻ nhỏ diễn ra theo một loạt các khía cạnh tập trung vào những khu vực khoái cảm khác nhau trên cơ thể. Ở mỗi giai đoạn, những xung đột phát sinh sẽ đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển đó. Lý thuyết của ông cho rằng, năng lượng dục năng tập trung vào những vùng khoái cảm khác nhau tại mỗi giai đoạn. Sự kém phát triển của một giai đoạn không chỉ dẫn đến sự trì trệ trong suốt giai đoạn đó, mà còn có thể tác động lên hành vi của trẻ khi trưởng thành. Vậy chuyện gì sẽ xảy ra khi tất cả các giai đoạn phát triển của trẻ đều hoàn thiện hoặc gặp vấn đề? Nói tóm lại, chỉ khi từng giai đoạn nhỏ phát triển bình thường, thì sự phát triển chung của trẻ mới có thể bình thường và khiến trẻ lớn lên khỏe mạnh. Tuy nhiên, nếu những xung đột xảy ra trong một quá trình cụ thể không được khắc phục kịp thời, điều này có thể ảnh hưởng lớn tới hành vi của trẻ khi trưởng thành. Trong khi một số lý thuyết về sự phát triển cho rằng tính cách của trẻ sẽ tiếp tục thay đổi và phát triển suốt quãng đời còn lại, thì bác sĩ Freud lại tin rằng những trải nghiệm ban đầu mới đóng vai trò quan trọng hình thành sự phát triển của trẻ. Theo ông, tính cách của một đứa trẻ phần lớn đều định hình rõ rệt khi được 5 tuổi. Lý thuyết phát triển tâm lý xã hội của Erikson Lý thuyết tâm lý xã hội có ảnh hưởng rất lớn trong suốt nửa đầu thế kỷ 20. Theo đó, những người chịu ảnh hưởng và được truyền cảm hứng bởi Freud đã tiếp tục phát triển những ý tưởng của mình dựa trên lý thuyết của Freud. Trong số này, có lẽ Erik Erikson là người được biết đến nhiều nhất. Lý thuyết 8 giai đoạn phát triển tâm lý mô tả sự phát triển và thay đổi trong cuộc sống của một nguời, tập trung vào những tương tác và xung đột xã hội nảy sinh trong những giai đoạn phát triển khác nhau. Những tuyên bố của Erikson ngoài một số điểm tương đồng với lý thuyết của Freud, thì cũng có rất nhiều kết luận khác biệt. Thay vì tập trung vào sự ảnh hưởng của những hứng thú tình dục đến sự phát triển, Erikson tin rằng các tương tác xã hội và trải nghiệm cuộc sống mới đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của một người. Lý thuyết này của Erikson đào sâu nghiên cứu về quy trình biến đổi của một người từ khi còn trong bụng mẹ cho đến lúc chào đời, trưởng thành và chết đi. Theo đó, tại mỗi giai đoạn, dù là người lớn hay trẻ nhỏ cũng đều phải đối mặt với những xung đột có tác động đến các chức năng và sự phát triển trong tương lai. Cũng theo Erikson, biết quản lý và kiểm soát tốt những khủng hoảng trong từng giai đoạn sẽ giúp một người có tâm lý ổn định suốt cuộc đời. Lý thuyết phát triển hành vi ở trẻ Trong suốt nửa đầu thế kỷ 20, một trường phái tư tưởng mới, gọi là chủ nghĩa hành vi đã vươn lên trở thành thế lực thống trị trong lĩnh vực tâm lý học. Các nhà nghiên cứu hành vi tin rằng, tâm lý học chỉ cần tập trung vào các hành vi có thể quan sát và định lượng được để trở thành một nguyên tắc có tính khoa học. Theo quan điểm này, tất cả các hành vi của con người đều có thể được mô tả dưới góc độ môi trường. Một số nhà hành vi học như John B. Watson và B.F. Skinner còn nhấn mạnh, việc học tập của con người xảy ra hoàn toàn dựa vào các quá trình liên kết và củng cố. Lý thuyết hành vi về sự phát triển của trẻ tập trung vào cách môi trường tác động lên hành vi, dựa trên lý thuyết của John B. Watson, Ivan Pavlov và B. F. Skinner. Những lý thuyết này chỉ có tác dụng với các hành vi quan sát được, và sự phát triển được coi như một phản ứng đối với những phần thưởng, sự trừng phạt, các kích thích và củng cố. Lý thuyết này khác biệt đáng kể so với những lý thuyết khác về sự phát triển của trẻ, bởi nó không hề cân nhắc đến những suy nghĩ hoặc cảm xúc bên trong mà chỉ tập trung hoàn toàn vào sự phát triển của một người thông qua những tác động của kinh nghiệm. Hai kiểu nghiên cứu của cách tiếp cận này bao gồm điều kiện cổ điển và điều kiện hoạt động. Điều kiện cổ điển liên quan tới việc học tập bằng cách ghép một kích thích xuất hiện tự nhiên với kích thích trung tính trước đó. Trong khi điều kiện hoạt động lại sử dụng sự củng cố và trừng phạt để sửa đổi hành vi. Lý thuyết phát triển nhận thức của Piaget Lý thuyết nhận thức liên quan đến sự phát triển quá trình suy nghĩ của một người. Đồng thời xem xét các tác động của nó đến cách chúng ta hiểu và tương tác với thế giới. Jean Piaget đã đưa ra một trong những lý thuyết có ảnh hưởng bậc nhất đến sự phát triển của nhận thức. Nghe thì có vẻ lý thuyết này rất hiển nhiên, nhưng nó lại giúp cách mạng hoá cách chúng ta nghĩ về sự phát triển của trẻ nhỏ đó là: Trẻ em luôn suy nghĩ khác với người lớn. Piaget sau đó đã đề xuất lý thuyết phát triển nhận thức để giải thích các bước và trình tự phát triển trí tuệ của một đứa trẻ. Cụ thể: Giai đoạn cảm biến: Là khoảng thời gian từ khi trẻ mới sinh ra cho đến lúc 2 tuổi, lúc này, những kiến thức về thế giới xung quanh của trẻ sẽ bị giới hạn trong nhận thức cảm giác và hoạt động vận động của cơ thể. Các kích thích giác quan sẽ gây ra những hành vi bị giới hạn trong các phản ứng vận động đơn giản. Giai đoạn tiền vận hành: Diễn ra trong khoảng thời gian trẻ được 2 – 6 tuổi, đây là lúc trẻ bắt đầu học cách sử dụng ngôn ngữ, tuy nhiên lại chưa thể hiểu được những vấn đề logic, không thể vận dụng thông tin và chưa thể hiểu quan điểm của người khác. Giai đoạn vận hành: Là khi trẻ được 7 – 11 tuổi, giai đoạn này, trẻ đã có những hiểu biết rõ hơn về các hoạt động tâm thần. Trẻ bắt đầu suy nghĩ logic về các sự kiện, nhưng lại gặp khó khăn trong việc hiểu các khái niệm trừu tượng, các giả thuyết. Giai đoạn chính thức vận hành: Nằm trong khoảng từ 12 tuổi đến khi trẻ trưởng thành, lúc này trẻ bắt đầu phát triển khả năng suy nghĩ về các khái niệm trừu tượng. Ngoài ra, những kỹ năng như suy nghĩ logic, suy luận lập luận và lên kế hoạch có hệ thống cũng bắt đầu xuất hiện trong giai đoạn này. Bố mẹ có thể đọc kỹ thêm về các giai đoạn và lý thuyết này trong bài viết này của mình. Lý thuyết gắn kết của Bowlby Có rất nhiều nghiên cứu về sự phát triển xã hội của trẻ em được tiến hành. Trong đó, John Bowlby đã đưa ra một trong những lý thuyết sơ khai nhất về khía cạnh này. Bowlby tin rằng mối quan hệ với người chăm sóc đóng góp một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của trẻ, đồng thời còn tác động đến những mối quan hệ xã hội của trẻ sau này. Lý thuyết gắn kết của Bowlby cho rằng, trẻ em được sinh ra đã có nhu cầu kết nối. Sự gắn kết này có vai trò hỗ trợ trẻ tồn tại nhờ sự quan tâm và bảo vệ của người chăm sóc. Hơn nữa, nó còn có những hành vi và cảm xúc nổi bật rõ ràng. Nói cách khác, cả trẻ em và người chăm sóc trẻ đều tham gia vào các hành vi của sự gắn kết gần gũi. Trẻ em luôn cố gắng ở gần và kết nối với người chăm sóc, những người cho chúng cảm giác an toàn và bình yên. Nhiều nghiên cứu cũng đã được phát triển dựa trên nền tảng nghiên cứu của Bowlby để đưa ra một số kiểu kết nối khác nhau. Cụ thể, những đứa trẻ được hỗ trợ và quan tâm một cách nhất quán sẽ được gọi là kiểu kết nối an toàn, trong khi đó, những đứa trẻ nhận được ít sự quan tâm lại phát triển một cách rất mơ hồ và thiếu tổ chức. Lý thuyết học tập xã hội của Bandura Lý thuyết học tập xã hội dựa trên công trình nghiên cứu về tâm lý học của Albert Bandura. Theo đó, Bandura tin rằng quá trình điều hòa và sửa chữa không thể giải thích đầy đủ tất cả sự nghiệp học tập của con người. Ngoài ra, theo lý thuyết học tập xã hội, các hành vi có thể được học hỏi thông qua sự quan sát và mô hình hóa. Bằng cách quan sát hành động của mọi người, bao gồm cả bố mẹ và bạn bè, trẻ sẽ phát triển và thu nhận thông tin, kỹ năng mới. Lý thuyết phát triển trẻ em của Bandura cho rằng, sự quan sát đóng vai trò quan trọng trong quá trình học tập. Tuy nhiên, chúng ta không nhất thiết phải quan sát sự vật, sự việc, con người trong cuộc sống thật thì mới có thể học tập. Thay vào đó, chúng ta có thể lắng nghe những hướng dẫn bằng lời để thực hiện một hành vi, hoặc học tập thông qua quan sát các nhân vật có thật, nhân vật tưởng tượng trong sách truyện, phim ảnh Lý thuyết văn hóa xã hội của Vygotsky Một nhà tâm lý học khác có tên Lev Vygotsky đã đưa ra lý thuyết rất có sức ảnh hưởng, nhất là trong lĩnh vực giáo dục. Cũng giống như Piaget, Vygotsky tin rằng trẻ nhỏ học hỏi một cách chủ động và thông qua thực hành. Lý thuyết văn hóa xã hội của ông tin rằng bố mẹ, người chăm sóc, bạn bè và văn hóa nói chung chịu trách nhiệm cho sự phát triển các chức năng bậc cao của trẻ. Theo quan điểm của Vygotsky, học tập là một quá trình xã hội vốn có. Bằng cách tương tác với người khác, việc học tập sẽ trở nên gắn kết hơn với sự hiểu biết về thế giới của mỗi cá nhân. Lý thuyết phát triển này cũng đưa ra cả khái niệm về vùng phát triển gần, tức là khoảng cách giữa những gì một người có thể làm dựa vào sự giúp đỡ của người khác, với làm bằng chính sức của mình. Nhờ sự giúp đỡ của những người hiểu biết hơn, chúng ta có thể học hỏi từ từ để củng cố các kỹ năng cũng như phạm vi hiểu biết của bản. — Như bạn thấy, những nhà tư tưởng nổi tiếng nhất trong lĩnh vực tâm lý học đã phát triển các lý thuyết nhằm khám phá và giải thích những khía cạnh khác nhau về sự phát triển của trẻ nhỏ. Mặc dù không phải tất cả các lý thuyết này đều hoàn toàn được chấp nhận trong xã hội hiện đại, nhưng chúng đều có ảnh hưởng quan trọng đến sự hiểu biết của chúng ta về sự phát triển của trẻ. Ngày nay, các chuyên gia tâm lý học đương đại thường dựa trên những lý thuyết và quan điểm khác nhau để hiểu cách trẻ phát triển, hành xử và suy nghĩ. Trên thực tế, hiểu biết hoàn toàn cách trẻ thay đổi và phát triển suốt thời thơ ấu đòi hỏi sự xem xét rất nhiều yếu tố. Gen, môi trường và sự tương tác giữa hai lực lượng này sẽ đóng vai trò quyết định cách trẻ phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần. Bài dịch từ bản gốc Child Development Theories and Examples Share this: Tweet #childdevelopment #pháttriểncủatrẻem Parenting 11 views0 comments Recent Posts See All Những chiếc "container" chứa đầy thương tích 1350 2 Bình tĩnh, không nói lời tiên tri và 70/30: 3 quy tắc giao tiếp cho cha mẹ, thầy cô 1630 3 Đánh rắm: sao phải xấu hổ? 1190 ​ĐĂNG KÝ NHẬN BÀI VIẾT MỚI. Join Thanks for submitting! Cảm ơn bạn đã theo dõi và đọc các bài viết của Linh. Bạn có thể để lại tin nhắn tại đây hoặc email cho Linh tới linhphan87@outlook.com ​KHOÁ HỌC Viết & Kiếm tiền từ viết Tâm lý trẻ nhỏ Làm cha mẹ ​nhẹ nhàng COACHING Better Writing Freelance Biz Better Influence ​Book Writing LINKS Facebook Raised Happy ​Writer's Life
1610704847953.98.parquet/63549
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 12579, "url": "https://www.linhphan.co/post/nh%E1%BB%AFng-h%E1%BB%8Dc-thuy%E1%BA%BFt-v%C3%A0-v%C3%AD-d%E1%BB%A5-v%E1%BB%81-child-development" }
83.3
Phần cứng máy tính là gì? Phần mềm máy tính là gì? Giới thiệu Liên Hệ Trải Nghiệm Hay SỐNG KHÁM PHÁ PHIM SÁCH CÔNG NGHỆ TRÍCH DẪN SẢN PHẨM Home / Công nghệ / là gì / máy tính / phần cứng / phần mềm / siêu máy tính / Phần cứng máy tính là gì? Phần mềm máy tính là gì? Phần cứng máy tính là gì? Phần mềm máy tính là gì? Trải Nghiệm Hay 7:14 PM Công nghệ, là gì, máy tính, phần cứng, phần mềm, siêu máy tính Phần cứng và phần mềm máy tính là gì? Phần cứng là mọi thứ trong máy tính của bạn mà bạn có thể chạm vào. Phần mềm là một chương trình máy tính hoặc một bộ các chương trình có vai trò ra lệnh cho máy tính liên quan đến cách thức thực hiện một số tác vụ nhất định. Phần cứng máy tính là gì? Phần mềm máy tính là gì? Phần cứng máy tính là gì? Phần cứng bao gồm tất cả các yếu tố vật lý tạo nên một hệ thống máy tính nhất định. Do đó, phần cứng đề cập đến tất cả các bộ phận hữu hình của máy tính, đó là màn hình, bàn phím, vỏ, chuột, mà còn cả đĩa cứng cũng như bo mạch chủ, đồ họa và âm thanh, bộ xử lý, bộ nhớ, chip và các thành phần máy tính hữu hình khác. Khi nói về chất lượng của một hệ thống máy tính cụ thể, thì chúng ta đang nói về chất lượng phần cứng của nó, vì vậy chất lượng của một máy tính cụ thể hầu như hoàn toàn phụ thuộc vào phần cứng của nó. Bản nháp, hoặc mẫu mà tất cả các hệ thống máy tính, hoặc máy tính trong thế giới hiện đại, hoạt động, được thực hiện vào năm 1945. Von Neumann, một nhà toán học gốc Hungary, tự hào với sự phát triển của dự thảo này. Để tưởng nhớ ông, toàn bộ kiến ​​trúc phần cứng trong các hệ thống máy tính hiện đại được gọi là kiến ​​trúc Von Neumann. Kiến trúc Von Neumann ngụ ý một đơn vị xử lý được tạo thành từ các thanh ghi bộ xử lý và một đơn vị logic số học đặc biệt, đại diện cho cốt lõi của máy tính kỹ thuật số điện tử. Ngoài ra còn có một đơn vị điều khiển, bao gồm các hướng dẫn cho bộ đếm và đăng ký chương trình, cũng như các bộ nhớ để lưu trữ dữ liệu với các hướng dẫn, bộ nhớ ngoài và cơ chế đầu vào - đầu ra duy nhất. Trong thế giới hiện đại, cái gọi là PC, tức là máy tính cá nhân và máy tính xách tay là phổ biến nhất, với điều kiện phần cứng máy tính xách tay nhỏ hơn vì các thành phần bên trong nó nhỏ hơn trong máy tính cá nhân. Phần cứng máy tính cá nhân bao gồm: vỏ máy tính (chứa một số thành phần máy tính, chẳng hạn như thẻ, bo mạch chủ, đĩa cứng, bộ nhớ, v.v.), bộ phận nguồn, bo mạch chủ (cũng là thành phần chính của một trường hợp chứa một mạch tích hợp kết nối các bộ phận khác của máy tính, chẳng hạn như bộ xử lý, đĩa quang...). Ngoài ra còn có thẻ mở rộng đặc biệt, phương tiện cố định và di động, thiết bị lưu trữ, thiết bị đầu vào và đầu ra. Ngoài máy tính cá nhân và máy tính xách tay, bao gồm phần cứng lớn hơn hoặc nhỏ hơn, còn có cái gọi là siêu máy tính và máy tính lớn. Siêu máy tính là gì? Siêu máy tính là những máy tính đặc biệt được thiết kế để thực hiện các yêu cầu cực kỳ khó khăn từ góc độ máy tính, và một trong những máy tính chính thức và tốt nhất trên thế giới là siêu máy tính "Tianhe 2". Máy tính lớn được sử dụng thường xuyên nhất trong các tập đoàn lớn có nhu cầu về các hệ thống máy tính như vậy, nhưng cũng cho các mục đích khoa học. Chúng thường lớn đến mức thường chỉ có một phòng chỉ dành riêng cho chúng và giá của chúng đắt hơn hàng nghìn lần so với máy tính cá nhân và máy tính xách tay. Phần mềm máy tính là gì? Theo định nghĩa được chấp nhận chính thức, phần mềm là một chương trình máy tính hoặc một bộ các chương trình có vai trò là ra lệnh cho máy tính liên quan đến cách thức thực hiện một số tác vụ nhất định. Vì vậy, phần mềm chứa tất cả các chương trình và dữ liệu có trong một máy tính và các thành phần cơ bản của phần mềm thường bao gồm một hệ điều hành nhất định. Như chúng ta đã nói phần cứng được tạo thành từ tất cả các thành phần hữu hình, đối với phần mềm, chúng ta có thể nói rằng nó được tạo thành từ tất cả các thành phần không hữu hình. Trong thế giới hiện đại, thuật ngữ phần mềm thường đề cập đến một loại đặc biệt, được gọi là phần mềm ứng dụng. Tuy nhiên, nếu bạn đề cập đến thuật ngữ này cho một người liên quan đến lập trình thì anh ta gần như chắc chắn sẽ nghĩ về tất cả thông tin mà một máy tính cụ thể có thể hoạt động. Phần mềm hệ thống chỉ là một trong những loại phần mềm. Phần mềm hệ thống trên thực tế là tất cả những chương trình mà một máy tính cụ thể hoạt động. Loại phần mềm này rất cần thiết cho hoạt động của phần cứng và toàn bộ hệ thống máy tính trong một thiết bị cụ thể. Phần mềm hệ thống trước hết là một hệ điều hành (ví dụ: hệ điều hành Windows), nhiều trình điều khiển khác nhau, GUI (giao diện người dùng đồ họa) và nhiều chương trình phụ trợ. Trong hầu hết các trường hợp, với một máy tính đã mua, bạn đã có phần mềm hệ thống nhúng. Theo định nghĩa, phần mềm hệ thống phục vụ giao tiếp trực tiếp với phần cứng của một thiết bị cụ thể, để cho phép nó hoạt động trơn tru. Loại phần mềm khác là cái gọi là phần mềm ứng dụng. Mục đích cơ bản của nó là cho phép thực thi một số tác vụ nhất định, sử dụng các chương trình khác nhau có trong đó. Ngoài việc có nhiều chương trình khác nhau, phần mềm ứng dụng thường bao gồm một trình duyệt web cụ thể và có thể bao gồm cả trò chơi máy tính, cơ sở dữ liệu và phần mềm đặc biệt, như toán học, truyền thông, kinh doanh, y tế hoặc một số phần mềm khác chuyên về lĩnh vực cụ thể trong một lĩnh vực cụ thể. Ngoài ra, phần mềm ứng dụng có thể chứa phần mềm đặc biệt để xử lý tài liệu cũng như tài liệu video, hình ảnh và âm thanh. Các nhà phát triển chủ yếu sử dụng phần mềm lập trình, chủ yếu là khi tạo và sửa đổi chương trình khác. Phần mềm lập trình chủ yếu bao gồm một số công cụ mà các nhà phát triển tạo ra các chương trình khác. Một loại phần mềm khác là phần mềm máy chủ bao gồm nhiều ứng dụng Internet khác nhau, nhiều phần mở rộng, trình kết nối và một vi mã đặc biệt. Với một số ứng dụng Internet, các trang web được chuyển đến các công cụ tìm kiếm, thường sử dụng ngôn ngữ lập trình Java và trong một số trường hợp là JavaScript. Có rất nhiều plugin và phần mở rộng có trong phần mềm máy chủ để cải thiện hoặc sửa đổi chức năng của một phần cụ thể của phần mềm, trong khi microcode có chức năng đưa ra lệnh cho bộ xử lý theo cách thực thi mã máy đặc biệt. Để cập nhật microcode của loại phần mềm này, thường không cần phải thay đổi bộ xử lý, vì các nhà sản xuất thường cung cấp hướng dẫn để cập nhật đầy đủ. Với tất cả các loại phần mềm trên, cũng có một phần mềm đặc biệt có thể ở dạng ứng dụng hoặc chương trình, được gọi là công cụ phần mềm. Thuật ngữ phần mềm máy tính ngụ ý phần mềm được đặt thường xuyên nhất trên đĩa cứng hoặc trong bộ nhớ của một máy tính cụ thể. Để máy tính thực thi lệnh được đưa ra bởi phần mềm máy tính, cần phải chuyển tiếp nó tới các ứng dụng, và sau đó, chúng sử dụng phần mềm hệ thống, chuyển tiếp các hướng dẫn đến phần cứng khi lệnh ở dạng mã máy thu được. Sử dụng phần mềm máy tính, các hoạt động khác nhau được thực hiện, chẳng hạn như thay đổi luồng điều khiển lệnh hoặc truyền dữ liệu. Cái gọi là giấy phép phần mềm, hoặc giấy phép sử dụng một số phần mềm nhất định, có thể miễn phí, trong khi một số có thể bị tính phí. Thông thường, với các giấy phép được tính phí, có khả năng sử dụng miễn phí trong một khoảng thời gian nhất định, thường là từ 15 đến 30 ngày. Đây là những phiên bản dùng thử miễn phí. Một số phiên bản của phần mềm, được gọi là phần mềm thương mại, chỉ hợp pháp khi sử dụng với giấy phép được mua. Chia sẻ Share it Tweet Share it Pin it Edit Bài viết liên quan siêu máy tính Đăng nhận xét No comments » Sử dụng tài khoản Google của bạn để bình luận. » Không spam link, nếu spam sẽ bị chặn và nhận xét của bạn sẽ không được hiển thị. » Khi đăng nhập xong, bạn nhấn vào chữ Thông báo cho tôi để nhận phản hồi. Subscribe to: Post Comments ( Atom ) Powered by Blogger Giới thiệu trainghiemhay.com chia sẻ những kiến thức hữu ích, thú vị ở nhiều lĩnh vực của cuộc sống như phim ảnh, ẩm thực, du lịch, công nghệ, khám phá... Tất cả bài viết trên trainghiemhay.com đều thuộc bản quyền của trainghiemhay.com. Nếu bạn muốn đăng lại trên trang khác vui lòng liên hệ để nhận được sự đồng ý của trainghiemhay.com. Labels anime (75) Hài (15) Phim (422) Sách (42) Sống (175) Bài hay Copyright © by Trải Nghiệm Hay
1610704847953.98.parquet/29126
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 7498, "url": "https://www.trainghiemhay.com/2019/04/phan-cung-may-tinh-la-gi-phan-mem-may.html" }
79.2
Người tiêu dùng – Wikipedia tiếng Việt Mở trình đơn chính Trang chính Ngẫu nhiên Lân cận Đăng nhập Tùy chọn Quyên góp Giới thiệu Wikipedia Lời phủ nhận Tìm kiếm Người tiêu dùng Ngôn ngữ Theo dõi Sửa đổi Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. Người tiêu dùng hay người tiêu thụ là một từ nghĩa rộng dùng để chỉ các cá nhân hoặc hộ gia đình dùng sản phẩm hoặc dịch vụ sản xuất trong nền kinh tế. Khái niệm người tiêu dùng được dùng trong nhiều văn cảnh khác nhau vì thế cách dùng và tầm quan trọng của khái niệm này có thể rất đa dạng. Người tiêu dùng là người có nhu cầu, có khả năng mua sắm các sản phẩm dịch vụ trên thị trường phục vụ cho cuộc sống, người tiêu dùng có thể là cá nhân hoặc hộ gia đình. Quyền lợiSửa đổi Các ví dụ và quan điểm trong bài viết này có thể không thể hiện tầm nhìn toàn cầu về chủ đề. Bạn cũng có thể cải thiện bài này, thảo luận về vấn đề trên trang thảo luận, hoặc là tạo bài viết mới nếu thích hợp. Trong những năm trước "đổi mới", nhận thức của toàn xã hội về quyền lợi của người tiêu dùng nói chung và hệ thống pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng nói riêng gần như không tồn tại. Cơ chế quản lý kinh tế bao cấp dựa trên kế hoạch hóa tập trung vào vấn đề sản xuất hàng hóa và cung cấp dịch vụ, nhu cầu của người tiêu dùng được nhà nước quản lý thông qua hệ thống tem phiếu. Kể từ thời kỳ đổi mới, khi Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, đã xuất hiện quan hệ mua bán, giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất, kinh doanh hàng hoá và dịch vụ với một bên là người bỏ tiền ra mua hàng hoá và dịch vụ để phục vụ cho sinh hoạt, tiêu dùng của cá nhân, gia đình và tổ chức (được gọi chung là người tiêu dùng) và vai trò của người tiêu dùng ngày càng được nâng cao. Trong bối cảnh đó, việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng đã được đặt ra và quyền lới người tiêu dùng được xác định bằng các văn bản pháp lý như Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng với sự tham gia của các tổ chức như Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) – cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong phạm vi cả nước, Tổng cục Tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, Chi cục tại các tỉnh, thành phố, Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng (VINASTAS) cùng mạng lưới các Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường và các Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở các địa phương. Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999[1] là bước đi đầu tiên trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã bộc lộ những hạn chế và bất cập như tính khả thi của Pháp lệnh và Nghị định hướng dẫn chưa cao, nhiều quy định khá chung chung khó thực thi; một số điểm chưa mang tính cập nhật hoặc chưa bao quát được những vấn đề liên quan đến tự do hoá thương mại và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, đặc biệt là sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO; chưa có các chế tài đủ mạnh cho cơ quan bảo vệ người tiêu dùng (Luật pháp các nước như Mỹ, Ma-lai-xi-a, Ấn Độ… đều trao thẩm quyền xử phạt cho cơ quan bảo vệ người tiêu dùng) và chưa có quy định về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nhằm đảm bảo hiệu quả của công tác này. Chính vì vậy, Bộ Thương mại với tư cách là cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực này đề xuất bổ sung, sửa đổi Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và nâng lên thành Luật cho phù hợp với yêu cầu của tình hình mới. Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng[2] được Quốc hội thông qua năm 2010 quy định rõ các Quyền người tiêu dùng Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được Quốc hội thông qua năm 2010, quy định người tiêu dùng có quyền và nghĩa vụ sau: Quyền của người tiêu dùng 1. Được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khoẻ, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hoá, dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ cung cấp. 2. Được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ; nội dung giao dịch hàng hoá, dịch vụ; nguồn gốc, xuất xứ hàng hoá; được cung cấp hoá đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch và thông tin cần thiết khác về hàng hoá, dịch vụ mà người tiêu dùng đã mua, sử dụng. 3. Lựa chọn hàng hoá, dịch vụ, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ theo nhu cầu, điều kiện thực tế của mình; quyết định tham gia hoặc không tham gia giao dịch và các nội dung thoả thuận khi tham gia giao dịch với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ. 4. Góp ý kiến với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ về giá cả, chất lượng hàng hoá, dịch vụ, phong cách phục vụ, phương thức giao dịch và nội dung khác liên quan đến giao dịch giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ. 5. Tham gia xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. 6. Yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hoá, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá cả hoặc nội dung khác mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ đã công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết. 7. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. 8. Được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ. Nghĩa vụ của người tiêu dùng 1. Kiểm tra hàng hoá trước khi nhận; lựa chọn tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng, không làm tổn hại đến môi trường, trái với thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội, không gây nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ của mình và của người khác; thực hiện chính xác, đầy đủ hướng dẫn sử dụng hàng hoá, dịch vụ. 2. Thông tin cho cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan khi phát hiện hàng hoá, dịch vụ lưu hành trên thị trường không bảo đảm an toàn, gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản của người tiêu dùng; hành vi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng. Tham khảoSửa đổi ^ Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ^ Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 [1] Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Người_tiêu_dùng&oldid=64309247” Sửa đổi lần cuối lúc 07:23 vào ngày 23 tháng 1 năm 2021 Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 3.0, ngoại trừ khi có ghi chú khác. Trang này được sửa đổi lần cuối vào ngày 23 tháng 1 năm 2021 lúc 07:23. Văn bản được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự; có thể áp dụng điều khoản bổ sung. Với việc sử dụng trang web này, bạn chấp nhận Điều khoản Sử dụng và Quy định quyền riêng tư. Wikipedia® là thương hiệu đã đăng ký của Wikimedia Foundation, Inc., một tổ chức phi lợi nhuận. Quy định quyền riêng tư Giới thiệu Wikipedia Lời phủ nhận Điều khoản sử dụng Máy tính để bàn Nhà phát triển Thống kê Tuyên bố về cookie
1610704847953.98.parquet/174167
{ "file_path": "/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-04/raw/1610704847953.98.parquet", "token_count": 6427, "url": "https://vi.m.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di_ti%C3%AAu_d%C3%B9ng" }
75.1