question
stringlengths
14
133
answer
stringlengths
59
238k
Cảm nghĩ về bài thơ Bạn đến chơi nhà - mẫu 12
Nguyễn Khuyến đã để lại nhiều bài thơ Nôm rất xuất sắc cho kho tàng văn học Việt. Thơ của ông nói nhiều về tình người, tình bạn, tình yêu thiên nhiên quê hương đất nước con người. Bài thơ: Bạn đến chơi nhà nói về một tình bạn thiêng liêng sâu sắc Bài thơ là cảm xúc của tác giả khi được bạn đến chơi nhà. Đó là tâm trạng hồ hởi vui sướng của tác giả khi có người bạn tri kỉ đến thăm. Đã bấy lâu nay bác đến nhà Chắc hẳn người bạn tri kỉ của nhà thơ đã lâu rồi chưa đến chơi, và nhà thơ thì mong mỏi lắm. Tác giả đã chọn cách xưng hô gọi bạn là “bác” thể hiện sự thân tình, gần gũi và thái độ tôn trọng tình cảm bạn bè giữ hai người. Chỉ với một câu thơ mở đầu, người đọc đã cảm nhận được quan hệ bạn bè của hai người rất bền chặt, thân thiết, thuỷ chung. Khi người bạn than tình như vậy đến chơi, chắc chắn chủ nhân sẽ phải thiết đãi chu đáo để thể hiện tấm chân tình của mình. Nhưng ở đây nhà thơ lại không thể láy gì mà đãi bạn. Có ruộng, có vườn, có ao cá, có gà mà cũng như không Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa Ao sâu nước cả, khôn chài cá Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà Cải chửa ra cây, cà mới nụ Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa Tác giả đã khắc họa lên hình ảnh làng quê thân thuộc hiện lên sống động, vui tươi. Cuộc sống của nhà thơ thật giản dị, đáng sống biết bao. Qua đó ta thấy hiện lên một cuộc đời thanh bạch, ấm áp cây đời và tình người rất đáng tự hào. Thứ mà tác giả thiết đãi bạn là cảnh vật yên bình là lòng người ấm áp chân tình. Món quà đó còn quý giá hơn nhiều những sơn hào hải vị quý hiếm trên đời. Không chấp nhận chốn quan trường thị phi, nhà thơ tài năng đã cáo quan về ở ẩn và sống cuộc đời nghèo khó. Sống trong nghèo khó nhưng tác giả vẫn lạc quan yêu đời, ung dung tự tại. Có lẽ vì nghèo mà tác giả đã thậm xưng hoá cái nghèo, thi vị hoá cái nghèo. Đây là một lời thơ hóm hỉnh, pha chút tự trào vui vui, để bày tỏ một cuộc sống thanh bạch, một tâm hồn thanh cao của một nhà nho trước thế thời của đất nước. Kết thúc câu chuyện, tác giả lại một lần nữa, nhắc lại tấm chân tình của tác giả đối với người bạn của mình: “Bác đến chơi đây, ta với ta”. Chữ bác lại lần nữa xuất hiện ở cuối bài thơ cho thấy tình bạn thật cao cả thiêng liêng. Vật chất không có những tình người thì chan chứa và ấm áp. Cụm từ “ta với ta” biểu lộ một niềm vui trọn vẹn, tràn đầy và lắng đọng trong tâm hồn, toả rộng trong không gian và thời gian. Bài thơ có niêm luật, đối chặt chẽ, hợp cách. Ngôn ngữ thuần Nôm, không có một từ Hán – Việt nào, đọc lên nghe thanh thoát, nhẹ nhàng, tự nhiên. Bài thơ thể hiện tình cảm của nhà thơ với người bàn của mình. Đó là tình bạn chân thành, đáng quý. Với cách sống giản dị, mộc mạc, tình bạn ấy càng đáng quý biết bao. Ngôn ngữ mộc mạc, dung dị của lời thơ đã thể hiện được tài năng xuất sắc của tác giả và cũng là điều khiến bài thơ sống mãi với thời gian. Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến – Bài làm 2 Nhà thơ Nguyễn Khuyến là một nhà thơ rất giỏi của nền Văn học Việt Nam. Thuở nhỏ, dù nhà nghèo nhưng sẵn với đầu trí thông minh và tính siêng năng, cần cù nên ông học rất giỏi. Chưa dừng chân tại đó, ông còn thi đỗ cả ba cuộc thi: ” Hương, Hội, Đình” và được mọi người gọi là ” Tam Nguyên Yên Đỗ”. Khi thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Bộ cũng là lúc ông xin cáo quan về ở ẩn, trong thời gian đó ông đã làm nên nhiều tác phẩm đặc sắc cho nền Văn học Việt Nam. Bái thơ ” Bạn đến chơi nhà” là minh chứng cho điều đó. Bài thơ ” Bạn đến chơi nhà” nói về tình huống khó xử của Nguyễn Khuyến khi đột nhiên có một người cố hữu đến thăm.Trong bài thơ này, chính tác giả cũng đã nêu rõ là ” bạn” chứ không phải là ” khách”. Ý muốn nói lên sự thân thiết, tình bằng hữu lâu năm với nhau. Mở đầu bài thơ là câu: ” Đã bấy lâu nay, bác đến nhà” Mở đầu bài thơ được tác giả thể hiện với giọng thơ hóm hỉnh, nhẹ nhàng và tự nhiên.Bộc lộ trong câu thơ là niềm vui bất ngờ, tỏ ý trân trọng, quý mến bạn.Câu thơ đó như một lời chào thân thiết, hể hiện niềm vui bất tận, xúc động vì đã bấy lâu rồi mới có thể gặp lại bạn hiền thuở xa xưa.Tác giả đã sử dụng đại từ nhân xưng là ” bác và tôi” để nói lên sự gần gữi và thân thiết với nhau, gợi lên sự nể trọng cũng như thân tình để cho người đọc là chúng ta có thể cảm nhận được sự gắn bó giữa Nguyễn Khuyến va người bạn của ông ấy.Nhưng sau lời chào hỏi thân thương ấy, giọng thơ bỗng trở nên lúng túng hơn khi biết đến lúc cần phải chiêu đãi bạn: “Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa Ao sâu nước cả, khôn chài cá Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà Cải chửa ra cây, cà mới nụ Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa” Cách nói hớm hỉnh cho ta thấy trong tình huống này, Nguyễn Khuyến đã dùng biện pháp phóng đại để cường điệu hóa hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của mình.Ta có thể hiểu rằng, sau lời chào hỏi bạn, tác giả đã nhắc đến từ ” chợ” trong câu tiếp theo ý là để nói đến những món ngon có thể đem ra tiếp đãi bạn nhưng đành bất lực vì nhà xa chợ lại không có trẻ nhỏ sai vặt.” Ao sâu mà nước lại lớn, nên không chài được cá; vườn rộng thênh thang, rào lại thưa nên khó có thể bắt gà; đến một quả bầu, quả bí hoặc một cây cải, mớ cà cũng chẳng có” vậy suy cho cùng trong nhà tác giả tất cả đều co nhưng lại không thể sử dụng được bởi vì người bạn này đến chơi không đúng lúc, không đúng với thời vụ để thu hoạch.Có thể nhận biết rằng các thứ ấy gợi lên không khí điền viên, quê kiểng, hiểu được cuộc sống của tác giả khi ở làng quê: đạm bạc, giản dị, luôn gắn bó với nông thôn. ” Đầu trò tiếp khách, trầu không có” Người ta thường nói ” Miếng trầu là đầu câu chuyện” nhưng trong lúc này đây, tại ngôi nhà nông thôn, chất phác này ngay cả miếng trầu cũng chẳng có thì thật là phi lý. Dù vậy nhưng người bạn của Nguyễn Khuyến chẳng hề tức giận vì không được tiếp đãi chu đáo hay vì không được chiêu đãi bằng những món ngon như lúc còn trong cung.Vì ông có thể hiểu rằng Nguyễn Khuyến đã tiếp đãi ông bằng cả tấm chân tình. Giữa họ là một tình bạn đậm đà thấm thiết, nó còn qý hơn so với những món ” sơn hào. hải vị” ” Bác đến chơi đây, ta với ta” Câu kết là sự ” bùng nổ” ý và tình. Tiếp bạn chẳng cần có mâm cao, cỗ đầy, “sơn hào hải vị” mà chỉ cần có một tấm lòng.Câu thơ ” ta với ta” trong bài ” Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan là sự bắt gặp đối diện với chính mình, chính tâm trạng cô đơn u hoài của nữ sĩ. Còn ” ta với ta” trong bài thơ này là sự bắt gặp của hai tâm hồn đồng điệu, hai con người gắn bó và thân thiết. Bài thơ ” Bạn đến chơi nhà”được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ thanh thoát, nhẹ nhàng và tự nhiên. Bài thơ này là một bài thơ hay nói về tình bạn, một tình cảm đậm đà thấm thiết như keo sơn. Một tâm hồn thanh bạch cao quý của hai con người hòa làm một, một cách sống thanh cao “trọng tình, trọng nghĩa”.
Cảm nghĩ về bài thơ Bạn đến chơi nhà - mẫu 13
Trong kho tàng Văn học Việt Nam, có rất nhiều tác phẩm viết về đề tài tình bạn làm xúc động lòng người. Bài thơ “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến là một trong số những tác phẩm như vậy. Đọc bài thơ, ta không chỉ cảm nhận được một tình bạn chân thành, sâu sắc mà còn thấy hiện lên một Nguyễn Khuyến hóm hĩnh, lạc quan. “Đã bấy lâu nay, bác tới nhà Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa Ao sâu nước cả, khôn chài cớ, Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà  Cải chửa ra cây, cà mới nụ, Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa. Đầu trò tiếp khách, trầu không có, Bác đến chơi đây, ta với ta”. Bài thơ lập ý bằng cách dựng lên tình huống không có gì để tiếp bạn, nhưng vẫn thể hiện được tình bạn đậm đà thắm thiết. Câu thơ đầu tiên gợi ra một hoàn cảnh rất đáng vui mừng: Đã bấy lâu nay, bác tới nhà. Nguyễn Khuyến đã lui về quy ẩn, trong cái thời đại nhiễu nhương “Còn tiền còn bạc còn đệ tử / Hết cơm hết rượu hết ông tôi” thì việc có một người bạn quý đã lâu ngày “đã bấy lâu nay” đến nhà chơi thì thật đáng quý xiết bao. Và trong hoàn cảnh ấy, đáng ra, Nguyễn Khuyến phải tiếp đãi bạn thật chu đáo và thịnh soạn. Nhưng oái oăm thay, trong sáu câu kế tiếp, nhà thơ lại vẽ ra một hoàn cảnh rất đặc biệt để tạo ra sự đùa vui: Có sẵn mọi thứ nhưng hoá ra lại không có thứ gì. Vật chất đều đầy đủ cả nhưng lại cứ giảm đi, đến chỗ không còn một chút gì hết: chợ thì có đấy nhưng người sai vặt thì không có, gà vịt cũng nhiều nhưng hiềm nỗi vườn rộng rào thưa không bắt được, rau dưa đủ quả nhưng tiếc nỗi chưa đến mùa!… “Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa Ao sâu nước cả, khôn chài cá Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà Cải chửa ra cây, cà mới nụ  Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa”. Nguyễn Khuyến đã viết về gia cảnh khó khăn của mình với một giọng thơ đùa vui, hóm hỉnh. Người đọc vừa mỉm cười lại vừa băn khoăn, thương cảm: Khi lui về quy ẩn, Tam Nguyên Yên Đổ thực sống kham khổ như vậy sao? Và cái “bí” của nhà chủ lên đến đỉnh điểm khi “miếng trầu là đầu câu chuyện” lúc tiếp khách cũng không có nốt: “Đầu trò tiếp khách trầu không có”. Không, như vậy thì sự thực nhà thơ sống trong nhưng năm tháng quy ẩn không đến độ khó khăn, bức bách như thế. Có lẽ đây chỉ là những cái đùa vui, cái cớ để nói đến một điều gì bất ngờ khác. Bao nhiêu vật chất không có, ngay cả đến vật chất tối thiểu cũng không vì vậy tiếp bạn chỉ còn có mỗi cái tình. Tạo ra tình huống như vậy, vừa đùa vui, vừa nói lên sự mong ước tiếp đãi chu đáo cả vật chất lẫn tinh thần, lại vừa nhấn mạnh được cái tình. Chỉ một sự chân tình có thế đủ bù đắp những thiếu hụt vật chất: “Bác đến chơi đây, ta với ta!” Câu thứ cuối cùng và cụm từ “ta với ta” nhấn mạnh tình cảm tri âm không cần phải vật chất đầy đủ mà chỉ cần cái tình chân thực thôi. Những người tri âm, tri kỉ có khi chỉ cần gặp nhau ngâm mấy câu thơ, đàn vài bản nhạc là đã đủ vui rồi. Tình cảm không cứ nhất thiết phải có đầy đủ vật chất mới vui là như vậy. Trong bài thơ “Qua Đèo Ngang”, Bà Huyện Thanh Quan cùng nhắc đến một cụm từ “ta với ta” nhưng “ta với ta” của bà là chỉ một mình tác giả với mảnh tình riêng đầy cô đơn, trống vắng. Trong bài thơ của Nguyễn Khuyến thì ngược lại, thi nhân dùng cụm từ này để chỉ bản thân và người bạn tri âm, tri kỉ. Cái “ta với ta” của Nguyễn Khuyến ấm áp và vui vầy biết bao. Qua cách ứng xử của nhà thơ, có thể nhận thấy, với bạn, Nguyễn Khuyến rất quan tâm đến bạn, muốn tiếp bạn thật là chu đáo. Đồng thời, chúng ta cũng thấy, trong tình bạn, Nguyễn Khuyến rất coi trọng cái tình, coi trọng sự cung kính trong tình bạn. Ngôn ngữ được sử dụng trong bài thơ Bạn đến chơi nhà mang tính chất dân dã đời thường, với hầu hết là các từ thuần Việt. Cái độc đáo nhất của bài thơ là tạo nên nghịch cảnh có rất nhiều mà lại chẳng có gì nhưng thực ra là có tất cả! Bài thơ “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến gieo vào lòng người đọc một thoáng mỉm cười trước sự đùa vui hóm hỉnh của thi nhân. Nhưng lắng đọng lại sau cùng là niềm xúc động vô bờ về một tình bạn thân thành, sâu sắc vượt lên cả những vật chất và những cung cách ứng xử thông thường..
Cảm nghĩ về bài thơ Bạn đến chơi nhà - mẫu 14
Trong cuộc sống ta bắt gặp rất nhiều tình bạn gắn bó keo sơn son sắt thủy chung như tình bạn giữa Lý Bạch với Mạnh Hạo Nhiên, tình bạn giữa Các mác và Ăng ghen những tình bạn vượt lên trên tất cả vật chất để đến với nhau, tình bạn của họ hết sức trong sáng. Trong sáng tác văn chương thì chủ đề tình bạn cũng là một chủ đề được rất nhiều nhà văn đề cập tới. Trong số đó không thể không kể tới bài bác đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến. Bài thơ là cảm xúc hồ hởi khi bạn đến chơi nhà sự gặp mặt giữa những người bạn tri âm tri kỉ. Đã bấy lâu nay bác đến nhà Câu thơ cho thấy sự vui sướng của chủ nhà khi được người bạn tới thăm. Có lẽ đã rất lâu rồi họ không gặp mặt nhau không có dịp hàn huyên tâm sự. Khung cảnh tay bắt mặt mừng hồ hởi thật là xúc động. Sự mong mỏi bấy lâu của chủ nhà nay đã thành sự thật bạn bè tri kỉ đã tới thăm nhau thật là quý. Cách xưng hô bác thể hiện sự thân mật như anh em trong một nhà tình bạn gắn bó son sắt thủy chung. Lâu ngày không gặp nhau hẳn chủ nhà sẽ thiết đãi bạn mình một cách trọng thị và chu đáo, nhưng hoàn cảnh thật làm cho người ta khó xử. Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa Ao sâu nước cả, khôn chài cá Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà Cải chửa ra cây, cà mới nụ Bầu vừa rụng rốn, mướp đơm hoa Tác giả khắc họa lên hình ảnh về cuộc sống làng quê chân chất và thân thuộc ta đọc mà cảm thấy thân thương gần gũi quá như chính quê mẹ quê bà. Chốn quê tuy nghèo nhưng cảnh vật thì thật sự sống động, có ao cá in bóng những hàng tre xanh mát, có những đàn gà thẩn thơ theo mẹ mỗi lúc chiều về, có giàn bầu giàn mướp sai trĩu quả như những đàn lợn con. Bạn lâu ngày tới chơi lẽ ra phải làm mâm cơm hàn huyên nhưng nếu vướng phải tình cảnh như tác giả thì quả thật có ao có ruộng có vườn mà cũng như không. Rời chốn quan trường đấu đá thiệt hơn cự tuyệt mọi sự cám dỗ mọi lầu son gác tía gấm lụa ấm êm Nguyễn Khuyến đã trở về quê sống một cuộc đời thanh bạch gắn bó với làng quê gắn bó với cuộc sống tằn tiện đạm bạc nhưng giàu có sảng khoái về tinh thần. Tác giả đã biến cái nghèo cái khó trở thành điều hết sức bình thường, tác giả đã thi vị hóa khi nói về cái nghèo. Cách nói ngôn ngữ thơ có chút gì đó hóm hỉnh chất phác và lạc quan của những con người sống nơi làng quê. Tính chất tự trào ngôn ngữ tự trào thể hiện khá rõ nét trong bài thơ này Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng sự phát triển ý thơ khá bất ngờ không theo cấu trúc (đề, thực, luận, kết) như ở thơ Đường truyền thống. Đó là một sự đặc biệt như chính cái cách hai người bạn trong khách đến chơi hà gặp gỡ và trong chuyện với nhau. Các từ (sâu, cả, rộng, thưa) các trạng từ chỉ tình trạng (khôn, khó) các trạng từ chỉ sự tiếp diễn của hành động (chửa, mới, vừa, đương) hô ứng bổ trợ cho nhau một cách rất khéo léo, dung dị gần gũi và tự nhiên. Một cuộc sống giản dị nhưng cũng hết sức đáng yêu hiện ra: Đầu trò tiếp khách, trầu không có Dân gian ta có câu: Miếng trầu là đầu câu chuyện. Miếng trầu là sự lịch thiệp xã giao là thứ tối thiểu cần phải có khi bắt đầu một câu chuyện. Vậy mà nhà cụ tam nguyên yên đổ một vị quan lớn trong triều đình mà miếng trầu cũng không có, quả thật là một sự tự trào lớn lao của tác giả. Những thứ vật chất bình thường nhất đem ra tiếp bạn cũng không có. Bạn đến chơi nhà chỉ có tấm lòng có sự chân thành cảm thông cho nhau. Vật chất dù là nhỏ nhất cũng bị gạ sang một bên nhường chỗ cho những tấm lòng tri âm tri kỉ với nhau. Thật đáng ngưỡng mộ những tình bạn như vậy. Ai đã đọc bài thơ Nguyễn Khuyến khóc Dương Khuê thì sẽ không khỏi kìm lòng xúc động trước tình bạn gắn bó keo sơn của họ Bác Dương thôi đã thôi rồi Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước Tôi với bác hôm sớm có nhau Kết thúc bài thơ thật là giản dị: Bác đến chơi đây ta với ta. Vượt lên mọi rào cản vật chất chỉ là những thứ phù du bọt bể tình cảm họ dành cho nhau thật đáng quý như viên ngọc luôn sáng long lanh. Ý chất chứa bao nhiêu cảm xúc dạt dào trìu mến lời thơ giản dị đã vẽ lên chân dung một tình bạn đẹp mẫu mực của mọi thời đại. Đã có lời giải bài tập lớp 7 sách mới: Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85 4.5 (243) 799,000đs 199,000 VNĐ 4.5 (243) 799,000đ 99,000 VNĐ 4.5 (243) 999,000đ 299.000 - 599.000 VNĐ Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube: Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 7 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 7 và Những bài văn hay đạt điểm cao lớp 7. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 7 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 7 và Những bài văn hay đạt điểm cao lớp 7. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Trang web chia sẻ nội dung miễn phí dành cho người Việt. Lớp 1-2-3 Lớp 4 Lớp 5 Lớp 6 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 9 Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Lập trình Tiếng Anh Chính sách bảo mật Hình thức thanh toán Chính sách đổi trả khóa học Chính sách hủy khóa học Tuyển dụng Tầng 2, số nhà 541 Vũ Tông Phan, Phường Khương Đình, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, Việt Nam Phone: 084 283 45 85 Email: vietjackteam@gmail.com CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội. 2015 © All Rights Reserved.
Dàn ý Những kỉ niệm sâu sắc về thầy cô và mái trường mến yêu
I. Mở bài Giới thiệu về kỉ niệm với thầy/cô giáo cũ: II. Thân bài a, Giới thiệu về kỉ niệm: b, Thuật lại kỉ niệm: III. Kết bài Nhắc lại ý nghĩa của kỉ niệm: đây là kỉ niệm đẹp, đáng nhớ trong những năm tháng đi học của bản thân, sẽ luôn hứa học tập chăm chỉ, ghi nhớ và biết ơn công lao, tình cảm của thầy cô.
Những kỉ niệm sâu sắc về thầy cô và mái trường mến yêu - mẫu 1
Ai trong chúng ta đều có những kỉ niệm vui, buồn bên thầy cô, bạn bè. Tôi cũng vậy, tôi có những kỉ niệm đáng nhớ với cô giáo chủ nhiệm năm lớp 6 của tôi. Hôm ấy, vào tiết toán, tiết học của cô chủ nhiệm tôi. Tôi vốn không thích môn toán lại thêm việc cô giáo lúc nào cũng thiên vị, hay mắng tôi, hay trách phạt tôi nên tôi lại càng không thích Toán. Cứ đến giờ toán tôi lại không tập trung, hay nói chuyện riêng và trêu các bạn khác. Giờ toán hôm ấy cũng vậy, tôi quay ngang quay ngửa không nghe giảng, không làm bài tập. Lúc đầu cô dừng bài giảng lại nhìn tôi thật lâu nhưng tôi vẫn không thôi. Tôi quay ra làm việc riêng. Như biết được hành động đó của tôi, cô gọi tôi dậy đi giặt cho cô giẻ lau bảng: - Ơ, Em thưa cô, hôm nay không phải bàn em trực nhật ạ. - Cô nhắc em tội làm việc riêng, em ra giặt giẻ lau lau bảng để tập trung lại. - Nhưng em không phục ạ, hôm nay là bàn bạn Hương trực nhật ạ. Sao cô không gọi bạn Hương? (Hương là bạn hay được cô khen và yêu quý) - Sao em hư vậy nhỉ? Còn cãi lại cô nữa. Cô sẽ phản ánh lại việc này trong cuộc họp phụ huynh sắp tới. Em... Cô vừa nói đến đó tôi đã thổn thức, nước mắt tôi tuôn chảy, tôi nói trong ấm ức: - Thưa cô... thưa... sao cô luôn ghét em, sao cô luôn thiên vị? Em đâu làm gì sai mà cô ghét em? Chưa kịp nói hết câu tôi đã òa ra khóc. Tôi nhất định không phục, tôi không thích cô. Cô cũng dừng lại bài giảng, lặng lẽ ra khỏi lớp. Suốt buổi học hôm ấy tôi không còn tâm trạng, phần vì tôi ấm ức chuyện cô thiên vị, phần vì lo sợ cô sẽ mời phụ huynh lên lớp. Hôm sau, cuối buổi học cô gọi riêng tôi ra, cô phân tích đúng sai, phải trái. Tôi vốn là đứa khôn ranh nên lúc đó tôi vang dạ nhận lỗi và xin cô bỏ qua nhưng thực chất sau lưng tôi vẫn nói xấu cô, không phục cô. Một hôm, sự việc gần như hôm tôi học trong giờ Toán lại diễn ra trong giờ môn Văn. Tôi rất thích văn nên chả bao giờ tôi nghĩ tôi sẽ bị phạt trong giờ văn vì tội mất tập trung. Nhưng không hiểu sao hôm ấu đầu óc tôi “treo ngược cành cây”. Để cho tôi tập trung trở lại cô giáo dạy văn cũng giao cho tôi nhiệm vụ đi giặt giẻ lau. Tôi vui vẻ đi giặt. Lúc lau bảng tôi nhận ra có cái gì đó quen quen, tôi nhớ lại sự việc hôm học Toán trong giờ cô chủ nhiệm. Tôi như nhận ra điều gì đó, tôi nhớ lại hết những lời lẽ cô khuyên nhủ tôi. Tôi nhớ lại cả lúc cô đấu tranh vì tôi bị ghi trong sổ đầu bài một cách oan ức... À, tôi chợt hiểu... Hóa ra tôi đã nhầm. Cô chủ nhiệm không hề ghét tôi, cô cũng không hề thiên vị. Người luôn quan tâm tôi, uốn nắn cho tôi là cô. Người luôn buồn lòng vì một học sinh cá tính như tôi cũng là cô. Cô quan tâm tôi, nhắc nhở những sai lầm của tôi mà tôi còn trách cô, tôi cứ nghĩ khi cô chỉ ra những sai lầm cho tôi là do cô ghét tôi. Tôi vô tâm, ích kỉ quá. Tôi nghĩ mình cần có hành động cụ thể để xin lỗi cô. Nghĩ vậy tôi liền đợi đến hết buổi học, tôi vào nhà cô, chân thành xin lỗi cô. Cô nở nụ cười thật tươi, vẻ mặt cô nhân từ, bao dung, cô tha thứ hết những sai lầm cỏn con ấy của tôi. Tôi cũng hứa với cô sẽ cố gắng chăm ngoan, học giỏi và yêu thích môn Toán trở lại để trở thành học sinh gương mẫu khiến thầy quý, bạn yêu. Kỉ niệm của tôi với cô giáo chủ nhiệm là thế đấy. Bây giờ, dù không còn được học cô nữa nhưng tôi vẫn luôn nhớ về cô, một cô giáo hiền từ, bao dung nhất mà tôi từng gặp. Tôi muốn nói với cô rằng: Tôi biết ơn cô và yêu cô rất nhiều!
Những kỉ niệm sâu sắc về thầy cô và mái trường mến yêu - mẫu 2
Trong suốt những năm tháng học dưới mái trường mến yêu, người mà em kính mến nhất đó là cô Thanh. Đó là người đã mang lại cho em những tình cảm cao quý của một người cô giáo đối với học sinh. Em còn nhớ rõ, năm em học lớp hai, ngày đầu tiên cô Thanh bước vào lớp với dáng vẻ rất hiền hậu. Cô còn trẻ lắm, dáng cô thanh mảnh, nhỏ nhắn và rất dễ thương. Cô rất thương yêu học sinh. Ngày nắng cũng như ngày mưa, cô chưa bao giờ đi dạy trễ hoặc nghỉ dạy ngày nào. Cô luôn dịu dàng với học sinh nhưng rất nghiêm túc trong giảng dạy. Những giờ ra chơi, nếu có bạn nào không hiểu bài, cô ân cần ở lại lớp giảng cho từng bạn. Những bạn nam hay đùa nghịch, phá phách cô nhẹ nhàng nhắc nhở. Cô thường lấy những mẩu chuyện vui, có ích để giáo dục chúng em. Bạn nào có lỗi cô chỉ khuyên răn chứ không hề la mắng. Còn bạn nào học yếu cô luôn quan tâm đặc biệt để bạn ấy tiến bộ hơn. Vì thế chúng em ai cũng yêu quý cô, xem cô như người mẹ thứ hai của mình. Em còn nhớ có một hôm, khi học xong tiết cuối bỗng nhiên em bị sốt, người nóng ran. Cô đã không ngại đường xa chở em về nhà, báo cho mẹ em biết bệnh tình của em. Sau đó em nghỉ học mấy ngày để bình phục do bị sốt siêu vi. Dù không đi học những bữa nào cô cũng đến thăm em và phân công các bạn thay phiên chép bài cho em. Chỗ nào em không hiểu cô sẽ giảng lại tường tận. Bạn nào có hoàn cảnh gia đình khó khăn cô cũng giúp đỡ, có khi còn đóng tiền học phí dùm cho một bạn trong lớp có hoàn cảnh mồ côi ba mẹ ở với bà ngoại. Trong lớp ai cũng quý mến cô, ngày Nhà giáo Việt Nam chúng em tặng quà cho cô cô chỉ cười bảo: “Món quà quý nhất với cô đó là kết quả học tập thật giỏi của các em đó!” Ngoài việc dạy kiến thức ở trường, cô còn dạy cho chúng em kĩ năng múa hát. Giờ đây, tuy đã xa cô nhưng em vẫn nhớ mãi từng nụ cười, ánh mắt, giọng nói dịu dàng của cô. Cô đã truyền cho em một tấm lòng nhân hậu, dạy em biết cách yêu thương và quan tâm đến mọi người, tin yêu cuộc đời. Em tự hứa với lòng sẽ học thật giỏi để cho cô vui lòng, trở thành con ngoan, trò giỏi và một người có ích cho xã hội. Cô là tấm gương sáng để học sinh chúng em noi theo.
Những kỉ niệm sâu sắc về thầy cô và mái trường mến yêu - mẫu 3
Tuổi học sinh, là tuổi đẹp đẽ, hồn nhiên nhất. Chúng ta được vui chơi, được học tập và trong quãng thời gian ấy cũng có biết bao kỉ niệm đẹp đẽ với thầy cô và bè bạn. Và trong chuỗi những kỉ niệm ấy, kỉ niệm khiến tôi không thể nào quên chính là kỉ niệm với cô Trang, tấm lòng, sự tận tâm cô dành cho tôi khiến tôi mãi khắc ghi trong tim. Tôi còn nhớ đó là giữa học kì I năm lớp tám, thầy giáo chủ nhiệm của chúng tôi nghỉ việc tại trường để cùng gia đình chuyển vào Sài Gòn sinh sống. Thầy không còn chủ nhiệm lớp là niềm thất vọng lớn nhất với chúng tôi. Thầy là người hóm hỉnh, dạy rất giỏi lại luôn ân cần, quan tâm đến học sinh. Lúc chia tay thầy ai cũng tiếc nuối, mấy bạn gái mau nước mắt còn túm tụm một chỗ khóc thút thít với nhau. Sau ngày thầy chuyển công tác, điều băn khoăn lớn nhất với chúng tôi chính là ai sẽ làm chủ nhiệm lớp. Chúng tôi đoán già, đoán non người thì cho rằng thầy Cường phát-xit, người lại cho rằng cô Loan hiền thục,… Nhưng tất cả mọi dự đoán của chúng tôi đều chệch hướng, giáo viên chủ nhiệm mới của chúng tôi là một cô giáo hoàn toàn mới, cô vừa vào trường năm nay, nên vẫn chưa ai quen mặt. Sáng thứ hai, sau tiết chào cờ, cô vào chào và làm quen với cả lớp. Cô người dong dỏng cao, khuôn mặt thanh tú, ưa nhìn, mái tóc được nhuộm màu nâu hạt dẻ, bồng bềnh, lượn sóng trông rất đẹp mắt. Giọng cô ấm nhưng rất âm vang và có uy lực. Cô tự giới thiệu cô tên Trang và sẽ là chủ nhiệm lớp tôi hai năm học còn lại, cô là giáo viên dạy bộ môn Toán. Tiết học đầu tiên của cô chúng tôi đã bày đủ trò để cô không thể dạy học, đứa nói chuyện, đứa ngủ gục,… chúng tôi làm như vậy như là một cách phản ứng lại khi cô làm chủ nhiệm lớp. Vì cái bóng của thầy giáo cũ quá lớn, sự xuất hiện của cô dù biết đó là cô được phân công công tác nhưng tôi vẫn cảm tưởng như cô là người đã đẩy người thầy yêu quý của chúng tôi đi. Đó quả là một suy nghĩ ích kỉ và nhỏ nhen. Bao nhiêu cố gắng, nỗ lực và nhiệt huyết cô dành cho chúng tôi đều đổ xuống sông xuống biển, tôi thấy hiện lên trong sâu thẳm mắt cô là nỗi buồn và sự thất vọng. Là một giáo viên mới vào nghề lại gặp phải ngay những học trò nghịch ngợm như chúng tôi có lẽ cô cảm thấy chán nản nhiều lắm. Nhưng cô vẫn hết sức cương quyết, với những bạn không chú ý, mất trật tự cô lập tức yêu cầu lên bảng trả lời câu hỏi, hoặc có những hình phạt công ích như dọn vệ sinh cho cả lớp,… còn với những bạn chăm chỉ học hành cô luôn có phần thưởng để động viên, khuyến khích. Nhưng có lẽ như vậy vẫn là chưa đủ, chỉ đến khi có một biến cố xảy ra thì mọi suy nghĩ của chúng tôi mới thay đổi. Sáng hôm ấy, sau tiết thể dục, chúng tôi vào học tiết cuối cô dạy, ai nấy đều mệt bải hoải và không còn tinh thần học tập. Vừa bắt đầu tiết học chưa lâu thì tôi – cô gái khỏe mạnh nhất lớp bỗng thấy đầu óc choáng váng, mọi thứ xung quanh tôi nhòe dần đi, đầu tôi nặng trĩu, tôi gục xuống bàn ngất đi. Khuôn mặt tôi như được các bạn kể lại thì tái mét không còn giọt máu, mồ hôi rịn ra trên khắp mặt và tay. Ai cũng vô cùng sợ hãi, cô đang giảng bài vội vã chạy xuống với tôi. Cô để tôi nằm thẳng và lấy ngón trỏ day vào nhân trung, một lúc sau thì tôi tỉnh. Người đầu tiên tôi thấy là cô, khuôn mặt cô lo lắng, mắt đã ngân ngấn nước, cô liên tục hỏi tôi có sao không. Và dường như vẫn chưa yên tâm, cô vội vàng bế thốc tôi xuống phòng y tế. Tôi không thể ngờ rằng người có vóc dáng nhỏ bé, gầy gò như vậy lại có thể bế được tôi lên, bởi tôi không hề nhỏ bé. Có lẽ là sức mạnh của tình yêu thương và trách nhiệm đã giúp cô có sức khỏe phi thường như vậy. Thì ra tôi ngất đi là do không ăn sáng, trong tiết thể dục lại chạy nhiều thành ra quá sức mà hạ đường huyết nên ngất đi. Cô ở bên cạnh tôi đến tận lúc cha mẹ tôi đến thì cô mới trở về. Sáng hôm sau đến lớp tôi đã thấy hộp sữa và cái bánh để trên bàn với lời dặn: “Nhớ ăn sáng đầy đủ và hăng say học tập em nhé”. Nét chữ ấy chỉ có cô Trang chứ không còn của ai khác nữa. Sau ngày hôm ấy, chúng tôi đã có cái nhìn về cô, chúng tôi học tập chăm chỉ và ngoan ngoãn. Từ đó cho đến giờ, tình cảm của chúng tôi dành cho cô ngày càng lớn hơn, đó là sự kính trọng, lòng biết ơn với một cô giáo trẻ nhiệt huyết, tận tâm. Năm nay đã học lớp 9 thời gian tôi còn được học cô không còn nhiều. Tôi tự hứa sẽ học tập thật tốt để không phụ lòng mong mỏi của cô. Cô sẽ là một kỉ niệm đẹp đẽ, một tấm gương về sự kiên trì, bền bỉ để tôi học tập và noi theo.
Những kỉ niệm sâu sắc về thầy cô và mái trường mến yêu - mẫu 4
Khoảng thời gian ba năm học cấp ba không phải là quá dài so với nhiều người nhưng chẳng hề ngắn. Trong thời gian ấy, có rất nhiều người chỉ biết học, chỉ mong sao cho nhanh hết cấp ba để được đi đại học, để được tự do. Còn tôi, tôi không nghĩ vậy, khoảng thời gian ấy tôi không đối với tôi là khoảng thời gian vô cùng quý báu là khoảng thời gian hạnh phúc nhất cuộc đời vì tôi được học tại nơi đây, được học tại mái trường THPT…………….. này. Quả thật thời gian trôi qua không chờ cũng chẳng đợi một ai cả. Chớp mắt cái đã bay vèo hết ba năm nhiều lúc thể nào tin được rằng mình bây giờ đã già đầu nhất trường rồi. Còn nhớ mãi ấn tượng đầu tiên về trường của tôi là khi thấy các anh chị thi đỗ vào trường thì vô cùng ngưỡng mộ. Ngày ấy cứ mỗi lần bố mẹ cho lên ………. chơi là lại đi vòng qua cổng trường, lúc ấy hai bên con dốc cao thoai thoải của trường còn có hai hàng cây xanh tỏa bóng mát cho học sinh đi học mỗi buổi chiều mùa hè oi bức nhìn xa hơn một chút là cái biển cũ kĩ sơn màu xanh làm nổi bật lên dòng chữ trắng “Trường THPT chuyên………………” ở đằng sau cánh cổng trường như hiện hữu bao điều bí mật kì thú chờ đợi tôi khám phá. Và đó cũng là động lực để tôi ước được bước chân vào học mái trường này. Và rồi tôi cùng đỗ mặc dù số điểm vào trường của tôi không cao như các bạn khác. Ngày biết điểm những cảm xúc trong tôi như được vỡ òa. Niềm hạnh phúc xen lẫn tự hào và háo hức về một tương lai mới, môi trường mới, một cuộc sống tự lập xa gia đình của một cô bé 15 tuổi xâm chiếm hết tâm hồn tôi. Lúc đó tôi muốn hét lên cho cả thế giới biết “TÔI ĐỖ RỒI!!!” cái ước mơ mà tôi ấp ủ bao lâu cũng thành hiện thực rồi. Tôi bước vào trường ngày đầu tiên vào một buổi sáng mùa hạ tầm tháng 7 do trường có lịch học vào sớm hơn các trường khác. Mặc dù hôm ấy trời không lạnh nhưng chân tay tôi cứ run hết cả lên, có lẽ là vì quá hồi hộp. Khi ấy những sợi nắng len lỏi qua các tán cây như nhuộm một màu tươi sáng hân hoan đón chào những tân học sinh mới bỡ ngỡ bước vào cổng trường. Không thể không kể đến con dốc với độ nghiêng 45 độ đã đốn gục khá nhiều sức lực của tôi. Khép nép trong màu áo trắng, tôi cảm giác mình như trưởng thành lên và thấy tự hào khi đeo trên mình phù hiệu của trường, phải rồi tôi đang lớn dần. Khó có thể nào quên được những ngày đầu tiên bước vào lớp mới, phải dần làm quen với một sự thay đổi thực sự khi phải rời xa những gì đã quá quen thuộc đến nỗi như một phần của cuộc sống và nó đối với tôi nó còn khó hơn gấp bội lần, vì tôi là một con người thích sống khép kín và gần như là khó có thể giao tiếp với những người bạn mới. Nhưng con người ai cùng phải thay đổi, phải thích nghi với cuộc sống này. Dần dần tôi cũng đã có thể làm quen được gần hết các bạn trong lớp. Ba mươi sáu con người mỗi người một vẻ, nhưng chúng tôi là một tập thể, chúng tôi luôn đoàn kết và gạt bỏ những cái tôi của mình. Những người bạn là những người đồng hành tuyệt vời luôn sát cánh bên tôi trong con đường học tập. Nhưng để nói tôi của ngày hôm nay một con người trưởng thành hơn rất nhiều thì thầy cố mới là những người có công rất lớn, thầy cô như là những người cha người mẹ thứ hai dạy dỗ chúng tôi thành người. Nếu nói thầy cô là những người lái đò đưa học sinh qua sông, thì thầy cô giáo trường tôi là những người lái đò tận tâm. Đối với tôi thời gian ở ngôi trường này còn quý giá hơn hàng vạn viên kim cương, bởi hàng ngày tôi đến nơi đây để biết thêm học hỏi thêm bao điều mới mẻ, tôi cảm nhận được thêm tinh thần yêu nước to lớn của dân tộc thấm đượm qua những áng văn qua nhưng vần thơ cô giảng tôi hiểu hơn những trang sử hào hùng những chiến công kì tích của cha ông để bảo vệ đất và tôi còn được đưa đến với những vùng đất mới với bao điều lí thú về thiên nhiên, về phong tục và truyền thống lâu đời của con người ở đó qua các bài giảng của thầy cô đã thức khuya dậy sớm để chuẩn bị cho chúng tôi. Ngoài ra chúng tôi còn được khám phá những tính chất định lý toán học, vật lý, hóa học lạ lẫm và thú vị. có được tất cả những điều ấy là nhờ công lao của những người thầy cô giáo đã thầm lặng ngày ngày truyền đạt cho chúng tôi. Thầy cô dạy cho chúng tôi những đức tính tốt đẹp những đạo lý để làm người, thầy cô luôn luôn quan tâm đến chúng tôi, trăn trở vì những khuyết điểm mà chúng tôi vấp phải. Và những người thầy người cô những con người luôn tận tụy suốt những năm tháng ấy đã dìu dắt tôi đến bên bến bờ tri thức. Không chỉ vậy, tình yêu mang tên “THPT………..” còn được tạo nên qua những kỉ niệm qua những khung bậc cảm xúc của ngày khai giảng, ngày lễ 20/11… tôi yêu hàng cây lộc vừng luôn nở hoa vào lúc giao mùa từ xuân sang hạ, nó như tô điểm thêm cho mái trường này càng lung linh rực rỡ. Tôi yêu những giờ ra chơi tất cả ào ra sân tập thể dục như điệu như đàn ong vỡ tổ, đứa nào đứa nấy háo hức tập vui vẻ nở nụ cười, và cả những có tổ chức lễ khai giảng các dịp lễ lớn. Các bạn nữ tung bay trong tà áo dài thướt tha của tuổi mới lớn vui tươi hớn hở chào mừng những ngày lễ. Tôi yêu lắm sân trường này mỗi khoảng nền đất, mỗi chiếc ghế dá đều in đánh dấu những kỉ niệm đẹp về mỗi lần chơi đùa nói chuyện rôm rả với lũ bạn. Nhớ lắm những kỉ niệm buồn vui những lúc sát cánh bên nhau những lúc vượt qua khó khăn trong học tập và những tình yêu “chớm nở” những rung động đầu đời những cảm xúc ngây ngô, vụng dại tuổi mộng mơ, tình yêu thời “cắp sách”. Nó thật đẹp ! Và bạn ơi, tôi biết mỗi ai trong chúng ta ai cũng đã từng có một thời học sinh hồn nhiên với bao kỉ niệm như thế! Tôi cũng vậy, tôi có một thời học sinh vô cùng vui vẻ, ý nghĩa. Một thời học sinh không bao giờ quên với những lần quên không làm bài tập bị thầy cô phạt. Thời gian thì cứ trôi, trôi mãi chẳng chờ đợi một ai, khoảng thời gian ba năm trôi qua nhanh như chớp mắt và rồi mỗi chúng ta cũng sẽ đến lúc nói lời tạm biệt mái trường nơi đây để đến với những cuộc sống mới, môi trường học mới nhưng chúng tôi sẽ không bao giờ quên những ngày tháng tràn ngập kỉ niệm đẹp đẽ này. Dù có đi đâu thì ngôi trường này vẫn chiếm trọn vị trí cao nhất trong tôi – Ngôi trường THPT chuyên ……….. thân yêu!
Những kỉ niệm sâu sắc về thầy cô và mái trường mến yêu - mẫu 5
“Một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầyTrọng thầy mới được làm thầyMuốn sang thì bắc cầu KiềuMuốn con hay chữ thì yêu kính thầy” Những dòng ca dao, tục ngữ quen thuộc đã và đang gợi nhớ cho chúng ta về thầy cô và mái trường mến yêu của mình. Mái trường, là nơi ươm mầm những ước mơ, có thầy cô là cha mẹ, mang lại và dạy bảo cho chúng ta nhiều điều mới lạ, và nơi bạn bè là những chiến hữu để vui đùa, gắn bó cùng nhau. Suốt những năm tháng học sinh, chắc rằng một đều ai cũng có tình cảm thân thương với một thầy, cô giáo nào đó. Tôi cũng vậy, tôi rất yêu mến các thầy cô giáo của mình, nhưng người để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc nhất chính là cô Tuyết, cô giáo dạy lớp 1 của tôi. Cô Tuyết là người dạy tôi những nét bút đầu đời, cho tôi cảm giác được gần gũi thương yêu, được quan tâm của một người thầy dành cho trò trong những năm tháng đầu của tuổi thơ thời cắp sách đến trường với nhiều lo sợ và đầy sự bỡ ngỡ. Tôi nhớ về người cô với ngoại hình nhỏ nhắn, gầy gò hay mặc bộ áo dài màu trắng bước đi nhẹ nhàng, mái tóc đen dài được kẹp đơn giản sau gáy với gương mặt hiền từ chưa bao giờ tôi bị cô khiển trách. Năm tôi học, cô là một giáo viên nhiều kinh nghiệm, tâm huyết với nghề, tận tụy với học sinh, mong muốn tất cả học trò của mình đều đạt thành tích học tập tốt. Tôi nhớ lớp cô dạy rất đông, có nhiều bạn học kém gặp khó khi viết chữ nên cô thường xuyên đến lớp sớm để rèn luyện, cầm tay uốn nắn từng nét chữ cho các bạn. Giọng cô không được lớn tiếng nhưng vẫn luôn cố gắng giảng bài thật to tiếng để bao quát lớp, sau mỗi giờ học tôi đều cảm nhận được sự mệt mỏi của cô. Riêng tôi được cô chọn làm lớp trưởng cả năm liền vì chăm ngoan, biết vâng lời và học tốt. Tôi nhớ có lần tôi bị hột mọt rơi vào mắt, bị đau mắt 2 ngày liền không thể học tốt, cô liền chú ý và ân cần chăm sóc. Những ngày tôi bệnh không đến lớp, cô gặp mẹ tôi đi chợ đều hỏi thăm khi nào tôi sẽ đi học lại, cô khen với mẹ ở trường tôi rất ngoan và chăm học. Những ngày gần cuối năm học, tôi luôn thấy buồn vì không còn được học cô nữa, năm đó tôi còn muốn được ở lại học lớp của cô, sau là mong ước lên lớp 2 cô vẫn sẽ dạy mình. Rồi còn biết bao kỉ niệm khác, cô đã dạy cho tôi rất nhiều điều hay lẽ phải. Đương nhiên tình thương của cô không phải chỉ dành cho riêng tôi mà cô coi tất cả các bạn khác như là con cháu của mình. Có những lúc cô tức giận vì lớp học ồn ào không chú ý bài cô giảng nhưng cô chỉ gắt lên 1 tiếng để tập trung lớp rồi thôi, tôi chưa thấy cô đánh phạt bạn nào. Thời gian thắm thoát trôi qua, tôi hoàn thành cấp tiểu học, rồi trung học cơ sở, trung học phổ thông, thi thoảng về trường tôi có thăm và thưa hỏi cô giáo kính yêu của tôi. Rồi tôi học cao đẳng ở trọ xa nhà hiếm khi gặp cô, đôi khi tôi có hỏi thăm mẹ về tình hình của cô giáo mình. Về phần gia đình của cô tôi nghe và biết là cô có 2 người con trai, chồng cô mất sớm, cô rất vất vả chăm lo các con nhưng công tác ở trường cô vẫn đảm bảo và hoàn thành tốt, làm cho tôi thấy thương và cảm phục cô nhiều. Tôi ngẫm nghĩ bản thân đã chọn theo ngành sư phạm là cô giáo tương lai tôi cũng sẽ phấn đấu như cô chăm chút và tận tâm vì học sinh của mình như cô vậy. Sau khi tôi ra trường, may mắn được về công tác ở chính ngôi trường năm xưa tôi đã học, nơi đã cho tôi những kỉ niệm sâu sắc khó quên, được trở thành đồng nghiệp của thầy cô giáo cũ, tôi rất vui mừng. Vào ngày đầu nhận nhiệm sở tôi đã gặp thầy hiệu trưởng cũ suốt 5 năm cấp 1, qua hỏi thăm thầy thì tôi biết cô Tuyết đã về nghỉ hưu và bị mắc bệnh lao phổi. Và rồi…cô mất cũng vì căn bệnh ấy, ngày tôi đi dự đám tang của cô, nhìn di ảnh của cô cảm giác đau lòng trong tôi khó tả. Và giờ đây, khi tôi viết bài cảm nhận này, bản thân đã không kiềm được nước mắt khóc nhớ về cô, người “thầy” đã dạy cho tôi nét bút đầu đời. Dù đã qua bao năm, dù cô đã không còn nhưng ngày 20 tháng 11, tôi đã nhớ rất nhiều về cô và thầm cảm ơn cô về tất cả.
Những kỉ niệm sâu sắc về thầy cô và mái trường mến yêu - mẫu 6
Trong cuộc đời của mỗi con người, chắc ai cũng từng cắp sách đến trường, đến lớp được ngồi vào ghế nhà trường với hình ảnh người bạn, người cô thân thiết và cả những kỉ niệm nữa chứ. Quãng đời học sinh còn lại của tôi và bạn chắc một khi dã trải qua thì không thể không ghi lại những dòng dấu ấn sâu sắc. Ba năm học trôi qua, không phải là ngắn, cũng đủ để những con người xa lạ trở nên thân thiết hơn giống như một gia đình, sự dạy dỗ chỉ bảo ân cần của thầy, cô giáo dưới mái nhà trường THCS Đức Ninh làm cho tôi cảm thấy thêm yêu ngôi trường này. Tôi yêu những hàng phượng ngả bóng dưới sân trường trong những buổi trưa hè, gốc phượng ấy không biết bao nhiêu lần tôi đã nán lại trong những giờ ra chơi ngồi đếm những đốm nắng lung linh xuyên qua kẽ lá. Tôi yêu những con đường mòn trong sân trường đã để lại những kỉ niệm vui cũng như buồn trong tôi. Tôi yêu hàng ghế đá khi các cô các cậu học trò vui đùa lẫn nhau. Tôi yêu tiếng trống trường rộn ràng, giòn giã và yêu cả cái lớp học có cánh cửa hoen gỉ, nơi tôi ngồi học ngày xưa nhìn ra cửa sổ vào buổi trưa hè những chú chim đùa nhau trong nắng và cả tán lá bàng tỏa ra xanh mướt như đang che bớt đi cái không khí nóng nực của mùa hè. Tôi nhớ những tiết học của cô giáo chủ nhiệm, nhớ tiếng cô giảng bài và nhớ cả tiếng phấn trên nền bảng xanh thẳm. Giọng cô dịu dàng, trìu mến tận tình chỉ bảo cho học sinh mới thấy được công lao của cô dành cho chúng tôi. Nhớ lại lời cô dạy bảo năm ấy tôi lại càng thêm thấm thía, chính vì công lao to lớn đó đã thúc đẩy mỗi người trong chúng tôi cần phải cố gắng hơn nữa để không phụ lòng mong mỏi của cô dành cho chúng tôi. Ba tháng nghỉ hè đã sắp kết thúc, nhường lại cho mùa thu, mùa mà tất cả các học sinh sắm sửa chuẩn bị cho một năm học mới. Cánh cửa trường đã mở đón chào các em học sinh đến ngày tựu trường của một năm học mới với bao nhiêu là cảm xúc. Sẽ có nhiều thứ thay đổi nhưng những kí ức này luôn động lại trong trái tim tôi mãi mãi. Thêm một năm nữa, tôi sẽ phải tạm biệt ngôi trường này và phải xa bạn bè, thầy cô ở đây. Một ngôi trường và thầy cô giáo đẹp như một bài ca không thể nào quên. Nghĩ về hiện tại thầy cô vấn đang ở bên cạnh chúng tôi, mới cảm thấy vui hơn. Bên dưới mái trường mà chúng ta vẫn miệt mài học tập, sẽ có những thầy cô luôn dõi theo bước chân của chúng tôi đi đến tận cuối con đường. Giờ này đây tôi sẽ cố gắng học tập để không phụ lòng mong mỏi của thầy cô đối với chúng tôi.
Những kỉ niệm sâu sắc về thầy cô và mái trường mến yêu - mẫu 7
“Đại dương lớn bởi dung nạp trăm sông, con người lớn bởi rộng lòng bao dung cả những điều lầm lỗi”. Đó là bài học đầu tiên tôi học được từ cô giáo của mình và cho đến tận bây giờ, những kỉ niệm yêu thương về cô giáo đầu tiên vẫn còn in đậm trong tâm trí của tôi! Ngày ấy tôi mới vào học lớp 1. Cô giáo của tôi cao, gầy, mái tóc không mướt xanh mà lốm đốm nhiều sợi bạc, cô ăn mặc giản dị nhưng lịch thiệp, ấn tượng nhất ở cô là đôi mắt sáng, nghiêm nghị mà dịu dàng. Cái nhìn vừa yêu thương vừa như dò hỏi của cô cho đến bây giờ tôi vẫn chẳng thể nào quên… Hôm ấy là ngày thứ 7. Mai có một chiếc bút máy mới màu trắng sọc vàng với hàng chữ “My pen” lấp lánh và những bông hoa nhỏ xíu tinh xảo ẩn nấp kín đáo mà duyên dáng ở cổ bút. Tôi nhìn cây bút một cách thèm thuồng, thầm ao ­ước được cầm nó trong tay… Đến giờ ra chơi, tôi một mình coi lớp, không thể cưỡng lại ý thích của mình, tôi mở cặp của Mai, ngắm nghía cây bút, đặt vào chỗ cũ rồi chẳng hiểu vì sao tôi bỗng không muốn trả lại nữa. Tôi muốn được nhìn thấy nó hàng ngày, được tự mình sở hữu nó, được thấy nó trong cặp của chính mình… Hết giờ ra chơi, các bạn chạy vào lớp, Mai lập tức mở cặp và khóc oà lên khi thấy chiếc bút đã không cánh mà bay! Cả lớp xôn xao, bạn thì lục tung sách vở, bạn lục ngăn bàn, có bạn bò cả xuống gầm bàn ngó nghiêng xem chiếc bút có bị rơi xuống đất không… Đúng lúc đó, cô giáo của chúng tôi vào lớp! Sau khi nghe bạn lớp trưởng báo cáo và nghe Mai kể chi tiết về chiếc bút: nào là nó màu gì, có chữ gì, có điểm gì đặc biệt, ai cho, để ở đâu, mất vào lúc nào… Cô yên lặng ngồi xuống ghế. Lớp trưởng nhanh nhảu đề nghị: -Cô cho xét cặp lớp mình đi cô ạ! Cô hình như không nghe thấy lời nó nói, chỉ chậm rãi hỏi: -Ra chơi hôm nay ai ở lại coi lớp? Cả lớp nhìn tôi, vài giọng nói đề nghị xét cặp của tôi, những cái nhìn dò hỏi, nghi ngờ, tôi thấy tay mình run bắn, mặt nóng ran như có trăm ngàn con kiến đang bò trên má. Cô giáo tôi nổi tiếng là nghiêm khắc nhất trường, chỉ một cái gật đầu của cô lúc này, cái cặp bé nhỏ của tôi sẽ được mở tung ra… Bạn bè sẽ thấy hết, sẽ chê cười, sẽ chẳng còn ai chơi cùng tôi nữa…Tôi sợ hãi, ân hận, xấu hổ, bẽ bàng… Tôi oà khóc, tôi muốn được xin lỗi cô và các bạn… Bỗng cô giáo của tôi yêu cầu cả lớp im lặng, cô hứa thứ hai sẽ giải quyết tiếp, giờ học lặng lẽ trôi qua… Sáng thứ hai, sau giờ chào cờ, cô bước vào lớp,gật đầu ra hiệu cho chúng tôi ngồi xuống. Cô nhẹ nhàng đến bên Mai và bảo: -Hôm thứ bảy bác bảo vệ có đưa cho cô cây bút và nói rằng bác nhặt được khi đi đóng khoá cửa lớp mình, có phải là cây bút của em không? Mai cầm cây bút, nó sung sướng nhận là của mình, cô dặn dò cả lớp phải giữ gìn dụng cụ học tập cẩn thận, giờ học trôi qua êm ả, nhẹ nhàng… Ra chơi hôm ấy, các bạn lại ríu rít bên tôi như muốn bù lại sự lạnh nhạt hôm trước. Chỉ riêng tôi là biết rõ cây bút thật của Mai hiện ở nơi đâu… Sau đó vài ngày cô có gặp riêng tôi, cô không trách móc cũng không giảng giải gì nhiều. Cô nhìn tôi bằng cái nhìn bao dung và thông cảm, cô biết lỗi lầm của tôi chỉ là sự dại dột nhất thời nên đã có cách ứng xử riêng để giúp tôi không bị bạn bè khinh thường, coi rẻ… Năm tháng qua đi, bí mật về cây bút vẫn chỉ có mình tôi và cô biết. Nhưng hôm nay, nhân ngày 20/11, tôi tự thấy mình đã đủ can đảm kể lại câu chuyện của chính mình như là một cách thể hiện lòng biết ơn và kính trọng đối với người đã dạy tôi bài học về sự bao dung và cách ứng xử tế nhị trong cuộc sống. Giờ đây tôi đã lớn, đã biết cân nhắc đúng sai trước mỗi việc mình làm, tôi vẫn nhớ về bài học thuở thiếu thời mà cô đã dạy: Bài học về lỗi lầm và sự bao dung! Và có lẽ trong suốt cả cuộc đời mình, tôi sẽ chẳng lúc nào nguôi nỗi nhớ về cô như nhớ về MỘT CON NGƯỜI CÓ TẤM LÒNG CAO CẢ!
Những kỉ niệm sâu sắc về thầy cô và mái trường mến yêu - mẫu 8
Mái trường – Ngôi nhà thứ hai luôn là nơi lưu lại những dấu ấn đáng nhớ nhất cuộc đời mỗi con người. Ở nơi đó, thầy cô là cha mẹ, bạn bè là anh em gắn bó với nhau như ruột thịt và cùng nhau tạo nên những kỉ niệm khó phai. Suốt những năm tháng cắp sách đến trường, chắc hẳn ai cũng có ấn tượng với một thầy cô giáo nào đó. Những người để lại cho ta kinh nghiệm suốt đời hay vực ta đứng dạy từng những nơi tối tăm, hay đơn giản là cách giảng bài sâu sắc mà không sao quên được. Tôi cũng vậy, suốt ba năm phổ thông cô Hưng dạy văn là người tôi nhớ nhất. Viết về hình tượng cô giáo ngay từ bé chúng tôi đã được nhào nặn trong trí tưởng tượng đó là cô giáo với mái tóc đen dài bóng mượt, cặp gọn gàng bằng một chiếc kẹp giản dị, da trắng môi đỏ, luôn mặc áo dài thướt tha và dáng đi khoan thai, nhẹ nhàng. Với tôi, chắc chắn đó là cô giáo bước ra từ giấc mơ. Ngày đầu ngỡ ngàng bước vào lớp mười, buổi đầu tiên gặp gỡ, cô bước vào lớp với cặp kính râm to đen, chúng tôi có chút nhốn nháo và bất ngờ, cô hóm hỉnh giải thích: “Buổi đầu chào cả lớp mà cô giống mafia quá, cô xin lỗi các em nhưng nếu bây giờ cô bỏ kính ra thì cả lớp chắc không ai học được vì sợ vừa vì cười đấy. Cô bị ngã xe, lớp thông cảm cho cô nhé!” và kèm theo đó là nụ cười rạng rỡ. Tôi cũng phát hiện ra rằng không phải cô giáo dạy văn nào cũng có giọng nói ngọt như mía lùi hay lanh lảnh như chim hót. Cô Hưng giọng khá trầm và khàn nhưng chưa bao giờ chúng tôi cảm thấy ngao ngán với tiết văn của cô. Ngày đầu tiên ấy, cô còn giới thiệu và kể thêm vài câu chuyện vui về “cái tên giông tên con trai” của cô. Vậy là giờ dạy mở màn, cô đã đốn tim trọn vẹn bốn mươi lăm thành viên 10A3, đặc biệt là tôi, cảm nhận được một tâm hồn đồng điệu. Nhắc đến cô giáo, người ta luôn mường tượng ra sự ân cần, nhè nhàng, dạy dỗ chỉ bảo tận tình, sự nhiệt huyết và yêu trẻ. Cô Hưng cũng không phải ngoại lệ. Nhưng điều đặc biệt hơn cả, cô là người rất cá tính và hiện đại. Cô luôn có cách lôi kéo chúng tôi không thể dời khỏi lời giảng của cô một giây phút nào. Cô vẫn giữ những nét truyền thống của một nhà giáo, không sai lệch về tư tưởng, đạo đức nhưng cô cũng không quên bỏ vào đó một chút cái tôi cá nhân riêng để học sinh có thể nhớ về cô mãi. Ông nội tôi trước đây là một nhà Nho dạy chữ Hán vì vậy ông rất thích con cháu nối nghiệp ông. Mỗi lần về thăm quê, ông lại thủ thỉ với tôi: “Làm giáo viên con nhé! Tôi chỉ biết mỉm cười và lẳng lặng gật đầu”. Tôi yêu trẻ nhưng nóng tính mà ngành giáo luôn cần sự kiên nhẫn và tôi đã tự nhủ rằng “không bao giờ mình thi sư phạm”. Nhưng rỗi mỗi tiết văn của cô lại truyền thêm cho tôi cảm hứng. Tôi sẽ đứng trên bục giảng, thổi hồn vào từng câu chữ và học sinh sẽ quý mến tôi như chứng tôi kính trọng, yêu quý cô bây giờ. Tôi sẽ niềm nở, hài hước và thân thiện giống cô. Tôi sẽ dạy cho những đứa con thứ hai của tôi không chỉ tri thức mà còn cả cách làm người, cách yêu thương cuộc sống, cách gieo lòng nhân hậu với những con người ra chưa từng biết, chưa từng gặp qua mỗi trang sách giống như cô dạy chúng tôi trong mỗi tiết học. Cô Hưng mang dáng dấp của người phụ nữ hiện đại nhưng cũng không quên đi nét truyền thống trong mình. Không phải phóng đại, nhưng cô là người phụ nữ giỏi việc nước, đảm việt nhà. Cô luôn nhiệt tình tham gia các hoạt động Đoàn trường, nhiều năm đạt danh hiệu Giáo viên xuất sắc. Năm học 2012-2013, lần đầu tiên cô bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 12 mang lại thành tích rực rỡ như thế: Ba giải nhì, một giải ba và một giải khuyến khích, đứng nhất tỉnh năm đó. Ở nhà, hai con của cô luôn là những con ngoan trò giỏi. Hai em luôn dạt danh hiệu học sinh giỏi qua từng năm học. Niềm vinh dự hơn cả là con trai cô từng đạt giải học sinh tỉnh lớp 5. Cô là người giữ lửa và ngọn lửa ấy luôn bùng cháy trong gia đình nhỏ hạnh phúc của cô. Tôi đang cảm nhận từng ngày trọn vẹn khi còn là học sinh, khi còn được ngồi trên ghế nhà trường. Và tôi không thể nào quên những kỉ niệm thời áo trắng bên bạn bè, trang sức cùng hình ảnh người cô miệt mài bên giáo án. Người đã truyền dạy cho tôi bao tri thức, bao ước mơ và hi vọng – Cô Hưng.
Những kỉ niệm sâu sắc về thầy cô và mái trường mến yêu - mẫu 9
Một đời người – một dòng sông…Mấy ai làm kẻ đứng trông bến bờ,“Muốn qua sông phải lụy đò”Đường đời muôn bước cậy nhờ người đưa … Tháng năm dầu dãi nắng mưaCon đò trí thức thầy đưa bao ngườiQua sông gửi lại nụ cườiTình yêu xin tặng người thầy kính thương Con đò mộc – mái đầu sươngMãi theo ta khắp muôn phương vạn ngày,Khúc sông ấy vẫn còn đâyThầy đưa tiếp những đò đầy qua sông… Có lẽ khoảng thời gian này là lúc chúng ta – lớp lớp lứa học trò đang hướng về một ngày mà tôi cho đó là ngày đặc biệt nhất của những “người lái đò ” đó là ngày Nhà Giáo Việt Nam 20-11. Nhưng có lẽ với tôi, có lẽ đây sẽ là lần cuối cùng chúng tôi, khóa học sinh…… được tham dự lễ kỉ niện này, quan trọng hơn cả là được ngồi cầm bút viết và bắt đầu nhìn lại cả một quãng thời gian gắn bó với biết bao kỉ niệm đẹp với thầy cô cũng như mái trường –Trường THPT ………. Trong giây phút xúc động này, tôi nhìn lại chặng đường mà tất cả chúng ta đang và chuẩn bị đi qua, đó là gần ba năm học tại trường THPT …………, tôi không khỏi bồi hồi và dạt dào khi nhớ lại những kỉ niệm của chúng ta đã dành cho nhau cũng như những tình cảm mà thầy cô dành cho chúng ta. Đã hơn 2 năm, khoảng thời gian không dài với một đời người, nhưng đủ để lưu giữ nhưng kỉ niệm tốt đẹp về bạn bè, thầy cô và mái trường … Vào lúc này đây tôi cảm thấy thật tiếc, tôi tiếc vì không còn nhiều thời gian ở lại mái trường yêu dấu này, cũng như giây phút chúng tôi chia tay nhau và chia tay thầy cô sắp đến… Tôi muốn viết để nói lên cảm xúc lúc này nhưng không dễ, bởi có quá nhiều kỉ niệm biết viết sao cho đủ đây, viết sao cho thỏa những suy nghĩ lúc này đây. Tự dưng thấy nhớ, nhớ thầy cô, bạn bè quá. Làm sao để nói hết được tình cảm mà thầy cô trong ngôi trường này đã “nuôi dưỡng’’ chúng tôi như những đứa con gia đình như thế nào… Tôi lo sợ mất đi một điều gì đó đã quá quen thuộc trong suốt gần 3 năm học, hằng ngày được các thầy cô giảng bài, được học ,được rèn cả kỹ năng sống. Sợ phải chia tay những đứa bạn vẫn ngày ngày cùng mình học tập và nô đùa cùng nhau, và nhất là phải xa đứa bạn cùng bàn… và tôi sợ nhất là khi mình mất phương hướng mà không có cô ở bên khuyên bảo và an ủi. Mái trường này – ngôi nhà thứ 2 của tôi, nơi mà có khi tôi yêu hơn cả nhà, đó là nơi tôi ngồi học ngày ngày, nơi luôn có những đứa bạn sẵn sàng giúp đỡ, quan tâm tôi, tôi yêu tất cả mọi thứ và quan trọng hơn tôi đã yêu cô, cô giáo dạy tôi học, nhất là cô giáo chủ nhiệm của tôi, cô Trần Hương Giang. Cô dạy tôi trưởng thành, dạy cách làm người để sống tốt sống đẹp… Nhiều lúc tôi chỉ muốn nói với cô rằng: “Cô ơi cô thật tuyệt ”. Khi em vấp ngã, khi em thất bại luôn có cô ở bên, luôn có cô mở rộng vòng tay đón em về như đứa con lạc đàn. Nếu như không có cô em cảm giác như đã mất đi một người yêu mình, một người hiểu, quan tâm mình … và lo sợ rằng cô sẽ quên em khi em rời xa mái trường này cô à! … Cô ơi, em quý và yêu cô nhiều lắm và em chỉ muốn dừng lại mãi khoảng thời gian này để được ở bên cô và được cô dạy dỗ, được cô quan tâm mãi thôi!. Và nỗi nhớ thì không thể đo được ít hay nhiều, tình cảm cũng vậy sẽ không kết thúc. Hiện tại hay tương lai thì hình ảnh thầy cô bạn bè mái trường sẽ mãi trong trái tim. Nỗi nhớ theo thời gian sẽ ngày một đong đầy, những gì thầy cô và chúng em dành cho nhau sẽ còn mãi và luôn là những hoài niệm tươi đẹp trong quá khứ. Xa mái trường này, mỗi người một ngả, mỗi người sẽ có cho mình lối đi riêng, cái gì cũng riêng… nhưng em biết rằng các thầy cô vẫn luôn ở đây, luôn in ấn hình ảnh của chúng em ở trong trái tim và ngay cả khi lúc chúng em đã rời xa mái trường yêu dấu này, vẫn mỉm cười chào đón chúng em khi chúng em quay lại … Bao nhiêu lời cảm ơn cũng không đủ. Nhưng vẫn xin cảm ơn mái trường này đã cho em gặp được những người thầy, người cô tận tâm và tận tụy như vậy, những người bạn tốt và những bài học sẽ chẳng bao giờ quên được. Đặc biệt là với lớp chuyên Văn của tôi xin gửi lời chúc tốt nhất đến cô chủ nhiệm lớp – cô Trần Hương Giang. Chính cô đã nâng đỡ thay vì là người cô người dẫn dắt, cô đã thay cả phần là người bạn, một người bạn có thể am hiểu và quan tâm chúng tôi, … xin cảm ơn tất cả và em cũng như các bạn sẽ luôn nhớ mãi nơi đây – trường THPT ……… , nơi đã chắp cánh cho tâm hồn em và dẫn lối em thực hiện ước mơ!
Những kỉ niệm sâu sắc về thầy cô và mái trường mến yêu - mẫu 10
Em còn nhớ như in kỉ niệm với cô giáo chủ nhiệm của em năm lớp ba. Hôm đó, sau khi tan học buổi chiều, em đợi bố đến đón như thường lệ nhưng khi các bạn đã về hết từ lâu mà bố em vân chưa tới. Em rất lo lắng vì từ trước tới nay bố chưa đón em muộn bao giờ. Khi em đang lo lắng gần như sắp khóc đến nơi thì cô giáo chủ nhiệm của em đi tới, cô hỏi em sao giờ này vẫn chưa về.Em kể lại sự việc cho cô nghe mà không giấu nổi sự lo lắng. Em bắt đầu khóc. Cô động viên em hãy bình tĩnh và bảo em lên xe để cô trở về nhà.Khi về đến nhà, nhìn cánh cổng nhà em vân đóng im lìm, em càng lo lắng hơn vì thường ngày giờ này mẹ em thường đi làm về rồi. Cô chủ nhiệm bèn sang bên nhà hàng xóm hỏi thăm tình hình và được biết là bố em đi công tác đột xuất, có mẹ em ở nhà nhưng đột nhiên bà nội em bị mệt phải đưa đi cấp cứu trong viện, cả nhà đã lo lắng vào viện hết mà quên mất giờ đón em. Cô bèn chở em đến bệnh viện thăm bà luôn. Gặp lại mẹ, em vui mừng khôn xiết vì biết bà cũng đã qua cơn nguy kịch.Mẹ em đã rất xúc động và cảm ơn cô giáo của em thật nhiều. Em đã rất biết ơn cô giáo chủ nhiệm. Cô là người có tấm lòng nhân hậu và luôn ân cần quan tâm, giúp đỡ mọi học sinh.Em tự hứa sẽ học tập những đức tính tốt của cô. Em sẽ làm những việc tốt phù hợp với lứa tuổi của mình
Những kỉ niệm sâu sắc về thầy cô và mái trường mến yêu - mẫu 11
“Ăn quả nhớ kẻ trồng câyCó danh có vọng nhớ thầy khi xưa” Đó chính là những câu thơ nói về nghề giáo, nghề mà luôn được yêu quý, kính trọng. Tôi rất yêu mến các thầy cô giáo của mình, nhưng người để lại cho tôi những ấn tượng sâu sắc nhất chính là cô Kim Anh – cô giáo chủ nhiệm của chúng tôi. Cô có mái tóc rất dài, mượt mà, đen nhánh và luôn phảng phất hương thơm. Đôi mắt cô to tròn, đen láy, vô cùng cương nghị nhưng cũng không kém phần dịu dàng. Khi chúng tôi đạt thành tích cao trong học tập, cô luôn nhìn chúng tôi với ánh mắt trìu mến. Còn mỗi khi chúng tôi mắc lỗi, đôi mắt cương nghị của cô lại đượm buồn. Đôi bàn tay cô thon dài, luôn viết ra những mạch văn giàu cảm xúc để chuyển tải bài học đến với chúng tôi. Cô còn giúp chúng tôi nhớ bài lâu hơn bằng giọng nói của mình. Giọng nói của cô thật truyền cảm, khi thì dịu dàng, ấm áp, lúc lại dí dỏm, vui tươi khiến cho chúng tôi luôn tập trung vào bài học, quên cả thời gian. Tính cách cô hiền lành, chính trực, cô luôn nghiêm túc với công việc của mình. Hàng ngày, cô rất hay vui đùa với chúng tôi nhưng khi đã vào tiết học, cô cũng rất nghiêm khắc. Với cô dạy học không chỉ là một nghề, mà còn là một niềm đam mê. Cô luôn chuẩn bị rất kỹ cho bài giảng của mình, nhiều khi cô còn sử dụng cả những đoạn clip ngắn về bài học, giúp chúng tôi có thể tiếp thu bài nhanh nhất. Dù cô đã là một giáo viên nhưng cô vẫn học, đó là sở thích của cô. Cô luôn thức đến ba, bốn giờ sáng mới đi ngủ vì sau khi soạn giáo án, cô lại tiếp tục học bài. “Học như một con đò ngược dòng vậy, các con ạ!” Lời cô nói thấm thía lòng chúng tôi. Tôi nhớ nhất là khi cô đi thăm quan với lớp chúng tôi. Lúc ấy, trên nét mặt cũng như trong đôi mắt của cô thể hiện sự lo lắng, bồn chồn không yên. Sau đó, chúng tôi mới vỡ lẽ, ra là hôm ấy, cô có bài thi môn triết học nhưng cô đã nghỉ thi để đi cùng với lớp chúng tôi vì cô sợ rằng có vấn đề gì không hay với chúng tôi, cô sẽ ân hận cả đời. Một kỉ niệm đáng nhớ khác là khi tôi học hè. Khi ấy, tôi khá lo sợ do tôi đã nghỉ mất hai tuần. Tôi bước vào lớp với tâm trạng lo lắng. Cô biết là tôi đã nghỉ học, cô bèn giảng lại cho tôi những chỗ tôi chưa biết, chưa hiểu, rồi nhờ bạn cho tôi mượn vở để chép bù bài. Lúc đó tôi thấy mình nhẹ nhõm, thầm cảm ơn cô và các bạn. Quả thật, nghề giáo thật là cao quý, giống như câu ví: “Nghề giáo là người lái đò tri thức qua sông”. Đó cũng là nghề mà tôi mong ước sau này khi trưởng thành. Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11, tôi muốn gửi lời chúc tới cô rằng: “Con chúc cô luôn mạnh khỏe! Con yêu cô nhiều lắm!”
Những kỉ niệm sâu sắc về thầy cô và mái trường mến yêu - mẫu 12
Trong tuổi thơ của mỗi người, ai cũng có những kỉ niệm đáng nhớ về thầy, cô giáo cũ của mình, những kĩ niệm đẹp xen lẫn nỗi buồn đều được khắc sâu trong trí nhớ của chúng ta. Riêng tôi có một kỉ niệm mà tôi không bao giờ quên, kỉ niệm sâu sắc về một người thầy đáng kính của tôi. Năm ấy, khi tôi còn học lớp một, tôi có những kỉ niệm đẹp về thầy giáo chủ nghiệm của mình. Tôi đã bước sang lớp một, ngưỡng cữa của bậc tiểu học, có nhiều bạn mới, thầy cô mới. Ngày trọng đại ấy, ngày tôi không bao giờ quên. Sau buổi lễ khai giảng, tất cả các học sinh đều bước vào lớp học của mình để học buổi học đầu tiên và gặp gỡ thầy cô giáo chủ nhiệm của mình và cũng là người sẽ gắn bó với tôi trong suốt thời gian học tiểu học. Khi thầy bước vào, dáng người thầy thật nhanh nhẹn và thầy chào chúng tôi. Tôi trông thầy cũng đã đứng tuổi, tóc thầy cũng đã điểm bạc, khuôn mặt thầy gầy, bàn tay thầy có nhiều vết nhăn, chắc thầy đã có mấy chục năm lận đận với học sinh. Thầy bước lên bục giảng, thầy ra hiệu cho chúng tôi im lặng và thầy nói: Chào các con, thầy tên là Hồ Viết Cảnh, thầy sẽ chủ nhiệm lớp các con trong suốt bậc tiểu học. Giọng thầy thật ấm áp, nhẹ nhàng, làm cho những suy nghĩ trong đầu tôi về một người thầy giáo chủ nhiệm thật dữ dằn và nghiêm khắc đều tan biến. Sau khi ra mắt chúng tôi, thầy bắt đầu dạy cho chúng tôi những bài học đầu tiên mà cũng là những bài học đầu đời dạy tôi nên người. Thầy viết lên bảng những dòng chữ đầu tiên, tôi trông thấy bàn tay thầy run run khi viết, sau này tôi mới biết, thầy phải chịu đựng những cơn đau do tham gia cuộc chiến tranh kháng chiến chống mĩ để viết nên dòng chữ đẹp đó. Sau khi viết xong đề bài, thầy hỏi chúng tôi có thấy rõ không, một vài bạn ngồi phía dưới do mắt kém nên không thấy liền được thầy chỗ khác cho phù hợp. Trong buổi học thầy đến tận chỗ của từng người để chỉ cho chúng tôi những chỗ không hiểu. Cuối giờ, thầy cho chúng tôi xếp hàng ra về, mọi người đi về rất thẳng hàng, tiếng cười đùa của một vài bạn đã làm xôn ao khắp sân trường. Buổi học đầu tiên đã kết thúc như vậy đó, thầy đã để lại cho tôi những suy nghĩ về một người thầy mẫu mực. Những buổi học sau, thầy nghiêm khắc với những bạn lười học, khen thưởng những bạn ngoan. Giờ ra chơi, thầy đều ra chơi cùng chúng tôi, thầy chơi những rò chơi dân gian cùng với chúng tôi, nhìn khuôn mặt thầy lúc đấy thật đáng yêu, nhìn kĩ thầy, tôi có cảm giác khuôn mặt thầy rất giống khuôn mặt ông nội tôi. Ông tôi đã mất từ khi tôi còn nhỏ, những kỉ niệm đẹp của ông và tôi đều được tôi khắc ghi. Nhìn thầy, tôi cảm thấy nhớ đến ông, nhớ đến cảnh chơi đùa của hai ông cháu, tôi liền chạy vào phòng học, ngồi trong góc khóc. Lúc đó có một bàn tay đặt lên vai tôi khẽ vỗ về, hình ảnh ông nội vỗ về tôi mỗi khi buồn hiện về, tôi bỗng khóc to lên, không sao có thể kiềm chế được. Thì ra đó chính là thầy, thầy khẽ nói với tôi: “Thành, sao con khóc, nói ra để thầy chia sẽ với con”. Rồi thầy ôm tôi vào lòng, nhận được sự an ủi của thầy, tôi càng khóc to hơn. Sau hôm đó tôi cảm thấy được thầy quan tâm nhiều hơn. Vào một hôm, do tôi không học bài nên bị điểm kém, thầy liền mắng tôi, tôi liền chạy về chỗ ngồi, trong lòng tôi cảm thấy rất tức thầy. Vào giờ ra chơi thầy không ra chơi với các bạn như mọi khi, thầy xuống chỗ tôi. Thầy nói: “Thầy xin lỗi em vì đã quá nặng lời, nhưng em là lớp trưởng nên phải gương mẫu cho các bạn noi theo…. thầy giảng lại cho tôi bài tôi chưa hiểu. Tôi nhìn thầy lúc đó mà trong lòng cảm thấy hối hận vô cùng, ân hận vì đã làm thầy buồn. Tôi tự hứa sẽ cố gắng phấn đấu tốt hơn. Vậy đấy, thầy đã để lại cho tôi những kỉ niệm không bao giờ phai mờ về một người thầy giản dị mà thân thương. Tôi hứa sẽ cố gắng học tập để trở thành công dân tốt, có ích cho đất nước và xã hội. Công ơn thầy sẽ mãi được khắc ghi như câu danh ngôn: “Ngọc không mài không sáng, người không học không tài.”
Những kỉ niệm sâu sắc về thầy cô và mái trường mến yêu - mẫu 13
Trong mấy năm đi học, em đã có rất nhiều kỉ niệm buồn vui dưới mái trường thân yêu. Nhưng kỉ niệm mà tôi sẽ chẳng bao giờ quên đó là kỉ niệm hồi lớp 1, khi em tập viết và cô giáo đã tận tình cầm tay tôi viết từng nét. Tròn 6 tuổi, em bước vào lớp một với tất cả sự háo hức. Em học đọc rất nhanh, chỉ nghe cô giáo đọc một lần, em có thể đọc theo vanh vách. Nhưng viết với em quả là một hành trình gian nan. Em thuận tay trái, từ nhỏ mẹ đã rèn cho em cầm bút tay phải. Nhưng cứ khi nào không có ai nhìn là em lại đổi tay. Cô giáo đầu tiên của em tên là Ngọc. Đúng như cái tên, cô xinh xắn và rạng rỡ, lại trìu mến, hiền dịu. Cô biết em thuận tay trái nên thường xuống bàn quan sát tôi viết. Bước vào học kì hai, chúng tôi tập viết chữ nhỏ, lại viết những bài chính tả dài hơn. Chữ em dần nguệch ngoạc. Trong giờ chính tả hôm đó, cô chép những dòng chữ tròn trịa lên bảng, chúng em chép vào vở của mình. Vì thấy cô không để ý, em lại đổi tay để viết. Đến cuối buổi học, cô Ngọc trả vở chính tả cho chúng em. Cô bắt đầu nhận xét. Bỗng, cô nhắc tới em: “Bạn Gia Bảo hôm nay viết có tiến bộ. Tuy nhiên, cô nghĩ là con đang quên một điều.” Em hoảng hốt cúi mặt xuống. Trong tà áo dài thướt tha, cô bước xuống bàn em và tiếp lời: “Cả lớp nhớ cô dặn khi viết, tay chúng ta cầm bút thế nào không?” Lớp tôi đồng thanh nhắc lại lời cô dặn. Cô lại nói: “Tuy vậy, bạn Gia Bảo vẫn quên. Cô phê bình Gia Bảo trong buổi học ngày hôm nay.” Rồi cô nhìn thẳng em và nói: “Cô hi vọng Gia Bảo sẽ nhớ lời cô dặn.” Một vài bạn cất tiếng cười chê bai. Nghe thấy vậy, khuôn mặt em nóng bừng, nước mắt ứa ra và bàn tay vò trang vở vừa viết. “Cô thấy hôm nay chữ con viết tròn, đều đúng khoảng cách. Con viết đẹp hơn rất nhiều bạn.” – Cô lại nhẹ nhàng nói. Cả lớp im phăng phắc. Em được cô khen lại thấy êm lòng nên trút bỏ được cơn tức giận của một cậu con trai hiếu thắng. Từ đó, em kiên trì rèn viết bằng tay phải. Lên lớp 2, tôi đã viết được những dòng chữ vô cùng sạch đẹp. Dù bây giờ, em không còn được học cô nữa, nhưng những bài học lí thú hay lời dạy ân cần của cô vẫn còn in đậm trong tâm trí em.
Những kỉ niệm sâu sắc về thầy cô và mái trường mến yêu - mẫu 14
Trong quãng thời gian tuổi học trò, ai cũng có những kỉ niệm bạn bè, thầy cô. Dù rằng những kỉ niệm ấy vui hay buồn thì nó đều là hành trang của tuổi học trò giúp ta khôn lớn, trưởng thành. Đối với tôi – kỉ niệm về thầy Khánh – người thầy giáo cũ năm lớp 8 mãi mãi không bao giờ tôi quên. Đó là kỉ niệm buồn về một lần tôi đã nghĩ sai về thầy. Thầy Khánh thực ra không phải chủ nhiệm lớp tôi. Cô chủ nhiệm đi công tác một tuần nên Nhà trường phân công thầy phụ trách môn văn lớp tôi. Lớp tôi có lẽ rất ít bạn biết thầy Khánh và tôi cũng chưa thấy thầy bao giờ. Tôi nhớ đó là buổi học đầu tiên thầy đến dạy lớp tôi. Trong giờ ra chơi, cả lớp tôi nháo nhào cả lên, lộn xộn! Chúng nó đều đang đoán già đoán non thầy giáo mới như thế nào. Và tôi cũng không ngoại lệ. Không biết thầy mới như thế nào nhỉ? Chắc thầy vui tính, tâm lí lắm đây. Nhưng trái ngược với những gì tôi nghĩ, khi trống điểm tiết bốn, thầy bước vào lớp trong con mắt ngạc nhiên của chính tôi: thầy đã đứng tuổi, nước da ngăm đen sạm lại. Điều tôi chú ý nhất chính là mái tóc đã điểm những sợi bạc cố gắng che đi vết sẹo dài bên tai. Thầy nở nụ cười nhìn chúng tôi. Và bằng một giọng khàn khàn mà trầm đến lạ, thầy nói: -Xin chào cả lớp. Thầy là Nguyễn Văn Khánh – người trực tiếp phụ trách bộ môn Ngữ Văn lớp ta trong tuần này khi cô Mi có lịch đi công tác. Cả lớp im lặng. Thầy lại tiếp lời: -Hi vọng lớp chúng ta sẽ có những giờ học đáng nhớ. Tôi nghe thầy giới thiệu. Vì sao tôi không có chút thích thú nào? Tiết học bắt đầu với tiếng loạt xoạt mở sách vở. Thầy ghi lên bảng dòng chữ to: “Truyện ngắn Chiếc lược ngà -Nguyễn Quang Sáng”. Thầy giảng rất say sưa. Cả lớp chăm chú nghe thầy giảng. Nhưng không biết hôm nay tôi làm sao mà không nhập tâm vào bài học được. Giọng nói khản đặc của thầy cứ ù ù bên tai tôi một cách khó chịu. Tôi đã rất cố gắng, cố gắng để tiếp tục học, nhưng sao… Thầy hỏi chúng tôi có hiểu bài không, song tôi lại im lặng lúc đó mà không có ý kiến gì. Song song với việc giảng bài, thầy viết sơ đồ tư duy lên bảng. Giọng thầy run run một cách kì lạ, ngập ngừng như nghẹn lại cái gì ở cổ. Thầy sao vậy? Thầy có chuyện gì sao? Cả lớp nổi lên một vài tiếng động khe khẽ rồi lại im lặng khi thầy viết bảng. Thầy viết một cách chậm chậm, từ từ mà sao dòng chữ kia khó đọc quá. Cái nét chữ run run, xô lệch nhau tưởng chừng như sắp ngã. Tôi bắt đầu thấy khó chịu. Tôi thì thầm với thằng Nhân bên cạnh: -Mày ơi, thầy viết gì kia? Dạy gì mà trầm, chẳng sôi nổi như cô Mi. Sao tao chán học văn thầy dạy quá. Rồi tôi quay xuống bàn cái Hân: -Mày hiểu không? Thầy giảng khó nghe quá. Tôi học mà kiến thức cứ trôi tuột đi đâu. Giọng thầy thì khản đặc, chữ thầy thì bé cộng với trời ngoài kia mịt mù như sắp đổ mưa lớn khiến tôi càng không thiết tha với lời giảng. Thầy vẫn giảng, lớp vẫn chăm chú, tôi ngồi nghe lấy lệ. Cơn khó chịu nổi lên đỉnh điểm, tôi giơ tay nói: -Thầy nói to hơn được không ạ? Chữ thầy nhỏ quá em cũng không hiểu được ạ. Tôi ngồi phịch xuống. Thằng An lên tiếng trước thầy: -Mày có chịu nghe, chịu học đâu mà nhiều chuyện vậy? Cả lớp đang học say sưa mà mày thì ngọ nguậy rồi thưa này thưa nọ. Tôi quay sang lườm nguýt nó một cái. Thầy ho như muốn phá vỡ cái nghẹn trong cổ, quay xuống lớp nhìn chúng tôi với ánh mắt hiền mà ấm áp: -Thầy sẽ cố gắng. Em chưa hiểu chỗ nào thầy sẽ giảng lại nhé. Tôi im lặng chẳng nói gì, cũng chẳng cúi đầu làm như mình sai mà nhận lỗi. Cả lớp đổ dồn ánh mắt vào tôi, tôi mặc kệ. Trở lại tiết học, thầy thầy tiếp tục giảng và ghi. Tôi chỉ mong trống báo hết giờ sớm điểm. Rồi “Tùng!… Tùng!… Tùng!… ” – tiếng trống vang lên làm tôi như mở cờ trong bụng. Thầy nói: -Hết giờ rồi, chúng ta dừng tại đây. Các em về ôn bài để mai chúng ta tiếp tục học. Cả lớp thu xếp sách vở và ra về. Còn thầy thì vẫn ngồi trên bàn giáo viên. Tất nhiên với một đứa hóng về như tôi thì tôi sẽ là đứa ra về đầu tiên. Nhưng đến lán xe, tôi mới nhớ mình để quên mũ trên lớp. Vội vàng chạy lên, vừa sợ bị về sau các bạn, vừa sợ trời mưa. Bước tới cửa lớp, tôi sững người khi thấy thầy đang ngồi thoa thuốc lên vết sẹo dài kia. -Em… em chào thầy ạ! – Tôi lí nhí, ấp úng. Thầy không nói gì, mỉm cười, bình thản. -Thầy làm sao vậy ạ? – Tôi bất ngờ hỏi. Thầy đến bên tôi, ngồi vào cạnh ghế tôi, ôn tồn: -Ngày xưa thầy đi bộ đội. Ra chiến trường khói lửa, thầy bị đạn của địch bắn vào, lâu ngày thành sẹo. Mỗi khi trái gió trở trời như hôm nay là nó lại làm thầy đau đầu, nhức nhối. Tôi lặng người đi. Thì ra thầy viết nguệch ngoạc là vậy… Lòng tôi trào dâng một niềm xúc động nghẹn ngào. Tôi cầm thuốc thoa lên vết sẹo và nói trong tiếng khóc: -Thầy ơi, em xin lỗi, em đã nghĩ sai về thầy mà vô lễ với thầy. Thầy xoa đầu tôi, mỉm cười và khẽ lắc đầu: -Không sao mà em! Cố gắng học tập tốt là thầy cô vui lòng rồi. Ngồi nói chuyện với thầy một lúc lâu, tôi chào thầy ra về. Trời u ám mây đen nhưng lòng tôi nghẹn ngào đến lạ. Tôi không đạp nhanh, không lo chạy mưa mà chỉ nghĩ đến thầy Khánh – sợ thầy về trong cơn mưa bất chợt. Cảm ơn những người lính anh dũng như thầy – nhờ thầy chúng con được như ngày hôm nay. Đã có lời giải bài tập lớp 7 sách mới: Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85 4.5 (243) 799,000đs 199,000 VNĐ 4.5 (243) 799,000đ 99,000 VNĐ 4.5 (243) 999,000đ 299.000 - 599.000 VNĐ Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube: Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 7 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 7 và Những bài văn hay đạt điểm cao lớp 7. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 7 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 7 và Những bài văn hay đạt điểm cao lớp 7. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Trang web chia sẻ nội dung miễn phí dành cho người Việt. Lớp 1-2-3 Lớp 4 Lớp 5 Lớp 6 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 9 Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Lập trình Tiếng Anh Chính sách bảo mật Hình thức thanh toán Chính sách đổi trả khóa học Chính sách hủy khóa học Tuyển dụng Tầng 2, số nhà 541 Vũ Tông Phan, Phường Khương Đình, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, Việt Nam Phone: 084 283 45 85 Email: vietjackteam@gmail.com CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội. 2015 © All Rights Reserved.
Dàn ý Phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng
I. Mở bài II. Thân bài 1. Thiên nhiên ở chiến khu Việt Bắc trong đêm trăng - Hình ảnh ánh trăng: “nguyệt chính viên” - trăng đúng lúc tròn nhất. => Không gian bao la, tràn ngập ánh trăng. - Sức sống của mùa xuân: “xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên” => Ba chữ “xuân” nối tiếp nhau thể hiện sức xuân và sắc xuân đang trỗi dậy. Khung cảnh tràn đầy sức sống. => Hai câu đầu đã khắc họa bức tranh thiên nhiên đêm rằm mùa xuân đẹp, bát ngát, rộng lớn và tràn đầy sức sống. 2. Hình ảnh con người trong đêm trăng ở chiến khu Việt Bắc - Công việc: “đàm quân sự” - bàn việc quân nghĩa là bàn việc kháng chiến, bàn việc sinh tử của của dân tộc. - Hình ảnh “trăng ngân đầy thuyền”: gợi sức lan tỏa của ánh trăng trong đêm rằm và qua đó thể hiện ý nguyện, mong muốn vươn tới thành công trong sự nghiệp cách mạng. => Hai câu thơ cuối cho thấy phong thái ung dung, lạc quan, luôn tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng và tâm hồn giao cảm, hòa hợp với thiên nhiên của Bác Hồ. III. Kết bài
Phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng - mẫu 1
Rằm tháng giêng là bài thơ nổi tiếng của Bác, được viết vào đúng rằm tháng giêng năm 1948 ở chiến khu Việt Bắc. Bài thơ đã cho thấy sự tinh tế của Bác trong cách cảm nhận cảnh sắc thiên nhiên, và tâm hồn thi sĩ hòa quyện với tâm hồn của người chiến sĩ. Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên Ta có thể hình dung khung cảnh bầu trời cao rộng trong trẻo, nổi bật là nền trời ấy là ánh trăng tỏa rạng, sáng ngời. Bức tranh của Bác gợi nhiều hơn tả, khung cảnh được vẽ rộng mênh mông, với vài nét phác họa đơn sơ, Người chú ý đến toàn cảnh mà ít đi vào miêu tả chi tiết, cụ thể, đây cũng là cách miêu tả phổ biến trong thơ ca cổ điển. Cả dòng thơ thứ hai tràn ngập sức sống mùa xuân, câu thơ mở rộng ở cả hai chiều, chiều rộng xuân giang, chiều cao xuân thiên, khiến cho khung cảnh càng trở nên rộng rãi, khoáng đạt hơn. Đồng thời sử dụng liên tiếp ba chữ xuân cũng cho thấy sức sống mùa xuân đang tràn ngập khắp nơi. Bác như một tao nhân mặc khách, ung dung thưởng tức không khí xuân nhẹ nhàng, yên bình. Nhưng thật bất ngờ, trong bầu không khí ấy lại đang diễn ra cuộc họp bàn việc quân sự, bàn việc đất nước: Yên ba thâm xứ đàm quân sự. Đối chiếu với nguyên tác ta có thể thấy phần dịch thơ đã không dịch hai chữ “yên ba” có nghĩa là khói sóng. Lược bỏ đi đã làm mất đi cái hư thực, huyền bí của không gian đêm khuya. Ba chữ “đàm quân sự” rất hiện đại và mang âm hưởng của thời đại. Đặt trong hoàn cảnh đất nước đang trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ta càng thấy rõ hơn sự bình tĩnh, chủ động, lạc quan của vị lãnh tụ. Mặc dù vẫn ngày đêm lo nghĩ cho việc nước, nhưng Bác vẫn dành ra chút thời gian ít ỏi để rung cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên. Phong thái ung dung còn được thể hiện trong câu thơ cuối: Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền. Con thuyền của Bác sau khi bàn việc quân tràn ngập ánh trăng, lướt đi phơi phới như đang chở một thuyền trăng trở về. Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển và phong cách hiện đại. Những thi liệu cổ như con thuyền, vầng trăng,… đã biến Bác thành một thi nhân hòa mình vào thiên nhiên. Không gian núi rừng để đàm đạo quân sự lại đầy chất hiện đại. Sử dụng thể thở thất ngôn tứ tuyệt, lời ít ý nhiều , tạo sức gợi cho ngôn từ và hình ảnh. Bài thơ với ngôn ngữ cô đọng, chắt lọc tinh tế đã cho ta thấy Bác ở những chiều kích khác nhau. Đó là một tâm hồn yêu thiên nhiên, rung cảm trước vẻ đẹp của vạn vật khi xuân sang. Không chỉ vậy, đó còn là tâm hồn của một chiến sĩ, luôn ngày đêm lo lắng cho sự nghiệp cứu nước, nhưng hơn hết vẫn thể hiện được phong thái ung dung, lạc quan trong cuộc đời kháng chiến đầy gian khổ.
Phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng - mẫu 2
Rằm tháng giêng được Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tác trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ đã khắc họa hình ảnh thiên nhiên ở chiến khu Việt Bắc trong đêm trăng. Đồng thời, Bác còn gửi gắm tình yêu thiên nhiên, cũng như tấm lòng yêu nước sâu sắc. Hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc được Bác khắc họa trong một đêm trăng: “Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,” (Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng đúng lúc tròn nhất) Nhưng không phải là một đêm trăng bình thường, mà là đêm rằm tháng giêng. Trăng lúc này đang ở độ đẹp nhất - “nguyệt chính viên” (trăng đúng lúc tròn nhất). Mọi vật tại nơi đây đều nhuốm màu của ánh trăng. “Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên;” (Sông xuân, nước xuân tiếp giáp với trời xuân) Bác đã sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ - từ “xuân” được nhắc lại ba lần nhằm nhấn mạnh vào sức sống và sắc xuân đang trỗi dậy khắp mọi không gian. Từ “tiếp” gợi ra cho người đọc cảm nhận rằng dường như trời và đất đang giao hòa gặp gỡ nhau bởi sắc xuân rực rỡ. Hai câu thơ mở đầu đã khắc họa nên một bức tranh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc đầy chân thực, sống động. Trong bức tranh đó, con người xuất hiện với tư cách là chủ thể trữ tình: “Yên ba thâm sứ đàm quân sự,” (Nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng bàn việc quân) Đặt vào hoàn cảnh lúc bây giờ, mọi hoạt động cách mạng đều phải diễn ra một cách thầm lặng và kín đáo. Bởi vậy mà Bác Hồ cùng với các chiến sĩ mới lựa chọn thời điểm đêm khuya để bàn bạc việc quân. Đó là những việc quan trọng, có tính quyết định đến sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam. “Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.” (Nửa đêm quay về trăng đầy thuyền) Vì quá hăng say bàn bạc việc quân, việc nước mà đến khi công việc xong xuôi thì trời cũng đã về khuya. Lúc này ánh trăng cũng sáng rõ hơn bao giờ hết. Hình ảnh “nguyệt mãn thuyền” muốn thể hiện sức lan tỏa mạnh mẽ của ánh trăng trong đêm rằm tháng giêng. H ai câu thơ cuối cho thấy phong thái ung dung, lạc quan, luôn tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng và tâm hồn giao cảm, hòa hợp với thiên nhiên của Bác Hồ. Với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt mang đậm nét cổ điển, cùng với việc sử dụng biện pháp tu từ, Hồ Chí Minh đã khắc họa hình ảnh thiên nhiên ở chiến khu Việt Bắc trong đêm trăng rằm tháng giêng thật sống động. Rằm tháng giêng thể hiện được một tâm hồn thi sĩ đa sầu đa cảm. Cùng với đó, hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện lên với phong thái ung dung, lạc quan và đầy lãng mạn.
Phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng - mẫu 3
Nguyên tiêu là bài thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh được viết trong thời gian kháng chiến chống Pháp tại chiến khu Việt Bắc. Sau chiến thắng Việt Bắc, Thu Đông 1947 sang Xuân Hè 1948 quân ta lại thắng lớn trên đường số 4. Niềm vui thắng lợi tràn ngập tiền tuyến, hậu phương. Trong không khí sôi động và phấn chấn ấy bài thơ Nguyên tiêu của Bác Hồ xuất hiện trên báo Cứu quốc như một đoá hoa xuân ngọt ngào rực rỡ sắc hương. Mở đầu bài thơ là cảnh tuyệt vời trong đêm nguyên tiêu. Trên bầu trời vầng trăng tròn vành vạnh: “Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên” (Rằm xuân lồng lộng trăng soi) Trăng rằm tháng giêng mang vẻ đẹp tươi xinh khác thường vì có hơi thở của mùa xuân. Đêm rằm, trăng sáng ánh trăng lồng lộng dát vàng trên nền trời, phủ khắp chốn trần gian, ánh trăng tràn mọi nẻo... Ánh trăng làm cho cảnh vật mang vẻ đẹp hữu tình lung linh sinh sắc. Đất nước, quê hương bao la một màu xanh bát ngát, màu xanh lấp lánh của xuân giang, dòng sông như được tiếp thêm sức sống mới dưới khí trời mát dịu. Dòng sông trở nên đẹp hơn, hữu tình hơn, dòng sông xanh xuân thủy và tiếp nối với màu xanh của xuân thiên. Mùa xuân là mùa của chồi non, sự sống. Xuân phơi phới có ở khắp mọi nơi, xuân của dòng sông, dòng nước, không gian cao rộng của bầu trời. Khí xuân tràn ngập sự sống, ba từ xuân làm nổi bật cái thần của cảnh vật, sông nước và bầu trời: “Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên” (Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân) Xuân trong câu thơ chữ Hán của Bác là mùa xuân, là tuổi trẻ và vẻ đẹp xinh tươi. Nó còn gợi tả màu xanh của sông nước, đất trời vào xuân. Khi vào xuân, con người tạo vật như bừng tỉnh, rạo rực trong cuộc sống mới. Nhà thơ Thanh Hải đã từng cảm nhận mùa xuân cua thiên nhiên và đất trời qua những tín hiệu đặc sắc: “Mọc giữa dòng sông xanhMột bông hoa tím biếcƠi! Con chim chiền chiệnHót chi mà vang trờiTừng giọt long lanh rơiTôi đưa tay tôi hứng…” (Mùa xuân nho nhỏ) Xuân đến, tiếng chim hót vang lừng, giọt mùa xuân long lanh do đất trời ban tặng làm cho sự sống rạo rực hơn và bất tận. Trong câu thơ của Bác xuân còn gợi tả màu xanh của sông nước, trời đất vào xuân, sức sống mãnh liệt, trẻ trung căng tràn nhựa sống. Niềm vui sướng tự hào phơi phới của Bác đang ngây ngất say sưa giữa một đêm xuân đẹp, một đêm xuân lịch sử - đất nước đang anh dũng kháng chiến. Với Bác, yêu trăng, yêu xuân chính là yêu cuộc đời. Trái tim mênh mông của người chan hoà với thiên nhiên, sông núi, hoa lá cỏ cây thật hữu tình. Có trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa, trăng vào cửa sổ đòi thơ trong niềm vui thắng trận. Và xem sách chim rừng vào cửa đậu - phê văn hoa núi ghé nghiêng soi. Thiên nhiên trong thơ Bác thật phong phú và chan chứa chất thơ. Đến hai câu thơ cuối, ta thấy cảm nhận về dòng sông, về khói sóng, và con thuyền được nâng lên một mức: “Yên ba thâm xứ đàm quân sự”(Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền) Nhớ ánh trăng ngày nào khi Bác còn bị giam dưới ngục lạnh nơi đất khách quê người (1942-1943) thì đêm nay - đêm rằm tháng giêng (1948) lại bắt gặp ánh trăng nơi chiến khu Việt Bắc. Con thuyền xuôi mái giữa dòng sông trăng, tựa mạn thuyền người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh đang đàm quân sự. Ánh trăng đêm này là ánh trăng ước hẹn, báo trước những mùa trăng trong năm được nhân dân đón đợi với bao tình cảm nồng hậu. Trăng đêm nay không phải là ánh trăng bình thường trước sân nhà, đầu ngõ. Bác thưởng trăng trên khói sóng, người đang thưởng trăng nguyên tiêu không chỉ mang cốt cách như các bậc tao nhân mặc khách ngày xưa mà còn là con người hành động, người chiến sĩ cộng sản đánh giặc. Vị lãnh tụ đang bàn bạc việc quân trên con thuyền nhẹ lướt giữa sông nước trời xuân đây là trường hợp thưởng trăng rất đặc biệt, yên ba là khói sóng, thi liệu cổ của Đường thi. Vậy là câu thơ có nét cổ điển và có nét hiện đại, chất hiện đại đó chính chất thép, chất chiến đấu của người chiến sĩ cộng sản: Nay ở trong thơ nên có thép - Nhà thơ cũng phải biết xung phong. Sau quãng thời gian bàn bạc việc quân, đêm đã về khuya, nửa đêm (dạ bán). Con thuyền kháng chiến trở thành con thuyền trăng trên vời sông nước mênh mông: (Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền) (Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền) Hình ảnh nguyệt mãn thuyền gợi cho chúng ta nhớ đến những vần thơ cổ thi hoa lệ: “Thuyền mấy lá đông, tây lặng ngắtMột vầng trăng trong vắt lòng sông…” (Bạch Cư Dị) “Nước biếc non xanh thuyền gối bãiĐêm thanh nguyệt bạc, khách lên lầu” (Nguyễn Trãi) Trở lại bài thơ Nguyên tiêu ta thấy con thuyền đang trôi nhẹ ẩn hiện sau màn sương khói. Trên chiếc thuyền hình ảnh thi sĩ - chiến sĩ hiện lên thật đẹp đẽ với bàn bạc việc quân trong đêm trăng, tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, quyết chiến đấu giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Nguyên tiêu là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, mang phong vị Đường thi. Bài thơ có nét thơ cổ thể: con thuyền, trăng, sóng, xuân, nước xuân, trời xuân, khói sóng... điệu thơ thanh nhẹ. Trong khung cảnh ấy chất chiến sĩ là trung tâm. Bài thơ như một đoá hoa xuân, tinh hoa kết tụ tâm hồn trí tuệ, đạo đức Hồ Chí Minh. Văn là người, thơ là tấm lòng. Bài thơ này thể hiện tình yêu thiên nhiên đất nước, đồng thời bộc lộ tình yêu nước sâu sắc. Cốt cách thi sĩ hoà quyện chất chiến sĩ chất chứa đầy ắp trên chiếc thuyền kháng chiến đang tiến nhanh về bến bờ độc lập tự do.
Phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng - mẫu 4
Bài thơ “Nguyên tiêu” (Rằm tháng giêng) là một trong những bài thơ nổi tiếng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài thơ đã khắc họa được khung cảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc trong đêm trăng cũng như qua đó bày tỏ tấm lòng yêu nước sâu nặng của Người: “Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên;Yên ba thâm xứ đàm quân sự,Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.” Có lẽ hình ảnh ánh trăng không còn xa lạ gì trong thơ ca. Ta đã từng bắt gặp ánh trăng nhớ trong thơ Lý Bạch: “Sàng tiền minh nguyệt quang,Nghi thị địa thượng sương.Cử đầu vọng minh nguyệt,Đê đầu tư cố hương.” (Đầu giường ánh trăng rọi,Ngỡ mặt đất phủ sương.Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,Cúi đầu nhớ cố hương) Ánh trăng trong thơ Lý Bạch dường như mang nỗi nhớ về quê hương. Còn trong “Rằm tháng giêng” của Hồ Chí Minh, ánh trăng lại mang một ý nghĩa khác. Nhà thơ đã xây dựng hình ảnh ánh trăng trong một đêm rằm tháng giêng với vẻ đẹp “nguyệt chính viên” - đó là lúc trăng ở vào độ tròn đầy và sáng nhất. Ánh trăng trong đêm rằm vốn đã đẹp nhưng ánh trăng trong đêm rằm tháng giêng lại đẹp hơn cả. Không chỉ vậy, sắc xuân từ ánh trăng giống như đang bao trùm lên mọi cảnh vật khiến cho “sông xuân”, “nước xuân” và “trời cũng thêm xuân”. Từ “xuân” được điệp lại tới ba lần như muốn khẳng định sắc xuân đang lan tỏa khắp không gian. Không gian ấy mở rộng ra cả ba chiều: chiều cao, chiều rộng và chiều sâu làm cho cảnh vật thiên nhiên trở nên rộng lớn hơn chứ không bó hẹp. Sự nối tiếp giữa “sông xuân”, “nước xuân” và “trời xuân” cũng gợi ra vẻ đẹp giao hòa giữa bầu trời và mặt đất đều tràn ngập ánh trăng. Trong bức tranh thiên nhiên đầy thơ mộng đó, người chiến sĩ cách mạng vẫn không quên đi một nhiệm vụ quan trọng. Những năm tháng chiến tranh, mọi công việc hoạt động cách mạng đều phải diễn ra một cách âm thầm và kín đáo. Chính vì vậy, những người chiến sĩ cách mạng đã lựa chọn thời điểm trong đêm khuya để bàn bạc việc quân việc nước. Vì quá say sưa bàn luận mà họ dường như quên mất đi thời gian, để đến khi công việc đã xong xuôi mới nhận ra đêm đã khuya. Và ánh trăng lúc này cũng là sáng nhất. Hình ảnh “con thuyền” ẩn dụ cho sự thắng lợi của cách mạng. Con thuyền chứa đầy ánh trăng giống như thắng lợi của cách mạng không còn xa nữa. Đó chính là niềm tin của Bác Hồ vào sự nghiệp đấu tranh của dân tộc. Như vậy, bài thơ “Rằm tháng giêng” đã khắc họa được bức tranh thiên nhiên trong đêm rằm tháng giêng đầy thơ mộng cùng tình yêu nước sâu sắc của Hồ Chí Minh. Không chỉ vậy, người đọc cũng thấy được một tâm hồn thi sĩ đầy tinh tế nhạy cảm của Bác Hồ.
Phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng - mẫu 5
Chủ tịch Hồ Chí Minh có rất nhiều bài thơ hay. Một trong số đó là bài “Rằm tháng giêng” đã khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên nơi chiến khu Việt Bắc trong đêm trăng: “Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên;” (Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng đúng lúc tròn nhấtSông xuân, nước xuân tiếp giáp với trời xuân) Trăng vốn là một đề tài quen thuộc trong thơ ca, đặc biệt là trong thơ Bác. Ta đã từng bắt gặp ánh trăng gợi nhớ về quê hương trong thơ Lí Bạch: “Sàng tiền minh nguyệt quangNghi thị địa thượng sương” (Ngẩng đầu ánh trăng rọiNgỡ mặt đất phủ sương) Hay trong chính thơ của Bác, ánh trăng cũng xuất hiện trong bài thơ Cảnh khuya: “Tiếng suối trong như tiếng hát xaTrăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa” Đến “Rằm tháng giêng”, ánh trăng xuất hiện với nét độc đáo. Trước hết, đây không phải là một đêm trăng bình thường, mà là đêm rằm tháng giêng. Trăng đang ở độ tròn đầy nhất, đẹp nhất và sáng nhất - “nguyệt chính viên”. Bởi vậy, ánh sáng của trăng chiếu xuống cảnh vật khiến cho thiên nhiên tràn đầy sức sống, vẻ đẹp. Đến câu thơ tiếp theo, Bác đã sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ - từ “xuân” được nhắc lại ba lần. Từ “tiếp” gợi ra cho người đọc cảm nhận rằng dường như trời và đất đang giao hòa gặp gỡ nhau bởi sắc xuân rực rỡ. Thiên nhiên lúc này đang nhuốm đậm sắc xuân. Mọi vật tràn đầy sức sống đang căng mình trỗi dậy giữa đất trời. Như vậy, hai câu thơ đầu đã khắc họa hình ảnh thiên nhiên đêm trăng vô cùng sinh động. Đến với hai câu thơ tiếp, con người đã xuất hiện, nhưng với tư cách là chủ thể trữ tình: “Yên ba thâm sứ đàm quân sự,Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.” (Nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng bàn việc quânNửa đêm quay về trăng đầy thuyền) Trong thơ ca xưa, con người xuất hiện trước thiên nhiên vô cùng nhỏ bé, mờ nhạt: “Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhà” (Qua Đèo Ngang, Bà Huyện Thanh Quan) Nhưng trong thơ Bác, con người đã xuất hiện với tư cách là chủ thể trữ tình. Mặc dù trong hoàn cảnh đất nước đang chiến tranh, mọi hoạt động đều phải diễn ra một cách thầm lặng và kín đáo, nhưng con người vẫn hiện lên với tư cách là trung tâm. Ở đây, Bác Hồ cùng với các chiến sĩ mới lựa chọn thời điểm đêm khuya để bàn bạc việc quân. Đó là những việc quan trọng, có tính quyết định đến sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam. Bởi vì quá hăng say bàn bạc việc quân, việc nước mà đến khi công việc xong xuôi thì trời cũng đã về khuya. Bác chợt nhận ra vẻ đẹp thơ mộng của ánh trăng. Hình ảnh “nguyệt mãn thuyền” muốn thể hiện sức lan tỏa mạnh mẽ của ánh trăng trong đêm rằm tháng giêng. Hai câu thơ cuối cho thấy phong thái ung dung, lạc quan, luôn tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng và tâm hồn giao cảm, hòa hợp với thiên nhiên của Bác Hồ. Tóm lại, bài thơ “Rằm tháng giêng” đã khẳng định tình yêu thiên nhiên, cùng với lòng yêu nước sâu sắc của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng - mẫu 6
Bài thơ “Rằm tháng giêng” được Bác Hồ viết trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ không chỉ miêu tả hình ảnh thiên nhiên ở chiến khu Việt Bắc trong đêm trăng mà còn thể hiện được tình yêu thiên nhiên, tâm hồn nhạy cảm cũng như tấm lòng yêu nước sâu nặng của chủ tịch Hồ Chí Minh Mở đầu bài thơ là hình ảnh ánh trăng trong đêm tại chiến khu Việt Bắc: "Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên" (Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng đúng lúc tròn nhất) Hình ảnh ánh trăng vào đêm rằm tháng giêng được nhà thơ miêu tả là “nguyệt chính viên” (trăng đúng lúc tròn nhất). Ánh trăng lúc này dường như bao phủ khắp núi rừng Việt Bắc khiến cho cảnh vật trở nên ấm áp hơn. Đến câu thơ tiếp theo, hình ảnh thiên nhiên lại càng đẹp hơn: "Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên" (Sông xuân, nước xuân tiếp giáp với trời xuân) Ba từ “xuân” nối tiếp nhau thể hiện sức sống và sắc xuân đang trỗi dậy khắp mọi không gian. Từ “tiếp” gợi ra cho người đọc cảm nhận rằng dường như trời và đất đang giao hòa gặp gỡ nhau bởi sắc xuân rực rỡ. Như vậy hai câu thơ mở đầu bài thơ đã đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên trong đêm rằm tháng giêng tràn đầy sức sống. Đến hai câu thơ tiếp theo, hình ảnh con người đã xuất hiện với một công việc thật cao cả: "Yên ba thâm sứ đàm quân sự" (Nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng bàn việc quân) Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, mọi hoạt động cách mạng đều phải diễn ra một cách thầm lặng và kín đáo. Chính vì vậy, Bác Hồ cùng với các chiến sĩ mới lựa chọn thời điểm đêm khuya để bàn bạc việc quân, đó là những công việc quan trọng liên quan đến vận mệnh của quốc gia dân tộc. Và cuối cùng, bài thơ kết lại bằng một câu thơ: "Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền" (Nửa đêm quay về trăng đầy thuyền) Phải chăng vì quá say sưa bàn bạc việc quân việc nước, mà khi trở về thì đêm đã về khuya? Lúc này ánh trăng cũng sáng rõ hơn bao giờ hết. Hình ảnh “nguyệt mãn thuyền” muốn thể hiện sức lan tỏa mạnh mẽ của ánh trăng trong đêm rằm tháng giêng. Qua đó, Bác Hồ muốn thể hiện khát vọng thành công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Với hai câu thơ sau, người đọc như thấy được một phong thái ung dung, lạc quan và lòng tin bất diệt của Người vào sự nghiệp giải phóng dân tộc nhất định sẽ thắng lợi. “Rằm tháng giêng” là bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt mang đậm nét cổ điển. Thiên nhiên trong bài thơ được khắc họa bằng những hình ảnh thiên nhiên quen thuộc trong thơ xưa như ánh trăng, sông nước, trời đất, con thuyền. Cùng với việc kết hợp biện pháp tu từ điệp ngữ đã giúp nhà thơ diễn tả được bức tranh đêm trăng ở chiến khu Việt Bắc thật sinh động. Qua bài thơ trên, ta không chỉ thấy được một tâm hồn thi sĩ đa sầu đa cảm mà còn là con người kiên cường và trung thành với cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng - mẫu 7
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ kính yêu của nhân dân Việt Nam. Người được biết đến không chỉ với tư cách là một nhà hoạt động cách mạng, mà còn với vị trí của một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Trong số những tác phẩm Bác để lại, bài thơ “Rằm tháng giêng” là một tác phẩm nổi bật để lại trong lòng người đọc nhiều suy tư sâu sắc. Năm 1948, tại chiến khu Việt Bắc, Bác Hồ cùng Trung ương Đảng và Chính phủ mở cuộc họp tổng kết về tình hình quân sự thời kì đầu kháng chiến chống Pháp (1947 – 1948). Sau khi họp xong thì đêm cũng đã khuya. Hình ảnh ánh trăng sáng lan tỏa khắp không gian núi rừng rộng lớn. Cùng với sự giao hòa của cảnh vật và con người. Chính bức tranh đầy thơ mộng ấy khơi gợi cảm hứng để Bác sáng tác bài thơ này: “Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên;Yên ba thâm xứ đàm quân sự,Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.” Câu thơ mở đầu gợi ra cho người đọc hình dung về một đêm rằm tháng giêng, ánh trăng đúng lúc tròn và sáng nhất. Ánh trăng dường như sáng đến độ có thể thắp sáng vạn vật. Để rồi cả “sông xuân”, “nước xuân”, “trời xuân” cũng lẫn màu ánh trăng. Từ “xuân” được điệp lại đến ba lần gợi ra một không gian thật rộng lớn. Từ “tiếp” gợi cho người đọc hình dung ra hình ảnh bầu trời và mặt đất dường như không còn khoảng cách để rồi như hòa hợp lại thành một. Trong thơ ca cổ, những hình ảnh “giang, thủy, nguyệt, thiên” vốn đã rất quen thuộc nhưng khi đi vào thơ Bác lại làm nổi bật nên một bức tranh đầy hiện đại mang vẻ tươi sáng, rực rỡ và tràn đầy sức sống của vạn vật. Để rồi, đến khi con người xuất hiện thì bức tranh ấy lại càng tuyệt đẹp. Giữa màn sương khói mờ ảo, con người hiện ra trong công việc “đàm quân sự” - một công việc quan trọng, có liên quan đến sự sống còn của dân tộc. Trên con thuyền bồng bềnh nơi sông nước sương khói mờ ảo kia không phải là những người ẩn sĩ trong thơ ca xưa khi tìm về với chốn thiên nhiên để tránh khỏi những thị phi của cuộc đời giống như trong thơ của Cao Bá Quát: “Thế sự thăng trầm quân mặc vấnYên ba thâm xứ hữu ngư châu” (Việc thế thăng trầm anh chớ hỏiMênh mông khói sóng chiếc thuyền câu) Mà đó là hình ảnh của những người chiến sĩ cách mạng đang bàn bạc việc quân, việc nước. Khi khắc họa hình ảnh này, Bác đã làm nổi bật lên tâm hồn cao đẹp của những chiến sĩ cách mạng - họ là những con người yêu nước, thương dân, một lòng kiên trung với cách mạng. Công việc quan trọng của quốc gia lại được bàn bạc trên con thuyền giữa dòng sông khói tỏa mịt mù cũng gợi lên một hình ảnh độc đáo lại nên thơ. Chỉ đến khi công việc bàn bạc đã xong xuôi, người chiến sĩ mới giật mình nhận ra đêm đã quá khuya. Ánh trăng lúc này giống như đang lùa vào thuyền, vào hồn nhà thơ vấn vít. Trăng dâng đầy lai láng trên con thuyền của người chiến sĩ cách mạng khiến con thuyền để “bàn quân sự” giờ đây vụt biến thành con thuyền thơ đầy ảo mộng. Hình ảnh dường như đã lay động tâm hồn nhà thơ. Khi công việc nước đã xong xuôi, Người mới có thời gian ngắm nhìn thiên nhiên bằng một trái tim say mê nhất. Cảnh tượng thiên nhiên khiến tâm hồn thi sĩ rung động, bồi hồi. Như vậy, bài thơ “Rằm tháng giêng” đã bộc lộ được tình yêu thiên nhiên cũng như lòng yêu nước sâu sắc của nhà thơ. Đồng thời, qua đó Bác cũng gửi gắm một niềm tin chiến thắng cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam.
Phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng - mẫu 8
"Nguyên tiêu" nằm trong chùm thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh viết trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, tại chiến khu Việt Bắc: "Nguyên Tiêu",... Sau chiến thắng Việt Bắc, thu đông 1947, sang xuân hè 1948, quân ta lại thắng lớn trên đường số Bốn. Niềm vui thắng trận tràn ngập tiền tuyến hậu phương. Trong không khí sôi động và phấn chấn ấy, bài thơ của Bác Hồ xuất hiện trên báo "Cứu quốc" như một đóa hoa xuân ngào ngạt và rực rỡ sắc hương. Xuân Thủy đã dịch khá hay bài thơ này. Nguyên tác bằng chữ Hán, viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, dịch giả đã chuyển thành thơ lục bát: "Rằm xuân lồng lộng trăng soiSông xuân nước lẫn màu trời thêm xuânGiữa dòng bàn bạc việc quân,Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền" Đêm nguyên tiêu trăng sáng ngời trên một không gian bao la. Bài thơ nói lên cảm xúc và niềm tin dào dạt trong tâm hồn lãnh tụ đêm nguyên tiêu lịch sử. Hai câu đầu vẽ lên cảnh đẹp tuyệt vời đêm nguyên tiêu. Trên bầu Trời, vầng trăng vừa tròn (nguyệt chính viên).Trăng rằm tháng giêng mang vẻ đẹp tươi xinh khác thường vì mùa xuân làm cho trăng thêm đẹp. Và trăng cũng làm cho cảnh vật mang vẻ đẹp hữu tình. Đất nước quê hương bao la một màu xanh bát ngát. Màu xanh lấp lánh của "xuân giang", màu xanh ngọc bích của "xuân thuỷ" tiếp nối với màu xanh thiên thanh của "xuân thiên". Ba từ "xuân" trong câu thơ thứ hai là những nét vẽ đặc sắc làm nổi bật cái "thần" của cảnh vật sông, nước và bầu Trời: "Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên" (Sông xuân nước lẫn màu trời thêm "Xuân") "Xuân" trong câu thơ chữ Hán của Bác là mùa xuân, là tuổi trẻ, là vẻ đẹp xinh tươi. Nó còn gợi tả màu xanh của sông nước, đất Trời vào xuân. Nó thể hiện vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của đất nước ta: trong lửa đạn vẫn dào dạt một sức sống trẻ trung, tiềm tàng. Ngoài giá trị miêu tả cảnh đẹp đêm nguyên tiêu, vần thơ còn biểu hiện tinh tế cảm xúc tự hào, niềm vui sướng mênh mông của một hồn thơ đang rung động giữa một đêm xuân đẹp, một đêm xuân lịch sử, đất nước đang anh dũng kháng chiến. Với Bác Hồ, yêu vẻ đẹp nguyên tiêu, yêu thiên nhiên cũng là yêu đời tha thiết. Bác yêu thiên nhiên nên sông, núi, cỏ cây, hoa lá, tạo vật trong thơ Bác rất hữu tình. Có "Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa". Có "Trăng vào cửa sổ đòi thơ" trong niềm vui thắng trận. Bác yêu hoa núi, chim rừng Việt Bắc: "Xem sách, chim rừng vào cửa đậu - Phê văn hóa núi ghé nghiêng soi", yêu ngọn gió, giọt mưa báo mùa thu chợt đến... Thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh là một trong những yếu tố tạo nên sắc trữ tình và màu sắc cổ điển. Hai câu thơ cuối nói về dòng sông, khói sóng và con thuyền trăng: "Yên ba thâm xứ đàm quân sự, Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền" Ánh trăng ngày trước (1942-1943) chiếu vào nhà ngục lạnh nơi đất khách quê người, thì đêm nguyên tiêu này (1948), trăng lại soi xuống con thuyền trong đó Bác đang "đàm quân sự" (bàn bạc việc quân). Trăng nguyên tiêu là trăng ước hẹn, báo trước những mùa trăng trong năm, được nhân dân đón đợi với bao hi vọng, bao tình cảm nồng hậu. Lại nữa, trường hợp thưởng trăng không phải là trường hợp bình thường diễn ra trên sân nhà, ngõ xóm, hay "đăng lâu vọng nguyệt"... mà là thưởng trăng trên khói sóng, nơi "yên ba thâm xứ" - cõi sâu kín, bí mật trên dòng sông, giữa núi rừng chiến khu bao la!. Người đang thưởng trăng nguyên tiêu không chỉ mang cốt cách như các tao nhân mặc khách ngày xưa, mà còn là con người hành động, người chiến sĩ đánh giặc, vị lãnh tụ đang "bàn bạc quân" để lãnh đạo nhân dân kháng chiến, bảo vệ non sông đất nước. Quả thật, đây là một trường hợp thưởng trăng rất đặc biệt: "Yên ba thâm xứ đàm quân sự". "Yên ba" là khói sóng, một thi liệu cổ được Bác Hồ vận dụng rất sáng tạo làm cho bài thơ "Nguyên tiêu" mang phong vị Đường thi. Ba chữ "Đàm quân sự" đã khu biệt thơ Bác với thơ của người xưa, làm cho văn thơ mang màu sắc hiện đại và không khí lịch sử của thời đại. Sau những canh dài bàn bạc việc quân căng thẳng nơi khói sóng sâu kín, Trời đã về khuya. Nửa đêm (dạ bán), Bác trở về bến, tâm hồn sảng khoái vô cùng. Con thuyền trở thành con thuyền trăng, nhẹ bơi trên sông nước mênh mông, chở đầy ánh trăng vàng: "Dạ bán quy lai, nguyệt mãn thuyền" (Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền) "Nguyệt mãn thuyền" là một hình ảnh rất đẹp và trữ tình nó làm ta nhớ đến những vần thơ cổ thi hoa lệ: "Bạn chơi năm ngoái nào đâu tá?"Trăng nước như xưa chín với mười" (Triệu Hổ, Đường thi) "Thuyền mấy lá đông, tây lặng ngắt,Một vầng trăng trong vắt lòng sông..." (Bạch Cư Dị) "Nước biếc non xanh thuyền gối bãi,Đêm thanh nguyệt bạc, khách lên lầu" (Nguyễn Trãi) Trở lại bài thơ Hồ Chí Minh, ta thấy con thuyền đang trôi nhẹ trên sông, ẩn hiện trong màn khói sóng, mang theo bao ánh trăng, hiện lên một thủ lĩnh quân sự giàu hồn thơ đang lãnh đạo quân dân ta kháng chiến để giành lại độc lập, tự do, để giữ mãi những đêm nguyên tiêu trăng đầy Trời quê hương thanh bình. Hình ảnh con thuyền trăng trong bài thơ này cho thấy tâm hồn Bác Hồ rất yêu thiên nhiên, trong kháng chiến gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Qua bài thơ "Nguyên tiêu", ta có thể nói, trăng nước trong thơ Bác rất đẹp. Chính vầng trăng ấy đã thể hiện phong thái ung dung, tâm hồn thanh cao của vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc mang cốt cách nghệ sĩ, nhà hiền triết phương Đông. "Nguyên tiêu" được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, man mác phong vị Đường thi. Bài thơ có đầy đủ những yếu tố của một bài thơ cổ: một con thuyền, một vầng trăng, có sông xuân, nước xuân, Trời xuân, có khói sóng. Điệu thơ thanh nhẹ. Không gian bao la, yên tĩnh... Chỉ khác một điều, ở giữa khung cảnh thiên nhiên hữu tình ấy, nhà thơ không có rượu và hoa để thường trăng, không đàm đạo thi phú từ chương, mà chỉ "đàm quân sự". Bài thơ như một đóa hoa xuân đẹp trong vườn hoa dân tộc, là tinh hoa kết tụ từ tâm hồn, trí tuệ, đạo đức của Hồ Chí Minh. Văn tức là người. Thơ là tấm lòng, là tiếng lòng cộng hưởng từ một người với muôn người. Thơ Bác Hồ tuy nói đến "trăng, hoa, tuyết, nguyệt.." nhưng đã phản ánh tâm tư, tình cảm, lẽ sống cao đẹp của Bác. Bác yêu nước, thương dân tha thiết nên Bác càng yêu đêm nguyên tiêu với vầng trăng xuân thơ mộng. Trong kháng chiến gian khổ, Bác đã hướng tới vầng trăng rằm tháng giêng, hướng tới bầu Trời xuân với tâm hồn trong sáng và phong thái ung dung. Cuộc đời không thể thiếu vầng trăng. Biết yêu trăng cũng là biết sống đẹp. "Nguyên tiêu" là một bài thơ trăng tuyệt bút của nhà thơ Hồ Chí Minh. Con thuyền chở đầy ánh trăng cũng là con thuyền kháng chiến đang hướng tới chiến công và niềm vui thắng trận.
Phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng - mẫu 9
Khi nhắc đến dân tộc Việt Nam độc lập tự do hôm nay, không mấy ai quên được công lao của người. Người là một vị lãnh tụ vĩ đại, là một danh nhân văn hoá thế giới và còn là một nhà thơ lớn nhà thi sĩ yêu trăng. Bác đã để lại cho thơ văn Việt Nam rất nhiều tác phẩm, trong đó có bài Rằm tháng giêng. Năm 1948 trên chiếc thuyền nhỏ neo giữa dòng sông ở chiến khu Vịêt Bắc oanh liệt, Bác đã cùng Trung ương Đảng mở cuộc họp về tình hình quân sự kháng chiến chống Pháp (1947 – 1948). Khi cuộc họp kết thúc thì đêm đã khuya, trăng rằm toả sáng khắp mặt đất lan toả trên dòng sông bao la. Cảnh sông núi trong đêm trăng càng trở nên hùng vĩ và thơ mộng. Trước cảnh đẹp của thiên nhiên và của đêm trăng thơ mộng, trước những cảnh đẹp tuyệt vời ấy Bác đã ứng khẩu thành thơ: Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên.Xuân giang xuân thuỷ tiếp xuân thiên.Yên ba thâm sứ đàm quân sự.Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền. Về sau nhà thơ Xuân Thuỷ dịch bài thơ ra tiếng Việt thể lục bát với tên là Rằm tháng giêng. Bản dịch diễn tả gần hết ý thơ trong nguyên tác với nội dung biểu hiện tính yêu thiên nhiên tha thiết và lòng yêu nước của Bác. Ở bài Cảnh khuya, Bác tả đêm trăng rừng Việt Bắc thì bài này cảnh trăng được Bác tả trên sông nước hùng vĩ: Rằm xuân lồng lộng trăng soiSông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân Vầng trăng tròn toả sáng bát ngát khắp nơi, bầu trời mặt đất đều trong lòng ánh trăng. Khung cảnh mênh mông tưởng dường như sông nước tiếp liền với bầu trời “Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân”. Vạn vật đều mang sắc xuân: sông xuân, nước xuân, trời xuân giao hoà với nhau tạo nên một khung cảnh tràn đầy sức sống làm náo nức lòng người. Điệp từ xuân lập lại nhiều lần tạo nên không khí vui tươi của cảnh trăng rằm: Giữa dòng bàn bạc việc quânKhuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền. Trên một chiếc thuyền nhỏ giữa chốn mịt mù khói sóng, Bác cùng các vị lãnh đạo Trung ương Đảng bàn việc quân, việc nước. Buổi đầu cuộc kháng chiến đầy gian khổ biết bao. Tuy vậy Bác vẫn ung dung, thư thả. Buổi họp kết thúc vào lúc nửa đêm. Trăng tròn treo giữa trời (nguyệt chính viên), ánh trăng đang toả sáng khắp mọi nơi. Cảnh sông nước trong đêm càng trở nên thơ mộng. Dòng sông nước biến trở thành dòng sông trăng và con thuyền nhỏ dường như chở đầy trăng tuyệt đẹp. Tâm hồn Bác lâng lâng bạn tri âm muôn đời. Hình ảnh con thuyền nhỏ chở đầy ánh trăng trên sông vô cùng lãng mạng và sâu sắc. Chắc có lẽ Bác đã có một phong thái ung dung, tự tại, lạc quan mãnh liệt nên Bác đã tạo ra được hình tượng nghệ thuật độc đáo trong hoàn cảnh đặc biệt. Bài Rằm tháng giêng với âm sắc sâu lắng, tươi vui đem lại cho người đọc cảm hứng thanh cao, trong sáng. Bài thơ là một dẫn chứng cho thấy Bác là vị lãnh tụ cách mạng tài ba, vừa là một thi sĩ có trái tim vô cùng nhạy cảm. Bài thơ cho chúng ta học được tinh thần lạc quan và phong thái ung dung bình tĩnh ở Bác.
Phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng - mẫu 10
“Thơ xưa thường chuộng thiên nhiên đẹpMây. gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông”(Cảm nghĩ đọc “Thiên gia thi” – Hồ Chí Minh) Trong thơ ca xưa, “trăng” luôn là một trong những thi liệu gần gũi, quen thuộc để người nghệ sĩ thể hiện tâm hồn đồng điệu, giao cảm với thiên nhiên. Bởi vậy, trong những sáng tác của Bác, “trăng” luôn là nguồn cảm hứng bất tận tạo nên vẻ đẹp thi sĩ quyện hòa chất chiến sĩ trong tâm hồn của chủ thể trữ tình. Điều này đã được thể hiện rõ thông qua thi phẩm “Rằm tháng giêng”. Qua bài thơ, độc giả có thể thấy được tình yêu thiên nhiên quyện hòa cùng tình yêu non sông, đất nước, niềm tin vào chiến thắng của dân tộc trong mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình. Bài thơ “Rằm tháng Giêng” ra đời vào năm 1947, gắn với cuộc họp tổng kết về tình hình quân sự, kháng chiến, cách mạng của Trung ương Đảng và Chính phủ. Theo nguyên tác, bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn tứ tuyệt với tựa đề “Nguyên tiêu”: “Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,Xuân sang xuân thủy tiếp xuân thiên.Yên ba thâm xứ đàm quân sự,Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.” Bài thơ được nhà thơ Xuân Thủy dịch nghĩa và chuyển hóa thành thể thơ lục bát: “Rằm xuân lồng lộng trăng soiSông xuân nước lẫn màu trời thêm xuânGiữa dòng bàn bạc việc quânKhuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.” Mở đầu bài thơ, tác giả đã phác họa bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp qua ánh trăng lung linh, huyền ảo: “Rằm xuân lồng lộng trăng soiSông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân” Bức tranh trong đêm trăng được diễn tả qua những nét vẽ gợi hình về thiên nhiên tạo vật. Tác giả đã sử dụng từ “lồng lộng” để miêu tả ánh trong trong đêm “Rằm tháng giêng” với vẻ đẹp tròn đầy cùng ánh sáng ấm áp bao trùm và chiếu rọi khắp không gian, tạo nên cách cảm nhận độc đáo: “Sông xuân nước lẫn bầu trời thêm xuân”. Ánh trăng lan tỏa soi chiếu theo chiều kích không gian từ cao xuống thấp tạo nên một bức tranh tràn ngập sức xuân và sắc xuân: sông xuân, nước xuân, trời xuân cùng giao hòa, mở ra ý niệm độc đáo về niềm tin và sức sống. Trên bối cảnh thiên nhiên tươi đẹp đó, hình ảnh người chiến sĩ cách mạng xuất hiện: “Giữa dòng bàn bạc việc quânKhuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền” Hai câu thơ gợi lên sự giao hòa đồng điệu giữa thiên nhiên và con người. Trước vẻ đẹp của trăng nước, nhân vật trữ tình vẫn không quên đi nhiệm vụ “đàm quân sự”. “Thưởng trăng” và “bàn bạc việc quân” cùng song hành quyện hòa gợi lên mối quan hệ giữa thiên nhiên và non sông đất nước, đồng thời thể hiện niềm tin tưởng, hi vọng vào chiến thắng của cách mạng và sự nghiệp giải phóng dân tộc. Con thuyền tràn ngập ánh trăng đã thể hiện chất thi sĩ và chiến sĩ trong tâm hồn nhân vật trữ tình. Từ đó, độc giả có thể thấy được vẻ đẹp lạc quan cách mạng cùng tình yêu thiên nhiên của tác giả. Như vậy, bài thơ “Rằm tháng Giêng” đã tái hiện thành công bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong đêm trăng với vẻ đẹp lung linh huyền ảo và ngập tràn sức sống. Đồng thời, bài thơ còn là bức chân dung tự họa thể hiện tinh thần lạc quan cách mạng, phong thái ung dung và tình yêu thiên nhiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng - mẫu 11
Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà lãnh tụ vĩ đại, một người cha già đầy lòng nhân ái của dân tộc Việt Nam. Với tâm hồn đầy nhạy cảm, cùng tài năng nghệ thuật độc đáo, Người con là một nhà văn, nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam. Hồ Chí Minh đã có rất nhiều những sáng tác có giá trị cao cả về nội dung cũng như hình thức nghệ thuật, giá trị thẩm mĩ. Nếu theo dõi toàn bộ sự nghiệp văn chương của người, ta có thể thấy ánh trăng xuất hiện khá nhiều trong các trang thơ của Bác. Hay nói cách khác, hình ảnh ánh trăng gợi cho Bác nhiều nguồn cảm hứng nghệ thuật và để lại dấu tích trong các áng thơ văn của Người với nhiều sắc thái, chiều kích khác nhau, để thể hiện những nguồn cảm hứng, tư tưởng riêng của Người. Và bài thơ Rằm tháng giêng là một bài thơ như thế. Rằm tháng giêng là bài thơ lấy cảm hứng thì ánh trăng rằm, qua bài thơ Người khắc hoạ thành công bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ dưới ánh trăng đêm, đồng thời qua đó lồng ghép những xúc cảm thẩm mĩ của mình một cách khéo léo. Điều đặc biệt, dưới ánh trăng Rằm ấy, hình ảnh của Hồ Chí Minh hiện lên không chỉ với tư cách của một người thi sĩ yêu đời, dạt dào cảm xúc, mà còn hiện lên với tư cách của một người chiến sĩ cách mạng nhiệt huyết, trung thành hết mực với sự nghiệp cách mạng của nhân dân, của đất nước: Rằm xuân lồng lộng trăng soiSông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân Mở đầu bài thơ, Hồ Chí Minh đã mở ra một không gian tuyệt mĩ, khoảnh khắc tươi đẹp của một đêm rằm mùa xuân. Không gian như được trải dài ra bát ngát, mênh mông theo không gian rộng lớn của đất trời “Rằm xuân lồng lộng trăng soi”. Mùa xuân là mùa tươi đẹp nhất trong năm, mùa của trăm hoa, vạn vật đua nở, không chỉ khoảnh khắc ban ngày mới gợi lên những nguồn cảm hứng dạt dào. Mà ngay cả khoảnh khắc ban đêm, khi ánh trăng bao trùm lấy không gian thì cảnh sắc của đất trời lại hiện lên mới một hình dáng độc đáo, tươi đẹp hoàn toàn mới lạ. Và với con mắt đầy tinh tế, sự cảm nhận đầy nhạy cảm, Hồ Chí Minh đã thu trọn không gian này vào tầm mắt của mình. “Rằm” là khoảng thời gian trăng tròn nhất, sáng nhất trong một tháng. Ở đây hình ảnh ánh trăng mùa xuân hiện lên đầy sức gợi cảm, bởi nó gợi ra cho người đọc không chỉ có những liên tưởng về mặt thị giác mà còn kích thích cảm giác, đó chính là cảm giác muốn được chiêm ngưỡng, muốn được thưởng ngoạn. “Lồng lộng” gợi ra diện không gian rộng lớn mà ánh trăng bao phủ, đồng thời cũng gợi ra cái thăng hoa về cảm xúc của người thi nhân. Dưới ánh trăng Rằm sáng vằng vặng của đêm xuân, từng tia sáng chiếu xuống mặt đất đều tạo ra một sự rung động, giao hoà với mọi vật. Vì vậy từ lồng lộng ta còn hiểu như một sự tác động mạnh mẽ, làm cho hoạt động “soi” thêm sinh động, gợi cảm. “Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân”, nếu như ở câu thơ đầu có sự giao hoà giữa ánh sáng và bầu trời thì đến câu thơ này, sự giao hoà ấy được mở rộng, nhân rộng hơn. Dòng sông mùa xuân vốn trong xanh, tươi đẹp, nhưng dưới sự phản chiếu của ánh sáng trăng Rằm thì cái vẻ đẹp vốn có ấy được đẩy lên mức tuyệt mĩ. Dưới ngòi bút miêu tả của Hồ Chí Minh, dường như dòng nước với ánh trăng đã hoà quyện làm một, chúng giao thoa với nhau hài hoà, tinh tế. Do đó mà dòng sông xuân vốn tươi đẹp nay lại hoà thêm sắc trời xuân thì càng rực rỡ, độc đáo hơn. Đặc biệt, mối quan hệ của dòng sông và bầu trời là mối quan hệ hai chiều. Không chỉ ánh trăng làm cho mặt nước thêm đẹp mà chính mặt nước cũng tôn lên vẻ đẹp của ngày xuân. Giữa dòng bàn bạc việc quânKhuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền Qua hai câu thơ này, ta có thể hiểu được vì sao Hồ Chí Minh lại có thể quan sát và cảm nhận tinh tế đến vậy vẻ đẹp của đêm trăng Rằm, bởi vị trí thưởng ngoạn của bác là ở giữa dòng, vị trí chính giữa của dòng sông, nơi có điều kiện quan sát toàn vẹn cảnh vật trên bầu trời cũng như dưới dòng sông xanh thẳm. Nhưng Bác ngồi thuyền trên sông không đơn thuần chỉ là ngắm cảnh mà “bàn việc quân”. Với địa vị là một người lãnh đạo, một vị lãnh tụ của phong trào cách mạng ta có thể hiểu địa điểm bàn bạc đặc biệt này. Vì là việc Cách mạng, việc của dân của nước nên không thể có bất kể sự sơ sót nào, bàn bạc trên sông là đảm bảo tính bí mật, thể hiện tính hệ trọng của việc nước. Trong không gian hội họp thường có không khí căng thẳng, trang nghiêm, nhưng dưới ngòi bút của Bác thì dường như không gian hội họp ấy dường như có chút lãng mạn, thi vị đầy chất thơ. Khi việc quân đã bàn bạc xong,con thuyền đưa những người chiến sĩ trở về thì cũng là lúc ánh trăng soi rọi làm sáng cả con thuyền “trăng ngân đầy thuyền”. Câu thơ thể hiện được sự giao hoà giữa lòng người và vũ trụ, như một sự đồng cảm, cổ vũ của thiên nhiên với con người, mang niềm tin vào vận nước nhất định sẽ thành công, sẽ thắng lợi. Rằm tháng giêng là một bài thơ hay và giàu sức biểu hiện. Qua đó Hồ Chí Minh không chỉ khắc hoạ được không gian hùng vĩ, tươi đẹp của cảnh sắc trong đêm rằm mùa xuân mà còn làm nổi bật lên hình ảnh của một người thi nhân tinh tế, một người chiến sĩ cách mạng một lòng vì dân,vì nước. Cùng với đó là nguồn cảm hứng lãng mạn đầy độc đáo, điều mà ta chưa từng thấy trong những áng văn viết về chính sự, vận nước trước đây.
Phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng - mẫu 12
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng nhận xét “thơ Bác đầy trăng”, quả đúng là như vậy. Trăng trong rừng, trăng chốn tù lao, trăng ngoài song cửa, trăng báo tin thắng trận,…vầng trăng như một người bạn tri âm tri kỉ có mặt trong mọi chặng đường Bác đi, sẻ chia bao niềm vui, nỗi buồn cùng Người. Và điều đó cũng được thể hiện qua bài thơ “Rằm tháng giêng”. Tại chiến khu Việt Bắc năm 1947, chiến dịch Việt Bắc của ta thành công rực rỡ đập tan ý đồ xâm lược của địch. Trong niềm hân hoan, hạnh phúc ngập tràn của quân và dân vầng trăng cũng có mặt để cổ vũ tinh thần, san sẻ niềm vui. Bài thơ được xem là một trong những bài thơ hay nhất viết về vầng trăng của Bác, không chỉ bởi hoàn cảnh ra đời đặc biệt của nó, mà còn bởi vẻ đẹp lung linh của dòng sông trăng khiến lòng người thổn thức. Hai câu thơ đầu, dưới bàn tay tinh tế, tài hoa cùng những nét chấm phá tuyệt vời của thi sĩ, bức tranh đêm trăng rằm trên sông nước hiện lên tuyệt đẹp: “Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,Xuân giang xuân thủy tiếp xuân viên;” Giữa bầu trời cao rộng, vầng trăng đêm rằm sáng rực nổi bật trên lên trời. Vầng trăng dát vàng chiếu xuống mặt đất, chiếu qua từng nhành cây, ngọn cỏ khiến cho cảnh vật trở nên lung linh, huyền ảo. Từ trước đến nay, trăng đi vào trong thơ vốn đã đẹp lãng mạn giờ đây ánh trăng ấy được lọt qua khe mắt của thi nhân đúng lúc tròn nhất nên càng thi vị hơn. Khung cảnh núi rừng còn như ngập trong cảnh sắc mùa xuân, sông xuân, nước xuân, trời xuân như hòa vào làm một, không gian bát ngát, cao rộng ngợp trong vẻ đẹp tươi mát của mùa xuân. Từ “xuân” được nhắc lại ba lần trong một câu thơ đem đến không khí vui tươi, lan tràn sức sống cho không gian trăng rằm. Hai câu thơ sau, hình ảnh con người được điểm tô trong bức tranh trăng rằm ngày xuân. Con người đã có những phút giao hòa tuyệt đẹp cùng thiên nhiên. “Giữa dòng bàn bạc việc quân,Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.” Trên một chiếc thuyền nhỏ trôi lênh đênh giữa dòng sông, Bác đang cùng với những người chiến sĩ của mình bàn bạc việc nước. Hình ảnh “Yên ba thâm xứ” gợi lên không gian sông nước mênh mang, sâu thẳm mịt mù khói sóng. Từ ngàn xưa, khói sóng thường là không gian gợi nỗi sầu ly hương, khoảnh khắc nhớ nhà của những tao nhân mặc khách. Thế nhưng trong câu thơ này “yên ba thâm sứ” được kết hợp với “đàm quân sự” đã hoàn toàn xóa đi nội dung của ý thơ xưa. Họp bàn quân sự là chuyện hệ trọng đòi hỏi sự kín đáo, bí mật, vì thế phải chọn nơi không gian sâu kín của dòng sông là nơi gặp gỡ. Đến đêm khuya, sau khi họp bàn việc công trở về dòng sông nước bỗng hóa thành dòng sông trăng tuyệt đẹp, trên con thuyền những người chiến sĩ cách mạng đang đi cũng chở đầy ánh trăng. Không gian trở nên rực rỡ, lộng lẫy bất ngờ. Phải chăng việc quân đã được giải quyết, lòng người vui tươi, thoải mái cho nên niềm vui được trang trải ra cùng cảnh vật. Đêm trăng rằm mùa xuân đã đẹp nay càng trở nên đẹp hơn. Giữa bộn bề công việc với bao lo toan nhưng Người vẫn không nỡ từ chối cảnh thiên nhiên đẹp. Qua đây đã cho thấy tâm thế ung dung, lạc quan, yêu đời của Bác, dù cuộc chiến của ta còn dài, chặng đường phía trước còn nhiều gian nan nhưng Người vẫn luôn tin tưởng vào chiến thắng tất yếu của dân tộc. Bài thơ chính là cách thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết hòa trong tình yêu nước sâu nặng của vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. “Rằm tháng giêng” là bài thơ tứ tuyệt cô động nhưng đã thể hiện được nhiều nội dung ý nghĩa đặc sắc. Qua bức tranh trăng trên sông nước mùa xuân đẹp thi vị lãng mạn, tâm hồn của người thi sĩ – chiến sĩ Hồ Chí Minh cũng được thể hiện sâu sắc. Đây chỉ là một trong vô vàn bài thơ viết về ánh trăng của Bác, mỗi bài thơ lại là một nét vẽ đặc sắc riêng, thế nhưng vầng trăng trong bài thơ “rằm tháng giêng” mãi là ghi dấu ấn đặc biệt trong lòng độc giả mọi thời đại.
Phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng - mẫu 13
Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ kính yêu của nhân dân Việt Nam. Người được biết đến không chỉ với tư cách là một nhà hoạt động cách mạng, mà còn với vị trí của một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Trong số những tác phẩm Bác để lại, bài thơ “Rằm tháng giêng” là một tác phẩm nổi bật để lại trong lòng người đọc nhiều suy tư sâu sắc. Năm 1948, tại chiến khu Việt Bắc, Bác Hồ cùng Trung ương Đảng và Chính phủ mở cuộc họp tổng kết về tình hình quân sự thời kì đầu kháng chiến chống Pháp (1947 – 1948). Sau khi họp xong thì đêm cũng đã khuya. Hình ảnh ánh trăng sáng lan tỏa khắp không gian núi rừng rộng lớn. Cùng với sự giao hòa của cảnh vật và con người. Chính bức tranh đầy thơ mộng ấy khơi gợi cảm hứng để Bác sáng tác bài thơ này: “Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên;Yên ba thâm xứ đàm quân sự,Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.” Câu thơ mở đầu gợi ra cho người đọc hình dung về một đêm rằm tháng giêng, ánh trăng đúng lúc tròn và sáng nhất. Ánh trăng dường như sáng đến độ có thể thắp sáng vạn vật. Để rồi cả “sông xuân”, “nước xuân”, “trời xuân” cũng lẫn màu ánh trăng. Từ “xuân” được điệp lại đến ba lần gợi ra một không gian thật rộng lớn. Từ “tiếp” gợi cho người đọc hình dung ra hình ảnh bầu trời và mặt đất dường như không còn khoảng cách để rồi như hòa hợp lại thành một. Trong thơ ca cổ, những hình ảnh “giang, thủy, nguyệt, thiên” vốn đã rất quen thuộc nhưng khi đi vào thơ Bác lại làm nổi bật nên một bức tranh đầy hiện đại mang vẻ tươi sáng, rực rỡ và tràn đầy sức sống của vạn vật. Để rồi, đến khi con người xuất hiện thì bức tranh ấy lại càng tuyệt đẹp. Giữa màn sương khói mờ ảo, con người hiện ra trong công việc “đàm quân sự” – một công việc quan trọng, có liên quan đến sự sống còn của dân tộc. Trên con thuyền bồng bềnh nơi sông nước sương khói mờ ảo kia không phải là những người ẩn sĩ trong thơ ca xưa khi tìm về với chốn thiên nhiên để tránh khỏi những thị phi của cuộc đời giống như trong thơ của Cao Bá Quát: “Thế sự thăng trầm quân mặc vấnYên ba thâm xứ hữu ngư châu” (Việc thế thăng trầm anh chớ hỏiMênh mông khói sóng chiếc thuyền câu) Mà đó là hình ảnh của những người chiến sĩ cách mạng đang bàn bạc việc quân, việc nước. Khi khắc họa hình ảnh này, Bác đã làm nổi bật lên tâm hồn cao đẹp của những chiến sĩ cách mạng – họ là những con người yêu nước, thương dân, một lòng kiên trung với cách mạng. Công việc quan trọng của quốc gia lại được bàn bạc trên con thuyền giữa dòng sông khói tỏa mịt mù cũng gợi lên một hình ảnh độc đáo lại nên thơ. Chỉ đến khi công việc bàn bạc đã xong xuôi, người chiến sĩ mới giật mình nhận ra đêm đã quá khuya. Ánh trăng lúc này giống như đang lùa vào thuyền, vào hồn nhà thơ vấn vít. Trăng dâng đầy lai láng trên con thuyền của người chiến sĩ cách mạng khiến con thuyền để “bàn quân sự” giờ đây vụt biến thành con thuyền thơ đầy ảo mộng. Hình ảnh dường như đã lay động tâm hồn nhà thơ. Khi công việc nước đã xong xuôi, Người mới có thời gian ngắm nhìn thiên nhiên bằng một trái tim say mê nhất. Cảnh tượng thiên nhiên khiến tâm hồn thi sĩ rung động, bồi hồi. Như vậy, bài thơ “Rằm tháng giêng” đã bộc lộ được tình yêu thiên nhiên cũng như lòng yêu nước sâu sắc của nhà thơ. Đồng thời, qua đó Bác cũng gửi gắm một niềm tin chiến thắng cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam.
Phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng - mẫu 14
Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam ta. Là người tiên phong dẫn lối cho đất nước ta bước ra khỏi tấm màn đen của đêm trường nô lệ. Đó là những điều người người nói đến khi nhắc về Hồ Chủ tịch. Thế nhưng, bên cạnh đó, Người còn là một nhà thơ, một người nghệ sĩ đích thực với tâm hồn nhạy cảm và những tác phẩm giàu giá trị. Trong đó, chúng ta không thể không nhắc đến bài thơ Rằm tháng giêng. Đây là một tác phẩm thơ được viết bằng chữ Hán theo thể thất ngôn tứ tuyệt đường luật quen thuộc. Ngay cả cấu tứ bài thơ cũng không có gì quá mới khi hai câu thơ đầu dành để tả cảnh, hai câu thơ sau ngụ tình, tả người. Nhưng bằng tài năng, bằng trái tim nhạy cảm nhà thơ đã vẽ nên những câu thơ với hình ảnh hấp dẫn, sống động, và những ý thơ dạt dào tình cảm, ý nghĩa. “Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,Xuân giang xuân thuỷ tiếp xuân thiên;” Mở đầu bài thơ là hình ảnh thiên nhiên vô cùng tươi đẹp. Đó là vào một đêm của mùa xuân, khi mặt trăng tròn đầy viên mãn ngự trị trên trời cao. Ấy là lúc khắp đất trời sung sướng mà vẫy vùng trong bể trăng đầy ăm ắp. Cái thứ ánh sáng trắng ngọc trắng ngà ấy phủ lên những lớp vàng, bạc óng ánh. Khiến cho đất trời như đẹp hơn, tình tứ hơn. Bởi vậy, mà sắc xuân, hương xuân cũng thấm đẫm hơn trên cảnh vật. Dòng sông, con nước, bầu trời không còn là nó của ngày hôm qua nữa. Mà khoác lên mình tấm áo mới, trở thành sông xuân, trời xuân. Hình ảnh thơ khiến người đọc lâng lâng trong cảm giác khi xuân chín nục, tỏa ngát thơm hương. Bầu trời, dòng sông được mùa xuân thắm đượm, lồng vào nhau, dây dưa khó phân. Mà có lẽ cũng chẳng cần phân tách, nên chúng cứ thế mà đan vào nhau, tuy hai mà một. Cả bức tranh thiên nhiên trở nên rộng lớn và thoáng đãng khi cả đất trời ngự về trên dòng thơ. Và từng hơi thở cũng vì thế mà nhẹ nhàng, mê say hơn, khi sắc xuân đương nồng thắm, sinh động mà luân chuyển, mà chảy âm ỉ trong lòng thơ. Trong khung cảnh mê say ngây ngất ấy, hình ảnh con người hiện lên ẩn sau hình ảnh chiếc thuyền trôi giữa con sông. Điều đặc biệt là, những con người ấy đến nơi đây không phải để thưởng nguyệt hay đọc thơ mà là để làm việc: “Yên ba thâm xứ đàm quân sự,Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.” Những con người trong chiếc thuyền có thể là những người chiến sĩ đang tập trung để bàn bạc việc quân sự, để bảo vệ tổ quốc. Tinh thần ấy, không chút nào bị tác động, bị lay chuyển, dù là cảnh sắc tươi đẹp ở bên ngoài thuyền. Các chiến sĩ ấy bàn bạc việc quân miệt mài đến tận đêm khuya vẫn chẳng dừng lại. Đến tận quá nửa đêm, khi ánh trăng đã tắm đẫm cả con thuyền vẫn còn miệt mài suy nghĩ. Hình ảnh ánh trăng trải đầy thuyền là một hình ảnh vô cùng thơ mộng. Ánh trăng như một người bạn, một người đồng chí luôn ở bên quan tâm, đồng hành cùng các chiến sĩ. Hình ảnh trăng – người chiến sĩ là cặp hình ảnh song hành quen thuộc trong các tác phẩm thơ của chủ tịch Hồ Chí Minh. Nó thể hiện sự gắn kết giữa con người và thiên nhiên, luôn ở bên, sát cánh cùng nhau. Ngoài ra, bức tranh sáng rọi của ánh trăng, còn thể hiện một niềm tin vững chắc về tương lai tươi sáng ở phía trước của đất nước ta. Đó là một tương lai hạnh phúc, độc lập, bình yên, như khuôn trăng tròn đầy ở trên kia. Bài thơ Rằm tháng giêng đã xây dựng nên một đêm trăng mùa xuân tươi đẹp, hấp dẫn. Cả bài thơ khắc họa nên bầu không gian rộng lớn, thoáng đãng, trong đó xuất hiện hình ảnh con người tuy nhỏ bé, nhưng khó để bỏ qua được. Từ đó, thể hiện được tài năng, tâm thế của tác giả. Đó là một trái tim tràn đầy tình yêu thiên nhiên, nhưng vẫn không quên nhiệm vụ đối với tổ quốc. Thật không sai khi gọi Hồ Chí Minh là “nhà thơ chiến sĩ”.
Phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng - mẫu 15
Trăng luôn là niềm cảm hứng bất tận của nhiều nhà thơ, thi sĩ, trăng mang lại vẻ đẹp từ thiên nhiên lung linh huyền ảo, ánh trăng trong bài thơ “Rằm tháng giêng” của Hồ Chí Minh người ta còn cảm nhận được cả chất “nghệ sĩ” của một thi nhân. Bài thơ được Bác viết bằng thể thơ cổ, sử dụng trong thơ ca trung đại: thất ngôn tứ tuyệt. Về sau, bài thơ được dịch giả Xuân Thủy dịch sang thể thơ lục bát với tên gọi quen thuộc đó là “Rằm tháng giêng”. “Rằm xuân lồng lộng trăng soi,Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân;” Bức tranh đêm trăng đẹp được bác vẽ ra thật đẹp, lúc ấy đã về khuya, trời đã bắt đầu có những cơn gió nhẹ. Mặt trăng tròn, tỏa ánh sáng khắp nơi khiến nhân gian dòng sông trăng lấp lánh. Trăng soi màu trời, trăng soi tiếng hát, trăng soi cả những con người đang ngồi ngắm ánh trăng giữa đêm khuya với tâm trạng đầy những tâm sự. Bác sử dụng từ láy “lồng lộng” để nói về sắc thái ánh trăng đêm nay. Ánh trăng tỏa sáng như đang ấp ôm, xoa dịu những tâm hồn lo lắng nhạy cảm trước những quyết sách lớn đối với vận mệnh của đất nước. Ánh trăng ngày xuân làm vạn vật cũng trở nên xuân. Sắc xuân từ ánh trăng chan hòa vào cảnh vật, vào thiên nhiên, vào cuộc sống: “Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân;” Các hình ảnh “sông xuân”, “nước xuân” và “trời xuân”. Các hình ảnh trên của mùa xuân như đang soi chiếu vào lẫn nhau, tôn lên nhau làm rạng rỡ thêm cho vẻ đẹp mùa xuân. Điệp từ “xuân” lặp lại ba lần như khẳng định cảnh sắc thiên nhiên mùa xuân trong đêm rằm. Không gian ấy được mở ra theo chiều cao, chiều sâu và cả chiều rộng khiên bức tranh đêm nguyên tiêu không chỉ bó hẹp mà lại mở ra đến vô cùng vô tận. “Giữa dòng bàn bạc việc quân,Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.” Vẻ đẹp thiên nhiên rực rỡ cũng không làm cho người chiến sĩ quên đi nhiệm vụ trọng đại đang gánh vác. Ánh trăng kia thấu cảm cho sự vất vả, lo toan của người thi nhân – chiến sĩ. Có lẽ chỉ cần như thế là đủ để thấy được tinh thần trách nhiệm và niềm mong muốn của Bác to lớn đến thế nào. Vầng trăng vẫn lặng lẽ dõi theo con người với tâm hồn cao đẹp đợi chờ lúc họ trở về: “Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.” Đã đến khuya vậy mà trăng vẫn tràn ngập khắp nơi, trăng như đang chờ, đồng hành, đồng cảm cùng thi nhân. Hình ảnh “trăng ngân đầy thuyền” rất đẹp và lạ, ánh trăng soi dòng nước hay là ánh trăng “rơi xuống mạn thuyền” theo thi nhân đi vào bàn bạc quân tình, chính sự. Trăng gắn bó với người nghệ sĩ biết trân quý vẻ đẹp của trăng và chính người nghệ sĩ ấy cũng có một tâm hồn lãng mạn mới đủ sức nhìn thấy đêm trăng đồng hành, đồng cảm. Trong hoàn cảnh chiến tranh mà con người và thiên nhiên vẫn giao cảm, đồng hành và chia sẻ cùng nhau. Tác giả phải có tâm hồn lạc quan, yêu thiên nhiên thì mới viết nên những vần thơ hay và lay động lòng người như vậy. Bài thơ “Rằm tháng giêng” Bác đã vẽ ra bức tranh ngày xuân tuyệt đẹp và có nhiều điều trăn trở về vận mệnh ẩn sâu trong từng câu thơ. Bài thơ Rằm tháng giêng cũng cho thấy được phong thái ung dung, tinh thần lạc quan trong mọi hoàn cảnh của Bác, Bác phải có tâm hồn lạc quan, yêu thiên nhiên thì mới viết nên những vần thơ hay và lay động lòng người như vậy.
Phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng - mẫu 16
Bài thơ “Nguyên tiêu” là một bài thơ được tác giả Hồ Chí Minh viết bằng chữ Hán trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp gian khổ, khi tác giả còn đang đóng quân tại chiến khu Việt Bắc. Sau chiến thắng Việt Bắc 1947 của Đảng và nhân dân ta. Tác giả xúc động viết bài thơ này để bày tỏ niềm vui của mình trước mùa xuân mới của quê hương đất nước. Trong một không khí sôi động, vui mừng vì thắng lợi lớn của dân tộc. Bác Hồ đã viết những lời thơ vô cùng hào khí. Bài thơ lần đầu tiên xuất hiện trên tờ báo Cứu quốc của nước ta. Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viênXuân giang xuân thủy tiếp xuân thiênYên ba thâm xứ đàm quân sựDạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền Mở đầu bài thơ là cảnh tuyệt vời trong đêm trăng rằm tháng giêng. Trên bầu trời trăng sáng tròn vành vạnh, khiến cho tâm hồn của tác giả bâng khuâng xúc động. Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên(Rằm xuân lồng lộng trăng soi) Trăng trong đêm rằm tháng giêng mang vẻ đẹp kiêu sa xinh tươi khác thường vì trong ánh trăng có chứa hơi thở của mùa xuân nồng nàn, với sức sống mãnh liệt. Đêm trăng gió mát trăng thanh, giữa chốn dương gian, ánh trăng vằng vặc soi sáng mọi nẻo đường…Ánh trăng làm cho cảnh núi non thiên nhiên giữa rừng lung linh huyền ảo. Quê hương đất nước, bao la với màu xanh bát ngát, màu xanh bao phủ dòng sông, dòng sông như được tiếp truyền thêm rất nhiều sức sống mới của không khí mùa xuân mát dịu. Mùa xuân phơi phới, lan tỏa hơi xuân sang khắp nơi. Khiến cho con người và cảnh vật trở nên hữu tình. Dòng sông trở nên hữu tình, sinh động hơn, màu xuân xanh, xuân thủy thể hiện vẻ đẹp hữu tình của cảnh vật và thiên nhiên. Trong điệp từ xuân thể hiện sự sống mãnh liệt của con người và thiên nhiên cảnh vật. Mùa xuân mọi cảnh vật đâm chồi nảy lộc, sự sống mạnh mẽ. Xuân đang thể hiện sức sống khắp nơi, trên mảnh đất quê hương, không gian bao la thể hiện sự mênh mang của thời gian nổi bật lên thần thái của cảnh sắc hữu tình. Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên(Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân) Xuân tới tiếng chim càng hót líu lo, rộn vang muôn nơi, thể hiện sự sinh sôi nảy nở, ban tặng cho con người và cảnh vật thiên nhiên bất tận. Trong cảnh vật thiên nhiên làm cho con người cảm thấy mê say, đắm chìm trong sự bao la, bất tận. Trong bài thơ của Hồ Chí Minh còn gợi tả những hình ảnh sông nước, đất trời đang thời kỳ vào xuân, sức sống trẻ trung, tràn đầy nhựa sống. Niềm vui hiện lên sức sống mùa xuân ngập tràn khiến con người say đắm. Ánh trăng và mùa xuân là nguồn cảm hứng xuất hiện nhiều lần trong những bài thơ của Bác. Thể hiện trái tim mênh mông thiên nhiên, sông núi, cỏ cây thật hữu tình. Thể hiện sự mênh mông bao la của vũ trụ thiên nhiên. Yên ba thâm xứ đàm quân sựDạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền Ánh trăng với tác giả như hai người bạn thủy chung gắn bó với nhau trong rất nhiều chiến dịch, nhiều sự kiện. Hình ảnh ánh trăng xuất hiện trong nhiều bài thơ của tác giả. Trong mỗi lần xuất hiện vầng trăng lại thể hiện một hình ảnh tâm thế mới. Trong ánh trăng hôm nay đang bàn bạc việc quân việc nước, ánh trăng thể soi sáng trên sông lướt nhẹ giữa dòng sông êm ả, thể hiện sự hữu tình của bài thơ. Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền(Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền) Con thuyền lướt nhẹ nhàng thư thái trên dòng sông sương khói phủ mờ, thể hiện như hư ảo của không gian thời gian và cảnh vật thiên nhiên. Tác giả đã vẽ lên một bức tranh hữu tình thể hình sự thi sĩ, một chiến sĩ sau khi bàn bạc việc quân việc nước đã trở về trên dòng sông thơ mộng với tâm trạng thư thái, hy vọng về tương lai tươi đẹp, độc lập tự do. Bài thơ “Nguyên tiêu” được tác giả làm theo thể thơ tứ tuyệt mang dư vị phong cách, thần thái của thơ Đường. Bài thơ có những nét cổ điển với những nguồn cảm hứng bất tận như ánh trăng, dòng sông, con thuyền. Vẫn thơ nhẹ nhàng thể hiện tâm trạng thanh tịnh, của tác giả sau khi bàn bạc việc dân việc nước trở về nơi cư ẩn. Qua bài thơ tác giả Hồ Chí Minh thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước, bộc lộ tình yêu của mình với dân tộc một cách sâu đậm. Thông qua bài thơ cốt cách thi sĩ của tác giả thể hiện vô cùng mạnh mẽ. Một cốt cách của một danh nhân văn hóa thế giới, một nhà lãnh đạo chính trị đại tài. Đã có lời giải bài tập lớp 7 sách mới: Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85 4.5 (243) 799,000đs 199,000 VNĐ 4.5 (243) 799,000đ 99,000 VNĐ 4.5 (243) 999,000đ 299.000 - 599.000 VNĐ Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube: Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 7 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 7 và Những bài văn hay đạt điểm cao lớp 7. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 7 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 7 và Những bài văn hay đạt điểm cao lớp 7. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Trang web chia sẻ nội dung miễn phí dành cho người Việt. Lớp 1-2-3 Lớp 4 Lớp 5 Lớp 6 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 9 Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Lập trình Tiếng Anh Chính sách bảo mật Hình thức thanh toán Chính sách đổi trả khóa học Chính sách hủy khóa học Tuyển dụng Tầng 2, số nhà 541 Vũ Tông Phan, Phường Khương Đình, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, Việt Nam Phone: 084 283 45 85 Email: vietjackteam@gmail.com CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội. 2015 © All Rights Reserved.
Dàn ý Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang
I. Mở bài Giới thiệu về Bà Huyện Thanh Quan, nội dung chính bài thơ Qua Đèo Ngang. II. Thân bài 1. Hai câu đề: Cảnh vật thiên nhiên nơi Đèo Ngang - Thời gian: “Bóng xế tà”, đây là thời điểm kết thúc của một ngày, khi con người thường trở về nhà sau một ngày lao động vất vả. Vậy mà nhà thơ lại một mình tại nơi đèo Ngang càng khiến cho nỗi cô đơn trở nên tột cùng. - Khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang: => Khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang được nhà thơ khắc họa chỉ bằng vài nét nhưng lại hiện ra đầy chân thực và sinh động. 2. Hai câu thực: Cuộc sống con người nơi Đèo Ngang - Giữa thiên nhiên hoang sơ và rộng lớn con người xuất hiện: Nghệ thuật đảo ngữ: => Nhấn mạnh vào sự nhỏ bé của con người trước thiên nhiên rộng lớn. Con người chỉ nằm là một chấm buồn lặng lẽ giữa một thiên nhiên rộng lớn. Cảnh vật và con người dường như có sự xa cách khiến cho không khí càng thêm hoang vu, cô quạnh. 3. Hai câu luận: Tâm trạng nhớ nhà của nhà thơ khi đứng trước Đèo Ngang - Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa). - Mà ở đây, nhà thơ đã sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh: tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” để qua đó bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê hương. => Hai câu thơ diễn tả nhớ nhung sâu đậm của Bà Huyện Thanh Quan. 4. Hai câu kết: Nỗi cô đơn tột cùng của nhà thơ - Câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” khắc họa hình ảnh nhà thơ một mình đứng tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước (có bầu trời, có núi non, dòng sông). - Sự cô đơn của nhà thơ: “một mảnh tình riêng” - tình cảm riêng tư của nhà thơ không có ai để chia sẻ, “ta với ta” - đều chỉ nhà thơ, lúc này bà chỉ có một mình đối diện với chính mình, cô đơn và lẻ loi. => Hai câu kết khẳng định lại nỗi cô đơn, trống trải của tác giả trước thiên nhiên rộng lớn. III. Mở bài Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Qua Đèo Ngang.
Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang - mẫu 1
Bà Huyện Thanh Quan một trong những nữ văn sĩ nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam. Thơ văn bà để lại cho hậu thế không còn nhiều, trong đó nổi tiếng nhất là phải kể đến bài Qua đèo Ngang. Đây là bài thơ tả cảnh ngụ tình, bộc lộ nỗi niềm, tâm trạng của bà khi trên đường vào kinh đô Huế nhận chức. Mở đầu bài thơ là bức tranh phong cảnh thấm đẫm nỗi buồn hiu quạnh: “Bước đến đèo Ngang bóng xế tàCỏ cây chen đá, lá chen hoa” Hai câu thơ mở ra không gian, thời gian nghệ thuật quen thuộc trong thơ trung đại, đây đồng thời cũng là nét đặc trưng phong cách của Bà Huyện Thanh Quan: chiều tà và bóng hoàng hôn. Thời gian là buổi chiều nhưng không phải là lúc đầu hôm mà là chiều tà, thời điểm chuyển giao giữa chiều và tối, ánh nắng chỉ còn nhạt nhòa và sắp lặn. Không gian mênh mông, rộng lớn, với cả trời, non, nước nhưng tất cả đều im ắng, vắng lặng đến rợn ngợp. Trong không gian đó, hình ảnh cây cối, hoa cỏ hiện lên có phần hoang dại, chúng chen chúc nhau mọc lên. Từ “chen” gợi sức sống mãnh liệt của muôn loài trước cái cằn cỗi của đất đai, cái khắc nghiệt của thời tiết. Đồng thời từ này còn gợi lên thiên nhiên có phần hoang dã, vô trật tự. Không gian và thiên nhiên cây cỏ hòa quyện vào nhau càng làm sâu đậm thêm ấn tượng về mảnh đất hoang vu. Bức tranh được điểm thêm hơi thở, sự sống của con người: “Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhà” Những tưởng rằng với sự xuất hiện của sự sống con người quang cảnh sẽ bớt vắng lặng, cô đơn hơn nhưng thực tế lại không phải vậy. Sự xuất hiện của con người trái lại càng khiến cảnh vật thêm phần heo hút, hoang vắng hơn. Nghệ thuật đảo ngữ nhấn mạnh vào dáng “lom khom” của những chú tiều, cái “lác đác” của mấy ngôi nhà ven sông kết hợp các từ chỉ số lượng ít ỏi “vài”, “mấy” khiến cho hình bóng con người đã nhỏ lại càng nhỏ hơn, cuộc sống đã hiu quạnh lại càng hiu quạnh hơn. Bức tranh về một thế giới cô liêu hiện lên rõ hơn bao giờ hết. Nhìn lại cả hai câu thơ ta thấy chúng có đầy đủ các yếu tố của một bức tranh sơn thủy, hữu tình: núi, sông, tiều phu, chợ. Thế nhưng những yếu tố ấy khi hợp lại với nhau và khúc xạ qua cảm nhận của nhà thơ lại gợi lên một miền sơn cước hiu quạnh, heo hút. Bốn câu thơ cuối nói lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả: “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc/Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”. Những âm thanh của cuốc kêu cũng chính là nỗi lòng của Bà Huyện Thanh Quan. Tài dùng chữ của bà đã đạt đến độ điêu luyện: chữ quốc là nước đồng âm với chữ cuốc tức con chim, chữ gia là nhà gần âm với từ chữ đa là chim đa đa. Chữ vừa ghi âm thanh nhưng đồng thời còn bộc lộ tâm trạng, ý tứ của tác giả, qua đó làm nổi bật tâm trạng, nỗi niềm của nữ sĩ. Vì phải xa quê hương, vào miền đất mới nhận chức nên bà nhớ nhà, nhớ gia đình. Còn nhớ nước tức là bà đang nhớ về quá khứ huy hoàng của triều đại cũ. Hai chữ nhớ nước, thương nhà được tác giả đảo lên đầu câu càng nhấn mạnh và làm nổi bật nỗi niềm của bà. Hai câu thơ cuối bộc lộ trực tiếp nỗi niềm cô đơn khắc khoải của nhà thơ: “Dừng chân đứng lại trời, non, nước/ Một mảnh tình riêng ta với ta”. Không gian mênh mông khiến con người lại càng trở nên bé nhỏ, cô đơn hơn. Sự vật tưởng là hòa quyện, gắn kết với nhau mà thực chất lại đang chia lìa đôi ngả, trời, non, nước được tách biệt với nhau bằng những dấu phẩy, đó là cái nhìn mang tính tâm trạng của chính tác giả. Câu thơ cuối như là một lời khẳng định trực tiếp nỗi cô đơn đó “một mảnh tình” “ta với ta”. Đại từ “ta” không còn mang ý nghĩa chỉ chung, cộng đồng mà là cá nhân, chỉ một mình tác giả. Trong hai câu kết, tất cả là một sự gián cách, là một thế giới riêng, cô đơn đến tuyệt đối. Không chỉ đặc sắc về nội dung, tác phẩm còn là điển hình mẫu mực về nghệ thuật cổ điển Đường thi. Bà sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú, chuẩn mực về niêm, luật, đối, ngôn ngữ trau chuốt, mượt mà mặc dù đã được Việt hóa. Sử dụng thành công đảo ngữ, chơi chữ. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình xuất sắc, tả cảnh vật mà bộc lộ nỗi niềm, tâm trạng của tác giả. Qua bài thơ “Qua Đèo Ngang” ta không chỉ ấn tượng bởi nghệ thuật tài tình, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển đường thi và chất dân dã của dân tộc, mà còn bị cuốn hút bởi nội dung. Bức tranh phong cảnh đèo Ngang hiu quanh, mênh mông đã thể hiện tâm trạng buồn bã, nỗi niềm nhớ nước, thương nhà của tác giả.
Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang - mẫu 2
Ai đã từng một lần đi trên con đường xuyên Việt, hẳn đều biết đến đèo Ngang. Đây là một đèo khá dài và khá cao, nằm vắt ngang sườn núi cheo leo, hiểm trở của khúc cuối dãy Hoành Sơn, trước khi đâm ra biển. Hình ảnh đèo Ngang đã được đưa vào bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan, nhằm gửi gắm nhiều ý nghĩa sâu sắc. Đèo Ngang là ranh giới tự nhiên giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình. Thuở xưa, bao người vào kinh đô Huế để thi cử hay làm việc cho triều đình phong kiến đã đi qua đèo này rồi lâng lâng xúc cảm trước vẻ đẹp của nó mà làm thơ ca ngợi. Bà Huyện Thanh Quan nhân dịp từ Thăng Long vào Huế nhậm chức Cung trung giáo tập (dạy dỗ các cung nữ trong cung) đã sáng tác bài Qua đèo Ngang. Đằng sau bức tranh phong cảnh thiên nhiên là tâm trạng của nữ sĩ: cô đơn, nhớ nhà và hoài niệm về một thời đại huy hoàng đã qua. Có thể coi đây là bài thơ hay nhất trong những bài thơ sáng tác về thắng cảnh này. Câu phá đề đơn giản chỉ là lời giới thiệu về thời điểm tác giả đặt chân đến đèo Ngang: Bước tới đèo Ngang bóng xế tà. Đó là lúc mặt trời đang lặn, phía tây chỉ còn chút nắng hắt những tia sáng yếu ớt lên nền trời đang sẫm dần. Thời điểm này rất dễ gợi buồn trong lòng người, nhất là đối với kẻ lữ thứ tha hương. Tuy vậy, trời vẫn còn đủ sáng để nhà thơ nhận ra thiên nhiên nơi đây đẹp như một bức tranh thủy mặc: “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. Có cái gì đó như linh hồn của tạo vật thấp thoáng sau từng chữ. Điệp từ chen, các vế đối: cây chen đá, lá chen hoa miêu tả sức sống mãnh liệt của một vùng rừng núi hoang vu. Cảnh đẹp thì có đẹp nhưng nhuốm màu buồn bã, quạnh hiu, thiếu hơi ấm con người. Những bông hoa rừng đây đó không đủ làm sáng, làm vui bức tranh núi non lúc ngày tàn, đêm xuống. Trên bối cảnh thiên nhiên bao la ấy thấp thoáng bóng dáng con người và hơi hướng cuộc sống nhưng cũng chỉ ít ỏi, mờ nhạt, xa vời: “Lom khom dưới núi tiều vài chú,Lác đác bên sông chợ mấy nhà.” Con mắt tinh tế của nhà thơ phát hiện ra nét đặc trưng của người và cảnh trước tiên nên bà đã dùng nghệ thuật đảo ngữ để nhấn mạnh đặc trưng ấy. Dáng vẻ lom khom của mấy chú tiều hái củi sườn non làm cho con người vốn đã nhỏ bé lại càng thêm nhỏ bé trước thiên nhiên cao rộng. Cái chợ là nơi biểu hiện sức sống của một cộng đồng làng xã, lẽ ra tấp nập đông vui, nhưng ở đây nó chỉ là mấy túp lều xơ xác bên sông… Bao trùm lên cảnh vật là một nỗi buồn tê tái và nỗi buồn ấy thấm sâu vào lòng người: “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.” Giữa không gian tĩnh lặng gần như tuyệt đối ấy bỗng vẳng lên tiếng chim quốc khắc khoải, tiếng chim đa đa não nuột. Đó là những âm thanh có thật mà cũng có thể là tiếng vọng từ tâm trạng chất chứa nỗi buồn thời cuộc của nhà thơ. Mượn bút pháp ước lệ và nghệ thuật chơi chữ (từ đồng âm khác nghĩa) để nói lên lòng mình trước cảnh, đó là tài hoa của nữ sĩ. Tiếng chim kêu không làm cho cảnh vui lên thêm chút nào mà lại làm tăng phần quạnh quẽ, cô liêu. Phải chăng tiếng chim chính là tiếng lòng của kẻ đang mang nặng tâm trạng u buồn, hoài vọng, nhớ nước thương nhà?! Hồn cảnh, hồn người như có nét tương đồng, cho dù về hình thức hoàn toàn tương phản. Cái bao la, vô tận của non nước tô đậm cái cô đơn, chơ vơ của con người và ngược lại. Vì vậy nên nỗi buồn càng lắng đọng: “Dừng chân đứng lại trời, non, nước,Một mảnh tình riêng, ta với ta.” Quả là một nỗi buồn lớn lao, thấm thía, khó san sẻ, giãi bày. Nó như kết thành hình, thành khối, thành mảnh tình riêng khiến nhà thơ phải thốt lên chua xót: ta với ta. Chỉ có ta hiểu lòng ta mà thôi! Vì thế nên sự cô đơn càng tăng lên gấp bội. Bài thơ “Qua Đèo Ngang” tuy ra đời cách đây đã hơn một thế kỉ nhưng giá trị của nó vẫn nguyên vẹn trước thử thách của thời gian. Bao người yêu thơ thuộc lòng bài thơ này và ca ngợi tài năng của tác giả. Thể thơ Đường luật kiểu cách, sang trọng vào tay nữ sĩ đã trở thành gần gũi, dễ hiểu với người đọc bởi ngôn ngữ giản dị, trong sáng và những hình ảnh dân dã quen thuộc.
Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang - mẫu 3
Một trong những nữ thi sĩ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam trung đại là Bà Huyện Thanh Quan. Tác phẩm nổi bật của bà phải kể đến bài thơ “Qua Đèo Ngang”. Mở đầu bài thơ, tác giả đã khắc họa thiên nhiên nơi đèo Ngang tràn đầy sức sống: “Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” Thời điểm mà Bà Huyện Thanh Quan bước đến đèo Ngang là khi “bóng xế tà” - kết thúc của một ngày. Đó là khi con người trở về nhà để nghỉ ngơi sau một ngày mệt mỏi. Trước mắt tác giả là thiên nhiên nơi đèo Ngang trần đầy sức sống. Cách sử dụng điệp từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” cho thấy sự sống đang trỗi dậy. Khung cảnh đèo Ngang được khắc họa chỉ bằng vài nét nhưng lại hiện ra đầy chân thực và sinh động. Và trong nền bức tranh thiên nhiên đó, con người xuất hiện. Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ trong hai câu thơ tiếp theo: “lom khom - tiều vài chú”, “lác đác - chợ mấy nhà” cho thấy hình ảnh vài chú tiều với dáng đứng lom khom dưới chân núi, vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác bên sông. Cách sử dụng nhằm nhấn mạnh sự nhỏ bé của con người giữa thiên nhiên rộng lớn. Từ đó, sự cô đơn của tác giả càng được thể hiện rõ hơn. “Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc,Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.” Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa). Tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” nghe da diết đã còn bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê hương. Đến câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” khắc họa hình ảnh nhà thơ một mình đứng tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước (có bầu trời, có núi non, dòng sông). Sự cô đơn của nhà thơ: “một mảnh tình riêng” - tình cảm riêng tư của nhà thơ không có ai để chia sẻ: “Dừng chân đứng lại trời, non, nướcMột mảnh tình riêng, ta với ta” Cảnh vật thiên nhiên thì rộng lớn, còn tác giả chỉ có “một mảnh tình riêng”. Và cái mảnh tình con con ấy cũng chỉ có “ta với ta”. Nếu trong “Bạn đến chơi nhà”, Nguyễn Khuyến dùng cụm từ “ta với ta” - “Bác đến chơi đây ta với ta” để diễn tả tình bạn tri kỉ, thắm thiết. Thì trong bài Qua đèo Ngang, cụm từ “ta với ta” càng bộc lộ thêm nỗi cô đơn của tác giả. Qua Đèo Ngang gửi gắm nỗi lòng yêu quê hương, đất nước tha thiết của Bà Huyện Thanh Quan.
Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang - mẫu 4
Trong nền văn học hiện đại nếu như chúng ta bắt gặp sự sắc sảo, mạnh mẽ, bứt phá trong thơ của Hồ Xuân Hương thì chắc hẳn rằng sẽ thấy được sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ “Qua đèo Ngang” tiêu biểu cho phong cách ấy. Bài thơ được sáng tác khi tác giả vào Phú Xuân (Huế) nhận chức và đi qua đèo này. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, nhớ quê hương và thương cho thân gái nơi đường xa. Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú với cấu trúc đề, thực, luận kết. Chỉ tám câu thơ nhưng nó đã diễn tả được hết cái thần thái, cái hồn của cảnh vật cũng như của con người khi đứng trước cảnh trời núi hiu quạnh và lòng người man mác như thế này. Hai câu đề gợi lên trước mắt người đọc khung cảnh hoang sơ nơi đèo Ngang: “Bước tới đèo Ngang bóng xế tàCỏ cây chen lá, lá chen hoa” Không gian và thời gian ở đèo Ngang được tác giả thể hiện qua từ "bóng xế tà". Có thể nói đây là thời gian là cảm xúc trong lòng người dường như nặng nề, gợi buồn, gợi sầu hơn. Trong ca dao, dân ca, chúng ta vẫn bắt gặp thời điểm chiều tả để đặc tả nỗi buồn không biết bày tỏ cùng ai. Mặt trời xuống núi, hoàng hôn sắp bao phủ lấy nơi này. Cảm giác cô đơn, lạc lõng. Cảnh vật thiên nhiên nơi đây dường như quạnh quẽ đến nao lòng. Chỉ có cỏ cây và hoa. Điệp từ "chen" dường như đã làm tăng thêm tính chất hiu quạnh của địa danh này. Hoa lá đang quấn quýt lấy nhau, bám chặt nhau để sống, sinh sôi. “Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhà” Đến hai câu thực thì mới thấp thoáng hình ảnh con người, nhưng cũng chỉ là "tiều vài chú". Hóa ra chỉ là một vài chú tiều bé nhỏ đi nhặt củi ở dưới chân núi. Mặc dù có sự sống nhưng mong manh và hư vô quá. Với phép đảo trật tự cú pháp ở hai câu thơ này, Bà Huyện Thanh Quan đã một lần nữa nhấn mạnh sự hoang sơ, hiu quạnh của đèo Ngang. Việc sử dụng hai từ láy "lom khom" và "lác đác" vừa chỉ hoạt động gánh củi vất vả vừa chỉ ước tính số lượng cụ thể. Những hình ảnh ước lệ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan đã lột tả hết thần thái cũng như cảm xúc của tác giả lúc đó. Những sự sống hiếm hoi, lẻ loi và mong manh đang chờn vờn ở ngay trước mắt nhưng xa lắm. Muốn tìm bạn để tâm sự cũng trở nên khó khăn. Sang đến hai câu thơ luận thì cảm xúc và tâm sự của tác giả bỗng nhiên trỗi dậy “Nhớ nước đau lòng con quốc quốcThương nhà mỏi miệng cái gia gia” Điệp âm "con quốc quốc" và "cái gia gia" đã tạo nên âm hưởng dìu dặt, du dương nhưng vô cùng não nề thấm đến tâm can. Người lữ khách đường xa nghe văng vẳng tiếng cuốc và da da kêu mà lòng quạnh hiu, buồn tái tê. Thủ pháp lấy động tả tĩnh của tác giả thật đắc điệu, trên cái nền tĩnh lặng, quạnh quẽ bỗng nhiên có tiếng chim kêu thực sự càng thêm não nề và thê lương. “Dừng chân nghỉ lại trời non nướcMột mảnh tình riêng ta với ta” Chỉ bốn chữ "dừng chân nghỉ lại" cũng đã khiến người đọc cảm thấy da diết, bồn chồn đến não nề. Cảnh trời nước mênh mông, vô tận nhưng con người thì bé nhỏ khiến cho tác giả thấy mình lạc lõng và không một nơi bấu víu. Đất trời rộng lớn, tác giả chỉ cảm thấy còn "một mảnh tình riêng". Và cái mảnh tình con con ấy cũng chỉ có "ta với ta". Nỗi buồn dường như trở nên cực độ, buồn thấu tận tâm can, buồn nghiêng ngả trời đất. Bài thơ “Qua Đèo Ngang” với giọng điệu da diết, trầm bổng, du dương và những thủ pháp nghệ thuật độc đáo đã mang đến cho người đọc cảm xúc khó quên. Dư âm của bài thơ dường như còn vang vọng đâu đây.
Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang - mẫu 5
“Có nơi đâu đẹp tuyệt vờiNhư sông như núi, như người Việt Nam” Câu thơ thể hiện niềm kiêu hãnh, tự hào về non sông đất trời Việt Nam. Thiên nhiên trên quê hương ta có vẻ đẹp mộng mơ, chan hòa sức sống. Chính vì vậy, thiên nhiên luôn là đề tài bất tận của thi ca. Lúc thì lung linh, huyền diệu như trong mộng, lúc lại rực rỡ, kiêu sa tựa ánh mặt trời. Bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan là một trong số đó. “Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.Lom khom dưới núi, tiều vài chú,Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc,Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,Một mảnh tình riêng, ta với ta.” Câu thơ mở đầu gợi mở về không gian, thời gian. Cụm từ “bóng xế tà” gợi ra thời điểm chiều tà đã bao trùm lên không gian đèo Ngang. Tiếp đến nhà thơ sử dụng điệp từ “chen” cùng cách gieo vần lưng “lá, đá” đã tạo nên sự cô đơn, tĩnh mịch. Từ tà như diễn tả một khái niệm sắp tàn lụa, biến mất. Yếu tố thời gian làm cho câu thơ thêm phần buồn bã. Ca dao cũng đã có câu: “Vẳng nghe chim vịt kêu chiềuBâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau” Thế mới biết, những tình cảm cao quý của mỗi người dường như gặp nhau ở một điểm. Đó chính là thời gian. Mà quãng thời gian thích hợp nhất để bộc lộ sự nhớ nhung khắc khoải chính là lúc chiều về. Ở bài thơ “Qua đèo Ngang”, tác giả bỗng dâng lên cảm xúc man mác khi bà bắt gặp ánh hoàng hôn bao phủ cảnh vật. Không chỉ là thiên nhiên, mà con người cũng xuất hiện trong bức tranh nơi đèo Ngang: “Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông, chợ mấy nhà” Câu thơ gợi cho tả hình dung trong ánh hoàng hôn lạnh lẽo, mấy người tiều phu đang đốn củi, mấy quán chợ xiêu xiêu trong gió. Đảo ngữ đưa hai từ láy lom khom, lác đác lên đầu câu đã được tác giả sử dụng như nhấn mạnh thêm sự u hoài ở đây. Nhà thơ đi tìm một sự sống nhưng sự sống đó lại làm cho cảnh vật héo hắt, buồn bã hơn, xa vắng hơn. Sự đối lập vốn có của hai câu thực khiến cho cảnh trên sông, dưới núi thêm rời rạc, thưa thớt. Từ “vài, mấy” như càng nói rõ thêm sự vắng vẻ ở nơi này. Trong sự hiu quạnh đó, bỗng nhiên vẳng lên tiếng kêu đều đều, man mác của loài chim quốc quốc, chim gia gia trong bóng hoàng hôn đang buông xuống. Từ ghép “đau lòng, mỏi miệng” khiến cho ta có cảm giác tha thiết, ray rứt. Từ “nhớ nước, thương nhà” là nỗi niềm của con chim quốc, chim gia gia do tác giả cảm nhận được hay chính là nghệ thuật ẩn dụ để nói lên tâm sự từ trong sâu thẳm tâm hồn của nữ sĩ? Nghệ thuật chơi chữ quốc quốc gia giá phải chăng là Tổ quốc và gia đình của Bà Huyện Thanh Quan hồi đó? Sự song song về ý, về lời của hai câu thơ trong phần luận của bài thơ này nhằm nhấn mạnh tình cảm của bà Huyện Thanh Quan đối với Tổ quốc, gia đình trước cảnh thật là khéo léo và tài tình. Từ thực tại của xã hội đương đời mà bà đang sống cho đến cảnh thực của đèo Ngang đã khiến cho tác giả sực nhớ đến mình và tâm sự: “Dừng chân đứng lại trời non nướcMột mảnh tình riêng ta với ta.” Câu kết của bài, ta cảm thấy nhà thơ có tâm sự u hoài về quá khứ. Dừng lại và quan sát bà chỉ thấy: trời, non, nước. Vũ trụ thật rộng lớn, xung quanh bà là cả một bầu trời với núi, với sông khiến cho con người cảm thấy mình bé nhỏ lại, đơn độc, trống vắng, ở đây, chỉ có một mình bà ta với ta, lại thêm mảnh tình riêng cho nước, cho nhà trong huyết quản đã làm cho cõi lòng nhà thơ như tê tái. Bài thơ “Qua Đèo Ngang” đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang thoáng đãng mà heo hút, thấp thoáng sự sống con người nhưng vẫn còn hoang sơ. Đồng thời thể hiện nỗi nhớ nước thương nhà.
Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang - mẫu 6
Qua Đèo Ngang là một tác phẩm tiêu biểu của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ gửi gắm tấm lòng yêu nước sâu nặng của nhà thơ. Mở đầu, tác giả gợi mở về thời gian, không gian cũng như điểm nhìn của bài thơ. Hai từ “bước tới” gợi đến một sự ngạc nhiên khi nhìn thấy hay tiếp cận con đèo. Đó cũng là thời khắc “bóng xế tà” khi ngày đã sắp tàn và màn đêm đang dần buông xuống. Đứng trước đèo Ngang với rừng núi hoang vu xa lạ, những xúc cảm của lòng người đã trào dâng. Tiếng “tà” với âm bằng xuất hiện trong văn cảnh tạo nên giai điệu buồn thương man mác, trở thành “vần” của ý thơ: “Bước tới đèo Ngang bóng xế tàCỏ cây chen đá, lá chen hoa” Khung cảnh thiên nhiên hiện lên với sức sống mãnh liệt. Điệp từ “chen”, kết hợp với việc sử dụng vần lưng “đá - lá”, lại vừa sử dụng vần chân “tà - hoa” đã làm cho nhạc điệu thơ du dương và réo rắt. Cảnh đèo hiện lên thật hoang vu và có chút cằn cỗi. Không chỉ thiên nhiên, con người cũng đã xuất hiện trong bức tranh đó: “Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhà” Cách sử dụng từ láy “lom khom” và “lác đác” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ nhấn mạnh vào sự nhỏ bé, thưa thớt của con người. Ngoại cảnh đã hòa hợp với râm cảnh người nữ sĩ trong buổi chiều tà nơi đèo hút hút gió. Nữ sĩ đã sử dụng bút pháp miêu tả tượng trưng và ước lệ của thi pháp cổ (ngư, tiều, canh, mục) kết hợp với cảm hứng đầy thi cảm và sáng tạo. “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốcThương nhà mỏi miệng cái gia gia” Nghệ thuật đối và đảo ngữ được sử dụng ở phần thực đã tiếp tục được phát huy tác dụng một cách triệt để ở phần luận. Đó là tiếng chim cuốc, chim đa trong bóng chiều tà. Đó là “nhớ nước đau lòng” và “thương nhà mỏi miệng” đã được đặt trong thế đăng đối và hòa hợp. Ý thơ đã thể hiện người nữ sĩ lấy ngoại cảnh để phô diễn tâm tình. Đây cũng là một nét đặc sắc và nổi bật trong phong cách sáng tác của bà huyện Thanh Quan. Thơ tả cảnh ngụ tình nên nhạc, nên họa đã diễn tả cảnh đèo Ngang lúc hoàng hôn với nỗi niềm thi sĩ làm ta cảm thương, vương vấn. “Dừng chân đứng lại: trời, non, nướcMột mảnh tình riêng ta với ta” Hai câu thơ kết cuối bài như dồn lại biết bao nhớ thương sâu lắng và dạt dào của người nữ sĩ trong khung cảnh chiều tà. Đứng một mình nơi đèo cao lộng gió trong buổi hoàng hôn, nữ sĩ thấy mình như sống trong tâm trạng lẻ bóng, cô đơn, giữa một khung cảnh thiên nhiên hoang vắng bao la của “trời, non, nước”. Hai chữ “đứng lại” diễn tả một tư thế, một tâm trạng xúc động và bồi hồi. “Ta với ta” là ba chữ đắt giá kết hợp với điệp ngữ láy âm, đặt trong mối tương phản với “trời, non, nước” đã cho thấy cái mênh mang bao la với sự lẻ loi, đơn côi và nhỏ bé của lòng người. Nó gợi lên một sự trống vắng không thể nào kể xiết. "Qua Đèo Ngang" là bài thơ Nôm kiệt tác được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ đã cho thấy phong cách sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan.
Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang - mẫu 7
Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Bà Huyện Thanh Quan là “Qua Đèo Ngang”. Với bài thơ này, tác giả đã gửi gắm tình yêu quê hương đất nước sâu sắc. "Qua đèo ngang" gợi lên sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của bà Huyện Thanh Quan làm tiêu biểu cho phong cách thơ. Bài thơ "Qua đèo ngang" được tác giả sáng tác trong hoàn cảnh vào Phú Xuân(Huế) nhận chức và đi ngang qua đèo này. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, quê hương, thương cho thân người con gái yếu đuối đường xa. Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú. Với tám câu thơ mà đã thấy được những thần thái, cái hồn trong cảnh vật và con người trước cảnh núi rừng hiu quạnh. “Bước tới Đèo Ngang bóng xế tàCỏ cây chen lá, đá chen hoa” Hai câu đề hiện rõ khung cảnh rừng núi hoang sơ lúc "bóng xế tà". Một cảnh chiều nặng nề làm cho lòng người trở nên u buồn, gợn sầu hơn. Tất cả như gợi lên nỗi nhớ muốn tỏ rõ nỗi lòng mà không ai bầu bạn, sẻ chia. Chỉ có "cây cỏ chen lá, đá chen hoa" hiu quạnh. Điệp từ "chen" khẳng định sức sống mạnh mẽ của cỏ, cây, bấu víu để sinh sôi nảy nở. “Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhà” Đến hai câu thơ tiếp theo thì mới thấy bóng dáng của con người. Hai từ láy “lom khom”, “lác đác” cho thấy sự thưa thớt, vắng vẻ của con người. Trong bức tranh thiên nhiên này, con người chỉ là một điều nhỏ bé. Tiếp đến, Bà Huyện Thanh Quan đã bộc lộ tâm trạng của mình khi đứng trước đèo Ngang: “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốcThương nhà mỏi miệng cái gia gia” Giữa chốn rừng sâu vắng lặng, vang lên tiếng chim cuốc đau lòng não ruột. Đó cũng có thể là thanh âm thật là hay là tiếng lòng trong tâm trạng nhà thơ. Mượn bút pháp ước lệ và nghệ thuật chơi chữ để nói lên tiếng lòng mình trước cảnh. Tiếng chim kêu làm tăng phần cô quạnh, phải chăng đó là tâm trạng hoài vọng nhớ thương nước nhà? Cái bao la, vô tận của non nước làm chơi vơi bóng hình một mình giữa thiên nhiên, hồn cảnh - hồn người như hòa lẫn vào nhau, làm nỗi buồn da diết bị lắng đọng cùng. “Dừng chân đứng lại trời non nướcMột mảnh tình riêng ta với ta” Tiếng lòng non nước thấm thía, không san sẻ buộc nhà thơ thốt lên giãi bày "ta với ta" nghe chua xót. Chỉ ta mới hiểu được lòng ta, sự cô đơn như tăng lên gấp bội. Dù sầu muội như bà Huyện Thanh Quan vẫn cảm nhận được vẻ đẹp non nước dù nơi dừng chân có vẻ hoang sơ, nhưng đã tô lên vẻ đẹp hùng vĩ, bao la của núi rừng. Bài thơ "Qua Đèo Ngang" vừa gợi lên một bức tranh về cảnh đẹp thiên nhiên núi rừng hoang sơ, hùng vĩ, vừa gợi ra khung cảnh sống giản dị, đơn sơ mà ấm áp. Từ đó mang lại những cảm xúc, nỗi niềm, riêng tư của tác giả với tình yêu quê hương, đất nước da diết khi xa quê hương, lẻ loi một bóng hình nơi đất khách quê người.
Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang - mẫu 8
Bà Huyện Thanh Quan là một nữ thi sĩ nổi tiếng trong nền văn học trung đại của nước ta. “Qua Đèo Ngang” là một tác phẩm rất tiêu biểu cho phong cách thơ của bà. Bài thơ đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang thoáng đãng mà heo hút, thấp thoáng sự sống con người nhưng vẫn còn hoang sơ. Đồng thời nhà thơ còn qua đó gửi gắm nỗi nhớ nước thương nhà. Tác giả đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên nơi Đèo Ngang trong một buổi chiều tà: “Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” Cụm từ “bóng xế tà” gợi ra thời điểm kết thúc của một ngày. Nhà thơ đang một mình đứng trước nơi đèo Ngang. Tiếp đến câu thơ “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” là hình ảnh ước lệ mang tính biểu tượng, khắc họa khung cảnh thiên nhiên đèo Ngang. Việc sử dụng điệp từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” thật tinh tế. Vẻ đẹp thiên nhiên của đèo Ngang tuy hoang sơ nhưng lại tràn đầy sức sống. Khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang được nhà thơ khắc họa chỉ bằng vài nét nhưng lại hiện ra đầy chân thực và sinh động. Và không thể thiếu trong bức tranh thiên nhiên đó là hình ảnh con người. Nghệ thuật đảo ngữ “lom khom - tiều vài chú” cho thấy hình ảnh vài chú tiều với dáng đứng lom khom dưới chân núi. Và “lác đác - chợ mấy nhà” gợi ra hình ảnh vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác bên sông. Nhà thơ muốn nhấn mạnh vào sự nhỏ bé của con người trước thiên nhiên rộng lớn. Con người chỉ nằm là một chấm buồn lặng lẽ giữa một thiên nhiên rộng lớn. Thiên nhiên mới là trung tâm trong bức tranh đèo Ngang. Thiên nhiên càng cô quạnh, tâm trạng của tác giả càng cô đơn. Điều đó được bộc lộ ở những câu thơ tiếp theo: “Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốcThương nhà mỏi miệng, cái gia gia” Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa). Việc sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh: tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” để qua đó bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê hương. Đọc đến đây, chúng ta dường như có thể lắng nghe được tiếng kêu khắc khoải, da diết đang vang lên trong vô vọng. Câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” khắc họa hình ảnh nhà thơ một mình đứng tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước (có bầu trời, có núi non, dòng sông). Sự cô đơn của nhà thơ: “một mảnh tình riêng” - tình cảm riêng tư của nhà thơ không có ai để chia sẻ: “Dừng chân đứng lại trời, non, nướcMột mảnh tình riêng, ta với ta" Trong thơ Nguyễn Khuyến cũng từng sử dụng cụm từ “ta với ta”: “Đầu trò tiếp khách trầu không cóBác đến chơi đây ta với ta” Trong “Bạn đến chơi nhà, từ “ta” đầu tiên chỉ chính nhà thơ - chủ nhà, còn từ “ta” thứ hai chỉ người bạn - khách đến chơi. Từ “với” thể hiện mối quan hệ song hành, gắn bó dường như không còn khoảng cách. Qua đó thể hiện tình bạn gắn bó tri âm tri kỷ của nhà thơ. Còn trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, cụm từ “ta với ta” ở đây đều chỉ nhà thơ, lúc này bà chỉ có một mình đối diện với chính mình, cô đơn và lẻ loi. Sự cô đơn ấy dường như chẳng thể có ai cùng chia sẻ. Như vậy, Qua đèo Ngang đã thể hiện được tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan trước khung cảnh đèo Ngang hoang sơ. Bài thơ chứa đựng những tình cảm, ý nghĩa sâu sắc.
Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang - mẫu 9
Bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan được sáng tác khi bà đi ngang con đèo này để vào kinh thành Huế nhận chức làm quan. Bài thơ nói lên nỗi nhớ quê hương gia đình của người con gái đi xa, nỗi thương thân của phụ nữ nơi đất khách quê người. Lối thơ nhẹ nhàng điềm tĩnh của tác giả được thể hiện rõ qua bài thơ này. “Trèo đèo hai mái chân vânLòng về Hà Tĩnh, dạ ân Quảng Bình” Nằm giữa hai đầu nỗi nhớ, gánh trọn ân tình của nữ sĩ về bức tranh thiên nhiên hoang sơ đậm chất tình. Bà Huyện Thanh Quan dùng lối viết tự nhiên mà sâu lắng, hoài cảm đi vào lòng người. Trên con đường vào Phú Xuân, nữ sĩ bắt gặp phong cảnh đèo Ngang, từ đó khơi gợi nỗi buồn của người con gái đường xa chất chứa bao nỗi nhớ thương: “Bước tới đèo Ngang, bóng xế tàCỏ cây chen lá, đá chen hoa” Bức tranh vẽ ra vào buổi chiều tà, vào thời gian vắng vẻ và hoang vu trong ngày. Nếu được thay bằng “nắng tà” thì khung cảnh sẽ sinh động hơn. Một buổi chiều có nắng vàng, hoa lá và đá, vậy tại sao nữ sĩ lại không chọn nắng? Thời điểm chiều tà làm cho lòng người nôn nấu một nỗi hoài cổ, chất xúc tác làm tâm trạng con người cất thành tiếng. Bức tranh thiên nhiên hoang sơ đượm màu buồn, liệu tâm hồn nữ sĩ có đủ mạnh mẽ vượt qua? Điệp từ “chen” nhấn mạnh sự đơn lẻ, cô liêu. Sự sống sắp lụi tàn, hoa lá cỏ cây đang cuống quýt, nồng say bám chặt lấy sự sinh tồn trên mảnh đất cằn cỗi. “Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhà” Bức tranh lúc này đã có sự xuất hiện của con người nhưng nó có thể làm mờ nhạt bớt phần nào trong sự trống vắng của tâm hồn người thứ lữ? ” Tiều vài chú” chỉ có một vài chú tiều đi gom củi phía dưới chân núi. Từ đó, làm tăng cường độ mỏng manh của sự sống. Nó hư vô, mờ ảo như thể sẽ biến mất. Tác giả đã dùng nghệ thuật phép đảo để thay đổi trật tự cú pháp ở hai câu này làm toát lên cảnh hắt hiu, hoang sơ của con đèo này. Từ láy ”lom khom” chỉ hoạt động gồng gánh gian nan và “lác đác” nói lên mức độ số lượng được ước tính cụ thể. Những hình ảnh ước lệ ấy đã bộc lộ ra hết cảm xúc, muốn lắm, cần lắm được chạm đến sự sống và khao khát được nhìn thấy con người. Ôi chỉ là ảo ảnh! Nơi này, nữ sĩ biết tìm đâu người bạn đường để trò chuyện chia sẻ bao nỗi niềm. “Nhớ nước đau lòng con quốc quốcThương nhà mỏi miệng cái gia gia” Hai câu luận tiếp theo làm trỗi dậy nỗi niềm tiềm ẩn của người thứ lữ. ”Con quốc quốc” “Cái gia gia” âm hưởng nhẹ nhàng mà thấm đẫm đến tâm can con người. Người khách phương xa cô đơn nghe văng vẳng tiếng chim cuốc mà lòng tê tái, não nề. Ở đây, tác giả dùng thủ pháp dùng động để tả tĩnh thật tinh tế, thứ âm thanh coi cuốc nơi xa kia làm bệ phóng cho tác giả gửi trọn nỗi niềm về đất nước và gia đình trên cuộc hành trình của mình. Thương nước nhà đang chìm trong tình cảnh loạn lạc, xót xa thân phận gái xa nhà độc hành. Nỗi lòng thương xót ấy như được trùng trùng điệp điệp không ngơi nghỉ. “Dừng chân nghỉ lại trời non nướcMột mảnh tình riêng ta với ta.” Hai câu kết đưa xúc cảm của nữ sĩ lên đến đỉnh điểm của cảm xúc cao trào. ”Dừng chân” phần nào làm cho mạch cảm hứng của người đọc ngắt đoạn. Nhờ đó, mới diễn tả hết tâm trạng của nữ sĩ giữa núi rừng heo hút. Cái mênh mông, vô tận của núi rừng níu chân người thứ lữ. Ai đã từng một mình trước biển mà không choáng ngợp ?Ai đã yêu một người mà chưa từng nhớ nhung? Thật vậy, giữa thế giới bao la, vô tận ấy làm đôi chân nhỏ bé không thể bước nổi. Sự đơn độc ấy làm người thứ lữ yếu đuối. Người con gái ấy lại một lần nữa khao khát được hòa mình vào thiên nhiên núi rừng, được che lấp sự yếu đuối, đơn độc nơi mình. Núi rừng bao la, rộng lớn bao nhiêu thì sự cô đơn, trống vắng của nữ sĩ lại càng tăng bấy nhiêu. Từ đó, ta đủ cảm nhận “mảnh tình riêng” đơn độc đến tiếc nuối. Thể thơ thất ngôn bát cú với cấu trúc đề thực luận kết, cách hiệp vần và phép đối trong bài thơ tóm gọn bao cảm xúc trong lòng người đọc. Những tâm tư ấy đẹp biết bao qua lăng kính của tâm hồn người nữ sĩ một lòng một người yêu nước, thương dân. Bài thơ “Qua đèo Ngang” mang đến một phong cách mới mẻ về bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, mang đậm chất trữ tình của nữ sĩ. Những vần thơ ấy sẽ còn mãi trong tâm trí người đọc, có một người yêu thiên nhiên, yêu đất nước đến vậy.
Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang - mẫu 10
Xã hội phong kiến luôn có sự chèn ép, ràng buộc tự do của những người phụ nữ bất hạnh, chỉ sống phụ thuộc, không làm chủ cho bản thân mình. Xã hội hiện đại bây giờ, phụ nữ luôn được tôn trọng, bình đẳng, không phân biệt đối xử như ngày xưa nữa. Tình cảm yêu mến, muốn được bảo vệ hạnh phúc tự do cho mình, cũng không hề kém cạnh các đại nam nhi. Đối với bà Huyện Thanh Quan tuy không đi ra chiến trường chiến đấu, nhưng bà đã gửi gắm tinh thần, sự cổ động mạnh mẽ vào thơ, để tiếp thêm một phần sức mạnh, công lao của mình cho đất nước. Qua đèo ngang gợi lên sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của bà Huyện Thanh Quan làm tiêu biểu cho phong cách thơ. Bài thơ Qua đèo ngang được tác giả sáng tác trong hoàn cảnh vào Phú Xuân(Huế) nhận chức và đi ngang qua đèo này. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, quê hương, thương cho thân người con gái yếu đuối đường xa. Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú. Với 8 câu thơ mà đã thấy được những thần thái, cái hồn trong cảnh vật và con người trước cảnh núi rừng hiu quạnh. Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen lá, đá chen hoa Hai câu đề hiện rõ khung cảnh rừng núi hoang sơ lúc bóng xế tà. Một cảnh chiều nặng nề làm cho lòng người trở nên u buồn, gợn sầu hơn. Tất cả như gợi lên nỗi nhớ muốn tỏ rõ nỗi lòng mà không ai bầu bạn, sẻ chia. Chỉ có cây cỏ chen lá, đá chen hoa hiu quạnh. Điệp từ chen khẳng định sức sống mạnh mẽ của cỏ, cây, bấu víu để sinh sôi nảy nở. Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà Đến hai câu thơ tiếp theo thì mới thấy bóng dáng của con người. người tiều phu đi lượm củi vẫn tạo cảm giác vô định, lom khom từ ngữ nhấn mạnh thể hiện sự vất vả của người tiều phu, phải đi kiếm từng khúc củi, ước tính số lượng cụ thể, sự sống hiếm hoi, xa vời, tìm một người bạn trở nên khó khăn hơn. Tiếp đến hai câu thơ luận phần nào cảm xúc của tác giả như được thể hiện rõ nét hơn: Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Giữa chốn rừng sâu vắng lặng, vang lên tiếng chim cuốc đau lòng não ruột. Đó cũng có thể là thanh âm thật là hay là tiếng lòng trong tâm trạng nhà thơ. Mượn bút pháp ước lệ và nghệ thuật chơi chữ để nói lên tiếng lòng mình trước cảnh. Tiếng chim kêu làm tăng phần cô quạnh, phải chăng đó là tâm trạng hoài vọng nhớ thương nước nhà? Cái bao la, vô tận của non nước làm chơi vơi bóng hình một mình giữa thiên nhiên, hồn cảnh - hồn người như hòa lẫn vào nhau, làm nỗi buồn da diết bị lắng đọng cùng. Dừng chân đứng lại trời non nước Một mảnh tình riêng ta với ta Tiếng lòng non nước thấm thía, không san sẻ buộc nhà thơ thốt lên giãi bày ta với ta nghe chua xót. Chỉ ta mới hiểu được lòng ta, sự cô đơn như tăng lên gấp bội. Dù sầu muội như bà Huyện Thanh Quan vẫn cảm nhận được vẻ đẹp non nước dù nơi dừng chân có vẻ hoang sơ, nhưng đã tô lên vẻ đẹp hùng vĩ, bao la của núi rừng. Bài thơ Qua Đèo Ngang vừa gợi lên một bức tranh về cảnh đẹp thiên nhiên núi rừng hoang sơ, hùng vĩ, vừa gợi ra khung cảnh sống giản dị, đơn sơ mà ấm áp. Từ đó mang lại những cảm xúc, nỗi niềm, riêng tư của tác giả với tình yêu quê hương, đất nước da diết khi xa quê hương, lẻ loi một bóng hình nơi đất khách quê người.
Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang - mẫu 11
Bà Huyện Thanh Quan là một trong những câu bút vàng của nền văn học Việt Nam. Trong một lần vào Huế nhận chức qua con đèo vắt ngang từ Hà Tĩnh và Quảng Bình đó cũng là ranh giới tự nhiên của hai tỉnh . bước đến đèo ai cũng phải ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của nó, vẻ đẹp hùng vĩ núi non trùng điệp, đại dương bao la dưới nền trời xanh thẳm. Trước vẻ đẹp ấy bà đã sáng tác bài thơ Qua đèo Ngang. Đằng sau bức tranh thiên nhiên kì vĩ đó là tâm trạng người thi sĩ cô đơn, nhớ nhà và biết bao hoài niệm về một thời huy hoàng đã qua. Có lẽ Qua đèo Ngang là bài thơ hay nhất trong các bài sáng tác về địa danh này. Mở đầu bài thơ là hai câu miêu tả thời gian và địa điểm khi tác giả đặt chân tới nơi đây: “Bước tới đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen lá đá chen hoa” Không gian và thời gian được tác giả thể hiện qua hình ảnh “bóng xế tà” là lúc chiều chiều mà hoàng hôn đã buông xuống, dường như thời khắc này lòng ai cũng nặng trĩu và mệt mỏi vừa kết thúc một ngày vất vả. Không gian mênh mang, hùng vĩ của đèo Ngang lại càng làm lòng người thêm gợi buồn, gợi sầu hơn. Trong văn học Việt Nam cảnh chiều tà, cánh chim mỏi….. dùng để riêng tả nỗi buồn không biết chia sẻ cùng ai. Hoàng hôn xuống, cái bóng tối bao phủ lấy nơi này nỗi buồn, cô đơn, lạc lõng càng bám riết hơn làm lòng người cảm thấy hiu quạnh đến não lòng. Chỉ còn cỏ cây, lá, đá chen chúc, quấn quýt nhau để giành lấy sự sống sinh sôi, nảy nở. Hai câu đầu nói về khung cảnh thiên nhiên, đến hai câu sau tác giả miêu tả cảnh sinh hoạt của con người. “Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác trên sông chợ mấy nhà” Đọc hai câu thơ, ta cũng cảm thấy có cái gì đó một chút gợi buồn man mác. Hình ảnh thấp thoáng “ tiều vài chú” đang lom khom dưới núi nhặt những cành củi khô, còn trên sông cũng chỉ có “lác đác” mấy ngôi nhà. Khi nói đến chợ ai cũng nghĩ tới hình ảnh nhộn nhịp, lời ra tiếng vào của những người bán hàng, nhưng ở đây dù ở chợ nhưng cũng chỉ có lác đác mấy ngôi nhà. Phép đảo ngữ ở hai câu thơ này, bà Huyện Thanh Quan đã nhấn mạnh một lần nữa sự hoang sơ, hẻo lánh của nơi đây làm tăng thêm nỗi buồn chơi vơi. Sự sống nơi đèo Ngang mong manh, hiu quanh và hoang sơ. Hình ảnh nơi đây như đã nhuộm nỗi buồn của người thi sĩ, sự sống nơi đây thật lẻ loi muốn tìm người bạn tâm sự mà cũng chẳng có. Hai câu thơ tiếp theo tâm trạng của tác giả như trỗi dậy: “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc Thương nhà mỏi miệng cái da da” “Nhớ” và “thương” là cảm xúc từ mỗi trái tim con người, nó làm tăng thêm nỗi niềm của tác giả khi nhớ về gia đình, nhớ về quê hương. Điệp từ “cuốc cuốc”, “da da” đã tạo nên âm điệu du dương, dìu dặt làm lòng lữ khách thêm tái tê. Thủ pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, lấy động tả tĩnh của tác được sử dụng một cách thật điêu luyện. Trên nền nhớ thương là tiếng chim kêu càng làm tăng thêm nỗi nhớ trong lòng người thi sĩ xa quê, tâm tình của tác giả giả thăm thẳm, mênh mang, day dứt không nguôi… Hai câu thơ cuối của bài thơ dường như tâm trạng của tác giả được đẩy lên đến đỉnh điểm: “Dừng chân nghỉ lại trời non nước Một mảnh tình riêng ta với ta” Đọc hai câu thơ ta cảm thấy thật não nề trong lòng nặng trĩu nỗi buồn da diết không dứt. Tác giả dừng chân nghỉ lại thấy mình nhỏ bé lạc lõng giữa đất trời bao la rộng lớn không một nơi bám giữ, cảnh đất trời mênh mang khiến tác giả chỉ còn thấy “ một mảnh tình riêng” và mảnh tình ấy chỉ còn riêng “ ta với ta”. Một mình lạc lõng giữa thiên nhiên hiu hắt, nỗi buồn ấy dâng lên đến cực độ, xuyên thấu vào trái tim, buồn đến ngả nghiêng xoay chuyển đất trời. Với giọng điệu tha thiết, tâm tình, lúc trầm lúc bổng kết hợp với các biện pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình độc đáo, lấy động tả tĩnh, phép đảo ngữ, điệp ngữ….. đã mang đến cho bài thơ những cả xúc dạt dào đi thấu vào tấm lòng người đọc. Đọc bài thơ Qua đèo Ngang ta càng hiểu thêm được tấm lòng của người con khi xa quê hương và tăng thêm niềm tin yêu đối với quê hương mình.
Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang - mẫu 12
Bài thơ Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan được sáng tác khi bà đi ngang con đèo này để vào kinh thành Huế nhận chức làm quan. Bài thơ nói lên nỗi nhớ quê hương gia đình của người con gái đi xa, nỗi thương thân của phụ nữ nơi đất khách quê người. Lối thơ nhẹ nhàng điềm tĩnh của tác giả được thể hiện rõ qua bài thơ này. “Trèo đèo hai mái chân vân Lòng về Hà Tĩnh, dạ ân Quảng Bình” Nằm giữa hai đầu nỗi nhớ, gánh trọn ân tình của nữ sĩ về bức tranh thiên nhiên hoang sơ đậm chất tình. Bà Huyện Thanh Quan dùng lối viết tự nhiên mà sâu lắng, hoài cảm đi vào lòng người. Trên con đường vào Phú Xuân, nữ sĩ bắt gặp phong cảnh đèo Ngang, từ đó khơi gợi nỗi buồn của người con gái đường xa chất chứa bao nỗi nhớ thương: “Bước tới đèo Ngang,bóng xế tà Cỏ cây chen lá, đá chen hoa” Bức tranh vẽ ra vào buổi chiều tà, vào thời gian vắng vẻ và hoang vu trong ngày. Nếu được thay bằng “nắng tà” thì khung cảnh sẽ sinh động hơn. Một buổi chiều có nắng vàng, hoa lá và đá, vậy tại sao nữ sĩ lại không chọn nắng? Thời điểm chiều tà làm cho lòng người nôn nấu một nỗi hoài cổ, chất xúc tác làm tâm trạng con người cất thành tiếng. Bức tranh thiên nhiên hoang sơ đượm màu buồn, liệu tâm hồn nữ sĩ có đủ mạnh mẽ vượt qua? Điệp từ “chen” nhấn mạnh sự đơn lẻ, cô liêu. Sự sống sắp lụi tàn, hoa lá cỏ cây đang cuống quýt, nồng say bám chặt lấy sự sinh tồn trên mảnh đất cằn cỗi. “Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên song chợ mấy nhà” Bức tranh lúc này đã có sự xuất hiện của con người nhưng nó có thể làm mờ nhạt bớt phần nào trong sự trống vắng của tâm hồn người thứ lữ? ” Tiều vài chú” chỉ có một vài chú tiều đi gom củi phía dưới chân núi. Từ đó, làm tăng cường độ mỏng manh của sự sống. Nó hư vô, mờ ảo như thể sẽ biến mất. Tác giả đã dùng nghệ thuật phép đảo để thay đổi trật tự cú pháp ở hai câu này làm toát lên cảnh hắt hiu, hoang sơ của con đèo này. Từ láy ”lom khom” chỉ hoạt động gồng gánh gian nan và “lác đác” nói lên mức độ số lượng được ước tính cụ thể. Những hình ảnh ước lệ ấy đã bộc lộ ra hết cảm xúc, muốn lắm, cần lắm được chạm đến sự sống và khao khát được nhìn thấy con người. Ôi chỉ là ảo ảnh! Nơi này, nữ sĩ biết tìm đâu người bạn đường để trò chuyện chia sẽ bao nỗi niềm. “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia” Hai câu luận tiếp theo làm trỗi dậy nỗi niềm tiềm ẩn của người thứ lữ. ”Con quốc quốc” “Cái gia gia” âm hưởng nhẹ nhàng mà thấm đẫm đến tâm can con người. Người khách phương xa cô đơn nghe văng vẳng tiếng chim cuốc mà lòng tê tái, não nề. Ở đây, tác giả dùng thủ pháp dùng động để tả tĩnh thật tinh tế, thứ âm thanh coi cuốc nơi xa kia làm bệ phóng cho tác giả gửi trọn nỗi niềm về đất nước và gia đình trên cuộc hành trình của mình. Thương nước nhà đang chìm trong tình cảnh loạn lạc, xót xa thân phận gái xa nhà độc hành. Nỗi lòng thương xót ấy như được trùng trùng điệp điệp không ngơi nghỉ. “Dừng chân nghỉ lại trời non nước Một mảnh tình riêng ta với ta” Hai câu kết đưa xúc cảm của nữ sĩ lên đến đỉnh điểm của cảm xúc cao trao. ”Dừng chân” phần nào làm cho mạch cảm hứng của người đọc ngắt đoạn. Nhờ đó, mới diễn tả hết tâm trạng của nữ sĩ giữa núi rừng heo hút. Cái mênh mông, vô tận của núi rừng níu chân người thứ lữ. Ai đã từng một mình trước biển mà không choáng ngợp ?Ai đã yêu một người mà chưa từng nhớ nhung? Thật vậy, giữa thế giới bao la, vô tận ấy làm đôi chân nhỏ bé không thể bước nổi. Sự đơn độc ấy làm người thứ lữ yếu đuối. Người con gái ấy lại một lần nữa khao khát được hòa mình vào thiên nhiên núi rừng, được che lấp sự yếu đuối, đơn độc nơi mình. Núi rừng bao la, rộng lớn bao nhiêu thì sự cô đơn, trống vắng của nữ sĩ lại càng tăng bấy nhiêu. Từ đó, ta đủ cảm nhận “mảnh tình riêng” đơn độc đến tiếc nuối. Thể thơ thất ngôn bát cú với cấu trúc đề thực luận kết, cách hiệp vần và phép đối trong bài thơ tóm gọn bao cảm xúc trong lòng người đọc. Những tâm tư ấy đẹp biết bao qua lăng kính của tâm hồn người nữ sĩ một lòng một người yêu nước, thương dân. Bài thơ “Qua đèo Ngang” mang đến một phong cách mới mẻ về bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, mang đậm chất trữ tình của nữ sĩ. Những vần thơ ấy sẽ còn mãi trong tâm trí người đọc, có một người yêu thiên nhiên, yêu đất nước đến vậy.
Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang - mẫu 13
Trong dòng văn thơ cổ Việt Nam có hai nữ thi sĩ được nhiều người biết đến đó là Hồ Xuân Hương và bà Huyện Thanh Quan . Nếu như thơ văn của Hồ Xuân Hương sắc sảo, góc cạnh thì phong cách thơ của bà Huyện Thanh Quan lại trầm lắng, sâu kín, hoài cảm… Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà, Cỏ cây chen đá, lá chen hoa. Lom khom dưới núi tiều vài chú, Lác đác bên sông chợ mấy nhà. Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc, Thương nhà mỏi miệng cái gia gia. Dừng chân đứng lại trời non nước, Một mảnh tình riêng ta với ta. Tác giả bài thơ tên thật là Nguyễn Thị Hinh sống trong nửa đầu thế kỷ 19, quê ở làng Nghi Tàm, ven Hồ Tây, kinh thành Thăng Long. Bà xuất thân trong một gia đình quan lại, có nhan sắc, có học, có tài thơ Nôm, giỏi nữ công gia chánh – bà được vua Minh Mệnh vời vào kinh đô Phú Xuân làm nữ quan “Cung trung giáo tập”. Chồng bà là Lưu Nghi làm tri huyện Thanh Quan, tỉnh Thái Bình, nên người đời trân trọng gọi bà là Bà huyện Thanh Quan. Bà chỉ còn để lại 6 bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật: “Qua Đèo Ngang”, “Chiều hôm nhớ nhà”, “Thăng Long thành hoài cổ”, “Chùa Trấn Bắc”, “Chơi Đài Khán Xuân Trấn võ”. “Tức cảnh chiều thu”. Thơ của bà hay nói đến hoàng hôn, man mác buồn, giọng điệu du dương, ngôn ngữ trang nhã, hồn thơ đẹp, điêu luyện. Trên đường vào Phú Xuân…, bước tới Đèo Ngang lúc chiều ta, cảm xúc dâng trào lòng người, Bà huyện Thanh Quan sáng tác bài “Qua Đèo Ngang”. Bài thơ tả cảnh Đèo Ngang lúc xế tà và nói lên nỗi buồn cô đơn, nỗi nhớ nhà của người lữ khách – nữ sĩ. Lần đầu nữ sĩ “bước tới Đèo Ngang”, đứng dưới chân con đèo “đệ nhất hùng quan” này, địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh – Quảng bình, vào thời điểm “bóng xế tà”, lúc mặt trời đã nằm ngang sườn núi, ánh mặt trời đã “tà”, đã nghiêng, đã chênh chênh. Trời sắp tối. Âm “tà” cũng gợi buồn thấm thía. Câu 2, tả cảnh sắc: cỏ cây, lá, hoa… đá. Hai vế tiểu đối, điệp ngữ “chen”, vần lưng: “đá” – “lá”, vần chân: “tà” – “hoa”, thơ giàu âm điệu, réo rắt như một tiếng lòng, biểu lộ sự ngạc nhiên và xúc động về cảnh sắc hoang vắng nơi Đèo Ngang 200 năm về trước: “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. Chỉ có hoa rừng, hoa dại, hoa sim, hoa mua. Cỏ cây, hoa lá phải “chen” với đá mới tồn tại được. Cảnh vật hoang sơ, hoang dại đến nao lòng. Nữ sĩ sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Âm điệu thơ trầm bổng du dương, đọc lên nghe rất thú vị: “Lom khom dưới núi tiều vài chú,Lác đác bên sông chợ mấy nhà”. Điểm nhìn đã thay đổi: đứng cao nhìn xuống dưới và nhìn xa. Thế giới con người là tiểu phu, nhưng chỉ có “tiều vài chú”. Hoạt động là “lom khom” vất vả đang gánh củi xuống núi. Một nét vẽ ước lệ rong thơ cổ (ngư, tiều, canh, mục) nhưng rất thần tình, tinh tế trong cảm nhận. Mấy nhà chợ bên sông thưa thớt, lác đác. chỉ mấy cái lều chợ miền núi, sở dĩ nữ sĩ gọi “chợ mấy nhà” để gieo vần mà thôi: “tà” – “hoa” – “nhà”. Cũng là cảnh hoang vắng, heo hút, buồn hoang sơ nơi con đèo xa xôi lúc bóng xế tà. Tiếp theo nữ sĩ tả âm thanh tiếng chim rừng: chim gia gia, chim cuốc gọi bầy lúc hoàng hôn. Điệp âm “con cuốc cuốc” và “cái gia gia” tạo nên âm hưởng du dương của khúc nhạc rừng, của khúc nhạc lòng người lữ khách. Lấy cái động (tiếng chim rừng) để làm nổi bật cái tĩnh, cái vắng lặng im lìm trên đỉnh đèo Ngang trong khoảnh khắc hoàng hôn, đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnh trong thi pháp cổ. Phép đối và đảo ngữ vận dụng rất tài tình: “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc, Thương nhà mỏi miệng cái gia gia” Nghe tiếng chim rừng mà “nhớ nước đau lòng”, mà “thương nhà mỏi miệng” nỗi buồn thấm thía vào 9 tầng sâu cõi lòng, tỏa rộng trong không gian từ con đèo tới miền quê thân thương. Sắc điệu trữ tình dào dạt, thiết tha, trầm lắng. Lữ khách là một nữ sĩ nên nỗi “nhớ nước”, nhớ kinh kỳ Thăng Long, nhớ nhà, nhớ chồng con, nhớ làng Nghi Tàm thân thuộc không thể nào kể xiết! Bốn chữ “dừng chân đứng lại” thể hiện một nỗi niềm xúc động đến bồn chồn. Một cái nhìn mênh mang: “Trời non nước”; nhìn xa, nhìn gần, nhìn cao, nhìn sâu, nhìn 4 phía… rồi nữ sĩ thấy vô cùng buồn đau, như tan nát cả tâm hồn, chỉ còn lại “một mảnh tình riêng”. Lấy cái bao la, mênh mông, vô hạn của vũ trụ, của “trời non nước” tương phản với cái nhỏ bé của “mảnh tình riêng”, của “ta” với “ta” đã cực tả nỗi buồn cô đơn xa vắng của người lữ khác khi đứng trên cảnh Đèo Ngang lúc ngày tàn. Đó là tâm trạng nhớ quê, nhớ nhà: “Dừng chân đứng lại trời non nước, Một mảnh tình riêng ta với ta”. “Qua Đèo Ngang” là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật tuyệt bút. Thế giới thiên nhiên kỳ thú của Đèo Ngang như hiển hiện qua dòng thơ. Cảnh sắc hữu tình thấm một nỗi buồn man mác. Giọng thơ du dương, réo rắt. Phép đối và đảo ngữ có giá trị thẩm mĩ trong nét vẽ tạo hình đầy khám phá. Cảm hứng thiên nhiên trữ tình chan hòa với tình yêu quê hương đất nước đậm đà qua một hồn thơ trang nhã. Bài thơ “Qua Đèo Ngang” là tiếng nói của một người mà trở thành khúc tâm tình của muôn triệu người, nó là bài thơ một thời mà mãi mãi – bài thơ non nước.
Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang - mẫu 14
Bà Huyện Thanh Quan là một nhà thơ nữ hiếm hoi của nền thi ca cổ đại của Việt Nam ta. Bà Huyện Thanh Quan có văn phong nhẹ nhàng sâu sắc, chứa đựng những tâm tư tình cảm sâu lắng, chất chứa trong lòng thông qua những lời thơ ẩn ý ngụ tình. Bài thơ “Qua đèo ngang” là một bài thơ hay thể hiện sự cô đơn, buồn chán của tác giả trước cảnh hoàng hôn ở vùng đất hoang sơ cùng cốc, một thân một mình với những nỗi buồn khi nhớ về quê hương nơi xa xôi. Bài thơ Qua đèo ngang được viết bắt thể thơ thất ngôn bát cú. Bài thơ chỉ có tám câu thơ ngắn ngủi nhưng nó đã lột tả được tâm trạng thần thái của bà Huyện Thanh Quan trước cảnh chiều tà hoang lạnh. Bước tới đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen lá, lá chen hoa Trong hai câu thơ đầu này, không gian hiện lên vô cùng mênh mông, rộng lớn. Cảnh hoàng hôn xuống mặt trời đã tắt bóng, ánh nắng dần dần chuyển sang màu tối, bóng đêm bao phủ nơi đây. Không gian đã cô liêu lại cảm trở nên im ắng thanh tịnh tới nao lòng. Điệp từ “chen” vào lối sử dụng từ ngữ khiến cho câu thơ trở nên vô cùng mềm mại. Tác giả đã vẽ lên một bức tranh vô cùng tươi đẹp về thiên nhiên nơi đây, hình ảnh cỏ cây hoa lá mọc bên nhau thật sinh động tươi đẹp. Nhưng tuyệt nhiên trong câu thơ không hề có sự xuất hiện của con người Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà Trong bài thơ Qua đèo ngang bóng dáng của con người đã vô cùng ít xuất hiện, nếu có xuất hiện cũng bé nhỏ xa mờ. Trong hai câu thơ này tác giả có nhắc tới hình ảnh của con người “Lom khom dưới núi tiều vài chú” thể hiện sự mênh mang của không gian, sự bé nhỏ của con người trước cảnh vật thiên nhiên hùng vĩ. Lác đác bên sông chợ mấy nhà, hình ảnh con người sự sống của con người hiện lên vô cùng thưa thớt, khiến cho khung cảnh đã hiu hắt, ảm đạm trước cảnh hoàng hôn càng trở nên buồn chán , hiu quạnh. Tác giả sử dụng từ láy “lác đác” “lom khom” thể hiện sự thưa thớt, vắng vẻ, nhỏ bé của con người. Sự tinh tế trong từ ngữ của tác giả làm cho câu thơ trở nên sinh động vô cùng, làm cho bài thơ luôn gợi lên một nỗi buồn man mác. Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Tác giả vô cùng tinh tế khi sử dụng “điệp âm” trong hai câu thơ này để tạo nên âm hưởng da diết, mênh mang tạo nên nỗi buồn nao lòng làm lay động tâm tư người đọc. Hình ảnh con cuốc cuốc là hình ảnh hiu hát, buồn tới nao lòng. Mỗi lần nghe tiếng cuốc kêu trên những cánh đồng xa thường gợi cho con người nhớ tới quê hương của mình. Nhớ những kỷ niệm vui buồn khó quên. Nỗi nhớ như xé lòng người lữ khách tha hương. Trong hai câu thơ này tác giả khôn khéo khi sử dụng những từ đồng âm khác nghĩa, cùng nghĩa khác từ cuốc cuốc, da da, nước và nhà, nhớ và thương…để tạo ra hai câu thơ vô cùng độc đáo gợi lên nhiều cảm xúc. Câu thơ như có đủ chất nhạc, chất thơ ở trong đó khiến khi người đọc đọc lên cảm nhận được sự mênh mang da diết. Dừng chân đứng lại trời non nước Một mảnh tình riêng ta với ta “Một mảnh tình riêng ta với ta” thể hiện tâm trạng cô đơn, chỉ một mình độc bước của tác giả trước cảnh hoàng hôn xế bóng, thể hiện nỗi cô đơn của người lữ khách trước cảnh đất nước phân chia hai miền do hai chế độ nhà Lê và nhà Nguyễn thống trị. Những cuộc chiến tranh nội chiến tương tàn, sát hại lẫn nhau làm cho người dân vốn đã khốn khổ lại càng thêm thê lương. Trong bối cảnh nhà thơ Huyện Thanh Quan sống đất nước ta đang vô cùng rối ren, nên trong thơ của bà thường chứa đựng nỗi buồn hiu hắt về nhân tình thế thái. Bài thơ Qua đèo ngang là một bài thơ hay thể hiện được bút pháp trữ tình sâu lắng của tác giả, thể hiện được lối chơi chữ nghệ thuật của bà Huyện Thanh Quang. Đồng thời qua bài thơ còn thể hiện cái nhìn nhân sinh quan, nỗi niềm của tác giả với triều đình nhà Lê thời đó. Bài thơ “Qua đèo Ngang” với giọng điệu da diết, trầm bổng, du dương và những thủ pháp nghệ thuật độc đáo đã mang đến cho người đọc cảm xúc khó quên. Dư âm của bài thơ dường như còn vang vọng đâu đây.
Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang - mẫu 15
Nền văn học trung đại nổi bật lên với nhiều gương mặt nhà thơ nam, nhưng bên cạnh đó cũng là sự xuất hiện của tên tuổi những nhà thơ nữ tài năng, có thể kể đến Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan. Tuy những người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa vốn không được coi trọng nhưng bằng tài năng và trong nền văn học của nước nhà. Bài thơ Qua đèo ngang là một tác phẩm thơ nổi tiếng của bà Huyện Thanh Quan, nói về tình cảnh đơn độc của người con xa xứ và nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết. Bà Huyện Thanh Quan là một nữ sĩ tài năng dưới thời vua Minh Mạng, tài năng xuất chúng của bà đã được triều đình trọng dụng và được phân bổ chức Cung trung giáo tập, tức là một chức quan dạy lễ nghi cho các cung phi, cung chúa chốn thâm cung. Để nhận chức, bà đã phải rời quê hương đến kinh thành Huế, trên đường đi nhận chức bà đã dừng chân ở Đèo Ngang và sáng tác lên tác phẩm Qua Đèo Ngang: “Bước tới đèo ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá lá chen hoa” Hai câu thơ đầu tiên đã mở ra không gian, thời điểm đầy đặc biệt của bức tranh thơ. Thời gian mà Bà Huyện Thanh Quan lựa chọn trong bài thơ này đó chính là không gian của buổi chiều tà, đây là thời điểm bà dừng chân nghỉ ngơi, lấy sức cho hành trình dài. Nhưng cũng chính thời điểm chiều ta cũng gợi nhắc cho người ta nhiều suy tư, trăn trở. Các nhà thơ miêu tả “bóng xế tà” gợi ra không khí chậm chãi, trầm buồn của không gian khi ánh sáng của một ngày bắt đầu lụi tắt. Trong không gian ấy, khung cảnh thiên nhiên nơi Đèo Ngang cũng khiến cho con người rợn ngợp, trống trải. Cảnh cỏ cây, hoa lá cùng chen nhau trên những phiến đá gợi ra sự phát triển mạnh mẽ, tốt tươi của sự vật nhưng đồng thời cũng tạo ra sự trống vắng, hoang sơ của chốn núi rừng. Làm cho khung cảnh vốn tĩnh lặng lại càng trở nên buồn đến rợn ngợp. Xem thêm: Tại sao nói: “ Hiền tài là nguyên khí của một quốc gia” “Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà” Nếu như khung cảnh thiên nhiên núi rừng nơi đèo ngang khiến cho Bà Huyện Thanh Quan cảm thấy trống vắng, tịch mịch thì khi hướng cái nhìn về sự sống xung quanh lại mang lại cho tác giả cảm xúc của sự cô đơn, trống vắng. tác giả đã sử dụng các từ láy lom khom, lác đác để diễn tả sự ít ỏi, thưa thớt của những dấu hiệu sống, dấu hiệu của con người. Vốn muốn tìm sự ấm áp trong không gian hoang lạnh nhưng khi nhìn về sự sống thưa thớt lại càng gợi lên sâu sắc sự cô đơn, khắc sâu thêm nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết: “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia” Tiếng chim văng vẳng trong không gian đầy da diết gợi lên nỗi nhớ quê hương, nỗi nhớ nhà của thi sĩ. Một mình nơi đất khách lại đứng trước không gian mênh mông vắng lặng của càng khiến cho con người trở nên nhỏ bé, càng cảm nhận sâu sắc hơn nỗi cô đơn của mình. Tác giả đã sử dụng phép chơi chữ để làm nổi bật lên nỗi nhớ nhà của mình. Quốc trong tiếng kêu quốc quốc là nỗi nhớ hướng về đất nước, về quê hương. Còn gia lại gợi nhắc đến nỗi nhớ về gia đình. “Dừng chân đứng lại trời non nước Một mảnh tình riêng ta với ta” Dừng chân trong không gian núi trời mênh mông, bát ngát nhà thơ cảm nhận được nét đẹp của non sông gấm vóc của đất trời, tuy nhiên cũng chính không gian ấy lại làm sâu thêm nỗi cô đơn, lẻ loi của nhà thơ nơi đất khách quê người. Bởi những nỗi niềm, những tâm sự chẳng thể giãi bày cùng ai chỉ có thể ôm ấp cho riêng mình.
Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang - mẫu 16
Bà Huyện Thanh Quan là một trong số những nữ sĩ tài danh xuất sắc của nền văn học trung đại Việt Nam, tuy nhiên những sáng tác của bà còn tồn tại đến ngày nay không còn nhiều. Có thể nói, bài thơ Qua đèo Ngang là một trong số những sáng tác xuất sắc nhất của bà. Ra đời khi Bà Huyện Thanh Quan lần đầu tiên xa nhà, xa quê hương, vào kinh đô Huế nhận chức “cung trung giáo tập”, bài thơ mang những nét đặc sắc cả về nội dung và nghệ thuật. Trước hết, bài thơ đã vẽ nên một cảnh tượng, một bức tranh Đèo Ngang vừa thoáng đãng, vừa heo hút, hoang sơ nhưng vẫn thấp thoáng ở đó bóng hình, sự sống của con người. Mở đầu bài thơ cảnh tượng Đèo Ngang thoáng hiện lên nỗi buồn hiu quạnh. Bước tới Đèo Ngang bóng xế tàCỏ cây chen lá đá chen hoa Hai câu thơ mở đầu bài thơ đã gợi lên thời gian, không gian nghệ thuật cho bài thơ, để rồi, từ trong khoảng không gian, thời gian ấy cảnh tượng đèo Ngang cứ thế dần hiện ra. Thời gian trong bài thơ được gợi lên thông qua cụm từ “bóng xế tà”. Có thể thấy đó là một buổi chiều chạng vạng – khoảng thời gian thường gợi lên trong mỗi người nỗi buồn man mác với nỗi trống vắng, cô đơn. Không chỉ là thời gian chiều tà, bài thơ còn gợi lên một không gian cảnh vật nơi đèo Ngang rộng lớn, mênh mông – sự rộng lớn của không gian càng làm tăng thêm nỗi buồn và sự trống vắng. Và để rồi, trong khoảng không gian rộng lớn ấy, từng cảnh vật cứ thế chen chúc nhau mọc lên. Sự chật chội, chen chúc ấy của cảnh vật được thể hiện rõ nét qua động từ “chen”. Động từ này không chỉ gợi lên sự chen chúc, hoang sơ, không có trật tự của cảnh vật mà qua đó nó còn thể sức sống của vạn vật trước sự khắc nghiệt của khí hậu và sự mênh mông của không gian. Thêm vào đó, bức tranh thiên nhiên nơi đèo Ngang còn hiện lên thấp thoáng sự sống của con người. Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhà Hai từ láy “lom khom”, “lác đác” để diễn tả dáng hình của chú tiều và những ngôi nhà cùng nghệ thuật đảo ngữ, chúng được đặt lên ở đầu câu đã nhấn mạnh sự thưa thớt, ít ỏi. Thêm vào đó, việc sử dụng các từ ngữ “vài”, “mấy” đã làm tăng thêm sự nhỏ bé của bóng hình con người và sự thưa thớt, hoang vắng của cảnh vật. Để rồi từ những hình ảnh và từ ngữ ấy, tác giả đã gợi nên một bức tranh cảnh vật thưa thớt, hoang vắng dẫu đã có ánh lên sự sống của con người. Như vậy, bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan đã vẽ nên một bức tranh cảnh vật đèo Ngang lúc chiều tà rộng lớn, mênh mông, thấp thoáng hiện lên bóng hình của con người, của sự sống nhưng vẫn còn hoang vắng, đìu hiu, gợi lên cảm giác man mác buồn và sự vắng lặng, cô đơn. Không dừng lại ở đó, bài thơ Qua đèo Ngang còn thể hiện tâm trạng và nỗi lòng của nhà thơ. Nhớ nước đau lòng con quốc quốcThương nhà mỏi miệng cái gia gia Hai câu thơ đã cho thấy nghệ thuật sử dụng từ ngữ điêu luyện và tài tình của nữ sĩ Bà Huyện Thanh Quan – chữ quốc là nước là từ đồng âm với từ “cuốc” – chỉ một loài chim và “gia gia” là từ có âm gần giống với loài chim đa đa. Với nghệ thuật chơi chữ tài năng, hai câu thơ đã nói lên tâm trạng của bà vào thời điểm bước tới đèo Ngang. Âm thanh văng vẳng của hai loài chim ấy phải chăng cũng chính là nỗi lòng của bà ngay lúc này – nỗi “nhớ nước”, “thương nhà”. Đồng thời, nỗi lòng ấy càng được tỏ rõ và nhấn mạnh khi tác giả khéo léo sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, đưa hai từ “nhớ nước”, “thương nhà” lên đầu hai câu thơ. Thêm vào đó, bài thơ còn diễn tả một cách trực tiếp nỗi cô đơn của nữ thi sĩ qua hai câu thơ kết thúc bài thơ. Dừng chân đứng lại trời, non, nướcMột mảnh tình riêng, ta với ta Giữa khoảng không gian rộng lớn của đất trời, dường như càng làm tô đậm thêm sự nhỏ bé, cô đơn của tác giả. Thêm vào đó, những sự vật tưởng như luôn song hành, đi cùng và quyện hòa vào nhau nên lại chia lìa, xa cách nhau – điều này thể hiện rõ nét qua việc sử dụng các dấu phẩy, tách các sự vật “trời”, “non”, “nước’. Dường như, chính cái nhìn chia lìa, chính tâm trạng của tác giả đã có tác động sâu sắc tới cái nhìn đầy sự chia cách ở của cảnh vật. Và để rồi, câu thơ kết thúc bài thơ như một tiếng thở dài diễn tả trực tiếp nỗi niềm của nhà thơ. Không gian rộng lớn nhưng nơi đây chỉ có “mảnh tình riêng” – chỉ một mảnh tình riêng “ta với ta”. Nếu như “ta” thường dùng để chỉ cái chung cho cả cộng đồng, tập thể thì giờ đây nó chỉ còn là cái cá nhân, cái riêng của tác giả. Để rồi, hai câu thơ cuối đã cho chúng ta thấy nỗi cô đơn, bơ vơ, lạc lõng giữa cái mênh mông, bao la, rộng lớn của thiên nhiên. Như vậy, bài thơ đã cho chúng ta thấy nỗi niềm của tác giả khi bước tới đèo Ngang – nỗi nhớ nước, nhớ nhà và nỗi cô đơn, lạc lõng. Không chỉ thành công về mặt nội dung, bài thơ Qua đèo Ngang còn hấp dẫn bạn đọc bởi những nét độc đáo, đặc sắc về nghệ thuật. Trước hết, bài thơ đã đạt đến sự chuẩn mực trong việc sử dụng thể thơ Đường luật. Với thể thơ thất ngôn bát cú, mặc dù đã được Việt hóa, song bài thơ không những tuân thủ một cách nghiêm ngặt mà còn đạt đến độ chuẩn mực của thể thơ này về niêm, luật, vần với ngôn ngữ trau chuốt, giàu giá trị. Thêm vào đó, thành công của bài thơ còn ở nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được sử dụng tài năng và đem đến hiệu quả nghệ thuật to lớn. Ẩn sau bức tranh cảnh vật nơi đèo Ngang vào buổi xế chiều đã thể hiện một cách rõ nét nỗi niềm tâm trạng – nỗi buồn man mác của nhà thơ khi phải rời xa quê hương. Và cuối cùng, nghệ thuật đảo ngữ, chơi chữ cùng việc sử dụng các từ láy góp phần không nhỏ vào thành công của tác phẩm. Tóm lại, bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan với những nét đặc sắc về nghệ thuật đã vẽ nên bức tranh cảnh vật chiều tà nơi đèo Ngang rộng lớn, mênh mông, đâu đó hiện lên sự sống của con người nhưng vẫn còn hoang dại và để rồi từ đó thể hiện rõ nét nỗi niềm tâm trạng của nữ thi sĩ.
Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang - mẫu 17
Cùng với Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan là ba gương mặt nhà thơ nữ nổi tiếng nhất thế kỉ XVIII, nếu như thơ của Hồ Xuân Hương có cái sắc sảo, cá tính thì thơ của Đoàn Thị Điểm lại nhẹ nhàng nhưng vô cùng da diết khi viết về quá khứ huy hoàng đã qua, khi nói về nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ quê hương. Bài thơ Qua đèo ngang là tác phẩm nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan. Bà Huyện Thanh Quan hay viết về thiên nhiên, phần lớn vào lúc xế chiều, gợi lên cảm giác vắng lặng buồn buồn. Cảnh trong thơ bà giống như bức tranh thủy mặc, chấm phá, diễn tả bằng nghệ thuật ước lệ. tả cảnh để gửi gắm tình cảm nhớ thương da diết đối với quá khứ vàng son của một thời đã qua. “Bước tới đèo ngang bóng xế tàCỏ cây chen đá lá chen hoa” Khi nhà thơ bước chân đến đèo ngang cũng là thời điểm chiều buông. Hình ảnh bóng xế tà không chỉ gợi ra không gian đất trời khi mặt trời bắt đầu lặn, màn đêm chuẩn bị buông, vừa gợi ra được nhịp vận động lờ lững, chậm chạp của những đám mây trên bầu trời. Không gian được gợi ra có chút hoang vắng, lại ẩn nhẫn sự cô đơn, lạc lõng của nhân vật trữ tình. “Cỏ cây chen đá lá chen hoa”, tác giả đã điệp từ chen vừa gợi ra cái đông đúc, rậm rạp của cỏ cây nơi mình đặt chân đến, đồng thời lại gợi ra được vẻ hoang sơ, tự nhiên của chốn núi rừng. “Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhà” Từ láy “lom khom’ gợi ra dáng vẻ của người tiều phu trở về nhà trong khung cảnh chiều buông, “lác đác” lại gợi ra sự thưa thớt, trống vắng của không gian sống, không gian sinh hoạt. Trong hai câu thơ này, bóng dáng con người thấp thoáng dưới núi có phần nhỏ bé, không gian sống chưa kịp gợi lên sự ấm áp thì bị sự thưa thớt về khoảng cách đẩy lùi. Do đó có nói về con người, về sự sống thì cũng không làm cho bức tranh thơ bớt đi vẻ u buồn, tịch mịch. Cuộc sống đã thưa thớt lại tiêu điều đến thê lương với sự lác đác của lều chợ. Tầm nhìn được mở rộng nhưng lại gợi sâu thêm nỗi cô đơn, trống vắng của con người tha phương nơi đất khách: “Nhớ nước đau lòng con quốc quốcThương nhà mỏi miệng cái gia gia” Thời điểm chiều tà với không gian vắng vẻ, u buồn thường gợi nhắc con người ta nhớ về quê hương, đặc biệt là đối với những người xa xứ. Bởi đây chính là thời điểm những người thân trong gia đình đều trở về cùng sum họp dưới mái ấm gia đình. Bởi vậy mà trong không gian chiều tà, tại đèo ngang vắng lặng, hoang sơ, nữ sĩ Bà Huyện Thanh Quan hướng nỗi nhớ của mình đến gia đình, đến quê hương. Đây là tình cảm đầy tha thiết, chân thành của một người con xa quê, bà nhớ nhà, nhớ quê hương. Một nỗi buồn trĩu nặng, khó nguôi ngoai. Cảnh đèo ngang hiện lên với trời, non, nước đã gợi ra không gian mênh mông, bao la bát ngát mà xa lạ: “Dừng chân đứng lại trời non nướcMột mảnh tình riêng ta với ta” Trước không gian mênh mông của đất trời, của thiên nhiên,con người thường cảm nhận được sự rộng lớn, rợn ngợp mà thấu hiểu sâu sắc nỗi cô đơn, sự nhỏ bé của mình. Bà Huyện Thanh Quan cũng vậy, xa quê đi thực hiện nhiệm vụ không tránh khỏi những nỗi cô đơn nơi đất khách quê người. “Dừng chân” gợi ra sự nghỉ ngơi của đôi chân, nhưng lại mở ra sự vận động đầy da diết trong tâm hồn của người thi sĩ, đó chính là nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ quê hương. Trong không gian mênh mông, rợn ngợp lại chỉ có một mình nên Bà Huyện Thanh Quan cũng không thể dãi bày tâm sự với ai mà chỉ có thể ôm ấp cho riêng mình “Một mảnh tình riêng ta với ta”. Như vậy, bài thơ Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan nổi bật lên với cảm xúc u buồn cùng nỗi nhớ nhà, nhớ quê da diết của nhân vật trữ tình. Nỗi nhớ ấy không chỉ thể hiện tấm lòng yêu thương, tình yêu chân thành đối với quê hương đất nước mà còn thể hiện được tình cảnh lẻ loi, đơn độc của nhân vật này trong không gian hoang vắng, rợn ngợp của đất trời. Đã có lời giải bài tập lớp 7 sách mới: Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85 4.5 (243) 799,000đs 199,000 VNĐ 4.5 (243) 799,000đ 99,000 VNĐ 4.5 (243) 999,000đ 299.000 - 599.000 VNĐ Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube: Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 7 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 7 và Những bài văn hay đạt điểm cao lớp 7. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 7 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 7 và Những bài văn hay đạt điểm cao lớp 7. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Trang web chia sẻ nội dung miễn phí dành cho người Việt. Lớp 1-2-3 Lớp 4 Lớp 5 Lớp 6 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 9 Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Lập trình Tiếng Anh Chính sách bảo mật Hình thức thanh toán Chính sách đổi trả khóa học Chính sách hủy khóa học Tuyển dụng Tầng 2, số nhà 541 Vũ Tông Phan, Phường Khương Đình, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, Việt Nam Phone: 084 283 45 85 Email: vietjackteam@gmail.com CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội. 2015 © All Rights Reserved.
Dàn ý Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà
I. Mở bài - Giới thiệu về tác giả Nguyễn Khuyến (những nét tiêu biểu về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác…) - Giới thiệu về bài thơ “Bạn đến chơi nhà” (hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật…) II. Thân bài 1. Câu đầu: Giới thiệu việc bạn đến chơi nhà - Thời gian: “đã bấy lâu nay”, có nghĩa là rất lâu rồi bạn mới ghé thăm. - Cách xưng hô: bác, đầy thân mật và gắn bó giữa những người bạn. - Giọng điệu: cởi mở, chân thành thể hiện thái độ hiếu khách của nhân vật trữ tình. - Hai vế câu: sóng đôi như một lời reo vui, một lời đón khách đầy cởi mở, chân tình. => Câu mở đầu giống như một lời mời đầy chân tình, tự nhiên. 2. 6 câu tiếp: Hoàn cảnh của nhà thơ khi bạn đến thăm nhà Nhà thơ đã tạo ra một hoàn cảnh đầy éo le khi bạn đến chơi nhà: - Trẻ thời đi vắng - không có ai để sai đi mua đồ ăn tiếp đãi bạn. - Chợ thời xa - gợi sự xa xôi, đi chợ rất mất thời gian cũng như không có người ở nhà tiếp bạn. - Còn trong nhà thì không có gì: => Qua những hình ảnh trên, nhà thơ muốn khắc họa một cuộc sống đạm bạc, thiếu thốn về vật chất. - Nhưng sự thiếu thốn đó không khiến cho thi sĩ buồn khổ mà còn đầy lạc quan, yêu đời: Thể hiện qua giọng điệu hài hước, hóm hỉnh. 3. Câu cuối: Tình cảm bạn bè thắm thiết - Bác đến chơi đây: Tuy thiếu thốn về vật chất nhưng người bạn vẫn trân trọng tình cảm, vậy là đã rất đáng quý rồi. - “Ta với ta”: => Câu thơ khẳng định được tình cảm tri kỷ của hai người bạn cũng như tâm hồn thấu hiểu sâu sắc, không màng đến của cải vật chất. III. Kết bài Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ “Bạn đến chơi nhà”.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà - mẫu 1
Nguyễn Khuyến hay còn được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ là một trong những nhà thơ Nôm nổi tiếng nhất của Việt Nam. Thơ ông là sự kết hợp giữa vẻ đẹp tao nhã, trau chuốt với vẻ đẹp tự nhiên, hàm súc mà chân thành. Bạn đến chơi nhà là một bài thơ như vậy. Bài thơ đã cho thấy tình bạn thắm thiết sâu nặng, và đây cũng là một trong những chủ đề sáng tác nổi bật của ông. Nội dung bao trùm bài thơ là tình bạn chân thành, thắm thiết, nó được bộc lộ qua hoàn cảnh tiếp đãi hết sức bất ngờ, thú vị. Mở đầu bài thơ cho thấy mối quan hệ gần gũi, gắn bó giữa hai người: “Đã bấy lâu nay bác tới nhà”. Tiếng gọi “bác” thật gần gũi, dân dã mà vẫn thể hiện được sự kính trọng. “Đã bấy lâu nay” cách tính thời gian của tác giả cũng phần nào cho thấy Nguyễn Khuyến thường xuyên nghĩ đến bạn, mong gặp bạn nên mới nhớ được khoảng thời gian gặp gỡ từ lần trước đến lần này là bao lâu. Sau câu thơ mở đầu, hàng loạt tình huống éo le đã diễn ra. Trước hết trẻ con không ở nhà, nên không có ai đi chợ, vậy có lẽ nơi quê nhà của tác giả sẽ có những món ăn giản dị để tiếp đãi người bạn thân thiết của mình chăng? Nhưng trái lại, những món ăn sơn hào hải vị đã không có nay những thứ có sẵn ở nhà cũng không thể dùng để làm mâm cơm mời khách: ao sâu, nước lớn nên “khôn chài cá”, vườn rộng rào thưa khó đuổi được gà. Đến rau quả cũng không: bầu vừa rụng rốn, cà mới nụ, cải chưa lên cây, … Nhà có cả mà hóa ra lại thành không có thứ gì. Sự thiếu thốn còn được đẩy lên một cấp độ cao hơn nữa: “Đầu trò tiếp khách trầu không có”. Trong văn hóa người Việt, miếng trầu là đầu câu chuyện, trong nhà ai cũng có miêng trầu thơm, quả cau khô để tiếp đãi khách đến nhà. Nhưng nhà Nguyễn Khuyến đến điều cơ bản ấy cũng không có. Nhưng có phải thật là như vậy không, một con người chu đáo, cẩn thận như Nguyễn Khuyến có lẽ sẽ không để tình huống ấy xảy ra. Tác giả đưa ra tình huống éo le: trẻ đi vắng, chợ xa, nhà thiếu thốn,… để thử thách tấm lòng trong tình bạn, thử thách này là thử thách giành cho hai người, liệu đây có phải một tình bạn đẹp, tình bạn thực sự hay không? Câu trả lời đã được tác giả thể hiện trong câu thơ cuối: Bác đến chơi đây ta với ta Không phải là cái “ta với ta” cô đơn, lạc lõng như Bà Huyện Thanh Quan mà là “ta với ta” của tình bạn đẹp đẽ, sâu đậm. Giữa chủ và khách đã không còn khoảng cách, hai người hòa làm một. Mặc dù vật chất thiếu thốn, nhưng cái còn đọng lại, cái quan trọng nhất chính là tình cảm, tình bạn thắm thiết. Có lẽ trong cuộc tiếp đãi đó không có cơm canh, không có miếng trầu thơm nhưng nó vẫn diễn ra hết sức vui vẻ, thân mật, gần gũi. Đây mới thực sự là tình bạn chân chính. Bài thơ đã vận dụng tài tình cách lập ý, tạo tình huống bất ngờ, hấp dẫn, đưa ra hàng loạt các thiếu thốn, để từ cái không đó nói về cái có: tình bạn chân thành, thắm thiết. Lời thơ bình dị, dân dã nhưng cũng hết sức điêu luyện. Dùng nhiều khẩu ngữ, đậm chất lời ăn tiếng nói hàng ngày: thời, khôn, chửa,… điêu luyện trong cách dùng từ “ta với ta” tuy hai mà một, bao gồm cả chủ và khách. Hình ảnh mộc mạc, dân dã, quen thuộc của làng quê Việt Nam: ao cá, vườn rau, … Bài thơ đã đạt đến sự hài hòa về nội dung, điêu luyện về nghệ thuật. Tác phẩm khẳng định tình bạn là một tình cảm thiêng liêng, cao quý chúng ta phải biết nâng niu, trân trọng. Cái cốt yếu nhất trong tình bạn không phải là của cải vật chất mà là cách hành xử, đối đãi với nhau. Quan niệm của Nguyễn Khuyến về tình bạn vẫn có ý nghĩa và giá trị bền vững, lâu dài.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà - mẫu 2
“Sống trong ngọc đá kim cươngKhông bằng sống giữa tình thương bạn bè” Câu ca dao đã nêu bật được một tình cảm thiêng liêng đáng quý - Tình bạn chân thành thắm thiết. Nguyễn Khuyến, một vị quan về ở ẩn mang nỗi cô đơn u hoài, sống hiu quạnh nơi nông thôn, cũng cảm xúc dạt dào khi gặp lại bạn cũ. Ta hãy lắng nghe tiếng nói chân thành mộc mạc của nhà thơ khi nói với bạn: “Đã bấy lâu nay, bác tới nhàTrẻ thời đi vắng, chợ thời xa.Ao sâu nước cả, khôn chài cá,Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.Cải chửa ra cây, cà mới nụ,Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.Đầu trò tiếp khách, trầu không có,Bác đến chơi đây ta với ta!” Bài thơ đã khơi dậy trong ta niềm xúc động trước tấm chân tình của nhà thơ Nguyễn Khuyến: Một chút nhẹ nhàng tự nhiên hóm hỉnh được tác giả mở đầu bằng câu thơ: “ Đã bấy lâu nay, bác tới nhà”. Câu thơ như một lời chào hồ hởi thân mật vừa bộc lộ nỗi vui bất ngờ vừa tỏ ý trân trọng, quý mến bạn. Đã bấy lâu nay có nghĩa là một thời gian dài, một thời gian nhà thơ không gặp bạn, giờ đây có dịp gặp nhau làm sao mà không xúc động, không vui mừng cho được. Từ lúc cáo quan về vui sống với cảnh điền viên, ông chỉ biết lấy thiên nhiên làm bạn. Trái tim ông gửi trọn cho đất nước quê hương, nên tâm hồn luôn khắc khoải u hoài. Trong những giây phút ấy mà không ai không muốn có một người bạn để tâm sự, để an ủi. Người bạn đó đã đến với ông - Còn nỗi vui mừng nào hơn. Chính nỗi vui mừng, bất chợt mà Nguyễn Khuyến đã thốt ra lời bông đùa với bạn một cách dí dỏm cho thoả lòng trông đợi. Những câu thơ tiếp theo cho thấy hoàn cảnh sống của tác giả: chợ thì xa, người nhà trẻ con đều đi vắng cả, ao thì sâu mà nước lớn, nên không chài bắt được cá; vườn rộng thênh thang thì khó mà bắt được gà. Đến một cây cải, mớ cà hoặc một quả bầu, một trái mướp cũng không sẵn; thậm chí một miếng trầu để tiếp khách cũng không có. Tác giả đang phân trần, giải thích sự thiếu sót của mình. Thực ra đây chỉ là cách nói cường điệu như vậy mà đã đùa với bạn, vừa tỏ thái độ nhớ mong chờ đợi bấy lâu mà thôi. Và qua những lời trần tình ấy ta cũng hiểu được cuộc sống của tác giả ở làng quê: đạm bạc, giản dị, luôn gắn bó với nông thôn. Nhịp thơ đều đặn 4/3 nhẹ nhàng êm ái như một lời thủ thỉ, kèm theo là nụ cười hóm hỉnh, cười vui của tác giả. Đối lập với những cái "không" ấy là cái có thật đáng quý. Câu thơ cuối bộc lộ thật rõ nét tình cảm chân thành của tác giả đối với bạn. Đó là một tình cảm thiêng liêng cao quý. Quan hệ bạn bè ở đây được xây dựng trên cơ sở vững chắc là tình cảm yêu thương chân thật không màng đến vật chất. Bác đến chơi đây không có gì cả, chỉ có ta với ta khiến ta nhớ đến câu kết trong bài Qua đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan khi đứng trước cảnh đèo ngang hoang vắng cô liêu, đang mang nặng một nỗi u buồn, niềm suy tư khôn cả, không thể tâm sự cùng ai, nên bà tự quay về với lòng mình “ta với ta”. Còn “ ta với ta” mà nhà thơ Nguyễn Khuyến sử dụng nhằm chỉ nhà thơ và người bạn tuy hai mà một, tuy một mà hai, nó gắn bó quyện chặt vào nhau, không gì chia cắt được. Ở đây chỉ có ta với ta nhưng lại có tất cả. Bởi vì tình bạn giữa ta với ta mới là cao quý, nó không đòi hỏi bất kì một điều kiện vật chất nào cả, thậm chí cả một miếng trầu làm đầu câu chuyện để tiếp bác cũng không. Qua đó ta mới thấy nghệ thuật trào lộng của Nguyễn Khuyến thật là hóm hỉnh nhẹ nhàng mà tế nhị sâu sắc. Bài thơ thể hiện sự thành công của tác giả trong bút pháp trào phúng. Ngôn ngữ được sử dụng một cách đặc sắc. Tuy là bài thơ Đường với khuôn mẫu bó buộc những lời thơ lại bình dị như lời ăn tiếng nói hằng ngày. Những sản vật của nông thôn được đưa vào thơ ông thật đậm đà hương vị làng quê. Ngôn ngữ quần chúng kết hợp với âm a (nhà, xa, cá, gà, hoa, ta) thể hiện rõ nét chất phác thật thà đôn hậu của một con người. Chính yếu tố âm điệu, nhịp điệu bài thơ phối hợp nhịp nhàng tạo ra một mạch thơ liên tục, thanh thoát, tự nhiên như lời nói chuyện tâm tình của nhà thơ với người bạn tri âm tri kỉ của mình. Đây là một trong những bài thơ hay về tình bạn trong sáng chân thành thắm thiết của Nguyễn Khuyến. Bài thơ làm nổi bật một nét đẹp trong cuộc đời và thơ văn Nguyễn Khuyến. Ông xứng đáng là một nhà thơ của làng quê Việt Nam. Tình bạn cao cả tuyệt vời của nhà thơ sẽ là bài học giúp ta tìm và cảm nhận được những tình cảm thiêng liêng đáng quý đó.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà - mẫu 3
Nguyễn Khuyến là vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình. Ông thường viết về cuộc sống bình dị mà thơ mộng nơi thôn quê với những chủ đề vô cùng thân thuộc. Tác phẩm “Bạn đến chơi nhà” của ông cũng giống như một dòng sông êm đềm, lững lờ trôi nơi thôn quê ấy để rồi in đậm dấu ấn trong lòng người đọc tự lúc nào không hay. Bài thơ vừa thể hiện tình bằng hữu sâu đậm của nhà thơ vừa chứa đựng một quan niệm mới mẻ: tình bạn không biểu hiện ở những vật chất tầm thường mà chính sự chân thành, tri kỉ trong tình bạn mới là đáng quý. Quan điểm ấy được tác giả gửi gắm trong cả nội dung lẫn nghệ thuật của tác phẩm. “Đã bấy lâu nay bác tới nhà,” Trước hết, câu thơ đầu đã khái quát được hoàn cảnh đón tiếp người bạn lâu ngày đến chơi nhà. Tác giả đã thể hiện niềm vui, sự niềm nở đón tiếp vị khách quý đến nhà. Thêm vào đó, cách gọi “bác” của nhà thơ toát lên sự gần gũi, gắn bó, như họ hàng ruột thịt trong nhà. Tuy nhiên sáu câu thơ tiếp theo lại nói lên tâm trạng bối rối, khó xử của nhà thơ khi muốn thiết đãi bạn thật chu đáo nhưng hoàn cảnh lại hết sức éo le. “Đã bấy lâu nay, bác tới nhàTrẻ thời đi vắng, chợ thời xa.Ao sâu nước cả, khôn chài cá,Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.Cải chửa ra cây, cà mới nụ,Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.Đầu trò tiếp khách, trầu không có,Bác đến chơi đây ta với ta!” Phân tích đặc sắc nội dung và nghệ thuật của bài thơ Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến. Ông muốn tiếp đãi bạn thật thịnh soạn nhưng “trẻ” thì không có nhà để sai bảo, “chợ’ thì lại ở xa, nghĩ về cây nhà lá vườn thì “khôn chài cá”, “khó đuổi gà”, “cải” chửa ra cây, “cà” vẫn còn nụ, “bầu vừa rụng rốn”, “mướp” còn hoa. Từ sơn hào hải vị đến dân dã thôn quê nhà thơ đều muốn cho bạn thưởng thức, chỉ là không thể thực hiện được. Tiếp đó Nguyễn Khuyến muốn tiếp bạn bằng phong tục thường ngày, bằng lễ nghi tiếp khách thông thường “miếng trầu mở đầu câu chuyện”, nhưng cũng không thành. Chính trong hoàn cảnh éo le này một tình bạn chân thật nhất, sâu sắc nhất mới được tỏa sáng: “Bác đến chơi đây ta với ta.” Câu thơ như một tiếng cười xòa đùa vui bật lên của nhà thơ. Khác với hình ảnh “ta với ta” trong bài thơ Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan: “Một mảnh tình riêng ta với ta”. Chỉ một người, một tâm trạng, thể hiện sự cô đơn khi đối diện với chính mình và cũng là sự nhỏ bé trước thiên nhiên mênh mông nơi đất khách. “Ta với ta” ở bài thơ của Nguyễn Khuyến thể hiện sự hòa hợp, gắn bó, đồng nhất giữa hai người bạn, hai nhưng là một. Đồng thời cũng ngầm khẳng định tình bạn giữa hai người đã không còn khoảng cách, không còn sự e dè, ngại ngùng. Một tình bạn chân chính không phải là đề cao ở vật chất mà sự chân thành, tri âm tri kỉ mới là chân lí. Quan niệm về tình bạn của Nguyễn Khuyến cũng đồng điệu với quan niệm mà Nguyễn Bỉnh Khiêm muốn phê phán trong bài thơ “Thói đời”: “Còn bạc, còn tiền còn đệ tửHết cơm, hết rượu hết ông tôi” Tiếp theo đó, tuy tác giả dùng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật bó buộc, khuôn mẫu nhưng kết hợp cùng nhịp thơ 4/3 và lời thơ giản dị, bài thơ không hề cứng ngắc mà rất nhẹ nhàng giống như lời ăn tiếng nói hàng ngày. Hơn nữa bút pháp trào phúng, phép đối, nói quá làm cho tác phẩm giống như lời tâm tình, lời tiếp chuyện đùa vui, hóm hỉnh của tác giả và người bạn của mình. Đồng thời, việc khéo léo đưa các hình ảnh “vườn rộng rào thưa”, “ao sâu nước cả”, “cải chửa ra cây”…vừa vẽ lên trước mắt người đọc hình ảnh miền quê yên ả, ấm no, vừa cho thấy cái tài của nhà thơ Nguyễn Khuyến trong việc thơ ca hóa những sự vật dân dã. Chính những yếu tố ấy cũng đã góp phần tạo nên sự thành công của bài thơ, góp phần bộc lộ sự trân trọng, nâng niu của tác giả với một tình bạn đẹp tuổi xế chiều. Tình bạn là một đề tài không mới, nhưng thông qua tài năng cùng ngôn ngữ rất riêng của mình, tác giả đã chắp bút nên một bài thơ đầy cảm xúc, để lại ấn tượng sâu đậm về tình bạn trong lòng người đọc. Một tình bạn đã bỏ qua mọi vật chất tầm thường, thanh cao, sâu đậm. Qua đó thể hiện con người ngay thẳng, chân thật, coi trọng tình nghĩa của nhà thơ.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà - mẫu 4
Tình bạn là một đề tài nổi bật trong thơ Nguyễn Khuyến. Ông có nhiều bài thơ hay viết về tình bạn như: Khóc Dương Khuê, Lụt hỏi thăm bạn… trong đó Bạn đến chơi nhà là bài thơ hay được nhiều người biết đến nhất. Bài thơ thể hiện một tình bạn đậm đà, thắm thiết, qua đó giúp ta hiểu nhân cách cao đẹp của Nguyễn Khuyến. Niềm vui khi bạn đến chơi nhà: Đã bấy lâu nay bác tới nhà. Câu thơ vang lên như một tiếng reo vui thể hiện niềm vui hồ hởi khi có bạn đến chơi nhà. Thời gian “Đã bấy lâu ” không định rõ, nhưng có lẽ đã rất lâu nhà thơ mới được gặp bạn. Trạng ngữ chỉ có thời gian đứng ở đầu câu diễn tả sự xa cách, nhớ mong. Làm nổi bật nỗi niềm xúc động và vui sướng vô hạn của nhà thơ khi gặp lại bạn. Cách xưng hô: “bác” thân mật, kính trọng. Đặt câu thơ trong hoàn cảnh Nguyễn Khuyến cáo quan về ở ẩn chốn hương thôn, ít bạn bè giao lưu. Có lẽ bạn đến chơi nhà là niềm mong mỏi, là nỗi chờ đợi khắc khoải trong lòng nhà thơ. Đằng sau câu thơ ta như cảm thấy những bước chân lập cập như ríu lại, những giọt lệ ứa nơi khóe mắt đôi người bạn già. “Muốn đi lại tuổi già thêm nhácTrước ba năm gặp bác một lần” (Khóc Dương Khuê) Cách nhập đề tự nhiên, thể hiện niềm vui chân thành của nhà thơ khi bạn đến chơi nhà. Hoàn cảnh tiếp bạn: “Đã bấy lâu nay, bác tới nhàTrẻ thời đi vắng, chợ thời xa.Ao sâu nước cả, khôn chài cá,Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.Cải chửa ra cây, cà mới nụ,Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.Đầu trò tiếp khách, trầu không có,Bác đến chơi đây ta với ta!” Thông thường, bạn đến chơi nhà là mừng, là quý. Người Việt Nam vốn có phong tục bạn mới quen thì trầu nước. Bạn thân từ nơi xa đến thì nhất thiết phải mời cơm chu đáo. Dân ta cũng có câu: “Khách đến nhà không gà cũng vịt”. Vậy mà, nhà thơ lại lâm vào hoàn cảnh thật trớ true: Những thức ngon không có, rau dưa chưa đến kì thu hoạch. Đến miếng trầu là đầu câu chuyện cũng không có nốt. Hoàn cảnh éo le được diễn đạt theo chiều hướng tăng tiến: Những thứ không có được sắp xếp theo trình tự không gian: xa đến gần (chợ - vườn - nhà) thấp đến cao (ao sâu - cải, cà - bầu mướp). Tất cả đều không. Sự thiếu thốn về vật chất ở đây được đẩy đến mức khó tin. Thực ra khi cáo quan về ở ẩn, cuộc sống của Nguyễn Khuyến có đạm bạc. Nhưng với cơ ngơi “năm gian nhà cỏ thấp le le” thì không đến nỗi không lo nổi bữa cơm mời bạn. Cũng không đến nỗi “Đầu trò tiếp khách trầu không có”. Vậy đây ắt hẳn là cách nói phóng đại, cường điệu chỉ cốt đùa vui như tính tình vốn hóm hỉnh của cụ Tam Nguyên Yên Đổ. Năm gian nhà cỏ thấp le le. Giọng điệu của những câu thơ toát lên sự hóm hỉnh. Những hư từ (thời, phó từ chửa, mới, đương… ), những tính từ (sâu, cả, rộng, thưa) được sử dụng khéo léo, tự nhiên. Góp phần tạo ra một tiếng cười kín đáo, vui vui. Đằng sau mỗi câu thơ, ta như thấy một đôi mắt rất vui, hấp háy tinh nghịch của cụ Tam Nguyên. Điều thú vị của đoạn thơ này đó là tác giả nói không có cá, không có gà, không có rau dưa … Nhưng đoạn thơ vẫn gợi lên một bức tranh thôn quê dân dã, thân thuộc mà sinh động. Hình ảnh Nguyễn Khuyến trong bức tranh quê ấy thật hồn hậu. Ông sống chan hòa với thiên nhiên vườn Bùi chốn cũ. Ông hăng hái dẫn người bạn của mình đi thăm thú điền viên. Làng cảnh vùng chiêm trũng này cũng chính là nơi ông giữ trọn khí tiết thanh cao của mình. Do đó, bài thơ không chỉ gợi lên một bức tranh quê mộc mạc mà còn gợi cả tình quê ấm áp, hồn hậu. Tóm lại, qua lời thơ hóm hỉnh, trào lộng, vui vui, nhà thơ bày tỏ cuộc sống thanh bạch, tâm hồn thanh cao của một nhà nho. Một người khước từ mọi bổng lộc của thực dân Pháp, lui về ở ẩn nơi quê nhà. Cách tiếp bạn của nhà thơ. Một lần nữa, từ “bác” lại xuất hiện cuối bài, thân mật mà trân trọng. Cụm từ “ta với ta” không hề gợi lên sự quạnh vắng, cô đơn, buồn mang mác như trong thơ bà Huyện Thanh Quan mà gợi lên sự chan hòa quấn quýt: “Mình với ta tuy hai mà mộtTa với mình tuy một mà hai” Ta là Nguyễn Khuyến, ta cũng là người bạn. Nguyễn Khuyến tiếp bạn không bằng cao lương mỹ vị mà bằng cả tấm lòng chân thành. Với Nguyễn Khuyến, tình bạn đẹp là tình bạn có tình cảm chân thành, không câu nệ vật chất tầm thường. Hơn nữa tình bạn ấy phải vượt lên mọi thứ vật chất tầm thường. Tình bạn của Nguyễn Khuyến cũng giúp ta nhận thấy nhân cách cao đẹp, tâm hồn trong sáng của vị Tam Nguyên Yên Đổ. Đặt quan niệm tình bạn của Nguyễn Khuyến trong hoàn cảnh xã hội, trong nhân tình thế thái bao giờ: “Còn tiền, còn bạc, còn đệ tửHết cơm, hết gạo, hết ông tôi” Như vậy, bài thơ “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến đã cho thấy tình bạn tri kỉ của tác giả.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà - mẫu 5
Có lẽ tình bạn là một tình cảm giữa những người dưng sâu nặng và đáng quý tương đương với tình yêu trai gái. Vì vậy mà các thi nhân xưa đã nhiều lần đưa tình bạn thiêng liêng vào chính những tác phẩm của mình. Nổi bật trong đó là bài thơ “Bạn đến chơi nhà” của nhà thơ Nguyễn Khuyến, một bài thơ được sáng tác về người bạn Dương Khuê khi ông qua đời. Tình bạn ấy được thể hiện thật thân thiết và đáng trân trọng biết mấy. “Đã bấy lâu nay, bác tới nhàTrẻ thời đi vắng, chợ thời xa.Ao sâu nước cả, khôn chài cá,Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.Cải chửa ra cây, cà mới nụ,Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.Đầu trò tiếp khách, trầu không có,Bác đến chơi đây ta với ta!” Lời chào hỏi tự nhiên thân mật nay đã biến thành câu thơ “Đã bấy lâu nay bác tới nhà”. Ta có thể thấy rõ niềm hân hoan vui sướng khi gặp lại người bạn hiền thân thiết của tác giả. Niềm vui ấy như không thể nào kìm nén dù chỉ một phút giây. Cách xưng hô bác- tôi cho thấy sự thân thiết, tự nhiên giữa những người bạn lâu năm lâu ngày gặp lại. Câu thơ đầu và cũng là lời chào đầu đã thể hiện đầy đủ sự quý hóa và sự vui mừng khôn xiết của tác giả khi người bạn hiền ghé chơi nhà. Nhưng ngay sau lời chào đón là sự lúng túng bất ngờ của người chủ nhà. Cách nói thật hóm hỉnh, hài hước. Người xưa thường tiếp đãi khách quý bằng đồ cây nhà lá vườn. Nhưng trong tình huống đặc biệt này, hoàn cảnh cuộc sống đã khiến cho Nguyễn Khuyến cường điệu hóa sự thiếu thốn của mình đến nỗi chẳng có gì để tiếp bạn, đến nỗi cả trầu cũng không có. Ông cha ta có câu “ Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Từ miếng trầu tiếp khách đến bữa cơm đạm bạc cá, gà, mướp, bầu… đều không có. Qua đây cũng thể hiện sự thân thiết vượt qua cả mức tình bạn- tình tri kỷ, tình anh em ruột rà khi mà tác giả đã không ngần ngại kể ra những sự khó khăn của mình với bạn mà không hề giấu giếm. Đó là tình bạn chân thành nhất, thiêng liêng cao quý nhất. Câu kết bài là vừa là sự tóm kết vừa là sự bùng nổ về ý và tình. Tiếp bạn chẳng cần phải cao lương mỹ vị, mâm cao cỗ đầy nào cho xa mà chỉ cần một chén rượu nhạt, với tình cảm đong đầy thì hai người bạn đã có thể thưởng thức đầy đủ niềm vui gặp mặt. Bác đến chơi đây, ta với ta. Chữ “bác” xuất hiện lần thứ hai với tràn đầy sự kính trọng mà cũng đầy đặn sự thân quen. “ Ta với ta”, hai mà như một. Bởi lẽ họ hiểu nhau như thể đã hòa hợp làm một con người. Câu nói ấy cũng thể hiện được sự kệ đời, không màng xung quanh, chỉ cần có bạn và tình bạn thôi cũng đã đủ để tác giả vui sướng khôn tả rồi. Vật chất họ không hề có, nhưng thay vào đó họ có tình bằng hữu thâm giao quý giá ngàn vạn lần. Hai con người khác nhau, hai hình dáng nhưng suy nghĩ và tình cảm của họ dường như đã hòa hợp vào nhau, khăng khít với nhau. Họ thăm nhau dựa trên tình tri kỉ keo sơn gắn kết, một tình bạn không thể tách rời, vĩnh hằng. Bài thơ như dạy cho chúng ta phải biết trân trọng và nuôi dưỡng tình bạn, hãy mở lòng với mọi người và đừng bao giờ để vật chất làm hoen ố và mờ đi giá trị thiêng liêng của tình bạn, tình tri kỷ. Tóm lại, bài “ Bạn đến chơi nhà” của nhà thơ Nguyễn Khuyến được viết bằng lời thơ mộc mạc, giản dị, thật gần gũi và rất tự nhiên. Qua đó ta nhìn thấy một hồn thơ đẹp và tình bằng hữu thâm giao. Đó là tình bạn được xây dựng từ sự hiểu nhau, chia sẻ, cảm thông, tôn trọng lẫn nhau và không hề có sự vụ lợi. Bài thơ giúp chúng ta nhìn nhận lại chính bản thân mình, nhắc nhở rằng không để vật chất lôi kéo mà hãy luôn giữ được tình bạn cao đẹp, trong sáng thủy chung vốn là bản tính của người dân Việt.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà - mẫu 6
Trong văn chương, tình bạn được xem là chủ đề gợi nhiều cảm hứng đối với các thi nhân. Ta hơn một lần xúc động trước tình bạn tri kỉ giữa Bá Nha, Tử Kì cùng nhau hòa hợp trong tiếng nhạc, tình cảm gắn bó thủy chung giữa Lí Bạch và Mạnh Hạo Nhiên trong cảnh đưa tiễn đầy nước mắt ở lầu Hoàng Hạc. Văn học trung đại Việt Nam cũng có những mối tình tri âm như thế, trong đó phải kể đến tình bạn giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê. “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến là bài thơ đặc sắc đầy hóm hỉnh nhưng chứa đựng tình bạn đậm đà, thắm thiết. Nguyễn Khuyến quê ở Hà Nam, được mệnh danh “Tam nguyên yên đổ” và là nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam. Bài thơ “bạn đến chơi nhà” được sáng tác sau khi Nguyễn Khuyến về quê ở ẩn ca ngợi tình bạn đậm đà, trong sáng, chân thành vượt lên trên mọi thứ vật chất tầm thường của thi nhân với người bạn của mình. Mở đầu bài thơ là lời reo vui chào mời đầy phấn khởi, hồ hởi của tác giả khi bạn đến thăm nhà: “Đã bấy lâu nay, bác tới nhà” Trạng ngữ chỉ thời gian “đã bấy lâu nay” để nói về khoảng thời gian dài nhà thơ không được gặp lại bạn, nó như một tiếng reo vui để khỏa lấp nỗi nhớ nhung sau bao lâu xa cách. Đại từ xưng hô “bác” giản dị tự nhiên thể hiện thái độ thân mật, gần gũi, niềm nở của nhà thơ đối với bạn của mình. Người tri kỉ được gặp lại có ai không vui mừng khôn xiết, chỉ một câu chào tự nhiên thôi cũng đủ cho thấy niềm sung sướng , hạnh phúc vô hạn của Nguyễn Khuyến khi được bạn đến thăm. Sau lời chào mời thân thiết ấy, ngỡ rằng sẽ là mâm cao cỗ đầy, không ít nhất cũng sẽ là vài ba món thịnh soạn để đón khách quý nhưng thực tế lại không có gì. Chủ nhà bỗng chuyển sang giọng lúng túng khi nói về gia cảnh mình: “Đã bấy lâu nay, bác tới nhàTrẻ thời đi vắng, chợ thời xa.Ao sâu nước cả, khôn chài cá,Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.Cải chửa ra cây, cà mới nụ,Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.Đầu trò tiếp khách, trầu không có,Bác đến chơi đây ta với ta!” Với cách nói đầy hóm hỉnh, Nguyễn Khuyến đã cường điệu hóa những cái không có: Ông cũng muốn có một mâm cơm thịnh soạn để tiếp đón bạn nhưng chẳng may trẻ không có nhà, không có ai để sai bảo mà chợ thì ở xa ông không thể tự đến đó. Lúc này, nhà chủ lại bắt đầu nghĩ đến những món ăn cây nhà lá vườn sẵn có để thiết đãi bạn, nhưng trớ trêu thay nhà có cá nhưng ao sâu nước lớn không thể câu được, nhà có gà nhưng vườn rộng rào thưa không thể đuổi bắt, có cải, có cà, có bầu, có mướp nhưng tất cả đều còn mới mọc. Nhà thơ rất quý mến bạn, muốn tiếp đón bạn chu đáo, thịnh soạn nhưng hoàn cảnh éo le của thực tại không cho phép ông làm điều đó. Đến cả miếng trầu, nét đẹp văn hóa của người Việt để khởi đầu cho mọi câu chuyện mà nhà chủ cũng không có nốt, ý thơ mở rộng như khẳng định sự tuyệt đối cái không có. Qua cách nói dí dỏm của nhà thơ, có vẻ như gia đình ông có rất nhiều thứ nhưng thực chất lại chẳng có gì. Cách nói ấy vừa khéo léo trình bày hoàn cảnh của mình để bạn có thể hiểu và cảm thông, cũng vừa là cách để nhà thơ thi vị hóa cái nghèo, cái khó của mình, ông bằng lòng với cuộc sống ấy, tuy khổ cực nhưng thanh thản, an nhiên. Ông luôn yêu đời và trân trọng cuộc sống ấy. Với nhịp thơ 4/3 tạo âm hưởng nhịp nhàng, khoan thai cùng phép liệt kê, đối lập, các tính từ, từ phủ định đoạn thơ đã cho thấy cuộc sống nghèo mà sang của một bậc ẩn sĩ, đồng thời cho thấy sự vui tươi, hóm hỉnh của một cuộc thiết đãi bạn hiền thiếu thốn vật chất nhưng chan chứa tình cảm chân thành, thắm thiết. Qua đoạn thơ, bức tranh làng quê Việt Nam hiện lên thật đẹp, thật thanh bình, giản dị, gần gũi. Đến câu thơ cuối, cảm xúc như lắng lại, mọi thứ vật chất lùi về chỉ còn tình bạn tri kỉ chân thành sâu sắc lên ngôi: “Bác đến chơi đây ta với ta”. Một lần nữa từ “bác” lại xuất hiện thể hiện niềm trân trọng, quý mến của tác giả đối với vị khách đặc biệt của mình. Bác từ phương xa tới đây, còn gì quý hơn, bác đến với tôi bằng tấm chân tình, bằng lòng tri âm chứ đâu phải vì vật chất. Chính vì thế tình bạn giữa nhà thơ và bạn hiền càng trở nên cao đẹp và thiêng liêng, tình bạn vượt lên trên mọi thứ vật chất tầm thường. Chữ “ta” được nhắc lại hai lần để nói về tôi, về bác, về hai chúng ta. Hai người khác nhau nhưng có trái tim và tâm hồn cùng đồng điệu, hòa hợp như không còn khoảng cách, hai ta mà là một. Câu thơ như một tiếng cười xòa hồn hậu để khẳng định tình bạn trong sáng, đậm đà của hai người tri kỉ. Trong bài thơ “bạn đến chơi nhà” bằng việc sáng tạo tình huống bất ngờ, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, giọng thơ hóm hỉnh nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được về một tình bạn đẹp đáng quý, đáng trọng trong thi ca Việt Nam. Tình bạn như thế cho đến thời đại ngày nay vẫn là một tấm gương sáng, một bài học quý để cho chúng ta noi theo.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà - mẫu 7
Bao la nhất là tình cảm của mẹ, mạnh mẽ là tình cảm của cha, thân thiết là tình cảm anh em và thiêng liêng, bền chặt, lâu dài nhất vẫn là tình bạn. Là một nhà thơ giàu tình cảm, Nguyễn Khuyến cũng không ngoại lệ khi nói về tình bạn. Những bài thơ bất hủ của ông khi đề cập đến bạn là những minh chứng hùng hồn sâu sắc, quả thật là những tình bạn nên thơ. Bài thơ “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến đã thể hiện khá rõ nét về điều đó. Bài thơ này là bài thơ thành công, tiêu biểu nhất của ông, và cũng là bài thơ nổi bật, đại điện cho thơ Nôm Đường luật Việt Nam nói chung. Bài thơ này ông viết là một kỉ niệm của ông ở tuổi mà xưa nay hiếm. Nó bày tỏ về cảm xúc của ông và một người bạn quen nhau chốn quan trường, nay gặp lại nơi thôn quê thanh bình – nơi chôn rau cắt rốn của ông. Từng câu từ trong bài mượt mà mà thanh cao, tình cảm thắm thiết, gắn bó, mặn mà, đầy chất nhân văn. Nó thể hiện một con người chất phác, sống bằng tình cảm nơi ông. Câu thơ mở đầu như một tiếng reo vui, nó là khởi nguồn cho tất cả tình huống, cảm xúc trong bài. Gặp lại một người bạn cũ thật khôn xiết biết bao, đặc biệt là khi lại gặp nhau nơi chân quê. Tình nghĩa đó thật quý báu. Sau bao vinh hoa chốn kinh thành nhưng vẫn nhớ về nhau, vẫn tìm thăm trò chuyện. Tuy mặn mà những tình cảm nồng hậu nhưng trong bài vẫn có những tình tiết vui vẻ. Hôm nay bác tới chơi nhà thật quý và hơn nữa là sau bao năm xa cách, nhưng ngặt nỗi hoàn cảnh điều kiện và đó là một tình huống khó xử đối với tác giả: trẻ thì đi vắng, chợ thị xa, ao sâu khó chài cá... một loạt tình huống được liệt kê. “Đã bấy lâu nay, bác tới nhàTrẻ thời đi vắng, chợ thời xa.Ao sâu nước cả, khôn chài cá,Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.Cải chửa ra cây, cà mới nụ,Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.Đầu trò tiếp khách, trầu không có,Bác đến chơi đây ta với ta!” Thật trớ trêu và cũng đầy hài hước. Lời thơ tự nhiên, vui vẻ, trong sáng tạo nên thanh điệu hoạt bát, toát lên được sự hiếu khách của chủ nhà trước một vị khách quý. Tuy tất cả đều thiếu vắng, ngay đến cả cái tối thiểu để tiếp khách như miếng trầu cũng không có thì câu cuối cùng lại là sự bất ngờ, đầy lý thú và cũng chất chứa những cảm xúc dạt dào, khó tả. Tình bạn ấy vượt lên trên cả những lễ nghi tầm thường. Ba từ: “ta với ta” là tâm điểm, trọng tâm của bài. Âm điệu bỗng dưng thay đổi, thân mật, ngọt ngào. Nó không giống với ba từ “ ta với ta” trong bài Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan. Trong bài “Qua Đèo Ngang” thì cụm từ trên thể hiện nỗi trống vắng, hiu quạnh nơi đất khách, quê người, còn ba từ này trong bài “Bạn đến chơi nhà” là nồng thắm tình cảm bạn bè chân thành, thanh tao, trong sáng. Nói cho cùng thì nhà thơ đã rất khéo léo lột tả sự nhiệt tình, nóng hổi, mến khách trước hoàn cảnh bất ngờ, thiếu thốn, nghèo khổ của tác giả. Và đằng sau nhưng câu từ dân dã kia là hai tình cảm chân chất, nhỏ nhẹ mà hóm hỉnh đang hướng về nhau. Tình cảm chính là điều mà tác giả mong đợi, khao khát nhất, và chỉ mình nó cũng là đủ để sưởi ấm một buổi trò chuyện, gặp mặt. Bài thơ đã tạo nên một hình ảnh tình bạn không có gì về vật chất, tất nhiên không phải là thiếu thốn mà là chưa đủ độ, để rồi đúc kết một câu rằng: "Bác đến chơi đây, ta với ta” thật đậm đà, sâu sắc. Bài thơ này không chỉ là một lời bày tỏ chân tình của tác giả mà còn là một triết lý, một bài học, một định hướng về sự chuẩn mực rằng: tình bạn cao hơn mọi của cải, vật chất.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà - mẫu 8
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là “Bạn đến chơi nhà”. Bài thơ đã ca ngợi tình bạn chân thành, thắm thiết: “Đã bấy lâu nay, bác tới nhàTrẻ thời đi vắng, chợ thời xa.Ao sâu nước cả, khôn chài cá,Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.Cải chửa ra cây, cà mới nụ,Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.Đầu trò tiếp khách, trầu không có,Bác đến chơi đây ta với ta!” Mở đầu bài thơ, tác giả đã giới thiệu về việc bạn đến chơi nhà. Cụm từ “đã bấy lâu nay” chỉ thời gian, mang nghĩa là rất lâu rồi bạn mới ghé thăm. Việc sử dụng cách xưng hô “bác” cho thấy thái độ đầy thân mật và gắn bó giữa những người bạn. Giọng điệu mang sự cởi mở, chân thành thể hiện thái độ hiếu khách của nhân vật trữ tình. Tiếp đến, Nguyễn Khuyến bắt đầu khắc họa hoàn cảnh sống thiếu thốn của mình khi bạn đến thăm nhà. Hoàn cảnh thật éo le khi “trẻ thời đi vắng” có nghĩa là không có ai để sai đi mua đồ ăn tiếp đãi bạn. Mà “chợ thời xa” nghĩa là chợ ở cách đây rất xa. Việc đi chợ rất mất thời gian cũng như không có người ở nhà tiếp bạn. Trong nhà cũng không gì để tiếp đãi bạn nữa là của ngon vật lạ. Tác giả đã liệt kê một loạt các sự vật như “ao sâu - khôn chài cá”, “cải chửa ra cây, cà mới nụ, bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa”. Thậm chí miếng trầu - ngay cả thứ quan trọng nhất bởi có câu “miếng trầu là đầu câu chuyện” thì ở đây cũng không có. Có thể thấy rằng, với những hình ảnh trên, nhà thơ muốn khắc họa một cuộc sống đạm bạc, thiếu thốn về vật chất. Nhưng sự thiếu thốn đó không khiến cho thi sĩ buồn khổ mà còn đầy lạc quan, yêu đời thể hiện qua giọng thơ hóm hỉnh, hài hước. Câu thơ cuối cùng như một lời khẳng định về tình bạn tri kỉ của nhà thơ. Tuy thiếu thốn về vật chất nhưng người bạn vẫn trân trọng tình cảm, vậy là đã rất đáng quý rồi. Cụm từ “ta với ta” từng xuất hiện trong bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan: “Dừng chân đứng lại trời, non, nướcMột mảnh tình riêng, ta với ta" Ở đây, hai đại từ “ta” trong cụm từ “ta với ta” đều chỉ nhà thơ. Lúc này bà chỉ có một mình đối diện với chính mình, cô đơn và lẻ loi. Sự cô đơn ấy dường như chẳng thể có ai cùng chia sẻ. Còn trong thơ Nguyễn Khuyến, đại từ “ta” là chỉ tác giả và người bạn tâm giao. “Ta với ta” đồng nghĩa với tôi với bác, chúng ta với nhau. Từ “với” thể hiện mối quan hệ song hành, gắn bó dường như không còn khoảng cách. Qua đó thể hiện tình bạn gắn bó tri âm tri kỷ của nhà thơ. Dù trong hoàn cảnh thiếu thốn chẳng có lấy một thứ gì quý giá để tiếp đãi bạn bè nhưng nhà thơ và người bạn tâm giao vẫn cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc. Nhà thơ ở đây không hề buồn thương, cô độc mà rất vui vẻ, ấm áp bởi tình bạn tri kỷ. Tình bạn của Nguyễn Khuyến trong bài thơ đó là sự sẻ chia, đồng cảm và không màng đến những giá trị vật chất. Bài thơ “Bạn đến chơi nhà” quả là một tác phẩm độc đáo.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà - mẫu 9
Từ xưa đến nay, tình bạn luôn là chủ đề được nhắc đến nhiều trong thi ca Việt Nam. Chủ đề viết về tình bạn không phải là một chủ đề mới mẻ nhưng ở mỗi người lại có cách suy nghĩ và cảm nhận về tình bạn theo một lối riêng. Vì vậy, cũng là chủ đề tình bạn nhưng lại có rất nhiều bài thơ với các cung bậc cảm xúc khác nhau, với những bối cảnh và nội dung khác nhau. Trong số các bài thơ nói về tình cảm bạn bè thì bài thơ “Bạn đến chơi nhà” của tác giả Nguyễn Khuyến là một tác phẩm tiêu biểu. Bài thơ là tiếng nói chân thành, mộc mạc của nhà thơ gửi gắm tới người bạn của mình. Cho dù hoàn cảnh có nghèo khó, đơn sơ thì tình bạn giữa hai người vẫn chân thành thắm thiết. Mở đầu bài thơ là những lời kể, lời tâm sự thể hiện niềm vui của tác giả khi bạn tới chơi nhà. Đã bấy lâu nay có nghĩa là đã một thời gian dài trôi qua rồi hôm nay nhà thơ mới có thể gặp lại bạn ngay tại ngôi nhà của mình. Ôi! Thật hạnh phúc biết bao khi sau bao ngày xa cách nhà thơ mới gặp lại người bạn của mình. Có lẽ từ khi nhà thơ cáo quan về quê sống cùng với thiên nhiên, với cỏ cây hoa lá, ông rất muốn gặp lại những người bạn để cùng trò chuyện, cùng dãi bày tâm sự cho khuây khoả. Cuối cùng, người bạn ấy cũng đã đến, nhà thơ vui mừng tiếp đón bạn của mình và kèm theo đó là những lời trêu đùa vô cùng hóm hỉnh, đáng yêu: “Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.Ao sâu nước cả, khôn chài cá,Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.Cải chửa ra cây, cà mới nụ,Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.Đầu trò tiếp khách, trầu không có” Những câu thơ trên là những lời tâm sự của các giả khi bạn đến chơi nhà nhưng lại không có gì để tiếp đãi bạn. Người trẻ thì đi vắng, chợ thì xa, ao sâu nước lớn chẳng thể giăng lưới bắt cá, vườn rộng thênh thang nên rất khó để đuổi gà. Cải thì còn chưa ra cây, cà thì vừa mới nở nụ, bầu vừa rụng rốn, mướp còn đang ra hoa. Tác giả đang phân trần với người bạn về những thiếu sót của mình. Qua đó bạn đọc cũng có thể cảm nhận được cuộc sống đạm bạc, giản dị, bình thường, luôn gắn bó với thiên nhiên của cụ Nguyễn Khuyến. Lời thơ nhịp nhàng với nhịp điệu 4/3 khiến cho đoạn thơ trở nên mềm mại, uyển chuyển, dễ đi sâu vào lòng người. Đoạn thơ còn cho ta thấy tác giả là một người có tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu thiên nhiên, tha thiết gắn bó với thiên nhiên xanh mát. “Đầu trò tiếp khách, trầu không cóBác đến chơi đây, ta với ta” Tưởng chừng những sự thiếu thốn ở trên đã là quá đủ rồi nhưng khi đọc đến đây ta còn thấy rằng nhà thơ quả là người thật vui tính, biết trêu đùa người khác. Bạn đến chơi nhà mà miếng trầu cũng không có để cho bạn. Đây là sự thiếu sót của tác giả hay chỉ là những lời nói vui đùa với người bạn của mình? Điều quan trọng mà nhà thơ muốn nhấn mạnh đó chính là câu thơ cuối. Dù nghèo về vật chất nhưng tình cảm bạn bè lúc nào cũng đong đầy, chan chứa. Quan hệ bạn bè ở đây được xây dựng trên cơ sở tình cảm yêu thương chân thật chứ không phải là những thứ vật chất tầm thường. Nếu như người bạn của tác giả là một người ưa vinh hoa phú quý, ưa cuộc sống giàu sang thì chắc chắn sẽ không lặn lội tới miền quê nghèo để thăm nhà thơ. Ở câu thơ cuối, ta bắt gặp một cụm từ rất quen thuộc “ta với ta”. Cụm từ này đã xuất hiện trong bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, nhưng ý trong câu thơ lại là chỉ sự đơn độc, lẻ bóng. Còn “ta với ta” trong câu thơ của Nguyễn Khuyến dùng để chỉ nhà thơ và người bạn của mình, tuy hai mà một, tình cảm gắn bó hòa quyện không gì có thể chia cắt được. Bạn đến chơi nhà là một bài thơ hay và ý nghĩa về tình cảm bạn bè của nhà thơ Nguyễn Khuyến. Tình bạn luôn là thứ quý giá nhất, vượt qua giới hạn về thời gian, không gian và tiền bạc vật chất. Bài thơ thể hiện sự thành công của tác giả trong bút pháp trào phúng. Ngôn ngữ giản dị, cách gieo vần đặc sắc, dễ nghe, dễ thuộc. Ông xứng đáng được coi là nhà thơ của làng quê Việt Nam.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà - mẫu 10
Đọc thơ Nguyễn Khuyến ta chẳng thấy mấy bài vui bởi tâm trạng ông mang nặng nỗi buồn trước cảnh đất nước thương đau, trước thói đời lắm nỗi éo le. Nỗi buồn ấy càng sâu càng đậm từ khi ông cáo quan về ở ẩn. Nhưng ta niềm vui bất chợt khi đọc Bạn đến chơi nhà. Ẩn chứa trong bài thơ là một tình bạn bằng hữu tâm giao cao quý vượt lên mọi nghi thức đời thường. Cái nghèo vật chất không lấn át được tình cảm ấm áp chân thành. “Đã bấy lâu nay, bác tới nhàTrẻ thời đi vắng, chợ thời xa.Ao sâu nước cả, khôn chài cá,Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.Cải chửa ra cây, cà mới nụ,Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.Đầu trò tiếp khách, trầu không có,Bác đến chơi đây ta với ta!” Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng sự phát triển của ý thơ khá bất ngờ không theo cấu trúc (đề, thực, luận, kết) thường thấy ở thơ Đường. Có lẽ đây cũng là một điều rất đặc biệt như chính tình bạn của họ. Đã bấy lâu nay, bác tới nhà. Câu thơ mở đề giản dị, tự nhiên như lời chào hỏi thân tình của hai người bạn thân lâu lắm mới gặp nhau. Tuổi già thường cảm thấy cô đơn nên người ta khao khát có bạn để chuyện trò, giãi bày tâm sự. Vì vậy khi có bạn đến thăm thì quá đỗi vui mừng. Cách xưng hô thân mật bằng bác, cách gọi thân mật dân dã gợi sự nể trọng cũng như thân tình thể hiện sự gắn bó trọng tình giữa chủ và khách. Câu thơ giống như lời chào quen thuộc hàng ngày: đã lâu rồi nay có dịp bác đến chơi nhà, thật là vui quá. Tôi, bác chẳng xa lạ gì thôi thì mong bác thông cảm cho! Ngày còn ở chốn quan trường việc có bạn tới thăm là lẽ thường nhưng giờ ông đã từ quan, có bạn đến tận nhà thăm thì hẳn phải là thân thiết lắm bởi thói đời: giàu thời tìm đến, khó thời ị lui. Vui sướng, xúc động nhà thơ đã lấy sự sung túc, giàu có của tình bạn thay vào cái túng thiếu về vật chất để tiếp bạn. Thông thường theo phép tắc xã giao khi bạn đến nhà dù là thân hay sơ thì trước hết trầu nước sau là cơm rượu đãi bạn. Nhưng sau lời chào bạn Nguyễn Khuyến nhắc đến một loạt những khó khăn của gia đình. Nhà thơ như đang phân trần với bạn về sự tiếp đãi chưa chu đáo của mình. Phần thực, luận tính hệ thống của ngôn ngữ thơ rất chặt chẽ, nhất quán ở một cách nói. Có tất cả mà cũng chẳng có gì để đãi bạn thân. Có ao và có cá, có vườn và gà, có cà và cải, có mướp và bầu, nhưng ... Bức tranh vườn hiện lên sống động vui tươi. Một nếp sống thôn dã chất phác, cần cù, bình dị đáng yêu. Một cuộc đời thanh bạch ấm áp cây đời và tình người. Ta cảm thấy Nguyễn Khuyến đang dắt tay bạn mình ra thăm vườn cây, ao cá và hơn thế mong bạn cảm thông với cuộc sống của mình chăng? Các từ (sâu, cả, rộng, thưa), các trạng từ chỉ tình trạng (khôn, khó), các trạng từ chỉ sự tiếp diễn của hành động (chửa, mới, vừa, đương) hô ứng bổ trợ cho nhau một cách thần tình, khéo léo, dung dị và tự nhiên. Những từ ngữ này biểu hiện một cuộc sống dung dị, tự nhiên gần gũi đáng yêu. Dân gian có câu: Đầu trò tiếp khách, trầu không có. Phải chăng cái nghèo của cụ Tam Nguyên Yên Đổ lại đến mức ấy ư? Nhà thơ đã cường điệu hóa cái nghèo của mình. Một ông quan to triều Nguyễn về ở ẩn, với một cơ ngơi chín sào tư thố là nơi ở thì không thể “miếng trầu” cũng không có. Rõ ràng đây là lời bông đùa hóm hỉnh với bạn. Đồng thời để bày tỏ một cuộc sống thanh bạch, một tâm hồn thanh cao của một nhà nho khước từ lương bổng của giặc Pháp, lui về sống cuộc đời bình dị giữa xóm làng quê hương. Những vật chất bình thường nhất mang ra tiếp bạn đều không có, mà thay vào đó là tình cảm chân thành tha thiết. Tình bạn của họ được vun đắp, dựng xây trên cơ sở của tình cảm, lòng yêu thương kính trọng. Vật chất là quan trọng nhưng không phải là tất cả. Thật xúc động khi đọc những dòng thơ thể hiện tình cảm của Nguyễn Khuyến với bạn: “Bác Dương thôi đã thôi rồiNước mây man mác ngậm ngùi lòng taNhớ từ thuở đăng khoa ngày trướcBác với tôi hôm sớm cùng nhau...” (Khóc Dương Khuê, Nguyễn Khuyến) Tình cảm của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê thật cảm động, họ tri kỉ tri âm với nhau cũng xuất phát từ đó. Đúng vậy, trong bài thơ này những nghi thức xã giao vật chất dần bị bóc để lộ ra hạt ngọc lung linh - ấy là tâm hồn, tình cảm cao quý của họ. Bác đến chơi đây, ta với ta. Câu kết là sự “bùng nổ” ý và tình. Tiếp bạn chẳng cần có mâm cao cỗ đầy, sơn hào hải vị mà chỉ cần có một tấm lòng. Lần thứ hai chữ bác xuất hiện, bác không quản ngại đường xá xa xôi đến thăm bạn thì thật đáng quý. Tình bạn là trên hết, không gì mua được. Mong tiếp bạn bằng những thứ thật sang, thật bất ngờ nhưng rồi chỉ có ta với ta. Họ hiểu nhau, họ tuy hai nhưng là một, cái đồng điệu ấy chính là sự xem thường vật chất, trọng tình cảm, trọng tình bằng hữu. Tôi và bác chỉ cần gặp nhau để trò chuyện tâm sự là đã đủ. Tình cảm của họ bộc lộ một cách trọn vẹn, tràn đầy và lắng đọng. Ta với ta trong bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan là sự bắt gặp đối diện với chính mình, chính tâm trạng cô đơn u hoài của nữ sĩ. Còn ta với ta trong bài thơ này là sự bắt gặp của hai tâm hồn, hai con người. Có một số bài thơ của Nguyễn Khuyến viết về bạn khi đọc ta mới thấy hết được ý vị của nó: “Từ trước bảng vàng nhà có sẵnChẳng qua trong bác với ngoài tôi” (Gửi bác Châu Cầu) Bài thơ Bạn đến chơi nhà là bài thơ hay viết về tình bạn, một tình bạn thắm thiết keo sơn. Một tâm hồn thanh bạch cao quý của hai con người hòa là một, một cách sống thanh cao trọng tình trọng nghĩa. Tình bạn của họ thật cảm động chứ không như Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng lên án Còn bạc còn tiền còn đệ tử - Hết cơm hết rượu hết ông tôi. Tình bạn cao quý ấy còn chói ngời mãi, là điển hình cho tình bằng hữu xưa nay. Khép lại bài thơ, ai ai cũng xúc động trước tình bạn cao quý của họ. Lời thơ dung dị, ý thơ chất chứa bao tình cảm thân thương trìu mến tạo nên nét đặc sắc của bài thơ.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà - mẫu 11
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ tiêu biểu của nền thi ca thời kỳ cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX. Ông có rất nhiều bài thơ hay để lại nhiều ấn tượng sâu sắc với người đọc. Bài thơ “Bác đến chơi nhà” thể hiện tình cảm mộc mạc của tác giả dành cho bạn mình, một tình cảm không vì vật chất mà xuất phát từ tình cảm thân thiết của hai bên. Dù bác tới chơi nhà không có gì tiếp đãi bác tử tế, thì tình bạn của hai người vẫn thân thiết, keo sơn gắn bó vì họ thật sự hiểu tấm lòng chân thành của nhau. “Đã bấy lâu nay, bác tới nhàTrẻ thời đi vắng, chợ thời xa.Ao sâu nước cả, khôn chài cá,Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.Cải chửa ra cây, cà mới nụ,Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.Đầu trò tiếp khách, trầu không có,Bác đến chơi đây ta với ta!” Bài thơ đã làm cho người đọc cảm nhận được tấm chân tình của tác giả với người bạn thân tri kỷ của mình. Ca ngợi tình bạn là thứ không vì những vật chất tầm thường mà bị mất đi sự cao quý, chân thành. Đã bấy lâu nay, bác tới nhà. Câu thơ đầu tiên thể hiện sự vồn vã thân mật của một tác giả khi gặp lại bạn thân của mình, rất lâu không tới chơi, có thể vì bận bịu công việc hoặc do đường xá xa xôi nên không ghé thăm nhau thường xuyên được. Những câu thơ đầu của bài thơ khiến cho người đọc có cảm giác tác giả cảm thấy hụt hẫng, buồn phiền, lo lắng vì lâu lắm mới có khách quý ghé thăm mà nhà chẳng có gì đãi khách. Đến những thứ vốn là sẵn có của nhà nông như rau cải, bầu bí mọc trong vườn lúc nào chẳng có để ăn. Nhưng nhà tác giả cũng chẳng có, tiếp khách mà miếng trầu cũng không thật đáng tiếc. Những lời thơ thể hiện sự phân trần giải thích cho những thiếu thốn, thiếu sót của mình trong việc tiếp khách quý mà chẳng có gì đáng giá. Nhưng nếu chúng ta đọc kỹ thì sẽ cảm thấy đây chỉ cách nói vui vẻ, bông đùa cường điệu hóa của tác giả Nguyễn Khuyến muốn trêu đùa bạn của mình. Thông qua những lời trần tình của tác giả ta cũng cảm nhận được sự giản dị mộc mạc của làng quê Việt Nam thời xưa. Với nhịp thơ đều đặn ngắt nhịp nhẹ nhàng thể hiện cho lời thủ thỉ nhẹ nhàng kèm theo những nụ cười hóm hỉnh, trêu đùa của tác giả. Đối lập với tất cả những cái không có ấy chính là tấm lòng, tấm chân tình của tác giả dành cho bạn mình. Câu thơ cuối cùng của bài thơ thể hiện rõ nét tình cảm chân thành của tác giả dành cho bạn mình. Nó là thứ tình bạn cao quý quan hệ bạn bè xây dựng trên nền tảng của tình cảm vững chắc không vì những vật chất tầm thường mà bị phai nhạt hay biến mất. Trong bài thơ của bà Huyện Thanh Quan có câu thơ “Một mảnh tình riêng ta với ta” thể hiện cho nỗi buồn sự cô đơn của tác giả khi chỉ có một mình đối diện với chính mình với nỗi cô đơn trong lòng.Còn trong bài thơ “Khách đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến “Bác đến chơi đây ta với ta” thì hoàn toàn trái ngược ta với ta thể hiện tuy hai người nhưng lại là một bởi họ rất thân thiết, hiểu nhau vô cùng, thể hiện niềm vui sự hòa quyện, hòa hợp của hai người bạn tri kỷ. Bài thơ thể hiện sự thành công của tác giả trong việc sáng tác thơ trào phúng. Ngôn ngữ được sử dụng một cách vô cùng tinh tế đặc sắc, thể hiện sự tài hoa của tác giả trong việc sử dụng từ ngữ. Nhịp thơ của tác giả phối vô cùng nhẹ nhàng, tinh tế, thể hiện sự thanh thoát, tự nhiên không gượng ép làm cho bài thơ vô cùng hấp dẫn người đọc bởi ngôn ngữ linh hoạt, lời tâm sự thủ thỉ của tác giả. Đây là một bài thơ hay, viết về tình bạn. Nó ca ngợi tình bạn trong sáng không tới với nhau vì vật chất hay vinh hoa phú quý, thể hiện tình bạn vĩnh cửu trong sáng, tri kỷ. Một tình bạn đã trải qua nhiều gian nan thử thách mới có được chứ không phải ngày một ngày hai. Nên họ không bao giờ vì những thứ nhỏ nhặt mà làm mất đi tình bạn thân thiết đáng quý của mình.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà - mẫu 12
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là “Bạn đến chơi nhà”. Bài thơ đã ca ngợi tình bạn chân thành, thắm thiết: “Đã bấy lâu nay, bác tới nhàTrẻ thời đi vắng, chợ thời xa.Ao sâu nước cả, khôn chài cá,Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.Cải chửa ra cây, cà mới nụ,Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.Đầu trò tiếp khách, trầu không có,Bác đến chơi đây ta với ta!” Cụm từ “đã bấy lâu nay” chỉ thời gian rất lâu rồi, người bạn của Nguyễn Khuyến mới đến chơi nhà. Điều đó khiến cho nhà thơ rất vui mừng, hạnh phúc. Cùng với cách xưng hô “bác” thể hiện mối quan hệ gần gũi, thân mật. Câu thơ đầu như một tiếng reo vui, một lời đón khách đầy cởi mở. Dẫu vậy thì hoàn cảnh của nhà thơ lúc này cũng thật là éo le. Trẻ em thì đi vắng rồi, không có người để sai đi mua đồ tiếp đãi bạn được vì chợ ở quá xa. Tưởng rằng như vậy là chưa đủ, nhà thơ còn liệt kê một loạt các sự vật như “ao sâu - khôn chài cá”, “cải chửa ra cây, cà mới nụ, bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa”. Thậm chí miếng trầu - ngay cả thứ quan trọng nhất bởi có câu “miếng trầu là đầu câu chuyện” thì ở đây cũng không có. Sự thiếu thốn đã được đẩy lên đến tận cùng. Nhưng sự thiếu thốn đó không khiến cho thi sĩ buồn khổ mà còn đầy lạc quan, yêu đời. Bài thơ mang giọng điệu hóm hỉnh mà lạc quan, yêu đời. Tuy là vật chất thiếu thốn, nhưng tình cảm bạn bè mới là thứ đáng quý nhất. Câu thơ cuối như một lời khẳng định cho tình bạn tri kỉ của Nguyễn Khuyến: “Bác đến chơi đây ta với ta”. Bà Huyện Thanh Quan cũng đã từng sử dụng cụm từ “ta với ta” trong bài Qua Đèo Ngang: “Dừng chân đứng lại trời, non, nướcMột mảnh tình riêng ta với ta” Đại từ “ta” ở đây chỉ cùng một người, chỉ chủ thể trữ tình hay chính là tác giả. Lúc này Bà Huyện Thanh Quan đang chỉ có một mình nơi đèo Ngang hoang vu. Thời gian chiều tà gợi buồn và nỗi cô đơn, sợ hãi trước dòng thời gian trôi chảy. Không gian tuy rộng lớn nhưng chỉ toàn những vật vô tri, vô giác. Có xuất hiện hình ảnh đời sống con người nhưng hết sức thầm lặng, nhỏ bé. Âm thanh sự sống đơn điệu, gợi nỗi buồn sâu thẳm. Con người lẻ loi trước vũ trụ mênh mông. Nhớ về quê hương, thương xót cho hoàn cảnh của đất nước, trước thiên nhiên rộng lớn chỉ có mình cô độc. Ngược lại, trong thơ Nguyễn Khuyến, đại từ “ta” thứ nhất chính là nhà thơ, còn đại từ “ta” thứ hai chỉ người bạn. Từ “với” cho thấy mối quan hệ song hành, gắn bó. “Ta với ta” đồng nghĩa với tôi với bác, chúng ta với nhau. Cuộc sống tuy nghèo khó, thiếu thốn nhưng có bạn lại thấy vui vẻ, hạnh phúc. Nhà thơ không hề cảm thấy cô đơn, buồn bã mà lại vô cùng vui vẻ, hạnh phúc. Tình bạn tri kỉ thật đáng ngưỡng mộ, cảm phục biết bao nhiêu. Như vậy, “Bác đến chơi nhà” đã khắc họa một tình bạn chân thành thật đáng ngưỡng mộ. Bài thơ khá tiêu biểu cho phong cách thơ của Nguyễn Khuyến.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà - mẫu 13
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ tiêu biểu của nền văn học trung đại. “Bạn đến chơi nhà” là bài thơ hay cho thấy tình bạn tri kỉ của nhà thơ. Đã bấy lâu nay, bác tới nhà, “Đã bấy lâu nay” là một khoảng thời gian dài mà khi nói hẳn nhà thơ đã tính đến lần đến trước. “Bác” là cách xưng hô vừa thân thiết, vừa trân trọng, chẳng hạn: “Bác già tôi cũng già rồi. Biết thôi, thôi thế, thì thôi mới là. Đường đi lại tuổi già thêm nhác. Những câu thơ tiếp theo báo hiệu tình huống khó xử, nhưng cũng thể hiện tấm lòng đối với bạn: bạn lâu mới đến thăm thì việc đầu tiên là chuyện chết bạn thật nhiều, thật ngon. Bốn câu thơ tiếp theo, câu nào cũng nghĩ đến cái thứ có thể tiếp bạn mà không được, gần như một cuộc tổng duyệt các thứ sản vật có trong nhà: “Ao sâu nước cả, khôn chài cá,Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.Cải chửa ra cây, cà mới nụ,Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.” Cái thú của mấy câu thơ này là tỏ cái gì cũng có mà không có gì, không có gì mà cũng có. Có gà, có cá, có cải, có cà, có bầu, có mướp, có ao, có vườn, có thể nói là cũng phong lưu, khá giả đấy chứ! Có người nhận xét các thứ ấy có gợi lên một không khí điền viên, quê kiểng rất thân thiết, đầm ấm. Nhưng có mà chẳng có gì, bởi vì không đúng lúc, đúng thời vụ. Đến cả miếng trầu là đầu câu chuyện mà nhà thơ cũng không có. Cái này thì tác giả thừa nhận là không có, kể cũng lạ: Đầu trò tiếp khách, trầu không có. Cái sự “không có” của tác giả đến đây là cao trào, ơ làng quê, cây cau, dây trầu, miếng vôi làm sao không có, huống nữa, lại là đôi với một ông “đi đâu cũng dở nhưng cuối cùng chày” như Nguyễn Khuyến, thì làm sao mà không có được? Nhưng tất cả cái sự không ấy được cường điệu lên cực đại để nói lên cái thứ luôn có sẵn để dành cho bạn - ấy là tấm lòng: Bác đến chơi đây, ta với ta! “Ta với ta” hiểu nhau, “ta với ta” quý nhau, “ta với ta” là tất cả! Phải chăng ở đây có sự tác động của nguyên tắc hữu cơ vô tương tác: đẩy cái “vô” (không) cho đến tận cùng để “hữu” (có) hiện lên với tất cả sức nặng? Phải nói rằng khi đẩy cái “vô” lên tận cùng thì bài thơ đã ở vào thế chông chênh. Cái gì cũng không có thì lấy gì để tỏ tình bạn? Câu kết bất ngờ đã cân lại tất cả, lặp lại thế cân bằng. Câu kết vì vậy có một sức nặng tình cảm rất lớn. Bài thơ tự nhiên làm ta liên tưởng tới bài thơ Ngắm trăng trong Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh sau này: “Trong tù không rượu cũng không hoa,Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ.Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.” Nhà thơ Hồ Chí Minh cũng gặp một cảnh tương tự: bạn trăng đã đến, nhưng “Trong tù không rượu cũng không hoa”, biết làm sao đây? Giải pháp cuối cùng là tấm lòng đối với tấm lòng: người ngắm trăng, trăng ngắm người, vượt lên mọi thiếu thốn. Thế mới biết giải pháp của Nguyễn Khuyến cũng là giải pháp muôn thuở của con người. Ví dụ mâm cơm thịt cá ê hề, mà tình cảm lạnh nhạt, tiếp đón chiếu lệ, thì phỏng còn có thú vị gì? Trong bài thơ này, nói là chẳng có gì, nhưng tấm lòng muốn đãi bạn tất cả đã hiện lên rất rõ. Nhưng đây là một bài thơ đùa vui, người đọc chớ quá thật thà, nghĩ rằng nhà thơ để bạn ngồi nói chuyện suông rồi tiễn bạn ra về. Cũng đừng tưởng rằng nhà thơ Nguyễn Khuyến rất giàu có. Rất có thể bài thơ là lời đùa vui, một chút cường điệu duyên dáng trước bữa cơm không được thịnh soạn như ý, cũng có thể là cách để nhà thơ bộc bạch tấm lòng thành. Còn lại một điều lạ là trong các thứ được nghĩ đến để mời bạn ở đây lại không thấy có rượu, một thứ mà từ Đỗ Phủ đến Hồ Chí Minh, và cả Nguyễn Khuyến trong các trường hợp khác không thể không nhắc đến “Rượu ngon không có bạn hiền, Không mua không phải không tiền không mua!” (Khóc Dương Khuê), “Rượu tiếng rằng hay...” (Thu ẩm). Nhưng ai cũng biết, một bài thơ tám câu không phải cái gì cũng nói hết được, và chúng ta, những người đọc, không phải cái gì cũng hiểu hết được. Biết đâu trong mâm, rượu đã sẵn rồi! Đặc sắc của bài thơ diễn đạt như lời nói thường, lời khẩu ngữ: “Đã bấy lâu nay, bác tới nhà. Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa... Cải chửa ra cây, cà mới nụ, Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa... Bác đến chơi đây, ta với ta”. Lời thơ tự nhiên, tưởng chừng như không có chút dụng công nào. Đặc sắc thứ hai là tạo một thế chênh vênh, sáu câu nói tới cái không có, để rồi dùng hai câu kết bất ngờ cân bằng lại tất cả, biến những câu thơ về cái không có trở thành có nghĩa, không quan trọng, và đề cao cái “ta với ta” ấm áp, thân tình.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà - mẫu 14
Ca dao dân ca có nhiều câu rất hay nói về tình bạn, một tình cảm thiêng liêng đáng quý. Nguyễn Khuyến một vị quan về ở ẩn mang nỗi cô đơn u hoài sống hiu quạnh nơi nông thôn đã có những vần thơ với cảm xúc dạt dào khi gặp lại bạn cũ. Chúng ta hãy lắng nghe những cảm xúc ấy: “Đã bấy lâu nay, bác tới nhàTrẻ thời đi vắng, chợ thời xa.Ao sâu nước cả, khôn chài cá,Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.Cải chửa ra cây, cà mới nụ,Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.Đầu trò tiếp khách, trầu không có,Bác đến chơi đây ta với ta!” Bài thơ khơi dậy trong ta niềm xúc động trước tấm lòng chân tình của nhà thơ Nguyễn Khuyến. Mở đầu bài thơ là một lời chào, lời chào rất đỗi tự nhiên, hóm hỉnh: “ Đã bấy lâu nay, bác tới nhà”. Câu thơ như lời chào thân mật hồ hởi của Nguyễn Khuyến khi có bạn tới thăm. “Đã bấy lâu nay” là biểu hiện một khoảng thời gian khá dài nhà thơ không gặp bạn, giờ đây có dịp gặp lại nhau lòng không khỏi vui mừng khôn xiết. Từ lúc từ quan về ở ẩn, suốt ngày chỉ núi láng giềng, chim bầu bạn (Nguyễn Trãi), lấy ai mà tâm sự giãi bày nỗi lòng mình. Những lúc như vậy tác giả luôn muốn có người tâm giao để trò chuyện. Người bạn đó đã đến với ông, có vui mừng nào hơn. Mới nghe ta như thấy rằng nhà thơ như tỏ ý lấy làm tiếc về việc bạn mới đến thăm mà chẳng có gì để tiếp bạn. Đây chính là cách nói cường điệu hoá, thi vị hoá cuộc sống vật chất trong gia đình Nguyễn Khuyến. Nói như vậy là đang đùa với bạn, trong lời nói ấy mang nụ cười ý vị vừa tỏ thái độ “mong chờ” những dịp bạn đến thăm như thế này. Hay chính trong lời phân trần ấy bộc lộ sự bất ngờ thăm hỏi của bạn. Hoàn cảnh sống của tác giả nơi miền quê kiểng rất đạm bạc, thanh bạch, giản dị gắn bó với làng xóm quê hương. Nhịp thơ đều đặn nhẹ nhàng êm ái như một lời thủ thỉ, kèm theo là nụ cười bông đùa vui tươi của nhà thơ. Trong rất nhiều bài thơ Nguyễn Khuyến đã từng thể hiện sâu sắc tình cảm với bạn bè, bằng hữu: “Rượu ngon không có bạn hiềnKhông mua không phải, không tiền không muaCâu thơ nghĩ đắn đo muốn viếtViết đưa ai, ai biết mà đưa?Giường kia, treo những hững hờĐàn kia, gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn” Với Nguyễn Khuyến và Dương Khuê qua đoạn thơ trên ta thấy rằng tình bạn của họ thật gắn bó bao nhiêu. Chén rượu kia sẽ ngọt ngào nếu hai người cùng đối, ẩm, dạo đàn, bình thơ… Cũng chỉ có hai người. Thiếu một trong hai thì “Giường kia, treo những hững hờ/Đàn kia, gảy cũng ngẩn nga tiếng đàn”. Không chỉ tình bạn của Nguyễn Khuyến trong bài thơ này mà trong dân gian chúng ta còn xúc động trước tình bằng hữu của Lưu Bình và Dương Lễ. Tình cảm của Nguyễn Khuyến và bạn mình không phân biệt tuổi tác, hoàn cảnh, ở họ sự nối kết là niềm cảm thông chia sẻ cùng nhau. Câu thơ cuối cùng đã bộc lộ rõ nét tình cảm chân thành của Nguyễn Khuyến với bạn. Đó là tình cảm thiêng liêng và cao quý, những nghi thức xã giao dần bị bóc còn lại là tình bằng hữu thâm giao. Quan hệ bạn bè ở đây được xây dựng trên nền tảng của tình cảm. “Bác đến chơi đây” - không có mọi giá trị vật chất chỉ có ta với ta. Đại từ ta được sử dụng rất độc đáo, ta là nhân xưng, và cũng là bác và tôi, là hai chúng ta. Tôi và bác đã quá hiểu nhau rồi. Hoàn cảnh của tôi bác biết, tôi sống thế nào bác hay. Những điều tôi nói ra với bác chẳng qua là bày tỏ nỗi niềm tâm can. Cả hai người không ai đặt vấn đề vật chất, mà ở họ đều có quan điểm coi thường vật chất, đề cao tình cảm. Cũng là ta với ta nhưng trong bài thơ Qua Đèo Ngang thì đó chính là sự đối diện, bắt gặp tâm trạng của tác giả Thanh Quan với chính mình. Còn ta với ta ở đây là nói về hai người họ gắn bó không gì chia cắt được. Tình bạn giữa họ mới cao quý đẹp đẽ làm sao. Ta thấy rằng nghệ thuật trào lộng của Nguyễn Khuyến thật hóm hỉnh, nhẹ nhàng tinh tế. Bài thơ thể hiện khá thành công nghệ thuật trào phúng, ngôn ngữ được sử dụng một cách đặc sắc. Tuy là một bài thơ Đường với khuôn mẫu bó buộc nhưng lại rất bình dị như lời ăn tiếng nói hàng ngày. Những sản vật đồng quê được đưa vào thơ rất tự nhiên, sự kết hợp nhuần nhuyễn ngôn ngữ làm cho bài thơ đặc sắc thân mật như chính tình cảm của họ vậy.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà - mẫu 15
Thơ Nguyễn Khuyến chẳng có mấy bài vui bởi tâm trạng ông mang nặng nỗi buồn trước tình cảnh đất nước đau thương, trước thói đời éo le, bạc bẽo. Nhất là từ khi cáo quan về sống ẩn dật ở quê nhà thì nỗi buồn ấy trong thơ ông càng sâu, càng đậm. Tuy vậy nhưng bài Bạn đến chơi nhà lại là nốt vui bất chợt làm bừng sáng cái thông minh, dí dỏm vốn có trong tính cách cụ Tam Nguyên. Ẩn chứa trong bài thơ là một tình bạn già khăng khít, keo sơn, vượt qua mọi ràng buộc của những nghi thức tầm thường. Cái nghèo vật chất không lấn át được tình cảm ấm áp, chân thành. Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng không theo cấu trúc 4 phần (đề, thực, luận, kết), mỗi phần hai câu như thường thấy. Ở bài này, Nguyễn Khuyến chỉ sử dụng có một câu làm câu đề, câu thứ hai đã chuyển sang phần thực. Giữa phần thực và phần luận lại không có ranh giới rõ rệt. Hai câu bảy và tám thì câu bảy gắn với phần luận, chỉ có câu 8 là phần kết. Sự phá cách này tạo nên nét độc đáo trong cấu trúc bài thơ, đồng thời chứng tỏ khả năng sáng tạo của nhà thơ. Đã bấy lâu nay bác tới nhà. Câu mở đề giản dị, tự nhiên như lời chào hỏi thân tình của hai người bạn thân lâu lắm mới gặp lại nhau. Tuổi già là tuổi người ta thường cảm thấy cô đơn nên khao khát có bạn để chuyện trò, giãi bày tâm sự. Chính vì thế nên khi được bạn đến thăm, nhà thơ thực sự vui mừng. Ông gọi bạn bằng bác. Cách gọi dân dã, thân tình song cũng rất nể trọng, thể hiện sự gắn bó thân thiết giữa chủ và khách. Câu thơ giống như lời chào quen thuộc hằng ngày ấy sẽ là tiền đề cho sự giãi bày tiếp sau đó: Đã lâu rồi, nay mới có dịp bác quá bộ tới chơi nhà, thật là quý hóa. Vậy mà... thôi thì cứ tình thực mà nói, mong bác hiểu mà vui lòng đại xá cho! Sau khi Nguyễn Khuyến rũ áo từ quan, về ở chốn quê nghèo chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa mà vẫn có bạn tìm tới thăm thì hẳn người ấy phải là tri kỉ; bởi thói đời giàu thời tìm đến, khó thì lui. Xúc động thật sự, nhà thơ nhân đó lấy cái giàu có, quý giá của tình bạn để khỏa lấp cái nghèo nàn vật chất trong cuộc sống của mình. Theo phép xã giao, khi khách đến chơi, trước hết chủ nhà phải có nước có trầu tiếp khách. Bạn thân ở nơi xa tới, lâu ngày mới gặp thì nhất thiết phải mời cơm, mời rượu. Ở chốn phố phường còn có quán xá chứ ở vùng quê Nguyễn Khuyến thì kiếm đâu ra? Cái hay của bài thơ bắt đầu từ ý này: Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa. Nhà thơ phân trần với khách về sự tiếp đãi không thể chu đáo của mình. Vừa mới tay bắt mặt mừng mà lại giãi bày với ý: "Nhà vắng người sai bảo, chợ ở xa, tôi thì già yếu không đi được", liệu có làm mất lòng nhau? Nhưng bạn già chắc sẽ thông cảm vì lí do chủ nhà đưa ra nghe chừng đúng cả. Mọi thứ ở nhà tuy sẵn nhưng ngặt nỗi: “Ao sâu nước cả khôn chài cá,Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà.Cải chửa ra cây, cà mới nụ,Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa” Hiểu theo bề nổi của chữ nghĩa, nhà thơ muốn thanh minh với bạn: Cá thì nhiều đấy, nhưng ao sâu nước cả. Gà không thiếu nhưng vườn rộng rào thưa. Cải, cà, bầu, mướp thì đang ở độ chửa ra cây, còn mới nụ, vừa rụng rốn, đương hoa. Nghĩa là toàn ở độ dở dang, sắp sửa, chưa dùng được. Vậy là bữa cơm đãi khách với đầy đủ cá thịt hay đạm bạc rau dưa đều không thể có. Thôi thì ta nói chuyện với nhau bằng điếu thuốc, chén nước, miếng trầu vậy. Nhưng giờ đến trầu thì đã hết tự bao giờ: Đầu trò tiếp khách trầu không có, mà xưa nay miếng trầu là đầu câu chuyện. Người đọc như hình dung ra rõ ràng cái sự loay hoay, lúng túng thật dễ thương của vị đại quan xưa, nay đã thành ông già dân dã chốn quê mùa. Nhưng xét kĩ thì chủ nhà không nghèo, ngược lại, ông là người giàu có. Câu thơ toàn nói đến cái không nhưng lại hàm chứa cái có. Cái nghèo vật chất trong hiện tại được thi vị hóa như là sự giàu có trong tương lai. Có thể những thứ cá, gà, cải, cà, bầu, mướp đều chẳng thiếu và nhà thơ đã tiếp đãi bạn rất chu tất còn nội dung bài thơ chỉ là cách giới thiệu độc đáo của cụ Tam Nguyên với bạn về cuộc sống thanh đạm của mình sau khi từ quan chăng? Cách nói của nhà thơ là cố làm ra vẻ giàu có, dư dả nhưng thực ra ông rất nghèo và cái nghèo ấy dễ gì che giấu được! Bạn biết ta nghèo, lại ở một nơi xa xôi hẻo lánh mà vẫn tìm đến thăm ta, điều đó còn gì quý giá bằng! Tuy vậy, ẩn trong lời nói khiêm nhường của Nguyễn Khuyến là sự tự hào về cảnh sống thanh bần của mình. Ta tuy nghèo thật nhưng dễ gì giàu sang đổi được cái nghèo ấy! Trong đoạn thơ trên thấp thoáng nụ cười hóm hỉnh, thâm Thúy của bậc đại nho. Bác đến chơi đây ta với ta là một câu kết hay, là linh hồn của bài thơ. Ta với ta nghĩa là một tấm lòng đến với một tấm lòng; kẻ tri âm đến với người tri kỉ. Vậy thì tất cả những lễ nghi kia đều là tầm thường, vô nghĩa. Chủ và khách có chung một tình cảm thắm thiết thanh cao, đó là cái quý giá không vật chất nào sánh được. Ba tiếng ta với ta gợi cảm xúc mừng vui, thân mật. Bạn bè xa cách đã lâu, nay vượt đường xa dặm thẳm, vượt cái yếu đuối của tuổi già để đến thăm nhau thì thật là quý hóa. Đáng quý hơn nữa là bác với tôi, ta cùng lánh đục tìm trong, lui về vui thú điền viên để giữ trọn hai chữ thiên lương. Sự gần gũi, tương đắc về mặt tâm hồn đã gắn bó chủ và khách làm một. Những điều câu nệ, khách khí đã bị xóa nhòa. Chỉ còn lại niềm vui và sự chân thành bao trùm tất cả. Tình bạn ấy đã vượt lên trên những nghi thức tiếp đãi bình thường. Bạn đến chơi nhà không phải vì mâm cao cỗ đầy mà để được gặp nhau; được hàn huyên tâm sự cho thỏa nỗi khao khát nhớ mong. Câu thơ đã thể hiện cách sử dụng từ ngữ tài tình của Nguyễn Khuyến. Đáng chú ý nhất là cụm từ ta với ta. Đại từ ta trong tiếng Việt vừa chỉ số ít, vừa chỉ số nhiều. Nguyễn Khuyến dùng cả hai nghĩa: Ta với ta tuy hai nhưng là một. Từ với gắn hai từ ta lại. Bạn và nhà thơ ngồi bên nhau thủ thỉ tâm tình, hai người hòa thành một. Quả là không gì có thể đánh đổi được tình bạn Thủy chung giữa hai ta. Bài thơ Bạn đến chơi nhà là tấm lòng của nhà thơ và cũng là bức tranh phong cảnh nông thôn bình dị tràn đầy sức sống. Khu vườn với luống cà, giàn mướp; mặt ao sóng gợn, tiếng gà xao xác trưa hè... là hiện thân của mảnh hồn quê mộc mạc, đậm đà, sâu lắng. Màu xanh trong của nước ao, màu xanh mơn mởn của ngồng cải, màu tím hoa cà, màu vàng tươi hoa mướp... loại nào cũng đang độ tươi non, làm vui mắt và ấm lòng người. Những sự vật tưởng như tầm thường ấy thực ra có sức an ủi rất lớn đối với một tâm hồn mang nặng nỗi đau đời của nhà thơ. Được đón bạn đến chơi nhà trong khung cảnh rạo rực sức sống ấy, chắc hẳn niềm vui của cụ Tam Nguyên cũng tăng lên gấp bội. Bài thơ nói về một tình bạn trong sáng, đẹp đẽ. Giọng thơ tự nhiên như lời ăn tiếng nói hằng ngày của người nông dân quê mùa, chất phác, ấy vậy nhưng nó vẫn bộc lộ rõ nét tài hoa của ngòi bút Nguyễn Khuyến trong tả cảnh, tả tình. Cảnh, tình đan xen, hòa hợp, bổ sung cho nhau để tạo nên một bức tranh quê trong sáng, tươi mát và ấm áp tình người. Đã có lời giải bài tập lớp 7 sách mới: Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85 4.5 (243) 799,000đs 199,000 VNĐ 4.5 (243) 799,000đ 99,000 VNĐ 4.5 (243) 999,000đ 299.000 - 599.000 VNĐ Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube: Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 7 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 7 và Những bài văn hay đạt điểm cao lớp 7. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 7 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 7 và Những bài văn hay đạt điểm cao lớp 7. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Trang web chia sẻ nội dung miễn phí dành cho người Việt. Lớp 1-2-3 Lớp 4 Lớp 5 Lớp 6 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 9 Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Lập trình Tiếng Anh Chính sách bảo mật Hình thức thanh toán Chính sách đổi trả khóa học Chính sách hủy khóa học Tuyển dụng Tầng 2, số nhà 541 Vũ Tông Phan, Phường Khương Đình, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, Việt Nam Phone: 084 283 45 85 Email: vietjackteam@gmail.com CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội. 2015 © All Rights Reserved.
Dàn ý Cảm nghĩ về khu vườn nhà em
1. Mở bài 2. Thân bài 3. Kết bài Khẳng định lại cảm xúc với khu vườn nhà mình.
Cảm nghĩ về khu vườn nhà em - mẫu 1
Quê em ở Lái Thiêu, Bình Dương – xứ sở của nhiều thứ trái cây ngon nổi tiếng như mít tố nữ, sầu riêng cơm vàng, chôm chôm tróc hạt, nhãn, bưởi, măng cụt, mãng cầu… Du khách chỉ cần một lần đặt chân đến đây là mãi mãi không thể nào quên cái cảm giác ngỡ ngàng, thú vị và sảng khoái khi được dạo chơi trong vườn cây sum suê, thưởng thức tại chỗ hương vị thơm ngon của trái chín đầu mùa. Vườn nhà em rộng hơn hai mẫu, được chia thành nhiều khu, mỗi khu trồng một loại cây. Mùa nào thức nấy, vườn cho thu hoạch quanh năm, đem đến nguồn lợi không nhỏ cho gia đình. Em thích nhất là những sớm mai được cùng ba ra thăm vườn. Sau cơn mưa đêm, lá cây xanh mướt, không khí trong veo, thơm nức hương hoa. Hoa nhãn màu vàng ngà, bao phủ khắp tán cây, mùi thơm ngọt quyến rũ đàn ong mật siêng năng, cần mẫn. Từ trên cao, hoa xoài như những ngôi sao li ti rụng xuống tóc, xuống vai, hương thơm thoang thoảng. Hoa bưởi thơm ngát tỏa khắp khu vườn. Hè đến, trái chôm chôm chín rộ. Nhìn từ xa, góc vườn đỏ rực như một mâm xôi gấc khổng lồ. Những chùm trái nặng oằn được bẻ và xếp gọn vào trong sọt đang bằng tre, trên phủ lá tươi, chờ thương lái đến mua chở về thành phố. Trước Tết Trung thu là mùa bưởi chín rộ. Bưởi hồng đào, bưởi Tân Triều, bưởi Năm Roi,… thứ nào cũng đẹp, cũng ngon, trái treo lúc lỉu trĩu cành, nhìn không chán mắt. Trên con đường vào xã, xe tải đậu thành hàng dài, chở chất bưởi lên rồi chở đi khắp nơi, đem vị ngọt, vị thanh của trái bưởi quê em đến với từng nhà, làm đẹp thêm mâm cỗ đón trung thu. Năm gần tàn, sầu riêng mới trổ bông. Hoa sầu riêng kết thành từng chùm, màu tím nhạt, cánh nhỏ hình trái tim bao lấy nhụy, mùi thơm từa tựa hoa cau. Tháng Tư, tháng năm Âm lịch, sầu riêng chín rộ, hương thơm ngào ngạt theo gió bay xa. Nếm múi sầu riêng, ta sẽ thấy vị ngọt đậm đà, vị bùi bùi và béo ngậy như đọng mãi nơi đầu lưỡi. Miền Nam quả là một miền đất trù phú, mỡ màu. Thiên nhiên đã hào phóng ban tặng cho con người bao hoa thơm trái ngọt – tinh hoa của đất trời. Mỗi lần dạo bước dưới vòm xanh mênh mông, mát rượi và lảnh lót tiếng chim, tâm hồn em lại lâng lâng một niềm vui khó tả.
Cảm nghĩ về khu vườn nhà em - mẫu 2
Mỗi buổi sáng, em rất thích thức dậy từ sớm để ngắm nhìn ngôi nhà của mình. Đặc biệt là khu vườn trước sân nhà trong sớm mai thật đẹp đẽ. Nó khiến em cho em cảm thấy thư thái, yêu đời hơn. Không khí lúc này thật trong lành biết bao. Bầu trời trong xanh, không một gợn mây. Giọt sương vẫn còn đọng lại trên những chiếc lá xanh non. Ông mặt trời vươn vai sau một giấc ngủ dài đánh thức mọi vật. Còn trên những cành cây cao chị gió mải miết rong chơi nô đùa cùng hoa lá. Bầy chim cũng đua nhau ca hát để đón chào một ngày mới. Trong khu vườn nhỏ trước sân nhà, ánh nắng len lỏi qua từng tán lá. Cây cối xanh tươi bừng tỉnh sau một đêm dài. Trong vườn, những cây ăn quả đều có hình dáng cao, lớn. Các cành cây đều vươn lên rất cao để đón lấy ánh nắng. Những tán lá xum xuê tỏa bóng mát xuống cho khu vườn. Một góc nhỏ trong vườn, bố em trồng đủ các loài hoa. Nào là nàng hoa hồng nhung đầy kiêu sa. Hay cô hoa mười giờ đỏng đảnh. Chị cẩm tú cầu e ấp trong nắng vàng. Nhưng đẹp nhất có lẽ là những giỏ hoa lan được treo trên giàn. Bố em rất nâng niu những giỏ hoa lan đó. Mỗi buổi chiều rảnh, bố lại ra vườn để chăm sóc chúng. Khi đó, em lại theo sau bố để được phụ giúp việc tưới cây, nhỏ cỏ cho cây cối trong vườn. Ngắm nhìn khu vườn mà lòng em cảm thấy hứng khởi biết bao. Một ngày mới bắt đầu thật tuyệt vời. Tiếng chim ríu rít khắp không gian, cùng với ánh nắng mai khiến cho vườn cây thật đẹp biết bao. Em xách chậu nước ra vườn để tưới tắm cho cây cối. Mong rằng chúng sẽ ngày càng phát triển thật tốt. Khu vườn nhà không chỉ đẹp đẽ, mà chính là nơi cất giữ thật nhiều kỉ niệm đẹp đẽ. Em yêu biết bao khu vườn mang hơi ấm của gia đình.
Cảm nghĩ về khu vườn nhà em - mẫu 3
Có ai từng nói "tâm hồn của ta sẽ được thanh thản và trong mát hơn khi ta thả hồn vào thiên nhiên". Đúng vậy, thật hạnh phúc và sung sướng biết bao khi được hòa mình với thiên nhiên và được ngắm nhìn vườn cây do chính tay mình chăm sóc! Khoảnh khắc thanh thản nhất trong cuộc đời chính là giây phút hòa hợp với thiên nhiên và có lẽ món quà tuyệt vời của trời đất ban tặng đó chính là một người bạn tri ân tri kỷ của con người. Con người không thể thiếu thiên nhiên cũng giống như thiên nhiên không thể sống nếu thiếu con người. Và chỉ khi hai điều đó hợp lại thành một thì cuộc sống mới có ý nghĩa. Thú vui của ông tôi là được chăm sóc cây cối trong vườn mỗi lúc rảnh rỗi. Chính vì thế sáng nào tôi cũng cùng ông ra vườn chăm sóc cây và hít thở không khí trong lành buổi sớm. Khu vườn nhà tôi không rộng lắm nhưng chỉ cần nhìn vào vẻ giản dị, tràn ngập màu sắc của nó cũng thấy được nét riêng biệt, đặc sắc của nhà tôi. Nhìn từ xa, trông như một mô hình công viên thu nhỏ. Thích nhất là lúc sáng sớm, tôi được hít thở không khí trong lành. Hãy lắng đọng hồn mình để cảm nhận hương vị thanh khiết, mát mẻ của buổi sớm. Sương long lanh đọng lại trên lá như những hạt ngọc quý. Nụ hoa e ấp, khẽ đung đưa đài hoa theo gió, môi chúm chím, khẽ trở mình. Từng loài hoa như những thiên thần đang ngủ. Chắc là cái cảm giác tuyệt vời này sẽ đọng mãi trong tâm hồn tôi. Rồi hừng đông ửng hồng, mặt trời như quả bóng to tròn dần dần lên cao tỏa những ánh hào quang hát chéo lên cành lá. Sương dần tan nhưng một số còn ở lại vương vấn, lưu luyến cái khoảnh khắc ấy. Cây côi bừng tỉnh, thỏa mình tắm nắng. Từng động tác uyển chuyển, khéo léo như tạo ra sức sống của cây bắt đầu một ngày mới. Chim hót líu lo thành một bản nhạc quen thuộc. Từng loài hoa thỏa sức khoe mình trong nắng sớm. Hoa hồng - một loài hoa kiêu sa, mạnh mẽ vươn lên như chứng tỏ mình là nữ hoàng sắc đẹp. Trái ngược với sự mạnh mẽ đó là hình ảnh dịu dàng của một thiếu nữ - hoa cúc. Không biết hoa cúc có điều gì đặc biệt mà khiến tôi xao xuyến, ngập ngừng. Phải chăng hoa cúc gợi nhớ tới mùa thu - mùa của cảm xúc và cái gì đó man mác buồn cũng có lẽ gợi lên sự nhẹ nhàng, tình cảm của câu chuyện cổ tích hồi xưa bà kể cho tôi nghe: “Vì sao hoa cúc nhiều cánh”. Ôi! Thật là đằm thắm mà cũng thật là ý nghĩa! Gió xào xạc thổi, bướm, ong chăm chỉ kiếm mật. Một khung cảnh gợi lên trong ta sự tươi vui và đẹp đẽ. Có ai mà chẳng ngợi ca thiên nhiên, có ai mà chẳng thích ngắm nhìn thiên nhiên. Và tôi cũng không phải là một ngoại lệ. Tình yêu thiên nhiên trong tôi bắt đầu từ thú vui chăm sóc cây cối, yêu hoa lá, yêu cỏ cây. Một tình yêu thật đẹp, thật đáng trân trọng. Từng giai đoạn, từng hơi thở của vườn cây như một bản nhạc ru vỗ tâm hồn tôi, một sự vỗ vẻ thật ân cần, thật nhẹ nhàng.
Cảm nghĩ về khu vườn nhà em - mẫu 4
Trong ngôi nhà của mình, có lẽ tôi yêu thích nhất đó là khu vườn. Mỗi buổi sáng khi thức dậy, công việc mà tôi thường xuyên làm là chạy ra vườn chăm sóc cây cối và ngắm nhìn khung cảnh trong vườn. Sáng sớm, trời mùa thu vẫn còn se lạnh. Làn gió nhẹ thoang thoảng ghé qua làm cho cây cối trong vườn khẽ lay động. Bầu trời hôm nay vừa cao vừa trong xanh. Chỉ một lát sau, ông mặt trời đã ló rạng. Ánh nắng bao trùm khắp vạn vật. Cây cối trong vườn cũng bắt đầu thức giấc. Hàng hoa hồng với đủ các màu sắc nào vàng, đỏ, cam… thi nhau khoe. Khóm hoa đồng tiền khẽ rung rinh trong gió, dường như chúng đang mỉm cười. Mấy chậu hoa mười giờ vẫn còn lười biếng chưa chịu tỉnh giấc. Những giọt sương của đêm qua vẫn còn đọng lại trên những cánh hoa khiến cho chúng trở nên lung linh hơn. Cây hồng xiêm cao lớn nhất khu vườn đang vươn mình ra đón lấy ánh nắng mai để nuôi dưỡng những trái hồng đang trĩu nặng trên những cành cây. Cây ổi gần đó dường như sau một đêm đã trưởng thành hơn để có thể nâng niu được những trái ổi to lớn. Một vài chú chim nhỏ nhảy nhót trên cành của cây, khẽ kêu lên những tiếng ríu rít vang vọng tận đến trời xanh. Ở phía góc vườn, trên giàn hoa thiên lý có treo mấy chậu hoa phong lan của ông nội. Những chậu hoa này được ông mua từ một người trồng lan lâu năm. Ông nói rằng chúng là loài lan rừng vô cùng quý hiếm. Chính vì vậy, ông đã chăm sóc chúng vô cùng cẩn thận và nâng niu. Mỗi khi ngắm nhìn khu vườn, tôi dường như hòn toàn bị thu hút bởi vẻ đẹp của nó. Muôn ngàn bông hoa khoe sắc thắm trong ánh nắng ban man. Làn gió mát khẽ mơn man cùng với bầu không khí trong lành mang lại một cảm giác dễ chịu. Nhiều khi mải ngắm nhìn khu vườn, tôi quên mất nhiệm vụ của mình. Đến khi có lời nhở của ông nội, tôi mới chợt nhớ ra và phải nhanh chóng xách một xô nước đầy ra vườn. Từng gốc cây được tôi tưới một cách cẩn thận. Tôi nâng niu chúng như những món đồ quý giá nhất của mình. Mỗi loài cây trong vườn đều chứa đựng những kỉ niệm đẹp đẽ. Sau khi tưới nước xong xuôi, tôi ngắm nhìn khu vườn một lần nữa. Cây cối đã trở nên tươi mới hơn bao giờ hết. Tôi cảm thấy rất hạnh phúc vì đã góp một phần nhỏ bé vào công cuộc chăm sóc khu vườn. Thật tuyệt vời khi mỗi sớm mai thức giấc được ngắm nhìn khu vườn tràn đầy sức sống. Tôi cũng luôn hy vọng, rằng khu vườn nhà mình sẽ mãi đẹp đẽ như lúc này.
Cảm nghĩ về khu vườn nhà em - mẫu 5
Tôi vẫn nhớ như in cái thuở ấu thơ, khi đó tôi chỉ là con bé bảy tuổi được về quê ở với bà ngoại. Nhà bà ngoại rất nhiều cây ăn quả. Nào là na, nào là bưởi, nào là cam, là vải thiều. Vườn cây của bà có một cây khế chua, một cây chay, cây sung gần cầu ao nữa. Bên bờ ao có mấy khóm chanh, khóm ớt. Mỗi mùa hoa chanh nở, cứ ra đến gần bờ ao là một mùi hương tỏa ra thơm ngát, mấy con chuồn chuồn kim, chuồn chuồn ớt bay dập dờn chao lên, lượn xuống, rồi khẽ khàng đậu trên cành hoa, chúng như đang ngắm nhìn màu hoa trắng tinh khiết, cũng như cảm nhận được mùi hương thơm của hoa chanh. Có những hôm mải chạy theo con chuồn chuồn ớt mà tôi bị trượt chân ngã xuống ao. Cũng may cho tôi khi đó bà tôi đang phơi rơm rạ gần đó nhìn thấy tôi đang chới với, bà đưa cái chạc gẩy rơm xuống bào tôi nắm vào bà kéo lên, thế là thoát chết trong gang tấc. Một kỉ niệm tôi cứ nhớ mãi. Trong vườn cây của bà, mỗi loại cây đều có những kỉ niệm gắn bó với tuổi thơ tôi. Cây khế chua của bà hồi đó là nơi các chị con nhà bác tôi hay trèo lên hái quả. Mỗi lần các chị đến chơi lại hái khế xuống chấm muối ớt ăn, cắn miếng khế chua chua mà tôi nhắm mắt nhắm mũi lại mà nhai mà nuốt.Nhưng cái vị chua chua ấy làm mấy chị em thôi thèm, ăn thì không được nhiều, nhưng cứ nhìn thấy lại muốn vặt quả xuống để ăn. mấy chị hàng xóm sang nhà bà tôi chơi. Một chị leo lên cây vặt quả, một chị ngửa nón ra hứng, chỉ một lúc là được lưng nón. Các chị nghĩ ra cái trò khế chua chấm mắm tôm, thế là hũ mắm tôm của bà được lấy ra để pha với ớt đỏ chấm khế chua. Còn cây chay gần bờ ao cũng vậy, quả chay xanh thì chua, nhưng cái chua dìu dịu không gắt như khế. Quả chay chín màu vàng ở ngoài, bên trong màu đỏ, ăn rất ngọt, bà tôi hay hái quả chay đem kho cá, ăn món cá kho với quả chay rất hao cơm, ăn một bát lại muốn ăn hai, vị chua chua ngòn ngọt của chay, vị beo béo bùi bùi của hạt chay quyện với mùi thơm ngầy ngậy của món cá kho làm nước miếng tối cứ ứa ra khi nồi cá kho được bưng lên mâm. Cây sung cạnh bờ ao nhà bà không biết có tự bao giờ, khi tôi về quê thấy nó đã bị ngã gần sát mặt ao, bọn trẻ chúng tôi vẫn hay vặt quả sung cho vào miệng nhai rôm rốp, ăn sung có vị chan chát cũng hay. Bây giờ ở Hà Nội, lá và quả sung cũng được đưa vào các bữa tiệc thịnh soạn đấy các bạn à. Cây sung bị ngả xuống mặt ao như thế là nôi bọn trẻ chúng tôi hay trèo lên đó ngồi chơi thả hai chân khỏa nước rất thú vị. Có hôm mải chơi thế là lăn tòm xuống ao, ướt như chuột, cả lũ bị trận đòn sưng đít vì trò nghịch dại. Mấy cây vải thiều khi mùa quả chín, bọn trẻ chúng tôi suốt ngày quanh quẩn dưới gốc cây để kều, chọc vải ăn, quả vải chín cùi dày, ngọt lịm và rất ngon, chúng tôi ăn no đến mức không ăn được cơm. Bà ngoại bảo ăn nhiều nóng, nhưng bọn trẻ chúng tôi cứ ăn no nê thỏa thích, chả biết sợ nóng thế nào. Mấy hôm sau rôm nó mọc đỏ lưng cả mặt mũi, lúc đó mới thấy ngứa, gãi chảy cả máu ra, bà mới nói cho biết không nghe lời bà nên giờ ngứa cố mà chịu, cấm được kêu. Bây giờ nhớ lại thấy kỉ niệm thời thơ ấu như đang còn hiển hiện ra trước mắt tôi. Nhanh thật, thế mà đã hơn bốn mươi lăm năm rồi. Khu vườn ngày nào giờ đã không còn nữa, nhưng những kỉ niệm thì như vừa mới hôm qua thôi.
Cảm nghĩ về khu vườn nhà em - mẫu 6
Khu vườn nhà em rộng hơn ba mẫu đất, nằm sát bìa làng Tạ Thượng, cách đường năm chỉ vài trăm mét. Bố em bảo rằng cách đây gần nửa thế kỉ, cụ nội đã đến lập nghiệp ở đây. Bao bọc quanh vườn là lũy tre gai dày đặc, thân mốc thếch màu rêu, cành dài đầy gai nhọn đan xen vào nhau, tạo nên bức tường thành vững chắc. Sáng sớm mùa hè, đủ loại âm thanh được tấu lên, như một bản nhạc rộn rã cả khu vườn. Tiếng gió lao xao trong những vòm vải thiều lá xanh bóng, lúc lỉu trái chín đỏ tươi. Tiếng chim tu hú chốc chốc lại rộ lên, báo mùa vải chín. Sáo sậu, sáo đen từng bầy thoăn thoắt rượt đuổi theo nhau rồi chợt bay vút lên, chỉ còn là những chấm đen nhỏ xíu trên nền trời xanh biếc. Đàn cò nối đuôi nhau, nhịp nhàng sải đôi cánh rộng bay về phía cánh đồng ven đê, lặn lội kiếm ăn suốt ngày, đến tối mới lại trở về tổ ấm quen thuộc trên ngọn tre già. Ở góc vườn phía Nam, khung cảnh thoáng đãng hơn. Hàng trăm gốc nhãn lồng đang nở hoa. Hoa nhãn nhỏ li ti, màu vàng ngà, thơm ngào ngạt, quyến rũ bầy ong mật chăm chỉ siêng năng. Tiếng ong bay rù rì, từng đàn bướm lao xao, đôi cánh mỏng như lụa trắng. Không khí buổi sáng trong văn vắt, thơm ngát mùi hoa cỏ, mùi trái chín, mùi đất nồng nàn. Em ưỡn căng lồng ngực, hít thở hương vị quen thuộc của quê hương. Dưới gốc cau, mẹ con chị gà mái mơ đang quây quần rỉa lông, rỉa cánh. Mấy chú gà con tinh nghịch rúc vào nách mẹ, thò chiếc đầu nhỏ và đôi mắt tròn xoe ra ngoài, ngơ ngác nhìn đàn vịt trắng phau phau đang tung tăng bơi lội trên mặt ao bèo. Một chú bỗng chạy vụt ra xa, đuổi theo con dế trũi nhảy tưng tưng trên vệ cỏ. Gà mẹ vội vàng cất tiếng gọi con về, kẻo lại thành miếng mồi béo bở cho lão diều hâu độc ác vẫn lượn lờ quanh đấy. Buổi sáng trong khu vườn râm mát, long lanh những chấm nắng vàng lọt qua kẽ lá, em thấy thú vị lạ lùng! Em yêu từ gốc cây, ngọn cỏ, từ luống đất, lối đi… cho đến những sinh vật nhỏ bé quen thuộc như con ong, con bướm, những chú chim vành khuyên chuyên cần bắt sâu giữ cho vườn cây xanh tốt. Mùa nào thức nấy, khu vườn đem lại cho gia đình em một nguồn thu nhập không nhỏ. Điều đáng quý hơn cả là nó đã trở thành niềm tự hào của gia đình em, là thế giới thần tiên thu nhỏ đầy kỉ niệm vui buồn của tuổi thơ em.
Cảm nghĩ về khu vườn nhà em - mẫu 7
Có rất nhiều những khoảnh khắc đẹp trong cuộc sống để lại nhiều ấn tượng trong con người tôi. Mỗi ngày mới là một niềm vui bởi khi tôi thức dây cái mà tôi ấn tượng nhất đó là khu vườn trước nhà tôi vào những buổi sáng sớm. Vào mùa xuân khi cây cối đâm chồi nảy lộc, tất cả những mầm non của cây đều đâm chồi và tràn đầy sức sống, những cánh hoa đào nở rộ khi mới lập xuân, đỏ lòe cả một khu vườn nhà tôi, trong một khu vườn có rất nhiều những cây cối do bố mẹ tôi trồng từ cây cảnh đến rất nhiều những loài cây khác như cây ăn quả… Tràn đầy trên khu vườn trước nhà tôi, những đàn ong vào những buổi sáng sớm đã đua nhau đi hút mật hoa, rồi những cây xanh vẫn đang long lanh những giọt sương trên lá, cánh đào thì đua nhau để khoe sắc. Sáng sớm có lẽ là thời khắc mà tôi không thể quên được khi lúc đó không khí thật trong lành. Con người cũng bước vào một ngày mới với bao nhiêu sức sống và niềm vui, khoảnh khắc mỗi khi thức dậy cái đầu tiên mà ta nhìn thấy đó là khung cảnh lãng mạn của khu vườn cũng góp phần cho ta thêm sức sống. Khi bước chân ra ngoài không khí trong lành của cây cối xung quanh khiến cho tâm hồn con người thấy thoải mái và dễ chịu. Ánh mắt trìu mến khi ngắm những cành lộc non của những cây xanh trước nhà, đưa tay ra sờ những cành nụ non đó thấy thật mụ mẫm và căng tràn sức sống. Mùa xuân là mùa của cây cối đâm chồi nảy lộc, đây là mùa đầu tiên của một năm mới đã đến người người nhà nhà đều về và hưởng thụ những không khí ấm áp của gia đình, với những nồi bánh chưng xanh và những câu đố đầu xuân mới. Mỗi sáng khi thức dậy tôi thường ngắm những khung cảnh xung quanh cuộc sống của tôi. Tôi thấy yêu nó và những khung cảnh đó giúp cho tôi có thêm nghị lực để làm việc tốt hơn. Những cánh đào nở rộ, đóa hòe trước cửa nhà, cùng với những làn gió heo may đang bay phấp phới trước nhưng khung cảnh của tiết trời mùa xuân. Đó là những thời khắc mà tôi có thể thư giãn và cảm nhận được những điều tốt lành từ cuộc sống của mình. Cuộc sống không chỉ bộn bề với những công việc mà xung quanh nó vẫn tồn tại rất nhiều những cái hay và khiến cho tâm hồn con người xao xuyến. Những rặng cây hoa đổi màu trước cửa nhà vào buổi sáng sớm nó cáo màu trắng hồng, long lanh trước những giọt sương đêm. Những cánh hoa to, đang chen nhau đua sắc trước khu vườn. Những cây ăn quả, thì đang nảy những mầm xanh non để sắp cho ra những trái hoa quả mới, những cây cảnh phong phú trước nhà khiến tôi cảm thấy trong cuộc sống có khá nhiều điều thú vị. Mỗi khi cảm thấy áp lực, được ngắm nhìn khu vườn rồi cùng với những đàn ong đi kiếm mật vào buổi sáng sớm khiến tôi thấy thoải mái và có thêm sức sống nữa. Khi căng thẳng tôi thường so sánh mình như những mầm lộc non kia cũng đều phải nảy nở trường tồn cùng cuộc sống cho dù cuộc sống có muôn vàn những sóng gió, nhưng những cánh hoa, những cây xanh đó vẫn sinh sôi và phát triển. Điều đó khiến tôi cảm thấy mình cần có trách nhiệm hơn với cuộc sống của mình. Khu vườn vào buổi sáng sớm là thời khắc đẹp nhất của một ngày mới. Khi con người đang trang trải về một công việc trong ngày đó nhưng có những khoảnh khắc trong lành của khu vườn đã giúp cho con người thấy thư thái. Trong khu vườn không chỉ có không khí của thiên nhiên xung quanh mà còn có sự sống của những loài chim trên bầu trời trong xanh. Tôi rất thích khoảnh khắc của khu vườn vào buổi sáng sớm, đó là những khoảng không gian đẹp mà tôi từng có trong cuộc sống, mọi thứ xung quanh tôi giường như đang hòa vào thiên nhiên xung quanh cuộc sống của mình.
Cảm nghĩ về khu vườn nhà em - mẫu 8
Khu vườn - nơi có vô vàn những loài cây xanh tốt, những loài hoa rực rỡ đã trở thành một phần của tuổi thơ chúng ta. Khu vườn ban tặng cho ta biết bao món quà thú vị và bất ngờ từ thiên nhiên. Tự bao giờ, khu vườn đã gắn bó với ta như một người bạn gần gũi, một chốn bình yên để ta tìm về. Trong kí ức tuổi thơ, nếu như những đứa trẻ khác thích chơi đồ hàng, đánh đáo thì tôi thích nhất là được dành cả ngày ở ngoài vườn. Khu vườn nhà tôi tuy không rộng lắm nhưng cũng không kém phần xinh đẹp. Nó là một mảnh đất nhỏ được bao bọc ở hàng rào ở phía sau nhà. Nơi đây, mẹ tôi đã kì công chăm sóc, gieo trồng biết bao là loại cây, loại hoa khác nhau, vô cùng phong phú, đa dạng. Ở một góc của khu vườn là nơi trồng những loại cây ăn trái, cây nào cũng to lớn và xanh tốt. Cây mít cho quả xù xì nhưng múi thì ngọt lịm và tỏa hương thơm phức. Cây nhãn không chỉ cho bóng mát mà còn cho những chùm quả sai lúc lỉu. Quả nhãn bên ngoài có màu nâu, bên trong là lớp thịt màu trắng ngần, hương thơm dịu ngọt còn đọng lại nơi đầu lưỡi. Bên cạnh cây nhãn là cây bưởi với những chùm hoa trắng muốt, be bé xinh xinh tỏa hương thơm thoang thoảng nhưng làm mê đắm lòng người. Quả bưởi có vỏ màu vàng ươm, múi bưởi căng mọng, nhiều nước và mát lành. Cứ đến Trung thu là mẹ tôi dành riêng cho tôi một trái bưởi để đi phá cỗ cùng đám bạn. Những cây ổi thì thân thấp hơn. Mùa thu đến, hương ổi dịu dàng quyện lẫn vào trong gió. Quả ổi to bằng nắm tay, lúc lỉu ở trên cành. Tôi vô cùng thích thú mỗi khi được tự tay hái những trái ngọt trên cành. Ngay cạnh khu trồng những loài cây ăn quả là khu trồng rau. Luống rau muống được tưới nước thường xuyên nên xanh tươi mơn mởn. Những cây cải bắp cuộn tròn trông giống như chú lợn con đang say ngủ. Những quả bầu, quả bí thì vắt vẻo trên giàn. Ngoài ra, mẹ tôi còn trồng rất nhiều những loại rau thơm: nào húng, nào tía tô, mùi và thì là... Nơi tôi thích nhất ở khu vườn có lẽ là khu trồng hoa. Những bông hồng màu đỏ thắm thật xinh đẹp và kiều diễm. Những đóa cúc trắng tinh khôi thì lại dịu dàng và e ấp. Và bên cạnh là bông hoa loa kèn vươn cái cổ dài để đón lấy những tia nắng sớm mai. Ong bướm đến hút nhụy hoa làm rộn rã cả một góc vườn. Ngắm nhìn những đóa hoa xinh đẹp, trong tôi dâng lên một cảm xúc say mê đến lạ kì. Sáng nào cũng vậy, tôi đều dậy thật sớm để có thể hít thở không khí trong lành từ khu vườn. Cây cối được tưới đẫm sương đêm còn đang mơ màng trong giấc ngủ. Khi những tia nắng đầu tiên bắt đầu ló rạng, cả khu vườn như bừng tỉnh, tràn đầy sức sống và bừng sáng lạ kì. Hương của cỏ cây làm cho tâm hồn tôi dịu lại, trở nên nên thư thái và bình yên. Trên các cành cây, những chú chim đã hót vang bài hát quen thuộc chào ngày mới. Chả mấy chốc, khu vườn đã thật tưng bừng và rộn rã. Chiều buông xuống, ánh tà dương lại nhuộm đỏ cả khu vườn. Mọi sự vật dần trở trên im ắng và chuẩn bị chìm vào trạng thái nghỉ ngơi. Hàng ngày, tôi và mẹ đều dành thời gian để chăm sóc cho khu vườn. Mẹ bón phân cho cây, làm cỏ dại. Tôi thì tưới nước cho những cây hoa và bắt sâu cho những luống rau. Làm vườn vì thế đã trở thành niềm vui của tôi mỗi ngày, tôi được hòa mình vào với thiên nhiên, chìm vào trong màu xanh của cây lá. Khu vườn là một phần quan trọng trong cuộc sống của tôi, là những gì gần gũi và thân thương nhất. Tình yêu tôi dành cho khu vườn cũng chính là tình yêu đối với mẹ thiên nhiên xinh đẹp- người đã an ủi, vỗ về tâm hồn tôi trong suốt những năm tháng ấu thơ.
Cảm nghĩ về khu vườn nhà em - mẫu 9
Mỗi lần về quê chơi, em cảm thấy rất thích thú khi được thăm khu vườn của ông bà ngoại. Nơi đây là lưu lại rất nhiều kỉ niệm đẹp đẽ của em. Khu vườn không quá lớn nhưng có rất nhiều các loại cây. Khi ông mặt trời còn chưa ló rạng, tiếng chim đã rít khắp cả khu vườn. Em ra thăm vườn mà cảm thấy thật thích thú. Không khí trong vườn thật dễ chịu, mát mẻ. Từng cơn gió nhè nhẹ lướt qua. Những hạt sương lớn vẫn còn vương vấn trên khắp các cành cây. Khu vườn được trồng rất nhiều các loài hoa như: cúc vàng óng ả, hoa thược dược hồng rực rỡ, hoa đồng tiền đỏ tươi, hoa hồng ngát hương thơm… Muôn loài hoa thi nhau khoe sắc. Vườn hoa là nơi thu hút nhiều nhất chị ong, cô bướm đến vui đùa. Những cô ong, chị bướm đang vui đùa với những bộ cánh cũng rực rỡ không kém. Ngoài ra, còn có những loài cây ăn quả được ông ngoại chăm sóc rất cẩn thận. Cây hồng xiêm cao lớn nhất khu vườn đang vươn mình ra đón lấy ánh nắng mai để nuôi dưỡng những trái hồng đang trĩu nặng trên những cành cây. Cây ổi gần đó dường như sau một đêm đã trưởng thành hơn để có thể nâng niu được những trái ổi to lớn. Em rất yêu khu vườn nhà mình. Nơi đây đã đem đến cho em những kí ức vui vẻ và tuyệt vời. Em mong rằng khu vườn sẽ ngày càng tươi tốt, phát triển và đẹp đẽ hơn.
Cảm nghĩ về khu vườn nhà em - mẫu 10
Nhà bà ngoại của tôi nằm ở một vùng quê nên có một khu vườn rất rộng. Trong vườn trồng rất nhiều loại cây khác nhau. Mỗi kỳ nghỉ hè được về quê thăm bà, tôi lại cùng em trai ở trong vườn cây tới hàng giờ mà không chán. Điều khiến tôi thích thú nhất là được ngắm nhìn khu vườn . Không khí buổi sáng trong vườn cây vô cùng trong lành và mát mẻ. Khi ông mặt trời vừa ló rạng cũng là lúc mọi vật được bao trùm bởi ánh nắng ấm áp. Những hạt sương đọng trên lá cây cũng dần tan biến. Làn gió khẽ lướt qua khiến những cành lá rung rinh. Màu sắc nổi bật nhất trong khu vườn chính là màu xanh. Màu xanh của thảm cỏ. Màu xanh của lá cây. Màu xanh của những trái cây chưa chín. Màu xanh của thiên nhiên gợi ra một cảm giác thật tươi mới và mát mẻ. Trong vườn, những cây ăn quả đều có hình dáng cao, lớn. Các cành cây đều vươn lên rất cao để đón lấy ánh nắng. Những tán lá xum xuê tỏa bóng mát xuống cho khu vườn. Có nhiều cây đã bắt đầu ra quả nên gọi biết bao nhiêu là loài chim tìm đến kêu ríu rít khắp cả khu vườn. Nghe sao mà thật vui tai! Em trai tôi thường ở trong vườn hàng giờ để hái những quả chín hoặc chơi trò bắn chim. Nó bảo rằng khi được lạc trong một khu vườn rộng lớn như vậy. Nó cảm thấy mình giống như một cậu bé đang trên đường phiêu lưu đến một vùng đất mới vậy. Tôi thì không giống vậy. Ở trong khu vườn, tôi thích nhất là những khóm hoa. Tôi rất thích ngắm nhìn chúng vào mỗi buổi sớm. Khi những giọt sương vẫn còn đọng trên những cánh hoa. Chúng giống như những viên ngọc trong suốt tô điểm cho bông hoa thêm phần đẹp đẽ. Nào là những nàng hoa hồng nhung đầy kiêu sa. Nào là cô mười giờ chưa chịu thức giấc. Nào là chị cẩm tú cầu thật lộng lẫy… Tất cả các loài hoa đều thật rực rỡ trong ánh nắng ban mai. Ngắm nhìn các loài hoa thi nhau khoe sắc khiến tôi cảm thấy thư thái và dễ chịu vô cùng. Khắp khu vườn lúc này, đâu cũng là hương thơm của những loài hoa. Đối với tôi, khu vườn nhà bà ngoại đã chứa đựng rất nhiều kỉ niệm đẹp đẽ bên bà. Đó là những buổi sáng hai bà cháu cùng nhau tưới nước cho cây cối trong vườn. Đó là khi bà hái từng chùm quả ngọt cho hai chị em tôi thưởng thức. Đó là đêm hè lộng gió ngồi trước khu vườn nghe bà kể chuyện cổ tích. Những bữa cơm ngồi ngoài sân, mấy bà cháu vừa ăn vừa ngắm nhìn khu vườn lạ. Hôm nay, bà đã mãi mãi rời xa chị em tôi, những kỉ niệm thì vẫn còn đó. Mỗi lần về thăm quê, ngắm nhìn khu vườn, tôi lại thấy nhớ bà da diết. Tôi rất yêu thích khu vườn của bà ngoại. Nó đã chứa đựng thật nhiều kỉ niệm đẹp của tuổi thơ tôi. Cũng như là nơi ghi dấu những tình cảm dành cho bà - người tôi vô cùng kính yêu.
Cảm nghĩ về khu vườn nhà em - mẫu 11
Khu vườn - nơi những loài hoa nở rộ và thi nhau đua sắc nhưng đối với tôi, khu vườn không chỉ có thế, nó ẩn chứa ý nghĩa sâu sắc gắn liền với tuổi thơ tôi. Ngày bé, thứ mà trẻ con thích nhất là những món đồ chơi đủ màu sắc, kích cỡ. Nhưng thứ mà tôi thích thú nhất lại là khu vườn, một khu vườn nhỏ bé nhưng chứa bao nhiêu kỷ niệm về người mà tôi yêu quý nhất, bà nội tôi. Ai chả muốn có một khu vườn trong nhà, có những bông hoa rực rỡ, tôi cũng vậy từ ngày bé tôi luôn ước mong có một khu vườn nhỏ. Tôi yêu những loài hoa, tôi yêu cái cảm giác xung quanh mình là cây cỏ, là hương thơm. Khi bà nội tôi ở quê lên bà đã đem cho tôi nhiều cây hoa và đặt ở trước khoảng sân trước nhà. Từ khi ấy, tôi có một khu vườn như ước mơ. Thật hạnh phúc khi nhà mình có một khu vườn. Sáng sáng, mỗi khi thức dậy, tôi đều đứng ra cửa hít thở không khí trong lành và mùi thơm thoang thoảng từ những đóa hoa. Khung cảnh như một bức tranh thật đẹp, có màu sắc, có hương thơm và có cả âm thanh từ những tiếng chim hót ríu rít. Từ ngày bà nội lên, tôi rất vui vì bà đã đem lại cho tôi điều mà tôi mong từ lâu. Tôi yêu quý khu vườn không chỉ vì nó là ước mong của tôi mà đó cũng là món quà, là tấm lòng của bà cho tôi. Tôi chăm sóc từng cành cây, từng bông hoa thật chu đáo. Hàng ngày tôi và bà đều tưới nước, bắt sâu, bà còn tỉa nhiều cây thành hình con đại bàng, con nai.. Vì thế mà khu vườn càng thêm rực rỡ. Dưới ánh nắng vàng, khu vườn làm cả nhà tôi như sáng lên cùng cây cỏ. Cứ rảnh rỗi, bà lại kể cho tôi nghe về nguồn gốc của từng loại cây. Từ khi có khu vườn, tôi như thêm vui vẻ, nó như người bạn thân thiết của tôi, như chiếc cầu vô hình nối tình cảm của tôi bà càng thêm sâu đậm. Nhiều khi nằm một mình trong khu vườn nhỏ vuông vắn, tôi lại cảm thấy thỏa mái kỳ lạ, có chuyện gì vui hay buồn, tôi đều như có một người bạn ở bên cùng chia sẻ, cùng nói chuyện với tôi làm tôi bớt căng thẳng hay buồn bực. Bây giờ bà đã về nhưng thỉnh thoảng bà vẫn gửi cho tôi những cây hoa đẹp và dặn dò tôi chăm sóc chúng cẩn thận. Nhìn khu vườn, tôi lại nhớ đến bà, nó như thay bà nói chuyện, tâm tình cùng tôi. Giờ đây, từng chiếc lá, từng cánh hoa đều thật sự gắn bó với tôi, cứ như thế, nó như đã là một phần cuộc sống của tôi. Một khu vườn nhỏ bé nhưng ý nghĩa của nó lại thật sâu sắc. Những cành cây, bông hoa tưởng như một vật vô tri vô giác nhưng lại là một con người khích lệ tinh thần tôi mỗi khi gặp khó khăn. Mỗi bông hoa nở như một nụ cười trìu mến của bà với tôi làm trái tim tôi thêm một lần xao xuyến. Làm sao không yêu cho được một khu vườn như thế, một kỷ niệm thơ ấu còn mãi trong tôi.
Cảm nghĩ về khu vườn nhà em - mẫu 12
Quê em ở Lái Thiêu, Bình Dương - xứ sở của nhiều thứ trái cây ngon nổi tiếng như mít tố nữ, sầu riêng cơm vàng, chôm chôm tróc hạt, nhãn, bưởi, măng cụt, mãng cầu… Du khách chỉ cần một lần đặt chân đến đây là mãi mãi không thể nào quên cái cảm giác ngỡ ngàng, thú vị và sảng khoái khi được dạo chơi trong vườn cây sum suê, thưởng thức tại chỗ hương vị thơm ngon của trái chín đầu mùa. Vườn nhà em rộng hơn hai mẫu, được chia thành nhiều khu, mỗi khu trồng một loại cây. Mùa nào thức nấy, vườn cho thu hoạch quanh năm, đem đến nguồn lợi không nhỏ cho gia đình. Em thích nhất là những sớm mai được cùng ba ra thăm vườn. Sau cơn mưa đêm, lá cây xanh mướt, không khí trong veo, thơm nức hương hoa. Hoa nhãn màu vàng ngà, bao phủ khắp tàn cây, mùi thơm ngọt quyến rũ đàn ong mật siêng năng, cần mẫn. Từ trên cao, hoa xoài như những ngôi sao li ti rụng xuống tóc, xuống vai, hương thơm thoang thoảng. Hoa bưởi thơm ngát tỏa khắp khu vườn. Hè đến, trái chôm chôm chín rộ. Nhìn từ xa, góc vườn đỏ rực như một mâm xôi gấc khổng lồ. Những chùm quả nặng oằn được bẻ và xếp gọn vào trong sọt đan bằng tre, trên phủ lá tươi, chờ thương lái đến mua chở về thành phố. Trước Tết Trung Thu là mùa bưởi chín rộ. Bưởi hồng đào, bưởi Tân Triều, bưởi Năm Roi… thứ nào cũng đẹp, cũng ngon, trái treo lúc lỉu trĩu cành, nhìn không chán chở đi khắp nơi, đem vị ngọt, vị thanh của trái bưởi quê em đến với từng nhà, làm đẹp thêm mâm cỗ đón trăng thu. Năm gần tàn, sầu riêng mới trổ bông. Hoa sầu riêng kết thành từng chùm, màu tím nhạt, cánh nhỏ hình trái tim bao lấy nhụy, mùi thơm từa tựa hoa cau. Tháng tư, tháng năm âm lịch, sầu riêng chín rộ, hương thơm ngào ngạt theo gió bay xa. Nếm múi sầu riêng, ta sẽ thấy vị ngọt đậm đà, vị bùi bùi và béo ngậy như đọng mãi nơi đầu lưỡi. Miền Nam quả là một miền đất trù phú, mỡ màu. Thiên nhiên đã hào phóng ban tặng cho con người bao hoa thơm trái ngọt - tinh hoa của đất trời. Mỗi lần dạo bước dưới vòm xanh mênh mông, mát rượi và lảnh lót tiếng chim, tâm hồn em lại lâng lâng một niềm vui khó tả.
Cảm nghĩ về khu vườn nhà em - mẫu 13
Nhà tôi có một khu vườn không rộng lắm nhưng thật đẹp. Nơi đây đã lưu giữ rất nhiều kỉ niệm của gia đình tôi. Khu vườn này đã tổn tại từ rất lâu rồi. Khi tôi sinh ra nó đã có rồi. Cùng với sự lớn lên của mình, tôi đã chứng kiến những cây cam, cây chanh mà ông tôi trồng từ khi bố tôi còn nhỏ đơm hoa, kết trái. Lúc còn bé tí, tôi cứ thắc mắc không hiểu sao ông nội tôi có thể dành cả buổi để chăm sóc hoặc đơn giản chỉ để đi lại trong vườn. Bây giờ thì tôi đã hiểu bởi dạo trong vườn cũng đã trở thành một thói quen của tôi. Những bông hoa tỏa hương thơm mát như đang nói chuyện với nhau bằng mùi hương, gió mát. Màu đất như ngã từ màu cam sang màu nâu vậy. Tôi không hiểu tại sao mình lại có cảm giác thứ gì đó rất thân quen, rất gần gũi ở đây. Nó như gợi nhớ lại cho tôi cảnh người ông tháo vát đang cần cù tỉa tót từng cành cây, bắt từng con sâu để cho vườn lá xanh tốt. Vườn cây như luôn luôn mang đâu đó hình dáng người ông cần cù ngày nào. Khung cảnh như lấp đầy khoảng trống trong lòng mà thay vào đó những cảm xúc bồi hồi. Làm tan biến những mệt nhọc nơi công sở mà làm cho con người ta sảng khoái. Nó như tiếp cho ta sức mạnh thần kỳ vậy. Sự chăm chỉ của ông cũng được đền bù xứng đáng: ông đã hoàn thành được ước nguyện là làm cho con cháu của mình thêm yêu thiên nhiên, tâm hồn thêm trong sáng và hòa nhập hơn với thiên nhiên.
Cảm nghĩ về khu vườn nhà em - mẫu 14
Khu vườn của nhà em tuy không lớn, nhưng em rất yêu thích. Bởi nơi đây mang rất nhiều kỉ niệm của em về ông nội. Buổi sáng, không khí rất trong lành. Gió thoảng, khẽ lay động cành lá để lộ những giọt sương mai trắng muốt của một buổi sớm tinh khôi. Cả xóm làng bồng bềnh trong một biển sương sớm. Mặt trời bắt đầu thức giấc sau một đêm dài nghỉ ngơi. Trên trời, những đám mây đang nhè nhẹ trôi với các sắc màu kì ảo. Những cô cậu nắng tinh nghịch nhảy nhót trên những cành cây, tán lá. Trong vườn, các loài cây đều rất xanh tốt. Cây khế to lớn, những chùm quả nặng trĩu. Cây sung cạnh bờ ao không biết có tự bao giờ, khi tôi về quê thấy nó đã bị ngã gần sát mặt ao. Cây nhãn cao lớn đã mấy mùa ra quả ngọt thơm. Cuối vườn, những quả cam khoác chiếc áo vàng như mật, căng tròn, mọng nước. Mấy bé na mở mắt tròn xoe đã dậy từ khi nào. Khi ông nội còn sống, em hay cùng ông vào vườn cây. Em thường giúp ông tưới nước cho cây cối. Ông còn dạy em cách chăm sóc các loài cây. Lúc đó, em cảm thất thật phức tạp, không thể nhớ được hết. Bây giờ khi ông đã mất, mỗi lần vào khu vườn, em lại nhớ về ông nội. Khu vườn của nhà em thật đẹp đẽ biết bao. Em sẽ cố gắng chăm sóc để cây cối trong vườn sẽ luôn tươi tốt và phát triển.
Cảm nghĩ về khu vườn nhà em - mẫu 15
Ai cũng mơ ước có một nơi để nghỉ ngơi, thư giãn sau những giây phút căng thẳng trong cuộc sống. Nhà tôi có một nơi như vậy, đó chính là khu vườn nhỏ phía sau nhà. Khu vườn không to lắm và đã có từ rất lâu rồi. Tôi yêu cái vẻ rêu phong cổ kính lại xen lẫn với vẻ tươi sáng, trẻ trung bởi các loại cây tạo nên cho khu vườn. Khu vườn nhà tôi được bao bởi một hàng rào nhỏ thật xinh xắn mà cũng thật chắc chắn. Trong vườn, tôi trồng rất nhiều loài hoa và cây ăn quả. Rồi theo tháng năm, hoa hồng, hoa cúc, hoa lan thi màu nở rộ trong khu vườn bé nhỏ. Mỗi hoa, mỗi màu đã tạo nên một bức tranh đầy sức sống muôn màu. Nhưng lại không hề lòe loẹt, lộn xộn mà điểm xuyết nét hài hòa, thanh nhã của thiên nhiên làm cho tôi không thể không say mê và thán phục. Rồi đến các cây ăn quả, cây nào cũng cao, cũng to và tươi mát. Trừ những thân cây sần sùi, màu nâu tẻ nhạt và lạnh lẽo. Các cây khi đứng cạnh nhau lại tạo ra một sắc thái vô cùng thân thiện và trìu mến, lại thoáng chút yên tĩnh cho chúng ta cảm giác thật thoải mái và gần gũi với thiên nhiên. Những vòm cây xanh mướt sẽ là những chiếc lá chắn tuyệt vời, che chở cho chúng ta khỏi những giây phút căng thẳng ngoài cuộc sống. Tôi yêu sao cái vẻ đẹp muôn hình, muôn vẻ đó. Buổi sáng, khi ánh bình minh lên, khu vườn toát lên một vẻ trẻ trung, tươi mát với những trái cam, trái táo mọng và đầy sức sống. Và khi buổi chiều xuống, cái màu xanh của lá hơi rũ xuống như an ủi, vỗ về cho tôi khỏi buồn nhớ. Vào buổi tối, khu vườn trầm xuống, hòa nhập với vẻ thanh tĩnh bên ngoài. Tôi còn nhớ mãi, ngày xưa, khu vườn này khô cằn, chỉ có một vài đốm hoa nhưng sau bao nỗ lực chăm sóc của ông cháu tôi nó đã trở thành một khu vườn vừa đẹp, vừa tươi sáng, vừa hữu ích. Khu vườn là nơi mà tôi đã được rèn luyện tính chịu khó, yêu thiên nhiên và cũng là nơi mà tôi nghỉ ngơi, thư giãn, là nơi mà tâm hồn tôi được nuôi dưỡng. Nhờ tình yêu tràn đầy với khu vườn mà tôi đã coi khu vườn là một phần của cuộc sống. Mất khu vườn là tôi mất hết lý trí. Khu vườn đối với tôi là những gì thân thương nhất, gần gũi là nơi tôi không thể quên. Làm sao không yêu được một khu vườn như thế.
Cảm nghĩ về khu vườn nhà em - mẫu 16
Tôi sinh ra ở nông thôn nên vì thế mảnh vườn nhà đã trở thành một nơi quen thuộc. Ở nơi ấy, tôi đã lớn lên bằng những trái ngọt đầu tiên. Và cũng ở nơi ấy, tâm hồn tôi trở nên sinh động bởi hương hoa và tiếng chim ca hát suốt ngày. Ngay trước sân nhà tôi là một khoảng vườn khá rộng. Mảnh vườn được ngăn cách với sân bằng một bờ tường màu vôi trắng. Khu vườn đã có từ lâu, từ lúc tôi chưa kịp chào đời. Nó là một kỉ niệm của nội tôi khi ông còn sống. Vì thế mỗi lần đặt đôi bàn chân nhỏ xíu lên khu đất của mảnh vườn, lòng tôi bao giờ cũng dấy lên một nỗi niềm nhớ thương thành kính. Mảnh vườn chủ yếu trồng cây ăn quả. Nhiều loại ngon và quý như nhãn, vải thiều, bưởi… Những giống hoa quả ấy không phải tầm thường vì nó đã được ông nội tôi lặn lội đem về từ những miền đất khác nhau. Có loài, nội tôi phải trồng đi trồng lại đến mấy lần mới sống được. Bởi cây được đưa đến từ xa lại thêm lạ đất, lạ mùa nên khó sống. Tôi thêm yêu quý mảnh vườn cũng vì lẽ đó. Bởi mảnh vườn là mồ hôi công sức bao ngày hết lòng chăm bón của nội tôi. Có lần tôi hỏi: Sao nội lại chọn trồng nhiều cây ăn quả. Nội tôi giảng giải: Cây cũng như người cháu ạ! Điều quý nhất là phải đơm hoa kết trái, vừa làm đẹp lại phải vừa mang lại lợi ích cho đời. Khi nào lớn, cháu sẽ hiểu hơn chân lý ấy. Quà thật lúc ấy tôi còn quá nhỏ để hiểu những lời dạy của nội tôi. Lúc ấy tôi chỉ mong mình lớn thật mau để lại được nghe và được hiểu những lời nội dạy. Vậy mà chỉ sau hai mùa trái ngọt đầu tiên, nội đã mãi mãi ra đi. Thế là những bài học kia, tôi mãi phải tự tìm chân lý cho những thắc mắc của mình. Giờ đây mảnh vườn đã xum xuê và ngọt ngào hoa trái. Chẳng phải tìm kiếm đâu xa, chỉ cần nhìn vào một góc của mảnh vườn, tôi đã hiểu thấu lời nội năm xưa. Mỗi sáng khi ông mặt trời thức dậy, tôi lại thấy ông tưới tắm mảnh vườn. Tôi biết ơn mảnh vườn nhiều lắm bởi hình như chính những hôm như vậy, tôi thấy thật khoan khoái trong lòng. Được chăm bón cho cây, được thưởng thức những bông hoa nở sớm, lại được nghe tiếng những đàn chim rối rít giỡn đùa nhau. Ôi! Cái cảm giác ấy thật thú vị biết nhường nào. Hôm nào cũng vậy, tưới cây xong tôi mới vào ăn cơm rồi đi học. Tôi thấy thật vui và bố tôi cũng nói: “Việc làm của con tuy nhỏ nhưng nếu con duy trì được, nó sẽ mang lại hữu ích lâu dài”. Tôi mừng rỡ và phấn chấn bước vào một ngày học mới. Cách đây vài năm, vào ngày giỗ ông tôi, bố tôi quyết định trồng thêm hai luống hoa nho nhỏ trong vườn. Chỉ mấy tháng sau, những bông hoa đua nhau nở. Bao nhiêu năm ăn trái ngọt, giờ đây tôi lại càng vui vì ngày nào cũng được say ngắm và thưởng thức hoa thơm. Mảnh vườn thêm một lần nữa lại mang đến một ý nghĩa khác cho tôi và lại dạy tôi thêm một chân lý mới. Tôi sống gắn bó với vườn nhà và không biết sẽ ra sao nếu phải rời xa mảnh vườn thân yêu ấy. Mảnh vườn cũng như nội hay như tất cả những người thân quý của tôi. Nó luôn cống hiến rất âm thầm và chung thủy. Tôi yêu nó và vì thế tôi cũng khát khao làm được nhiều việc có ích cho đời, nhiều việc có ích với những ngày vất vả của nội và của bố mẹ tôi.
Cảm nghĩ về khu vườn nhà em - mẫu 17
Khu vườn nhà em rộng hơn ba mẫu đất, nằm sát bìa làng Tạ Thượng, cách đường 5 chỉ vài trăm mét. Bố em bảo rằng cách đây gần nửa thế kỉ, cụ nội đã đến lập nghiệp ở đây. Bao bọc quanh vườn là lũy tre gai dày đặc, thân mốc thếch màu rêu, cành dài đầy gai nhọn đan xen vào nhau, tạo nên bức tường thành vững chắc. Sáng sớm mùa hè, đủ loại âm thanh được tấu lên, như một bản nhạc rộn rã cả khu vườn. Tiếng gió lao xao trong những vòm vải thiều lá xanh bóng, lúc lỉu trái chín đỏ tươi. Tiếng chim tu hú chốc chốc lại rộ lên, báo mùa vải chín. Sáo sậu, sáo đen từng bầy thoăn thoắt rượt đuổi theo nhau rồi chợt bay vút lên, chỉ còn là những chấm đen nhỏ xíu trên nền trời xanh biếc. Đàn cò nối đuôi nhau, nhịp nhàng sải đôi cánh rộng bay về phía cánh đồng ven đê, lặn lội kiếm ăn suốt ngày, đến tối mới lại trở về tổ ấm quen thuộc trên ngọn tre già. Ở góc vườn phía Nam, khung cảnh thoáng đãng hơn. Hàng trăm gốc nhãn lồng đang nở hoa. Hoa nhãn nhỏ li ti, màu vàng ngà, thơm ngào ngạt, quyến rũ bầy ong mật chăm chỉ siêng năng. Tiếng ong bay rù rì, từng đàn bướm lao xao, đôi cánh mỏng như lụa trắng. Không khí buổi sáng trong văn vắt, thơm ngát mùi hoa cỏ, mùi trái chín, mùi đất nồng nàn. Em ưỡn căng lồng ngực, hít thở hương vị quen thuộc của quê hương. Dưới gốc cau, mẹ con chị gà mái mơ đang quây quần rỉa lông, rỉa cánh. Mấy chú gà con tinh nghịch rúc vào nách mẹ, thò chiếc đầu nhỏ và đôi mắt tròn xoe ra ngoài, ngơ ngác nhìn đàn vịt trắng phau phau đang tung tăng bơi lội trên mặt ao bèo. Một chú bỗng chạy vụt ra xa, đuổi theo con dế trũi nhảy tưng tưng trên vệ cỏ. Gà mẹ vội vàng cất tiếng gọi con về, kẻo lại thành miếng mồi béo bở cho lão diều hâu độc ác vẫn lượn lờ quanh đấy. Buổi sáng trong khu vườn râm mát, long lanh những chấm nắng vàng lọc qua kẽ lá, em thấy thú vị lạ lùng! Em yêu từ gốc cây, ngọn cỏ, từ luống đất, lối đi… cho đến những sinh vật nhỏ bé quen thuộc như con ong, con bướm, những chú chim vành khuyên chuyên cần bắt sâu giữ cho vườn cây xanh tốt. Mùa nào thức nấy, khu vườn đem lại cho gia đình em một nguồn thu nhập không nhỏ. Điều đáng quý hơn cả là nó đã trở thành niềm tự hào của gia đình em, là thế giới thần tiên thu nhỏ đầy kỉ niệm vui buồn của tuổi thơ em.
Cảm nghĩ về khu vườn nhà em - mẫu 18
Khu vườn – nơi những loài hoa nở rộ và thi nhau đua sắc nhưng đối với tôi, khu vườn không chỉ có thế, nó ẩn chứa ý nghĩa sâu sắc gắn liền với tuổi thơ tôi. Ngày bé, thứ mà trẻ con thích nhất là những món đồ chơi đủ màu sắc, kích cỡ nhưng thứ mà tôi thích thú nhất lại là khu vườn, một khu vườn nhỏ bé nhưng chứa bao nhiêu kỷ niệm về người mà tôi yêu quý nhất, bà nội tôi. Ai chả muốn có một khu vườn trong nhà, có những bông hoa rực rỡ, tôi cũng vây từ ngày bé tôi luôn ước mong có một thu vườn nhỏ. Tôi yêu những loài hoa, tôi yêu cái cảm giác xung quanh mình là cây cỏ, là hương thơm. Khi bà nội tôi ở quê lên bà đã đem cho tôi nhiều cây hoa và đặt ở trước khoảng sân trước nhà. Từ khi ấy, tôi có một khu vườn như ước mơ. Thât hạnh phúc khi nhà mình có một khu vườn. Sáng sáng, mỗi khi thức dậy, tôi đều đứng ra cửa hít thở không khí trong lành và mùi thơm thoang thoảng từ những đóa hoa. Khung cảnh như một bức tranh thật đẹp, có màu sắc, có hương thơm và có cả âm thanh từ những tiếng chim hót ríu rít. Từ ngày bà nội lên, tôi rất vui vì bà đã đem lại cho tôi điều mà tôi mong từ lâu. Tôi yêu quý khu vườn không chỉ vì nó là ước mong của tôi mà đó cũng là món quà, là tấm lòng của bà cho tôi. Tôi chăm sóc từng cành cây, từng bông hoa thật chu đáo, hàng ngày tôi và bà đều tưới nước, bắt sâu, bà còn tỉa nhiều cây thành hình con đại bàng, con nai.. Vì thế mà khu vườn càng thêm rực rỡ. Dưới ánh nắng vàng, khu vườn làm cả nhà tôi như sáng lên cùng cây cỏ. Cứ rảnh rỗi, bà lại kể cho tôi nghe về nguồn gốc của từng loại cây. Từ khi có khu vườn, tôi như thêm vui vẻ, nó như người bạn thân thiết của tôi, như chiếc cầu vô hình nối tình cảm của tôi bà càng thêm sâu đậm. Nhiều khi nằm một mình trong khu vườn nhỏ vuông vắn, tôi lại cảm thấy thỏa mái kỳ lạ, có chuyện gì vui hay buồn, tôi đều như có một người bạn ở bên cùng chia sẻ, cùng nói chuyện với tôi làm tôi bớt căng thẳng hay buồn bực. Bây giờ bà đã về nhưng thỉnh thoảng bà vẫn gửi cho tôi những cây hoa đẹp và dặn dò tôi chăm sóc chúng cẩn thận. Nhìn khu vườn, tôi lại nhớ đến bà, nó như thay bà nói chuyện, tâm tình cùng tôi. Giờ đây, từng chiếc lá, từng cánh hoa đều thật sự gắn bó với tôi, cứ như thế, nó như đã là một phần cuộc sống của tôi. Một khu vườn nhỏ bé nhưng ý nghĩa của nó lại thật sâu sắc. Những cành cây, bông hoa tưởng như một vật vô tri vô giác nhưng lại là một con người khích lệ tinh thần tôi mỗi khi gặp khó khăn. Mỗi bông hoa nở như một nụ cười trìu mến của bà với tôi làm trái tim tôi thêm một lần xao xuyến. Làm sao không yêu cho được một khu vườn như thế, một kỷ niệm thơ ấu còn mãi trong tôi.
Cảm nghĩ về khu vườn nhà em - mẫu 19
Tôi vẫn nhớ như in cái thuở ấu thơ, khi đó tôi chỉ là con bé 5-7 tuổi được về quê ở với bà ngoại. Nhà bà ngoại rất nhiều cây ăn quả. Nào là na, nào là bưởi, nào là cam, là vải thiều. Vườn cây của bà có một cây khế chua, một cây chay, cây sung gần cầu ao nữa. Bên bờ ao có mấy khóm chanh, khóm ớt. Mỗi mùa hoa chanh nở, cứ ra đến gần bờ ao là một mùi hương tỏa ra thơm ngát, mấy con chuồn chuồn kim, chuồn chuồn ớt bay dập dờn chao lên, lượn xuống, rồi khẽ khàng đậu trên cành hoa, chúng như đang ngắm nhìn màu hoa trắng tinh khiết, chũng như cảm nhận được mùi hương thơm của hoa chanh. Có những hôm mải chạy theo con chuồn chuồn ớt mà tôi bị trượt chân ngã xuống ao. Cũng may cho tôi khi đó bà tôi đang phơi rơm rạ gần đó nhìn thấy tôi đang chới với, bà đưa cái chạc gẩy rơm xuống bào tôi nắm vào bà kéo lên, thế là thoát chết trong gang tấc. Một kỉ niệm tôi cứ nhớ mãi. Trong vườn cây của bà, mỗi loại cây đều có những kỉ niệm gắn bó với tuổi thơ tôi. Cây khế chua của bà hồi đó là nơi các chị con nhà bác tôi hay trèo lên hái quả, mỗi lần các chị đến chơi lại hái khế xuống chấm muối ớt ăn, cắn miếng khế chua chua mà tôi nhắm mắt nhăm mũi lại mà nhai mà nuốt, nhưng cái vị chua chua ấy làm mấy chị em thôi thèm, ăn thì không được nhiều, nhưng cứ nhìn thấy lại muốn vặt quả xuống để ăn. mấy chị hàng xóm sang nhà bà tôi chơi, một chị leo lên cây vặt quả, một chị ngửa nón ra hứng, chỉ một lúc là được lưng nón. Các chị nghĩ ra cái trò khế chua chấm mắm tôm, thế là hũ mắm tôm của bà được lấy ra để pha vơi ớt đỏ chấm khế chua. Còn cây chay gần bờ ao cũng vậy, quả chay xanh thì chua, nhưng cái chua dìu dịu không gắt như khế. Quả chay chín màu vàng ở ngoài, bên trong màu đỏ, ăn rất ngọt, bà tôi hay hái quả chay đem kho cá, ăn món cá kho với quả chay rất hao cơm, ăn một bát lại muốn ăn hai, vị chua chua ngòn ngọt của chay, vị beo béo bùi bùi của hạt chay quện với mùi thơm ngầy ngậy của món cá kho làm nước miếng tối cứ tứa ra khi nồi cá kho được bưng lên mâm. Cây sung cạnh bờ ao nhà bà không biết có tự bao giờ, khi tôi về quê thấy nó đã bị ngã gần sát mặt ao, bọn trẻ chúng tôi vẫn hay vặt quả sung cho vào miệng nhai rôm rốp, ăn sung có vị chan chát cũng hay, bây giờ ở hà Nội lá và quả sung cũng được đưa vào các bữa tiệc thịnh soạn đấy các bạn à. Cây sung bị ngả xuống mặt ao như thế là nôi bọn trẻ chúng tôi hay trèo lên đó ngồi chơi thả hai chân khỏa nước rất thú vị. Có hôm mải chơi thế là lăn tòm xuống ao, ướt như chuột, cả lũ bị trận đòn sưng đít vì trò nghịch dại. Mấy cây vải thiều khi mùa quả chín, bọn trẻ chúng tôi suốt ngày quanh quẩn dưới gốc cây để kều, chọc vải ăn, quả vải chín cùi dầy, ngọt lịm và rất ngon, chúng tôi ăn no đến mức không ăn được cơm. Bà ngoại bảo ăn nhiều nóng, nhưng bọn trẻ chúng tôi cứ ăn no nê thỏa thích, chả biết sợ nóng thế nào. Mấy hôm sau rôm nó mọc đỏ lưng cả mặt mũi, lúc đó mới thấy ngứa, gãi chảy cả máu ra, bà mới nói cho biết không nghe lời bà nên giờ ngứa cố mà chịu, cấm được kêu. Bây giờ nhớ lại thấy kỉ niệm thời thơ ấu như đang còn hiển hiện ra trước mắt tôi. Nhanh thật, thế mà đã hơn bốn mươi lăm năm rồi. Đã có lời giải bài tập lớp 7 sách mới: Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85 4.5 (243) 799,000đs 199,000 VNĐ 4.5 (243) 799,000đ 99,000 VNĐ 4.5 (243) 999,000đ 299.000 - 599.000 VNĐ Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube: Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 7 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 7 và Những bài văn hay đạt điểm cao lớp 7. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 7 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 7 và Những bài văn hay đạt điểm cao lớp 7. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Trang web chia sẻ nội dung miễn phí dành cho người Việt. Lớp 1-2-3 Lớp 4 Lớp 5 Lớp 6 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 9 Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Lập trình Tiếng Anh Chính sách bảo mật Hình thức thanh toán Chính sách đổi trả khóa học Chính sách hủy khóa học Tuyển dụng Tầng 2, số nhà 541 Vũ Tông Phan, Phường Khương Đình, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, Việt Nam Phone: 084 283 45 85 Email: vietjackteam@gmail.com CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội. 2015 © All Rights Reserved.
Dàn ý Phân tích bài thơ Tiếng gà trưa
I. Mở bài Giới thiệu khái quát về nhà thơ Xuân Quỳnh, bài thơ “Tiếng gà trưa”. II. Thân bài 1. Những rung cảm ban đầu của cháu khi nghe tiếng gà trưa - Hoàn cảnh: Người cháu đang trên đường hành quân, nhìn thấy xóm làng liền ghé vào nghỉ ngơi. - Âm thanh: tiếng gà “cục tác cục ta”. - Tâm trạng: điệp từ “nghe” kết hợp với ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “xao động nắng trưa”, “bàn chân đã mỏi”, “trở về tuổi thơ. => Tiếng gà trưa trở thành âm thanh gọi về những kỉ niệm tuổi thơ. 2. Tiếng gà trưa gợi về những kỉ niệm tuổi thơ - Kỉ niệm tuổi thơ bên người bà lần lượt hiện ra qua dòng hồi tưởng của người cháu: - Hình ảnh: con gà mái mơ - mình hoa đốm trắng, con gà mái vàng - lông óng như màu nắng. Đó là hình ảnh thân thuộc, gần gũi với nông thôn. - Kỉ niệm: người cháu tò mò xem gà đẻ trứng, bị bà mắng “Gà đẻ mà mày nhìn/Rồi sau này lang mặt” khiến đứa cháu lo lắng. Đó là những nỗi lo âu hồn nhiên rất con trẻ. - Hình ảnh: =>Thể hiện tình cảm của bà dành cho đứa cháu đầy yêu thương, lo lắng. 3. Những suy tư của người cháu từ tiếng gà trưa - Ý nghĩa của tiếng gà trưa: mang bao nhiêu hạnh phúc, kỉ niệm về người bà. - Nghệ thuật điệp từ “vì”: => Mục đích chiến đấu cao cả, thiêng liêng. III. Kết bài Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Tiếng gà trưa.
Phân tích bài thơ Tiếng gà trưa - mẫu 1
Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh được sáng tác vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ viết về những kỉ niệm tuổi thơ thân thương gắn với người bà mà tác giả vô cùng yêu quý. Tiếng gà trưa không chỉ gọi về tuổi thơ mà còn làm bừng sáng cả hiện tại và tương lai bởi tình yêu tha thiết với quê hương, đất nước. Cũng như nhiều tác phẩm đã được viết vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mĩ, bài thơ này cũng hướng vào chủ đề chung của văn học thời kì này: lòng yêu nước và cổ vũ tinh thần chiến đấu của nhân dân ta. Vì thế, tác phẩm có nhiều kỉ niệm riêng của nhà thơ nhưng hình tượng nhân vật trung tâm lại là người chiến sĩ đang trên đường hành quân ra tiền tuyến. Cái tôi riêng của người nghệ sĩ hòa cùng cái ta chung của cả thế hệ, cả dân tộc một cách tự nhiên, vừa gần gũi, vừa cao cả, thiêng liêng, lay động lòng người. Cảm hứng của tác giả được khơi gợi từ việc nghe thấy tiếng gà nhảy ổ khi dừng chân bên xóm nhỏ trên con đường hành quân ra trận. Tất cả được gọi về từ một âm thanh quen thuộc, bình thường – tiếng gà mái cục tác trong buổi trưa. Tiếng gà đã gợi lại trong tâm trí của người chiến sĩ những hình ảnh và kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ: Tiếng gà trưa gắn liền với những con gà mái mơ, gà mái vàng của tuổi thơ ấu. Tiếng gà trưa gắn liền với người bà rất mực yêu thương và chăm lo cho cháu. Tiếng gà gắn với mơ ước bé nhỏ có được một bộ quần áo mới để đón tết từ tiền bán gà. Tiếng gà trưa cùng với người chiến sĩ hành quân vào cuộc chiến, khắc sâu thêm tình cảm tha thiết dành cho quê hương đất nước. Xóm nhỏ là xóm nhỏ nào trên chặng đường hành quân không mệt mỏi, người đọc không biết và tác giả cũng không nói rõ. Chỉ có tiếng gà là rất thực, rất đời, rất thân thương và gần gũi, khiến cho người chiến sĩ ấy xiết bao xúc động. Tiếp sau đó điệp từ “nghe” nối tiếp nhau, được nhắc lại ba lần như những dư ba kì diệu của tiếng gà. Tiếng gà làm xao động, làm dịu bớt đi cái oi ả buổi ban trưa, xua tan nỗi mệt mỏi bước chân người chiến sĩ và đánh thức những kỉ niệm ngọt ngào thời thơ ấu, đưa các anh sống lại những năm tháng tươi đẹp, hồn nhiên nhất của cuộc đời. Đoạn đầu mở ra không khí rất đỗi thanh bình, trái ngược hẳn với những đau thương mất mát mà hàng ngày, hàng giờ những người lính phải đối mặt, đương đầu. Sau tiếng gà nhảy ổ ở hiện tại, sang khổ 2,3,4 đã gọi về những kỉ niệm ngọt ngào của tuổi thơ. Ba khổ thơ, cùng điệp từ Tiếng gà trưa, khiến những kỉ niệm thân thương và đẹp đẽ cứ thế ùa về. Qua các câu thơ chúng ta như được cùng người chiến sĩ ấy sống những ngày tháng êm đềm trong tình yêu thương của bà. Tuổi thơ ấy được dệt lên bởi những kỉ niệm về những chị gà mái mơ, gà mái vàng, về chuyện nhìn gà đẻ bị bà mắng yêu, về hình ảnh bà khum soi trứng, về tấm lòng chắt chiu, âu yếm của bà và nỗi khao khát có được quần áo mới. Càng đọc, những rung động tha thiết về tuổi thơ trong trẻo càng dâng lên tha thiết. Qua những dòng thơ êm nhẹ, thánh thót như những nốt nhạc trong veo, hình ảnh người bà hiện lên thật đẹp đẽ, hiền từ như một bà tiên. Bà đã dành tất cả sức lực và tình yêu cho đứa cháu nhỏ, đã tần tảo, chắt chiu, chăm sóc, nâng đỡ từng quả trứng, từng chú gà con như nâng đỡ hạnh phúc, mơ ước nhỏ bé và giản dị của đứa cháu thơ dại. Hình ảnh đứa bé xúng xính, sột soạt trong bộ quần áo mới nghe sao mà cảm động đến nao lòng. Đấy đâu chỉ là một bộ quần áo mới biết kêu sột soạt mà còn là nỗi sung sướng và cảm động của đứa cháu, mà còn là niềm hạnh phúc, là tấm lòng chan chứa yêu thương của bà dành cho cháu. Sau tiếng gà trưa lần thứ 4, người lính hướng hẳn vào trong tâm tưởng để giãi bày lòng mình. Bằng cách biểu đạt này, nhà thơ vừa bày tỏ được nỗi nhớ da diết về người bà ở phương xa, vừa bộc lộ được nhận thức của mình về trách nhiệm của người cầm súng. Xuân Quỳnh đã sử dụng thể thơ ngũ ngôn với sự sáng tạo linh hoạt. Điệp ngữ: tiếng gà trưa, nghe: kết nối các phần của bài thơ và điểm nhịp cho từng cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ tình. Ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng. Lời thơ vô cùng xúc động. Tiếng gà trưa trở thành tiếng nói của quê hương, của những người ruột thịt, của cả dân tộc và đất nước lúc bấy giờ, giục giã người cầm súng. Từ những kỉ niệm tuổi thơ thấm đẫm tình bà cháu, cảm hứng của bài thơ đã được mở rộng, hướng tới tình yêu đất nước, nhắc nhở những người chiến sĩ cầm chắc tay súng tiến lên chống kẻ thù xâm lược bảo vệ sự bình yên cho gia đình, cho quê hương đất nước, cho những kỉ niệm đẹp đẽ, trong sáng của tuổi thơ.
Phân tích bài thơ Tiếng gà trưa - mẫu 2
Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Thơ của chị thường viết về những tình cảm đời thường. Bài thơ “Tiếng gà trưa” là một trong số đó. Tiếng gà trưa vốn là âm thanh quen thuộc, bình dị ở mỗi làng quê Việt Nam. Trong khổ thơ mở đầu, tác giả đã khắc họa rõ nét, chân thực và sâu sắc âm thanh của tiếng gà trưa trên đường hành quân: “Trên đường hành quân xaDừng chân bên xóm nhỏ” Trên chặng đường dài hành quân xa xôi, người chiến sĩ dừng chân bên xóm nhỏ và nghe thấy âm thanh của tiếng gà trưa “Cục... cục tác... cục ta”. Tiếng gà đã gợi nhớ về thật nhiều kỉ niệm: “Nghe xao động nắng trưaNghe bàn chân đỡ mỏiNghe gọi về tuổi thơ” Từ “nghe” được lặp lại nhiều lần đã làm bật lên niềm xúc động, bồi hồi của nhân vật trữ tình lúc nghe thấy những âm thanh của tiếng gà trưa. Âm thanh đó đã làm vơi đi cái nắng, vất vả trên bước đường hành quân để rồi thay vào đấy là những kỉ niệm của tuổi thơ cứ thế gọi nhau ùa về. Đó là những năm tháng tuổi thơ sống bên người bà. Trong những câu thơ tiếp theo, người chiến sĩ đã hồi tưởng lại những kỉ niệm đó: “Tiếng gà trưaỔ rơm hồng những trứngNày con gà mái mơKhắp mình hoa đốm trắngNày con gà mái vàngLông óng như màu nắng Tiếng gà trưaCó tiếng bà vẫn mắng- Gà đẻ mà mày nhìnRồi sau này lang mặt!Cháu về lấy gương soiLòng dại thơ lo lắng” Tuổi thơ sống bên bà tuy gian khó, nhưng lại vô cùng hạnh phúc. Người chiến sĩ nhớ về hình ảnh của những ổ rơm hồng đầy trứng, hình ảnh của gà mái mơ, gà mái vàng với những màu sắc rất riêng, độc đáo. Đặc biệt nhất là kỉ niệm xem trộm gà để trứng bị bà mắng. Lời mắng yêu của người bà, sự ngây thơ của đứa cháu cho thấy tình bà cháu tha thiết, sâu nặng. Điều đáng nhớ, đáng trân trọng nhất trong những năm tháng tuổi thơ của cháu đó chính là hình ảnh người bà tảo tần, vất vả nhưng đầy tình yêu thương, sự quan tâm, che chở, chăm sóc cháu: “Tiếng gà trưaTay bà khum soi trứngDành từng quả chắt chiuCho con gà mái ấp” Trong kí ức của cháu, hình ảnh đôi bàn tay bà chắt chiu từng quả trứng cho gà ấp thật đẹp đẽ. Đôi bàn tay cả một đời lao động vất vả vì cháu. “Cứ hàng năm hàng nămKhi gió mùa đông tớiBà lo đàn gà toiMong trời đừng sương muốiĐể cuối năm bán gàCháu được quần áo mới” Bà lo lắng mỗi khi đông đến, trời làm sương muối khiến đàn gà đổ bệnh. Bởi vậy bà mong sao cho mưa thuận gió hòa, thời tiết thuận lợi để đàn gà có thể lớn lên khỏe mạnh, cuối năm bà có thể bán chúng đi để mua cho cháu một bộ quần áo mới để đón Tết. Đến hai khổ thơ tiếng gà trưa đã gợi lên trong suy nghĩ của cháu những suy tư về hạnh phúc: “Tiếng gà trưaMang bao nhiêu hạnh phúcĐêm cháu về nằm mơGiấc ngủ hồng sắc trứng” Với người cháu, hạnh phúc không ở đâu xa xôi mà nó hiện hữu ngay ở những điều bình dị, giản đơn nhất trong cuộc sống đời thường. Không chỉ suy tư về hạnh phúc, người cháu còn suy tư về hiện tại, về mục đích chiến đấu của mình: “Cháu chiến đấu hôm nayVì lòng yêu Tổ quốcVì xóm làng thân thuộcBà ơi, cũng vì bàVì tiếng gà cục tácỔ trứng hồng tuổi thơ” Xuân Quỳnh đã sử dụng biện pháp tu từ “vì” để nhấn mạnh vào mục đích chiến đấu. Khi trưởng thành, cháu tham gia chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Trước hết đó là vì lòng yêu đất nước - “vì lòng yêu Tổ quốc”, sau đó là vì tình yêu quê hương - “yêu xóm làng thân thuộc”. Và hơn hết đó còn là vì bà - “Bà ơi, cũng vì bà”. Tiếng gọi “Bà ơi” vang lên thật trìu mến, yêu thương. Cháu chiến đấu cũng vì mong muốn có thể đem lại cuộc sống hòa bình cho bà . Tiếng gà trưa đã khơi gợi những kỉ niệm tuổi thơ và tình cảm bà cháu. Tình cảm gia đình đã làm cho tình cảm yêu nước trở nên sâu sắc.
Phân tích bài thơ Tiếng gà trưa - mẫu 3
Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ xuất sắc, trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn với những tình cảm ấm áp, bình dị, đời thường. Và có thể nói bài thơ "Tiếng gà trưa", tác phẩm ra đời vào những năm đầu của cuộc kháng chiến là một trong số những sáng tác tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Quỳnh. Âm thanh tiếng gà trưa là âm thanh bình dị, gần gũi với những người dân quê Việt Nam, Nó chất chứa bao ý nghĩa, tình cảm và với người chiến sĩ trong bài thơ “Tiếng gà trưa” cũng vậy. Khổ thơ mở đầu bài thơ đã khắc họa rõ nét, chân thực và sâu sắc âm thanh của tiếng gà trưa trên đường hành quân. “Trên đường hành quân xaDừng chân bên xóm nhỏ” Hai câu thơ mở đầu bài thơ đã gợi ra hoàn cảnh xuất hiện của âm thanh tiếng gà. Đó là thời gian dừng chân bên một xóm nhỏ trên chặng đường dài hành quân và để rồi trong chính hoàn cảnh ấy, người chiến sĩ đã nghe thấy âm thanh của tiếng gà trưa “Cục... cục tác... cục ta” - một âm thanh gần gũi, quen thuộc và gợi lên trong người chiến sĩ ấy biết bao cảm xúc bao kỉ niệm. “Nghe xao động nắng trưaNghe bàn chân đỡ mỏiNghe gọi về tuổi thơ” Bằng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác cùng điệp từ nghe lặp lại nhiều lần, ba câu thơ dường như đã làm bật lên niềm xúc động, bồi hồi của nhân vật trữ tình lúc nghe thấy những âm thanh của tiếng gà trưa. Âm thanh của tiếng gà trưa đã làm vơi đi cái nắng, vất vả trên bước đường hành quân để rồi thay vào đấy là những kỉ niệm của tuổi thơ cứ thế gọi nhau ùa về. Và để rồi, trong năm khổ thơ tiếp theo của bài thơ, trong âm thanh của tiếng gà trưa đã gợi về trong người chiến sĩ biết bao kỉ niệm đẹp đẽ, trong sáng, hồn nhiên của tuổi thơ bên người bà yêu mến. Trước hết đó chính là những kỉ niệm của tuổi thơ: “Tiếng gà trưaỔ rơm hồng những trứng“Này con gà mái mơKhắp mình hoa đốm trắngNày con gà mái vàngLông óng như màu nắng Tiếng gà trưaCó tiếng bà vẫn mắng- Gà đẻ mà mày nhìnRồi sau này lang mặt!Cháu về lấy gương soiLòng dại thơ lo lắng” Những năm tháng tuổi thơ bên bà nơi làng quê yên bình dường như đã đi sâu vào trong trái tim cháu và để rồi khi âm thanh của tiếng gà trưa vang lên những kỉ niệm ấy lại ùa về. Đó là hình ảnh của những ổ rơm hồng đầy trứng, là hình ảnh của gà mái mơ, gà mái vàng với những màu sắc rất riêng, độc đáo. Và tuổi thơ ấy còn cả những tiếng mắng của bà và sự ngây ngô, hồn nhiên của cháu sau mỗi lần bị bà mắng. Và có lẽ điều đáng nhớ, đáng trân trọng nhất trong những năm tháng tuổi thơ của cháu đó chính là hình ảnh người bà tảo tần, vất vả nhưng đầy tình yêu thương, sự quan tâm, che chở, chăm sóc cháu. Nhớ về bà, người cháu nhớ đến lời mắng của bà, lời mắng ấy chất chứa bao niềm mong ước của bà với cháu. Bà mắng bởi lẽ bà luôn mong muốn cháu của bà sau này lớn lên sẽ thật đẹp và xét đến cùng đấy chính là tình yêu thương, sự quan tâm vô bờ bến mà bà luôn dành cho cháu. Nhớ về bà, cháu nhớ tới hình ảnh bà chắt chiu, dành dụm từng quả trứng: “Tiếng gà trưaTay bà khum soi trứngDành từng quả chắt chiuCho con gà mái ấp” Hình ảnh "tay bà khum soi trứng", chắt chiu từng quả trứng cho gà ấp gợi lên hình ảnh một người bà tần tần, chịu thương, chịu khó, luôn cố gắng chắt chiu, dành dụm trong cuộc sống vất vả nhiều lo toan. Và người bà trong tâm trí của cháu còn hiện lên với biết bao nỗi lo toan mỗi độ đông về: “Cứ hàng năm hàng nămKhi gió mùa đông tớiBà lo đàn gà toiMong trời đừng sương muốiĐể cuối năm bán gàCháu được quần áo mới” Khổ thơ đã cho chúng ta thấy những lo lắng cũng như mong ước của người bà. Bà vẫn luôn lo lắng mỗi khi đông đến, thời tiết giá lạnh và sương muối bủa vây sẽ khiến đàn gà sẽ đổ bệnh. Đó có lẽ là nỗi lo lắng thường trực, lặp đi lặp lại trong bà mỗi năm. Và cùng với nỗi lo lắng ấy chính là mong ước của bà. Bà mong sao cho mưa thuận gió hòa, thời tiết thuận lợi để đàn gà có thể lớn lên khỏe mạnh, cuối năm bà có thể bán chúng đi để mua cho cháu một bộ quần áo mới để đón Tết. Nỗi lo lắng của bà chính là vì niềm vui của người cháu. Qua đó có thể thấy tình yêu thương sâu sắc, vô bờ bến của bà đối với người cháu của mình. Nếu trong sáu khổ thơ đầu của bài thơ, âm thanh của tiếng gà trưa đã gợi về những kỉ niệm tuổi thơ thì trong hai khổ thơ còn lại đã cho chúng ta thấy những suy tư được gợi lên từ tiếng gà. Trước hết đó chính là những suy tư về hạnh phúc: “Tiếng gà trưaMang bao nhiêu hạnh phúcĐêm cháu về nằm mơGiấc ngủ hồng sắc trứng” Âm thanh của tiếng gà trưa và “ổ trứng hồng sắc trứng” là những hình ảnh gần gũi, bình dị trong tâm khảm của những người con ở mọi làng quê đất Việt, là hình ảnh của cuộc sống yên bình, ấm no và với người cháu đó còn là hình ảnh gắn liền với những kỉ niệm tuổi thơ, với người bà yêu quý của mình. Và để rồi, với cháu "giấc ngủ hồng sắc trứng" - giấc mơ những điều bình dị trở thành điều hạnh phúc và tuyệt vời nhất. Và có lẽ, với cháu, hạnh phúc không ở đâu xa xôi mà nó hiện hữu ngay ở những điều bình dị, giản đơn nhất trong cuộc sống đời thường. Không chỉ suy tư về hạnh phúc, người cháu còn suy tư về hiện tại, về mục đích chiến đấu của mình: “Cháu chiến đấu hôm nayVì lòng yêu Tổ quốcVì xóm làng thân thuộcBà ơi, cũng vì bàVì tiếng gà cục tácỔ trứng hồng tuổi thơ” Trong khổ thơ cuối của bài thơ, tác giả đã sử dụng điệp từ “vì” lặp lại bốn lần cùng với thủ pháp liệt kê với mức độ từ khái quát đến cụ thể đã nhấn mạnh mục đích chiến đấu của cháu ngày hôm nay. Mục đích chiến đấu đấy là vì Tổ quốc, vì xóm làng, vì bà và vì tiếng gà cục tác. Tóm lại, với việc sử dụng thể thơ năm chữ với những hình ảnh gần gũi, chân thực và cách diễn đạt tự nhiên, bài thơ “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh từ âm thanh tiếng gà trưa đã gợi về những kỉ niệm đẹp đẽ, hồn nhiên của tuổi thơ cùng tình cảm bà cháu đáng quý. Đồng thời, qua đó giúp chúng ta hiểu rằng tình cảm gia đình sẽ làm sâu sắc thêm cho tình cảm quê hương, đất nước.
Phân tích bài thơ Tiếng gà trưa - mẫu 4
Từ lâu ta đã biết đến tiếng thơ vừa sôi nổi vừa đằm thắm mà tha thiết, trong sáng của Xuân Quỳnh, nay đến với Tiếng gà trưa lại một lần nữa ta bắt gặp điệu cảm xúc ấy. Bài thơ là sự bộc lộ tình cảm yêu quê hương, đất nước chân thành, sâu lắng của nhà thơ qua hình tượng tiếng gà trưa. Đó là âm thanh gọi về những kỉ niệm, những cảm xúc thiêng liêng và nơi chốn bình yên cho tâm hồn con người. Tiếng gà trưa là âm thanh giản dị, quen thuộc của làng quê Việt. nó gợi về cuộc sống yên ả, sự lao động yên vui, ấm áp của người nông dân quanh năm sau lũy tre làng. Ở đây, bằng những cảm xúc mới mẻ, nồng nàn rất riêng Xuân Quỳnh đã thổi vào thứ âm thanh ấy một vẻ đẹp rất thiêng liêng của những cảm xúc ấu thơ của người lính hành quân. Nó làm xao động cái nắng trưa trên đường hành quân. Âm thanh ấy làm cho anh như đang sống lại thời thơ ấu đẹp đẽ của mình, nó như tiếp thêm sức mạnh cho đôi chân anh bớt mỏi, cho lòng anh xúc động dạt dào. Với ý nghĩa như vậy, tiếng gà trưa là âm thanh, tiếng gọi của quê hương, gia đình, xóm làng còn in đậm trong lòng người lính ra trận, trở thành hành trang của người lính trẻ. “Cục...cục tác cục taNghe xao động nắng trưaNghe bàn chân đỡ mỏiNghe gọi về tuổi thơ” Đến đoạn thơ thứ hai, trong hai mươi sáu câu thơ, câu thơ Tiếng gà trưa được nhắc lại ba lần, âm thanh ấy gọi về bao kỉ niệm thân yêu. Xa xa tiếng gà trưa vọng lại, người chiến sĩ nhớ về người bà thân yêu chắt chiu từng quả trứng hồng. Những quả trứng hồng, đàn gà chi chít đông đúc. “Tiếng gà trưaỔ rơm hồng những trứngNày con gà mái mơKhắp mình hoa đốm trắngNày con gà mái vàngLông óng như màu nắng” Tiếng gà trưa cất lên nơi xóm nhỏ, người chiến sĩ nhớ về người bà thân yêu. Tuổi thơ sống bên bà có biết bao kỉ niệm đáng nhớ, tính hiếu kỳ, tò mò của trẻ thơ quan sát con gà đẻ trứng. Rồi bị bà mắng, sợ mặt bị lang, trong lòng cháu hiện lên lo lắng: “Tiếng gà trưaCó tiếng bà vẫn mắngGà đẻ mà mày nhìnRồi sau này lang mặtCháu về lấy gương soiLòng dại thơ lo lắng Khi gió mùa đông tớiBà lo đàn gà toiMong trời đừng sương muốiĐể cuối năm bán gàCháu được quần áo mới” Nổi bật qua suốt những câu thơ ấy là hình ảnh người bà chắt chiu, dành dụm yêu thương cháu. Bà đã luôn ân cần, hi sinh và mệt nhọc để mong có được một đàn gà tốt giúp cháu có những bộ quần áo mới, dù nó chỉ nhỏ thôi nhưng mà thấm thía biết bao nhiêu. Đoạn thơ nghe giản dị mà thật gần gũi nhường nào, những chi tiết tác giả miêu tả gắn bó thân thuộc với quê hương làng xóm, hơn thế nó là những kỉ niệm không bao giờ phai nhạt trong tâm trí trẻ thơ. Nỗi lo của bà thật cảm động xiết bao, đàn gà kia sẽ bị chết nếu như sương muối giá lạnh và cháu bà lại chẳng được may áo mới. “Ôi cái quần chéo go,Ống rộng dài quết đấtCái áo cánh trúc bâuĐi qua nghe sột soạt” Cháu nhớ mãi sau mỗi lần gà được bán, bà lại ra chợ chọn mua cho cháu yêu bộ quần áo thật đẹp. Tình cảm yêu thương nồng hậu bà luôn dành trọn cho cháu, cho con. Tuổi thơ sống bên bà đây là quãng đời đầy ắp những kỉ niệm khó quên. Lần thứ tư “tiếng gà trưa” lại cất lên. Tiếng gà gọi về những giấc mơ của người lính trẻ. “Tiếng gà trưaMang bao nhiêu hạnh phúcĐêm cháu về nằm mơGiấc ngủ hồng sắc trứng” Âm thanh xao động của tiếng gà trưa bình dị mà thiêng liêng, nó gợi tình cảm đẹp trong lòng người chiến sĩ hành quân ra trận. Âm thanh ấy như tiếng của quê hương, đất mẹ thân yêu. Tiếng gà trưa, đâu chỉ là âm thanh của một con vật vô tri mà nó là tiếng gọi của tuổi thơ, của yêu thương hồng, là những âm thanh của ký ức tươi đẹp, trong sáng đã theo cháu suốt một đời. nó cứ ám ảnh, âm vang day dứt mãi trong lòng nhà thơ, trong những giấc mơ tuổi nhỏ. Âm thanh ấy đã đi vào tiềm thức đứa cháu nhỏ, đầy dịu dàng mà xúc động thiêng liêng vì nó gắn với tình bà cao cả. Đó cũng là lý do để người cháu sống cống hiến: “Cháu chiến đấu hôm nayVì lòng yêu tổ quốcVì xóm làng thân thuộcBà ơi, cũng vì bàVì tiếng gà cục tácỔ trứng hồng tuổi thơ” Điệp từ "vì" được lặp lại bốn lần liên tiếp nhấn mạnh mục đích chiến đấu của người chiến sĩ. Đó là vì tổ quốc thân thương, vì xóm làng quê thuộc nơi chôn rau cắt rốn của tuổi thơ, nhưng đất nước quê hương vô cùng vô tận, mênh mông ấy cũng chỉ mãi hữu hình trong dáng bà thầm lặng hi sinh, gắn với âm thanh của tiếng gà trưa quen thuộc. Hai tiếng "bà ơi" vang lên nghe mới tha thiết mà đằm thắm làm sao, nó vừa xúc động thiêng liêng, vừa bỏng sôi mãnh liệt. Bài thơ “Tiếng gà trưa” là một nốt trầm sâu lắng, da diết của người lính trên bước đường hành quân gian khổ. Nhưng tiếng gà ấy còn là tên gọi khác của kỉ niệm, của hồi ức, của tình bà cháu thiêng liêng bất diệt. Với cách sử dụng linh hoạt điệp từ, các hình ảnh giản dị mà xúc động, Xuân Quỳnh đã truyền tải được thật chính xác lòng mình tới độc giả.
Phân tích bài thơ Tiếng gà trưa - mẫu 5
Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ xuất sắc của nền văn học hiện đại. Bà thường viết về những gì bình dị gần gũi trong đời sống thường ngày. Thơ của bà thường có giọng điệu sôi nổi trẻ trung mạnh bạo và giàu chất trữ tình. "Tiếng gà trưa" được viết vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Mĩ thể hiện tình yêu thương tổ quốc, quê hương trong đó sâu lặng và thắm thiết là tình bà cháu. Bài thơ viết theo thể thơ năm chữ có sự biến đổi linh hoạt. Cách gieo vần liền ở những câu hai và ba xen kẽ là vần giãn cách. Thể thơ này thích hợp kể lại kí ức và kỷ niệm: “Trên đường hành quân xaDừng chân bên xóm nhỏTiếng gà ai nhảy ổ:“Cục... cục tác cục ta”Nghe xao động nắng trưaNghe bàn chân đỡ mỏiNghe gọi về tuổi thơ” Tiếng gà cục tác buổi trưa để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người chiến sĩ. Nó gắn với kỉ niệm sâu sắc tuổi ấu thơ. Chính vì vậy trong vô vàn âm thanh của làng quê, người chiến sĩ nghe thấy rõ nhất là tiếng gà cục tác. Vào một buổi trưa hè tại một làng quê vắng vẻ, trên đường hành quân người chiến sĩ được tiếp sức từ tiếng gà trưa. Điệp từ “nghe” được đặt ở ba câu đầu liên tiếp để nhấn mạnh giàu cảm xúc mà tiếng gà trưa đem lại. Với lối ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, lấy thính giác thay cho thị giác. Tiếng gà trưa đã làm xao động cả không gian làm xao động cả lòng người. Tiếng gà trưa làm thức dậy cả những kỉ niệm tuổi thơ. Cách hiểu nghĩa của cả hai câu thơ “Nghe xao động nắng trưa”, “Nghe gọi về tuổi thơ” thiên về nghĩa bóng thì câu thơ “Nghe bàn chân đỡ mỏi” thiên về nghĩa đen. Cách đảo trật tự ở các câu không giống nhau làm cho âm điệu các câu thơ thay đổi, tránh được sự nhàm chán và diễn tả sự bồi hồi xao xuyến của tâm hồn. Tiếng gà trưa được cảm nhận từ nhiều giác quan bằng cả tâm hồn. Những câu thơ mở đầu không có ẩn ý hoàn toàn giản dị như một bài đồng dao nhưng nó làm cho lòng người đọc nhẹ lại vì sự trong trắng sinh động và thân thiết. Những kỉ niệm tuổi thơ sau mỗi câu thơ “Tiếng gà trưa” lại gợi lên kỉ niệm: “Tiếng gà trưaỔ rơm hồng những trứngNày con gà mái tơKhắp mình hoa đốm trắngNày con gà mái vàngLông óng như màu nắng” Sau một câu kể là một câu tả, câu tả có kết cấu sóng đôi và lặp lại từ “này” là từ dùng để chỉ và lưu ý người nghe tưởng tượng. Các tính từ “hồng”, “trắng”, “óng” đều là gam màu tươi sáng gợi lên bức tranh đàn gà lộng lẫy tác giả còn sử dụng biện pháp so sánh: “Lông óng như màu nắng” gợi lên vẻ đẹp rực rỡ. Tác giả tạo ra điều bất ngờ trong bài thơ không miêu tả tiếng gà trưa mà nói đến sự xuất hiện bất ngờ “ổ rơm hồng những trứng” đó là phép lạ mà tiếng gà trưa đem lại.
Phân tích bài thơ Tiếng gà trưa - mẫu 6
Theo thời gian, mọi thứ luôn có thể thay đổi theo quy luật năm tháng nhưng có lẽ có một điều không bao giờ thay đổi đó là những rung động do kỉ niệm tuổi thơ đem lại mà mỗi người đều có. Đối với Xuân Quỳnh kỉ niệm ấy là tiếng gà “Cục...cục tác cục ta” của những năm tháng sống êm đềm bên người bà kính yêu. Từ những tình cảm tha thiết mến yêu bà, người đọc cảm nhận sâu sắc tình yêu quê hương đất nước mà nhà thơ muốn gửi gắm. Bài thơ được sáng tác vào năm 1968, thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Mĩ ác liệt và gian khổ, trong hoàn cảnh đó, nhà thơ đã chọn cho mình một điểm gợi cảm xúc đó là trên con đường hành quân: “Trên đường hành quân xaDừng chân bên xóm nhỏTiếng gà ai nhảy ổ:“Cục... cục tác cục ta” Như một lời kể về chuyến hành trình bắt gặp cảm xúc, trên con đường hành quân, khi đi qua một xóm nhỏ, nghe tiếng gà vọng ra, vọng về cả một vùng trời bâng khuâng xúc cảm. Tiếng gà ấy vừa vang lên thì: “Nghe xao động nắng trưaNghe bàn chân đỡ mỏiNghe gọi về tuổi thơ” Từ "nghe" được điệp lại ba lần đặt ở đầu ba câu thơ như bật lên niềm xúc cảm xao xuyến bâng khuâng khó tả của lòng người. Tiếng gà dường như có một sức mạnh ghê gớm khiến cho chỉ vừa cất lên đã làm cho nắng ngả phải xao động hay có lẽ chính là lòng người xao động làm cho nắng nhìn như ngả sang. Chỉ cần nghe được tiếng gà ấy mà bao nhiêu mệt nhọc trên con đường hành quân như tan biến hết bởi kí ức tuổi thơ theo tiếng gà ùa về đã làm cho bàn chân đỡ mỏi. Khi ấy, mọi hình ảnh của tuổi thơ như ùa về trong tâm trí tác giả: “Tiếng gà trưaỔ rơm hồng những trứngNày con gà mái mơKhắp mình hoa đốm trắngNày con gà mái vàngLông óng như màu nắng Tiếng gà trưaCó tiếng bà vẫn mắng:- Gà đẻ mà mày nhìnRồi sau này lang mặt.Cháu về lấy gương soiLòng dại thơ lo lắng” Kỉ niệm tuổi thơ bên bà là những cô gà mái mơ “khắp mình hoa đốm trắng” cùng “lông óng như màu nắng”. Rồi cả tiếng bà mắng nhìn gà đẻ sẽ lang mặt đều là những hình ảnh không thể nào phai nhòa trong ký ức Xuân Quỳnh. Kỉ niệm ấy còn là tình cảm chắt chiu thầm kín của bà: “Tiếng gà trưaTay bà khum soi trứngDành từng quả chắt chiuCho con gà mái ấp” Hình ảnh người bà “tay khum soi trứng” thật đẹp, thật hiền từ, đó là hình ảnh của một người bà tần tảo, chu đáo sớm hôm lo cho đàn gà đẻ trứng và cũng là lo cho gia đình thân yêu. “Cứ hàng năm hàng nămKhi gió mùa đông tớiBà lo đàn gà toiMong trời đừng sương muốiĐể cuối năm bán gàCháu được quần áo mới Ôi cái quần chéo goỐng rộng dài quét đấtCái áo cánh chúc bâuĐi qua nghe sột soạt” Mọi hy vọng bà đều đặt vào đàn gà, bà lo trời sương muối, đàn gà không chịu được và chỉ mong cuối năm bán gà có được tiền cho cháu mua quần áo mới. Có lẽ hình ảnh của những bộ quần áo được đổi bằng tiền bán gà, đổi bằng những tần tảo sớm hôm của bà vô cùng đặc biệt, đó là chiếc quần chéo go rộng đến quét đất, rồi chiếc áo chúc bâu rộng thùng thình, khi đi lại nghe sột soạt. Tất cả những món ấy tuy bình dị mà hết sức thân thương, trìu mến, đó không chỉ là cái quần, cái áo mà còn là công sức, tình cảm yêu thương của người bà thầm lặng cho cháu. Tình cảm ấy luôn được ẩn giấu trong tiếng gà trưa: “Tiếng gà trưaMang bao nhiêu hạnh phúcĐêm cháu về nằm mơGiấc ngủ hồng sắc trứng” Và từ tình cảm gia đình cụ thể, Xuân Quỳnh đã khái quát lên tình cảm lớn lao rộng rãi đó là tình yêu tổ quốc: “Cháu chiến đấu hôm nayVì lòng yêu Tổ quốcVì xóm làng thân thuộcBà ơi, cũng vì bàVì tiếng gà cục tácỔ trứng hồng tuổi thơ” Ta như hình dung ra tâm trạng người lính từ những kỉ niệm về tuổi thơ của mình mà khi quay về thực tại với con đường hành quân trở nên giàu lòng hăng hái với giọng thơ tràn trề sinh khí. Xuân Quỳnh đã khẳng định mục đích chiến đấu hôm nay đó là vì tổ quốc, vì bà, vì kỉ niệm tuổi thơ êm đềm của mình. “Ổ trứng hồng tuổi thơ” không đơn thuần là những hình ảnh kỉ niệm mà còn biểu tượng cho sự êm đềm, thanh bình của một làng quê mà khi giặc Mỹ đến đã phá tan sự yên bình ấy. Và nhà thơ khẳng định mình chiến đấu hôm nay chính là vì muốn bảo vệ quê hương, bảo vệ sự yên bình của mọi mái nhà trên tổ quốc. Bài thơ chỉ với ngôn từ và hình ảnh giản dị nhưng thật dễ đi sâu vào lòng người, ta cảm nhận rõ nét tình cảm của hai bà cháu thắm thiết hòa quyện trong tình yêu quê hương đất nước.
Phân tích bài thơ Tiếng gà trưa - mẫu 7
Xuân Quỳnh là một trong những nữ thi sĩ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Thơ của chị thường thể hiện những khao khát, tình cảm bình dị, đời thường. Một trong những bài thơ nổi tiếng của Xuân Quỳnh là “Tiếng gà trưa”. Ở làng quê Việt Nam xưa, tiếng gà vốn là một âm thanh vô cùng quen thuộc. Trong bài thơ “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh, âm thanh này đã gợi nhắc nhân vật trữ tình trong bài về những kỉ ức về tuổi thơ. Người cháu đang trên đường hành quân, nhìn thấy xóm làng liền ghé vào nghỉ ngơi. Bất chợt tiếng gà trưa vang lên đã gợi nhắc về những kỉ niệm tuổi thơ: “Trên đường hành quân xaDừng chân bên xóm nhỏTiếng gà ai nhảy ổ:“Cục... cục tác cục ta”Nghe xao động nắng trưaNghe bàn chân đỡ mỏiNghe gọi về tuổi thơ” Biện pháp tu từ điệp ngữ với từ “nghe” cùng với các hình ảnh ẩn dụ “xao động nắng trưa”, “bàn chân đỡ mỏi”, “gọi về tuổi thơ” đã nhấn mạnh nỗi xúc động của người chiến sĩ khi nghe tiếng gà trưa. Từng kỉ niệm đẹp đẽ, ấm áp lần lượt hiện lên trong suy nghĩ của người cháu: “Tiếng gà trưaỔ rơm hồng những trứngNày con gà mái mơKhắp mình hoa đốm trắngNày con gà mái vàngLông óng như màu nắng” Cháu nhớ nhất là khi tò mò xem bà đẻ trứng, rồi bị bà mắng. Lòng cháu ngây thơ tin lời bà, sợ mặt bị lang liền về lấy gương soi: “Tiếng gà trưaCó tiếng bà vẫn mắngGà đẻ mà mày nhìnRồi sau này lang mặtCháu về lấy gương soiLòng dại thơ lo lắng … Khi gió mùa đông tớiBà lo đàn gà toiMong trời đừng sương muốiĐể cuối năm bán gàCháu được quần áo mới” Nhà thơ đã khắc họa hình ảnh người bà hiện lên đầy chân thực. Người bà đã luôn ân cần, hi sinh và mệt nhọc để mong có được một đàn gà để cuối năm bán đi lấy tiền sắm sửa quần áo cho cháu. Cả cuộc đời bà là những lo toan cho con cho cháu: “Ôi cái quần chéo go,Ống rộng dài quết đấtCái áo cánh trúc bâuĐi qua nghe sột soạt” Tuổi thơ sống bên bà tuy khó khăn, nhưng hạnh phúc. Điều đó khiến cho cháu không thể nào quên được: “Tiếng gà trưaMang bao nhiêu hạnh phúcĐêm cháu về nằm mơGiấc ngủ hồng sắc trứng” Tiếng gà không chỉ là một âm thanh bình thường mà con người nghe thấy. Mà nó đã ám ảnh trong lòng người cháu với những ước mơ. Cuối cùng bài thơ cho người đọc thấy được mục đích chiến đấu của người chiến sĩ: “Cháu chiến đấu hôm nayVì lòng yêu tổ quốcVì xóm làng thân thuộcBà ơi, cũng vì bàVì tiếng gà cục tácỔ trứng hồng tuổi thơ” Tiếng gà trưa mang bao nhiêu hạnh phúc, kỉ niệm về người bà. Trong khổ thơ cuối, từ “vì” được điệp lại tới bốn lần từ đó khẳng định mục đích chiến đấu cao cả của người chiến sĩ. Người cháu yêu thương, kính trọng bà. Nhớ về bà bằng lòng biết ơn chân thành. Cháu chiến đấu vì bà, với mong muốn đem lại cuộc sống bình yên cho bà. Tóm lại, bài thơ “Tiếng gà trưa” đã khắc họa tình cảm bà cháu trong bài thơ vô cùng chân thành, cảm động. Bài thơ đã đem đến cho người đọc nhiều cảm xúc, suy tư.
Phân tích bài thơ Tiếng gà trưa - mẫu 8
Xuân Quỳnh (1942 - 1988) là nhà thơ nữ được nhiều người yêu thích. Thơ chị trẻ trung, sôi nổi, giàu chất trữ tình. Vốn xuất thân từ nông thôn nên Xuân Quỳnh hay viết về những đề tài bình dị, gần gũi của cuộc sống đời thường như tình mẹ con, bà cháu, tình yêu, tình quê hương, đất nước. Nổi bật trong số đó là bài thơ “Tiếng gà trưa”. Bài thơ được viết trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ trên phạm vi cả nước. Bị thua đau ở chiến trường miền Nam, giặc Mĩ điên cuồng mở rộng chiến tranh phá hoại bằng máy bay, bom đạn... ra miền Bắc, hòng tàn phá hậu phương lớn của tiền tuyến lớn. Trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng ấy, hàng triệu thanh niên đã lên đường với khí thế xẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mĩ, mà lòng phơi phới dậy tương lai. Nhân vật trữ tình trong bài thơ là người chiến sĩ trẻ đang cùng đồng đội trên đường hành quân vào Nam chiến đấu. Tiếng gà trưa đã gợi nhớ về những kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ và tình bà cháu. Tình cảm gia đình, quê hương đã làm sâu sắc thêm tình yêu đất nước. Bao trùm bài thơ là nỗi nhớ cồn cào, da diết. Nhớ nhà - đó là tâm trạng tất yếu của những người lính trẻ vừa bước qua hoặc chưa bước qua hết tuổi học trò đã phải buông cây bút, cầm cây súng ra đi đánh giặc cứu nước. Nỗi nhớ ở đây thật giản dị và cụ thể. Chỉ một tiếng gà trưa bất chợt nghe thấy khi dừng chân bên xóm nhỏ là đã gợi dậy cả một trời thương nhớ. Tiếng gà nhảy ổ làm xao động nắng trưa và cũng làm xao xuyến hồn người. Nghe tiếng gà mà như nghe thấy tiếng quê hương an ủi, vỗ về và tiếp thêm sức mạnh. Điệp từ nghe được nhắc lại ba lần, mở đầu ba câu thơ liên tiếp thể hiện sự rung cảm cao độ trong tâm hồn chiến sĩ: “Trên đường hành quân xaDừng chân bên xóm nhỏTiếng gà ai nhảy ổCục... cục tác cục taNghe xao động nắng trưaNghe bàn chân đỡ mỏiNghe gọi về tuổi thơ” Quê nhà hiện lên rõ nét trong tâm tưởng và những kỉ niệm tuổi thơ lần lượt sống dậy qua những hình ảnh thân thương. Tiếng gà trưa nhắc nhở đến ổ rơm hồng những trứng của mấy chị mái mơ, mái vàng xinh xắn, mắn đẻ. Tiếng gà trưa khiến người cháu xa nhà nhớ đến người bà kính yêu một đời tần tảo. Thương biết mấy là cảnh đứa cháu tò mò xem gà đẻ, bị bà mắng: “Gà đẻ mà mày nhìn/ Rồi sau này lang mặt”. Chẳng hiểu hư thực ra sao nhưng cháu tin là thật: “Cháu về lấy gương soi/Lòng dại thơ lo lắng”. Giờ đây, đứa cháu đã trường thành ao ước trở về thời bé bỏng để lại được nghe tiếng mắng yêu của bà, được thấy bóng dáng quen thuộc của bà khum tay soi trứng, chắt chiu từng mầm hy vọng sẽ có được một đàn gà con đông đúc. Suốt một đời lam lũ và lo toan, bà chẳng bao giờ nghĩ đến bản thân mà chỉ lo cho cháu, bởi đứa cháu đối với bà là tất cả. Bà thầm mong đàn gà thoát khỏi nạn dịch mỗi khi mùa đông tới: “Để cuối năm bán gà/Cháu được quần áo mới”. Ao ước của đứa cháu có được cái quần chéo go, cái áo cánh chúc bầu còn nguyên vẹn lần hồ sột soạt và thơm mùi vải mới được nhân lên gấp bội trong lòng bà yêu cháu. Hạnh phúc gia đình giản dị, đầm ấm mà rất đỗi thiêng liêng cùng bao khát vọng tuổi thơ dường như gói gọn cả trong tiếng gà trưa: “Tiếng gà trưaMang bao nhiêu hạnh phúc,Đêm cháu về nằm mơGiấc ngủ hồng sắc trứng” Thông qua nỗi nhớ được khơi dậy từ tiếng gà trưa, nhà thơ Xuân Quỳnh đã miêu tả tâm hồn trong sáng, hồn nhiên và tình cảm yêu mến, kính trọng bà của một em bé nông thôn. Tình bà cháu thắm thiết đã trở thành một phần quan trọng trong đời sống tinh thần của người chiến sĩ hôm nay đang trên đường hành quân chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước: “Cháu chiến đấu hôm nayVì lòng yêu Tổ quốcVì xóm làng thân thuộcBà ơi, cũng vì bàVì tiếng gà cục tácỔ trứng hồng tuổi thơ” Khổ thơ cuối cùng là lời tâm sự chân thành của đứa cháu chiến sĩ trên đường ra tiền tuyến gửi về người bà kính yêu ở hậu phương. Từ tình cảm cụ thể là tình bà cháu đến tình cảm lớn lao như lòng yêu Tổ quốc, yêu xóm làng thân thuộc đều được biểu hiện bằng hình thức nghệ thuật giản dị, mộc mạc như lời ăn tiếng nói hằng ngày. Ấy vậy mà nó lại gây xúc động sâu xa bởi nhà thơ đã nói giúp chúng ta những điều thiêng liêng nhất của tâm hồn. Đọc bài thơ “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh, một lần nữa chúng ta nhận thấy rằng nhà văn Nga I-li-a Ê-ren-bua thật sáng suốt khi đúc kết nên chân lý: “Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Vôn-ga, con sông Vôn-ga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”.
Phân tích bài thơ Tiếng gà trưa - mẫu 9
Bài thơ “Tiếng gà trưa” của nhà thơ Xuân Quỳnh đã khơi gợi những kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ, cũng như thể hiện được tình cảm bà cháu sâu nặng. Bài thơ được sáng tác theo thể thơ năm chữ ngắn gọn, nhưng hàm súc. Âm thanh tiếng gà vốn đã rất quen thuộc ở các làng quê Việt Nam. Nhân vật trữ tình trong bài là người chiến sĩ đang trên đường hành quân, dừng chân lại bên xóm nhỏ để nghỉ ngơi. Bất chợt, âm thanh tiếng gà vang lên gợi lại kỉ niệm của tuổi thơ: “Trên đường hành quân xaDừng chân bên xóm nhỏTiếng gà ai nhảy ổ:“Cục... cục tác cục ta”Nghe xao động nắng trưaNghe bàn chân đỡ mỏiNghe gọi về tuổi thơ” Xuân Quỳnh đã sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ - từ “nghe” được nhắc lại ba lần, cùng với các hình ảnh “xao động nắng trưa”, “bàn chân đỡ mỏi”, “gọi về tuổi thơ” nhấn mạnh được sự xúc động, bồi hồi của người chiến sĩ. Dòng cảm xúc trào dâng mãnh liệt khiến cho những kỉ niệm tuổi thơ bỗng nhiên trở về: “Tiếng gà trưaỔ rơm hồng những trứngNày con gà mái mơKhắp mình hoa đốm trắngNày con gà mái vàngLông óng như màu nắng” Hình ảnh con gà mái mơ, con gà mái vàng chẳng còn xa lạ đối với mỗi đứa trẻ ở làng quê. Nhưng người cháu nhớ nhất là kỉ niệm xem trộm gà để trứng bị bà mắng: “Tiếng gà trưaCó tiếng bà vẫn mắng- Gà đẻ mà mày nhìnRồi sau này lang mặtCháu về lấy gương soiLòng dại thơ lo lắng” Lời trách mắng của người bà cũng xuất phát từ tình yêu thương, sự quan tâm. Để rồi đứa cháu tin là thật, lo lắng chạy về nhà lấy gương soi. “Khi gió mùa đông tớiBà lo đàn gà toiMong trời đừng sương muốiĐể cuối năm bán gàCháu được quần áo mới” Không chỉ những kỉ niệm hiện về, người cháu còn nhớ đến hình ảnh của bà. Đó sự tần tảo, vất vả khi bà chăm sóc cho đàn gà. Bà mong cho trời đừng sương muối, để đàn gà mau lớn, cuối năm bán lấy tiền sắm sửa quần áo cho cháu. Nhớ về bà, người cháu nhớ đến những sự vật thật giản dị, gắn bó với bà: “Ôi cái quần chéo go,Ống rộng dài quết đấtCái áo cánh trúc bâuĐi qua nghe sột soạt” Người cháu cảm thấy tuổi thơ sống bên bà thật hạnh phúc. Dù khó khăn, vất vả nhưng vẫn không thể nào quên: “Tiếng gà trưaMang bao nhiêu hạnh phúcĐêm cháu về nằm mơGiấc ngủ hồng sắc trứng” Tiếng gà trưa mang hạnh phúc, ước mơ của cháu về một cuộc sống bình yên, ấm no. Cuối cùng bài thơ cho người đọc thấy được mục đích chiến đấu của người chiến sĩ: “Cháu chiến đấu hôm nayVì lòng yêu tổ quốcVì xóm làng thân thuộcBà ơi, cũng vì bàVì tiếng gà cục tácỔ trứng hồng tuổi thơ” Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ, từ vì” được điệp lại tới bốn lần từ đó khẳng định mục đích chiến đấu cao cả của người chiến sĩ. Người cháu chiến đấu vì tình yêu với quê hương, đất nước; vì mong muốn đem lại một cuộc sống bình yên cho mọi người, đặc biệt là bà. Với ngôn từ giản dị, hình ảnh gần gũi, Xuân Quỳnh đã khắc họa được những kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ chốn thôn quê, cũng như thể hiện được tình cảm bà cháu trong bài thơ vô cùng chân thành, cảm động qua bài “Tiếng gà trưa”.
Phân tích bài thơ Tiếng gà trưa - mẫu 10
Xuân Quỳnh (1942-1988) nhà thơ nổi tiếng với những bài thơ như Thuyền và biển; Sóng; Tiếng gà trưa... biểu lộ một hồn thơ nồng nàn, đằm thắm dào dạt thương yêu. Bài thơ tiếng gà trưa được viết vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tiếng gà trưa là âm thanh, tiếng gọi của quê hương, gia đình, xóm làng còn in đậm trong lòng người lính ra trận, trở thành hành trang của người lính trẻ. Tiếng gà nhà ai nhảy ổ cục...cục tác cục ta cất lên nơi xóm nhỏ. Tiếng gà là âm thanh rất bình dị, quen thuộc của làng quê bao đời nay. Với người lính, âm thanh quen thuộc ấy gây cho anh bao xúc động. Nó làm xao động cái nắng trưa trên đường hành quân. Âm thanh ấy làm cho anh như đang sống lại thời thơ ấu đẹp đẽ của mình, nó như tiếp thêm sức mạnh cho đôi chân anh bớt mỏi, cho lòng anh xúc động dạt dào: Cục...cục tác cục ta Nghe xao động nắng trưa Nghe bàn chân đỡ mỏi Nghe gọi về tuổi thơ Đến đoạn thơ thứ hai, trong hai mươi sáu câu thơ, câu thơ Tiếng gà trưa được nhắc lại ba lần, âm thanh ấy gọi về bao kỉ niệm thân yêu. Xa xa tiếng gà trưa vọng lại, người chiến sĩ nhớ về người bà thân yêu chắt chiu từng quả trứng hồng. Những quả trứng hồng, đàn gà chi chít đông đúc. Ta như thấy rất nhiều gà, rất nhiều màu sắc và lứa gà: Tiếng gà trưa Ổ rơm hồng những trứng Này con gà mái mơ Khắp mình hoa đốm trắng Này con gà mái vàng Lông óng như màu nắng. Trong bức tranh gà mà Xuân Quỳnh miêu tả rất đặc biệt, ê rơm vàng óng lăn lóc những quả trứng hồng, con gà mái mơ có bộ lông đan xen các màu trắng, đen, hồng... trứng nó giống hình hoa văn mà người nghệ sĩ tạo hình chấm phá. Ánh vàng rực rỡ của con gà mái vàng, lông óng lên như màu nắng, bà cùng cháu vừa tung những hạt cơm, hạt gạo cho lũ gà ăn, quan sát những chú gà xinh đẹp đang nhặt thóc quanh sân. Cháu cùng bà đếm từng chú gà trong vườn nhà. Tiếng gà trưa cất lên nơi xóm nhỏ, người chiến sĩ nhớ về người bà thân yêu. Tuổi thơ sống bên bà có biết bao kỉ niệm đáng nhớ, tính hiếu kỳ, tò mò của trẻ thơ quan sát con gà đẻ trứng. Rồi bị bà mắng, sợ mặt bị lang, trong lòng cháu hiện lên lo lắng: Tiếng gà trưa Có tiếng bà vẫn mắng Gà đẻ mà mày nhìn Rồi sau này lang mặt Cháu về lấy gương soi Lòng dại thơ lo lắng Cháu còn làm sao quên được hình ảnh Tay bà khom, soi trứng... bà "tần tảo" "chắt chiu" từng quả trứng hồng cho con gà mái ấp là cháu lại nhớ đến bao nỗi lo của bà khi mùa đông tới: Khi gió mùa đông tới Bà lo đàn gà toi Mong trời đừng sương muối Để cuối năm bán gà Cháu được quần áo mới. Đoạn thơ nghe giản dị mà thật gần gũi nhường nào, những chi tiết tác giả miêu tả gắn bó thân thuộc với quê hương làng xóm, hơn thế nó là những kỉ niệm không bao giờ phai nhạt trong tâm trí trẻ thơ. Nỗi lo của bà thật cảm động xiết bao, đàn gà kia sẽ bị chết nếu như sương muối giá lạnh và cháu bà lại chẳng được may áo mới. Ôi cái quần chéo go, Ống rộng dài quết đất Cái áo cánh trúc bâu Đi qua nghe sột soạt Cháu nhớ mãi sau mỗi lần gà được bán, bà lại ra chợ chọn mua cho cháu yêu bộ quần áo thật đẹp. Tình cảm yêu thương nồng hậu bà luôn dành trọn cho cháu, cho con. Tuổi thơ sống bên bà đây là quãng đời đầy ắp những kỉ niệm khó quên. Lần thứ tư Tiếng gà trưa lại cất lên. Tiếng gà gọi về những giấc mơ của người lính trẻ. Tiếng gà trưa Mang bao nhiều hạnh phúc Đêm cháu về nằm mơ Giấc ngủ hồng sắc trứng. Âm thanh xao động của tiếng gà trưa bình dị mà thiêng liêng, nó gợi tình cảm đẹp trong lòng người chiến sĩ hành quân ra trận. Âm thanh ấy như tiếng của quê hương, đất mẹ thân yêu. Cháu chiến đấu hôm nay Vì lòng yêu tổ quốc Vì xóm làng thân thuộc Bà ơi, cũng vì bà Vì tiếng gà cục tác Ổ trứng hồng tuổi thơ Trong bài thơ có ba câu thơ rất hay ổ rơm hồng những trứng; giấc ngủ hồng sắc trứng; ổ trứng hồng tuổi thơ cả ba câu thơ đều nói về hạnh phúc tuổi thơ, hạnh phúc gia đình làng xóm. Hình ảnh người bà hiện lên trong tâm trí người chiến sĩ hành quân ra trận thật đẹp. Lưu Trọng Lư khi nghe "Xao xác gà trưa gáy não nùng" đã nhớ về nét cười đen nhánh, màu áo đỏ của mẹ hiền đã đi xa. Bằng Việt khi xa quê đã nhớ về quê qua hình ảnh người bà kính yêu. Tiếng tu hú kêu gọi hè về, nhớ bếp lửa ấp iu nồng đượm bà nhen nhóm sớm hôm. Và bài thơ Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh gợi nhớ về bà qua tiếng gà xao xác ban trưa. Bài thơ Tiếng gà trưa là bài thơ hay tha thiết ngọt ngào. Tiếng gà cũng là tiếng gọi thân yêu của bà, của mẹ, của quê hương. Tiếng gọi thân yêu ấy như là niềm tin cho người chiến sĩ trong cuộc chiến đấu bảo vệ quê hương yêu dấu.