question
stringlengths
14
133
answer
stringlengths
59
238k
Phương tiện giao thông mà em kì vọng trong tương lai là gì - mẫu 2
Phương tiện giao thông mà em kì vọng trong tương lai là Ô tô tự lái của google. Vì chiếc ô tô này sẽ giúp người điều khiển có thể tiết kiệm thời gian, có thể sử dụng cho cả những người bị khuyết tật, nhưng người quá bận rộn và quan trọng nhất nó sẽ tránh được tai nạn một cách tuyệt đối. Đây cũng sẽ là phát minh an toàn cho nền y tế trong tương lai.
Phương tiện giao thông mà em kì vọng trong tương lai là gì - mẫu 3
Phương tiện giao thông mà em kì vọng trong tương lai Tàu vũ trụ siêu hành. Tàu có thể dài 3000m, rộng 2.000m, chở tối đa lên tới 20.000 người hoặc 1.000 chiếc máy bay. Thân tàu được làm bằng kim loại cứng nhất là Crom, vỏ tàu được đắp các khối kim loại quý có giá trị cao nhất là rhodium do đó tàu có độ bền, chắc chắn và không lo bị các tác nhân bên ngoài làm hư hại. Tốc độ đạt 30km/s, bằng 1/10 vận tốc ánh sáng. Do đó việc đi từ trái đất đến mặt trăng hay các hành tinh khách chỉ là chuyển đơn giản.
Phương tiện giao thông mà em kì vọng trong tương lai là gì - mẫu 4
Phương tiện giao thông trong tương lai mà tôi đang nghĩ tới là một chiếc ô tô bay. Nó trông giống như một chiếc ô tô bình thường nhưng nó có cánh và nó có thể bay trên trời. Ô tô có những tấm mặt trời để nhận nguồn nhiệt từ mặt trời và tạo thành năng lượng. Vì vậy nó sẽ sử dụng năng lượng mặt trời. Tôi nghĩ nó là một phát minh lớn bảo vệ môi trường và tiết kiệm năng lượng.
Phương tiện giao thông mà em kì vọng trong tương lai là gì - mẫu 5
- Đặc điểm và công dụng của phương tiện: + Có thể dài 3000m, rộng 2.000m, chở tối đa lên tới 20.000 người hoặc 1.000 chiếc máy bay. + Thân tàu được làm bằng kim loại cứng nhất là Crom, vỏ tàu được đắp các khối kim loại quý có giá trị cao nhất là rhodium do đó tàu có độ bền, chắc chắn và không lo bị các tác nhân bên ngoài làm hư hại. + Tốc độ đạt 30km/s, bằng 1/10 vận tốc ánh sáng. Do đó việc đi từ trái đất đến mặt trăng hay các hành tinh khách chỉ là chuyển đơn giản. + Tàu cũng được trang bị vũ khí tối tân, hiện đại nhất của loài người để đề phòng người ở các hành tinh khác có ý định trộm tàu về làm của riêng. Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 7 hay khác: Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85 4.5 (243) 799,000đs 199,000 VNĐ 4.5 (243) 799,000đ 99,000 VNĐ 4.5 (243) 999,000đ 299.000 - 599.000 VNĐ Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube: Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Trang web chia sẻ nội dung miễn phí dành cho người Việt. Lớp 1-2-3 Lớp 4 Lớp 5 Lớp 6 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 9 Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Lập trình Tiếng Anh Chính sách bảo mật Hình thức thanh toán Chính sách đổi trả khóa học Chính sách hủy khóa học Tuyển dụng Tầng 2, số nhà 541 Vũ Tông Phan, Phường Khương Đình, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, Việt Nam Phone: 084 283 45 85 Email: vietjackteam@gmail.com CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội. 2015 © All Rights Reserved.
Suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ - mẫu 1
Những cánh buồm của Hoàng Trung Thông là Bài thơ giàu chất suy tư, trầm lắng trong hình ảnh thơ hai cha con với những hoài bão trong sáng làm xúc động lòng người. Hình ảnh những cánh buồm là hình tượng thể hiện ước mơ được bay xa của nhà thơ. Nó xuyên suốt cả bài thơ. Hình ảnh hai cha con giữa thiên nhiên, chan hòa màu sắc rực rỡ: Hai cha con bước đi trên cát Ánh mặt trời rực rỡ biển xanh Bóng cha dài lênh khênh Bóng con tròn chắc nịch Hai cha con bước đi trên cát, chan chứa một hơi ấm lan truyền chan hòa trong sắc trời đại dương thật kỳ diệu. bóng hai cha con nổi bật hẳn với sự bé nhỏ của con người trước khung cảnh thiên nhiên bao la. Hình ảnh đối lập thật dễ thương đó là bóng lênh khênh của cha bên cái bóng tròn chắc nịch thể hiện sự khác biệt giữa hai thế hệ cha con đang trên cùng một hướng đi. Đại dương chứa chang huyền diệu, sau trận mưa biển càng đẹp càng trong, cũng như hai cha con trong bóng chân dài và gầy để cho con sự chắc nịch khỏe khoắn. đó là quy luật của tạo hóa. Những gì cha mơ ước ngày trước sự rả rích của trận mưa thì ngày sau người con lại tiếp tục đưa ước mơ bay xa. Người cha chỉ dẫn cho con đi trong thế giới màu hồng của một chân trời trong tương lai rộng mở. Với tâm trạng náo nức của người con làm cho người cha muốn đưa con trai mình đi tìm ước mơ mới. bay xa hơn. Những lời tâm sự của người cha làm cho người con thêm một tí hi vọng, một tí mơ ước và những hình ảnh bền bỉ bước đi của cha và con. Đó chính là những ước muốn táo bạo của người con muốn khám phá một trong những cánh buồm đầy ước mơ của trẻ thơ. Muốn đi khắp nơi, muốn xông pha trên biển cả. đó chính là những lời nói hôn nhiên ấp ủ một hoài bão ước mơ. Tác giả đã thể hiện một cách tinh tế và đặc sắc một cách khát vọng sống đang cháy bổng trong mỗi con người. Bài thơ đặc sắc với những hình ảnh tượng thơ độc đáo, nhịp thơ vừa trầm vừa lắng, vừa bay bổng như dàn trải ào ạt những cảm xúc dào dạt của tác giả. Đó là tầm cao của ước mơ, của khát vọng được chinh phục, được khám phá thiên nhiên được làm chủ nó. Bài thơ đã gieo vào lòng thế hệ trẻ những ước mơ bay bổng, thúc giục chúng ta tìm tòi, học hỏi và khám phá để vươn tới chiếm lĩnh chinh phục thế giới vũ trụ. Nó động viên chúng ta phấn đấu không ngừng để vươn tới tầm cao của thời đại. Bài thơ đã gây xúc động lòng người nhà thơ đã thổi cho cánh buồm của tuổi thơ một phần nào hơi gió của cuộc sống mà tương lai lớp trẻ sẽ căng phồng vượt xa trong chân trời mới đang rộng mở.
Dàn ý Suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ
1. Mở bài: – Giới thiệu sơ lược về tác giả: tên tuổi, bút danh, vị trí trong nền văn học, chủ đề sáng tác, phong cách sáng tác, những đóng góp của tác giả đối với phong trào văn học, giai đoạn văn học và nền văn học dân tộc. – Giới thiệu tổng quát về bài thơ: hoàn cảnh xuất xứ, đại ý, nội dung chính của đoạn thơ/bài thơ. Dẫn vào đoạn thơ, bài thơ cần phân tích: trích lại bài thơ (nếu ngắn) còn khổ thơ thì phải ghi lại tất cả. 2. Thân bài: – Khái quát về vị trí trích đoạn hoặc bố cục, mạch cảm xúc chủ đạo của khổ thơ, bài thơ. – Giới thiệu vấn đề nghị luận và phương hướng nghị luận. – Phân tích bài thơ/đoạn thơ: trích thơ rồi lần lượt phân tích những từ ngữ, hình ảnh, biện pháp tu từ, v.v…. trong từng câu thơ, giải mã đúng từ ngữ, hình ảnh đó để giúp người đọc cảm thấy được những cái hay, cái đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của bài thơ. – Nhận xét đánh giá bài thơ: + Đánh giá về nội dung, tư tưởng của bài thơ. (Nét đặc sắc về nội dung của bài thơ là gì? Thành công/hạn chế?) + Đánh giá về nghệ thuật biểu hiện đặc sắc (Thành công/hạn chế?) + Đánh giá về phong cách tác giả. (Qua bài thơ em thấy tác giả là người như thế nào; có thể nói thêm những đặc điểm về phong cách nghệ thuật và đóng góp của nhà thơ trên văn đàn lúc bấy giờ). 3. Kết bài: + Khẳng định lại toàn bộ gia trị về nội dung, nghệ thuật của bài thơ. + Liên hệ bản thân và cuộc sống (nếu có).
Suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ - mẫu 2
Những mùa quả mẹ tôi hái được Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng Những mùa quả lặn rồi lại mọc Như mặt trời khi như mặt trăng Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên Còn những bí và bầu thì lớn xuống Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi Và chúng tôi, một thứ quả trên đời Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi Mình vẫn còn một thứ quả non xanh. Bài thơ là một hiện minh thuyết phục về luật nhân - quả trong cuộc sống con người - thế giới khách quan với tính biện chứng sâu sắc của nó. Hình tượng Mẹ và Quả xuyên suốt toàn bài thơ làm sáng rõ thêm cho luật nhân - quả (nhân nào thì quả ấy...) đã tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm, tâm hồn mỗi chúng ta. Những mùa quả mẹ tôi hái được Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng Hai câu thơ mở đầu là một sự khẳng định, định hướng tính biện chứng về luật nhân - quả. Vì sao như vậy? Vì: "Những mùa quả mẹ tôi hái được Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng" Dẫu tay của ai khác có thể khoẻ, chắc (!) hơn tay mẹ nhưng phẩm chất của mẹ là tự lực cánh sinh. Là người từng trải mẹ không thiếu kinh nghiệm về sự trả giá đó. Mẹ chỉ thu hoạch được, hái được những mùa quả từ tay mẹ vun trồng mà thôi. Những mùa quả với mẹ cần thiết biết bao, không thể thiếu nó được. Và nữa, những mùa quả không phải lúc nào cũng có, thậm chí có khi "thất bát" trắng tay nhưng thường là tuần tự theo một chu kỳ nhất định, lặn rồi lại mọc – như mặt trời khi như mặt trăng. Cho nên theo mẹ không thể “Đại Lãn chờ sung" mà được, phải có thời gian vun trồng, chăm sóc và chờ đợi. Sự “vun trồng” của mẹ phụ thuộc vào mẹ, vun trồng chu đáo kỹ lưỡng ắt sẽ được quả tốt, ngược lại, thì... Thời gian chăm sóc - chờ đợi là thời gian quả lặn. Còn khi thu hoạch (quả chín, quả đến kỳ hái được), chính là thời gian quả mọc. Hai từ "lặn" và "mọc" thật ấn tượng. Đây là một ẩn dụ đầy tính sáng tạo của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm khi nói về luật nhân - quả trong chu kỳ trồng trọt của nhà nông. Nhưng vấn đề không dừng lại ở quy luật trồng trọt của nhà nông. Điều chính yếu là trong bài thơ này là Nguyễn Khoa Điềm nói đến công lao dưỡng dục sinh thành của người mẹ đối với con cái. Tay mẹ như có phép thần nên "lũ chúng tôi" (là con của mẹ) cứ thế lớn lên qua sự chăm sóc nuôi dưỡng của mẹ. "Còn những bí và bầu thì lớn xuống Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi". Các câu thơ đọc lên nghe thật ấm áp, dân giã, tưởng như không có gì dân giã hơn, bởi đó là lời ăn tiếng nói hàng ngày gắn bó thân thiết của nhà nông. Nguyễn Khoa Điềm đã chọn quả bí, quả bầu với đặc trưng của nó là "lớn xuống", hình dáng lại "mang dáng giọt mô hôi mặn" nhằm diễn tả nỗi khổ nhọc, vất vả của mẹ. Biết bao giọt mồ hôi mặn của mẹ đã nhỏ xuống âm thầm, lặng lẽ để “kết nên” những quả bí, quả bầu. Điều thiết thực là, chính những quả bí, quả bầu này (có thể còn nhiều loại hoa màu khác) lại là nguồn sống nuôi dưỡng cho "lũ chúng tôi" lớn lên. Hẳn là mẹ rất vui và tin tưởng vào sự "vun trồng" của mình sẽ được đền bù xứng đáng. Không có người mẹ nào nuôi con mà kể công lao. Trái lại, con cái nhiều khi... Thế nên, dân gian mới truyền đời "Mẹ nuôi con biển hồ lai láng Con nuôi mẹ tính tháng ngày công". Ngẫm thật chạnh lòng phải không bạn?! Chính vậy mà cha ông vẫn luôn răn dạy con trẻ rằng: Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con. Như vậy, đủ thấy các bậc làm cha làm mẹ luôn mong muốn gì ở các con? Nguyễn Khoa Điềm đã lý giải điều đó một cách chân thành, mộc mạc và thấm thía qua khổ thơ cuối của bài. Từ chuyện quả thật do cây tạo ra đến quả - con người do dưỡng dục mà thành – là một chuyển ý bất ngờ độc đáo của nhà thơ: Và chúng tôi, một thứ quả trên đời Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái Tứ của bài thơ chính là ở hai câu này. Đời của mẹ đã bao lần hái được quả nhưng điều để mẹ toại nguyện hơn cả là mong muốn các con trở thành một thứ "quả lành có ích" cho đời vì mẹ đã "thất thập cổ lai hy" rồi. Tưởng thế là đủ không cần phải nói gì thêm. Đọc tiếp hai câu cuối của bài thơ mới thấy chữ HIẾU của đứa con đặt ra vượt hẳn trên sự nghĩ bình thường của mẹ, của nhân gian: Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi Mình vẫn còn một thứ quả non xanh. Thật là tài tình. Đứa con Nguyễn Khoa Điềm nghĩ được như vậy quả là đại hiếu đối với mẹ. Đằng sau nỗi day dứt thường niên đó là một tấm lòng "cho tròn chữ hiếu mới là đạo con" của nhà thơ. Rằng, bất cứ ai đọc Mẹ và Quả, hẳn đều cảm ơn mẹ - chính mẹ đã có công sinh thành, dưỡng dục nên một người con tuyệt vời là tác giả của bài thơ trên. Dẫu không phải xếp lớp "tập này tập nọ" nhưng công chúng yêu thơ đã "đọc anh" là "bắt mắt" liền. Âm hưởng sử thi và trữ tình công dân là hai cảm hứng chủ đạo, thông qua bút pháp tả thực và điển hình hoá cao độ trên cái nền cuộc sống đầy biến động được tinh lọc qua nhãn quan sáng suốt, nên Nguyễn Khoa Điềm luôn trụ vững với thời gian, tạo một vị thế xứng đáng trong nền thơ dân tộc. Mẹ và Quả trên đây là một trong rất nhiều bài thơ hay "không thể kể hết" của nhà thơ.
Suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ - mẫu 3
Hoàng Trung Thông là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng. Bài thơ “Những cánh buồm” là một trong những tác phẩm hay của ông. Bài thơ được rút ra từ tập thơ cùng tên, được xuất bản lần đầu vào năm 1964: “Hai cha con bước đi trên cát Ánh mặt trời rực rỡ biển xanh Bóng cha dài lênh khênh Bóng con tròn chắc nịch, Sau trận mưa đêm rả rích Cát càng mịn, biển càng trong Cha dắt con đi dưới ánh mai hồng Nghe con bước, lòng vui phơi phới.” Hình ảnh mở đầu là người cha và đứa con đang bước đi trên cát. Sau một đêm mưa rả rích, ánh mặt trời xuất hiện đầy rực rỡ, khiến cho nước biển trong xanh, cát trở nên mịn màng. Chiếc bóng của cha dài lênh khênh, còn bóng con tròn chắc nịch - một hình ảnh đáng yêu cho thấy sự gắn bó, yêu thương của cha và con. Khi lắng nghe tiếng chân con bước, lòng cha cảm thấy sung sướng và hạnh phúc. Ngắm nhìn thế giới rộng lớn ngoài kia, đứa trẻ đã hỏi cha bằng một giọng điệu đầy hồn nhiên, ngây thơ: “Cha ơi, sao xa kia chỉ thấy nước thấy trời, Không thấy nhà, không thấy cây, không thấy người ở đó?” Đáp lại câu hỏi của con, người cha đã giải thích cho con hiểu được rằng: “Theo cánh buồm đi mãi đến nơi xa, Sẽ có cây, có cửa, có nhà Vẫn là đất nước của ta Ở nơi đó cha chưa hề đi đến.” Thế giới rộng lớn ngoài kia có muôn vàn điều thú vị. Đó cũng là nơi người cha chưa từng đi đến. Và rồi cậu bé lại chỉ cánh buồm bảo: “Cha mượn cho con cánh buồm trắng nhé, Để con đi!” Những cánh buồm kiêu hãnh ngoài biển khơi thể hiện khao khát muốn đi xa để khám phá của con. Khi l ắng nghe lời đề nghị của con, cha dường như bắt gặp tiếng lòng của chính mình. Khi còn là một cậu bé, người cha cũng từng mong ước được khám phá thế giới rộng lớn ngoài kia. Và giờ, những ước mơ chưa thể thực hiện của người cha nay được gửi gắm trong con. Đứa con sẽ tiếp tục thực hiện ước mơ đó thay cho người cha: “Lời của con hay tiếng sóng thầm thì Hay tiếng của lòng cha từ một thời xa thẳm Lần đầu tiên trước biển khơi vô tận Cha gặp lại mình trong tiếng ước mơ con.” Như vậy, bài thơ “Những cánh buồm” đã thể hiện niềm tự hào của người cha khi thấy con mình cũng ấp ủ những ước mơ cao đẹp. Qua đó, Hoàng Trung Thông còn muốn ca ngợi ước mơ được khám phá cuộc sống của trẻ thơ - đó là những ước mơ làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn.
Suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ - mẫu 4
“Mây và sóng” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Ta-go. Bài thơ đã gợi ra cho người đọc cảm nhận sâu sắc về tình mẫu tử thiêng liêng. Em bé trong bài thơ được mời gọi đến thế giới kỳ diệu ở “trên mây” và “trong sóng”. Với sự hiếu kỳ của một đứa trẻ, em đã cất tiếng hỏi: “Nhưng làm thế nào mình lên đó được?”, “Nhưng làm thế nào mình ra ngoài đó được?”. Nhưng khi em bé nhớ đến mẹ vẫn luôn chờ đợi mình ở nhà, em đã từng chối đầy kiên quyết: “Làm sao có thể rời mẹ mà đến được?”, “Làm sao có thể rời mẹ mà đi được?”. Chẳng có niềm hạnh phúc nào bằng được ở bên cạnh mẹ mặc dù thế giới ngoài kia nhiều hấp dẫn. Để rồi, em bé đã sáng tạo ra những trò chơi còn thú vị hơn của những người “trên mây” và “trong sóng”. Trong trò chơi đó, em sẽ là mây, là sóng tinh nghịch nô đùa; còn mẹ sẽ là vầng trăng, là bờ biển dịu hiền, ôm ấp và che chở con. Những câu thơ giàu tính tự sự và miêu tả nhưng lại góp phần bộc lộ cảm xúc của nhân vật trong bài thơ. Ta-go đã sử dụng trong bài thơ những lời thoại, chi tiết được kể tuần tự, vừa lặp lại vừa biến hóa kết hợp với hình ảnh giàu tính biểu tượng. Bài thơ chính là một câu chuyện cảm động về tình mẫu tử thiêng liêng, bất diệt.
Suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ - mẫu 5
Ở bài thơ Chuyện cổ tích về loài người, em rất thích khổ thơ thứ hai. Hình ảnh mặt trời “nhô” lên cao rất hay và tinh tế. Từ “nhô” giúp lột tả được sự hiện diện chầm chậm, chiếu sáng từng chút theo cả quá trình của mặt trời, chứ không phải bỗng nhiên xuất hiện ở trên cao. Đồng thời, từ nhô cũng cho thấy nét trẻ con, tinh nghịch của mặt trời. Nó cũng như một đứa trẻ thơ lần đầu đến với thế giới này. Hình ảnh ngộ nghĩnh ấy khiến mặt trời như một người bạn được cử đến với sứ mệnh chiếu sáng cho trẻ em. Theo đó, thiên nhiên cũng được “trẻ em hóa” theo cái nhìn của những đứa trẻ. Khổ thơ nhờ chi tiết ấy mà trở nên đặc sắc và ấn tượng.
Suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ - mẫu 6
Em rất yêu thích khổ thơ thứ hai trong bài thơ Chuyện cổ tích về loài người của nhà thơ Xuân Quỳnh. Tác giả đã thật tinh tế mà miêu tả những sự vật đầu tiên xuất hiện trên trái đất, sau khi có trẻ con. Điều đó thể hiện ở chỗ, bởi trẻ con rất bé nhỏ và vừa mới xuất hiện, nên các sự vật ấy cũng thật nhỏ xinh. Cây chỉ cao bằng gang tay, lá cỏ chỉ to như sợi tóc, bông hoa chỉ bằng cái cúc áo. Nhưng cũng thật là hợp lí, bởi mọi vật đều sinh ra để chăm sóc cho trẻ con, vậy nên nó phải có kích thước phù hợp. Đặc biệt, cách mà nhà thơ dẫn dắt sự xuất hiện của mọi thứ cũng thật là thú vị. Bởi cái gì cũng hiện diện bởi sự “cần” của em bé. Vì trẻ con cần nhìn rõ, nên mới có mặt trời. Vì trẻ con cần được quan sát, vui vẻ nên có cây cối, cỏ hoa và tiếng chim hót. Điều đó, khiến em cảm nhận được sự ưu ái, yêu thương của vạn vật dành cho em nhỏ - mầm non, tương lai của thế giới. Từ đó, cả khổ thơ đã giúp người đọc mường tượng ra những đốm sáng đầu tiên bắt đầu lan tỏa ra, điểm tô cho thế giới từ chính trẻ con
Suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ - mẫu 7
Truyện Kiều là một tác phẩm bất hủ của Nguyễn Du nói riêng và nền văn học nước nhà nói chung. Đoạn “Trao duyên” trích trong tác phẩm là đoạn đặc sắc khắc họa thành công dòng tâm trạng của Thuý Kiều khi ngậm ngùi trao duyên cho em gái Thuý Vân. Theo mạch truyện, nguyện ước kết duyên trăm năm của Thúy Kiều và Kim Trọng chưa được bao lâu thì tai biến xảy đến với gia đình Kiều. Không đành lòng trước sự khổ sở mà cha và em phải gánh chịu, Kiều quyết định bán mình để cứu gia đình. Mọi việc dường như đã xong xuôi, Kiều thức trắng đêm nghĩ đến chàng Kim và tình yêu mặn nồng cùng chàng, vừa day dứt vừa tiếc nuối, Kiều đành cậy nhờ em gái kết duyên với Kim. Đoạn trích từ câu 723 đến câu 756 của tác phẩm: Thuý Kiều mở lời với em: "Cậy em em có chịu lời,Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.” Cả cử chỉ và lời nói của Kiều đều chung một niềm trông mong, nhờ cậy. Hành động “lạy" em của Kiều đã đặt Thúy Vân vào tình huống khó có thể chối từ đồng thời cũng là dấu hiệu cho thấy việc mà Kiều sắp nói với Vân đây là vô cùng hệ trọng: “ Giữa đường đứt gánh tương tưKeo loan chắp mối tơ thừa mặc em” Thành ngữ "đứt gánh tương tư" được tác giả vận dụng thể hiện có ý chỉ tình yêu dang dở của Kiều -Kim. Tình cảm của hai người vừa mới chớm nở, chưa kịp tới ngày viên mãn thì đành ‘đứt gánh”, sóng gió ập tới. Chấp nhận dở dang, Kiều ngậm ngùi trong khổ đau trao lại cho em mối “tơ thừa”. Kiều hiểu được sự thiệt thòi của Vân khi nhận chắp mối duyên với Kim Trọng, bởi dù với Kiều đó là tình yêu đẹp thì với Vân đó chỉ là mối “tơ thừa” mà thôi. Hai từ mặc em được tác giả đặt cuối câu cho thấy Kiều đang đặt hết kỳ vọng vào Vân, mong Vân thay mình làm vẹn tròn nghĩa nặng với chàng Kim. Lời đã nói ra nhưng nào dễ trút đi những nỗi niềm trong tâm khảm. Dằn lòng mình, Kiều tâm sự với em những kỉ niệm đẹp của mối tình với Kim: “Kể từ khi gặp chàng Kim,Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.” Điệp từ "khi” được sử dụng như càng khẳng định tình cảm sắt son của Kiều và Kim Trọng. Họ đã gặp gỡ, hẹn hò, cùng nhau ước nguyện, uống chén rượu giao bôi. Đang sống trong những kỉ niệm đẹp, Kiều lại trở về với hiện thực phũ phàng, cay đắng: “Sự đâu sóng gió bất kì,Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.” Cơn sóng gió ập tới bất ngờ khiến Kiều và gia đình lâm vào nguy biến. Giữa chữ hiếu với gia đình và chữ tình với Kim Trọng, nàng đã chọn chữ hiếu- bán mình để cứu cha và em. Nhưng vẹn đạo làm con, nàng đành buông tay với mối tình dang dở, trở thành kẻ phụ tình. Nàng nghĩ về tình yêu với chàng Kim, không muốn Kim phải chịu sự khổ đau như mình đang gặm nhấm, đành nhờ cậy Vân. Để thuyết phục em thêm, Kiều thủ thỉ: “Ngày xuân em hãy còn dài,Xót tình máu mủ thay lời nước non.Chị dù thịt nát xương mòn,Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.” Bốn câu thơ thốt lên bằng tất cả niềm hy vọng, sự mong cầu, bốn câu thơ như là một lời cầu xin tha thiết tự tận đáy lòng của Kiều. Sự thông minh của Kiều là khéo léo lấy niềm vui của mình được “thơm lây” nơi chín suối nhằm khiến Thúy Vân có không muốn cũng không thể chối từ. Hơn nữa, với Vân, những ngày tháng thanh xuân còn dài, Vân còn tuổi trẻ, còn thời gian còn với Kiều thì bán thân coi như là chấm dứt tuổi trẻ, chôn vùi thanh xuân của mình. Những lý do của Kiều đưa ra vừa hợp lẽ, hợp tình khiến Vân nào thể không nhận lời nhờ cậy từ người chị đáng thương. Khi trao “chút của tin” - chiếc vành với bức tờ mây, Thúy Kiều nhớ đến đêm thề nguyền trong quá khứ, vừa thương tiếc vừa xót xa khôn nguôi, Kiều ngậm ngùi với nỗi đau đớn tột cùng: “Mai sau dù có bao giờĐốt lò hương ấy, so tơ phím nàyTrông ra ngọn cỏ lá cây,Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.” Trao kỷ vật cho em mà lòng đau như cắt, mâu thuẫn trong nội tâm nàng lên đến đỉnh điểm, tay muốn trao mà lòng không nỡ. Đó là sự mâu thuẫn giữa thân phận và nhân cách, giữa lí trí và tình cảm nơi Kiều. Có lẽ với nàng lúc này đây, tình chưa cạn mà đành phải dứt là nỗi đau khôn cùng, sống mà không có được hạnh phúc thì khác gì không tồn tại, vì vậy mà cái chết cứ ám ảnh trong tâm trí nàng. Sáu câu cuối đoạn trích là lời độc thoại đầy thổn thức của Kiều. Nàng như quên hẳn mình đang trò chuyện với Vân mà sống trong tâm trạng của chính mình, lời day dứt thốt lên trong nỗi mặc cảm phụ tình: “Trăm nghìn gửi lạy tình quân,Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.Phận sao, phận bạc như vôi?Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Kiều gửi trăm nghìn lạy cho tình quân của mình là hành động tạ từ tha thiết, chân thành, là cái cúi chào tạm biệt trong nỗi đau chia ly. Tơ duyên tưởng sẽ dài lâu, bền đẹp nào ngờ “ngắn ngủi” giữa đoạn đường. Kiều trách phận mình bạc bỗi như vôi trầu, như hoa chảy bèo trôi giữa dòng, đành chấp nhận tình lỡ làng, xa cách. Thành ngữ “bạc như vôi” cất lên trong tiếng đau thương rỉ máu của Kiều nghe sao xót xa, bi ai đến phẫn cực. “Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!” Đến cuối cùng, Kiều vẫn nghĩ cho người khác. Nỗi đau mà nàng đang chịu vô bờ mà vẫn tự trách mình là kẻ phụ bạc, lo lắng cho người thương. Những gọi Kim Lang cất lên trong tha thiết càng tô đậm thêm trái tim nhân hậu, trọng nghĩa trọng tình của Thuý Kiều. Đoạn trích "Trao duyên" tuy không quá dài là một đoạn tích vô cùng đặc sắc. Qua đó là thấy được vẻ đẹp của một tấm lòng thuỷ chung, son sắt, thấu hiểu nỗi đau đớn giằng xé tâm can của người con gái trong tình yêu và cảm nhận được tính nhân văn cao cả trong từng tứ thơ mà Nguyễn Du sáng tạo nên.
Suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ - mẫu 8
Trong nền văn học Việt Nam, Xuân Quỳnh là một gương mặt thơ tiêu biểu trong thế hệ trẻ những năm tháng chống Mĩ với những đóng góp nổi bật qua các tác phẩm thể hiện tiếng nói trữ tình của tuổi trẻ. Tiếng thơ của Xuân Quỳnh luôn giàu vẻ đẹp nữ tính qua trái tim và tiếng lòng tha thiết với những hạnh phúc bình dị đời thường gắn với những dự cảm, lo âu. Điều này đã được thể hiện rõ thông qua thi phẩm “Sóng”- một trong những bài thơ tình nổi tiếng góp phần khẳng định vị trí “nữ hoàng thơ tình Việt Nam” của thi sĩ. Trong tác phẩm, sóng và em là hai hình tượng trung tâm cùng song hành, có lúc tách biệt, có lúc quyện hòa để thể hiện những cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ tình về tình yêu, về hạnh phúc đời thường. Bài thơ đã thể hiện tình yêu của trái tim người phụ nữ vừa hiện đại, mới mẻ vừa đậm chất truyền thống. Qua hình tượng sóng, trước hết nhà thơ đã tái hiện thành công những trạng thái đối cực trong sự mâu thuẫn của tình yêu: “Dữ dội và dịu êmỒn ào và lặng lẽ” Thông qua việc miêu tả trạng thái của những con sóng biển đang ngày đêm vỗ vào bờ, tác giả đã tái hiện sự thay đổi của tâm trạng người phụ nữ trong tình yêu: lúc ồn ào dữ dội, khi sâu lắng dịu êm. Đó chính là biểu hiện quen thuộc của một trái tim yêu chân thành, mãnh liệt. Bởi vậy, tình yêu đó không chịu sự gò bó trong không gian chật hẹp mà luôn đi theo tiếng gọi của trái tim để vươn tới hạnh phúc: “Sông không hiểu nổi mìnhSóng tìm ra tận bể” Giống như những con sóng tự do vùng vẫy nơi đại dương xanh thẳm, ngày đêm vỗ sóng hòa mình vào nhịp thở của biển cả bao la, người con gái khi yêu cũng sẵn sàng vượt qua tất cả để kiếm tìm tâm hồn đồng điệu và tình yêu đích thực. Qua đó chúng ta có thể thấy được khát vọng hạnh phúc thường trực mạnh mẽ trong trái tim người phụ nữ. Đây chính là yếu tố tạo nên vẻ đẹp độc đáo và riêng biệt, hiện đại, mới mẻ trong những vần thơ viết về tình yêu. Nếu như trong thơ ca xưa, hình tượng người phụ nữ luôn hiện lên qua sự cam chịu, nhẫn nhục: “Thân em như hạt mưa sa - Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày” thì người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh đã mạnh mẽ phá bỏ mọi chiều kích chật hẹp, tù túng để vươn tới không gian khoáng đạt của tình yêu. Vẻ đẹp hiện đại trong những vần thơ của “Sóng” còn được thể hiện thông qua trái tim đa sầu đa cảm và tấm lòng trắc ẩn, dự cảm lo âu của người phụ nữ đang yêu: “Cuộc đời tuy dài thếNăm tháng vẫn đi quaNhư biển kia dẫu rộngMây vẫn bay về xa Đồng thời, những nhịp thơ trải dài nhịp nhàng theo nhịp sóng vỗ còn nhấn mạnh khát vọng của nữ sĩ: Làm sao được tan raThành trăm con sóng nhỏGiữa biển lớn tình yêuĐể ngàn năm còn vỗ” Nữ sĩ Xuân Quỳnh đã sử dụng số từ ngàn - trăm để diễn tả khát vọng vĩnh cửu hóa tình yêu đôi lứa thông qua việc hóa thân vào những ngọn sóng ngoài khơi xa. Khát vọng lớn lao đó đã thể hiện trái tim yêu say đắm, chân thành luôn thường trực trong tâm hồn người phụ nữ. Bên cạnh vẻ đẹp mang tính hiện đại, những vần thơ của Xuân Quỳnh còn gợi lên những cảm nhận sâu xa về vẻ đẹp tình yêu truyền thống qua việc thể hiện nỗi nhớ mong da diết: “Con sóng dưới lòng sâuCon sóng trên mặt nướcÔi con sóng nhớ bờNgày đêm không ngủ đượcLòng em nhớ đến anhCả trong mơ còn thức” Nếu như những con sóng là yếu tố tạo sự độc đáo của biển cả thì nỗi nhớ chính là đặc trưng nổi bật gắn với tình yêu đôi lứa. Bởi vậy, trong kho tàng ca dao Việt Nam, có rất nhiều câu thơ viết về nỗi nhớ: “Nhớ ai ra ngẩn vào ngơNhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai” Hay: “Nhớ ai bổi hổi bồi hồiNhư đứng đống lửa như ngồi đống than” Qua những câu ca dao dạt dào tình cảm, độc giả có thể thấy được tình yêu luôn gắn với nỗi nhớ. Đến với những câu thơ của Xuân Quỳnh, nỗi nhớ được giãi bày một cách trực tiếp: “Lòng em nhớ đến anh - Cả trong mơ còn thức”. Nỗi nhớ đã đi sâu vào tiềm thức của người phụ nữ và trở thành biểu hiện cao nhất thể hiện tình yêu đằm thắm, tha thiết và chân thành. Và cũng như người phụ nữ truyền thống, tình yêu đối với Xuân Quỳnh luôn gắn liền với sự thủy chung son sắt: “Dẫu xuôi về phương bắcDẫu ngược về phương namNơi nào em cũng nghĩHướng về anh một phương” Qua cách nói sáng tạo “xuôi về phương bắc / ngược về phương nam”, tác giả đã khẳng định sự thủy chung son sắt trong tình yêu có thể vượt qua mọi chiều kích, giới hạn không gian. Hai tiếng “một phương” vang lên đã như một lời thề nguyện thiêng liêng về tình yêu duy nhất vẹn tròn, tha thiết. Qua đó, độc giả có thể thấy được khát vọng cháy bỏng của nữ sĩ về hạnh phúc, tình yêu. Như vậy, qua kết cấu song hành bằng việc sử dụng hai hình tượng “sóng” và “em” vừa quyện hòa, vừa tách biệt, tác giả Xuân Quỳnh đã diễn tả về một tình yêu vừa mang vẻ đẹp hiện đại mới mẻ, vừa đậm chất truyền thống qua lăng kính độc đáo của người phụ nữ say đắm trong tình yêu. Bằng thể thơ năm chữ cùng cách ngắt nhịp linh hoạt, nữ sĩ đã tạo nên một bài ca bất hủ về tình yêu gắn với niềm thương, nỗi nhớ và hạnh phúc bình dị đời thường.
Suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ - mẫu 9
Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải là một bài thơ trong trẻo, thiết tha. Nó là phần tinh túy nhất của một con người luôn khát khao cống hiến, khát khao sống có ý nghĩa. Nó là tiếng lòng của nhà thơ và cũng là của tất cả những ai ham mê cái cuộc sống trần gian rất đẹp đẽ này. Mùa xuân nho nhỏ ra đời khi nhà thơ đang nằm trên giường bệnh. Chắc hẳn, vào những ngày cuối cùng ấy, sau những chiêm nghiệm về cuộc sống với tất cả tình yêu, Thanh Hải muốn tiếp tục cất lên tiếng hót của "con chim chiền chiện" để góp nên một "mùa xuân nho nhỏ" cho cuộc đời, cho con người và cho đất nước yêu thương. Với thể thơ 5 chữ, với cách ngắt nhịp nhanh, gọn mà vẫn có độ dư ba, bài thơ đã dâng lên trong lòng tôi cảm giác rộn ràng, náo nức. Những gam màu trong trẻo, những hình ảnh đẹp, tươi sáng và đầy sức sống trong mỗi câu thơ cứ thấm dần vào trái tim tuổi trẻ của tôi. Mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước được nhà thơ cảm nhận trong sự căng đầy của nhựa sống, trong nhịp sống đang hối hả và trong sự tươi non mơn mởn của những hi vọng vào tương lai. Giữa màu xanh yên bình của dòng sông xuân, sắc tím biếc của bông hoa không hề lạc lõng, chông chênh. Nó bám chắc vào lòng sông như một sợi dây vô hình làm nên sức sống. Trên cái nền màu dịu êm của "sông xanh" và "hoa tím biếc", tiếng hót trong vắt của con chim chiền chiện vút cao, ngân vang đến bất tận đến trời xanh. Từng tiếng, từng tiếng chim trong veo hay tiếng nhịp thở của khí xuân hoà vào trời đất, vang vọng vào trong lòng người như những "giọt tâm hồn" sáng long lanh. Tiếng hót ấy khiến ta không thể dửng dưng mà khiến ta phải thốt lên tiếng gọi rủ về cái khát khao muốn nắm bắt, muốn "đưa tay hứng". Không tách mình khỏi khí xuân của thiên nhiên, đất nước trong công cuộc chuyển mình đi lên cũng rộn ràng, hối hả. Sức sống của đất nước không chung chung, trừu tượng mà nó biểu hiện ra ở "sức xuân" của mỗi con người. Mùa xuân trên lưng lính, lộc xuân trong tay người nông dân. Mỗi bước đi của người gieo thêm một chồi biếc, một mầm non. Và cứ thế, sức xuân của đất nước lại dâng lên như những lớp sóng xôn xao. Đất nước phấn chấn, hứng khởi trong một nhịp thở mới, hối hả khẩn trương. Niềm tin mới của dân tộc được chắp cánh từ truyền thống bốn nghìn năm dựng nước. Thế nên, dẫu biết có những vất vả và gian lao nhưng cả nước "vẫn đi lên phía trước" với một quyết tâm không mệt mỏi. Những câu thơ của Thanh Hải đầy ắp hình ảnh, màu sắc và âm thanh. Nó tạo nên một không khí sôi nổi, háo hức, phơi phới vui tươi. Nó là một bức tranh tươi sáng sắc màu, là một bản nhạc rộn ràng tiết tấu trong trẻo, ngân nga và gợi cảm. Điều đặc biệt là: bức tranh thiên nhiên, bức tranh đất nước đầy sức sống ấy đã được nhà thơ cảm nhận khi ông đang ở vào cái giây khắc sắp lìa đời. Trên giường bệnh, nhà thơ vẫn mở rộng hồn mình, lắng nghe và đón nhận tất cả những thanh âm xao động của cuộc sống ngoài kia. Ông vẫn lắng nghe từng bước đi rất khẽ của đời. Bốn bức tường của phòng bệnh không thể ngăn cách cuộc đời với nhà thơ, những cơn đau của bệnh tật không làm giảm ý chí, bầu nhiệt huyết và niềm tha thiết yêu đời trong trái tim của người nghệ sĩ. Cái nghị lực phi thường ấy đáng để ta phải nâng niu và trân trọng xiết bao. Bài thơ khép lại trọn vẹn trong tâm hồn và sự say sưa của người đọc bằng một ước nguyện thật chân thành và mãnh liệt biết bao. Nó thực là một khát khao đang bùng cháy: muốn được làm một nhành hoa như bông hoa tím biếc kia, muốn làm con chim hót vang trời những giọt long lanh như con chim chiền chiện. Cái khát khao không hề gợi một chút gì về hình ảnh khổ đau của một con người đang chết. Nó giống cái mãnh liệt và rạo rực của một sức thanh xuân đang tràn trề nhựa sống và khát khao cống hiến cho đời. Nhiều người đã từng đồng ý với tôi rằng: những người trẻ tuổi đọc Mùa xuân nho nhỏ có thể tìm ra lý tưởng sống cho mình, còn với những người đã dâng cả tuổi thanh xuân cho đất nước thì vẫn thấy mình còn có thể làm được nhiều hơn. Mùa xuân nho nhỏ quả đã không chỉ là niềm say mê của riêng tôi. Nó xứng đáng là một bài thơ hay trong tủ sách quý của muôn người.
Suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ - mẫu 10
Có lẽ khi nhắc đến một trong những bài thơ mà em yêu thích thì không thể nào em lại quên được bài thơ “Đêm Thu” của nhà thơ Trần Đăng Khoa. Yêu “nó”, yêu luôn cả cái “thu” chất chứa trong đó. Không biết đã từ bao giờ cái chất “ấy” đã thắm sâu tận đáy tâm hồn của em. “Thu về lành lạnh trời mâyBỗng nhiên thức giấc nào hay mấy giờ.Ánh trăng vừa thực vừa hưVườn sau gió nổi nghe như mưa rào.” Bài thơ “Đêm Thu” có tất cả bốn câu thật ngắn, thật đơn sơ, nhưng nó cũng đầy những phong vị đặc sắc riêng của đêm thu. Quả đúng như vậy, ngay từ cái lần đầu tiên ta đọc đã để lại cho ta cái cảm giác mới lạ. Đó chính là cảm giác rất “thu” của tác giả nói chung và của đọc giả nói riêng. Từ dòng đầu tiên “nó” đã cho ta cảm nhận được cái thời tiết “lành lạnh trời mây” đặc trưng của mùa thu. Chính cái “lành lạnh” này đã làm ta một phần nào nhớ đến những ngày ta được mặc chiếc áo len rất model khi đến dịp này. Hay chính cái “lành lạnh” này làm cho giọng nói của ta thêm phần nào ấm áp, ngân nga và tâm hồn thêm nhạy cảm hơn… Không ngờ nhận xét của Trần Đăng Khoa lại tinh tế đến thế, ngay vào bài đã bật lên được một nét đặc biệt đó. Đến đoạn thứ hai, cái mà mọi người hay gọi là “tự nhiên” lại khơi dậy lần nữa. Tại sao nhà thơ viết về thu lại không viết lá vàng rụng, bầu trời xanh hay những rặng liễu buông lệ… mà lại viết “…Bỗng nhiên thức giấc nào hay mấy giờ…”? “Nó” thật tình cờ, ý thơ trong câu này như đang hỏi, đang tâm sự và như đang cảm nhận cái “thu” khi đó. Trẻ thơ thường có những giấc ngủ say đắm và ngon lành, đâu có chợt nửa đêm mà thức giấc như thế này! Tuy nhiên, sự bất chợt ấy tuy có bất chợt mà nó lại độc đáo, khiến cho người đọc có thể một phần nào cảm nhận được cái bất ngờ trong đoạn 2 này. Chắc có lẽ từ khi nào mùa thu đã tác động vào cảm quan chú bé một cách khác thường hay là do tâm hồn của nhà thơ nhỏ tuổi đã từng bước đón nhận lấy điệu thu “lành lạnh” đầu mùa đang lan tỏa khắp không gian? Câu thơ này đã phần nào miêu tả được mối dây gắn bó mỏng manh mà mơ hồ, nhưng cũng rất sâu xa kỳ diệu giữa con người và thiên nhiên. Sự cảm nhận cái se lạnh của đêm thu đã được Trần Đăng Khoa diễn tả thật hồn nhiên và cũng thật tinh tế. “Nó” mộc mạc, giản dị,nghe cứ rõ ràng như một lời nói thường, mà lại vẫn đầy khêu gợi, “nó” vẫn đúng là thơ, man mác một niềm thơ. Dường như câu hỏi “nào hay mấy giờ” của tác giả đã làm tăng thêm tính huyền ảo, làm nên cái man mác nói trên. Có lẽ đây cũng phần nào làm nên nét đặc sắc của bài: Khoa chỉ hồn nhiên, không tính toán gì khi lựa chọn câu thơ cho phù hợp. Nhưng đây là vẻ hồn nhiên đã qua lắng đọng, là nét tác động rất thật lúc đã được tinh lọc qua tâm hồn người thi sĩ – không hề có dấu vết gọt giũa chữ nghĩa, chỉ thấy đâu đây vang vọng tiếng của lòng người thôi! Bước qua đoạn 3 của bài thơ, tác giả có viết: “Ánh trăng vừa thực vừa hư…” Đến đây, tại sao tác giả lại nói “vừa thực, vừa hư”? Có lẽ đây là trăng khuyết chăng? Hay là trăng tròn? Nhiều câu hỏi đặt ra cho 4 chữ “..vừa thực vừa hư..” trên. Lời văn thật bí ẩn kèm theo những hình ảnh chất chứa những nỗi niềm có thể làm cho tim ta rung động. Nhiều nhà thơ, nhà văn viết về ánh trăng… ví ánh trăng như mẹ, như người bạn. Còn nhà thơ Trần Đăng Khoa thì không nói gì về vầng trăng mà chỉ nói “nó” vừa thực, vừa hư mà thôi. Khiến vầng trăng ở đây thêm sức quyến rũ và đặc sắc. Câu thơ cuối, cái ý vị mông lung, mơ màng, cái không khí tĩnh lặng và cái cảm giác nửa thực nửa ảo bây không còn nữa. Gió giờ đây đã thổi, vả nổi mạnh, “nghe như mưa rào”. Từ dịu êm đã thành xáo động. Từ đây, thiên nhiên lúc chuyển mùa đã thức dậy trong tâm hồn tự lúc nào mà ta dường như chẳng hay chẳng biết. Trăng và gió đêm thu, bao người đã viết về nó – từ “Trái trăng thu chín mõm mòm” của Hồ Xuân Hương… - đến “gió no mà bay lên nguyệt kia” của Xuân Diệu – nhưng trong bài mảnh trăng mơ hồ “ vừa thực vừa hư” khá mung lung huyền ảo và trận gió nổi “nổi” chứ không “thổi” chung chung – bạo liệt, phấn khích “nghe như mưa rào”. Ánh trăng ru êm và trận gió thức gọi – những cảm xúc phức tạp, đa dạng lúc chuyển mùa, làm phong phú thêm cuộc sống chúng ta. Không hiểu sao lòng em lại yêu bài “Đêm Thu” này!?! Cứ mỗi lần đọc bài thơ thì lòng em lại cứ bồi hồi. Mỗi câu cứ làm cho lòng em thêm xao xuyến. Nó cứ nhẹ nhàng mà làm sống dậy trong mình cái cảm giác hòa nhập cùng thiên nhiên, vũ trụ. Một đêm thu huyền ảo, ngây ngất đồng thời gợi thức tất cả tâm hồn – một đêm thu rất “thu”! Đọc xong bài thơ, chúng ta mới hiểu rằng cái hồn nhiên, dung dị, vừa gợi mở sâu sắc. Với cách dùng từ, ngôn ngữ rất vô tư, rất phong phú, rất thiên nhiên và rất “thu” của thơ Trần Đăng Khoa.
Suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ - mẫu 11
Trăng là chủ đề sáng tác, là cảm hứng của các thi nhân và Bác Hồ không chỉ là chiến sĩ mà còn là một nhà thơ lớn có tình yêu thiên nhiên với tâm hồn nhạy cảm. Trong những năm đầu ở chiến khu Việt Bắc, trong một đêm trăng đẹp, Bác đã sáng tác ra bài thơ Cảnh khuya để lại trong em nhiều cảm xúc “Tiếng suối trong như tiếng hát xa,Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoaCảnh khuya như vẻ người chưa ngủChưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.” Bài thơ “Cảnh khuya” thể hiện tình yêu thiên nhiên song hành cũng là tình yêu nước sâu đậm của Bác trong một đêm trăng ở núi rừng Việt Bắc “Tiếng suối trong như tiếng hát xa” Khi mọi người đã chìm sâu vào giấc ngủ, một màn đêm thanh tĩnh buông xuống khắp khu rừng, nó làm cho tiếng suối dù ở rất xa vẫn theo gió mang tiếng ca êm đềm, trong vắt của mình cho những người yêu vẻ đẹp sáng ngời của đêm trăng cùng thưởng thức. Tiếng suối và ánh trăng, chao ôi hai thứ ấy hòa quyện thì thật là tuyệt vời! Nó khiến cho người đang tham gia chính sự như Bác đã có một cảm nhận tinh tế về tiếng ca này. Tiếng suối dịu êm khoan nhặt như một khúc hát trữ tình sâu lắng. Bác đã khéo léo dùng nghệ thuật lấy động tả một khung cảnh yên tĩnh có thể nghe rõ âm vang từ xa vọng lại. Và Người đã so sánh tiếng suối với tiếng hát để nhấn mạnh nét gợi tả mang sức sống và hơi ấm của con người. Sự ví von trên đã làm cho em nhớ lại câu thơ trong tác phẩm “Côn Sơn ca” của Nguyễn Trãi từng viết “Côn Sơn suối chảy rì rầmTa nghe như tiếng đàn cầm bên tai.” Mỗi vần thơ, mỗi khung cảnh, âm thanh đều là tiếng suối nhưng được cảm nhận khác nhau ở nhiều khía cạnh. Song tất cả vẫn là một tình yêu thiên nhiên. Câu thơ đã cho ta thấy rằng: dù là một vị lãnh tụ cách mạng nhưng Bác vẫn mang tâm hồn tràn đầy tình cảm lãng mạn, đẹp đẽ. Cám ơn Bác, ngòi bút tài hoa và tâm hồn yêu thiên nhiên say đắm của Người đã giúp em cảm nhận sự ngọt ngào, du dương của âm thanh suối chảy “Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa” Ánh sáng dịu dàng, thanh khiết từ ánh trăng len lỏi chiếu vào lá và hoa tạo nên vẻ đẹp lấp lánh. Hoa lá nghiêng bóng trên mặt đất tạo nên những bức tranh lấp loá, lúc ẩn lúc hiện. Hoa lá cỏ cây và ánh trăng lồng quyện vào nhau, trăng đan vào cây cổ thụ, trăng tràn vào hoa. Đó như một bức tranh tuyệt vời của đất nước. Bác đã làm mọi sự vật sống động qua nghệ thuật nhân hóa “lồng” để miêu tả đan xen cay lá và ánh trăng. Bác quả là một người đa cảm và có tâm hồn vô cùng phong phú! Trăng trở nên thú vị và lãng mạn trong cảnh khuya sáng ngời, lung linh, huyền ảo. Đọc thơ mà em cứ hình dung cảnh thơ như đang hiện lên mờ ảo trước mắt. Khung cảnh thật thơ mộng kết hợp với nhạc tạo nên một bức tranh đầy sinh động. Vì vẻ đẹp bất tận của mình, trăng là người bạn của các nhà thơ, ta khó có thể hững hờ với vẻ đẹp của trăng “Cảnh khuya như vẻ người chưa ngủ” Đọc đến đây ai cũng nghĩ Bác vẫn còn thức vì trăng, vì sự cuốn hút của thiên nhiên nhưng người không chỉ xúc động trước vẻ đẹp của đất trời mà còn vì “Chưa ngủ vì nỗi lo nước nhà” Nước nhà đang bị giặc xâm lăng, giày xéo, bao người còn sống trong cơ cực, lầm than. Và để nhấn mạnh nỗi lo của mình, Bác đã điệp vòng “chưa ngủ” như láy lại tâm tư của Bác, một người luôn nặng lòng với quê hương. Hai câu thơ cuối giúp ta thấy rõ hơn con người của Bác. Một con người yêu thiên nhiên tha thiết nhưng cũng chính vì yêu thiên nhiên mà luôn lo cho sự nghiệp của đất nước.Đây chính là nỗi lòng, là tâm tình của vị lãnh tụ. Đồng thời ta cũng đã thấy Bác Hồ của chúng ta dẫu bận trăm công nghìn việc nhưng Bác vẫn dành thời gian để chiêm ngưỡng thiên nhiên, có lẽ thiên nhiên chính là người bạn giúp Bác khuây khỏa, bớt đi sự vất vả mà Bác phải trăn trở suy tư. Từ đây, ta nhận thấy Bác là một người luôn biết hài hòa giữa công việc với tình yêu thiên nhiên và càng yêu thiên nhiên thì trách nhiệm đối với công việc càng cao bởi ta có thể nhận thấy đằng sau hình ảnh người ung dung ngắm trăng đó là một nỗi khao khát về một đất nước thanh bình, để ngày ngày con người được sống tự do, hạnh phúc. Dường như trong Bác luôn xoáy sâu câu hỏi: Biết đến bao giờ đất nước mới đc tự do để con người thỏa sức ngắm trăng? Đọc đến đây ta càng hiểu rõ hơn con người của Bác đó là một người luôn canh cánh trong lòng nỗi lo vì dân vì nước, vì đất nước Bác có thể hi sinh tất cả. Hình ảnh của Bác làm em dâng trào cảm xúc mến yêu, kính trọng Bác. Và ta đã luôn tự hỏi rằng: Có bao giờ Người được thảnh thơi để tận hưởng niềm vui của riêng mình? Bác thật vĩ đại trong tâm hồn em và của cả dân tộc Việt Nam. Qua bài thơ, ta cảm nhận được lòng yêu quê hương trong Bác thật sâu đậm, lớn lao và đã bắt gặp một tâm hồn thanh cao lồng trong cốt cách người chiến sĩ cộng sản. Tác phẩm là một bức tranh đẹp về quê hương, về con người và sự sự hài hòa giữa cảnh và tình. Bài thơ đã khép lại trong niềm xúc động dạt dào. Bác đã để lại cho đời những vần thơ hay đầy ý nghĩa, những vần thơ đó đã khơi dậy trong em tình yêu thiên nhiên và niềm kính yêu vô hạn vị Cha già của dân tộc. Qua bài thơ này ta càng hiểu rằng trong hoàn cảnh nào, Bác vẫn giữ được thái độ bình tĩnh chủ động như vậy, mặc dù ẩn trong phong thái ung dung tự tại ấy là nỗi lo cho nước, nỗi thương dân. Trong cuộc đời 79 năm, Bác Hồ có biết bao đêm không ngủ vì nhiều lẽ nhưng điều khiến chúng ta cảm phục vô hạn đó là ý thức, trách nhiệm của Bác trước vận mệnh nước nhà. Ý thức ấy ở Bác không chút nào xao lãng. Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 7 hay khác: Xem thêm các bài Soạn văn lớp 7 Cánh diều hay nhất, ngắn gọn khác: Hướng dẫn tự đọc trang 94 Đọc hiểu văn bản trang 95, 96 Viết trang 97 Nói và nghe trang 97 Tiếng Việt trang 97 Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85 4.5 (243) 799,000đs 199,000 VNĐ 4.5 (243) 799,000đ 99,000 VNĐ 4.5 (243) 999,000đ 299.000 - 599.000 VNĐ Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube: Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Trang web chia sẻ nội dung miễn phí dành cho người Việt. Lớp 1-2-3 Lớp 4 Lớp 5 Lớp 6 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 9 Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Lập trình Tiếng Anh Chính sách bảo mật Hình thức thanh toán Chính sách đổi trả khóa học Chính sách hủy khóa học Tuyển dụng Tầng 2, số nhà 541 Vũ Tông Phan, Phường Khương Đình, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, Việt Nam Phone: 084 283 45 85 Email: vietjackteam@gmail.com CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội. 2015 © All Rights Reserved.
Có ý kiến cho rằng ăn mặc, sinh hoạt hằng ngày giản dị là biểu hiện của lối sống lạc hậu, quê mùa - mẫu 1
Dân tộc ta từ xưa đến nay luôn đề cao đức tính giản dị của con người. Nó không những là một phẩm chất cao quý mà còn là lối sống, lối ứng xử in đậm trong văn hóa của người Việt. Có ý kiến cho rằng: ăn mặc sinh hoạt hằng ngày giản dị là biểu hiện của lối sống quê mùa lạc hậu. Giản dị là một lối sống không trọng vật chất của con người. Giản dị biểu hiện ở lối sống đơn giản, không cầu kì, xa hoa, không phô trương hay lãng phí của cải vật chất. Giản dị còn thể hiện ở tinh thần yêu chuộng cuộc sống bình dị, gần gũi với thiên nhiên. Giản dị còn biểu hiện ở lời ăn tiếng nói hiền hòa, điềm đạm, có tình, có nghĩa của con người. Lạc hậu là bị tụt lùi lại phía sau, không theo kịp đà phát triển chung của xã hội. Sống quê mùa lạc hậu sẽ khiến cho con người không phát triển bản thân, không nắm bắt được những xu thế của xã hội hiện đại. Sống giản dị không đồng nghĩa với việc sống lạc hậu, quê mùa nên ý kiến trên hoàn toàn không chính xác. Người giản dị không những giản dị trong cách xây dựng không gian sống. Họ còn giản dị cả trong lời nói, ăn mặc, công việc và ứng xử. Người giản dị thường ăn nói điềm đạm, ứng xử lịch sự, nhã nhặn. Họ ít khi có lời gắt gỏng hay xung đột với ai. Họ lấy nghĩa tình làm nguyên tắc ứng xử của mình. Những bất đồng ít khi trở thành xung đột, dĩ hòa vi quý. Một người giản dị thường không khoa trương, không dùng lời lẽ xa hoa, bóng bẩy. Lời nới của họ đơn giản, ngắn gọn, dễ hiểu, truyền đạt đúng và đầy đủ thông tin mà họ muốn nói. Trong ăn mặc, họ ít khi cầu kì. Cuộc sống giản đơn như đồng quê cây cỏ. Ăn uống đối với họ cũng hết sức đạm bạc. Họ cũng không thích những bộ trang phục lòe loạt, kiểu cách. Trang phục của họ thường rất bình dị, hòa hợp với hoàn cảnh xung quanh. Trong công việc, họ cầu tiến nhưng không quá tham vọng. Họ sẵn sàng đối đầu với khó khăn thử thách để hoàn thành tốt công việc. Ít khi nào ta thấy họ bỏ cuộc hay chấp nhận thất bại một cách dễ dàng. Vì thế em  không tán thành với ý kiến trêm. Một người, có thể xem là ví dụ tiêu biểu nhất của lối sống giản dị. Đó là chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta. Người giản dị từ lời ăn, tiếng nói tới hành động cử chỉ của mình. Kể cả khi đã làm chủ tịch của một nước, Người vẫn không hề sống một cuộc sống xa hoa. Người vẫn luôn giữ cho mình một đức tính giản dị. Người được rất nhiều người nể phục, tin tưởng, yêu thương. Sự giản dị của Người như là một chuẩn mực cho các thế hệ tiếp theo noi gương. Những đức tính giản dị của Người là một trong những di sản mà người để lại cho thế hệ sau này, một đức tính tuyệt vời từ một nhà lãnh đạo tối cao của dân tộc.
Dàn ý Có ý kiến cho rằng ăn mặc, sinh hoạt hằng ngày giản dị là biểu hiện của lối sống lạc hậu, quê mùa
1. Mở bài: Giới thiệu về nhận định: Có ý kiến cho rằng ăn mặc, sinh hoạt hàng ngày giản dị là biểu hiện của lối sống lạc hậu, quê mùa, đưa ra quan điểm đồng tình/ không đồng tình với ý kiến 2. Thân bài a) Giải thích ý kiến + Giản dị là sống một cách đơn giản, tự nhiên, không cầu kì phô trương trong lối sống. b) Biểu hiện của lối sống giản dị - Lối sống giản dị bộc lộ ở nhiều phương diện: trang phục, ăn uống, thói quen, giao tiếp, nói năng, phong cách làm việc... + Trang phục phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện, gọn gàng và tiện dụng, tránh cầu kì, loè loẹt. + Cách ứng xử lịch sự, đúng mực; cách suy nghĩ và sử dụng ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, không hoa mĩ, cầu kì rắc rối... + Cách sinh hoạt: hòa đồng với mọi người, tự nhiên và gần gũi trong cách cư xử; không tự coi mình là người đặc biệt, khác người mà cần thấy mình bình thường như những người khác. - Cốt lõi của lối sống giản dị là sự ý thức sâu sắc về mục đích và cách sống sao cho hoà đồng và thoải mái, tự nhiên để tạo thành một phong cách sống. Sống giản dị cũng là biểu hiện của sự sâu sắc trong nhận thức về cuộc sống. c) Tác dụng của lối sống giản dị - Giản dị khiến người ta dễ hòa nhập với mọi người, làm cho con người trở nên thân thiện với nhau và giúp ta có thêm bạn bè... góp phần làm sáng lên nhân cách của mỗi con người. - Giản dị tạo nên sự thanh thản, bình yên trong tâm hồn và sự nhàn nhã, thư thái trong nhịp sống. Khiến con người hòa đồng với tự nhiên, gắn bó sâu sắc với các cá nhân khác. - Sống giản dị là một trong những cách để mỗi người sống thật, sống có hứng thú, có ý nghĩa. - Sống giản dị giúp chúng ta hoàn thiện bản thân và tạo cho xã hội sự hòa đồng, bình đẳng, nhân ái. d) Mở rộng, phản đề - Lối sống giản dị hoàn toàn khác với lối sống cẩu thả, lạc hậu, gò bó, khuôn mẫu; giản dị cũng không đồng nghĩa với tiết kiệm, hà tiện... giản dị phù hợp với điều kiện, với hoàn cảnh vẫn thể hiện được sự tao nhã, thanh lịch, văn hóa. - Phê phán lối sống xa hoa, đua đòi hay giản dị một cách giả tạo. - Để sống giản dị, con người phải trải qua sự rèn luyện, cần một năng lực sống, quyết tâm cao, cũng cần hoà mình vào cuộc sống đế sống và cảm nhận, cần loại bỏ lòng tham và bù đắp tình yêu cuộc sống. Đó là cách để tránh mọi cám dỗ, giảm áp lực tinh thần và nâng cao bản lĩnh văn hoá. e) Bài học nhận thức và hành động Nhận thức được giản dị là một lối sống đẹp. Là học sinh, mỗi chúng ta cần học tập phong cách sống giản dị, chân thành. Ở tuổi học đường, nên chú ý đến việc học tập và tu dưỡng, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với mọi người và sống cởi mở, chân thành, đơn giản. 3. Kết bài: Có thể kể ngắn gọn một câu chuyện nhỏ, một sự việc có thật trong đời sống làm cơ sở để rút ra bài học và những suy nghĩ, cảm xúc chân thành, thấm thìa.
Có ý kiến cho rằng ăn mặc, sinh hoạt hằng ngày giản dị là biểu hiện của lối sống lạc hậu, quê mùa - mẫu 2
Trong cuộc sống mỗi người sẽ lựa chọn cho mình một lối sống. Bản thân em sẽ lựa chọn cho mình lối sống giản dị. Em phản đối ý kiến cho rằng ăn mặc sinh hoạt hằng ngày giản dị là biểu hiện của lối sống lạc hậu, quê mùa. Giản dị là một cách sống tự nhiên thể hiện qua lối ăn mặc, phong cách làm việc, cách ứng xử với mọi người… Trong ăn mặc ta lựa chọn cho mình những bộ trang phục phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện. Đừng cố tỏ ra mình là người sành điệu, hợp thời trang mà đánh mất bản thân. Đối với học sinh thì ăn mặc giản dị là điều vô cùng cần thiết. Chúng ta mặc đồng phục, tóc tai gọn gàng đúng quy định của nhà trường là thể hiện giản dị. Khi mặc những trang phục cầu kì, kiểu cách sẽ làm chúng ta khác biệt với mọi người một cách vô nghĩa. Nếu quần áo bạn quá sành điệu mà khôngphù hợp với hoàn cảnh chẳng hóa là chúng ta dang thiếu tôn trọng mọi người, chúng ta trở thành những kẻ lố bịch hay sao? Giản dị còn được thể hiện ở việc chúng ta biết cách cư xử đúng mực. Sống hòa đồng với mọi người, luôn quan tâm giúp đỡ những người xung quanh. Sống giản dị sẽ giúp chúng ta tiết kiệm được tiền bạc, thời gian công sức đầu tư vào những thứ phù phiếm xa hoa. Sống giản dị cũng giúp chúng ta sẽ dễ dang hòa nhập với mọi người xung quanh, giúp chúng ta có thêm bạn. Hơn nữa, sống giản dị cũng giúp ta thư thái tâm hồn, gắn bó sâu sắc với cộng đồng. Vậy thì chẳng có lí do gì để nói sống giản dị là lạc hâu, quê mùa. Chúng ta chỉ quê mùa lạc hậu khi chúng ta có những hành động lố bịch, thiếu hiểu biết. Giống như một nhà văn đã từng nói “ Quần áo giản dị là y phục đúng kiểu của kẻ thô tục; chúng được may cho họ và phù hợp hoàn toàn với tiêu chuẩn cuả họ, nhưng đối với nhữngngười đã đổ đầy cuộc đời mình với những hành động lớn lao thì chúng lại được trang trí lộng lẫy”. Giản dị chính là một trong những điều làm nên chuẩn mực và sự thanh lịch cho tâm hồn. Chính vì vậy chúng ta hãy luôn giữ cho mình một lối sống giản dị.
Có ý kiến cho rằng ăn mặc, sinh hoạt hằng ngày giản dị là biểu hiện của lối sống lạc hậu, quê mùa - mẫu 3
Từ xưa tới nay có rất nhiều tấm gương về đức tính giản dị mà chúng ta cần phải học tập. Đầu tiên là phải nhắc đến Chủ tịch Hồ Chí Minh người được cả thế giới khâm phục và ngưỡng mộ. Mặc dù là chủ tịch nước nhưng Người lại sống một cuộc sống hết sức giản dị chứ không như những vị chủ tịch khác. Trang phục thường ngày của Bác chỉ là bộ bà ba nâu đã phai màu, bộ kaki đã cũ và đôi dép lốp cao su. Nơi làm việc của Bác cũng chỉ là một ngôi nhà sàn nhỏ bé đơn sơ chỉ vỏn vẹn có hai phòng. Ngay cả trong cách ăn nói người cũng rất giản dị ngắn gọn và dễ hiểu như "ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, ốm đau được chữa bệnh". Hai chúng ta có thể kể đến Nguyễn Trãi cũng có lối sống giản dị bởi ông đã từng nói: "Bữa ăn giàu có dưa muối Áo mặc này chi gấm là" Bên cạnh những tấm gương cho lối sống giản dị cũng không ít những người sống phung phí xa hoa. Trong thời hiện đại ngày nay có rất nhiều bạn học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường nhưng lại nhuộm tóc rồi ăn mặc phá cách không đúng với tư cách của một người học sinh. Hay là những người hoàn cảnh gia đình khá giả lại ăn mặc một cách khoa trương mặc toàn hàng hiệu. Chính vì thế nên để sống giản dị thì cần phải có bản lĩnh và trí tuệ để biết đủ biết dừng chứ không phải sống khổ hạnh hay ép mình. Là một học sinh em cần phải tu dưỡng đạo đức rèn luyện bản thân. Khi tới trường chỉ cần phải ăn mặc đúng đồng phục không cầu kỳ kiểu cách. Hơn thế nữa em sẽ tuyên truyền để bạn bè cùng hiểu rõ sự cần thiết và tác dụng của lối sống giản dị. Quả thật sống giản dị giúp con người thanh thoát hơn không tiêu tốn tiền bạc của cải tạo cho xã hội sự hòa đồng bình đẳng thân ái. Chính vì vậy mà mỗi người chúng ta cần tạo cho mình một lối sống giản dị và lan tỏa lối sống giản dị đến những người xung quanh để cuộc sống luôn tươi đẹp và hài hòa. Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 7 hay khác: Xem thêm các bài Soạn văn lớp 7 Cánh diều hay nhất, ngắn gọn khác: Hướng dẫn tự đọc trang 94 Đọc hiểu văn bản trang 95, 96 Viết trang 97 Nói và nghe trang 97 Tiếng Việt trang 97 Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85 4.5 (243) 799,000đs 199,000 VNĐ 4.5 (243) 799,000đ 99,000 VNĐ 4.5 (243) 999,000đ 299.000 - 599.000 VNĐ Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube: Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Trang web chia sẻ nội dung miễn phí dành cho người Việt. Lớp 1-2-3 Lớp 4 Lớp 5 Lớp 6 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 9 Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Lập trình Tiếng Anh Chính sách bảo mật Hình thức thanh toán Chính sách đổi trả khóa học Chính sách hủy khóa học Tuyển dụng Tầng 2, số nhà 541 Vũ Tông Phan, Phường Khương Đình, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, Việt Nam Phone: 084 283 45 85 Email: vietjackteam@gmail.com CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội. 2015 © All Rights Reserved.
Có ý kiến cho rằng ăn mặc, sinh hoạt hàng ngày giản dị là biểu hiện của lối sống lạc hậu, quê mùa - mẫu 1
Trong cuộc sống mỗi người sẽ lựa chọn cho mình một lối sống. Bản thân em sẽ lựa chọn cho mình lối sống giản dị. Em phản đối ý kiến cho rằng ăn mặc sinh hoạt hằng ngày giản dị là biểu hiện của lối sống lạc hậu, quê mùa. Giản dị là một cách sống tự nhiên thể hiện qua lối ăn mặc, phong cách làm việc, cách ứng xử với mọi người… Trong ăn mặc ta lựa chọn cho mình những bộ trang phục phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện. Đừng cố tỏ ra mình là người sành điệu, hợp thời trang mà đánh mất bản thân. Đối với học sinh thì ăn mặc giản dị là điều vô cùng cần thiết. Chúng ta mặc đồng phục, tóc tai gọn gàng đúng quy định của nhà trường là thể hiện giản dị. Khi mặc những trang phục cầu kì, kiểu cách sẽ làm chúng ta khác biệt với mọi người một cách vô nghĩa. Nếu quần áo bạn quá sành điệu mà khôngphù hợp với hoàn cảnh chẳng hóa là chúng ta dang thiếu tôn trọng mọi người, chúng ta trở thành những kẻ lố bịch hay sao? Giản dị còn được thể hiện ở việc chúng ta biết cách cư xử đúng mực. Sống hòa đồng với mọi người, luôn quan tâm giúp đỡ những người xung quanh. Sống giản dị sẽ giúp chúng ta tiết kiệm được tiền bạc, thời gian công sức đầu tư vào những thứ phù phiếm xa hoa. Sống giản dị cũng giúp chúng ta sẽ dễ dang hòa nhập với mọi người xung quanh, giúp chúng ta có thêm bạn. Hơn nữa, sống giản dị cũng giúp ta thư thái tâm hồn, gắn bó sâu sắc với cộng đồng. Vậy thì chẳng có lí do gì để nói sống giản dị là lạc hâu, quê mùa. Chúng ta chỉ quê mùa lạc hậu khi chúng ta có những hành động lố bịch, thiếu hiểu biết. Giống như một nhà văn đã từng nói “ Quần áo giản dị là y phục đúng kiểu của kẻ thô tục; chúng được may cho họ và phù hợp hoàn toàn với tiêu chuẩn cuả họ, nhưng đối với nhữngngười đã đổ đầy cuộc đời mình với những hành động lớn lao thì chúng lại được trang trí lộng lẫy”. Giản dị chính là một trong những điều làm nên chuẩn mực và sự thanh lịch cho tâm hồn. Chính vì vậy chúng ta hãy luôn giữ cho mình một lối sống giản dị.
Dàn ý Có ý kiến cho rằng ăn mặc, sinh hoạt hàng ngày giản dị là biểu hiện của lối sống lạc hậu, quê mùa
1. Mở bài: Giới thiệu về nhận định: Có ý kiến cho rằng ăn mặc, sinh hoạt hàng ngày giản dị là biểu hiện của lối sống lạc hậu, quê mùa, đưa ra quan điểm đồng tình/ không đồng tình với ý kiến 2. Thân bài a) Giải thích ý kiến + Giản dị là sống một cách đơn giản, tự nhiên, không cầu kì phô trương trong lối sống. b) Biểu hiện của lối sống giản dị - Lối sống giản dị bộc lộ ở nhiều phương diện: trang phục, ăn uống, thói quen, giao tiếp, nói năng, phong cách làm việc... + Trang phục phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện, gọn gàng và tiện dụng, tránh cầu kì, loè loẹt. + Cách ứng xử lịch sự, đúng mực; cách suy nghĩ và sử dụng ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, không hoa mĩ, cầu kì rắc rối... + Cách sinh hoạt: hòa đồng với mọi người, tự nhiên và gần gũi trong cách cư xử; không tự coi mình là người đặc biệt, khác người mà cần thấy mình bình thường như những người khác. - Cốt lõi của lối sống giản dị là sự ý thức sâu sắc về mục đích và cách sống sao cho hoà đồng và thoải mái, tự nhiên để tạo thành một phong cách sống. Sống giản dị cũng là biểu hiện của sự sâu sắc trong nhận thức về cuộc sống. c) Tác dụng của lối sống giản dị - Giản dị khiến người ta dễ hòa nhập với mọi người, làm cho con người trở nên thân thiện với nhau và giúp ta có thêm bạn bè... góp phần làm sáng lên nhân cách của mỗi con người. - Giản dị tạo nên sự thanh thản, bình yên trong tâm hồn và sự nhàn nhã, thư thái trong nhịp sống. Khiến con người hòa đồng với tự nhiên, gắn bó sâu sắc với các cá nhân khác. - Sống giản dị là một trong những cách để mỗi người sống thật, sống có hứng thú, có ý nghĩa. - Sống giản dị giúp chúng ta hoàn thiện bản thân và tạo cho xã hội sự hòa đồng, bình đẳng, nhân ái. d) Mở rộng, phản đề - Lối sống giản dị hoàn toàn khác với lối sống cẩu thả, lạc hậu, gò bó, khuôn mẫu; giản dị cũng không đồng nghĩa với tiết kiệm, hà tiện... giản dị phù hợp với điều kiện, với hoàn cảnh vẫn thể hiện được sự tao nhã, thanh lịch, văn hóa. - Phê phán lối sống xa hoa, đua đòi hay giản dị một cách giả tạo. - Để sống giản dị, con người phải trải qua sự rèn luyện, cần một năng lực sống, quyết tâm cao, cũng cần hoà mình vào cuộc sống đế sống và cảm nhận, cần loại bỏ lòng tham và bù đắp tình yêu cuộc sống. Đó là cách để tránh mọi cám dỗ, giảm áp lực tinh thần và nâng cao bản lĩnh văn hoá. e) Bài học nhận thức và hành động Nhận thức được giản dị là một lối sống đẹp. Là học sinh, mỗi chúng ta cần học tập phong cách sống giản dị, chân thành. Ở tuổi học đường, nên chú ý đến việc học tập và tu dưỡng, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với mọi người và sống cởi mở, chân thành, đơn giản. 3. Kết bài: Có thể kể ngắn gọn một câu chuyện nhỏ, một sự việc có thật trong đời sống làm cơ sở để rút ra bài học và những suy nghĩ, cảm xúc chân thành, thấm thìa.
Có ý kiến cho rằng ăn mặc, sinh hoạt hàng ngày giản dị là biểu hiện của lối sống lạc hậu, quê mùa - mẫu 2
Dân tộc ta từ xưa đến nay luôn đề cao đức tính giản dị của con người. Nó không những là một phẩm chất cao quý mà còn là lối sống, lối ứng xử in đậm trong văn hóa của người Việt. Tuy nhiên, giản dị khác với quê mùa, lạc hậu, người biết giản dị là người có sự giản đơn, dễ chịu trong cách ăn mặc, lối sống thường ngày. Giản dị là một lối sống không trọng vật chất của con người. Giản dị biểu hiện ở lối sống đơn giản, không cầu kì, xa hoa, không phô trương hay lãng phí của cải vật chất. Giản dị còn thể hiện ở tinh thần yêu chuộng cuộc sống bình dị, gần gũi với thiên nhiên. Giản dị còn biểu hiện ở lời ăn tiếng nói hiền hòa, điềm đạm, có tình, có nghĩa của con người. Người giản dị thường xây dựng một cuộc sống kín đáo, hiền hòa. Họ thích ở làng quê hơn ở phố. Người giản dị cũng yêu thích những cái gì nhỏ nhắn, mộc mạc, đơn sơ. Họ không thích cầu kì một cách hình thức hay lãng phí một cách không cần thiết. Người giản dị không những giản dị trong cách xây dựng không gian sống. Họ còn giản dị cả trong lời nói, ăn mặc, công việc và ứng xử. Người giản dị thường ăn nói điềm đạm, ứng xử lịch sự, nhã nhặn. Họ ít khi có lời gắt gỏng hay xung đột với ai. Họ lấy nghĩa tình làm nguyên tắc ứng xử của mình. Những bất đồng ít khi trở thành xung đột, dĩ hòa vi quý. Một người giản dị thường không khoa trương, không dùng lời lẽ xa hoa, bóng bẩy. Lời nói của họ đơn giản, ngắn gọn, dễ hiểu, truyền đạt đúng và đầy đủ thông tin mà họ muốn nói. Trong ăn mặc, họ ít khi cầu kì. Cuộc sống giản đơn như đồng quê cây cỏ. Ăn uống đối với họ cũng hết sức đạm bạc. Họ cũng không thích những bộ trang phục lòe loẹt, kiểu cách. Trang phục của họ thường rất bình dị, hòa hợp với hoàn cảnh xung quanh. Trong công việc, họ cầu tiến nhưng không quá tham vọng. Họ sẵn sàng đối đầu với khó khăn thử thách để hoàn thành tốt công việc. Ít khi nào ta thấy họ bỏ cuộc hay chấp nhận thất bại một cách dễ dàng. Người giản dị có cách giải quyết sự việc nhanh chóng, không dây dưa. Họ quyết liệt trong công việc nhưng không yêu cầu điều gì thái quá. Một người giản dị là một người không bao giờ yêu cầu người khác phải tạo điều gì đó đặc biệt cho mình. Họ luôn bằng lòng với tất cả những gì họ sẵn có. Họ không đòi hỏi thứ vật chất lớn lao hay sự ưu tiên khác dành cho mình. Sự giản dị không chỉ thể hiện trong sinh hoạt hàng ngày, từ cách ăn mặc, lời nói, cử chỉ, hành động, trong công việc, trong giao tiếp mà còn cả ngay từ trong suy nghĩ. Nhiều khi sự giản dị thể hiện ngay trong việc con người sống với những gì vốn có của mình, không hoa mĩ, lòe loẹt, chạy theo phong trào, chạy theo mốt, Giản dị ở đây có thể hiểu như là lối sống chân phương vậy. Đối với mọi người xung quanh, họ hết sức niềm nở, thân ái. Bởi người sống giản dị rất quý trọng tình nghĩa. Một người biết suy nghĩ những điều giản dị sẽ biết phải làm gì để có được điều đó, biết cách sống gần gũi với những người xung quanh. Đối với họ, sự hòa hợp của bản thân với xung quanh quan trọng hơn là nổi bậc. Người có tính giản dị thường sống tiết kiệm, sử dụng đồng tiền có mục đích đúng đắn. Họ nhìn nhận sự việc đúng mức, không quan trọng hóa vấn đề. Đó là tất cả những đặc điểm nổi bật mà bạn có thể tìm thấy ở một con người giản dị thật sự. Bởi thế mà từ xưa, giản dị luôn là lối sống của các bậc hiền nhân. Nhưng sự giản dị không thể gò ép, giả dối. Giản dị phải bắt nguồn từ một sự chân thành và những biểu hiện cũng hết sức chân thành, không thể sống giản dị một cách gượng ép, khiên cưỡng. Trước sau gì những người xung quanh cũng sẽ nhận ra điều đó. Giản dị có thể thuộc về bản tính sẵn có. Nhưng phần nhiều là do quá trình rèn luyện trong cuộc sống để có được. Giản dị không chỉ là một cách sống, nó còn là một quan niệm sống. Từ xưa, lối sống “thanh bần lạc đạo” vốn được thực hành như một triết lí sống của con người. Nguyễn Bỉnh Khiêm xa rời vinh hoa quan trường về mở trường dạy học bên dòng sông Tuyết Giang (sông Hàn), sống an bần đến cuối đời. Nguyễn Khuyến cũng rời chốn phồn hoa về ẩn cư tại quê nhà, vui thú điền viên. Lãnh tụ Hồ Chí Minh cũng là một tấm gương sáng ngời về lối sống giản dị, đáng để chúng ta kính trọng, học tập và làm theo. Sống giản dị là một lối sống hết sức lành mạnh và tích. Một lối sống không trọng vật chất, thích những điều đơn giản sẽ mang lại cho con người sự trong sạch trong tinh thần. Lối sống giản dị mang lại cho con người một cuộc sống thanh bình, êm ả. Con người không bị ràng buộc bởi những tiện nghi. Tinh thần lúc nào cũng an nhàn, thoải mái. Tính giản dị rất cần thiết trong cuộc sống. Tính giản dị khiến ta tiết kiệm thời gian, không mất thời gian vào các việc vô bổ mà cầu kì. Tính giản dị khiến mọi người xung quanh tôn trọng ta. Sống giản dị giúp biết cách biết cách ứng xử hiền hòa trước cuộc sống. Ta trở nên gần gũi, chan hòa với cuộc sống, với mọi người xung quanh mình. Người có lối sống giản dị luôn được người khác yêu mến và kính trọng. Mục đích cuối cùng của quá trình học tập và lao động là tạo ra của cải và có được hạnh phúc. trong đó, được sống hạnh phúc là cái con người luôn khao khát có được. Muốn xây dựng và rèn luyện lối sống giản dị, trước hết phải hướng đến những giá trị chân thực ấy trong cuộc sống. Biết quý trọng tình nghĩa, quý trọng những người xung quanh mình. Vật chất làm đẹp không gian sống nhưng chính tình cảm thân thiện, mến yêu mới làm đẹp con người. Phải có nghị lực lớn mới dám sống cuộc sống giản dị, đơn sơ. Bởi con người luôn bị lôi cuốn bởi vật chất. Tâm lí xã hội cũng lấy vật chất làm thước đo giá trị cuộc sống con người. Vượt lên trên tâm lí ấy ta mới có đủ dũng khí để sống cuộc sống đúng nghĩa. Phải có một tình yêu lớn đối với thiên nhiên. Yêu hoa mến cảnh là động lực thôi thúc con người tìm về với lối sống hòa hợp với đất trời, lấy vẻ đẹp cỏ cây, sông núi làm đẹp cho cuộc sống và tâm hồn mình. Quan trọng hơn tất cả, muốn hình thành và xây dựng lối sống giản dị trong cuộc sống này, con người phải có một tâm hồn cao đẹp, một trí tuệ uyên bác, một nghị lực mạnh mẽ để vượt lên trên mọi cám dỗ của cuộc đời, không tham cao sang, quyền quý, trọng tình cảm, thiết tha với các giá trị truyền thống của dân tộc mới có thể có được một lối sống giản dị đích thực. Các bậc hiền nhân luôn sống giản dị, hòa hợp với thiên nhiên là cuộc sống nhằm để di dưỡng và thanh lọc tinh thần. Trong cuộc sống tiện nghi, nhiều người chỉ biết quý trọng vật chất xa hoa mà quên tình bạc nghĩa. Họ coi giá trị vật chất là trên hết, bất chấp đạo lí, sẵn sàng chà đạp lên tình người để có được nó. Có nhiều người khác lại phô trương, khoe mẽ quá mức hoặc xa hoa lãng phí của cải một cách không cần thiết. Những người như thế thật đáng chê trách. Sống giản dị mang lại cho con người thư thái trong tinh thần. Đủ nghị lực để vượt lên trên vật chất, đạt đến lối sống thanh cao, giản dị thể hiện vẻ đẹp cao quý của con người. Tuy nhiên, không nên khắt khe, hay xem thường giá trị của vật chất. Sống giản dị là sống như cha ông ta đã từng sống. Đó không phải là cách ứng xử của con người khi nghèo khổ mà đó là cách sống cao cả, nhằm hướng đến xây dựng một lối sống thắm đượm nghĩa tình, thể hiện sự quý trọng của con người đối với vật chất và sức lao động con người. Xã hội là tiền đề phát triển suy nghĩ nhận thức của mỗi người, rèn cho ta những kỹ năng cơ bản trong cuộc sống. Một trong số đó con người ta đã và đang rèn luyện đức tính sống giản dị bởi sống giản dị là một lối sống đẹp của con người. Tuy nhiên, cần phân biệt rõ sự giản dị trong ăn mặc, lối sống với định kiến sự lạc hậu, quê mùa. Vậy sống giản dị là gì? Là sống phù hợp với điều kiện với hoàn cảnh của bản thân gia đình và xã hội, không sống xa hoa lãng phí, không cầu kỳ kiểu cách, không chạy theo những nhu cầu về vật chất và hình thức bên ngoài. Lối sống giản dị được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau. Đó không chỉ thể hiện ở cách ăn mặc trong việc sinh hoạt hàng ngày mà còn thể hiện ở cả lời ăn tiếng nói, ở cả quan điểm sống, cách cư xử của con người trong mọi hoàn cảnh trước mọi vấn đề. Một người giản dị là một người ăn nói cẩn thận, không khoa trương, ăn nói ngắn gọn dễ hiểu. Hay là người luôn giải quyết mọi công việc một cách nhanh nhất nhưng vẫn phải đảm bảo tính hiệu quả của nó. Đó cũng là những người sống hòa đồng với tất cả mọi người không quá cầu kỳ trong cách cư xử. Hơn thế nữa những người sống giản dị là những người không lãng phí, sử dụng tiền đúng mục đích, không sử dụng vào những công việc vô bổ, biết nhìn nhận mọi vấn đề đúng với chuẩn mực và không làm quan trọng hóa vấn đề. Trong cách ăn mặc, họ không cần mặc những trang phục hàng hiệu mà chỉ cần những bộ quần áo giản đơn thôi nhưng họ cũng làm cho mình trở nên đẹp hơn lịch sự hơn. Tất cả những đặc điểm trên là biểu hiện của những người sống giản dị. Quả thật sống giản dị là một lối sống đẹp vì nó không phải là lối sống đơn giản thô sơ mà là một phong cách sống cao đẹp. Không những thế mà lối sống giản dị còn giúp cho con người ta không bị lệ thuộc vào những ham muốn về mặt vật chất và tinh thần. Nó giúp ta biết tự điều hòa kiềm chế bản thân vượt qua những cám dỗ trong cuộc sống. Sống giản dị giúp ta tiết kiệm thời gian, không bị chi phối bởi những việc vô bổ, cũng giúp con người có khả năng hòa đồng với thiên nhiên, quan tâm tới mọi người xung quanh nhiều hơn. Nhờ có vậy mà con người được sống một cuộc sống vui vẻ bình yên hạnh phúc và thanh thản.
Có ý kiến cho rằng ăn mặc, sinh hoạt hàng ngày giản dị là biểu hiện của lối sống lạc hậu, quê mùa - mẫu 3
Từ xưa tới nay có rất nhiều tấm gương về đức tính giản dị mà chúng ta cần phải học tập. Đầu tiên là phải nhắc đến Chủ tịch Hồ Chí Minh người được cả thế giới khâm phục và ngưỡng mộ. Mặc dù là chủ tịch nước nhưng Người lại sống một cuộc sống hết sức giản dị chứ không như những vị chủ tịch khác. Trang phục thường ngày của Bác chỉ là bộ bà ba nâu đã phai màu, bộ kaki đã cũ và đôi dép lốp cao su. Nơi làm việc của Bác cũng chỉ là một ngôi nhà sàn nhỏ bé đơn sơ chỉ vỏn vẹn có hai phòng. Ngay cả trong cách ăn nói người cũng rất giản dị ngắn gọn và dễ hiểu như "ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, ốm đau được chữa bệnh". Hai chúng ta có thể kể đến Nguyễn Trãi cũng có lối sống giản dị bởi ông đã từng nói: "Bữa ăn giàu có dưa muối Áo mặc này chi gấm là" Bên cạnh những tấm gương cho lối sống giản dị cũng không ít những người sống phung phí xa hoa. Trong thời hiện đại ngày nay có rất nhiều bạn học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường nhưng lại nhuộm tóc rồi ăn mặc phá cách không đúng với tư cách của một người học sinh. Hay là những người hoàn cảnh gia đình khá giả lại ăn mặc một cách khoa trương mặc toàn hàng hiệu. Chính vì thế nên để sống giản dị thì cần phải có bản lĩnh và trí tuệ để biết đủ biết dừng chứ không phải sống khổ hạnh hay ép mình. Là một học sinh em cần phải tu dưỡng đạo đức rèn luyện bản thân. Khi tới trường chỉ cần phải ăn mặc đúng đồng phục không cầu kỳ kiểu cách. Hơn thế nữa em sẽ tuyên truyền để bạn bè cùng hiểu rõ sự cần thiết và tác dụng của lối sống giản dị. Quả thật sống giản dị giúp con người thanh thoát hơn không tiêu tốn tiền bạc của cải tạo cho xã hội sự hòa đồng bình đẳng thân ái. Chính vì vậy mà mỗi người chúng ta cần tạo cho mình một lối sống giản dị và lan tỏa lối sống giản dị đến những người xung quanh để cuộc sống luôn tươi đẹp và hài hòa. Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 7 hay khác: Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85 4.5 (243) 799,000đs 199,000 VNĐ 4.5 (243) 799,000đ 99,000 VNĐ 4.5 (243) 999,000đ 299.000 - 599.000 VNĐ Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube: Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Trang web chia sẻ nội dung miễn phí dành cho người Việt. Lớp 1-2-3 Lớp 4 Lớp 5 Lớp 6 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 9 Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Lập trình Tiếng Anh Chính sách bảo mật Hình thức thanh toán Chính sách đổi trả khóa học Chính sách hủy khóa học Tuyển dụng Tầng 2, số nhà 541 Vũ Tông Phan, Phường Khương Đình, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, Việt Nam Phone: 084 283 45 85 Email: vietjackteam@gmail.com CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội. 2015 © All Rights Reserved.
Phân tích đặc điểm con ếch trong truyện Ếch ngồi đáy giếng - mẫu 1
Ếch ngồi đáy giếng là một truyện ngụ ngôn rất hóm hỉnh và lí thú. Ếch chỉ là một loài vật bé nhỏ, tầm thường. Nơi sống là đáy giếng, một nơi chật hẹp, tối tăm, khép kín. Mối quan hệ của ếch chỉ là những con vật nhỏ bé, tầm thường: Vài con nhái, con cua, con cóc mà thôi. Môi trường sống ấy, quan hệ "cộng đồng" ấy nơi "vương quốc" đáy giếng đã làm cho ếch hợm mình, tự phụ, kiêu căng. Tiếng kêu của ếch chỉ "Ồm ộp" trong đáy giếng, nhưng lũ cua cáy, ốc nhái thì "rất hoảng sợ". Vì sống "lâu ngày" trong hoàn cảnh ấy, tật xấu phát triển thành "bệnh" trầm trọng. Điểm nhìn thì thấp bé, nhỏ hẹp. Tầm nhìn thì mù mờ chủ quan. Do đó, nằm ở đáy giếng, ngồi ở đáy giếng mà "ếch cứ tưởng bầu trời trên đầu chỉ bé bằng chiếc vung". Đáng sợ hơn nữa là thái độ sống của ếch rất tự cao, tự đại, nó cho mình "oai như một vị chúa tể". Ếch đã tự ru ngủ mình trong vương quốc "đáy giếng", không phải ngày một ngày hai, mà là đã "lâu nay" ở đời, ai có thể "ngủ trên mãi trong đời chật". Ếch cũng thế thôi. Một trận mưa to đã làm cho nước giếng "dềnh lên tràn bờ". Như một cuộc "mở cửa". Môi trường sống của ếch đã thay đổi. Từ đáy giếng, ếch bò lên, bơi lên bờ giếng, rồi ếch "ra ngoài". Môi trường sống đã thay đổi rộng lớn hơn. Thế nhưng cách sống của ếch vẫn "quen thói cũ". Thái độ sống vẫn hợm hĩnh, coi thiên hạ bằng nửa con mắt, "ếch nghênh ngang đi lại khắp nơi và cất tiếng kêu ồm ộp". Từ đáy giếng lên bờ giếng và mặt đất, điểm nhìn đã thay đổi, nhưng tầm nhìn, cách nhìn của ếch vẫn như cũ "nó đã nhâng nháo đưa cập mắt nhìn lên bầu trời"’, ếch vẫn "coi trời bằng vung". Bầu trời bao la thế, mênh mông thế, nhưng đối với ếch thì vẫn nhỏ bé bình thường. Trước đây nơi đáy giếng, ếch chỉ biết có cua, ốc, nhái, nhỏ bé mà thôi. Lên mặt đất, môi trường sống thay đổi, quan hệ trong cuộc sống đã thay đổi rất nhiều, xung quanh ếch là muôn loài, là bàn dân thiên hạ, có những tên "khổng lồ" rất đáng sợ như "con trâu". Thế nhưng ếch vừa "nghênh ngang", vừa chủ quan, "chả thèm để ý đến xung quanh…Cái giá thật đắt mà ếch phải trả đã xảy ra, ếch "đã bị một con trâu đi qua giẫm bẹp!". Đó là một kết cục thật đau đớn và đáng thương! Trong truyện ngụ ngôn "Ếch ngồi đáy giếng", hàng loạt ẩn dụ được sáng tạo nên làm cho cốt truyện hấp dẫn, ý nghĩa truyện, bài học luân lý của truyện được thể hiện sâu sắc, thấm thía. Ngoài ếch còn có nhái, cua, ốc,… và con trâu. Có "đáy giếng" "bầu trời" và "chiếc vung". Còn có cảnh "trời mưa to", và cái chết của ếch bị trâu "giẫm bẹp". Đó là cuộc sống con người, cách sống của con người được nói đến. Truyện ngụ ngôn "Ếch ngồi đáy giếng" đã nêu lên bài học nhân sinh lí thú, sâu sắc về môi trường sống, quan hệ sống, góc nhìn và tầm nhìn, thái độ sống. Khi môi trường sống, quan hệ sống đã thay đổi thì góc nhìn và tầm nhìn phải thay đổi cho phù hợp. Bài học luân lí càng giàu ý nghĩa và thiết thực đó là sự ám chỉ những kẻ sống quẩn quanh, tầm nhìn hạn hẹp thì trí năng tầm thường, kiến thức nông cạn đáng thương! Bài học ngụ ngôn khẽ nhắc mọi người phải khiêm tôn, sáng suốt, không được tự cao, tự đại, hợm mình "coi trời bằng vung", coi thiên hạ bằng nửa con mắt! Nếu cứ sống theo cách "ếch ngồi đáy giếng" thì có ngày phải trả giá đau đớn. Trong ngôn ngữ dân tộc. "Ếch ngồi đáy giếng" vừa là ngụ ngôn, vừa là thành ngữ.
Dàn ý Phân tích đặc điểm con ếch trong truyện Ếch ngồi đáy giếng
a. Mở bài Giới thiệu về truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đáy giếng và hình tượng con ếch. b. Thân bài * Con ếch khi ở dưới đáy giếng: -  Môi trường sống: Dưới một đáy giếng cạn, hàng xóm là những loài cua, ốc nhỏ bé - Thái độ, hành động của ếch: + Huênh hoang, kiêu ngạo, cho mình là nhất. + Cất lên những tiếng kêu ộp ộp khiến các con vật khác phải khiếp sợ - Nhận thức: + Coi mình là loài vật lớn nhất, là chúa tể muôn loài + Bầu trời chỉ nhỏ như chiếc vung - Bài học: + Hình ảnh con ếch kiêu ngạo, thiếu hiểu biết cũng chính là hình ảnh phản chiếu của những con người sống kiêu căng, ngạo mạn, tầm hiểu biết hạn hẹp nhưng không chịu tiếp thu, học hỏi. + Luôn cho bản thân là nhất không chỉ làm nảy sinh những ảo tưởng không thật về bản thân mà còn gây ra những hậu quả khôn lường. * Khi ra khỏi đáy giếng: - Hoàn cảnh: Mưa lớn, nước dâng cao à Ếch ra khỏi giếng. - Nghênh ngang đi lại mà không chút đề phòng → Bị một con trâu đi qua giẫm bẹp. - Nhận xét: Kết cục bi thảm nhưng thích đáng cho những kẻ thiếu hiểu biết nhưng lại luôn tỏ ra hơn người, coi thường mọi người, mọi thứ xung quanh. - Bài học: + Thế giới vô cùng rộng lớn nên mỗi người cần không ngừng học hỏi, trau dồi vốn hiểu biết. Nếu chỉ biết kiêu ngạo, không chịu tiếp thu, học hỏi sẽ phải trả cái giá đắt.+ Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta cần đặt mình trong nhiều mối quan hệ, cần nhìn nhận thế giới bằng con mắt khách quan và tinh thần ham học hỏi để có thể thích nghi và phát triển trong cuộc sống ấy. 3. Kết bài Rút ra kết luận
Phân tích đặc điểm con ếch trong truyện Ếch ngồi đáy giếng - mẫu 2
Ếch ngồi đáy giếng là câu chuyện ngụ ngôn nổi tiếng trong kho tàng truyện dân gian Việt Nam. Thông qua hình tượng con ếch kiêu ngạo, huênh hoang cùng những tình tiết hài hước, tác giả dân gian gửi gắm được nhiều bài học và thông điệp sâu sắc về cách nhận thức cuộc sống và lối ứng xử của con người trong quan hệ với những người xung quanh. Con ếch trong câu chuyện là một kẻ huênh hoang, thiếu hiểu biết. Ếch ta sống trong một cái giếng cạn, không gian sống hạn hẹp cùng với những người hàng xóm nhỏ bé là cua, ốc nên ếch ảo tưởng rằng mình là con vật lớn nhất, là chúa tể nơi đây. Hàng ngày ếch cất lên những tiếng kêu ộp ộp khiến các con vật khác phải khiếp sợ, bởi vậy mà ếch càng tỏ ra huênh hoang, coi thường mọi người xung quanh mình. Từ đáy giếng nhìn lên, bầu trời trong nhận thức của ếch cũng chỉ nhỏ như cái vung, điều đó càng làm cho suy nghĩ mình là chúa tể muôn loài của ếch thêm phần chắc chắn. Hình ảnh con ếch kiêu ngạo, thiếu hiểu biết cũng chính là hình ảnh phản chiếu của những con người sống kiêu căng, ngạo mạn, tầm hiểu biết hạn hẹp nhưng không chịu tiếp thu, học hỏi. Luôn cho bản thân là nhất không chỉ làm nảy sinh những ảo tưởng không thật về bản thân mà còn gây ra những hậu quả khôn lường. Vào một năm trời mưa lớn, nước mưa dâng cao, ếch lần đầu tiên được ra khỏi miệng giếng chật hẹp để ngắm nhìn cuộc sống rộng lớn bên ngoài. Bên ngoài đáy giếng là một thế giới rộng lớn, cảnh vật đều mới lạ, bầu trời cũng to lớn hơn rất nhiều so với nhận thức trước đó của ếch. Thế nhưng, bản tính vốn kiêu ngạo, vốn hiểu biết lại nông cạn nhưng ếch ta vẫn chứng nào tật ấy luôn cho mình là nhất. Khi ra khỏi miệng giếng, ếch đi lại nghênh ngang mà không chút đề phòng, kết quả là bị một con trâu đi ngang qua giẫm bẹp. Có thể nói, kết cục của ếch thật bi thảm, chỉ vừa bước ra khỏi thế giới nhỏ bé nơi đáy giếng thì đã bị giẫm bẹp, thế nhưng đây cũng là kết quả thích đáng cho những kẻ thiếu hiểu biết nhưng lại luôn tỏ ra hơn người, coi thường mọi người, mọi thứ xung quanh. Đằng sau kết cục thảm thương của con ếch, tác giả dân gian muốn gửi gắm một thông điệp: Thế giới vô cùng rộng lớn nên mỗi người cần không ngừng học hỏi, trau dồi vốn hiểu biết. Nếu chỉ biết kiêu ngạo, không chịu tiếp thu, học hỏi sẽ phải trả cái giá đắt như cái chết của con ếch. Câu chuyện còn là bài học về sự thích nghi với hoàn cảnh sống xung quanh. Khi sống quá lâu trong môi trường nhỏ hẹp mà không có sự kết nối với bên ngoài có thể làm cho nhận thức của con người trở nên hạn hẹp, trì trệ, mất đi khả năng đánh giá khách quan. Bởi vậy, trong cuộc sống hiện đại, chúng ta cần đặt mình trong nhiều mối quan hệ, cần nhìn nhận thế giới bằng con mắt khách quan và tinh thần ham học hỏi để có thể thích nghi và phát triển trong cuộc sống ấy. Thông qua hàng loạt những ẩn dụ sáng tạo như "con ếch", "bầu trời", "con trâu", truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đáy giếng đã mang đến cho chúng ta một câu chuyện dân gian thú vị, sâu sắc hơn cả là qua câu chuyện ấy, chúng ta có thêm những bài học quý giá về cách nhận thức, đánh giá sự vật cùng thái độ sống cần có của con người trong cuộc sống.
Phân tích đặc điểm con ếch trong truyện Ếch ngồi đáy giếng - mẫu 3
Truyện ngụ ngôn là thể loại vô cùng đặc sắc mà nhân dân để lại cho thế hệ sau, trong số những tác phẩm vô cùng đặc sắc thì nổi bật lên là tác phẩm “Ếch ngồi đáy giếng” với hình ảnh chú ếch qua những không gian khác nhau, qua những tình tiết hài hước, châm biếm mà không kém phần ý nghĩa đã để lại trong lòng người đọc nhiều suy nghĩ khác nhau. Những suy nghĩ mà chú ếch có được là do chính sự vật xung quanh, khung cảnh, môi trường sống đem lại, khi sống dưới đáy giếng, bầu trời qua con mắt của chú ếch thật nhỏ bé, thật đơn điệu, bầu trời cao chót vót đó chỉ nhỏ bé như cái vung, để rồi trong suy nghĩ của chú ếch đã hình thành nên những khái niệm riêng biệt, những nhận định qua cái nhìn đó. Bầu trời mà chỉ nhỏ bé thế thì chú ta đây đâu có phải lo sợ điều gì, vì vậy mà trong không gian chật hẹp dưới cái giếng chú ta tự phong cho mình là chúa tể, không phải kiêng nể, run sợ trước bất cứ điều gì. Và hình ảnh đó cũng phản ảnh một cách chân thật những con người đang sống trong chính xã hội hiện tại, những con người đang chìm đắm trong suy nghĩ bản thân là nhất, đặt cái tôi cá nhân quá cao để không coi những người xung quanh ra gì, sống chỉ biết tới bản thân, sống với lượng kiến thức hạn hẹp, sống với kinh nghiệm mỏng manh nhưng lại ảo tưởng về bản thân quá mức. Hơn nữa hình ảnh đó còn ngầm phê phán những con người thiếu hiểu biết nhưng luôn muốn thể hiện, hay khoác lác, đặc biệt là tự cho ý kiến của mình là đúng, không nhìn nhận ý kiến, góp ý của người khác mà sửa đổi. Bên cạnh hình ảnh chú ếch trong đáy giếng thì cái hay của tác phẩm chính là đẩy nội dung lên cao trào khi cho chú ếch thoát khỏi cái khung cảnh chật hẹp, nhỏ bé đó. Một ngày mưa gió chú ếch được theo dòng nước ra ngoài thế giới rộng lớn ngoài kia, một khung cảnh hoàn toàn trái ngược, tất cả mọi thứ từ bầu trời tới những sự vật xung quanh đều vô cùng rộng lớn, bầu trời bây giờ không còn là cái vung như chú ta từng nghĩ mà là một khoảng không gian vô tận không có điểm dừng, nhưng điều đáng nói ở đây là khi được tận mắt chứng kiến những thứ mà chú ta chưa từng được thấy trước đây cũng không thể làm thay đổi bản tỉnh ở sâu bên trong chính bản thân chú ếch, cái thói huênh hoang đó vẫn không thể bỏ dù những điều mới lạ đã thực sự hiện ra, tính tình coi thường tất cả những điều xung quanh vẫn diễn ra, để rồi điều mà chú ta nhận được là cái chết “bẹp dí” dưới chân trâu. Cũng từ hình tượng đó mà gợi ra cho con người rất nhiều điều, là một bài học cho những ai đang có lối sống tiêu cực cần phải thay đổi, hình tượng đó nhắn nhủ tới mỗi người hãy thay đổi bản thân, thay đổi cách sống, đi nhiều hơn, học nhiều hơn để tích lũy thêm kiến thức, tích lũy thêm kinh nghiệm mà mỗi người đang thiếu và những kiến thức, kinh nghiệm đó là không bao giờ là đủ, không bao giờ là thừa đối với mỗi người. Đặc biệt trong hình tượng cuối là cái chết của con ếch cũng chính là lời cảnh tỉnh đối với những người không có sự thay đổi trong lối sống khép mình, không chịu tiếp thu sẽ phải chịu một cái kết không mấy tốt đẹp, hơn thế nữa còn là bài học về sự khó khăn trong cách thức thay đổi, suy nghĩ mà mỗi người có, vì môi trường xung quanh đã tác động mạnh mẽ tới tính cách, đã xây dựng nên lối sống sâu bên trong mỗi người nên việc thay đổi là vô cùng khó khăn và cần thời gian. “Ếch ngồi đáy giếng” là câu chuyện vô cùng ý nghĩa để lại nhiều bài học quý giá đối với con người về cách nhận thức sự việc, cách thay đổi bản thân và lối sống mà mỗi người cần có được. Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 7 hay khác: Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85 4.5 (243) 799,000đs 199,000 VNĐ 4.5 (243) 799,000đ 99,000 VNĐ 4.5 (243) 999,000đ 299.000 - 599.000 VNĐ Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube: Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Trang web chia sẻ nội dung miễn phí dành cho người Việt. Lớp 1-2-3 Lớp 4 Lớp 5 Lớp 6 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 9 Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Lập trình Tiếng Anh Chính sách bảo mật Hình thức thanh toán Chính sách đổi trả khóa học Chính sách hủy khóa học Tuyển dụng Tầng 2, số nhà 541 Vũ Tông Phan, Phường Khương Đình, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, Việt Nam Phone: 084 283 45 85 Email: vietjackteam@gmail.com CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội. 2015 © All Rights Reserved.
Bài văn biểu cảm về hình ảnh nhân vật dì Bảy trong Người ngồi đợi trước hiên nhà - mẫu 1
Một mai đất nước giải phóng anh sẽ về bên em, chờ anh như ngày chờ giải phóng đất nước, biết bao câu hứa nhớ mong nhưng tất cả chỉ còn là kỉ niệm. Chiến tranh cướp đi rất nhiều thứ nhưng có lẽ cướp đi của người phụ nữ là tuổi thanh xuân và người họ một lòng chờ đợi hết cả cuộc đời. Đó là hình ảnh Dì Bảy trong tản văn “Người ngồi đợi trước hiên nhà” của tác giả Huỳnh Như Phương đã để lại cho em một ấn tượng sâu sắc. Dì Bảy là một nhân vật đã để lại cho tôi rất nhiều tình cảm và sự ngưỡng mộ. Cô kết hôn năm 20 tuổi. Chú Bảy phải tập hợp lại và chiến đấu. Kể từ ngày cưới, lâu lắm rồi hai dì cháu không được ở bên nhau. Họ gặp nhau chỉ qua những lá thư. Hai mươi năm sau, chú Bảy mới có thể chứng minh cho ai đó rằng chú muốn dì tặng nón thơ để an ủi trong suốt thời gian dài chờ đợi. Tuy nhiên, khoảng mười ngày trước khi chiến tranh kết thúc, chú Bảy đã vĩnh viễn ở chiến trường và dì Bảy trở thành một góa phụ. Vậy là đã hơn 20 năm chờ đợi, sau bao nhiêu yêu thương, bao nỗi buồn, biết bao lo lắng, trăn trở, tôi vẫn không thể chờ đợi được hạnh phúc trọn vẹn, sau khi mất chồng, dì Bảy vẫn ở trên cầu thang mà tôi đang ngồi. sàn nhà nhìn ra xa như thể đang mong đợi một điều gì đó. Dì Bảy đã vì chính nghĩa mà hy sinh hạnh phúc của chính mình. Tôi biết không chỉ dì Bảy mà rất nhiều phụ nữ trên mảnh đất hình chữ S này cũng có hoàn cảnh như cô. Tất cả đều hy sinh thầm lặng và cao cả vì sự nghiệp kháng chiến, vì sự thống nhất và phát triển của đất nước. Chúng ta, thế hệ hôm nay, cần phải biết ơn và làm điều gì đó để trả lại điều đó, rất nhiều người phụ nữ, không riêng gì dì Bảy, đã từng bị tổn thương sâu sắc và mòn mỏi chờ chồng trên ruộng lúa. Họ đã hy sinh tuổi thanh xuân và hạnh phúc cá nhân để phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc. Họ không cần phải mang theo vũ khí hay cầm gươm và giáo để chiến đấu trực diện với kẻ thù của mình, nhưng họ là trung tâm tinh thần của những người lính của họ trên chiến trường xa xôi, và trong những ngôi nhà mà họ đang sống và tình yêu thương mà mình đang nuôi dưỡng. một gia đình nhỏ.
Dàn ý Bài văn biểu cảm về hình ảnh nhân vật dì Bảy trong Người ngồi đợi trước hiên nhà
a. Mở bài: Nêu ấn tượng chung về hình ảnh người phụ nữ trong tản văn Người ngồi đợi trước hiên nhà của Huỳnh Như Phương b. Thân bài: - Lần lượt trình bày nội dung bài viết theo một trật tự nhất định + Tóm tắt câu chuyện về người phụ nữ chờ chồng hai chục năm trong văn bản + Phát biểu cảm xúc, tình cảm, thái độ của em trước tính cách và phẩm chất của người phụ nữ ấy. + Phát biểu suy nghĩ về sự hi sinh thầm lặng, cao cả của những người phụ nữ trong các cuộc chiến tranh và trách nhiệm của xã hội trong việc ứng xử với những người như dì Bảy. c. Kết bài: Nêu lên suy nghĩ và bài học của cá nhân em về hình ảnh người phụ nữ trong văn bản Người ngồi đợi trước hiên nhà
Bài văn biểu cảm về hình ảnh nhân vật dì Bảy trong Người ngồi đợi trước hiên nhà - mẫu 2
Đọc tản văn Người ngồi đợi trước hiên nhà của Huỳnh Như Phương, tôi mãi ấn tượng về nhân vật dì Bảy, người dì đại diện cho số phận biết bao người phụ nữ nơi hậu phương mòn mỏi chờ chồng, dành cả cuộc đời để hi sinh thầm lặng cho gia đình, cho quê hương, Tổ quốc. Dì Bảy là một nhân vật đã để lại trong tôi nhiều sự thương mến và cảm phục. Dì lấy chồng khi mới 20 tuổi. Dượng Bảy lại phải đi tập kết và chiến đấu. Vậy là từ ngày cưới, cả hai vợ chồng dì chưa được ở cạnh nhau bao lâu. Họ gặp nhau chỉ qua những cánh thư. 20 năm sau, Dượng Bảy mới có thể nhờ người gửi chiếc nón bài thơ cho dì làm quà và để chứng tỏ tình cảm của mình, để an ủi những ngày chờ mong dài đằng đẵng. Thế nhưng, trước khi chiến tranh kết thúc khoảng mươi ngày, dượng Bảy đã mãi mãi ra đi nơi chiến trường, dì Bảy đã trở thành người phụ nữ góa chồng. Vậy là suốt hơn 20 năm chờ đợi, biết bao thương nhớ, biết bao buồn tủi, biết bao là những nỗi lo lắng, bồn chồn, cuối cùng dì vẫn không đợi được một hạnh phúc trọn vẹn. Mất chồng, dì Bảy vẫn cứ lầm lũi ngồi bên bậc thềm, nhìn ra xa như trông đợi điều gì. Dì Bảy đã phải hi sinh hạnh phúc cá nhân mình vì nghĩa lớn. Tôi biết, không chỉ có dì Bảy, mà còn có rất nhiều người phụ nữ trên dải đất hình chữ S này cũng chung cảnh ngộ như dì. Họ đều đã hi sinh thầm lặng, cao cả cho cuộc kháng chiến, để đất nước được thống nhất và phát triển. Chúng ta, những thế hệ hôm nay phải biết ơn và làm được điều gì để đền đáp được công ơn đó. Không chỉ có dì Bảy còn rất nhiều người phụ nữ cũng phải chịu những nỗi tổn thương sâu sắc về tinh thần, dành cả đời mình để chờ đợi người chồng nơi chiến trận khốc liệt. Họ hi sinh tuổi thanh xuân, hạnh phúc cá nhân của mình để góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Họ không cần cầm súng, cầm gươm giáo trực tiếp chiến đấu với kẻ thù mà âm thầm, lặng lẽ nơi hậu phương vững chắc, là điểm tựa tinh thần cho những chiến sĩ ngoài chiến trường xa xôi kia, vun vén gia đình nhỏ nơi quê nhà yêu dấu. Tôi tin rằng lớp người trẻ chúng tôi tôi và những thế hệ mai sau sẽ đều ghi nhớ công ơn của các thế hệ trước. Mong rằng chiến tranh sẽ không bao giờ lặp lại, sẽ không còn ai phải chịu cảnh ngộ, phải hi sinh như dì Bảy
Bài văn biểu cảm về hình ảnh nhân vật dì Bảy trong Người ngồi đợi trước hiên nhà - mẫu 3
Dân tộc Việt Nam để có được hòa bình như hôm nay đã phải trải qua biết bao nhiêu cuộc chiến. Trong những cuộc chiến đó, luôn có sự hi sinh của các anh hùng, liệt sĩ. Họ là những chiến sĩ trên chiến trường, nói cách khác là nơi tiền tuyến. Ở hậu phương, trong những năm tháng chiến tranh, cũng có biết bao là sự hi sinh thầm lặng của người phụ nữ. Nhắc đến đây, tôi nghĩ tới nhân vật dì Bảy trong bài tản văn Người ngồi đợi trước hiên nhà của Huỳnh Như Phương. Dì Bảy là một nhân vật đã để lại trong tôi nhiều sự thương mến và cảm phục. Dì lấy chồng khi mới 20 tuổi. Dượng Bảy lại phải đi tập kết và chiến đấu. Vậy là từ ngày cưới, cả hai vợ chồng dì chưa được ở cạnh nhau bao lâu. Họ gặp nhau chỉ qua những cánh thư. 20 năm sau, Dượng Bảy mới có thể nhờ người gửi chiếc nón bài thơ cho dì làm quà và để chứng tỏ tình cảm của mình, để an ủi những người đang chờ mong. Thế nhưng, trước khi chiến tranh kết thúc khoảng mươi ngày, dì Bảy đã chở thành người phụ nữ góa chồng. Vậy là suốt hơn 20 năm chờ đợi, biết bao thương nhớ, biết bao buồn tủi, biết bao là những nỗi lo lắng, bồn chồn, cuối cùng dượng Bảy đã không thể cho dì được một hạnh phúc trọn vẹn. Mất chồng, dì Bảy vẫn cứ lầm lũi ngồi bên bậc thềm, nhìn ra xa như trông đợi điều gì. Dì Bảy đã phải hi sinh hạnh phúc cá nhân mình vì nghĩa lớn. Tôi biết, không chỉ có dì Bảy, mà còn có rất nhiều người phụ nữ trên dải đất hình chữ S này cũng chung cảnh ngộ như dì. Họ đều đã hi sinh thầm lặng, cao cả cho cuộc kháng chiến, để đất nước được thống nhất và phát triển. Chúng ta, những thế hệ hôm nay phải biết ơn và làm được điều gì để đền đáp được công ơn đó. Dì Bảy đã cho tôi hiểu về đức hi sinh của con người. Tôi tin rằng thế hệ tôi và những thế hệ mai sau sẽ đều ghi nhớ công ơn của các thế hệ trước. Nhưng tôi cũng mong sẽ không còn ai phải chịu cảnh ngộ, phải hi sinh như dì Bảy.
Bài văn biểu cảm về hình ảnh nhân vật dì Bảy trong Người ngồi đợi trước hiên nhà - mẫu 4
Chiến tranh đã qua đi những những hậu quả mà chiến tranh để lại thì vẫn còn mãi. Một trong những hậu quả nặng nề mà chiến tranh để lại có là sự cô đơn, bơ vơ, chờ đợi trong mòn mỏi đến vô vọng của những người phụ nữ có chồng đi chiến trận và ở lại vĩnh viễn nơi chiến trường xa xôi kia. Dì Bảy trong bài tản văn Người ngồi đợi trước hiên nhà của nhà văn Huỳnh Như Phương chính là người phụ nữ như thế. Dì Bảy và dượng Bảy lấy nhau được chừng một tháng thì dượng phải ra miền Bắc tập kết. Hạnh phúc ngắn chẳng tày gang thì đôi người đôi ngả. Dì ở nhà mong ngóng chờ đợi tin tức của chồng mình qua những dòng thư ngắn, những lời hỏi thăm, những món quà nhỏ nhờ người quen gửi hộ. Mặc dù đang ở độ tuổi xuân sắc có biết bao người hỏi tới dì, muốn mang đến cho dì một mái ấm hạnh phúc, nhưng dì nhất quyết không chấp nhận, không bao giờ lung lạc. Dì luôn chờ đợi một ngày dượng sẽ chờ về. Ngay cả khi biết rằng dượng đã không còn nữa, dì vẫn không mở lòng, dì vẫn ôm vào lòng hình bóng dượng. Không chỉ có dì Bảy còn rất nhiều người phụ nữ họ phải chịu những nỗi tổn thương sâu sắc về tinh thần, cả đời họ là sự chờ đợi, ngóng chông để rồi thất vọng và cô đơn cứ bấu víu lấy mình. Họ hi sinh tuổi thanh xuân, hạnh phúc cá nhân của mình để góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Họ chính là những người anh hùng thầm lặng, không cần cầm súng, cầm gươm, giáo chiến đấu với kẻ thù. Họ âm thầm, lặng lẽ là hậu phương vững chắc, là điểm tựa tinh thần cho những chiến sĩ ngoài chiến trường xa xôi kia. Một lần nữa, xin hãy biết ơn những người mẹ, người vợ Việt Nam anh hùng. Họ đã dành cả tuổi xuân ngắn ngủi, ít ỏi của mình để đổi lấy bình yên, độc lập cho cả dân tộc Việt Nam ta.
Bài văn biểu cảm về hình ảnh nhân vật dì Bảy trong Người ngồi đợi trước hiên nhà - mẫu 5
Mỗi trận chiến đi qua, bên cạnh sự xót thương dành cho những người lính ra trận, những chiến sĩ mãi mãi nằm lại nơi chiến trường, người ta còn nhớ và cảm thương về nơi hậu phương, trong những năm tháng chiến tranh, cũng có biết bao là sự hi sinh thầm lặng của người phụ nữ. Một trong số đó phải kể đến nhân vật dì Bảy trong bài tản văn “Người ngồi đợi trước hiên nhà” của Huỳnh Như Phương. Dì Bảy là một nhân vật đã để lại trong tôi nhiều sự thương mến và cảm phục. Dì lấy chồng khi mới 20 tuổi. Dượng Bảy lại phải đi tập kết và chiến đấu. Vậy là từ ngày cưới, cả hai vợ chồng dì chưa được ở cạnh nhau bao lâu. Họ gặp nhau chỉ qua những cánh thư. 20 năm sau, Dượng Bảy mới có thể nhờ người gửi chiếc nón bài thơ cho dì làm quà và để chứng tỏ tình cảm của mình, để an ủi những người đang chờ mong. Thế nhưng, trước khi chiến tranh kết thúc khoảng mươi ngày, dì Bảy đã chở thành người phụ nữ góa chồng. Vậy là suốt hơn 20 năm chờ đợi, biết bao thương nhớ, biết bao buồn tủi, biết bao là những nỗi lo lắng, bồn chồn, cuối cùng dượng Bảy đã không thể cho dì được một hạnh phúc trọn vẹn. Mất chồng, dì Bảy vẫn cứ lầm lũi ngồi bên bậc thềm, nhìn ra xa như trông đợi điều gì. Dì Bảy đã phải hi sinh hạnh phúc cá nhân mình vì nghĩa lớn. Tôi biết, không chỉ có dì Bảy, mà còn có rất nhiều người phụ nữ trên dải đất hình chữ S này cũng chung cảnh ngộ như dì. Họ đều đã hi sinh thầm lặng, cao cả cho cuộc kháng chiến, để đất nước được thống nhất và phát triển. Chúng ta, những thế hệ hôm nay phải biết ơn và làm được điều gì để đền đáp được công ơn đó. Dì Bảy đã cho tôi hiểu về đức hi sinh của con người. Tôi tin rằng thế hệ tôi và những thế hệ mai sau sẽ đều ghi nhớ công ơn của các thế hệ trước. Nhưng tôi cũng mong sẽ không còn ai phải chịu cảnh ngộ, phải hi sinh như dì Bảy. Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 7 hay khác: Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85 4.5 (243) 799,000đs 199,000 VNĐ 4.5 (243) 799,000đ 99,000 VNĐ 4.5 (243) 999,000đ 299.000 - 599.000 VNĐ Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube: Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Trang web chia sẻ nội dung miễn phí dành cho người Việt. Lớp 1-2-3 Lớp 4 Lớp 5 Lớp 6 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 9 Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Lập trình Tiếng Anh Chính sách bảo mật Hình thức thanh toán Chính sách đổi trả khóa học Chính sách hủy khóa học Tuyển dụng Tầng 2, số nhà 541 Vũ Tông Phan, Phường Khương Đình, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, Việt Nam Phone: 084 283 45 85 Email: vietjackteam@gmail.com CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội. 2015 © All Rights Reserved.
Phân tích đặc điểm nhân vật trong truyện Bụng và Răng, Miệng, Tay, Chân
“Bụng và Răng, Miệng, Tay, Chân” là một trong những sáng tác nổi tiếng của tác giả người Hy Lạp – Ê-dốp. Bốn nhân vật trung tâm gồm Tay, Chân, Răng, Miệng được nhà văn khắc họa vô cùng khéo léo. Thông qua hành động, lời nói của các nhân vật này, em đã tự rút ra những bài học ý nghĩa. Trước hết, Răng, Miệng, Tay, Chân được giới thiệu là “mấy thành viên cơ thể”. Họ thực hiện các công việc khác nhau. Tay thì phụ trách gắp thức ăn. Răng lại làm nhiệm vụ xơi đồ ăn. Ai nấy đều cảm thấy bản thân phải cong lưng làm lụng còn anh Bụng chỉ việc “ung dung chén tràn”, ngồi chơi mà vẫn có ăn. Chính bởi suy nghĩ đó mà tất cả đã đi đến thống nhất: nghỉ việc. Từ đây, ta thấy bốn thành viên cơ thể đều có thói tị nạnh, thiếu hiểu biết và suy nghĩ không thấu đáo. Trong quá trình họp bàn, cả bốn sôi nổi bày tỏ “Đình công được quyết định ngay/ Để anh Bụng phải chung tay cùng làm”. Ngay ngày hôm sau, Tay dừng việc gắp thịt, Miệng từ chối không xơi còn Răng thì ngồi chơi. Mọi việc cứ diễn ra theo đúng quyết định trước đó. Tuy nhiên, chỉ vài hôm sau, Tay, Chân và Miệng thấy mệt mỏi, rã rời vô cùng. Bọn chúng chẳng còn tí tẹo sức lực. Trông ai cũng ủ rũ như kẻ không hồn “Người rã rời, oặt ẹo đôi Tay/ Miệng khô, đắng ngắt cả ngày/ Chân không mang nổi thân gầy đói ăn”. Sau tất cả, các thành viên đã thức tỉnh và hiểu ra sai lầm của bản thân. Cả bốn bộ phận đều nhận thấy anh Bụng không phải là kẻ lười biếng, ham ngủ mà cũng làm việc vất cả “chẳng được chơi phút nào”. Từ đây, Răng, Tay, Chân và Miệng bừng tỉnh về việc chung tay đoàn kết. Bằng ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, hình ảnh thân thuộc kết hợp cùng cách kể bằng văn vần, Ê-dốp đã khiến câu chuyện trở nên gần gũi với người đọc. Ngoài ra, tác phẩm còn để lại ấn tượng sâu đậm cho độc giả nhờ nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo. Các nhân vật là bộ phận trên cơ thể con người, được nhân hóa và khắc họa thông qua hành động, suy nghĩ. Có thể nói, từ bốn nhân vật Răng, Miệng, Tay, Chân, Ê-dốp muốn nhắn nhủ tới tất cả mọi người việc sống đoàn kết, yêu thương, đùm bọc. Đặc biệt, trong một tập thể, chúng ta càng phải kết nối, gắn chặn với nhau hơn. Qua truyện ngụ ngôn “Bụng và Răng, Miệng, Tay, Chân”, em nhận thấy bản thân cần ứng xử, hành động văn minh hơn nữa. Bốn nhân vật chính là tấm gương phản chiếu, giúp em hiểu ra tác hại, hậu quả của thói ghen tị, soi mói và so bì với người khác.
Dàn ý Phân tích đặc điểm nhân vật trong truyện Bụng và Răng, Miệng, Tay, Chân
1. Mở bài: giới thiệu tác giả, tác phẩm và nhân vật.2. Thân bài:* Đặc điểm nhân vật:- Các nhân vật Răng, Miệng, Tay, Chân là những “thành viên cơ thể”.- Công việc: mỗi thành viên thực hiện một nhiệm vụ:+ Tay: gắp thức ăn.+ Miệng: xơi đồ ăn.+ Răng: nhai.- Tích cách: hay tị nạnh, thiếu hiểu biết. Tính cách này được thể hiện rõ qua:Hành động: + Bốn thành viên họp bàn, quyết định đình công để anh Bụng phải làm việc.+ Cuối cùng, ai nấy đều mệt mỏi rã rời, không còn sức lực.Suy nghĩ: đã có sự thức tỉnh về việc chung tay đoàn kết.* Nghệ thuật xây dựng nhân vật:- Khắc họa nhân vật thông qua hành động, suy nghĩ.- Ngôn từ gần gũi, dễ hiểu.* Ý nghĩa hình tượng nhân vật:- Thông qua các nhân vật, tác giả gửi gắm bài học về việc sống đoàn kết, biết sẻ chia và không tị nạnh.3. Kết bài: nêu ấn tượng, đánh giá về nhân vật. Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 7 hay khác: Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85 4.5 (243) 799,000đs 199,000 VNĐ 4.5 (243) 799,000đ 99,000 VNĐ 4.5 (243) 999,000đ 299.000 - 599.000 VNĐ Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube: Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Trang web chia sẻ nội dung miễn phí dành cho người Việt. Lớp 1-2-3 Lớp 4 Lớp 5 Lớp 6 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 9 Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Lập trình Tiếng Anh Chính sách bảo mật Hình thức thanh toán Chính sách đổi trả khóa học Chính sách hủy khóa học Tuyển dụng Tầng 2, số nhà 541 Vũ Tông Phan, Phường Khương Đình, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, Việt Nam Phone: 084 283 45 85 Email: vietjackteam@gmail.com CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội. 2015 © All Rights Reserved.
Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc sau khi đọc một bài thơ - mẫu 1
“Mây và sóng” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Ta-go. Bài thơ đã gợi ra cho người đọc cảm nhận sâu sắc về tình mẫu tử thiêng liêng. Em bé trong bài thơ được mời gọi đến thế giới kỳ diệu ở “trên mây” và “trong sóng”. Với sự hiếu kỳ của một đứa trẻ, em đã cất tiếng hỏi: “Nhưng làm thế nào mình lên đó được?”, “Nhưng làm thế nào mình ra ngoài đó được?”. Nhưng khi em bé nhớ đến mẹ vẫn luôn chờ đợi mình ở nhà, em đã từng chối đầy kiên quyết: “Làm sao có thể rời mẹ mà đến được?”, “Làm sao có thể rời mẹ mà đi được?”. Chẳng có niềm hạnh phúc nào bằng được ở bên cạnh mẹ mặc dù thế giới ngoài kia nhiều hấp dẫn. Để rồi, em bé đã sáng tạo ra những trò chơi còn thú vị hơn của những người “trên mây” và “trong sóng”. Trong trò chơi đó, em sẽ là mây, là sóng tinh nghịch nô đùa; còn mẹ sẽ là vầng trăng, là bờ biển dịu hiền, ôm ấp và che chở con. Những câu thơ giàu tính tự sự và miêu tả nhưng lại góp phần bộc lộ cảm xúc của nhân vật trong bài thơ. Ta-go đã sử dụng trong bài thơ những lời thoại, chi tiết được kể tuần tự, vừa lặp lại vừa biến hóa kết hợp với hình ảnh giàu tính biểu tượng. Bài thơ chính là một câu chuyện cảm động về tình mẫu tử thiêng liêng, bất diệt.
Dàn ý Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc sau khi đọc một bài thơ
- Mở bài: Nêu cảm nghĩ chung về bài thơ. Dẫn ra khổ thơ, đoạn thơ có nội dung hoặc nghệ thuật đặc sắc mang lại cho em nhiều cảm xúc - Thân bài: Nêu cụ thể cảm xúc của em về yếu tố nội dung hoặc nghệ thuật đặc sắc khiến em yêu thích Ví dụ: nêu cảm xúc về hai dòng thơ cuối của bài thơ: “Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi/ Mình vẫn còn một thứ quả non xanh?”. Hai dòng thơ cuối gợi cho người đọc sự xúc động, sâu lắng bởi tình cảm và tấm lòng hiếu thảo của nhà thơ. Sử dụng biện pháp tu từ hoán dụ, lấy hình ảnh “bàn tay mẹ mỏi” để chỉ người mẹ già suốt đời vì con đã không còn sức lực nữa. Tiếp đến là biện pháp tu từ ẩn dụ, dùng hình ảnh “quả non xanh” chỉ sự chưa trưởng thành, còn nôn dại, vụng về của chính mình (người con). Hai dòng thơ đã diễn tả được tâm trạng lo lắng, trăn trở, pha chút ân hận của nhà thơ: mẹ già rồi mà mình vẫn còn non nớt, vụng dại… - Kết bài: Khái quát lại suy nghĩ của bản thân về yếu tố đã mang lại cảm xúc ấy. Ví dụ: Hai dòng thơ thể hiện cái nhìn tinh tế, nỗi xúc động của nhà thơ và nói giúp được nhiều người tình cảm quý trọng, thương yêu mẹ vô cùng.
Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc sau khi đọc một bài thơ - mẫu 2
Mẹ là đề tài muôn thủa trong thi ca, Nguyễn Khoa Điềm góp nhặt vào đề tài ấy bài thơ Mẹ và quả. Xuyên suốt bài thơ là hình ảnh mẹ và quả, qua đó thể hiện sự tảo tần của người mẹ và tình yêu thương mẹ của người con. Trong đó ấn tượng hơn cả là câu thơ: còn những bí và bầu thì lớn xuống/ chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn. Hai dòng thơ gợi cho người đọc sự xúc động bởi sự vất vả tảo tần của mẹ. Hai câu thơ có sự liên tưởng so sánh độc đáo giữa giọt mồ hôi vất vả của mẹ nuôi ta khôn lớn, nó cứ dài ra, nặng thêm như những quả bầu, quả bí. Qua đó em thấy được sự hy sinh thầm lặng của mẹ, và lòng biết ơn vô bờ của người con về công dưỡng dục sinh thành của mẹ hiền. Thông qua đó em biết ơn công lao sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, sự tảo tần hi sinh thầm lặng vì con cái của cha mẹ. Em tự hứa với bản thân sẽ cố gắng thật nhiều để cha mẹ không phải phiền lòng!
Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc sau khi đọc một bài thơ - mẫu 3
Bài thơ Những cánh buồm của Hoàng Trung Thông là một bài thơ viết về hình ảnh cha con để nói lên những ước mơ, khát vọng. Nhiều người khi đọc bài thơ này hẳn sẽ ấn tượng với hình ảnh cánh buồm, nhưng em lại ấn tượng với hình ảnh ánh nắng in lên vai hai cha con: "Ánh nắng chảy đầy vai". "Chảy" vốn là một từ được dùng cho chất lỏng, không phải cho ánh sáng. Vậy mà nhà thơ lại sử dụng nó để miêu tả sự chiếu sáng của ánh nắng. Vậy là từ một thứ không cầm nắm được, giờ đây ánh sáng đã được cụ thể hóa. Chính việc sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ này đã làm cho câu thơ gợi cảm hơn, khiến cho người đọc có nhiều liên tưởng hơn. Bài thơ Những cánh buồm của Hoàng Trung Thông không chỉ có ý nghĩa về mặt nội dung, mà ở hình thức nghệ thuật của nó cũng thật ý nghĩa vì đã tạo nên những liên tưởng gợi cảm.
Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc sau khi đọc một bài thơ - mẫu 4
Có biết bao bài thơ viết về tình cha con nhưng em đặc biệt yêu thích và ấn tượng với bài thơ "Những cánh buồm" của tác giả Hoàng Trung Thông. Đây là tác phẩm viết rất hay về tình cảm gia đình, đặc biệt là tình cảm cha con gắn bó, thiêng liêng, sâu sắc. Trong văn bản, điều khiến em rung cảm là tình yêu thương và sự ân cần của người cha dành cho con. Lòng cha dâng lên nỗi niềm hạnh phúc khi dắt tay con đi trên bãi cát "dưới ánh mai hồng". Thấy con bước đi trên bờ biển, lòng cha "vui phơi phới". Từ "phơi phới" đã diễn tả được hết sự vui sướng của cha. Cha luôn nâng niu, trân trọng từng khoảnh khắc bên con. Cụm từ "cha dắt con đi" được lặp lại nhiều lần nhằm nhấn mạnh vào tình cảm yêu thương và sự đồng hành của cha trên bước đường cùng con chinh phục tương lai. Cha giống như cánh buồm, luôn đồng hành, dẫn bước. Đối với con, cha luôn âu yếm, nhẹ nhàng. Cha xoa đầu, mỉm cười nhìn con. Cha từ tốn giải thích cho con sự bao la, rộng lớn của đất trời: "Theo cánh buồm đi mãi đến nơi xa/ Sẽ có cây, có cửa, có nhà,/ Vẫn là đất nước của ta,/ Ở nơi đó cha chưa hề đi đến.". Để rồi khi đứng trước mong ước được khám phá thế giới của con, người cha dâng lên niềm hạnh phúc, vui sướng "Lần đầu tiên trước biển khơi vô tận/ Cha gặp lại mình trong tiếng ước mơ con". Có thể nói, bằng cách kết hợp giữa yếu tố tự sự với miêu tả, sử dụng từ ngữ giàu sức gợi và hình ảnh quen thuộc, gần gũi với đời sống hàng ngày, tác giả Hoàng Trung Thông đã thể hiện một cách đầy tinh tế nỗi lòng, tình cảm của người cha. Từ đây, em càng thêm yêu và trân trọng những giây phút được ở bên gia đình.
Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc sau khi đọc một bài thơ - mẫu 5
Nhà thơ Hoàng Trung Thông đã để lại cho em những ấn tượng mạnh mẽ qua bài thơ "Những cánh buồm". Tác phẩm của ông là tiếng lòng của người cha chan chứa tình yêu thương dành cho con. Bên cạnh hình ảnh người cha ân cần, luôn quan tâm, che chở, đồng hành cùng con trên bước đường hướng đến tương lai thì hình ảnh người con lại cho em thấy được sự tin tưởng, yêu thương dành cho cha của mình. Cha và con đi dạo trên bờ biển. Con hướng mắt về phía đằng xa rồi cất lên câu hỏi đầy thơ ngây: "Cha ơi/ Sao xa kia chỉ thấy nước, thấy trời/ Không thấy nhà, không thấy cây, không thấy người ở đó?". Từ câu hỏi của đứa con, em có thể thấy, trong lòng con, cha là người có thể giải đáp mọi băn khoăn, thắc mắc. Đồng thời, dòng thơ còn cho thấy người con luôn muốn học hỏi, tìm tòi mọi thứ. Tiếp đến, con còn là đứa trẻ mang trong mình hoài bão, khát vọng được tìm hiểu thế giới, đi đến những chân trời, vùng đất bao la, rộng lớn. Con "trỏ cánh buồm xa nói khẽ": "Cha mượn cho con buồm trắng nhé,/ Để con đi...". Câu nói ấy thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối mà con dành cho cha mình. Khát vọng của con chính là ước mơ của cha thuở nào. Hình ảnh cánh buồm vì thế cũng trở nên thật sâu sắc, chứa đựng nhiều ý nghĩa. Nó không chỉ biểu trưng cho hoài bão của bao thế hệ mà còn đại diện cho tinh thần, ý chí sẵn sàng đối mặt, đương đầu với phong ba bão táp để vươn tới thành công. Như vậy, với lời thơ dạt dào cảm xúc, chan chứa tình yêu thương và hình ảnh thơ gần gũi, nhà thơ Hoàng Trung Thông đã thể hiện một cách đầy tinh tế tình cảm của hai cha con. Qua văn bản, em càng thêm cảm phục, ngưỡng mộ trước tài năng của tác giả.
Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc sau khi đọc một bài thơ - mẫu 6
Đối với em, một trong những tác phẩm hay viết về tình cha con là bài thơ "Những cánh buồm" do Hoàng Trung Thông sáng tác. Qua bài thơ, tác giả muốn ca ngợi tình cảm gia đình gắn bó. Trước hết, điều mà em ấn tượng nhất trong văn bản là sự ân cần, quan tâm của người cha dành cho con. Sau trận mưa đêm, cha và con cùng nhau đi dạo "dưới ánh mai hồng". Nhìn thấy con bước đi, lòng cha dâng lên một niềm vui sướng, hạnh phúc "Nghe con bước lòng cha vui phơi phới". Có lẽ, một khoảnh khắc bên con, cha luôn nâng niu, trân trọng. Đứng trước câu hỏi đầy ngô nghê, non nớt, cha có hành động rất dịu dàng, nhẹ nhàng: "mỉm cười xoa đầu con nhỏ". Đồng thời, từ tốn giải thích cho con về sự rộng lớn của biển khơi, trời đất "Theo cánh buồm đi mãi đến nơi xa/ Sẽ có cây, có cửa, có nhà,/ Vẫn là đất nước của ta,/ Ở nơi đó cha chưa hề đi đến.". Hình ảnh "cha dắt con đi" xuất hiện hai lần ở khổ hai và khổ bốn đã diễn tả tình yêu thương cũng như gợi lên sự đồng hành, dẫn dắt của cha trên hành trình cùng con đi đến tương lai. Để rồi, khi thấy con mơ ước đến khám phá, đi đến chân trời mới, cha hạnh phúc khôn nguôi. Ước mơ ấy của con cũng chính là hoài bão, khát vọng của cha ngày nào: "Lời của con hay tiếng sóng thầm tì/ Hay tiếng của lòng cha từ một thời xa thẳm". Bên cạnh hình ảnh người cha giàu tình yêu thương là tình cảm sâu sắc và niềm tin yêu của đứa con bé nhỏ. Trong mắt đứa trẻ ấy, cha là người có thể giải đáp mọi thắc mắc, băn khoăn: "Sao xa kia chỉ thấy nước, thấy trời/ Không thấy nhà, không thấy cây, không thấy người ở đó?". Con mong "Cha mượn cho con buồm trắng nhé,/ Để con đi...". Dòng thơ cho thấy sự tin tưởng tuyệt đối mà con dành cho cha. Đối với con, cha chính là người bạn, người đồng hành tin cậy, sẵn sàng giúp đỡ, yêu thương vô điều kiện. Ngoài nội dung, nét đặc sắc về nghệ thuật cũng góp phần tạo nên thành công cho văn bản. Tác giả đã vận dụng các biện pháp tu từ độc đáo như điệp ngữ "không", ẩn dụ chuyển đổi cảm giác "Ánh nắng chảy đầy vai" cùng hệ thống từ ngữ giàu sức gợi hình, gợi cảm. Việc đan xen, kết hợp giữa yếu tố tự sự và miêu tả đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện chủ đề, cảm hứng của bài thơ. Có thể nói, tác phẩm đem đến cho em những ấn tượng khó phai về tình cảm cha con thắm thiết.
Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc sau khi đọc một bài thơ - mẫu 7
Mặc dù đã được đọc và học không ít bài thơ viết về mẹ nhưng em đặc biệt ấn tượng với tác phẩm "Mẹ và quả" của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Bài thơ đã đem đến cho em những cảm nhận sâu sắc về tình cảm yêu thương, biết ơn của người con dành cho mẹ. Mẹ hiện lên thật giản dị, gần gũi với hình ảnh chăm bón cho "bí" và "bầu". "Những mùa quả lặn rồi mọc" như sự tuần hoàn, lặp lại không ngừng của thời gian. Quanh năm suốt tháng, mẹ vẫn cần mẫn gieo trồng, chăm bón cho bí và bầu lớn lên. Bởi vậy, "bí" và "bầu cứ dần dần "lớn xuống", "mang dáng giọt mồ hôi mặn". Đó chính là công sức của mẹ bỏ ra để ươm mầm những loài cây. Mẹ mang vẻ đẹp của người phụ nữ tần tảo, rất giàu đức hi sinh. Bên cạnh hình ảnh người mẹ, điều khiến em ấn tượng nhất đó chính là tình cảm của nhân vật trữ tình. Chứng kiến sự vất vả của mẹ, người con luôn ghi nhớ, biết ơn "Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên". Nhờ sự chăm chút, nuôi dưỡng ấy mà những đứa con mới có thể trưởng thành, khôn lớn. Cũng giống như quả bí, quả bầu phát triển là nhờ những giọt mồ hôi, nhọc nhằn của mẹ. Để rồi, hoảng hốt, sợ hãi một "ngày bàn tay mẹ mỏi" mà "Mình vẫn còn một thứ quả non xanh?". Chủ thể trữ tình lo sợ một ngày mẹ già yếu còn mình thì chưa đủ chín chắn, chưa làm được những điều xứng đáng với chờ mong của mẹ. Như vậy, bằng hình ảnh thơ gần gũi, quen thuộc với đời sống thường nhật, nhịp thơ linh hoạt, cùng biện pháp tu từ độc đáo như: so sánh "Như Mặt Trời, khi như Mặt Trăng"; đối lập "Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên/ Còn những bí và bầu thì lớn xuống"; hoán dụ, nói giảm nói tránh "Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi"; ẩn dụ "Mình vẫn còn một thứ quả non xanh", tác giả đã thể hiện một cách đầy tinh tế, sâu sắc tình cảm thương yêu dành cho mẹ của mình. Qua bài thơ, em càng thêm trân trọng những phút giây bên mẹ và cố gắng học tập để mẹ vui lòng.
Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc sau khi đọc một bài thơ - mẫu 8
Nhắc đến nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, em vô cùng ấn tượng trước sáng tác "Mẹ và quả" của ông. Đây quả là một tác phẩm hay và sâu sắc khi viết về tình mẫu tử cao đẹp, thiêng liêng, sâu nặng. Trong toàn bộ văn bản, điều khiến em yêu thích nhất chính là khổ cuối cùng: "Và chúng tôi, một thứ quả trên đời/ Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái/ Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi/ Mình vẫn còn một thứ quả non xanh". Ở hai dòng thơ đầu: "Và chúng tôi, một thứ quả trên đời/ Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái", tác giả đã đem đến cho em những cảm nhận về sự trân trọng, biết ơn của người con dành cho mẹ. Nhân vật trữ tình coi mình như một loại quả. Thứ quả ấy lớn lên nhờ tình yêu thương, chăm sóc, chở che của mẹ. "Bảy mươi tuổi" chính là cột mốc quan trọng của đời người. Mẹ đã đi quá nửa cuộc đời, đã trở nên già yếu. Đây cũng là lúc mẹ mong chờ được "hái" loại quả mà mình thương yêu nhất. Mẹ muốn nhìn thấy các con khôn lớn, trưởng thành. Đặc biệt, em vô cùng ấn tượng trước tình cảm chân thành, da diết của người con ở hai dòng cuối cùng: "Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi/ Mình vẫn còn một thứ quả non xanh". Câu thơ ấy khơi gợi sự xúc động, sâu lắng trong lòng người đọc bởi tình cảm và tấm lòng hiếu thảo của nhà thơ. Với biện pháp hoán dụ, lấy hình ảnh "bàn tay mẹ mỏi", tác giả muốn diễn tả sự già yếu của mẹ. Tiếp đó là biện pháp ẩn dụ "mình vẫn còn một thứ quả non xanh?", đối lập với tuổi cao, sức yếu của mẹ là sự non nớt, chưa trưởng thành của con. Con lo sợ mẹ già rồi mà mình vẫn còn vụng dại, chưa kịp trưởng thành, lớn khôn. Như vậy, bằng các biện pháp tu từ độc đáo như ẩn dụ, hoán dụ, tác giả đã diễn tả được tình cảm sâu nặng dành cho người mẹ kính yêu. Từ đây, em càng thêm trân trọng, yêu thương mẹ của mình.
Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc sau khi đọc một bài thơ - mẫu 9
Với lời thơ mộc mạc, gần gũi, "Mẹ và quả" của Nguyễn Khoa Điềm đã để lại cho em những rung cảm và niềm xúc động sâu sắc. Bài thơ là lời giãi bày chân thành, dạt dào cảm xúc của người con dành cho mẹ. Hình ảnh mẹ hiện lên thật chân thực, rõ nét. Trong trái tim con, mẹ là người phụ nữ tảo tần, giàu đức hi sinh. Mẹ luôn vun vén bồi đắp cho những cây quả lớn lên. Quanh năm suốt tháng, mồ hôi mẹ cứ vậy mà nhỏ xuống để những mùa quả "lặn" rồi lại "mọc". Chính điều đó đã khiến cho người con thêm trân trọng, nâng niu, biết ơn sự hi sinh thầm lặng của mẹ. Ở hai câu thơ "Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên/ Còn những bí và bầu thì lớn xuống", tác giả đã sử dụng biện pháp đối lập, tương phản. Câu thơ vừa mang nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa biểu trưng sâu sắc. Cả con và bầu, bí đều lớn lên từ đôi bàn tay cần mẫn và tình yêu thương của mẹ. Người con muốn bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc dành cho mẹ, người đã vì con mà vất vả, nhọc nhằn. Đến khổ thơ cuối cùng, nhân vật trữ tình "hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi". Tác giả lấy hình ảnh "bàn tay mẹ mỏi" để chỉ người mẹ đã già yếu, đến cái tuổi "gần đất xa trời". Hai dòng thơ cuối: "Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi/ Mình vẫn còn một thứ quả non xanh" đã diễn tả được tâm trạng lo lắng, trăn trở, pha chút ân hận của nhân vật trữ tình. Chủ thể trữ tình lo rằng mẹ già rồi mà mình vẫn còn vụng dại, chưa kịp khôn lớn, trưởng thành. Để thể hiện một cách sâu sắc nội dung, tác giả đã sử dụng hàng loạt các biện pháp tu từ độc đáo như ẩn dụ, so sánh, hoán dụ, nói giảm nói tránh và hình ảnh gần gũi, giản dị. Qua tác phẩm, em càng thêm trân trọng những phút giây được ở bên mẹ của mình.
Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc sau khi đọc một bài thơ - mẫu 10
Với tác phẩm "Mẹ và quả", nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho độc giả rất nhiều xúc cảm. Bằng việc sử dụng những hình ảnh giản dị, thân thuộc cùng giọng điệu đằm thắm, sâu lắng, nhà thơ đã tái hiện lại bức chân dung người mẹ tảo tần, lam lũ. Một tay mẹ nuôi lớn đàn con thơ, chăm lo cho những mùa quả "lặn rồi lại mọc". Hai câu thơ: "Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên/Còn bí và bầu thì lớn xuống" đã sử dụng rất thành công biện pháp đối lập. Nhờ sự nuôi dưỡng của mẹ, những đứa con trở nên ngày một cao lớn, trong khi những quả bí, quả bầu lại dần trĩu nặng, chạm xuống mặt đất. Với hình dáng "giọt mồ hôi mặn", những thứ quả đó đã nói lên sự vất vả, cực nhọc mà người mẹ phải trải qua. Tuy nhiên, "thứ quả" mẹ mong muốn được hái nhất lại là các con: "Và chúng tôi, một thứ quả trên đời/Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái". Bao công sức, hi sinh đều chỉ để đổi lại sự trưởng thành, khôn lớn của con. Nhìn bóng lưng mẹ ngày một còng xuống, số tuổi thì ngày càng cao lên, người con khéo léo bày tỏ nỗi sợ trong lòng: "Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi/Mình vẫn còn một thứ quả non xanh". Nhân vật trữ tình giật mình thảng thốt, lo lắng rằng đến khi mình "chín" thì mẹ lại không còn ở bên. Qua tác phẩm, ta thấy được tình cảm và sự hi sinh cao cả của mẹ cũng như sự biết ơn sâu sắc của những đứa con với đấng sinh thành.
Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc sau khi đọc một bài thơ - mẫu 11
"Mẹ và quả" là một tác phẩm xuất sắc của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ngay từ nhan đề bài thơ, ta đã thấy được những ẩn ý sâu xa của người nghệ sĩ. Hình ảnh về "những mùa quả" được lặp lại nhiều lần tượng trưng cho sự chảy trôi của thời gian. Chúng cứ nối đuôi nhau "lặn rồi lại mọc", như Mặt Trời và Mặt Trăng, khiến ta cảm nhận được thời gian trôi qua với một tốc độ khủng khiếp. Điều đó đồng nghĩa với việc mẹ đang ngày một già đi, dần dần "mỏi" và không còn có thể ở mãi bên các con được nữa. Nó khiến cho nhân vật trữ tình vô cùng hoảng sợ. Cả đời mẹ vất vả, tần tảo, không màng khó khăn để nuôi các con "lớn lên", chăm giàn bầu, giàn bí "lớn xuống". Hình ảnh đối lập hết sức độc đáo kia làm cho bài thơ trở nên ấn tượng hơn rất nhiều. Những quả bí, quả bầu mang hình dáng "giọt mồ hôi mặn" hay chính công sức, thời gian mẹ đã hi sinh để nuôi lớn đàn con. Vậy mà "thứ quả" duy nhất mẹ mong lại đơn giản là sự trưởng thành, khôn lớn của đứa con ấy. Chủ thể trữ tình đã hoảng sợ, không phải vì áp lực phải thành công, mà là sợ mình sẽ không "chín" kịp lúc để báo đáp, phụng dưỡng mẹ. Mẹ vất vả vì ta suốt bao nhiêu năm, liệu ta có thể đỡ đần, lo lắng cho người trước khi tay người "mỏi"? Đó là câu hỏi, là nỗi trăn trở khôn nguôi trong lòng người con cũng như độc giả. Và giờ đây, ta mới hiểu rõ ràng hơn về nhan đề "Mẹ và quả". "Quả" có thể là bí, là bầu, là loài cây được tay mẹ vun trồng, chăm sóc và cũng là đứa con bé bỏng, ngây dại. Hai hình ảnh đặt cạnh nhau khiến cho cảm xúc của bài thơ dâng trào mãnh liệt. Qua đó, người đọc lại càng thêm yêu quý, biết ơn và trân trọng người mẹ đáng kính của mình hơn.
Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc sau khi đọc một bài thơ - mẫu 12
Bài thơ "Mẹ và quả" của Nguyễn Khoa Điềm là một tác phẩm vô cùng ý nghĩa. Với những hình ảnh vô cùng giản dị, thân thuộc cùng giọng điệu tha thiết, nhẹ nhàng, tác giả đã đem đến cho chúng ta những thông điệp đầy xúc động về tình mẫu tử. Nhân vật chính của tác phẩm là người mẹ - một người phụ nữ tần tảo, chịu thương chịu khó, luôn hết mình để nuôi các con khôn lớn, trưởng thành. Hình ảnh mẹ hiện lên gắn liền với "những mùa quả" nối tiếp nhau, cứ "lặn" rồi lại "mọc" như Mặt Trăng, Mặt Trời. Điều đó khiến ta liên tưởng tới sự chảy trôi vô tận, phũ phàng của thời gian. Nó khiến cho những đứa con "lớn lên", những quả bầu, quả bí "lớn xuống", đồng thời cũng phủ một lớp sương trắng xóa lên mái tóc mẹ. Bờ vai mẹ đã gồng gánh cả một gia đình suốt bao năm qua, nhưng bà không cần bất cứ điều gì cho riêng bản thân mình. Ước mong lớn lao nhất của mẹ "Bảy mươi tuổi đợi chờ được hái" chính là sự khôn lớn, trưởng thành của các con. Nhắc đến đây, nội tâm nhân vật trữ tình bắt đầu hoảng sợ thời gian sẽ cướp đi đấng sinh thành, hoảng hốt vì không biết liệu đến khi "bàn tay mẹ mỏi" thì mình đã "chín" chưa hay vẫn chỉ là "một thứ quả non xanh". Với bổn phận và tấm lòng biết ơn, chủ thể trữ tình luôn mong muốn được báo đáp người mẹ đáng kính. Chắc chắn, ai trong chúng ta cũng đều có thể đồng cảm và thấu hiểu cho cảm xúc đó. Tình cảm dạt dào, sự hi sinh cao cả mà không cần hồi đáp của người mẹ đã khiến độc giả vô cùng xúc động. Qua đây, ta lại càng cảm nhận được sự thiêng liêng của tình mẫu tử, thêm biết ơn về những gì mà gia đình đem đến. Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 7 hay khác: Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85 4.5 (243) 799,000đs 199,000 VNĐ 4.5 (243) 799,000đ 99,000 VNĐ 4.5 (243) 999,000đ 299.000 - 599.000 VNĐ Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube: Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Trang web chia sẻ nội dung miễn phí dành cho người Việt. Lớp 1-2-3 Lớp 4 Lớp 5 Lớp 6 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 9 Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Lập trình Tiếng Anh Chính sách bảo mật Hình thức thanh toán Chính sách đổi trả khóa học Chính sách hủy khóa học Tuyển dụng Tầng 2, số nhà 541 Vũ Tông Phan, Phường Khương Đình, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, Việt Nam Phone: 084 283 45 85 Email: vietjackteam@gmail.com CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội. 2015 © All Rights Reserved.
Trao đổi về một vấn đề trang 31 - mẫu 1
Kính thưa thầy/ cô và các bạn, em tên là….lớp….trường… Trong những tiết học trước chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu văn bản "Những cánh buồm" của Hoàng Trung Thông. Đây là một bài thơ hay đặc sắc về tình cha con. Trong văn bản xuất hiện hình ảnh cánh buồm, và có ý kiến trái chiều về hình ảnh này: ý kiến thứ nhất hình ảnh cánh buồm tượng trưng cho khát vọng vươn xa của người con. Ý kiến thứ hai hình ảnh cánh buồm tượng trưng cho những ước mơ chưa đạt được của người cha. Vậy theo các bạn ý kiến nào đúng? Các bạn hãy lắng nghe ý kiến của mình và cùng trao đổi nhé! Điểm giống nhau của hai ý kiến đó là đều nói rằng hình ảnh cánh buồm dùng để chỉ ước mơ. Có điều, nếu ý kiến thứ nhất cho rằng hình ảnh cánh buồm tượng trưng cho khát vọng vươn xa của người con thì luồng ý kiến thứ hai lại suy tư khác. Cụ thể, ý kiến này khẳng định hình ảnh cánh buồm tượng trưng cho những ước mơ chưa đạt được của người cha. Nếu chúng ta đọc hai khổ thơ cuối riêng rẽ nhau thì ý kiến nào cũng đúng. Nhưng chúng ta đặt trong chỉnh thể bài thơ thì hai ý kiến này có ý đúng nhưng chưa thật đầy đủ và chuẩn xác. Theo em, khi nhận xét về hình ảnh cánh buồm, chúng ta cần xem xét tới ngữ cảnh cũng như xem xét trong chỉnh thể bài thơ. Chúng ta cần khẳng định với nhau rằng cánh buồm ở đây là hình ảnh ẩn dụ. Bản chất cánh buồm là dựa vào sức gió để vươn xa, qua đó thể hiện khát vọng vươn xa của con người. Ở khổ thơ thứ tư, cánh buồm xuất hiện trong ước muốn của người con “cha mượn cho con buồm trắng/ để đi…” thể hiện mong muốn, khao khát chinh phục khám phá thiên nhiên của người con. Còn ở khổ thơ cuối, qua lời giãi bày của người cha “cha gặp lại mình trong tiếng ước mơ con”, chúng ta cũng thấy được ước muốn, khao khát chinh phục thiên nhiên của người cha chưa thực hiện được. Như vậy, khi đặt hình ảnh cánh buồm trong chỉnh thể bài thơ cùng với ngữ cảnh em xin đưa ra ý kiến của mình: hình ảnh cánh buồm vừa thể hiện khát vọng vươn xa của người con vừa thể hiện được những ước mơ chưa đạt được của người cha. Trên đây là bài trình bày của em về hai ý kiến nói về hình ảnh cánh buồm trong thơ Hoàng Trung Thông, cảm ơn thầy cô và các bạn đã lắng nghe. Rất mong nhận được sự góp ý từ thầy cô và các bạn.
Trao đổi về một vấn đề trang 31 - mẫu 2
Hình ảnh cánh buồm trong bài thơ Những cánh buồm của Hoàng Trung Thông là hình ảnh mang tính biểu tượng để lại nhiều suy tư trong tâm tưởng người đọc. Có hai ý kiến khác nhau khi đi lý giải về hình ảnh này. Có bạn cho rằng: Hình ảnh cánh buồm trong bài thơ tượng trưng cho khát vọng vươn xa của người con. Lại có ý kiến khác: Hình ảnh cánh buồm tượng trưng cho những ước mơ chưa đạt được của người cha. Điểm giống nhau của hai ý kiến đó là đều nói rằng hình ảnh cánh buồm dùng để chỉ ước mơ. Có điều, nếu ý kiến thứ nhất cho rằng hình ảnh cánh buồm tượng trưng cho khát vọng vươn xa của người con thì luồng ý kiến thứ hai lại suy tư khác. Cụ thể, ý kiến này khẳng định hình ảnh cánh buồm tượng trưng cho những ước mơ chưa đạt được của người cha. Đối với ý kiến thứ nhất, người nói rất có lý khi cho rằng hình ảnh cánh buồm tượng trưng cho khát vọng người con. Điều đó được thể hiện rất rõ qua những lời nói, hành động của cậu bé trong bài: “Con lại trỏ cánh buồm xa nói khẽ: Cha mượn cho con buồm trắng nhé, Để con đi…” Cậu dùng hành động kết hợp với lời nói nhỏ nhẹ như sợ cảnh vật giật mình, làm phá tan không gian thanh bình. Lời đề nghị rất ngây ngô, cậu muốn mượn “buồm trắng” để thỏa mong ước khám phá thế giới bao la rộng lớn ngoài kia. Như vậy, cánh buồm ở đây chính là phương tiện, là cánh cửa mở ra những hoài bão lớn lao của đứa con nhỏ. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là luồng ý kiến thứ hai hoàn toàn không có căn cứ. Cánh buồm cũng thể hiện những ước mơ xưa cũ của người cha. Điều đó được thể hiện rõ ràng qua hai câu thơ: “Lời của con hay tiếng sóng thầm thì Hay tiếng lòng cha từ một thời xa thẳm” Lời nói gián tiếp và câu hỏi tu từ thể hiện sự không chắc chắn nơi người cha, rằng câu nói vừa rồi là của con, của sóng hay của chính lòng mình. Cánh buồm kiêu hãnh ngoài biển khơi thể hiện khao khát được đi xa để khám phá, hay cũng chính là nơi chất chứa hình cha thuở trước. Như vậy, người cha đã thấy mình trong chính ước mơ của con nhỏ. Như vậy, hai ý kiến trên đều đúng và có thể bổ sung cho nhau để hợp thành một ý hoàn chỉnh, nói lên ý nghĩa của hình ảnh cánh buồm trong bài thơ Những cánh buồm của Nguyễn Trung Thông. Xuyên suốt toàn bài thơ, cánh buồm chứa đựng nhiều ý nghĩa khác nhau. Cánh buồm tượng trưng cho những ước mơ, khát vọng, hoài bão, … của bao thế hệ, bao gồm cả thế hệ cha và thế hệ con. Đó là cánh buồm của con thuyền chở ước mơ của tuổi thơ đi đến những chân trời mới, cuộc sống mới, khát vọng mới. Ngoài ra, cánh buồm cũng tượng trưng cho tinh thần, ý chí sẵn sàng đương đầu với thử thách, đối mặt với sóng gió để vươn tới thành công.
Trao đổi về một vấn đề trang 31 - mẫu 3
Theo em, cả hai ý kiến trên đều đúng. Bài thơ “Mây và sóng” của Ta-go vừa ca ngời tình mẫu tử thiêng liêng, vừa ca ngợi trí tưởng tượng ngây thơ, trong sáng của các em nhỏ. - Ý thứ nhất được thể hiện qua câu nói: “Mẹ mình đang đợi mình ở nhà.”, “Làm sao có thể rời mẹ mà đến được?”, “Buổi chiều mẹ luôn muốn mình ở nhà, làm sao có thể rời mẹ mà đi được?”. Nó thể hiện ý chí kiên định của người con. Dù bên ngoài kia có biết bao cám dỗ, bao cuộc vui thật hay, thú vị, người con vẫn không quên rằng mẹ vẫn ở nhà đợi mình, vẫn yêu thương và hết mực chăm lo cho mình. Đó là tình cảm mẫu tử thiêng liêng đã đánh bại những cuộc vui tầm thường ngoài kia. - Ý thứ hai được thể hiện rõ nét qua cuộc đối thoại giữa con và người trên đám mây, người trong sóng và giữa hai mẹ con. Trí tưởng tượng là vô hạn, người con nhìn lên bầu trời, thấy những đám mây đang trôi, tưởng tượng nó đang nô đùa và muốn được chơi cùng, hay nhìn thấy sóng biển, em cũng muốn được đi ra ngoài khơi xa, ngắm nhìn thế giới ngoài kia. Nhưng vì không muốn rời xa mẹ mình, em đã nghĩ đến một trò chơi khác, cái mà không phải rời xa mẹ và vẫn có thể thỏa mãn bản thân. Ngay cả những trò chơi hay những cuộc hội thoại, đó đều là sự tưởng tượng chứa đầy sự ngây thơ, vô tư của đứa trẻ. Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 7 hay khác: Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85 4.5 (243) 799,000đs 199,000 VNĐ 4.5 (243) 799,000đ 99,000 VNĐ 4.5 (243) 999,000đ 299.000 - 599.000 VNĐ Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube: Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Trang web chia sẻ nội dung miễn phí dành cho người Việt. Lớp 1-2-3 Lớp 4 Lớp 5 Lớp 6 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 9 Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Lập trình Tiếng Anh Chính sách bảo mật Hình thức thanh toán Chính sách đổi trả khóa học Chính sách hủy khóa học Tuyển dụng Tầng 2, số nhà 541 Vũ Tông Phan, Phường Khương Đình, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, Việt Nam Phone: 084 283 45 85 Email: vietjackteam@gmail.com CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội. 2015 © All Rights Reserved.
Viết bài văn nghị luận về một vấn đề trong đời sống - mẫu 1
Trong cuộc sống, có rất nhiều người thường bị cuốn theo bởi những thứ xa hoa, cầu kì. Đối với họ, những thứ cầu kì, xa hoa ấy chính là biểu hiện của một đẳng cấp nào đó. Tuy nhiên, những thứ đó xét đến cùng cũng chỉ là hình thức bề ngoài và có phần phù phiếm. Sự giản dị có thể coi là một thái cực đối ngược với xa hoa, cầu kì. Sự giản dị rất dễ đi vào lòng bất cứ ai. Giản dị là một tính từ chỉ trạng thái, tính chất đơn giản một cách tự nhiên, không có gì rắc rối. Khi nói đến giản dị, người ta thường ngầm nói đến lối sống của con người. Cũng có khi giản dị được dùng cho những vấn đề hay lĩnh vực khác. Lối sống giản dị là một lối sống không trọng vật chất, cầu kì, xa hoa hay phô trương lãng phí. Tôi được biết đến sự giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cách ăn mặc. Chúng ta vẫn thường quen thuộc với hinh ảnh Bác Hồ mặc bộ kaki trắng, bộ quần áo màu nâu hay đôi dép cao su. Tôi cũng được biết đến Mark Zuckerberg - ông chủ Facebook thường mặc áo phông xám hàng ngày. Đó là những ví dụ điển hình về sự giản dị trong cách ăn mặc. Tuy nhiên, tôi không có ý nói bất cứ ai cũng chỉ nên mặc một kiểu đồ hay áo một màu. Vì như vậy khiến cho cuộc sống thật đơn điệu, nhàm tẻ. Sự giản dị trong lối sống chỉ nhằm để con người tránh sự xa xỉ, cầu kì, lãng phí. Biểu hiện của một lối sống giản dị còn nằm trong cách nói, giao tiếp hay cách viết. Khi nói đến sự giản dị trong cách viết, tôi lại nhớ đến Nguyễn Khuyến với bài thơ Khóc Dương Khuê. Dương Khuê là một người bạn của Nguyễn Khuyến, là một tiến sĩ, vị quan nhà Nguyễn. Khi Dương Khuê mất, Nguyễn Khuyến đã viết một bài thơ chữ Hán với nhan đề: Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương thượng thư. Việc viết một bài thơ bằng chữ Hán khi xưa thể hiện sự trang trọng, điển chương. Thế nhưng, chính Nguyễn Khuyến đã tự dịch bài thơ chữ Hán của mình sang thơ Nôm thành bài thơ Khóc Dương Khuê. Tại sao Nguyễn Khuyến lại phải dịch sang thơ chữ Nôm? Đó phải chăng là vì thơ chữ Nôm dễ hiểu hơn thơ chữ Hán, biểu đạt được những tâm tình của người Việt hơn thơ chữ Hán? Chính Nguyễn Khuyến đã dịch một bài thơ mang tính điển chương thành một bài thơ giản dị, dễ đi vào lòng người. Ngày nay, dù cuộc sống của con người có tốt đẹp hơn, hiện đại hơn, giàu sang hơn thì giản dị vẫn là một lối sống nên có. Nó giúp cho con người tránh được những thứ phù phiếm của cuộc đời, biết hướng tới chân, thiện, mĩ. Những thứ xa hoa chưa chắc đã là cái đẹp, tinh tế. Khi ai đó buồn, nếu giàu có, ta có thể dẫn họ đi đến những nơi mà tiền bạc có thể mua được. Nhưng ta cũng có thể lựa chọn cho họ một cái ôm thật chặt, chân thành, cảm thông, chia sẻ. Sự giản dị lúc này trở thành một sự an ủi hữu hiệu. Khi ai đó mệt, ta có thể để cho họ nghỉ ngơi chỉ bằng cách cho họ có không gian yên tĩnh. Ta sẽ nhẹ nhàng khép cánh cửa lại. Sự giản dị ấy thật tinh tế biết bao. Như vậy, có thể thấy lối sống giản dị đã có từ xưa, và đến nay vẫn còn tồn tại, vẫn còn phát huy những giá trị của nó. Tôi không phải một người cả tuần đều mặc áo phông màu xám, không phải người sẽ sống theo phong cách tối giản của người Nhật, nhưng tôi biết rằng, tự bản thân tôi cũng có một lối sống giản dị, không chạy theo thị hiếu của tha nhân, ngay cả đó là thị hiếu về "lối sống giản dị".
Viết bài văn nghị luận về một vấn đề trong đời sống - mẫu 2
Mỗi người là một phiên bản khác nhau không ai giống ai, vì thế mà mỗi người sẽ có một tính cách, một lối sống riêng: có người thích sống ở phố, chạy theo xu hướng mới, có người thích thôn quê dân dã yên bình, thích những gì đơn giản. Xã hội ngày càng phát triển, càng văn minh thì lối sống giản dị lại càng trở nên cần thiết. Vậy giản dị là gì và lối sống giản dị được biểu hiện như thế nào? Trước hết, hiểu ngắn gọn giản dị là sống đơn giản bỏ qua những sự cầu kì và không chạy đua theo xu hướng xã hội, sống phù hợp với hoàn cảnh của mình, không sống xa rời thực tại. Lối sống giản dị được biểu hiện qua muôn mặt đời sống trên các phương diện như lời ăn tiếng nói, lối sống, ăn mặc, hành động, bằng lòng với thực tại, không đòi hỏi cao từ phía người khác….Giản dị trong cách ăn mặc đó là mặc đơn giản, không lòe loẹt cầu kì và đặc biệt là phù hợp với từng hoàn cảnh khác nhau. Đơn cử khi tham gia một đám hiếu không nên mặc váy mà nên mặc quần áo trơn, ít họa tiết nhất có thể, tối màu; còn khi tham gia đám hỉ có thể mặc váy sáng màu nhạt, không nên quá cầu kì kiểu cách, miễn sao tạo được sử thoải mái trong hoạt động và giao tiếp. Còn trong lời ăn tiếng nói, giản dị được biểu hiện ở chỗ nói với âm thanh vừa đủ nghe, lời lẽ ngắn gọn đơn giản, dễ hiểu tránh lời thô lỗ dung tục và nói đúng, trúng vấn đề giao tiếp. Giản dị trong hành động, sinh hoạt được biểu hiện ăn đủ chất, đủ lượng, không làm thừa và đổ bỏ lãng phí, sống hòa đồng với mọi người xung quanh, tự nhiên và gần gũi trong cách cư xử…. Sống giản dị không chỉ đem lại nhiều lợi ích cho bản thân mà còn đem lại lợi ích cho cộng đồng, xã hội Khi sống giản dị tạo nên sự thanh thản, bình yên trong tâm hồn và sự nhàn nhã, thư thái trong nhịp sống. Sống giản dị còn giúp cho con người hoà đồng với tự nhiên, gắn bó sâu sắc với các cá nhân khác và là một trong những cách để mỗi người sống thật, sống có hứng thú, có ý nghĩa. Đơn cử như khi ăn nói giản dị, văn phong nhẹ nhàng, chân thật thường được mọi người xung quanh yêu quý. Cách nói chuyện nhanh gọn, đi đúng vấn đề sẽ chiếm được cảm tình từ đối phương. Giản dị trong cách ăn nói khiến cho mục đích giao tiếp thành công hơn. Nội dung ngôn từ ngắn gọn súc tích tiết kiệm được nhiều thời gian giao tiếp. Từ đó mang lại thành công cho người giản dị… Tuy nhiên chúng ta không nên nhầm lẫn sống giản dị với sống xuề xoà, dễ dãi, cẩu thả, vì trong những trường hợp này, cái giản đơn bên ngoài là biểu hiện của sự thiếu ý thức ở bên trong. Ăn nói giản dị, dễ hiểu khác với ăn nói cộc lốc, thiếu lễ độ, thiếu tôn trọng người khác. Chủ Tịch Hồ Chí Minh là một trong những tấm gương sáng ngời về lối sống giản dị. Đứng đầu một đất nước nhưng người vẫn mang dép cao su, áo vải, ăn những bữa cơm chỉ vài ba món, ở nhà sàn mái lá… Vì thế sự nghiệp, sức sống của Người đã vượt mọi giới hạn thông thường về không gian, thời gian, còn tiếng thơm muôn đời. Hay Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến rất giàu trách nhiệm, nặng tình đời song không tham đua chen chốn quan trường mà chọn thanh bần đế chan hoà với không gian suối rừng thôn dã, tìm sự tự do và thanh thản trong tâm hồn... Như vậy có thể thấy, giản dị là một trong những phẩm chất cao quý của con người, mỗi người cần tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất ấy trước hết là giúp ích cho bản thân, sau là giúp ích cho cộng đồng, xã hội. Để sống giản dị, cần một năng lực sống, năng lực tâm hồn và quyết tâm cao, cũng cần hoà mình vào cuộc sống đế sống và cảm nhận, cần loại bỏ lòng tham và bù đắp tình yêu cuộc sống. Đó là cách để tránh mọi cám dỗ, giảm áp lực tinh thần và nâng cao bản lĩnh văn hoá. Bản thân em cũng cố gắng học tập và tu dưỡng, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với mọi người và sống cởi mở, chân thành, đơn giản. Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 7 hay khác: Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85 4.5 (243) 799,000đs 199,000 VNĐ 4.5 (243) 799,000đ 99,000 VNĐ 4.5 (243) 999,000đ 299.000 - 599.000 VNĐ Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube: Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Trang web chia sẻ nội dung miễn phí dành cho người Việt. Lớp 1-2-3 Lớp 4 Lớp 5 Lớp 6 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 9 Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Lập trình Tiếng Anh Chính sách bảo mật Hình thức thanh toán Chính sách đổi trả khóa học Chính sách hủy khóa học Tuyển dụng Tầng 2, số nhà 541 Vũ Tông Phan, Phường Khương Đình, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, Việt Nam Phone: 084 283 45 85 Email: vietjackteam@gmail.com CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội. 2015 © All Rights Reserved.
Thảo luận nhóm về một vấn đề trong đời sống - mẫu 1
Kính thưa thầy/ cô và các bạn, em tên là ... lớp ... trường ... Em không tự nhận mình là người có lối sống giản dị bởi mẹ em đã đôi lần nhắc nhở vì sự cầu kỳ, trau chuốt cho hình thức bên ngoài của bản thân. Nhưng em nghĩ chúng ta, ai cũng có một quan niệm của riêng mình vì mọi điều trong cuộc sống. Với những gì đã tự rút cho bản thân và những bài học học được từ mẹ, em muốn thể hiện một vài suy nghĩ của mình về lối sống giản dị. Từ xưa, giản dị là một nếp sống đáng quý, trân trọng và cần được gìn giữ. Có thể, giờ đây lối sống giản dị đã phần nào mai một nhưng nó vẫn là truyền thống lâu đời của người phương Đông. Trước hết, giản dị được thể hiện rõ nét trong cách ăn mặc ở hình thức bên ngoài của mỗi người. Đừng cố tỏ ra mình là người sành điệu, hợp thời trang mà đánh mất đi nét bình dị, đời thường của mình! Chỉ cần có một bộ cánh gọn gàng, sạch đẹp là bạn đã có thể khiến cho mọi người ấn tượng tốt. em biết, ngày nay có rất nhiều bạn trẻ sống xa hoa, lãng phí và không biết trân trọng tiền bạc của bố mẹ để có thể bằng bạn, bằng bè, điện mốt này mốt kia. Tại sao, chúng ta lại phải quá cầu kỳ, chăm chút cho hình thức bên ngoài đến vậy? Nếu bạn diện quần áo quá sành điệu, không đúng chủ đề lại thiếu văn minh, lịch sự thì nó chẳng còn là nét bình dị thân thương mà lại trở thành những kẻ lố bịch, thiếu tôn trọng những người xung quanh. Bạn là bạn, em là em, mỗi người đều có một nét đẹp riêng nhưng điểm chung nhất của chúng ta đó là mang nét giản dị vốn có của người Việt Nam. Vậy nên, đừng bao giờ để cho đức tính đẹp đó bị phai mờ. Chủ tịch Hồ Chí Minh, tấm gương vĩ đại của dân tộc, người không chỉ khiến cho chúng ta nể phục vì tài năng mà còn nể phục, trân trọng hơn nữa vì một lối sống giản dị, văn minh. Liệu trên thế giới này, có một vị lãnh tụ nào vẫn mặc những bộ quần áo ka ki đã sờn vải, bạc màu, vẫn ăn những bữa cơm chỉ có vài ba món đơn giản? Không chỉ là cách ăn mặc, giản dị còn được thể hiện rất nhiều trong cách ứng xử hằng ngày. Mẹ em đã từng dạy rằng, đừng bao giờ anh nói cầu kỳ, qua Mỹ mà hãy diễn tả những lời nói, Ý hiểu của mình bằng ngôn từ dễ hiểu, trong sáng. Đúng như vậy, dù khi lời nói của bạn chị làm cô bình dị nhưng chân thành thì nó sẽ trở thành ánh bình minh trong lòng mọi người bởi nó rất đáng yêu. Nhưng, không phải vì thế mà chúng ta trở nên hồn nhiên và vô tư một cách khiếm nhã, làm mất đi nét thanh lịch của con người. Sự cư xử trang nhã, lễ phép của bạn sẽ khiến cho những người xung quanh càng ngày càng yêu quý. Trong lối sống hằng ngày cũng vậy, chẳng cần cầu kỳ mà bạn vẫn có thể thể hiện rõ được mình là người giản dị, đáng mến, văn minh và lịch sự. Chắc hẳn, bạn không thể quên được hình ảnh một lão nông chân quê, mộc mạc trong truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân? Đó là ông Hai – một nhân vật văn học đã để lại cho chúng ta bao ấn tượng sâu sắc. Tâm hồn ông vốn đã người sáng bị lòng yêu quê hương, đất nước nồng nàn lại càng đẹp hơn nữa bởi vẻ đẹp đôn hậu, thật thà, rất đỗi hồn nhiên giản dị chân quê. Tâm trí em vẫn thường mường tượng tới hình ảnh của ông khi ngồi sẵn quần, kể chuyện bên nhà hàng xóm về cách mạng. Nhân vật ông Hai trở nên đáng yêu, đáng nhớ hơn có lẽ cũng chính nhờ vẻ đẹp tâm hồn giản dị của người nông dân Việt Nam… Đôi khi, ta còn đánh giá sự giản dị của mỗi người qua cách suy nghĩ của họ. Khi bạn đứng trước một vấn đề, đừng vội lúng túng, mất phương hướng mà hãy giữ cho mình sự bình tĩnh. Đơn giản hóa mọi chuyện sẽ khiến bạn cảm thấy việc giải quyết khó khăn sao quá dễ dàng. Vậy tại sao bạn không chứng tỏ mình là người giản dị qua cách nghĩ? Mở cánh cửa tâm hồn để suy tư về cuộc sống, em nghĩ: giản dị chính là một nét đẹp đáng quý mà mỗi người cần phải gìn giữ và nâng niêu. Có thể em không hề giản dị theo nghĩa đơn thuần trong mắt mọi người, nhưng hôm nay, dù sao em cũng đã trở thành người giản dị trong suy nghĩ của riêng mình. Chẳng cần rườm rà, lan man, em đang thẳng thắn trình bày ý kiến và tất nhiên, điều không thể tránh khỏi đó chính là sự nghèo nàn, vụng về trong hiểu biết. Nhưng dù sao đó là giản dị theo cách của em.
Thảo luận nhóm về một vấn đề trong đời sống - mẫu 2
Kính thưa thầy/ cô và các bạn, em tên là….lớp….trường… Như chúng ta thấy xã hội ngày càng phát triển, càng văn minh, con người ngày càng sống hướng ngoại mà dần lãng quên đi những lối sống tốt đẹp của cha ông, trong đó có lối sống giản dị. Vậy giản dị là gì và lối sống giản dị được biểu hiện như thế nào, kính mời thầy/ cô và các bạn cùng lắng nghe bài nói về lối sống giản dị. Mỗi người là một phiên bản khác nhau không ai giống ai, vì thế mà mỗi người sẽ có một tính cách, một lối sống riêng: có người thích sống ở phố, chạy theo xu hướng mới, có người thích thôn quê dân dã yên bình, thích những gì đơn giản, giản dị. Trước hết, hiểu ngắn gọn giản dị là sống đơn giản bỏ qua những sự cầu kì và không chạy đua theo xu hướng xã hội, sống phù hợp với hoàn cảnh của mình, không sống xa rời thực tại. Lối sống giản dị được biểu hiện qua muôn mặt đời sống trên các phương diện như lời ăn tiếng nói, lối sống, ăn mặc, hành động, bằng lòng với thực tại, không đòi hỏi cao từ phía người khác….Giản dị trong cách ăn mặc đó là mặc đơn giản, không lòe loẹt cầu kì và đặc biệt là phù hợp với từng hoàn cảnh khác nhau. Đơn cử khi tham gia một đám hiếu không nên mặc váy mà nên mặc quần áo trơn, ít họa tiết nhất có thể, tối màu; còn khi tham gia đám hỉ có thể mặc váy sáng màu nhạt, không nên quá cầu kì kiểu cách, miễn sao tạo được sử thoải mái trong hoạt động và giao tiếp. Còn trong lời ăn tiếng nói, giản dị được biểu hiện ở chỗ nói với âm thanh vừa đủ nghe, lời lẽ ngắn gọn đơn giản, dễ hiểu tránh lời thô lỗ dung tục và nói đúng, trúng vấn đề giao tiếp. Giản dị trong hành động, sinh hoạt được biểu hiện ăn đủ chất, đủ lượng, không làm thừa và đổ bỏ lãng phí, sống hòa đồng với mọi người xung quanh, tự nhiên và gần gũi trong cách cư xử…. Sống giản dị không chỉ đem lại nhiều lợi ích cho bản thân mà còn đem lại lợi ích cho cộng đồng, xã hội. Khi sống giản dị tạo nên sự thanh thản, bình yên trong tâm hồn và sự nhàn nhã, thư thái trong nhịp sống. Sống giản dị còn giúp cho con người hoà đồng với tự nhiên, gắn bó sâu sắc với các cá nhân khác và là một trong những cách để mỗi người sống thật, sống có hứng thú, có ý nghĩa. Đơn cử như khi ăn nói giản dị, văn phong nhẹ nhàng, chân thật thường được mọi người xung quanh yêu quý. Cách nói chuyện nhanh gọn, đi đúng vấn đề sẽ chiếm được cảm tình từ đối phương. Giản dị trong cách ăn nói khiến cho mục đích giao tiếp thành công hơn. Nội dung ngôn từ ngắn gọn súc tích tiết kiệm được nhiều thời gian giao tiếp. Từ đó mang lại thành công cho người giản dị… Tuy nhiên chúng ta không nên nhầm lẫn sống giản dị với sống xuề xoà, dễ dãi, cẩu thả, vì trong những trường hợp này, cái giản đơn bên ngoài là biểu hiện của sự thiếu ý thức ở bên trong. Ăn nói giản dị, dễ hiểu khác với ăn nói cộc lốc, thiếu lễ độ, thiếu tôn trọng người khác. Chủ Tịch Hồ Chí Minh là một trong những tấm gương sáng ngời về lối sống giản dị. Đứng đầu một đất nước nhưng người vẫn mang dép cao su, áo vải, ăn những bữa cơm chỉ vài ba món, ở nhà sàn mái lá… Vì thế sự nghiệp, sức sống của Người đã vượt mọi giới hạn thông thường về không gian, thời gian, còn tiếng thơm muôn đời. Hay Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến rất giàu trách nhiệm, nặng tình đời song không tham đua chen chốn quan trường mà chọn thanh bần đế chan hoà với không gian suối rừng thôn dã, tìm sự tự do và thanh thản trong tâm hồn... Như vậy có thể thấy, giản dị là một trong những phẩm chất cao quý của con người, mỗi người cần tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất ấy trước hết là giúp ích cho bản thân, sau là giúp ích cho cộng đồng, xã hội. Để sống giản dị, cần một năng lực sống, năng lực tâm hồn và quyết tâm cao, cũng cần hoà mình vào cuộc sống đế sống và cảm nhận, cần loại bỏ lòng tham và bù đắp tình yêu cuộc sống. Đó là cách để tránh mọi cám dỗ, giảm áp lực tinh thần và nâng cao bản lĩnh văn hoá. Bản thân em cũng cố gắng học tập và tu dưỡng, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với mọi người và sống cởi mở, chân thành, đơn giản. Trên đây là bài nói của em về giản dị, lối sống giản dị cùng với biểu hiện và tác dụng của lối sống ấy. Xin cảm ơn thầy cô và các bạn đã lắng nghe. Rất mong nhận được sự góp ý từ thầy cô và các bạn về bài nói.
Thảo luận nhóm về một vấn đề trong đời sống - mẫu 3
Xã hội là tiền đề phát triển suy nghĩ nhận thức của mỗi người, rèn cho ta những kỹ năng cơ bản trong cuộc sống. Một trong số đó con người ta đã và đang rèn luyện đức tính sống giản dị bởi sống giản dị là một lối sống đẹp của con người. Vậy sống giản dị là gì? Là sống phù hợp với điều kiện với hoàn cảnh của bản thân gia đình và xã hội, không sống xa hoa lãng phí, không cầu kỳ kiểu cách, không chạy theo những nhu cầu về vật chất và hình thức bên ngoài. Lối sống giản dị được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau. Đó không chỉ thể hiện ở cách ăn mặc trong việc sinh hoạt hàng ngày mà còn thể hiện ở cả lời ăn tiếng nói, ở cả quan điểm sống, cách cư xử của con người trong mọi hoàn cảnh trước mọi vấn đề. Một người giản dị là một người ăn nói cẩn thận, không khoa trương, ăn nói ngắn gọn dễ hiểu. Hay là người luôn giải quyết mọi công việc một cách nhanh nhất nhưng vẫn phải đảm bảo tính hiệu quả của nó. Đó cũng là những người sống hòa đồng với tất cả mọi người không quá cầu kỳ trong cách cư xử. Hơn thế nữa những người sống giản dị là những người không lãng phí, sử dụng tiền đúng mục đích, không sử dụng vào những công việc vô bổ, biết nhìn nhận mọi vấn đề đúng với chuẩn mực và không làm quan trọng hóa vấn đề. Trong cách ăn mặc, họ không cần mặc những trang phục hàng hiệu mà chỉ cần những bộ quần áo giản đơn thôi nhưng họ cũng làm cho mình trở nên đẹp hơn lịch sự hơn. Tất cả những đặc điểm trên là biểu hiện của những người sống giản dị. Quả thật sống giản dị là một lối sống đẹp vì nó không phải là lối sống đơn giản thô sơ mà là một phong cách sống cao đẹp. Không những thế mà lối sống giản dị còn giúp cho con người ta không bị lệ thuộc vào những ham muốn về mặt vật chất và tinh thần. Nó giúp ta biết tự điều hòa kiềm chế bản thân vượt qua những cám dỗ trong cuộc sống. Sống giản dị giúp ta tiết kiệm thời gian, không bị chi phối bởi những việc vô bổ, cũng giúp con người có khả năng hòa đồng với thiên nhiên, quan tâm tới mọi người xung quanh nhiều hơn. Nhờ có vậy mà con người được sống một cuộc sống vui vẻ bình yên hạnh phúc và thanh thản. Từ xưa tới nay có rất nhiều tấm gương về đức tính giản dị mà chúng ta cần phải học tập. Đầu tiên là phải nhắc đến Chủ tịch Hồ Chí Minh người được cả thế giới khâm phục và ngưỡng mộ. Mặc dù là chủ tịch nước nhưng Người lại sống một cuộc sống hết sức giản dị chứ không như những vị chủ tịch khác. Trang phục thường ngày của Bác chỉ là bộ bà ba nâu đã phai màu, bộ kaki đã cũ và đôi dép lốp cao su. Nơi làm việc của Bác cũng chỉ là một ngôi nhà sàn nhỏ bé đơn sơ chỉ vỏn vẹn có hai phòng. Ngay cả trong cách ăn nói người cũng rất giản dị ngắn gọn và dễ hiểu như "ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, ốm đau được chữa bệnh". Hay chúng ta có thể kể đến Nguyễn Trãi cũng có lối sống giản dị bởi ông đã từng nói: "Bữa ăn giàu có dưa muối Áo mặc này chi gấm là" Bên cạnh những tấm gương cho lối sống giản dị cũng không ít những người sống phung phí xa hoa. Trong thời hiện đại ngày nay có rất nhiều bạn học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường nhưng lại nhuộm tóc rồi ăn mặc phá cách không đúng với tư cách của một người học sinh. Hay là những người hoàn cảnh gia đình khá giả lại ăn mặc một cách khoa trương mặc toàn hàng hiệu. Chính vì thế nên để sống giản dị thì cần phải có bản lĩnh và trí tuệ để biết đủ biết dừng chứ không phải sống khổ hạnh hay ép mình. Là một học sinh em cần phải tu dưỡng đạo đức rèn luyện bản thân. Khi tới trường chỉ cần phải ăn mặc đúng đồng phục không cầu kỳ kiểu cách. Hơn thế nữa em sẽ tuyên truyền để bạn bè cùng hiểu rõ sự cần thiết và tác dụng của lối sống giản dị. Quả thật sống giản dị giúp con người thanh thoát hơn không tiêu tốn tiền bạc của cải tạo cho xã hội sự hòa đồng bình đẳng thân ái. Chính vì vậy mà mỗi người chúng ta cần tạo cho mình một lối sống giản dị và lan tỏa lối sống giản dị đến những người xung quanh để cuộc sống luôn tươi đẹp và hài hòa. Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 7 hay khác: Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85 4.5 (243) 799,000đs 199,000 VNĐ 4.5 (243) 799,000đ 99,000 VNĐ 4.5 (243) 999,000đ 299.000 - 599.000 VNĐ Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube: Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Trang web chia sẻ nội dung miễn phí dành cho người Việt. Lớp 1-2-3 Lớp 4 Lớp 5 Lớp 6 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 9 Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Lập trình Tiếng Anh Chính sách bảo mật Hình thức thanh toán Chính sách đổi trả khóa học Chính sách hủy khóa học Tuyển dụng Tầng 2, số nhà 541 Vũ Tông Phan, Phường Khương Đình, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, Việt Nam Phone: 084 283 45 85 Email: vietjackteam@gmail.com CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội. 2015 © All Rights Reserved.
Viết bài văn biểu cảm về một con người hoặc sự việc trang 67 - mẫu 1
Chiến tranh đã qua đi những những hậu quả mà chiến tranh để lại thì vẫn còn mãi. Một trong những hậu quả nặng nề mà chiến tranh để lại có là sự cô đơn, bơ vơ, chờ đợi trong mòn mỏi đến vô vọng của những người phụ nữ có chồng đi chiến trận và ở lại vĩnh viễn nơi chiến trường xa xôi kia. Dì Bảy trong bài tản văn Người ngồi đợi trước hiên nhà của nhà văn Huỳnh Như Phương chính là người phụ nữ như thế. Dì Bảy và dượng Bảy lấy nhau được chừng một tháng thì dượng phải ra miền Bắc tập kết. Hạnh phúc ngắn chẳng tày gang thì đôi người đôi ngả. Dì ở nhà mong ngóng chờ đợi tin tức của chồng mình qua những dòng thư ngắn, những lời hỏi thăm, những món quà nhỏ nhờ người quen gửi hộ. Mặc dù đang ở độ tuổi xuân sắc có biết bao người hỏi tới dì, muốn mang đến cho dì một mái ấm hạnh phúc, nhưng dì nhất quyết không chấp nhận, không bao giờ lung lạc. Dì luôn chờ đợi một ngày dượng sẽ chờ về. Ngay cả khi biết rằng dượng đã không còn nữa, dì vẫn không mở lòng, dì vẫn ôm vào lòng hình bóng dượng. Không chỉ có dì Bảy còn rất nhiều người phụ nữ họ phải chịu những nỗi tổn thương sâu sắc về tinh thần, cả đời họ là sự chờ đợi, ngóng chông để rồi thất vọng và cô đơn cứ bấu víu lấy mình. Họ hi sinh tuổi thanh xuân, hạnh phúc cá nhân của mình để góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Họ chính là những người anh hùng thầm lặng, không cần cầm súng, cầm gươm, giáo chiến đấu với kẻ thù. Họ âm thầm, lặng lẽ là hậu phương vững chắc, là điểm tựa tinh thần cho những chiến sĩ ngoài chiến trường xa xôi kia. Một lần nữa, xin hãy biết ơn những người mẹ, người vợ Việt Nam anh hùng. Họ đã dành cả tuổi xuân ngắn ngủi, ít ỏi của mình để đổi lấy bình yên, độc lập cho cả dân tộc Việt Nam ta.
Viết bài văn biểu cảm về một con người hoặc sự việc trang 67 - mẫu 2
Hậu chiến vẫn luôn là một đề tài quen thuộc trong nền văn học Việt Nam. Đào sâu vào những nỗi đau, mất mát kể từ ngày đất nước thống nhất, tác giả Huỳnh Như Phương đã viết nên tác phẩm "Người ngồi đợi trước hiên nhà". Văn bản đã đem đến cho em những rung cảm, suy tư về sự hi sinh thầm lặng của những người phụ nữ mà nổi bật là hình ảnh dì Bảy. Tác phẩm được kể qua điểm nhìn của nhân vật "tôi" về nhân vật dì Bảy. Câu chuyện của vợ chồng dì Bảy ẩn chứa đầy những đau thương, mất mát do chiến tranh để lại. Có thể nói, dì Bảy là một người phụ nữ rất đỗi chung thủy, sắt son. Kể từ ngày dượng Bảy xa nhà đi chiến đấu, dì luôn cầu nguyện cho dượng được bình an trở về. Dì không màng đến hạnh phúc của bản thân, chấp nhận hi sinh để chồng an tâm làm nhiệm vụ. Mặc dù ở nhà có người ngỏ ý nhưng dì kiên quyết không chấp nhận, luôn có niềm tin sẽ có ngày dượng trở về "Suốt 20 năm sau đó, có những người ngỏ ý, dạm hỏi, dì vẫn không lung lạc, với niềm tin sẽ có ngày dượng trở về". Không những thế, dì vẫn luôn giữ thói quen ngồi trước hiên nhà nhìn ra con ngõ, "nơi ngày xưa dượng cùng những người đồng đội lần đầu đến nhà tôi xin chỗ trú quân". Có lẽ, trong dáng ngồi thầm lặng với ánh mắt xa xăm ấy là cả một sự buồn tủi, ngóng trông, xen lẫn những niềm hi vọng le lói. Và người đàn bà ấy vẫn một lòng trung trinh, "thủ tiết" đến hết đời. Ngay cả khi biết tin dượng Bảy qua đời, dì vẫn quyết định không tiến thêm bước nữa. Dì lầm lũi một mình, chăm mẹ già yếu trong ngôi nhà, "tiếp tục những bữa cơm vắng lặng như mười mấy năm trước. Và mỗi buổi chiều muộn, dì lại ra ngồi trước hiên nhà nhìn con đường kéo dài như nỗi chờ mong trong vô vọng". Hòa bình lập lại đồng nghĩa với cuộc sống vui tươi sẽ trở về. Ấy vậy mà, ở đâu đó giữa thế gian này vẫn còn một người đàn bà như dì Bảy. Dì vẫn đang ấp ôm những kỉ niệm xưa cũ với người chồng đã chết, vẫn lẻ loi, lủi thủi giữa cõi đời. Hình ảnh người đàn bà thầm lặng ấy khiến ai nấy đều phải thương cảm, xót xa. Có thể nói, văn bản đã phản ánh sự khốc liệt của chiến tranh và ca ngợi những người phụ nữ như dì Bảy. Đối với em, những người phụ nữ như dì Bảy rất đáng được trân trọng, tôn vinh. Dì Bảy đã nhận phần thiệt về mình, sống một cuộc đời cô quạnh, lặng thinh. Và biết bao người phụ nữ như dì Bảy, những người mẹ, người vợ Việt Nam Anh hùng vẫn đang hàng ngày mong nhớ chồng, con. Họ phải nếm trải nỗi đau của sự li tán và gặm nhấm chúng cho tới lúc chết. Hòa bình, độc lập ngày hôm nay nhờ vào một phần công lao rất lớn của họ. Chính vì vậy, là một học sinh, em nhận thấy mình cần phải biết ơn, tôn trọng những người phụ nữ như thế. Đồng thời, học tập theo những đức tính, phẩm chất tốt đẹp của họ. Bởi họ chính là biểu tượng cho vẻ đẹp phụ nữ, con người Việt Nam. Với ngòi bút tinh tế, tác giả Huỳnh Như Phương đã để lại cho em niềm cảm thương, rung động sâu sắc với số phận của nhân vật dì Bảy. Sự hi sinh cao cả cùng tấm lòng thủy chung, son sắt của nhân vật sẽ luôn là điểm sáng để độc giả yêu mến, noi theo.
Viết bài văn biểu cảm về một con người hoặc sự việc trang 67 - mẫu 3
Nếu như sử học đem đến cho chúng ta hiểu biết về thời gian, sự kiện của những cuộc chiến thì văn học lại mang tới những khía cạnh khác của chiến tranh. Văn học đào sâu vào số phận của dân tộc, cá nhân và có sức lay động mãnh liệt đối với lòng người. Là một tác giả trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhà văn Huỳnh Như Phương đã sáng tác nên tác phẩm "Người ngồi đợi trước hiên nhà". Hình ảnh dì Bảy trong câu chuyện vẫn luôn để lại cho em nỗi ám ảnh, xót thương về số phận của người phụ nữ trong và sau cuộc chiến. Cuộc đời của nhân vật dì Bảy được quan sát, nhìn nhận thông qua điểm nhìn của nhân vật "tôi". Dì Bảy và dượng mới lấy nhau được một tháng thì phải rơi vào li tán khi dượng Bảy phải ra Bắc tập kết. Rất lâu sau, dì nhận được tin dượng Bảy đã hi sinh ở chiến trường. Lúc này, dì vẫn giữ thói quen cũ, ngồi trước hiên nhà và nhìn ra mặt đường như ngóng trông, chờ đợi dượng trở về. Kết thúc câu chuyện là hình ảnh người đàn bà 80 tuổi đang ngồi một mình đợi Tết ở ngôi nhà gần cầu Vĩnh Phú, tỉnh Quảng Ngãi. Một người đàn bà như dì Bảy thật đáng để chúng ta cảm phục, noi gương. Dì sẵn sàng hi sinh hạnh phúc cá nhân của mình để dượng Bảy an tâm chiến đấu. Không những vậy, dì Bảy còn là một người vợ sắt son, thủy chung. Dì luôn chờ đợi, cầu nguyện cho dượng được bình an trở về "Hình như lời cầu nguyện của dì linh ứng để dượng tránh hòn tên mũi đạn nơi chiến trường". Dù có nhiều người ngỏ ý, dạm hỏi nhưng dì nhất quyết không đồng ý, chờ ngày đoàn tụ với dượng "Năm dượng đi, dì tròn 20 tuổi. Suốt 20 năm đó, có những người ngỏ ý, dạm hỏi, dì vẫn không lung lạc, với niềm tin sẽ có ngày dượng trở về.". Mỗi ngày, dì thường ngồi ngoài hiên nhìn ra con ngõ đợi chồng. Khi nghe tin dượng mất, dì quyết tâm sống độc thân, không đi tìm hạnh phúc riêng mình mà sống cuộc đời lẻ loi, một mình, lầm lũi với những nỗi đau âm ỉ, không thể xóa nhòa. Hình ảnh người đàn bà ngồi trước hiên được lặp lại hai lần, một lần lúc trẻ và một lần về già đã khắc sâu hơn vào nỗi buồn ấy, khiến bất cứ ai cũng phải xót thương. Đó là một sự hi sinh vô cùng cao cả, thầm lặng mà những người phụ nữ như dì Bảy đã làm cho dân tộc Việt Nam. Rõ ràng, số phận của dì Bảy cũng giống biết bao thân phận của người phụ nữ Việt Nam. Sự hi sinh thầm lặng trong các cuộc chiến ấy thật sự đáng được mọi người trân trọng. Họ đã nuốt nước mắt vào trong, hi sinh hạnh phúc bản thân vì nghĩa lớn, vì nền độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc. Mặc dù biết trước người chồng, người con có thể bỏ mạng nơi chiến trường nhưng họ vẫn chấp nhận, vận động, tiễn chồng, con ra trận. Để có được cuộc sống yên bình, ấm no ngày hôm nay, không chỉ có sự hi sinh xương máu của những người lính mà còn là công lao to lớn, biển trời của những người mẹ, người vợ Việt Nam Anh hùng. Bởi vậy, chúng ta cần phải biết ơn, chia sẻ với những nỗi đau, mất mát mà họ phải gánh chịu. Xã hội cũng cần chung tay san sẻ, giúp đỡ những người phụ nữ ấy. Đặc biệt, các cấp lãnh đạo, ban ngành, đoàn thể cần có hành động thiết thực, quan tâm, động viên những người mẹ, người vợ Việt Nam Anh hùng. Với giọng văn nhẹ nhàng, sâu lắng, tác giả Như Phương đã xây dựng nên nhân vật dì Bảy với những đức tính, phẩm chất tốt đẹp. Dì Bảy là hiện thân của người phụ nữ Việt Nam hồn hậu, chung thủy, kiên cường. Nhân vật đã để lại cho em niềm cảm phục, ấn tượng sâu đậm.
Viết bài văn biểu cảm về một con người hoặc sự việc trang 67 - mẫu 4
Từ xưa đến này, người phụ nữ Việt Nam được biết đến với những phẩm chất tốt đẹp. Điều đó được thể hiện qua nhiều tác phẩm văn học, trong đó có “Người ngồi đợi trước hiên nhà” của Huỳnh Như Phương. Nội dung của tác phẩm kể về cuộc đời của nhân vật chính - dì Bảy. Dượng Bảy và dì Bảy cưới nhau được một tháng, thì dượng phải lên đường ra Bắc tập kết. Ra miền Bắc rồi vào lại miền Nam chiến đấu, dượng Bảy vẫn liên lạc với gia đình. Dượng Bảy ngã xuống trong trận đánh ở Xuân Lộc, trên đường tiến vào Sài Gòn. Ngày hòa bình, dì Bảy đã qua tuổi bốn mươi. Vẫn có người đàn ông để ý đến dì, nhưng lòng dì không còn rung động. Dì Bảy năm nay tròn tám mươi tuổi, đang ngồi một mình đợi Tết. Có thể thấy rằng, nhân vật dì Bảy mang những vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam - giàu đức hy sinh, tấm lòng thủy chung son sắc. Dượng Bảy và dì Bảy chỉ mới kết hôn được một tháng, đây là giai đoạn tình cảm vợ chồng vẫn còn mặn nồng, gắn bó. Dù vậy, dì Bảy vẫn chấp nhận để chồng tập kết ra bắc, đôi người đôi ngả. Ở đây, có thể thấy được sự hy sinh của dì xuất phát từ tấm lòng yêu quê hương, đất nước. Dì đã đặt lợi ích của đất nước lên trên hạnh phúc của cá nhân. Điều đó khiến người đọc thêm cảm phục trước tấm lòng của nhân vật này. Không chỉ vậy, dì Bảy còn là một người phụ nữ hết mực thủy chung. Trong những năm xa cách, dì Bảy luôn giữ liên lạc với dượng Bảy, đợi chờ chồng trở về. Mỗi khi nhận được thư của chồng, dì lại cảm thấy hạnh phúc, hy vọng đến ngày được đoàn tụ. Hình ảnh khiến cho người đọc cảm thấy ấn tượng nhất đó chính là mỗi ngày, sau khi đi làm đồng về, dì lại ngồi trên bộ phản gõ ngoài hiên nhìn ra con ngõ, nơi ngày xưa dượng Bảy cùng đồng đội đến nhà xin trú quân. Dượng Bảy đã hy sinh, ngày hòa bình lặp lại, dì đã bốn mươi tuổi, nhưng vẫn có người đàn ông để ý đến dì. Dù vậy, lòng dì Bảy đã không còn rung động. Dì đã giữ tấm lòng thủy chung như vậy cho đến hết đời. Có thể thấy rằng, dì Bảy chỉ là một trong rất nhiều người phụ nữ Việt Nam thuở còn chiến tranh. Từ đó, chúng ta thấy rằng sự hy sinh thầm lặng, cao cả của những người phụ nữ trong các cuộc kháng chiến thật đáng ngưỡng mộ và trân trọng. Từ đó, mỗi người cần có thái độ tôn trọng, biết ơn những người phụ nữ như dì Bảy. Qua nhân vật dì Bảy trong Người ngồi đợi trước hiên nhà, tôi đã học được thêm bài học quý giá về phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Đặc biệt, tôi cũng cảm thấy vô cùng yêu mến và cảm phục nhân vật dì Bảy. Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 7 hay khác: Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85 4.5 (243) 799,000đs 199,000 VNĐ 4.5 (243) 799,000đ 99,000 VNĐ 4.5 (243) 999,000đ 299.000 - 599.000 VNĐ Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube: Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Trang web chia sẻ nội dung miễn phí dành cho người Việt. Lớp 1-2-3 Lớp 4 Lớp 5 Lớp 6 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 9 Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Lập trình Tiếng Anh Chính sách bảo mật Hình thức thanh toán Chính sách đổi trả khóa học Chính sách hủy khóa học Tuyển dụng Tầng 2, số nhà 541 Vũ Tông Phan, Phường Khương Đình, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, Việt Nam Phone: 084 283 45 85 Email: vietjackteam@gmail.com CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội. 2015 © All Rights Reserved.
Trao đổi về một vấn đề trang 70 - mẫu 1
Đọc tản văn Người ngồi đợi trước hiên nhà của Huỳnh Như Phương, tôi mãi ấn tượng về nhân vật dì Bảy, người dì đại diện cho số phận biết bao người phụ nữ nơi hậu phương mòn mỏi chờ chồng, dành cả cuộc đời để hi sinh thầm lặng cho gia đình, cho quê hương, Tổ quốc. Dì Bảy là một nhân vật đã để lại trong tôi nhiều sự thương mến và cảm phục. Dì lấy chồng khi mới 20 tuổi. Dượng Bảy lại phải đi tập kết và chiến đấu. Vậy là từ ngày cưới, cả hai vợ chồng dì chưa được ở cạnh nhau bao lâu. Họ gặp nhau chỉ qua những cánh thư. 20 năm sau, Dượng Bảy mới có thể nhờ người gửi chiếc nón bài thơ cho dì làm quà và để chứng tỏ tình cảm của mình, để an ủi những ngày chờ mong dài đằng đẵng. Thế nhưng, trước khi chiến tranh kết thúc khoảng mươi ngày, dượng Bảy đã mãi mãi ra đi nơi chiến trường, dì Bảy đã trở thành người phụ nữ góa chồng. Vậy là suốt hơn 20 năm chờ đợi, biết bao thương nhớ, biết bao buồn tủi, biết bao là những nỗi lo lắng, bồn chồn, cuối cùng dì vẫn không đợi được một hạnh phúc trọn vẹn. Mất chồng, dì Bảy vẫn cứ lầm lũi ngồi bên bậc thềm, nhìn ra xa như trông đợi điều gì. Dì Bảy đã phải hi sinh hạnh phúc cá nhân mình vì nghĩa lớn. Tôi biết, không chỉ có dì Bảy, mà còn có rất nhiều người phụ nữ trên dải đất hình chữ S này cũng chung cảnh ngộ như dì. Họ đều đã hi sinh thầm lặng, cao cả cho cuộc kháng chiến, để đất nước được thống nhất và phát triển. Chúng ta, những thế hệ hôm nay phải biết ơn và làm được điều gì để đền đáp được công ơn đó. Không chỉ có dì Bảy còn rất nhiều người phụ nữ cũng phải chịu những nỗi tổn thương sâu sắc về tinh thần, dành cả đời mình để chờ đợi người chồng nơi chiến trận khốc liệt. Họ hi sinh tuổi thanh xuân, hạnh phúc cá nhân của mình để góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Họ không cần cầm súng, cầm gươm giáo trực tiếp chiến đấu với kẻ thù mà âm thầm, lặng lẽ nơi hậu phương vững chắc, là điểm tựa tinh thần cho những chiến sĩ ngoài chiến trường xa xôi kia, vun vén gia đình nhỏ nơi quê nhà yêu dấu. Tôi tin rằng lớp người trẻ chúng tôi tôi và những thế hệ mai sau sẽ đều ghi nhớ công ơn của các thế hệ trước. Mong rằng chiến tranh sẽ không bao giờ lặp lại, sẽ không còn ai phải chịu cảnh ngộ, phải hi sinh như dì Bảy.
Trao đổi về một vấn đề trang 70 - mẫu 2
Như các bạn đã biết chiến tranh đã qua đi những những hậu quả mà chiến tranh để lại thì vẫn còn mãi. Một trong những hậu quả nặng nề mà chiến tranh để lại có là sự cô đơn, bơ vơ, chờ đợi trong mòn mỏi đến vô vọng của những người phụ nữ có chồng đi chiến trận và ở lại vĩnh viễn nơi chiến trường xa xôi kia. Nhân vật dì Bảy trong bài tản văn Người ngồi đợi trước hiên nhà của nhà văn Huỳnh Như Phương chính là người phụ nữ như thế. Dì Bảy và dượng Bảy lấy nhau được chừng một tháng thì dượng phải ra miền Bắc tập kết. Hạnh phúc ngắn chẳng tày gang thì đôi người đôi ngả. Dì ở nhà mong ngóng chờ đợi tin tức của chồng mình qua những dòng thư ngắn, những lời hỏi thăm, những món quà nhỏ nhờ người quen gửi hộ. Mặc dù đang ở độ tuổi xuân sắc có biết bao người hỏi tới dì, muốn mang đến cho dì một mái ấm hạnh phúc, nhưng dì nhất quyết không chấp nhận, không bao giờ lung lạc. Dì luôn chờ đợi một ngày dượng sẽ chờ về. Ngay cả khi biết rằng dượng đã không còn nữa, dì vẫn không mở lòng, dì vẫn ôm vào lòng hình bóng dượng. Không chỉ có dì Bảy còn rất nhiều người phụ nữ họ phải chịu những nỗi tổn thương sâu sắc về tinh thần, cả đời họ là sự chờ đợi, ngóng chông để rồi thất vọng và cô đơn cứ bấu víu lấy mình. Họ hi sinh tuổi thanh xuân, hạnh phúc cá nhân của mình để góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Họ chính là những người anh hùng thầm lặng, không cần cầm súng, cầm gươm, giáo chiến đấu với kẻ thù. Họ âm thầm, lặng lẽ là hậu phương vững chắc, là điểm tựa tinh thần cho những chiến sĩ ngoài chiến trường xa xôi kia. Một lần nữa, xin hãy biết ơn những người mẹ, người vợ Việt Nam anh hùng. Họ đã dành cả tuổi xuân ngắn ngủi, ít ỏi của mình để đổi lấy bình yên, độc lập cho cả dân tộc Việt Nam ta. Trên đây là bài trình bày của tôi cảm ơn cô giáo và các bạn đã lắng nghe rất mong sẽ nhận được những góp ý và nhận xét để bài làm nhóm mình hoàn thiện hơn.
Trao đổi về một vấn đề trang 70 - mẫu 3
Xin chào cô và các bạn, em tên là …. Trong bài thực hành nói và nghe: Trao đổi về một vấn đề ngày hôm nay, em xin được trình bày ý kiến của mình về: Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong thời kì chống Mỹ cứu nước qua tản văn "Người ngồi đợi trước hiên nhà" của tác giả Huỳnh Như Phương. Thưa cô và các bạn, đào sâu vào nỗi đau hậu chiến, nhà văn Huỳnh Như Phương đã đem đến cho chúng ta biết bao rung cảm về nhân vật dì Bảy. Tác phẩm là câu chuyện về cuộc đời nhân vật dì Bảy từ lúc lấy chồng cho tới khi đã ở tuổi 80. Số phận dì Bảy được quan sát thông qua điểm nhìn của nhân vật "tôi". Dì Bảy và dượng hạnh phúc chưa được bao lâu thì dượng Bảy phải ra Bắc tập kết. Kể từ đó, dì và dượng sống trong cảnh li tán khi mỗi người một nơi. Trong thời gian dượng chiến đấu, dì luôn chờ đợi chồng trở về. Kết cục, dượng bỏ mạng tại chiến trường còn dì sống đơn côi lẻ bóng đến lúc già. Những người phụ nữ như dì Bảy thật đáng để chúng ta khâm phục, cảm thương. Dì hiện lên với đức tính tốt đẹp cùng tấm lòng thủy chung, son sắt. Kể từ ngày dượng Bảy đi chiến đấu, dì vẫn luôn chờ đợi, cầu nguyện cho dượng được bình an trở về. Dù có nhiều người ngỏ ý nhưng dì vẫn kiên quyết chờ ngày đoàn tụ với dượng. Đặc biệt, dì luôn giữ thói quen ngồi trước hiên nhà và nhìn ra con ngõ đợi chồng. Kể từ ngày dượng mất, dì không đi thêm bước nữa mà sống một cuộc đời cô quạnh trong căn nhà. Dì vẫn giữ thói quen ngồi trước hiên, khắc khoải trong nỗi niềm xưa cũ cùng những nỗi đau âm ỉ, không thể xóa nhòa. Từ hình ảnh dì Bảy, chúng ta có thể liên hệ đến những người phụ nữ trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Biết bao người vợ, người mẹ Việt Nam anh hùng đã chấp nhận hi sinh hạnh phúc riêng vì độc lập, tự do của Tổ Quốc. Biết được ra chiến trường thì người thân sẽ đổ máu, sẽ bỏ mạng nhưng họ vẫn sẵn sàng tiễn chồng, tiễn con ra ngoài tiền tuyến. Để rồi mai này đây, khi hòa bình lập lại, rất nhiều những người phụ nữ như dì Bảy phải sống đơn côi, một mình, đứng trước di ảnh người chồng, người con đã mãi lìa xa cõi đời. Thấu hiểu được điều đó, chúng ta càng cần phải biết ơn, trân trọng họ nhiều hơn. Họ chính là người góp phần làm nên độc lập, tự do ngày hôm nay. Bài trình bày của em đến đây là kết thúc. Em cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe! Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 7 hay khác: Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85 4.5 (243) 799,000đs 199,000 VNĐ 4.5 (243) 799,000đ 99,000 VNĐ 4.5 (243) 999,000đ 299.000 - 599.000 VNĐ Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube: Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Trang web chia sẻ nội dung miễn phí dành cho người Việt. Lớp 1-2-3 Lớp 4 Lớp 5 Lớp 6 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 9 Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Lập trình Tiếng Anh Chính sách bảo mật Hình thức thanh toán Chính sách đổi trả khóa học Chính sách hủy khóa học Tuyển dụng Tầng 2, số nhà 541 Vũ Tông Phan, Phường Khương Đình, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, Việt Nam Phone: 084 283 45 85 Email: vietjackteam@gmail.com CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội. 2015 © All Rights Reserved.
Tóm tắt văn bản theo yêu cầu khác nhau về độ dài - mẫu 1
Văn bản "Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa" đã cung cấp cho ta rất nhiều thông tin thú vị. Ở miền núi phía Bắc, Người Kháng, La Hán, Mảng, Thái, Cống,... sử dụng thuyền, bè, mảng. Trong khi đó, người Sán Dìu dùng xe quệt trâu còn người Mông, Hà Nhì, Dao,... dùng ngựa. Ở Tây Nguyên, người dân chủ yếu dùng voi, ngựa, thuyền độc mộc. Các phương tiện này phù hợp với địa bàn sinh sống và những hoạt động chính của người dân địa phương.
Tóm tắt văn bản theo yêu cầu khác nhau về độ dài - mẫu 2
Văn bản "Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa" đã cung cấp cho chúng ta các tri thức về cách di chuyển của một số người đồng bào dân tộc thiểu số. Ở miền núi phía Bắc, những tộc người như Người Kháng, La Hán, Mảng, Thái, Cống,... sống ở vùng ven sông Đà, sông Mã nên họ sử dụng thuyền, bè, mảng để làm phương tiện lưu thông; người Sán Dìu dùng xe quệt trâu để vận chuyển hoa màu, phân bón từ nhà ra đồng và ngược lại; người Mông, Hà Nhì, Dao,... sống ở những vùng núi cao nên thường dùng ngựa để di chuyển hoặc thồ hàng. Ở Tây Nguyên có phương tiện cực kì đặc biệt là voi, giúp vận chuyển hàng hóa hay kéo gỗ. Ngoài ra họ còn sử dụng sức ngựa hoặc thuyền độc mộc. Văn bản trên đã được tham khảo rất nhiều tài liệu nghiên cứu có giá trị như: "Tang thương ngẫu lục", "Vũ trung tùy bút" của tác giả Phạm Đình Hổ; "Phạm Thận Duật toàn tập" của Phạm Thận Duật, "Vân đài loại ngữ" của Lê Quý Đôn, "Văn hóa cổ truyền Tây Nguyên" của Lưu Hùng, "Dư địa chí" của Nguyễn Trãi.
Tóm tắt văn bản theo yêu cầu khác nhau về độ dài - mẫu 3
Ngày xưa, các dân tộc miền núi phía Bắc di chuyển bằng cách đi bộ là chủ yếu. Một số dân tộc ven sông Đà và sông Mã đã biết chế tạo và sử dụng thuyền trong vận chuyển. Người Sán Dìu thì dùng xe quệt trâu kéo. Những dân tộc như Mông, Hà Nhì, Dao,…thường dùng sức ngựa để vận chuyển. Phương tiện vận chuyển của người Tây Nguyên có chút khác biệt. Họ dùng sức voi và sức ngựa ở đường bộ; còn các làng ven sông suối lớn thì sử dụng thuyền độc mộc.
Tóm tắt văn bản theo yêu cầu khác nhau về độ dài - mẫu 4
Tuy sinh sống ở các khu vực khác nhau nhưng phương tiện vận chuyển và vũ khí săn bắt của các tộc người có nhiều nét tương đồng về chủng loại, cách thức chế tác và chức năng sử dụng. Đó là các loại gùi, bung, dậu,… để mang vác bằng sức người, các loại xe quệt, xe bò, xe trâu kéo,…để vận chuyển trên bộ; các loại thuyền, bè, mảng để vận chuyển trên sông, suối,…; đó là việc bắt voi rừng, thuần dưỡng, sử dụng trong vận chuyển hàng hóa, kéo gỗ và trong chiến tranh tự vệ. Mặc dầu vậy, các loại sản phẩm vật chất này ở mỗi vùng, mỗi tộc người cũng có những nét khác biệt cần chú ý. Đó là sự khác biệt về kiểu dáng và cách thức chế tạo của các loại gùi của các cư dân Môn – Khơ Me so với các cư dân Tày – Thái, H'mông – Dao; sự khác biệt giữa các loại thuyền độc mộc của tộc người ở Tây Nguyên so với thuyền độc mộc đuôi én của người Kháng, người Thái, người La Ha,… sinh sống ven sông Đà;…
Tóm tắt văn bản theo yêu cầu khác nhau về độ dài - mẫu 5
Phương tiện vận chuyển của các dân tộc miền núi phía Bắc. Di chuyển bằng cách đi bộ là chính. Một số tộc người sinh sống ở ven sông Đà, sông Mã…sử dụng thuyền vận chuyển. Người Sán Dìu dùng xe quệt trâu kéo để vận chuyển. Người Mông, Hà Nhì, Dao,… thường dùng sức ngựa để vận chuyển. Phương tiện vận chuyển của các dân tộc ở Tây Nguyên. Người Tây Nguyên dùng sức voi, sức ngựa vào việc vận chuyển. Các buôn, làng ở ven sông suối lớn sử dụng thuyền độc mộc.
Tóm tắt văn bản theo yêu cầu khác nhau về độ dài - mẫu 6
Văn bản Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa. Đề cập đến phương tiện vận chuyển của các dân tộc miền núi phía Bắc. Trong khoảng thế kỉ X – XVIII người miền núi phía Bắc di chuyển bằng cách đi bộ là chính. Một số tộc người sinh sống ở ven sông Đà, sông Mã…sử dụng thuyền vận chuyển. Thuyền của họ được đóng bằng các loại gỗ dai, nhẹ, không nứt, chịu nước (như gỗ dầu, gỗ sao). Người Sán Dìu dùng xe quệt trâu kéo để vận chuyển. Ngoài dùng thuyền, cư dân miền núi phía Bắc còn dùng bè, măng. Người Mông, Hà Nhì, Dao,… thường dùng sức ngựa để vận chuyển. Phương tiện vận chuyển của các dân tộc ở Tây Nguyên. Người Tây Nguyên dùng sức voi, sức ngựa vào việc vận chuyển nhất là những người dân tộc Gia -rai, Ê-đê, Mnông. Các buôn, làng ở ven sông suối lớn sử dụng thuyền độc mộc (thường sử dụng các loại gỗ dầu, sáo). Việc dùng thuyền vận chuyển, đi lại trên sông ở Tây Nguyên chỉ phố biến với đàn ông. Có thể thấy các phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số rất đa dạng và phong phú.
Tóm tắt văn bản theo yêu cầu khác nhau về độ dài - mẫu 7
Từ thế kỉ thứ X – XVIII, các dân tộc vùng núi phía Bắc chủ yếu di chuyển theo cách đi bộ. Tuy nhiên, ở một số dân tộc đã xuất hiện các cách vận tải, di chuyển dựa vào các phương tiện khác như: Người La Ha, Thái dùng thuyền, bè, mảng; người Sán Dìu dùng xe quệt trâu; Người mông, Hà Nhì, Dao dùng sức ngựa. Khác với các dân tộc vùng núi phía Bắc, các dân tộc ở Tây nguyên lại chủ yếu dùng sức voi, ngựa để vận chuyển. Ở các buôn làng ven sông, suối thì lại sử dụng các thuyền độc mộc.
Tóm tắt văn bản theo yêu cầu khác nhau về độ dài - mẫu 8
Trong khoảng thế kỷ X – XVIII, các dân tộc miền núi phía Bắc di chuyển bằng cách đi bộ là chính. Một số tộc người sinh sống ven sông Đà, sông Mã hay sông Lam đã biết đóng thuyền và vận chuyển, lưu thông trên sông suối lớn. Người Thái, người Kháng thường chế tạo và sử dụng thuyền đuôi én. Người Sán Dìu lại dùng xe quệt trâu để vận chuyển. Những tộc người ở vùng núi cao như Mông, Hà Nhì, Dao thường cưỡi người và dùng sức ngựa để vận chuyển đồ đạc, hàng hóa. Khác với một số dân tộc miền núi phía Bắc dùng trâu làm sức kéo, các dân tộc vùng Tây Nguyên thường dùng sức sức voi, sức ngựa vào việc vận chuyển, nhất là người Gia-rai, Ê đê, Mnông. Ở các buôn, làng gần sông, suối, người Tây Nguyên thường sử dụng thuyền độc mộc để vận chuyển, thuyền không khác nhiều so với thuyền của các dân tộc ở miền núi phía Bắc. Việc dùng thuyền trên sông ở Tây Nguyên chỉ phổ biến với đàn ông, phụ nữ ít tham gia vào loại hình vận chuyển, đi lại này. Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 7 hay khác: Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85 4.5 (243) 799,000đs 199,000 VNĐ 4.5 (243) 799,000đ 99,000 VNĐ 4.5 (243) 999,000đ 299.000 - 599.000 VNĐ Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube: Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Trang web chia sẻ nội dung miễn phí dành cho người Việt. Lớp 1-2-3 Lớp 4 Lớp 5 Lớp 6 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 9 Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Lập trình Tiếng Anh Chính sách bảo mật Hình thức thanh toán Chính sách đổi trả khóa học Chính sách hủy khóa học Tuyển dụng Tầng 2, số nhà 541 Vũ Tông Phan, Phường Khương Đình, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, Việt Nam Phone: 084 283 45 85 Email: vietjackteam@gmail.com CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội. 2015 © All Rights Reserved.
Viết bản tường trình - mẫu 1
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Trường THCS N.D, ngày 11 tháng 5 năm 2023 BẢN TƯỜNG TRÌNH Về việc lấy nhầm xe đạp Kính gửi: Phòng bảo vệ trường THCS N.D. Em tên là: Hoàng Bình M. Ngày tháng năm sinh: 16/7/2010. Quê quán: Huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội. Nơi ở hiện nay: Ngõ 81 đường Quan Hoa, Phường Quan Hoa, Quận Cầu Giấy, Thành Phố Hà Nội. Hiện đang là học sinh lớp 7B2 trường THCS N.D. Lúc 16h30 chiều ngày 10/5/2023 tại nhà để xe trường THCS N.D. Sau khi tan học, em có lấy xe đạp đi về như bình thường. Do vội vàng nên em đã lấy nhầm xe của bạn cùng lớp là bạn Nguyễn Bình A. Em tưởng đó là xe của mình nên đã lấy xe về nhà. Hôm nay đi học em mới biết là mình lấy nhầm xe đạp bạn. Lí do của việc này là do xe của hai người giống y hệt nhau và để gần nhau. Ngoài ra, một nguyên nhân khác còn đến từ sự vội vàng của em. Chính vì thế, điều này đã khiến bạn không có xe về ngày hôm qua. Em rất xin lỗi bạn và bác bảo vệ trường. Em xin hứa lần sau sẽ cẩn thận hơn để không xảy ra nhầm lẫn thêm lần nào nữa . Người viết tường trình M. Hoàng Bình M.
Viết bản tường trình - mẫu 2
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc lập – Tự do – Hạnh phúc Thanh Hóa, ngày 10 tháng 3 năm 2004 BẢN TƯỜNG TRÌNH Về việc mất xe đạp Kính gửi: Thầy Hiệu trưởng Trường THCS Hòa Bình. Em là Vũ Ngọc Ký, học sinh lớp 8B Trường THCS Hòa Bình, xin phép được tường trình với Nhà trường một việc như sau: Sáng thứ tư ngày 10 tháng 3 năm 2004, em có gửi một chiếc xe đạp mini Nhật màu xanh cẩm thạch tại nhà trông giữ xe của trường. Sau giờ học, vì phải ở lại họp các đội trưởng Sao đỏ nên em về muộn. Tan họp, em đến lấy xe thì xe của em không còn mà chỉ có một chiếc xe mini Trung Quốc của màu xanh cẩm thạch. Em tin là bạn nào đó đã vô ý lấy nhầm xe em. Vậy em làm bản tường trình này báo cáo để Nhà trường biết và giúp em tìm lại chiếc xe của mình. Người làm tường trình Vũ Ngọc Ký
Viết bản tường trình - mẫu 3
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc BẢN TƯỜNG TRÌNH (Về việc không học giờ thể dục tập bơi) Kính gửi: Thầy Đặng Quang Thanh, giáo viên phụ trách bộ môn thể dục lớp 8A. Em là Thái Bảo Hạo Nhiên, học sinh lớp 8A trường THCS Đặng Trần Côn, xin phép được tường trình với thầy một sự việc như sau: Vừa qua, ngày thứ hai (4/10/2017) đầu tuần, thầy đã dặn trước chúng em tập hợp ở hồ Hòa Bình đế học tập bơi. Không may, chủ nhật ngày 3/10/2017, em giúp mẹ lau nhà và trượt ngã, bị bong gân. Do không có điều kiện để thông báo điều này tới thầy cho nên hôm ấy em có đến lớp học các môn khác nhưng không ra được hồ bơi ở tiết đầu. Vì chủ quan là được ba chở đến trường sớm sẽ gặp một bạn nào đó nhờ cầm giấy xin phép gửi tới thầy, nhưng do kẹt xe nên không gặp ai. Em xin cam đoan sự việc trên là có thực và xin thầy thông cảm xóa đánh giá giờ C ở trong “Số đầu bài” của lớp. Người làm đơn (Đã kí)
Viết bản tường trình - mẫu 4
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Bình Dương, ngày ... tháng ... năm ... BẢN TƯỜNG TRÌNH Về việc mất xe đạp Kính gửi: Thầy Hiệu trưởng Trường THCS B. Em là Nguyễn Hữu Tuấn, học sinh lớp 7A Trường THCS B, xin phép được tường trình với Nhà trường một việc như sau: Sáng thứ tư ngày ... tháng ... năm ..., em có gửi một chiếc xe đạp mini Nhật màu xanh cẩm thạch tại nhà trông giữ xe của trường. Sau giờ học, vì phải ở lại họp các đội trưởng Sao đỏ nên em về muộn. Do vội về nhà; xe của em và bạn giống nhau nên em đã lấy nhầm xe của bạn C đi về. Vì nhầm lẫn nên dẫn tới việc em lấy nhầm xe của bạn. Vậy em làm bản trường trình nà Người làm tường trình Nguyễn Hữu Tuấn Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 7 hay khác: Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85 4.5 (243) 799,000đs 199,000 VNĐ 4.5 (243) 799,000đ 99,000 VNĐ 4.5 (243) 999,000đ 299.000 - 599.000 VNĐ Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube: Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Trang web chia sẻ nội dung miễn phí dành cho người Việt. Lớp 1-2-3 Lớp 4 Lớp 5 Lớp 6 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 9 Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Lập trình Tiếng Anh Chính sách bảo mật Hình thức thanh toán Chính sách đổi trả khóa học Chính sách hủy khóa học Tuyển dụng Tầng 2, số nhà 541 Vũ Tông Phan, Phường Khương Đình, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, Việt Nam Phone: 084 283 45 85 Email: vietjackteam@gmail.com CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội. 2015 © All Rights Reserved.
Nghe và tóm tắt ý chính của bài nói - mẫu 1
Em xin chào cô và các bạn, em là Hồng Hải. Hôm nay em xin phép được tóm tắt các ý chính trong bài nói của bạn Mai vừa trình bày. Bạn Mai đã thuyết trình về nội dung văn bản "Ghe xuồng Nam Bộ". Ở phần mở đầu, bạn giới thiệu văn bản "Ghe xuồng Nam Bộ" cung cấp cho ta thông tin về tên gọi, đặc điểm, công dụng của từng loại ghe, xuồng ở Nam Bộ. Bạn đã chia văn bản ra làm 2 phần giống tác giả chia: phần giới thiệu về ghe và phần giới thiệu về xuồng. Trong phần giới thiệu về xuồng, bạn có nêu được đặc điểm các loại xuồng ba lá, xuồng tam bản, xuồng vỏ gòn, xuồng độc mộc, xuồng máy gắn động cơ một cách khá đầy đủ và sát với văn bản gốc. Ở phần giới thiệu về ghe, bạn trình bày thông tin về các loại ghe bầu, ghe lồng, ghe chài, ghe cào tôm, ghe ngo, ghe hầu. Cuối bài, bạn không quên nhấn mạnh vào giá trị của ghe xuồng đối với người dân Nam Bộ: nó là loại phương tiện gắn bó mật thiết với cuộc sống lao động và sinh hoạt của con người, ẩn chứa những giá trị văn hóa vô cùng độc đáo. Tóm lại, em thấy bạn trình bày bài nói theo sát với bố cục văn bản gốc. Tuy nhiên, bạn chưa nêu lên phần những loại ghe đặc trưng của một vài địa phương. Bài thuyết trình của Mai rõ ràng, mạch lại nhưng cách nói còn hơi thiếu tự tin, thi thoảng còn ngập ngừng. Đó là một vài góp ý của em về bài thuyết trình của bạn Mai. Em cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe, xin cô và các bạn cho nhận xét.
Nghe và tóm tắt ý chính của bài nói - mẫu 2
1. Sự đa dang của các loại xuồng và đặc điểm của từng loại - Các loại phổ biến như xuồng ba lá, xuồng năm lá, tam bản, xuồng vỏ gòn, xuồng độc mộc, xuồng  máy… + Xuồng ba lá: dài trung bình 4m, rộng 1m, sức chở từ 4-6 người. + Xuồng tam bản: giống như ghe câu, nhưng lớn hơn, có 4 bơi chèo, dùng để chuyên chở nhẹ. + Xuồng vỏ gòn: giống vỏ trái gòn, kích thước nhỏ, kết cấu đơn giản, kiểu dáng gọn nhẹ, chủ yếu để đi lại, chuyên chở, trao đổi, buôn bán. + Xuồng độc mộc (ghe lườn): do người Khơme làm bằng cách chẻ dọc thân cây thốt nốt, khoét rỗng ruột hoặc mua xuồng độc mộc thân gỗ sao, sến ở Campuchia và Lào. + Xuồng máy gắn máy nổ và chân vịt như xuồng máy đuôi tôm: là loại phương tiện rất “cơ động”, phổ biến ở vùng sông nước. 2. Sự đa dạng của các loại ghe và đặc điểm của từng loại - Ghe dùng để vận chuyển hàng hóa thường là những chiếc ghe có kích thước lớn, sức chở nặng, đi được đường dài. + Ghe bầu: loại ghe lớn nhất, mũi và lái nhọn, bụng phình to, có tải trọng tương đối lớn, chạy buồm (từ 1 đến 3 buồm), lướt sóng tốt và đi nhanh, có nhiều chèo để đi sông và đi biển dài ngày, thường dùng đi đường biển. + Ghe lồng (hay ghe bản lồng): loại ghe lớn, đầu mũi dài, có mui che mưa nắng, lòng ghe được ngăn thành từng khoang nhỏ để chứa các loại hàng hóa khác nhau. Loại ghe này dùng vận chuyển hàng hóa đi dọc bờ biển. + Ghe chài: to và chở được nhiều nhất, có mui rất kiên cố, gồm nhiều mảnh gỗ ghép lại, có hai tầng. + Ghe cào tôm: đầu mũi dài và khá phẳng, có bánh lái gặp bên hông, dáng nhỏ. Loại ghe này thường dùng cào tôm vào ban đêm. + Ghe ngo: loại ghe nhiều màu sắc của dân tộc Khơme, thường dùng trong bơi đua trong các lễ hội. Ghe làm bằng cây sao, dài 10m trở lên. Ghe không mui, ở đầu mũi chạm hình rồng, rắn, phụng, lân hoặc voi, sư tử, ó biển. + Ghe hầu: dành cho cai tổng, tri phủ, tri huyện. Ban đêm ghe thắp sáng để báo hiệu cho biết là ghe của quan. - Ngoài ra, ở mỗi địa phương cũng có những loại ghe phù hợp với điều kiện sông nước và nhu cầu sản xuất, đi lại trong vùng. Một số loại ghe có tiếng như: + Ghe câu Phú Quốc (Kiên Giang): có buồm, có 5 cặp chèo, dùng để đánh bắt thuỷ sản. + Ghe cửa Bà Rịa: chuyên chở thuỷ sản + Ghe lưới rùng Phước Hải (Long Đất, Bà Rịa- Vũng Tàu) dùng đánh bắt thuỷ sản. + Ghe Cửa Đại: dùng đánh bắt trên biển, chuyên chở hàng hóa đi biển hoặc trên các con sông lớn. 3. Giá trị, ý nghĩa của các loại ghe, xuồng ở Nam Bộ - Ghe xuồng ở Nam Bộ vừa là một loại phương tiện giao thông vô cùng hữu hiệu, vừa ẩn chứa bên trong những giá trị văn hóa vô cùng độc đáo - Dù sau này khoa học kĩ thuật phát triển thì ghe, xuồng vẫn giữ vị trí quan trọng ở mảnh đất này. Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 7 hay khác: Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85 4.5 (243) 799,000đs 199,000 VNĐ 4.5 (243) 799,000đ 99,000 VNĐ 4.5 (243) 999,000đ 299.000 - 599.000 VNĐ Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube: Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. Trang web chia sẻ nội dung miễn phí dành cho người Việt. Lớp 1-2-3 Lớp 4 Lớp 5 Lớp 6 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 9 Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Lập trình Tiếng Anh Chính sách bảo mật Hình thức thanh toán Chính sách đổi trả khóa học Chính sách hủy khóa học Tuyển dụng Tầng 2, số nhà 541 Vũ Tông Phan, Phường Khương Đình, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, Việt Nam Phone: 084 283 45 85 Email: vietjackteam@gmail.com CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội. 2015 © All Rights Reserved.
Giải thích Ăn quả nhớ kẻ trồng cây - mẫu 1
Từ xa xưa cho đến hiện tại, người Việt Nam đều sống theo đạo lí “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Đó là một cách sống đúng đắn, tốt đẹp và vô cùng phù hợp với truyền thống của dân tộc. Đầu tiên, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” muốn khuyên nhủ con người cần phải có lòng biết ơn và trân trọng đối với những người đã giúp đỡ ta trong lúc khó khăn hoạn nạn. Chúng ta có thể khẳng định rằng, lòng biết ơn chính là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam: “Uống nước nhớ nguồn” hay “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Trong quá khứ, ông cha ta vẫn thường căn dặn con cháu phải luôn ghi nhớ công ơn của các vua Hùng: “Nhớ ai đi ngược về xuôiNhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba” Không chỉ vậy, trong suốt lịch sử dân tộc, chúng ta đã chứng kiến biết bao bậc anh hùng đã hy sinh để giành lại độc lập cho đất nước. Nhân dân ta đã thể hiện lòng biết ơn bằng cách lập đền thờ để tưởng nhớ họ. Học cách biết ơn sẽ giúp con người trở thành một biết quý trọng mọi giá trị. Không có điều gì là tự nhiên có được, chính vì vậy biết trân trọng công sức lao động của người khác thì bản thân mới có thể đạt được những thành công, được mọi người quý mến. Con người cần tránh xa thói vô ơn, bội bạc mà phải chịu sự khinh ghét, coi thường từ những người xung quanh.
Dàn ý Giải thích Ăn quả nhớ kẻ trồng cây (mẫu 1)
1. Mở bài Giới thiệu về câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” 2. Thân bài - Giải thích: - Biết ơn là một truyền thống tốt đẹp, đáng quý của dân tộc Việt Nam. Nhờ có lòng biết ơn mà chúng ta biết trân trọng cuộc sống hơn. Từ đó, mỗi người sẽ trở nên sống tích cực hơn, cố gắng để trở thành người có ích cho xã hội. - Dẫn chứng: - Phê phán người có lối sống vô ơn, bội bạc và liên hệ bản thân. 3. Kết bài Khẳng định giá trị, ý nghĩa to lớn của câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
Dàn ý Giải thích Ăn quả nhớ kẻ trồng cây (mẫu 2)
1. Mở bài Giới thiệu về câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” 2. Thân bài - Giải thích: - Biết ơn là một truyền thống tốt đẹp, đáng quý của dân tộc Việt Nam. Nhờ có lòng biết ơn mà chúng ta biết trân trọng cuộc sống hơn. Từ đó, mỗi người sẽ trở nên sống tích cực hơn, cố gắng để trở thành người có ích cho xã hội. - Dẫn chứng: - Phê phán người có lối sống vô ơn, bội bạc và liên hệ bản thân. 3. Kết bài Khẳng định giá trị, ý nghĩa to lớn của câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
Dàn ý Giải thích Ăn quả nhớ kẻ trồng cây (mẫu 3)
I. Mở bài Dẫn dắt, giới thiệu về câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. II. Thân bài 1. Giải thích 2. Chứng minh - Thời xưa: - Thời nay: III. Kết bài Khẳng định giá trị của câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
Giải thích Ăn quả nhớ kẻ trồng cây - mẫu 2
Những câu tục ngữ đã đúc kết bài học kinh nghiệm của ông cha ta. Đó còn là những lời răn dạy quý báu dành cho con người. Một trong số đó là câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Xét về nghĩa đen, câu tục ngữ muốn nhắc nhở con người khi được ăn quả ngọt, cần phải nhớ đến người đã vun trồng và chăm sóc để cây đơm hoa, kết trái. Bởi đó là một quá trình vất vả, khó nhọc. Còn xét về nghĩa bóng, đó là lời răn dạy về lòng biết ơn đối với những thế hệ đi trước, những người đã cho ta “trái ngọt” . Cũng giống như khi ăn m ột bữa cơm ngon phải nhớ đến người làm ra hạt gạo thơm ngon; mặc một chiếc áo đẹp phải nhớ tới người đã thêu dệt nên nó hay đạt được những giải thưởng cao quý phải biết ơn những người đã dạy dỗ mình. “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” đã hướng chúng ta đến việc hoàn thiện bản thân. Lòng biết ơn chính là khởi nguồn của mọi đức tính tốt đẹp nhất. Đó cũng là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Từ xa xưa, ông cha ta đã luôn giữ gìn tấm lòng biết ơn dành của mình qua tục thờ cúng tổ tiên, các bậc anh hùng có công với đất nước. Đến hiện tại, truyền thống đó vẫn được giữ gìn và phát huy. Những ngày lễ lớn như 20 tháng 11, mùng 8 tháng 3, 27 tháng 7 nhằm tri ân những con người, những ngành nghề đã có những đóng góp với xã hội. Hay như trong đại dịch Covid-19 vừa qua, tấm lòng biết ơn được thể hiện qua hành động tri ân với các y bác sĩ - “những chiến sĩ tuyến đầu” của nhiệm vụ chống dịch… Bác Hồ từng nói: “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó”. Tấm lòng biết ơn cũng là một trong những yếu tố quan trọng để góp phần hoàn thiện đạo đức phẩm chất của con người. Dù có là bất cứ ai, đang ở bất cứ nơi đâu, thì cũng đừng quên đi những người đã có công ơn đối với chúng ta. Đối với một học sinh như tôi, việc có được tấm lòng biết ơn là vô cùng quan trọng. Tấm lòng thương yêu, kính trọng người thân như ông bà, cha mẹ... Sự kính trọng, yêu quý thầy cô giáo - họ không chỉ đem lại cho chúng ta vốn tri thức quý giá mà còn cả những bài học làm người sâu sắc. Sự trân trọng dành cho bạn bè - những người luôn ở bên giúp đỡ, tâm sự chúng ta. Hoặc sự coi trọng sách vở - sản phẩm kết tinh những tri thức của nhân loại… Tất cả những hành động đó, tuy nhỏ bé nhưng lại chứa đựng những ý nghĩa lớn lao trong cuộc sống. Qua giải thích trên, có thể khẳng định, câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” đã đem đến một bài học quý giá cho cuộc sống. Mỗi chúng ta hãy biết trân trọng những thành quả tốt đẹp mà mình đang được hưởng, để sống sao cho thật xứng đáng với cuộc đời mà mình có được.
Giải thích Ăn quả nhớ kẻ trồng cây - mẫu 3
“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” là đạo lý biết ơn tốt đẹp từ xưa đến nay của nhân dân Việt Nam được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày. Về nghĩa đen, câu tục ngữ muốn nói rằng khi ăn quả, chúng ta là người hưởng thụ; còn kẻ trồng cây là người tạo ra thành quả. Về nghĩa bóng, câu tục ngữ muốn khuyên con người khi thừa hưởng một thành quả nào ta phải biết ơn đến người tạo ra thành quả đó. Nhà nhà đều thờ tổ tiên, vào ngày giỗ tổ tiên, các thành viên trong gia đình sum họp lại để thắp nén nhang tưởng nhớ những người đã mất. Dân tộc ta còn có ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm là ngày giỗ tổ Hùng Vương. Cứ vào ngày này mọi người từ khắp nơi không quản đường xá xa xôi cùng nhau tụ về để dâng hương tưởng nhớ người đã có công dựng nước và giữ nước. Trên khắp đất nước thường có các chùa, đền thờ các bậc tiền bối, các anh hùng dân tộc của mọi thời đại. Để rồi ngày 27 tháng 7 được chọn làm ngày thương binh liệt sĩ Việt Nam để tưởng nhớ những thương binh chiến sĩ, những gia đình có công với cách mạng, những bà mẹ Việt Nam anh hùng đã hy sinh hạnh phúc, hy sinh bản thân mình để bảo vệ tổ quốc. Để nhớ ơn các thầy cô giáo, những người đã có công gieo trồng mầm non đất nước. Ngày 20 tháng 11 được chọn làm ngày nhà giáo Việt Nam. Còn để nhớ ơn những người đã giúp đỡ và cứu sống và chữa bệnh cho mọi người thì ngày 27 tháng 2 được chọn làm ngày thầy thuốc Việt Nam … Còn rất nhiều rất nhiều những hành động ân nghĩa của nhân dân ta đối với thế hệ đi trước. Là học sinh cần hiểu được câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” để sống sao cho đúng. Đối với cha mẹ, chúng ta cần hết lòng yêu thương, kính trọng. Còn đối với thầy cô chúng ta cần ngoan ngoãn, lễ phép, học chăm, học giỏi. Nếu có điều kiện chúng ta tham gia vào những hoạt động xã hội. Tuy nhỏ nhưng tràn đầy những ý nghĩa. Câu tục ngữ trên đã giúp ta hiểu rõ hơn về đạo lý làm người. Sống trên đời phải nhớ đến ân nhân trước sau, lòng biết ơn là tình cảm cao quý thiêng liêng cần có của mỗi người và thể hiện ta là người có văn hóa, lịch sự. Mỗi chúng ta cần trau dồi thêm phẩm chất cao quý đó để lòng biết ơn mãi là bài học quý có giá trị trong cuộc sống chúng ta.
Giải thích Ăn quả nhớ kẻ trồng cây - mẫu 4
Từ xa xưa, lối sống ân nghĩa thủy chung của dân tộc ta là một niềm tự hào của con người Việt Nam. Vì vậy mà ông cha ta muốn truyền lại lối sống ấy cho thế hệ tương lai qua câu tục ngữ: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Ta cùng đi tìm hiểu về câu tục ngữ thì trước hết, ta phải hiểu ý nghĩa của nó. Có lẽ không ai là không biết nếu muốn có trái thơm quả ngọt để ăn thì chúng ta phải trồng cây, chăm sóc, bón phân và tưới nước hàng ngày, để cây lớn lên và tươi tốt. Và người trồng cây sẽ là người đã đổ mồ hôi sôi nước mắt để chăm bón cây hàng ngày cho đến lúc cây ra quả, để chúng ta được thưởng thức vị ngọt lịm của những trái chín. Có lẽ, người xưa muốn nhắn nhủ chúng ta khi ta được thưởng thức trái ngọt, đừng mải mê với vị ngọt mà quên mất trong đó cũng có vị đắng của những giọt mồ hôi, của vất vả và gian lao của những người cho ta quả ngọt ấy. Qua câu tục ngữ, ông cha ta muốn nhắn nhủ với chúng ta một lối sống ân tình thủy chung, khi ta được sống hạnh phúc sung sướng đừng quên đi những ngày tháng khổ đau vất vả, khi ta tận hưởng bao điều tốt đẹp chớ quên đi người đã tạo ra thành quả đó. Trong chiều dài của lịch sử dân tộc, nhân dân ta dù khó khăn gian khổ vẫn giữ vững nếp sống tình nghĩa ấy. Để nhân dân được sống trong nền hòa bình, độc lập như hôm nay, biết bao lớp người đã hy sinh không tiếc thân mình bảo vệ bờ cõi. Các anh không tiếc đời xanh, xả thân giữ lấy từng tấc đất, biết bao máu xương đã chôn vùi nơi biên ải, biết bao người chiến sĩ mà ta không biết mặt biết tên đã ngã xuống nơi sa trường. Tất cả vì sự độc lập của dân tộc, vì để có được cuộc sống ấm no cho chúng ta ngày hôm nay. Hay gần gũi hơn là ngay chính cha mẹ đã vất vả bao năm tháng để nuôi chúng ta. Hay để con người có thể đứng trên những tòa nhà chọc trời, nhìn khắp mọi nơi trên thành phố thì biết bao nhiêu người công nhân đã phải lao động không ngừng, đặt nền móng, đắp từng cục gạch từ dưới mặt đất. Những điều đó tuy đã là chuyện quá khứ nhưng ta không nên quên, bởi không có quá khứ sẽ không có hiện tại, không có người kiến tạo sẽ không có cuộc sống của chúng ta như ngày hôm nay. Vậy chúng ta phải làm gì để xứng đáng với câu nói của cha ông? Ta hãy nhớ kỹ những năm tháng khó khăn của một thời đã qua, nhớ những giọt mồ hôi lăn dài trong quá khứ. Xin đừng lãng quên và coi nhẹ nó, hãy sống với nỗi nhớ và sự biết ơn, nối tiếp truyền thống bao đời của dân tộc ta. Hơn nữa, chúng ta phải cố gắng và nỗ lực thật nhiều để dựng xây và làm giàu thêm nữa những giá trị đẹp đẽ để không uổng công sức của những người đi đầu, tạo lập ra những giá trị đó. Trong xã hội hiện nay, vẫn có rất nhiều những kẻ vong ơn bội nghĩa mà ta cần phải lên án. Những kẻ quen với lối sống hưởng thụ, quen lối ăn chơi trên sự khó nhọc của người khác và tệ hơn họ không hề biết ơn mà còn coi thường sự khó nhọc ấy. Nếu những kẻ đó biến mất, xã hội sẽ công bằng và dân chủ hơn rất nhiều. Tóm lại, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” là câu tục ngữ rất ý nghĩa, nó trở thành một bài học răn dạy ta sống nghĩa tình và thủy chung.
Giải thích Ăn quả nhớ kẻ trồng cây - mẫu 5
Ông cha ta có câu: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” nhằm răn dạy con cháu bài học về lòng biết ơn trong cuộc sống. “Ăn quả nhớ kẻ trồng” cây là câu tục ngữ được lưu truyền rất nhiều trong dân gian. Khi con người được ăn những trái thơm quả ngọt thật ngon miệng và thoải mái, hãy nhớ rằng những trái thơm quả ngọt đó không tự nhiên xuất hiện mà phải có người bỏ công sức ra trồng cây và chăm chút, mặc ngày nắng mưa bão bùng, không quản mệt nhọc cày sâu cuốc bẫm, chăm chút từng tấm lá, bông hoa để cây phát triển thật tốt, đơm hoa kết trái để chúng ta có thể được thưởng thức. Và cũng qua câu tục ngữ, dường như, ông cha ta muốn nhắn gửi lối sống ân nghĩa thủy chung, khi mỗi người được sống sung sướng thoải mái thì đừng bao giờ quên công sức của những người đi trước, uống nước phải nhớ nguồn. Con người ta luôn đặt ra những câu hỏi về cội nguồn của vạn vật. Có lẽ chuyện mây trời thật xa xôi, ta hãy nhắc đến những điều thực tế trong cuộc sống. Chúng ta đã bao giờ nghĩ đến khi ta sắp chết vì đói mà có một bát cơm nóng cũng làm ta thỏa nguyện, lúc đó ta mới thật sự hiểu được và trân trọng người nông dân đã đánh đổi mồ hôi lấy những hạt gạo trắng thơm. Cũng như mỗi chúng ta, ai sinh ra và lớn lên đó là nhờ công sinh thành của cha mẹ. Hãy ngồi ngẫm nghĩ vì sao ta lại có trên đời, vì đâu mà ta có được cuộc sống hạnh phúc như ngày hôm nay. Có lẽ tất cả là nhờ “Công cha nghĩa mẹ” như “núi Thái Sơn”, như “nước trong nguồn”. Bậc cha mẹ đã hy sinh, chịu bao vất vả để nuôi ta lớn khôn từng ngày. Trong quãng thời gian ta trưởng thành, cũng đừng quên đi hình bóng người thầy cô - “người lái đò” tận tụy đã giúp ta đến với bến bờ tri thức, vững bước trên con đường thành công. Nhưng trong cuộc sống hiện nay, nhiều bạn học sinh không nghe lời cha mẹ với lời thầy cô, vẫn liên tục mắc những sai lầm khiến cha mẹ và thầy cô giáo phải buồn rất nhiều. Trái lại, cũng có rất nhiều học sinh ngoan, chăm chỉ, học giỏi. Mỗi chúng ta hãy ghi nhớ rằng nếu không có người trồng cây thì chúng ta cũng sẽ không có trái ngọt để hưởng, không có những người vất vả gian lao sẽ không có những thứ tốt đẹp như ngày hôm nay. Trong xã hội thì vẫn còn những kẻ sống bạc tình, bội nghĩa đi ngược lại với câu tục ngữ mà ông cha ta đã truyền lại, làm hoen ố tinh thần dân tộc, khiến xã hội trở nên tồi tệ. Vậy nên mỗi người hãy cố gắng nỗ lực trau dồi bản thân, hãy soi vào những điều tốt đẹp của quá khứ để tạo nên những điều tốt đẹp cho hiện tại và cả trong tương lai. Hãy lưu giữ lối sống ân tình thủy chung ấy trong tâm hồn ta bởi đó là truyền thống, là nét đẹp trong tâm hồn của người Việt Nam. Truyền thống ấy thể hiện lòng biết ơn, thể hiện đạo lí sống ân tình thủy chung. Vậy nên, chúng ta - thế hệ tương lai như chúng ta hãy giữ vững lẽ sống ấy và trở thành những con người tốt đẹp.
Giải thích Ăn quả nhớ kẻ trồng cây - mẫu 6
Dân tộc Việt Nam vốn trọng ơn nghĩa. Chính vì vậy ông cha ta có câu: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” là một lời khuyên giàu giá trị. Câu tục ngữ đã mượn hình ảnh “ăn quả” và “kẻ trồng cây” ý muốn nói rằng khi được hưởng thụ những hoa thơm, trái ngọt cần nhớ tới người đã vun trồng, chăm sóc. Từ đó, "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" là lời nhắc nhở con người phải có lòng biết ơn. Lòng biết ơn đối với người khác đó chính là một truyền thống tốt đẹp từ xưa đến nay. Lối sống ân nghĩa mặn mà, thuỷ chung giữa con người với con người. Tất cả những gì chúng ta đang hưởng thụ hiện tại không phải tự dưng mà có. Đó chính là công sức của biết bao lớp người. Từ những bát cơm dẻo trên tay cũng do bàn tay người nông dân làm ra. Rồi đến tấm áo ta mặc, chiếc giày ta đi cũng đều bởi những bàn tay khéo léo của người thợ cùng với sự miệt mài, cần cù trong đó. Những di sản văn hoá nghệ thuật, những thành tựu độc đáo sáng tạo để lại cho con cháu. Lòng nhớ ơn luôn mang một tình cảm cao đẹp, thấm nhuần tư tưởng nhân văn. Nó giáo dục chúng ta cần biết ơn tổ tiên, những bậc anh hùng vĩ đại đã hi sinh, lấy thân mình, mồ hôi xương máu để bảo vệ nền độc lập cho đất nước, giữ vững bình yên vùng trời Tổ quốc. Từ đó con người phần thực hiện đúng trách nhiệm, bổn phận của chúng mình, phần không cảm thấy hổ thẹn với những người ngã xuống giành lấy sự độc lập. Có ai hiểu được rằng, một sự biết ơn được thể hiện như một đoá hoa mai ửng hé trong nắng vàng, một lòng kính trọng bộc lộ như một ánh sao đêm sáng rọi trên trời cao. Đó là những cử chỉ cao đẹp, những hành động dù chỉ là nhỏ nhất cũng đều mang một tấm lòng cao thượng. Những người có nhân nghĩa là những người biết ơn đồng thời cũng biết giúp đỡ người khác mà không chút tính toán do dự. Chính những hành động đó đã khơi dậy tấm lòng của biết bao nhiêu con người, rồi thế giới này sẽ mãi là một thế giới giàu nhân nghĩa. Tóm lại, câu tục ngữ trên giúp ta hiểu được về đạo lý làm người. Lòng tôn kính, sự biết ơn không thể thiếu trong mỗi con người, đặc biệt là thế hệ trẻ hôm nay. Chúng ta luôn phải trau dồi những phẩm chất cao quý đó, hãy biết rèn luyện, phấn đấu bằng những hành động nhỏ nhất.
Giải thích Ăn quả nhớ kẻ trồng cây - mẫu 7
Trong kho tàng ca dao, dân ca có nhiều câu phản ánh đạo lí sống của nhân dân Việt Nam. Ví dụ như “Con người có tổ có tông/Như cây có cội như sông có nguồn”. Hay như “Công cha như núi Thái Sơn/Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra/Một lòng thờ mẹ kính cha/Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Cũng đồng quan điểm đó thì câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” tuy ngắn gọn nhưng lại sâu sắc. Ý nghĩa của câu tục ngữ trên nhắc nhở chúng ta phải trân trọng, biết ơn những người đi trước đã đổ mồ hôi, nước mắt và cả máu xương để đem lại thành quả tốt đẹp mà chúng ta đang được hưởng thụ hôm nay. Lòng biết ơn là biểu hiện của truyền thống coi trọng nhân nghĩa. Lòng biết ơn được nhắc tới trong mọi hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống. Khi nâng nâng bát cơm trên tay, chúng ta khuyên nhau đừng quên sự vất vả, lam lũ của người nông dân:”Ai ơi bưng bát cơm đầy/Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”. Khi nâng niu một trái chín mọng vừa hái trên cành, chúng ta nhắc mình không quên công lao của kẻ trồng cây. Trong mỗi gia đình, dù giàu sang hay nghèo khó đều có bàn thờ gia tiên. Dẫu chỉ nén nhang, chén nước nhưng con cháu gửi gắm vào đó tấm lòng thành kính tưởng nhớ tới công đức của tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Có một mối quan hệ vô hình nhưng vô cùng khăng khít giữa các thế hệ với nhau. Người đã khuất dường như luôn có mặt bên cạnh người đang sống, tiếp thêm sức mạnh cho họ trên bước đường mưu sinh vất vả. Lớp hậu sinh bày tỏ lòng biết ơn các bậc tiền nhân bằng cách gìn giữ, phát huy truyền thống để làm vẻ vang cho gia đình, dòng họ. Trải qua hơn bốn ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã phải đương đầu với hàng chục đạo quân xâm lược hung hãn, tàn bạo như Hán, Tống, Minh, Thanh rồi thực dân Pháp, phát xít Nhật và cuối cùng là đế quốc Mĩ. Bao nhiêu xương máu đã đổ xuống để bảo vệ chủ quyền tự do, độc lập cho Tổ quốc. Trên khắp đất nước, đâu đâu cũng có những đền miếu, chùa chiền và đài tưởng niệm để ghi nhớ công ơn của những anh hùng liệt sĩ đã cống hiến và hy sinh cho Tổ quốc. Đền thờ các vua Hùng trên đất tổ Phong Châu, đền thờ Hai Bà Trưng ở Hà Tây, đền thờ Đinh Tiên Hoàng ở Ninh Bình, đền thờ các vị vua đời Trần có công ba lần đánh tan quân Nguyên Mông ở Nam Định, Quảng Ninh, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Hà Nội, đền Bến Dược ở Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh, nghĩa trang Trường Sơn ở Quảng Bình... và hàng ngàn nghĩa trang liệt sĩ quanh năm được nhân dân ta chăm sóc khói nhang với tấm lòng biết ơn vô hạn. Một trong những biểu hiện thiết thực của lòng biết ơn là chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đối với thương binh, liệt sĩ và gia đình có công với cách mạng. Biết bao bà mẹ Việt Nam anh hùng được cả nước tôn vinh, được các cơ quan, đoàn thể, trường học nhận phụng dưỡng để các mẹ yên hưởng tuổi già. Phong trào đền ơn đáp nghĩa nhân rộng khắp nơi. Những ngôi nhà tình nghĩa mọc lên từ miền xuôi cho đến miền ngược. Những đội quân tình nguyện ngày đêm miệt mài đi tìm hài cốt đồng đội ở các chiến trường xưa nơi rừng sâu núi thẳm để quy tập về nghĩa trang liệt sĩ hoặc đưa các anh về với mảnh đất quê hương... Đó là biểu hiện sinh động của đạo lí “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của nhân dân ta. Ngoài ra, còn nhiều hình thức khác như xây dựng bảo tàng lịch sử, bảo tàng cách mạng, nhà truyền thống... để nhắc nhở mọi người phải sống sao cho xứng đáng với truyền thống bất khuất, hào hùng của dân tộc; nhắc nhở các thế hệ sau không phải chỉ biết hưởng thụ mà còn phải có nhiệm vụ giữ gìn, vun đắp và phát triển các thành quả lao động, chiến đấu do các thế hệ trước tạo dựng nên. Có thể khẳng định rằng lòng biết ơn là nền tảng của đạo lí, là thước đo phẩm chất, đạo đức của mỗi con người. Nhận thức được điều đó, chúng ta sẽ sống tốt hơn, có ích hơn cho gia đình và xã hội. Tuy vậy, lòng biết ơn không phải tự nhiên mà có. Nó là kết quả của cả một quá trình rèn luyện, tu dưỡng lâu dài suốt cả cuộc đời.
Giải thích Ăn quả nhớ kẻ trồng cây - mẫu 8
Lòng biết ơn đối với người khác từ xưa đến nay vốn là truyền thống của dân tộc ta. Ông cha ta luôn nhắc nhở, dạy bảo con cháu phải sống ân nghĩa thuỷ chung, đã nhận ơn của ai thì không bao giờ quên. Truyền thống đạo đức đó được thể hiện rõ nét qua câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Đây là một lời giáo huấn vô cùng sâu sắc. Khi ăn những trái cây chín mọng với hương vị ngọt ngào ta phải nhớ tới công lao vun xới, chăm bón của người trồng nên cây ấy. Từ hình ảnh ấy, người xưa luôn nhắc nhở chúng ta một vấn đề đạo đức sâu xa hơn: Người được hưởng thành quả lao động thì phải biết ơn người tạo ra nó. Hay nói cách khác chúng ta phải biết ơn những người mang lại cho ta cuộc sống ấm no hạnh phúc như hôm nay. Tất cả những thành quả lao động từ của cải vật chất đến của cải tinh thần mà chúng ta đang hưởng thụ không phải tự nhiên có được. Những thành quả đó là mồ hôi, nước mắt và cả xương máu của biết bao lớp người đã đổ xuống để tạo nên. Bát cơm ta ăn là do công lao khó nhọc vất vả “một nắng hai sương” của người nông dân trên đồng ruộng. Tấm áo ta mặc, ngôi nhà ta ở, cả những vật dụng hàng ngày ta tiêu dùng là do sức lao động cần cù, miệt mài của những người thợ, những chú công nhân. Cũng như những thành tựu văn hoá nghệ thuật, những di sản của dân tộc còn để lại cho đời sau hôm nay là do công sức, bàn tay, khối óc của những nghệ nhân lao động sáng tạo không ngừng... Còn rất nhiều, nhiều nữa những công trình vĩ đại... mà ông cha ta làm nên nhằm phục vụ cho con người. Chúng ta là lớp người đi sau, thừa hưởng những thành quả ấy, lẽ nào chúng ta lại lãng quên, vô tâm không cần biết đến người đã tạo ra chúng ư? Một thời gian đằng đẵng sống trong những đêm dài nô lệ, chúng ta phải hiểu rằng đã có biết bao lớp người ngã xuống quyết tâm đánh đuổi kẻ thù... để cho ta có được cuộc sống độc lập, tự do như hôm nay. Chính vì vậy, ta không thể nào được quên những hy sinh to lớn và cao cả ấy. Có lòng biết ơn, sống ân nghĩa thuỷ chung là đạo lý làm người, đó cũng là bổn phận, nhiệm vụ của chúng ta đối với đời. Tuy nhiên, lòng biết ơn không phải là lời nói suông mà phải thể hiện bằng hành động cụ thể. Nhà nước ta đã có những phong trào đền ơn đáp nghĩa, xây dựng những ngôi nhà tình nghĩa cho các bà mẹ anh hùng, các gia đình thương binh liệt sĩ. Việc đền ơn đáp nghĩa này đã trở thành phong trào, là chính sách lan rộng trên cả nước. Đây không chỉ là sự đền đáp công ơn đơn thuần mà nó trở thành bài học giáo dục thiết thực về đạo lý làm người của chúng ta. Cho nên mỗi người ai ai cũng cần phải có ý thức bảo vệ và phát huy những thành quả đạt được ấy ngày càng tốt đẹp hơn, có nghĩa là ta vừa là “người ăn quả” của hôm nay, vừa là “người trồng cây” cho ngày mai. Cũng từ đó ta càng thấm thía hiểu được rằng: Cha mẹ, thầy cô cũng chính là người trồng cây, còn ta là người ăn quả. Vì vậy ta cần phải thực hiện tốt bổn phận làm con trong gia đình, bổn phận người học trò trong nhà trường. Làm được như vậy tức là ta đã thể hiện được lòng biết ơn sâu sắc của mình đối với những người đã hi sinh, thương yêu, lo lắng cho ta. Đây là một việc làm không thể thiếu được ở thế hệ trẻ hôm nay. Tóm lại, câu tục ngữ trên giúp ta hiểu rõ về đạo lý làm người. Lòng biết ơn là tình cảm cao quý và cần phải có trong mỗi con người. Vì vậy, chúng ta cần phải luôn trau dồi phẩm chất cao quý đó, nhất là đối với cha mẹ, thầy cô... với những ai đã tạo ra thành quả cho ta hưởng thụ. Lòng biết ơn mãi mãi là bài học quý báu và câu tục ngữ "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" có giá trị và tác dụng vô cùng to lớn trong cuộc sống của chúng ta.
Giải thích Ăn quả nhớ kẻ trồng cây - mẫu 9
Lòng biết ơn chính là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Đó cũng là lý do mà ông cha ta đã ghi lại câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” để răn dạy con cháu mai sau. Câu tục “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” là một câu tục ngữ phổ biến của văn học dân gian. Đây là câu nói thể hiện một triết lý nhân văn sâu sắc. Đó chính là đề cao sự biết ơn đối với những người đã từng giúp đỡ mình. Và cũng chính vì ý nghĩa và giá trị nhân văn này, câu tục ngữ đã được ông cha ta truyền lại từ ngàn xưa. Và luôn được người lớn sử dụng để dạy dỗ và nhắn nhủ cho con cái từ khi còn nhỏ. Câu tục ngữ “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” ông cha ta đã mượn các hình ảnh quen thuộc đó là “ăn quả” và “trồng cây” để làm hình ảnh ẩn dụ cho lời nhắn nhủ của mình. “Ăn quả” ý nói là những “trái ngọt” đó là những thành quả tốt mà ta có được. Còn “trồng cây” ý nói về những người đã đổ mồ hôi, công sức để cho ra “trái ngọt” và những thành quả tốt đẹp đó. Như vậy, câu tục ngữ ý muốn nói, mỗi người đều phải mang trong mình tấm lòng biết ơn. Luôn phải ghi nhớ những công ơn mà người khác đã giúp mình. “Tri ân không cần báo đáp” nhưng người nhận thì luôn phải ghi nhớ để không làm việc hổ thẹn lương tâm. Lòng biết ơn chính là một tư tưởng cao đẹp đã được đúc kết từ ngàn xưa, trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam ta được truyền lại cho các thế hệ mai sau. Đó là sự ơn nghĩa, nhân văn giữa con người với con người với nhau. Trải qua lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, ta mới có được cuộc sống như ngày hôm nay. Sự tự do, ấm no và hạnh phúc của hiện tại, đã phải trả bằng công lao của những người đi trước. Do đó, ta luôn phải ghi nhớ công ơn của ông cha ta ngày xưa. Và đền đáp bằng cách cố gắng gìn giữ và phát triển đất nước ngày một tốt hơn. Ông cha ta đã để lại rất nhiều “trái ngọt” cho con cháu. Tất cả đều được trả giá bằng mồ hôi, công sức và tính mạng của người xưa. Sự tự do của đất nước ta có được là do xương máu của dân tộc trong hàng ngàn năm xây dựng và bảo vệ đất nước. Sự tiện nghi về giao thông như hiện tại là công sức làm việc của những bậc cha mẹ, cô chú, ông bà ta. Sự ấm no “ăn ngon mặc đẹp” ngày nay cũng là nhờ công lao động của các thế hệ trước. Do đó, chúng ta cần phải biết kính trọng và biết ơn những điều đó. Lòng biết ơn, sự kính trọng với thế hệ trước không chỉ thể hiện qua lời nói, mà phải được thể hiện qua những việc làm cụ thể. Những hoạt động, sự giáo dục cho chúng ta về sự hy sinh anh dũng của những vị anh hùng. Hay những hoạt động bảo vệ những di tích lịch sử. Hoặc những chiến sĩ miền biển đảo xa xôi đang hết mình bảo vệ đất nước… Tất cả những điều đó, chính là hành động mà con cháu của dân tộc Việt Nam đang làm để đáp đền ơn nghĩa và tiếp nối các thế hệ đi trước. Còn với mỗi người chúng ta cần làm gì để thể hiện sự biết ơn của mình. Điều đầu tiên đó là học tập thật tốt, dùng kiến thức của mình sau này xây dựng, gìn giữ, bảo vệ và phát triển đất nước. Vì đây là đất nước mà ông cha ta ngày trước đã phải đổ mồ hôi, xương máu để giành lấy. Tiếp theo, đó là ghi nhớ công ơn của người khác đối với mình. Đặc biệt là luôn hiếu thảo với cha mẹ. Đây là đấng sinh thành, đã có ơn dưỡng dục, dạy dỗ ta trưởng thành. Đây chính là công ơn cao trọng nhất mà cả đời ta không được quên. Tiếp theo là lòng tôn sư trọng đạo, công ơn dạy dỗ là ơn nghĩa cao trọng mà thầy cô đã dành cho chúng ta, thầy cô bỏ công sức giảng dạy truyền đạt kiến thức cho các học sinh sinh viên vì vậy ai trong chúng ta cũng không được quên công ơn đó mà phải khắc ghi. Tóm lại, câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” chính là đạo lý làm người mà chúng ta nên khắc ghi, bài học về lòng tôn kính và sự biết ơn mà ông cha ta nhắn nhủ lại cho thế hệ mai sau. Chúng ta cần phải học tập, rèn luyện và phát huy phẩm chất đó. Hãy luôn giữ vững tâm hồn tốt, thể hiện thái độ biết ơn vì những gì chúng ta đã nhận được thành quả của ngày hôm nay bạn nhé.
Giải thích Ăn quả nhớ kẻ trồng cây - mẫu 10
“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, một câu tục ngữ vô cùng quen thuộc với chúng ta. Đây là một trong những truyền thống đạo lý tốt đẹp nhất mà ông bà ta đã đúc kết và truyền đạt lại qua bao thế hệ. “Ăn quả” là thưởng thức quả ngon, trái ngọt... nhớ “kẻ trồng cây” là người đã vun trồng chăm sóc cây. Không chỉ dừng lại ở nghĩa đen bình dị đó, câu tục ngữ còn mang theo cả một giá trị tốt đẹp đó là lòng biết ơn. Bằng hình ảnh ẩn dụ đặc biệt “ăn quả” là sự thừa hưởng kế thừa những thành quả, những giá trị vật chất hoặc tinh thần. “Kẻ trồng cây” chính là hình ảnh ẩn dụ cho những người đã cống hiến sức lao động, đã tạo ra những giá trị, những thành quả đó, hay xa hơn là những thế hệ đi trước đã xây dựng tạo nên nền tảng cho thế hệ chúng ta đang kế thừa. Thật vậy, bất kỳ thứ gì chúng ta sử dụng hàng ngày đều được tạo nên từ sức lao động mà có được, từ bát cơm dẻo thơm, nước uống sạch tinh khiết, quần áo giày dép, xe cộ đi lại, công nghệ thông tin… tất cả đều là thành quả của quá trình lao động, nghiên cứu để tạo nên. Ngay cả khi chúng ta có mặt trên đời đến khi trưởng thành thì chúng ta đã chịu công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ, công ơn này lớn tựa trời biển. Mỗi giây phút thanh bình, cuộc sống ấm no chúng ta đang tận hưởng ngày nay đều do các vị anh hùng dân tộc, các thế hệ cha anh đã ngã xuống để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Dù rằng những người này không bao giờ đòi hỏi chúng ta phải biết ơn, đền ơn, nhưng lòng biết ơn là thước đo giá trị đạo đức, nhân cách của một con người. Khi chúng ta biết trân trọng những giá trị mà chúng ta đang thừa hưởng, khi biết nhớ về nguồn cội, chúng ta sẽ ý thức được trách nhiệm, bổn phận của mình để sống thực sự có ý nghĩa. Những hành động đơn giản như kính trọng cha mẹ, thầy cô, biết làm gương cho con em chúng ta những hành động về lòng biết ơn đó. Ngày xưa vua Thuấn vì có lòng hiếu thảo với đấng sinh thành nên được phong làm Vua của một nước. Ngày nay thời đại mới, chúng ta có nhiều mối quan hệ xung quanh hơn nữa, thì lòng biết ơn được nâng tầm hơn nữa không chỉ dừng lại ở chữ hiếu, nếu áp dụng được lòng biết ơn vào cuộc sống hàng ngày thì nhất định chúng ta sẽ được mọi người xung quanh yêu quý, tôn trọng. Bài học “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” chắc chắn sẽ là một bài học vô cùng quý giá trên con đường của mỗi chúng ta sau này. Bất kể con đường nào, với hành trang ấy, chúng ta sẽ trở thành một con người hoàn thiện hơn về mặt tư tưởng đạo đức và văn minh hơn về mặt ứng xử với mọi người, môi trường xung quanh.
Giải thích Ăn quả nhớ kẻ trồng cây - mẫu 11
Lòng biết ơn từ xưa đến nay đã trở thành một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đạo đức này được thể hiện rõ qua câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Câu tục ngữ như một lời khuyên răn, bài học đạo đức đối với mỗi chúng ta. Nói về nghĩa đen, câu tục ngữ muốn nói đến sự biết ơn của người trồng ra cây đó đối với những người ăn trái ngon, quả ngọt. Khi chúng ta thưởng thức những trái ngon ngọt, hãy nhớ đến những người đã chăm sóc, đã vun xới để có được thành quả như hôm nay. Từ hình ảnh mang ý nghĩa biểu trưng đó, mở rộng ra, câu tục ngữ muốn ta hiểu hơn về lòng biết ơn đối với con người trong cuộc sống. Hãy luôn biết ơn những người lao động, những người thừa hưởng thành quả lao động phải luôn biết trân trọng và biết ơn. Hay nói một cách khác là ta cần biết ơn đối với những người đã đem lại cho ta cuộc sống ấm no và hạnh phúc. Câu tục ngữ như có ý khuyên răn con người nên thể hiện lòng biết ơn trong cuộc sống. Vậy tại sao khi “ăn quả” chúng ta cần nhớ tới “kẻ trồng cây”. Bởi những gì chúng ta đang hưởng thụ không phải ngẫu nhiên mà có được. Đó đều là do những công sức, những đóng góp về cả vật chất và tinh thần của một cá nhân hay tập thể làm nên. Chúng ta được sinh ra, lớn lên và được nuôi dưỡng, được có những quyền cơ bản của một con người, được phát triển một cách toàn diện. Đó đều là nhờ công lao sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ. Đến trường, ta được tiếp cận với những nền tri thức mới, được mở mang hiểu biết, đó đều là nhờ công sức của những thầy cô giáo, những người chèo đò chở chúng ta cập bến bờ tri thức. Rồi đó còn là những con người khác trong xã hội. Họ là bác sĩ, những người chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho chúng ta. Họ là những người công nhân, kĩ sư đang ngày đêm miệt mài làm việc để đem lại thành quả cho mọi người. Họ là những cô lao công vẫn cặm cụi đêm ngày làm vệ sinh môi trường để chúng ta có cuộc sống trong lành, không khí tuyệt vời. Hay họ là những anh bộ đội, chiến sĩ đang ngày đêm canh gác để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ tự do, độc lập cho dân tộc... Họ đều là những con người bình thường nhưng mang những nhiệm vụ phi thường. Họ đã mang cả trí tuệ, sức khỏe và cả tinh thần để cống hiến cho đất nước ngày một tươi đẹp hơn. Chúng ta phải nhớ tới họ, phải biết ơn họ vì đây chính là những truyền thống văn hóa, nét đẹp tinh thần không thể thiếu của con người, dân tộc Việt Nam. Để thể hiện lòng biết ơn, có rất nhiều cách khác nhau: Tưởng nhớ công lao của những anh hùng liệt sĩ đã có công với đất nước, những thương binh đã chiến đấu vì Tổ quốc, hằng năm chúng ta có ngày 27/7 để thể hiện lòng biết ơn. Một việc làm nhỏ như thắp một nén nhang, cài một bông hoa để tưởng nhớ những liệt sĩ cũng là một cách để thể hiện lòng biết ơn. Nhà nước ta cũng đã có những chủ trương, chính sách đối với những người có công với đất nước để thể hiện lòng biết ơn và kính trọng đối với họ. Ngày 27/2 hàng năm được chọn là ngày tri ân đối với những người thầy thuốc Việt Nam. Họ là những con người dùng cái tâm, cái đức của mình để chăm lo sức khỏe cho mọi người. Một lời chúc ý nghĩa như một sự tri ân đến với những người thầy thuốc tận tâm. Ngày 20/11 lại được biết đến như ngày tri ân đối với các thầy cô giáo, những người đã dốc hết tâm trí và tài năng của mình để mang kho tàng tri thức đến với các học sinh. Ngày 22 tháng 12 lại là ngày Quân đội nhân dân để thể hiện sự biết ơn đối với những người làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Ngày 8 tháng 3, 20 tháng 10 là những ngày chúng ta tri ân những người phụ nữ Việt Nam, những người bà, những người mẹ, những chị gái, những em gái... đã hi sinh cả cuộc đời để trở thành hậu phương vững chắc của mỗi gia đình... Còn nhiều, nhiều những công việc, những con người nữa chưa được nhớ mặt đặt tên, chưa có cho mình một ngày kỉ niệm. Vậy chúng ta hãy thể hiện sự biết ơn của mình đối với họ trong những ngày bình thường nhất, cho những con người phi thường nhất. Câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” là một bài học quý giá đối với mỗi con người. Chúng ta là những học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, những thế hệ tương lai của đất nước, hãy nhắc nhở nhau cùng giữ gìn, phát huy những truyền thống tốt đẹp này của đất nước để nó trở thành một nét đẹp trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam.
Giải thích Ăn quả nhớ kẻ trồng cây - mẫu 12
Ông cha ta có câu: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” để nhắc nhở con cháu phải giữ gìn truyền thống quý giá của dân tộc. Về nghĩa đen, đầu tiên cần hiểu “quả” là một sản phẩm của cây, có được nhờ sự chăm sóc của người nông dân. “Kẻ trồng cây” là người đã vun trồng, chăm bón cho cây ấy tốt tươi, tạo được hoa thơm, quả ngọt. Đó chính là người đã tạo ra các thành quả lao động, đem đến sự hữu ích cho cuộc sống này. Hành động “ăn” là đón nhận, là hưởng thụ, quả là kết quả, thành quả tốt đẹp có ích ở đời. Khi ta ăn một trái cây nào đó thì ta phải nhớ đến người trồng cây tạo quả. Người ăn quả là người đón nhận thành quả tốt đẹp đó. Câu tục ngữ khuyên ta khi thụ hưởng hay đón nhận được thành quả lao động của người khác làm cuộc sống ta tốt đẹp hơn, làm cho ta hạnh phúc thì phải biết ơn người đem lại thành quả ấy, hạnh phúc ấy cho mình. Trong cuộc sống, những thành quả có được là nhờ sức lao động bền bỉ của con người. Như hoa thơm, quả ngọt trên cành, dẫu có tự nhiên nhưng thơm ngọt là nhờ có sự vun xới của con người. Người trồng cây là người gieo giống vun trồng đổ mồ hôi công sức để cây ra hoa kết trái. Không có người trồng cây thì không có cây xanh, không có trái ngọt. Từ trồng cây đến khi cây có trái là một quá trình lâu dài đầy vất vả, gian nan của người trồng cây. Vì vậy khi được ăn quả thì người ăn quả không thể không nhớ người trồng cây. Vậy nên những người ăn quả là người hưởng thụ, được sử dụng thành quả do người khác tạo ra thành quả mang lại mà bản thân họ không phải tốn công sức thì khi sử dụng các thành quả đó, ta không thể không nhớ ơn người đã làm ra thành quả cho ta hưởng. Biết ơn người đã cho ta điều tốt đẹp là lối sống phù hợp với đạo lý làm người của dân tộc. Ngược lại khi được hưởng thành quả lao động hay có được hạnh phúc do người khác đem lại mà ta không biết đến sự đền ơn đáp nghĩa là trái đạo lí, trở thành kẻ vô ơn, bạc nghĩa nhất định phải lên án. Chúng ta cần có những hành động cụ thể để bộc lộ lòng biết ơn. Trước hết phải biết kính trọng và biết ơn những người đã tạo ra thành quả cho ta hưởng thụ. Đồng thời phải quý trọng sức lao động của con người. Không phung phí, làm tổn hại, thất thoát những giá trị lao động của bản thân và của người khác. Học cách quý trọng các thành quả mình được hưởng, đồng thời phải phát huy hiệu quả của các thành quả đó trong quá trình sử dụng. Ngoài việc biết hưởng thụ ra ta còn phải biết giữ gìn và bảo vệ thành quả đó sao cho xứng đáng là người kế tục và cũng có trách nhiệm gieo giống vun trồng cây cho các thế hệ mai sau. Đồng thời, chúng ta cần quyết liệt phê phán những thái độ sai trái vô ơn, bạc nghĩa, sử dụng lãng phí hay phá hoại thành quả có ích và coi thường những người có công với nhân dân, với tổ quốc. Như vậy “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” là một bài học đạo đức sâu sắc, một lời khuyên chân thành có tính giáo dục cao đối với mọi thế hệ.
Giải thích Ăn quả nhớ kẻ trồng cây - mẫu 13
Những câu tục ngữ luôn gửi gắm những bài học sâu ý nghĩa về cuộc sống. Và câu “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” cũng vậy. Câu tục ngữ đã khuyên nhủ con người về bài học của sự biết ơn. Câu tục ngữ được lí giải theo hai nét nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng. Về nghĩa đen, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” muốn nhắc nhở con người rằng khi được thưởng thức hoa thơm quả ngọt, hãy nhớ đến người đã có công vun trồng, chăm sóc cây cối. Còn về nghĩa bóng, câu tục ngữ đã thể hiện một nét truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Từ xưa đến nay, nhân dân ta luôn ghi nhớ công ơn thế hệ đi trước - những người có công ơn xây dựng và phát triển quê hương, đất nước. Đó cũng là lời nhắn nhủ của ông cha với con cháu ngày hôm nay, khi được hưởng bất cứ thành quả nào cũng cần nhớ đến người đã làm ra nó. Nhờ vậy chúng ta biết trân trọng những thành quả đó hơn. Những hành động thể hiện sự biết ơn sẽ thể hiện nhân cách tốt đẹp của con người. Không chỉ vậy, những người như vậy sẽ nhận được tình cảm yêu thương, trân trọng từ những người xung quanh. Trong cuộc sống hôm nay, chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều hành động đẹp đó. Những chuyến thăm và tặng quà các thương binh, giúp đỡ những bà mẹ Việt Nam anh hùng, lễ tưởng niệm các liệt sĩ. Nhiều bạn trẻ sau khi đi du học trở về quê hưởng để phát triển sự nghiệp. Nhiều doanh nghiệp tích cực sáng tạo trong sản xuất, đưa sản phẩm của Việt Nam vào thị trường quốc tế được đón nhận. Đặc biệt thái độ kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của đất nước - thứ mà ông cha chúng ta đã phải đánh đổi cả xương máu để giành được… Trong hoàn cảnh hiện tại, đất nước đang phải đối mặt với đại dịch Covid-19, sự biết ơn lại càng trở nên quan trọng. Lòng biết ơn dành trước sự quan tâm của Đảng và Nhà nước. Sự tri ân dành cho các bác sĩ nơi tuyến đầu chống dịch… Tất cả đã thể hiện nét đẹp của người dân Việt Nam. Nhờ có lòng biết ơn mà chúng ta biết trân trọng cuộc sống hơn. Từ đó, mỗi người sẽ trở nên sống tích cực hơn, cố gắng để trở thành người có ích cho xã hội. Vậy mà có những con người lại sống vô ơn, bội bạc. Trong quá khứ, đó có thể là những kẻ bán nước để cầu vinh. Họ sẵn sàng phản bội đất nước nhân dân để có được cuộc sống giàu sang, no đủ. Còn ở hiện tại, nhiều bạn trẻ có lối sống ăn chơi, sa ngã vào các tệ nạn xã hội… Bởi vậy, mỗi bạn trẻ hôm nay hãy luôn trân trọng những điều tốt đẹp mà mình đang được hưởng. Có thể khẳng định, câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” đã đem một bài học đáng trân trọng. Sự biết ơn sẽ giúp con người biết trân trọng cuộc sống và sống tốt đẹp hơn mỗi ngày.
Giải thích Ăn quả nhớ kẻ trồng cây - mẫu 14
Con người sống luôn phải có lòng biết ơn. Bởi vậy mà ông cha ta đã có câu: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” để khuyên nhủ con người về điều đó. Xét về nghĩa đen, chúng ta được thưởng thức hoa thơm, quả ngọt cần phải nhớ tới công lao của người gieo trồng. Còn xét về nghĩa bóng, câu tục ngữ nhắc nhở con người sống cần có lòng biết ơn. Khi được hưởng một thành quả nào đó, cần phải ghi nhớ công lao của những người đã tạo ra nó, trân trọng thành quả mình đang được hưởng. Dân tộc Việt Nam đã trải qua những ngày tháng đấu tranh để bảo vệ đất nước. Chúng ta đang được sống trong tháng ngày của hòa bình, tự do. Nhưng điều đó đánh đổi bằng xương máu của biết bao con người - thế hệ đi trước. Bởi vậy, mỗi người cần sống sao cho xứng đáng với công ơn đó. Nếu đặt vào hoàn cảnh hôm nay, khi cuộc sống ngày càng phát triển, sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Nếu nhận được sự giúp đỡ từ những người xung quanh, chúng ta cần phải thể hiện sự biết ơn đối với họ. Dù chỉ là một lời “cảm ơn” nhưng đã thể hiện được giá trị của bản thân. Nhờ có lòng biết ơn, chắc hẳn mỗi người sẽ thêm trân trọng cuộc sống này hơn. Từ đó, chúng ta sẽ cố gắng để trở thành người có ích cho xã hội. Đối với học sinh, lòng biết ơn thể hiện qua những hành động đơn giản như kính trọng người lớn tuổi, chăm chỉ học tập, giúp đỡ bố mẹ việc nhà, lễ phép với thầy cô giáo… Bên cạnh đó, nhiều người có lối sống vô ơn. Họ không biết trân trọng cuộc sống của bản thân, sống tiêu xài hoang phí hoặc lãng phí cuộc đời của chính mình… Đó là cách sống đáng lên án, cần phải tránh xa. Học sinh cần có lòng biết ơn sẽ giúp chúng ta trở nên tốt đẹp hơn, biết trân trọng mọi thứ xung quanh, để cố gắng học tập và trau dồi bản thân. Câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” đem đến một lời khuyên quý giá. Mỗi người cần có lòng biết ơn để cuộc sống thêm giá trị hơn.
Giải thích Ăn quả nhớ kẻ trồng cây - mẫu 15
Việt Nam là một dân tộc giàu truyền thống tốt đẹp. Điều đó đã được thể hiện qua những lời khuyên nhủ của ông cha ta trong những câu ca dao, tục ngữ. Một trong số đó là câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Câu tục ngữ có hai lớp nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng. Xét về nghĩa đen, “quả” là bộ phận của cây, do bầu nhuỵ hoa phát triển thành, bên trong thường chứa hạt. “Kẻ trồng cây” là người đã vun trồng, chăm bón cho cây ấy tốt tươi, tạo ra hoa thơm, quả ngọt. Hành động “ăn” là thưởng thức, hưởng thụ trái ngọt. Như vậy, khi chúng ta ăn một trái cây nào đó thì ta phải nhớ đến người trồng cây tạo quả. Xét đến nghĩa bóng, câu tục ngữ khuyên ta khi thụ hưởng hay đón nhận được thành quả lao động của người khác làm cuộc sống ta tốt đẹp hơn, làm cho ta hạnh phúc thì phải biết ơn người đem lại thành quả ấy, hạnh phúc ấy cho mình. Đó chính là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay. Bất kì những thành quả nào có được cũng từ quá trình lao động vất vả của con người. Bởi vậy là người được hưởng những thành quả đó, chúng ta cần bày tỏ tấm lòng biết ơn, thể hiện sự trân trọng và sử dụng một cách tiết kiệm, hợp lý. Từ trong quá khứ hào hùng của dân tộc Việt Nam, ông cha ta vẫn luôn sống trọng ơn nghĩa. Điều đó được thể hiện qua việc thờ cúng tổ tiên, lập đền thờ những bậc anh hùng có công với đất nước… Còn ở hiện tại, truyền thống đó vẫn được giữ gìn và phát huy. Những ngày lễ lớn như 20 tháng 11, mùng 8 tháng 3, 27 tháng 7 nhằm tri ân những con người, những ngành nghề đã có những đóng góp với xã hội. Hay như trong đại dịch Covid-19 vừa qua, tấm lòng biết ơn được thể hiện qua hành động tri ân với các y bác sĩ - “những chiến sĩ tuyến đầu” của nhiệm vụ chống dịch… Đôi khi, sự biết ơn thể hiện qua những hành động rất nhỏ bé. Đó chính là sự hiếu thảo với ông bà cha mẹ: “Công cha như núi Thái SơnNghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy raMột lòng thờ mẹ kính chaCho tròn chữ hiếu mới là đạo con” Cũng như sự kính trọng thầy cô giáo - họ không chỉ đem lại cho chúng ta vốn tri thức quý giá mà còn cả những bài học làm người sâu sắc. Sự trân trọng dành cho bạn bè - những người luôn ở bên giúp đỡ, tâm sự chúng ta. Hoặc sự coi trọng sách vở - sản phẩm kết tinh những tri thức của nhân loại… Tất cả những hành động đó, tuy nhỏ bé nhưng lại chứa đựng những ý nghĩa lớn lao trong cuộc sống. Bên cạnh đó, vẫn có không ít những người sống vô ơn. Trong quá khứ, đó có thể là những kẻ bán nước để cầu vinh. Họ sẵn sàng phản bội đất nước nhân dân để có được cuộc sống giàu sang, no đủ. Còn ở hiện tại, nhiều bạn trẻ có lối sống ăn chơi, sa ngã vào các tệ nạn xã hội… Tất cả những hành vi này đều đáng lên án. Có ai đó đã từng nói rằng: “Lòng biết ơn không chỉ là đức tín vĩ đại nhất mà còn là khởi nguồn của mọi đức tính tốt đẹp khác”. Quả đúng như vậy mà ông cha ta mới để lại lời khuyên sâu sắc cho con cháu qua câu tục ngữ trên.
Giải thích Ăn quả nhớ kẻ trồng cây - mẫu 16
Một trong những cách sống tốt đẹp của con người Việt Nam đó là lòng biết ơn. Điều đó đã được ông cha ta khuyên nhủ qua câu “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Câu tục ngữ đã gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ sâu sắc. Những lời khuyên của thế hệ đi trước luôn giàu ý nghĩa sâu sắc. Câu tục ngữ mang nghĩa đen và nghĩa bóng. Xét về nghĩa đen, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” nhắc nhở con người khi được thưởng thức một loại quả nào đó cần nhớ đến những người nông dân đã vất vả vun trồng, chăm bón cây cối để tạo ra được những hoa thơm trái ngọt đó. Còn xét về nghĩa bóng, câu tục ngữ muốn khuyên nhủ chúng ta khi được hưởng một thành quả nào đó, cần phải biết ơn những người đã tạo ra nó, từ đó mà trận trọng thành quả mà mình được hưởng. Có rất nhiều câu ca dao, tục ngữ cùng quan điểm với câu tục ngữ trên. Đó có thể là bài ca dao: “Cày đồng đang buổi ban trưa,Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.Ai ơi bưng bát cơm đầyDẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần” Hay câu tục ngữ: “Uống nước nhớ nguồn”... đều là lời khuyên về sự biết ơn trong cuộc sống. Chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều những hành động thể hiện sự biết ơn. Những chuyến thăm và tặng quà các thương binh, giúp đỡ những bà mẹ Việt Nam anh hùng, lễ tưởng niệm các liệt sĩ… Ngay cả những hành động vô cùng đơn giản như lễ phép với ông bà cha mẹ, kính trọng thầy cô giáo, cố gắng học tập tốt… cũng thể hiện được sự biết ơn. Nhờ có sự biết ơn mà mỗi người sẽ biết trân trọng cuộc sống của mình hơn. Họ sẽ cố gắng trở thành những người sống có ích cho xã hội. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần lên án những người có thái độ sống vô ơn. Những con người như vậy sẽ chỉ ngày càng sống xa rời với cộng đồng, rơi vào sự cô đơn. Dù họ có thành công nhưng cũng sẽ không được mọi người công nhận, yêu thương. Như vậy, câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” đã đem đến cho chúng ta một lời răn dạy sâu sắc. Con người cần có lòng biết ơn để có thể hướng đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Giải thích Ăn quả nhớ kẻ trồng cây - mẫu 17
Dân tộc Việt Nam ta là một dân tộc có lịch sử lâu đời, giàu truyền thống văn hóa và đạo lý tốt đẹp, đại diện cho truyền thống đó là kho tàng các câu ca dao, thành ngữ, tục ngữ về đạo lý làm người. Một trong những câu tục ngữ nói về đạo lý ơn nghĩa của nhân dân ta từ xưa đến nay luôn được lưu truyền đó là câu “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Các câu tục ngữ của nhân dân ta thường mang đặc điểm ngắn gọn, xúc tích, dễ hiểu, sử dụng hình ảnh gần gũi, quen thuộc. Và trong câu "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" cũng vậy, hình ảnh "ăn quả", "trồng cây" rất giản dị và mộc mạc. Nghĩa đen của câu tục ngữ chính là nhắc nhở con người ta khi ăn quả phải nhớ đến kẻ đã có công trồng cây, không có kẻ trồng cây làm sao có cây, có quả mà ăn, ví dụ như ăn xoài nhớ kẻ đã trồng xoài cho ta ăn. Mở rộng ra, "quả" ở đây chính là thành quả, thành tựu, "ăn quả" chính là hưởng thụ thành quả ấy, khi đó ta phải nhớ đến công lao của những "kẻ trồng cây" - những người đã bỏ ra công sức, mồ hôi nước mắt thậm chí cả xương máu để có được thành quả đó. Đó chính là đạo lý ơn nghĩa tốt đẹp, phải ghi nhớ và biết ơn những người đã giúp đỡ ta trong lúc khó khăn, người mang lại cho ta những điều quý giá trong cuộc sống. Câu tục ngữ nhắc nhở con người chúng ta sống phải đề cao ơn nghĩa, phải biết đến cội nguồn, nguồn gốc của mình. Ai cũng có cha có mẹ, nhờ có cha mẹ sinh ta ra mà mới có ta trên cuộc đời, không có cha mẹ mãi mãi không có sự tồn tại của ta. Sống làm người mà không biết đến ơn nghĩa mẹ cha thì thực không đáng sống! Thời xưa, ông cha ta đã luôn coi trọng, gìn giữ và bảo vệ truyền thống này qua các nghi lễ, tập tục thờ cúng, ví dụ như tục thờ cúng ông bà tổ tiên, cha mẹ đã mất, điển hình như truyền thống giỗ Tổ Hùng Vương vào ngày mùng 10 tháng ba âm lịch hàng năm để nhớ về công lao dựng nước của các vua Hùng. Bên cạnh đó còn có các nghi lễ cúng cảm tạ thần linh, tạ ơn trời đất một năm mưa thuận gió hòa cho người dân một vụ mùa bội thu... Ngày nay, truyền thống "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" đã ngày càng được phát huy trên nhiều phương diện và mọi mặt đời sống, ví dụ như chúng ta có các ngày lễ kỷ niệm như: ngày Nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11 để nhớ về công ơn giáo dục của các thầy cô, ngày Thương binh liệt sĩ 27 tháng 7 để nhớ về những người anh hùng chiến đấu hi sinh mang lại nền độc lập cho dân tộc... Gắn liền với các ngày nghỉ lễ là những hoạt động đền ơn đáp nghĩa được diễn ra, như tổ chức đi thăm hỏi thầy cô, thăm hỏi và trao quà cho bà mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình có liệt sĩ, thương binh. Như vậy, câu tục ngữ "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" đã không chỉ nhắc nhở chúng ta về một truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà còn là bài học làm người, bài học về sự biết ơn, nhắc nhở mỗi con người đều phải ghi nhớ, rèn luyện lòng biết ơn của mình. Bởi biết ơn chính là một trong những tiêu chí đầu tiên trong thước đo đánh giá phẩm chất và đạo đức con người.
Giải thích Ăn quả nhớ kẻ trồng cây - mẫu 18
Từ xưa đến nay, ông cha vẫn thường căn dặn chúng ta sống phải biết ơn, tôn trọng những người đã tạo ra thành quả cho ta hưởng. Điều đó thể hiện rõ trong câu tục ngữ: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Câu tục ngữ như một lời khuyên đối với chúng ta. Xét về nghĩa đen, “quả” là cái thơm ngon nhất của cây, kết tinh sự tinh khiết qua thời gian. Vì vậy khi ăn một trái quả thơm ngon thì ta phải nhớ tới những người đã trồng ra cây đó. Nhưng ý nghĩa sâu xa của câu tục ngữ lại muốn khuyên chúng ta khi được hưởng một thành quả nào đó thì phải nhớ ơn những người đã tạo ra thành quả ấy. “Ăn quả” là hình ảnh nói về những người hưởng thành quả, còn “trồng cây” là hình ảnh nói về những người làm ra thành quả cho người hưởng thụ. Vậy vì sao “ăn quả” phải nhớ “kẻ trồng cây”? Vì tất cả những thành quả mà chúng ta đang hưởng thụ không phải tự nhiên mà có được. Những thành quả đó là mồ hôi, nước mắt, công sức, trí tuệ và cả xương máu của biết bao lớp người tạo nên để đem lại cuộc sống hạnh phúc cho chúng ta. Đã bao giờ ta tự hỏi: Tại sao ta lại có mặt trên đời này? Đó là công ơn của cha mẹ. Cha mẹ luôn ở bên cạnh ta ngay cả những lúc ta buồn vui, san sẻ, nuôi dưỡng những ước mơ của chúng ta. Còn thầy cô giáo là những người cha, người mẹ thứ hai luôn gần gũi chỉ bảo, mở ra cho chúng ta những kho tàng kiến thức của nhân loại, để rồi chắp cánh ước mơ cho chúng ta. Bên cạnh đó, công ơn của các chú bộ đội, các cô thanh niên xung phong cũng rất to lớn. Không có họ, làm sao chúng ta được hưởng sự bình yên, hạnh phúc như ngày hôm nay, được cắp sách tới trường vui đùa với bạn bè. Rồi những người công nhân, kĩ sư, bác sĩ không tiếc mồ hôi, công sức, trí tuệ lao động của mình. Họ đều là những người dám hi sinh cuộc đời mình để cống hiến cho đất nước. Chúng ta phải nhớ ơn họ, vì đây là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta từ bao đời nay: “Uống nước nhớ nguồn”, “Chim có tổ, người có tông”. Hiểu vấn đề trên ta phải hành động như thế nào ? Hằng năm, nhà nước ta vẫn luôn nhớ đến công ơn của những người đã tạo ra thành quả cho chúng ta được hưởng thụ, điều đó rất hợp với tình người. Đối với cha mẹ, cũng có những người con hết lòng thương yêu, kính trọng cha mẹ vì họ hiểu cha mẹ chính là người tạo ra cuộc sống cho họ ngày hôm nay. Thật đúng với lời khuyên của câu tục ngữ. Chúng ta, mỗi người ai cũng cần phải có ý thức bảo vệ và phát huy đạo lí đó. Thực hiện tốt bổn phận làm con trong gia đình, bổn phận người học trò trong nhà trường, biết ơn những thế hệ đi trước là những điều chúng ta phải ghi nhớ. Câu tục ngữ đã để lại một bài học thật quý giá. Chúng ta những học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường cần chăm chỉ học tập để giữ gìn những thành quả mà ông cha đã tạo dựng và luôn nhắc nhở nhau sống theo đạo lí tốt đẹp mà câu tục ngữ đã dạy.
Giải thích Ăn quả nhớ kẻ trồng cây - mẫu 19
Từ xưa đến nay, ông cha ta luôn để lại những câu ca dao, tục ngữ gửi gắm những lời dạy, khuyên răn con cháu nên biết hành xử, biết đối nhân xử thế, những mẹo hay trong trồng trọt, chăn nuôi mà ông cha ta đã tổng kết rút kinh nghiệm. Dù chỉ là những câu tục ngữ ngắn gọn, súc tích nhưng nó lại ẩn chứa biết bao nhiêu hàm ý sâu xa. Cũng giống như câu tục ngữ: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Câu tục ngữ này chỉ với sáu từ nhưng những điều răn dạy mà ông cha ta đã dạy thì nó sẽ được lưu truyền mãi mãi với thời gian. Không có tác giả rõ ràng, không biết nó xuất hiện vào thời gian nào, nhưng mỗi chúng ta khi đi học hay ngoài thực tế cuộc sống đều thường xuyên nghe câu tục ngữ này. Nếu giải thích theo đúng nghĩa đen của câu tục ngữ, thì nôm na có thể hiểu rằng, mỗi loại quả, mỗi loại trái cây khi chúng ta ăn đều có mồ hôi, công sức của những người nông dân, đã một nắng hai sương, đã bán mặt cho đất bán lưng cho trời để tạo ra sản phẩm của ngày hôm nay. Còn về nghĩa bóng, trong sự phát triển của xã hội hiện đại, thì bất kỳ những gì mà chúng ta đang có đều có những người đã phải bỏ công, bỏ sức ra để ta có được những thành quả như ngày hôm nay. Đó là trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, biết bao nhiêu chiến sĩ đã ngã xuống, bao nhiêu người đã nằm lại để ta có một cuộc sống tốt đẹp như ngày hôm nay. Để bạn được sinh ra và lớn lên trong một xã hội hòa bình, những hình ảnh quá khứ dù có tái hiện lại thì trong chúng ta chắc hẳn cũng không thể nào hình dung ra hết được. Chính vì vậy hãy biết ơn và luôn nhớ tới những vị anh hùng, những chiến sĩ đã sẵn sàng hy sinh để mang lại cuộc sống tốt đẹp cho chúng ta như bây giờ. Không chỉ là với quốc gia, dân tộc, nó còn là sự biết ơn công ơn dưỡng dục của cha mẹ, ông bà tổ tiên, là chính những người đã sinh ra chúng ta. Bố mẹ sinh ra và nuôi dạy chúng ta lên người. Vì vậy, chúng ta phải luôn biết ơn cha mẹ. Không được làm cho cha mẹ hay ông bà phiền lòng. Luôn nỗ lực phấn đấu không ngừng để mỗi chúng ta có thể xây dựng một xã hội phát triển lớn mạnh hơn nữa.