title
stringlengths
1
250
url
stringlengths
37
44
text
stringlengths
1
4.81k
Hà Nội
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=80
Thời phong kiến, thành Thăng Long từng là đề tài của nhiều bài thơ như "Long thành cầm giả ca" của Nguyễn Du hay "Thăng Long thành hoài cổ" của Bà Huyện Thanh Quan. Ba nhà văn thường được nhắc đến khi nói về đề tài Hà Nội trong văn học là Nguyễn Tuân, Vũ Bằng và Thạch Lam. Nguyễn Tuân, người sinh ra và lớn lên trong môi trường nho giáo, thất vọng bởi cuộc sống trong xã hội "kim khí" xô bồ, thường tìm về những giá trị cũ. Bóng dáng Hà Nội trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là những thú chơi của các bậc tao nhân mặc khách trong "Vang bóng một thời" như thưởng trà, thả thơ, đánh thơ, hát ca trù... Vũ Bằng lại qua những trang viết, như "Miếng ngon Hà Nội" và "Thương nhớ mười hai", thể hiện nỗi nhớ và tình yêu Hà Nội, ca ngợi sự tinh tế của các món ăn, khung cảnh thiên nhiên, đất trời, cảnh vật, con người, văn hóa của thành phố. Thạch Lam được biết đến qua tập bút ký "Hà Nội 36 phố phường". Tác phẩm của Thạch Lam thể hiện sự thương xót trước những người nghèo khó, miêu tả hương vị của những món quà quê, những tiếng rao... tất cả những thứ tạo nên văn hóa Hà Nội. Nhiều nhà văn khác cũng có các tác phẩm về thành phố này như "Phố" của Chu Lai, "Sống mãi với thủ đô" của Nguyễn Huy Tưởng. Bảo Ninh trong "Nỗi buồn chiến tranh" cũng dành nhiều trang viết về Hà Nội. Điện ảnh và truyền hình. Hình ảnh Hà Nội xuất hiện rất nhiều trên cả màn ảnh lớn và màn ảnh nhỏ. Sau khi được giải phóng vào năm 1954, không ít những bộ phim của điện ảnh cách mạng đã nói về Hà Nội, trong đó có thể đến đến "Giông tố", "Sao tháng Tám", "Hà Nội mùa đông năm 1946", "Em bé Hà Nội", "Phía bắc Thủ đô", "Tiền tuyến gọi". "Em bé Hà Nội", tác phẩm của đạo diễn Hải Ninh, khắc họa cuộc sống của Hà Nội trong thời gian quân đội Hoa Kỳ ném bom miền Bắc đã giành Bông sen vàng tại Liên hoan phim Việt Nam năm 1975 và giải đặc biệt của ban giám khảo LHP Liên hoan phim Moskva cùng năm đó.
Hà Nội
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=80
Sau khi Việt Nam thống nhất, một số bộ phim điện ảnh khai thác đề tài về lớp thanh niên sống ở Hà Nội thời kỳ sau chiến tranh, như "Tuổi mười bảy", "Những người đã gặp", "Hãy tha thứ cho em", "Cách sống của tôi", "Hà Nội mùa chim làm tổ". Dưới thời bao cấp, bộ phim tài liệu của đạo diễn Trần Văn Thủy "Hà Nội trong mắt ai" đã trở thành tác phẩm tiêu biểu cho không khí của giai đoạn nhưng cũng từng vấp phải không ít tranh cãi ở khâu kiểm duyệt. Kể từ năm 1990, trong suốt một thập niên, phim về Hà Nội dường như vắng bóng trên màn ảnh của điện ảnh Việt Nam. Năm 2000, đạo diễn Việt kiều Trần Anh Hùng về Việt Nam sản xuất "Mùa hè chiều thẳng đứng", một bộ phim chính kịch, xoay quanh cuộc sống của ba chị em gái với bối cảnh Hà Nội. Để chuẩn bị cho lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, nhiều nhà làm phim Việt Nam đã sản xuất một vài bộ phim về đề tài này. Hội họa. Trong hội họa, họa sĩ Bùi Xuân Phái là một trong những người thành công và gắn bó nhất với Hà Nội. Trong tranh của Bùi Xuân Phái, Hà Nội mang đầy vẻ xưa cũ với những ngôi nhà mái nâu, những con phố nhỏ. Những bức vẽ về phố cổ Hà Nội của Bùi Xuân Phái ngày nay thường được biết đến với tên gọi "Phố Phái". Ngoài ra, còn có một số họa phẩm của các họa sĩ khác vẽ về người Hà Nội đã đi vào lịch sử như "Thiếu nữ bên hoa huệ" của Tô Ngọc Vân, "Em Thúy" của Trần Văn Cẩn, "Tan ca mời chị em ra họp thi thợ giỏi" của Nguyễn Đỗ Cung. Giao thông. Là thành phố thủ đô và có vị trí ở khu vực trung tâm của miền Bắc, bên cạnh con sông Hồng, giao thông từ Hà Nội đến các tỉnh khác của Việt Nam tương đối thuận tiện, bao gồm cả đường không, đường bộ, đường thủy và đường sắt. Giao thông đường không, ngoài sân bay quốc tế Nội Bài cách trung tâm khoảng 35 km, thành phố còn có sân bay Gia Lâm ở phía Đông, thuộc quận Long Biên, từng là sân bay chính của Hà Nội những năm 1970, hiện sân bay Gia Lâm chỉ phục vụ cho các chuyến bay dịch vụ của trực thăng, gồm cả dịch vụ du lịch.
Hà Nội
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=80
Bên cạnh đó là sân bay Bạch Mai thuộc quận Thanh Xuân được xây dựng từ năm 1919 và có thời gian đóng vai trò như một sân bay quân sự. Ngoài ra, Hà Nội còn có sân bay quân sự Hòa Lạc tại huyện Thạch Thất, sân bay quân sự Miếu Môn tại huyện Chương Mỹ. Hà Nội là đầu mối giao thông của năm tuyến đường sắt trong nước và một tuyến liên vận sang Bắc Kinh, Trung Quốc, đi nhiều nước châu Âu, một tuyến quốc tế sang Côn Minh, Trung Quốc. Các bến xe Phía Nam, Gia Lâm, Nước Ngầm, Giáp Bát, Yên Nghĩa, Mỹ Đình là nơi các xe chở khách liên tỉnh tỏa đi khắp đất nước theo các Quốc lộ 1 xuyên Bắc – Nam và rẽ Quốc lộ 21 đi Nam Định, Quốc lộ 2 đến Hà Giang, Quốc lộ 3 đến Bắc Kạn, Cao Bằng, Thái Nguyên; Quốc lộ 5 đi Hải Phòng, Quốc lộ 17 đi Quảng Ninh, Quốc lộ 6 và Quốc lộ 32 đi các tỉnh Tây Bắc. Hà Nội có nhiều tuyến đường cao tốc trên địa bàn như Đại lộ Thăng Long, Pháp Vân – Cầu Giẽ, Hà Nội – Bắc Giang, Hà Nội – Hải Phòng, Nội Bài – Lào Cai, Hà Nội – Thái Nguyên, Hà Nội – Hòa Bình, được xây dựng và hoàn thành nhằm kết nối nhanh chóng, thuận tiện thủ đô với các tỉnh. Về giao thông đường thủy, Hà Nội cũng là đầu mối giao thông quan trọng với bến Phà Đen đi Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình, Việt Trì và bến Hàm Tử Quan đi Phả Lại. Trong nội ô, các con phố của Hà Nội thường xuyên ùn tắc do cơ sở hạ tầng đô thị còn thấp kém, lượng phương tiện tham gia giao thông quá lớn – đặc biệt là xe máy –, và ý thức chưa tốt của các cư dân thành phố. Lại thêm khâu xử lý vi phạm giao thông của cảnh sát giao thông hiện nay chưa nghiêm, việc quản lý nhà nước và tổ chức giao thông còn nhiều bất cập, luôn thay đổi tùy tiện. Giáo sư Seymour Papert – nhà khoa học máy tính từ Viện Công nghệ Massachusetts bị tai nạn ở Hà Nội vào cuối năm 2006 – đã miêu tả giao thông của thành phố như một ví dụ minh họa cho giả thuyết về "hành vi hợp trội", phương thức mà các đám đông, tuân theo các nguyên tắc đơn giản và không cần sự lãnh đạo, tạo ra các vận động và hệ thống phức tạp.
Hà Nội
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=80
Trên những đường phố Hà Nội, vỉa hè thường bị chiếm dụng khiến người đi bộ phải đi xuống lòng đường. Trong những năm gần đây, Hà Nội chỉ phát triển thêm 5 tới 10 km đường mỗi năm. Nhiều trục đường của thành phố thiết kế chưa khoa học, không đồng bộ và hệ thống đèn giao thông ở một vài điểm cũng thiếu hợp lý. Thêm nữa, hiện tượng ngập úng mỗi khi mưa lớn cũng gây khó khăn cho người tham gia giao thông. Trong thập niên 2000, hệ thống xe buýt – loại hình phương tiện giao thông công cộng duy nhất – của thành phố có phát triển mạnh, nhưng phần đông người dân vẫn sử dụng các phương tiện cá nhân, chủ yếu là xe máy. Theo quy hoạch giao thông Hà Nội được Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng phê duyệt năm 2008, chi phí cho phần phát triển đường bộ lên tới 100.000 tỷ đồng. Ba tuyến đường vành đai, 30 tuyến đường trục chính cùng nhiều tuyến phố sẽ được xây dựng mới hoặc cải tạo lại. Cho đến cuối năm 2011, Hà Nội có 7.365 km đường giao thông, trong đó 20% là trục đường chính, 7 trục hướng tâm và 3 tuyến vành đai, cũng như đang quản lý hơn 4,3 triệu phương tiện giao thông các loại, trong đó riêng xe máy chiếm gần 4 triệu. Vinh danh. Tên gọi của thành phố cũng được sử dụng cho nhiều loài sinh vật : Tên Hà Nội còn được đặt cho tiểu hành tinh 7816 Hanoi phát hiện năm 1987 có đường kính gần 3 km.
Campuchia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=81
Campuchia (tiếng Khmer: កម្ពុជា, "Kămpŭchéa", IPA: [kɑmpuˈciə]), tên chính thức là Vương quốc Campuchia (tiếng Khmer: ព្រះរាជាណាចក្រកម្ពុជា, "Preăhréachéanachăk Kămpŭchéa"), còn có tên gọi khác là Khao Mên hoặc Cao Mên (sau khi cải cách chữ viết, trong các văn bản người Việt ghi sai thành "Cao Miên") và Cam Bốt (bắt nguồn từ tên tiếng Pháp "Cambodge"), là một quốc gia độc lập có chủ quyền nằm trên bán đảo Đông Dương ở vùng Đông Nam Á. Campuchia giáp với vịnh Thái Lan ở phía tây nam, Thái Lan ở phía tây bắc, Lào ở phía đông bắc và Việt Nam ở phía đông. Campuchia có dân số hơn 15 triệu người. Phật giáo là quốc giáo chính thức và được hơn 97% dân số thực hành. Các nhóm dân tộc thiểu số của Campuchia bao gồm người Việt, người Hoa, người Chăm và 30 bộ tộc trên đồi núi. Thủ đô và thành phố lớn nhất là Phnôm Pênh, là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của Campuchia. Campuchia theo chế độ quân chủ lập hiến theo hình thức tuyển cử, đứng đầu là quốc vương, hiện là Norodom Sihamoni, được Hội đồng Tôn vương lựa chọn làm nguyên thủ quốc gia. Người đứng đầu chính phủ là Thủ tướng Hun Manet. Năm 802 sau Công nguyên, Jayavarman II tự xưng là vua, thống nhất các hoàng tử Khmer đang tham chiến ở Chân Lạp với tên gọi "Kambuja". Điều này đánh dấu sự khởi đầu của Đế chế Khmer, phát triển mạnh mẽ trong hơn 600 năm, cho phép các vị vua kế tiếp kiểm soát và gây ảnh hưởng trên phần lớn Đông Nam Á, đồng thời tích lũy quyền lực và tài sản khổng lồ. Vương quốc Ấn Độ Dương đã tạo điều kiện cho việc truyền bá Ấn Độ giáo đầu tiên và sau đó là Phật giáo đến phần lớn Đông Nam Á và thực hiện nhiều dự án cơ sở hạ tầng tôn giáo khắp khu vực, bao gồm việc xây dựng hơn 1.000 ngôi đền và di tích chỉ riêng ở Angkor. Angkor Wat là công trình nổi tiếng nhất trong số những công trình kiến trúc này và được công nhận là Di sản Thế giới. Vào thế kỷ 15, sau cuộc nổi dậy của Ayutthaya, nơi trước đây thuộc quyền cai trị của Đế chế Khmer, Campuchia đã trải qua sự suy giảm quyền lực.
Campuchia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=81
Campuchia phải đối mặt với hai nước láng giềng ngày càng hùng mạnh, Ayutthaya của Thái Lan và triều Nguyễn của Việt Nam, và đánh dấu sự đi xuống của số phận Campuchia. Năm 1863, Campuchia trở thành một quốc gia bảo hộ của Pháp, và sau đó được hợp nhất thành Đông Dương thuộc Pháp. Campuchia giành độc lập từ Pháp năm 1953. Chiến tranh Việt Nam kéo dài sang cả nước này vào năm 1965 với việc mở rộng Đường mòn Hồ Chí Minh và thành lập Đường mòn Sihanouk. Điều này dẫn đến việc Mỹ ném bom Campuchia từ năm 1969 đến năm 1973. Sau cuộc đảo chính Campuchia năm 1970, thành lập Cộng hòa Khmer cánh hữu thân Mỹ, Quốc vương bị phế truất Sihanouk đã ủng hộ kẻ thù cũ của mình, Khmer Đỏ. Với sự ủng hộ của chế độ quân chủ và Bắc Việt Nam, Khmer Đỏ nổi lên thành một cường quốc, chiếm Phnôm Pênh vào năm 1975. Khmer Đỏ sau đó đã thực hiện chế độ diệt chủng Campuchia từ năm 1975 đến năm 1979, khi họ bị Việt Nam lật đổ và Cộng hòa Nhân dân Campuchia do Việt Nam hậu thuẫn, được Liên Xô hỗ trợ, trong Chiến tranh Campuchia - Việt Nam. Sau Hiệp định Hòa bình Paris năm 1991, Campuchia được một phái bộ của Liên Hợp Quốc điều hành trong mọt thời gian ngắn (1992–93). LHQ rút lui sau khi tổ chức bầu cử, trong đó khoảng 90% cử tri đã đăng ký bỏ phiếu. Cuộc chiến giữa các phe phái năm 1997 dẫn đến việc lật đổ chính phủ của Thủ tướng Hun Sen và Đảng Nhân dân Campuchia. Campuchia là thành viên của Liên Hợp Quốc từ năm 1955, ASEAN, Hội nghị cấp cao Đông Á, WTO, Phong trào Không liên kết và La Francophonie. Theo một số tổ chức nước ngoài, đất nước này có tình trạng nghèo đói phổ biến, tham nhũng tràn lan, thiếu tự do chính trị, chỉ số phát triển con người (HDI) ở mức thấp và tỷ lệ đói nghèo cao. Giám đốc Đông Nam Á của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, David Roberts, mô tả Campuchia là một "liên minh tương đối độc tài thông qua một nền dân chủ ở bề ngoài". Về mặt hiến pháp là một nền dân chủ tự do đa đảng, nhưng "trên thực tế" quốc gia này được quản lý theo chế độ độc đảng kể từ năm 2018.
Campuchia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=81
Trong khi thu nhập bình quân đầu người vẫn ở mức thấp so với hầu hết các nước láng giềng, Campuchia là một trong những nền kinh tế đang phát triển có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất ở châu Á, với mức tăng trưởng trung bình 7,6% trong thập kỷ qua. Nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế chủ đạo, với sự tăng trưởng mạnh mẽ của dệt may, xây dựng và du lịch dẫn đến đầu tư nước ngoài và thương mại quốc tế tăng. Liên Hợp Quốc xếp Campuchia vào nhóm các quốc gia kém phát triển nhất trên thế giới. Chỉ số Nhà nước về Pháp quyền năm 2015 của Dự án Tư pháp Thế giới (Hoa Kỳ) xếp Campuchia thứ 125 trên 126 quốc gia, thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác trong khu vực. Nguồn gốc tên gọi. Tên tiếng Khmer. Tên gọi "Kămpŭchéa" (កម្ពុជា) trong tiếng Khmer bắt nguồn từ tên gọi "Kambuja" của vương quốc ra đời năm 802, do vua Jayavarman II lập sau khi hợp nhất các hoàng tử Khmer của vương quốc Chenla đang gây chiến với nhau. Tên tiếng Việt. Tên gọi "Campuchia" trong tiếng Việt bắt nguồn từ tên gọi tiếng Khmer. Trước thế kỷ XX, người Việt gọi nước này là "Chân Lạp" (chữ Hán: 真臘), " Cao Miên" (高棉) hoặc "Cao Man" (高蠻). Một số dẫn liệu đã ghi là "Cao Mên" (phiên âm của từ Khmer) được dùng rộng rãi trong khẩu ngữ từ khoảng giữa thế kỉ XVII Sau khi cải cách chữ viết, người Việt ghi sai từ "Cao Mên" thành "Cao Miên". Nhưng đây là thông tin sai lệch, hai chữ Hán 高棉 có âm Hán-Việt là Cao (高) Miên (棉), không phải Cao Mên như một số nguồn dẫn, chữ 棉 không đọc là Mên mà là Miên trong âm Hán-Việt tiêu chuẩn. Tên gọi "Chân Lạp" được dùng để chỉ nước Campuchia thời hậu Angkor, ứng với thời các chúa Nguyễn tại Việt Nam. Nhưng thật ra Chân Lạp, tên nước và người, chỉ tồn tại từ thế kỷ VI và chấm dứt vào thế kỷ IX (802). Kế tiếp thời Chân Lạp là thời Angkor với Đế quốc Khmer kéo dài đến thế kỷ XV. "Cao Miên" là danh từ thường được dùng để chỉ các triều đại Campuchia hậu Chân Lạp cho đến ngày nay. Cao Miên có thể dùng để chỉ Đế quốc Khmer nói riêng, hoặc nước Campuchia hay người Campuchia nói chung.
Campuchia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=81
Trong sử triều Nguyễn, do từ "Cao Miên" phạm húy tên Miên Tông của vua Thiệu Trị nên vẫn gọi tên cũ là Chân Lạp, tới năm Thiệu Trị thứ 7 mới gọi lại đúng tên Cao Miên nhưng đọc chệch đi thành "Cao Man". Lịch sử. Tiền sử. Có rất ít bằng chứng về sự có mặt của con người trong thời kỳ Pleistocen trên đất Campuchia ngày nay, bao gồm các công cụ bằng đá cuội thạch anh và đá thạch anh được tìm thấy trong các ruộng bậc thang dọc theo sông Mekong, ở các tỉnh Stung Treng và Kratié, và ở tỉnh Kampot, mặc dù niên đại của chúng là không đáng tin cậy. Một số bằng chứng khảo cổ học nhỏ cho thấy các cộng đồng săn bắn hái lượm đã sinh sống trong khu vực trong thời kỳ Holocen: địa điểm phát hiện khảo cổ cổ đại nhất ở Campuchia được coi là hang động "L'aang Spean", thuộc tỉnh Battambang, thuộc thời kỳ Hoabinhian. Các cuộc khai quật ở các lớp thấp hơn của nó đã tạo ra một loạt cácbon phóng xạ có niên đại khoảng 6000 năm TCN. Các lớp trên trong cùng một địa điểm đã đưa ra bằng chứng về sự chuyển đổi sang thời kỳ đồ đá mới, chứa đựng những đồ gốm bằng đất nung có niên đại sớm nhất ở Campuchia. Các hồ sơ khảo cổ học cho thời kỳ giữa Holocen và thời kỳ đồ sắt vẫn còn hạn chế. Một sự kiện quan trọng trong thời tiền sử của Campuchia là sự thâm nhập chậm chạp của những nông dân trồng lúa đầu tiên từ phía bắc, bắt đầu vào cuối thiên niên kỷ thứ 3 TCN. Bằng chứng thời tiền sử gây tò mò nhất ở Campuchia là các "thành đất hình tròn" khác nhau được phát hiện trong các vùng đất đỏ gần Memot và ở Tây Ninh và Bình Phước của Việt Nam vào những năm sau của thập niên 1950. Chức năng và tuổi của chúng vẫn còn đang tranh cãi, nhưng một số có thể có niên đại từ thiên niên kỷ 2 TCN. Các địa điểm tiền sử khác có niên đại hơi không chắc chắn là "Samrong Sen" (không xa cố đô Oudong), nơi các cuộc điều tra đầu tiên bắt đầu vào năm 1875, và "Phum Snay", ở tỉnh phía bắc Banteay Meanchey.
Campuchia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=81
Một cuộc khai quật tại Phum Snay cho thấy 21 ngôi mộ có vũ khí bằng sắt và chấn thương sọ não, có thể chỉ ra những xung đột trong quá khứ, có thể xảy ra với các thành phố lớn hơn ở Angkor. Các đồ tạo tác thời tiền sử thường được tìm thấy trong các hoạt động khai thác ở Ratanakiri. Sắt được tạo ra vào khoảng 500 năm TCN, với bằng chứng hỗ trợ đến từ Cao nguyên Khorat, ở Thái Lan ngày nay. Ở Campuchia, một số khu định cư thời kỳ đồ sắt đã được tìm thấy bên dưới Baksei Chamkrong và các ngôi đền Angkorian khác trong khi các công trình đất hình tròn được tìm thấy bên dưới "Lovea cách Angkor" vài km về phía tây bắc. Burials, phong phú hơn nhiều so với các loại tìm thấy khác, minh chứng cho việc cải thiện tình trạng sẵn có và thương mại lương thực (ngay cả trên những khoảng cách xa: vào thế kỷ thứ 4 TCN, các mối quan hệ thương mại với Ấn Độ đã được mở ra) và sự tồn tại của một cấu trúc xã hội và tổ chức lao động. Trong số các đồ khảo cổ từ thời kỳ đồ sắt, hạt thủy tinh là bằng chứng quan trọng. Các loại hạt thủy tinh khác nhau được thu hồi từ một số địa điểm trên khắp Campuchia, chẳng hạn như địa điểm Phum Snay ở phía tây bắc và địa điểm Prohear ở phía đông nam, cho thấy có hai mạng lưới giao dịch chính vào thời điểm đó. Hai mạng lưới được phân tách theo thời gian và không gian, điều này cho thấy đã có sự chuyển dịch từ mạng lưới này sang mạng lưới kia vào khoảng thế kỷ thứ 2 - 4 sau Công nguyên, có thể là do những thay đổi về quyền lực chính trị - xã hội. Thời kỳ tiền Angkor và Angkor. Trong các thế kỷ 3, 4 và 5, các quốc gia Ấn Độ Dương của Phù Nam và người kế vị của nó, Chân Lạp, đã hợp nhất ở Campuchia ngày nay và tây nam Việt Nam. Trong hơn 2.000 năm, Campuchia đã hấp thụ ảnh hưởng từ Ấn Độ, truyền sang các nền văn minh Đông Nam Á khác mà ngày nay là Thái Lan và Lào. Người ta còn biết rất ít về một số chính thể này, tuy nhiên các biên niên sử và hồ sơ triều cống của Trung Quốc có đề cập đến chúng. Người ta tin rằng lãnh thổ Phù Nam có thể đã nắm giữ cảng mà nhà địa lý học người Alexandria Claudius Ptolemy gọi là " Kattigara ".
Campuchia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=81
Các biên niên sử Trung Quốc cho rằng sau khi Jayavarman I của Chân Lạp qua đời vào khoảng năm 681, tình trạng hỗn loạn xảy ra sau đó dẫn đến sự phân chia vương quốc thành Chân Lạp Đất và Chân Lạp Nước, vốn được cai trị lỏng lẻo bởi các hoàng tử yếu kém dưới sự thống trị của Java. Đế chế Khmer đã phát triển từ những tàn tích này của Chân Lạp, trở nên vững chắc vào năm 802 khi Jayavarman II (trị vì khoảng 790-835) tuyên bố độc lập khỏi Java và tự xưng là Devaraja. Ông và những người theo ông đã thiết lập sự sùng bái Chúa-vua và bắt đầu một loạt các cuộc chinh phạt để hình thành một đế chế phát triển mạnh mẽ trong khu vực từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 15. Trong thời kỳ cai trị của Jayavarman VIII, đế chế Angkor đã bị tấn công bởi quân đội Mông Cổ của Hốt Tất Liệt, tuy nhiên nhà vua có thể đã dùng tiền mua hòa bình. Vào khoảng thế kỷ 13, các nhà sư từ Sri Lanka đã du nhập Phật giáo Nguyên thủy đến Đông Nam Á. Tôn giáo này lan rộng và cuối cùng thay thế Ấn Độ giáo và Phật giáo Đại thừa trở thành tôn giáo phổ biến của Angkor; tuy nhiên nó không phải là quốc giáo chính thức cho đến năm 1295 khi Indravarman III nắm quyền. Đế chế Khmer là đế chế lớn nhất Đông Nam Á trong thế kỷ 12. Trung tâm quyền lực của đế chế là Angkor, nơi có một loạt thủ đô được xây dựng trong thời kỳ cực thịnh của đế chế. Năm 2007, một nhóm nghiên cứu quốc tế của các nhà nghiên cứu sử dụng ảnh vệ tinh và kỹ thuật hiện đại khác đã kết luận rằng Angkor đã từng là thành phố thời kỳ tiền công nghiệp lớn nhất trên thế giới với mức phát triển đô thị lên tới . Thành phố Angkor có thể có dân số lên đến một triệu người và Angkor Wat, ngôi đền tôn giáo được biết đến và được bảo tồn tốt nhất tại địa điểm, vẫn là lời nhắc nhở về quá khứ của Campuchia với tư cách là một cường quốc lớn trong khu vực. Đế chế này mặc dù đã suy tàn, vẫn là một thế lực đáng kể trong khu vực cho đến khi sụp đổ vào thế kỷ 15. Thời kỳ hậu Angkor. Sau một loạt các cuộc chiến tranh kéo dài với các vương quốc láng giềng, Angkor bị Vương quốc Ayutthaya cướp phá và bỏ hoang vào năm 1432 vì sự thất bại về hệ sinh thái và cơ sở hạ tầng.
Campuchia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=81
Điều này dẫn đến một thời kỳ trì trệ về kinh tế, xã hội và văn hóa khi các vấn đề nội bộ của vương quốc ngày càng nằm dưới sự kiểm soát của các nước láng giềng. Vào thời điểm này, xu hướng xây dựng tượng đài của người Khmer đã không còn. Các tín ngưỡng cũ hơn như Phật giáo Đại thừa và tín ngưỡng thờ thần của Ấn Độ giáo đã được thay thế bằng Phật giáo Nguyên thủy. Triều đình dời đô đến Longvek nơi vương quốc tìm cách lấy lại vinh quang thông qua thương mại hàng hải. Lần đầu tiên đề cập đến Campuchia trong các tài liệu châu Âu là vào năm 1511 bởi người Bồ Đào Nha. Các du khách Bồ Đào Nha mô tả thành phố này là nơi phát triển của sự giàu có và ngoại thương. Các cuộc chiến tiếp diễn với Ayutthaya và người Việt dẫn đến việc mất thêm lãnh thổ và Longvek bị vua Naresuan Đại đế Ayutthaya chinh phục và tiêu diệt vào năm 1594. Một thủ đô mới của người Khmer được thành lập tại Oudong, phía nam Longvek vào năm 1618, nhưng các quốc vương của nó chỉ có thể tồn tại bằng cách tham gia vào những mối quan hệ chư hầu xen kẽ với người Xiêm và Việt Nam trong ba thế kỷ tiếp theo với chỉ một vài giai đoạn độc lập tương đối ngắn ngủi.. Những người Khmer Loeu ở Campuchia đã bị "người Xiêm (Thái), người An Nam (Việt) và người Campuchia săn đuổi không ngừng và đem làm nô lệ ". Vào thế kỷ 19, một cuộc đấu tranh mới giữa Xiêm và Việt Nam để giành quyền kiểm soát Campuchia đã dẫn đến thời kỳ các quan chức Việt Nam cố gắng ép buộc người Khmer áp dụng phong tục của Việt Nam. Điều này dẫn đến một số cuộc nổi dậy chống lại người Việt Nam và kêu gọi sự trợ giúp của Thái Lan. Chiến tranh Xiêm-Việt (1841–1845) kết thúc với một thỏa thuận đặt đất nước dưới quyền thống trị chung. Điều này sau đó đã dẫn đến việc Quốc vương Norodom Prohmborirak ký hiệp ước Bảo hộ Campuchia của Pháp. Thời kỳ người Pháp cai trị. Năm 1863, Vua Norodom, người được Xiêm La đưa lên ngôi, tìm cách bảo vệ Campuchia khỏi ách thống trị của Pháp.
Campuchia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=81
Năm 1867, Rama IV ký một hiệp ước với Pháp, từ bỏ quyền độc tôn đối với Campuchia để đổi lấy quyền kiểm soát các tỉnh Battambang và Siem Reap chính thức trở thành một phần của Xiêm. Các tỉnh này được nhượng trở lại cho Campuchia theo hiệp ước biên giới giữa Pháp và Xiêm năm 1907. Campuchia tiếp tục là quốc gia bảo hộ của Pháp từ năm 1867 đến năm 1953, được quản lý như một phần thuộc địa của Đông Dương thuộc Pháp, mặc dù bị đế quốc Nhật Bản chiếm đóng từ năm 1941 đến năm 1945. Từ năm 1874 đến năm 1962, tổng dân số nước này tăng từ khoảng 946.000 người lên 5,7   triệu. Sau cái chết của Vua Norodom vào năm 1904, Pháp thao túng việc lựa chọn nhà vua, và Sisowath, anh trai của Norodom, được lên ngôi. Ngôi vị bị bỏ trống vào năm 1941 với cái chết của Monivong, con trai của Sisowath, và Pháp chuyển giao cho con trai của Monivong, Monireth, cảm thấy ông ta có tư duy quá độc lập. Thay vào đó, Norodom Sihanouk, cháu ngoại của Vua Sisowath lên ngôi. Người Pháp nghĩ rằng Sihanouk trẻ tuổi sẽ dễ dàng bị kiểm soát. Tuy nhiên, họ đã sai và dưới thời trị vì của Vua Norodom Sihanouk, Campuchia đã giành được độc lập từ Pháp vào ngày 9 tháng 11 năm 1953. Độc lập và chiến tranh Việt Nam. Campuchia trở thành một quốc gia quân chủ lập hiến dưới thời Quốc vương Norodom Sihanouk. Khi Đông Dương thuộc Pháp được trao trả độc lập, Campuchia mất hy vọng giành lại quyền kiểm soát đồng bằng sông Cửu Long khi Pháp trao vùng này cho Việt Nam. Trước đây đồng bằng này là một phần của Đế chế Khmer, khu vực này do người Việt Nam kiểm soát từ năm 1698, với việc Vua Chey Chettha II đã cho phép người Việt Nam đến định cư trong khu vực này nhiều thập kỷ trước năm 1698. Tại đây có hơn một triệu người Khmer Krom sinh sống. Sau này Khmer Đỏ đã cố gắng thực hiện các cuộc tấn công Việt Nam để phục hồi lãnh thổ Năm 1955, Sihanouk thoái vị để cha tham gia chính trường và được bầu làm thủ tướng. Sau khi cha của Sihanouk qua đời vào năm 1960, Sihanouk một lần nữa trở thành nguyên thủ quốc gia, lấy danh hiệu Thái tử. Khi Chiến tranh Việt Nam tiến triển, Sihanouk áp dụng chính sách trung lập chính thức trong Chiến tranh Lạnh.
Campuchia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=81
Sihanouk cho phép cộng sản Việt Nam sử dụng Campuchia như một nơi ẩn náu và một con đường tiếp tế vũ khí và viện trợ khác cho các lực lượng vũ trang của họ đang chiến đấu ở miền Nam Việt Nam. Chính sách này bị nhiều người Campuchia cho là nhục nhã. Vào tháng 12 năm 1967, nhà báo Stanley Karnow của Washington Post được Sihanouk cho biết nếu Mỹ muốn ném bom vào các mật khu của cộng sản Việt Nam, ông sẽ không phản đối, trừ khi người Campuchia bị chết. Thông điệp tương tự đã được chuyển tới phái viên Chester Bowles của Tổng thống Mỹ Johnson vào tháng 1 năm 1968. Tuy nhiên, trước công chúng, Sihanouk bác bỏ quyền của Mỹ không kích ở Campuchia, vào ngày 26 tháng 3, ông nói rằng ""các cuộc tấn công tội phạm này phải dừng lại ngay lập tức và dứt khoát". Vào ngày 28 tháng 3, một cuộc họp báo đã được tổ chức và Sihanouk kêu gọi các phương tiện truyền thông quốc tế: "Tôi kêu gọi các bạn công bố ra nước ngoài lập trường rất rõ ràng về Campuchia — nghĩa là, trong mọi trường hợp, tôi sẽ phản đối tất cả các vụ đánh bom trên lãnh thổ Campuchia với bất kỳ lý do gì."" Tuy nhiên, sự phản đối của Sihanouk đã bị phớt lờ và các vụ đánh bom vẫn tiếp tục. Các thành viên trong chính phủ và quân đội Campuchia trở nên bất bình với phong cách cai trị của Sihanouk cũng như việc ông ta rời xa nước Mỹ. Cộng hòa Khmer (1970-1975). Khi đến thăm Bắc Kinh năm 1970, Sihanouk đã bị Thủ tướng Lon Nol và Vương tử Sisowath Sirik Matak lật đổ trong một cuộc đảo chính quân sự. Sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với cuộc đảo chính vẫn chưa được chứng minh. Tuy nhiên, ngay khi cuộc đảo chính hoàn tất, chế độ mới đã ngay lập tức yêu cầu cộng sản Việt Nam rời Campuchia. Việc này đã khiến chế độ mới có được sự ủng hộ chính trị của Hoa Kỳ. Các lực lượng Bắc Việt và Việt Cộng, với nỗ lực tuyệt vọng để giữ lại các mật khu và đường tiếp tế từ Bắc Việt, ngay lập tức mở các cuộc tấn công vũ trang vào chính phủ mới. Nhà vua kêu gọi các tín đồ của mình giúp đỡ trong việc lật đổ chính phủ mới này, khiến cuộc nội chiến được đẩy mạnh.
Campuchia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=81
Ngay sau đó, phiến quân Khmer Đỏ bắt đầu sử dụng hình ảnh nhà vua để được người dân hỗ trợ. Tuy nhiên, từ năm 1970 đến đầu năm 1972, xung đột Campuchia chủ yếu là giữa chính phủ và quân đội Campuchia, và các lực lượng vũ trang của Bắc Việt. Khi Bắc Việt giành được quyền kiểm soát lãnh thổ Campuchia, những người cộng sản Việt Nam đã áp đặt một cơ sở hạ tầng chính trị mới, cơ sở hạ tầng này cuối cùng bị thống trị bởi những người cộng sản Campuchia, nay được gọi là Khmer Đỏ. Trong khoảng thời gian từ 1969 đến 1973, Việt Nam Cộng hòa và lực lượng Hoa Kỳ đã ném bom Campuchia trong một nỗ lực nhằm chống lại Việt Cộng và Khmer Đỏ. Các tài liệu được tiết lộ từ các kho lưu trữ của Liên Xô sau năm 1991 cho thấy rằng việc Bắc Việt cố gắng đánh chiếm Campuchia vào năm 1970 đã được thực hiện theo yêu cầu rõ ràng của Khmer Đỏ và được Nuon Chea, người chỉ huy thứ hai của Pol Pot yêu cầu. Các đơn vị Bắc Việt chiếm nhiều vị trí của quân đội Campuchia trong khi Đảng Cộng sản Kampuchea (CPK) mở rộng các cuộc tấn công quy mô nhỏ vào các đường liên lạc. Để đối phó với cuộc xâm lược của Bắc Việt, Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon tuyên bố rằng các lực lượng bộ binh Hoa Kỳ và Nam Việt Nam đã tiến vào Campuchia trong một chiến dịch nhằm tiêu diệt các khu căn cứ của Bắc Việt ở Campuchia (xem Cuộc tấn công Campuchia). Mặc dù một số lượng đáng kể vũ khí, thiết bị quân sự đã bị quân đội Hoa Kỳ và Nam Việt Nam thu giữ hoặc phá hủy, việc ngăn chặn các lực lượng Bắc Việt Nam tỏ ra khó khăn. Ban lãnh đạo của Cộng hòa Khmer đã bị cản trở bởi sự mất đoàn kết giữa ba nhân vật chính của nó: Lon Nol, Sirik Matak, em họ của Sihanouk, và lãnh đạo Quốc hội In Tam. Lon Nol vẫn nắm quyền, một phần vì không ai trong số những người khác chuẩn bị thay thế vị trí của ông. Năm 1972, hiến pháp được thông qua, quốc hội được bầu ra và Lon Nol trở thành tổng thống. Nhưng sự mất đoàn kết trong chính quyền, những vấn đề trong việc chuyển đổi một đội quân 30.000 người thành một lực lượng chiến đấu quốc gia với hơn 200.000 người, và nạn tham nhũng lan rộng đã làm suy yếu chính quyền dân sự và quân đội.
Campuchia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=81
Các cuộc nổi dậy của Cộng sản ở Campuchia tiếp tục phát triển, được Bắc Việt Nam hỗ trợ bằng tiếp tế và giúp đỡ quân sự. Pol Pot và Ieng Sary khẳng định quyền thống trị của họ đối với những người cộng sản do Việt Nam đào tạo, nhiều người trong số họ đã bị thanh trừng. Đồng thời, lực lượng CPK trở nên mạnh hơn và độc lập hơn với những người bảo trợ Việt Nam của họ. Đến năm 1973, CPK đã chiến đấu chống lại các lực lượng chính phủ với ít hoặc không có sự hỗ trợ của quân đội Bắc Việt Nam, và họ kiểm soát gần 60% lãnh thổ và 25% dân số của Campuchia. Chính phủ Campuchia đã ba lần cố gắng trong việc đàm phán với quân nổi dậy nhưng không thành công. Đến năm 1974, các sư đoàn CPK đã hoạt động công khai và một số lực lượng chiến đấu của quân đội Bắc Việt Nam đã di chuyển vào miền Nam Việt Nam. Quyền kiểm soát của Lon Nol bị giảm xuống các khu vực nhỏ xung quanh các thành phố và các tuyến đường giao thông chính. Hơn 2 triệu người tị nạn chiến tranh sống ở Phnôm Pênh và các thành phố khác. Vào ngày đầu năm mới 1975, quân đội Cộng sản đã mở một cuộc tấn công, trong 117 ngày chiến đấu cam go nhất của cuộc chiến, đã làm sụp đổ Cộng hòa Khmer. Các cuộc tấn công đồng thời xung quanh vành đai Phnôm Pênh đã chèn ép các lực lượng Cộng hòa, trong khi các đơn vị CPK khác áp đảo các căn cứ hỏa lực kiểm soát tuyến đường tiếp tế quan trọng ở hạ lưu sông Mekong. Một cuộc vận chuyển đạn dược và gạo do Hoa Kỳ tài trợ đã kết thúc khi Quốc hội từ chối viện trợ bổ sung cho Campuchia. Chính phủ Lon Nol ở Phnôm Pênh đầu hàng ngày 17 tháng 4 năm 1975, chỉ năm ngày sau khi phái bộ Hoa Kỳ sơ tán khỏi Campuchia. Khmer Đỏ nắm quyền (1975-1978). Khmer Đỏ đến Phnôm Pênh và nắm quyền vào năm 1975. Do Pol Pot lãnh đạo, họ đổi tên chính thức của đất nước thành Campuchia Dân chủ. Chế độ mới đã mô phỏng theo Trung Quốc thời Maoist trong thời kỳ Đại nhảy vọt, ngay lập tức sơ tán dân chúng khỏi các thành phố, và gửi toàn bộ người dân đi tuần hành cưỡng bức đến các dự án công trình nông thôn.
Campuchia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=81
Họ đã cố gắng xây dựng lại nền nông nghiệp của đất nước theo mô hình của thế kỷ 11, loại bỏ y học phương Tây và phá hủy các ngôi đền, thư viện và bất cứ thứ gì được coi là phương Tây. Ước tính có khoảng từ một đến ba triệu người bị chế độ Khmer Đỏ giết hại; con số được trích dẫn phổ biến nhất là hai triệu (khoảng một phần tư dân số Campuchia lúc đó). Thời đại này đã sinh ra thuật ngữ Cánh đồng chết, và nhà tù Tuol Sleng trở nên khét tiếng với lịch sử giết người hàng loạt. Hàng trăm nghìn người đã chạy qua biên giới sang nước láng giềng Thái Lan. Chế độ này nhắm vào các nhóm dân tộc thiểu số một cách không cân đối. Người Chăm Hồi giáo phải chịu những cuộc thanh trừng nghiêm trọng với khoảng một nửa dân số của họ bị tiêu diệt. Pol Pot quyết tâm giữ quyền lực và tước quyền của bất kỳ kẻ thù hoặc mối đe dọa tiềm tàng nào, và do đó gia tăng các hành động bạo lực và hung hãn chống lại người dân. Hồi hương cưỡng bức vào năm 1970 và những cái chết trong thời kỳ Khmer Đỏ đã làm giảm dân số người Việt Nam ở Campuchia từ 250.000 đến 300.000 người năm 1969 xuống còn 56.000 người được báo cáo vào năm 1984. Tuy nhiên, hầu hết nạn nhân của chế độ Khmer Đỏ không phải là người dân tộc thiểu số mà là người dân tộc Khmer. Các chuyên gia, chẳng hạn như bác sĩ, luật sư và giáo viên, cũng được nhắm mục tiêu. Theo Robert D. Kaplan, "kính đeo mắt là thứ chết chóc như ngôi sao vàng Do Thái" vì chúng được coi là dấu hiệu của trí thức. Các tổ chức tôn giáo cũng không được Khmer Đỏ bỏ qua. Tôn giáo bị đàn áp dã man đến nỗi phần lớn các kiến trúc lịch sử của Campuchia, 95% các ngôi chùa Phật giáo của Campuchia, đã bị phá hủy hoàn toàn. Chống diệt chủng và tái thiết quốc gia (1978-1992). Tháng 11 năm 1978, Quân đội nhân dân Việt Nam mở cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam để đối phó với các cuộc tấn công ở biên giới của Khmer Đỏ. Cộng hòa Nhân dân Kampuchea (PRK), một quốc gia thân Liên Xô do Đảng Cách mạng Nhân dân Kampuchea lãnh đạo được thành lập. Đây là đảng do người Việt Nam thành lập vào năm 1951, và do một nhóm lãnh đạo Khmer Đỏ trốn khỏi Campuchia để tránh bị Pol Pot và Ta Mok thanh trừng đứng đầu.
Campuchia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=81
Đảng này hoàn toàn đi theo quân đội Việt Nam và chịu sự chỉ đạo của đại sứ Việt Nam tại Phnôm Pênh. Việt Nam và Liên Xô cung cấp vũ khí cho tổ chức này. Đối lập với nhà nước mới được thành lập, một chính phủ lưu vong được gọi là Chính phủ Liên minh Dân chủ Kampuchea (CGDK) được thành lập vào năm 1981 từ ba phe phái. Chính phủ này bao gồm Khmer Đỏ, một phe bảo hoàng do Norodom Sihanouk lãnh đạo, và Mặt trận Giải phóng Dân tộc Nhân dân Khmer. Sự tồn tại của nó được Liên Hợp Quốc công nhận. Đại diện của Khmer Đỏ tại LHQ, Thiounn Prasith được giữ lại nhưng ông phải làm việc với sự tham vấn của đại diện các đảng phi cộng sản Campuchia. Từ tháng 4 năm 1975 đến tháng 1 năm 1979, Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa là đối tác bên ngoài quan trọng nhất của chính phủ Khmer Đỏ. Sự kiện Việt Nam đưa quân vào tiêu diệt Khmer Đỏ đã khiến Trung Quốc thừa cơ phát động cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc Việt Nam năm 1979 với sự khởi xướng của Đặng Tiểu Bình. Việc Việt Nam từ chối rút quân khỏi Campuchia đã dẫn đến các biện pháp cấm vận của Hoa Kỳ và các đồng minh đối với Việt Nam. Các nỗ lực hòa bình cho Campuchia bắt đầu ở Paris vào năm 1989 dưới thời Nhà nước Campuchia, lên đến đỉnh điểm vào hai năm sau đó vào tháng 10 năm 1991 trong Thỏa thuận Hòa bình Toàn diện Paris. Liên Hiệp Quốc được giao nhiệm vụ thực thi một lệnh ngừng bắn và đối phó với người tị nạn và giải trừ quân bị, và bộ phận Liên Hiệp Quốc làm việc này được gọi là Cơ quan Chuyển tiếp Liên Hiệp Quốc tại Campuchia (UNTAC). Khôi phục chế độ quân chủ. Năm 1993, Norodom Sihanouk được phục hồi trở lại làm Quốc vương Campuchia, nhưng tất cả quyền lực nằm trong tay chính phủ được thành lập sau cuộc bầu cử do UNTAC bảo trợ. Sự ổn định được thiết lập sau cuộc xung đột đã bị lung lay vào năm 1997 bởi một cuộc đảo chính do đồng Thủ tướng Hun Sen lãnh đạo chống lại các đảng không phải cộng sản trong chính phủ. Sau khi chính phủ ổn định dưới thời Hun Sen, Campuchia được gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) vào ngày 30 tháng 4 năm 1999.
Campuchia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=81
Trong những năm gần đây, các nỗ lực tái thiết đã tiến triển và dẫn đến một số ổn định chính trị thông qua chế độ dân chủ đa đảng theo chế độ quân chủ lập hiến. Mặc dù sự cai trị của Hun Sen gây ra nhiều vi phạm nhân quyền và tham nhũng, hầu hết công dân Campuchia trong suốt những năm 2000 vẫn chấp nhận chính phủ này; các cuộc phỏng vấn với những người dân nông thôn Campuchia vào năm 2008 cho thấy họ ưa thích một hiện trạng ổn định hơn là các thay đổi có thể gây ra bạo lực. Nền kinh tế Campuchia tăng trưởng nhanh chóng trong những năm 2000 và 2010, và nước này nhận được sự hỗ trợ đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng đáng kể từ Trung Quốc trong khuôn khổ Một vành đai, Một con đường. Là một tòa án xét xử tội ác chiến tranh do Liên Hiệp Quốc hậu thuẫn, Tòa án Khmer Đỏ đã tìm cách điều tra các tội ác đã xảy ra trong thời kỳ Kampuchea Dân chủ và truy tố các nhà lãnh đạo của nó. Tuy nhiên, Hun Sen đã phản đối các cuộc xét xử hoặc điều tra mở rộng đối với các cựu quan chức Khmer Đỏ. Vào tháng 7 năm 2010, Kang Kek Iew là thành viên Khmer Đỏ đầu tiên bị kết tội chiến tranh và tội ác chống lại loài người trong vai trò cựu chỉ huy của trại tiêu diệt S21 và đã bị kết án tù chung thân. Vào tháng 8 năm 2014, tòa án đã kết án Khieu Samphan, cựu nguyên thủ quốc gia 83 tuổi của chế độ, và Nuon Chea, 88 tuổi, người có tư tưởng chính của nó, tù chung thân về tội ác chiến tranh vì vai trò của họ trong vụ khủng bố đất nước. trong những năm 1970. Các phiên tòa bắt đầu vào tháng 11 năm 2011. Cựu Bộ trưởng Ngoại giao Ieng Sary qua đời vào năm 2013, trong khi vợ ông, Bộ trưởng Các vấn đề xã hội Ieng Thirith, được cho là không đủ khả năng để hầu tòa do chứng mất trí nhớ vào năm 2012. Sau cuộc tổng tuyển cử ở Campuchia năm 2013, các cáo buộc gian lận cử tri từ đảng đối lập Đảng Cứu nguy Quốc gia Campuchia đã dẫn đến các cuộc biểu tình chống chính phủ lan rộng kéo dài sang năm sau. Các cuộc biểu tình kết thúc sau một cuộc đàn áp của lực lượng chính phủ.
Campuchia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=81
Đảng Cứu hộ Quốc gia Campuchia đã bị giải thể trước cuộc tổng tuyển cử Campuchia năm 2018 và Đảng Nhân dân Campuchia cầm quyền cũng ban hành các biện pháp hạn chế chặt chẽ hơn trên các phương tiện thông tin đại chúng. CPP đã giành được mọi ghế trong Quốc hội mà không có phe đối lập lớn, củng cố một cách hiệu quả chế độ độc đảng "trên thực tế" ở nước này. Đại dịch COVID-19 toàn cầu lây lan sang Campuchia vào đầu năm 2020. Mặc dù đã giảm thiểu sự lây lan của căn bệnh này trong phần lớn năm 2020 hệ thống y tế của đất nước đã bị căng thẳng do một đợt bùng phát lớn vào đầu năm 2021, điều này đã dẫn đến một số đợt phong tỏa. Nó cũng có tác động kinh tế nghiêm trọng, với ngành du lịch đặc biệt bị ảnh hưởng do các hạn chế về du lịch quốc tế. Chính trị. Chính trị Campuchia được nhiều người nước ngoài biết đến bởi thời kỳ diệt chủng của Khmer Đỏ, việc này gây ra những đổ vỡ lớn trong nội bộ những nước đã từng ủng hộ chế độ này. Vương quốc Campuchia hiện là một nước Quân chủ lập hiến theo hình thức quân chủ tuyển cử. Trên thực tế Quốc vương không điều hành đất nước. Vị Quốc vương được lựa chọn bởi một Hội đồng Tôn vương gồm 9 người theo Hiến pháp. Nguyên thủ đầu tiên của đất nước là Quốc vương Norodom Sihanouk sau khi ông trở lại làm vua vào tháng 9 năm 1993. Cuối tháng 10 năm 2004, Quốc vương Norodom Sihanouk thoái vị làm Thái thượng vương, Hội đồng Tôn vương đã đưa Thái tử Norodom Sihamoni lên làm tân Quốc vương. Nghị viện Campuchia theo hệ thống lưỡng viện với cả Thượng viện (61 ghế) nhiệm kỳ 6 năm và Quốc hội (123 ghế) nhiệm kỳ 5 năm. Thể chế hiện tại của Campuchia là thể chế đại nghị hệ thống Đảng phái ưu thế. Đảng cầm quyền hiện nay Đảng Nhân dân Campuchia (CPP) đã nắm quyền kể từ năm 1981 và luôn chiếm đa số ghế trong cả Thượng viện và Quốc hội. Thủ tướng đương nhiệm là Hun Manet thuộc Đảng Nhân dân Campuchia, đứng đầu Nội các Campuchia - cơ quan hành pháp của nước này.
Campuchia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=81
Campuchia là thành viên của Liên hiệp quốc và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Nước này đã đạt được sự ổn định tương đối về chính trị từ thập niên 1990 trở lại đây. Quan hệ đối ngoại. Quan hệ đối ngoại của Vương quốc Campuchia được điều phối bởi Bộ Ngoại giao và Hợp tác quốc tế Campuchia, đứng đầu là Bộ trưởng Prak Sokhonn. Campuchia là thành viên của Liên Hợp Quốc, Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ Quốc tế. Nó là một thành viên của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), ASEAN, và trở thành thành viên của WTO ngày 23.10.2004. Năm 2005 Campuchia đã tham dự Hội nghị thượng đỉnh Đông Á khai mạc tại Malaysia. Vào ngày 23 tháng 11 năm 2009, Campuchia phục hồi lại là thành viên của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA). Campuchia lần đầu tiên trở thành thành viên của IAEA vào ngày 06 tháng 2 năm 1958 nhưng đã từ bỏ vị trí thành viên của mình vào ngày 26 tháng 3 năm 2003. Campuchia đã thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều quốc gia, bao gồm 20 Đại sứ quán bao gồm nhiều nước láng giềng châu Á và những đối tác quan trọng trong các cuộc đàm phán hòa bình Paris, trong đó có Mỹ, Úc, Canada, Trung Quốc, Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, và Nga Như một kết quả của quan hệ quốc tế, tại Campuchia còn có các tổ chức nhân đạo khác nhau đã hỗ trợ các nhu cầu cơ sở hạ tầng xã hội, kinh tế và dân sự... Hành chính. Campuchia sau năm 2008 được chia thành 25 đơn vị hành chính địa phương cấp một gồm 24 tỉnh ("ខេត្ត - khet") và 1 đơn vị hành chính đặc biệt ("ក្រុង - krong") (thủ đô Phnôm Pênh). Các tỉnh được chia thành các huyện (hay quận) ("ស្រុក - srok/ ខណ្ឌ - khan") và huyện đảo. Mỗi tỉnh lại có một quận/thành phố thủ phủ (ក្រុង "- krong"). Dưới huyện là các xã (ឃុំ - "khum"), và dưới quận là các phường (សង្កាត់ - "sangkat"). Phường và xã là cấp hành chính địa phương cuối cùng ở Campuchia. Trong một xã có thể có một hoặc nhiều hơn một làng, nhưng làng không phải là một cấp hành chính chính thức. Địa lý. Diện tích Campuchia khoảng 181.035 km², nằm trọn vẹn trong khu vực nhiệt đới; từ vĩ độ 10 đến vĩ độ 15N kinh độ 102 đến 108E.
Campuchia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=81
Đất nước có 800 km biên giới với Thái Lan về phía bắc và phía tây, 541 km biên giới với Lào về phía đông bắc, và 1.137 km biên giới với Việt Nam về phía đông và đông nam. Nước này có 443 km bờ biển dọc theo Vịnh Thái Lan. Nhìn trên bản đồ, lãnh thổ Campuchia có hình dáng gần giống như lưỡi rìu tứ giác, cạnh không đều. Đặc điểm địa hình nổi bật là một vùng đồng bằng lớn nằm giữa những ngọn núi thấp bao gồm vùng hồ Tonle Sap (Biển Hồ) và vùng thượng lưu đồng bằng sông Cửu Long. Biển Hồ có diện tích khoảng 2.590 km² trong mùa khô tới khoảng 24.605 km² về mùa mưa. Đây là một đồng bằng đông dân, phù hợp cho cấy lúa nước, tạo thành vùng đất trung tâm Campuchia. Phần lớn (khoảng 75%) diện tích đất nước nằm ở cao độ dưới 100 mét so với mực nước biển, ngoại trừ dãy núi Cardamon (điểm cao nhất là 1.771 m), phần kéo dài theo hướng bắc-nam về phía đông của nó là dãy Voi (cao độ 500-1.000 m) và dốc đá thuộc dãy núi Dangrek (cao độ trung bình 500 m) dọc theo biên giới phía bắc với Thái Lan. Khí hậu Campuchia cũng giống như khí hậu các nước Đông Nam Á khác, bị chi phối bởi gió mùa. Khí hậu khô và ẩm ướt rõ rệt theo mùa. Nhiệt độ dao động trong khoảng 21 °C - 35 °C. Campuchia có các mùa mưa nhiệt đới: gió tây nam từ Vịnh Thái Lan/Ấn Độ Dương đi vào đất liền theo hướng đông bắc mang theo hơi ẩm tạo thành những cơn mưa từ tháng 5 đến tháng 10, trong đó lượng mưa lớn nhất vào khoảng tháng 9, tháng 10; gió đông bắc thổi theo hướng tây nam về phía biển trong mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3, với thời kỳ ít mưa nhất là tháng 1, tháng 2. Theo Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Quốc tế và Liên hợp quốc, Campuchia được xem là quốc gia dễ bị tổn thương nhất của Đông Nam Á trước ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, cùng với Phillippines. Dân số nông thôn ven biển đặc biệt có nguy cơ cao hơn.
Campuchia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=81
Theo Hiệp hội Cải cách Khí hậu Campuchia, tình trạng thiếu nước sạch, lũ lụt cực đoan, lở đất, mực nước biển dâng cao và các trận bão có khả năng phá hoại là mối quan tâm đặc biệt. Campuchia có hai mùa rõ rệt. Mùa mưa, kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, có thể thấy nhiệt độ giảm xuống 22 °C (71,6 °F) và thường có độ ẩm cao. Mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 khi nhiệt độ có thể tăng lên đến 40 °C (104 °F) vào khoảng tháng 4. Lũ lụt trầm trọng xảy ra vào năm 2001 và một lần nữa vào năm 2002, với mức độ ngập lụt gần như mỗi năm. Campuchia cũng là quốc gia có nhiều loài động vật quý hiếm trên thế giới sinh sống, nổi bật nhất là hổ, voi và bò tót khổng lồ. Rất nhiều loài đang đứng trước hiểm họa diệt chủng do nạn săn trộm và phá rừng. Kinh tế. Vương quốc Campuchia đã bị tàn phá gần như hoàn toàn sau thời kỳ Polpot Khmer Đỏ, thành phố lớn nhất Phnompenh phục hồi từ một thành phố chết không một bóng người và được khôi phục với vẻ huy hoàng như ngày nay. Ảnh hưởng của chiến tranh nghiêm trọng hơn ở Việt Nam nên cho đến nay nền kinh tế vẫn còn nhiều điều bất cập, tình trạng tham nhũng lớn và luật pháp lỏng lẻo khiến cho đất nước có nhiều điều cần phải giải quyết. Tính đến năm 2016, GDP của Campuchia đạt 19,368 tỷ USD, đứng thứ 113 thế giới, đứng thứ 35 châu Á và đứng thứ 8 Đông Nam Á. Sự phát triển của nền kinh tế Campuchia bị chậm lại một cách đáng kể trong thời kỳ 1997-1998 vì khủng hoảng kinh tế trong khu vực, bạo lực và xung đột chính trị. Đầu tư nước ngoài và du lịch giảm mạnh. Trong năm 1999, năm đầu tiên có được hòa bình thực sự trong vòng 30 năm, đã có những biến đổi trong cải cách kinh tế và tăng trưởng đạt được ở mức 5%. Mặc dù bị lũ lụt, GDP tăng trưởng ở mức 5.0% trong năm 2000, 6.3% trong năm 2001 và 5.2% trong năm 2002. Du lịch là ngành dịch vụ tăng trưởng mạnh nhất của Campuchia, với số du khách tăng 34% trong năm 2000 và 40% trong năm 2001 trước sự kiện khủng bố 11 tháng 9 năm 2001 tại Mỹ.
Campuchia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=81
Mặc dù đạt được những sự tăng trưởng như vậy nhưng sự phát triển dài hạn của nền kinh tế sau hàng chục năm chiến tranh vẫn là một thách thức to lớn. Dân cư thất học và thiếu các kỹ năng nghề nghiệp, đặc biệt là ở vùng nông thôn nghèo đói gần như chưa có các điều kiện cần thiết của cơ sở hạ tầng. Sự lo ngại về không ổn định chính trị và tệ nạn tham nhũng trong một bộ phận chính quyền làm chán nản các nhà đầu tư nước ngoài và làm chậm trễ các khoản trợ giúp quốc tế. Chính quyền đang phải giải quyết các vấn đề này với sự hỗ trợ của các tổ chức song phương và đa phương. Campuchia bị Liên Hợp Quốc xem là một trong các nước kém phát triển nhất tại Châu Á do mức thu nhập thấp, nguồn lực con người nghèo nàn và có nền kinh tế dễ bị tổn thương. Campuchia đã gia nhập tổ chức Tổ chức Thương mại Thế giới từ ngày 13 tháng 10 năm 2004. Dân cư và ngôn ngữ. Campuchia là quốc gia thuần nhất về dân cư với hơn 90% dân số là người Khmer và nói tiếng Khmer, ngôn ngữ chính thức. Số còn lại là người Việt, người Campuchia gốc Hoa, người Chàm và người Thượng sống tập trung ở miền núi phía bắc và đông bắc. Phật giáo Theravada hay còn gọi là Phật giáo nguyên thủy bị Khmer Đỏ hủy diệt đã được phục hồi là tôn giáo chính thức, với khoảng 95% dân số. Phật giáo Đại thừa Bắc tông chủ yếu tập trung trong cộng đồng người Việt và người Hoa. Hồi giáo và đạo Bà la môn ở các cộng đồng Chăm, Ki-tô giáo chiếm khoảng 2% dân số... Tiếng Pháp và tiếng Anh được nhiều người Campuchia sử dụng như là ngôn ngữ thứ hai và thông thường là ngôn ngữ phải học trong các trường phổ thông và đại học. Nó cũng được sử dụng thường xuyên trong chính quyền. Một số lớn trí thức mới của Campuchia được đào tạo tại Việt Nam là một thuận lợi cho quan hệ kính tế, văn hóa ba nước Đông Dương. Cuộc nội chiến và nạn diệt chủng dưới thời Khmer Đỏ có ảnh hưởng mạnh đến cấu trúc dân số Campuchia. Độ tuổi trung bình là 20,6, với hơn 50% dân cư trẻ hơn 25 tuổi. Tỷ lệ nam/nữ là 0.95, thấp nhất trong số các quốc gia tiểu khu vực sông Mê Kông. Trong số người Campuchia độ tuổi hơn 65, tỷ lệ nữ/nam là 1,6:1.
Campuchia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=81
Bên cạnh đó tiếng Việt cũng được nói nhiều ở khu vực biên giới Việt Nam - Campuchia và vùng Tonlé Sap vì có nhiều người gốc Việt sinh sống tại những khu vực này hoặc người có cha hoặc mẹ là người Việt. Một trong những nguyên do khác là người Campuchia ở vùng này học tiếng Việt để giao tiếp được với người Việt ở biên giới và để giao thương với người Việt. Du lịch. Vương quốc Campuchia là một trong những địa điểm du lịch mới và hẫp dẫn nhất trên thế giới. Sau hơn 25 năm cô lập, Campuchia mở cửa đón khách du lịch vào những năm đầu của thập niên 90 và lượng khách du lịch tăng lên qua từng năm Những điểm du lịch hấp dẫn nhất của Vương quốc Campuchia là đền Angkor Wat và những ngôi đền thuộc quần thể Angkor thuộc tỉnh Siem Reap, cũng như các địa điểm văn hóa hẫp dẫn thuộc thủ đô Phnôm Pênh và những bãi biển thuộc tỉnh Sihanoukville với đầy đủ các dịch vụ cần thiết như khách sạn, nhà hàng, điểm vui chơi giải trí và một số dịch vụ du lịch khác. Các điểm tham quan khác có thể phải kể đến vùng đồi núi thuộc tỉnh Ratanakiri và tỉnh Mondulkiri, những ngôi đền nằm biệt lập thuộc tỉnh Preah Viherd và Banteay Chhmar và các khu vực kinh tế quan trọng như Battambang, Kep và Kampot là những địa danh mới được khám phá gần đây. Campuchia là vùng đất của những cái đẹp, các ngôi đền cổ kính thuộc quần thể Angkor, đền Bayon và sự sụp đổ của đế chế Khmer luôn mang dấu ấn của sự trang trọng, hùng vĩ và chiếm vị trí trung tâm trong các kỳ quan thế giới – có thể so sánh với Machu Picchu, Kim tự tháp Ai Cập hay Vạn lý trường thành. Nhưng sự hùng vĩ này lại trái ngược với Cánh đồng chết và bảo tàng diệt chủng Toul Sleng, cũng như trái ngược với những chứng tích lịch sử cận đại của Campuchia, thời gian mà lực lượng Polpot và chế độ cực đoan Khmer Đỏ cai trị cuối những năm 1970, gây nên một trong những tội ác ghê rợn và tàn bạo nhất của thế kỷ XX. Ngày nay, người Khmer vốn chiếm 95% dân số Campuchia đã tạo ra những ấn tượng sâu đậm cho khách du lịch, họ chính là những người thân thiện và hạnh phúc nhất mà du khách từng gặp.
Campuchia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=81
Nụ cười người Khmer có ở khắp nơi, như trong chuyện cổ tích và truyền thống đậm đà bản sắc riêng của dân tộc này. Campuchia vì vậy thật sự là vùng đất của sự tương phản: giữa ánh sáng và bóng tối, giữa những bản hùng ca và những bi kịch, giữa sự quặn đau tuyệt vọng và nguồn cảm hứng tương lai. Dường như đó là một đặc điểm vô song của đất nước Campuchia. Điều đó thúc đẩy bất cứ du khách nào cũng khát khao một lần đặt chân lên mảnh đất này. Du lịch tại Campuchia tập trung chia làm 5 vùng trọng điểm. Nghệ thuật. Kiến trúc của Campuchia phần lớn được biết đến nhờ vào những công trình được xây dựng từ thời Khmer cổ đại (khoảng cuối thế kỷ XII, đầu thế kỷ XIII). Đạo Phật và tư duy huyền thoại có ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật trang trí các công trình kiến trúc vĩ đại này. Đặc trưng cơ bản của kiến trúc giai đoạn này là được xây dựng từ vật liệu gỗ, tre nứa hoặc rơm rạ và đá. Nhưng những gì còn lại ngày nay người ta có thể chiêm ngưỡng là các công trình bằng đá tảng như các bức tường thành, đường sá... và các ngôi đền hoặc các con đường có những bao lơn tạc hình con rắn chín đầu, vươn cao 2–3m, xòe rộng phủ bóng xuống mặt đường. Còn hình thức chung của các ngôi đền là có đỉnh chóp nhọn, bốn mặt đền được chạm trổ các bức phù điêu miêu tả cuộc sống con người ở thế giới bên kia, hoặc cuộc sống hiện tại của người dân Campuchia bấy giờ, hay cuộc chiến với nước láng giềng vũ nữ dân gian ("Ápsara") với thân hình mềm mại, cân đối đang múa khá uyển chuyển, và sự tham gia của cả những con khỉ, con ngựa trong sử thi Ramanaya của Ấn Độ. Bên cạnh đó, hình thức khắc những ký tự hay con số cũng rất phổ biến ở công trình. Các ngôi đền thường có một cửa còn ở ba phía còn lại của đền cũng có cửa nhưng chỉ là giả, để tạo cảm giác đối xứng cho ngôi đền. Công trình có tiếng nhất ở đây là ngôi đền Bayon với 200 gương mặt của thần Avalokitesvara (một dạng của Quan Âm Bồ Tát). Chiêm ngưỡng những công trình này, ta không thể không khâm phục sức mạnh phi thường và bàn tay tài ba của những người dân Khmer cổ đại.
Campuchia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=81
Kiến trúc của Campuchia cũng có ảnh hưởng lớn đến kiến trúc của Thái Lan và người Chăm của Việt Nam. Văn hóa. Nền văn hóa Campuchia có lịch sử phong phú đa dạng trải qua nhiều thế kỷ và chịu ảnh hưởng nặng của Ấn Độ. Nền văn hóa Campuchia gây ảnh hưởng mạnh và được coi là mẹ đẻ của văn hóa Thái Lan, Lào. Trong lịch sử Campuchia, tôn giáo có vai trò lớn trong các hoạt động văn hóa. Trải qua gần 2000 năm, người dân Campuchia đã phát triển một tín ngưỡng Khmer độc đáo với các tín ngưỡng hỗn hợp gồm tín ngưỡng thuyết vật linh bản địa và các tôn giáo Ấn Độ như Phật giáo và Hindu giáo. Ẩm thực. Ẩm thực Campuchia, cũng như thói quen ẩm thực của nhiều dân tộc thuộc nền văn minh lúa nước trong khu vực châu Á, cho thấy những đặc điểm riêng biệt. Người dân Campuchia có thói quen ăn gạo tẻ và ăn nhiều cá hơn thịt. Vào các ngày lễ tết, nông thôn cũng như thành thị đều có gói bánh tét, bánh ít. Phần lớn trong mỗi gia đình đều có mắm bồ hóc để ăn quanh năm. Ẩm thực Campuchia ảnh hưởng phong cách mạnh mẽ của Ấn Độ và Trung Hoa, hầu hết các món ăn có vị lạt, ngọt và béo. Món ăn Ấn Độ tìm thấy hầu hết ở các gia vị được dùng chủ yếu là cay như sa tế, ớt, tiêu, nhục, hồi v.v. Món ăn Trung Hoa được tìm thấy nhiều với vị lạt và khá béo, nhiều dầu mỡ nhất là mang phong cách ẩm thực vùng Tứ Xuyên. Âm nhạc. Dàn nhạc ping peat (ngũ âm) và các nhạc cụ truyền thống tạo ra vô số các tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao và độc đáo. Âm nhạc truyền thống của Thái Lan và Lào cũng chịu ảnh hưởng lớn từ Campuchia. Văn học. Nổi tiếng nhất là thể loại trường ca Riêm kê là thể loại sáng tác bằng thơ ca dân gian dài hàng vạn câu. Cốt truyện chủ yếu vay mượn từ sử thi Ramayana của Ấn Độ. Những ngày lễ chính. Người Campuchia cũng giống như các quốc gia khác đều sử dụng Tây lịch. Tuy nhiên, trừ một số ngày lễ của người Khmer, họ sử dụng lịch Campuchia như ngày lễ Tết, lễ nhập điền hay lễ cầu hôn.
Campuchia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=81
Lịch Khmer có thể sớm hay muộn hơn lịch Tây tùy vào thời điểm của năm. Sự giao thoa về văn hóa và dân cư khiến cho một số ngày lễ của Campuchia có thêm một số ngày lễ như Tết Việt Nam và Trung Quốc, tết Đoan Ngọ... Giáo dục. Tỷ lệ biết chữ ở Campuchia khoảng 77,2%, trong đó tỷ lệ nam biết chữ cao hơn nữ và thành thị cao hơn nông thôn. Trong thời kỳ Khmer Đỏ thống trị, giáo dục Campuchia bị tàn phá nặng nề và hiện nay đang từng bước được phục hồi. Tôn giáo. Phật giáo Nguyên thủy là tôn giáo chính thức của Campuchia, được thực hành bởi hơn 95% dân số. Phật giáo là tôn giáo phổ biến và phát triển mạnh mẽ trong tất cả các tỉnh, với ước tính khoảng 4.392 đền thờ, tu viện trong cả nước. Phần lớn sắc tộc Khmer theo đạo Phật, và có những hiệp hội gần gũi giữa Phật giáo, truyền thống văn hóa và cuộc sống hằng ngày. Tuân thủ Đạo Phật thường được xem là bản sắc dân tộc và văn hóa của đất nước. Tôn giáo ở Campuchia, trong đó có Phật giáo, đã bị đàn áp bởi chế độ Khmer Đỏ trong thời gian cuối những năm 1970 nhưng kể từ khi chế độ này bị lật đổ, Phật giáo đã hồi sinh trở lại trên đất nước này. Hồi giáo là tôn giáo của đa số người Chăm và người Mã Lai thiểu số ở Campuchia. Đa số là người Hồi giáo Sunni và tập trung đông ở tỉnh Kampong Cham. Hiện nay có hơn 250.000 người Hồi giáo trong nước. 1% dân số Campuchia được xác định là Kitô hữu, trong đó Công giáo Rôma tạo thành nhóm lớn nhất tiếp theo là cộng đồng Tin Lành. Hiện nay có 20.000 người Công giáo tại Campuchia, chiếm 0,15% tổng dân số. Các nhánh Kitô giáo khác bao gồm Baptist, Liên minh Kitô giáo và truyền giáo, Phong trào Giám Lý, Nhân chứng Giê-hô-va, Phong trào Ngũ Tuần, và Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô. Phật giáo Đại thừa là tôn giáo của đa số Hoa kiều và Việt kiều tại Campuchia. Các yếu tố của thực hành tôn giáo khác, chẳng hạn như việc tôn kính các anh hùng dân gian và tổ tiên, Khổng giáo và Đạo giáo kết hợp với Phật giáo Trung Hoa cũng được thực hành. Trước chế độ Khmer Đỏ, có 73.164 tín đồ đạo Cao Đài ở Campuchia, trong đó Việt kiều chiếm 64.954 người và số người Campuchia là 8210 người.
Campuchia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=81
Hiện nay, chỉ còn khoảng 2.000 tín đồ Cao Đài ở Campuchia tập trung ở thủ đô Phnôm Pênh với một Thánh thất Cao Đài.
VIQR
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=95
VIQR (viết tắt của tiếng Anh Vietnamese Quoted-Readable) là một quy ước để viết chữ tiếng Việt dùng bảng mã ASCII 7 bit. Vì tính tiện lợi của nó, quy ước này được sử dụng phổ biến trên Internet, nhất là khi bảng mã Unicode chưa được áp dụng rộng rãi. Hiện nay quy ước VIQR vẫn còn được một số người hay nhóm thư sử dụng. Quy tắc. Quy ước VIQR sử dụng ký tự có trên bàn phím để biểu thị dấu: Một ví dụ của VIQR: "Việt Nam đất nước mến yêu" => codice_1 Quy ước VIQR dùng codice_2 cho chữ "Đ", và codice_3 cho "đ". Dấu cách codice_4 được dùng trước dấu chấm câu (codice_5) (codice_6) nếu dấu chấm câu này đặt ngay sau nguyên âm và trong từ có nguồn gốc nước ngoài. Ví dụ: Một biến thể của quy ước VIQR là VIQR*. Trong đó, dấu codice_8 được dùng thay cho dấu codice_9 để bỏ dấu móc. Lịch sử. Quy ước VIQR đã được dùng tại miền Nam trước 1975 trong việc lưu giữ các tài liệu của quân đội. Năm 1992, quy ước này được Nhóm Viet-Std (Vietnamese-Standard Working Group - Nhóm Nghiên cứu Tiêu chuẩn Tiếng Việt) thuộc TriChlor group tại California chuẩn hóa. Lối viết này hiện nay cũng được dùng thường xuyên trên mạng, khi "chat", vì tiện lợi, không cần dùng phần mềm nào cả và có thể dùng mọi lúc mọi nơi.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Việt Nam Cộng hòa (VNCH; ; , viết tắt RVN) là một nhà nước đã từng tồn tại từ năm 1955 đến năm 1975. Trong các tài liệu quốc tế, chính phủ này còn được gọi là South Vietnam () để chỉ phạm vi địa lý kể từ khi Hiệp định Genève được ký kết và Việt Nam bị chia cắt thành hai vùng tập kết quân sự tạm thời. Với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa bác bỏ việc thực hiện tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam vào năm 1956 theo Hiệp định Genève với lý do họ không ký hiệp định này mặc dù với việc kế thừa nghĩa vụ của Liên hiệp Pháp, chính phủ này vẫn phải thực thi. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đối chọi với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành lập năm 1969 do Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lãnh đạo. Nguồn gốc của Việt Nam Cộng hòa bắt nguồn từ Chiến tranh Đông Dương. Sau Thế chiến II, phong trào Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo đã tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 và tổ chức thành công Tổng tuyển cử toàn quốc vào tháng 1/1946 để chính thức trở thành nhà nước duy nhất có chủ quyền trên toàn bộ hai miền của Việt Nam. Tổng tuyển cử được diễn ra thành công bất chấp việc thực dân Pháp tái xâm lược Việt Nam từ cuối năm 1945. Với Hiệp định Élysée được ký vào tháng 3/1949, một nhóm chính trị gia chống Cộng do Bảo Đại đứng đầu đã cùng thực dân Pháp thành lập Quốc gia Việt Nam trở thành một thành viên độc lập một phần trong Liên hiệp Pháp. Sau khi thất bại trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, Pháp buộc phải ký Hiệp định Genève, theo đó Pháp từ bỏ chủ quyền ở Đông Dương, Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai vùng tập kết quân sự với việc Quân đội nhân dân Việt Nam rút về vùng tập kết phía Bắc vỹ tuyến 17, quân đội Liên hiệp Pháp (bao gồm Quân đội quốc gia Việt Nam) rút về vùng tập kết phía Nam vỹ tuyến 17.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Trong thời gian chờ Tổng tuyển cử để hình thành nhà nước thống nhất trên cả hai vung tập kết quân sự, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nắm quyền quản lý hành chính ở vùng lãnh thổ phía Bắc vỹ tuyến 17, Liên hiệp Pháp mắm quyền quản lý hành chính ở vùng lãnh thổ phía Nam vỹ tuyến 17. Pháp hoàn toàn rút khỏi Việt Nam vào giữa năm 1955 và quyền quản lý hành chính ở miền Nam Việt Nam được giao lại cho Quốc gia Việt Nam.. Từ đây, Hoa Kỳ thế chỗ Pháp, tiếp tục hậu thuẫn chế độ Quốc gia Việt Nam nhằm ngăn chặn Tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam về mặt nhà nước. Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã phế truất Bảo Đại vào năm 1955 sau một cuộc trưng cầu dân ý với nhiều gian lận. Quốc gia Việt Nam được đổi tên thành Việt Nam Cộng hòa vào ngày 26 tháng 10 năm 1955, với Ngô Đình Diệm là tổng thống đầu tiên. Chính phủ này lập tức được Hoa Kỳ công nhận và lần lượt có quan hệ ngoại giao với 77 quốc gia. Năm 1957, Việt Nam Cộng hòa đệ đơn xin gia nhập Liên Hợp Quốc nhưng đề nghị này bị Liên Xô phủ quyết. Sau những hỗn loạn nội bộ ngày càng gia tăng, Ngô Đình Diệm bị ám sát trong cuộc đảo chính năm 1963 do tướng Dương Văn Minh cầm đầu và được Hoa Kỳ hậu thuẫn. Sau đó, một loạt chính quyền quân sự được thành lập nhưng liên tục sụp đổ do các cuộc đảo chính lẫn nhau. Tướng Nguyễn Văn Thiệu sau đó nắm quyền trong giai đoạn 1967–1975 sau cuộc tuyển cử tổng thống. Với sự can dự của Mỹ, cục diện ở Việt Nam bắt đầu chuyển sang một giai đoạn mới đó là Chiến tranh Việt Nam. Ngày 20/12/1959, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã hỗ trợ thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (mà Mỹ gọi là Việt Cộng) để chính thức chuyển hướng từ đấu tranh chính trị đơn thuần sang đấu tranh chính trị kết hợp đấu tranh vũ trang.. Tới ngày 15/02/1961, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam - lực lượng quân đội của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam nhận được sự trợ giúp từ nguồn viện trợ và trang bị từ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Liên Xô,Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và các thành viên Khối Xã hội chủ nghĩa. Sau những bất ổn nội bộ và sự lớn mạnh của phong trào cách mạng ở miền Nam, Việt Nam Cộng hòa đứng trên bờ vực sụp đổ. Điều này dẫn tới việc Hoa Kỳ và đồng minh trực tiếp tham chiến ở Việt Nam từ ngày 08/3/1965 sau khi cưỡng ép Việt Nam Cộng hòa phải chấp nhận sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Tiếp theo là các đơn vị bộ binh Hoa Kỳ để bổ sung cho đội ngũ cố vấn quân sự hướng dẫn những lực lượng của Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Một chiến dịch ném bom thường xuyên ở miền Bắc Việt Nam đã được các phi đội không quân Hoa Kỳ thực hiện từ năm 1966 và 1967. Chiến tranh Việt Nam đã đạt đến đỉnh điểm trong sự kiện Tết Mậu Thân tháng 2 năm 1968, khi có hơn 600.000 lính Mỹ và đồng minh (Úc, New Zealand, Hàn Quốc, Thái Lan) cùng 600.000 lính Việt Nam Cộng hòa tham chiến ở miền Nam Việt Nam, cùng với hải quân và không quân Hoa Kỳ bắn phá miền Bắc Việt Nam. Với Hiệp định Paris ký ngày 27 tháng 1 năm 1973, Hoa Kỳ chính thức rút toàn bộ quân đội của mình và đồng minh khỏi Việt Nam. Tuy nhiên, chiến tranh Việt Nam vẫn tiếp do Mỹ và đồng minh vẫn tiếp tục can thiệp chính trị và viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng hòa. Tới ngày 30 tháng 4 năm 1975, chiến tranh kết thúc và Việt Nam Cộng hòa sụp đổ sau khi Tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.. Ngày 25 tháng 4 năm 1976, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tổ chức Tổng tuyển cử để thành lập nhà nước thống nhất mang tên Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tên gọi. "Việt Nam" là tên gọi được vua Gia Long đặt ra vào năm 1804. Đây là một biến thể của "Nam Việt" (chữ Hán: 南越), một cái tên được sử dụng trong thời cổ đại. Vào năm 1839, vua Minh Mạng đã đổi tên nước thành "Đại Nam".
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Tiền thân của Việt Nam Cộng hòa là Quốc gia Việt Nam do Pháp thành lập năm 1949, trong thời kỳ Chiến tranh Đông Dương. Ngày 26 tháng 10 năm 1955 thì chính thức đổi tên thành Việt Nam Cộng hòa. Tên chính thức của Việt Nam Cộng hòa dịch sang tiếng Pháp được gọi là "République du Viêt Nam". Tuy vậy, thuật ngữ "South Vietnam" thường được sử dụng phổ biến ở phương Tây vào năm 1954, khi Hội nghị Genève phân vùng Việt Nam thành 2 vùng tập kết quân sự tạm thời. Các tên khác mà chính phủ này thường tự gọi mình trong thời gian tồn tại là "Chính phủ Việt Nam" hoặc "Chính phủ quốc gia". Lịch sử. Quốc gia Việt Nam 1949-1955. Tiền thân của Việt Nam Cộng hòa là Quốc gia Việt Nam, một chính phủ do Pháp thành lập năm 1949, trong thời kỳ Chiến tranh Đông Dương. Quốc gia Việt Nam là thành viên của Liên hiệp Pháp, có nhiệm vụ hỗ trợ quân Pháp chống lại phong trào kháng chiến chống Pháp của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Đệ Nhất Cộng hòa 1955-1963. Sau khi Pháp thua trận Điện Biên Phủ (1954) và ký Hiệp định Genève, Quốc gia Việt Nam cùng Pháp tập kết về vùng phía Nam vĩ tuyến 17 của Việt Nam. Theo kế hoạch, quân Pháp sẽ rút dần sau 2 năm và Việt Nam sẽ tiến hành Tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Tuy nhiên, báo cáo của CIA cho Tổng thống Mỹ Dwight Eisenhower thấy rằng khoảng 80% dân số Việt Nam sẽ bầu cho Hồ Chí Minh nếu cuộc tổng tuyển cử được thi hành. Không thể chấp nhận việc Hồ Chí Minh sẽ thắng cử và lập chính phủ trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, Hoa Kỳ đã hậu thuẫn Quốc gia Việt Nam để cuộc tuyển cử không thể diễn ra nhằm chia cắt Việt Nam vĩnh viễn thành 2 quốc gia. Hoa Kỳ muốn có một chính phủ chống Cộng tồn tại ở miền Nam Việt Nam, bất kể chính phủ đó có tôn trọng dân chủ hay không.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Năm 1954, đội bán quân sự của Mỹ do tướng Edward Lansdale (sĩ quan cao cấp của Tình báo Mỹ và đã làm cố vấn cho Pháp tại Việt Nam từ 1953) đã huấn luyện các lực lượng vũ trang của Quốc gia Việt Nam; xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ quân sự tại Philippines; bí mật đưa một lượng lớn vũ khí và thiết bị quân sự vào Việt Nam; giúp đỡ phát triển các kế hoạch "bình định Việt Minh và các vùng chống đối" . Ngày 13-12-1954, Mỹ và Pháp ký kết văn kiện cho phép các cố vấn quân sự Mỹ thay thế dần cho sĩ quan Pháp tham gia huấn luyện quân đội Quốc gia Việt Nam ở miền Nam Việt Nam. Tháng 1 năm 1955, Mỹ chính thức viện trợ quân sự trực tiếp cho Quốc gia Việt Nam. Thượng nghị sĩ (4 năm sau trở thành Tổng thống) John F. Kennedy tuyên bố vào ngày 1 tháng 6 năm 1956: Trong những năm 1954–1956, Mỹ đã bỏ ra 414 triệu USD giúp trang bị cho các lực lượng thường trực Quốc gia Việt Nam, gồm 170.000 quân và lực lượng cảnh sát 75.000 quân; 80% ngân sách quân sự của Quốc gia Việt Nam là do Mỹ viện trợ. Từ năm 1955 đến 1960, có tất cả 800 chuyến tàu chở vũ khí và phương tiện quân sự của Mỹ vào miền Nam Việt Nam. Số viện trợ này giúp Quốc gia Việt Nam đủ sức duy trì bộ máy hành chính và quân đội khi không còn viện trợ của Pháp. Quân đội Quốc gia Việt Nam dần thay thế chiến thuật và vũ khí của Pháp bằng của Mỹ. Đến lúc này lại xảy ra mâu thuẫn giữa Thủ tướng Ngô Đình Diệm với Quốc trưởng Bảo Đại (nguyên là Hoàng đế nhà Nguyễn). Năm 1955, với kết quả cuộc trưng cầu dân ý gian lận (mà các tài liệu ngày nay của Chính phủ Việt Nam thường gọi là "trò hề trưng cầu dân ý"), Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, lên làm Tổng thống đầu tiên của chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Sau đó, Quốc gia Việt Nam tổ chức bầu cử Quốc hội Lập hiến. Quốc hội này ban hành Hiến pháp thành lập Việt Nam Cộng hòa trên cơ sở kế thừa Quốc gia Việt Nam, thủ đô là thành phố Sài Gòn, ngày ban hành Hiến pháp 26 tháng 10 trở thành ngày Quốc khánh của Đệ Nhất Cộng hòa.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Việt Nam Cộng hòa theo thể chế chính trị đa đảng, kinh tế tư bản chủ nghĩa và được Mỹ giúp đỡ, bảo vệ để chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tại miền Nam. Dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông đề ra chủ nghĩa "Cần lao Nhân vị", duy trì tình trạng đối lập với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong khoảng 5 năm, Việt Nam Cộng hòa đã có một số thành tựu: xã hội ổn định, kinh tế phát triển, định cư gần 1 triệu dân di cư từ miền Bắc, thành lập Viện Đại học Huế... Tuy nhiên, chính quyền Tổng thống Ngô Đình Diệm bị giới đối lập xem là chính phủ độc tài gia đình trị, dần dần tích lũy nhiều mâu thuẫn nội bộ. Từ năm 1955 và đặc biệt là từ 1959, cùng với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ (do lo ngại ảnh hưởng của phong trào Việt Minh), chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện chính sách đàn áp những người cộng sản, tố cộng diệt cộng trên toàn bộ Nam Việt Nam, dựa theo Luật 10-59 (đạo luật quy định việc thiết lập các phiên tòa quân sự đặc biệt để xét xử những phạm nhân bị tình nghi là ủng hộ Việt Minh và chủ nghĩa cộng sản). Phong trào Đồng khởi năm 1960 (do Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo) và cuộc đảo chính hụt năm 1960 là những đòn giáng mạnh vào chế độ Ngô Đình Diệm. Mâu thuẫn tôn giáo cũng trở nên gay gắt. Sự kiện Phật Đản năm 1963, việc cấm treo cờ Phật giáo ở Huế đã gây ra phản ứng mạnh mẽ từ các Phật tử, dẫn đến các hoạt động đàn áp Phật giáo của chính quyền. Việc Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu giữa đường phố Sài Gòn cùng những phát biểu của bà Ngô Đình Nhu (tức Dân biểu Trần Lệ Xuân) làm chế độ Ngô Đình Diệm bị báo chí phương Tây đả kích kịch liệt và mất hết mọi sự ủng hộ từ phương Tây. Ngày 1 tháng 11 năm 1963, nền Đệ Nhất Cộng hòa bị lật đổ bởi một nhóm quân nhân dưới sự chỉ huy của một số tướng lĩnh (trong đó có tướng Dương Văn Minh); về sau, ngày này được xem là ngày Quốc khánh của Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Cả ba anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn đều bị giết. Theo băng ghi âm tại Nhà Trắng, tổng thống Kennedy nói rằng ông bàng hoàng về cái chết của 2 anh em Diệm và Nhu, cái chết của hai người thật là kinh khủng. Theo như hồi ký của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara, chính CIA đã hỗ trợ cho việc lật đổ và sau này McNamara xem đó là một sai lầm nghiêm trọng mà Hoa Kỳ mắc phải. Khi được thông báo anh em Ngô Đình Diệm đã bị giết, Đại sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge, đã vui vẻ thốt lên bằng tiếng Pháp: ""C’est formidable! C’est formidable!" (Thật là tuyệt diệu. Thật là tuyệt diệu)". Kể từ đây, sự phụ thuộc của Việt Nam Cộng hòa vào viện trợ của Hoa Kỳ ngày càng lớn, cả về tài chính cũng như về quân sự. Sự can thiệp của Tòa đại sứ Mỹ vào công việc nội bộ về chính trị và quân sự của Việt Nam Cộng hòa ngày càng lên cao. Thời kỳ quân quản 1963-1967. Tiếp sau đó là giai đoạn khủng hoảng lãnh đạo chính trị ở miền Nam bởi một loạt các cuộc đảo chính liên tiếp cho đến khi tướng Nguyễn Văn Thiệu thiết lập nền Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam. Trong thời gian 18 tháng sau cuộc đảo chính 1963, miền Nam phải chứng kiến hơn 10 cuộc khủng hoảng chính trị (cuộc đảo chính năm 1964 của tướng Nguyễn Khánh; thành lập Tam đầu chế; phong trào chống Hiến chương Vũng Tàu; chính phủ dân sự Trần Văn Hương lên rồi đổ; chính phủ dân sự Phan Huy Quát lên rồi đổ; đảo chính hụt ngày 13 tháng 9, 1964 của tướng Dương Văn Đức và Lâm Văn Phát; đảo chính hụt ngày 20 tháng 2, 1965 của đại tá Phạm Ngọc Thảo). Phe quân đội lần lượt hạ bệ lẫn nhau cùng những chính phủ dân sự liên tiếp được dựng lên rồi lại phải rút lui. Cùng khi đó về mặt xã hội, các khối Phật giáo và Công giáo cũng nhiều lần xuống đường biểu tình gây áp lực. Về mặt pháp lý, bản Hiến pháp năm 1956 bị vô hiệu hóa.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Thay vào đó là một loạt hiến chương có tính chất tạm thời như: Về mặt quân sự, Việt Nam Cộng hòa, Hoa Kỳ cùng với các đồng minh tiếp tục chiến đấu chống lại các hoạt động quân sự của lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong Chiến tranh Việt Nam. Quy mô và mức độ ác liệt của chiến tranh ngày càng tăng. Trong phúc trình gửi Tổng thống Johnson ngày 16 tháng 3 năm 1964, McNamara đưa ra một bức tranh bi thảm, hậu quả của cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm: ""Trong số đất đai của 22 tỉnh (trong 44 tỉnh), Việt Cộng kiểm soát tới 50% hoặc nhiều hơn. Tại Phước Tuy, Việt Cộng kiểm soát 80%; Bình Dương 90%; Hậu Nghĩa 90%; Long An 90%; Định Tường 90%; Kiến Hoà 90%; An Xuyên (Cà Mau) 85%. Quận Mõ Cày và các xã Định Thủy, Bình Khánh, Phước Hiệp, "đỏ 100%"; trên 900 xã như trong trường hợp ba xã này..."". Sau đảo chính 1963, trong một thời gian ngắn, đường mòn Hồ Chí Minh trở thành một "xa lộ thênh thang", lượng hàng vận chuyển vào miền Nam tăng vọt. Trước đây, đoàn vận tải ô tô chỉ vào Khe Hó đổ hàng rồi từ đây dùng voi hay sức người chuyển vào Palin Thừa Thiên. Đầu năm 1964, các đoàn ô tô đã có thể đi tới điểm trạm ngã ba biên giới Kontum, số lượng vận tải tăng 40 lần so với năm trước, tỉ trọng vận tải cơ giới là 51%. Trước những thất bại này, Tổng thống Mỹ quyết định huy động quân viễn chinh trực tiếp tham chiến tại miền Nam Việt Nam. Báo Quân đội Nhân dân nhận định ""Đầu năm 1965, tình hình cách mạng miền Nam đã có những tiến bộ vượt bậc. Cuộc "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ-ngụy ngày càng bị khủng hoảng và thất bại nghiêm trọng. Đế quốc Mỹ đã tìm mọi cách cố tạo ra một "sức mạnh" để cứu vãn sự sụp đổ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Chúng ồ ạt đưa quân viễn chinh và quân chư hầu vào miền Nam Việt Nam, đồng thời mở rộng hoạt động ném bom đánh phá miền Bắc."". Ngày 8 tháng 3 năm 1965, Mỹ chính thức đổ quân viễn chinh lên Đà Nẵng.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Phía Mỹ đã không thông báo cho Việt Nam Cộng hòa về thời gian và địa điểm đổ quân, mặc dù bản tin của Bộ Quốc phòng Mỹ 2 ngày trước tuyên bố rằng Mỹ đổ quân vào miền Nam Việt Nam là theo yêu cầu của chính phủ Sài Gòn. Sáng ngày 8 tháng 3, một sĩ quan Mỹ đến gặp Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa là Phan Huy Quát, yêu cầu soạn thảo một thông cáo chung bằng hai thứ tiếng Anh-Việt để thông báo rộng rãi, lúc đó ông Quát mới biết quân Mỹ đã đổ bộ vào Việt Nam. Khi biết tin thì quân Mỹ đã đổ bộ rồi, Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa phải hợp thức hóa việc này bằng cách gọi Tổng trưởng Phủ Thủ tướng là Bùi Diễm cùng với một viên chức Mỹ là Melvin Manfull soạn ngay thông cáo chào mừng quân Mỹ, với chỉ đạo: "Viết càng ngắn càng tốt. Chỉ mô tả sự kiện rồi khẳng định rằng chúng ta đã đồng ý mà thôi". Trong những tháng sau đó, Mỹ đổ bộ hàng chục vạn quân, lính Mỹ hiện diện ở khắp miền Nam. Đệ Nhị Cộng hòa 1967–1975. Để chấm dứt tình trạng rối ren về chính trị, tháng 6 năm 1966, Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia do tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ điều hành tuyên bố mở cuộc bầu cử Quốc hội lập hiến vào ngày 3 tháng 9. Theo đó 118 đại biểu đắc cử gồm nhiều thành phần và đến 1 tháng 4 năm 1967 thì ra tuyên cáo bản Hiến pháp Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam. Hiến pháp này là cơ sở pháp lý của Việt Nam Cộng hòa cho đến 30 tháng 4 năm 1975. Cuộc Tổng tuyển cử Tổng thống và Quốc hội diễn ra ngày 3 tháng 9 năm 1967 với 11 liên danh tranh cử trong đó có những ứng cử viên là chính trị gia kỳ cựu như Phan Khắc Sửu và Trần Văn Hương. Trong số hơn sáu triệu cử tri thì năm triệu người đi bầu, tức tỷ lệ 80%. Liên danh Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ đắc cử với 35% số phiếu. Về nhì là luật sư Trương Đình Dzu với 17%.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Tháng 6 năm 1969, trong vùng kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã diễn ra Đại hội đại biểu quốc dân và thành lập ra Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, do Huỳnh Tấn Phát làm chủ tịch và Hội đồng Cố vấn do Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch. Năm 1971 là cuộc Tổng tuyển cử thứ nhì của nền Đệ Nhị Cộng hòa. Kỳ này Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tái đắc cử nhiệm kỳ thứ hai một cách dễ dàng vì không có đối thủ nào khác ra tranh cử. Khi sự việc này xảy ra, nhiều người cho là do điều luật mới thông qua ngày 3 tháng 6 năm 1971 nhằm hạn chế khả năng tham gia của ứng cử viên đối lập. Theo đó thì ứng cử viên phải có 40 chữ ký ủng hộ của Dân biểu hay Nghị sĩ Quốc hội và 100 chữ ký của các thành viên trong Hội đồng tỉnh. Dương Văn Minh và Nguyễn Cao Kỳ vì không thỏa mãn được quy định trên đã phải rút tên, chỉ còn Nguyễn Văn Thiệu là ứng cử viên duy nhất trong cuộc bầu cử. Vào năm 1973, sau Hiệp định Paris (được thảo luận giữa bốn bên tham chiến là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hoa Kỳ, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa), quân đội Hoa Kỳ đã rút khỏi Việt Nam. Việt Nam Cộng hòa cố gắng trì hoãn việc ký kết hiệp định, nhưng phía Mỹ đã có quyết định dứt khoát về việc này và gây áp lực cho chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Cuối cùng, Việt Nam Cộng hòa phải chấp nhận ký kết hiệp định. Suy vong. Bị mất viện trợ về tài lực và quân sự từ phía Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa không thể tự đứng vững được.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Theo nhà sử học Vũ Ngự Chiêu thì Việt Nam Cộng hòa giống như "một lâu đài xây trên cát, trông bề thế bên ngoài nhưng chỉ cần một con sóng nhỏ là tan vỡ", mầm mống của sụp đổ gồm những lý do sau: Trong bản ghi âm được giải mật sau này về cuộc trao đổi giữa Tổng thống Mỹ Richard Nixon và ngoại trưởng Henry Kissinger vào cuối năm 1972, Nixon nói rõ việc ông sẵn sàng bỏ mặc "đứa con" Việt Nam Cộng hòa để nước Mỹ có thể thoát khỏi cuộc chiến ở Việt Nam Việt Nam Cộng hòa duy trì chủ yếu nhờ vào khoản viện trợ kinh tế và quân sự rất lớn của Mỹ, nhưng do nạn tham nhũng nên viện trợ bị sử dụng rất phung phí và kém hiệu quả. Quy mô tham nhũng bên trong chính phủ Việt Nam Cộng hòa là rất lớn: cả nửa triệu tấn gạo biến mất khỏi các kho lương thực trong năm 1967, súng cũng được tuồn ra bán với giá 25-30 đôla một khẩu, ngay cả xe bọc thép hoặc máy bay lên thẳng cũng có thể tuồn ra được. Hồi ký Nguyễn Cao Kỳ nêu trường hợp tướng Tư lệnh đồng bằng sông Cửu Long đã lấy cắp 8.000 đài vô tuyến và 24.000 vũ khí cá nhân do Hoa Kỳ viện trợ và sớm bán hết sạch ra chợ đen, tài liệu mật từ Tòa Đại sứ Mỹ cho biết phần lớn số đó đã lọt vào tay quân Giải phóng. Nhà báo người Mỹ William J. Lederer, trong chuyến điều tra năm 1968, nhận xét: kẻ thù tồi tệ nhất của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam chính là nạn tham nhũng của Việt Nam Cộng hòa. Hàng tỷ USD viện trợ kinh tế và quân sự của Mỹ đã bị các quan chức Việt Nam Cộng hòa tham ô rồi bán ra chợ đen. Ông đã chứng kiến những kho hàng lậu đầy ắp hàng hóa và vũ khí quân dụng, có tới cả 1.000 khẩu súng trường, bao gồm cả loại M16 hiện đại. William J. Lederer nhận xét: "Tôi đã thấy trước Hoa Kỳ sẽ bị đánh bại như thế nào - không phải chỉ bằng sức mạnh của đối phương, mà bởi chính những sai lầm của mình, sự bất lực của chính mình" .
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Việt Nam Cộng hòa dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Văn Thiệu cũng không có một chính sách kinh tế phù hợp để xây dựng nền tảng công nghiệp quốc gia mà ngày càng phụ thuộc vào viện trợ Mỹ nên khi Mỹ cắt viện trợ thì nền kinh tế gặp khó khăn; tinh thần công chức, quân nhân và dân chúng xuống thấp rồi chính quyền sụp đổ. Năm 1975, sau khi thất thủ Ban Mê Thuột (nay gọi là Buôn Ma Thuột), trước sự tấn công mãnh liệt của Quân Giải phóng, cộng thêm các sai lầm chiến lược, quân đội Việt Nam Cộng hòa đã nhanh chóng tan rã, mất quyền kiểm soát lãnh thổ. Nhiều tướng lãnh cao cấp Việt Nam Cộng hòa đã tự ý rời bỏ hàng ngũ. Tổng thống Dương Văn Minh, người được đề cử chức vụ này vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, đã ra lệnh đầu hàng vô điều kiện trước Quân Giải phóng và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Sụp đổ. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng khi Quân Giải phóng miền Nam tiến vào Sài Gòn. Sau khi tiếp nhận sự đầu hàng của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (gọi tắt là Cộng hòa Miền Nam Việt Nam) ra tuyên bố: "Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam hiện nay thực hiện chủ quyền trên toàn vẹn lãnh thổ của mình trên toàn bộ miền Nam Việt Nam, là người đại diện chân chính và hợp pháp duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam, có đầy đủ quyền hành giải quyết những vấn đề quốc tế của miền Nam Việt Nam". Thông qua tuyên bố này và việc tiếp nhận sự đầu hàng của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã khẳng định Cộng hòa Miền Nam Việt Nam chính thức thực hiện chủ quyền quốc gia đối với lãnh thổ miền Nam Việt Nam, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trên thực tế, sau năm 1975, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã kế thừa lãnh thổ, các cơ quan đại diện ở nước ngoài, tư cách thành viên tại các tổ chức quốc tế (WHO, ILO, UNESCO, ICAO, IAEA, IMF, Ngân hàng Thế giới,…).
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Tất cả những kế thừa này của Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đều được thực hiện theo đúng thông lệ quốc tế và Công ước về kế thừa quốc gia đối với Điều ước quốc tế năm 1978. Chính quyền Đệ Nhất Việt Nam Cộng hòa. Theo Hiến pháp 1956, mô hình tổ chức nhà nước của Đệ Nhất Việt Nam Cộng hòa như sau: Lập pháp. Quyền lập pháp thuộc về Quốc hội được tổ chức đơn viện. Số lượng Dân biểu do Luật định. Dân biểu được bầu cử theo lối đầu phiếu phổ thông, trực tiếp và kín, theo những thể thức và điều kiện do đạo luật tuyển cử quy định. Nhiệm kỳ Dân biểu là ba năm. Các Dân biểu có thể được tái cử. Trong tình trạng khẩn cấp, chiến tranh, nội loạn, khủng hoảng kinh tế hoặc tài chính, Quốc hội có thể biểu quyết một đạo luật ủy cho Tổng thống, trong một thời gian, với những hạn định rõ, quyền ký các sắc luật để thực hiện chánh sách mà Quốc hội ấn định trong đạo luật ủy quyền. Các sắc luật phải được chuyển đến Văn phòng Quốc hội ngay sau khi ký. 30 ngày sau khi mãn thời hạn đã ấn định trong đạo luật ủy quyền, nếu Quốc hội không bác bỏ, các sắc luật ấy sẽ được coi hẳn như những đạo luật. [Điều 42] Quyền hạn: Mỗi năm Quốc hội họp 2 lần, tổng thời gian 2 lần họp không quá 3 tháng. Lần 1 bắt đầu từ ngày thứ 2 đầu tiên trong tháng 4 dương lịch. Lần 2 bắt đầu ngày thứ 2 đầu tiên trong tháng 10 dương lịch. Ngoài ra có thể họp bất thường. Hành pháp. Tổng thống nắm quyền hành pháp, do Nhân dân trực tiếp bầu lên với nhiệm kỳ 5 năm, có thể được tái nhiệm thêm 2 nhiệm kỳ. Mặc dù trong Hiến pháp 1956 có quy định ""Chủ quyền thuộc về toàn dân" nhưng Đoạn 3, Điều 3 thì lại xác định "Tổng thống lãnh đạo quốc dân"" Tổng thống có các quyền: Tư pháp. Ngành Tư pháp được tổ chức theo nguyên tắc bình đẳng của mọi người trước pháp luật và nguyên tắc độc lập của Thẩm phán xử án. [Điều 70] Thẩm phán xử án quyết định theo lương tâm mình, trong sự tôn trọng luật pháp và quyền lợi Quốc gia.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Hệ thống Tòa án nằm dưới sự kiểm soát của Bộ Tư Pháp. Đặc biệt Pháp viện là một tòa án đặc biệt có thẩm quyền xét xử Tổng thống, Phó Tổng thống, Chánh án Tòa Phá án và Chủ tịch Viện Bảo hiến trong trường hợp bị can phạm tội phản quốc và các trọng tội. Đặc biệt Pháp viện gồm có: Chánh án Tòa Phá án, "Chánh án"; 15 Dân biểu do Quốc hội bầu ra mỗi nhiệm kỳ, "Hội thẩm". Khi Chánh án Tòa Phá án là bị can, Chủ tịch Viện Bảo hiến sẽ ngồi ghế Chánh án. Ban Điều tra của Đặc biệt Pháp viện gồm 5 dân biểu do Quốc hội bầu ra mỗi nhiệm kỳ. Đặc biệt Pháp viện họp để nghe Ban Điều tra và đương sự trình bày và phán quyết theo đa số 3/4 tổng số nhân viên. Viện Bảo hiến đưa ra các phán quyết về tính cách hợp hiến của các đạo luật, sắc luật và quy tắc hành chánh. Viện Bảo hiến, về mỗi nhiệm kỳ Quốc hội, gồm có: một Chủ tịch do Tổng thống cử ra với sự chấp thuận của Quốc hội, kèm theo 4 thẩm phán cao cấp hay luật gia do Tổng thống cử; kèm theo 4 dân biểu do Quốc hội cử. Hành chính địa phương. Toàn bộ lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa được chia thành các tỉnh. Thành phố thủ đô được gọi là Đô thành Chính quyền Đệ Nhị Việt Nam Cộng hòa. Hiến pháp 1967 xác lập cơ cấu tổ chức chính quyền Việt Nam Cộng hòa rất hoàn chỉnh, theo mô hình của Nhà nước Hoa Kỳ. Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa đã thể hiện khá đầy đủ tinh thần của chủ nghĩa hợp hiến. Lập pháp. Quyền lập pháp thuộc về Quốc hội với Hạ nghị viện (159 thành viên được gọi là dân biểu với nhiệm kỳ 4 năm) và Thượng nghị viện (60 thành viên được gọi là nghị sĩ, nhiệm kỳ 6 năm). Thượng viện được bầu theo liên danh. Một liên danh có thể có ứng cử viên từ nhiều vùng khác nhau nhưng chung một liên danh. Hạ viện thì chọn theo số phiếu từng địa phương căn cứ trên dân số. Tính đến năm 1974 thì mỗi dân biểu đại diện khoảng 50.000 cử tri. Cử tri đầu phiếu trực tiếp để chọn đại biểu ở Hạ viện và Thượng viện.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Nhiệm kỳ cuối cùng của Hạ viện bắt đầu ngày 29 tháng 8 năm 1971, đáng ra sẽ kết thúc vào tháng 8 năm 1975. Thượng viện thì phân nửa bắt đầu nhiệm kỳ vào tháng 8 năm 1970, sẽ kết thúc năm 1976. Phân nửa kia bắt đầu vào tháng 8 năm 1973, đáng ra sẽ kết thúc năm 1979. Trong 159 ghế Hạ viện thì có 6 ghế dành riêng cho người Việt gốc Miên, 6 ghế cho người Thượng, 2 ghế cho người thiểu số di cư từ thượng du miền Bắc và 2 ghế cho người Chàm. Quốc hội có những quyền hạn sau: Ở tỉnh, thị xã có Hội đồng tỉnh, thị xã, Đô thành Sài Gòn có Hội đồng Đô thành, đều do dân bầu trực tiếp với nhiệm kỳ 3 năm; thành viên Hội đồng gọi là nghị viên. Các Hội đồng này có thẩm quyền quyết định ngân sách và các vấn đề dân sinh của địa phương. Hành pháp. Phủ Tổng thống. Tổng thống là người nắm quyền hành pháp, do bầu cử lên với nhiệm kỳ 4 năm và có những quyền hạn sau: Sau vụ tu chính hiến pháp Tháng Giêng năm 1974 thì nhiệm kỳ tổng thống đổi từ 4 thành 5 năm. Ngoài ra tổng thống và phó tổng thống được phép tái đắc cử 2 lần thay vì 1 lần. Phó Tổng thống có những nhiệm vụ sau: Phó Tổng thống không được kiêm nhiệm một chức vụ nào trong các cơ quan Chính phủ khác. Theo lý thuyết thì Tổng thống không được quyền can thiệp vào nhánh lập pháp, nhưng trong thực tế thì khác. Ví dụ như năm 1969, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã vượt quyền hiến pháp, cụ thể là điều luật quy định sự bất khả xâm phạm của dân biểu, để bắt giữ và mở tòa án quân sự kết án dân biểu Trần Ngọc Châu 10 năm khổ sai, sau khi vị dân biểu này đề nghị thành lập một đoàn gồm các nhà lập pháp Việt Nam Cộng hòa để đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nội các Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa. Thủ tướng điều khiển Chính phủ và các cơ cấu hành chính quốc gia. Thủ tướng chịu trách nhiệm về sự thi hành chính sách quốc gia trước Tổng thống. Chức vụ này do Tổng thống bổ nhiệm.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Chức vụ này do Tổng thống bổ nhiệm. Chính quyền Trung ương được tổ chức thành 19 Bộ; đứng đầu mỗi bộ là tổng trưởng: Ngoài ra còn có 3 Quốc vụ khanh: Đứng đầu các Bộ là các Tổng trưởng hoặc Bộ trưởng. Các Tổng trưởng và Bộ trưởng là các thành viên của Chính phủ, thành viên của Hội đồng Nội các (Hội đồng Tổng trưởng). Trong mỗi bộ, dưới tổng trưởng theo thứ tự là đổng lý văn phòng, chánh văn phòng, công cán ủy viên, tham chánh văn phòng. Các Tổng trưởng, Bộ trưởng do Thủ tướng đề cử lên Tổng thống, Tổng thống bổ nhiệm. Thủ tướng và các thành viên Chính phủ có thể tham dự các phiên họp của Quốc hội hoặc của các Uỷ ban để trình bày và giải quyết về các vấn đề liên quan đến chính sách quốc gia và sự thi hành các chính sách quốc gia do Tổng thống hoạch định. Hành chính địa phương. Toàn bộ lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa được chia thành các Tỉnh. Thủ đô Quốc gia được gọi là Đô thành Tư pháp. Luật pháp. Luật pháp Việt Nam Cộng hòa được xây dựng căn cứ theo Bộ Hoàng Việt Hộ luật (1936-39) do triều đình Nguyễn ban hành ở Trung Kỳ cùng Bộ Dân luật Giản yếu (1883) áp dụng ở Nam Kỳ, sau châm chước thêm một số điều khoản của Bộ Dân luật Bắc Kỳ (1931). Hình luật thì có Bộ Hoàng Việt Hình luật (1933), Tố tụng tu chính của Trung Kỳ (1935) và Hình luật Nam Kỳ Canh cải (1912). Di sản luật pháp từ thời Pháp thuộc dần được thống nhất thành một bộ luật cho toàn quốc năm 1972 với tên Bộ Hình luật Việt Nam ban hành ngày 20 tháng 12 năm 1972. Theo đó có năm hạng: Tối cao Pháp Viện Việt Nam Cộng Hòa. Tối cao Pháp viện Việt Nam Cộng hòa gồm 9 thẩm phán, sau tăng thành 15 thẩm phán do Quốc hội tuyển chọn và Tổng thống bổ nhiệm. Nhiệm kỳ của thẩm phán Tối cao Pháp viện là 6 năm. Theo Hiến pháp 1967, Tối cao Pháp viện có những quyền hạn sau: Những quyết định của Tối cao Pháp viện tuyên bố một đạo luật không hợp hiến hoặc giải tán một chính đảng phải được 3/4 tổng số thẩm phán tán thành. Ở cấp Trung ương, ngoài Tối cao Pháp viện còn có Đặc biệt Pháp viện và Giám sát viện.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Đặc biệt Pháp viện gồm có Chủ tịch Tối cao Pháp viện và 10 dân biểu, nghị sĩ, có thẩm quyền truất quyền Tổng thống, Phó Tổng thống, Thủ tướng, Tổng trưởng, Bộ trưởng, thẩm phán Tối cao Pháp viện trong trường hợp can tội phản quốc và các trọng tội khác. Giám sát viện (tiếng Anh: Inspectorate General) gồm từ 9-18 giám sát viện, 1/3 do Quốc hội, 1/3 do Tổng thống và 1/3 do Tối cao Pháp viện chỉ định. Giám sát viện có thẩm quyền: Tổ chức Tòa án. Ở địa phương, có các toà án thường (gồm các toà Thượng thẩm, toà Đại hình, toà Sơ thẩm, tòa Hòa giải, toà Vi cảnh) và các toà án đặc biệt (gồm các toà Hành chính, toà Lao động, toà án Điền địa, toà án cho Thiếu nhi (thành lập năm 1958), toà án Cấp dưỡng, toà án Sắc tộc, toà án Quân sự đặc biệt - trong đó có các toà án Quân sự tại mặt trận). Cấp thấp nhất là Tòa Vi cảnh, ở nông thôn có khi do quận trưởng chủ tọa. Cao hơn thì có hệ thống Tòa Sơ thẩm có một chánh thẩm và ba phụ thẩm. Tòa Thượng thẩm thời Đệ Nhất Cộng hòa có hai sở, một ở Sài Gòn, một ở Huế. Mỗi phiên tòa này có ba thẩm án ngồi xử án. Phân cấp hành chính. Các đơn vị hành chính cấp tỉnh. Đầu năm 1956, thành lập thêm các tỉnh Tam Cần (9 tháng 2 năm 1956), Mộc Hóa (17 tháng 2 năm 1956), Phong Thạnh (17 tháng 2 năm 1956), Cà Mau (9 tháng 3 năm 1956). Theo sắc lệnh 143-NV ngày 22 tháng 10 năm 1956 của chính quyền Việt Nam Cộng hòa thì Nam phần (tức Nam Bộ) gồm 22 tỉnh và Đô thành Sài Gòn.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Như vậy, toàn bộ lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa lúc này có 35 tỉnh: Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Kon Tum, Pleiku, Darlac, Đồng Nai Thượng, Phước Long (tên cũ: Bà Rá), Bình Long (tên cũ: Hớn Quản), Long Khánh (tên cũ: Xuân Lộc), Biên Hòa, Bình Tuy, Phước Tuy (tên cũ: Bà Rịa-Vũng Tàu), Bình Dương (tên cũ: Thủ Dầu Một), Tây Ninh, Gia Định, Long An (gộp Chợ Lớn và Tân An), Kiến Tường (tên cũ: Mộc Hóa), Kiến Phong (tên cũ: Phong Thạnh), Định Tường (gộp Mỹ Tho và Gò Công), Kiến Hòa (tên cũ: Bến Tre), Vĩnh Long, Vĩnh Bình (tên cũ: Trà Vinh), An Giang (gộp Long Xuyên và Châu Đốc), Phong Dinh (tên cũ: Cần Thơ), Kiên Giang (gộp Rạch Giá và Hà Tiên), Ba Xuyên (gộp Bạc Liêu và Sóc Trăng), An Xuyên (tên cũ: Cà Mau), Côn Sơn và Đô thành Sài Gòn. Ngày 19 tháng 5 năm 1958, lập 2 tỉnh Lâm Đồng và Tuyên Đức từ tỉnh Đồng Nai Thượng. Ngày 23 tháng 1 năm 1959, lập 2 tỉnh Quảng Đức và Phước Thành. Ngày 21 tháng 1 năm 1961, lập tỉnh Chương Thiện. Năm 1962, lập 2 tỉnh Quảng Tín (31 tháng 7 năm 1962) và Phú Bổn (1 tháng 9 năm 1962). Năm 1963, lập 2 tỉnh Hậu Nghĩa (15 tháng 10 năm 1963) và Gò Công (20 tháng 12 năm 1963). Ngày 8 tháng 9 năm 1964, lập 2 tỉnh Châu Đốc và Bạc Liêu. Năm 1965, bỏ 2 tỉnh Côn Sơn (21 tháng 4 năm 1965) và Phước Thành (6 tháng 7 năm 1965). Ngày 24 tháng 9 năm 1966, lập tỉnh Sa Đéc.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Từ đó cho đến năm 1975, Việt Nam Cộng hòa có 44 tỉnh và Đô thành Sài Gòn: Quảng Trị | Thừa Thiên | Quảng Nam | Quảng Tín | Quảng Ngãi | Kon Tum | Bình Định | Pleiku | Darlac | Phú Yên | Phú Bổn | Khánh Hòa | Ninh Thuận | Tuyên Đức | Quảng Đức | Bình Thuận | Lâm Đồng | Phước Long | Bình Long | Bình Tuy | Long Khánh | Bình Dương | Tây Ninh | Phước Tuy | Biên Hòa | Hậu Nghĩa | Gia Định | Long An | Kiến Tường | Gò Công | Định Tường | Kiến Phong | Châu Đốc | Kiến Hòa | Vĩnh Long | Sa Đéc | An Giang | Kiên Giang | Vĩnh Bình | Phong Dinh | Ba Xuyên | Chương Thiện | Bạc Liêu | An Xuyên. Đơn vị đông dân nhất là Đô thành Sài Gòn; ít dân nhất là tỉnh Quảng Đức. Đứng đầu tỉnh là Tỉnh trưởng do tổng thống bổ nhiệm và báo cáo lên thủ tướng và bộ trưởng Bộ Nội vụ. Trách nhiệm của tỉnh trưởng gồm soạn ngân sách, điều hành lực lượng Nhân dân Tự vệ, giữ gìn an ninh trật tự và kiểm soát việc hành chánh. Các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh. Năm 1966, 44 tỉnh của Việt Nam Cộng hòa được chia thành 241 quận, sau tăng lên 247 quận. Quận trưởng do tỉnh trưởng đề cử và thủ tướng bổ nhiệm. Dưới quận là xã có Xã trưởng và thôn có Thôn trưởng. Toàn quốc có 2.589 xã. Tính đến năm 1974 thì chính phủ kiểm soát 2.159 xã. Ngoài Đô thành Sài Gòn ra còn có 10 thị xã tự trị trong đó có Huế, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, Cam Ranh, Đà Lạt, Vũng Tàu, Mỹ Tho, Cần Thơ và Rạch Giá. Dưới xã là thôn ấp, tổng cộng có hơn 15.000 đơn vị. Cấp tổng bị loại bỏ dần kể từ năm 1962. Việc cai trị ở cấp xã trước kia tự trị thì năm 1956 thời Đệ Nhất Cộng hòa hội đồng xã phải do tỉnh trưởng bổ nhiệm. Sang thời Đệ Nhị Cộng hòa thì việc điều hành ở cấp xã trả lại cho địa phương. Hội đồng xã do cư dân 18 tuổi trở lên bầu ra. Những xã dưới 2.000 dân thì bầu ra hội đồng 6 người. Xã trên 10.000 dân thì được bầu 12 người. Quân sự. Quân lực Việt Nam Cộng Hòa là lực lượng quân đội của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Thành lập từ năm 1955 với nòng cốt là lực lượng quân đội Quốc gia Việt Nam trong Liên hiệp Pháp, chủ yếu là Bảo an đoàn, Bảo chính đoàn. Ngày truyền thống (còn gọi là ngày Quân lực) là ngày 19 tháng 6. Quân lực Việt Nam Cộng hòa được trang bị hùng hậu với sức cơ động cao và hoả lực mạnh, được sự hỗ trợ tích cực của Mỹ và các đồng minh, để chống lại Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, vốn được sự hậu thuẫn của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quân lực Việt Nam Cộng hòa còn bị gọi là "quân đội Sài Gòn" hay "ngụy quân" theo cách gọi của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và quân Giải phóng miền Nam. Quân lực Việt Nam Cộng hòa cũng là lực lượng chính trong cuộc đảo chính 1963 lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm và tham chính trong chính quyền cho đến ngày Việt Nam Cộng hòa sụp đổ. Quân lực Việt Nam Cộng hòa là một quân đội trang bị hiện đại, tốn kém, đòi hỏi kinh phí hoạt động gần 3 tỷ đôla Mỹ mỗi năm. Nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa không thể cáng đáng được kinh phí này, nên Việt Nam Cộng hòa đã gần như phải dựa hoàn toàn vào viện trợ của Mỹ để có thể chu cấp cho ngân sách quân sự. Khi Mỹ giảm viện trợ xuống còn 1,1 tỷ đô la vào năm 1974, nền kinh tế Việt Nam Cộng Hòa lâm vào cuộc khủng hoảng với lạm phát ở mức 200%, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa không còn đủ kinh phí hoạt động, tình trạng thiếu đạn dược, vũ khí, xăng dầu đã dẫn đến hỏa lực yếu và giảm tính cơ động. Nhà báo Mỹ William J. Lederer, trong chuyến điều tra năm 1968, đã nhận thấy quân đội Việt Nam Cộng Hòa sử dụng viện trợ rất phung phí và kém hiệu quả do nạn tham nhũng. Hàng tỷ USD viện trợ kinh tế và quân sự của Mỹ đã bị các quan chức, sĩ quan tham ô rồi bán ra chợ đen. William J. Lederer đã chứng kiến những kho hàng lậu đầy ắp hàng hóa và vũ khí quân dụng, có tới cả 1.000 khẩu súng trường, bao gồm cả loại M16 hiện đại. Chính phủ Hoa Kỳ biết rõ vấn nạn này, nhưng họ làm ngơ.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
William J. Lederer nhận xét: "Tôi thấy Hoa Kỳ sẽ bị đánh bại như thế nào - không phải chỉ bằng sức mạnh của đối phương, mà bởi chính những sai lầm của mình, sự bất lực của chính mình". Quy mô buôn lậu lên tới hàng tỷ USD, với sự tham gia của đủ thành phần: quan chức và doanh nhân Việt Nam Cộng hòa, thương nhân Mỹ và Đài Loan, binh lính Mỹ, Hàn Quốc, Philippines... Ngay cả Mặt trận Dân tộc Giải phóng cũng tận dụng thị trường chợ đen, tại đây họ mua hàng hóa Mỹ để đánh lại chính quân Mỹ. Craig A. Lockard nhận xét rằng "trong sự khinh thường của những người Mỹ mà họ phục vụ, Việt Nam Cộng hòa chỉ là một thứ công cụ để hợp thức hóa việc phê chuẩn, nếu không phải là thường bị loại ra khỏi sự chỉ đạo của Mỹ. Việt Nam Cộng hòa hiếm khi đưa ra chính sách lớn, họ thậm chí còn không được tham khảo ý kiến về quyết định của Mỹ năm 1965 đưa một lực lượng lớn quân vào tham chiến trên bộ." Suốt nhiều năm phụ thuộc vào quân Mỹ đã khiến các chỉ huy Quân lực Việt Nam Cộng hòa không còn đủ khả năng để tự chiến đấu. Ký giả Alan Dawson nhận xét: "Đội quân này trang bị vũ khí tốt hơn bất kỳ nước châu Á nào khác, có nhiều máy bay chiến đấu, có nhiều đạn dược, xăng dầu, quân cụ, xe cộ và lương thực hơn hầu hết các quân đội trên thế giới. Nó chỉ thiếu mỗi một điều thôi. Một người Mỹ nói với một binh sĩ Sài Gòn rằng: Chúng tôi đã cho anh mọi thứ anh cần, trừ sự dũng cảm. Chỉ tại các anh không có thứ ấy." Với nhiều điểm yếu về chỉ huy và tinh thần chiến đấu, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã bị đánh tan vỡ nhanh chóng trong Chiến dịch Mùa Xuân 1975. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, lực lượng quân đội này đã tan rã hoàn toàn. Ngoại giao. Tính đến năm 1975 thì Việt Nam Cộng hòa đã thiết lập ngoại giao với 91 quốc gia trên thế giới, Tòa Thánh Vatican và 3 quốc gia ở cấp lãnh sự. Lập trường ngoại giao của Việt Nam Cộng hòa là không chấp nhận bang giao với chính phủ nào đã công nhận chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hoặc Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Riêng năm 1974, tức sau khi ký kết Hiệp định Paris thì 12 quốc gia cuối cùng thiết lập bang giao với Việt Nam Cộng hòa là: Ả Rập Xê Út (Tháng Hai), Chile (Tháng Ba), Uruguay và Costa Rica (Tháng Năm), Nicaragua (Tháng Sáu), Guatemala (Tháng Tám), Honduras, Grenada và Paraguay (Tháng Chín), Haiti và Ecuador (Tháng 10). Năm 1957, Việt Nam Cộng hòa đứng đơn gia nhập Liên hiệp quốc do Hoa Kỳ đề cử. Đại hội đồng (General Assembly) bỏ phiếu 40 thuận, 8 chống. Việc này chuyển lên Hội đồng Bảo an quyết định. Liên Xô muốn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng gia nhập, nhưng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ chối việc này với lý do đất nước Việt Nam không chấp nhận bị chia cắt 2 miền, nên chỉ có thể có 1 chính phủ đại diện ở Liên Hiệp quốc. Vì vậy, đơn của Việt Nam Cộng hòa bị Liên Xô phủ quyết. Cho đến khi chấm dứt tồn tại (năm 1975), Việt Nam Cộng hòa vẫn không được gia nhập Liên Hiệp quốc. Các nước lân bang. Ngày 2 tháng 2 năm 1956 Ngô Đình Diệm đã đóng cửa biên giới không cho hàng hóa nhập vào Campuchia vì nước này không công nhận chính phủ Ngô Đình Diệm. Với Lào, quốc gia láng giềng, Việt Nam Cộng hòa đã quyết định đoạn giao khi Chính phủ của Hoàng thân Souvanna Phouma công nhận và thiết lập liên lạc ngoại giao với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào năm 1962. Ngày 27 tháng 8 năm 1963 thì Campuchia cắt đứt bang giao với Việt Nam Cộng hòa vì tình hình biên giới, nhất là đòi hỏi của Campuchia muốn thu hồi toàn đất Nam Kỳ vốn họ cho là đất cũ của người Miên. Năm 1964 Việt Nam Cộng hòa đoạn giao với Indonesia, khi nước này tuyên bố công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 9 Tháng 5 năm 1966, Campuchia chính thức công nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam công khai công kích Sài Gòn. Như vậy, thất bại lớn nhất trong chính sách đối ngoại giao của chính phủ Ngô Đình Diệm ở Đông Nam Á là không lôi kéo được Lào và Campuchia ủng hộ mình. Tuy nhiên sang thời Đệ nhị Cộng hòa thì tái lập bang giao với Lào.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Với Campuchia thì phải đợi sau khi Tổng công kích Tết Mậu Thân thất bại năm 1968 và chính phủ của vua Sihanouk bị Lon Nol lật đổ, lập nên nước Cộng hòa Khmer thì ngày 5 Tháng 5, 1970, Cộng hòa Khmer trục xuất phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, công nhận và tái lập bang giao với Việt Nam Cộng hòa. Các nước tham chiến. Trong khi đó chiến cuộc leo thang. Bắt đầu từ năm 1964, một số đồng minh của Việt Nam Cộng hòa ngoài viện trợ tài lực hoặc nhân lực còn trực tiếp tham chiến như Hoa Kỳ (1964), Nam Triều Tiên (03.1965), Úc (06/1965), New Zealand (07/.1965), Thái Lan (02/1966) và Philippines (10.1966). Nhóm này mang tên Quân lực Thế giới Tự do (tiếng Anh: "The Free World Military Assistance Forces"). Lực lượng quân sự của các đồng minh dần dần rút đi vào năm 1973 với Hòa đàm Paris đang diễn tiến và rồi kết thúc. Tổ chức quốc tế. Việt Nam Cộng hòa là thành viên trong một số tổ chức quốc tế như Ủy ban Kinh tế của Liên hiệp quốc về Á châu và Viễn Đông ECAFE (1954), Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực FAO (1950); Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế IAEA (1957); Tổ chức Hàng không Dân sự Quốc tế ICAO (1954); Hiệp hội Phát triển Quốc tế IDA; Tổ chức Lao động Quốc tế ILO (1950); Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF (1956); Liên hiệp Viễn thông Quốc tế ITU (1951); Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc UNESCO (1951); Quỹ Thiếu nhi Liên hiệp quốc UNICEF, Liên hiệp Bưu chính Quốc tế UPU (1951); Tổ chức Y tế Quốc tế WHO (1950); Tổ chức Khí tượng Thế giới WMO (1955), Ngân hàng Thế giới (1956), và Ngân hàng Phát triển châu Á (1966). Đối với Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO), Việt Nam Cộng hòa là quan sát viên. Kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa là nền kinh tế thị trường, chưa phát triển và mở cửa. Mức độ tự do của nền kinh tế khá cao trong những năm 1963 đến 1973. Tuy nhiên, phát triển kinh tế vẫn được triển khai dựa trên các kế hoạch kinh tế 5 năm hoặc kế hoạch bốn năm.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Nền kinh tế phát triển ổn định trong giai đoạn 1955-1963 dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, sau đó do tác động của chiến tranh leo thang đã trở nên mất ổn định với những đặc trưng như tốc độ tăng trưởng kinh tế không đều (có nhiều năm bị âm), tỷ lệ lạm phát cao, thâm hụt ngân sách nhà nước và thâm hụt thương mại. Chính quyền đã phải tiến hành cải cách ruộng đất hai lần. Mỹ đóng vai trò to lớn đối với phát triển kinh tế của Việt Nam Cộng hòa thông qua viện trợ kinh tế cũng như hỗ trợ kỹ thuật. Trải qua 21 năm, khối lượng viện trợ kinh tế mà Hoa Kỳ cho Việt Nam Cộng Hòa là rất lớn, đạt hơn 10 tỷ USD (thời giá thập niên 1960). Đây là con số viện trợ kinh tế cao nhất của Hoa Kỳ so với bất cứ nước nào khác trên thế giới kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Ví dụ, Ấn Độ trong 20 năm (1950 - 1970) được Hoa Kỳ viện trợ 9,3 tỷ USD (trong khi dân số Ấn Độ lớn hơn 20 lần); Philippines trong 22 năm được viện trợ gần 2 tỷ USD (1945 - 1967); Thái Lan nhận được gần 1,2 tỷ USD, Indonesia nhận được gần 1 tỷ USD. Ở châu Phi, tính suốt trong 25 năm (1946 - 1970) tổng số viện trợ Hoa Kỳ cho tất cả các nước chỉ là 4,9 tỷ USD. Tại miền Nam Việt Nam, "thu nhập quốc dân chưa bao giờ vượt quá 2 tỷ USD/năm, nhưng trong 5 năm cuối cùng (1971 - 1975), viện trợ Hoa Kỳ hàng năm đạt hơn 2 tỷ USD/năm, tức là lớn hơn tổng số của cải do miền Nam Việt Nam làm ra" Giới thương nhân Hoa kiều cũng nắm giữ vị thế gần như độc quyền các ngành trong nền kinh tế, đặc biệt là sau năm 1963. Trước năm 1975, ở miền Nam, Hoa kiều kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối và tín dụng. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Đến cuối năm 1974, người Hoa kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện... và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ và 90% xuất nhập khẩu Nhìn chung, kinh tế Việt Nam Cộng hòa có quy mô nhỏ và bị hạn chế vì tình hình bất ổn, sự tàn phá của chiến tranh và lệ thuộc vào viện trợ ngoại quốc. Trong giai đoạn 1955 - 1960, nền kinh tế tăng trưởng khá nhanh và đạt được một số thành tích về nông nghiệp, công nghiệp, nhưng giai đoạn sau (1960 - 1975) thì liên tục bị sụt giảm. Lợi tức quốc gia mỗi đầu người năm 1967 là 21.013 đồng, tính theo hối suất Mỹ kim là 176,87 USD. GDP bình quân đầu người năm cao nhất (1971) của Việt Nam Cộng hòa là 200 USD, tuy nhiên đến năm 1974 đã sụt xuống còn 54 USD do Mỹ cắt giảm viện trợ và tiền Việt Nam Cộng hòa mất giá khoảng 400% trong 2 năm Theo tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, nền kinh tế có nhiều triển vọng "nếu hội đủ điều kiện cần thiết để tiến tới chỗ thoát khỏi tình trạng lạc hậu", nhưng điều kiện chiến tranh khiến kinh tế thường xuyên bị đình trệ. Một tiềm năng mới là dầu hỏa ngoài khơi. Từ năm 1968 Việt Nam Cộng hòa đã xúc tiến hợp tác với CCOP (Coordinating Committee for Offshore Prospecting in Asia) để tài trợ và thu hút kỹ thuật tìm dầu. Đến năm 1973 chính phủ cho đấu thầu 18 ô (mỗi ô là 4800 km²) để các hãng quốc tế mở cuộc thăm dò. Hãng Shell nhận ba ô, Sumingdale nhận hai ô, Mobil Oil nhận hai ô, và Esso nhận một. Đến Tháng Tám, 1974 thì tìm được mạch dầu nhưng chiến sự ngày càng nặng khiến triển vọng khai thác mỏ dầu hỏa bị bỏ dở. Nhân khẩu. Theo Viện Quốc gia Thống kê của Việt Nam Cộng hòa thì tính đến ngày 30 tháng 6/1968, dân số toàn miền (từ Quảng Trị trở xuống) là 16.259.334. Tuy nhiên, trong thực tế thì Việt Nam Cộng hòa chỉ kiểm soát được một phần số dân này, phần còn lại thuộc kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Nông thôn là nơi cư trú của 71% dân số. Dân thành thị là 29%. Gia tăng tự nhiên là 2%-2,2% với lớp trẻ dưới 20 tuổi chiếm 57%.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Trung bình thì mật độ là 95 người/cây số vuông nhưng vì phân phối không đều nên xét về mặt kinh tế thì duyên hải Trung phần là nơi nạn nhân mãn ở mức trầm trọng vì mỗi cây số vuông ruộng lúa (đất canh tác) có 1.258 người. So với Nam phần thì có 425 người mỗi cây số vuông ruộng lúa. Phân chia theo sắc tộc thì có 394.463 người Việt gốc Miên, 23.819 người Chàm và 464.354 người Thượng. Số liệu người Thượng không chính xác vì họ sống du canh ở những vùng hẻo lánh và việc kiểm tra bị hạn chế vì tình hình an ninh. Người Hoa chiếm khoảng một triệu người, tập trung ở Chợ Lớn và một số thị xã. Đông nhất là người Kinh: 15.409.126, chiếm 94,7%. Thành phố lớn nhất là thủ đô Sài Gòn với 1.736.880 dân, tính vùng phụ cận là 2.500.000. Văn hóa và xã hội. Thời Đệ Nhất Cộng hòa những ngày lễ chính là: Vào thời Đệ Nhị Cộng hòa những ngày nghỉ chính thức cho các công sở gồm có: Ngoài ra những ngày lễ cổ truyền theo âm lịch sau đây cũng được nghỉ nguyên ngày: Tổng cộng là 13 ngày nghỉ chính thức cho công chức. Ngoài ra còn có những ngày lễ cổ truyền tính theo âm lịch như ngày Giỗ trận Đống Đa (5 Tháng Giêng), Lễ Hai bà Trưng (cũng là ngày Phụ nữ Việt Nam) (6 tháng 2), Giỗ Nguyễn Du (10 Tháng Tám), Lễ Đức Thánh Trần (20 Tháng Tám), Giỗ Lê Lợi (22 Tháng Tám), Giỗ Phan Bội Châu (29 Tháng Chín) cũng là những ngày lễ chính thức tuy công sở vẫn làm việc. Có một số ngày lễ khác như Vu-lan (rằm Tháng Bảy) và tết Trung thu (rằm Tháng Tám) (còn có tên là Ngày Thiếu nhi Sản xuất), Ngày Nông dân Việt Nam (26 Tháng 3), Ngày Quân lực (19 Tháng 6), Ngày Quốc tế Viện trợ (22 Tháng 6) Ngày Cựu chiến binh (9 Tháng 7), Ngày Nhân dân Tự vệ (5 Tháng 8) được liệt vào "ngày đặc biệt" không nghỉ nhưng có tiết mục kỷ niệm của chính quyền. Một thành tựu văn hóa tại Miền Nam là ngành tân nhạc với khoảng 10.000 bản nhạc ra đời trong khoảng thời gian 1945-75. Đại đa số những bản nhạc này sau năm 1975 đều bị chính quyền mới cấm lưu hành thường gọi là nhạc vàng.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Chính phủ đã hoàn tất việc xây dựng Thư viện Quốc gia Việt Nam, khởi công từ năm 1968 nhưng đến năm 1971 mới khánh thành tòa cao ốc. Lúc mở cửa, Thư viện có 121.000 đầu sách. Năm 1975 khi chính quyền mới tiếp thu thì thư viện này có 200.000 đầu sách. Dự tính của chính phủ sẽ tiến tới việc thành lập Hàn lâm Viện nhưng bước đầu chỉ có Ủy ban Điển chế Văn tự thuộc Bộ Văn hóa. Một đặc điểm của xã hội miền Nam vào thời điểm đó là sự đa dạng của xã hội dân sự, tức thành phần không thuộc chính phủ mà cũng không thuộc thị trường kinh doanh. Những cơ sở tên tuổi trong ngành công tác xã hội là cô nhi viện Dục Anh, Cô nhi viện Quách Thị Trang trại giáo hóa thanh thiếu niên phạm pháp Thủ Đức, viện dưỡng lão Thị Nghè, trung tâm hướng nghiệp Vườn Lài, Quán cơm xã hội Anh Vũ (phát cơm cho người nghèo). Cùng đó là những đoàn thể tiêu biểu như Hội Hồng Thập Tự, tổ chức Hướng đạo Việt Nam, Trường Bách khoa Bình dân, nhóm Thanh niên Phụng sự Xã hội và gia đình Phật tử của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Thiếu nhi Thánh thể, Phong trào Du ca Việt Nam, Hội Thanh niên Thiện chí, v.v. Đây là một khác biệt lớn giữa hai miền Nam Bắc trong thời gian đất nước chia đôi. Giáo dục. Trước năm 1954, ở miền Nam có một chi nhánh của Viện Đại học Hà Nội (tiếng Pháp: "Université de Hà Nội") đặt tại Sài Gòn. Sau Hiệp định Genève 1954 chia cắt đất nước thành hai vùng tập kết quân sự, chi nhánh này cùng với một bộ phận của Viện Đại học Hà Nội chuyển từ miền Bắc vào trở thành Viện Đại học Quốc gia Việt Nam. Vào năm 1957, Viện Đại học Quốc gia Việt Nam trở thành Viện Đại học Sài Gòn theo sau việc thành lập Viện Đại học Huế. Đến năm 1973, Viện Đại học Sài Gòn đã đào tạo theo chương trình quốc tế.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Sau này các bác sĩ Việt Nam di tản sang Mỹ, chỉ cần một hai năm đào tạo lại và học thêm tiếng Anh là hành nghề được Ngoài Viện Đại học Sài Gòn, Việt Nam Cộng hòa còn có các viện đại học khác như Viện Đại học Huế, Viện Đại học Đà Lạt, Viện Đại học Cần Thơ, Viện Đại học Vạn Hạnh, Viện Đại học Minh Đức, Viện Đại học Hòa Hảo, Viện Đại học Cao Đài, v.v... Năm 1973, tổng số sinh viên đại học tăng lên 98.832 người so với chỉ 2.900 người vào năm 1955. Số học sinh trung học trong cùng năm ấy là trên một triệu so với 43.000; và học sinh tiểu học, trên ba triệu so với 401.000. Ngoài ra còn các trường đại học cộng đồng (trường đại học hệ hai năm), trường huấn nghiệp và các chương trình công nghệ. Các trường đại học cộng đồng được thiết lập từ năm 1970 trở đi, đặt cơ sở ở Định Tường, Nha Trang, Sài Gòn, Đà Nẵng, Vĩnh Long... Triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa là "nhân bản, dân tộc và khai phóng". Điều này ghi trong tài liệu "Những nguyên tắc căn bản" do Bộ Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó được ghi lại trong Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1967. Tuy nhiên, chính phủ Việt Nam Cộng hòa lại chưa có văn bản cụ thể hóa cách hiểu ba nguyên tắc này là như thế nào, vì vậy, khi áp dụng những nguyên tắc này vào thực tế thì bị lúng túng, vá víu. Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa cũng ghi nhận "nhà nước cố gắng xây dựng nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí", "giáo dục đại học được tự trị" và "những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn". Tuy nhiên, do ngân sách giáo dục eo hẹp, hệ thống trường học thiếu thốn và không có chính sách khuyến học hiệu quả nên có nhiều trẻ em nghèo vẫn không thể đến trường. Chỉ khoảng 24% tổng số thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18 là được đi học.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Nội san AĐS cho biết: "Cứ 100 em vào lớp đầu của bậc tiểu học thì chỉ có 3 em được học trung học đệ nhị cấp, còn 97 em bị hất ra ngoài nền giáo dục đại chúng của ông Thiệu, và trong tiểu học có 51% học sinh không được học lên lớp 4" Tới năm 1974, tỷ lệ người dân biết đọc và viết của Việt Nam Cộng hòa ước tính vào khoảng 70% dân số, 30% còn lại vẫn mù chữ. Trong suốt quá trình tồn tại, giáo dục Việt Nam Cộng hòa có sự hỗ trợ lớn cả về tài chính và nhân sự của Mỹ. Theo Nguyễn Khắc Viện, mục tiêu của Mỹ trong việc này là đào tạo nên đội ngũ cán bộ chính phủ chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng và văn hóa Mỹ. Nhiều bộ sách giáo khoa được lồng ghép nhiều mục tiêu chống Cộng của Việt Nam Cộng hòa, ví dụ sách giáo khoa giáo dục công dân lớp 4 của Bộ giáo dục năm 1960 ghi rằng "Cộng sản là những kẻ phản bội gia đình, đất nước và tôn giáo". Có quan điểm cho rằng các môn học về xã hội (lịch sử, địa lý) thời Việt Nam Cộng hòa thường nặng về ca tụng sự viện trợ của Pháp, Mỹ, nền độc lập giả hiệu của chế độ tay sai và biện minh cho hành động xâm lược của ngoại quốc. Y tế. Hệ thống y tế nhìn chung là nhỏ bé, thường bị quá tải và thiếu thuốc men. Theo cựu bộ trưởng y tế Việt Nam Cộng hòa trả lời thì vào năm 1967, toàn miền nam khi đó chỉ có khoảng 160 bác sĩ, và chỉ có khoảng 5 nữ hộ sinh cho mỗi 100.000 người dân. Toàn bộ chương trình y tế công cộng của Việt Nam Cộng hòa chỉ được phân bổ khoảng 2% chi tiêu ngân sách. Tại Huế, một bệnh viện 1.500 giường hoàn toàn không nhận được dụng cụ y tế từ Chính phủ, chỉ có sự trợ giúp từ chính phủ Tây Đức thì nó có thể tiếp tục hoạt động. Bác sĩ David McLanahan cho biết vào mùa hè năm 1966, Bệnh viện phẫu thuật Đà Nẵng có 350 giường bệnh nhưng chưa bao giờ có dưới 700 bệnh nhân. Toàn miền Nam chỉ có khoảng 100 bệnh viện, trạm y tế với khoảng 25.000 giường bệnh, việc 2 hoặc 3 bệnh nhân nằm chung một giường không phải là hiếm (2 bệnh nhân nằm chung một giường đã trở thành quy tắc bắt buộc tại Đà Nẵng).
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Bệnh viện nhi duy nhất phải chứa khoảng 600 bệnh nhân cho 220 giường bệnh, nên nhiều trẻ phải nằm trên giấy báo và trong các bệnh viện khác, một số tờ báo và giấy gói thường được sử dụng để băng bó vết thương, vì đó là chất liệu duy nhất có sẵn. Viện trợ y tế của Mỹ không thấm tháp gì so với hàng ngàn trẻ em bị bỏng nặng bởi bom napalm và bom phosphor do quân Mỹ thả xuống. Bệnh nhân bỏng nặng nhiều khi chỉ được sơ cứu rồi bị đuổi khỏi phòng bệnh để lấy chỗ cho những trường hợp nguy cấp hơn. Kết quả là nhiều trường hợp phải cắt cụt chi để đỡ tốn thời gian điều trị. Thể thao. Các đội tuyển thể thao của Việt Nam Cộng hòa đã sớm tham gia thi đấu quốc tế tại châu Á, đặc biệt là môn bóng đá. Đội thể thao của Việt Nam Cộng hòa tham dự thể thao ở các kỳ đại hội SEAP Games (nay là SEA Games), Asiad, Thế vận hội Mùa hè đến năm 1975. Về bóng đá, đội tuyển Việt Nam Cộng hòa có 2 thành tích chính: giành huy chương vàng môn bóng đá tại SEAP Games năm 1959 (giải đấu năm đó có 4 đội tham dự), và giành cúp vô địch giải Merdeka Cup năm 1966 Tuy nhiên, kể từ năm 1970, thành tích của đội bị suy giảm, số trận thắng ít hơn nhiều so với số trận thua Với các môn thể thao nói chung, Việt Nam Cộng hòa giành được 2 chiếc huy chương vàng tại Đại hội Thể thao châu Á 1958 ở Nhật Bản và xếp hạng 8 trong số 20 nước tham gia kỳ đại hội này Ngoài ra Việt Nam Cộng hòa còn tham gia nhiều môn thể thao tại các kỳ đại hội thể thao Đông Nam Á (SEAP Game, tiền thân của SEAGames sau này), Asiad đến năm 1975. Nhìn chung tại SEAP Game, đoàn Việt Nam Cộng hòa thường xếp vị trí 5/6 hoặc 6/7 trong số các đoàn tham dự, có 2 kỳ xếp dưới cả Campuchia (1971 và 1973), chỉ riêng năm 1961 đạt hạng 4/7. Cơ sở hạ tầng. Một hệ quả của chiến tranh là mang tới cho Miền Nam một hạ tầng cơ sở khá tốt so với các nước đang phát triển trong thời kỳ đó. Để phục vụ mục đích quân Pháp, Mỹ cho xây nhiều trục đường và sân bay, điều này gián tiếp giúp phát triển kinh tế dù việc xây dựng hạ tầng là rất tốn kém và mất thời gian.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Giao thông. Về đường hàng không, ngoài những phi trường lớn như Tân Sơn Nhất, Cam Ranh, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ và Biên Hòa có thể tiếp nhận phản lực đủ loại còn có những phi trường nhỏ ở Đà Lạt, Huế, Kontum, Phú Quốc. Pleiku, Rạch Giá và Qui Nhơn. Cộng thêm vào là khoảng 100 sân bay nhỏ, rải rác khắp nơi, rất tiện cho việc liên lạc giữa các địa phương. Hãng Air Vietnam là công ty không vận chính. Về đường thủy và đường bộ, miền Nam có tới 4.780 cây số sông, rạch (3.000 dặm Anh). Hải cảng lớn gồm Sài Gòn, Cam Ranh, Đà Nẵng, Nha Trang, Rạch Giá. Còn đường sá có tới 21.000 km đường trong đó gần 12.000 km là đường trải nhựa, đi được quanh năm. Cầu các loại qua sông tới gần 4.000 cây rất nhiều cầu đã bị hư hỏng do chiến tranh, nhưng sửa chữa lại thì cũng nhanh. Xe lam, xe xích lô máy và phương tiện di chuyển với động cơ dưới 49cc thì không thuộc dạng phải đăng ký. Tính đến năm 1974 thì có tổng cộng 258.514 xe lưu thông trên hệ thống đó (bao gồm 35.384 xe vận tải nặng và 64.229 chiếc xe hơi), chưa kể xe gắn máy (có khoảng 800.000 vào cuối thập niên 1960, tất cả được nhập khẩu từ Nhật và Ý). Tuy nhiên, đến cuối năm 1969, do Mỹ ngừng thuê lao động khiến lạm phát trở nên nghiêm trọng, khiến chính phủ Việt Nam Cộng hòa phải ban lệnh cấm nhập khẩu xe từ nước ngoài. Xa lộ xây dựng đầu tiên là xa lộ Biên Hòa, khánh thành ngày 28 tháng 4 năm 1961. Về đường sắt, tuyến đường sắt Xuyên Đông Dương đã được Pháp làm xong từ năm 1936, nhưng đến thập niên 1950 thì đoạn đường phía nam vĩ tuyến 17, khoảng 1/3 đã bị hư hại vì chiến tranh, không sử dụng được. Còn lại là hai khúc từ Đông Hà vào Đà Nẵng và từ Sài Gòn ra Ninh Hòa. Việc tái thiết kéo dài bốn năm cho đến năm 1959 thì xe lửa mới chạy được suốt từ Sài Gòn ra Đông Hà, lần đầu tiên sau 12 năm gián đoạn. Năng suất đường sắt lúc đầu có nhiều triển vọng nhưng sang thập niên 1960 thì tình hình an ninh là một cản trở lớn.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Năm 1963 trở đi thì xe lửa hành khách không chạy vào đêm nữa vì những đợt tấn công của Mặt trận dân tộc trên tuyến đường từ Huế vào Sài Gòn. Tính đến năm 1971-1972 thì Việt Nam Cộng hòa có 1.240 km đường sắt nhưng chỉ có 57% sử dụng được. Dù vậy, tổng lượng hành khách và hàng hóa chuyên chở bằng đường sắt lại tăng dần. Tuy nhiên, khi Mỹ dần rút quân thì hạ tầng giao thông dần xuống dốc do thiếu kinh phí duy trì. Đến cuối năm 1969, do Mỹ ngừng thuê lao động người Việt và giảm viện trợ nên kinh tế Việt Nam Cộng Hòa bị suy thoái, lạm phát trở nên nghiêm trọng, khiến chính phủ Việt Nam Cộng hòa phải ban lệnh cấm nhập khẩu xe hơi từ nước ngoài. Cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973 tiếp tục giáng một đòn mạnh vào hệ thống giao thông. Do giá dầu nhập khẩu tăng cao trong khi Mỹ giảm viện trợ kinh tế, Việt Nam Cộng hòa lâm vào tình trạng thiếu xăng dầu, nhiều xe cộ phải xếp xó, những nhà khá giả cũng chỉ đủ tiền mua xăng chạy xe khi có dịp quan trọng. Ngay cả ở Sài Gòn, tình trạng người dân phải đi bộ hoặc đi xe đạp để tới chỗ làm cách xa vài km đã trở nên phổ biến từ năm 1973 Hệ thống viễn thông và thông tin. Tính đến năm 1970 Miền Nam có 20.000 điện thoại dân sự đăng ký, tính cả nước là 30.964. Mạng điện thoại và điện tín thuộc ty bưu điện với đường dây nối Sài Gòn với Đài Bắc, Calcutta, Manila, Osaka, Paris, Brussel, Bern, Bonn, Madrid và New York. Trong nước hệ thống điện thoại nối Sài Gòn với 21 tỉnh lỵ. Hệ thống phát thanh quốc gia Việt Nam, tức đài radio mang tên Vô tuyến Việt Nam (VTVN) vào giữa thập niên 1960 bao gồm đài trung ương ở Sài Gòn và tám đài khu vực phát sóng từ Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Ban Mê Thuột, Nha Trang, Đà Lạt và Cần Thơ. Ngoài ra có những đài địa phương ở những tỉnh Quảng Nam, Phú Yên, Long An, Kiến Tường và Định Tường. Đến năm 1972 thì có tổng cộng 49 đài phát thanh và 5 đài truyền hình đặt ở Sài Gòn, Huế, Quy Nhơn, Nha Trang và Cần Thơ. Toàn quốc (1967) có 1.300.000 radio.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Toàn quốc (1967) có 1.300.000 radio. Truyền hình thì bắt đầu ngày 7 Tháng Hai 1966, lúc đầu chỉ phát hình một giờ mỗi ngày. Sau vào đầu thập niên 1970 thời lượng phát hình của Đài Truyền hình Việt Nam là sáu giờ mỗi ngày vào buổi chiều. 80% dân chúng ở Miền Nam có thể bắt sóng xem được. Nhật báo trong nước có 48 tờ nhật báo phát hành, đại đa số bằng tiếng Việt nhưng cũng có nhật báo bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Hoa và tiếng Miên. Tính trung bình cho mỗi 1.000 người thì có 51 ấn bản báo chí. Rạp chiếu bóng tính đến năm 1964 có 170 rạp chiếu phim 35mm, trong đó khoảng 100 rạp tập trung ở vùng Sài Gòn, Chợ Lớn. Điện lực. Công suất điện lực đạt 125 MW năm 1961 nhưng do chiến tranh nên tụt xuống còn 117 MW (năm 1968). Sang năm 1971 lên được 278 MW. Phân tích thành phần nguồn điện năm 1961 thì 56% bằng nhiệt điện đốt than, 43% bằng dầu diezen và 1% bằng thủy điện với đập Đa Nhim bắt đầu hoạt động Tháng Tư năm 1961. Đánh giá. Quan điểm của đối phương. Theo quan điểm của đối phương tức Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì họ không công nhận sự hợp pháp của chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Họ xem nó chỉ là một thứ "quốc gia giả hiệu" để Hoa Kỳ hợp thức hóa mưu đồ chia cắt Việt Nam của Mỹ. Cũng theo quan điểm của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, Việt Nam Cộng hòa được Hoa Kỳ lập ra để "dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam", ngăn chặn phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, khống chế, dập tắt các cuộc đấu tranh cách mạng ở nông thôn, bình định đồng bằng, lập ấp Chiến lược để dồn dân, chiếm đóng, khống chế quần chúng. Hoa Kỳ thí nghiệm cuộc chiến tranh đó để rút kinh nghiệm đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, đe doạ các nước mới giành được độc lập, bắt các nước đó phải chấp nhận chủ nghĩa thực dân mới.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Do vậy một phần lớn người dân miền Nam không ủng hộ Việt Nam Cộng hòa mà đã đi theo phong trào Đồng khởi giành chính quyền Các chiến lược chiến tranh của Hoa Kỳ và kế hoạch lập "Ấp Chiến lược" của Việt Nam Cộng hòa đã vấp phải sự chống đối mạnh mẽ của người dân miền Nam nên đã phá sản. Lực lượng vũ trang của quân Giải phóng có thể đánh nhiều trận táo bạo, có hiệu suất cao cũng là nhờ có sự hỗ trợ của nhân dân miền Nam. Vùng quân Giải phóng kiểm soát nhờ đó được mở rộng, chiếm phần lớn lãnh thổ miền Nam, trở thành hậu phương trực tiếp và vững chắc giúp họ đương đầu được với quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa. Những quan điểm trên được thể hiện rõ qua các nhận định của Đài Tiếng nói Việt Nam, cơ quan phát thanh quốc gia của Việt Nam. Bên cạnh đó, Đài Tiếng nói Việt Nam cũng đưa ra nhận đình rằng Việt Nam Cộng hòa không phải là một chính thể được lòng dân. Năm 1965, khi trả lời phỏng vấn nhà báo nước ngoài về việc đàm phán hòa bình có phụ thuộc chủ yếu vào Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam và chính quyền Sài Gòn (chỉ Việt Nam Cộng hòa) hay không, chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: Quan điểm của chính quyền Mỹ. Tài liệu được giải mật của Lầu Năm Góc vào năm 2010 viết: "Không có sự yểm trợ của Hoa Kỳ, Diệm hầu như chắc chắn không thể đứng vững được ở miền Nam... Nam Việt Nam, về bản chất, là một sáng tạo của Hoa Kỳ" Thậm chí tổng thống Mỹ Nixon trong lúc tức giận còn từng nói: "Không thể để có cái đuôi chó phản lại cái đầu con chó được." Ngoài ra, Thượng nghị sĩ John F. Kennedy, Thượng nghị sĩ Donald Duncan, Trung tướng Bernard Trainor (từng phục vụ ở Việt Nam hai lần, của cả hai loại hình Chiến tranh đặc biệt và Chiến tranh cục bộ) cũng đưa ra những quan điểm của riêng mình. Quan điểm của giới chức Việt Nam Cộng hoà.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Quan điểm của giới chức Việt Nam Cộng hoà. Các quan chức cấp cao Việt Nam Cộng hoà cũng công nhận sự lệ thuộc của họ vào Hoa Kỳ, trong đó có Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống Dương Văn Minh, Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ, Đại tướng Cao Văn Viên, Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Tổng trưởng Kinh tế Nguyễn Tiến Hưng, Tổng Tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Có, Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Văn Ngân (Trợ lý đặc biệt của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu)... Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu đã từng phát biểu: Quan điểm của phong trào phản chiến tại Mỹ. Năm 1972, Uỷ ban đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ tổ chức một cuộc điều trần về cuộc chiến tranh Việt Nam suốt ba ngày liền, xoay quanh chủ đề nguồn gốc, nguyên nhân của cuộc chiến Việt Nam và những bài học rút ra từ đó. Bốn học giả có tên tuổi đại diện cho phong trào phản chiến Leslie Gelb, James Thomson, Arthur Schlesinger và Noam Chomsky, từng nghiên cứu nhiều về Việt Nam, được Quốc hội Mỹ mời đến báo cáo góp ý kiến cho Quốc hội về cuộc chiến tranh Việt Nam. Đánh giá về Việt Nam Cộng hòa, giáo sư Noam Chomsky của học viện MIT đã nói: Theo một góc nhìn khác, tiến sĩ Daniel Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc và là cố vấn Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ trong buổi phỏng vấn với CNN và trong quyển sách "Những Bí mật về Chiến tranh Việt Nam" đã viết: Quan điểm của giới sử gia phương Tây. Nhiều nhà sử học phương Tây thì xem chính thể này như là sản phẩm của chính sách can thiệp thực dân mới mà Mỹ tiến hành tại Đông Nam Á. Nhà sử học Frances FitzGerald viết: Nhiều sử gia cho rằng chính thể này là một chính phủ con rối của Mỹ. Chuyên gia bình định, Trung tá Mỹ William R. Corson thừa nhận rằng ""vai trò của chế độ bù nhìn của Mỹ ở miền Nam Việt Nam là "cướp bóc, thu thuế, tái lập lại địa chủ, và tiến hành trả thù chống lại người dân". Nhà sử học James Gibson tóm tắt tình hình: "Chế độ miền Nam Việt Nam không có khả năng chiến thắng vì không có sự ủng hộ của những người nông dân, nó đã có không còn là một "chế độ" theo đúng nghĩa.
Việt Nam Cộng hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=98
Liên minh chính trị bất ổn định và hoạt động bộ máy thì quan liêu. Hoạt động của chính phủ dân sự và quân sự đã hầu như chấm dứt. Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã gần như tuyên bố quyền kiểm soát tại các khu vực rộng lớn... nó rất khác với một chính phủ Sài Gòn yếu ớt, không có nền dân chủ cơ bản và một mong muốn mạnh mẽ cho sự thống nhất Việt Nam"". Các nhà nghiên cứu Craig A. Lockard, Gregory Daddis, Marilyn Young, James M. Carter cũng từ những góc độ khác nhau để đưa ra những nhận định ủng hộ quan điểm trên.
Sacramento, California
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=103
Thành phố Sacramento (phát âm: "Xa-cra-men-tô", nghĩa là "Bí tích (Thánh Thể)") là trung tâm của quận Sacramento và là thủ phủ của tiểu bang California. Sacramento được John Sutter (con) thành lập vào tháng 12 năm 1848 từ vùng đất mang tên Sutter's Fort do cha ông, đại uý John Sutter (cha) gây dựng vào năm 1839. Trong cơn sốt tìm vàng ở California, thành phố Sacramento trở thành địa điểm phân phối chính, là trung tâm thương nghiệp, nông nghiệp và là điểm cuối cùng của các tuyến xe lửa, các tuyến xe ngựa (tiếng Anh: "stage-coach"), đường thủy (tiếng Anh: "riverboat"), điện báo, bưu chính tốc hành chuyển bằng ngựa (tiếng Anh: "pony express") và đường xe lửa xuyên lục địa đầu tiên (tiếng Anh: "transcontinental railroad").
Los Angeles
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=104
Los Angeles (viết tắt LA; phát âm tiếng Anh: ; phiên âm Lót An-giơ-lét (Lạc Sam cơ); Tiếng Tây Ban Nha: "Los Ángeles") là thành phố lớn nhất tiểu bang California và lớn thứ nhì tại Hoa Kỳ, thuộc về Quận Los Angeles. Thành phố còn được gọi tắt là Los ("Lốt") bởi người Việt ở vùng lân cận. Theo Thống kê dân số năm 2000, thành phố này có 3.694.820 người.vùng lân cận thành phố này, còn được gọi là Miền Nam California, gồm có Quận Los Angeles, Quận San Bernardino, Quận Cam, Quận Riverside và Quận Ventura, là một trong những nơi đông dân nhất Hoa Kỳ với 16 triệu người. Thành phố được thành lập vào năm 1781 do người Tây Ban Nha tại México với tên là "El Pueblo de Nuestra Señora Reina de los Ángeles de la Porciúncula" ("Thị trấn của Đức Mẹ Nữ Vương của các Thiên thần của sông Porciúncula" trong tiếng Tây Ban Nha, "porciúncula" nghĩa là "phần nhỏ" và "los Ángeles" nghĩa là "những thiên thần"). Vào năm 1821 khi Mexico giành độc lập từ Tây Ban Nha, thành phố này thành một phần của nước đó. Sau Chiến tranh Hoa Kỳ–Mexico, Los Angeles lại rơi vào tay Hoa Kỳ. Thành phố này nổi danh là một trung tâm điện ảnh. Rất nhiều minh tinh sống ở thành phố Beverly Hills lân cận, nhiều phim và chương trình truyền hình được thâu tại Hollywood, một phần của thành phố này. Theo Điều tra Dân số Hoa Kỳ năm 2000, số người Mỹ gốc Việt ở Los Angeles là 19.747 người, chiếm 0.5% dân số toàn thành phố. Lịch sử. Khu vực bờ biển Los Angeles đã được cư dân Tongva (hay Gabrieleños), Chumash, và các bộ tộc của những người Thổ dân châu Mỹ sinh sống từ hàng ngàn năm. Những người châu Âu đầu tiên đến đây năm 1592, dẫn đầu là Juan Cabrillo - một người thám hiểm Bồ Đào Nha đã tuyên bố vùng đất này cho Đế quốc Tây Ban Nha nhưng không ở lại đó. Lần có người châu Âu tiếp xúc khu vực này là 227 năm sau khi Gaspar de Portolà cùng với Franciscan padre Juan Crespi, đã đến khu vực ngày nay là Los Angeles ngày 2 tháng 8 năm 1769. Năm 1771, Cha Junípero Serra đã cho xây Mission San Gabriel Arcágel gần Whittier Narrows ở gần Thung lũng San Gabriel ngày nay. Ngày 4 tháng 9 năm 1781, một nhóm 52 người định cư từ Tân Tây Ban Nha là hậu duệ người châu Phi đã thiết lập phái đoàn San Gabriel để lập nên khu định cư dọc theo bờ của sông Porciúncula (ngày nay là sông Los Angeles).
Los Angeles
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=104
Những người định cư này có tổ tiên là người Philippines, Ấn Độ và Tây Ban Nha, 2/3 là người lai. Năm 1777, thống đốc mới của tiểu bang California, Felipe de Neve, giới thiệu đến phó vương Tân Tây Ban Nha rằng nơi được phát triển thành tỉnh (thị trấn). Khu vực này được đặt tên là "El Pueblo de Nuestra Señora la Reina de los Ángeles del Río de Porciúncula" ("Thị trấn của Đức bà Nữ hoàng của các thiên thần của sông Porciúncula"). Nó vẫn là một thị trấn nhỏ trong nhiều thập kỷ, nhưng năm 1829 dân số đã tăng lên khoảng 650, khiến nó là cộng đồng dân sự lớn nhất ở California thuộc Tây Ban Nha. Ngày nay, outline của Pueblo vẫn được gìn giữ ở một tượng đài lịch sử quen được gọi là đường Olvera, trước đây là đường Rượu, được đặt tên theo Augustin Olvera. Tân Tây Ban Nha đã giành được độc lập khỏi Đế quốc Tây Ban Nha năm 1821 và tỉnh vẫn tiếp tục là một phần của Mexico. Sự cai trị của Mexico đã chấm dứt trong Chiến tranh Mexico-Hoa Kỳ, khi người Mỹ giành được quyền kiểm soát từ người Californio sau một loạt các cuộc chiến. Trận chiến San Pascual, Trận chiến Dominguez và sau cùng là Trận chiến Rio San Gabriel năm 1847. Hiệp ước Cahuenga được ký ngày 13 tháng 1 năm 1847, chấm dứt thu địch ở California và sau đó Hiệp ước Guadalupe Hidalgo (1848), chính phủ Mexico đã chính thức nhượng Alta California và các lãnh thổ khác cho Hoa Kỳ. Những người châu Âu và Mỹ đã củng cố sự kiểm soát thành phố sau khi họ di cư đến California trong Cơn sốt vàng California và đảm bảo sự gia nhập sau đó của California vào Hoa Kỳ năm 1850. Đường sắt đã đến khi Công ty đường sắt Nam Thái Bình Dương (Southern Pacific Railroad) đã hoàn thành tuyến đường sắt đến Los Angeles năm 1876. Dầu mỏ được phát hiện năm 1892 và đến năm 1923, Los Angeles đã cấp ¼ lượng dầu mỏ thế giới. Một nhân tố góp phần phát triển thành phố là nước. Năm 1913, William Mulholland hoàn thành đường ống dẫn nước đảm bảo cho sự tăng trưởng của thành phố. Năm 1915, Thành phố Los Angeles bắt đầu sáp nhập thêm hàng chục cộng đồng dân cư xung quanh không tự cấp nước cho chính mình được. Một tài khoản được tiểu thuyết hóa rộng của Chiến tranh nước thung lũng Owens có thể được tìm thấy trong phim điện ảnh phố Tàu năm 1974. Trong thập niên 1920, phim hoạt hình và ngành hàng không đã đổ xô đến Los Angeles đã giúp thành phố phát triển.
Los Angeles
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=104
Thành phố này là nơi đăng cai Thế vận hội Mùa hè 1932 chứng kiến sự phát triển của Đồi Baldwin là Làng Olympic ban đầu. Thời kỳ này cũng chứng kiến sự di dân đến của những người lưu vong từ các căng thẳng hậu chiến ở châu Âu, bao gồm những nhà quý tộc như Thomas Mann, Fritz Lang, Bertolt Brecht, Arnold Schoenberg và Lion Feuchtwanger. Chiến tranh thế giới thứ hai mang đến phát triển và thịnh vượng mới cho thành phố này, dù nhiều người Mỹ gốc Nhật bị chở đến các trại tập trung trong thời kỳ diễn ra cuộc chiến. Thời kỳ hậu chiến chứng kiến một sự bùng nổ lớn hơn khi sự lan ra của đô thị đã mở rộng đến Thung lũng San Fernando. Những cuộc bạo loạn Watts năm 1965 và "cơn giận" của Trường trung học Chicano cùng với sự tạm đình chỉ Chicano đã cho thấy sự chia rẽ chủng tộc sâu sắc hiện hữu trong thành phố này. Năm 1969, Los Angeles đã là một trong hai "nơi sinh" ra Internet khi sự truyền ARPANET được gửi từ UCLA đến SRI ở Menlo Park, California. Thế vận hội Mùa hè 1984 đã được Los Angeles đăng cai năm 1984. Thành phố lại được thử thách qua Bạo loạn Los Angeles 1992 và Trận động đất Northridge 1994 và năm 2002 sự cố gắng ly khai của Thung lũng Fernando và Hollywood đã bị thất bại trong cuộc bỏ phiếu. Sự tái phát triển và sự sang trọng hóa đô thị đã diễn ra ở nhiều nơi trong thành phố, đặc biệt là trung tâm. Địa lý. Theo Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ, thành phố có tổng diện tích 498,3 dặm vuông (1.290,6 km²), 469,1 dặm vuông (1.214.9 km²) là diện tích đất và 29,2 dặm vuông (75,7 km²) là diện tích mặt nước, diện tích mặt nước chiếm 5,86%. Khoảng các cực bắc và cực nam là 44 dặm (71 km), khoảng các giữa cực đông-tây là 29 dặm (47 km), và chiều dài của biên giới thành phố là 342 dặm (550 km). Diện tích đất lớn thứ 9 trong các thành phố của Hoa Kỳ lục địa. Điểm cao nhất của Los Angeles là Đỉnh Sister Elsie (5.080 feet) thuộc phía xa về phía Tây Bắc của Thung Lũng San Fernando thuộc một phần của rặng núi Lukens. Sông Los Angeles là một con sông phần lớn là theo mùa chảy xuyên qua thành phố có thượng nguồn ở Thung lũng San Fernando. Suốt chiều dài của sông hoàn toàn bị kè bằng bê tông. Vùng Los Angeles khá phong phú về các loài thực vật bản địa.
Los Angeles
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=104
Với những bãi biển, đụn cát, vùng đất ngập nước, đồi, núi và sông, khu vực này chứa đựng một số quần cư sinh vật quan trọng. Khu vực rộng nhất là thảm thực vật bụi cây xô thơm ven biển bao bọc các sườn đồi ở chaparral dễ bắt lửa. Các loại cây bản địa bao gồm: cây thuốc phiện California, cây thuốc phiện matilija, toyon, cây sồi bờ biển, cỏ lúa mạch đen hoang dã khổng lồ, và hàng trăm loại khác. Thật không may, nhiều loài cây bản địa quá hiếm và có nguy cơ tuyệt chủng như hoa hướng dương Los Angeles... Có nhiều loài hoa lạ và những cây có hoa nở hoa quanh năm với màu sắc huyền ảo và đa dạng... Địa chất. Los Angeles chịu động đất do gần đường đứt gãy San Andreas, cũng như các rãnh đứt nhỏ hơn San Jacinto và Banning. Trận động đất lớn gần đây nhất là Trận động đất Northridge 1994, có tâm chấn ở phía Bắc Thung lũng San Fernando. Chưa đến hai năm sau sau khi các bạo loạn 1992, Trận động đất Northridge đã là một cú sốc lớn cho dân Nam California và gây thiệt hại vật chất lên đến hàng tỷ dollar Mỹ. Các trận động đất khác ở khu vực Los Angeles bao gồm Trận động đất Whittier Narrows 1987, Trận động đất Sylmar 1971, và Trận động đất Long Beach 1993. Tuy nhiên, phần lớn các trận động đất là khá nhỏ. Nhiều khu vực ở Los Angeles trải qua từ một đến hai trận động đất nhỏ mỗi năm nhưng không có thiệt hại. Các dư chấn rất khó cảm nhận mà chỉ thông qua máy đo địa chấn được ghi nhận hàng ngày. Nhiều phần của thành phố cũng dễ bị ảnh hưởng bởi sóng thần Thái Bình Dương; các khu vực bến cảng đã từng bị hư hại bởi các đợt sóng từ Trận động đất Đại Chile năm 1960. Cảnh quan thành phố. Thành phố được chia ra nhiều khu dân cư, nhiều trong số đó đã bị sáp nhập vì thành phố ngày càng được mở rộng. Cũng có nhiều thành phố độc lập bên trong và xung quanh Los Angeles, nhưng các thành phố này thường được xếp nhóm vào thành phố Los Angeles, do Los Angeles nuốt chửng hoặc nằm bên trong vùng lân cận của nó. Nói chung, thành phố được chia ra các khu vực sau: Trung tâm L.A., Đông L.A., Nam Los Angeles, Khu vực Cảng, Hollywood, Wilshire, Westside, và San Fernando và các thung lũng Crescenta. Một vài cộng đồng của Los Angeles bao gồm Bãi biển Venice... Các vấn đề môi trường.
Los Angeles
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=104
Do vị trí địa lý, Los Angeles nhạy cảm với đảo ngược khí quyển, ô tô là phương tiện chính và cộng với phức hợp cảng L.A./Long Beach, thành phố chịu ô nhiễm không khí dưới dạng khói mù. Lòng chảo Los Angeles và Thung lũng San Fernando giữ lại khói của xe ô tô, xe tải chạy diesel, tàu thủy, và các động cơ đầu máy xe lửa cũng như công nghiệp chế tạo và các nguồn khác. Ngoài ra, nước ngầm đang bị đe dọa gia tăng bởi MTBE từ các trạm xăng và perchlorat từ nhiên liệu rocket. Không như các thành phố khác nhờ mưa để rửa sạch khói mù, Los Angeles chỉ nhận được 15 inches (380 mm) mưa mỗi năm, do đó khói mù có thể tích tụ tăng lên liên tục mỗi ngày. Điều này đã khiến cho bang California tìm kiếm các loại xe cộ có chất thải ít. Nhờ đó, mức ô nhiễm đã giảm trong những thập kỷ gần đây.. Dân cư. Theo thống kê của 2006–2008 American Community Survey, top 10 nhóm dân có nguồn gốc châu Âu là: Nguồn: Số liệu thống kê từ U.S. Census Bureau cho biết số dân của thành phố là 3,833,995. California Department of Finance thống kê dân số là 4,094,764 vào ngày 1, tháng 1 năm 2009. Kinh tế. Nền kinh tế của Los Angeles được thúc đẩy bởi thương mại quốc tế, truyền hình giải trí, điện ảnh, công nghệ âm nhạc, không gian, công nghệ, dầu khí, thời trang, trang sức, du lịch. Los Angeles cũng là trung tâm chế tạo lớn nhất Hoa Kỳ. Các Cảng Los Angeles và cảng Long Beach cùng nhau tạo thành cảng quan trọng ở Bắc Mỹ và là một trong những cảng quan trọng của thế giới và có vai trò quan trọng đối với thương mại trong Vành đai Thái Bình Dương. Các ngành quan trọng khác bao gồm truyền thông, tài chính, viễn thông, luật, y tế, vận tải. Trong nhiều năm, cho đến giữa thập niên 1990, Los Angeles là nơi đóng trụ sở của nhiều định chế tài chính ở miền Tây nước Mỹ, bao gồm First Interstate Bank, đã được sáp nhập với Wells-Fargo năm 1996, Great Western Bank, đã sáp nhập với Washington Mutual năm 1998, và Security Pacific National Bank, đã sáp nhập với Bank of America năm 1992. Los Angeles cũng là nơi đóng trụ sở của Sở giao dịch chứng khoán Pacific cho đến khi ngưng hoạt động năm 2001. Vùng đô thị Los Angeles có tổng sản phẩm vùng đô thị 1000 tỷ USD năm 2017, là vùng đô thị kinh tế lớn thứ 3 thế giới, sau các vùng đô thị Tokyo và New York.
Los Angeles
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=104
Los Angeles được xếp hạng là "thành phố toàn cầu alpha" theo một nghiên cứu năm 2012 bởi một nhóm tại Đại học Loughborough. Thành phố này là nơi đóng trụ sở của 3 công ty nằm trong Fortune 500 bao gồm nhà thầu không gian Northrop Grumman, công ty năng lượng Occidental Petroleum Corporation, và công ty xây nhà ở KB Home. Đại học Nam California (USC) là đơn vị tư nhân thuê nhân công lớn nhất thành phố. Các công ty đóng trụ sở ở Los Angeles bao gồm Twentieth Century Fox, Latham & Watkins, Univision, Metro Interactive, LLC, Premier America, CB Richard Ellis, Gibson, Dunn & Crutcher LLP, Guess?, O'Melveny & Myers LLP, Paul, Hastings, Janofsky & Walker LLP, Tokyopop, The Jim Henson Company, Paramount Pictures, Robinsons-May, Sunkist, Fox Sports Net, Health Net, Inc., 21st Century Insurance, L.E.K. Consulting, và The Coffee Bean & Tea Leaf. Vùng đô thị có trụ sở của nhiều công ty khác, nhiều trong số đó muốn rời khỏi thành phố để tránh thuế má cao. Ví dụ, Los Angeles đánh thuế tổng cộng trên phần trăm doanh thu kinh doanh, trong khi các thành phố xung quanh chỉ đánh một mức tỷ lệ cố định nhỏ. Do đó các công ty gần thành phố này tránh được thuế cao. Một vào công ty đóng ở Hạt Los Angeles là Shakey's Pizza (Alhambra), Academy of Motion Picture Arts and Sciences (Beverly Hills), City National Bank (Beverly Hills), Hilton Hotels (Beverly Hills), DiC Entertainment (Burbank), The Walt Disney Company (Fortune 500 – Burbank), Warner Bros. (Burbank), Countrywide Financial Corporation (Fortune 500 – Calabasas), THQ (Calabasas), Belkin (Compton), Sony Pictures Entertainment (parent of Columbia Pictures, located in Culver City), Computer Sciences Corporation (Fortune 500 – El Segundo), DirecTV (El Segundo), Mattel (Fortune 500 – El Segundo), Unocal (Fortune 500 – El Segundo), DreamWorks SKG (Glendale), Sea Launch (Long Beach), ICANN (Marina Del Rey), Cunard Line (Santa Clarita), Princess Cruises (Santa Clarita), Activision (Santa Monica), và RAND (Santa Monica). Du lịch. Thành phố này có biệt danh là Thành phố của các Thiên thần. Los Angeles là trung tâm kinh doanh, thương mại quốc tế, giải trí, văn hóa, truyền thông, thời trang, khoa học, thể thao, công nghệ và giáo dục. Los Angeles là cơ sở của Hollywood nên thành phố được mệnh danh là "Thủ đô giải trí thế giới", thành phố này có nhiều nhân vật nổi tiếng trên thế giới. Các trường đại học và cao đẳng. Có nhiều trường đại học và cao đẳng công ở thành phố này, bao gồm Đại học California tại Los Angeles, Đại học Tiểu bang California, Los Angeles, và Đại học Tiểu bang California, Northridge. Các trường đại học công gần Los Angeles bao gồm: Đại học Tiểu bang California, Long Beach, Đại học Tiểu bang California, Dominguez Hills và Bách khoa Cali Pomona. Các thành phố kết nghĩa.
Los Angeles
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=104
Các thành phố kết nghĩa. Los Angeles có 25 thành phố kết nghĩa, được liệt kê theo thứ tự thời gian theo năm đã tham gia:
San Francisco
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=105
San Francisco (; theo tiếng Tây Ban Nha là "Thánh Phanxicô"), tên chính thức là Thành phố và Quận San Francisco (), là một trung tâm văn hóa, thương mại và tài chính ở tiểu bang California của Hoa Kỳ. Tọa lạc tại miền Bắc California, San Francisco là thành phố đông dân thứ 17 ở Hoa Kỳ và là thành phố đông dân thứ tư ở California, với 873.965 cư dân tính đến năm 2020. Nó có diện tích khoảng , chủ yếu nằm ở cực bắc của Bán đảo San Francisco thuộc Khu vực vịnh San Francisco, nó trở thành thành phố lớn có mật độ dân số cao thứ hai của Hoa Kỳ và là quận có mật độ dân số cao thứ năm của Hoa Kỳ, chỉ sau bốn trong số năm quận của Thành phố New York. San Francisco là vùng đô thị lớn thứ 12 ở Hoa Kỳ với 4,7 triệu cư dân và là lớn thứ tư theo sản lượng kinh tế, với GDP là 592 tỷ đô la vào năm 2019. Cùng với San Jose, California, nó tạo thành khu vực thống kê kết hợp San Jose–San Francisco–Oakland đông dân thứ năm ở Hoa Kỳ, với 9,6 triệu cư dân . Các biệt danh thông tục dành cho San Francisco bao gồm "SF", "San Fran", "The City" ("Thành phố") và "Frisco". Năm 2019, San Francisco là quận có thu nhập cao thứ bảy ở Hoa Kỳ, với thu nhập bình quân đầu người là 139.405 đô la. Trong cùng năm, San Francisco có GDP là 203,5 tỷ đô la và GDP bình quân đầu người là 230.829 đô la. Khu vực thống kê kết hợp San Jose–San Francisco–Oakland có GDP là 1,09 nghìn tỷ đô la vào năm 2019, là vùng kinh tế lớn thứ ba của quốc gia này. Trong số 105 khu vực thống kê chính tại Hoa Kỳ với hơn 500.000 cư dân, CSA này có GDP bình quân đầu người cao nhất vào năm 2019, ở mức 112.348 đô la. San Francisco được xếp thứ 12 trên thế giới và thứ hai ở Hoa Kỳ về Chỉ số Tài chính Toàn cầu tính đến tháng 3 năm 2021. San Francisco được thành lập vào ngày 29 tháng 6 năm 1776, khi những người thực dân Tây Ban Nha thành lập Pháo đài San Francisco tại eo biển Golden Gate và cách đó vài dặm là trụ sở hội truyền giáo San Francisco de Asís, cả hai đều được đặt theo tên của Phanxicô thành Assisi. Cơn sốt vàng California năm 1849 đã mang lại tốc độ phát triển nhanh chóng, khiến nó trở thành thành phố lớn nhất ở Bờ Tây vào thời điểm đó; từ năm 1870 đến năm 1900, khoảng một phần tư dân số tiểu bang California cư trú tại thành phố. Năm 1856, San Francisco trở thành một quận-thành phố thống nhất.
San Francisco
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=105
Sau khi ba phần tư thành phố bị phá hủy do trận động đất và hỏa hoạn năm 1906, nó nhanh chóng được xây dựng lại, đây là nơi đăng cai Triển lãm Quốc tế Panama–Thái Bình Dương 9 năm sau đó. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nó là một bến cảng chính cho các hoạt động vận chuyển binh sĩ đến Mặt trận Thái Bình Dương. Sau đó, nó cũng trở thành nơi ra đời của Liên Hợp Quốc vào năm 1945. Sau chiến tranh, sự trở về của các quân nhân, lượng người nhập cư đáng kể, quan điểm tự do hóa, sự trỗi dậy của những nền văn hóa phản kháng như "beatnik" và "hippie", cách mạng tình dục, phong trào hòa bình phát triển từ việc phản đối sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Chiến tranh Việt Nam, và các yếu tố dẫn đến Mùa hè Tình yêu và phong trào đòi quyền lợi cho người đồng tính, củng cố San Francisco như một trung tâm hoạt động tự do ở Hoa Kỳ. Về mặt chính trị, thành phố chủ trương theo đường lối của Đảng Dân chủ. Là một địa điểm du lịch nổi tiếng, San Francisco được biết đến với mùa hè mát mẻ, sương mù, những ngọn đồi dốc, sự kết hợp đa dạng của nhiều nền kiến trúc khác nhau, và các địa danh bao gồm Cầu Cổng Vàng, tàu điện cáp treo, Nhà tù Alcatraz, Bến Ngư Phủ và Khu phố Tàu. San Francisco còn là nơi đặt trụ sở chính của các công ty như Wells Fargo, Twitter, Square, Airbnb, Levi Strauss & Co., Gap Inc., Salesforce, Dropbox, Pacific Gas and Electric Company, Uber và Lyft. Thành phố này cùng với Vùng Vịnh xung quanh là trung tâm toàn cầu của khoa học và nghệ thuật đồng thời là nơi đặt trụ sở của một số tổ chức giáo dục và văn hóa, chẳng hạn như Đại học California, San Francisco (UCSF), Đại học San Francisco (USF), Đại học Liên bang San Francisco (SFSU), Bảo tàng de Young, Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại San Francisco, Trung tâm SFJAZZ, Nhà hát Giao hưởng San Francisco và Học viện Khoa học California. Gần đây, hạn hán trên toàn tiểu bang California đã gây ảnh hưởng xấu đến an ninh nguồn nước của thành phố. Lịch sử. Bằng chứng khảo cổ xưa nhất về sự sinh sống của con người trong khu vực thành phố San Francisco là vào năm 3000 TCN.
San Francisco
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=105
Nhóm Yelamu thuộc tộc người Ohlone đã sống trong vài ngôi làng nhỏ khi một đoàn thám hiểm Tây Ban Nha của Don Gaspar de Portolà đến nơi vào ngày 2 tháng 11 năm 1769, đây là chuyến viếng thăm khu vực vịnh San Francisco đầu tiên của người Hoa được ghi chép. Bảy năm sau đó, vào ngày 28 tháng 3 năm 1776, Tây Ban Nha thiết lập một trại binh và sau đó là một tòa nhà truyền giáo có tên là "Missión de San Francisco de Asís" (hay "Missión Dolores"). Ngay sau khi độc lập khỏi Tây Ban Nha năm 1821, khu vực này trở thành một phần đất của México. Dưới quyền của chính phủ Mexico, hội truyền giáo dần dần kết thúc và phần đất của hội được tư nhân hóa. Năm 1835, một người Anh có tên William Richardson lập ra khu đất nông trại độc lập đầu tiên, gần một bến tàu quanh khu vực ngày nay là Quảng trường Portsmouth. Cùng với Francisco de Haro, ông lập ra bản thiết kế đường phố để mở rộng khu định cư. Một thị trấn được đặt tên là Yerba Buena bắt đầu hấp dẫn người định cư Mỹ tìm đến đây. Chuẩn tướng John D. Sloat tuyên bố chủ quyền California nhân danh Hoa Kỳ vào ngày 7 tháng 7 năm 1846 trong cuộc Chiến tranh Mexico-Mỹ. Hai ngày sau đó, Đại tá John B. Montgomery đến và tuyên bố chủ quyền đối với Yerba Buena. Yerba Buena được đổi tên thành San Francisco ngày 30 tháng 1 vào năm sau đó, và Mexico chính thức nhượng lãnh thổ cho Hoa Kỳ vào cuối chiến tranh. Mặc dù vị trí hấp dẫn của nó trong vai trò của một hải cảng và căn cứ hải quân, San Francisco vẫn là một khu định cư nhỏ với địa hình khó có thể sinh sống được. Cơn sốt vàng California mang đến làn sóng người đi tìm vàng. Với bánh mì bột chua mang theo, những người tìm thời vận tập trung tại San Francisco thay vì thành phố đối thủ Benicia, làm cho dân số của San Francisco tăng từ 1000 vào năm 1848 lên đến 25.000 vào tháng 12 năm 1849. Kỳ vọng vào sự giàu có nhanh chóng thì rất đổi mạnh mẽ đến nổi những thuyền viên của những con tàu cập bến đều bỏ tàu và nhanh chóng tìm đến các khu tìm vàng, bỏ lại một rừng cột buồm tại bến tàu San Francisco. California nhanh chóng được thu nhận thành một tiểu bang. Quân đội Hoa Kỳ xây dựng đồn Point tại Golden Gate và một đồn trên đảo Alcatraz để bảo vệ Vịnh San Francisco.
San Francisco
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=105
Sự phát hiện ra các mỏ bạc, bao gồm mỏ bạc Comstock năm 1859, đã đẩy dân số lên nhanh hơn nữa. Với từng đoàn người đi tìm thời vận tỏa khắp thành phố, tình trạng vô luật pháp trở nên phổ biến. Khu duyên hải Barbary của thị trấn khét tiếng là nơi dung thân của tội phạm, cờ bạc và mại dâm. Các doanh nghiệp tìm cách kiếm lợi trên sự thịnh vượng mà cơn sốt vàng tạo ra. Những người thắng lớn đầu tiên là ngành công nghiệp ngân hàng mà tiêu biểu là ngân hàng Wells Fargo được thành lập vào năm 1852 và Bank of California năm 1864. Sự phát triển cảng San Francisco và việc thành lập tuyến giao thông trên bộ năm 1869 vươn tới hệ thống đường sắt nằm ở phía đông Hoa Kỳ qua ngã tuyến đường sắt vừa mới được hoàn thành có tên là Đường sắt Thái Bình Dương đã giúp biến khu vực vịnh San Francisco thành một trung tâm giao thương. Để thỏa mãn nhu cầu và khẩu vị của dân số gia tăng, Levi Strauss mở một tiệm bán quần áo và Domingo Ghirardelli bắt đầu sản xuất Sô-cô-la. Các lao công di dân đã biến nơi đây thành một nơi văn hóa đa ngôn ngữ. Công nhân xây dựng đường sắt người Trung Hoa lập nên khu Phố Tàu của thành phố. Năm 1870, người châu Á(đa số là người Hoa) chiếm đến 8% dân số. Xe cáp đầu tiên chuyên chở người San Francisco lên đến Phố Clay vào năm 1873. Biển nhà kiểu kiến trúc Victoria của thành phố bắt đầu hình thành và các nhà lãnh đạo dân sự đã vận động để thành phố xây dựng một công viên công cộng rộng rãi với kết quả là Công viên Cổng Vàng được quy hoạch. Những người San Francisco xây trường học, nhà thờ, nhà hát và tất cả các nhu yếu cho cuộc sống dân sự. Đồn lũy San Francisco được phát triển thành cơ sở quân sự quan trọng nhất của Hoa Kỳ trên duyên hải Thái Bình Dương. Năm 1890, dân số San Francisco đạt đến con số 300 ngàn người và trở thành thành phố lớn thứ 8 của Hoa Kỳ vào thời gian đó. Khoảng năm 1901, San Francisco là một thành phố lớn được biết đến vì kiểu cách chói lọi, các khách sạn oai vệ, các biệt thự khang trang nằm trên Nob Hill và một phong cảnh nghệ thuật phong phú. Cơn dịch Bắc Mỹ đầu tiên là cơn dịch San Francisco 1900–1904. Vào lúc 5:12 sáng ngày 18 tháng 4 năm 1906, một trận động đất lớn làm rung chuyển San Francisco và Bắc California.
San Francisco
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=105
Khi các tòa nhà đổ sập vì run lắc, các đường ống dẫn khí đốt bị hư hại đã gây ra những đám cháy lan khắp thành phố. Trận cháy không thể dập tắt được đã kéo dài mấy ngày đêm. Vì hệ thống nước không hoạt động nên Quân đoàn Pháo binh của Đồn San Francisco tìm cách ngăn chặn đám cháy bằng cách đặt chất nổ phá hủy các dãy phố để tạo ra những điểm cách lửa. Hơn ba phần tư thành phố bị tàn phá trong đó có phần lớn toàn bộ khu trung tâm thành phố. Con số thương vong đương thời được báo cáo là khoảng 498 người thiệt mạng nhưng các con số ước đoán hiện đại cho rằng có thể là vài ngàn người. Hơn nữa dân số thành phố 400 ngàn người trở thành vô gia cư. Người tị nạn định cư tạm thời trong các khu lều tạm được dựng lên trong Công viên Cổng Vàng, đồn San Francisco, trên các bãi biển, và khắp các nơi khác. Nhiều người đã rời bỏ thành phố vĩnh viễn để tới East Bay (vịnh phía đông). Cuộc tái thiết được tiến hành nhanh chóng trên mức độ lớn. Bỏ qua những lời kêu gọi tái điều chỉnh lại hoàn toàn các đường phố theo chiều ngang dọc thẳng hàng, người San Francisco đã chọn lựa tốc độ tái thiết nhanh chóng. Ngân hàng Ý của Amadeo Giannini sau đó trở thành Bank of America, cung cấp các khoản vay vốn cho nhiều người mà kế sinh nhai đã bị hủy hoại sau trận động đất. Hội Nghiên cứu Đô thị và Quy hoạch San Francisco đầy ảnh hưởng được thành lập vào năm 1910 nhằm chú tâm đến chất lượng nhà ở sau trận động đất. Trận động đất đã thúc đẩy việc phát triển các khu dân cư phía tây. Các khu dân cư này vẫn tồn tại sau trận hỏa hoạn trong đó có khu Pacific Heights là nơi nhiều người giàu có của thành phố đã tái xây dựng nhà của họ. Tiếp theo, các ngôi biệt thự bị tàn phá của khu Nob Hill trở thành các khách sạn lớn. Tòa thị chính San Francisco lại được xây dựng theo kiểu kiến trúc Beaux-Arts tráng lệ, và thành phố ăn mừng sinh nhật vào dịp Hội chợ Quốc tế Panama-Thái Bình Dương năm 1915. Chính trong thời kỳ này San Francisco đã xây dựng một số dự án cơ sở hạ tầng quan trọng nhất của thành phố.
San Francisco
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=105
Kỹ sư công chính Michael O'Shaughnessy được thị trưởng James Rolph thuê mướn làm kỹ sư trưởng của thành phố vào tháng 9 năm 1912 để trông coi việc xây dựng hồ chứa nước Twin Peaks, đường hầm Phố Stockton, đường hầm Twin Peaks, đường sắt thành phố San Francisco, một hệ thống chữa cháy áp suất cao, và hệ thống cống nước thảy mới. Hệ thống chuyên chở thô sơ của San Francisco mà một số tuyến đường J, K, L, M, và N vẫn còn tồn tại ngày nay, được gấp rút hoàn thành dưới sự giám sát của O'Shaughnessy giữa năm 1915 và 1927. Chính Đập O'Shaughnessy, Hồ chứa nước Hetch Hetchy, và Cống nước Hetch Hetchy đã có ảnh hưởng lớn nhất đối với thành phố San Francisco. Sự cung cấp nước dồi dào cho phép San Francisco trở thành thành phố San Francisco như bây giờ. Trong những năm tiếp theo, thành phố củng cố vị thế của mình như một thủ phủ tài chính. Kết quả là sau sự kiện thị trường chứng khoáng sụp đổ năm 1929, không có một ngân hàng đơn lẻ nào có trụ sở chính tại San Francisco bị sụp đổ. Thật ra, ngay ở lúc cao trào của đại khủng hoảng thì San Francisco đã tiến hành hai dự án kỹ thuật công chánh vĩ đại, đồng lúc xây dựng cầu Vịnh San Francisco – Oakland và cầu Cổng Vàng, hoàn thành chúng vào năm 1936 và 1937 theo thứ tự vừa kể. Chính trong thời kỳ này đảo Alcatraz, một trại giam quân sự xưa, bắt đầu phục vụ trong vai trò một nhà tù liên bang với mức độ an ninh tối đa, giam giữ những phạm nhân khét tiếng như Al Capone, và Robert Franklin Stroud (biệt danh Birdman of Alcatraz). San Francisco sau đó ăn mừng sự tái sinh vị thế quyền lực của mình bằng một hội chợ thế giới, đó là Hội chợ Quốc tế Golden Gate năm 1939–40. Thành phố xây dựng đảo Treasure nhân tạo giữa vịnh San Francisco để làm nơi tổ chức hội chợ này. Suốt Chiến tranh thế giới thứ hai, Xưởng sửa chữa tàu Hải quân Hunters Point trở thành một trung tâm hoạt động hải quân, và đồn Mason trở thành cảng chính yếu đưa quân phục vụ Mặt trận Thái Bình Dương. Sự bùng nổ việc làm đã kéo nhiều người, đặc biệt là người Mỹ gốc châu Phi từ miền Nam Hoa Kỳ, đến khu vực này. Sau chiến tranh, nhiều quân nhân trở về từ ngoại quốc và các thường dân trước kia đến đây tìm việc làm đã quyết định ở lại đây.
San Francisco
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=105
Hiến chương tạo nên Liên Hợp Quốc được thảo ra và ký tại thành phố San Francisco năm 1945 vào năm 1951, Hiệp ước San Francisco chính thức kết thúc chiến tranh với Nhật Bản. Các dự án quy hoạch đô thị trong thập niên 1950 và thập niên 1960 bao gồm việc phá hủy và tái phát triển rộng khắp các khu dân cư phía tây và xây dựng các xa lộ cao tốc mới. Tuy nhiên chỉ có một loạt các đoạn xa lộ cao tốc ngắn được xây dựng trước khi chúng bị đình chỉ xây dựng vì sự phản đối của người dân thành phố. Khi việc chuyên chở bằng côngtenơ được khởi sự thì các cầu tàu nhỏ của thành phố San Francisco trở nên lỗi thời vì thế các hoạt động chuyên chở hàng hóa được di chuyển đến cảng Oakland lớn hơn. Thành phố bắt đầu mất các việc làm công nghiệp và chuyển sang du lịch như ngành quan trọng nhất trong nền kinh tế của mình. Các khu ngoại ô trải qua sự phát triển nhanh chóng. San Francisco cũng trải qua sự thay đổi nhân khẩu đáng kể khi từng đợt lớn dân số người da trắng rời bỏ thành phố và được thay thế bởi một làn sóng di dân gia tăng từ châu Á và Mỹ Latinh đến. Từ năm 1950 đến năm 1980, thành phố mất trên 10 phần trăm dân số. Trải qua thời kỳ này, San Francisco trở thành một nam châm cho phong trào phản-văn hóa của Mỹ. Các nhà văn thế hệ Beat tiếp lửa cho phong trào Phục hưng San Francisco và tập trung trên khu dân cư North Beach trong thập niên 1950. Những người theo phong trào Hippie đổ xô đến khu dân cư Haight-Ashbury vào thập niên 1960 với đỉnh điểm là hiện tượng xã hội Summer of Love năm 1967. Năm 1974, các vụ giết người trong vụ án Zebra đã khiến cho ít nhất 16 người chết. Hai mươi hai vụ gây án xảy ra trong khoảng thời gian dài 6 tháng mà đa số nạn nhân là người da trắng với ba nghi can bị bắt là người da đen. Trong thập niên 1970, thành phố trở thành một trung tâm của phong trào dân quyền của người đồng tính với sự lộ diện của khu dân cư The Castro trong vai trò một làng đô thị của người đồng tính, sự kiện Harvey Milk (người tự nhận là đồng tính) được bầu vào Hội đồng Giám sát San Francisco, và vụ ám sát ông cùng với thị trưởng George Moscone năm 1978.
San Francisco
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=105
Bank of America hoàn thành tòa nhà "555 California Street" năm 1969 và tòa nhà Transamerica Pyramid được hoàn thành năm 1972, làm dấy lên một làn sóng "Manhattan hóa" (Manhattan là trung tâm của Thành phố New York nơi có nhiều tòa nhà chọc trời) kéo dài cho đến cuối thập niên 1980, một thời kỳ phát triển kéo dài để xây các tòa nhà cao tầng trong khu vực trung tâm thành phố. Thập niên 1980 cũng chứng kiến một sự gia tăng lớn con số người vô gia cư trong thành phố, đây là một vấn đề vẫn còn tồn tại đến ngày nay cho dù nhiều cố gắng đã được thực hiện để đối phó tình trạng này. Trận động đất Loma Prieta 1989 gây tàn phá và thiệt hại nhân mạng khắp khu vực vịnh San Francisco. Tại thành phố San Francisco, trận động đất làm hự hại nặng các công trình trong khu Marina và South of Market. Xa lộ cao tốc Embarcadero bị hư hại và phần lớn Xa lộ cao tốc Central bị hư hại cần phải bị phá hủy để thành phố tu sửa lại mặt tiền bờ biển phố chính lịch sử của thành phố và làm tái sinh khu dân cư Hayes Valley. Trong thời kỳ bùng nổ dot-com, các công ty mới mở đã tiếp thêm sinh lực cho nền kinh tế thành phố. Một số lớn các doanh nghiệp và nhà phát triển ứng dụng điện toán dời vào thành phố, theo sau là các chuyên gia bán hàng, thiết kế và tiếp thị, làm thay đổi bộ mặt xã hội thành phố khi các khu dân cư trước đây nghèo nàn hơn bổng trở nên ngày càng năng động. Nhu cầu đối với nhà ở mới và chỗ làm văn phòng đã khiến tạo nên một làm sóng phát triển nhà cao tầng lần thứ hai và lần này là khu South of Market. Vào năm 2000, dân số thành phố lên đến con số cao mới, vượt qua kỷ lục được ghi nhận của năm 1950. Khi bong bóng Dot-com xẹp vào năm 2001 nhiều trong số các công ty này gói gọn lại và sa thảy công nhân của mình. Tuy nhiên kỹ thuật cao và doanh nghiệp tự lập vẫn là dòng chính của nền kinh tế San Francisco. Sự bùng nổ mạng truyền thông xã hội châm ngòi cho sự phát triển kinh tế thành phố trong thập niên thứ hai của tân thế kỷ. Địa lý. San Francisco nằm trên Tây Duyên hải Hoa Kỳ ở đầu bắc của bán đảo San Francisco. Địa giới của thành phố bao gồm một số vùng nước đáng kể thuộc Thái Bình Dương và vịnh San Francisco.
San Francisco
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=105
Một vài đảo - Alcatraz, đảo Treasure và đảo Yerba Buena lân cận, và một số phần nhỏ của đảo Alameda, đảo Red Rock, và đảo Angel - là một phần của thành phố. Ngoài ra còn có quần đảo Farallon không người, nằm xa khoảng trong Thái Bình Dương. Phần đất chính bên trong địa giới của thành phố gần như hình thành nên một "hình vuông có mỗi cạnh dài 7 dặm," đây là lối nói thông tục địa phương phổ biến để chỉ hình thể của thành phố mặc dù tổng diện tích của nó bao gồm vùng nước là gần . San Francisco lừng danh vì những ngọn đồi của nó. Có hơn 50 ngọn đồi bên trong địa giới thành phố. Một số khu dân cư được đặt tên của ngọn đồi mà chúng nằm trên đó trong đó phải kể là Nob Hill, Potrero Hill, và Russian Hill (từ Hill có nghĩa là đồi). Gần trung tâm địa lý của thành phố, ở phía tây nam khu vực phố chính, là một loạt các ngọn đồi có ít dân cư sinh sống. Twin Peaks là một cặp đồi hình thành nên điểm cao nhất của thành phố. Đây là một điểm quan sát được ưa thích để nhìn xuống bên dưới. Ngọc đồi cao nhất của San Francisco có tên Núi Davidson cao và có một cây thánh giá cao được xây dựng năm 1934. Cao vượt hẳn khu vực này là tháp Sutro, một tháp truyền hình và radio lớn màu trắng đỏ. Các đoạn đứt gãy địa chất San Andreas và Hayward là nguyên nhân của nhiều hoạt động địa chấn gây động đất tuy rằng cả hai vết đứt gãy này thật sự không đi qua thành phố. Vết đứt gãy San Andreas gây ra trận động đất năm 1906 và năm 1989. Các trận động đất nhỏ xảy ra đều đặn. Mối đe dọa của các trận động đất lớn đóng vai trò lớn trong việc phát triển cơ sở hạ tầng của thành phố. Thành phố xây dựng hệ thống cung cấp nước hỗ trợ và liên tục nâng cấp quy định tiêu chuẩn nhà cao tầng, bắt buộc gia cố thêm các tòa nhà cũ và tiêu chuẩn kỹ thuật cao đối với các công trình xây cất mới. Tuy nhiên, hàng ngàn tòa nhà nhỏ hơn vẫn có thể dễ dàng bị hư hại khi động đất. Đường bờ biển của San Francisco đã và đang phát triển ra bên ngoài địa giới tự nhiên của nó. Toàn bộ các khu dân cư như Marina, Mission Bay, và Hunters Point cũng như các phần lớn của Embarcadero nằm bên trên các khu san lấp lấn biển.
San Francisco
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=105
Đảo Treasure được xây dựng từ đất nạo vét trong vịnh cũng như đất đá lấy từ công trình xây dựng đường hầm đi qua đảo Yerba Buena trong lúc xây dựng cầu bắt qua vịnh. Phần đất như thế có chiều hướng không bền vững lúc động đất. Sự hóa lỏng đất sau động đất sẽ gây thiệt hại nặng nề cho nhà cửa bất động sản được xây dựng bên trên như đã được thấy tại khu Marina trong trận động đất Loma Prieta năm 1989. Phần lớn các dòng nước tự nhiện của thành phố như lạch Islais và lạch Mission bị nhà cửa và các công trình xây dựng bên trên mặc dù Ủy ban Công chánh San Francisco đang nghiên cứu các đề nghị khai thông lộ thiên hay khôi phục lại một số con lạch. Khí hậu. Một câu trích dẫn phổ biến được hiểu lầm là của Mark Twain được đọc như sau "Mùa đông lạnh nhất mà tôi đã từng trải qua là một mùa hè tại San Francisco". Khí hậu San Francisco có đặc điểm khí hậu Địa Trung Hải của duyên hải California mát mẻ vào mùa hè, "thường thường có mùa đông ôn hòa ẩm ướt và mùa hè khô khan". Vì nó bị bao quanh ba phía là nước nên khí hậu San Francisco bị ảnh hưởng mạnh bởi những dòng nước lạnh của Thái Bình Dương, làm điều hòa sự thay đổi nhiệt độ và tạo ra khí hậu quanh năm tương đối ôn hòa với chút ít thay đổi nhiệt độ theo mùa. Trong số các thành phố lớn của Hoa Kỳ, San Francisco có các nhiệt độ thấp nhất, cao nhất và trung bình hàng ngày lạnh nhất so với các nơi khác vào tháng 6, tháng 7 và tháng 8. Vào mùa hè, không khí nóng bốc lên cao tại các thung lũng nội địa của California tạo nên một khu vực áp thấp, kéo theo gió từ Bắc Thái Bình Dương thổi qua Golden Gate và tạo nên gió lạnh và sương mù đặc biệt của thành phố. Sương mù ít thấy hơn ở các khu dân cư phía đông cũng như ít thấy hơn trong suốt giai đoạn cuối hè và đầu thu, đây là giai đoạn ấm nhất trong năm. Vì địa hình phức tạp và ảnh hưởng của biển, San Francisco có vô số vi khí hậu riêng biệt. Các ngọn đồi cao tại trung tâm địa lý của thành phố chịu trách nhiệm cho 20% phương sai về lượng mưa hàng năm giữa các phần khác nhau của thành phố.
San Francisco
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=105
Chúng cũng trực tiếp bảo vệ các khu dân cư ở phía đông tránh khỏi sương mù và đôi khi điều kiện thời tiết rất lạnh và gió mà khu Sunset hứng chịu. Đối với những ai sống bên phía đông thành phố, San Francisco có nắng nhiều hơn với con số trung bình 260 ngày bầu trời sáng và chỉ có 105 ngày có mây trong một năm. Trung bình nhiệt độ vượt chỉ trong khoảng 29 ngày một năm. Vào mùa khô từ tháng năm đến tháng 10, nhiệt độ từ ôn hòa cho tới ấm với nhiệt độ cao trung bình là và nhiệt độ thấp trung bình là . Vào mùa mưa từ tháng 11 đến tháng 6, nhiệt độ hơi lạnh hơn với nhiệt độ cao trung bình là và thấp trung bình là . Trung bình, có 73 ngày mưa một năm, và lượng mưa trung bình hàng năm là . Tuyết rơi trong thành phố thì rất hiếm với chỉ 10 lần tuyết rơi có độ dày đáng kể được ghi nhận từ năm 1852, gần đây nhất là vào năm 1976 khi có đến tuyết rơi trên Twin Peaks. Nhiệt độ cao kỷ lục nhất được văn phòng Cục Thời tiết Quốc gia Hoa Kỳ ghi nhận chính thức là vào ngày 17 tháng 7 năm 1988, và ngày 14 tháng 6 năm 2000. Nhiệt độ thấp kỷ lục nhất là vào ngày 11 tháng 12 năm 1932. Cục Thời tiết Quốc gia Hoa Kỳ cung cấp trợ giúp về hình ảnh có ích cho việc vẽ họa đồ thông tin trong bảng dưới dây để biểu thị rõ từng tháng với nhiệt độ tiêu biểu hàng năm, nhiệt độ năm trước và nhiệt độ kỷ lục. Quang cảnh thành phố. Các khu dân cư. Trung tâm lịch sử của San Francisco là khu định hướng đông bắc có Phố Market và mặt tiền bờ biển. Chính nơi đây là khu trung tâm tài chính với Quảng trường Union gần đó là khu vực khách sạn và mua sắm. Xe cáp đưa hành khách theo con đường dốc lên đến đỉnh của đồi Nob, trước đây từng là nơi cư ngụ của những tài phiệt thương mại của thành phố và đưa hành khách đi xuống các điểm hấp dẫn du lịch ở mặt tiền bờ biển là Bến Ngư Phủ và Cầu tàu 39 nơi có nhiều nhà hàng phục vụ cua Dungeness đặc sản.
San Francisco
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=105
Cũng trong khu định hướng này là Russian Hill, một khu dân cư có đường phố Lombard nổi tiếng là quanh co uốn lượn; North Beach, Tiểu Ý Đại Lợi của thành phố và là trung tâm trước đây của hiện tượng xã hội "Thế hệ Beat"; và Telegraph Hill, là nơi có tháp Coit. Giữa Russian Hill và North Beach là phố tàu San Francisco, phố tàu xưa nhất tại Bắc Mỹ. South of Market, trước đây từng là trung tâm công nghiệp của San Francisco, đã được tái phát triển đáng kể sau khi Oracle Park được xây dựng và sự ra đi của các công ty khởi nghiệp. Các nhà chọc trời mới, nhà phố mới và chung cư mới mọc lên khắp nơi trong khu vực. Các phát triển mới vẫn đang tiếp tục ngay phía nam trong khu dân cư Mission Bay, từng là một khu vực xưởng đường sắt và hiện nay có cơ sở thứ hai của Đại học California, San Francisco. Phía tây phố chính, bên kia đường Van Ness là khu dân cư lớn Western Addition, từng là nơi tập trung sinh sống đông đảo của người Mỹ gốc châu Phi sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Khu dân cư Western Addition thông thường được chia ra thành các khu dân cư nhỏ hơn trong đó có Hayes Valley, the Fillmore, và Phố Nhật, từng là phố Nhật lớn nhất Bắc Mỹ nhưng bị thiệt hại khi cư dân người Mỹ gốc Nhật bị cưỡng bách di chuyển và giam giữ trong các trại tập trung suốt Chiến tranh thế giới thứ hai. Western Addition thoát khỏi sự tàn phá của trận động đất San Francisco 1906. Các ngôi nhà kiểu kiến trúc Victoria phần lớn vẫn còn nguyên vẹn sau động đất trong đó phải kể đến là các ngôi nhà "Painted Ladies" nổi tiếng nằm dọc theo Quảng trường Alamo. Về phía nam, gần trung tâm địa lý của thành phố là khu Haight-Ashbury nổi tiếng có liên quan với văn hóa hippie vào thập niên 1960. Khu này hiện nay là nơi có một số cửa hàng nhỏ bán đồ xa xí phẩm. Phía bắc của Western Addition là Pacific Heights, một khu dân cư giàu có bao gồm những ngôi thự mà giới thương mại giàu có của San Francisco xây dựng sau trận động đất 1906. Ngay phía bắc khu Pacific Heights đối diện mặt tiền bờ biển là khu Marina, một khu dân cư tập trung các chuyên viên trẻ tuổi. Khu này được xây dựng phần lớn trên đất san lấp lấn biển. Bên trong khu định hướng đông nam của thành phố là khu Mission - vào thế kỷ 19 đã có dân số người nói tiếng Tây Ban Nha và di dân thuộc tầng lớp lao động đến từ Đức, Ý, Ireland và các nước Scandinavia.
San Francisco
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=105
Trong thập niên 1910, một làn sóng di dân Trung Mỹ đã định cư tại khu Mission vào thập niên 1950 di dân từ México bắt đầu chiếm đa số. Trong những năm gần đây, hóa trình phát triển đã làm thay đổi nhân khẩu của một số nơi trong khu Mission từ dân nói tiếng Tây Ban Nha sang các chuyên gia tuổi đôi mươi với lối sống kiểu hipster. Noe Valley nằm ở phía tây nam và Bernal Heights nằm ở phía nam ngày càng trở nên hấp dẫn những gia đình trẻ có con cái. Phía đông của khu Mission là khu dân cư Potrero Hill, một khu dân cư phần lớn gồm chỉ nhà ở mà từ đó có thể nhìn thấy rõ cảnh quanh của phố chính thành phố San Francisco. Ở phía tây của khu Mission, khu vực trong lịch sử được gọi là Eureka Valley mà hiện nay được gọi phổ biến là the Castro, từng là khu vực của người thuộc tầng lớp lao động Ireland và Scandinavia. Nó đã trở thành làng đồng tính đầu tiên và nổi tiếng của Bắc Mỹ và hiện nay là trung tâm của lối sống đồng tính trong thành phố. Khu Excelsior nằm gần ranh giới phía nam của thành phố là một trong số các khu dân cư đa sắc tộc nhất tại San Francisco. Khu Bayview-Hunters Point với đa số là người Mỹ gốc châu Phi nằm xa trong góc đông nam thành phố là một trong số các khu dân cư nghèo nhất và có tỉ lệ tội phạm cao mặc dù khu vực này đã và đang là tâm điểm của các dự án mở rộng nâng cấp đô thị gây tranh cãi. Việc xây dựng đường hầm Twin Peaks năm 1918 đã nối liền các khu dân cư đến phố chính bằng xe điện thô sơ, đẫy nhanh tiến độ phát triển khu West Portal, và các khu ảnh hưởng là Forest Hill và St. Francis Wood nằm lân cận. Xa về phía tây, kéo dài cho đến Thái Bình Dương và về hướng bắc đến Công viên Cổng Vàng là khu Sunset rộng lớn. Đây là khu vực trung lưu lớn tập trung đa số là người gốc châu Á. Khu định hướng tây bắc thành phố gồm có khu Richmond, đây cũng là khu dân cư đa số thuộc giới trung lưu ở phía bắc Công viên Cổng Vàng và là nơi cư ngụ của các di dân từ các nước châu Á cũng như nhiều người di dân Nga và Ukraina. Bãi biển và công viên. Một vài công viên của San Francisco và tất cả các bãi biển lân cận của nó hình thành nên một phần Khu Giải trí Quốc gia Golden Gate.
San Francisco
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=105
Đây là một trong số các đơn vị công viên được viếng thăm nhiều nhất của hệ thống công viên quốc gia tại Hoa Kỳ với trên 13 triệu du khách mỗi năm. Trong số những điểm hấp dẫn của khu giải trí quốc gia bên trong thành phố là Bãi Đại Dương chạy dọc đường bờ biền Thái Bình Dương là nơi lui tới xôi động của cộng đồng lướt sóng và Bãi Baker nằm trong một nơi kép kín ở phía tây Golden Gate và là một phần của đồn San Francisco. Cũng nằm bên trong đồn là bãi đáp Crissy, một sân bay trước kia được khôi phục trở về với hệ sinh thái gồm đầm nước mặn tự nhiên. Khu giải trí cũng quản lý đồn Funston, Lands End, đồn Mason và Alcatraz. Cục Công viên Quốc gia Hoa Kỳ tự quản lý Công viên Lịch sử Quốc gia Biển San Francisco – một đoàn tàu lịch sử và bất động sản ở mặt tiền bờ biển nằm quanh Công viên Aquatic. Có hơn 220 công viên được Sở Công viên và Giải trí San Francisco bảo trì. Công viên lớn nhất và nổi tiếng nhất của thành phố là Công viên Cổng Vàng, chạy dài từ trung tâm thành phố ở phía tây đến Thái Bình Dương. Từng được bao phủ bởi cỏ bản địa và đụn cát, công viên hình thành trong thập niên 1860 và được trồng đại trà với nhiều loại cây cỏ không bản địa. Công viên lớn gồm có nhiều điểm hấp dẫn thiên nhiên và văn hóa như vườn thực vật "Conservatory of Flowers", Vườn trà Nhật Bản, Vườn Thực vật San Francisco. Hồ Merced là một hồ nước ngọt bao quanh bởi đất công viên và nằm gần Vườn thú San Francisco, một công viên do thành phố làm chủ có trên 250 loài động vật, có cả nhiều loại động vật có nguy cơ tuyệt chủng. Công viên duy nhất thuộc hệ thống Công viên Tiểu bang California nằm chính yếu bên trong thành phố San Francisco là Candlestick Point. Đây là khu giải trí đô thị đầu tiên của tiểu bang California. Văn hóa và đời sống đương đại. Tuy khu tài chính, quảng trường Union, và Bến Ngư Phủ nổi tiếng khắp thế giới nhưng San Francisco cũng đặc biệt bởi vô số các đường phố giàu văn hóa cùng với các khu phức hợp vây quanh bởi các hành lang thương mại trung tâm mà dân cư ngụ tại đây cũng như du khách có thể đi bộ lui tới. Vì những đặc điểm này, San Francisco được xếp loại thành phố "dễ đi bộ nhất" bởi trang mạng Walkscore.com.
San Francisco
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=105
Nhiều khu dân cư có đủ loại cơ sở thương mại, nhà hàng và nơi vui chơi giải trí, đáp ứng nhu cầu hàng ngày của cư dân địa phương cũng như phục vụ du khách. Một số khu dân cư có nhiều cửa hiệu nhỏ, tiệm cà phê và hộp đêm như phố Union trong khu Cow Hollow, phố số 24 trong khu Noe Valley, phố Valencia trong khu Mission và phố Irving trong khu Nội Sunset. Chiều hướng này đặc biệt đã có ảnh hưởng đến sự tái phát triển hiện nay tại khu dân cư South of Market với các cơ sở thương mại và dịch vụ mọc lên dọc theo các tòa nhà chung cư cao tầng. Từ thập niên 1990, nhu cầu về nhân công lành nghề trong lĩnh vực công nghệ thông tin từ các công ty khởi nghiệp và Thung lũng Điện tử lân cận đã hấp dẫn nhiều công nhân kỹ thuật đến đây từ khắp nơi trên thế giới, tạo nên tiêu chuẩn sinh hoạt cao tại San Francisco. Nhiều khu dân cư mà trước kia từng là nơi cư ngụ của người lao động chân tay, tầng lớp trung lưu và tầng lớp thấp hơn đã được tái quy hoạch và phát triển. Nhiều khu công nghiệp và thương mại của thành phố đã trải qua một cuộc phục hưng do bị cuốn hút bởi sự tái phát triển con đường mặt tiền bờ biển phía đông là Embarcadero trong đó phải kể đến là khu South Beach và Mission Bay. Giá trị bất động sản và lợi tức mỗi hộ gia đình của thành phố tăng vọt lên thành một trong những con số cao nhất tại Hoa Kỳ, tạo nên một khung cảnh nhà hàng lớn sang trọng, bán lẻ và giải trí. Theo một cuộc thăm dò chất lượng cuộc sống của các thành phố trên thế giới năm 2008, San Francisco được xếp thứ hai so với bất cứ thành phố nào tại Hoa Kỳ về chất lượng cuộc sống cao nhất. Tuy nhiên, vì giá sinh hoạt cao khác thường nên nhiều gia đình thuộc tầng lớp trung lưu và thấp hơn rời bỏ thành phố để đến các khu ngoại ô xa hơn của vùng vịnh San Francisco, hay đến vùng Thung lũng Trung tâm của California. Đặc tính quốc tế mà thành phố San Francisco tự hào kể từ khi được thành lập và vẫn còn được tiếp tục cho đến ngày nay là số lượng lớn di dân đến từ châu Á và châu Mỹ Latin. Với 39% dân cư ngụ được sinh ra ở ngoại quốc, San Francisco có vô số khu dân cư đầy ấp các cơ sở thương mại và cơ sở công dân nhằm phục vụ người mới đến.
San Francisco
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=105
Đặc biệt, nhiều người Trung Hoa mới đến đã bổ sung thêm cho cộng đồng người Trung Hoa vốn có mặt lâu đời trong Phố Tàu lịch sử, nay hiện diện khắp nơi trong thành phố và chuyển hóa cuộc diễn hành Tết Trung Hoa hàng năm thành sự kiện lớn nhất cùng loại ở bên ngoài Trung Quốc. Với sự xuất hiện của các nhà văn và họa sĩ thế hệ Beat vào thập niên 1950 và những thay đổi xã hội lên đến cực độ thành Summer of Love tại khu Haight-Ashbury trong suốt thập niên 1960, San Francisco trở thành một trung tâm của phong trào vận động cho tự do cấp tiến. Đảng Dân chủ và đảng ít thế lực hơn là Đảng Xanh kiểm soát nền chính trị thành phố kể từ cuối thập niên 1970 sau khi ứng viên nặng ký cuối cùng của Đảng Cộng hòa thất cử trong cuộc bầu cử thị trưởng thành phố vào năm 1975 bởi một sai khác phiếu bầu khích khao. San Francisco đã không bầu quá 20% số phiếu cho một ứng cử viên tổng thống hay thượng viện kể từ năm 1988. Năm 2007, thành phố mở rộng chương trình trợ giúp y tế Medicaid và những chương trình y tế giúp đỡ người nghèo khác thành chương trình "San Francisco Lành mạnh". Chương trình này trợ giá một số dịch vụ y tế cho những cư dân hội đủ tiêu chuẩn. San Francisco có một lịch sử thân thiện đối với người đồng tính. Đây là nơi thành lập tổ chức quyền của người đồng tính nữ đầu tiên tại Hoa Kỳ, Daughters of Bilitis; người tự nhận đồng tính nam đầu tiên ra ứng cử chức vụ công tại Hoa Kỳ là José Sarria; người tự nhận đồng tính nam đầu tiên được bầu vào chức vụ công tại Hoa Kỳ là Harvey Milk; người tự nhận đồng tính nữ đầu tiên được bổ nhiệm thẩm phán tại Hoa Kỳ là Mary C. Morgan; và ủy viên cảnh sát chuyển giới đầu tiên là Theresa Sparks. Dân số người đồng tính đông đảo của thành phố đã tạo ra và giữ vững một cộng đồng hoạt động văn hóa và chính trị trên nhiều thập niên, phát triển một sự hiện diện mạnh mẽ trong đời sống dân sự của San Francisco. Là một trong số các điểm đến hấp dẫn nhất cho du khách đồng tính quốc tế, thành phố là chủ nhà của cuộc diễu hành "Niềm tự hào San Francisco", một trong số các cuộc diễu hành đồng tính lớn nhất và xưa nhất. San Francisco cũng có một cộng đồng rất năng nổ hoạt động vì môi trường.
San Francisco
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=105
Bắt đầu với sự thành lập Câu lạc bộ Sierra năm 1892 đến thành lập "Friends of the Urban Forest" ("những người bạn của rừng đô thị") năm 1981, San Francisco luôn ở phía trước trong nhiều cuộc thảo luận toàn cầu có liên quan đến môi trường thiên nhiên của chúng ta. Chương trình tái sinh vật liệu của San Francisco năm 1980 là một trong các chương trình tái sinh vật liệu rác sinh hoạt đầu tiên nhất. Đề xướng GoSolarSF ("San Francisco, tiến tới với năng lượng mặt trời") của thành phố giúp thúc đẩy việc lắp đặt các hệ thống sử dụng năng lượng mặt trời. Ủy ban Công chánh San Francisco đang giới thiệu chương trình "CleanPowerSF" ("năng lượng sạch San Francisco") để bán điện từ các nguồn năng lượng tái sinh địa phương. SF Greasecycle ("tái sinh dầu ăn San Francisco") là chương trình tái chế dầu ăn đã sử dụng để biến thành dầu sinh học diesel. Dự án năng lượng mặt trời "Hồ Sunset" vừa mới hoàn thành đã lắp đặt 25.000 tấm thu năng lượng mặt trời trên nóc hồ chứa nước rộng 480.000 ft vuông (45.000 m²). Nhà máy phát điện 5 MegaWatt này cung cấp hơn gấp ba lần khả năng phát điện năng lượng mặt trời của thành phố khi nó hoạt động vào tháng 12 năm 2010. Giải trí và nghệ thuật biểu diễn. Trung tâm Nghệ thuật Biểu diễn và Tưởng niệm Chiến tranh của San Francisco là nơi biểu diễn của một số đoàn nghệ thuật lâu đời nhất tại Hoa Kỳ. Nhà hát Nhạc kịch Tưởng niệm Chiến tranh là nơi biểu diễn của Nhạc kịch San Francisco, đoàn nhạc kịch lớn thứ hai tại Bắc Mỹ cũng như Vũ đoàn Ba lê San Francisco trong khi đó Nhạc giao hưởng San Francisco trình diễn trong Thính phòng Nhạc giao hưởng Davies. Nhà hát Herbst là nơi biểu diễn nhiều loại nhạc cũng như là nơi tổ chức những buổi nói chuyện trên sân khấu về nghệ thuật được phát thanh trực tiếp trên chương trình radio công cộng. The Fillmore là một sân khấu âm nhạc trong khu Western Addition. Đây là diện mạo thứ hai của sân khấu lịch sử từng nổi tiếng trong thập niên 1960 dưới thời Bill Graham làm người quảng bá ca nhạc. Đây là nơi những ca nhạc sĩ nay đã thành danh biểu diễn lần đầu tiên như Grateful Dead, Janis Joplin, Led Zeppelin và Jefferson Airplane. "Beach Blanket Babylon" là một chương trình ca vũ nhạc kịch thường biểu diễn với đông đảo khán giả đến xem tại khu North Beach từ năm 1974.
San Francisco
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=105
Đoàn kịch "American Conservatory Theater" (A.C.T.) là một lực lượng biểu diễn nghệ thuật tại Vùng Vịnh San Francisco từ khi nó di chuyển đến San Francisco năm 1967. San Francisco thường xuyên là nơi lưu diễn quốc gia của các vở nhạc kịch Broadway tại một số sân khấu thuộc thời đại thập niên 1920 nằm trong khu Theater trong đó có nhà hát Curran, Orpheum, và Golden Gate. Bảo tàng. Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại San Francisco (SFMOMA) là nơi trưng bài các tác phẩm nghệ thuật thế kỷ 20 và đương đại. Nó được di dời đến tòa nhà hiện tại trong khu dân cư South of Market năm 1995 và hiện nay hấp dẫn hơn 600 ngày lượt người thăm viếng mỗi năm. California Palace of the Legion of Honor là nơi trưng bày các tác phẩm nghệ thuật và cổ vật châu Âu tại tòa nhà trong Công viên Lincoln. Nó được xây dựng theo mẫu của Palais de la Légion d'Honneur ở Paris. Nó được Bảo tàng Mỹ thuật San Francisco điều hành. Bảo tàng mỹ thuật này cũng điều hành Bảo tàng Tưởng niệm M. H. de Young nằm trong Công viên Cổng Vàng. Bộ sưu tập của Bảo tàng de Young gồm có các mẫu vật trang trí Mỹ và mẫu vật nhân loại học từ châu Phi, châu Đại Dương và châu Mỹ. Trước khi được xây dựng với bộ dạng mạ đồng hiện tại và hoàn thành vào năm 2005, Bảo tàng de Young cũng là cơ sở của Bảo tàng Nghệ thuật Á châu mà trong đó có các cổ vật từ trên 6 ngàn năm lịch sử của Á châu. Bảo tàng Nghệ thuật Á châu di chuyển vào trong thư viện cũ của San Francisco gần Trung tâm Civic vào năm 2003. Đối diện quảng trường Music Concourse từ Bảo tàng de Young là Viện Khoa học California, một bảo tàng lịch sử tự nhiên. Cơ sở vật chất hiện tại của nó gồm có một mái xanh là một thí dụ về kiến trúc thân thiện môi trường. Nó được mở cửa vào năm 2008. Nằm trên Bến cảng số 15 trên khu bến tàu Embarcadero, Exploratorium là một bảo tàng khoa học tương tác do nhà vật lý Frank Oppenheimer thành lập vào năm 1969. Hai chiếc tàu của bảo tàng đậu gần Bến Ngư Phủ là tàu chở hàng thời Chiến tranh thế giới thứ hai SS "Jeremiah O'Brien" và tàu ngầm USS "Pampanito". Trên Nob Hill, Bảo tàng Xe Cáp San Francisco là bảo tàng còn hoạt động gồm có động cơ để kéo các dây cáp và kho chứa xe cáp. Truyền thông.
San Francisco
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=105
Truyền thông. Tờ nhật báo chính tại San Francisco là tờ "San Francisco Chronicle", hiện nay là tờ báo có số lượng phát hành lớn nhất tại vùng Bắc California. Tờ Chronicle nổi tiếng nhất với cựu bình luận gia quá cố Herb Caen mà sự suy tư trầm ngâm hàng ngày của ông đã thu hút nhiều sự tán dương của độc giả và đại diện cho "tiếng nói của San Francisco". Tờ "San Francisco Examiner", từng là viên đá góc của đế quốc truyền thông của William Randolph Hearst,bị suy giảm số lượng độc giả trong những năm qua và hiện nay biến thành tờ báo lá cải miễn phí hàng ngày dưới quyền người chủ mới. "Sing Tao Daily" tự tuyên bố là tờ báo lớn nhất trong số các nhật báo tiếng Hoa phục vụ vùng vịnh. Các tờ báo phụ hàng tuần gồm "San Francisco Bay Guardian" và "SF Weekly". "San Francisco Magazine" và "7x7" là các tạp chí mặt bóng lớn viết về San Francisco. Tạp chí quốc gia "Mother Jones" cũng được đặt tại San Francisco. Vùng Vịnh San Francisco là thị trường truyền hình lớn thứ sáu và thị trường radio lớn thứ tư tại Hoa Kỳ. Đài phát thanh xưa nhất của thành phố, KCBS (AM), bắt đầu trong vai trò một đài phát thanh thử nghiệm tại San Jose năm 1909 trước khi bắt đầu truyền thanh thương mại. KALW là đài phát thanh sóng FM đầu tiên của thành phố khi nó bắt đầu phát sóng vào năm 1941. Tất cả các hệ thống truyền hình lớn của Hoa Kỳ đều có đài thành viên phục vụ tại vùng. Đa số các đài thành viên đều đặt tại thành phố San Francisco. Cũng có một số đài truyền hình độc lập tại đây. BBC, CNN và ESPN có văn phòng tin tức vùng tại San Francisco. Đài truyền hình đầu tiên của thành phố là KPIX, bắt đầu phát hình năm 1948. Truyền thông công cộng gồm có cả phát hình và phát thanh đều phát sóng dưới tên gọi bằng chữ cái KQED từ một cơ sở nằm gần khu dân cư Potrero Hill. KQED-FM là trạm thành viên truyền thanh công cộng quốc gia có nhiều người nghe nhất tại Hoa Kỳ. CNET và Salon.com có trung tâm tại San Francisco là hai công ty tiên phong sử dụng internet như trạm truyền thông đến mọi người. Kênh truyền hình vệ tinh không thương mại Link TV ra mắt năm 1999 tại San Francisco. Các nhà phát minh của San Francisco đã tạo ra những dấu ấn cho truyền thông hiện đại. Năm 1877, Eadweard Muybridge đi đầu với công trình nghiên cứu về hình ảnh chuyển động. Đây là những hình ảnh chuyển động đầu tiên (phim).
San Francisco
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=105
Rồi đến năm 1927, ống máy ảnh của Philo Farnsworth truyền đi hình ảnh đầu tiên. Đây là truyền hình đầu tiên. Thể thao và giải trí. Đội bóng bầu dục San Francisco 49ers thuộc Liên đoàn Bóng bầu dục Quốc gia (NFL) là đội bóng nhà nghề lớn trụ giữ lâu nhất trong thành phố. Đội bóng bắt đầu chơi vào năm 1946 trong Hội Bóng bầu dục Toàn-Mỹ ("All-America Football Conference" hay viết tắt là AAFC), gia nhập vào NFL năm 1950 và đóng tại sân vận động Candlestick Park năm 1971. Năm 2006, những chủ nhân của đội thông báo các kế hoạch di chuyển đội đến thành phố Santa Clara, California vào khoảng năm 2015; tên đội vẫn giữ nguyên là "San Francisco 49ers" cho dù đội nằm gần thành phố San Jose hơn. Đội 49ers đã thắng giải Super Bowl năm lần vào thập niên 1980 và thập niên 1990 dưới sự dẫn dắt của huấn lệnh viên Bill Walsh và George Seifert và các ngôi sao như Joe Montana, Steve Young, Ronnie Lott, và Jerry Rice. Đội bóng chày San Francisco Giants rời Thành phố New York để đến California trước mùa giải năm 1958. Mặc dù kiêu hãnh với những ngôi sao như Willie Mays, Willie McCovey và Barry Bonds, đội trải qua 52 năm cho đến khi đoạt được danh hiệu World Series đầu tiên vào năm 2010 và đoạt thêm một danh hiệu vào năm 2012. Đội Giants chơi ở Oracle Park. Sân này mở cửa năm 2000, đây là một dự án viên đá góc của việc tái phát triển khu South Beach và Mission Bay. Năm 2012, San Francisco đứng số #1 trong số các thành phố bóng chày tốt nhất của Mỹ. Cuộc nghiên cứu xem xét vùng đô thị Hoa Kỳ nào đã sinh ra những đội bóng chày chủ lực nhất từ năm 1920. Ở cấp bậc đại học, các đội thể thao của Đại học San Francisco tranh tài trong nhóm I thuộc Hội Thể thao Đại học Quốc gia (NCAA). Bill Russell đã dẫn dắt chương trình này đến chức vô địch bóng rổ vào năm 1955 và 1956. Các đội thể thao của Đại học Tiểu bang San Francisco và Đại học Academy of Art tranh tài trong Nhóm II. Oracle Park đã tổ chức các trận bóng bầu dục đại học trước mùa giải hàng năm kể từ năm 2002. Năm 2011, San Francisco làm sân nhà cho đội bóng bầu dục California Golden Bears tại sân Candlestick Park và Oracle Park trong khi sân vận động nhà của đội tại thành phố Berkeley được chỉnh trang. Liên đoàn Bóng rổ San Francisco Pro-Am là một liên đoàn hè quan trọng cho các cầu thủ quan tâm được phát hiện bởi các nhà săn tìm tài năng.
San Francisco
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=105
Các trận được tổ chức tại nhà thi đấu Kezar Pavilion 4 ngàn chỗ ngồi. Các cầu thủ gồm mọi cấp bậc tham gia cùng với sự xuất hiện thường xuyên của những cầu thủ nhà nghề NBA lúc ngoài mùa thi đấu. Cuộc chạy bộ "Bay to Breakers", được tổ chức hàng năm từ năm 1912, nổi tiếng nhất vì các trang phục màu sắc và một tinh thần cộng đồng ngày hội. Cuộc chạy đua San Francisco Marathon thu hút trên 21 ngàn người tham gia. Cuộc tranh tài ba môn hỗn hợp có tên "Thoát khỏi từ Alcatraz" từ năm 1980 thu hút 2 ngàn vận động viên nhà nghề và nghiệp dư hàng đầu tham dự cuộc tranh tài hàng năm. Câu lạc bộ Olympic, thành lập năm 1860, là câu lạc bộ thể thao xưa nhất tại Hoa Kỳ. Sân golf tư của nó nằm trên ranh giới với Thành phố Daly, là nơi tổ chức năm lần giải U.S. Open. Sân golf Harding Park công cộng đôi khi là điểm dừng chân của giải PGA Tour. San Francisco sẽ tổ chức giải đua thuyền buồm "2013 America's Cup". Với khí hậu lý tưởng cho các hoạt động ngoài trời, San Francisco có cơ hội và nguồn lực phong phú cho giải trí và thể thao mở rộng cũng như nghiệp dư. Có trên đường mòn dành cho xe đạp, làn xe đạp và đường xe đạp trong thành phố, Khu Embarcadero và Marina Green là nơi lý tưởng cho môn thể thao trượt ván. Các sân tennis công cộng rộng có ở trong Công viên Cổng Vàng và Công viên Dolores cũng như tại các sân nhỏ hơn trong các khu dân cư của thành phố. Người dân San Francisco thường được xếp trong số những người khỏe mạnh nhất tại Hoa Kỳ Chạy tàu, đi thuyền buồm, lướt ván bằng buồm và bằng diều là trong số các hoạt động thể thao yêu chuộng trên Vịnh San Francisco. Thành phố bảo trì một bến thuyền buồm nằm trong Khu Marina. The St. Francis Yacht Club và Golden Gate Yacht Club are located in the Marina Harbor. Câu lạc bộ Thuyền buồm South Beach nằm kế bên Oracle Park và Cầu tàu số 39 có một bến đổ tàu thuyền rộng. Công viên nước lịch sử nằm dọc bờ biển bắc San Francisco có hai câu lạc bộ chèo thuyền và bơi lội. Câu lạc bộ Chèo thuyền South End, thành lập năm 1873, và Câu lạc bộ Dolphin duy trì một sự ganh đua thân thiện giữa các thành viên. Các tay bơi có thể được nhìn thấy bơi lội gan lì hàng ngày trong vịnh với nhiệt độ nước thường là lạnh.
San Francisco
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=105
Bóng đá nam nghiệp dư được chơi trong thành phố San Francisco từ năm 1902 qua Liên đoàn Bóng đá San Francisco. Trên 40 đội trong 4 nhóm chơi khắp thành phố giữa tháng ba đến tháng mười một. Các trận dấu nhóm hàng đầu được chợi trong Sân vận động Boxer 3.500 chỗ ngồi. Bóng đá nữ nghiệp dư có trên 30 đội trong Liên đoàn Bóng đá Nữ Golden Gate. Môn xe đạp đang phát triển tại San Francisco. Cơ quan Giao thông San Francisco tiến hành đếm số xe đạp hàng năm vào năm 2010 cho thấy con số người đi xe đạp tại 33 địa điểm tăng 58%, dựa theo số điếm cơ sở của năm 2006. Cơ quan Gia thông San Francisco ước tính rằng có khoảng 128.000 lượt người đi xe đạp mỗi ngày trong thành phố hay 6% tổng số lượt người di chuyển bằng tất cả các phương tiện. Những cãi tiến trong cơ sở hạ tầng dành cho xe đạp trong những năm gần đây bao gồm thêm các làn xe đạp và giá đậu xe đạp đã giúp cho giao thông bằng xe đạp tại San Francisco tiện lợi và an toàn hơn. Từ năm 2006, San Francisco đã nhận được tư cách "vàng" là một cộng đồng thân thiện với xe đạp từ Liên đoàn Xe đạp Mỹ. Kinh tế. Du lịch, doanh nghiệp tư nhân thuê mướn nhiều lao động nhất thành phố, là xương sống của nền kinh tế San Francisco. Hình ảnh của thành phố thường xuyên được diễn tả trong âm nhạc, phim, và văn hóa đại chúng đã giúp cho thành phố và những danh lam thắng cảnh của nó được công nhận khắp thế giới. Chính tại thành phố này Tony Bennett "đã bỏ quên con tim của ông" với nhạc phẩm I Left My Heart in San Francisco, nơi tù nhân khét tiếng "Birdman of Alcatraz" trải qua nhiều năm cuối cùng của mình, nơi sản phẩm Rice-a-Roni được cho là sản phẩm khoái khẩu ưa chuộng, và nơi hài kịch tình huống ưa thích có tựa đề Full House được dàn dựng. San Francisco thu hút số lượng du khách ngoại quốc đứng thứ tư so với bất cứ thành phố nào tại Hoa Kỳ, đứng hạng 35 trong số 100 thành phố được viếng thăm nhiều nhất trên thế giới. Hơn 16,5 triệu du khách đến San Francisco năm 2012, bơm khoảng 8,9 tỷ đô la vào nền kinh tế thành phố. Với một cơ sở hạ tầng khách sạn lớn và một cơ sở tiện nghi dành cho hội nghị cấp bậc thế giới tại Trung tâm Moscone, San Francisco cũng nằm trong số 10 địa điểm đại hội hay hội nghị hàng đầu tại Bắc Mỹ.
San Francisco
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=105
Theo một danh sách xếp hạng các thành phố du lịch hàng đầu của Euromonitor International, San Francisco được xếp thứ 33 trong số 100 thành phố được viếng thăm nhiều nhất trên thế giới. Di sản của Cơn sốt vàng California đã biến San Francisco thành trung tâm tài chính và ngân hàng chính yếu tại Tây Duyên hải Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ 20. Phố Montgomery trong Khu Tài chính San Francisco trở nên được biết tiếng như là "Phố Wall của miền Tây Hoa Kỳ". Nơi đây có Ngân hàng Dự trữ Liên bang San Francisco, tổng hành dinh của ngân hàng Wells Fargo và là nơi từng có Thị trường chứng khoán Duyên hải Thái Bình Dương (nay đã giải thể). Bank of America, một ngân hàng tiên phong trong việc tạo dịch vụ ngân hàng đến với tầng lớp trung lưu, được thành lập tại San Francisco vào thập niên 1960, đã xây dựng tòa nhà chọc trời danh lam hiện đại tại số 555 Phố California làm tổng hành dinh cho tổng công ty ngân hàng của mình. Nhiều cơ sở tài chính lớn, các ngân hàng đa quốc gia và công ty tài chính có trụ sở chính hoặc tổng hành dinh vùng trong thành phố. Với trên 30 cơ sở tài chính quốc tế, bảy công ty thuộc nhóm Fortune 500, và một cơ sở hạ tầng hỗ trợ lớn gồm các dịch vụ nghiệp vụ trong đó có luật pháp, quan hệ công chúng, kiến trúc và thiết kế, San Francisco được liệt kê là một trong số 18 thành phố Alpha World. San Francisco đứng thứ 18 trong số các thành phố sản xuất hàng đầu trên thế giới, và hạng thứ 12 trong số 20 trung tâm tài chính hàng đầu trên thế giới. Từ thập niên 1990, kinh tế San Francisco bắt đầu trở nên ngày càng gắn chặt với kinh tế của thành phố San Jose và vùng Thung lũng Điện tử, đây là khu vực lân cận nằm ở phía nam thành phố. Chúng cùng chia sẻ nhu cầu về công nhân có giáo dục cao có những kỷ năng đặc biệt. San Francisco từng trở thành một tâm chấn của bong bóng Dot-com vào thập niên 1990, và sự bùng nổ sau này của Web 2.0 vào cuối thập niên 2000. Nhiều công ty internet và công ty khởi nghiệp nổi tiếng như Craigslist, Twitter, Square, Zynga, Salesforce.com, Airbnb, và Wikimedia Foundation trong số các công ty khác nữa thiết lập văn phòng đầu não tại San Francisco. San Francisco đã và đang đặt mình vào vị trí như là một trung tâm nghiên cứu công nghệ sinh học và y tế sinh học.
San Francisco
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=105
Khu dân cư Mission Bay, nơi có một chi nhánh thứ hai của Đại học California-San Francisco, tạo điều kiện cho một nền công nghiệp cấy chiết và phục vụ như tổng hành dinh của Viện Y học Tái sinh California, một cơ quan công cộng tài trợ các chương trình nghiên cứu tế bào gốc trên toàn tiểu bang. Tính đến năm 2009, có 1.800 kỹ sư sinh hóa và kỹ sư vật lý sinh học làm việc tại San Francisco với mức lương trung bình hàng năm là 92.620 đô la. Các doanh nghiệp nhỏ với ít hơn 10 nhân công và các cơ sở tự làm chủ chiếm đến 85% tổng số doanh nghiệp toàn thành phố, đặc biệt các doanh nhân tự đứng ra thiết lập các công ty khởi nghiệp thì rất phổ biến. Con số người San Francisco làm việc cho các công ty có trên 1000 công nhân đã giảm xuống phân nửa từ năm 1977. Sự xâm nhập thành công của các tập đoàn bán lẽ quốc gia và chuỗi tiệm bán lẽ quốc gia vào trong thành phố không phải là không gặp nhiều khó khăn vì sự bất đồng giữa chính quyền và người dân thành phố. Trong một cố gắng để tạo cầu nổi cho doanh nghiệp nhỏ tự làm chủ tại San Francisco và bảo tồn đặt tính bán lẽ độc đáo của thành phố, Hội đồng Doanh nghiệp nhỏ ủng hộ một chiến dịch vận động để giữ thị phần bán lẽ lớn hơn cho nền kinh tế địa phương. Hội đồng thành phố đã sử dụng luật kế hoạch để hạn chế các khu dân cư nơi mà các chuỗi tiệm bán lẽ quốc gia có thể thiết lập tiệm bán lẽ của mình. Nỗ lực như thế đã được cử tri thành phố xác nhận qua lá phiếu. Chính quyền thành phố là nơi thuê mướn nhân công hàng đầu của thành phố với 6,25% (trên 26.000 người) dân số thành phố, theo sau là Đại học California, San Francisco. Đứng thứ ba với 2,04% dân số (trên 8.000 người) là ngân hàng Wells Fargo. Chính quyền và luật pháp. San Francisco, chính thức được biết với tên gọi Thành phố và Quận San Francisco, là một quận-thành phố thống nhất. Tính trạng quận-thành phố thống nhất được thiết lập kể từ khi đơn vị mà ngày nay là Quận San Mateo tách khỏi nó vào năm 1856. Đây là quận thành phố thống nhất duy nhất tại tiểu bang California. Thị trưởng thành phố cũng chính là viên chức hành chính quận và hội đồng quận hoạt động như một hội đồng thành phố. Dưới hiến chương thành phố, chính quyền San Francisco được thiết lập với hai ngành đồng quyền lực.
San Francisco
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=105
Ngành hành pháp do thị trưởng lãnh đạo gồm có các viên chức được dân bầu và được bổ nhiệm trên toàn thành phố. Hội đồng quận gồm 11 thành viên do một chủ tịch lãnh đạo là ngành lập pháp có trách nhiệm thông qua luật lệ và ngân sách. Tuy nhiên cử tri San Francisco cũng có thể sử dụng các kiến nghị bầu cử trực tiếp để thông qua luật. Thành viên hội đồng quận được bầu như người đại diện của khu vực riêng biệt nào đó trong thành phố. Nếu như thị trưởng qua đời hay từ chức thì chủ tịch hội đồng quận trở thành quyền thị trưởng cho đến khi toàn hội đồng quận chọn một người thay thế tạm thời cho hết nhiệm kỳ hiện tại của thị trưởng. Năm 1978, Dianne Feinstein nhận chức sau khi thị trưởng George Moscone bị ám sát. Bà sau đó được hội đồng quận chọn để chấm dứt hết nhiệm kỳ. Năm 2011, Edwin M. Lee được hội đồng quận chọn để chấm dứt nhiệm kỳ của Gavin Newsom, người vừa từ chức để nhận chức phó thống đốc California. Vì địa vị quận-thành phố có một không hai tại California, chính quyền địa phương đảm trách quyền tài phán đối với bất động sản mà đáng ra nằm ngoài giới hạn quyền lực của một thành phố. Sân bay quốc tế San Francisco, tuy nằm trong Quận San Mateo, do Quận và Thành phố San Francisco làm chủ và điều hành. San Francisco cũng có một nhà tù phức hợp quận nằm trong một khu chưa hợp nhất thuộc Quận San Mateo, kế cận bên thành phố San Bruno. San Francisco cũng được phép thuê mướn vĩnh viễn Thung lũng Hetch Hetchy và trũng nước nằm trong Công viên Quốc gia Yosemite theo Đạo luật Raker năm 1913. San Francisco phục vụ trong vai trò trung tâm vùng cho nhiều chi nhánh cơ quan liên bang trong đó có tòa án thượng thẩm Hoa Kỳ, Ngân hàng Dự trữ Liên bang và cơ sở đúc tiền kim loại Hoa Kỳ. Cho đến khi bị loại khỏi biên chế vào đầu thập niên 1990, thành phố có các cơ sở quân sự lớn tại đồn San Francisco, đảo Treasure, và Hunters Point. Tiểu bang California dùng San Francisco làm nơi đặt trụ sở tòa án tối cao tiểu bang và các cơ quan khác của tiểu bang. Các chính phủ ngoại quốc duy trì trên 70 tổng lãnh sự quán tại San Francisco. Ngân sách thành phố cho năm tài chính 2011–12 là $6,83 tỷ đô la. Thành phố thuê mướn khoảng 27.000 công nhân. Nhân khẩu. Cuộc điều tra dân số năm 2010 cho thấy San Francisco có dân số là 805.235.
San Francisco
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=105
Mật độ dân số là 17.160 người trên mỗi dặm Anh vuông (6.632/km²). Dân số theo chủng tộc của San Francisco như sau: 390.387 da trắng (48,1%), 267.915 người gốc châu Á (33,3%), 48.870 người Mỹ gốc châu Phi (6,1%), 4.024 người Mỹ bản địa (0,5%), 3.359 người thuộc các đảo Thái Bình Dương (0,4%), 53.021 thuộc các dân tộc khác (6,6%), và 37.659 người thuộc từ hai chủng tộc trở lên (4,7%). Có 121.744 nói tiếng Tây Ban Nha (trong tiếng Anh được gọi là Hispanic hay Latino) thuộc mọi chủng tộc (15,1%). Người da trắng không phải gốc nói tiếng Tây Ban Nha chiếm 41,9% dân số, làm cho San Francisco trở thành một thành phố có người đa số (người da trắng) chiếm thiểu số mặc dù người da trắng nói tiếng Tây Ban Nha lập thành một số đông dân số. Cuộc điều tra dân số này cho thấy 780.971 người (97,0% dân số) sống trong các hộ gia đình, 18.902 người (2,3%) sống riêng trong các khu nhóm tập thể và 5.362 (0,7%) sống trong các khu có người trợ giúp, thí dụ như viện dưỡng lão. Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ ước tính dân số San Francisco tăng đến 825.863 tính đến tháng 7 năm 2012. Năm 2010, các cư dân gốc Hoa tiếp tục là nhóm dân tộc riêng biệt lớn nhất tại San Francisco với dân số là 21,4%; các nhóm dân châu Á khác là người Philippines (4,5%), người Việt Nam (1,6%), người Nhật (1.3%), người Ấn Độ (1,2%), người Triều Tiên (1,2%), người Thái Lan (0,3%), người Miến Điện (0,2%), người Campuchia (0,2%), cả người Indonesia và người Lào chiếm ít hơn 0,1% dân số thành phố. Có 345.811 hộ gia đình trong số đó 63.577 hộ (18,4%) có con cái dưới tuổi 18 sống cùng cha mẹ, 109.437 hộ (31,6%) có cặp vợ chồng khác giới tính sống chung với nhau, 28.844 hộ (8,3%) có nam chủ hộ sống không có vợ, 12.748 hộ (3,7%) có nữ chủ hộ sống không có chồng. Có 21.677 hộ (6,3%) có cặp đôi khác giới tính chung sống nhưng không kết hôn và 10.384 hộ (3,0%) có cặp đôi cùng giới tính kết hôn hoặc không kết hôn. 133.366 hộ gia đình (38,6%) gồm có các cá nhân chung sống với nhau và 34.234 hộ (9,9%) có người sống một mình và có tuổi từ 65 trở lên. Hộ gia đình trung bình có 2,26 người.
San Francisco
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=105
Hộ gia đình trung bình có 2,26 người. Có 151.029 gia đình (43,7% tổng số hộ gia đình); gia đình trung có 3,11 người. Phân bố tuổi của thành phố là như sau: 107.524 người (13,4%) dưới tuổi 18, 77.664 người (9,6%) tuổi từ 18 đến 24, 301.802 người (37,5%) tuổi từ 25 đến 44, 208.403 người (25,9%) tuổi từ 45 đến 64 và 109.842 người (13,6%) tuổi từ 65 trở lên. Tuổi trung vị là 38,5 tuổi. Tỷ suất giới tính của thành phố là 102,9 nam trên 100 nữ. Có 376.942 đơn vị nhà ở với mật độ trung bình là 1.625,5 đơn vị mỗi dặm vuông (627,6/km²) trong đó có 123.646 đơn vị (35,8%) có chủ nhà sinh sống, và 222.165 đơn vị (64,2%) được cho thuê. Tỉ lệ đơn vị không có chủ nhà sống trong đó là 2,3%; tỉ lệ đơn vị không có người thuê là 5,4%. 327.985 người (40,7% dân số) sống trong các đơn vị nhà ở có chủ nhà sinh sống và 452.986 người (56,3%) sống trong các đơn vị nhà ở cho thuê. Với trên 17.000 người sống trên mỗi dặm vuông, San Francisco là thành phố lớn (dân số trên 200.000 người) có mật độ dân số đông hạng nhì tại Hoa Kỳ. San Francisco là địa điểm tập trung truyền thống của Vùng Vịnh San Francisco và hình thành một phần của vùng thống kê kết hợp San Francisco-Oakland-Fremont và vùng đại thống kê kết hợp San Jose-San Francisco-Oakland mà tổng dân số lên đến trên bảy triệu dân, làm cho vùng đại thống kê kết hợp này trở thành vùng lớn thứ năm tại Hoa Kỳ tính đến lần điều tra dân số năm 2000. Người California, sinh ra tại bản xứ, hình thành con số phần trăm tương đối nhỏ dân số của thành phố: chỉ 37,7% người cư ngụ được sinh ra tại tiểu bang California trong khi đó 25,2% được sinh ra trong các tiểu bang khác. Hơn một phần ba cư dân thành phố (35,6%) được sinh ra bên ngoài Hoa Kỳ. Dân số người gốc Trung Hoa tập trung đông đảo nhất trong Phố Tàu, Khu Sunset, và Khu Richmond trong khi đó người Phiilipines tập trung nhiều nhất tại Crocker-Amazon (là khu liền nhau với cộng đồng người Philipines tại Thành phố Daly, thành phố có người Philippines tập trung đông đảo nhất tại Bắc Mỹ) cũng như tại Khu South of Market. Sau khi giảm sút vào thập niên 1970 và 1980, cộng đồng Philippines trong thành phố đã và đang trải nghiệm một sự tái xuất đáng kể. Vùng Vịnh San Francisco là nơi cư ngụ của trên 382.950 người Mỹ gốc Philippines, một trong số các cộng đồng lớn nhất của người Philippines bên ngoài Philippines.