id
stringlengths
1
8
revid
stringlengths
1
8
url
stringlengths
37
44
title
stringlengths
1
250
text
sequence
843
68679247
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=843
Ontario
[ "Ontario là một tỉnh bang của Canada. Thác Niagara nổi tiếng thế giới và Ottawa, thủ đô của Canada, nằm trong địa phận tỉnh bang này.", "Phía đông Ontario giáp với Québec, tây giáp với Manitoba, bắc giáp với vịnh Hudson và vịnh James, nam giáp với sông St. Lawrence và Ngũ Đại Hồ, tạo thành biên giới với các bang New York, Pennsylvania, Ohio, Michigan, Indiana, Illinois, Wisconsin và Minnesota của Hoa Kỳ. Là tỉnh bang lớn thứ hai của Canada, Ontario có diện tích gần 1,1 triệu km², trên nửa triệu ao hồ, và 60.000 km sông ngòi. Tính toàn bộ, Ontario lớn hơn hai nước Pháp và Tây Ban Nha gộp lại và có dân số trên 10 triệu người. Ở thủ phủ Toronto có nhiều hoạt động kinh tế và văn hoá. Ví dụ, tháp CN (\"CN tower\") là công trình kiến trúc đứng riêng cao nhất thế giới cho đến năm 2007. Tên Ontario thường được cho là bắt nguồn từ tiếng Iroquois, \"Skanadario\", có nghĩa là \"Dòng nước đẹp\".", "Ontario – Tỉnh bang sầm uất, phát triển, sôi động nhất Canada và Bắc Mỹ về kinh tế với các thành phố lớn như Toronto và Ottawa… Theo số liệu thống kê năm 2012, GDP của Canada đạt 1.819.967 triệu CAD. Trong đó, Ontario đóng góp 674.485 triệu CAD. Ontario đã tạo ra 37% GDP của cả nước và là nơi có gần 50% dân số làm việc trong các ngành công nghệ cao, dịch vụ tài chính và công nghiệp tri thức khác.", "Nằm trong khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ với 460 triệu người và tạo ra sức mua 18 tỉ đô. Trong năm 2011, trao đổi thương mại giữa Canada – Mỹ đạt hơn 1,4 tỉ CAD, trong đó thương mại giữa Ontario – Mỹ chiếm khoảng 716 triệu đô CAD. Ontario – nơi có Toronto (trung tâm tài chính quốc gia), thủ đô lập pháp Ottawa đã tiếp đón hơn 1.100 các công ty đa quốc gia trong các lĩnh vực dịch vụ, tài chính, bất động sản trên toàn thế giới.", "Toronto là một trung tâm quốc tế lớn cho các doanh nghiệp và được coi là thủ đô tài chính của Canada. Nơi đây tập trung các công ty dịch vụ hàng đầu như: Citco, CIBC Mellon, Commonwealth, Harmonic, IFDS, RBC Investor Services, SGGG, and State Street. Với hơn 245.000 người làm việc trong lĩnh vực này, Toronto là trung tâm tài chính lớn thứ 3 ở Bắc Mỹ sau New York và Chicago. Lao động trong ngành dịch vụ tài chính tại Toronto chiếm 64% của Ontario và 31% của Canada", "Từ nguyên.", "Tỉnh bang được đặt tên theo hồ Ontario, một thuật ngữ được cho là có nguồn gốc từ tiếng Iroquois:\"Skanadario\", có nghĩa là \"Dòng nước đẹp\".Hoặc cũng có thể là \"Ontari: io\" nghĩa là \"Chiếc hồ vĩ đại\"", "Địa lý.", "Tỉnh bao gồm ba vùng địa lý chính:", "Mặc dù không có địa hình đồi núi nào trong tỉnh nhưng có nhiều vùng đất cao, đặc biệt là trong vùng Canadian Shield đi qua tỉnh này từ tây bắc đến đông nam và cũng ở trên Niagara Escarpment băng qua phía nam. Điểm cao nhất là Ishpatina Ridge ở 693 mét (2,274 ft) trên mực nước biển nằm ở Temagami, Đông Bắc Ontario. Ở phía Nam, độ cao trên 500 m (1.640 ft) được vượt qua gần Collingwood, trên Dãy núi Blue ở vùng Dundalk Highlands và trong những ngọn đồi gần sông Madawaska ở Hạt Renfrew.", "Vùng rừng Carolinian bao phủ hầu hết vùng tây nam của tỉnh. Thung lũng Great Lakes và Thung lũng Saint Lawrence ở phía nam là một phần của vùng sinh thái rừng vùng thấp ở Great Lakes ở vùng Đông Great Lakes, nơi rừng hiện nay đã được thay thế bằng nông nghiệp, công nghiệp và phát triển đô thị. Một đặc điểm địa lý nổi tiếng là Niagara Falls, một phần của Niagara Escarpment. Saint Lawrence Seaway cho phép chuyển hướng đến và đi từ Đại Tây Dương như xa đất liền Vịnh Thunder ở Northwestern Ontario. Bắc Ontario chiếm khoảng 87% diện tích bề mặt của tỉnh; Ngược lại phía Nam Ontario có 94 phần trăm dân số.", "Point Pelee là một bán đảo của hồ Erie ở tây nam Ontario (gần Windsor và Detroit, Michigan), đó là phạm vi cực nam của đại lục Canada. Đảo Pelee và đảo Middle ở Hồ Erie mở rộng ra xa hơn. Tất cả đều nằm ở phía nam của 42 ° N  - hơi xa Nam so với biên giới phía bắc của California.", "Khí hậu.", "Khí hậu của Ontario thay đổi tùy theo mùa và địa điểm.  Nó bị ảnh hưởng bởi ba nguồn không khí: lạnh, khô, không khí Bắc cực từ phía bắc (yếu tố chi phối trong những tháng mùa đông, và kéo dài hơn một năm ở phía bắc Ontario); Không khí cực đoan ở vùng cực Bắc Thái Bình Dương đi qua từ vùng Prairies Phía Tây Canada / Đồng bằng Bắc Mỹ; Và không khí ấm áp, ẩm ướt từ Vịnh Mexico và Đại Tây Dương. Ảnh hưởng của các khối không khí chính đối với nhiệt độ và lượng mưa phụ thuộc chủ yếu vào vĩ độ, gần với các phần nước lớn và ở một mức độ nhỏ, giảm nhẹ địa hình.  Nói chung, hầu hết các môi trường của Ontario được phân loại là ẩm lục địa.  Ontario có ba vùng khí hậu chính.", "Vùng Hồ Great Lakes xung quanh ảnh hưởng lớn đến vùng khí hậu nam Ontario.  Trong những tháng mùa thu và mùa đông, nhiệt lưu trữ từ các hồ được giải phóng, điều tiết khí hậu gần bờ hồ.  Điều này cho phép một số phần của miền nam Ontario mùa đông êm dịu hơn các khu vực trung lục địa ở các vĩ độ thấp hơn. Các bộ phận của Tây Nam Ontario (thường là phía nam của một tuyến từ Sarnia-Toronto) có khí hậu lục địa ẩm ướt trung bình, tương tự như các bang Trung Đại Tây Dương nội địa và phần Hồ Great Lakes của vùng Trung Tây Hoa Kỳ. Vùng có mùa nóng nắng nóng, ẩm ướt và mùa đông lạnh. Lượng mưa hàng năm dao động từ 750-1.000 mm (30-39 inch) và được phân bố tốt quanh năm. Hầu hết khu vực này nằm ở vùng lee of the Great Lakes, làm cho tuyết dồi dào ở một số khu vực. Vào tháng 12 năm 2010, băng tuyết lập kỷ lục mới khi nó bị trúng tuyết hơn một mét trong vòng 48 giờ.  Vùng khí hậu tiếp theo là vùng Trung và Đông Ontario có khí hậu lục địa ẩm ướt vừa phải (Köppen \"Dfb\" ). Vùng này có mùa hè nóng và đôi khi nóng với mùa đông lạnh hơn, mùa đông dài hơn, lượng tuyết rơi dồi dào (thậm chí ở các khu vực không nằm trong băng tuyết) và lượng mưa hàng năm tương tự như phần còn lại của Nam Ontario. ", "Ở phía đông bắc Ontario, kéo dài về phía nam như Hồ Kirkland, vùng nước lạnh của vịnh Hudson làm giảm nhiệt độ vào mùa hè, làm cho nó mát hơn các vị trí khác ở các vĩ độ tương tự. Điều này cũng đúng ở bờ phía Bắc của Hồ Superior, làm mát không khí ẩm nóng từ phía nam, dẫn đến nhiệt độ mùa hè mát mẻ hơn.  Dọc theo bờ phía đông của Hồ Superior và Hồ Huron nhiệt độ mùa đông hơi được kiểm duyệt nhưng đi kèm với tuyết có tuyết rơi thường xuyên nặngCác ô vuông làm tăng tổng lượng tuyết rơi theo mùa lên tới 3 m (10 ft) ở một số nơi. Những khu vực này có lượng mưa hàng năm cao hơn trong một số trường hợp trên 100 cm (39 inch). Phần phía bắc của Ontario - chủ yếu ở phía bắc 50 ° N - có khí hậu cận kề (Köppen \"Dfc\" ) với mùa đông lạnh kéo dài, mùa đông ngắn, mát đến mùa hè ấm áp với những thay đổi nhiệt độ có thể xảy ra trong mọi mùa. Không có các dãy núi lớn ngăn chặn không khí Arctic chìm, nhiệt độ -40 °C (-40 °F) không phải là hiếm; Tuyết rơi vẫn còn trên mặt đất đôi khi hơn nửa năm. Sự tích tụ tuyết rơi có thể cao ở một số khu vực. Lượng mưa nói chung ít hơn 70 cm (28 in) và đỉnh vào những tháng hè dưới dạng mưa rào hoặc giông bão. ", "Cơn sấm sét nghiêm trọng vào mùa hè. London, nằm ở phía Nam (Tây Nam Ontario ) , có những đợt sét đánh mỗi năm ở Canada, trung bình 34 ngày mỗi năm có dông bão. Trong một năm điển hình, Ontario trung bình đã xác định được 11 trận lốc xoáy. Tuy nhiên, trong 4 năm qua, đã có hơn 20 trận lốc xoáy mỗi năm, với tần số cao nhất xảy ra tại khu vực Windsor-Essex - Chatham Kent, mặc dù ít có tính phá hoại (đa số giữa F0 đến F2 trên thang Fujita). Ontario đã có 29 trận lốc xoáy kỷ lục vào năm 2006 và 2009. Những tàn dư đôi khi gây ra mưa lớn và gió ở phía nam, nhưng hiếm khi gây tử vong. Một ngoại lệ đáng chú ý là cơn bão Hazel tấn công miền Nam Ontario tập trung vào Toronto vào tháng 10 năm 1954.", "Lịch sử.", "Đất đai không được phân chia hợp pháp thành các đơn vị hành chính cho đến khi một hiệp định kết thúc với người thổ dân chuyển nhượng đất đai. Năm 1788, trong khi một phần của tỉnh Quebec, phía nam Ontario được chia thành bốn quận: Hesse, Lunenburg, Mecklenburg và Nassau.", "Năm 1792, bốn huyện được đổi tên thành: Hesse trở thành khu vực phía Tây, Lunenburg trở thành quận phía đông, Mecklenburg trở thành quận Midland, và Nassau trở thành Quận chủ. Quận đã được tạo ra trong huyện.", "Đến năm 1798, có tám huyện: Đông, Nhà, Johnstown, London, Midland, Newcastle, Niagara, và phương Tây.", "Đến năm 1826, có mười một quận: Bathurst, Eastern, Gore, Home, Johnstown, London, Midland, Newcastle, Niagara, Ottawa và Tây.", "Vào năm 1838, có hai mươi huyện: Bathurst, Brock, Colbourne, Dalhousie, Đông, Gore, Home, Huron, Johnstown, London, Midland, Newcastle, Niagara, Ottawa, Prince Edward, Simcoe, Talbot, Victoria, Wellington và Western.", "Năm 1849, các huyện phía nam Ontario đã được bãi bỏ bởi các tỉnh của Canada, và quận chính phủ đã tiếp quản một số trách nhiệm, thành phố. Tỉnh Ca-na-đa cũng bắt đầu tạo ra các \"quận\" ở vùng Ontario đông dân với việc thành lập quận Algoma và quận Nipissing vào năm 1858.", "Biên giới của Ontario, tên mới của nó vào năm 1867, được mở rộng tạm thời ở phía bắc và phía tây. Khi tỉnh Ca-na-đa được thành lập, biên giới của nó không hoàn toàn rõ ràng, và Ontario tuyên bố cuối cùng đã đến được cả dãy núi Rocky và Bắc Băng Dương. Với việc mua lại Rupert's Land của Canada, Ontario đã quan tâm đến việc xác định rõ ràng biên giới, đặc biệt là vì một số khu vực mới mà nó quan tâm đang phát triển nhanh chóng. Sau khi chính phủ liên bang yêu cầu Ontario thanh toán cho việc xây dựng ở khu vực tranh chấp mới, tỉnh đã yêu cầu xây dựng các giới hạn của nó, và ranh giới của nó đã được chuyển lên phía bắc đến cực bắc 51. ", "Các ranh giới phía bắc và phía tây của Ontario đã bị tranh chấp sau khi Liên minh Calci. Quyền của Ontario đối với Tây Bắc Ontario được Ủy ban Tư pháp của Hội đồng Tư pháp quyết định năm 1884 và được xác nhận bởi \"Đạo luật Canada (Ontario Roundary), 1889\" của Quốc hội Vương quốc Anh. Đến năm 1899, có bảy huyện phía bắc: Algoma, Manitoulin, Muskoka, Nipissing, Parry Sound, Sông Rainy và Thunder Bay. Bốn quận khác của miền Bắc được tạo ra từ năm 1907 đến năm 1912: Cochrane, Kenora, Sudbury và Timiskaming.", " Liên hệ với Châu Âu ", "Trước sự xuất hiện của người châu Âu, khu vực này đã có người ở Algonquian (Ojibwa, Cree và Algonquin) ở phần phía bắc / tây, và Iroquois và Wyandot (Huron) nhiều hơn ở phía nam / đông.  Trong thế kỷ 17, Algonquians và Hurons đã chiến đấu trong Chiến tranh Beaver chống lại Iroquois.  Nhà thám hiểm người Pháp Étienne Brûlé khám phá một phần của khu vực vào năm 1610-12.  Nhà thám hiểm người Anh Henry Hudson đã đi thuyền vào vịnh Hudson vào năm 1611 và tuyên bố khu vực này cho nước Anh.", "Samuel de Champlain đến Hồ Huron năm 1615, và các nhà truyền giáo Pháp bắt đầu thiết lập các bệ dọc theo Great Lakes. Sự giải quyết của người Pháp đã bị cản trở bởi cuộc chiến của họ với Iroquois, người đã liên minh với người Anh.  Từ năm 1634 đến năm 1640, Huron bị tàn phá bởi các bệnh truyền nhiễm ở châu Âu, như bệnh sởi và đậu mùa, mà họ không có miễn dịch.  Năm 1700, Iroquois đã rời khỏi Ontario và Mississaugas của Ojibwa đã định cư trên bờ phía bắc của Hồ Ontario.", "Anh thành lập các trụ sở thương mại trên Vịnh Hudson vào cuối thế kỷ 17 và bắt đầu một cuộc đấu tranh cho sự thống trị của Ontario. Các năm 1763 Hiệp ước Paris kết thúc chiến tranh bảy năm bằng cách trao gần như tất cả các tài sản Mỹ Bắc của Pháp (New France) để Anh. Khu vực này được nối vào Quebec năm 1774.  Các khu định cư châu Âu đầu tiên là vào năm 1782-1784 khi 5.000 người trung thành Mỹ bước vào Ontario bây giờ là sau cuộc Cách mạng Hoa Kỳ.  Các Vương quốc Anh cấp cho họ 200 mẫu Anh (81 ha) đất và các mặt hàng khác mà để xây dựng lại cuộc sống của họ.Người Anh cũng thiết lập các đặt chỗ ở Ontario cho nhữngngườiMohawks đã chiến đấu cho người Anh và đã mất đất ở bang New York. Iroquois khác đã được tái định cư năm 1784 tạikhu bảo tồnSix Nations ở phía tây của hồ Ontario.", "Dân số của Canada ở phía tây của hợp lưu sông St Lawrence-Ottawa tăng lên đáng kể trong thời gian này, một thực tế được thừa nhận theo Đạo luật Hiến pháp năm 1791, tách Quebec thành Canadas: Thượng Canada phía tây nam của hợp lưu sông St Lawrence-Ottawa, Và Hạ Canada phía đông của nó. John Graves Simcoe được bổ nhiệm làm Thống đốc Trung cấp đầu tiên của Canada năm 1793. ", "Thượng Canada.", "Quân Mỹ trong Chiến tranh năm 1812 đã xâm chiếm Thượng Canada qua sông Niagara và sông Detroit, nhưng đã bị đánh bại và đẩy lùi bởi các lực lượng fencibles và militias của Anh, Canada và các chiến binh của First Nations. Tuy nhiên, cuối cùng người Mỹ đã giành quyền kiểm soát Lake Erie và Lake Ontario. Trong Trận chiến York năm 1813, quân đội Hoa Kỳ chiếm thành phố York. Người Mỹ cướp phá thị trấn và đốt tòa nhà Nghị viện trong thời gian chiếm đóng ngắn.", "Sau Chiến tranh năm 1812, sự ổn định tương đối cho phép số lượng người nhập cư gia tăng từ châu Âu hơn là từ Hoa Kỳ. Cũng như trường hợp trong những thập kỷ trước, sự chuyển đổi nhập cư này đã được khuyến khích bởi các nhà lãnh đạo thuộc địa. Mặc dù đất đai có giá cả phải chăng và thường là đất đai tự do, nhiều người mới đến, chủ yếu là từ Anh và Ireland, đã tìm thấy cuộc sống biên giới với khí hậu khắc nghiệt khó khăn và một số người có phương tiện cuối cùng trở về nhà hoặc đi về phía nam. Tuy nhiên, tăng trưởng dân số vượt xa số người di cư trong những thập kỷ tiếp theo. Đó là một xã hội chủ yếu dựa vào nông nghiệp, nhưng các dự án kênh và một mạng lưới các tuyến đường ván mới thúc đẩy thương mại lớn hơn trong vùng thuộc địa và với Hoa Kỳ, qua đó cải thiện mối quan hệ trước đây bị hư hỏng theo thời gian.", "Trong khi đó, nhiều đường thủy của Ontario hỗ trợ du lịch và vận chuyển vào nội thất và cung cấp nước cho phát triển. Khi dân số tăng lên, ngành công nghiệp và mạng lưới giao thông cũng vậy, do đó đã dẫn tới sự phát triển hơn nữa. Vào cuối thế kỷ này, Ontario đã thắng với Quebec như là nhà lãnh đạo quốc gia về tăng trưởng dân số, công nghiệp, nghệ thuật và truyền thông. ", "Tình trạng bất ổn ở vùng thuộc địa bắt đầu châm ngòi với gia đình quý tộc Gia đình, người điều hành trong khi lợi ích kinh tế từ các nguồn lực của khu vực, và những người không cho phép các cơ quan bầu cử được quyền lực. Sự oán giận này thúc đẩy lý tưởng cộng hòa và gieo hạt giống cho chủ nghĩa dân tộc Canada. Theo đó, cuộc nổi dậy ủng hộ chính phủ có trách nhiệm tăng ở cả hai khu vực; Louis-Joseph Papineau dẫn đầu Cuộc nổi dậy ở Hạ Canada và William Lyon Mackenzie dẫn đầu Cuộc nổi dậy ở Upper Canada.", "Canada Tây.", "Mặc dù cả hai cuộc nổi dậy đã được đưa ra ngắn gọn, chính phủ Anh đã gửi Lord Durham để điều tra nguyên nhân gây ra tình trạng bất ổn. Ông đề nghị Chính phủ Tự trị được cấp và Hạ và Upper Canada được tái tham gia trong một nỗ lực để thuần thục người Canada gốc Pháp. Theo đó, hai thuộc địa đã được sáp nhập vào tỉnh của Canada theo \"Đạo luật Liên minh 1840\" , với thủ đô tại Kingston và Upper Canada được gọi là Canada Tây. Chính quyền nghị việnĐược ban hành vào năm 1848. Có những đợt sóng nhập cư vào những năm 1840, và dân số của Canada Tây tăng hơn gấp đôi vào năm 1851 trong thập kỷ trước. Kết quả là lần đầu tiên số lượng người nói tiếng Anh của Canada West vượt qua nhóm người nói tiếng Pháp ở Canada East, nghiêng về sự cân bằng quyền lực đại diện.", "Sự bùng phát kinh tế vào những năm 1850 trùng với việc mở rộng đường sắt trên khắp tỉnh, tiếp tục tăng sức mạnh kinh tế của Trung Canada. Với việc bãi bỏ Luật về Ngô và thỏa thuận có đi có lại với Hoa Kỳ, nhiều ngành công nghiệp khác nhau như gỗ, khai thác mỏ, trồng trọt và rượu chưng cất có lợi rất lớn.", "Một sự bất đồng chính trị giữa các nhà lập pháp Pháp và tiếng Anh, cũng như sự sợ hãi của sự xâm lược từ Hoa Kỳ trong và ngay sau cuộc Nội chiến Hoa Kỳ, dẫn đầu tầng lớp chính trị để tổ chức một loạt các hội nghị vào những năm 1860 nhằm tạo ra một liên bang rộng lớn hơn Công đoàn của tất cả các thuộc địa Bắc Mỹ của Anh. Các \"Bắc Mỹ Đạo luật Anh\" mất hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 1867, thành lập Dominion của Canada, ban đầu với bốn tỉnh: Nova Scotia, New Brunswick, Quebec và Ontario. Tỉnh của Canada được chia thành Ontario và Quebec để mỗi nhóm ngôn ngữ sẽ có một tỉnh riêng. Cả Quebec và Ontario đều được yêu cầu theo mục 93 của Đạo luật Bắc Mỹ của AnhĐể bảo vệ quyền và lợi ích giáo dục hiện có của người Tin lành và người thiểu số Ca-tô. Do đó, các trường Công giáo riêng biệt và bảng giáo dục được phép ở Ontario. Tuy nhiên, cả hai tỉnh đều không có yêu cầu về hiến pháp để bảo vệ người thiểu số nói tiếng Pháp hoặc tiếng Anh. Toronto đã chính thức được thành lập như là thủ phủ của tỉnh Ontario.", "Tỉnh.", "Sau khi thành lập như một tỉnh, Ontario đã tiến hành khẳng định quyền lực kinh tế và lập pháp của mình. Vào năm 1872, luật sư Oliver Mowat trở thành Thủ tướng của Ontario và giữ chức vụ thủ tướng cho đến năm 1896. Ông đã chiến đấu vì quyền của tỉnh, làm suy yếu quyền lực của chính phủ liên bang trong các vấn đề của tỉnh, thường là thông qua những lời kêu gọi tranh luận tốt với Ủy ban Tư pháp của Hội đồng Tư hữu. Những trận đánh của ông với chính phủ liên bang đã phân cấp rất nhiều Canada, cho phép các tỉnh có quyền lực hơn John A. MacdonaldĐã dự định. Ông đã củng cố và mở rộng các cơ sở giáo dục và tỉnh của Ontario, tạo ra các khu vực ở Bắc Ontario, và đã chiến đấu để đảm bảo rằng những khu vực của Tây Bắc Ontario không phải là một phần của Upper Canada (vùng rộng lớn phía bắc và phía tây của lưu vực Hồ Superior-Hudson Bay, các quận của Keewatin) sẽ trở thành một phần của Ontario, một chiến thắng thể hiện trong \"(Boundary) Đạo luật Canada Ontario, 1889\" . Ông cũng đã chủ trì sự xuất hiện của tỉnh này thành nhà máy kinh tế của Canada. Mowat là người tạo ra cái gọi là \"Empire Ontario\" .", "Bắt đầu với Chính sách Quốc gia Sir John A. Macdonald (1879) và việc xây dựng tuyến đường sắt Thái Bình Dương của Canada (1875-1885) thông qua miền Bắc Ontario và vùng Cananda đến British Columbia, Ontario sản xuất và công nghiệp phát triển rực rỡ. Tuy nhiên, dân số tăng chậm lại sau khi một cuộc suy thoái trầm trọng xảy ra vào năm 1893, do đó làm chậm tăng trưởng mạnh nhưng chỉ trong vài năm. Nhiều người nhập cư mới đến và những người khác di chuyển về phía tây dọc theo tuyến đường sắt tới các tỉnh Prairie và British Columbia, thường xuyên định cư phía Bắc Ontario.", "Khai thác khoáng sản đã tăng nhanh vào cuối thế kỷ 19, dẫn đến sự gia tăng các trung tâm khai thác quan trọng ở phía đông bắc, như Sudbury, Cobalt và Timmins. Tỉnh đã khai thác nguồn nước để sản xuất thủy điện và thành lập Ủy ban Nhà nước về Điện thủy điện của Ontario, sau đó là Ontario Hydro. Sự sẵn có của điện năng giá rẻ tiếp tục tạo điều kiện cho sự phát triển của ngành công nghiệp. Công ty Ford Motor của Canada được thành lập vào năm 1904. General Motors Canada được thành lập vào năm 1918. Ngành công nghiệp ô tô đã trở thành ngành công nghiệp sinh lợi nhất cho nền kinh tế Ontario trong thế kỷ 20.", "Vào tháng 7 năm 1912, chính quyền Bảo thủ của Sir James Whitney đã ban hành Quy định 17 làm hạn chế đáng kể việc học tiếng Pháp đối với người thiểu số nói tiếng Pháp của tỉnh. Người Pháp gốc Canada đã phản ứng giận dữ, nhà báo Henri Bourassa đã tố cáo \"Prussians of Ontario\". Các quy định cuối cùng đã được bãi bỏ vào năm 1927.", "Bị ảnh hưởng bởi các sự kiện ở Hoa Kỳ, chính phủ của Sir William Hearst giới thiệu việc cấm uống rượu vào năm 1916 với sự vượt qua của Đạo luật Temperance Ontario. Tuy nhiên, người dân có thể chưng cất và duy trì nguồn cung cá nhân của họ, và các nhà sản xuất rượu có thể tiếp tục chưng cất và xuất khẩu để bán, cho phép ngành công nghiệp đã có thể tăng cường hơn nữa. Ontario đã trở thành một căn cứ buôn lậu ma túy bất hợp pháp và là nhà cung cấp lớn nhất vào Hoa Kỳ, điều này hoàn toàn bị cấm. Việc cấm ở Ontario đã chấm dứt vào năm 1927 với việc thành lập Ban Kiểm soát rượu của Ontario dưới sự quản lý của chính phủ Howard Ferguson. Việc bán và tiêu thụ rượu, rượu vang và bia vẫn bị kiểm soát bởi một số luật cực đoan nhất ở Bắc Mỹ để đảm bảo rằng các tiêu chuẩn nghiêm ngặt về cộng đồng và doanh thu từ độc quyền bán lẻ rượu được duy trì. Tháng 4 năm 2007, Thành viên Ontario của tỉnh Kim Craitor cho rằng các nhà sản xuất bia địa phương nên có thể bán bia của họ tại các cửa hàng góc địa phương; Tuy nhiên, chuyển động nhanh chóng bị Premier Dalton McGuinty bác bỏ.", "Giai đoạn sau Thế chiến II là một trong những sự thịnh vượng đặc biệt và tăng trưởng. Ontario là người nhận đa số di dân đến Canada, phần lớn là những người nhập cư từ Châu Âu bị chiến tranh tàn phá vào những năm 1950 và 1960 và sau những thay đổi trong luật nhập cư của liên bang, một làn sóng khổng lồ những người không phải châu Âu kể từ những năm 1970. Từ một tỉnh thuộc tỉnh sắc tộc Anh quốc, Ontario đã nhanh chóng trở nên văn hoá rất đa dạng.", "Phong trào dân tộc chủ nghĩa ở Quebec, đặc biệt sau cuộc bầu cử \"Parti Québécois\" năm 1976, đã góp phần thúc đẩy nhiều doanh nghiệp và người nói tiếng Anh ra khỏi Quebec đến Ontario, và kết quả là Toronto vượt qua Montreal như là thành phố lớn nhất và trung tâm kinh tế của Canada. [ ' ] Điều kiện kinh tế suy thoái ở các tỉnh Maritime cũng dẫn đến tình trạng dân số của các tỉnh này trong thế kỷ 20, với việc di cư quá mức vào Ontario. [ ' ]", "Ngôn ngữ chính thức của Ontario là tiếng Anh.  Nhiều dịch vụ ngôn ngữ tiếng Pháp có sẵn theo Đạo luật Dịch vụ Ngôn ngữ Pháp năm 1990 trong các khu vực được chỉ định, nơi có nhiều người nói tiếng Pháp.", "Kinh tế.", "Nền kinh tế ở Ontario rất đa dạng. Ontario có nền kinh tế lớn nhất ở Canada. Mặc dù sản xuất đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế Ontario, chiếm 12,6% GDP của tỉnh, nhưng lĩnh vực dịch vụ lại chiếm phần lớn, khoảng 77,9%, của nền kinh tế.", "Ontario là tỉnh đông dân nhất của Canada, với dân số khoảng 14,19 triệu thường trú nhân vào năm 2017. Đây là tỉnh sản xuất hàng đầu của Canada, chiếm 46% GDP sản xuất năm 2017.", "Lạm phát CPI của tỉnh trong năm 2018 đã được xác nhận là 2,2%, với tỷ lệ thất nghiệp là 5,6% vào tháng 1 năm 2019. Tỷ lệ thất nghiệp này dựa trên 447.400 người thất nghiệp ở Ontario.", "Năm 2017, các mặt hàng xuất khẩu quốc tế chính của Ontario là xe có động cơ và phụ tùng (35,3%), thiết bị cơ khí (10,1%), kim loại quý và đá (9,8%), máy móc điện (3,9%) và sản phẩm nhựa (3,6%). Nhập khẩu quốc tế chính của Ontario là linh kiện và phụ tùng xe có động cơ (22,6%), thiết bị cơ khí (14,4%), máy móc điện (11,4%), sản phẩm nhựa (3,9%) và dược phẩm (3,4%).", "Ontario là tỉnh bang hàng đầu thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) ở Bắc Mỹ vào năm 2013, với 7,23 tỷ đô la. Con số này chiếm hơn một phần mười tổng số vốn FDI vào Bắc Mỹ. Đây cũng là bang đứng thứ 4 về vốn FDI ra nước ngoài, đạt 7,74 tỷ USD.", "Tính đến năm 2017, Ontario là tỉnh có nền kinh tế phát triển nhanh thứ hai ở Canada, đầu tiên là Alberta.", "Các con sông của Ontario làm cho nó giàu năng lượng thủy điện.  Trong năm 2009, Ontario Power Generation tạo ra 70% điện của tỉnh, trong đó 51% là hạt nhân, 39% là thủy điện và 10% là nhiên liệu hóa thạch.  Đến năm 2025, điện hạt nhân dự kiến ​​sẽ cung cấp 42%, trong khi sản xuất nguồn nhiên liệu hóa thạch dự kiến ​​sẽ giảm nhẹ trong 20 năm tới. Phần lớn sản lượng điện mới xuất hiện trực tuyến trong vài năm qua là các loại khí tự nhiên hoặc khí tự nhiên kết hợp. Tuy nhiên, OPG không chịu trách nhiệm về việc truyền tải điện, dưới sự kiểm soát của Hydro One. Mặc dù có nhiều lựa chọn quyền lực khác nhau, các vấn đề liên quan đến tiêu thụ ngày càng tăng, thiếu hiệu suất năng lượng và các lò phản ứng hạt nhân cũ, Ontario đã buộc phải mua điện từ các nước láng giềng Quebec và Michigan để bổ sung nhu cầu năng lượng của họ trong thời gian tiêu thụ cao điểm. Tỷ lệ nội địa cơ bản của Ontario trong năm 2010 là 11,17 cent / kWh; Ngược lại. Quebec là 6,81.  Vào tháng 12 năm 2013, chính phủ dự kiến ​​mức tăng 42% vào năm 2018, và 68% vào năm 2033.  Tỷ lệ công nghiệp dự kiến ​​sẽ tăng 33% vào năm 2018, và 55% vào năm 2033. ", "Một sự phong phú của tài nguyên thiên nhiên, liên kết giao thông tuyệt vời để các khu trung tâm Mỹ và nội địa Great Lakes làm cận với đại dương có thể qua tàu container, tất cả đều góp phần làm cho sản xuất hiệu trưởng ngành công nghiệp của tỉnh, phát hiện chủ yếu ở khu vực Golden Horseshoe, đó là Khu vực công nghiệp hóa lớn nhất ở Canada, phía nam của khu vực là một phần của Bắc Rust Belt Bắc Mỹ. Các sản phẩm quan trọng bao gồm xe có động cơ, sắt, thép, thực phẩm, thiết bị điện, máy móc, hóa chất và giấy.", "Ontario đã vượt qua Michigan trong sản xuất ôtô, lắp ráp 2.696 triệu xe trong năm 2004. Ontario có nhà máy Chrysler ở Windsor và Bramalea, hai nhà máy GM ở Oshawa và một ở Ingersoll, một nhà máy lắp ráp Honda tại Alliston, các nhà máy Ford ở Oakville và St. Thomas và Toyota Lắp ráp tại Cambridge và Woodstock. Năm 2005, General Motors tuyên bố sa thải nhân viên tại các cơ sở sản xuất ở Bắc Mỹ, trong đó có hai nhà máy GM lớn ở Oshawa và một cơ sở đào tạo lái xe tại St. CatharinesDẫn đến 8.000 việc làm bị mất ở Ontario một mình. Năm 2006, Ford Motor Company tuyên bố từ 25,000 đến 30,000 người sa thải cho đến năm 2012; Ontario đã được cứu thoát tồi tệ nhất, nhưng mất việc đã được công bố cho các cơ sở St Thomas và nhà máy Casting Windsor. Tuy nhiên, tổn thất này sẽ được bù đắp bởi việc công bố gần đây của Ford về một cơ sở sản xuất xe hybrid được dự kiến ​​sẽ bắt đầu sản xuất vào năm 2007 tại nhà máy Oakville và việc tái giới thiệu Camaro của GM sẽ được sản xuất tại Oshawa. Vào ngày 4 tháng 12 năm 2008, Toyota đã công bố việc khai trương nhà máy RAV4 tại Woodstock, vàHonda cũng có kế hoạch bổ sung thêm một nhà máy động cơ tại nhà máy tại Alliston. Mặc dù các nhà máy mới này được đưa vào sử dụng trực tuyến nhưng Ontario vẫn chưa hồi phục hoàn toàn sau những đợt sa thải hàng loạt gây ra bởi cuộc suy thoái toàn cầu; Tỷ lệ thất nghiệp của họ là 7,3% vào tháng 5 năm 2013,  so với 8,7% trong tháng 1 năm 2010  và khoảng 6% trong năm 2007. Tháng 9 năm 2013, chính phủ Ontario đã cam kết 70,9 triệu CAD cho nhà máy Ford ở Oakville, Chính phủ liên bang đã cam kết 71,1 triệu CAD, để đảm bảo 2.800 việc làm. Tỉnh này đã mất 300.000 việc làm trong thập kỷ từ năm 2003, và Ngân hàng Canada ghi nhận rằng \"trong khi các ngành công nghiệp năng lượng và khai thác mỏ đã được hưởng lợi từ các phong trào này, áp lực lên ngành chế tạo đã tăng lên, vì nhiều công ty trong ngành này đã Đối phó với cạnh tranh ngày càng tăng từ các nền kinh tế có chi phí thấp như Trung Quốc \". ", "Ngành công nghiệp thép của Ontario đã từng tập trung vào Hamilton. Cảng Hamilton, có thể được xem như là một trong những cầu QEW Skyway cầu, là một đất công nghiệp đất hoang; Thép Mỹ thuộc sở hữu Stelco công bố vào mùa thu năm 2013 rằng họ sẽ đóng cửa vào năm 2014, với sự mất mát của 875 việc làm. Động thái này cho thấy một nhà sản xuất công suất 2 triệu tấn / năm sẽ bị đóng cửa trong khi Canada nhập khẩu 8 triệu tấn thép vào năm trước.  Algoma Steel vẫn duy trì một nhà máy ở Sault Ste Marie.", "Toronto, thủ phủ của Ontario, là trung tâm dịch vụ tài chính và ngành ngân hàng của Canada. Các thành phố lân cận là nơi phân phối sản phẩm, các trung tâm công nghệ thông tin và các ngành sản xuất khác nhau. Chính phủ liên bang của Canada là công ty lớn nhất trong khu vực thủ đô, trong đó tập trung vào các thành phố biên giới của Ottawa Ontario và Quebec Gatineau. ", "Ngành công nghệ thông tin rất quan trọng, đặc biệt là ở khu \"vực phía Bắc Thung lũng Silicon\" của Ottawa, cũng như khu vực Waterloo, nơi có trụ sở chính của Research in Motion (các nhà phát triển của điện thoại thông minh BlackBerry). BlackBerry một lần cung cấp hơn 19 phần trăm các công việc ở địa phương và sử dụng hơn 13% của toàn bộ người dân địa phương [ \" ] trước khi nó được cung cấp 9.500 sa thải trong năm 2013. OpenText và ATS Automation Systems Tooling của Cambridge làm cho ngôi nhà của mình ở khu vực này quá. Mike Lazaridis, Một trong những người sáng lập của RIM, được thành lập vào năm 1999 Viện Perimeter, sau đó vào năm 2002 Viện về Máy tính lượng tử, sau đó trong năm 2013 Quantum Valley Investments, để cày một phần lợi ích của RIM trở lại nghiên cứu và phát triển. ", "Vào năm 2014, đoạn đường cao tốc 401 giữa Toronto và Waterloo đã trở thành hành lang đổi mới lớn thứ hai thế giới sau thung lũng Silicon của California, sử dụng gần 280.000 nhân viên công nghệ từ khắp nơi trên thế giới và chứa trên 60% ngành công nghệ cao của Canada. ", "Hamilton là thành phố sản xuất thép lớn nhất ở Canada theo sát bởi Sault Ste. Marie, và Sarnia là trung tâm sản xuất hóa dầu. Xây dựng đã sử dụng hơn 6,5% lực lượng lao động của tỉnh vào tháng 6 năm 2011. ", "Ngành khai thác mỏ và lâm sản, đặc biệt là bột giấy và giấy, là yếu tố sống còn cho nền kinh tế của Bắc Ontario. Đã có tranh cãi về trữ lượng khoáng sản của Ring of Fire, và liệu tỉnh có đủ tiền để chi 2,25 tỷ đô la Canada trên đường từ Đường cao tốc Trans-Canada gần Kenora đến tiền gửi, hiện tại trị giá 60 tỷ đô la Canada. ", "Du lịch đóng góp rất lớn vào nền kinh tế của miền trung Ontario, đạt đỉnh điểm trong những tháng hè vì sự phong phú của nước ngọt giải trí và hoang dã được tìm thấy ở đó gần với các trung tâm đô thị lớn. Vào các thời điểm khác trong năm, săn bắn, trượt tuyết và xe trượt tuyết rất phổ biến. Vùng này có một số màn hình hiển thị màu sắc rực rỡ nhất ở bất kỳ đâu trên lục địa, và các chuyến tham quan hướng tới du khách nước ngoài được tổ chức để xem chúng. Du lịch cũng đóng vai trò quan trọng trong các thành phố biên giới với các sòng bạc lớn, trong số đó là Windsor, Cornwall, Sarnia và Niagara Falls, nơi thu hút hàng triệu du khách quốc tế và Mỹ. ", "Nông nghiệp.", "Một khi ngành công nghiệp chiếm ưu thế, nông nghiệp chiếm một tỷ lệ nhỏ trong dân số. Tuy nhiên, phần lớn diện tích đất ở nam Ontario được giao cho nông nghiệp. Như bảng dưới đây cho thấy, trong khi số lượng trang trại cá nhân giảm đều và quy mô tổng thể của họ đã giảm với tốc độ thấp hơn, cơ giới hóa nhiều hơn đã hỗ trợ tăng cung để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của một nền dân số ngày càng tăng; Điều này cũng đồng nghĩa với sự gia tăng dần trong tổng số đất sử dụng cho trồng cây.", "Các loại trang trại thông thường được báo cáo trong cuộc Tổng điều tra năm 2001 bao gồm các loại trang trại cho gia súc, hạt nhỏ và sữa. Ngành trồng nho và trồng nho chủ yếu nằm trên Bán đảo Niagara và dọc theo Hồ Erie, nơi có các trang trại thuốc lá. Thị trường rau cải phát triển trong đất phong phú của Hà Lan Marsh gần Newmarket. Khu vực gần Windsor cũng rất phì nhiêu. Nhà máy Heinz ở Leamington được mua lại vào mùa thu năm 2013 của Warren Buffett và một đối tác của Brazil, sau đó đã đưa 740 người ra khỏi công việc.  Các khoản trợ cấp của chính phủ đã được theo sau một thời gian ngắn; Premier Kathleen WynneĐã cung cấp 200.000 đô la Canada để giảm đòn, và hứa hẹn rằng một nhà chế biến thực phẩm khác sẽ sớm được tìm thấy.  Vào ngày 10 tháng 12 năm 2013, Kellogg tuyên bố sa thải cho hơn 509 công nhân tại một nhà máy sản xuất ngũ cốc ở London.  Kellogg có kế hoạch chuyển vị trí sang Thái Lan. ", "Khu vực được định nghĩa là Vành ngô chứa nhiều khu vực phía tây nam của tỉnh, mở rộng đến tận phía Bắc gần Goderich, nhưng ngô và đậu nành được trồng ở khu vực phía nam của tỉnh. Vườn Apple là một cảnh quan phổ biến dọc theo bờ biển phía nam của vịnh Nottawasaga (một phần của vịnh Georgian) gần Collingwood và dọc theo bờ phía bắc của Hồ Ontario gần Cobourg. Sản xuất thuốc lá, tập trung tại Quận Norfolk, đã giảm, cho phép tăng các cây trồng thay thế như cây phỉ và nhân sâm. Nguồn gốc của Ontario của Massey Ferguson, một lần là một trong những trang trại lớn nhất thực hiệncác nhà sản xuất trên thế giới, cho thấy tầm quan trọng khu vực nông một lần [ \" ] phải nền kinh tế Canada.", "Việc cung cấp đất nông nghiệp hạn chế của miền Nam Ontario sẽ không còn sản xuất nữa với tốc độ gia tăng. Việc mở rộng đô thị và các trường hợp mất đất nông nghiệp góp phần làm mất hàng ngàn mẫu đất sản xuất nông nghiệp tại Ontario mỗi năm. Hơn 2.000 trang trại và 150.000 mẫu Anh (61.000 ha) đất nông nghiệp trong GTA đã bị mất đi trong hai thập kỷ giữa năm 1976 và năm 1996. Sự mất mát này chiếm khoảng 18% diện tích đất nông nghiệp của Ontario được chuyển sang mục đích đô thị., Việc gia tăng các khoản trợ cấp nông thôn sẽ tạo ra sự can thiệp lớn hơn cho sản xuất nông nghiệp.", "Năng lượng.", "Đạo luật về Năng lượng Xanh và Kinh tế Xanh, 2009 (GEA), có cách tiếp cận hai mặt để thương mại hóa năng lượng tái tạo:", "Dự thảo dự kiến ​​chỉ định một Người hướng dẫn năng lượng tái tạo để cung cấp hỗ trợ \"một cửa sổ\" và hỗ trợ cho các nhà phát triển dự án để tạo điều kiện cho việc phê duyệt dự án. ", "Quy trình phê duyệt cho các dự án truyền tải cũng sẽ được sắp xếp hợp lý và (lần đầu tiên ở Ontario) dự luật sẽ ban hành các tiêu chuẩn cho các dự án năng lượng tái tạo. Chủ nhà sẽ được hưởng ưu đãi để phát triển các nguồn năng lượng tái tạo quy mô nhỏ như các khoản vay thấp hoặc không có lãi để trang trải cho chi phí vốn của các cơ sở sản xuất năng lượng tái tạo như các tấm pin mặt trời. ", "Ontario là nơi có Thác Niagara, cung cấp một lượng điện lớn cho tỉnh. Các Generating Station Bruce hạt nhân, lớn nhất điện hạt nhân nhà máy trên thế giới, cũng là ở Ontario và sử dụng 8 lò phản ứng CANDU để tạo ra điện cho tỉnh.", "Chính phủ, luật pháp và chính trị.", "Các \"Luật Bắc Mỹ Anh 1867\" phần 69 quy định \"Sẽ có một cơ quan lập pháp cho Ontario gồm Thống đốc Trung úy và One House, theo kiểu các Hội đồng lập pháp của Ontario.\" Hội đồng có 107 ghế đại diện cho các cuộc chạy đua được bầu trong hệ thống đầu tiên trên toàn tỉnh.", "Tòa nhà lập pháp tại Queen's Park là nơi của chính phủ. Theo hệ thống Westminster, lãnh đạo đảng nắm giữ nhiều ghế trong hội đồng được gọi là \"Thủ hiến và Chủ tịch Hội đồng\" (Đạo luật của Hội đồng Điều hành RSO 1990). Thủ tướng Chính phủ chọn nội các hoặc Hội đồng điều hành có các thành viên được coi là Bộ trưởng của Vương quốc Anh.", "Mặc dù \"Đạo luật Lập pháp của Hội đồng Lập pháp (RSO 1990)\" đề cập đến các thành viên của hội đồng \", các nhà lập pháp hiện nay được gọi là MPPs (Thành viên của Nghị viện tỉnh) bằng tiếng Anh và \"députés de l'Assemblée lập pháp\" bằng tiếng Pháp, nhưng họ cũng được gọi là MLAs (Các thành viên của Hội đồng Lập pháp), và cả hai đều có thể chấp nhận được. Tiêu đề của Thủ tướng chính phủ Ontario, đúng bằng tiếng Pháp ( \"le Premier ministre\" ), được cho phép bằng tiếng Anh nhưng bây giờ thường tránh dùng danh hiệu \"Premier\" để tránh nhầm lẫn với Thủ tướng Canada.", "Luật.", "Ontario đã phát triển, từ nguồn gốc của nó ở Thượng Canada, vào một thẩm quyền hiện đại. Các chức danh cũ của các luật sư trưởng, Tổng Chưởng lý và Tổng luật sư, vẫn còn được sử dụng. Cả hai đều chịu trách nhiệm về Lập pháp. Tổng chưởng lý soạn thảo luật pháp và chịu trách nhiệm về việc truy tố hình sự và quản lý công lý, trong khi Tổng luật sư chịu trách nhiệm thực thi pháp luật và các dịch vụ cảnh sát của tỉnh.", "Chính trị.", "Ontario có nhiều đảng chính trị chạy đua vào cuộc bầu cử. Ba đảng chính là Đảng Tự do của Trung ương Đảng, Đảng Bảo thủ Tiến bộ Tiến bộ ở Ontario, và Đảng Dân chủ Mới của Ontario (NDP). Mỗi bên trong ba đảng đã nhận được uỷ nhiệm đa số trong một cuộc bầu cử cấp tỉnh từ năm 1990.", "Ontario được lãnh đạo bởi chính phủ đa số Premier Kathleen Wynne, một người tự do. Kể từ khi giành được quyền lực của cựu Premier Dalton McGuinty vào năm 2003, Ontario Liberals đã được tái đắc cử ba lần: trong năm 2007, 2011, và 2014 cuộc tổng tuyển cử.", "Trong cuộc bầu cử liên bang năm 2011 ở Ontario, Đảng Bảo thủ đã được bầu vào 73 lần cai nghiện, NDP ở 22 và Liberals trong 11. Đảng Xanh đã không giành được ghế ở Ontario, nhưng Bruce Hyer (Dân biểu của Thunder Bay-Superior Bắc) đã vượt qua Sàn từ NDP và ngồi như một thành viên Đảng Xanh từ năm 2013 cho đến khi Nghị viện chấm dứt cuộc bầu cử liên bang năm 2015.", "Giáo dục.", "Hệ sau trung học phổ thông tại Ontario có 22 trường đại học công lập, 24 trường cao đẳng công lập (21 trường cao đẳng nghệ thuật ứng dụng và công nghệ (CAATs) và ba viện công nghệ và học tập nâng cao (ITALs)), 17 trường đại học tôn giáo được tài trợ bởi tư nhân, và hơn 500 trường cao đẳng nghề tư thục.", "Hệ thống cấp tiểu học và trung học cơ sở gồm: 31 trường dạy theo chương trình tiếng anh công lập, 29 trường dạy chương trình tiếng anh công giáo, 4 trường dạy tchuowng trình tiếng Pháp công lập và 8 trường tiếng Pháp công giáo.", "Tại Canada, việc xây dựng môi trường giáo dục hoàn thoàn thuộc vào thẩm quyền của tỉnh bang. Liên bang chỉ theo dõi chứ không  sau sát vào quá trình xây dựng môi trường và hệ thống giáo dục tại tỉnh bang. Tại mỗi tỉnh bang sẽ tồn tại các trường dành cho người dân tộc Ấn, đây là trường hợp duy nhất được liên bang tài trợ.", "Các trường tiểu học và trung học công lập do Bộ Giáo dục Ontario quản lý, trong khi các trường cao đẳng và đại học do Bộ Đào tạo, Cao đẳng và Đại học Ontario quản lý. Các Bộ trưởng tương ứng hiện tại của mỗi người là Stephen Lecce và Ross Romano.", "Các hiến pháp CanadaCung cấp cho mỗi tỉnh có trách nhiệm giáo dục đại học và không có bộ giáo dục đại học liên bang tương ứng. Trong chủ nghĩa liên bang của Canada phân chia trách nhiệm và quyền hạn thuế giữa các chính phủ Ontario và Canada tạo ra nhu cầu hợp tác để tài trợ và cung cấp giáo dục đại học cho sinh viên. Mỗi hệ thống giáo dục đại học nhằm mục đích cải thiện sự tham gia, tiếp cận, và tính lưu động cho học sinh. Có hai tổ chức trung ương hỗ trợ quá trình nộp đơn vào các trường đại học và cao đẳng Ontario: Trung tâm Ứng dụng các trường đại học Ontario và Dịch vụ Ứng dụng Cao đẳng Ontario. ", "Mặc dù các dịch vụ ứng dụng được tập trung, các thủ tục tuyển chọn và lựa chọn khác nhau và là tầm nhìn của mỗi tổ chức độc lập. Nhập học vào các cơ sở giáo dục sau trung học tại Ontario có thể rất cạnh tranh. Sau khi nhập học, sinh viên có thể tham gia với đại diện sinh viên trong khu vực với các Liên đoàn Canada Học Sinh, các Canada Liên minh các Hội Sinh viên, các Đại học Student Alliance Ontario, hoặc thông qua Liên minh Sinh viên Trường Cao đẳng ở Ontari", "Giao thông vận tải.", "Các tuyến đường vận chuyển ở Ontario phát triển từ đường thủy đầu và đường đi của First Nations theo sau bởi các nhà thám hiểm châu Âu. Ontario có hai tuyến đường đông-tây lớn, bắt đầu từ Montreal ở tỉnh lân cận của Quebec. Tuyến đường phía bắc, là một tuyến thương mại lông thú lớn, di chuyển về phía tây từ Montreal dọc theo sông Ottawa, sau đó tiếp tục hướng tây bắc về phía Manitoba. Các thành phố lớn trên hoặc gần tuyến bao gồm Ottawa, Vịnh Bắc, Sudbury, Sault Ste. Marie, và Thunder Bay. Tuyến phía nam, được thúc đẩy bởi sự tăng trưởng trong các khu định cư do Cơ quan Trung thành Thống nhất Hoa Kỳ và những người nhập cư châu Âu khác, Đi theo hướng tây nam từ Montreal dọc theo Sông St. Lawrence, Hồ Ontario và Hồ Erie trước khi vào Hoa Kỳ ở Michigan. Các thành phố lớn trên hoặc gần tuyến bao gồm Kingston, Belleville, Peterborough, Oshawa, Toronto, Mississauga, Kitchener-Waterloo, Hamilton, London, Sarnia và Windsor. Tuyến đường này cũng được người nhập cư sử dụng rộng rãi đến vùng Trung Tây Hoa Kỳ đặc biệt vào cuối thế kỷ 19.", "Đường cao tốc 400-Series tạo thành mạng lưới xe buýt chính ở phía nam của tỉnh, nối liền với nhiều cửa khẩu biên giới với Hoa Kỳ, nhất là Đường hầm Detroit-Windsor và Cầu Ambassador và Cầu Nước Xanh (qua Quốc lộ 402). Một số đường cao tốc chính dọc theo tuyến đường phía nam là Quốc lộ 401, Quốc lộ 417 và Quốc lộ 400,  trong khi các đường cao tốc tỉnh và đường nội bộ khác kết nối với phần còn lại của tỉnh.", "Các Saint Lawrence Seaway, mà mở rộng trên hầu hết các phần phía nam của tỉnh và kết nối với Đại Tây Dương, là chính vận chuyển nước đường cho hàng hóa, đặc biệt là quặng sắt và ngũ cốc. Trong quá khứ, Hồ Great Lakes và Sông St. Lawrence cũng là một tuyến vận tải hành khách lớn, nhưng trong nửa thế kỷ vừa qua hành khách đã bị giảm xuống các dịch vụ phà và tham quan du lịch trên biển.", "Qua Đường sắt hoạt động dịch vụ vận tải hành khách liên vùng trên Hành lang Windsor-Quebec, cùng với \"The Canadian\" , một tuyến đường sắt xuyên lục địa từ Nam Ontario đến Vancouver, và tàu Sudbury-White River. Ngoài ra, tuyến đường sắt Amtrak nối Ontario với các thành phố New York chính gồm Buffalo, Albany và Thành phố New York. Ontario Northland cung cấp dịch vụ đường sắt đến các điểm đến phía bắc như Moosonee gần Vịnh James, kết nối chúng với phía nam.", "Đường sắt vận chuyển hàng hóa bị chi phối bởi các sáng lập xuyên quốc gia Đường sắt Quốc gia Canada và đường sắt CP các công ty, mà trong năm 1990 bán nhiều tuyến đường sắt ngắn từ mạng lưới rộng lớn của họ cho các công ty tư nhân hoạt động chủ yếu ở phía nam.", "Tuyến đường sắt đi lại khu vực bị giới hạn bởi GO Transit thuộc tỉnh, và phục vụ mạng lưới xe lửa bao gồm khu vực Golden Horseshoe.", "Các Transit Ủy ban Toronto hoạt động duy nhất của tỉnh tàu điện ngầm và xe điện hệ thống, một trong những bận rộn nhất ở Bắc Mỹ. OC Transpo hoạt động, ngoài dịch vụ xe buýt, tuyến đường sắt nhẹ duy nhất của Ontario, O-Train ở Ottawa.", "Một tuyến tàu điện ngầm đường sắt gọi là Confederation Line đang được xây dựng tại Ottawa. Nó sẽ có 13 trạm trên 12,5 km (7,8 dặm) và một phần của nó sẽ chạy dưới Downtown của thành phố và có ba trạm ngầm. Ngoài ra, hệ thống đường sắt nhẹ Ion và xe buýt tốc độ cao đang được xây dựng trong khu vực Waterloo của tỉnh.", "Các sân bay quan trọng trong tỉnh bao gồm Sân bay Quốc tế Toronto Pearson, là sân bay bận nhộn nhịp nhất ở Canada, đón hơn 41 triệu hành khách vào năm 2015.  Sân bay Quốc tế Ottawa Macdonald-Cartier là sân bay lớn thứ hai của Ontario. Toronto / Pearson và Ottawa / Macdonald-Cartier tạo thành hai trong số ba điểm trong các tuyến không lưu của Canada (điểm thứ ba là Sân bay Quốc tế Montréal-Pierre Elliott Trudeau).", "Hầu hết các thành phố ở Ontario đều có các sân bay trong khu vực, nhiều sân bay có các chuyến bay từ Air Canada Jazz hoặc các hãng hàng không và các hãng hàng không nhỏ hơn - các chuyến bay từ các thành phố cỡ trung như Thunder Bay, Sault Ste. Marie, Sudbury, North Bay, Timmins, Windsor, London và Kingston trực tiếp đưa vào các sân bay lớn ở Toronto và Ottawa. Bearskin Airlines cũng điều hành các chuyến bay dọc theo tuyến phía đông-tây bắc, kết nối Ottawa, Vịnh Bắc, Sudbury, Sault Ste. Marie, Kitchener và Thunder Bay trực tiếp.", "Các thành phố và khu định cư bị cô lập ở các khu vực phía Bắc của tỉnh phụ thuộc hoàn toàn vào dịch vụ vận chuyển hàng không, hàng không, và thậm chí cả dịch vụ cứu thương (MEDIVAC) vì phần lớn khu vực phía Bắc của tỉnh không thể đi bằng đường bộ hoặc đường sắt." ]
844
68679268
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=844
Manitoba
[ "Manitoba là một trong ba tỉnh bang nằm ở trung tâm của Canada, có cùng biên giới với Ontario, Saskatchewan và Nunavut, phía bắc giáp vịnh Hudson và phía nam giáp hai bang Minnesota và Bắc Dakota của Hoa Kỳ.", "Hầu hết dân Manitoba có nguồn gốc Anh. Nhưng nhiều thay đổi trong mô hình nhập cư và di trú đã biến tỉnh này là nơi mà không có một sắc tộc nào nổi bật về số lượng.", "Có trên 700 tổ chức ở tỉnh này hỗ trợ cho công dân mới và dân nhập cư. Khoảng 60% trong số một triệu người dân Manitoba sinh sống ở thành phố chính Winnipeg, thủ phủ của tỉnh bang này. Thành phố lớn thứ hai là Brandon, ở phía tây nam Manitoba. Tên Manitoba có thể đến từ tiếng Cree \"manitou bou\" có nghĩa là \"Eo biển hẹp của Thần linh Vĩ đại\". Manitoba cũng là quê hương của Vườn Hoà bình Quốc tế - khu vườn lớn nhất thế giới dành tặng cho hoà bình thế giới." ]
845
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=845
Newfoundland và Labrador
[ "Newfoundland và Labrador(), ) là tỉnh cực đông của Canada. Tỉnh này thuộc khu vực Đại Tây Dương của Canada, gồm đảo Newfoundland và phần lãnh thổ Labrador tại đại lục, tổng diện tích là . Năm 2013, dân số tỉnh ước tính là 526.702. Xấp xỉ 92% dân số toàn tỉnh cư trú trên đảo Newfoundland (cùng các đảo nhỏ xung quanh), trong đó hơn một nửa cư trú tại bán đảo Avalon. Đây là tỉnh đồng nhất số một về ngôn ngữ tại Canada, với 97,6% cư dân tường trình tiếng Anh là ngôn ngữ mẹ đẻ của họ trong điều tra nhân khẩu năm 2006.", "Tỉnh lỵ và thành phố lớn nhất của Newfoundland và Labrador là St. John's, là khu vực đô thị thống kê lớn thứ 20 tại Canada, và là nơi cư trú của gần 40% cư dân trong tỉnh. Tại St. John's có trụ sở của chính phủ, nghị viện và tòa án tối cao cấp tỉnh.", "Lãnh thổ Newfoundland và Labrador ngày nay từng là một thuộc địa và một quốc gia tự trị của Anh Quốc, gia nhập và trở thành một tỉnh của Canada vào ngày 31 tháng 3 năm 1949 với tên gọi \"Newfoundland\". Ngày 6 tháng 12 năm 2001, một sửa đổi Hiến pháp Canada được tiến hành để chuyển tên chính thức của tỉnh thành \"Newfoundland và Labrador\". Tuy nhiên, người Canada nói chung vẫn gọi tỉnh bằng tên Newfoundland.", "Từ nguyên.", "Tên \"Newfoundland\" (\"đất mới khám phá\") bắt nguồn từ tiếng Anh \"New Found Land\" (dịch từ \"Terra Nova\" trong tiếng Bồ Đào Nha, vẫn được phản ánh trong tên tiếng Pháp của tỉnh là \"Terre-Neuve\"). Nguồn gốc của \"Labrador\" được cho là từ João Fernandes Lavrador, một nhà hàng hải người Bồ Đào Nha và là người đầu tiên khám phá khu vực.", "Lịch sử.", "Tiền thuộc địa.", "Sự cư trú của con người tại Newfoundland và Labrador có thể truy nguyên từ khoảng 9.000 năm. Các dân tộc cổ đại hàng hải là các thợ săn thú biển tại khu vực cận Bắc cực. HỌ thịnh vượng từ khoảng 7.000 TCN đến 1.500 TCN dọc theo Duyên hải Đại Tây Dương của Bắc Mỹ. Các khu dân cư của họ gồm các nhà dài và nhà thuyền tạm thời hoặc theo mùa. Họ tham gia mậu dịch đường trường, sử dụng chert trắng làm phương thức thanh toán, đó là một loại đá được khai thác từ miền bắc Labrador đến Maine. Nhánh phía nam của các dân tộc này xác lập tại bán đảo phía bắc của Newfoundland vào khoảng 5.000 năm trước. Thời kỳ cổ đại hàng hải được biết đến nhiều nhất từ một địa điểm an táng tại Port au Choix.", "Các dân tộc cổ đại hàng hải dần bị thay thế bằng những người thuộc văn hóa Dorset (Eskimo cổ đại muộn), họ cũng chiếm cứ Port au Choix. Số lượng các di chỉ của họ phát hiện được tại Newfoundland biểu thị rằng họ có thể là nhóm thổ dân đông nhất sống tại đây. Họ thịnh vượng từ khoảng 2000 TCN đến 1.200 năm trước. Nhiều trong số các di chỉ của họ nằm tại các mũi đất và đảo phụ thuộc. Họ có khuynh hướng hải dương hơn so với các dân tộc trước đó, và đã phát triển các xe trượt tuyết và thuyền tương tự như kayak. Họ có thể đốt mỡ hải cẩu trong đèn làm bằng steatit. Văn hóa Dorset (800 TCN – 1500) thích nghi cao độ để cư trú trong một khí hậu rất lạnh, và phần lớn thực phẩm của họ đến từ săn bắt các thú biển thông qua các lỗ trên băng.", "Người Inuit hầu hết được phát hiện tại Labrador, họ là hậu duệ của thứ mà các nhà nhân loại học gọi là văn hóa Thule, họ nổi lên từ miền tây Alaska vào khoảng năm 1000 và bành trướng về phía đông, đến Labrador vào khoảng 1300–1500. Các nhà nghiên cứu cho rằng văn hóa Dorset không có chó, các vũ khí lớn và các công nghệ khác nên xã hội Inuit đang phát triển có được một lợi thế.", "Các cư dân cuối cùng tổ chức bản thân thành các nhóm nhỏ gồm một số gia đình, nhóm tiếp thành các bộ tộc với các thủ lĩnh. Người Innu là các cư dân của một khu vực mà họ gọi là \"Nitassinan\", bao gồm phần lớn miền đông bắc Québec và Labrador ngày nay. Các hoạt động sinh kế trong lịch sử tập trung vào săn bắn và bắt tuần lộc, hươu nai và thú nhỏ. Các thị tộc duyên hải cũng tiến hành nông nghiệp, đánh cá và sử dụng siro phong. Người Innu tham gia chiến tranh bộ tộc dọc theo duyên hải của Labrador với các nhóm Inuit vốn có dân số đáng kể.", "Người Míkmaq ở miền nam của Newfoundland dành hầu hết thời gian của họ trên bờ biển để thu hoạch hải sản; trong mùa đông họ sẽ chuyển vào nội lục để săn bắn trong rừng. Theo thời gian, người Mi'kmaq và Innu phân lãnh thổ của họ thành các khu vực truyền thống, mỗi khu vực được quản lý độc lập và có một tù trưởng khu vực và một hội đồng. Các thành viên hội đồng là tù trưởng của các nhóm cư dân, trưởng lão, các lãnh đạo cộng đồng đáng kính khác.", "Tiép xúc với người châu Âu.", "Ghi chép cổ nhất được xác nhận về tiếp xúc của người châu Âu có niên đại từ một nghìn năm trước, theo mô tả trong các saga Iceland của người Viking (Norse). Năm 1001, saga đề cập đến việc Leif Ericson đổ bộ tại ba nơi ở phía tây, hai nơi đầu là Helluland (có thể là đảo Baffin) và Markland (có thể là Labrador). Địa điểm đổ bộ thứ ba là Vinland (có thể là Newfoundland). Bằng chứng khảo cổ học của một khu dân cư Norse được phát hiện tại L'Anse aux Meadows, Newfoundland, nó được UNESCO liệt vào danh sách di sản thế giới vào năm 1978.", "Năm 1496, John Cabot được Quốc vương Anh Henry VII ban đặc quyền đi thám hiểm và đến ngày 24 tháng 6 năm 1497 ông ta đổ bộ lên mũi Bonavista. Năm 1499 và 1500, các thủy thủ người Bồ Đào Nha João Fernandes Lavrador và Pêro de Barcelos khám phá và lập bản đồ bờ biển, họ của người trước được thể hiện bằng \"Labrador\" trên các bản đồ địa hình trong thời kỳ này. Dựa theo Hiệp ước Tordesillas, Quân chủ Bồ Đào Nha yêu sách về quyền lãnh thổ tại khu vực mà John Cabot đến vào năm 1497 và 1498. Sau đó, vào năm 1501 và 1502 anh em Corte-Real khám phá Newfoundland và Labrador, yêu sách chúng là bộ phận của Đế quốc Bồ Đào Nha. Năm 1506, Quốc vương Emmanuel I của Bồ Đào Nha đặt thuế đối với hoạt động đánh cá tuyết tại vùng biển Newfoundland. João Álvares Fagundes và Pêro de Barcelos thiết lập các tiền đồn đánh cá theo mùa tại Newfoundland và Nova Scotia vào khoảng năm 1521, và các khu định cư cổ hơn của Bồ Đào Nha có thể đã tồn tại. Humphrey Gilbert theo lệnh Nữ vương Anh Elizabeth I, đã đổ bộ tại St John's vào tháng 8 năm 1583, và chính thức nắm quyền sở hữu đảo.", "Thuộc địa Newfoundland.", "Năm 1583, Newfoundland trở thành thuộc địa đầu tiên của Anh tại Bắc Mỹ và là một trong các thuộc địa thường xuyên đầu tiên của Anh tại Tân thế giới khi Humphrey Gilbert yêu sách lãnh thổ cho Nữ vương Elizabeth. Mặc dù các tàu đánh cá của Anh đã liên tục đến Newfoundland từ sau hành trình thứ hai của Cabot vào năm 1498 và các trạm đánh cá theo mùa đã tồn tại trong một thế kỷ trước. Do cũng có các tàu và trại của người Basque, người Pháp và người Bồ Đào Nha, áp lực bảo vệ đảo khỏi bị ngoại quốc kiểm soát khiến cho Anh bổ nhiệm các thống đốc để thiết lập các khu định cư thuộc địa trên đảo từ năm 1610 đến năm 1728. Thống đốc đầu tiên được trao quyền lực đối với toàn đảo Newfoundland là David Kirke vào năm 1638.", "Các nhà thám hiểm sớm nhận ra rằng vùng biển quanh Newfoundland là nơi đánh cá tốt nhất tại Bắc Đại Tây Dương. Đến năm 1620, 300 tàu đánh cá hoạt động tại Grand Bank, với khoảng 10.000 thủy thủ; nhiều người tiếp tục đến từ Basque, Normandie, hoặc Bretagne. Họ phơi khô và ướp muối cá tuyết trên bờ biển và bán chúng đến Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Trong thập niên 1620, George Calvert đầu tư nhiều vào bến tàu, kho hàng, và trạm đánh bắt cá song thất bại về tài chính. Các cuộc tập kích của người Pháp làm tổn hại đến hoạt động kinh doanh, và do thời tiết khắc nghiệt, ông chuyển chú ý của mình đến thuộc địa khác tại Maryland. Sau khi Calvert rời đi, các doanh nhân nhỏ như David Kirke sử dụng hạ tầng một cách có lợi, Kirke trở thành thống đốc vào năm 1639. Mậu dịch tam giác với New England, Tây Ấn, và châu Âu biến Newfoundland thành nơi có vai trò quan trọng về kinh tế. Đến thập niên 1670, thuộc địa có 1700 cư dân thường xuyên và có thêm 4500 người khác trong các tháng mùa hè.", "Các ngư dân Basque đánh bắt cá tuyết ngoài khơi Newfoundland từ khi bắt đầu thế kỷ 16, họ lập ra bến cảng Plaisance (nay là Placentia), ngư dân Pháp cũng bắt đầu sử dụng bến cảng này. Đến năm 1655, Pháp bổ nhiệm một thống đốc tại Plaisance, bắt đầu thời kỳ Pháp chính thức thuộc địa hóa Newfoundland cũng như một thời kỳ chiến tranh và bất ổn giữa Anh và Pháp. Các cuộc tấn công của người Anh vào Placentia kích thích trả thù của nhà thám hiểm người Tân Pháp Pierre Le Moyne d'Iberville, trong Chiến tranh Quốc vương William vào thập niên 1690 ông phá hủy gần như toàn bộ mọi khu định cư của Anh trên đảo. Dân chúng trong thuộc địa Anh bị giết, bị bắt đòi tiền chuộc, hoặc bị trục xuất đến Anh. Pháp để mất quyền kiểm soát chính trị đối với khu vực sau bao vây Port Royal năm 1710, sau đó người Mí'kmaq giao chiến với người Anh trong Chiến tranh Dummer (1722–1725), Chiến tranh Quốc vương George (1744–1748), Chiến tranh Cha Le Loutre (1749–1755) và Chiến tranh giữa Anh với Pháp và người Da đỏ (1754–1763). Thời kỳ Pháp thuộc địa hóa kéo dài cho đến Hiệp ước Utrecht vào năm 1713, một nội dung trong đó là Pháp nhượng yêu sách chủ quyền đối với Newfoundland cho Anh. Sau đó, cư dân Pháp tại Plaisance chuyển đến Île Royale (nay là đảo Cape Breton), là bộ phận của Acadia đương thời vẫn do Pháp quản lý.", "Trong Chiến tranh Bảy năm (1756–63), quyền kiểm soát Newfoundland lại một trở thành một nguồn chính của xung đột giữa Anh, Pháp và Tây Ban Nha, ba quốc gia đều yêu cầu được chia sẻ ngành đánh cá có giá trị lớn tại đây. Chiến thắng trên toàn cầu của Anh khiến William Pitt khẳng định rằng không quốc gia nào ngoài Anh có thể tiếp cận Newfoundland. Trận Signal Hill diễn ra tại Newfoundland vào năm 1762, khi một đạo quân Pháp đổ bộ và nỗ lực chiếm đảo, song bị người Anh đẩy lui.", "Theo Hiệp ước Utrecht (1713), ngư dân Pháp có quyền cập bờ và xử lý cá tuyết trên \"French Shore\" tại bờ biển phía tây của đảo. Họ có một căn cứ thường trực tại quần đảo St. Pierre và Miquelon lân cận; người Pháp từ bỏ quyền lợi của họ vào năm 1904. Năm 1783, Anh ký Hiệp định Paris với Hoa Kỳ và theo đó trao cho ngư dân Hoa Kỳ các quyền lợi tương tự dọc theo bờ biển của Newfoundland. Các quyền lợi này được tái xác nhận bằng các hiệp ước vào năm 1818, 1854 và 1871 và được trọng tài xác nhận vào năm 1910.", "Năm 1854, Chính phủ Anh cho lập chính phủ chịu trách nhiệm của Newfoundland. Năm 1855, Philip Francis Little, một cư dân bản địa của Đảo Prince Edward, giành chiến thắng đa số trong nghị viện trước Hugh Hoyles và những người Bảo thủ, thành lập chính phủ đầu tiên, tồn tại từ năm 1855 đến năm 1858. Newfoundland bác bỏ liên bang hóa với Canada trong tổng tuyển cử năm 1869. Thủ tướng Canada John Thompson tiến rất gần đến dàn xếp Newfoundland gia nhập liên bang vào năm 1892.", "Từ thế kỷ 20.", "Newfoundland duy trì là một thuộc địa cho đến khi đạt được vị thế quốc gia tự trị vào năm 1907. Một quốc gia tự trị là bộ phận của Đế quốc Anh hoặc Thịnh vượng chung Anh, và Quốc gia tự trị Newfoundland tương đối tự trị khỏi quyền quản lý của Anh.", "Trung đoàn Newfoundland số 1 chiến đấu trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Ngày 1 tháng 7 năm 1916, Quân đội Đức tiêu diệt gần như toàn bộ trung đoàn tại Beaumont Hamel trong ngày đầu tiên của trận Somme. Trung đoàn phục vụ một cách xuất chúng trong các trận chiến kế tiếp, giành được tiền tố \"hoàng gia\". Mặc dù nhân dân hãnh diện về thành tích của trung đoàn, song nợ chiến tranh của Quốc gia tự trị Newfoundland bắt nguồn từ trung đoàn và chi phí duy trì một tuyến đường sắt xuyên đảo dẫn đến gia tăng nợ chính phủ thời hậu chiến, cuối cùng dẫn đến không thể chống đỡ nổi.", "Kể từ đầu thập niên 1800, Newfoundland và Québec (hay Hạ Canada) đã có tranh chấp biên giới về khu vực Labrador. Tuy nhiên, vào năm 1927, Chính phủ Anh quyết định rằng khu vực mà nay tên là Labrador được cọi như bộ phận của Quốc gia tự trị Newfoundland.", "Do gánh nặng nợ cao, thu nhập giảm thiểu, giá cá sụt giảm, cơ quan lập pháp Newfoundland tự bỏ phiếu ngưng tồn tại vào năm 1933, để đổi lấy các đảm bảo cho vay từ Quân chủ và một hứa hẹn sẽ được tái lập.:8–10 Ngày 16 tháng 2 năm 1934, Hội đồng Chính phủ tuyên thệ, kết thúc 79 năm chính phủ chịu trách nhiệm. Hội đồng gồm bảy cá nhân do Chính phủ Anh bổ nhiệm. Trong vòng 15 năm không có cuộc bầu cử nào diễn ra, và không triệu tập cơ quan lập pháp.", "Năm 1940, Winston Churchill và Franklin D. Roosevelt chấp thuận cho các khu trục hạm của Hoa Kỳ được tiếp cận với các căn cứ hải quân của Anh tại Đại Tây Dương, bao gồm cả Newfoundland. Kết quả là lãnh thổ đột nhiên thịnh vượng khi tiền của Hoa Kỳ tràn đến đảo, một nơi mà thời gian gần đó có 25% cư dân dựa vào cứu trợ. Khoảng 20.000 người làm việc xây dựng các căn cứ quân sự. Chính phủ địa phương và Anh thuyết phục Hoa Kỳ giữ mức lương thấp để không tiêu diệt lực lượng lao động cho ngư nghiệp, lâm nghiệp và các ngành kinh tế địa phương khác, song chi phí sinh hoạt tăng 58% từ năm 1938 đến năm 1945.", "Sự thịnh vượng trở lại cùng Chiến tranh thế giới thứ hai, điều này kích thích kết thúc Hội đồng, và phục hồi chính phủ chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, Chính phủ Anh thiết lập Hội nghị Quốc gia vào năm 1946, phản ánh các nỗ lực về quyền tự quyết trong các dân tộc châu Âu sau Thế chiến. Hội nghị gồm các đại biểu trên toàn lãnh thổ, chính thức được giao nhiệm vụ cố vấn về tương lai của Newfoundland. Chủ tịch của Hội nghị là Cyril J. Fox, và nó có 45 thành viên được bầu từ khắp lãnh thổ.", "Joey Smallwood tiến hành một số vận động để khảo sát gia nhập Canada bằng cách cử một phái đoàn đến Ottawa. Động thái đầu tiên thất bại, song Hội nghị sau đó quyết định cử các phái đoàn đến cả London và Ottawa để tìm giải pháp thay thế. Tháng 1 năm 1948, Hội nghị Quốc gia bỏ phiếu chống lại việc đưa liên bang hóa ra trưng cầu dân ý; tuy nhiên kết quả này bị người Anh bác bỏ và trưng cầu dân ý diễn ra sau đó.:145 Hầu hết các sử gia đồng thuận rằng Chính phủ Anh nhiệt tình mong muốn liên bang hóa bằng lá phiếu và họ chắc chắn nó sẽ như vậy.", "Cuộc trưng cầu dân ý đầu tiên diễn ra vào ngày 3 tháng 6 năm 1948; 44,5% cử tri bỏ phiếu cho chính phủ chịu trách nhiệm, 41,1% bỏ phiếu cho liên bang hóa với Canada, trong khi 14,3% bỏ phiếu cho Hội đồng Chính phủ. Do không có lựa chọn nào giành được quá 50%, một cuộc trưng cầu dân ý thứ nhì được tổ chức vào ngày 22 tháng 7 năm 1948 với chỉ hai lựa chọn. Kết quả chính thức của cuộc trưng cầu dân ý này là 52,3% bỏ phiếu cho liên bang hóa với Canada và 47,7% bỏ phiếu cho chính phủ trách nhiệm (độc lập).", "Sau trưng cầu, một phái đoàn gồm bảy người được thống đốc của Anh chọn đến đàm phán với Canada nhân danh Newfoundland. Sau khi sáu trong số bảy thành viên của phái đoàn ký kết, Chính phủ Anh thông qua Đạo luật Bắc Mỹ thuộc Anh 1949 qua Quốc hội. Newfoundland chính thức gia nhập Canada vào ngày 31 tháng 3 năm 1949.", "Theo các văn kiện trong kho lưu trữ của Anh và Canada xuất hiện trong thập niên 1980, rõ ràng rằng cả Canada và Anh đều muốn Newfoundland gia nhập Canada. Một số người cáo buộc rằng đó là một âm mưu để đưa Newfoundland tham gia liên bang, nhằm đổi lấy miễn nợ chiến tranh của Anh và vì các lý do khác,:68 song hầu hết sử gia nghiên cứu các văn kiện chính phủ thì kết luận rằng dù Anh bố trí lựa chọn liên bang hóa trong trưng cầu dân ý, thì nhân dân Newfoundland tự thực hiện quyết định cuối cùng mặc dù với kết quả sít sao.", "Sau khi các Tên lửa liên lục địa thay thế các đe dọa về máy bay ném bom vào cuối thập niên 1950, các căn cứ không quân của Hoa Kỳ đóng cửa vào đầu thập niên 1960 và Căn cứ hải quân Argentia cũng đóng cửa vào thập niên 1980.", "Trong thập niên 1960, tỉnh phát triển nhà máy thủy điện Churchill Falls nhằm bán điện sang Hoa Kỳ. Một thỏa thuận với Québec được ký kết nhằm đảm bảo truyền điện năng qua lãnh thổ Québec, thỏa thuận kéo dài 75 năm này khiến người Newfoundland hiện cho rằng không công bằng với tỉnh do chỉ thu được lợi ích thấp và không thay đổi được từ điện năng. Đến năm 1990, khu vực Québec-Labrador trở thành một nguồn cung quặng sắt quan trọng cho Hoa Kỳ.", "Khi Newfoundland gia nhập Canada vào năm 1949, tỉnh từ bỏ quyền tài phán đối với ngư nghiệp cho Ottawa; Tòa án Tối cao phán quyết vào năm 1983 rằng chính phủ liên bang cũng có quyền tài phán với khoan dầu ngoài khơi. Từ sau năm 1945, kinh tế ngư nghiệp trong tỉnh chuyển đổi từ chủ yếu thâm dụng lao động ven bờ, hộ gia đình, sản xuất cá ướp muối sang một ngành công nghiệp hóa chịu sự chi phối tối cao của các công ty cá đông lạnh. Các công ty này cần ít nhân công hơn, do vậy khoảng 300 làng cá, hoặc cảng ngoài, bị các cư dân bỏ hoang từ năm 1954 đến năm 1975 trong một chương trình được chính phủ Canada tài trợ mang tên Tái định cư. Một số khu vực mất 20% dân số, và số lượng tuyển sinh vào trường học còn giảm cao hơn.", "Trong thập niên 1960, khoảng 2 tỷ pound cá tuyết được khai thác mỗi năm từ Grand Bank ngoài khơi Newfoundland, là nguồn cá lớn nhất thế giới. Sau đó, thảm họa xảy ra khi cá tuyết phương bắc thực tế không còn nữa, chúng giảm còn 1% sinh khối đẻ trứng lịch sử của mình. Năm 1992, đánh bắt cá tuyết bị chính phủ Canada đóng cửa; sinh kế của 19.000 người lao động bị mất sau 500 năm giữ vai trò là một ngành kinh tế chủ đạo.", "Địa lý.", "Newfoundland và Labrador là tỉnh cực đông của Canada, nằm tại góc đông bắc của Bắc Mỹ. Eo biển Belle Isle phân tách tỉnh thành hai khu vực địa lý, Labrador là một lãnh thổ lớn liên kết với đại lục Canada, còn Newfoundland là một đảo tại Đại Tây Dương. Tỉnh cũng có hơn 7.000 đảo nhỏ.", "Newfoundland có hình dạng giống như một tam giác, mỗi cạnh dài khoảng , và có diện tích là . Newfoundland và các đảo nhỏ có liên kết với nó có tổng diện tích là . Newfoundland có vĩ độ giữa 46°36′B và 51°38′B.", "Phần phía tây của Labrador giáp với tỉnh Québec, đường biên giới cũng là đường phân thủy của bán đảo Labrador. Các khu vực thoát nước thông qua các sông chảy vào Đại Tây Dương là bộ phận của Labrador, phần còn lại thuộc về Québec. Mũi cực bắc của Labrador có vĩ độ 60°22′B, có một đoạn biên giới ngắn với Nunavut. Diện tích của Labrador (gồm các đảo nhỏ có liên kết) là . Tổng cộng, Newfoundland và Labrador chiếm 4,06% diện tích của Canada.", "Labrador là bộ phận cực đông của khiên Canada, một khu vực rộng lớn gồm đá biến chất cổ bao trùm phần lớn miền đông bắc của Bắc Mỹ. Các mảng kiến tạo va chạm hình thành phần lớn địa chất của Newfoundland. Vườn quốc gia Gros Morne có danh tiếng do là một ví dụ nổi bật về kiến tạo học, và do vậy được xếp là một di sản thế giới. Dãy Long Range trên duyên hải phía tây của Newfoundland là phần mở rộng cực đông bắc của dãy Appalachian.", "Newfoundland và Labrador có nhiều vùng khí hậu khác nhau do khoảng cách bắc-nam của tỉnh (46°36′B đến 60°22′B), gió tây thịnh hành, các hải lưu lạnh và các yếu tố địa phương như núi và đường bờ biển.", "Newfoundland và Labrador có nhiều kiểu khí hậu và thời tiết. Một trong các nguyên nhân chính của sự đa dạng này là địa lý của tỉnh. Phần đảo Newfoundland trải dài 5 vĩ độ, tương tự như Ngũ Đại Hồ.", "Tỉnh được phân thành sáu kiểu khí hậu, song theo cách phân chia rộng hơn thì Newfoundland có một á hình mùa hè mát của khí hậu lục địa ẩm, chịu tác động lớn của hải dương do không nơi nào trên đảo cách biển quá 100 km. Miền bắc Labrador được phân loại là có một khí hậu lãnh nguyên vùng cực, miền nam Labrador có một khí hậu cận Bắc cực.", "Nhiệt độ bề mặt biển bên phía Đại Tây Dương đạt trung bình mùa hạ là tại ven bờ và tại xa bờ trong khi trung bình mùa đông là tại ven bờ và tại xa bờ. Hải dương khiến nhiệt độ vào mùa đông hơi cao hơn và nhiệt độ mùa hạ thấp hơn một chút so với các địa điểm tại nội lục. Khí hậu hải dương khiến thời tiết biến hóa hơn, giáng thủy phong phú dưới nhiều dạng, độ ẩm cao hơn, tầm nhìn thấp hơn, mây nhiều hơn, ít nắng hơn, và gió mạnh hơn so với một khí hậu lục địa.", "Nhân khẩu.", "Theo điều tra nhân khẩu năm 2011, Newfoundland và Labrador có dân số 514.536, hơn một nửa trong số đó cứ trú tại bán đảo Avalon của đảo Newfoundland, là nơi có thủ phủ và điểm định cư lịch sử ban đầu. Kể từ năm 2006, dân số trong tỉnh bắt đầu tăng lần đầu tiên kể từ đầu thập niên 1990. Theo điều tra nhân khẩu năm 2006, dân số tỉnh giảm 1,5% so với mức năm 2001, với 505.469. Tuy nhiên, theo điều tra nhân khẩu năm 2011, dân số tỉnh tăng 1,8% trong 5 năm.", "Giáo phái tôn giáo lớn nhất xét theo số lượng tín đồ theo điều tra năm 2011 là Giáo hội Công giáo La Mã, với 35,8% dân số toàn tỉnh (181.590 thành viên). Các giáo phái Tin Lành lớn chiếm 57,3% dân số, các nhóm lớn nhất trong đó là Giáo hội Anh giáo Canada với 25,1% tổng dân số (127.255 thành viên), Giáo hội Liên hiệp Canada với 15,5% (78.380 thành viên), và các giáo hội Ngũ Tuần với 6,5% (33.195 thành viên). Những người không phải là tín đồ Ki-tô giáo chiếm 6,8% dân số, đa số trong đó trả lời rằng rằng họ không nhập đạo nào (6,2% tổng dân số).", "Theo điều tra nhân khẩu Canada năm 2001, dân tộc lớn nhất tại Newfoundland và Labrador là người Anh (39,4%), tiếp theo là người Ireland (19,7%), người Scotland (6,0%), người Pháp (5,5%), và người Da đỏ (3,2%).", "Kinh tế.", "Kinh tế Newfoundland và Labrador trải qua đình trệ trong nhiều năm sau sự sụp đổ của đánh bắt cá tuyết hồi đầu thập niên 1990, tỉnh phải chịu tỷ lệ thất nghiệp cao kỷ lục và dân số giảm khoảng 60.000. Do bùng nổ trong lĩnh vực năng lượng và tài nguyên, kinh tế tỉnh có chuyển biến lớn khi bước sang thế kỷ 21. Tỷ lệ thất nghiệp giảm, dân số ổn định và tăng trưởng vừa phải. Tỉnh đạt mức thặng dư kỷ lục, giải thoát khỏi tình trạng một tỉnh \"không có gì\".", "Các ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong GDP, đặc biệt là dịch vụ tài chính, chăm sóc y tế và hành chính công. Các ngành kinh tế quan trọng khác là khai mỏ, sản xuất dầu và chế tạo. Tổng lực lượng lao động của tỉnh vào năm 2010 là 263.800 người. GDP của tỉnh trong năm 2013 là 35,832 tỷ CAD.", "Khai mỏ tại Labrador, với khai thác quặng sắt tại Wabush/Labrador City, và khai thác niken tại Voisey's Bay, đạt sản lượng tổng cộng là 3,3 tỷ CAD giá trị quặng vào năm 2010. Một mỏ tại Duck Pond bắt đầu sản xuất đồng, kẽm, bạc và vàng vào năm 2007. Khai mỏ chiếm 3,5% GDP của tỉnh trong năm 2006. Tỉnh sản xuất 55% tổng lượng quặng sắt của Canada (2008). Sản xuất dầu từ các giàn khoan ngoài khơi tại Hibernia, White Rosevà Terra Nova thuộc Grand Banks đạt , đóng góp trên 15% GDP của tỉnh vào năm 2006. Tổng sản lượng từ mỏ Hibernia từ năm 1997 đến năm 2006 là với giá trị được ước tính là 36 tỷ CAD. Dự trữ còn lại được ước tính là khoảng tính đến 31 tháng 12 năm 2006. Thăm dò trữ lượng mới đang tiếp tục.", "Ngư nghiệp vẫn là một bộ phận quan trọng trong kinh tế tỉnh, tạo công việc cho khoảng 20.000 người và đóng góp trên 440 triệu CAD cho GDP. Ngành này gồm có thu hoạch các loại cá như cá tuyết, cá êfin, cá bơn lưỡi ngựa, cá trích, các thu với 150.000 tấn thiếu (165.000 tấn) với giá trị 130 triệu USD vào năm 2006. Các loài giáp xác như cua, tôm và nghêu đạt sản lượng 195.000 tấn thiếu (215.000 tấn) với giá trị 316 triệu USD trong cùng năm. Giá trị sản xuất từ săn hải cẩu là 55 triệu CAD. Nuôi trồng thủy sản là một ngành kinh tế mới trong tỉnh, vào năm 2006 ngành này sản xuất trên 10.000 tonne cá hồi Đại Tây Dương, trai và cá hồi vân với giá trị trên 50 triệu CAD.", "Nông nghiệp tại Newfoundland hạn chế tại các khu vực phía nam của St. John's, Cormack, Wooddale, các khu vực gần Musgravetown và tại thung lũng Codroy. Khoai tây, cải củ Thụy Điển, cải củ turnip, cà rốt và cải bắp được trồng để đáp ứng nhu cầu địa phương. Nuôi gia cầm lấy thịt và trứng cũng tồn tại. Việt quất xanh, \"Vaccinium vitis-idaea\" và \"Rubus chamaemorus\" dại được thu hoạch thương mại và sử dụng trong làm mứt và rượu vang. Sản xuất bơ sữa là một bộ phận lớn khác trong nông nghiệp tỉnh", "Du lịch cũng đóng góp đáng kể cho kinh tế tỉnh, vào năm 2006 có gần 500.000 du khách từ nơi khác đến Newfoundland và Labrador, chi tiêu ước tính 366 triệu CAD. Du lịch phổ biến nhất trong các tháng từ 6-9.", "Chính phủ và chính trị.", "Newfoundland và Labrador có một chính phủ nghị viện nằm trong cấu trúc của chế độ quân chủ lập hiến; chế độ quân chủ tại Newfoundland và Labrador là cơ sở cho các nhánh hành pháp, lập pháp, và tư pháp. Quân chủ của tỉnh là Charles III, ông cũng là nguyên thủ của 15 quốc gia khác, mỗi một trong 9 tỉnh khác của Canada, và của liên bang Canada. Người đại diện cho Quốc vương là Tỉnh đốc Newfoundland và Labrador, tiến hành hầu hết các trách nhiệm quân chủ tại Newfoundland và Labrador.", "Quân chủ và tỉnh đốc bị hạn chế trong tham dự trực tiếp vào bất kỳ lĩnh vực quản trị nào; trong thực tế quyền lực hành pháp của họ do Hội đồng Hành pháp điều khiển, đây là một ủy ban gồm các bộ trưởng chịu trách nhiệm trước một Nghị viện đơn viện và được tuyển cử, đứng đầu là Thủ tướng Newfoundland và Labrador. Nhằm đảo bảo sự ổn định của chính phủ, tỉnh đốc thông thường bổ nhiệm thủ tướng là cá nhân đang lãnh đạo chính đảng có thể tin tưởng giành đa số ghế trong Nghị viện. Lãnh đạo đảng có số ghế đông thứ nhì thường trở thành lãnh đạo phe đối lập và nằm trong một hệ thống nghị viện đối địch nhằm duy trì kiểm tra đối với chính phủ.", "Mỗi một trong số 48 đại biểu của Nghị viện được bầu theo phương thức đa số đơn giản tại một khu vực bầu cử. Tổng tuyển cử cần phải do Tỉnh đốc yêu cầu vào ngày Thứ ba thứ hai trong tháng 10 bốn năm sau bầu cử trước đó, hoặc có thể yêu cầu theo khuyến nghị của thủ tướng khi chính phủ thất bại trong bỏ phiếu tín nhiệm tại Nghị viện. Theo truyền thống, chính trị trong tỉnh chịu sự chi phối của Đảng Tự do và Đảng Bảo thủ Cấp tiến, tuy nhiên trong bầu cử cấp tỉnh vào năm 2011 Đảng Tân Dân chủ xếp thứ hai về phiếu bầu phổ thông, sau Đảng Bảo thủ Cấp tiến.", "Văn hóa.", "Di sản âm nhạc dân gian Newfoundland và Labrador dựa trên các truyền thống Ireland, Anh và Scotland vốn được đưa đến từ nhiều thế kỷ trước. Mặc dù cũng chịu ảnh hưởng từ nhạc Celtic tương tự như Nova Scotia và Đảo Hoàng tử Edward, Newfoundland và Labrador mang tính Ireland hơn là Scotland và có nhiều yếu tố dung nạp từ âm nhạc Anh và Pháp hơn các tỉnh này. Phần lớn âm nhạc khu vực tập trung vào truyền thống hàng hải sống động tại đây, và có các bài hò biển và các bài hát đi thuyền khác. Một số nhạc sĩ truyền thống hiện đại là Great Big Sea, The Ennis Sisters, Shanneyganock, Sharecroppers, Ron Hynes, và The Navigators.", "Newfoundland và Labrador có một văn hóa thể thao phần nào khác biệt so với phần còn lại của Canada, một phần là do có lịch sử kéo dài tách biệt với phần còn lại của Canada và nằm dưới quyền cai trị của Anh. Tuy nhiên, khúc côn cầu trên băng vẫn phổ biến, đội tuyển St. John's IceCaps thi đấu chuyên nghiệp tại Trung tâm Mile One tại St. John's, và giải khúc côn cầu cấp cao Newfoundland có các đội tuyển từ khắp đảo. Từ khi đội tuyển St. John's Fog Devils rời đi vào năm 2008, Newfoundland và Labrador là tỉnh duy nhất tại Canada không có một đội tuyển nào tại Giải khúc côn cầu Canada.", "Bóng đá và rugby liên hiệp đều phổ biến hơn tại Newfoundland và Labrador so với phần còn lại của Canada nói chung. Thi đấu bóng đá được tổ chức tại sân vận động King George V Park có 10.000 ghế, đây là sân vận động quốc gia của Newfoundland trong thời kỳ quốc gia tự trị. Sân vận động Swilers Rugby Park là nơi thi đấu của đội tuyển rugby liên hiệp Swilers RFC. Các cơ sở hạ tầng thể thao khác tại Newfoundland và Labrador còn có sân thi đấu trong nhà Pepsi Centre tại Corner Brook; sân Shamrock Field tại St. John's là nơi tổ chức sự kiện thể thao Gael quốc gia của Canada; và St. Patrick's Park tại St. John's là nơi thi đấu bóng chày.", "Giao thông.", "Trong nội tỉnh, Bộ Giao thông và Công trình Newfoundland và Labrador vận hành hoặc tài trợ cho 15 tuyến ô tô, phà chở khách và chở hàng liên kết các cộng đồng khác nhau dọc theo đường bờ biển của tỉnh.", "Một dịch vụ phà hành khách và chở tàu hỏa vượt eo biển Belle Isle liên kết đảo Newfoundland với khu vực Labrador tại đại lục. Phà \"MV Apollo\" đi từ St. Barbe, Newfoundland thuộc bán đảo Great Northern đến đô thị cảng Blanc-Sablon của Québec song giáp với biên giới tỉnh và nằm bên đô thị L'Anse-au-Clair, Labrador. \"MV Sir Robert Bond\" từng cung cấp dịch vụ phà theo mùa giữa Lewisporte trên đảo Newfoundland và các đô thị Cartwright và Happy Valley-Goose Bay tại Labrador, song không còn hoạt động từ khi hoàn thành xa lộ Xuyên Labrador vào năm 2010, cho phép tiếp cận từ Blanc-Sablon thuộc Québec đến các bộ phận chủ yếu của Labrador. Một vài phà nhỏ hơn liên kết một số đô thị duyên hải và cộng đồng đảo ngoài khơi quanh đảo chính Newfoundland và đến bờ biển của Labrador xa về phía bắc đến Nain.", "Dịch vụ phà liên tỉnh do Marine Atlantic cung cấp, đây là một công ty quốc doanh của liên bang hoạt động phà từ North Sydney, Nova Scotia đến các đô thị Port aux Basques và Argentia tại bờ biển phía nam của đảo Newfoundland.", "Sân bay quốc tế St. John's và sân bay quốc tế Gander là hai sân bay duy nhất phục vụ tỉnh, chúng thuộc hệ thống sân bay quốc gia Canada. Sân bay quốc tế St. John's phục vụ gần 1,2 triệu hành khách trong năm 2008 và là sân bay nhộn nhịp thứ 11 tại Canada." ]
847
859204
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=847
New Brunswick
[ "New Brunswick (tiếng Pháp: \"Nouveau-Brunswick\"; #đổi ) là một tỉnh bang ven biển ở vùng miền đông của Canada với vốn di sản văn hoá hấp dẫn và phong phú. Nó giáp với Nova Scotia, Québec, và tiểu bang Maine của Hoa Kỳ.", "Có hình dáng gần giống hình chữ nhật, nó rộng khoảng 322 km từ bắc xuống nam và 242 km từ đông sang tây. New Brunswick giáp với mặt nước gần như ba phía, bao gồm vịnh St. Lawrence, eo biển Northumberland và vịnh Fundy. Vịnh Fundy nằm ở cuối phía đông của tỉnh, có mức thủy triều lên tới 54 feet (khoảng 49,40 m), lớn nhất thế giới. Dân số New Brunswick khoảng 723.900 người, 35% nói tiếng Pháp, phần lớn là cộng đồng Acadia. 50,000 người sống tại New Brunswick. Acadia ban đầu là thuộc địa của Pháp vào những năm 1500.", "Thành phố.", "New Brunswick có tám thành phố được hợp thành chính thức, danh sách ở dưới theo dân số trở xuống:", "\"Xem Danh sách cộng đồng thuộc New Brunswick.\"" ]
848
845147
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=848
British Columbia
[ "British Columbia (BC; , C.-B.; ) là tỉnh bang cực tây của Canada, một trong những vùng có nhiều núi nhất Bắc Mỹ, tiếp giáp biên giới với các tiểu bang Montana, Idaho, Washington của Hoa Kỳ ở phía nam và một đoạn biên giới ngắn với tiểu bang Alaska của Hoa Kỳ ở phía tây bắc.", "Lịch sử.", "Trước thế kỷ 19 tất cả đất đai của British Columbia (kể cả đảo Vancouver) và một phần của tiểu bang Washington của Hoa Kỳ là đất thuộc Công ty Vịnh Hudson (công ty trao đổi lông thú vật với dân bản xứ). Vào giữa thế kỷ 19 phần đất phía bắc vĩ tuyến 49 rơi vào tay Đế quốc Anh và được chia ra làm hai thuộc địa: British Columbia (nằm trong lục địa) và Vancouver (nằm ngay trên đảo Vancouver). Đến năm 1866 hai thuộc địa này sáp nhập với nhau thành British Columbia và 5 năm sau British Columbia được gia nhập vào Liên bang Canada. Do đó British Columbia vẫn giữ tên để giữ truyền thống Anh vì British Columbia có nghĩa là \"Columbia thuộc Anh\".", "Vì ở cạnh biển, British Columbia được xem là cửa ngõ để đến Thái Bình Dương và Á Châu. Về phía đông của B.C. là tỉnh bang Alberta, về phía bắc là hai lãnh thổ tự trị Yukon và các Lãnh thổ Tây Bắc, về phía tây-bắc là tiểu bang Alaska, về phía nam là các tiểu bang Washington, Idaho và Montana của Hoa Kỳ.", "British Columbia tận hưởng một khí hậu tương đối ôn hoà do dòng nước biển Gulf Stream mang nước ấm từ Xích đạo lên, hoa thường thường nở vào đầu tháng 2. Nằm giữa Thái Bình Dương và dãy Rocky là những vùng địa lý hoàn toàn khác nhau của B.C.: từ núi đá nhọn và cao hơn 2.000 m đến các thung lũng ấm áp vừa đủ để trồng nho làm rượu, từ những con sông hùng vĩ uốn mình giữa các ngọn núi dẫn nước của băng đá ra biển đến vô số các vịnh dọc theo bờ biển được tạo ra khi sóng đập vào bờ đá.", "British Columbia liên tục thu hút các dân định cư, trong cũng như ngoài nước: Hàng năm khoảng 40.000 người định cư ở đây, và dân số của B.C. hiện nay (2005) vào khoảng 4,22 triệu người. Thành phố Vancouver là hải cảng lớn nhất bên bờ biển Thái Bình Dương của Bắc Mỹ và cũng là nơi tập trung của trên 1,5 triệu người, trở thành thành phố lớn thứ ba của Canada (sau Toronto và Montréal). Vancouver có một cộng đồng người Hoa lớn thứ hai ở Bắc Mỹ (sau San Francisco). Ngoài ra còn có trên 60.000 cư dân gốc Ấn Độ và trên 16.000 gốc Nhật Bản. Nằm ở đầu phía nam của đảo Vancouver, chỉ 85 dặm về hướng tây bắc của Seattle, là thủ phủ Victoria. Hơn 300.000 dân của thủ phủ này hưởng một khí hậu cận Địa Trung Hải với thời tiết ôn hoà quanh năm. Chính phủ và ngành du lịch là hai nền kinh tế chính ở Victoria.", "Tự nhiên.", "Có 14 khu vực công viên và khu bảo tồn trong tỉnh, có 141 dự trữ sinh học, 35 công viên biển cấp tỉnh, 7 khu di sản cấp tỉnh, 6 địa chỉ lịch sử cấp quốc gia, 4 Vườn quốc gia và 3 Khu bảo tồn Vườn quốc gia. 12.5% () của British Columbia đang được coi là khu vực cần được bảo vệ nằm trong 14 khu vực công viên.", "British Columbia có 7 Vườn quốc gia:", "British Columbia cũng có mạng lưới rộng các công viên cấp tỉnh, điều hành bởi B.C. Parks thuộc Bộ Môi trường. Hệ thống công viên cấp tỉnh của British Columbia là hệ thống công viên lớn thứ hai của Canada (lớn nhât là Hệ thống Vườn quốc gia Canada).", "Một cấp công viên khác là công viên cấp vùng, duy trì và điều hành bởi các huyện.", "Tham khảo.", "Nguồn.", " ]\". BC Geographical Names. http://apps.gov.bc.ca/pub/bcgnws/names/39106.html. ", "Liên kết ngoài.", "[[Thể loại:British Columbia|*]]", "[[Thể loại:Tỉnh bang của Canada]]", "[[Thể loại:Canada]]", "[[Thể loại:Tây Bắc Thái Bình Dương]]", "[[Thể loại:Tây Canada]]", "[[Thể loại:Khởi đầu năm 1871 ở Canada]]" ]
849
15735
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=849
Vancouver
[ " ", "Vancouver hoặc Ôn Ca Hoa (phát âm tiếng Anh: hay ), gọi chính thức là Thành phố Vancouver (), là một đô thị hải cảng duyên hải thuộc tỉnh British Columbia, Canada và là thành phố lớn nhất tỉnh.", "Theo kết quả điều tra nhân khẩu năm 2011, Vancouver có 603.502 dân cư và là đô thị tự trị đông dân thứ tám toàn Canada.", "Khu vực Đại Vancouver có khoảng 2,4 triệu cư dân, là khu vực đô thị đông dân thứ ba toàn Canada và đông dân nhất tại phía Tây Canada. Vancouver nằm trong số các thành phố đa dạng nhất về dân tộc và ngôn ngữ tại Canada; 52% cư dân của thành phố có ngôn ngữ thứ nhất không phải là tiếng Anh. Vancouver được liệt kê vào hạng Beta trong thước đó thành phố toàn cầu. Thành phố Vancouver có diện tích đất liền khoảng 114 km², mật độ dân số đạt 5.249 người/km². Vancouver là khu đô thi có mật đô dân số cao nhất Canada với hơn 250,000 dân và đứng thứ tư sau các thành phố khác ở Bắc Mỹ như thành phố New York, San Francisco và Mexico City.", "Khu định cư ban đầu trong khu vực thành phố mang tên Gastown, phát triển quanh nhà máy cưa gỗ Hastings Mill và một quán rượu gần đó, cả hai đều hình thành vào năm 1867. Từ doanh nghiệp ban đầu đó, các cửa hàng và một số khách sạn dần xuất hiện ở ven biển phía Tây. Khu định cư được mở rộng thành thị trấn Granville, được đổi tên thành \"Vancouver\" và được hợp nhất thành một thành phố vào năm 1886. Năm 1887, đường sắt xuyên lục địa kéo dài đến thành phố để tận dụng lợi thế có hải cảng tự nhiên lớn của thành phố, cảng này nhanh chóng trở thành một mắt xích quan trọng trong một tuyến mậu dịch giữa phương Đông, phía Đông Canada, và Luân Đôn.", "Vào năm 2014, cảng Đô thị Vancouver vượt New York trở thành cảng biển bận rộn thứ ba Bắc Mỹ và là cảng biển bận rộn thứ 27 thế giới, bận rộn nhất Canada và đa dạng nhất Bắc Mỹ.", "Mặc dù lâm nghiệp vẫn là ngành kinh tế lớn nhất, song Vancouver nổi tiếng khi là một trung tâm đô thị được thiên nhiên bao quanh, khiến cho du lịch là ngành kinh tế lớn thứ hai.", "Các xưởng lớn về sản xuất phim tại Vancouver và Burnaby đã biến khu vực đô thị Vancouver trở thành một trong những trung tâm lớn nhất về sản xuất phim tại Bắc Mỹ.", "Vancouver liên tục được vinh danh là một trong năm thành phố toàn cầu hàng đầu về tính dễ sống và chất lượng sinh hoạt, và Economist Intelligence Unit công nhận Vancouver là thành phố đầu tiên để xếp hạng trong bảng xếp hạng tốp 10 thành phố dễ sinh hoạt nhất trong 5 năm liên tục.", "Vancouver liên tục nhiều sự kiện và hội nghị quốc tế, bao gồm Đại hội Thể thao Đế quốc Anh và Thịnh vượng chung năm 1954, Triển lãm Thế giới năm 1986 và Đại hội Thể thao Trị an viên (World Police and Fire Games) vào năm 1989 và 2009.", "Thế vận hội Mùa đông 2010 được tổ chức tại Vancouver và khu nghỉ dưỡng Whistler nằm 125 km về phía Bắc thành phố. Vào năm 2014, sau 30 năm có trụ sở tại California, Sự kiện thường niên TED chính thức chọn Vancouver làm trụ sở vĩnh viễn. Một số trận đấu của Giải bóng đá nữ thế giới FIFA 2015 được diễn ra tại Vancouver, bao gồm trận chung kết tại sân vận động BC Place.", "Lịch sử.", "Các di tích khảo cổ học cho biết về sự hiện diện của người nguyên trú tại khu vực Vancouver từ 8.000 đến 10.000 năm trước.", "Thành phố nằm tại các lãnh thổ xưa kia thuộc các dân tộc Squamish, Musqueam, và Tseil-Waututh (Burrard) thuộc nhóm Salish Duyên hải.", "Họ có các làng tại nhiều nơi thuộc Vancouver ngày nay, như Stanley Park, False Creek, Kitsilano, Point Grey và gần cửa sông Fraser.", "Năm 1791, sĩ quan Tây Ban Nha José María Narváez trở thành người châu Âu đầu tiên thám hiểm vùng bờ biển của Point Grey và nhiều phần thuộc vịnh Burrard hiện nay, song một tác giả cho rằng thuyền trưởng người Anh Francis Drake có thể đi đến khu vực vào năm 1579.", "Thành phố được đặt tên theo George Vancouver, ông là người thám hiểm nội cảng của vịnh Burrard vào năm 1792 và đặt tên Anh cho nhiều địa điểm.", "Nhà thám hiểm và thương nhân Công ty Tây Bắc Simon Fraser và thủy thủ đoàn của ông trở thành những người châu Âu đầu tiên được biết đến là đặt chân lên địa điểm là thành phố hiện nay. Năm 1808, họ du hành từ phía đông, xuôi dòng sông Fraser, có lẽ đi xa đến Point Grey.", "Cơn sốt vàng Fraser năm 1858 đưa trên 25.000 nam giới, chủ yếu là từ California, đến New Westminster ở lân cận Vancouver, trên đường đến hẻm núi Fraser, họ bỏ qua nơi mà sẽ trở thành Vancouver.", "Vancouver nằm trong số các thành phố trẻ nhất tại British Columbia;", "khu định cư đầu tiên của người châu Âu tại nơi mà nay là Vancouver hình thành vào năm 1862 tại McLeery's Farm ven sông Fraser, ngay phía đông của làng cổ Musqueam tại nơi mà nay là Marpole. Một xưởng cưa được dựng nên tại Moodyville (nay là Thành phố North Vancouver) vào năm 1863, khởi đầu cho mối liên hệ lâu dài của thành phố với ngành khai thác gỗ. Các xưởng thuộc sở hữu của Thuyền trưởng Edward Stamp nhanh chóng xuất hiện sau đó trên bờ nam của vịnh. Edward Stamp khởi đầu nghề khai thác gỗ tại khu vực Port Alberni, ông ban đầu cố gắng vận hành một xưởng tại Brockton Point, song các khó khăn do dòng chảy và đá ngầm buộc ông phải chuyển hoạt động đến một điểm gần chân của Gore Street vào năm 1867. Xưởng này được gọi là xưởng Hastings, và trở thành trung tâm của khu vực xung quanh mà về sau hình thành Vancouver. Vai trò trung tâm của xưởng trong thành phố bị suy yếu sau khi đường sắt Thái Bình Dương Canada (CPR) lan đến vào thập niên 1880. Tuy thế, xưởng này vẫn có vai trò quan trọng trong kinh tế địa phương cho đến khi đóng cửa vào thập niên 1920.", "Khu định cư được gọi là Gastown phát triển nhanh chóng quanh quán rượu tạm thời đầu tiên, vốn mang tên là \"Gassy\" và do Jack Deighton thiết lập vào năm 1867 ở bên rìa bất động sản của xưởng Hastings.", "Năm 1870, chính phủ thuộc địa khảo sát khu định cư và đặt ra một thị trấn hành chính, đổi tên thành \"Granville\" nhằm vinh danh Bộ trưởng Thuộc địa Anh Quốc đương nhiệm là Granville Leveson-Gower. Với có cảng tự nhiên, đến năm 1884 thì thị trấn được lựa chọn", "làm ga cuối của Đường sắt Thái Bình Dương Canada, gây thất vọng cho các đô thị khác là Port Moody, New Westminster và Victoria trong cuộc đua tranh để được đặt ga cuối. Một tuyến đường sắt nằm trong số các khích lệ để British Columbia gia nhập liên bang vào năm 1871, song vụ bê bối Thái Bình Dương và những tranh cãi về việc sử dụng lao động Trung Quốc đã trì hoãn việc xây dựng cho đến thập niên 1880.", "Thành phố Vancouver được hợp nhất vào ngày 6 tháng 4 năm 1886, đoàn tàu xuyên lục địa đầu tiên đến thành phố trong cùng năm. Chủ tịch hãng Đường sắt Thái Bình Dương Canada là William Van Horne đến Port Moody để thành lập ga đầu cuối của tuyến đường sắt theo phó thác của Henry John Cambie, và đặt tên Vancouver cho thành phố để vinh danh George Vancouver. Đại hỏa hoạn Vancouver xảy ra vào ngày 13 tháng 6 năm 1886, kết quả là toàn bộ thành phố bị thiêu rụi. Cục cứu hỏa Vancouver được thành lập vào năm đó, và thành phố được tái thiết một cách nhanh chóng. Vancouver biến đổi từ một khu định vư với 1.000 dân vào năm 1881 thành một đô thị 20.000 dân vào thời điểm chuyển giao giữa hai thế kỷ, và đạt 100.000 dân vào năm 1911.", "Trong cơn sốt vàng Klondike năm 1898, các thương nhân Vancouver cung ứng trang bị cho những người thăm dò. Một trong số các thương nhân đó là Charles Woodward, ông mở cửa hàng bách hóa Woodward's đầu tiên tại Abbott và Cordova Streets vào năm 1892, cùng với các cửa hàng bách hóa Spencer's và vịnh Hudson tạo thành trung tâm của ngành bán lẻ của thành phố trong hàng thập niên.", "Kinh tế của Vancouver ban đầu nằm dưới quyền chi phối của các công ty lớn như Đường sắt Thái Bình Dương Canada, công ty thúc đẩy hoạt động kinh tế và khiến cho thành phố trẻ phát triển nhanh chóng; trong thực tế thì Đường sắt Thái Bình Dương Canada là hãng sở hữu bất động sản và phát triển nhà ở chính trong thành phố. Một số ngành chế tạo có sự phát triển, bao gồm việc thành lập nhà máy tinh chế đường British Columbia vào năm 1890, song các nguồn tài nguyên tự nhiên trở thành nền tảng đối với kinh tế Vancouver. Lĩnh vực tài nguyên ban đầu dựa trên khai thác gỗ và sau đó dựa vào hoạt động xuất khẩu thông qua các hải cảng, tại đó giao thông thương nghiệp cấu thành khu vực kinh tế lớn nhất tại Vancouver vào thập niên 1930.", "Đi kèm với tình trạng các hãng lớn chi phối kinh tế thành phố là một phong trào lao động thường hiếu chiến. Vụ bãi công đồng loạt lớn đầu tiên diễn ra vào năm 1903 khi các công nhân đường sắt bãi công phản đối Đường sắt Thái Bình Dương Canada để công đoàn được công nhận. Lãnh đạo công nhân là Frank Rogers bị cảnh sát của Đường sắt Thái Bình Dương Canada sát hại, trở thành liệt sĩ đầu tiên của phong trào tại British Columbia. Tình trạng căng thẳng trong công nghiệp gia tăng trên khắp tỉnh British Columbia dẫn đến tổng đình công đầu tiên tại Canada vào năm 1918, diễn ra tại mỏ than Cumberland trên đảo Vancouver. Sau một thời gian tạm lắng trong thập niên 1920, làn sóng bãi công đạt đỉnh vào năm 1935 khi những người thất nghiệp tràn ngập thành phố để phản đối điều kiện trong các trại cứu tế do quân đội điều hành tại các khu vực xa xôi trên khắp tỉnh. Sau hai tháng căng thẳng với hoạt động kháng nghị diễn ra thường nhật và có tính phá hoại, những người bãi công trại cứu tế quyết định thể hiện sự bất bình của họ với chính phủ liên bang và lên tàu đến Ottawa, song hành động kháng nghị của họ bị đàn áp bằng vũ lực. Các công nhân bị bắt gần Mission và bị giam giữ trong các trại lao động trong thời kỳ Đại khủng hoảng.", "Các phong trào xã hội khác, phong trào nữ quyền lần thứ nhất, cải cách đạo đức và hạn chế rượu cũng là diễn ra trong tiến trình phát triển của Vancouver. Mary Ellen Smith là một nữ giới Vancouver theo chủ nghĩa nữ giới tham chính và cấm rượu, năm 1918 bà trở thành nữ giới đầu tiên được bầu vào một nghị viện tỉnh tại Canada. Luật cấm đồ uống có cồn bắt đầu trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và kéo dài cho đến năm 1921, khi đó chính phủ tỉnh thiết lập quyền kiểm soát đối với mua bán đồ uống có cồn, thực tiễn này vẫn tồn tại đến nay. Luật cấm ma túy đầu tiên của Canada xảy ra sau một cuộc điều tra của Bộ trưởng Lao động liên bang đương nhiệm là William Lyon Mackenzie King. William Lyon Mackenzie King được phái đến để điều tra về các tuyên bố thiệt hại sau khi Liên minh Bài Á (AEL) dẫn đầu một vụ náo loạn suốt phố người Hoa và phố người Nhật. Hai nguyên đơn là những người sản xuất ma túy, và sau khi điều tra sâu hơn, William Lyon Mackenzie King phát hiện ra các nữ giới da trắng được tường trình là thường lui tới các ổ ma túy, cũng như nam giới Trung Hoa. Một đạo luật liên bang nhanh chóng được thông qua dựa trên các khám phá này, theo đó cấm việc sản xuất, mua bán, và nhập khẩu ma túy vì các mục đích phi dược dụng. Các vụ náo loạn, và sự hình thành của Liên minh Bài Á, cũng là những dấu hiệu của sự sợ hãi và nghi kị ngày càng tăng đối với người Nhật sống tại Vancouver và khắp tỉnh. Những sợ hãi này tăng mạnh khi Nhật Bản tiến công Trân Chân Cảng, dẫn đến việc tất cả người Canada gốc Nhật sống trong thành phố và tỉnh rút cuộc bị giam giữ hoặc trục xuất. Sau chiến tranh, người người Canada gốc Nhật này không được phép trở lại các thành phố như Vancouver, khiến cho các khu vực như phố Nhật đột ngột không còn là khu vực của dân tộc Nhật do các cộng đồng không bao giờ khôi phục.", "Sau khi hợp nhất với Point Grey và Nam Vancouver, ranh giới của Vancouver giữ nguyên cho đến nay. Không lâu sau, Vancouver trở thành đô thị lớn thứ ba tại Canada. Ngày 1 tháng 1 năm 1929, dân số Vancouver mở rộng là 228.193.", "Địa lý.", "Vancouver nằm trên bán đảo Burrard, giữa vịnh Burrard ở phía bắc và sông Fraser ở phía nam. Eo biển Georgia nằm ở phía tây của thành phố, được đảo Vancouver che chắn khỏi Thái Bình Dương. Thành phố có diện tích , gồm cả vùng đất bằng phẳng và đồi núi, nằm trong múi giờ Thái Bình Dương (UTC−8) và khu vực kinh tế Hàng hải Thái Bình Dương của Canada.", "Cho đến khi thành phố mang tên hiện này vào năm 1885, \"Vancouver\" được dùng để chỉ đảo Vancouver, và hiện nay vẫn còn quan niệm sai lệch phổ biến rằng thành phố nằm trên đảo.", "Vancouver có một trong số các công viên đô thị lớn nhất tại Bắc Mỹ, đó là công viên Stanley với diện tích . Dãy núi North Shore chi phối cảnh quan thành phố, viễn cảnh thơ mộng trong ngày quang đãng gồm có núi lửa Baker phủ tuyết thuộc bang Washington của Hoa Kỳ ở phía đông nam, đảo Vancouver qua eo biển Georgia ở phía tây và tây nam, và đảo Bowen ở phía tây bắc.", "Sinh thái học.", "Hệ thực vật ban đầu tại khu vực Vancouver là rừng mưa ôn đới, gồm có các loài thông với các nhóm cây phong và tống quán sủ nằm rải rác, và các khu vực đầm lầy rộng lớn.", "Các loài thông là một đặc trưng của vùng duyên hải British Columbia, hỗn hợp với các loài \"Pseudotsuga menziesii\", \"Thuja plicata\" và \"Tsuga heterophylla\".", "Khu vực được cho là có các cây lớn nhất của những loài này tại vùng Duyên hải British Columbia. Các cây lớn nhất trong rừng nguyên sinh của Vancouver mọc tại khu vực Gastown, đây là nơi hoạt động khai thác gỗ đầu tiên diễn ra, và trên sườn phía nam của lạch False và vịnh English, đặc biệt là quanh bãi biển Jericho. Rừng trong công viên Stanley bị đốn từ thập niên 1860 đến thập niên 1880, và tại đây vẫn có thể thấy bằng chứng về các kỹ thuật khai thác gỗ kiểu cũ như khía hình V ván nhún.", "Nhiều loài và cây được trồng khắp Vancouver và Lower Mainland được đưa đến từ những phần khác của lục địa và nhiều nơi khắp Thái Bình Dương. Các thí dụ gồm có \"Araucaria araucana\", phong Nhật Bản, và các giống ngoại lai có hoa như mộc lan, đỗ quyên. Một số loài được đưa đến từ những nơi có khí hậu khắc nghiệt hơn tại Đông bộ Canada hoặc châu Âu đã phát triển đến kích thước rất lớn tại Vancouver. Loài phong \"Acer glabrum\" cũng có thể đạt tới một kích thước to lớn. Nhiều đường phố trong thành phố có các hàng anh đào Nhật Bản có hoa do chính phủ Nhật Bản tặng từ thập niên 1930 về sau. Thời kỳ nở hoa của chúng kéo dài trong vài tuần vào đầu mùa xuân mỗi năm, lễ hội hoa anh đào Vancouver được tổ chức vào dịp đó. Các phố khác có các loài dẻ có hoa, dẻ ngựa và các cây bóng mát làm cảnh khác.", "Khí hậu.", "Vancouver là một trong số những thành phố ấm nhất tại Canada. Khí hậu Vancouver là ôn hòa theo tiêu chuẩn Canada và thường được phân loại là hải dương hoặc bờ tây hải dương, mà theo phân loại khí hậu Köppen sẽ là \"Cfb\". Tuy nhiên, trong những tháng mùa hè, nhiệt độ vùng nội địa cao hơn đáng kể, khiến Vancouver có nhiệt độ trung bình tối cao mùa hạ mát nhất trong toàn bộ các khu vực đô thị lớn của Canada. Trong các tháng mùa hạ, thời tiết đặc trưng là khô, trung bình chỉ một phần năm số ngày trong tháng 7 và tháng 8 là có mưa. Ngược lại, gần một nửa số ngày từ tháng 11 đến tháng 3 xuất hiện giáng thủy.", "Vancouver cũng là một trong số các thành phố ẩm nhất Canada, tuy nhiên lượng giáng thủy thay đổi trong suốt khu vực đô thị. Lượng giáng thủy hàng năm đo được tại Cảng hàng không quốc tế Vancouver tại Richmond trung bình là , so với tại khu vực trung tâm và tại Bắc Vancouver. Nhiệt độ trung bình cực độ hàng ngày là trong tháng 7 và tháng 8, mức cao nhất hiếm khi vượt .", "Nhiệt độ cao nhất từng ghi nhận được tại cảng hàng không là , thiết lập vào ngày 30 tháng 7 năm 2009, và nhiệt độ cao nhất từng ghi nhận được trong ranh giới thành phố Vancouver là , xảy ra lần đầu vào ngày 31 tháng 7 năm 1965, một lần nữa vào ngày 8 tháng 8 năm 1981, và ngày 29 tháng 5 năm 1983.", "Trung bình hàng năm, Vancouver xuất hiện tuyết rơi trong 11 ngày, với ba ngày nhận được hoặc nhiều hơn. Lượng tuyết rơi trung bình hàng năm là nhưng thường không còn lại trên mặt đất trong thời gian dài.", "Đại Vancouver có mùa đông ôn hòa đứng thứ tư trong số những thành phố của Canada, sau ba thành phố trên đảo Vancouver là Victoria, Nanaimo và Duncan.", "Mùa sinh trưởng của Vancouver trung bình là 237 ngày, kéo dài từ 18 tháng 3 đến 10 tháng 11.", "Quy hoạch đô thị.", "Năm 2011, Vancouver là thành phố có mật độ dân số dày đặc nhất tại Canada. Quy hoạch đô thị tại Vancouver mang đặc trưng là nhà ở cao tầng và phát triển sử dụng hỗn hợp tại các trung tâm đô thị, một lựa chọn thay cho mở rộng.", "Trong hơn một thập niên, Vancouver được xếp hạng là một trong các thành phố dễ sống nhất trên thế giới. Năm 2010, Vancouver được xếp hạng có chất lượng sinh hoạt cao thứ 4 trong tất cả các thành phố trên Trái Đất. Ngược lại, theo Forbes thì trong năm 2007, Vancouver có thị trưởng bất động sản đắt đỏ thứ 6 trên thế giới, và cao thứ hai tại Bắc Mỹ sau Los Angeles. Vancouver cũng được xếp hạng nằm trong số các thành phố đắt đỏ nhất Canada về sinh hoạt. Forbes cũng xếp hạng Vancouver là thành phố sạch thứ mười trên thế giới trong năm 2007.", "Phương pháp giải quyết này bắt đầu vào cuối thập niên 1950, khi những nhà quy hoạch đô thị của thành phố bắt đầu khuyến khích việc xây dựng các tòa nhà ở cao tầng tại khu West End của Vancouver, đưa ra các yêu cầu nghiêm ngặt về không gian để bảo vệ tuyến tầm nhìn và không gian xanh. Sự thành công của các khu phố dày đặc song dễ sống này dẫn đến việc tái kiến thiết các điểm đô thị công nghiệp, như North False Creek và Coal Harbour, bắt đầu vào giữa thập niên 1980. Kết quả là một hạt nhân đô thị chật được quốc tế công nhận là \"phát triển tiện nghi cao và 'dễ sống'\".", "Nhân khẩu.", "Theo kết quả điều tra nhân khẩu năm 2011, Vancouver có trên 603.000 người, là thành phố lớn thứ tám tại Canada. Vancouver là thành phố lớn thứ tư tại Tây bộ Canada, sau Calgary, Edmonton và Winnipeg. Khu vực đô thị Đại Vancouver có trên 2,4 triệu cư dân, là khu vực đô thị đông dân thứ ba toàn quốc và đông dân nhất tại tây bộ Canada. Khu vực kinh tế Lower Mainland-Southwest có diện tích rộng hơn có dân số trên 2,93 triệu.", "Với mật độ dân số là 5.249 người/km², Thành phố Vancouver có mật độ dân cư dày đặc nhất trong các đô thị tự trị có trên 5.000 cư dân tại Canada.", "Vancouver được gọi là một \"thành phố gồm các khu phố\", mỗi khu phố lại có một sự riêng biệt về đặc trưng và dung hợp chủng tộc. Người có huyết thống Anh, Scotland, và Ireland về mặt lịch sử từng là những dân tộc lớn nhất trong thành phố, và các yếu tố của xã hội và văn hóa Anh Quốc vẫn có thể thấy được tại một số khu vực, đặc biệt là South Granville và Kerrisdale. Người Đức là dân tộc gốc Âu lớn tiếp sau, họ là một lực lượng dẫn đầu trong xã hội và kinh tế của thành phố cho đến khi tình cảm bài Đức nổi lên do Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ năm 1914. Ngày nay, người Hoa là dân tộc rõ rệt lớn nhất trong thành phố, với một cộng đồng nói tiếng Hoa đa dạng với một vài ngôn ngữ như tiếng Quảng Đông và Quan thoại.", "Kể từ thập niên 1980, nhập cư đến Vancouver tăng lên đột ngột, khiến thành phố thêm đa dạng về dân tộc và ngôn ngữ; 52% có ngôn ngữ thứ nhất không phải là tiếng Anh (2006).", "Gần 30% dân cư trong thành phố có huyết thống Trung Hoa. Trong thập niên 1980, có một dòng người nhập cư từ Hồng Kông do dè chừng việc chuyển giao chủ quyền lãnh thổ này từ Anh Quốc cho Trung Quốc, cộng thêm một sự gia tăng người nhập cư từ Trung Quốc đại lục và những người nhập cư trước đó từ Đài Loan, Vancouver trở thành một trong những nơi tập trung cao nhất các cư dân người Hoa tại Bắc Mỹ. Vancouver là điểm đến phổ biến thứ nhì của người nhập cư tại Canada, đứng sau Toronto. Các dân tộc gốc Á có số lượng lớn khác tại Vancouver là người Nam Á (chủ yếu là người Punjab) thường được gọi là người Canada gốc Ấn (5,7%), người Philippines (5,0%), người Nhật Bản (1,7%), người Hàn Quốc (1,5%), cùng với các cộng đồng lớn của người Việt Nam, người Indonesia, và người Campuchia. Mặc dù lượng người Mỹ Latinh nhập cư đến Vancouver gia tăng trong thập niên 1980 và 1990, song tổng số người nhập cư gần đây tương đối thấp, và người châu Phi nhập cư cũng đình trệ (tương ứng là 3,6% và 3,3% tổng số người nhập cư). Dân số da đen tại Vancouver khá ít so với các thành phố lớn khác của Canada, họ chiếm 0,9% dân số thành phố. Khu phố Strathcona là hạt nhân của cộng đồng Do Thái trong thành phố. Hogan's Alley từng là nơi có một cộng đồng da đen đáng kể. Năm 1981, dưới 7% dân số thuộc một nhóm thiểu số rõ rệt. Đến năm 2008, tỷ lệ này tăng lên mức 51%.", "Trước khi xảy ra làn sóng người Hồng Kông tha hương, các dân tộc phi Anh Quốc lớn nhất trong thành phố là người Ireland và người Đức, tiếp đến là người Scandinavia, người Ý, người Ukraina và người Hoa. Từ giữa thập niên 1950 cho đến thập niên 1980, nhiều người Bồ Đào Nha nhập cư đến Vancouver và thành phố có dân số Bồ Đào Nha lớn thứ ba tại Canada vào năm 2001. Các dân tộc Đông Âu, bao gồm cả người Nam Tư, người Nga, người Séc, người Ba Lan, người Romania và người Hungary bắt đầu nhập cư đến Vancouver sau khi Liên Xô tiếp quản Đông Âu sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Số người Hy Lạp nhập cư gia tăng vào cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970, hầu hết họ định cư tại khu vực Kitsilano. Vancouver cũng có một cộng đồng người nguyên trú đáng kể với khoảng 11.000 người.", "Kinh tế.", "Với vị trí nằm trong vành đai Thái Bình Dương, là điểm cuối cùng ở phía tây của các tuyến đường bộ và đường sắt xuyên lục địa của Canada, Vancouver là một trong các trung tâm công nghiệp lớn nhất toàn quốc. Cảng Metro Vancouver là cảng lớn nhất và đa dạng nhất của Canada, hàng năm có giao thương với trên 160 nền kinh tế. Vancouver cũng là trụ sở của các công ty lâm sản và khai mỏ. Trong những năm gần đây, Vancouver trở thành một trung tâm ngày càng quan trọng đối với phát triển phần mềm, công nghệ sinh học, hàng không vũ trụ, phát triển trò chơi điện tử, xưởng phim hoạt hình, một ngành sản xuất truyền hình sôi động và công nghiệp điện ảnh.", "Vị trí thuận lợi của Vancouver khiến nó trở thành một địa điểm du lịch lớn. Nhiều du khách đến để tham quan các công viên của thành phố, như công viên Stanley, công viên Queen Elizabeth, vườn thực vật VanDusen và những dãy núi, đại dương, rừng, và không gian xanh bao quanh thành phố. Mỗi năm có trên một triệu người qua Vancouver trên những tàu du lịch, thường là hướng về Alaska.", "Thành phố thông qua các chiến lược khác nhau nhằm giảm giá nhà, bao gồm nhà ở công cộng, hợp pháp hóa những phần thứ cấp, tăng mật độ và tăng trưởng thông minh. Tháng 4 năm 2010, trung bình nhà cấp hai tại Vancouver được bán với giá kỷ lục là 987.500 đô la, so với giá trung bình tại Canada là 365.141 đô la.", "Kể từ thập niên 1990, sự phát triển các tòa nhà cộng quản cao tầng tại bán đảo trung tâm được cung cấp tài chính một phần từ một dòng tư bản của những người Hồng Kông nhập cư do lo ngại việc chuyển giao lãnh thổ này cho Trung Quốc vào năm 1997. Những phát triển này tập trung tại các khu Yaletown và Coal Harbour và xung quanh nhiều ga của tuyến đường sắt SkyTrain đến phía đông của khu trung tâm. Việc thành phố được lựa chọn làm chủ nhà của Thế vận hội Mùa đông năm 2010 cũng có tác động lớn đến phát triển kinh tế. Lo ngại rằng vấn đề vô gia cư ngày càng tăng tại Vancouver có thể trầm trọng thêm vì Thế vận hội do những người sở hữu các khách sạn SRO, vốn là nhà của những cư dân thu nhập thấp nhất trong thành phố, sẽ cải tạo tài sản của họ để thu hút các cư dân và du khách có thu nhập cao hơn. Một sự kiện quốc tế quan trọng khác từng diễn ra tại Vancouver là Triển lãm thế giới 1986, triển lãm đón trên 20 triệu khách và thêm vào 3,7 tỷ đô la cho kinh tế Canada. Một số công trình phục vụ Triển lãm thế giới vẫn còn tồn tại, trong đó có hệ thống đường sắt công cộng SkyTrain và Canada Place.", "Chính phủ.", "Không giống như các đô thị tự trị khác tại British, Vancouver được hợp thành tổ chức theo \"Hiến chương Vancouver\". Hiến chương được thông qua vào năm 1953, thay thế cho \"Đạo luật hợp nhất Vancouver, 1921\" và trao cho thành phố thêm nhiều quyền hạn và khác biệt so với các cộng đồng khác vận hành theo \"Đạo luật các đô thị tự trị\" của tỉnh. Kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai, chính phủ dân sự nằm dưới quyền chi phối của Hiệp hội Phi đảng phái (NPA) trung-hữu, song cũng có một số gián đoạn đáng kể bởi phe trung-tả. Quản lý Vancouver là Hội đồng Thành phố Vancouver gồm 11 thành viên, một hội đồng trường học gồm 9 thành viên, một hội đồng công viên gồm 7 thành viên, tất cả đều phụng vụ các nhiệm kỳ ba năm. Bất chấp quy mô lớn, toàn bộ các cuộc tuyển cử đô thị tại Vancouver đều dựa theo nền tảng \"at-large\", tức bỏ phiếu cho đảng. Về mặt lịch sử, trong mọi cấp chính quyền, phần phía tây giàu có hơn của Vancouver bỏ phiếu cho phe bảo thủ hoặc tự do trong khi phần phía đông của thành phố bỏ phiếu cho phe cánh tả.", "Cục cảnh sát Vancouver có 1.174 thành viên tuyên thệ, ngân sách hoạt động năm 2005 là 149 triệu đô la. Trên 16% ngân sách của thành phố được chi cho sự bảo vệ của cảnh sát vào năm 2005. Các đơn vị của cục cảnh sát Vancouver gồm có cả một đội xe đạp, một đội hàng hải, và một đội khuyển cảnh. Cục cũng có một đội kị cảnh, chủ yếu để tuần tra công viên Stanley và thỉnh thoảng tại Downtown Eastside và West End, cũng như để kiểm soát đám đông. Năm 2008, Vancouver có tỷ lệ phạm tội cao thứ bảy trong số 27 vùng đô thị thống kê tại Canada.", "Chính phủ khu vực.", "Vancouver là một đô thị thành viên trong Cục Khu vực Vancouver, một chính quyền khu vực. Cục có tổng cộng 22 đô thị, một khu vực bẩu cử liên bang. Trong Nghị viện British Columbia, Vancouver được phân bổ 11 nghị viên đại diện. Trong Chúng nghị viện Canada, Vancouver có 5 nghị viên đại diện.", "Chính quyền của Khu vực đặt tại Burnaby. Mỗi đô thị có cơ quan quản lý nhà nước riêng. Cục khu vực (Metro Vancouver) quản lý quy hoạch tổng thể và giám sát các dịch vụ chung, như cung cấp nước sạch, vận hành hệ thống cống rãnh và xử lý chất thải rắn... ", "Giáo dục.", "Hội đồng Giáo dục Vancouver tiếp nhận trên 110.000 học sinh trong các cơ sở bậc tiểu học, trung học, sau trung học, do vậy là học khu lớn thứ nhì trong tỉnh. Học khu quản lý khoảng 74 trường tiểu học, 17 trường bổ túc tiểu học, 18 trường trung học, 7 trung tâm giáo dục người thành niên, 2 trường thuộc mạng lưới học tập Vancouver, trong tất cả có 18 trường tiếng Pháp cho người phi bản ngữ, một trường song ngữ Quan thoại, một trường mỹ thuật, năng khiếu, và Montessori. Trên 46 trường độc lập đa dạng cũng đủ tư cách nhận một phần tài trợ của tỉnh và giáo dục khoảng 10% học sinh trong thành phố.", "Có năm đại học công lập trong khu vực Đại Vancouver, lớn nhất trong đó là Đại học British Columbia (UBC) và Đại học Simon Fraser (SFU), với tổng cộng 90.000 sinh viên đại học và sau đại học ghi danh năm 2008.", "UBC luôn được xếp trong số 40 đại học tốt nhất trên thế giới, và trong số 20 đại học công lập tốt nhất.", "SFU luôn được xếp hạng la đại học toàn diện hàng đầu tại Canada và nằm trong số 200 đại học tốt nhất trên thế giới.", "Sinh viên quốc tế và sinh viên nói tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai là nguồn tuyển sinh quan trọng của các thể chế công lập và tư thục tại Đại Vancouver. Trong năm học 2008–2009, 53% sinh viên thuộc Hội đồng giáo dục Vancouver nói một ngôn ngữ không phải là tiếng Anh tại nhà.", "Nghệ thuật và văn hóa.", "Nhà hát, sàn khiêu vũ và chiếu phim.", "Vancouver có ngành công nghiệp sản xuất phim rất lớn, nên được đặt tên là \"Hollywood phương Bắc\". Các địa điểm quay nổi tiếng như Hồ Buntzen Lake (phim The X-Files (TV series) Freddy vs. Jason, Pathfinder, Stephen King's It, Hot Rod), Heritage Woods, Đảo Bowen, bãi biển Britannia Beach, Tsawwassen (phim X-men)", "Thành phố anh em.", "Vancouver là một trong những thành phố đầu tiên tại Canada tham gia một hiệp định thành phố anh em quốc tế. Các hiệp định đặc biệt về lợi ích văn hóa, xã hội và kinh tế là nguyên nhân xuất hiện các thành phố anh em này." ]
850
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=850
Alberta
[ "Alberta () là một trong 13 tỉnh bang và lãnh thổ của Canada. Với dân số ước tính là 4.067.175 người theo cuộc điều tra dân số năm 2016, đây là tỉnh bang đông dân thứ tư của nước này, và là tỉnh bang đông dân nhất trong ba tỉnh bang thuộc vùng đồng cỏ (Canadian Prairies). Diện tích của Alberta khoảng . Alberta giáp với tỉnh bang British Columbia về phía Tây và Saskatchewan về phía Đông, Các Lãnh thổ Tây Bắc về phía Bắc, và tiểu bang Montana của Hoa Kỳ về phía Nam. Alberta là một trong ba tỉnh bang và lãnh thổ của Canada có biên giới với chỉ một tiểu bang Hoa Kỳ. Đây cũng là một trong hai tỉnh bang không tiếp giáp biển của Canada. Thủ phủ của Alberta là Edmonton, nằm gần trung tâm địa lý của tỉnh bang; nó là trung tâm cung cấp và dịch vụ chính cho các công nghiệp tài nguyên của Canada như dầu mỏ và cát dầu. Khoảng về phía Nam của Edmonton là Calgary, thành phố đông dân nhất. Calgary và Edmonton là hai trung tâm cho hai khu đô thị của tỉnh bang, mỗi khu với hơn một triệu dân, trong khi tỉnh bang có 16 khu vực điều tra dân số.", "Người thổ dân đã sống ở khu vực mà ngày nay là Alberta hàng nghìn năm trước khi người châu Âu đến định cư. Alberta và Saskatchewan nguyên là hai khu vực của Các Lãnh thổ Tây Bắc, nhưng đã trở thành tỉnh bang vào ngày 1 tháng 9 năm 1905. Các khu vực kinh tế chính của Alberta gồm công nghiệp năng lượng và công nghệ sạch, nông nghiệp, và hóa học dầu mỏ. Công nghiệp dầu mỏ trở thành cột trụ của kinh tế Alberta từ năm 1947, khi người ta khám phá ra dầu ở Giếng dầu Leduc No. 1. Thủ hiến đương nhiệm của Alberta là Jason Kenney của Đảng Bảo thủ Thống nhất (\"United Conservative Party\"), đang chiếm giữ đa số ghế trong cơ quan lập pháp của tỉnh bang.", "Các địa điểm du lịch trong tỉnh bang gồm có: Banff, Canmore, Drumheller, Jasper, Sylvan Lake và Hồ Louise. Alberta sở hữu 6 di sản thế giới UNESCO: Vườn quốc gia Núi Rocky của Canada, Công viên Khủng long tỉnh Alberta, Vực bẫy trâu Head-Smashed-In, Công viên hòa bình quốc tế Waterton-Glacier, Vườn quốc gia Wood Buffalo, và Writing-on-Stone / Áísínai'pi. Tỉnh bang chủ yếu có khí hậu lục địa ẩm ướt, có nhiều thay đổi lớn trong năm; nhưng nhiệt độ trung bình theo mùa ít thay đổi hơn những khu vực xa hơn ở phía Đông, vì mùa đông được gió chinook sưởi ấm.", "Từ nguyên.", "Alberta được đặt tên theo Vương nữ Louise Caroline Alberta (1848–1939), con gái thứ tư của Victoria của Anh. Vương nữ Louise là phu nhân của John Campbell, Hầu tước Lorne, Toàn quyền Canada (1878–83). Hồ Louise và Đỉnh Alberta cũng được đặt tên theo bà.", "Tên gọi \"Alberta\" cũng là phiên bản nữ hóa của tên Latin Albert (so với phiên bản giống đực \"Albertus\" trong tiếng Latinh Trung cổ) và những từ cùng gốc trong các ngôn ngữ German, cũng đều có nguồn gốc từ tiếng German sơ khai \"*Aþalaberhtaz\" (chữ ghép từ \"quý tộc\" + \"sáng/nổi tiếng\").", "Lịch sử.", "Những người thổ dân tiền da đỏ đã đến Alberta ít nhất 10.000 năm trước, vào cuối thời kỳ băng hà gần đây nhất. Họ được cho là đã di cư từ Siberia đến Alaska qua một cầu đất liền xuyên qua Eo biển Bering và sau đó có thể xuống phía Đông dãy núi Rocky để sinh sống tại châu Mỹ. Những người khác có thể đã di cư dọc theo bờ biển British Columbia rồi dần dần vào đất liền. Sau thời gian họ đã phân hóa thành nhiều bộ lạc khác nhau, trong đó có các bộ lạc người da đỏ ở đồng bằng (\"Plain Indians\") ở miền nam Alberta như Liên minh Blackfoot và người Cree Đồng bằng (sinh sống bằng cách săn bắt bò rừng), và những bộ lạc ở phía Bắc như người Cree Rừng và Chipewyan (sinh sống bằng săn bắt, lập bẫy, và câu cá).", "Sau khi người Anh đến Canada, khoảng một nửa tỉnh bang Alberta, phía Nam tiêu vực sông Athabasca, trở thành Lãnh thổ Rupert bao gồm tất cả đất trong lưu vực các sông ngòi chảy vào vịnh Hudson. Khu vực này được vua Charles II của Anh cấp cho Công ty Vịnh Hudson (HBC) năm 1670, và những công ty cạnh tranh buôn bán lông thú không được phép hoạt động tại đó.", "Sông Athabasca và những con sông phía Bắc không thuộc lãnh thổ của HBC vì chúng chảy vào Bắc Băng Dương thay vì vịnh Hudson, và chúng là nơi sống lý tưởng của một số loài có lông. Nhà thám hiểm châu Âu đầu tiên trong khu vực Athabasca là Peter Pond, người đã nghe đến đoạn khuân vác Methye, nơi có thể di chuyển từ những sông phía Nam đến những sông phía Bắc Lãnh thổ Rupert. Những nhà buôn bán lông thú đã thành lập Công ty Tây Bắc (NWC) tại Montreal năm 1779 để cạnh tranh với HBC. NWC chiếm giữ khu vực phía Bắc lãnh thổ Alberta. Năm 1778, Peter Pond xây dựng Pháo đài Athabasca trên Lac la Biche. Roderick Mackenzie xây dựng Pháo đài Chipewyan trên hồ Athabasca 10 năm sau đó vào 1788. Người anh em họ của ông là Sir Alexander Mackenzie đã đi dọc theo sông Bắc Saskatchewan để đến điểm cực Bắc gần Edmonton, rồi đi bộ về hướng Bắc, đến sông Athabasca, rồi ông theo sông đến hồ Athabasca. Tại đây ông khám phá ra sông chảy mạnh mà ngày nay mang tên ông - sông Mackenzie mà ông đã đi theo đến nơi nó chảy vào Bắc Băng Dương. Trở về lại hồ Athabasca, ông đi ngược dòng sông Peace và cuối cùng đi đến Thái Bình Dương, như thế ông trở thành người châu Âu đầu tiên đi xuyên qua châu lục Bắc Mỹ ở phía Nam Mexico.", "Khu vực cực nam của Alberta từng là một phần lãnh thổ Pháp (rồi Tây Ban Nha) Louisiana, được bán cho Hoa Kỳ năm 1803; năm 1818, phần đất của Louisiana phía Bắc vĩ tuyến 49 Bắc được nhượng lại cho Đế quốc Anh.", "Mậu dịch lông thú được phát triển ở phía Bắc, nhưng những cuộc xung đột đẫm máu diễn ra giữa hai công ty đối thủ HBC và NWC, và nào năm 1821 chính quyền Anh đã ra lệnh cả hai phải sáp nhập để chấm dứt các cuộc xung đột. Công ty Vịnh Hudson hợp nhất đã thống lĩnh mậu dịch tại Alberta cho đến năm 1870, khi chính phủ Canada mới thành lập mua đứt Lãnh thổ Rupert. Miền Bắc Alberta vẫn nằm trong Lãnh thổ Miền Tây Bắc cho đến năm 1870, khi nó và Lãnh thổ Rupert trở thành Các Lãnh thổ Tây Bắc của Canada.", "Quận Alberta được thành lập trong bộ phận Các Lãnh thổ Tây Bắc năm 1882. Với số người định cư tăng trưởng, các dân biểu địa phương được cử vào cơ quan lập pháp lãnh thổ. Sau một thời gian dài vận động đòi tự trị, năm 1905 Quận Alberta được mở rộng và trở thành một tỉnh bang, và Alexander Cameron Rutherford được bầu làm thủ hiến đầu tiên. Chưa đến 10 năm sau, tỉnh bang mới đã phải đối diện với những thử thách đặc biệt do Thế chiến thứ nhất gây ra khi số người xung phong tham chiến đã để lại ít công nhân để duy trì dịch vụ và sản xuất. Hơn 50% bác sĩ Alberta đã tình nguyện tham chiến ở nước ngoài.", "Thế kỷ 21.", "Ngày 21 tháng 6 năm 2013, trong vụ Lũ lụt Alberta 2013, Alberta đã chịu nhiều trận mưa lớn, gây ra lũ lụt khắp miền Nam tỉnh bang dọc theo các sông và nhánh Bow, Elbow, Highwood và Oldman. 12 đô thị ở miền Nam Albert đã tuyên bố tình trạng khẩn cấp địa phương vào ngày 21 tháng 6 khi mực nước dâng cao và người dân ở nhiều địa phương nhận lệnh di tản.", "Năm 2016, một vụ cháy rừng đã dẫn đến cuộc di tản vì cháy rừng lớn nhất lịch sử Alberta, trong đó hơn 80.000 người đã buộc phải di tản.", "Nhân khẩu.", "Cuộc điều tra dân số năm 2016 báo cáo Alberta có dân số 4.067.175 người ở tại 1.527.678 trong 1.654.129 tổng số đơn vị nhà cửa, tăng 11,6% so với dân số năm 2011 là 3.645.257. Với diện tích đất là , mật độ dân số ở đây là trong năm 2016. Statistics Canada ước tính tỉnh bang có dân số là 4.428.247 người trong quý 2 năm 2020.", "Từ năm 2000, dân số của Alberta đã trải qua một thời kỳ tăng trưởng tương đối cao, chủ yếu là do nền kinh tế đang nảy nở. Giữa 2003 và 2004, tỉnh bang có tỷ lệ sinh đẻ cao (bằng các tỉnh bang lớn hơn như British Columbia), tỷ lệ nhập cư tương đối cao, và tỷ lệ nhập cư liên tỉnh cao so với các tỉnh bang khác. Năm 2016, Alberta tiếp tục là tỉnh bang có dân số trẻ nhất, với tuổi trung bình là 36,7 năm, so với tuổi trung bình toàn quốc là 41,2 năm. Cũng trong năm 2016, Alberta có tỷ lệ người cao tuổi thấp nhất (12,3%) trong các tỉnh bang và một trong những tỷ lệ trẻ em cao nhất (19,2%), góp phần vào dân số trẻ tuổi và tăng trưởng của Alberta.", "Khoảng 81% dân số sống trong các khu vực đô thị trong khi 19% sống ở khu vực nông thôn. Đường Hành lang Calgary–Edmonton là khu vực đô thị hóa nhất trong tỉnh bang và là một trong những khu vực đông dân nhất Canada. Nhiều thành thị Alberta cũng đã trải qua tỷ lệ tăng trưởng rất cao trong những năm gần đây. Dân số Alberta đã tăng trưởng từ 73.022 người trong năm 1901 đến 4.067.175 người năm 2016.", "Kinh tế.", "Nền kinh tế Alberta là một trong những nền kinh tế mạnh nhất thế giới, được hỗ trợ bởi một nền công nghiệp dầu mỏ đang tăng trưởng và ở một mức độ ít hơn là nông nghiệp và công nghệ. Năm 2013, GDP bình quân theo đầu người cao hơn so với Hoa Kỳ, Na Uy, hoặc Thụy Sĩ, và cao nhất trong tất cả các tỉnh bang nào khác tại Canada ở mức CA$. Con số này là 56% cao hơn mức bình quân toàn quốc là CA$ và hơn gấp hai lần một số tỉnh bang giáp bờ Đại Tây Dương. Năm 2006, sự khác biệt với mức bình quân đầu người toàn quốc là lớn nhất cho bất cứ tỉnh bang nào trong lịch sử Canada. Theo điều tra dân số năm 2006, thu nhập gia đình trung vị sau khi trừ thuế ở Alberta là CAD$70.986 (so với CAD$60.270 toàn quốc). Năm 2014, Alberta có nền kinh tế lớn thứ nhì Canada, chỉ sau Ontario, với GDP cao hơn CA$. GDP của tỉnh bang tính theo giá cả cơ bản đã tăng 4,6% năm 2017 lên đến CA$327.4 tỷ, là sự tăng trưởng cao nhất được ghi nhận tại Canada, và đã kết thúc hai năm liên tục giảm sút." ]
851
630332
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=851
Nova Scotia
[ "Nova Scotia là một tỉnh bang thuộc vùng miền đông của Canada. Đây là một bán đảo nằm nhô ra ngoài Đại Tây Dương với một diện tích khoảng 55.000 km².Tính đến năm 2016, dân số là 923,598. Nova Scotia là tỉnh có mật độ dân số cao thứ hai ở Canada với 17,4 cư dân trên mỗi kilômét vuông (45 dặm vuông).", "Từ nguyên.", "\"Nova Scotia\" có nghĩa là \"Scotland Mới\" bằng tiếng Latin (mặc dù \"Scotia\" ban đầu là một tên La Mã cho Ireland) và là tên tiếng Anh được công nhận cho tỉnh. Ở tiếng Gaelic Scotland, tỉnh này được gọi là \"Alba Nuadh\", cũng có nghĩa là \"New Scotland\". Tỉnh này được đặt tên lần đầu tiên trong Hiến pháp Hoàng gia năm 1621, cho phép quyền định cư các vùng đất bao gồm Nova Scotia hiện đại, Đảo Cape Breton, đảo Prince Edward, New Brunswick và Bán đảo Gaspé cho Sir William Alexander vào năm 1632. ", "Địa lý.", "Nova Scotia là tỉnh nhỏ thứ hai của Canada trong khu vực sau đảo Prince Edward. Vùng đất liền của tỉnh là bán đảo Nova Scotia bao quanh bởi Đại Tây Dương, bao gồm nhiều vịnh và cửa sông. Không nơi nào ở Nova Scotia cách biển hơn 67 km (42 dặm). Đảo Cape Breton, một hòn đảo lớn ở phía đông bắc của đại lục Nova Scotia, cũng là một phần của tỉnh, cũng như Đảo Sable, một hòn đảo nhỏ nổi tiếng vì đắm tàu, cách chừng 175 km (110 dặm) Bờ biển phía nam của tỉnh.", "Nova Scotia có nhiều hình thành đá hóa thạch cổ. Những hình dạng đặc biệt phong phú trên bờ Vịnh Fundy. Blue Beach gần Hantsport, Joggins Fossil Cliffs, nằm trên bờ Vịnh Fundy, đã mang lại một lượng lớn các hóa thạch cổ carbon. Wasson's Bluff, gần thị trấn Parrsboro, đã mang lại cả hóa thạch tuổi Kỷ Đệ Tam và Jurassa.", "Tỉnh có 5.400 hồ. ", "Khí hậu.", "Nova Scotia nằm ở khu vực trung du. Kể từ khi tỉnh này bao phủ gần biển, khí hậu gần với biển hơn so với khí hậu lục địa. Mùa đông và mùa hè nhiệt độ cực đoan của khí hậu lục địa bị kiểm duyệt bởi đại dương. Tuy nhiên, mùa đông vẫn còn lạnh, đủ để được phân loại là lục địa - vẫn còn gần điểm đông hơn so với nội địa ở phía tây. Khí hậu Nova Scotia theo nhiều cách tương tự như bờ biển Baltic trung tâm ở Bắc Âu, chỉ có mưa và tuyết. Mặc dù Nova Scotia có khoảng mười lăm dãy núi phía Nam. Những khu vực không có bờ biển Đại Tây Dương trải qua những mùa hè ấm áp hơn thường thấy ở các khu vực nội địa, và mùa đông hạ thấp hơn một chút.", "Được mô tả trên tấm giấy phép xe của tỉnh dưới dạng Sân chơi Ocean của Canada, Nova Scotia được bao quanh bởi bốn vùng nước chính: Vịnh Saint Lawrence về phía bắc, Vịnh Fundy về phía tây, Vịnh Maine về phía tây nam, và Đại Tây Dương về phía đông. ", "Kinh tế.", "GDP bình quân đầu người của Nova Scotia trong năm 2010 là 38.475 đô la, thấp hơn đáng kể so với mức bình quân bình quân đầu người của quốc gia là 47.605 đô la và ít hơn một nửa của tỉnh giàu nhất Canada, Alberta. Tăng trưởng GDP đã tụt hậu so với phần còn lại của đất nước ít nhất là trong thập kỷ qua. ", "Nova Scotia của nền kinh tế dựa trên nguồn tài nguyên truyền thống đã đa dạng trong những thập kỷ gần đây. Sự nổi lên của Nova Scotia như là một thẩm quyền hữu hiệu ở Bắc Mỹ, theo lịch sử, là do sự sẵn có của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là các loài cá ngoài khơi Scotian Shelf. Ngành đánh cá là một trụ cột của nền kinh tế kể từ khi nó được phát triển như một phần của New France vào thế kỷ 17; Tuy nhiên, ngành đánh bắt cá bị suy giảm nghiêm trọng do đánh bắt cá quá mức vào cuối thế kỷ 20. Sự sụp đổ của các cổ phiếu cá tuyết và sự đóng cửa của ngành này đã làm mất khoảng 20.000 việc làm vào năm 1992. Các ngành khác trong tỉnh cũng bị ảnh hưởng nặng nề, đặc biệt là trong hai thập kỷ qua: khai thác than ở Cape Breton và phía bắc lục địa Nova Scotia gần như ngừng sản xuất, và một nhà máy thép lớn ở Sydney đã đóng cửa trong những năm 1990. Gần đây, giá trị cao của đồng đô la Canada so với đô la Mỹ đã ảnh hưởng đến ngành công nghiệp lâm nghiệp, dẫn đến việc đóng cửa nhà máy bột giấy và xay giấy ở gần Liverpool. Khai thác khoáng sản, đặc biệt là thạch cao và muối, và silica, than bùn và barit ít hơn cũng là một ngành quan trọng. Từ năm 1991, dầu và khí ngoài khơi đã trở thành một phần quan trọng của nền kinh tế mặc dù sản xuất và doanh thu đang giảm. Nông nghiệp vẫn là một lĩnh vực quan trọng trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là ở các hung lũng Annapolis.", "Khu vực quốc phòng và hàng không vũ trụ của Nova Scotia tạo ra doanh thu khoảng 500 triệu đô la Mỹ và đóng góp khoảng 1,5 tỷ đô la cho nền kinh tế tỉnh mỗi năm.", "Ngô đang phát triển tại Grafton ở thung lũng Annapolis vào tháng 10 năm 2011", "Cho đến nay, 40% tài sản quân sự của Canada cư trú tại Nova Scotia. Nova Scotia có thứ tư lớn nhấtngành công nghiệp phim ở Canada lưu trữ hơn 100 tác phẩm hàng năm, hơn một nửa trong số đó là các sản phẩm của nhà sản xuất phim và truyền hình quốc tế. Năm 2015, chính phủ Nova Scotia loại bỏ tín dụng thuế để sản xuất phim trong tỉnh, gây nguy hiểm cho ngành công nghiệp với hầu hết các khu vực pháp lý khác tiếp tục cung cấp tín dụng như vậy. ", "Ngành du lịch Nova Scotia bao gồm hơn 6.500 doanh nghiệp trực tiếp, hỗ trợ gần 40.000 việc làm. 200.000 hành khách tàu thủy từ khắp nơi trên thế giới chảy qua Cảng Halifax, Nova Scotia mỗi năm. Ngành này đóng góp khoảng 1,3 tỷ đô la Mỹ mỗi năm cho nền kinh tế. Tỉnh cũng có sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghệ thông tin và truyền thông] (ICT) bao gồm hơn 500 công ty, và sử dụng khoảng 15.000 người. Năm 2006, khu vực sản xuất đã mang lại hơn 2,6 tỷ đô la cho GDP, sản lượng lớn nhất của bất kỳ ngành công nghiệp nào ở Nova Scotia. Michelin vẫn là nhà tuyển dụng duy nhất trong ngành này, vận hành ba nhà máy sản xuất trong tỉnh.", "Vào năm 2012, thu nhập gia đình trung bình ở Nova Scotia là 67.910 đô la Mỹ, thấp hơn mức trung bình toàn quốc là 74.540 đô la; ở Halifax con số tăng lên 80.490 đô la. ", "Tỉnh là nơi xuất khẩu cây thông Noel, tôm hùm, thạch cao và quả mọng hoang giã nhiều nhất thế giới. Giá trị xuất khẩu cá của tỉnh vượt quá 1 tỷ USD, và các sản phẩm cá được 90 quốc gia trên thế giới nhận. Tuy nhiên, nhập khẩu của tỉnh vượt xa xuất khẩu. Trong khi con số này gần như bằng nhau từ năm 1992 đến năm 2004, kể từ đó thâm hụt thương mại đã tăng lên. Năm 2012, xuất khẩu từ Nova Scotia chiếm 12,1% GDP của tỉnh, trong khi nhập khẩu là 22,6%." ]
852
98738
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=852
Anh Quốc
[]
853
333700
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=853
Anh
[ "Anh (, ) là một quốc gia cấu thành nên Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Quốc gia này có biên giới trên bộ với Scotland về phía bắc và với Wales về phía tây. Biển Ireland nằm về phía tây bắc và biển Celtic nằm về phía tây nam của Anh. Anh tách biệt khỏi châu Âu lục địa qua biển Bắc về phía đông và eo biển Manche về phía nam. Anh nằm tại miền trung và miền nam đảo Anh và chiếm khoảng 5/8 diện tích của đảo; ngoài ra còn có trên 100 đảo nhỏ. Người hiện đại cư trú lần đầu tiên tại khu vực Anh ngày nay trong giai đoạn đồ đá cũ muộn, song \"England\" có tên gọi bắt nguồn từ một bộ lạc German là Angle, bộ lạc này định cư trên đảo vào thế kỷ V-VI. Anh trở thành một quốc gia thống nhất vào thế kỷ X, và kể từ thời đại Khám phá quốc gia này có tác động đáng kể về văn hoá và tư pháp trên thế giới. Vương quốc Anh (bao gồm Wales từ năm 1535) kết thúc vị thế một quốc gia có chủ quyền riêng biệt vào ngày 1 tháng 5 năm 1707, khi các Đạo luật Liên minh có hiệu lực với kết quả là liên minh chính trị với Vương quốc Scotland để hình thành Vương quốc Anh liên hiệp. Tiếng Anh, giáo hội Anh giáo, và luật Anh (nền tảng của thông luật tại nhiều quốc gia) được phát triển tại Anh, và hệ thống chính phủ nghị viện của Anh được nhiều quốc gia khác áp dụng. Cách mạng công nghiệp bắt đầu tại Anh trong thế kỷ XVIII, chuyển đổi Anh trở thành quốc gia công nghiệp hoá đầu tiên trên thế giới.", "Địa hình của Anh chủ yếu là đồi thấp và đồng bằng, đặc biệt là tại miền trung và miền nam. Tuy nhiên, có các vùng cao tại miền bắc và tây nam. Thủ đô của Anh là Luân Đôn, thuộc khu vực đại đô thị lớn nhất tại Anh Quốc cũng như Liên minh châu Âu. Dân số Anh đạt trên 53 triệu người, chiếm 84% dân số Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Phần lớn dân cư tập trung tại quanh Luân Đôn, vùng Đông Nam, và các khu thành thị tại Midlands, Tây Bắc, Đông Bắc và Yorkshire, là những nơi phát triển thành các vùng công nghiệp lớn trong thế kỷ XIX.", "Nguồn gốc quốc hiệu.", "Tên gọi của Anh trong tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Trung. Bằng tiếng Trung, từ \"England chia thành \"En-g-land\", phiên âm nó là 英格蘭 (pinyin: \"Yīng gé lán\", Hán-Việt: \"Anh Cách Lan\"), còn một cách khác là từ \"English\" bỏ \"sh\" thành \"En-g-li\" được phiên âm là 英吉利 (pinyin: \"Yīng jí lì\", Hán-Việt: \"Anh Cát Lợi\"). Gọi tắt cho cả hai đều là 英國 (pinyin: \"Yīng guó\", Hán-Việt: \"Anh Quốc\"). Hiện tại người Trung Quốc sử dụng \"Anh Cách Lan\" làm tên cho quốc gia này, còn \"Anh Quốc\" làm tên cho Vương Quốc Liên Hiệp Anh và Bắc Ai-len. Và người Việt đã bỏ chữ \"Quốc\" và \"Cách Lan\"", "Tên gọi \"England\" xuất xứ từ từ \"Englaland\" trong tiếng Anh cổ, có nghĩa \"vùng đất của người Angle\". Người Angle là một trong những bộ tộc German định cư tại Anh trong Thời đầu Trung Cổ. Người Angle tới từ bán đảo Angeln tại khu vực Vịnh Kiel thuộc Biển Baltic. Theo \"Từ điển Oxford Anh\", lần đầu tiên từ \"England\" được dùng để chỉ vùng phía nam hòn đảo Great Britain là năm 897, và cách đánh vần hiện đại của nó bắt đầu từ năm 1538.", "Sự đề cập sớm nhất tới cái tên được chứng nhận diễn ra ở thế kỷ thứ nhất trong tác phẩm của Tacitus, \"Germania\", trong đó từ tiếng Latin \"Anglii\" đã được sử dụng. Từ nguyên của chính cái tên bộ tộc bị các nhà học giả tranh cãi; đã có đề xuất rằng nó xuất phát từ hình dạng của bán đảo Angeln, một hình \"có góc\". Làm thế nào và tại sao thuật ngữ xuất xứ từ cái tên của một bộ tộc không nổi bật so với các bộ tộc khác, như người Sachsen, lại được sử dụng để chỉ toàn bộ quốc gia và người dân của nó vẫn chưa được biết, nhưng dường như nó liên quan tới phong tục gọi người German tại Anh là \"Angli Saxones\" hay Anh - Sachsen..", "Một cái tên khác của nước Anh là Albion. Cái tên \"Albion\" ban đầu để chỉ toàn bộ hòn đảo Great Britain. Ghi chép đầu tiên về cái tên xuất hiện trong tác phẩm Corpus Aristotelicum của nhà triết học Aristotle của Hy Lạp cổ đại, một cách rõ ràng ở thế kỷ thứ IV trước Công Nguyên \"De Mundo\": \"Phía ngoài Các cột của Hercules là đại dương chảy quanh Trái Đất. Trong đó có hai hòn đảo rất lớn được gọi là Britannia; chúng là Albion và Ierne\". Từ \"Albion\" (Ἀλβίων) hay \"insula Albionum\" có hai khả năng nguồn gốc. Hoặc nó xuất phát từ từ tiếng Latin \"albus\" có nghĩa trắng, một sự đề cập tới các vách trắng Dover, là quang cảnh đầu tiên của Anh nhìn từ Lục địa châu Âu. Một nguồn gốc khá được cho là bởi cuốn sách cổ của thương gia \"Massaliote Periplus\", đề cập tới một \"hòn đảo của người \"Albiones\"\". \"Albion\" hiện được dùng thay cho Anh (England) theo một nghĩa thi vị hơn. Một cái tên lãng mạn khác của nước Anh là Loegria, liên quan tới \"Lloegr\" tiếng Wales, xuất xứ từ truyền thuyết trứ danh về vua Arthur.", "Lịch sử.", "Tiền sử và cổ đại.", "Bằng chứng sớm nhất được biết đến về việc loài người hiện diện tại khu vực nay là Anh thuộc về chủng \"Homo antecessor\", có niên đại khoảng 780.000 năm trước. Xương người nguyên thủy cổ nhất phát hiện được tại Anh có niên đại khoảng 500.000 năm trước. Người hiện đại được cho là cư trú tại khu vực vào giai đoạn đồ đá cũ muộn, song các khu định cư cố định chỉ hình thành trong vòng 6.000 năm qua. Sau kỷ băng hà cuối, chỉ còn lại các loài thú lớn như voi ma mút, bò rừng bison và tê giác lông mượt. Khoảng 11.000 năm trước, khi các phiến băng bắt đầu rút đi, con người lại cư trú trong khu vực; nghiên cứu di truyền gợi ý rằng họ đến từ phần phía bắc của bán đảo Iberia. Mực nước biển thấp hơn ngày nay và Anh nối liền với Ireland cùng lục địa Á-Âu. Đến khi mực nước biển dâng lên, Anh tách khỏi Ireland 10.000 năm trước và tách khỏi lục địa Á-Âu hai thiên niên kỷ sau đó.", "Văn hoá Beaker đến vào khoảng 2.500 TCN, mang đến các bình đựng đồ ăn và đồ uống làm từ đất sét, cũng như các bình được sử dụng để nấu chảy quặng đồng. Các công trình kỷ niệm đồ đá mới có quy mô lớn như Stonehenge và Avebury được xây dựng trong thời gian này. Thiếc và đồng là những khoáng sản phong phú trong khu vực, bằng cách nung chảy chúng với nhau cư dân thuộc văn hoá Beaker làm ra đồng điếu, và sau đó làm ra sắt từ quặng sắt. Luyện thép phát triển cho phép sản xuất ra cày tốt hơn, nông nghiệp tiến bộ, cũng như sản xuất vũ khí có tính hiệu quả hơn.", "Trong thời đại đồ sắt, văn hoá Celt đến Anh từ Trung Âu, văn hoá Celt lại bắt nguồn từ văn hoá Hallstatt và La Tène. Tiếng Britton là ngôn ngữ nói trong giai đoạn này. Xã hội mang tính bộ lạc, theo \"Geographia\" của Ptolemy thì có khoảng 20 bộ lạc trong khu vực. Giống như các khu vực khác nằm bên rìa La Mã, đảo Anh tham gia liên kết mậu dịch với La Mã trong thời gian dài. Julius Caesar của La Mã hai lần nỗ lực xâm chiếm Anh vào năm 55 TCN nhưng thất bại, ông lập ra một quốc vương phụ thuộc từ bộ lạc Trinovantes.", "Người La Mã xâm chiếm đảo Anh vào năm 43, sau đó họ chinh phục phần lớn hòn đảo và khu vực được hợp nhất vào Đế quốc La Mã với vị thế tỉnh Britannia. Bộ lạc bản địa nổi tiếng nhất vì kháng cự La Mã là Catuvellauni dưới quyền Caratacus. Sau đó, có một cuộc khởi nghĩa dưới quyền Nữ vương Boudica của bộ lạc Iceni, song bà tự sát sau thất bại trong trận Watling Street. Trong thời kỳ này, văn hoá Hy Lạp-La Mã thịnh hành khi du nhập luật La Mã, kiến trúc La Mã, cống dẫn nước, rãnh thoát nước, nhiều mặt hàng nông nghiệp và lụa. Trong thế kỷ III, Hoàng đế Septimius Severus mất tại Eboracum (nay là York), đây cũng là nơi Constantinus xưng đế sau đó.", "Tồn tại tranh luận về việc Cơ Đốc giáo du nhập lần đầu; điều này không muộn hơn thế kỷ IV và có lẽ là sớm hơn nhiều. Theo Bede, Giáo hoàng Eleutherius phái những người truyền giáo từ Roma theo thỉnh cầu của tù trưởng Lucius của Anh vào năm 180, nhằm giải quyết các bất đồng như giữa nghi thức phương Đông và phương Tây. Tồn tại các liên kết truyền thống đến Glastonbury thể hiện Cơ Đốc giáo du nhập thông qua Joseph của Arimathea, trong khi những người khác cho rằng thông qua Lucius. Đến năm 410, trong giai đoạn La Mã suy thoái, quyền cai trị của La Mã kết thúc, các đơn vị quân đội La Mã triệt thoái khỏi đảo nhằm bảo vệ các biên giới tại châu Âu lục địa và tham gia nội chiến.", "Trung Cổ.", "Đảo Anh để ngỏ trước các cuộc xâm chiếm của người ngoại giáo, các chiến binh hàng hải đến từ miền tây-bắc của châu Âu lục địa, chủ yếu là người Saxon, Angle, Jute, và Frisia, họ tập kích các vùng bờ biển và bắt đầu định cư, ban đầu là tại phần phía đông. Bước tiến của họ bị kiềm chế trong vài thập niên sau khi người Briton chiến thắng trong trận núi Badon, song sau đó lại tiếp tục và họ tràn qua các vùng đất thấp phì nhiêu trên đảo, thu hẹp khu vực do người Briton kiểm soát thành một nhóm các vùng đất tách rời riêng biệt, trên những vùng có địa hình gồ ghề tại phía tây vào cuối thế kỷ VI. Các văn bản đương đại mô tả về giai đoạn này cực kỳ hiếm, khiến nó bị mô tả là một Thời kỳ Tăm tối. Tính chất và mức độ tiến triển của quá trình người Anglo-Saxon định cư tại Anh do đó là đề tài có bất đồng lớn. Cơ Đốc giáo do La Mã chi phối nhìn chung là biến mất khỏi các lãnh thổ bị người Anglo-Saxon chinh phục, song được những người truyền giáo từ Roma đưa đến một lần nữa dưới quyền lãnh đạo của Augustine từ năm 597 trở đi.", "Trong giai đoạn định cư, khu vực do những người nhập cư German cai trị dường như bị phân mảnh thành nhiều lãnh thổ bộ lạc, song đến thế kỷ VII chúng tập hợp thành khoảng một chục vương quốc như Northumbria, Mercia, Wessex, East Anglia, Essex, Kent và Sussex. Trong các thế kỷ sau đó, quá trình thống nhất chính trị được tiếp tục. Trong thế kỷ VII, diễn ra một cuộc đấu tranh vì quyền bá chủ giữa Northumbria và Mercia, sang thế kỷ VIII thì Mercia chiếm ưu thế. Đầu thế kỷ IX, Wessex thay thế vị thế vương quốc quan trọng nhất của Mercia. Cũng trong thế kỷ IX, bộ lạc Dane cũng thuộc nhóm German leo thang tấn công với đỉnh điểm là chinh phục miền bắc và miền đông của Anh, lật đổ các vương quốc Northumbria, Mercia và East Anglia. Wessex dưới quyền Quốc vương Alfred là vương quốc duy nhất tại Anh còn tồn tại, và dưới thời những người kế vị của ông quốc gia này dần bành trướng sang các vương quốc nằm dưới luật của người Dane. Điều này dẫn đến thống nhất chính trị tại Anh, hoàn thành lần đầu tiên dưới thời Æthelstan vào năm 927 và được thiết lập dứt khoát sau các xung đột do Eadred tiến hành vào năm 953. Một làn sóng tấn công mới từ Scandinavia bắt đầu vào cuối thế kỷ X kết thúc khi Quốc vương Đan Mạch Sweyn Forkbeard chinh phục vương quốc thống nhất này vào năm 1013, con trai của ông là Cnut cũng đạt được thành tựu này vào năm 1016, biến Anh trở thành trung tâm của Đế quốc Biển Bắc đoản mệnh, bao gồm cả Đan Mạch và Na Uy. Tuy nhiên, triều đại bản địa phục hồi khi Edward Xưng tội đăng cơ vào năm 1042.", "Tranh chấp về quyền kế vị Edward khiến người Norman chinh phục Anh vào năm 1066, đội quân này dưới quyền lãnh đạo của Công tước William xứ Normandy. Người Norman có nguồn gốc từ Scandinavia và định cư tại Normandy (nay thuộc miền bắc Pháp) vào cuối thế kỷ IX và đầu thế kỷ X. Cuộc chinh phục này khiến giới tinh hoa Anh gần như bị tước hoàn toàn quyền chiếm hữu, thay thế họ là một tầng lớp quý tộc mới nói tiếng Pháp, phát âm của họ có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đến tiếng Anh.", "Sau đó, Nhà Plantagenet từ Anjou kế thừa vương vị Anh dưới thời Henry II, đưa Anh vào Đế quốc Angevin đang chớm nở gồm cả các thái ấp của gia tộc được thừa kế tại Pháp như Aquitaine. Gia tộc này cai trị Anh trong ba thế kỷ, một số quân chủ được chú ý là Richard I, Edward I, Edward III và Henry V. Trong giai đoạn này diễn ra một số biến đổi về mậu dịch và tư pháp, như hiến chương \"Magna Carta\" được sử dụng để hạn chế quyền lực của quân chủ và bảo hộ các đặc quyền của người tự do. Đan sĩ Công giáo phát triển mạnh, giúp sản sinh các triết gia, các trường đại học Oxford và Cambridge được thành lập và được quân chủ bảo trợ. Thân vương quốc Wales trở thành một thái ấp của Nhà Plantagenet vào thế kỷ XIII và Lãnh địa Ireland được Giáo hoàng trao cho quân chủ của Anh.", "Trong thế kỷ XIV, Nhà Plantagenet và Nhà Valois đều yêu sách là bên kế thừa hợp pháp của Nhà Capet cùng với vương vị Pháp; hai thế lực này xung đột trong Chiến tranh Trăm Năm. Dịch bệnh Cái chết Đen bắt đầu tấn công Anh bắt đầu vào năm 1348, kết cục là một nửa cư dân Anh thiệt mạng. Từ năm 1453 đến năm 1487, nội chiến diễn ra giữa hai nhánh của vương tộc Plantagenet là nhánh York và nhánh Lancaster, cuộc chiến này được gọi là Chiến tranh Hoa Hồng. Kết cục là nhánh York mất hoàn toàn vương vị về tay một gia tộc quý tộc Wales là Tudor, đây là một dòng họ liên hệ với nhánh Lancaster và do Henry Tudor đứng đầu, lực lượng của ông gồm các lính đánh thuê Wales và Breton, họ giành thắng lợi trong trận Bosworth Field và trong trận này Quốc vương Richard III của nhánh York bị giết.", "Sơ kỳ cận đại.", "Trong giai đoạn Tudor, Phục Hưng lan đến Anh thông qua các triều thần người Ý, họ giới thiệu lại tranh luận nghệ thuật, giáo dục và học thuật từ thời cổ đại. Anh bắt đầu phát triển các kỹ năng hải quân, và việc thám hiểm phía tây được tăng cường.", "Henry VIII đoạn tuyệt hiệp thông với Giáo hội Công giáo do các vấn đề liên quan đến việc ông ly hôn, theo các đạo luật vào năm 1534 ông trở thành thủ lĩnh quân chủ của Giáo hội Anh. Khác với phần lớn châu Âu Tin Lành, nguồn gốc phân chia tôn giáo tại Anh mang tính chính trị nhiều hơn là thần học. Ông cũng hợp nhất về pháp lý lãnh thổ Wales của tổ tiên vào Vương quốc Anh theo các đạo luật năm 1535–1542. Diễn ra xung đột tôn giáo nội bộ trong thời kỳ trị vì của các con gái Henry là Mary I và Elizabeth I. Mary I đưa Anh quay trở lại Công giáo La Mã còn Elizabeth I lại khẳng định mạnh mẽ quyền tối cao của Anh giáo.", "Nhằm cạnh tranh với Tây Ban Nha, Anh có thuộc địa đầu tiên tại châu Mỹ vào năm 1585 khi nhà thám hiểm Walter Raleigh lập thuộc địa Roanoke tại vùng đất nay là bang Virginia của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, thuộc địa này là một thất bại. Công ty Đông Ấn Anh cạnh tranh với người Hà Lan và người Pháp tại phương Đông. Năm 1588, trong thời kỳ Elizabeth I, một hạm đội Anh dưới quyền Francis Drake đánh bại một hạm đội Tây Ban Nha đến xâm chiếm. Cấu trúc chính trị trên đảo Anh thay đổi vào năm 1603 khi Quốc vương Scotland James VI kế thừa vương vị Anh với hiệu là James I, lập ra một liên minh cá nhân giữa hai vương quốc từng kình địch trong thời gian dài về lợi ích.", "Do mâu thuẫn về lập trường chính trị, tôn giáo và xã hội, Nội chiến Anh bùng phát giữa những người ủng hộ Quốc hội và những người ủng hộ Quốc vương Charles I. Đây là một phần đan xen của Chiến tranh Ba Vương quốc với quy mô rộng hơn khi bao gồm cả Scotland và Ireland. Phái Quốc hội giành chiến thắng, Charles I bị hành quyết và vương quốc bị thay thế bằng thịnh vượng chung. Thủ lĩnh của phái Quốc hội là Oliver Cromwell tự xưng là Bảo Hộ Công vào năm 1653; một giai đoạn thống trị cá nhân diễn ra sau đó. Sau khi Cromwell mất và con trai ông là Richard từ chức Bảo Hộ Công, Charles II được mời trở lại làm quân chủ vào năm 1660. Sau Cách mạng Vinh Quang năm 1688, Dự luật Quyền lợi 1689 xác định rằng Quốc vương và Quốc hội cùng cai trị, song thực quyền thuộc về Quốc hội. Theo các quy chế được đưa ra, pháp luật chỉ có thể do Quốc hội lập ra và Quốc vương không thể đình chỉ, Quốc vương cũng không thể áp thuế hoặc tổ chức một đội quân nếu không được Quốc hội phê chuẩn trước.", "Năm 1666, Luân Đôn xảy ra hoả hoạn lớn, thành phố bị tàn phá song được tái thiết một thời gian ngắn sau đó gồm nhiều toà nhà quan trọng do Christopher Wren thiết kế. Trong Quốc hội Anh, hai phái Tory và Whig xuất hiện. Phái Tory ban đầu ủng hộ Quốc vương James II theo Công giáo, song trong cách mạng năm 1688 một số người trong phái Tory cùng với phái Whig mời một thân vương người Hà Lan là William xứ Orange sang đánh bại James II và cuối cùng trở thành William III của Anh. Một số người Anh theo phong trào Jacobite và tiếp tục ủng hộ James II và các con trai của ông, đặc biệt là tại miền bắc. Sau khi các quốc hội của Anh và Scotland đồng thuận, hai quốc gia tham gia liên hiệp chính trị, lập ra Vương quốc Anh mới vào năm 1707. Nhằm dàn xếp liên hiệp, các thể chế như luật pháp và giáo hội quốc gia của hai bên vẫn tách biệt.", "Hậu kỳ cận đại và đương đại.", "Vương quốc Anh liên hiệp được thành lập, sản phẩm của Hội Hoàng gia và các sáng kiến khác của Anh kết hợp với Khai sáng Scotland để tạo nên các phát kiến trong khoa học và kỹ thuật. Anh phát triển cực lớn về mậu dịch hải ngoại với bảo hộ từ Hải quân Hoàng gia, mở đường để hình thành Đế quốc Anh. Trong nước, nó thúc đẩy cách mạng công nghiệp, là một giai đoạn biến đổi sâu sắc về kinh tế-xã hội và văn hoá tại Anh, kết quả là công nghiệp hoá nông nghiệp, sản xuất, kỹ thuật và khai mỏ, cũng như các hệ thống đường bộ, đường sắt và đường thủy mới và tiên phong nhằm thuận tiện để mở rộng phát triển. Kênh Bridgewater thuộc Tây Bắc Anh được khánh thành vào năm 1761, báo hiệu kỷ nguyên kênh đào tại Anh. Năm 1825, tuyến đường sắt hành khách dùng đầu máy kéo hơi nước cố định đầu tiên trên thế giới được mở cửa cho công chúng, đó là đường sắt Stockton và Darlington.", "Trong cách mạng công nghiệp, nhiều người lao động chuyển từ nông thôn đến các khu vực công nghiệp đô thị mới để làm việc trong các nhà máy, chẳng hạn như Manchester và Birmingham, hai thành phố này từng lần lượt được gán là \"thành phố kho hàng\" và \"công xưởng của thế giới\". Anh vẫn tương đối ổn định trong suốt Cách mạng Pháp; William Pitt Trẻ là thủ tướng của Anh trong giai đoạn trị vì của George III. Trong Các cuộc chiến tranh của Napoléon, Napoléon lập kế hoạch xâm chiếm Anh từ phía đông nam, Tuy nhiên, kế hoạch thất bại khi quân của Napoleón bị người Anh đánh bại trên biển dưới quyền Horatio Nelson và trên bộ dưới quyền Arthur Wellesley. Các cuộc chiến Napoléon khích lệ khái niệm về tính Anh Quốc và dân tộc Anh Quốc thống nhất, chia sẻ với người Scots và người Wales.", "Luân Đôn trở thành khu vực đô thị lớn nhất và đông dân nhất thế giới trong thời kỳ Victoria, và mậu dịch trong Đế quốc Anh cũng như địa vị của quân đội và hải quân Anh có được thanh thế. Kích động chính trị từ các phần tử cấp tiến như phong trào Hiến chương và phong trào phụ nữ yêu cầu quyền bầu cử thúc đẩy các cải cách tư pháp và phổ thông đầu phiếu. Biến đổi quyền lực tại Đông-Trung Âu dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ nhất; hàng trăm nghìn binh sĩ Anh thiệt mạng khi giao tranh bên phe Đồng Minh. Hai thập niên sau, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland lại ở bên phe Đồng Minh. Đến khi kết thúc Chiến tranh kỳ quặc, Winston Churchill trở thành thủ tướng thời chiến. Phát triển về công nghệ chiến tranh khiến nhiều thành thị bị tàn phá do Không quân Đức oanh tạc. Sau chiến tranh, Đế quốc Anh trải qua phi thực dân hoá nhanh chóng, đồng thời có các phát kiến nhanh chóng về kỹ thuật; ô tô trở thành phương tiện giao thông chủ yếu và phát triển của Frank Whittle về động cơ phản lực khiến di chuyển bằng hàng không phổ biến hơn. Mô hình cư trú thay đổi tại Anh do ô tô cá nhân, thiết lập Dịch vụ Y tế Quốc gia (NHS) vào năm 1948. NHS của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland cung cấp chăm sóc y tế công cộng miễn phí cho toàn bộ cư dân thường trú tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland tại điểm cần thiết, kinh phí lấy từ thuế nói chung. Tổng hợp, các thay đổi này thúc đẩy cải cách về chính quyền địa phương tại Anh vào giữa thế kỷ XX.", "Từ thế kỷ XX, có phong trào di dân đáng kể đến Anh, hầu hết là từ các phần còn lại của quần đảo Anh, song cũng từ các quốc gia trong Thịnh vượng chung mà đặc biệt là tiểu lục địa Ấn Độ. Kể từ thập niên 1970, có một bước chuyển đổi lớn khỏi lĩnh vực chế tạo và gia tăng tầm quan trọng vào ngành dịch vụ. Với tư cách là bộ phận của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, khu vực gia nhập sáng kiến thị trường chung mang tên Cộng đồng Kinh tế châu Âu, tiền thân của Liên minh châu Âu. Kể từ cuối thế kỷ XX, chính quyền Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland chuyển hướng sang phân quyền quản trị tại Scotland, Wales và Bắc Ireland. Anh và Wales tiếp tục là một khu vực quyền hạn pháp lý tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Phân quyền kích thích việc nhấn mạnh nhiều vào bản sắc và chủ nghĩa ái quốc đặc trưng Anh hơn. Không có chính phủ Anh được phân quyền, song một nỗ lực nhằm lập ra một hệ thống tương tự trên cơ sở phân vùng bị cử tri bác bỏ thông qua trưng cầu dân ý.", "Chính trị.", "Với vị thế là bộ phận của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, hệ thống chính trị cơ bản tại Anh là quân chủ lập hiến và hệ thống nghị viện. Không tồn tại chính phủ riêng cho Anh kể từ năm 1707, khi Anh và Scotland liên hiệp thành Vương quốc Anh mới. Trước khi liên hiệp, Anh do quân chủ và quốc hội cai trị. Hiện nay, Anh nằm dưới quyền cai quản trực tiếp từ Quốc hội Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, dù cho các quốc gia khác trong Vương quốc liên hiệp có các chính phủ được phân quyền. Trong Hạ nghị viện Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, trong tổng số 650 nghị viên có 532 nghị viên đại diện cho các khu vực bầu cử tại Anh. Trong tổng tuyển cử năm 2017, Đảng Bảo thủ giành được nhiều ghế nhất..", "Do Scotland, Wales và Bắc Ireland đều có cơ quan lập pháp riêng biệt và được phân quyền đối với các vấn đề địa phương, tồn tại tranh luận về cách thức cân bằng điều này tại Anh. Ban đầu có kế hoạch là các vùng của Anh sẽ được phân quyền, song sau khi cử tri Đông Bắc bác bỏ đề xuất này trong một cuộc trưng cầu dân ý, nó không được tiến hành. Một vấn đề lớn đó là câu hỏi West Lothian, theo đó các nghị viên từ Scotland và Wales có thể bỏ phiếu về pháp luật chỉ áp dụng cho Anh, trong khi các nghị viên từ Anh không có quyền tương đương đối với pháp luật về các vấn đề được phân quyền. Với bối cảnh Anh là quốc gia duy nhất trong Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland không miễn phí về điều trị ung thư, đơn thuốc, chăm sóc tại nhà cho người già và học phí đại học, khiến cho chủ nghĩa dân tộc Anh dần tăng lên.", "Hệ thống pháp luật Anh phát triển trong nhiều thế kỷ, là cơ sở của hệ thống tư pháp thông luật tồn tại trong hầu hết các quốc gia Thịnh vượng chung và Hoa Kỳ (trừ bang Louisiana). Mặc dù hiện là bộ phận của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, hệ thống tư pháp của Các toà án Anh và Wales vẫn tiếp tục với tư cách là hệ thống tư pháp độc lập với hệ thống tại Scotland. Bản chất tổng thể của luật Anh là nó hình thành bởi các thẩm phán trong các toà án, áp dụng cảm giác chung và kiến thức của họ về tiền lệ tư pháp đối với các sự việc. Đứng đầu hệ thống toà án là Các toà cấp cao của Anh và Wales, gồm có toà án phúc thẩm, toà án tư pháp cấp cao đối với các vụ án dân sự, và toà án hoàng gia đối với các vụ án hình sự. Toà án Tối cao Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland là toà án cao nhất đối với các vụ án hình sự và dân sự tại Anh và Wales. Toà án này hình thành vào năm 2009 sau sửa đổi hiến pháp, tiếp quản các chức năng tư pháp của Thượng nghị viện.", "Hành chính.", "Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.", "Phân vùng tại Anh gồm có bốn cấp, được kiểm soát thông qua nhiều kiểu thực thể hành chính, lập nên vì mục đích cai quản địa phương. Cấp chính quyền địa phương cao nhất là chín vùng của Anh: North East, North West, Yorkshire và Humber, East Midlands, West Midlands, East, South East, South West, và London. Chúng được lập ra vào năm 1994, được chính phủ Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland sử dụng để phân bổ một loạt các chính sách và chương trình địa phương, song không có các thể chế dân cử tại cấp này, ngoại trừ tại Luân Đôn, và các văn phòng chính quyền khu vực bị bãi bỏ vào năm 2011. Ranh giới các vùng vẫn được sử dụng để bầu các thành viên nghị viện châu Âu.", "Sau khi các quốc gia khác tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland được phân quyền, có kế hoạch tổ chức trưng cầu dân ý tại các vùng của Anh về các cơ quan lập pháp địa phương được phân quyền. Cử tri Luân Đôn chấp thuận vào năm 1998: Hội đồng Luân Đôn được hình thành hai năm sau. Tuy nhiên, các cuộc trưng cầu dân ý khác bị đình chỉ sau khi cử tri North East bác bỏ đề xuất phân quyền vào năm 2004. Các hội đồng khu vực ngoài Luân Đôn bị bãi bỏ vào năm 2010, và chức năng của chúng được chuyển giao cho các cơ quan phát triển khu vực tương ứng và một hệ thống mới gồm các ban lãnh đạo chính quyền địa phương.", "Dưới cấp vùng, Anh được chia thành 48 hạt nghi lễ. Chúng chủ yếu được sử dụng làm khung tham chiếu địa lý và dần được phát triển từ thời Trung Cổ, có một số hình thành vào năm 1974. Mỗi hạt nghi lễ có một Lord Lieutenant (thống giám) và High Sheriff (hạt trưởng); các chức vụ này đại diện cho quân chủ Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland tại địa phương. Ngoại trừ Đại Luân Đôn và quần đảo Scilly, Anh còn được chia thành 83 hạt đô thị và phi đô thị; chúng tương ứng với các khu vực được sử dụng cho mục đích chính quyền địa phương.", "Anh có sáu hạt đô thị tại các khu vực đô thị hoá cao nhất, chúng không có hội đồng hạt. Trong các khu vực này, nhà cầm quyền chủ yếu là các hội đồng khu phố. 27 hạt phi đô thị có hội đồng hạt, và được chia thành các huyện, mỗi huyện có một hội đồng huyện. Chúng thường nằm tại các khu vực có tính nông thôn cao hơn. Các hạt phi đô thị còn lại gồm một huyện duy nhất và thường tương ứng với các thị trấn lớn hoặc hạt thưa dân; chúng được gọi là nhà cầm quyền nhất thể. Đại Luân Đôn có mô hình chính quyền địa phương khác biệt, gồm 32 khu phố và Thành phố Luân Đôn Ở cấp thấp nhất, phần lớn Anh được chia thành các giáo khu dân sự có các hội đồng.", "Địa lý.", "Về mặt địa lý, Anh nằm tại miền trung và miền nam đảo Anh, chiếm hai phần ba diện tích của đảo, ngoài ra còn có các đảo ven bờ như đảo Wight và quần đảo Scilly. Anh có biên giới với hai quốc gia khác trong Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland: phía bắc giáp Scotland và phía tây giáp Wales. Anh là nơi gần lục địa châu Âu nhất tại đại lục Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Anh cách biệt Pháp qua eo biển Manche rộng 34 km, song hai quốc gia được liên kết thông qua đường hầm xuyên eo biển gần Folkestone. Anh cũng có đường bờ biển ven biển Ireland, biển Bắc và Đại Tây Dương.", "Các cảng Luân Đôn, Liverpool, và Newcastle lần lượt nằm trên các sông chịu ảnh hưởng của thủy triều là Thames, Mersey và Tyne. Severn là sông dài nhất chảy qua Anh, có tổng chiều dài là 350 km. Sông này chảy vào eo biển Bristol và được chú ý do nước triều có thể cao đến 2m. Tuy vậy, sông dài nhất chảy hoàn toàn trên lãnh thổ Anh là Thames với 346 km. Anh có nhiều hồ, lớn nhất trong số đó là Windermere thuộc khu Lake District.", "Dãy Pennines được mệnh danh là \"xương sống của Anh\", đây là dãy núi cổ nhất tại Anh và có nguồn gốc vào cuối thời Đại Cổ sinh cách nay khoảng 300 triệu năm trước. Cấu tạo địa chất của dãy này gồm có sa thạch, đá vôi, cũng như than đá và các loại khác. Tồn tại cảnh quan karst trong các khu vực canxit như một số nơi tại Yorkshire và Derbyshire. Cảnh quan Pennine là đất hoang vùng cao, bị chia cắt do các thung lũng phì nhiêu hình thành từ các sông trong vùng. Dãy núi có ba công viên quốc gia là Yorkshire Dales, Northumberland, và Peak District. Điểm cao nhất tại Anh là Scafell Pike cao 978 m tại Cumbria. Vùng đồi Cheviot trải dài trên biên giới Anh-Scotland.", "Các vùng đất thấp của Anh nằm về phía nam dãy Pennines, có các khu đồi gợn sóng xanh tươi như Cotswold, Chiltern, North Downs và South Downs, tại nơi gặp biển chúng hình thành các vách đá trắng như vách Dover. Bán đảo Tây Nam mang tính granit có các đồng hoang vùng cao như Dartmoor và Exmoor, và có khí hậu ôn hoà, chúng đều là các công viên quốc gia.", "Khí hậu.", "Anh có khí hậu đại dương ôn hoà, nhiệt độ không thấp hơn nhiều mức 0 °C vào mùa đông và không cao hơn nhiều mức 32 °C vào mùa hè. Thời tiết ẩm thấp tương đối thường xuyên và dễ thay đổi. Các tháng lạnh nhất là tháng 1 và 2, riêng vùng ven biển là tháng 2, còn tháng 7 thường là tháng ấm nhất. Các tháng có thời tiết êm dịu cho đến ấm là tháng 5-6 và 9-10.", "Các ảnh hưởng quan trọng đối với khí hậu Anh là việc quốc gia này nằm gần Đại Tây Dương, có vĩ độ cao và hơi ấm từ biển theo hải lưu Gulf Stream. Lượng mưa cao hơn tại miền tây, và nhiều nơi thuộc Lake District có lượng mưa lớn hơn các nơi khác trong nước. Từ khi thời tiết được quan trắc, nhiệt độ cao nhất theo báo cáo là 38,5 °C vào ngày 10 tháng 8 năm 2003 tại Brogdale thuộc Kent, trong khi nhiệt độ thấp nhất là -26,1 °C vào ngày 10 tháng 1 năm 1982 tại Edgmond, Shropshire.", "Các khu thành thị chính.", "Khu vực đô thị Đại Luân Đôn là khu vực đô thị lớn nhất tại Anh và là một trong các thành phố nhộn nhịp nhất thế giới. Luân Đôn là một thành phố toàn cầu và có dân số lớn hơn các quốc gia khác trong Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland ngoài Anh. Các khu vực đô thị khác có quy mô và ảnh hưởng đáng kể có xu hướng nằm tại miền bắc hay miền trung của Anh. 50 khu dân cư được cấp vị thế thành phố tại Anh, còn trên toàn Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland là 66.", "Nhiều thành phố tại Anh khá lớn, chẳng hạn như Birmingham, Sheffield, Manchester, Liverpool, Leeds, Newcastle, Bradford, Nottingham, song quy mô dân số không phải là điều kiện tiên quyết cho vị thế thành phố. Theo truyền thống, vị thế thành phố được trao cho các đô thị có nhà thờ chính toà của giáo phận, do đó tồn tại các thành phố nhỏ như Wells, Ely, Ripon, Truro và Chichester. Theo Văn phòng Thống kê Quốc gia Anh, 10 khu vực đô thị lớn nhất, phát triển liền kề là:", "Kinh tế.", "Kinh tế Anh nằm vào hàng lớn nhất thế giới, có GDP bình quân là 22.907 bảng Anh vào năm 2009. Anh thường được nhìn nhận là một nền kinh tế thị trường hỗn hợp, áp dụng nhiều nguyên tắc thị trường tự do, song duy trì hạ tầng phúc lợi xã hội tiến bộ. Thuế tại Anh khá cạnh tranh nếu so với phần lớn các quốc gia châu Âu khác, năm 2014 mức thuế cá nhân cơ bản là 20%.", "Kinh tế Anh lớn nhất trong kinh tế Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, Anh đứng đầu thế giới về các lĩnh vực hoá học và dược khoa cũng như trong các ngành công nghệ chủ chốt, đặc biệt là hàng không vũ trụ, công nghiệp vũ khí và chế tạo công nghiệp phần mềm. Sàn giao dịch chứng khoán Luân Đôn là sàn giao dịch chứng khoán chủ yếu của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và lớn nhất tại châu Âu, đây là trung tâm tài chính của Anh và 100/500 công ty lớn nhất châu Âu có trụ sở tại Luân Đôn. Luân Đôn là trung tâm tài chính lớn nhất tại châu Âu, và là trung tâm tài chính lớn thứ nhất thế giới theo chỉ số GFCI vào năm 2016.", "Ngân hàng Anh được thành lập vào năm 1694, là ngân hàng trung ương của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Ban đầu nó là một ngân hàng tư nhân phục vụ chính phủ Anh, song từ năm 1946 nó là một thể chế quốc hữu. Ngân hàng được độc quyền phát hành tiền tệ tại Anh và Wales, song không có quyền này tại Scotland hay Bắc Ireland. Chính phủ giao trách nhiệm cho Ủy ban Chính sách Tiền tệ của ngân hàng về quản lý chính sách tiền tệ của quốc gia và thiết lập mức lãi suất.", "Anh là một quốc gia công nghiệp hoá cao độ, song kể từ thập niên 1970 diễn ra suy thoái trong các ngành công nghiệp nặng và chế tạo truyền thống, gia tăng tập trung vào kinh tế định hướng dịch vụ. Du lịch trở thành một ngành công nghiệp quan trọng, thu hút hàng triệu du khách đến Anh mỗi năm. Xuất khẩu của Anh chủ yếu là dược phẩm, ô tô, dầu khai thác từ biển Bắc và Wytch Farm, động cơ máy bay và đồ uống có cồn. Hầu hết ngành công nghiệp hàng không vũ trụ trị giá 30 tỷ bảng của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland nằm tại Anh. Cơ hội thị trường toàn cầu của các nhà chế tạo hàng không vũ trụ Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland trong hai thập niên tới ước tính đạt 3,5 nghìn tỷ bảng. Nông nghiệp Anh thâm canh và được cơ giới hoá cao độ, sản xuất 60% nhu cầu thực phẩm với chỉ 2% lực lượng lao động. Hai phần ba sản lượng thuộc lĩnh vực chăn nuôi, còn lại thuộc về trồng trọt.", "Giao thông.", "Bộ Giao thông là cơ quan chính phủ chịu trách nhiệm giám sát giao thông tại Anh. Anh có nhiều xa lộ và nhiều tuyến đường trục khác như đường A1 Great North chạy xuyên miền đông của Anh từ Luân Đôn đến Newcastle và tiến đến biên giới với Scotland. Xa lộ dài nhất tại Anh là M6 kéo dài từ Rugby qua vùng North West đến biên giới với Scotland, tổng chiều dài là 373 km. Các tuyến đường chính khác là M1 từ Luân Đôn đến Leeds, M25 vòng quanh Luân Đôn, M60 vòng quanh Manchester, M4 từ London đến Nam Wales, M62 từ Liverpool qua Manchester đến East Yorkshire, và M5 từ Birmingham đến Bristol và South West.", "Giao thông xe buýt phổ biến khắp nước Anh, với các công ty lớn như National Express, Arriva và Go-Ahead Group. Xe buýt hai tầng đỏ tại Luân Đôn trở thành một biểu trưng của Anh. Anh có hai mạng lưới tàu điện ngầm: London Underground; và Tyne and Wear Metro tại Newcastle, Gateshead và Sunderland. Anh còn có một số mạng lưới xe điện, như tại Blackpool, Manchester, Sheffield và Midland, và hệ thống Tramlink tập trung tại Croydon thuộc Nam Luân Đôn.", "Anh là nơi có giao thông đường sắt đầu tiên trên thế giới, đường sắt chở khách bắt nguồn tại đây vào năm 1825. Phần lớn mạng lưới đường sắt dài 16.000 km của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland nằm tại Anh, bao phủ khá rộng, song một phần lớn các tuyến đường sắt bị đóng cửa trong nửa sau của thế kỷ XX. Có các kế hoạch mở lại các tuyến như Varsity nối Oxford và Cambridge. Các tuyến đường sắt tại Anh hầu hết có khổ tiêu chuẩn (đơn, đôi hoặc bốn đường ray) song cũng có một vài tuyến có khổ hẹp. Đường hầm eo biển Manche hoàn thành vào năm 1994 giúp liên kết đường sắt giữa Anh với Pháp và Bỉ.", "Anh có các liên kết hàng không nội địa và quốc tế trên phạm vi rộng. Sân bay lớn nhất là London Heathrow, đây là sân bay có số hành khách quốc tế đông nhất thế giới. Các sân bay lớn khác là Manchester, London Stansted, Luton và Birmingham. Anh có mạng lưới giao thông bằng phà với hành trình địa phương và quốc tế, như đến Ireland, Hà Lan và Bỉ. Có khoảng 7.100 km đường thủy có thể thông hành tại Anh, một nửa trong số đó thuộc quyền sở hữu của Canal and River Trust, tuy nhiên vận tải đường thủy rất hạn chế. Thames là tuyến đường thủy chính tại Anh, xuất nhập khẩu tập trung tại cảng Tilbury trên cửa sông Thames, đây là một trong ba cảng chính của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland.", "Y tế.", "Dịch vụ Y tế Quốc dân (NHS) là hệ thống chăm sóc sức khoẻ công cộng tại Anh, chịu trách nhiệm cung cấp đa số dịch vụ y tế trong nước. NHS bắt đầu vào ngày 5 tháng 7 năm 1948, có hiệu lực theo các điều khoản của Đạo luật Dịch vụ Y tế Quốc dân 1946. Nó dựa trên các phát hiện của Báo cáo Beveridge, người soạn báo cáo này là nhà kinh tế và cải cách xã hội William Beveridge. NHS phần lớn được tài trợ từ thuế nói chung, trong đó có chi trả Bảo hiểm Quốc dân, và nó cung cấp miễn phí hầu hết các dịch vụ tại điểm sử dụng, song tính phí đối với một số người khi kiểm tra mắt, chăm sóc nha khoa, kê đơn và các khía cạnh chăm sóc cá nhân.", "Cơ quan chính phủ chịu trách nhiệm về NHS là Bộ Y tế, và hầu hết chi tiêu của Bộ Y tế là dành cho NHS, với 98,6 tỷ bảng vào năm 2008–2009. Trong những năm gần đây, lĩnh vực tư nhân ngày càng được sử dụng nhiều để cung cấp các dịch vụ NHS bất chấp phản đối của các bác sĩ và công đoàn. Tuổi thọ dự tính trung bình của cư dân Anh là 77,5 năm đối với nam giới và 81,7 năm đối với nữ giới, đây là mức cao nhất trong bốn quốc gia của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland.", "Nhân khẩu.", "Theo điều tra năm 2011, Anh có 53 triệu cư dân, chiếm tới 84% tổng cư dân của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Nếu được xem là một đơn vị và so sánh với quốc tế, Anh có dân số lớn thứ tư trong Liên minh châu Âu và đông dân thứ 25 thế giới. Với mật độ dân số là 407 người/km², đây sẽ là quốc gia có mật độ dân số cao thứ nhì trong Liên minh châu Âu sau Malta.", "Một số bằng chứng di truyền học cho thấy 75-95% nguồn gốc theo dòng phụ hệ là từ những người định cư thời tiền sử có xuất thân từ bán đảo Iberia, cùng với 5% đóng góp của người Angle và Saxon, và một lượng đáng kể yếu tố Scandinavia (Viking). Tuy nhiên, có các nhà di truyền học khác cho rằng nguồn gốc Germanic ước tính lên đến một nửa. Theo thời gian, nhiều nền văn hoá có ảnh hưởng tới Anh: Tiền sử, Briton, La Mã, Anglo-Saxon, Viking (Bắc Germanic), Gael, cũng như chịu ảnh hưởng lớn từ người Norman. Tồn tại cộng đồng người gốc Anh tại nhiều nơi từng thuộc Đế quốc Anh; đặc biệt là Hoa Kỳ, Canada, Úc, Nam Phi và New Zealand. Kể từ cuối thập niên 1990, có nhiều người Anh di cư sang Tây Ban Nha.", "Năm 1086, khi \"Domesday Book\" được soạn, dân số Anh là hai triệu, khoảng 10% sống trong các khu vực đô thị. Đến năm 1801, dân số là 8,3 triệu, và đến năm 1901 thì tăng lên 30,5 triệu. Nhờ kinh tế thịnh vượng của vùng đông nam, Anh thu hút nhiều di dân kinh tế từ những phần khác của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Người Ireland nhập cư với số lượng đáng kể. Tỷ lệ cư dân gốc Âu là 87,50%, trong đó có người gốc Đức và gốc Ba Lan.", "Những dân tộc khác đến từ các cựu thuộc địa xa xôi của Anh từ thập niên 1950, trong đó 6% cư dân Anh có nguồn gốc gia đình tại tiểu lục địa Ấn Độ. 2,90% dân số là người da đen, họ đến từ châu Phi và Caribe, đặc biệt là các cựu thuộc địa của Anh. Người Hoa và người Anh gốc Hoa có số lượng đáng kể. Năm 2007, 22% học sinh tiểu học tại Anh đến từ các gia đình dân tộc thiểu số, và tỷ lệ này tăng lên 26,5% vào năm 2011. Khoảng một nửa gia tăng dân số giai đoạn 1991-2001 là do nhập cư. Tranh luận về nhập cư đáng chú ý về mặt chính trị; theo một khảo sát vào năm 2009 của Bộ Nội vụ Anh, 80% muốn giới hạn nó. Văn phòng Thống kê Quốc gia dự báo rằng dân số sẽ tăng thêm chín triệu từ năm 2014 đến năm 2039.", "Anh có một dân tộc thiểu số bản địa là người Cornwall, họ được chính phủ Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland công nhận theo Công ước khung về Bảo vệ các dân tộc thiểu số vào năm 2014.", "Ngôn ngữ.", "Tiếng Anh hiện được hàng trăm triệu người nói trên khắp thế giới, ngôn ngữ này bắt nguồn từ Anh và hiện là ngôn ngữ chính của 98% dân số tại đây. Đây là một ngôn ngữ Ấn-Âu thuộc nhánh Anh-Frisia của ngữ tộc German. Sau khi người Norman chinh phục Anh, tiếng Anh cổ bị thay thế và hạn chế trong tầng lớp xã hội thấp trong khi giới quý tộc dùng tiếng Pháp Norman và tiếng La Tinh.", "Đến thế kỷ XV, tiếng Anh quay trở lại trong toàn bộ các tầng lớp, song có nhiều cải biến; tiếng Anh trung đại chịu nhiều ảnh hưởng từ tiếng Pháp, cả về tự vựng và chính tả. Trong Phục hưng Anh, nhiều từ được tạo ra từ gốc La Tinh và Hy Lạp. Tiếng Anh hiện đại mở rộng truyền thống linh hoạt này, bằng cách tiếp nhận từ ngữ từ các ngôn ngữ khác. Nhờ một phần lớn vào Đế quốc Anh, tiếng Anh nay trở thành trở ngôn ngữ chung phi chính thức của thế giới.", "Học tập và giảng dạy tiếng Anh là một hoạt động kinh tế quan trọng. Không có luật về ngôn ngữ chính thức của Anh, song tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức được sử dụng trong công việc chính thức. Mặc dù có quy mô lãnh thổ tương đối nhỏ, song Anh có nhiều giọng vùng miền riêng biệt, và có thể không dễ dàng nghe hiểu những người có giọng nặng.", "Ngoài tiếng Anh, Anh còn có hai ngôn ngữ bản địa khác là tiếng Cornwall và tiếng Wales. Tiếng Cornwall không còn là ngôn ngữ cộng đồng vào thế kỷ XVIII song đang được khôi phục, và hiện được bảo vệ theo Hiến chương châu Âu về các ngôn ngữ thiểu số hoặc khu vực. 0,1% cư dân tại Cornwall nói tiếng Cornwall, và nó được giảng dạy có mức độ tại một vài trường tiểu học và trung học.", "Khi biên giới hiện nay giữa Wales và Anh được thiết lập theo các đạo luật vào năm 1535 và 1542, nhiều cộng đồng nói tiếng Wales sống tại lãnh thổ thuộc Anh. Tiếng Wales được nói tại Archenfield thuộc Herefordshire cho đến thế kỷ XIX. Tiếng Wales vẫn còn là bản ngữ trong một số nơi tại miền tây Shropshire ít nhất là cho đến giữa thế kỷ XX.", "Trong các trường công lập, học sinh được dạy một ngôn ngữ thứ hai, thường là tiếng Pháp, Đức hoặc Tây Ban Nha. Do nhập cư, nên theo báo cáo vào năm 2007 có khoảng 800.000 học sinh nói ngoại ngữ tại nhà, phổ biến nhất là tiếng Punjab và Urdu. Tuy nhiên, theo điều tra năm 2011, tiếng Ba Lan trở thành ngôn ngữ phổ biến thứ nhì tại Anh.", "Tôn giáo.", "Theo điều tra năm 2011, 59,4% dân số Anh xác định tôn giáo của họ là Cơ Đốc giáo, 24,7% trả lời rằng họ không theo tôn giáo nào, 5% xác định họ là người Hồi giáo, 3,7% dân số thuộc các tôn giáo khác và 7,2% không trả lời. Cơ Đốc giáo là tôn giáo được hành đạo phổ biến nhất tại Anh, truyền thống này có từ sơ kỳ Trung Cổ song Cơ Đốc giáo được đưa đến lần đầu trước đó từ lâu trong thời kỳ Gael và La Mã. Giáo hội Cơ Đốc giáo Celt dần tham gia hệ thống Giáo hội Công giáo La Mã sau khi Giáo hoàng Gregorius cử đoàn truyền giáo do St Augustine lãnh đạo đến Kent. Giáo hội Anh là là giáo hội chính thức của Anh, họ tuyệt giao với Roma trong thập niên 1530 khi Quốc vương Anh Henry VIII không thể huỷ hôn với người dì của quốc vương Tây Ban Nha, Catalina của Aragón. Giáo hội này tự nhìn nhận là thuộc Công giáo lẫn Tin Lành.", "Tồn tại các truyền thống Thượng giáo hội và Hạ giáo hội, và một số người Anh giáo tự nhìn nhận là Công giáo Anh theo phong trào Oxford. Quân chủ Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland là lãnh tụ tối cao của giáo hội, gồm khoảng 25 triệu thành viên được rửa tội (trong số đó đại đa số không đến nhà thờ thường lệ). Giáo hội Anh là bộ phận của Cộng đồng Anh giáo, có Tổng giám mục Canterbury giữ vai trò là thủ lĩnh tượng trưng trên toàn cầu. Nhiều nhà thờ chính toà và nhà thờ giáo xứ là các công trình lịch sử quan trọng đáng kể về mặt kiến trúc, như Tu viện Westminster, Nhà thờ lớn York, Nhà thờ chính toà Durham, và Nhà thờ chính toà Salisbury.", "Giáo phái Cơ Đốc lớn thứ nhì là đức tin La Tinh của Giáo hội Công giáo. Từ khi xuất hiện trở lại sau khi Công giáo tại Anh được giải phóng, giáo hội này được tổ chức trên cơ sở Anh và Wales với 4,5 triệu thành viên (hầu hết là người Anh). Đến nay có một giáo hoàng đến từ Anh đó là Adrian IV; trong khi các thánh Bede và Anselm được phong làm tiến sĩ Hội Thánh.", "Phong trào Giám Lý là giáo hội Cơ Đốc lớn thứ ba, đây là một dạng Tin Lành và được John Wesley phát triển từ Anh giáo. Giáo phái này phổ biến tại các đô thị dệt cũ như Lancashire và Yorkshire, và trong các mỏ thiếc tại Cornwall. Ngoài ra, còn có các nhóm thiểu số khác như Baptists, Quakers, Giáo đoàn, Nhất thể và Cứu Thế Quân.", "Thánh bảo trợ của Anh là Thánh George; gạch chéo tượng trưng cho ông được hiển thị trên quốc kỳ Anh, cũng như trong Quốc kỳ Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Ngoài ra còn có nhiều thánh người Anh và có liên hệ với Anh, chẳng hạn như Cuthbert, Edmund, Alban, Wilfrid, Aidan, Edward Xưng tội, John Fisher, Thomas More, Petroc, Piran, Margaret Clitherow và Thomas Becket. Do Thái giáo có lịch sử là một thiểu số nhỏ trên đảo từ năm 1070. Họ bị trục xuất khỏi Anh vào năm 1290 và chỉ được phép đến Anh vào năm 1656.", "Đặc biệt kể từ thập niên 1950, các tôn giáo từ những cựu thuộc địa của Anh phát triển với số lượng lớn do nhập cư. Hồi giáo là tôn giáo phổ biến nhất trong số đó, nay chiếm khoảng 5% dân số tại Anh. Ấn Độ giáo, Sikh giáo và Phật giáo đứng kế tiếp, tổng cộng chiếm 2,8%, chúng được đưa đến từ Nam Á và Đông Nam Á.", "Một thiểu số nhỏ dân chúng thi hành các dị giáo cổ. Tân dị giáo tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland có đại diện chính là Wicca, thuật phù thủy, Druidry và Heathenry. Theo điều tra năm 2011, có khoảng 53.172 người được xác định theo dị giáo tại Anh, trong đó có 11.026 người là tín đồ Wicca..", "Giáo dục.", "Bộ Giáo dục là cơ quan chính phủ chịu trách nhiệm về các vấn đề tác động đến cư dân tại Anh từ 19 tuổi trở xuống, trong đó có giáo dục. Khoảng 98% học sinh theo học tại các trường học do nhà nước điều hành hoặc tài trợ (2003). Trong đó, một thiểu số là các trường học tín ngưỡng (chủ yếu là các trường học Anh giáo hay Công giáo La Mã). Trẻ từ 3 đến 5 tuổi theo học tại nhà trẻ hoặc một đơn vị tiếp nhận EYFS của một trường tiểu học. Trẻ từ 5 đến 11 tuổi học tại trường tiểu học, và trẻ từ 11 đến 16 tuổi theo học tại trường trung học. Sau khi kết thúc giáo dục bắt buộc, học sinh tham gia kỳ thi GCSE. Sau đó học sinh có thể chọn tiếp tục học thêm hai năm giáo dục kế tục. Các cơ sở giáo dục kế tục này thường là bộ phận của một điểm trường trung học. Các kỳ thi A-level có lượng lớn học sinh giáo dục kế tục tham gia, và thường là cơ sở để xin học đại học.", "Mặc dù hầu hết trường trung học tại Anh là trường phổ thông, song một số khu vực có các trường ngữ pháp được tuyển chọn đầu vào, học sinh muốn nhập học phải qua kỳ thi 11-plus. Khoảng 7,2% trẻ em Anh theo học tại các trường tư thục, tài chính của các trường này đến từ các nguồn tư nhân. Tiêu chuẩn trong các trường công chịu sự giám sát của Văn phòng Tiêu chuẩn Giáo dục, và trong các trường tư là của Ban Thanh tra Trường học Độc lập.", "Học sinh theo học đại học từ tuổi 18, tại đó họ học để lấy học vị. Anh có trên 90 đại học, trong đó chỉ có một trường tư thục và còn lại là trường công lập. Bộ Kinh doanh, Sáng tạo và Kỹ năng là cơ quan chính phủ chịu trách nhiệm về giáo dục bậc đại học tại Anh. Sinh viên thường được quyền vay tiền để trang trải chi phí về học phí và sinh hoạt. Bằng đầu tiên cấp cho sinh viên là bằng cử nhân, thường là mất ba năm để hoàn thành, sinh viên sau đó có thể tiếp tục lấy bằng sau đại học, và thường là một năm, còn nếu muốn lấy bằng tiến sĩ thì sẽ mất từ ba năm trở lên.", "Anh có một số đại học đứng vào hàng đầu thế giới; Đại học Cambridge, Học viện Đế quốc Luân Đôn, Đại học Oxford, Học viện Đại học Luân Đôn và Đại học King Luân Đôn đều nằm trong top 30 toàn cầu của \"Bảng xếp hạng Đại học Thế giới QS\" 2018. Trường Kinh tế Luân Đôn được mô tả là thể chế khoa học xã hội hàng đầu thế giới về cả giảng dạy và nghiên cứu. Trường Kinh doanh Luân Đôn được đánh giá là một trong các trường kinh doanh hàng đầu thế giới và trong năm 2010 chương trình MBA của họ được xếp hạng là tốt nhất thế giới theo \"Financial Times\". Các học vị tại Anh thường được chia thành các hạng: hạng nhất (1st), hạng nhì cao (2:1), hạng nhì thấp (2:2), hạng ba (3rd), và không phân loại.", "Khoa học và kỹ thuật.", "Các nhân vật người Anh nổi bật trong lĩnh vực khoa học và toán học gồm có Isaac Newton, Michael Faraday, Charles Darwin, Robert Hooke, James Prescott Joule, John Dalton, Joseph Priestley, Lord Rayleigh, J. J. Thomson, James Chadwick, Charles Babbage, George Boole, Alan Turing, Tim Berners-Lee, Paul Dirac, Stephen Hawking, Peter Higgs, Roger Penrose, John Horton Conway, Thomas Bayes, Arthur Cayley, G. H. Hardy, Oliver Heaviside, Andrew Wiles, Francis Crick, Joseph Lister, Christopher Wren và Richard Dawkins. Một số chuyên gia cho rằng khái niệm sớm nhất về một hệ thống mét là do John Wilkins phát minh vào năm 1668, ông là tổng thư ký đầu tiên của Hội Hoàng gia.", "Anh là nơi bắt đầu cách mạng công nghiệp, có nhiều nhà phát minh quan trọng của thế giới vào cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX. Các kỹ sư Anh nổi tiếng phải kể đến Isambard Kingdom Brunel, ông được biết đến nhiều nhất với việc lập ra Đường sắt Great Western, một loạt tàu hơi nước nổi tiếng, và nhiều cầu quan trọng, do đó cách mạng hoá giao thông công cộng và kỹ thuật hiện đại. Động cơ hơi nước của Thomas Newcomen sinh ra cách mạng công nghiệp. Cha đẻ của đường sắt là George Stephenson xây dựng tuyến đường sắt liên đô thị công cộng đầu tiên trên thế giới, đó là Đường sắt Liverpool và Manchester khánh thành năm 1830. Với vai trò của mình trong tiếp thị và sản xuất động cơ hơi nước, phát minh đúc tiền hiện đại, Matthew Boulton được xem là một trong các doanh nhân có ảnh hưởng nhất trong lịch sử. Vắc xin đậu mùa của Edward Jenner được cho là \"cứu được nhiều sinh mạng ... hơn số bị mất trong toàn bộ các cuộc chiến của nhân loại từ khi có lịch sử thành văn.\"", "Phát minh và khám phá của người Anh còn có động cơ phản lực, máy xe sợi công nghiệp đầu tiên, máy tính đầu tiên và máy tính hiện đại đầu tiên, World Wide Web cùng với HTML, truyền máu người thành công đầu tiên, máy hút bụi cơ giới hoá, máy cắt cỏ, dây thắt an toàn, tàu đệm khí, động cơ điện, động cơ hơi nước, và các thuyết như thuyết Darwin về tiến hoá và thuyết nguyên tử . Newton phát triển các khái niệm về vạn vật hấp dẫn, cơ học Newton, và vi tích phân, và họ của Robert Hooke được đặt cho luật hồi phục. Các phát minh khác gồm có đường ray sắt, siphông nhiệt, đường nhựa, dây chun, bẫy chuột, mắt mèo để đánh dấu đường, đồng phát triển về bóng đèn, đầu máy xe lửa hơi nước, máy gieo hạt hiện đại và nhiều kỹ thuật chính xác hiện đại.", "Văn hoá.", "Kiến trúc.", "Nhiều công trình kỷ niệm cổ đại làm bằng phiến đá dài được dựng vào thời kỳ tiền sử, trong số đó nổi tiếng nhất là Stonehenge, Devil's Arrows, Rudston Monolith và Castlerigg. Đến khi kiến trúc La Mã cổ đại du nhập, có bước phát triển về vương cung thánh đường, tổ hợp nhà tắm, khán đài hình tròn, khải hoàn môn, biệt thự, đền thờ La Mã, đường La Mã, công sự La Mã, hàng rào cột và cống dẫn nước. Người La Mã thành lập các thành thị đầu tiên như Luân Đôn, Bath, York, Chester và St Albans. Minh hoạ có lẽ nổi tiếng nhất là tường Hadrianus kéo dài qua miền bắc của Anh. Một di tích được bảo tồn tốt khác là các nhà tắm La Mã tại Bath, Somerset.", "Các toà nhà thế tục thuộc kiến trúc sơ kỳ Trung Cổ được xây dựng đơn giản, chủ yếu sử dụng gỗ cùng với mái tranh. Kiến trúc tôn giáo có thay đổi từ tổng hợp đan sĩ Ireland-German, đến vương cung thánh đường sơ kỳ Cơ Đốc và kiến trúc mang đặc trưng là dải trụ bổ tường, dãy nhịp cuốn trống, trục hàng lan can, và cửa sổ có đỉnh tam giác. Sau khi người Norman chinh phục Anh vào năm 1066, nhiều thành được dựng lên để các lãnh chúa có thể giữ vững quyền lực của họ và tại phía bắc là để phòng vệ trước các cuộc xâm chiếm. Một số thành nổi tiếng từ thời Trung Cổ là Tháp Luân Đôn, Lâu đài Warwick, Lâu đài Durham và Lâu đài Windsor.", "Trong suốt thời kỳ Plantagenet, kiến trúc Gothic Anh trở nên hưng thịnh, các nhà thờ chính toà trung cổ như Nhà thờ chính tòa Canterbury, Tu viện Westminster và Nhà thờ lớn York là các ví dụ điển hình. Phát triển trên cơ sở Norman còn có các thành, cung điện, nhà lớn, đại học, và nhà thờ giáo xứ. Kiến trúc trung đại hoàn thiện với phong cách Tudor thế kỷ XVI; vòm Tudor có bốn tâm là một đặc điểm xác định giống như các ngôi nhà phên trát đất trong nước. Do phong trào Phục Hưng, một dạng kiến trúc lặp lại thời kỳ cổ điển, tổng hợp với Cơ Đốc giáo là phong cách Baroque Anh xuất hiện, kiến trúc sư Christopher Wren đặc biệt nổi tiếng với phong cách này.", "Kiến trúc George tiếp nối theo một phong cách tinh tế hơn, gợi lên một dạng Palladio đơn giản; Royal Crescent tại Bath là một trong các ví dụ tốt nhất về phong cách này. Chủ nghĩa lãng mạn xuất hiện trong giai đoạn Victoria, kéo theo khởi đầu một cuộc Phục hưng Gothic, cũng vào khoảng thời gian này cách mạng công nghiệp mở đường cho các toà nhà như Cung điện Thủy tinh. Kể từ thập niên 1930, nhiều dạng kiến trúc hiện đại xuất hiện song việc tiếp nhận thường có tranh luận, dù các phong trào kháng cự theo truyền thống tiếp tục được ủng hộ tại những nơi có ảnh hưởng.", "Văn học dân gian.", "Văn học dân gian Anh phát triển qua nhiều thế kỷ. Một số nhân vật và câu chuyện hiện diện trên khắp nước Anh, song hầu hết thuộc về các khu vực cụ thể. Các nhân vật văn học dân gian thường gồm có tiên, người khổng lồ, yêu tinh, ông ba bị, quỷ khổng lồ, người lùn. Nhiều truyền thuyết và phong tục dân gian được cho là từ thời cổ đại chẳng hạn các truyện ngắn có Offa thiên thần và Wayland thợ rèn, song những thứ khác xuất hiện sau khi người Norman xâm chiếm; như Robin Hood cùng đám người vui vẻ của ông và các trận chiến của họ với Sheriff của Nottingham.", "Trong Trung kỳ Trung Cổ, các truyện ngắn bắt nguồn từ truyền thống Briton bước vào văn học dân gian Anh—truyền thuyết Arthur. Chúng bắt nguồn từ các nguồn Anh-Norman, Wales và Pháp, mô tả Vua Arthur, Camelot, Excalibur, Merlin và Kị sĩ Bàn Tròn như Lancelot. Các câu chuyện này được thu thập tập trung nhất trong \"Historia Regum Britanniae\" (\"lịch sử các quốc vương Anh\") của Geoffrey xứ Monmouth. Nhân vật xuất hiện sớm khác trong truyền thuyết của Anh là Coel Hen, có thể dựa trên một nhân vật có thực trên đảo Anh thời hậu La Mã. Nhiều truyện ngắn và giả lịch sử tạo thành bộ phận của Matter of Britain, một tập hợp văn học dân gian Anh Quốc được chia sẻ.", "Một số tác phẩm văn học dân gian dựa trên con người lịch sử thực tế hoặc nửa thực tế, câu chuyện về họ được truyền qua nhiều thế kỷ; Phu nhân Godiva được kể là khoả thân cưỡi ngựa qua Coventry, Hereward Tỉnh giấc là một nhân vật anh hùng người Anh kháng cự người Norman xâm chiếm, Herne Thợ săn là một hồn ma cưỡi ngựa có liên hệ với Rừng Windsor và Công viên Great Park và Mẹ Shipton là nguyên mẫu phù thủy. Ngày 5 tháng 11 người dân đốt lửa, bắn pháo hoa và ăn táo bọc bơ để tưởng nhớ việc đẩy lui âm mưu thuốc súng mà trung tâm là Guy Fawkes. Những tên cướp nghĩa hiệp như Dick Turpin là một nhân vật thường xuyên, trong khi Blackbeard là một nguyên mẫu cướp biển. Tồn tại nhiều hoạt động dân gian quốc gia và khu vực đến ngày nay như vũ điệu Morris, vũ điệu Maypole, kiếm Rapper tại Đông Bắc, vũ điệu Long Sword tại Yorkshire, kịch câm dân gian, tranh cướp lọ tại Leicestershire, và tranh pho mát lăn dốc tại Cooper's Hill. Không có trang phục dân tộc chính thức, song một vài dạng tồn tại từ lâu như Pearly Kings and Queens có liên hệ với tầng lớp lao động tại Luân Đôn, vệ binh của quốc vương, trang phục Morris và người canh tháp Luân Đôn.", "Ẩm thực.", "Kể từ thời kỳ cận đại, ẩm thực Anh có đặc điểm truyền thống là tính đơn giản về cách tiếp cận, và dựa trên sản phẩm tự nhiên chất lượng cao. Trong thời kỳ Trung Cổ và qua thời kỳ Phục hưng, ẩm thực Anh giành được danh tiếng xuất sắc, song quá trình suy thoái bắt đầu trong cách mạng công nghiệp khi cư dân rời xa đồng ruộng và đô thị hoá gia tăng. Tuy nhiên, ẩm thực Anh gần đây trải qua một cuộc hồi sinh, được các nhà phê bình ẩm thực công nhận và có một số nhà hàng nằm vào hàng tốt nhất thế giới theo đánh giá của tạp chí \"Restaurant\". Một cuốn sách thời kỳ đầu về cách thức chế biến của Anh là \"Forme of Cury\" từ triều đình của Richard II.", "Một món ăn truyền thống của Anh là Sunday roast (thịt quay chủ nhật), thường dùng thịt bò, thịt cừu, thịt gà hay thịt lợn ăn kèm rau các loại, pudding Yorkshire và nước sốt. Các món nổi tiếng khác gồm có fish and chips (cá tẩm bột và khoai tây chiên), bữa sáng Anh đầy đủ (thường gồm thịt muối, xúc xích, cà chua nướng, bánh mì khô, pudding đen, đậu hầm, nấm và trứng). Nhiều loại bánh nhân thịt được tiêu thụ như steak and kidney pie (bánh nhân thịt nướng và cật), steak and ale pie (bánh nhân thịt nướng và nước sốt), cottage pie (bánh nhân thịt bò/cừu băm), pork pie (bánh nhân thịt lợn) và Cornish Pasty (bánh ngọt nướng Cornwall).", "Xúc xích là món phổ biến, thường dùng trong món bangers and mash (xúc xích và khoai nghiền) hoặc toad in the hole (xúc xích trong khay pudding Yorkshire). Thịt hầm Lancashire là một món thịt hầm nổi tiếng tại tây bắc. Một số loại pho mát phổ biến là Cheddar, Red Leicester và Wensleydale cùng với Blue Stilton. Nhiều món ăn, cà ri lai tạo Anh-Ấn được tạo ra như gà tikka masala và balti. Các món tráng miệng truyền thống của Anh gồm có bánh táo cùng các loại bánh hoa quả khác; spotted dick (pudding nho khô) – đều thường được dùng với sữa trứng; và gần đây hơn là sticky toffee pudding (một loại bánh xốp mềm). Các loại bánh ngọt gồm có bánh nướng ngọt (có hoặc không có quả khô) dùng kèm với mứt và/hoặc kem, bánh mì nhân quả khô, bánh ngọt Eccles và bánh ngọt nhân quả khô và gia vị cùng nhiều loại bánh quy ngọt hoặc có gia vị. Trà là một loại đồ uống phổ biến, nó gia tăng phổ biến tại Anh nhờ Vương hậu Catherine, còn các loại đồ uống có cồn được tiêu thụ thường xuyên là rượu vang, rượu táo, và các loại bia Anh như bia đắng, bia nhẹ, bia nâu nặng, bia nâu.", "Nghệ thuật thị giác.", "Các bức hoạ trên đá và hang động thời tiền sử là ví dụ sớm nhất được biết đến về nghệ thuật thị giác tại Anh, nổi tiếng nhất là tại North Yorkshire, Northumberland và Cumbria, song cũng có ở xa hơn về phía nam như tại Creswell Crags. Văn hoá La Mã truyền bá đến Anh vào thế kỷ I, nhiều hình thức nghệ thuật sử dụng tượng, tượng bán thân, thủy tinh, và đồ khảm trở thành quy tắc tiêu chuẩn. Tồn tại nhiều đồ tạo tác cho đến ngày nay, như tại Lullingstone và Aldborough. Trong sơ kỳ Trung Cổ, phong cách ưa chuộng thánh giá và đồ ngà điêu khắc, tranh bản thảo, trang sức bằng vàng và tráng men, biểu thị yêu thích các thiết kế phức tạp, đan xen như trong kho chôn giấu Staffordshire phát hiện vào năm 2009. Một số trong đó pha trộn các phong cách Gael và Anh, như Cẩm nang Lindisfarne và Sách thánh ca Vespasian. Nghệ thuật Gothic sau đó được phổ biến tại Winchester và Canterbury, các hiện vật còn lại như trong Sách cầu kinh St. Æthelwold và Sách thánh ca Luttrell.", "Thời kỳ Tudor có các nghệ sĩ nổi tiếng của triều đình, tranh chân dung duy trì là bộ phận vĩnh viễn của nghệ thuật Anh, chúng trở nên nổi tiếng nhờ công một người Đức là Hans Holbein, và các nghệ sĩ bản địa như Nicholas Hilliard. Dưới thời dòng họ Stuart, các nghệ sĩ châu Âu lục địa có ảnh hưởng đến Anh, đặc biệt là người Flemish (nay là vùng Bỉ nói tiếng Hà Lan), các nghệ sĩ đại diện cho giai đoạn này gồm Anthony van Dyck, Peter Lely, Godfrey Kneller và William Dobson. Thế kỷ XVIII là giai đoạn quan trọng khi Viện hàn lâm Hoàng gia Anh được thành lập, một chủ nghĩa kinh điển dựa trên Phục Hưng toàn thịnh thịnh hành—Thomas Gainsborough và Joshua Reynolds trở thành hai nghệ sĩ quý báu nhất của Anh.", "Trường phái Norwich tiếp tục truyền thống cảnh quan, trong khi Anh em tiền Raphael có phong cách sâu sắc và chi tiết đã phục hồi phong cách sơ kỳ Phục hưng, họ gồm có các thủ lĩnh là Holman Hunt, Dante Gabriel Rossetti và John Everett Millais. Nghệ sĩ nổi bật trong thế kỷ XX là Henry Moore, ông được đánh giá là tiếng nói của điêu khắc Anh Quốc, và của chủ nghĩa hiện đại Anh Quốc nói chung. Các họa sĩ đương đại gồm có Lucian Freud với tác phẩm \"Benefits Supervisor Sleeping\" vào năm 2008 lập kỷ lục thế giới về mức giá một bức tranh của một họa sĩ còn sống.", "Văn học, thi ca và triết học.", "Các tác gia thời kỳ đầu như Bede và Alcuin viết bằng tiếng La Tinh. Giai đoạn văn học tiếng Anh cổ có sử thi \"Beowulf\" và văn xuôi thế tục là \"Biên niên sử Anglo-Saxon\", cùng với các tác phẩm Cơ Đốc giáo như \"Judith\", \"Hymn\" của Cædmon và các tiểu sử vị thánh. Sau khi người Norman chinh phục Anh, tiếng La Tinh tiếp tục trong các tầng lớp có giáo dục, cũng như văn học Anh-Norman.", "Văn học tiếng Anh trung đại xuất hiện cùng với Geoffrey Chaucer, tác giả của \"The Canterbury Tales\", cùng với Gower, Pearl Poet và Langland. William xứ Ockham và Roger Bacon đều thuộc Dòng Francis, họ là các triết gia lớn vào thời Trung Cổ. Julian xứ Norwich viết sách \"Revelations of Divine Love\", ông là một nhà thần bí Cơ Đốc giáo nổi bật. Trong văn học Phục hưng Anh, xuất hiện phong cách tiếng Anh cận đại. William Shakespeare có các tác phẩm \"Hamlet\", \"Romeo và Juliet\", \"Macbeth\", và \"A Midsummer Night's Dream\", ông là một trong các tác gia cừ khôi nhất của văn học Anh.", "Christopher Marlowe, Edmund Spenser, Philip Sydney, Thomas Kyd, John Donne, và Ben Jonson là các tác gia có thanh thế khác trong thời kỳ Elizabeth. Francis Bacon và Thomas Hobbes viết về chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa duy vật, bao gồm cả phương pháp khoa học và khế ước xã hội. Filmer viết về quyền thần thánh của quốc vương. Marvell là một nhà thơ nổi tiếng thời Thịnh vượng chung, còn John Milton là tác giả của \"Thiên đường đã mất\" vào thời kỳ khôi phục chế độ quân chủ.", "Một số triết gia nổi bật nhất trong thời kỳ Khai sáng là John Locke, Thomas Paine, Samuel Johnson và Jeremy Bentham. Các phần tử cấp tiến hơn sau đó bị Edmund Burke chống đối, ông được nhận định là người sáng lập chủ nghĩa bảo thủ. Thi nhân Alexander Pope cùng thơ trào phúng của ông được đánh giá cao. Anh giữ vai trò quan trọng trong chủ nghĩa lãng mạn, Samuel Taylor Coleridge, Lord Byron, John Keats, Mary Shelley, Percy Bysshe Shelley, William Blake và William Wordsworth là các nhân vật chủ yếu.", "Đứng trước cách mạng công nghiệp, các nhà văn thôn dã tìm đường đi giữa tự do và truyền thống; William Cobbett, G. K. Chesterton và Hilaire Belloc là những người diễn giải chính, trong khi người sáng lập chủ nghĩa xã hội phường hội là Arthur Penty và người tán thành phong trào hợp tác là G. D. H. Cole có liên hệ phần nào. Chủ nghĩa tiếp tục thông qua John Stuart Mill và Bertrand Russell, còn Bernard Williams tham gia vào phân tích. Các tác gia quanh thời kỳ Victoria gồm Charles Dickens, chị em nhà Brontë, Jane Austen, George Eliot, Rudyard Kipling, Thomas Hardy, H. G. Wells và Lewis Carroll. Sau đó, Anh tiếp tục có các tiểu thuyết gia như George Orwell, D. H. Lawrence, Virginia Woolf, C. S. Lewis, Enid Blyton, Aldous Huxley, Agatha Christie, Terry Pratchett, J. R. R. Tolkien và J. K. Rowling.", "Nghệ thuật trình diễn.", "Âm nhạc dân gian truyền thống của Anh có từ nhiều thế kỷ và đóng góp cho một số thể loại nổi tiếng, chủ yếu là hò kéo thuyền, nhảy điệu jig, nhảy điệu thủy thủ và nhạc dance. Nó có các biến thể riêng biệt và khác biệt khu vực. Các khúc ballad về Robin Hood do Wynkyn de Worde in ra từ thế kỷ XVI là một hiện vật quan trọng, cũng như các bộ sưu tập \"The Dancing Master\" của John Playford và \"Roxburghe Ballads\" của Robert Harley. Một số bài hát nổi tiếng nhất là \"Greensleeves\", \"Pastime with Good Company\", \"Maggie May\" và \"Spanish Ladies\". Nhiều bài hát cho trẻ em có nguồn gốc từ Anh như \"Twinkle Twinkle Little Star\", \"Roses are red\", \"Jack and Jill\", \"London Bridge Is Falling Down, The Grand Old Duke of York, Hey Diddle Diddle\" và \"Humpty Dumpty\". Các bài hát mừng Giáng Sinh truyền thống của Anh gồm có \"We Wish You a Merry Christmas\", \"The First Noel\" và \"God Rest You Merry, Gentlemen\".", "Các nhà soạn nhạc thời kỳ đầu của Anh về âm nhạc cổ điển gồm có các nghệ sĩ Phục hưng Thomas Tallis và William Byrd, tiếp theo là Henry Purcell thuộc giai đoạn Baroque. George Frideric Handel vốn là người Đức song đã nhập tịch Anh và dành hầu hết cuộc đời sáng tác của mình tại Luân Đôn, ông sáng tác ra các tác phẩm nổi tiếng nhất của âm nhạc cổ điển: \"Messiah\", \"Water Music\" và \"Music for the Royal Fireworks\". Một trong bốn bản thánh ca đăng cơ của ông là \"Zadok the Priest\" được sáng tác cho lễ đăng cơ của George II, sau đó được trình diễn tại mọi lễ đăng cơ của quân chủ Anh. Diễn ra một cuộc phục hưng về thành tựu của các nhà soạn nhạc Anh trong thế kỷ XX, dẫn đầu là Edward Elgar, Benjamin Britten, Frederick Delius, Gustav Holst, Ralph Vaughan Williams cùng những người khác. Các nhà soạn nhạc hiện đại đến từ Anh gồm có Michael Nyman nổi tiếng với \"The Piano\", và Andrew Lloyd Webber có nhạc thành công vang dội trong rạp West End và toàn cầu.", "Trong lĩnh vực âm nhạc đại chúng, nhiều ban nhạc và nghệ sĩ đơn của Anh được đánh giá là có ảnh hưởng nhất và bán chạy nhất mọi thời đại. The Beatles, Led Zeppelin, Pink Floyd, Elton John, Queen, Rod Stewart và The Rolling Stones nằm trong số các nghệ sĩ bán được nhiều đĩa ghi âm nhất trên thế giới. Nhiều thể loại có nguồn gốc tại Anh, như British invasion, progressive rock, hard rock, Mod, glam rock, heavy metal, Britpop, indie rock, gothic rock, shoegazing, acid house, garage, trip hop, drum and bass và dubstep.", "Các lễ hội âm nhạc ngoài trời quy mô lớn trong mùa hè và mùa thu được tổ chức nhiều, chẳng hạn như Glastonbury, V Festival, và Reading and Leeds Festivals. Nhà hát opera nổi tiếng nhất tại Anh là Nhà hát opera Hoàng gia tại Covent Garden. The Proms là một mùa các buổi hoà nhạc cổ điển dàn nhạc giao hưởng, được tổ chức tại Royal Albert Hall thuộc Luân Đôn, đây là một sự kiện văn hoá chính mỗi năm tại Anh. The Royal Ballet là một trong các công ty ba-lê nổi tiếng nhất thế giới, danh tiếng của họ dựa trên hai nhân vật nổi bật của vũ đạo thế kỷ XX là diễn viên Margot Fonteyn và biên đạo Frederick Ashton.", "Điện ảnh.", "Anh có ảnh hưởng đáng kể đến lịch sử điện ảnh, sản sinh một số diễn viên, đạo diễn và phim ảnh vĩ đại nhất, trong đó có Alfred Hitchcock, Charlie Chaplin, David Lean, Laurence Olivier, Vivien Leigh, John Gielgud, Peter Sellers, Julie Andrews, Michael Caine, Gary Oldman, Alan Rickman, Helen Mirren, Kate Winslet và Daniel Day-Lewis. Hitchcock và Lean nằm trong số các nhà làm phim được đánh giá cao nhất. Phim đầu tay của Hitchcock là \"\" (1926) giúp định hình thể loại phim ly kỳ, còn phim \"Blackmail\" vào năm 1929 của ông thường được cho là phim có âm thanh đầu tiên của Anh Quốc.", "Các xưởng phim lớn tại Anh gồm có Pinewood, Elstree và Shepperton. Một số phim thành công nhất về thương mại mọi thời đại được sản xuất tại Anh, trong đó có hai nhãn phim vào hàng doanh thu cao nhất (\"Harry Potter\" và \"James Bond\"). Xưởng phim Ealing tại Luân Đôn được cho là xưởng phim hoạt động liên tục lâu năm nhất thế giới. Nổi tiếng vì ghi âm nhiều nhạc nền phim điện ảnh, Dàn nhạc giao hưởng Luân Đôn lần đầu trình diễn nhạc phim vào năm 1935.", "Bảng xếp hạng 100 phim Anh Quốc của BFI có \"Monty Python's Life of Brian\" (1979), phim này thường được công chúng Anh Quốc bình chọn là hài hước nhất mọi thời đại. Các nhà sản xuất Anh cũng tích cực trong hợp tác sản xuất quốc tế, và các diễn viên, đạo diễn và đoàn làm phim Anh xuất hiện thường xuyên trong các phim Mỹ. Hội đồng phim Anh Quốc xếp hạng David Yates, Christopher Nolan, Mike Newell, Ridley Scott và Paul Greengrass là 5 đạo diễn Anh thành công nhất về thương mại kể từ năm 2001. Các đạo diễn Anh đương đại gồm có Sam Mendes, Guy Ritchie và Steve McQueen. Các diễn viên đương đại có Tom Hardy, Daniel Craig, Benedict Cumberbatch và Emma Watson. Đạo diễn Andy Serkis cho mở xưởng phim The Imaginarium tại Luân Đôn vào năm 2011. Công ty hiệu ứng thị giác Framestore tại Luân Đôn sản xuất một số hiệu ứng đặc biệt được đánh giá cao nhất trong các phim hiện đại. Nhiều phim Hollywood thành công dựa trên cốt truyện về người Anh, văn học hoặc sự kiện của Anh. 'English Cycle' của phim hoạt hình Disney gồm có \"Alice trong xứ thần tiên\", \"Sách Rừng xanh\" và \"Winnie-the-Pooh\".", "Bảo tàng, thư viện và phòng trưng bày ảnh.", "Quỹ Di sản Anh là thể chế chính phủ có thẩm quyền rộng trong quản lý các di tích lịch sử, đồ tạo tác và môi trường tại Anh. Quỹ này hiện do Bộ Văn hoá, Truyền thông và Thể thao bảo trợ. Quỹ Quốc gia về các địa điểm quan trọng lịch sử hoặc vẻ đẹp tự nhiên giữ một vai trò tương phản. Anh có 17 trong số 25 di sản thế giới UNESCO của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Một số di sản nổi tiếng là: Tường Hadrianus , Stonehenge, Avebury và các di chỉ liên quan, Tháp Luân Đôn, Bờ biển kỷ Jura, Saltaire, Hẻm núi Ironbridge, Công viên Hoàng gia Studley.", "Anh có nhiều bảo tàng, song có lẽ nổi tiếng nhất là Bảo tàng Anh tại Luân Đôn. Bộ sưu tập của bảo tàng có trên bảy triệu hiện vật và là một trong các bộ sưu tập lớn nhất và toàn diện nhất trên thế giới, có nguồn gốc từ mọi lục địa, minh hoạ và dẫn chứng câu chuyện văn hoá nhân loại từ khi bắt đầu cho đến hiện tại. Thư viện Anh tại Luân Đôn là thư viện quốc gia và là một trong các thư viện nghiên cứu lớn nhất thế giới, lưu giữ trên 150 triệu mục trong toàn bộ các ngôn ngữ và khổ giấy, gồm có 25 triệu sách. Nhà trưng bày nghệ thuật cao cấp nhất là Nhà trưng bày Quốc gia tại Quảng trường Trafalgar, có một bộ sưu tập với trên 2.300 bức hoạ có niên đại từ giữa thế kỷ XIII đến 1900. Các nhà trưng bày Tate lưu giữ các bộ sưu tập quốc gia về nghệ thuật đương đại Anh và quốc tế; họ cũng tổ chức Giải Turner nổi tiếng song thường gây tranh luận.", "Thể thao.", "Anh có di sản thể thao mạnh mẽ, trong thế kỷ XIX Anh đã điều lệ hoá nhiều môn thể thao hiện được chơi khắp thế giới. Các môn thể thao có nguồn gốc tại Anh gồm có bóng đá, cricket, rugby union, rugby league, quần vợt, quyền Anh, cầu lông, bóng quần, rounders, khúc côn cầu, snooker, bi-a, phi tiêu, bóng bàn, bóng gỗ, bóng lưới, đua ngựa thuần chủng, đua chó và săn cáo. Anh còn giúp phát triển golf, đua thuyền buồm và công thức 1.", "Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất, đội tuyển bóng đá quốc gia Anh có sân nhà là sân vận động Wembley. Anh thi đấu với Scotland trong trận đấu bóng đá quốc tế đầu tiên vào năm 1872. Anh được FIFA cho là \"quê hương của bóng đá\", và từng tổ chức đồng thời giành chức vô địch tại Giải bóng đá vô địch thế giới 1966, giành thắng lợi trước Tây Đức với tỷ số 4–2 trong trận chung kết, với ba bàn thắng của Geoff Hurst. Trận chung kết này thu hút tới 32,3 triệu khán giả truyền hình Anh, là sự kiện truyền hình được xem nhiều nhất tại Anh Quốc cho đến nay. Anh cũng được FIFA công nhận là nơi khai sinh của bóng đá cấp câu lạc bộ, do Sheffield F.C. thành lập vào năm 1857 là câu lạc bộ cổ nhất trên thế giới. Hiệp hội bóng đá Anh là thể chế quản lý thể thao lâu năm nhất, có các điều lệ bóng đá được soạn thảo lần đầu vào năm 1863. Cúp FA và giải bóng đá Anh là các giải thi đấu đầu tiên. Hiện nay, Ngoại hạng Anh là giải đấu bóng đá có nhiều người theo dõi nhất thế giới, sinh lợi nhiều nhất, và nằm vào hàng tinh hoa. Liverpool, Manchester United, Nottingham Forest, Chelsea , Aston Villa và Manchester City đã giành cúp châu Âu, trong khi Arsenal, Leeds United, Tottenham Hotspur đã từng lọt tới trận chung kết.", "Cricket nói chung được cho là phát triển từ sơ kỳ Trung cổ trong các cộng đồng nông nghiệp và thợ luyện kim tại Weald. Đội tuyển cricket Anh là đội tuyển hợp nhất của Anh và Wales. Một trong những cặp đấu nổi tiếng nhất của môn này là loạt The Ashes giữa Anh và Úc, được tổ chức từ năm 1882. Trận chung kết 2009 Ashes được gần 2 triệu người theo dõi, song cực điểm 2005 Ashes được 7,4 triệu người theo dõi do nó được phát trên truyền hình mặt đất. Anh từng bốn lần tổ chức giải vô địch cricket thế giới (1975, 1979, 1983, 1999), và sẽ tổ chức mùa giải năm 2019, song chưa từng vô địch. Anh từng tổ chức ICC World Twenty20 năm 2009, và vô địch mùa giải năm 2010 khi đánh bại Úc trong trận chung kết. Có nhiều giải thi đấu trong nước, gồm cả giải vô địch các hạt, trong đó Yorkshire là câu lạc bộ thành công nhất với 31 lần giành chiến thắng. Sân cricket Lord's tại Luân Đôn thỉnh thoảng được gọi là \"Mecca của môn Cricket\".", "William Penny Brookes là nhân vật nổi tiếng vì thiết lập phiên bản hiện đại của Thế vận hội. Luân Đôn từng tổ chức Olympic mùa hè năm 1908 và 1948, và 2012. Anh cũng tham gia thi đấu tại Đại hội thể thao Khối Thịnh vượng chung, được tổ chức bốn năm một lần. Hội đồng Thể thao Anh là cơ quan quản lý chịu trách nhiệm phân bổ quỹ và chỉ đạo chiến lược cho hoạt động thể thao tại Anh. Một giải Grand Prix được tổ chức tại Silverstone.", "Rugby union bắt nguồn tại Trường Rugby, Warwickshire vào đầu thế kỷ XIX. Đội tuyển rugby union quốc gia Anh giành chiến thắng tại giải vô địch thế giới năm 2003. Anh là đồng chủ nhà của mùa giải vô địch rugby union thế giới năm 1991, và tổ chức mùa giải năm 2015. Cấp cao nhất của câu lạc bộ là English Premiership. Leicester Tigers, London Wasps, Bath Rugby và Northampton Saints từng giành thắng lợi trong Heineken Cup châu Âu. Rugby league ra đời tại Huddersfield năm 1898. Kể từ năm 2008, đội tuyển rugby league quốc gia Anh có tư cách cấp quốc gia đầy đủ thay vì đội tuyển rugby league Anh Quốc, vốn là đội tuyển từng ba lần vô địch thế giới vào năm 1954, 1960 và 1972 song hiện giải thể. Các câu lạc bộ chơi tại Super League, hậu thân của giải vô địch bóng Rugby từ năm 1895. Toàn bộ 11 câu lạc bộ của Anh trong Super League đều nằm tại miền bắc, một số câu lạc bộ thành công nhất gồm Wigan Warriors, St Helens, Leeds Rhinos và Huddersfield Giants; ba câu lạc bộ đầu đều từng giành World Club Challenge. Trong môn quần vợt, Giải Vô địch Wimbledon là giải đấu lâu đời nhất thế giới và được công nhận rộng rãi là giải đấu danh tiếng nhất.", "Các biểu tượng quốc gia.", "Quốc kỳ Anh là Thập tự Thánh George kể từ thế kỷ XIII. Ban đầu cờ được dùng bởi một quốc gia hàng hải là Cộng hòa Genova. Vương triều Anh đã trả một khoản cống nạp cho Tổng trấn Genova từ năm 1190 trở về sau, nhờ thế các con tàu Anh có thể treo lá cờ này để làm một phương tiện bảo vệ khi đi vào Địa Trung Hải. Một chữ thập đỏ là một biểu tượng cho nhiều cuộc Thập Tự Chinh trong thế kỷ XII và XIII. Nó gắn liền với Thánh George, cùng với các quốc gia và thành phố tuyên bố ông là vị thánh bảo hộ và sử dụng chữ thập của ông trong hiệu kỳ. Từ năm 1606 lá cờ Chữ thập Thánh George đã là một phần trong thiết kế của Quốc kỳ Liên hiệp, một lá cờ cho toàn Vương quốc Anh được thiết kế bởi Vua James I.", "Có nhiều biểu tượng và đồ tạo tác mang tính biểu tượng khác, cả chính thức và không chính thức, gồm hoa hồng Tudor là biểu tượng thực vật quốc gia, và \"Tam sư\" được thể hiện trên quốc huy. Hoa hồng Tudor đã được chấp nhận làm một biểu tượng quốc gia của Anh vào khoảng thời gian Các cuộc chiến tranh Hoa hồng để tượng trưng cho hoà bình. Nó là một biểu tượng dung hợp ở điểm nó kết hợp cả hoa hồng trắng của Nhà York và hoa hồng đỏ của Nhà Lancaster — đều là các nhánh thứ của Nhà Plantagenet khi họ tham gia vào cuộc chiến tranh tranh giành vương triều. Nó cũng được gọi là \"Hoa hồng Anh\". Cây sồi là một biểu tượng của Anh, thể hiện sức mạnh và sự trường tồn. Thuật ngữ Cây Sồi Hoàng gia được dùng để biểu thị sự trốn thoát của Vua Charles II khỏi những người theo phe nghị viện sau khi cha ông bị hành quyết; ông đã trốn trong một cây sồi để tránh bị phát hiện trước khi trốn thoát ra nước ngoài.", "Quốc huy Anh, với hình ba chú sư tử có niên đại từ khi được Richard Sư tử tâm chấp nhận năm 1198–1340. Chúng được tuyên dương là \"gules, three lions passant guardant or\" và là một trong những biểu tượng nổi tiếng nhất của Anh; nó tương tự như những huy hiệu truyền thống của Normandy. Anh không có quốc ca được quy định chính thức, bởi Vương quốc Liên hiệp Anh về tổng thể có \"Chúa phù hộ Nữ hoàng\". Tuy nhiên, những bài sau thường được coi là những quốc ca không chính thức của Anh:", "\"Jerusalem\", \"Land of Hope and Glory\" (được dùng cho Anh trong Đại hội Thể thao Thịnh vượng chung 2002), và \"I Vow to Thee, My Country\". Ngày quốc khánh của Anh là Ngày Thánh George, bởi Thánh George là vị thánh bảo hộ của Anh, và được tổ chức hàng năm vào ngày 23 tháng 4." ]
854
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=854
Ottawa
[ "Ottawa là thủ đô và cũng là thành phố lớn thứ tư của Canada thành phố lớn thứ nhì của tỉnh bang Ontario. Ottawa nằm trong thung lũng sông Ottawa phía bờ Đông của tỉnh bang Ontario, cách Toronto 400 km về phía Đông Bắc và Montréal 190 km về phía Tây. Ottawa nằm trải dài theo bờ sông Ottawa, đường thủy chủ yếu ngăn cách tỉnh bang Ontario và Québec.", "Diện tích của thành phố vào khoảng 2.778,64 km², dân số vào năm 2001 là trên 808.000 người (nếu tính luôn các khu ngoại thành thì hơn 1,1 triệu người). Vào năm 2005, dân số ước tính là 859.704, trong khi vùng thủ đô, bao gồm thành phố Gatineau, Québec, có dân số ước khoảng 1.148.785. Dân số những người nói tiếng Pháp tại Ottawa rất đáng kể, và theo chính sách của chính phủ, tất cả các dịch vụ chủ yếu đều bằng song ngữ cả hai thứ tiếng Anh và Pháp. Thủ đô Ottawa còn nổi tiếng với nhiều công trình kiến trúc cổ như Tòa nhà Nghị viện (\"Parliament Buildings\"), Dinh Toàn quyền Rideau (\"Rideau Hall\"), Tòa nhà Liên bang (\"Confederation Building\"), các phòng tranh, viện bảo tàng, thư viện quốc gia và các trường đại học như Đại học Carleton và Đại học Ottawa. Thêm nữa thành phố cũng có những khu thương mại sầm uất và các cao ốc hiện đại giống như Toronto, Montréal và Vancouver.", "Thị trưởng đương thời của Ottawa là ông Larry O'Brien, là người kế nhiệm ông Bob Chiarelli vào ngày 1 tháng 12 năm 2006. Ottawa là nơi tập trung nhiều Tiến sĩ nhất tính theo đầu người tại Canada.", "Lịch sử.", "Vùng Ottawa xưa kia là nơi sinh sống của dân tộc bản xứ bộ lạc Algonquin. Người Algonquin xưa kia gọi sông Ottawa là sông \"Kichi Sibi\" hoặc \"Kichissippi\", có nghĩa là \"Dòng sông lớn\". Người Âu châu đầu tiên đến định cư tại vùng này là Philemon Wright đã thành lập một cộng đồng phía bên bờ sông thuộc tỉnh bang Québec vào năm 1800. Ông Wright khám phá rằng có thể vận chuyển gỗ bằng đường sông từ thung lũng Ottawa đến Montréal, và khu vực này đã phát triển nhanh chóng nhờ vào độc quyền kinh doanh gỗ. Loại thông trắng đã được trồng khắp vùng thung lũng này nhờ vào thân cây thẳng và rắn chắc rất được ưa chuộng tại nhiều nước Âu châu.", "Để có thể ổn định cuộc sống cho gia đình các trung đoàn quân đội vào những năm tiếp theo cuộc Chiến tranh năm 1812, chính phủ bắt đầu hỗ trợ các kế hoạch di dân nhằm đưa nhóm dân Công giáo Ireland và Tin lành đến định cư tại vùng Ottawa, và từ đó bắt đầu cho một làn sóng di cư đều đặn của người Ireland trong các thập niên kế tiếp. Cùng với nhóm dân Canada gốc Pháp đến từ tỉnh bang Québec, hai nhóm dân này đã cung cấp một số lượng lớn công nhân trong công trình Kênh Rideau và sự phát triển của ngành kinh doanh gỗ, nhờ đó Ottawa đã được đưa vào bản đồ.", "Dân số trong vùng tăng lên rõ rệt sau khi Đại tá John By hoàn tất kênh Rideau vào năm 1832. Mục đích của kênh đào này là cung cấp một đường thủy an toàn giữa Montréal và Kingston trong vùng hồ Ontario, băng qua sông St. Lawrence nơi giáp ranh với tiểu bang New York. Kênh được xây dựng bắt đầu từ đoạn cuối phía Bắc là nơi Đại tá By đặt một doanh trại, sau đó trở thành đồi Parliament và bố trí một thành phố nhỏ được gọi là Bytown. Các nhà lãnh đạo thành phố này bao gồm các con của ông Wright, đáng kể nhất là ông Ruggles Wright. Nicholas Sparks, Braddish Billings và Abraham Dow là những cư dân đầu tiên phía bên bờ sông Ottawa thuộc tỉnh bang Ontario.", "Phía Tây của kênh đào được biết đến với tên gọi \"Annalisetown\" là nơi tập trung các tòa nhà Quốc hội, trong khi phía Đông của kênh đào (chỗ giao nhau giữa kênh đào và sông Rideau) được gọi là \"Nathantown\". Lúc bấy giờ, Lowertown là một thị trấn lụp xụp đông đúc và huyên náo, thường xuyên hứng chịu các trận dịch tệ hại nhất, như trận dịch tả vào năm 1832 và trận dịch sốt phát ban vào năm 1847.", "Ottawa trở nên trung tâm công nghiệp chế biến gỗ của Canada và Bắc Mỹ. Từ đó, ngành công nghiệp này nhanh chóng được mở rộng dọc theo sông Ottawa về hướng Tây, và gỗ mới đốn được kết thành bè xuôi theo một đoạn sông dài đưa đến các nhà máy chế biến. Bytown được đổi tên là Ottawa vào năm 1855.", "Ngày 31 tháng 12 năm 1857, Nữ hoàng Victoria đã được thỉnh cầu để định đô cho xứ Canada (gồm tỉnh bang Québec và Ontario) và bà đã chọn Ottawa. Có nhiều câu chuyện châm biếm về cách bà chọn ra thủ đô như sau: bà đã cắm cây trâm gài nón trên bản đồ giữa khoảng cách Toronto và Montréal, hoặc đơn giản là bà thích màu sắc trên bản đồ của vùng này. Mặc dù những câu chuyện này không có cơ sở lịch sử nhưng đã phản ánh sự chuyên quyền độc đoán khi Ottawa được chọn làm thủ đô lúc bấy giờ và Luân Đôn đã không thỉnh ý người dân. Mặc dù hiện nay Ottawa là một thủ đô chủ yếu và là thành phố lớn thứ tư của Canada, nhưng xưa kia Ottawa chỉ là một thị trấn ngoại ô cách xa các thành phố chính khác, như Thành phố Québec và Montréal ở phía Đông của Canada, hoặc Kingston và Toronto ở phía Tây.", "Trong thực tế, các cố vấn của Nữ hoàng đã khuyên bà chọn Ottawa vì nhiều lý do: lý do thứ nhất vì Ottawa là khu định cư ở ngay ranh giới của phía Đông và Tây của Canada (ranh giới giữa Québec và Ontario ngày nay), như là một thỏa hiệp giữa hai khu kiều dân Pháp và Anh; thứ hai là cuộc chiến tranh năm 1812 đã cho thấy nhược điểm của các thành phố lớn là dễ bị phía Mỹ tấn công vì các thành phố này nằm rất gần biên giới trong khi Ottawa lúc bấy giờ được rừng rậm bao bọc và nằm cách xa biên giới; lý do thứ ba là chính phủ sở hữu một mảnh đất rộng lớn ở một vị thế với phong cảnh ngoạn mục nhìn xuống dòng sông Ottawa. Vị trí của Ottawa rất thuận lợi trong việc phòng thủ trong lúc vẫn duy trì được vận chuyển bằng đường thủy bằng sông Ottawa đến phía Đông Canada, và bằng kênh Rideau đến phía Tây Canada. Hai lý do khác là do Ottawa gần như là trung điểm giữa Toronto và thành phố Québec (~500 km/310 mi) và vì Ottawa là một thành phố nhỏ nên giảm thiểu được dư luận bất bình trong quần chúng và dẫn đến sự phá hoại các tòa nhà chính phủ như đã từng xảy ra với các thủ đô cũ của Canada.", "Khu nhà chính của tòa nhà Quốc hội tại Ottawa đã bị thiêu rụi trong trận hỏa hoạn ngày 3 tháng 2 năm 1916. Thượng nghị viện và Hạ nghị viện phải tạm thời dời đến Viện Bảo tàng Kỷ niệm Victoria vừa mới xây xong, nay là Viện Bảo tàng Thiên nhiên cách đồi Parliament khoảng 1 km trên đường Metcalfe. Một khu nhà chính khác đã được xây dựng lại và hoàn tất vào năm 1922. Tháp Hòa bình ở ngay giữa tòa nhà Quốc hội và là biểu tượng của thành phố này đã được xây theo kiến trúc Gô-tích.", "Vào ngày 5 tháng 9 năm 1945, chỉ một vài tuần lễ sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, nhiều người cho rằng Ottawa là nơi chính thức bắt đầu cuộc Chiến tranh Lạnh. Một thư ký tầm thường của Liên Xô tên là Igor Gouzenko đã trốn khỏi Tòa Đại sứ Liên Xô với hơn 100 tài liệu mật. Đầu tiên, Cảnh sát Hoàng gia Canada (RCMP) đã từ chối thu nhận mớ tài liệu này vì Liên Xô vẫn còn là đồng minh của Canada và Anh Quốc, và vì báo chí không tha thiết gì đến câu chuyện này. Sau khi Gouzenko lẩn trốn một đêm tại căn hộ của người hàng xóm và biết được nhà riêng đã bị lục soát, cuối cùng Gouzenko đã thuyết phục được RCMP xem qua mớ tài liệu đó và đó là bằng chứng về hệ thống gián điệp Liên Xô đang hoạt động tại các nước phương Tây, và điều này đã gián tiếp dẫn đến việc phát hiện Liên Xô đang chế tạo bom nguyên tử để đối chọi với Hoa Kỳ.", "Năm 2001, thành phố Ottawa cũ (dân số ước tính năm 2005 là 350.000) đã được hợp nhất với các khu ngoại ô Nepean (dân số 135.000), Kanata (dân số 56.000), Gloucester (dân số 120.000), Rockcliffe Park (dân số 2.100), Vanier (dân số 17.000) và Cumberland (dân số 55.000), và các huyện ngoại thành West Carleton (dân số 18.000), Osgoode (dân số 13.000), Rideau (dân số 18.000) và Goulbourn (dân số 24.000), cùng với các hệ thống và cơ sở hạ tầng của Vùng Thủ đô Ottawa-Carleton. Trước năm 1969, Ottawa-Carleton là Carleton County bao gồm các khu vực như thành phố Ottawa hiện nay ngoại trừ Cumberland.", "Khẩu hiệu.", "\"Tiến lên\" là khẩu hiệu của Ottawa và Trung đoàn Bộ binh Cameron Highlanders của Ottawa.", "Địa lý và khí hậu.", "Ottawa tọa lạc tại bờ phía Nam của sông Ottawa, và bao gồm các cửa sông Rideau và kênh Rideau. Khu phố cổ nhất (kể cả di tích của Bytown) được gọi là \"Lower Town\" và chiếm cứ một vùng giữa kênh đào và các nhánh sông. Phía bên kia kênh đào về phía Tây là \"Centretown\" (thường được gọi là \"downtown\" - khu trung tâm thành phố), là trung tâm tài chính và thương mại của thành phố. Giữa nơi đây và sông Ottawa là đồi Parliament vươn lên cao và là nơi tập trung các tòa nhà chính phủ tiêu biểu của thủ đô và cũng là nơi hội họp của các nhà Lập pháp Canada.", "Thủ đô Ottawa bao gồm nhiều vùng ven ngoại thành nằm ở phía Đông, phía Tây và phía Nam, và kể cả các thành phố cũ của Gloucester, Nepean và Vanier, khu làng xã cũ của Rockcliffe Park và các khu ngoại ô Manotick và Orléans. Tính chung vào khu thành thị chính là vùng ngoại ô Kanata bao gồm khu phố trước kia của Kanata và khu làng xã Stittsville (dân số 70.320). Ngoài ra còn có các thị trấn và cộng đồng khác thuộc vùng ven đô ở phía bên kia vùng đất chưa khai phá như là Constance Bay (dân số 2.327); Kars (dân số 1.539); Metcalfe (dân số 1.610); Munster (dân số 1.390); Osgoode (dân số 2.571); và Richmond (dân số 3.287).", "Sông Ottawa là ranh giới giữa Ontario Québec. Bên kia sông là thành phố Gatineau. Mặc dù Ottawa và Gatineau (và các thành phố lân cận khác) chính thức thuộc về hai tỉnh bang khác nhau và có bộ máy quản lý riêng biệt nhưng hai thành phố này hợp nhất thành Vùng Thủ đô Quốc gia với tổng số cư dân hơn một triệu người. Hội đồng Thành phố của chính quyền Liên bang (Hội đồng Thủ đô Quốc gia, viết tắt là NCC) sở hữu các khu đất của cả hai thành phố - bao gồm các địa điểm có tính chất lịch sử quan trọng trong lãnh vực du lịch. NCC có trách nhiệm lên kế hoạch và phát triển các khu đất này và là một đóng góp quan trọng cho cả hai thành phố.", "Bao bọc vùng thành thị này là vùng đất chưa khai phá rộng lớn Greenbelt do Hội đồng Thủ đô Quốc gia quản lý bao gồm các khu rừng, đất canh tác và đầm lầy.", "Ottawa là một thành phố tự trị, không phụ thuộc vào cấp quản lý cao hơn nào khác. Ottawa được bao bọc bởi Liên hiệp Huyện Prescott và Russell về phía Đông; Huyện Renfrew và Huyện Lanark về phía Tây; ở phía Nam là Liên hiệp Huyện Leeds và Grenville và Liên hiệp Huyện Stormont, Dundas và Glengarry; và ở phía Bắc là Les Collines-de-l'Outaouais và thành phố Gatineau.", "Ottawa do 11 huyện có tính chất lịch sử hợp thành: Cumberland, Fitzroy, Gloucester, Goulbourn, Huntley, March, Marlborough, Nepean, North Gower, Osgoode và Torbolton.", "Ottawa có một khí hậu đại lục ẩm ướt (Koppen \"Dfb\") với nhiệt độ cao nhất là 37.8 °C (100 °F) vào mùa hè năm 1986 và 2001, thấp nhất là -38.9 °C (-38 °F) vào ngày 29 tháng 12 năm 1933, và là thủ đô lạnh hàng thứ nhì trên thế giới (sau Ulaanbaatar, Mông Cổ). Với khí hậu đặc biệt này, Ottawa rất hãnh diện về các hoạt động hàng năm nhưng cũng có yêu cầu đa dạng về quần áo. Tuy nhiên vì khí hậu vào mùa hè rất ấm áp nên Ottawa chỉ xếp hạng thứ 7 trong các thủ đô lạnh nhất thế giới căn cứ vào nhiệt độ trung bình hàng năm, nhưng nếu dựa vào nhiệt độ trung bình của tháng 1 thì Ottawa xếp hạng 3 sau Ulaanbaatar, Mông Cổ và Astana, Kazakhstan.", "Tuyết và băng nước đá có ảnh hưởng lớn đến Ottawa vào mùa Đông. Lượng tuyết hàng năm tại Ottawa vào khoảng 235 cm (93 in). Ngày có nhiều tuyết rơi nhất được ghi lại là 4 tháng 3 năm 1947 với 73 cm (2.5 feet). Nhiệt độ trung bình tháng 1 là -10.8 °C (13 °F), ban ngày nhiệt độ trên 0 °C và ban đêm lạnh dưới -25 °C (-13 °F) vào mùa Đông. Mùa tuyết rơi hàng năm thay đổi thất thường. Thông thường tuyết bao phủ mặt đất từ giữa tháng 12 đến đầu tháng 4, nhưng cũng có năm tuyết chỉ rơi sau lễ Giáng sinh, nhất là những năm gần đây. Năm 2007 thật đáng chú ý vì mãi đến gần cuối tháng 1 mới có tuyết rơi. Những cơn gió lạnh cóng trung bình hàng năm là 51, 14 và 1 với những ngày nhiệt độ xuống dưới -20 °C (-4 °F), -30 °C (-22 °F) và -40 °C (-40 °F) theo thứ tự. Cơn gió lạnh nhất được ghi lại là -47.8 °C (-54.0 °F) vào ngày 8 tháng 1 năm 1968.", "Ottawa và những nơi khác của Canada thường có những cơn mưa đóng băng. Trận bão đóng băng năm 1998 là một cơn bão lớn đã làm cúp điện và ảnh hưởng đến nền kinh tế địa phương.", "Mùa hè thường ấm áp và ẩm ướt tại Ottawa mặc dù rất ngắn ngủi. Nhiệt độ trung bình cao nhất của tháng 7 là 26.5 °C (80 °F) với dòng không khí lạnh bất ngờ đến từ hướng Bắc đã hạ thấp độ ẩm ướt với nhiệt độ khoảng 30 °C (86 °F) hoặc cao hơn. Nhiệt độ cao nhất được ghi lại là 39.5 °C (103 °F) vào mùa hè năm 2005 ở vài địa điểm. Thời tiết nóng bức thường tăng thêm độ ẩm ướt đặc biệt là các khu vực gần sông ngòi. Ottawa hàng năm có 41, 12 và 2 ngày với độ ẩm ướt trên 30 °C (86 °F), 35 °C (95 °F) và 40 °C (104 °F) theo thứ tự. Ngày có độ ẩm ướt cao nhất 48 °C (118 °F) là 1 tháng 8 năm 2006.", "Kinh tế.", "Ottawa có mức sống cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp, và tỷ lệ tăng trưởng GDP cao thứ tư trong số các thành phố lớn của Canada (năm 2007 là 2,7%, vượt quá mức trung bình của Canada là 2,4%). Vùng Ottawa-Gatineau có thu nhập cao thứ ba trong tất cả các thành phố lớn của Canada.Tổng thu nhập bình quân trong khu vực lên tới 40.078 đô la, tăng 4,9% so với năm trước. Chi phí sinh hoạt hàng năm trong năm 2007 tăng 1,9%.Nó cũng được đánh giá là thành phố sạch thứ hai ở Canada và là thành phố sạch thứ ba trên thế giới.", "Dịch vụ.", "Nguồn sử dụng lao động chính của Ottawa là Dịch vụ Công cộng của Canada và ngành công nghệ cao, mặc dù du lịch và chăm sóc sức khoẻ cũng thể hiện các hoạt động kinh tế ngày càng đáng kể. Chính phủ Liên bang là chủ nhân lớn nhất của thành phố, sử dụng hơn 110.000 cá nhân từ khu vực Thủ đô Quốc gia. Trụ sở chính của các cơ quan liên bang đặt tại Ottawa, đặc biệt là khắp khu vực Centretown, trong khu phức hợp Terrasses de la Chaudière và Place du Portage ở Hull. Trụ sở chính của Bộ Quốc phòng cũng được đặt tại thành phố này, là cơ quan đầu não của Lực lượng Vũ trang Canada và chủ trì Bộ Quốc phòng. Khu vực Ottawa bao gồm CFS Leitrim, Vùng Núi CFB, và CFC Rockcliffe trước đây. Vào mùa hè, thành phố tổ chức Tuần Lễ Cảnh Sát, thực hiện các nhiệm vụ như Thay Đổi Cảnh Quan. Là thủ đô của Canada, du lịch là một phần quan trọng của nền kinh tế Ottawa, nhất là sau khi lễ kỷ niệm 150 năm thành lập Canada được tổ chức tại đây. Sự dẫn đầu cho các lễ hội đã chứng kiến ​​sự đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng công cộng, nâng cấp cơ sở hạ tầng du lịch và tăng cường các điểm tham quan văn hoá quốc gia. Vùng thủ đô quốc gia hàng năm thu hút khoảng 7,3 triệu du khách, khoảng 1,18 tỉ đô la.", "Công nghệ.", "Ngoài các hoạt động kinh tế đi kèm với vốn quốc gia, Ottawa là một trung tâm công nghệ quan trọng; vào năm 2015, 1800 công ty tại đây đã tuyển dụng khoảng 63.400 người. Sự tập trung của các công ty trong ngành công nghiệp này đã làm cho thành phố có biệt danh là \"Thung lũng Silicon Bắc\". Hầu hết các công ty này chuyên về viễn thông, phát triển phần mềm và công nghệ môi trường. Các công ty lớn như Nortel, Corel, Mitel, Cognos, Halogen, Shopify và JDS Uniphase được thành lập trong thành phố. Ottawa cũng có các khu vực cho Nokia, 3M, Adobe Systems, Bell Canada, IBM và Hewlett-Packard.Nhiều ngành công nghệ viễn thông và công nghệ mới nằm ở phía tây thành phố (trước đây là Kanata). \"Khu vực công nghệ cao\" được thành lập và đang hoạt động có hiệu quả vào năm 2015/2016.", "Y tế.", "Một ngành lớn khác là ngành y tế với hơn 18.000 nhân viên. Bốn bệnh viện đa khoa đang hoạt động nằm trong khu vực Ottawa gồm: Bệnh viện Queensway-Carleton, Bệnh viện Ottawa, Bệnh viện Montfort và Bệnh viện Nhi Đồng Đông Ontario. Một số cơ sở chuyên khoa của bệnh viện cũng có mặt, chẳng hạn như Viện Tim mạch Đại học Ottawa và Trung tâm Y tế Tâm thần Hoàng gia Ottawa. Nordion, i-Stat, Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Canada và OHRI là một phần của ngành khoa học đời sống đang phát triển.", "Kinh doanh.", "Kinh doanh, tài chính, quản trị, bán hàng và dịch vụ xếp hạng cao trong các loại nghề nghiệp. Khoảng 10% GDP của Ottawa bắt nguồn từ tài chính, bảo hiểm và bất động sản, trong khi việc làm trong các ngành sản xuất hàng hoá chỉ bằng một nửa mức trung bình toàn quốc.", "Thành phố Ottawa là nhà tuyển dụng lớn thứ hai với hơn 15.000 nhân viên.", "Năm 2006, Ottawa đã có hơn 40.000 việc làm trong năm 2001 với tốc độ tăng trưởng trung bình năm năm tương đối chậm so với cuối những năm 1990. Trong khi số lượng nhân viên trong chính phủ liên bang bị trì trệ, ngành công nghiệp công nghệ cao đã tăng 2,4%. Sự tăng trưởng tổng thể của việc làm tại Ottawa-Gatineau là 1,3% so với năm trước, xuống vị trí thứ sáu trong số các thành phố lớn nhất của Canada.Tỷ lệ thất nghiệp tại Ottawa-Gatineau là 5,2% (tính riêng Ottawa: 5,1%), thấp hơn mức trung bình toàn quốc là 6,0%. Sự suy thoái kinh tế đã làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp trong giai đoạn từ tháng 4 năm 2008 đến tháng 4 năm 2009 từ 4,7 đến 6,3%. Tuy nhiên, trong tỉnh Ontanrio, tỷ lệ này tăng so với cùng kỳ từ 6,4 lên 9,1%.", "Giao thông.", "Ottawa có hệ thống xe lửa của Công ty Đường sắt VIA, nhiều đường hàng không thông qua phi trường Quốc tế Ottawa Macdonald-Cartier, và các Công ty xe liên tỉnh như Greyhound tại Trạm xe bus trung tâm Ottawa.", "Thủ đô của Canada còn có một hệ thống đường cao tốc, như quốc lộ Highway 417 (còn được gọi là quốc lộ Queensway), đường 174 vùng Ottawa-Carleton (trước kia là quốc lộ 17), và quốc lộ Highway 416 (Quốc lộ Kỷ niệm Cựu chiến binh) vừa được xây xong nối liền Ottawa với các quốc lộ khác thuộc Hệ thống Quốc lộ 400 của Ontario. Quốc lộ 417 cũng là một phần của Quốc lộ xuyên Canada. Thành phố này cũng có một vài đại lộ với phong cảnh đẹp hai bên như Đại lộ Ottawa River, và một đường cao tốc nối liền với quốc lộ 5 Québec của thành phố Hull. Tất cả quốc lộ và đường sá của Ottawa đều được liệt kê trong Danh sách đường phố của Ottawa.", "Phương tiện di chuyển công cộng chủ yếu của Ottawa là OC Transpo và hệ thống tàu điện O-Train. Một hệ thống đường tàu điện nối liền Nam Bắc và Đông Tây đã được đề xuất nhưng Hội đồng Thành phố đã hủy bỏ dự án mở rộng đường Bắc Nam có thể nối liền khu Barrhaven và khu trung tâm vào năm 2009. Cả hai Công ty OC Transpo và Quebec-based Société de transport de l'Outaouais (STO) đảm nhiệm dịch vụ xe bus giữa Ottawa và Gatineau. Vé chuyển xe hoặc vé tháng đều có thể sử dụng ở cả hai thành phố không phải trả thêm tiền phụ thu.", "Kênh Rideau bắt nguồn từ Kingston, Ontario lượn khúc dẫn đến Ottawa. Vào mùa Đông, kênh này vẫn mở cửa và là một phương tiện di chuyển của khu trung tâm dài khoảng 7.8 km dành cho những người trượt băng (từ Đại học Carleton đến khu siêu thị Rideau Centre) và cũng là sân trượt băng dài nhất thế giới .", "Ngoài ra còn có một hệ thống đường mòn uốn khúc dọc theo sông Ottawa, sông Rideau và kênh Rideau. Những con đường nhỏ này được sử dụng trong vận chuyển, du lịch và giải trí, bởi vì đa số đều đủ rộng cho những người đi xe đạp. Đi xe đạp là phương tiện di chuyển phổ biến quanh năm trong vùng này.", "Ottawa là chỗ hợp dòng của ba con sông lớn: sông Ottawa, sông Gatineau và sông Rideau. Sông Ottawa và sông Gatineau là những con sông quan trọng trong lịch sử của nền công nghiệp khai thác gỗ và lâm sản. Sông Rideau nối liền Ngũ Đại Hồ và sông Saint Lawrence với sông Ottawa.", ", \"Danh sách các công viên của Ottawa, Danh sách đường sá của Ottawa\"", "Thắng cảnh và các tổ chức nổi tiếng.", ", \"National Capital Region\"" ]
855
70624087
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=855
Bắc Mỹ
[ "Bắc Mỹ là một lục địa nằm hoàn toàn trong Bắc Bán cầu và gần như hoàn toàn trong Tây Bán cầu của Trái Đất, có thể được miêu tả là tiểu lục địa phía Bắc của châu Mỹ. Lục địa này giáp với Bắc Băng Dương về phía Bắc, với Đại Tây Dương về phía Đông, với Nam Mỹ và Biển Caribe về phía Đông Nam, cũng như với của Thái Bình Dương về phía Tây và phía Nam. Lục địa này nằm trên mảng kiến tạo Bắc Mỹ nên Greenland được xem là thuộc Bắc Mỹ về mặt địa lý.", "Bắc Mỹ có diện tích khoảng 24.709.000 ki- lô- mét vuông (9.540.000 dặm vuông), khoảng 16,5% diện tích đất liền của Trái Đất và khoảng 4,8% toàn bộ bề mặt của hành tinh này. Trên thế giới, đây là lục địa có diện tích lớn thứ ba, sau châu Á và châu Phi, cũng như lục địa có dân số cao thứ tư, sau châu Á, châu Phi và châu Âu. Năm 2013, tổng dân số của 23 nhà nước độc lập ở Bắc Mỹ được ước tính là 579 triệu người, hay 7,5% dân số thế giới.", "Con người lần đầu tiên đặt chân lên Bắc Mỹ khoảng 40.000 đến 17.000 năm trước vào thời kỳ băng hà cuối cùng bằng cách đi qua cầu đất liền Bering. Thời kỳ Paleo-Indian kéo dài đến khoảng 10.000 năm trước. Giai đoạn cổ điển kéo dài từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 13. Thời kỳ Tiền Colombo kết thúc vào năm 1492, khi người định cư từ châu Âu bắt đầu di cư đến Bắc Mỹ trong thời đại Khám phá và thời kỳ cận đại. Tuy nhiên, Bắc Mỹ (trừ Greenland) được nhắc đến lần đầu tiên trong sử sách châu Âu vào khoảng năm 1000 TCN mà cụ thể là trong các saga của người Bắc Âu. Ngày nay, các đặc điểm về văn hóa và sộc tốc của dân cư Bắc Mỹ phản ánh sự tương tác giữa thực dân châu Âu, dân bản địa, nô lệ đến từ châu Phi, người nhập cư từ châu Âu, châu Á và Nam Á, cũng như hậu duệ của các nhóm người này.", "Do quá trình thuộc địa hóa của châu Âu, phần lớn dân số Bắc Mỹ nói các ngôn ngữ châu Âu như tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha hay tiếng Pháp, và các nền văn hóa của họ nhìn chung phản ánh các truyền thống của nền văn hóa phương Tây. Tuy nhiên, ở một số khu vực của Canada, Hoa Kỳ, Mexico và Trung Mỹ, các nhóm người bản địa vẫn duy trì những truyền thống văn hóa và nói ngôn ngữ của riêng mình.", "Phạm vi.", "Theo định nghĩa chính thức của Liên Hợp Quốc, \"Bắc Mỹ\" bao gồm 3 khu vực: Bắc Mỹ, Trung Mỹ và Caribe.", "Pháp, Ý, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Romani, Hy Lạp và các quốc gia Mỹ Latinh sử dụng mô hình 6 châu lục, trong đó Bắc Mỹ và Nam Mỹ được gộp thành một châu lục và tên gọi \"Bắc Mỹ\" được dùng để chỉ tiểu lục địa chứa Canada, Hoa Kỳ, Mexico, Saint Pierre và Miquelon (thuộc Pháp), và đôi khi cả Greenland và Bermuda.", "Phân vùng.", "Bắc Mỹ được chia thành nhiều vùng về mặt địa lý, văn hóa hoặc kinh tế, và mỗi vùng đó lại bao gồm những vùng nhỏ hơn. Các vùng kinh tế được hình thành từ những khối thương mại chẳng hạn như khối Hiệp định Thương mại Bắc Mỹ hay khối Hiệp định Thương mại Trung Mỹ. Về mặt ngôn ngữ và văn hóa, lục địa này có thể được chia thành Mỹ Ănglê và Mỹ Latinh. Mỹ Ănglê bao gồm phần lớn khu vực Bắc Mỹ, Belize và các hòn đảo Caribe có dân số chủ yếu nói tiếng Anh (tuy một số khu vực, chẳng hạn như Louisiana và Quebec, có lượng lớn dân số nói tiếng Pháp; ở Quebec, tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức duy nhất).", "Miền Nam lục địa Bắc Mỹ được chia thành hai vùng: Trung Mỹ và Caribe. Miền Bắc của lục địa cũng được phân chia thành các khu vực rõ ràng. Tên gọi \"Bắc Mỹ\" đôi khi được dùng để chỉ Mexico, Canada, Hoa Kỳ và Greenland thay vì toàn bộ lục địa.", "Thuật ngữ \"khu vực Bắc Mỹ\" được dùng để chỉ các quốc gia và vùng lãnh thổ ở phía Bắc của Bắc Mỹ, bao gồm Hoa Kỳ, Bermuda, Saint-Pierre và Miquelon, Canada và Greenland,", "Hai quốc gia có diện tích lớn nhất Bắc Mỹ, Canada và Hoa Kỳ, cũng được chia thành những vùng rõ rệt và được công nhận rộng rãi. Canada được chia thành (từ Đông sang Tây) Atlantic Canada, miền Trung Canada, đồng cỏ Canada, bờ biển British Columbia, và miền Bắc Canada. Mỗi vùng này lại bao gồm những vùng nhỏ hơn. Theo Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ, Hoa Kỳ được chia thành New England, các tiểu bang Trung-Đại Tây Dương, các tiểu bang Nam Đại Tây Dương, các tiểu bang Trung Đông Bắc, các tiểu bang Trung Tây Bắc, các tiểu bang Trung Đông Nam, các tiểu bang Trung Tây Nam, các tiểu bang miền Núi và các tiểu bang bờ Tây. Hai quốc gia này có chung khu vực Ngũ Đại Hồ. Ở cả hai quốc gia đều đã hình thành nên các siêu đô thị, chẳng hạn như ở Tây Bắc Thái Bình Dương hay các siêu đô thị Ngũ Đại Hồ.", "Đặc điểm tự nhiên.", "Địa lý.", "Bắc Mỹ là phần phía Bắc của vùng đất thường được biết đến với các tên gọi Tân thế giới, Tây Bán cầu hay châu Mỹ. Bắc Mỹ là châu lục có diện tích lớn thứ ba sau châu Á và châu Phi. Kết nối bằng đường bộ duy nhất giữa Bắc Mỹ và Nam Mỹ là ở eo đất Daria hoặc eo đất Panama. Theo phần lớn các nhà địa lý học, điểm cực Đông Nam của Bắc Mỹ là khoảng cách Darién Gap nằm trên đường biên giới giữa Colombia và Panama, khiến cho gần như toàn bộ Panama được xem là thuộc Nam Mỹ. Tuy nhiên, một số nhà địa chất học cho rằng điểm cực Nam của Bắc Mỹ là eo đất Tehuantepec, Mexico; từ đây, Trung Mỹ trải dài theo hướng Đông Nam về phía Nam Mỹ. Các hòn đảo Caribe hay Tây Ấn được xem là một phần của Bắc Mỹ. Lục địa này có đường bờ biển dài và không đồng đều. Vịnh Mexico là thủy phận lớn nhất ở Bắc Mỹ, theo sau là vịnh Hudson. Các vịnh nổi bật khác bao gồm vịnh Saint Lawrence và vịnh California.", "Trước khi eo đất Trung Mỹ được hình thành, khu vực này từng chìm dưới nước. Các hòn đảo Tây Ấn là những gì còn sót lại của một cây cầu đất liền từng kết nối Bắc và Nam Mỹ.", "Ngoài khơi Bắc Mỹ có nhiều hòn đảo; nổi bật nhất là quần đảo Bắc Cực, quần đảo Bahamas, quần đảo Turks và Caicos, các hồn đảo Đại Antilles và Tiểu Antilles, quần đảo Aleut (trong đó có một số hòn đảo nằm trên Đông Bán cầu), quần đảo Alexander, hàng nghìn hòn đảo gần Bờ biển British Columbia, và Newfoundland. Greenland, một hòn đảo tự trị thuộc Đan Mạch và hòn đảo lớn nhất thế giới, nằm trên mảng kiến tạo với Bắc Mỹ (mảng Bắc Mỹ) nên được xem là một phần của lục địa này về mặt địa lý. Về mặt địa chất, Bermuda không phải là một phần của châu Mỹ mà là một hòn đảo được hình thành trên sống núi giữa Đại Tây Dương hơn 100 triệu năm trước. Địa điểm trên lục địa gần với Bermuda nhất là mũi Hatteras, North Carolina. Tuy nhiên, Bermuda vẫn thường được xem là một phần của Bắc Mỹ, đặc biệt là về mặt lịch sử, chính trị và văn hóa, vì mối liên hệ giữa hòn đảo này với Virginia cũng như các khu vực khác của lục địa.", "Phần lớn lục địa Bắc Mỹ nằm trên mảng kiến tạo Bắc Mỹ. Một phần của miền tây Mexico, trong đó có Baja California, và một phần của California, bao gồm các thành phố San Diego, Los Angeles và Santa Cruz, nằm trên rìa phía Đông của mảng Thái Bình Dương. Hai mảng kiến tạo này giáp nhau tại đứt gãy San Andreas. Khu vực cực Nam của Bắc Mỹ và phần lớn Tây Ấn nằm trên mảng Caribe. Về phía Tây, mảng Bắc Mỹ giáp các mảng Juan de Fuca và Cocos.", "Bắc Mỹ có thể được chia thành bốn khu vực lớn (mỗi khu vực bao gồm các khu vực nhỏ hơn): Đại Bình nguyên kéo dài từ Vịnh Mexico đến phía Bắc Canada; khu vực đồi núi phía Tây tương đối trẻ bao gồm dãy Rocky, Đại Bồn địa, California và Alaska; khu vực cao nguyên tương đối bằng phẳng ở phía Đông Bắc; và khu vực địa hình đa dạng phía Đông bao gồm dãy Appalachia, đồng bằng duyên hải dọc theo bờ biển Đại Tây Dương và bán đảo Florida. Mexico, bao gồm các cao nguyên và dãy núi trải dài, nằm chủ yếu ở phía Tây của châu lục, mặc dù đồng bằng duyên hải phía Đông của quốc gia này vẫn trải dài về phía Nam.", "Khu vực đồi núi phía Tây được xẻ dọc ở giữa thành các dãy núi Rocky và các dãy núi duyên hải ở California, Oregon, Washington và British Columbia; ở giữa chúng là Đại Bồn Địa—một khu vực thấp hơn với những dãy núi nhỏ và hoang mạc thấp. Ngọn núi cao nhất ở đây là đỉnh Denali ở Alaska.", "Địa chất.", "Lịch sử địa chất.", "Ở trung tâm Bắc Mỹ là một nền lục địa cổ được hình thành từ 1,5 đến 1,0 tỉ năm trước trong liên đại Nguyên sinh có tên là Laurentia. Từ cuối đại Cổ sinh đến đầu đại Trung sinh, Bắc Mỹ là một phần của siêu lục địa Pangaea cũng như các lục địa khác của thế giới ngày nay và giáp lục địa Âu-Á về phía Đông. Sự hình thành của Pangaea đã tạo ra dãy núi Appalachi khoảng 480 triệu năm trước, vì thế đây là một trong những dãy núi lâu đời nhất trên thế giới. Khi Pangaea bắt đầu rạn nứt vào khoảng 200 triệu năm trước, Bắc Mỹ trở thành một phần của Laurasia, rồi sau đó tách ra khỏi lục địa Âu-Á và trở thành một lục địa độc lập vào khoảng giữa kỷ Phấn trắng. Dãy Rocky và các dãy núi khác ở phía Tây cũng bắt đầu được hình thành trong một thời kỳ kiến tạo sơn xảy ra từ 80 đến 55 triệu năm trước. Eo đất Panama kết nối Bắc và Nam Mỹ có thể đã được hình thành từ 12 đến 15 triệu năm trước, còn Ngũ Đại Hồ (cũng như nhiều hồ và sông nước ngọt khác ở phía Bắc) được hình thành khi băng hà rút đi 10.000 năm trước.", "Bắc Mỹ là nguồn gốc phần lớn tri thức của nhân loại về niên đại địa chất của Trái Đất. Khu vực địa lý mà hiện nay là Hoa Kỳ là nơi mà nhiều loài khủng long được phát hiện nhất trong số tất cả các quốc gia hiện đại. Theo nhà cổ sinh vật học Peter Dodson, điều này là kết quả của các yếu tố địa tầng học, khí hậu, địa lý, con người và lịch sử. Nguồn hóa thạch khủng long kỷ Jura Muộn nhiều nhất ở Bắc Mỹ là hệ tầng Morrison, phía Tây Hoa Kỳ.", "Địa chất Trung Mỹ.", "Trung Mỹ là nơi xảy ra nhiều hoạt động địa chất như phun trào núi lửa và động đất. Năm 1976, ở Guatemala xảy ra một trận động đất lớn khiến 23.000 người thiệt mạng; Managua, thủ đô của Nicaragua, cũng bị các trận động đất tàn phá vào năm 1931 và năm 1972, trong đó trận động đất vào năm 1972 đã làm khoảng 5.000 người thiệt mạng; El Salvador đã bị tàn phá bởi một trần động đất vào năm 1986 và hai trận động đất vào năm 2001; một trận động đất đã tàn phá miền Bắc và miền Trung Costa Rica vào năm 2009, khiến ít nhất 34 người thiệt mạng; cũng vào năm 2009, ở một trận động đất mạnh ở Honduras đã làm ít nhất 7 người thiệt mạng. Năm 1968, núi lửa Arenal ở Costa Rica phun trào và khiến 87 người thiệt mạng. Nham thạch từ các núi lửa làm đất đai trở nên màu mỡ, từ đó tạo ra các khu vực cao nguyên có sản lượng nông nghiệp lớn có thể nuôi sống mật độ dân cư lớn.", "Trung Mỹ có nhiều dãy núi; trong đó dài nhất là dãy Sierra Madre de Chiapas, dãy Cordillera Isabelia và dãy Cordillera de Talamanca. Ở giữa các dãy núi là những thung lũng màu mỡ phù hợp cho con người sinh sống; phần lớn dân số của Honduras, Costa Rica và Guatemala sống trong các thung lũng. Thung lũng cũng là nơi phù hợp để canh tác cà phê, đậu và các loại hoa màu khác.", "Khí hậu.", "Bắc Mỹ là một lục địa rất lớn kéo dài từ vòng Bắc Cực đến chí tuyến Bắc. Greenland, cũng như khu vực Canadian Shield, có khí hậu đài nguyên với nhiệt độ trung bình , tuy nhiên, ở trung tâm Greenland là một dải băng rất lớn. Khí hậu đài nguyên này có phạm vi trên khắp Canada và kết thúc ở dãy núi Rocky (mặc dù vẫn bao gồm Alaska) cũng như ở cuối Canadian Shield, gần Ngũ Đại Hồ. Khu vực ở phía Tây dãy núi Cascade có khí hậu ôn đới với lượng mưa trung bình là . Miền duyên hải California có khí hậu Địa Trung Hải với nhiệt độ trung bình ở các thành phố như San Francisco là trong suốt cả năm. Khu vực từ bờ Đông đến phía Đông tiểu bang North Dakota (theo chiều ngang) và đến tiểu bang Kansas (theo chiều dọc) có khí hậu lục địa ẩm với các mùa rõ rệt và lượng mưa trung bình hàng năm lớn, ví dụ như ở Thành phố New York.", "Sinh thái.", "Các loài động vật nổi bật ở Bắc Mỹ bao gồm bò bison, gấu đen, báo đốm, báo sư tử, cầy thảo nguyên, gà tây, linh dương sừng nhánh, gấu mèo, sói đồng cỏ và bướm vua.", "Các loài thực vật nổi bật được canh tác ở Bắc Mỹ bao gồm thuốc lá, ngô, bí, cà chua, hoa hướng dương, việt quất, bơ, bông Mexico, ớt và vani.", "Liên kết ngoài.", " tại Wikimedia Commons" ]
856
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=856
Nga
[ "Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.", "Nga (Nga: , [rɐˈsʲijə]), tên đầy đủ là Liên bang Nga (Nga: , [rɐˈsʲijskəjə fʲɪdʲɪˈraʦəjə], viết tắt là RF) là một quốc gia Cộng hòa Liên bang nằm ở phía Bắc của lục địa Á - Âu, đây là quốc gia có diện tích lớn nhất trên thế giới.", "Nga là một nhà nước cộng hòa liên bang với 85 thực thể liên bang. Nga có biên giới giáp với những quốc gia sau (từ tây bắc đến đông nam): Na Uy, Phần Lan, Estonia, Latvia, Litva và Ba Lan (cả hai đều qua tỉnh Kaliningrad), Belarus, Ukraina, Gruzia, Azerbaijan, Kazakhstan, Trung Quốc, Mông Cổ và Bắc Triều Tiên. Nước này cũng có biên giới trên biển với Nhật Bản (qua biển Okhotsk), Thổ Nhĩ Kỳ (qua biển Đen) và Hoa Kỳ (qua eo biển Bering), giáp với Canada qua Bắc Băng Dương. Với diện tích 17,098,246 km² (6,601,670 mi²), Nga là nước có diện tích lớn nhất thế giới, bao phủ gần 1/9 diện tích lục địa Trái Đất. Nga cũng là nước đông dân thứ 9 thế giới với 145,8 triệu người (2020). Lãnh thổ Nga kéo dài toàn bộ phần phía bắc châu Á và 40% Châu Âu, bao gồm 11 múi giờ và sở hữu nhiều loại môi trường, địa hình. Nga có trữ lượng khoáng sản và năng lượng lớn nhất thế giới - được coi là một trong những siêu cường năng lượng. Nga cũng có diện tích rừng lớn nhất thế giới và các hồ của Nga chứa xấp xỉ 25% - tức 1/4 lượng nước ngọt không đóng băng của thế giới.", "Nga đã thiết lập tầm ảnh hưởng trên khắp thế giới từ thời Đế quốc Nga. Dưới thời kỳ Liên bang Xô viết, nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, Liên Xô được công nhận là một trong hai siêu cường trên thế giới thời đó cùng với Hoa Kỳ, đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong thắng lợi của Khối Đồng Minh trong Thế chiến II. Liên bang Nga được thành lập kể từ sau sự sụp đổ và tan rã của Liên Xô cùng Khối phía Đông vào năm 1991 và được công nhận là sự kế tục pháp lý của Nhà nước Xô viết.", "Năm 2020, Liên bang Nga với 145,8 triệu dân có quy mô nền kinh tế lớn thứ 11 thế giới theo GDP danh nghĩa hoặc đứng thứ 6 toàn cầu theo sức mua tương đương. GDP danh nghĩa theo thống kê của IMF đạt 1,467 nghìn tỷ USD, xếp hạng 11 sau Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Anh, Ấn Độ, Pháp, Ý, Canada và Hàn Quốc. GDP theo sức mua (PPP) đạt 4,021 nghìn tỷ USD, đứng hạng 6 sau Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ, Nhật và Đức. Cũng theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, thu nhập bình quân đầu người của Nga ước tính theo danh nghĩa năm 2020 là 9,972 USD/người, còn tính theo sức mua tương đương là 27,394 USD/người, lần lượt xếp hạng 61 và 50 trên thế giới.", "Nga có ngân sách quốc phòng lớn thứ 11 thế giới năm 2021. Đây là một trong những nhà nước sở hữu vũ khí hạt nhân được công nhận và đồng thời sở hữu kho vũ khí hủy diệt hàng loạt lớn nhất thế giới. Nga là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, G20, APEC, SCO, EurAsEC và lãnh đạo của Cộng đồng các Quốc gia Độc lập. Nga cũng như tiền thân Liên Xô có truyền thống lâu đời trong nhiều lĩnh vực khoa học, văn hóa, nghệ thuật, bao gồm những thành tựu quan trọng đầu tiên về công nghệ hạt nhân, vũ trụ. Nga cũng là một cường quốc quân sự.", "Mặc dù vậy, Nga hiện nay cũng đang phải đối mặt với rất nhiều vấn đề, thách thức như phát triển chưa tương xứng với vị thế và tiềm năng (không còn duy trì được sức phát triển cùng vị thế siêu cường thế giới như thời Liên Xô, nước Nga hiện đại dù cho là một cường quốc cũng như siêu cường tiềm năng tuy nhiên vẫn là một nước đang phát triển), tỷ lệ tội phạm cao, tỷ lệ tự sát cao, chủ nghĩa khủng bố, xung đột sắc tộc, sụt giảm dân số do chênh lệch giới tính cùng tỉ lệ sinh giảm, tình trạng nghiện rượu của nam giới, nạn tham nhũng trong giới lãnh đạo cũng như tác động của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2014 và các lệnh trừng phạt, cấm vận, cô lập kinh tế, quân sự, ngoại giao từ phía Hoa Kỳ, NATO, đồng minh cùng Liên minh châu Âu.", "Nguồn gốc tên gọi.", "Tên tiếng Nga.", "Tên gọi \"Rossiya\" có nguồn gốc từ Rus, một quốc gia thời Trung Cổ có dân cư chủ yếu là người Đông Slav. Tuy nhiên, bản thân tên gọi này chỉ mới xuất hiện trong các sử liệu khá gần đây và cư dân của quốc gia này gọi đất nước của họ với cái tên \"Русская Земля\" (russkaya zemlya), có thể tạm dịch là \"Xứ sở của người Rus'\". Các sử gia hiện đại gọi quốc gia này là \"Rus Kiev\" để phân biệt nó với các quốc gia hậu thân. Bản thân danh xưng \"Rus\" có nguồn gốc từ tộc danh của người Rus, một phân nhóm của tộc Varangia (họ có lẽ chính là người Viking Swede), những người có công thành lập quốc gia Rus (Русь).", "Phiên bản Latinh cổ của cái tên Rus' là Ruthenia, chủ yếu được dùng để chỉ các vùng phía tây và phía nam của Rus' - những nơi gần kề với châu Âu Công giáo. Tên gọi hiện nay của quốc gia, Россия (Rossiya), bắt nguồn từ tên gọi tiếng Hy Lạp Trung đại của Rus Kiev, Ρωσσία \"Rossía\"— viết là Ρωσία (\"Rosía\" ]) trong tiếng Hy Lạp hiện đại.", "Tên tiếng Việt.", "Hiện tại, quốc hiệu thông dụng của nước Nga trong tiếng Trung là \"Nga La Tư\" (俄羅斯, éluósì). Về nguồn gốc của từ \"Nga La Tư\", có thuyết cho rằng: vào trước thời nhà Nguyên, khi người Mông Cổ tiếp xúc với quốc gia này, do tiếng Mông Cổ không có phụ âm \"r\" đứng đầu, để tiện cho việc phát âm nên đã lặp lại nguyên âm trong âm thứ nhất của từ. Россия (Rossiya) vì thế biến đổi thành оРоссия (oRossiya), đến thời Nguyên thì người Mông Cổ sử dụng dịch danh Hán tự là \"Oát La Tư\" (斡羅思, wòluósì), phiên âm từ \"o-Ro-ssi\" và bỏ \"ya\". Những năm đầu thời nhà Thanh, trong nhiều văn hiến có sử dụng tên gọi \"La Sát\" (羅剎), song khi xưng hô giữa quốc gia với nhau thì phần nhiều dịch là Ngạc La Tư (鄂羅斯) hoặc Nga La Tư (俄羅斯). Vào những năm Càn Long thời Thanh, khi soạn \"Tứ khố toàn thư\" thì chính thức thay đổi thành Nga La Tư (俄羅斯, éluósì). Do vậy theo phân tích trên thì chữ \"Nga\" lại không phiên âm cho âm tiết nào trong từ \"Rossiya\" cả.", "Lịch sử.", "Lịch sử của nước Nga bắt đầu từ lịch sử Đông Slav. Nhà nước Đông Slav đầu tiên, nước Rus' Kiev, đã chấp nhận việc du nhập Ki-tô giáo từ Đế quốc Đông La Mã vào năm 988 khởi đầu sự tổng hòa các nền văn hoá Đông La Mã và Slav lập ra văn hoá Nga trong một nghìn năm tiếp theo. Nước Rus' Kiev nhanh chóng tan rã không còn là một Nhà nước nữa, cuối cùng chịu đầu hàng quân xâm lược Mông Cổ trong những năm 1230. Trong thời gian này, một số lãnh đạo địa phương, đặc biệt là xứ Novgorod và xứ Pskov, đã chiến đấu để thừa kế di sản văn hoá và chính trị của nước Rus' Kiev.", "Sau thế kỷ XIII, Moskva dần trở thành trung tâm văn hoá. Tới thế kỷ XVIII, Đại công quốc Moskva đã trở thành Đế quốc Nga rộng lớn, trải dài từ Ba Lan về phía đông tới Thái Bình Dương. Sự mở rộng về phía tây càng khiến nước Nga nhận thức được sự khác biệt của họ với đa phần còn lại của châu Âu và phá vỡ sự cô lập từng xảy ra ở những giai đoạn đầu mở rộng. Thời này có Nga hoàng Pyotr Đại Đế xóa bỏ một nước Nga lạc hậu, nửa Á Đông, tiến hành sự nghiệp lớn lao đổi mới đất nước. Các vị Nữ hoàng Anna, Elizaveta Petrovna và Ekaterina II đều lên ngôi với những cuộc đảo chính do Ngự Lâm quân hỗ trợ. Với chính sách bành trướng, phát triển thực lực của đất nước, triều đình Nga hoàng đã phá bỏ mối đe dọa từng có từ Vương quốc Thụy Điển và Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman. Các triều đại nối tiếp nhau trong thế kỷ XIX đã đối phó với những áp lực đó bằng sự kết hợp giữa các cuộc cải cách miễn cưỡng và trấn áp. Chế độ nông nô Nga đã bị bãi bỏ năm 1861, nhưng sự huỷ bỏ này thực sự chỉ gây thêm phiền toái cho người nông dân và càng khiến áp lực cách mạng tăng cao. Trong khoảng thời gian từ khi chế độ nông nô bị huỷ bỏ tới khi bắt đầu Chiến tranh thế giới lần thứ nhất năm 1914, các cuộc cải cách Stolypin, hiến pháp 1906 và Duma quốc gia đã mang lại những thay đổi đáng kể cho nền kinh tế và chính trị Nga, nhưng các hoàng đế Nga vẫn không muốn rời bỏ quyền lực tuyệt đối, hay chia sẻ quyền lực.", "Cách mạng Nga năm 1917 được khởi phát từ một sự tổng hợp các yếu tố tan rã kinh tế, tình trạng kiệt quệ do chiến tranh, và sự bất bình với hệ thống chính phủ chuyên quyền, và lần đầu tiên một liên minh giữa những người tự do và xã hội chủ nghĩa ôn hoà lên nắm quyền lực, nhưng các chính sách sai lầm của họ đã khiến những người Cộng sản Bolshevik chiếm quyền lực vào ngày 25 tháng 10 (lịch Julius, tức ngày 7 tháng 11 theo lịch Gregory). Từ năm 1922 tới năm 1991, lịch sử Nga chủ yếu là Lịch sử Liên Xô, một nhà nước hoàn toàn dựa trên ý thức hệ gồm các quốc gia láng giềng của Đế quốc Nga trước Hòa ước Brest-Litovsk. Tuy nhiên, việc tiếp cận cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội khác nhau trong từng thời điểm trong lịch sử Liên Xô, từ nền kinh tế pha trộn và xã hội và văn hoá đa dạng hồi thập niên 1920 tới nền kinh tế chỉ huy và trấn áp thời Stalin tới \"thời kỳ trì trệ\" thập niên 1980. Từ những năm đầu tiên, chính phủ Liên Xô đã dựa trên nền tảng độc đảng của những người Cộng sản, như những người Bolshevik tự gọi mình, từ tháng 3 năm 1918. Tuy nhiên, tới cuối thập niên 1980, khi sự yếu kém của các cơ cấu kinh tế và chính trị đã trở nên gay gắt, các lãnh đạo cộng sản đã tiến hành các cải cách lớn, dẫn tới sự sụp đổ của Liên bang Xô viết.", "Lịch sử Liên bang Nga khá ngắn, chỉ bắt đầu từ sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991. Từ khi giành lại độc lập, nước Nga đã được công nhận là nhà nước thừa kế chính thức của Liên Xô trên bình diện quốc tế. Tuy nhiên, nước Nga đã mất vị trí siêu cường của mình và đang phải đối mặt với những thách thức trong các nỗ lực thiết lập một hệ thống kinh tế và chính trị hậu Xô viết. Loại bỏ nền kinh tế kế hoạch tập trung và quyền sở hữu nhà nước thời kỳ Xô viết, nước Nga đang nỗ lực xây dựng một nền kinh tế mang các yếu tố của thị trường tư bản, với những hậu quả nhiều khi khá nặng nề. Thậm chí ngày nay nước Nga vẫn mang nhiều nét đặc trưng văn hoá và xã hội thời kỳ Sa Hoàng và Liên Xô.", "Nước Rus' Kiev.", "Phần lớn diện tích đất đai của nước Nga ngày nay là lãnh thổ của các bộ lạc khác nhau như người Goth, Hun và Avar gốc Thổ trong khoảng thời gian từ thế kỷ III tới thế kỷ VI. Bộ lạc người Scythia gốc Iran sinh sống ở các thảo nguyên miền nam, và bộ lạc người Ca dắc (\"Khazar\") gốc Tuốc (\"Turk\") đã cai trị phần phía tây của vùng đất này cho đến thế kỷ VIII. Sau đó họ đã bị bộ lạc gốc Scandinavi là người Varangia thay thế, bộ lạc này đã thiết lập thủ đô tại thành phố của người Slav Novgorod và dần dần hòa trộn với người Slav. Người Slav tạo thành nhóm dân cư chính từ thế kỷ VIII trở đi và đồng hóa một cách chậm chạp cả những người gốc Scandinavi cũng như các bộ lạc bản địa gốc Phần Lan-Ugric, chẳng hạn như người Merya, Muromia và Meshchera.", "Chính quyền của người Varangia tồn tại trong vài thế kỷ, trong thời gian đó họ liên kết với Chính thống giáo và chuyển thủ đô về Kiev năm 1169. Trong kỷ nguyên này thuật ngữ \"Rhos\", hoặc \"Russ\" lần đầu tiên được sử dụng để chỉ người Varangia và người Slav sinh sống trong khu vực. Từ thế kỷ X đến thế kỷ XI quốc gia Rus' Kiev (\"Киевская Русь\") đã trở thành lớn nhất ở châu Âu và rất thịnh vượng nhờ các hoạt động thương mại tích cực với cả châu Âu và châu Á.", "Trong thế kỷ XIII khu vực này trở nên suy yếu vì những tranh chấp nội bộ và bị tàn phá bởi những kẻ xâm lược phương đông là Kim trướng của người Mông Cổ và các bộ lạc Hồi giáo gốc Turk, là những kẻ đã cướp bóc các công quốc Nga trên ba thế kỷ. Còn được biết đến như là người Tatar, họ đã cai trị vùng miền nam và miền trung Nga ngày nay, trong khi các vùng miền tây bị sáp nhập vào Đại công quốc Lietuva và Ba Lan. Sự chia cắt về chính trị của Rus Kiev đã tách người Nga ở phía bắc ra khỏi người Belarus và người Ukraina ở phía tây.", "Phần phía bắc của Nga cùng với Novgorod vẫn giữ được sự tự trị ở một mức độ nhất định trong thời gian cai trị của người Mông Cổ. Tuy thế Nga cũng đã phải chiến đấu chống lại đội quân thập tự chinh của người Đức khi người Đức có ý đồ chiếm khu vực này làm thuộc địa.", "Giống như khu vực Balkan và Tiểu Á sự cai trị kéo dài của những người du mục đã làm chậm sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước này. Sự chuyên quyền kiểu châu Á đã ảnh hưởng tiêu cực tới thể chế dân chủ của đất nước cũng như tới văn hóa và kinh tế.", "Bất chấp điều đó, không giống như lãnh đạo tinh thần của mình là Đế chế Byzantine, Nga đã không suy tàn và tổ chức những cuộc nổi dậy để giành độc lập, cuối cùng đã khuất phục được các kẻ thù của mình và khôi phục, mở mang lãnh thổ. Sau thất thủ của Constantinople năm 1453, Nga là quốc gia Chính thống giáo duy nhất còn thực sự hoạt động nhiều hay ít ở phần biên giới phía đông châu Âu, điều này cho phép Nga có quyền nhận mình là quốc gia kế tục hợp pháp của Đế chế Byzantine.", "Đế quốc Nga.", "Trong khi về danh nghĩa vẫn nằm dưới sự cai trị của người Mông Cổ thì đại công quốc Moskva đã bắt đầu xác nhận ảnh hưởng của mình và cuối cùng đã thoát khỏi sự kiểm soát của những kẻ xâm lăng vào cuối thế kỷ XIV. Ivan Hung đế, vị vua đầu tiên xưng tước vị Sa hoàng, đã kết thúc quá trình này và liên kết các khu vực xung quanh dưới ảnh hưởng của Moskva và tiến quân tới những vùng đất rộng lớn ở Siberia. Đế chế Nga ra đời.", "Sự kiểm soát của Moskva đối với quốc gia mới ra đời còn tiếp tục dưới triều đại Romanov kế tiếp, bắt đầu với Sa hoàng Mikhail Romanov năm 1613. Pyotr Đại đế, Sa hoàng từ 1689 tới 1725, đã thành công trong việc đem các tư tưởng và văn hóa từ Tây Âu vào Nga, khi đó còn chịu ảnh hưởng lớn của nền văn hóa du mục nguyên thủy. Những cải cách của Pyotr cùng với chiến thắng của Nga đánh bại Thụy Điển trong Đại chiến Bắc Âu chống quân Thụy Điển đã đưa Nga vươn lên thành một trong những cường quốc châu Âu khi đó. Các nữ hoàng Elizaveta (Елизаве́та; cai trị 1740-1762), Ekaterina Đại đế (Екатерина II Алексеевна; 1762-1796) đã tiếp bước gầy dựng Đế quốc Nga, bảo trợ khoa học, nghệ thuật, chinh phục nhiều vùng đất lớn của Thụy Điển, Thổ Nhĩ Kỳ và đánh bại Phổ trong chiến tranh Bảy năm.", "Tuy nhiên, sự nổi loạn của nông nô bị áp bức và sự cấm đoán tầng lớp trí thức đang phát triển và các giai cấp gần gũi với giai cấp này, cộng thêm gánh nặng thất bại (trận Hải chiến Đối Mã) trước người Nhật trong chiến tranh Nga-Nhật năm 1905 đã dẫn đến cuộc Cách mạng 1905. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, vai trò của Sa hoàng Nikolai II (Николай Александрович Романов) và triều đại của ông là không vững chắc. Những thất bại nặng nề của quân đội Nga trong Chiến tranh thế giới thứ nhất đã dẫn đến sự nổi dậy rộng khắp trong các thành phố chính của Đế chế Nga và dẫn tới sự sụp đổ của nhà Romanov năm 1917, đó là Cách mạng tháng Hai.", "Vào giai đoạn cuối của Cách mạng tháng Mười (1917), những người theo đường lối Bolshevik của Đảng Cộng sản dưới sự lãnh đạo của Vladimir Ilyich Lenin đã giành được chính quyền thành lập Liên Xô. Sự lãnh đạo của Iosif Vissarionovich Stalin đã thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa một đất nước chủ yếu là nông nghiệp và tập thể hóa nền nông nghiệp đưa đất nước phát triển vượt bậc. Điều này cũng làm tăng cường vị thế của Liên Xô.", "Nga Xô viết.", "Sau Cách mạng tháng 10, một cuộc nội chiến bùng phát giữa phong trào Cách mạng Bolsheviks và quân Bạch vệ phản cách mạng, tuy Hòa ước Brest-Litovsk đã chấm dứt những thù địch với Liên minh Trung tâm trong Thế chiến I. Nga đã mất các lãnh thổ tại Ukraina, Ba Lan, Baltic, Phần Lan khi ký kết hiệp ước. Các cường quốc Đồng Minh can thiệp quân sự hỗ trợ cho các lực lượng chống đảng Bolshevik. Tới cuối cuộc Nội chiến Nga, nền kinh tế và cơ sở hạ tầng của Nga đã bị phá huỷ nghiêm trọng, gây ra nạn đói năm 1921 đã làm thiệt mạng từ 1 tới 5 triệu người. Nhờ sự ủng hộ của người dân và lý tưởng chiến đấu cao, lực lượng Xô viết cuối cùng đã đánh bại Bạch Vệ, đánh đuổi được quân của các ngoại quốc can thiệp và thống nhất đất nước.", "Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga cùng với các nước cộng hoà thuộc Liên xô khác dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã thành lập Liên bang Xô viết ngày 30 tháng 12 năm 1922. Trong số 15 nước cộng hoà thành lập Liên Xô, Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga, nước cộng hoà lớn nhất về diện tích và chiếm tới hơn một nửa dân số Nga, chiếm đa số dân cư tại Liên bang Xô viết trong toàn bộ lịch sử 89 năm của nó. Vì thế, Liên bang Xô viết thường được gọi, dù một cách không chính thức, là \"Nga\" và người dân của nó là \"người Nga\".", "Sau khi Lenin qua đời năm 1924, một lãnh đạo Bolshevik khác là Joseph Stalin lên củng cố quyền lực. Ông bãi bỏ các chính sách kinh tế thị trường của Lenin và đưa ra một nền kinh tế chỉ huy, nhanh chóng công nghiệp hoá đất nước vẫn còn hầu hết là nông nghiệp, tập thể hoá nền nông nghiệp. Những động thái này đã biến Liên Xô từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu trở thành một cường quốc công nghiệp thứ 2 thế giới chỉ trong một thời gian rất ngắn, chưa đầy 20 năm. Tuy nhiên, sự chuyển tiếp này cũng đi kèm với hậu quả, hàng triệu người đã phải di cư tới những vùng xa xôi (xem Phi kulak hoá, Di chuyển dân cư tại Liên xô).", "Ngày 22 tháng 6 năm 1941, Phát xít Đức xâm lược Liên Xô với lực lượng lớn và mạnh nhất trong lịch sử nhân loại, mở ra mặt trận đẫm máu của Thế chiến II. Dù quân đội Đức có những thắng lợi lớn ở thời điểm ban đầu, cuộc tấn công của họ đã bị chặn lại trong Trận Moskva; sau đó người Đức đã phải chịu nhiều thất bại quan trọng khác, đầu tiên tại Trận Stalingrad mùa đông năm 1942–1943, sau đó tại Trận chiến Vòng cung Kursk vào mùa hè năm 1943. Một nơi khác đánh dấu thất bại của Phát xít Đức trước chủ nghĩa anh hùng Liên Xô là thành phố Leningrad, nơi bị các lực lượng Đức phong tỏa hoàn toàn trên đất liền giai đoạn 1941–44 và phải chịu nạn đói với hàng triệu người chết, nhưng thành phố đã không chịu đầu hàng. Dưới sự lãnh đạo của các vị tướng xuất chúng như Georgy Zhukov và Konstantin Rokossovsky, các lực lượng Liên Xô đã chuyển sang giai đoạn phản công, tiến qua Đông Âu năm 1944–45 và chiếm Berlin tháng 5 năm 1945. Sau đó, quân đội Liên xô đẩy lùi Nhật Bản khỏi vùng Mãn Châu của Trung Quốc và Bắc Triều Tiên, một đóng góp quan trọng vào thắng lợi của Đồng Minh trước Nhật Bản.", "Giai đoạn 1941–1945 của Thế chiến II được gọi là \"Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại\" tại Nga. Trong cuộc xung đột này, vốn gồm nhiều chiến dịch quân sự có thiệt hại nhân mạng lớn nhất trong lịch sử loài người, con số thiệt mạng của Liên Xô là 8,7 triệu binh sĩ và 15,9 triệu thường dân chiếm khoảng một phần ba tổng số thương vong trong Thế chiến II. Kinh tế và hạ tầng Liên Xô bị phá hủy nặng nề nhưng Liên bang Xô viết đã nổi lên trở thành một siêu cường được công nhận. Hồng quân chiếm Đông Âu sau cuộc chiến, gồm cả nửa phía đông của nước Đức; Stalin đã thiết lập các chính phủ xã hội chủ nghĩa tại các quốc gia vệ tinh này. Trở thành cường quốc hạt nhân số hai thế giới, Liên Xô đã thành lập Khối hiệp ước Warszawa đồng minh và bước vào một cuộc đấu tranh giành ảnh hưởng trên thế giới với Hoa Kỳ, được gọi là cuộc Chiến tranh Lạnh. Liên Xô đã đưa Chủ nghĩa Cộng sản của mình tới những đồng minh mới giành được độc lập, Trung Quốc cùng với Bắc Triều Tiên, trong khi cũng giúp các nước này thực hiện công nghiệp hoá và phát triển. Sau đó các ý tưởng của Chủ nghĩa Cộng sản cũng đã giành được chỗ đứng tại Cuba và nhiều quốc gia khác.", "Sau khi Stalin qua đời, một lãnh đạo mới Nikita Khrushchev lên án sự sùng bái cá nhân với Stalin và khởi động quá trình phi Stalin hoá. Các Gulag bị bãi bỏ và đại đa số tù nhân được thả ra; việc loại bỏ các chính sách của Stalin sau này được gọi là thời kỳ tan băng Khruschev. Liên bang Xô viết phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên của thế giới, \"Sputnik 1\", và nhà du hành vũ trụ Nga Yuri Gagarin trở thành người đầu tiên bay quanh Trái Đất trên tàu vũ trụ có người điều khiển đầu tiên, \"Vostok 1\". Những căng thẳng với Hoa Kỳ lên cao khi hai đối thủ xung đột về việc Mỹ triển khai các tên lửa Jupiter tại Thổ Nhĩ Kỳ và Liên xô triển khai tên lửa tại Cuba.", "Sau khi Khrushchev bị buộc phải từ chức, một giai đoạn cầm quyền tập thể ngắn khác kế tiếp, cho tới khi Leonid Brezhnev lên nắm quyền lãnh đạo chính trị Liên Xô vào đầu thập niên 1970. Thời kỳ cầm quyền của Brezhnev chứng kiến giai đoạn trì trệ kinh tế, bởi những nỗ lực cải cách của Thủ tướng Alexey Kosygin, đã bị dừng lại. Những cuộc cải cách này có mục tiêu chuyển trọng tâm của nền kinh tế Liên Xô từ công nghiệp nặng và sản xuất quân sự sang công nghiệp nhẹ và sản xuất hàng tiêu dùng, tuy nhiên điều này cũng có nghĩa là việc phi tập trung hoá nền kinh tế và áp dụng các yếu tố kiểu tư bản, và giới lãnh đạo trung thành với Chủ nghĩa cộng sản sẽ không bao giờ chấp nhận nó. Từ năm 1979 cuộc chiến tranh Xô viết tại Afghanistan đã làm hao mòn các nguồn tài nguyên kinh tế mà không mang lại một kết quả có ý nghĩa chính trị nào. Cuối cùng các lực lượng Liên Xô đã rút khỏi Afghanistan năm 1989 vì sự phản đối quốc tế và thiếu sự ủng hộ từ trong nước. Căng thẳng giữa Liên Xô và Mỹ lại gia tăng vào đầu thập niên 1980, được tăng cường bởi tình cảm chống Liên Xô tại Mỹ, đề xuất SDI, và vụ bắn hạ chuyến bay 007 của Korean Air Lines năm 1983 của Liên Xô.", "Trước năm 1991, kinh tế Liên Xô luôn là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, nhưng trong những năm cuối cùng nó đã bị ảnh hưởng bởi sự thiếu hụt hàng hoá, những khoản thâm hụt tài chính và việc tăng nguồn cung tiền đã dẫn tới lạm phát. Từ năm 1985 trở về sau, lãnh đạo cuối cùng của Liên Xô Mikhail Gorbachev đã đưa ra các chính sách \"glasnost\" (mở cửa) và \"perestroika\" (tái cơ cấu) trong một nỗ lực nhằm hiện đại hoá đất nước và biến nó thành dân chủ hơn. Tuy nhiên, việc này đã dẫn tới sự trỗi dậy của các phong trào ly khai và sự giải tán Liên Xô. Tháng 8 năm 1991, một cuộc đảo chính quân sự bất thành, chống lại Gorbachev nhằm mục tiêu duy trì Liên Xô, nhưng cuộc đảo chính thất bại và đã dẫn tới sự tan rã của Liên Xô. Tại Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga, Boris Yeltsin lên nắm quyền lực và tuyên bố chấm dứt chế độ xã hội chủ nghĩa. Liên Xô tan rã thành 15 nước cộng hoà độc lập và chính thức giải tán tháng 12 năm 1991. Boris Yeltsin được bầu làm Tổng thống Nga tháng 6 năm 1991, cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp đầu tiên trong lịch sử Nga.", "Liên bang Nga (1991 tới nay).", "Vào giai đoạn giữa và cuối thập niên 1980, Mikhail Sergeyevich Gorbachov đề ra \"glasnost\" (\"гласность\" tức \"công khai hóa, mở cửa\") và \"perestroika\" (\"Перестройка\" tức \"cải tổ\") trong cố gắng để hiện đại hóa chủ nghĩa cộng sản. Những sáng kiến của ông đã vô tình giải phóng các lực lượng mà vào tháng 12 năm 1991 đã chia tách Liên Xô thành 15 nước cộng hòa độc lập trong đó Nga là lớn nhất. Kể từ đó, Nga đã cố gắng để xây dựng một hệ thống chính trị đa đảng và kinh tế thị trường theo mô hình tư bản chủ nghĩa nhằm thay thế cho các sự kiểm soát chặt chẽ về xã hội, chính trị, kinh tế trong thời kỳ Liên Xô. Tuy nhiên, quá trình này không diễn ra êm ả. Kinh tế Nga suy sụp đáng kể trong 10 năm cầm quyền của Tổng thống Boris Yeltsin. Kể từ khi Chechnya tuyên bố độc lập vào đầu những năm thập niên 1990, những cuộc chiến tranh du kích (Chiến tranh Chechnya lần 1, Chiến tranh Chechnya lần 2) đã diễn ra giữa các nhóm người Chechen khác nhau với quân đội Nga. Một số các nhóm này đã trở thành những kẻ Hồi giáo cực đoan theo tiến trình của cuộc chiến. Ước tính có trên 200.000 người đã chết trong các cuộc xung đột này. Các cuộc xung đột nhỏ hơn diễn ra ở Bắc Ossetia và Ingushetia.", "Sau thời gian làm tổng thống của Boris Yeltsin trong những năm thập niên 1990, Vladimir Vladimirovich Putin đã được bầu làm tổng thống năm 1999. Dưới thời kỳ Putin, một số giá trị và chính sách của Liên Xô được tái áp dụng, sự kiểm duyệt của nhà nước đối với các phương tiện thông tin đại chúng ở Nga tăng lên. Phương Tây luôn chỉ trích về nhân quyền ở Nga trong thời kỳ Vladimir Putin lãnh đạo, nhưng thời kỳ này đã chứng kiến việc Nga thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế và chính trị, và uy tín của Putin với người dân Nga tăng lên rất cao.", "Với sự mất đi ảnh hưởng của Nga tại Gruzia (Cách mạng hồng), Ukraina (Cách mạng da cam), Kyrgyzstan (Cách mạng Tulip) và một số quốc gia cựu thành viên Xô viết cũ, cũng như các vấn đề hiện nay về kinh tế và chủ nghĩa ly khai (nổi cộm nhất là ở Chechnya), một số bình luận viên cho rằng có nguy cơ an ninh đối với nước Nga vẫn là rất cao.", "Sau cuộc chiến chớp nhoáng (07 - 12/08/2008) nhằm trả đũa việc quân đội Gruzia tấn công những người Nga và lực lượng gìn giữ hòa bình của Nga ở Nam Ossetia, Nga công nhận độc lập và chủ quyền của 2 vùng tự trị Abkhazia và Nam Ossetia (26/08/2008). Năm 2014, Nga sáp nhập bán đảo Crimea sau cuộc trưng cầu dân ý của người địa phương. Cuối năm 2015, Nga đem quân hỗ trợ chính phủ Syria trong cuộc chiến chống lại các nhóm nổi dậy và nhà nước Hồi giáo IS. Các động thái này cho thấy tham vọng của Nga trong việc lấy lại vị thế và tiếng nói trong khu vực SNG và cao hơn nữa có thể là việc trở lại vị thế siêu cường của Liên bang Xô viết trong một hoàn cảnh hoàn toàn mới.", "Chính phủ và chính trị.", "Theo hiến pháp Nga sau khi chế độ cộng sản sụp đổ, được thông qua trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 12 tháng 12 năm 1993 sau cuộc khủng hoảng hiến pháp Nga năm 1993, Nga là một liên bang và theo chính thức là một nền cộng hoà bán tổng thống, theo đó Tổng thống là nguyên thủ quốc gia và Thủ tướng là lãnh đạo chính phủ. Nga được cơ cấu theo nền tảng một chế độ dân chủ đại diện. Quyền hành pháp thuộc chính phủ. Quyền lập pháp thuộc hai viện của Quốc hội Liên bang. Chính phủ được điều chỉnh bằng một hệ thống kiểm tra và cân bằng được định nghĩa trong Hiến pháp Liên bang Nga, là tài liệu pháp lý tối cao của đất nước và khế ước xã hội cho người dân Liên bang Nga. Chính phủ Liên bang gồm ba nhánh:", "Theo hiến pháp, phán quyết tại toà dựa trên tính bình đẳng của mọi công dân, các thẩm phán là độc lập và chỉ làm theo pháp luật, các phiên toà được mở và người bên bị được quyền có luật sư bào chữa. Từ năm 1996, Nga đã quy định đình hoãn hình phạt tử hình, dù hình phạt tử hình chưa bị pháp luật bãi bỏ.", "Tổng thống được bầu theo phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ sáu năm (được tham gia tranh cử nhiệm kỳ hai nhưng bị hiến pháp cấm cầm quyền ba nhiệm kỳ liên tiếp); cuộc bầu cử gần nhất được tổ chức năm 2018. Các bộ của chính phủ gồm thủ tướng và các phó thủ tướng, bộ trưởng và các cá nhân được lựa chọn khác; tất cả đều do tổng thống chỉ định theo sự giới thiệu của Thủ tướng (tuy nhiên việc chỉ định thủ tướng phải được Duma Quốc gia thông qua).", "Nhánh lập pháp quốc gia là Quốc hội Liên bang, gồm hai viện; Duma Quốc gia với 450 thành viên và Hội đồng Liên bang 176 thành viên. Các đảng chính trị lớn của Nga gồm Nước Nga Thống nhất, Đảng Cộng sản, Đảng Dân chủ Tự do Nga, và Nước Nga Công bằng.", "Quan hệ ngoại giao.", "Liên bang Nga được luật pháp quốc tế công nhận là nhà nước kế tục của Liên Xô cũ. Nga tiếp tục thực hiện các cam kết quốc tế của Liên Xô, và đã nhận chiếc ghế thường trực của Liên xô tại Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, tư cách thành viên trong các tổ chức quốc tế khác, các quyền và nghị vụ theo các hiệp ước quốc tế, tài sản và các khoản nợ. Nga có chính sách đối ngoại đa dạng. Ở thời điểm năm 2009, nước này có quan hệ ngoại giao với 173 quốc gia và có 142 đại sứ quán.", "Chính sách đối ngoại được Tổng thống Nga vạch ra và được Bộ ngoại giao thực hiện.", "Là một trong thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, Nga đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Nước này tham gia vào Nhóm bộ tứ cho Trung Đông và Đàm phán sáu bên về vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên. Nga là một thành viên của G8, Hội đồng châu Âu, OSCE và APEC. Nga thường có vai trò lãnh đạo trong các tổ chức cấp vùng như CSI, EurAsEC, CSTO, và SCO. Cựu tổng thống Vladimir Putin đã ủng hộ một đối tác chiến lược với sự hội nhập ở nhiều cấp độ gồm cả việc thành lập bốn không gian chung giữa Nga và EU. Từ khi Liên Xô sụp đổ, Nga đã phát triển một mối quan hệ thân cận hơn dù không ổn định với NATO. Hội đồng NATO-Nga được thành lập năm 2002 để cho phép 26 nước Đồng minh và Nga cùng làm việc như những đối tác bình đẳng để theo đuổi sự hợp tác chung.", "Mối quan hệ giữa Nga và Hoa Kỳ trở nên ngày càng căng thẳng trong những năm gần đây sau những sự kiện như cuộc khủng hoảng ở Ukraina năm 2014 dẫn tới việc Nga sáp nhập Crimea, sự can thiệp quân sự của Nga trong cuộc Nội chiến Syria vào năm 2015, và từ cuối năm 2016 với những nghi ngờ về một sự can thiệp của Nga vào cuộc bầu cử tổng thống tại Mỹ.", "Quan hệ giữa Nga và Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu trong các vấn đề song phương và đa phương thời gian qua. Liên minh Nga – Trung Quốc hoạt động dựa trên nguyên tắc về lợi ích chung nhưng quan hệ chiến lược với Trung Quốc sẽ thực sự là một áp lực trong thập kỷ tiếp theo. Vấn đề trở ngại lớn nhất là sự nới rộng khoảng cách giữa Trung Quốc là nền kinh tế bùng nổ và một nước Nga kém hiện đại hóa đang già cỗi về chính trị. Nga là nạn nhân của sự chuyển hướng toàn cầu sang phương Đông bởi vì nước Nga không thể thích nghi với những đòi hỏi của kỷ nguyên hậu công nghiệp và quan hệ đối tác cân bằng với Trung Quốc trở nên thiếu bền vững và nỗi lo ngại cũ về \"mối đe dọa Trung Quốc\" sẽ tái hiện. Đối với Trung Quốc, Nga vẫn là một nguồn cung cấp dầu khí hữu ích, tuy kém quan trọng hơn nhiều so với vùng Vịnh và châu Phi.", "Theo Ngoại trưởng Sergei Lavrov, Nga cần phải xây dựng \"liên minh hiện đại hoá\" với các nước châu Âu để tiếp thu những công nghệ cần thiết và \"cần tìm cơ hội khai thác tiềm năng công nghệ của Mỹ\" khiến cho Mỹ hết sức cảnh giác. Nga coi Đức, Pháp, Ý và Tây Ban Nha là những đối tác gần gũi nhất của Nga ở châu Âu.", "Trong khi Nga thường được công nhận rộng rãi là một cường quốc, trong những năm gần đây một số nhà lãnh đạo thế giới, học giả, các nhà bình luận và chính trị gia đã nhìn nhận về Nga như một siêu cường đang phục hồi hoặc một siêu cường tiềm năng dù họ đang bị tụt lùi hơn so với phía Trung Quốc.", "Nhân quyền.", "Nga và Phương Tây thường xuyên có những bất đồng xung quanh vấn đề nhân quyền tại Nga. Các nước Phương Tây cáo buộc chính phủ Nga đã nhiều lần có những hành động vi phạm nhân quyền (bao gồm cấm truyền bá về cộng đồng LGBT, hạn chế tự do ngôn luận và ám sát nhà báo có tư tưởng đối lập). Đặc biệt, các tổ chức như Tổ chức Ân xá Quốc tế (Hoa Kỳ) coi Nga là không có đủ các điều kiện của một nhà nước dân chủ và chỉ trích chính phủ Nga về việc hạn chế các quyền chính trị và tự do dân sự đối với công dân của mình . Freedom House, một tổ chức quốc tế được tài trợ bởi Hoa Kỳ, xếp Nga vào nhóm các nước \"không tự do\", đồng thời cáo buộc rằng các cuộc bầu cử ở Nga đã được dàn xếp một cách tinh vi Tại cuộc họp báo chung với Tổng thống George Bush năm 2005 ở Slovakia, Tổng thống Nga Putin đã trả lời về các cáo buộc của phương Tây về vấn đề nhân quyền tại Nga. Ông cho rằng các quyền con người phải được áp dụng phù hợp với truyền thống văn hóa và quyền lợi quốc gia của Nga chứ không phải sự áp đặt từ phương Tây:", "\"Nước Nga đã đưa ra lựa chọn của mình theo hướng dân chủ. 14 năm trước, một cách độc lập, không bị bất cứ một sức ép nào từ bên ngoài, nó đã đưa ra quyết định đó trên cơ sở lợi ích của chính mình và lợi ích của người dân - những công dân của nó. Đó chính là lựa chọn cuối cùng của chúng tôi, và chúng tôi không có con đường quay trở lại.\"", "\"Đầu tiên, chúng tôi không chuẩn bị tạo nên - sáng tạo bất kỳ một kiểu dân chủ đặc biệt nào của Nga; chúng tôi đang chuẩn bị đưa ra các nguyên tắc căn bản của một nền dân chủ từng được thành lập trên thế giới. Nhưng tất nhiên, tất cả các định chế dân chủ hiện đại - các nguyên tắc dân chủ phải tương xứng với tình trạng phát triển hiện tại của nước Nga, với lịch sử và truyền thống của chúng tôi.\"", "\"Không hề có điều gì bất bình thường ở đây. Về hoạt động của các thể chế dân chủ chính, có thể có một số sự khác biệt, nhưng các nguyên tắc căn bản và nền tảng đang được áp dụng theo cách thức để chúng sẽ được phát triển bởi một xã hội hiện đại và văn minh...\"", "\"Tôi tin rằng rất nhiều người sẽ đồng ý với tôi, việc áp dụng những nguyên tắc và tiêu chuẩn dân chủ không thể đi liên với sự sụp đổ quốc gia và sự nghèo đói của nhân dân.\"", "Nga được xem như là một trong những quốc gia có thái độ phản đối gay gắt về vấn đề đồng tính luyến ái, với các cuộc thăm dò gần đây cho thấy đa số người Nga không chấp nhận đồng tính luyến ái và đã bày tỏ sự ủng hộ đối với những quy định pháp luật phân biệt đối xử chống lại người đồng tính. Trong một cuộc thăm dò khác, 62,5% trong số 450 bác sĩ tâm thần được hỏi ý kiến ở Vùng Rostov coi đồng tính là một căn bệnh, và tới ba phần tư coi đó là hành vi vô đạo đức.", "Mặc dù nhận được sự chỉ trích từ phương Tây đối với tình trạng phân biệt đối xử, tội phạm và bạo lực chống lại người đồng tính, các thành phố lớn của Nga như Moskva và Sankt Peterburg được cho là có một cộng đồng LGBT phát triển mạnh. Năm 2013, nước Nga dưới thời Tổng thống Vladimir Putin đã ra bộ luật cấm mọi hình thức tuyên truyền về đồng tính luyến ái và hôn nhân đồng tính Bộ luật cấm những sự kiện cổ vũ cho người đồng tính, quy định việc cung cấp những thông tin \"tuyên truyền việc về đồng tính nữ, lưỡng tính và chuyển giới\" cho trẻ vị thành niên là phạm pháp, đồng thời các sự kiện cổ vũ cho quan hệ đồng tính cũng bị cấm. Đây là một nỗ lực nhằm tuyên dương những giá trị truyền thống của nước Nga và chống lại trào lưu cổ vũ đồng tính luyến ái, đòi hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính đến từ các nước phương Tây, mà Chính phủ Nga tin rằng đang làm băng hoại giới trẻ và phá hủy nền tảng luân lý gia đình của nước Nga, khiến nước Nga suy yếu 88% người dân Nga được phỏng vấn đã bày tỏ ủng hộ đối với lệnh cấm Tổng thống Putin cho biết chính sách cấm đồng tính luyến ái là vấn đề quan trọng cho việc duy trì dân số đất nước:", "\"Người châu Âu đang chết dần (do già hóa dân số)... và hôn nhân đồng tính không thể tạo ra trẻ em\", \"chúng tôi có sự lựa chọn cho riêng chúng tôi (nước Nga), và chúng tôi đã làm thế vì đất nước của chúng tôi\".", "Bên cạnh đó, từ năm 2015, Chính quyền thành phố Moskva và quốc hội Nga đã đề ra Ngày tình yêu gia đình để tập hợp các chiến dịch tuyên truyền bảo vệ giá trị gia đình truyền thống, ngăn chặn sự truyền bá của các nhóm hoạt động đồng tính, các tổ chức phi chính phủ đòi hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính.", "Quân đội.", "Nga thừa hưởng quyền kiểm soát các tài sản của Liên Xô ở nước ngoài và hầu hết các cơ sở chế tạo và ngành công nghiệp quốc phòng Liên Xô. Quân đội Nga được chia thành Các lực lượng lục quân, Hải quân, và Không quân. Cũng có ba nhánh quân đội độc lập: Các lực lượng tên lửa chiến lược, Các lực lượng quân sự không gian, và Quân nhảy dù. Năm 2014, Nga có 845.000 quân chính quy.", "Nga có kho vũ khí hạt nhân lớn nhất thế giới. Họ có hạm đội tàu ngầm tên lửa đạn đạo đứng thứ hai và là nước duy nhất ngoài Hoa Kỳ có một lực lượng máy bay ném bom chiến lược hiện đại. Lực lượng xe tăng Nga lớn nhất thế giới, đồng thời có lực lượng không quân và hải quân hùng hậu đứng thứ 3 thế giới.", "Nước này có một ngành công nghiệp vũ khí lớn và phát triển thừa kế từ Liên Xô, có thể sản xuất hầu hết các loại trang thiết bị quân sự với chỉ một số ít loại vũ khí phải nhập khẩu. Tuy nhiên việc thiếu kinh phí mua sắm khiến năm 2010, chỉ có khoảng 10% vũ khí trang bị của Nga là được chế tạo mới sau năm 1991, phần lớn các thiết bị còn lại được chế tạo từ thời Xô Viết. Nga nằm trong top các quốc gia cung cấp vũ khí, chiếm 30% thị phần thế giới và có sản phẩm bán tới 80 quốc gia ", "Mọi công dân nam của Nga từ 18–27 tuổi phải đăng ký thực hiện nghĩa vụ một năm trong các lực lượng vũ trang. Hiện nay, quân đội Nga đã trải qua một quá trình nâng cấp thiết bị lớn trị giá khoảng $200 tỷ trong giai đoạn 2006 đến 2015. Bộ trưởng quốc phòng Anatoliy Serdyukov giám sát các cuộc cải cách lớn với mục đích chuyển đổi từ một quân đội tập trung đông đảo thành một lực lượng chuyên nghiệp nhỏ hơn.", "Chính phủ Nga công bố ngân sách quốc phòng năm 2014 là 2,49 nghìn tỉ rub (tương đương 69,3 tỉ USD), lớn thứ 3 sau Mỹ và Trung Quốc. Ngân sách này sẽ tăng lên 3,03 nghìn tỉ rub (83,7 tỉ USD) năm 2015, 3,36 nghìn tỉ rub (93,9 tỉ USD) năm 2016.", "Phân cấp hành chính.", "\"Xem thêm\":", "Liên bang Nga là sự hợp thành của một lượng lớn các chủ thể hành chính cấp liên bang, tổng cộng là 83 đơn vị hợp thành (chủ thể) từ 01 Tháng Ba 2008 như vậy. Sáu loại đối tượng liên bang được phân biệt tại Nga có 22 nước cộng hòa trong phạm vi liên bang có mức độ tự trị cao trong phần lớn các vấn đề và chúng gần như tương ứng với khu vực sinh sống của các bộ tộc người thiểu số ở Nga. Phần còn lại của lãnh thổ bao gồm 9 vùng (\"krai\") và 46 tỉnh (\"oblast\"), 3 thành phố trực thuộc trung ương (Moskva, Sankt-Peterburg và Sevastopol), 1 tỉnh tự trị (\"avtonomnaya oblast\") và 4 khu tự trị (\"avtonomnyi okrug\").", "Gần đây nhất, 8 vùng liên bang lớn về diện tích (5 vùng ở châu Âu và 3 vùng ở châu Á) đã được bổ sung như một thể chế hành chính giữa các thể chế hành chính nói trên và cấp độ quốc gia.", "Ngày 18 tháng ba 2014, Nga và Krym đã ký hiệp ước gia nhập của nước Cộng hoà Krym và thành phố trực thuộc trung ương Sevastopol ở Liên bang Nga của Tổng thống Putin với Quốc hội. Trong giai đoạn chuyển tiếp này sẽ kéo dài đến 01 Tháng 1 năm 2015, hai bên sẽ giải quyết các vấn đề hội nhập các đối tượng mới \"trong kinh tế, tài chính, tín dụng và hệ thống pháp luật của Liên bang Nga\"", "Địa lý.", "Liên bang Nga trải dài trên phần phía bắc của siêu lục địa Á - Âu. Tuy rằng Nga chiếm phần lớn khu vực Bắc cực và cận Bắc cực nhưng có ít hơn về dân số, hoạt động kinh tế cũng như các sự đa dạng vật lý trên một đơn vị diện tích so với phần lớn các khu vực khác, phần lớn diện tích ở phía nam của khu vực này có phong cảnh và khí hậu đa dạng hơn. Phần lớn đất đai Nga là các đồng bằng rộng lớn, ở cả châu Âu và châu Á, được biết đến như là Siberia. Các đồng bằng này chủ yếu là thảo nguyên về phía nam và rừng rậm về phía bắc, với các tundra (lãnh nguyên) dọc theo bờ biển phía bắc. Các dãy núi chủ yếu nằm ở biên giới phía nam, chẳng hạn như Kavkaz (ở đây có đỉnh Elbrus, là điểm cao nhất thuộc Nga và châu Âu với cao độ 5,633 m) và dãy núi Altai, cũng như ở phần phía đông, chẳng hạn như dãy Verkhoyansk hoặc các núi lửa trên Kamchatka. Dãy Ural, là một dãy núi chạy theo hướng bắc - nam, tạo ra sự phân chia cơ bản giữa châu Âu và châu Á cũng là một dãy núi nổi tiếng.", "Nga có đường bờ biển dài trên 37,000 km dọc theo Bắc Băng Dương và Thái Bình Dương, cũng như dọc theo các biển mang tính trong nội địa ít hay nhiều như biển Baltic, biển Đen và biển Caspi. Một số các biển nhỏ hơn là các phần của các đại dương như biển Barents, Bạch Hải, biển Kara, biển Laptev và biển Đông Siberi là các phần của Bắc Băng Dương, trong khi các biển như biển Bering, biển Okhotsk và biển Nhật Bản thuộc về Thái Bình Dương. Các đảo chính bao gồm Novaya Zemlya, mũi Franz-Josef, quần đảo Tân Siberi, đảo Wrangel, quần đảo Kuril và Sakhalin. (Xem).", "Nhiều con sông chảy qua nước Nga. Xem thêm các con sông chảy qua Nga.", "Các hồ chính bao gồm hồ Baikal, hồ Ladoga, biển hồ Caspi và hồ Onega. Xem Danh sách các hồ ở Nga.", "Biên giới.", "Cách thức thực tế phổ biến nhất để miêu tả nước Nga là miêu tả phần chính (phần tiếp giáp lớn với các quần đảo hay đảo ngoài biển của nó) và phần tách rời (khu vực Kaliningrad ở phía đông nam của biển Baltic).", "Biên giới của phần chính và các bờ biển (bắt đầu từ phần xa nhất về phía tây bắc và tính ngược chiều kim đồng hồ) là:", "Phần tách rời là tỉnh Kaliningrad, tỉnh này có:", "Các bờ biển thuộc các biển Baltic và biển Đen của Nga có đường giao lưu ra đại dương ít trực tiếp và rắm rối hơn so với các bờ biển thuộc Thái Bình Dương và Bắc Băng Dương, nhưng cả hai đều có vai trò quan trọng. Biển Baltic cho phép Nga có giao thương đường biển nhanh chóng với 9 quốc gia có chung bờ biển này cũng như giữa phần lục địa chính của Nga với tỉnh Kaliningrad. Thông qua eo biển nằm trong Đan Mạch, và giữa nó với Thụy Điển thì biển Baltic thông ra biển Bắc và Đại Tây Dương về phía tây và bắc của nó. Biển Đen cho phép Nga có giao thương đường biển nhanh chóng với 5 quốc gia khác có chung bờ biển, thông qua các eo biển Dardanelles và Marmora liền kề với Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ để nối vào Địa Trung Hải với nhiều quốc gia có bờ biển ở đó và thông qua kênh đào Suez để sang Ấn Độ Dương và eo biển Gibraltar để sang Đại Tây Dương. Biển Caspi, hồ nước mặn lớn nhất thế giới, không có đường giao thông với biển cả.", "Phạm vi không gian.", "Hai điểm xa nhau nhất tại Nga cách nhau khoảng 8,000 km trên đường trắc địa (\"geodesic\"). Một trong hai điểm này nằm trên biên giới với Ba Lan, trên một khoảng đất dài 60 km chia vịnh Gdańsk với phá Vistula. Còn điểm kia nằm tại cực đông - nam của quần đảo Kuril, chỉ vài dặm cạnh đảo Hokkaido của Nhật.", "Để diễn tả sự to lớn này, người ta thường nói là Nga bao trùm 11 múi giờ. Tuy nhiên, sự diễn tả này có thể gây nhầm lẫn vì hai điểm xa nhau nhất nếu tính theo kinh tuyến chỉ cách nhau 6,600 km trên đường trắc địa. Một trong hai điểm này nằm trên biên giới với Ba Lan (nói bên trên); còn điểm kia nằm trên đảo Diomede Lớn (\"đảo Ratmanova\"). Và hơn nữa, chính phủ Nga đã quyết định giảm số múi giờ từ 11 xuống 9, thậm chí là 5 để phát triển kinh tế.", "Khí hậu.", "Khí hậu Liên bang Nga được hình thành dưới ảnh hưởng của nhiều yếu tố xác định. Diện tích to lớn của đất nước và sự xa tách khỏi biển của nhiều vùng dẫn tới một kiểu khí hậu lục địa ẩm và cận Bắc Cực, là kiểu khí hậu phổ biến ở châu Âu và vùng châu Á của Nga ngoại trừ lãnh nguyên và vùng cực đông nam. Các dãy núi ở phía nam ngăn chặn các khối không khí ấm từ Ấn Độ Dương, trong khi đồng bằng phía tây và phía bắc khiến nước này mở rộng với những ảnh hưởng từ Bắc Cực và Đại Tây Dương.", "Trên hầu khắp lãnh thổ chỉ có hai mùa riêng biệt mùa đông và mùa hè, mùa xuân và mùa thu thường chỉ là những giai đoạn thay đổi ngắn giữa thời tiết cực thấp và cực cao. Tháng lạnh nhất là tháng 1 (tháng 2 trên bờ biển), tháng ấm nhất thường vào tháng 7. Sự chênh lệch nhiệt độ lớn là điều thông thường. Vào mùa đông, nhiệt độ lạnh đi cả từ phía nam tới phía bắc và từ phía tây tới phía đông. Mùa hè có thể khá nóng và ẩm, thậm chí tại Siberia. Một phần nhỏ của bờ Biển Đen quanh Sochi có khí hậu cận nhiệt đới. Những vùng nội địa là những nơi khô nhất.", "Động thực vật.", "Từ bắc xuống nam đồng bằng Đông Âu, cũng được gọi là đồng bằng Nga, bị bao phủ trong \"lãnh nguyên\" Bắc Cực, những cánh rừng lá kim (\"taiga\"), những cánh rừng hỗn giao, đồng cỏ (\"thảo nguyên\") và bán hoang mạc (bao quanh Biển Caspian), bởi những thay đổi trong thực vật phản ánh những thay đổi trong khí hậu. Siberia cũng có một mô hình tương tự nhưng chủ yếu là taiga. Nga có trữ lượng rừng lớn nhất thế giới, được gọi là \"lá phổi của châu Âu\", đứng thứ hai chỉ sau rừng mưa Amazon về khối lượng hấp thụ CO2. Những cánh rừng Nga sản xuất ra một khối lượng lớn oxy không chỉ cho châu Âu mà cho toàn thế giới.", "Có 266 loài có vú và 780 loài chim tại Nga. Tổng cộng 415 loài thú đã được đưa vào Sách Đỏ Nga vào năm 1997, và hiện đang được bảo vệ.", "Kinh tế.", "Nga có một nền kinh tế hỗn hợp có thu nhập trung bình cao với nguồn tài nguyên thiên nhiên khổng lồ, đặc biệt là dầu mỏ và khí tự nhiên. Quốc gia này có diện tích lớn nhất trên thế giới và là nhà sản xuất dầu lửa lớn nhất, vào năm 2016 kinh tế Nga đứng hàng thứ 13 trên thế giới và đứng thứ 5 châu Âu theo GDP danh nghĩa hoặc đứng thứ 6 trên thế giới và đứng thứ 2 châu Âu theo GDP theo sức mua tương đương (~3.300 tỷ USD năm 2016)", "Hơn hai thập kỷ sau sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991, Nga vẫn còn đang cố gắng để thiết lập một nền kinh tế thị trường và để thu được sự phát triển kinh tế bền vững. Trong 5 năm đầu nền kinh tế Nga đã phát triển không ổn định do các cơ quan hành pháp và lập pháp còn nhiều bất đồng trong việc hoàn thiện công cuộc cải cách và các nền tảng công nghiệp của Nga chịu sự suy thoái nặng nề. Ngoài ra, sự thiếu hụt thực phẩm năm 1997, mà hậu quả của nó là đã phải cần đến sự trợ giúp quốc tế trên bình diện rộng, đã làm tổn thương nghiêm trọng lòng tự hào cũng như nền kinh tế nói chung của nước Nga mới ra đời.", "Tuy thế, mặc dù không hiệu quả trong điều kiện kinh tế thị trường và khẩu vị của người tiêu dùng nhưng nền kinh tế cựu Xô viết nói chung đã được chấp nhận là đã tạo cho người dân Nga nói chung có mức sống tiêu chuẩn kể từ sau những năm giữa thập niên 1950 cao hơn so với công dân của nhiều quốc gia đã phát triển theo định hướng tư bản và kinh tế thị trường như México, Brasil, Ấn Độ và Argentina. Tuy thế, các chủng loại hàng tiêu dùng (cụ thể là quần áo và lương thực, thực phẩm) là tương đối đơn giản về mẫu mã, và sự thiếu hụt của hàng tiêu dùng trong gia đình đã bị kêu ca nhiều ở các khu vực thành thị.", "Sau sự tan rã của Liên Xô, sự phục hồi nhỏ của Nga dưới ảnh hưởng của kinh tế thị trường lần đầu tiên diễn ra vào khoảng năm 1997. Trong năm đó, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã lên đến điểm đỉnh trong việc phá giá của đồng rúp vào tháng 8 năm 1998, làm cho chính phủ bị vỡ nợ và làm suy giảm trầm trọng mức sống tiêu chuẩn của phần lớn dân chúng. Vì thế, năm 1998 cũng đã được ghi nhận như là năm của suy thoái và sự tăng cường rút vốn ra khỏi nền kinh tế.", "Tuy nhiên, nền kinh tế Nga đã phục hồi vừa phải trong năm 1999. Kinh tế Nga đã đi vào trong giai đoạn phát triển nhanh, GDP tăng trưởng trung bình 6,8% trên năm trong giai đoạn 1999-2004 trên cơ sở của giá dầu mỏ cao, đồng rúp yếu, và tăng trưởng của các ngành công nghiệp và dịch vụ. Nhưng sự phát triển kinh tế này là không đều: khu vực thủ đô Moskva cung cấp tới 30% GDP của toàn quốc.", "Sự phục hồi kinh tế này cùng với cố gắng cải tổ của chính quyền trong các năm 2000-2001 để thúc đẩy cải cách về cấu trúc đang bị thụt lùi, đã làm tăng sự tin cậy của các nhà kinh doanh và đầu tư về triển vọng của nền kinh tế Nga trong thập niên thứ hai của thời kỳ chuyển đổi. Nga vẫn dựa chủ yếu vào xuất khẩu hàng hóa, cụ thể là dầu mỏ, khí đốt, kim loại và gỗ, các mặt hàng này chiếm trên 80% kim ngạch xuất khẩu, điều này làm cho Nga dễ bị thương tổn vì các biến động giá cả trên thị trường quốc tế. Trong những năm gần đây, nền kinh tế Nga đã nhắm nhiều hơn vào nhu cầu về các mặt hàng tiêu dùng trong nước, là lĩnh vực có mức tăng trưởng trên 12% mỗi năm trong giai đoạn 2000-2004, chỉ ra sự lớn mạnh dần lên của thị trường nội địa. Những năm tiếp theo, tiêu thụ nội địa cao hơn và nền chính trị ổn định hơn đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Nga. Từ 1999-2008 kinh tế nước Nga đã liên tục có tăng trưởng mạnh mẽ, nhưng tăng trưởng đã chậm lại ở vài năm sau đó với sự suy giảm của giá dầu và khí đốt.", "Với việc Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu và các quốc gia khác áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với Nga sau sự kiện Nga sáp nhập Crimea bất hợp pháp vào năm 2014 cùng với sự sụt giảm mạnh của giá dầu trong năm đó, nền kinh tế Nga đã lâm vào một cuộc khủng hoảng tài chính sâu sắc . Cuộc khủng hoảng này đã ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế Nga, bao gồm cả người tiêu dùng và các công ty, cũng như có một tác động tiêu cực đến thị trường tài chính toàn cầu. Thực tế đã cho thấy, chính người dân Nga đang phải đối mặt với nhiều khó khăn do tác động của cuộc khủng hoảng này mang lại. Lệnh cấm vận của Phương Tây cũng đã ảnh hưởng đáng kể đến sản xuất và tiêu dùng của Nga. Việc giá cả sẽ tăng do tình trạng thiếu hụt và lạm phát tăng, dẫn đến tiết kiệm giảm, tiền lương giảm và thất nghiệp gia tăng, hệ quả là chất lượng cuộc sống của người dân Nga giảm sút, đặc biệt là các gia đình trung lưu và những người Nga nghèo. Vào năm 2016, mức lương trung bình của người Nga chỉ là 450 $ một tháng (so với mức 967$ một tháng vào năm 2013), thấp hơn cả Trung Quốc và Ba Lan . Tỉ lệ người sống dưới mức nghèo ở Nga đang có chiều hướng gia tăng, từ 16.1 triệu người năm 2015 đã nhảy vọt lên con số 19.2 triệu người năm 2016 . Đổng rúp của Nga cũng liên tục mất giá. Tính đến tháng 3 năm 2016, giá trị của đồng rúp chỉ còn bằng 50% so với thời điểm tháng 7 năm 2014 .", "Năm 2016, GDP của Nga đạt 3.300 tỷ USD theo sức mua tương đương, làm cho Nga trở thành nền kinh tế lớn thứ 6 trên thế giới và thứ 2 ở châu Âu. Năm 2021, GDP của Nga đạt 4.020 tỷ USD theo sức mua tương đương, vẫn là nền kinh tế lớn thứ 6 trên thế giới và thứ 2 ở châu Âu.", "Thách thức lớn nhất đối với Nga là các biện pháp để thúc đẩy sự phát triển của các xí nghiệp nhỏ và vừa (SME) trong điều kiện môi trường kinh doanh với hệ thống ngân hàng trẻ và khác thường, được nắm giữ bởi các tài phiệt Nga (\"oligarkhi\"). Nhiều ngân hàng Nga là sở hữu của các nhà doanh nghiệp hay các ông trùm, là những người thông thường sử dụng các khoản tiền gửi ở ngân hàng để cho các doanh nghiệp của chính mình vay mượn. Ngân hàng tái thiết và phát triển châu Âu (EBRD) và Ngân hàng thế giới (WB) đã có những cố gắng để kích hoạt khởi động các hoạt động ngân hàng thông thường bằng cách cấp vốn và mua lại các khoản nợ trong một số ngân hàng nhưng thành tựu thu được là không đáng kể.", "Các vấn đề khác bao gồm sự phát triển mất cân bằng giữa các khu vực của Nga. Trong khi khu vực thủ đô Moskva là hối hả, có cuộc sống thịnh vượng với thu nhập trên đầu người nhanh chóng đạt tới mức của các nền kinh tế hàng đầu châu Âu thì phần lớn các khu vực còn lại, đặc biệt là ở các vùng nông thôn và khu vực của người thiểu số ở châu Á, đã bị tụt lại đằng sau rất nhiều. Sự phân hóa thời kinh tế thị trường cũng cảm nhận được ở các thành phố lớn khác như Sankt-Peterburg, Kaliningrad và Ekaterinburg.", "Thúc đẩy đầu tư nước ngoài cũng là một thách thức lớn. Ngoài ra, Nga cũng được hưởng lợi từ việc tăng giá dầu mỏ và vì thế có khả năng thanh toán các khoản nợ khổng lồ cũ. Sự phân bổ công bằng các thu nhập từ các nguồn tài nguyên thiên nhiên này từ công nghiệp cho các lĩnh vực khác cũng là một vấn đề. Việc định hướng cho người tiêu dùng và thúc đẩy chi tiêu vào hàng tiêu dùng là một việc khá khó khăn đối với nhiều khu vực ở các nông thôn, khi mà ở các khu vực này nhu cầu tiêu dùng rất đơn giản, mặc dù đã có nhiều tiến bộ đáng khen ngợi đã được thực hiện ở các thành phố lớn, đặc biệt là trong các lĩnh vực như may mặc, lương thực, thực phẩm, công nghiệp giải trí.", "Việc bắt giữ nhà kinh doanh giàu có nhất Nga khi đó là Mikhail Khodorkovsky với các tội quy kết là gian lận và tham nhũng trong quá trình tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn dưới thời tổng thống Boris Yeltsin đã làm cho nhiều nhà đầu tư nước ngoài e ngại về tính ổn định của nền kinh tế Nga. Phần lớn những người giàu có nhất ở Nga hiện nay là nhờ việc mua bán các doanh nghiệp nhà nước khi đó với giá rẻ như bèo. Các quốc gia khác cũng bày tỏ sự e ngại và lo lắng với việc áp dụng \"có lựa chọn\" của luật pháp đối với các doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, một số tập đoàn quốc tế đã đầu tư rất lớn vào Nga. Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Nga có khoảng 26 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp tích lũy của người nước ngoài trong giai đoạn 2001-2004 (trong đó 11,7 tỷ USD diễn ra trong năm 2004).", "Tuy nhiên, chính phủ của ông Putin đã bị chỉ trích rằng đã không tạo ra được một môi trường kinh doanh thân thiện, không đẩy lùi được nạn tham nhũng và không gia tăng đầu tư vào các lĩnh vực có thể đưa nền kinh tế Nga bớt phụ thuộc vào việc xuất khẩu năng lượng. Khu vực dầu mỏ và khí đốt của Nga chiếm tới gần 25% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và khoảng 30% tổng thu nhập ngân sách quốc gia.", "Trong giai đoan 2000-2009, mức tăng trưởng trung bình hằng năm của nền kinh tế Nga đạt 5%; trong giai đoạn 2010-2019, mức tăng trưởng trung bình hằng năm sụt giảm còn 1,8%, trong đó năm 2015 và 2016 đều trải qua suy thoái. Sau năm 2015, mức tăng trưởng trung bình hằng năm của Nga giảm xuống còn 0,4%. Vì những nguyên nhân nói trên, Nga đã chuyển từ một điểm đến đầu tư tốt nhất thế giới trong giai đoạn 2000-2009 thành một nước có rủi ro cao và thiếu sức hấp dẫn. Lý do chính cho sự kém hiệu quả của nền kinh tế Nga trong giai đoạn 2010-2019 là do các động lực tăng trưởng của thập kỷ trước đã cạn kiệt nhưng chính phủ Nga lại lựa chọn tăng quỹ dự trữ thay vì nâng cao hiệu quả kinh tế,", "Các nhà kinh tế chỉ ra một vấn đề của Nga là việc chủ yếu vẫn phụ thuộc vào nguyên liệu thô như những năm 2000, khiến giá cả thị trường phụ thuộc vào biến động của thế giới. Chính quyền Putin đã nhiều lần hứa sẽ biến đổi đất nước từ đơn giản là một nhà xuất khẩu nguyên liệu thô sang một quốc gia đa dạng hơn, dựa trên các sản phẩm và dịch vụ công nghệ cao, nhưng chưa cho thấy hiệu quả.", "Nông nghiệp và lâm nghiệp.", "Tổng diện tích đất canh tác của Nga ước tính là 1.237.294 km vuông (477.722 sq mi), lớn thứ tư trên thế giới . Từ năm 1999 đến năm 2009, nông nghiệp của Nga tăng trưởng đều đặn , và đất nước chuyển từ một nước phải nhập khẩu ngũ cốc trở thành nước xuất khẩu ngũ cốc lớn thứ ba thế giới sau EU và Hoa Kỳ . Sản lượng thịt đã tăng từ 6,813.000 tấn năm 1999 lên 9.331.000 tấn trong năm 2008 và vẫn tiếp tục tăng . Trong khi các trang trại lớn tập trung chủ yếu vào sản xuất ngũ cốc và các sản phẩm chăn nuôi như sữa hay trứng, các hộ gia đình tư nhân nhỏ đã sản xuất hầu hết lượng khoai tây, rau và trái cây của cả nước . Nga hiện là nước sản xuất lúa mạch, kiều mạch và yến mạch đứng đầu thế giới cũng như là một trong những nhà sản xuất và xuất khẩu lúa mạch đen, hạt hướng dương và lúa mì lớn nhất thế giới.", "Trải dài từ biển Baltic đến Thái Bình Dương, Nga là quốc gia có diện tích rừng lớn nhất thế giới, chiếm 1/5 diện tích rừng của thế giới . Tuy nhiên, theo một nghiên cứu năm 2012 bởi Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc và Chính phủ Liên bang Nga, tiềm năng to lớn này vẫn chưa được khai thác đúng mức. Nga hiện nay đã trở thành nước dẫn đầu thế giới về tình trạng phá rừng. Hàng loạt nhà máy gỗ của Trung Quốc mọc lên ở Nga mang tới việc làm và thu nhập nhưng đi kèm là nỗi lo tài nguyên rừng bị khai thác quá đà. Dù khai thác ồ ạt tại Nga, tất cả những dây chuyền sản xuất gỗ thành phẩm đều được thực hiện ở Trung Quốc, nơi đang hạn chế chặt chẽ việc khai thác gỗ nhằm bảo tồn rừng. Vấn nạn phá rừng đã tồn tại từ nhiều năm nay và ngày càng khó kiểm soát. Từ năm 2000 đến nay, tổng diện tích rừng bị phá là 40 triệu ha, nhưng chỉ có một nửa diện tích được trồng lại. Rừng bị tàn phá mạnh tại các vùng Viễn Đông,  phía Tây Bắc và Siberia. Nạn phá rừng không chỉ gây thiệt hại về kinh tế, mà còn ảnh hưởng lớn đến môi trường và tàn phá các hệ sinh thái, làm tăng khí thải gây hiệu ứng nhà kính… Ngoài ra, diện tích rừng bị suy giảm do các nguyên nhân khác như cháy rừng, phát triển công nghiệp và khai thác khoáng sản cùng với việc mở rộng diện tích đất nông nghiệp, xây dựng nhà ở và giao thông.", "Công nghiệp.", "Nga được thừa hưởng nền tảng công nghiệp rất mạnh của Liên Xô, siêu cường công nghiệp đứng thứ 2 thế giới. Sau khi Liên Xô tan rã, khoảng 60% các cơ sở công nghiệp của Liên Xô thuộc về lãnh thổ Nga, các cơ sở này đảm bảo duy trì được vị thế cường quốc công nghiệp của Nga trên thế giới.", "Tuy nhiên, giai đoạn kinh tế trì trệ thập niên 1990 khiến các cơ sở công nghiệp của Nga bị suy yếu đi nhiều. Theo kết quả khảo sát 2013 do Trung tâm nghiên cứu vĩ mô (CMR) của ngân hàng Sberbank của Nga công bố thì nền tảng công nghiệp Nga đang bị lão hóa. Gần 60% các xí nghiệp Nga cần nâng cấp trang thiết bị trong vòng 3 năm tới để duy trì hoạt động cũng như thị phần nội địa. Các mặt hàng công nghiệp nhẹ của Nga có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới tương đối yếu trong tương lai gần. Có tới 36% xí nghiệp được hỏi ý kiến cho biết họ không có kế hoạch mở rộng sản xuất trong vòng 5 năm tới; 38% nói có lẽ họ sẽ mở rộng trên thị trường nội địa; 19% nhắm vào các thị trường gần là các nước thành viên Cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS) và chỉ có 9% có kế hoạch mở rộng kinh doanh ra thị trường thế giới trong dài hạn. Gần 83% xí nghiệp Nga được hỏi ý kiến nói họ chỉ có thể bán sản phẩm trên thị trường trong nước, trong khi 88% nói nguồn cung chủ yếu cho xí nghiệp về nguyên liệu và thiết bị là nguồn cung nội địa ", "Theo Phó Bộ trưởng Công nghiệp và Thương mại Nga Sergei Tsyb thì lĩnh vực công cụ máy móc công nghiệp Nga đang nhập khẩu lên tới 90%, kỹ thuật máy hạng nặng đang nhập khẩu khoảng từ 60-80% và ngành công nghiệp điện tử nhập khẩu từ 80-90%. Để giảm sự phụ thuộc của Nga vào các nhà cung cấp phương Tây trong hầu hết các ngành công nghiệp quan trọng như trên, Nga dự kiến sẽ giảm chỉ số nhập khẩu từ 70-90% xuống còn 50-60% vào năm 2020 nhưng việc thay thế hoàn toàn việc nhập khẩu là điều không thể.", "Trong thời Chiến tranh Lạnh, các tổ hợp công nghiệp của Liên Xô đảm bảo duy trì nền quân sự Xô viết mạnh mẽ với nguồn ngân sách thường chiếm từ 10-20% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Liên Xô. Công nghiệp vũ khí của Nga là khu vực hiện đại nhất và nằm trong định hướng xuất khẩu của Nga. Xuất khẩu vũ khí của Nga luôn giữ vị trí thứ 2 trên thế giới về giá trị.", "Nếu như tại Mỹ, các tổ hợp công nghiệp quốc phòng và các dự án vũ trụ tập trung vào một số tập đoàn khổng lồ độc quyền và một hệ thống dịch vụ hậu cần làm việc dưới sự chỉ đạo của Bộ quốc phòng và NASA thì nền công nghiệp quốc phòng Nga hiện nay phân tán thành rất nhiều các xí nghiệp nhỏ. Với một chu trình sản xuất cồng kềnh và nhiều tầng nấc như vậy khó có thể đạt được một kết quả tích cực và đột phá nào trong ngành công nghiệp quốc phòng vì mâu thuẫn lợi ích của rất nhiều thành viên tham gia vào chu trình sản xuất đó. Độ tuổi trung bình của những người đang làm việc trong các tổ hợp công nghiệp quốc phòng Nga là từ 55 đến 57 (số liệu tháng 5/2013). 30% trong số đó đã ngoài 60 trong khi giới trẻ không chịu vào làm việc vì lương thấp. Để khắc phục những vấn đề này, hiện nay, Nga đang tiến hành sáp nhập các nhà máy quốc phòng thành các tổ hợp lớn hơn để khắc phục những điểm yếu trên và nâng cao sức cạnh tranh.", "Nước Nga hiện nay được thừa hưởng từ chế độ Xô Viết ba nhóm công nghiệp cơ bản với khả năng cạnh tranh cực cao là các tổ hợp công nghiệp - quốc phòng, ngành công nghệ vũ trụ và chế tạo máy và trang thiết bị công nghệ hạt nhân. Các tổ hợp công nghiệp - quốc phòng và công nghiệp vũ trụ, trong vòng 20 năm từng lâm vào tình trạng suy thoái. Các kỹ sư của các xí ngiệp công nghiệp quốc phòng Nga lớn nhất phải thực tập ở 5 trung tâm công nghệ ở Ý và Đức. Tuy nhiên với sự quan tâm và rót ngân sách từ chính phủ, hiện nay các ngành này đang phát triển trở lại. Từ sau khi Mỹ ngừng sử dụng tàu con thoi năm 2010, Nga là nước duy nhất có thể tự tiến hành việc phóng tên lửa lên vũ trụ để vận chuyển hàng cho trạm vũ trụ quốc tế ISS. Để thay thế tàu con thoi cũ, tên lửa SpaceX của Mỹ đã 9 lần phóng thành công lên quỹ đạo, mục tiêu là có thể tái sử dụng nhiều lần, tuy nhiên SpaceX mới hạ cánh thành công 2 lần và đến cuối 2016 mới thử nghiệm sử dụng tên lửa tái chế. Còn từ đây đến năm 2022, Mỹ vẫn sẽ phải mua 18 động cơ tên lửa RD-180 của Nga để đưa hàng lên vũ trụ", "Nga còn thành lập các công ty ở phương Tây để bí mật thu mua, đặt hàng các linh kiện điện tử từ các nhà sản xuất Mỹ rồi đem về đóng gói và xuất chúng sang cho các công ty ở Nga. Các linh kiện này dùng cho Bộ Quốc phòng Nga, Tổng cục An ninh Liên bang Nga (FSB) và ngay cả các pháp nhân Nga liên quan đến việc thiết kế vũ khí và đầu đạn hạt nhân. Đặc vụ FBI nói rằng hoạt động này đã hủy hoại đáng kể an ninh quốc gia của Mỹ bằng việc thu mua các linh kiện điện tử tối tân, kỹ thuật cao và đưa lậu chúng đến Nga, từ đó các linh kiện điện tử này giúp nâng cao năng lực của cơ quan tình báo Nga, góp phần hiện đại hóa cả quân đội và chương trình vũ khí hạt nhân của Nga. Được biết, linh kiện điện tử mà công ty Nga mỗi năm mua của Mỹ trị giá khoảng 2 tỷ USD.", "Khi Nga bị phương Tây áp đặt lệnh trừng phạt do can thiệp vào cuộc khủng hoảng tại Ukraina thì doanh nghiệp quân sự và hàng không vũ trụ của họ phải lập kế hoạch chuyển sang những đối tác mới. Các công ty này đã mua nhiều linh kiện điện tử với tổng trị giá hàng tỷ USD từ Trung Quốc. Tuy trình độ của Trung Quốc không phải là cao nhất thế giới, nhưng hệ thống sản xuất của nước này rất hoàn chỉnh, khả năng tự cung tự cấp rất mạnh và luôn liên tục phát triển. Hợp tác quy mô lớn với doanh nghiệp sản xuất Trung Quốc trong lĩnh vực vi điện tử sẽ là bước đầu tiên trong việc hình thành liên minh công nghệ quốc gia BRICS. Với việc Trung Quốc sử dụng hệ thống nghiên cứu sản xuất linh kiện hiện có và kho nhân tài công nghệ, còn Nga phát huy những ưu thế có được trong các dự án nghiên cứu hàng chục năm qua, sự hợp tác công nghệ cao giữa 2 nước có thể phá vỡ được ưu thế của phương Tây trong lĩnh vực linh kiện điện tử. Ngay cả tên lửa đẩy siêu cấp Angara mà Nga đang nghiên cứu cũng có thể đang sử dụng linh kiện nước ngoài, vì vậy một khi phương Tây ngừng cung cấp cho Nga thì Nga có thể chuyển sang mua từ Trung Quốc.. Tuy Trung Quốc có thể giúp Nga giải quyết nhiều vấn đề nhưng không thể giải quyết toàn bộ vấn đề được. Một là tính năng sản phẩm liệu có thể có thể thay thế hoàn toàn sản phẩm tương tự của phương Tây, 2 là chủng loại liệu có đủ hoàn toàn, 3 là linh kiện mới có thể vẫn cần một thời gian hoạt động với nền tảng của Nga. Tuy nhiên, việc mua linh kiện điện tử từ Trung Quốc có một chút lợi thế, một là cung ứng đảm bảo, hai là giá sẽ tương đối ưu đãi.", "Sau khi Liên Xô giải thể rất khó nhìn thấy những thương hiệu công nghiệp dân dụng của Nga, thậm chí thương hiệu công nghiệp nhẹ cũng không có. Lĩnh vực có thể thấy hàng Nga phổ biến là thương hiệu Vodka và các sản phẩm quân sự.", "Năng lượng.", "Nga được thừa nhận là một siêu cường năng lượng. Nga là một trong các quốc gia có sản lượng khí đốt hàng đầu thế giới, trữ lượng dầu mỏ đứng thứ tám, thứ hai về trữ lượng than.", "Nga là nhà xuất khẩu khí tự nhiên và nhà sản xuất khí tự nhiên hàng đầu thế giới, dù thỉnh thoảng Nga và Ả Rập Xê Út thay đổi vị trí về tiêu chí. Châu Âu hiện nhập khẩu đến 1/3 nhu cầu khí đốt từ Nga, mặc dù thời gian qua châu lục này đã cố gắng giảm phụ thuộc vào năng lượng của Nga. Hoa Kỳ đã tăng nguồn cung cấp khí đốt cho châu Âu. Tuy nhiên, hiện nay chỉ có 6% lượng nhập khẩu khí đốt của châu Âu là tới từ Hoa Kỳ. Sự phụ thuộc vào nguồn khí đốt của Nga ở châu Âu vẫn rất lớn. Ở Italy, khí đốt Nga chiếm 37% lượng nhập khẩu. Ở Đức tỉ lệ này khoảng 28%. Sự phụ thuộc vào nguồn năng lượng nhập khẩu của Slovenia, Hy Lạp và Hungary ở mức từ 41-45%. Không có khí đốt của Nga, họ sẽ đối mặt với tình trạng thiếu hụt nhiên liệu nghiêm trọng sau khoảng 10 ngày. Đặc biệt là Cộng hòa Séc, Slovakia, Phần Lan, Litva, Latvia, Estonia gần như phụ thuộc 100% vào khí đốt Nga. Mặt khác kinh tế Nga cũng lệ thuộc rất nhiều vào xuất khẩu nhiên liệu hóa thạch và năng lượng, chiếm tới 64% tổng kim ngạch xuất khẩu của Nga. Ngành dầu khí chiếm đến 46% tổng chi tiêu của chính phủ Nga và đóng góp tới 30% GDP của nước này.", "Nga là nước sản xuất điện hàng thứ 4 thế giới và nhà sản xuất năng lượng tái tạo hàng thứ 5 thế giới, tiêu chí sau nhờ nước này đã phát triển mạnh việc sản xuất thủy điện. Những nhà máy thủy điện lớn đã được xây dựng ở vùng châu Âu của Nga dọc theo các con sông như Volga. Vùng châu Á của Nga cũng có một số nhà máy thủy điện lớn, tuy nhiên, tiềm năng thủy điện vĩ đại của Siberia và Viễn Đông Nga phần lớn vẫn chưa được khai thác.", "Nga là nước đầu tiên phát triển lò phản ứng hạt nhân dân sự và xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên. Hiện tại, Nga là nhà sản xuất điện hạt nhân đứng thứ 4. Rosatom quản lý toàn bộ các nhà máy điện hạt nhân tại Nga. Năng lượng hạt nhân đang phát triển nhanh chóng tại Nga, với mục tiêu tăng tổng thành phần năng lượng hạt nhân từ mức 16.9% hiện nay lên 23% vào năm 2020. Chính phủ Nga có kế hoạch chi 127 tỷ rubles ($5.42 triệu) cho một chương trình liên bang để phát triển việc sản xuất năng lượng hạt nhân thế hệ tiếp theo. Khoảng 1 nghìn tỷ ruble ($42.7 triệu) đã được chi từ ngân sách liên bang cho việc phát triển năng lượng hạt nhân và phát triển công nghiệp trước năm 2015. Nga vẫn là một trong những nước đứng đầu thế giới về công nghệ hạt nhân và là một thành viên của dự án lò phản ứng hạt nhân quốc tế.", "Gazprom, gã khổng lồ khí đốt của Nga đã phải vật lộn để tìm công nghệ cho mỏ ngoài khơi Nam Kirinskoye ở Viễn Đông sau khi các lệnh trừng phạt của Mỹ cấm bất kỳ công ty Mỹ nào cung cấp thiết bị dưới đáy biển. Việc phát triển thêm các dự án khí đốt tự nhiên hóa lỏng đặc biệt dễ bị tổn thương vì Nga thiếu hầu hết các bí quyết, bao gồm cả công nghệ hóa lỏng thương mại quy mô lớn.", "Mặc dù các nhà sản xuất dầu trong nước đang theo đuổi chiến lược thay thế nhập khẩu thông qua các trung tâm nghiên cứu và phát triển trong nước nhưng việc phát triển các công nghệ khả thi về mặt thương mại và sản xuất nội địa hóa đầy đủ các thiết bị cần thiết có thể sẽ mất nhiều năm. Bộ năng lượng Nga cảnh báo Nga đã tiếp tục lập kỷ lục sản xuất dầu thời hậu Xô Viết nhưng các quan chức lo ngại sẽ sụt giảm tới 40% trong vòng 15 năm tới (kể từ 2019) nếu không có giải pháp công nghệ hiệu quả nào được đưa ra.", "Giao thông vận tải.", "Vận tải đường sắt ở Nga nằm dưới sự kiểm soát độc quyền của công ty Russian Railways do nhà nước quản lý. Tổng chiều dài các tuyến đường sắt ở Nga là chỉ đứng sau Hoa Kỳ. Không giống như hầu hết các quốc gia khác trên thế giới, đường ray ở Nga sử dụng khổ rộng , ngoại trừ đường ray trên đảo Sakhalin sử dụng khổ hẹp . Tuyến đường sắt nổi tiếng nhất ở Nga là Tuyến đường sắt xuyên SIberia (\"Transsib\"), trải dài trên 7 múi giờ và nắm giữ kỷ lục với các chuyến tàu dài nhất trên thế giới, như các chuyến Moscow- Vladivostok (), Moscow- Bình Nhưỡng ( và Kiev-Vladivostok ).", "ính đến năm 2006[ [cập nhật]], Nga có tổng cộng 933.000 km đường bộ, trong đó 755.000 km được trải nhựa. Một số tuyến đường trong số này tạo nên hệ thống đường cao tốc liên bang Nga.", "Tổng chiều dài đường thủy nội địa của Nga là 102.000 km, chủ yếu là sông hoặc hồ tự nhiên. Ở phần lãnh thổ châu Âu của đất nước, mạng lưới các kênh đào kết nối lưu vực của các con sông lớn. Các cảng biển lớn của Nga bao gồm cảng Rostov trên Sông Đông ở biển Azov, Novorossiysk ở Biển Đen, Astrakhan và Makhachkala ở biển Caspian, Kaliningrad và St Petersburg ở biển Baltic, Arkhangelsk ở Biển Trắng, Murmansk ở biển Barents, Petropavlovsk -Kamchatsky và Vladivostok ở Thái Bình Dương. Năm 2008, Nga sở hữu 1.448 tàu thương mại. Hạm đội tàu phá băng của Nga là hạm đội tàu phá băng chạy bằng năng lượng hạt nhân duy nhất trên thế giới, thúc đẩy việc khai thác kinh tế ở thềm lục địa Bắc Cực của Nga và phát triển giao thương đường biển qua tuyến biển Bắc giữa châu Âu và Đông Á.", "Về tổng chiều dài đường ống, Nga chỉ đứng sau Hoa Kỳ. Hiện tại, nhiều dự án đường ống mới đang được thực hiện, bao gồm các đường ống khí đốt tự nhiên Nord Stream và South Stream nối đến châu Âu lục địa, và đường ống dẫn dầu Đông Siberia - Thái Bình Dương (ESPO) đến Viễn Đông và Trung Quốc.", "Nga có tổng cộng 1.216 sân bay, bận rộn nhất là các sân bay Sheremetyevo, Domodingovo và Vnukovo ở Moscow và Pulkovo ở St. Petersburg.", "Hầu hết các thành phố lớn của Nga có hệ thống giao thông công cộng rất phát triển, với các loại phương tiện giao thông công cộng phổ biến nhất là xe buýt, xe điện bánh hơi và tàu điện. Bảy thành phố của Nga, cụ thể là các thành phố Moscow, Saint Petersburg, Nizhny Novgorod, Novosibirsk, Samara, Yekaterinburg và Kazan có hệ thống tàu điện ngầm. Tổng chiều dài của các tuyến metro ở Nga là . Moscow Metro và Saint Petersburg Metro là hai hệ thống tàu điện ngầm lâu đời nhất ở Nga, được khánh thành lần lượt vào các năm 1935 và 1955. Đây là hai trong số những hệ thống tàu điện ngầm nhanh nhất và bận rộn nhất trên thế giới, nổi tiếng với trang trí phong phú và thiết kế độc đáo tại các sân ga.", "Du lịch.", "Ngành du lịch của Nga đã tăng trưởng nhanh chóng kể từ cuối thời kì Xô viết, đầu tiên là du lịch trong nước và sau đó là du lịch quốc tế, được thúc đẩy bởi di sản văn hóa phong phú và sự đa dạng tự nhiên tuyệt vời của đất nước. Các tuyến du lịch chính ở Nga bao gồm một cuộc hành trình vòng quanh các thành phố cổ ở Golden Ring, du lịch trên các con sông lớn như sông Volga và những chuyến đi dài trên Tuyến đường sắt xuyên Siberia nổi tiếng. Trong năm 2013, đã có tổng cộng 28,4 triệu lượt khách du lịch đến thăm Nga; khiến Nga trở thành nước có số lượng khách du lịch tham quan đứng thứ 9 trên thế giới. Số lượng khách du lịch tới từ phương Tây có sự suy giảm kể từ năm 2014 do lệnh trừng phạt kinh tế của Phương Tây đối với Nga .", "Tính đến hết năm 2017, Liên bang Nga đã có 27 di sản thế giới được UNESCO công nhận, trong đó có 16 di sản văn hóa và 11 di sản tự nhiên. Ba di sản thế giới đầu tiên tại Nga được công nhận vào năm 1990 là Trung tâm lịch sử của Saint-Peterburg, Kizhi Pogost, Điện Kremli và Quảng trường Đỏ. Nga có 4 di sản chung với các quốc gia khác là Vòng cung trắc đạc Struve chung với Belarus,Estonia,Phần Lan,Latvia,Lithuania,Moldova,Na Uy,Thụy Điển,Ucraina, Mũi đất Kursh chung với Lithuania), còn Phong cảnh Dauria và Hồ Uvs là hai di sản chung với Mông Cổ. Địa điểm mới nhất được công nhận là Phong cảnh Dauria được công nhận vào năm 2017.", "Các điểm đến được thăm nhiều nhất ở Nga là Moskva và Sankt Peterburg, hai thành phố lớn nhất của đất nước. Được công nhận là Thành phố Nhân loại, 2 thành phố này có các bảo tàng nổi tiếng thế giới như Bảo tàng Tretyakov và Bảo tàng Ermitazh, các nhà hát nổi tiếng như Nhà hát Bolshoi và Nhà hát Mariinsky, các nhà thờ như Nhà thờ chính tòa Thánh Vasily, Nhà thờ chính tòa Chúa Kitô Đấng Cứu Độ, Nhà thờ chính tòa Thánh Isaac và Nhà thờ Chúa Cứu thế trên Máu đổ, các công trình đầy ấn tượng như điện Kremli cùng với Pháo đài Thánh Phêrô và Phaolô, những quảng trường và những con phố xinh đẹp như Quảng trường Đỏ, Quảng trường Cung điện, Phố Tverskaya, Phố Nevsky Prospekt và Phố Arbat. Các cung điện và công viên được tìm thấy trong các dinh thự hoàng gia cũ ở ngoại ô Moskva (Kolomenskoye, Tsaritsyno) và St Petersburg (Peterhof, Strelna, Oranienbaum, Gatchina, Pavlovsk và Tsarskoye Selo). Ở Moskva vẫn còn tồn tại nhiều công trình kiến trúc của thời kỳ Liên Xô, cùng với đó là các tòa nhà chọc trời hiện đại mới được xây dựng, trong khi St Petersburg, có biệt danh là \"Venice của phương Bắc\", tự hào về các công trình kiến trúc cổ điển, những con sông, kênh rạch và cầu.", "Các bãi biển ấm áp của Biển Đen đã hình thành nên một số khu du lịch biển nổi tiếng, chẳng hạn như Sochi, thành phố chủ nhà Thế vận hội mùa đông 2014. Những ngọn núi ở Bắc Kavkaz là nơi có các khu trượt tuyết nổi tiếng như Dombay. Điểm đến tự nhiên nổi tiếng nhất ở Nga là Hồ Baikal. Đây là hồ nước lâu đời nhất và sâu nhất trên thế giới, có làn nước trong như pha lê và được bao quanh bởi những ngọn núi. Các điểm du lịch tự nhiên phổ biến khác ở Nga bao gồm Kamchatka với những ngọn núi lửa và mạch nước phun, Karelia với các hồ và đá granit, dãy núi Altai phủ tuyết, và các thảo nguyên hoang dã của Tuva.", "Khoa học, kỹ thuật và công nghệ.", "Từ đầu thế kỷ XVIII những cuộc cải cách của Pyotr Đại đế (người sáng lập Viện Hàn lâm Khoa học Nga và Đại học Quốc gia Sankt Peterburg) và những đóng góp của những người từng tốt nghiệp tại đây như học giả Mikhail Lomonosov (người sáng lập Đại học Quốc gia Moskva) đã giúp nước Nga có được sự phát triển mạnh trong khoa học và phát minh. Trong thế kỷ XIX và XX nước này đã sản sinh ra một lượng lớn các và nhà phát minh. Nikolai Lobachevsky, một \"Copernicus trong hình học\", đã phát triển hình học phi Euclid. Dmitri Mendeleev phát minh ra Bảng tuần hoàn các nguyên tố hoá học, khuôn khổ chính của hoá học hiện đại. Gleb Kotelnikov phát minh ra dù ba lô, trong khi Evgeniy Chertovsky phát minh ra quần áo điều áp. Pavel Yablochkov và Alexander Lodygin là những nhà tiên phong vĩ đại trong kỹ thuật điện và là những nhà phát minh của những đèn điện đầu tiên. Alexander Popov là một trong những người phát minh radio, trong khi Nikolai Basov và Alexander Prokhorov là hai người đồng phát minh ra tia laser và maser. Igor Tamm, Andrei Sakharov và Lev Artsimovich đã phát triển ý tưởng tokamak để kiểm soát phản ứng tổng hợp hạt nhân và tạo ra nguyên mẫu đầu tiên của nó, sau này dẫn tới dự án ITER. Nhiều nhà khoa học và phát minh nổi tiếng của Nga là người di cư, như Igor Sikorsky và Vladimir Zworykin, và nhiều nhà khoa học nước ngoài cũng đã làm việc ở Nga một thời gian dài như Leonard Euler và Alfred Nobel.", "Các thành tựu lớn nhất của Nga thuộc lĩnh vực công nghệ vũ trụ và thám hiểm vũ trụ. Konstantin Tsiolkovsky là cha đẻ của lý thuyết hàng không vũ trụ. Các tác phẩm của ông đã tạo cảm hứng cho những kỹ sư tên lửa hàng đầu của Liên xô như Sergey Korolyov, Valentin Glushko và nhiều người khác đóng góp vào sự thành công của Chương trình Vũ trụ Liên xô ở những giai đoạn đầu của cuộc Chạy đua vào không gian. năm 1957 vệ tinh nhân tạo đầu tiên bay quanh Trái Đất, \"Sputnik 1\", được phóng lên; năm 1961 ngày 12 tháng 4 chuyến bay đầu tiên của loài người vào vũ trụ đã được Yuri Gagarin thực hiện thành công; và nhiều người Liên xô và Nga khác đã thực hiện kỷ lục thám hiểm vũ trụ. Từ năm 1999 đến 2009 Nga là nước phóng tên lửa nhiều nhất, 245 tên lửa có tải trọng lên quỹ đạo thành công so với 218 của Mỹ và cũng là nước duy nhất cung cấp các dịch vụ du lịch vũ trụ.", "Thủ tướng Dmitry Medvedev đã lên tiếng cảnh báo rằng Nga đang mất dần danh tiếng và tiền của do các dự án vũ trụ thất bại, sau khi không thể đưa 2 vệ tinh lên quỹ đạo tháng 8/2012. Vụ phóng đã thất bại gây tổn thất lớn cho ngành công nghiệp hàng không vũ trụ Nga. Một sự cố tương tự năm 2011 đã khiến Nga mất một vệ tinh thông tin trị giá 265 triệu USD. Nga cũng từng thất bại trong vụ phóng tàu thăm dò Sao Hỏa Phobos-Grunt. Ông Medvedev cũng cho rằng: \"Chẳng cường quốc không gian nào lại chứng kiến nhiều vụ phóng vệ tinh và phi thuyền hỏng như Nga\". Vì thế ông quyết định chấn chỉnh lại ngành công nghiệp vũ trụ của Nga cũng như tiếp tục các chương trình thám hiểm Sao Hỏa khác và đã hoàn thành chương trình Mars-500 để thu thập thêm nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực đưa người lên Sao Hỏa Đây là dự án quốc tế của Nga, EU (Liên hiệp châu Âu) và Trung Quốc nhằm nghiên cứu khoa học - kỹ thuật và tâm sinh lý của một toán phi hành gia quốc tế 6 người trên một chuyến bay giả định dài 520 ngày lên sao Hỏa và đi bộ trên đó.", "Sau khi Liên Xô sụp đổ, chính sách của Hoa Kỳ khuyến khích các cơ quan chính phủ và các công ty hàng không vũ trụ mua hàng của Nga và giữ cho các kỹ sư Nga bận rộn nhằm ngăn họ làm việc cho các quốc gia thù địch với lợi ích của Hoa Kỳ. Nga hiện đang là một trong số các nhà cung cấp động cơ tên lửa vũ trụ cho Hoa Kỳ. Vì lý do an ninh quốc gia, Hoa Kỳ yêu cầu phải có ít nhất hai hệ thống phóng. Không quân Hoa Kỳ và NASA hiện đang dựa chủ yếu vào ba loại tên lửa là Delta IV và Atlas V được điều hành bởi ULA và Falcon 9 của SpaceX, trong đó riêng tên lửa Atlas V hiện đang sử dụng động cơ được thiết kế và chế tạo từ Nga là RD-180. Bởi vì chi phí hoạt động Atlas V rẻ hơn Delta IV nên Delta IV được dành riêng để sử dụng với các tải trọng và quỹ đạo khó hơn mà Atlas V không thể xử lý được.", "Dù đang cố phát triển động cơ riêng nhưng tập đoàn tên lửa vũ trụ của Nga Energomash cho rằng từ khâu thử nghiệm cho đến khi sản xuất thành công là khoảng thời gian rất dài, Hoa Kỳ sẽ cần trên 3 tỷ USD và khoảng thời gian 10 năm để sản xuất thay thế các động cơ Nga. Vì thế họ cho rằng Mỹ vẫn sẽ nhập động cơ tên lửa từ Nga cho dù có bị cấm và mẫu nâng cấp của Antares sẽ được trang bị các động cơ này.", "Các công nghệ khác, nơi người Nga có lịch sử phát triển, gồm công nghệ hạt nhân, sản xuất máy bay và công nghệ quốc phòng. Việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên cùng các lò phản ứng hạt nhân đầu tiên cho tàu ngầm và tàu hoạt động trên mặt nước nằm dưới sự chỉ đạo của Igor Kurchatov. Một số nhà kỹ thuật hàng không nổi bật của Liên xô, có cảm hứng từ các tác phẩm lý thuyết của Nikolai Zhukovsky, đã giám sát việc chế tạo hàng chục model máy bay quân sự và dân sự và đã thành lập một số \"KBs\" (\"Phòng thiết kế\") hiện là thành phần chủ yếu của Liên đoàn Hàng không Hợp nhất. Các máy bay nổi tiếng của Nga gồm máy bay chở khách siêu thanh đầu tiên Tupolev Tu-144 của Alexei Tupolev, loạt máy bay chiến đấu MiG của Artem Mikoyan và Mikhail Gurevich, và loạt máy bay Su của Pavel Sukhoi cùng những người kế tục ông. Những xe tăng chiến trường nổi tiếng của Nga gồm T-34, thiết kế xe tăng theo kênh Discovery là loại tốt nhất của Thế chiến II, và các xe tăng khác thuộc loạt T. Súng AK-47 và AK-74 của Mikhail Kalashnikov là loại súng tấn công được sử dụng rộng rãi nhất tên thế giới - tới mức các khẩu súng thuộc kiểu AK đã được chế tạo nhiều hơn tất cả các loại súng tấn công khác cộng lại. ", "Dù có những thành tựu công nghệ, từ thời trì trệ Brezhnev, Nga đã tụt hậu so với phương Tây trong một số ngành kỹ thuật, đặc biệt là trong tiết kiệm năng lượng và sản xuất hàng tiêu dùng. Cuộc khủng hoảng kinh tế hồi những năm 1990 đã khiến khoản hỗ trợ cho khoa học của nhà nước sụt giảm mạnh. Nhiều nhà khoa học và những người có trình độ của Nga đã đi sang châu Âu hay Hoa Kỳ; cuộc di cư này được gọi là một cuộc chảy máu chất xám. Những năm 2000, với làn sóng bùng nổ kinh tế, tình hình khoa học và công nghệ ở Nga đã được cải thiện, và chính phủ đã tung ra một chiến dịch với mục tiêu hiện đại hoá và cải tiến. Tổng thống Nga Dmitry Medvedev đã đưa ra 5 ưu tiên hàng đầu cho việc phát triển công nghệ của đất nước: hiệu quả năng lượng, IT (gồm cả các sản phẩm thông thường và các sản phẩm kết hợp với công nghệ vũ trụ), năng lượng hạt nhân và dược. Mặc dù là nhà xuất khẩu hàng công nghiệp nặng hàng đầu thế giới và đang đạt được những tiến bộ về phần mềm, nhưng các sản phẩm hàng tiêu dùng của Nga lại thiếu tính cạnh tranh trên trường quốc tế do đơn điệu về mẫu mã. Cải thiện về năng suất sẽ chủ yếu xuất phát từ công nghệ mới và đầu tư vốn hiệu quả, hai điều mà Nga đang thiếu.", "Một số thành tựu mới đã xuất hiện, với việc nước Nga đã hoàn thành GLONASS, một trong 4 hệ thống vệ tinh định vị toàn cầu cùng với GPS của Mỹ, Hệ thống định vị Bắc Đẩu của Trung Quốc và Hệ thống định vị Galileo của châu Âu. Trong giai đoạn 2003-2014, 75-80% linh kiện điện tử dùng cho vệ tinh Glonass-M phải mua từ các nước phương Tây. Chính phủ Nga đã phải tính đến khả năng dừng chế tạo vệ tinh GLONASS-K do không có các linh kiện đồng bộ từ nước ngoài sau khi phương Tây cấm xuất khẩu linh kiện cho Nga Năm 2016, Nga đã lập kế hoạch đến năm 2024 sẽ tự sản xuất toàn bộ các linh kiện vệ tinh để tránh việc phải phụ thuộc vào linh kiện nhập khẩu. Năm 2019, Nga bắt đầu sản xuất các vệ tinh Glonass-K2, được phát triển bởi ISS Reshetnev (Hệ thống vệ tinh thông tin Reshetnev). Trong khi GLONASS-K có tới 90% thiết bị điện tử nhập từ nước ngoài thì GLONASS-K2 mới sẽ sử dụng toàn bộ các thành phần làm tại Nga, đồng thời Glonass-K2 sẽ có tuổi thọ hoạt động cao hơn 3 năm. Theo kế hoạch, 20 vệ tinh thế hệ mới \"Glonass-K2\" sẽ được phóng trong giai đoạn 2020-2031", "Nga là nước duy nhất xây dựng nhà máy điện hạt nhân di động và hiện đang là nước đi đầu trong nghiên cứu nhà máy điện hạt nhân thế hệ thứ 5 (loại này có hiệu suất tiêu thụ nhiên liệu hạt nhân vượt trội so với các nhà máy thế hệ trước, giúp việc sản xuất điện không tạo ra hoặc chỉ tạo ra rất ít chất thải phóng xạ). Nga cũng cho ra đời các thiết kế quân sự mới như máy bay tàng hình Su-57, xe tăng T-14 Armata...", "Do sự phân công sản xuất từ thời Liên Xô nên sau khi Liên Xô tan rã, một số nhà máy công nghiệp chủ chốt lại thuộc về nước khác chứ không thuộc về Nga, do vậy Nga bị thiếu khả năng sản xuất trong một số lĩnh vực (ví dụ như các nhà máy đóng tàu lớn thời Liên Xô hiện nay thuộc về Ucraina, nên Nga phải mua động cơ tàu biển từ nước này). Trung Quốc cũng bắt đầu bán cho Nga các sản phẩm phục vụ mục đích quân sự. Tốc độ nhập khẩu tăng trưởng nhanh khi Trung Quốc bán cho Nga không chỉ các động cơ diesel, mà cả những thiết bị dành cho các tàu hỗ trợ quân sự. Đến năm 2017, doanh thu tiếp tục tăng và đó chỉ là sự khởi đầu vì trong tương lai Nga sẽ mua các thiết bị công nghệ từ Trung Quốc nhiều hơn nữa. Nga không thích ý tưởng mua sản phẩm của Trung Quốc mà muốn sản phẩm phương Tây, nhưng ngay khi phương Tây trừng phạt Nga, họ ngay lập tức phải quay sang mua hàng từ Trung Quốc.", "Trong lĩnh vực nghiên cứu các nguyên tố siêu nặng, Nga vẫn dẫn đầu thế giới khi lần đầu tiên thực hiện tổng hợp thành công 6 nguyên tố nặng nhất với số nguyên tử từ 113 đến 118. Đó là thành tựu 10 năm nghiên cứu (2000-2010) của các chuyên gia thuộc phòng thí nghiệm vật lý Flerov tại Viện Nghiên cứu Hạt nhân ở Dubna gần Moscow. Hai nguyên tố trong số đó đã được Hiệp hội Hóa học cơ bản và hóa học ứng dụng Quốc tế (IUPAC) chính thức công nhận với hai cái tên Flerova (114) và Livermore (116).", "Năm 2006, các nhà khoa học Nga đã tạo ra sự phát xạ ánh sáng mạnh nhất trên thế giới dựa trên công nghệ PEARL (Petawatt Parametric Laser) được tạo ra trong Viện vật lý ứng dụng Nizhny Novgorod thuộc Viện Hàn lâm khoa học Nga, dựa trên kỹ thuật khuếch đại tham số ánh sáng trong các tinh thể quang học phi tuyến. Công nghệ này có thể tạo ra xung động điện mạnh đến 0,56 petawatt, gấp hàng trăm lần công suất của tất cả các nhà máy điện trên thế giới cộng lại (1 petawatt = 1 triệu gigawatt). Các nhà khoa học Nga cũng tạo được từ trường nhân tạo mạnh chưa từng có, đạt đến 28 megagausses, gấp hàng trăm triệu lần so với từ lực của từ trường Trái Đất", "Năm 2015, một nhà khoa học Nga là Vladimir Leonov tuyên bố đã thử nghiệm thành công một mẫu thử nghiệm động cơ lượng tử có hiệu suất mạnh gấp 5.000 lần động cơ tên lửa thông thường, sẽ tạo ra cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật trong thế kỷ XXI, tương tự cuộc cách mạng công nghệ thông tin trong thế kỷ XX. Động cơ lượng tử có thể đưa khí tài bay chuyển động với tốc độ 1000 km/giây, trong khi tốc độ tên lửa thông thường chỉ đạt tới mức tối đa 18 km/giây, nghĩa là tàu vũ trụ có thể bay tới sao Hỏa trong vòng 42 giờ, và tới Mặt trăng chỉ mất 3,6 giờ. Năng lượng cung cấp cho động cơ đến từ phản ứng nhiệt hạch lạnh (CNF): một kg nickel cho năng lượng tương đương một triệu kg xăng. Dùng động cơ này, máy bay sẽ chỉ cần nạp năng lượng một lần để bay trong vài năm. Thành tựu kỹ thuật này là kết quả vận dụng Lý thuyết siêu liên kết do các nhà khoa học Nga xây dựng nên..", "Ngày 11-8 năm 2020, Tổng thống Vladimir Putin đã phê duyệt vaccine COVID-19 đầu tiên trên thế giới do Trung tâm Nghiên cứu quốc gia về dịch tễ và vi sinh vật học Gamaleya của Nga phát triển.", "Theo tờ báo Kommersant, các cơ quan chính phủ và công ty nhà nước của Nga phải mua 700.000 PC và 300.000 máy chủ mỗi năm, trị giá tương ứng là 500 triệu USD và 300 triệu USD. Trong nỗ lực thúc đẩy năng lực tự sản xuất vi xử lý cho máy tính và máy chủ của các cơ quan nhà nước, Nga sẽ sớm thay thế các vi xử lý của Intel và AMD bằng vi xử lý nội địa Baikal. Tuy nhiên Nga buộc phải đặt hàng sản xuất vi xử lý này tại nhà máy TSMC của Đài Loan do doanh nghiệp Mikron ở Zelenograd, doanh nghiệp phát triển nhất về mặt này ở Nga chỉ có thể sản xuất hàng loạt vi xử lý 90 nm.", "Nhân khẩu.", "Liên bang Nga là một xã hội đa sắc tộc đa dạng, là nơi sinh sống của 160 nhóm sắc tộc và người bản xứ khác nhau. Dù dân số Nga khá lớn, mật độ dân số thấp bởi diện tích vĩ đại của nước này. Dân số tập trung đông nhất tại vùng châu Âu của Nga, gần dãy Ural, và ở phía tây nam Siberia. 73% dân số sống tại các khu vực đô thị. Theo những ước tính sơ bộ, dân số sống thường xuyên tại Liên bang Nga ở thời điểm ngày 1 tháng 1 năm 2009 là 141,903,979 người. Năm 2008, dân số giảm 121,400 người, hay -0.085% (năm 2007 – 212,000 người, hay 0.15% và năm 2006 – 532,600 người, hay 0.37%). Trong năm 2008 nhập cư tiếp tục gia tăng ở mức độ 2.7% với 281,615 người tới Nga, trong số đó 95% tới từ các quốc gia thuộc CIS, đại đa số là người Nga hay người nói tiếng Nga. Số lượng người Nga di cư đã giảm 16% xuống còn 39,508 người, trong số đó 66% tới các quốc gia thuộc CIS. Ước tính có 10 triệu người nhập cư bất hợp pháp từ các quốc gia Xô viết cũ ở Nga. Khoảng 116 triệu người sắc tộc Nga sống ở Nga và khoảng 20 triệu người nữa sống tại các nước cộng hoà cũ của Liên xô, chủ yếu tại Ukraina và Kazakhstan.", "Số người nói tiếng Nga đông nhất năm 1991 ở mức 148,689,000 triệu người, nhưng bắt đầu sụt giảm mạnh từ đầu những năm 90. Sự sụt giảm đã chậm lại tới mức gần ồn định trong những năm gần đây vì tỷ lệ tử giảm, tỉ lệ sinh tăng và tăng nhập cư. Số người chết trong năm 2008 là 363,500 lớn hơn số sinh. Nó đã giảm từ 477,700 năm 2007, và 687,100 năm 2006. Theo dữ liệu được Sở Thống kê Nhà nước Liên bang Nga xuất bản, tỷ lệ tử của Nga đã giảm 4% trong năm 2007, so với năm 2006, ở mức khoảng 2 triệu người chết, trong khi tỉ lệ sinh tăng 8.3% hàng năm lên ước tính 1.6 triệu ca sinh. Các nguyên nhân chủ yếu khiến dân số Nga giảm sút là tỷ lệ tử cao và tỉ lệ sinh thấp. Tuy tỉ lệ sinh của Nga ngang bằng với các quốc gia châu Âu (13.3 ca sinh trên 1000 dân năm 2014 so với mức trung bình của Liên minh châu Âu 10.1 trên 1000) dân số của họ lại giảm với tỷ lệ lớn hơn bất kỳ một quốc gia châu Âu nào khác bởi tỷ lệ tử cao hơn nhiều (năm 2014, tỷ lệ tử của Nga là 13.1 trên 1000 dân so sánh với mức trung bình của Liên minh châu Âu là 9.7 trên 1000) . Chính phủ Nga đã và đang thực hiện một số chính sách để tăng tỉ lệ sinh và thu hút người nhập cư. Các khoản trợ cấp hàng tháng của chính phủ dành cho các bậc cha mẹ có con nhỏ đã tăng gấp đôi lên 55 USD và khoản trợ cấp một lần là 9.200 USD đã được cung cấp cho những phụ nữ có con thứ hai kể từ năm 2007 . Tháng 8 năm 2012 đã đánh dấu dân số Nga lần đầu tiên đạt mức tăng trưởng dương kể từ thập niên 90. Tổng thống Putin tuyên bố dân số Nga có thể đạt 146 triệu vào năm 2025, chủ yếu là nhờ kết quả của việc nhập cư .", "Khi ông Putin nhậm chức, dân số Nga đã bị thu hẹp gần 1 triệu người mỗi năm. Moscow luôn coi đây là một \"mối nguy hiểm cho chính sự tồn tại của Nga\", một điều dường như khó để đảo ngược. Tuy nhiên, tỉ lệ sinh tăng lên khi điều kiện kinh tế Nga được cải thiện. Năm 2011, Tổng thống Putin tuyên bố rằng cuộc khủng hoảng nhân khẩu học đã bị đánh bại. Từ năm 2013 - 2015, dân số Nga có dấu hiệu tăng lần đầu tiên trong thế kỷ XXI. Tuy nhiên, dân số Nga lại một lần nữa giảm và với tốc độ nhanh hơn vào năm 2016. Số ca tử vong vượt qua số ca sinh trong 9 tháng đầu năm 2019 ở mức hơn 250.000 người. Theo cơ quan thống kê nhà nước Rosstat, đây là mức giảm tồi tệ nhất trong 11 năm qua.", "Cơ quan thống kê chính thức của Nga là Rosstat công bố năm 2013 đã có 186.382 người Nga rời khỏi đất nước vào năm 2013, tăng đáng kể so với chỉ 122.751 người vào năm 2012. Con số này cũng cho thấy sự gia tăng đáng kể so với 36.774 người trong năm 2011 và 33.578 người vào năm 2010. Một số chuyên gia nghi ngờ tính xác thực của số liệu Rosstat, Cáo buộc rằng con số thực tế có thể cao hơn nhiều. Sự gia tăng số người di cư có thể là do sự cô lập chính trị quốc tế đang gia tăng đối với nước Nga dưới thời Vladimir Putin. Trong số những người rời khỏi nước Nga gần đây có nhiều nhân vật nổi tiếng như Pavel Durov, người sáng lập mạng xã hội VKontakte của Nga, chuyên gia kinh tế Sergei Guriyev và nhà vô địch cờ vua thế giới Garry Kasparov.", "Ngôn ngữ.", "160 nhóm sắc tộc của Nga sử dụng khoảng 100 ngôn ngữ. Theo cuộc điều tra dân số năm 2002, 142.6 triệu người nói tiếng Nga, tiếp sau là tiếng Tatar với 5.3 triệu và tiếng Ukraina với 1.8 triệu. Tiếng Nga là ngôn ngữ chính thức duy nhất của nhà nước, nhưng Hiến pháp trao cho các nước cộng hoà riêng biệt quyền đưa ngôn ngữ bản địa của mình trở thành ngôn ngữ đồng chính thức bên cạnh tiếng Nga. Dù có sự phân tán mạnh, tiếng Nga là thuần nhất trên toàn bộ nước Nga. Tiếng Nga là ngôn ngữ được sử dụng nhiều nhất nếu tính theo diện tích địa lý trên lục địa Âu Á và cũng là ngôn ngữ Slavơ được sử dụng nhiều nhất. Tiếng Nga thuộc ngữ hệ Ấn Âu và là một trong những thành viên còn tồn tại của các ngôn ngữ Đông Slavơ; các ngôn ngữ khác gồm tiếng Belarus và tiếng Ukraina (và có lẽ cả tiếng Rusyn). Những ví dụ văn bản sử dụng chữ Đông Slavơ Cổ (\"Nga Cổ\") được chứng minh có từ thế kỷ thứ X trở về sau.", "Theo người Nga thì hơn một phần tư tác phẩm khoa học của thế giới được xuất bản bằng tiếng Nga. Tiếng Nga cũng được sử dụng làm công cụ mã hoá và lưu trữ văn minh thế giới—60–70% của mọi thông tin trên thế giới được xuất bản bằng tiếng Anh và tiếng Nga. Tiếng Nga cũng là một trong sáu ngôn ngữ chính thức của Liên hiệp quốc.", "Giáo dục.", "Nga có một hệ thống giáo dục miễn phí đảm bảo cho mọi công dân theo hiến pháp, và có tỷ lệ biết chữ 99.7% vào năm 2015. Đầu vào cao học có tính cạnh tranh rất cao. Như một kết quả của sự ưu tiên hàng đầu cho khoa học và kỹ thuật trong giáo dục, y tế, toán học, khoa học và khoa học vũ trụ Nga nói chung có mức độ phát triển cao. Tuy nhiên nạn tảo hôn vẫn khá phổ biến ở các làng mạc nông thôn, và 45% trẻ em Nga đi học muộn hơn độ tuổi quy định", "Trước năm 1990 quá trình học tập ở Liên xô dài 10 năm. Nhưng vào cuối năm 1990, thời gian học 11 năm đã được chính thức áp dụng. Giáo dục tại các trường cấp hai của nhà nước là miễn phí; giáo dục \"đầu\" cấp ba (mức đại học) cũng là miễn phí với việc dành trước: một phần lớn sinh viên được tuyển được Nhà nước bao cấp hoàn toàn (nhiều định chế nhà nước bắt đầu mở các khoá thương mại từ những năm gần đây). Năm 2004 chi tiêu quốc gia dành cho giáo dục chiếm 3,6% GDP, hay 13% tổng ngân sách nhà nước trong khi ở Mỹ là 7,2% GDP và Nga thua cả Việt Nam (8.3% GDP). Chính phủ bố trí các khoản tiền để trả học phí theo một hạn mức được lập sẵn, hay số lượng sinh viên cho mỗi trường của nhà nước. Điều này được coi là cơ bản bởi nó cung cấp cơ hội tiếp cận cao học cho các sinh viên có khả năng, chứ không phải chỉ cho những người có tiền trả. Ngoài ra, các sinh viên được trả một khoản học bổng nhỏ và được cung cấp nơi ở miễn phí. Ngoài các cơ sở giáo dục cao học của nhà nước, nhiều cơ sở tư nhân cũng đã xuất hiện và cung cấp lực lượng nhân lực chất lượng cao cho các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ mới và kinh tế.", "Trong các trường đại học Nga có hơn 3 triệu giáo viên và nhân viên nghiên cứu, trong đó gần 45% giáo sư và phó giáo sư. Ngoài ra Nga hiện có gần 2000 trường đại học, học viện và các cơ cấu giáo dục khác. Hệ thống giáo dục còn bao gồm gần 800 cơ quan nghiên cứu, phòng thiết kế thí nghiệm và những xí nghiệp do nhà trường xây dựng. Tuy nhiên đã từ lâu nền giáo dục Nga đã bộc lộ những bất cập nhất định. Các cuộc điều tra dư luận xã hội cho thấy tiền đầu tư cho giáo dục tăng nhưng chất lượng giáo dục lại giảm. Ngoài ra, Tổng thống Nga Vladimir Putin cho rằng Kỳ thi quốc gia nếu được tổ chức như hiện nay có thể chỉ để tuyển được những học sinh học vẹt mà không khuyến khích các em tư duy một cách khoa học.", "Đại học Quốc gia Moskva hiện đang được đánh giá là trường đại học tốt nhất tại Nga.", "Y tế.", "Hiến pháp Nga đảm bảo chăm sóc y tế phổ thông, miễn phí cho mọi công dân. Tuy nhiên, trên thực tế chăm sóc sức khoẻ miễn phí bị giới hạn một phần bởi chế độ propiska.", "Tuy Nga có số cơ sở y tế, bệnh viện và nhân viên y tế lớn hơn hầu hết các quốc gia khác khi tính theo đầu người, từ khi Liên xô sụp đổ sức khoẻ dân chúng Nga đã suy giảm nghiêm trọng vì những thay đổi kinh tế, xã hội và phong cách sống. Ở thời điểm năm 2014, tuổi thọ trung bình tại Nga là 65.29 năm cho nam và 76.49 năm cho nữ. Tổng mức tuổi thọ trung bình của người Nga là 67.7 khi sinh, kém 10.8 năm so với con số tổng thể của cả Liên minh châu Âu. Yếu tố lớn nhất dẫn tới mức tuổi thọ khá thấp của nam là tỷ lệ tử cao trong nam giới thuộc tầng lớp lao động vì những nguyên nhân có thể ngăn chặn (như, nhiễm độc rượu, stress, tai nạn giao thông, tội ác bạo lực). Tỷ lệ tử trong nam giới Nga đã tăng 60% từ năm 1991, cao hơn 4 lần của châu Âu. Vì có sự khác biệt lớn giữa tuổi thọ của nam và nữ (nam giới Nga có tuổi thọ thấp hơn nhiều so với nữ do tình trạng lạm dụng rượu) và bởi hiệu ứng còn lại từ Thế chiến II, theo đó Nga có số thiệt hại nhân mạng cao hơn bất kỳ nước nào trên thế giới, sự mất cân bằng giới tính vẫn còn lại tới ngày này và có 85,9 nam trên 100 nữ.", "Bệnh tim chiếm 56.7% tổng số tử vong, với khoảng 30% liên quan tới những người đang ở độ tuổi lao động. Một cuộc nghiên cứu cho thấy rượu chịu trách nhiệm cho hơn một nửa số tử vong (52%) của người dân Nga trong độ tuổi từ 15 tới 54 từ năm 1990 tới năm 2001. Với cùng mô hình nhân khẩu này, mức tử của toàn bộ thế giới vì rượu là 4%. Khoảng 16 triệu người Nga mắc các bệnh tim mạch, khiến Nga đứng hàng thứ hai thế giới, sau Ukraina, trong lĩnh vực này. Các tỷ lệ tử bởi giết người, tự tử và ung thư cũng đặc biệt cao. 52% nam và 15% nữ hút thuốc, hơn 260,000 nhân mạng mất đi hàng năm vì sử dụng thuốc lá. HIV/AIDS, rõ ràng không tồn tại trong thời kỳ Xô viết, đã nhanh chóng lan tràn sau khi Liên xô sụp đổ, chủ yếu bởi sự gia tăng chóng mặt nạn tiêm chích ma tuý. Theo các thống kê chính thức, hiện có hơn 364,000 người Nga có HIV, nhưng những chuyên gia độc lập coi con số thực lớn hơn rất nhiều. Trong những nỗ lực ngày càng gia tăng để chiến đấu với căn bệnh này, chính phủ đã tăng chi tiêu vào các biện pháp kiểm soát HIV gấp 20 lần năm 2006, và ngân sách năm 2007 đã tăng gấp đôi ngân sách năm 2006. Từ khi Liên xô tan rã, cũng có sự gia tăng nhanh chóng về số ca và số tử vong vì bệnh lao, và bệnh này lan đặc biệt nhanh trong cộng đồng tù nhân.", "Trong một nỗ lực nhằm cứu vãn cuộc khủng hoảng nhân khẩu tại Nga, chính phủ hiện đang áp dụng một số chương trình được thiết kế để gia tăng tỉ lệ sinh thu hút thêm nhiều người nhập cư. Chính phủ đã tăng gấp đôi khoản trợ cấp hàng tháng cho trẻ em và cấp khoản chi một lần 250,000 Rubles (khoảng US$10,000) cho phụ nữ sinh đứa con thứ hai từ năm 2007. Năm 2007, Nga có tỉ lệ sinh lớn nhất từ khi Liên xô tan rã. Phó thủ tướng thứ nhất cũng đã nói khoảng 20 tỷ Ruble (khoảng US$1 triệu) sẽ được đầu tư vào các trung tâm chăm sóc tiền sinh sản tại Nga trong năm 2008–2009. Nhập cư ngày càng được coi là cần thiết để duy trì mức độ dân số quốc gia.", "Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Nga đang diễn ra kể từ năm 2014, các khoản cắt giảm lớn về chi tiêu dành cho lĩnh vực y tế đã dẫn đến sự suy giảm chất lượng dịch vụ của hệ thống y tế trên toàn liên bang. Khoảng 40% các cơ sở y tế phải cắt giảm nhân sự, trong khi một số khác phải đóng cửa. Thời gian chờ điều trị đã tăng lên, và bệnh nhân bị buộc phải trả thêm tiền cho các dịch vụ mà trước đó hoàn toàn miễn phí .", "Văn hóa.", "Văn hoá dân gian.", "Có hơn 160 nhóm dân tộc khác nhau cùng với người dân bản địa ở Nga tạo nên sự đa dạng văn hóa của quốc gia này. Bên cạnh nền văn hóa Slav Chính thống của Người Nga, còn có văn hóa Hồi giáo của người Tatar và Bashkir, nền văn hóa mang đậm ảnh hưởng Phật giáo của các bộ tộc du mục Buryat và Kalmyk, những người Shaman giáo ở cực Bắc và Siberia, hay nền văn hóa của người Finno-Ugric vùng Tây Bắc của Nga và vùng sông Volga.", "Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, như đồ chơi Dymkovo, tranh gỗ khokhloma, gốm sứ gzhel và tranh sơn mài tiểu họa Palekh chiếm vị trí quan trọng trong nền văn hoá dân gian Nga. Trang phục truyền thống của Nga bao gồm kaftan, kosovorotka và ushanka cho nam giới, sarafan và kokoshnik cho nữ giới, cùng với các loại giày như lapti và valenki. Quần áo của dân Cossacks từ miền Nam nước Nga bao gồm burka và papaha.", "Các dân tộc ở Nga có truyền thống đặc biệt về âm nhạc dân gian. Các nhạc cụ truyền thống điển hình của Nga là gusli, balalaika, zhaleika, và garmoshka. Âm nhạc dân gian có ảnh hưởng đáng kể đến các nhà soạn nhạc cổ điển Nga, và trong thời hiện đại, nó là nguồn cảm hứng cho một số ban nhạc dân ca nổi tiếng như Melnitsa.", "Người Nga cũng có nhiều truyền thống đặc sắc khác, bao gồm tắm hơi kiểu Nga hay còn gọi là banya. Nhiều truyện cổ tích và các tác phẩm sử thi của Nga đã được chuyển thể thành phim hoạt hình, hoặc các bộ phim nổi bật của những đạo diễn như Aleksandr Ptushko (với các bộ phim như Ilya Muromets, Sadko) và Aleksandr Rou (đạo diễn các phim Morozko, Vasilisa Xinh đẹp). Các nhà thơ Nga, bao gồm Pyotr Yershov và Leonid Filatov, đã chuyển thể các câu chuyện dân gian thành những tác phẩm thơ rất đáng chú ý, trong khi một số nhà thơ kiệt xuất khác như Alexander Pushkin thậm chí đã sáng tác ra cả những bài thơ cổ tích nguyên gốc rất phổ biến.", "Ẩm thực.", "Ẩm thực đóng vai trò rất quan trọng trong xã hội Nga. Những ảnh hưởng của phương Tây đang có tác động đáng kể đến thói quen ăn uống và khẩu vị của người dân, khi các hãng McDonald's phát triển tràn lan, và các quán cà phê theo phong cách Paris xuất hiện trên các lề phố Moskva hay St.Petersburg. Tuy nhiên, những món ăn truyền thống và các đặc sản của Nga như rượu vodka hay bánh mì \"karavai\" vẫn giữ nguyên tầm quan trọng của chúng trong các bữa tiệc hay lễ lớn của Nga.", "Vào mùa đông, nhiệt độ có thể xuống tới -20 °C tại thủ đô Moskva, vì thế, các thức ăn béo, giàu năng lượng như bánh mì, trứng, bơ hay sữa là rất cần thiết. Ngoài ra còn có những món đặc sản đặc biệt như shchi (súp thịt bò và bắp cải) hay borshch (súp củ cải đỏ với thịt lợn). Đôi khi người ta cũng ăn khoai tây nghiền, rán vào cuối bữa hoặc bliny, một loại bánh kếp ăn kèm với mật ong hoặc trứng cá.", "Ngoài thức ăn, người Nga còn có nhiều đồ uống nổi tiếng trên thế giới như rượu vodka thường được làm từ lúa mạch đen hay lúa mỳ. Đôi khi nó còn được pha thêm tiêu, dâu hay chanh. Một đồ uống nổi tiếng khác là sbiten, được làm từ mật ong và thêm một chút hương liệu khác như dâu. Chè cũng là một thứ đồ uống nổi tiếng khác. Nó là một loại đồ uống truyền thống và đôi khi cũng được uống kèm sữa.", "Kiến trúc.", "Kiến trúc Nga thời trung cổ ảnh hưởng chủ yếu bởi kiến trúc Byzantine. Aristotle Fioravanti và kiến trúc sư người Ý khác đã mang xu hướng kiến trúc Phục Hưng vào Nga kể từ cuối thế kỷ 15. Những thiết kế khác của các kiến trúc sư Ý trong thời kì này như cung điện Granovitaya ở Moskva hoặc việc tu sửa và xây dựng lại Điện Kremli vào những năm 1485 – 1492 đã đem lại một sự pha trộn kiến trúc gây ấn tượng rất mạnh. Công trình xây dựng Nhà thờ chính tòa thánh Vasily năm 1555, cùng nhiều nhà thờ khác với kiểu kiến trúc nhiều mái vòm được tiếp tục thực hiện trong kế hoạch xây dựng của nước Nga ở thế kỷ thứ 16. Trong thế kỷ 17, \"phong cách bốc lửa\" của trang trí phát triển mạnh ở Moskva và Yaroslavl, dần dần mở đường cho phong cách baroque Naryshkin của những năm 1690. Sau những cải cách của Peter Đại đế, phong cách kiến trúc ở Nga dần chịu ảnh hương mạnh mẽ của Tây Âu.", "Triều đại của Catherine Đại đế và cháu trai Alexander vào thế kỷ 18 đã chứng kiến sự hưng thịnh của kiến trúc Tân cổ điển, đáng chú ý nhất ở thủ đô Sankt Peterburg với đỉnh cao là công trình Cung điện mùa đông. Vào Thế kỷ thứ 19, lối thiết kế mang phong cách Hy Lạp phục hưng được phát triển và phong cách thiết kế kinh điển của Nga cũng được hồi sinh vào giữa thế kỷ này.", "Hầu hết các công trình kiến trúc từ năm 1850 – 1917 không có nét gì nổi bật, thường là thực hiện kém chất lượng và mang sự hỗn độn của các phong cách thiết kế. Vào thế kỷ 20, những kiến trúc sư trẻ đã theo phong trào thiết kế có xu hướng tạo dựng và phong cách thiết kế kiến trúc hiện đại mới.", "Tôn giáo.", "Cơ Đốc giáo, Hồi giáo, Phật giáo và Pagan giáo là các tôn giáo truyền thống của Nga, được cho là một phần của \"di sản lịch sử\" Nga trong một điều luật được thông qua năm 1997. Những con số ước tính về các tín đồ rất khác biệt tuỳ theo các nguồn, và một số báo cáo đưa ra con số người vô thần ở Nga là 16–48% dân số. Chính thống giáo Nga được coi là quốc giáo và là tôn giáo chiếm đa số ở Nga. 95% xứ đạo có đăng ký thuộc Giáo hội Chính thống Nga trong khi có một số Giáo hội Chính thống nhỏ hơn. Tuy nhiên, đa số tín đồ Chính thống không thường xuyên tới nhà thờ. Tuy thế, Nhà thờ được cả các tín đồ và người vô thần kính trọng và coi nó là một biểu tượng của di sản và văn hoá Nga. Các phái Cơ đốc giáo nhỏ hơn như Công giáo Rôma, và nhiều phái Tin Lành có tồn tại.", "Tổ tiên của nhiều người Nga hiện nay đã chấp nhận Cơ Đốc giáo Chính thống ở thế kỷ thứ X. Báo cáo Tự do Tôn giáo Quốc tế năm 2007 do Bộ ngoại giao Mỹ xuất bản đã nói rằng có xấp xỉ 100 triệu công dân coi họ là tín đồ Giáo hội Chính thống Nga. Theo một cuộc điều tra của Trung tâm Nghiên cứu Ý kiến Công chúng Nga, 63% người tham gia coi họ là tín đồ Chính thống Nga, 6% tự coi mình là tín đồ Hồi giáo và chưa tới 1% coi mình là tín đồ hoặc của Phật giáo, Công giáo, Tin Lành hay Do Thái giáo. 12% khác nói họ tin vào Chúa, nhưng không thực hiện bất kỳ tôn giáo nào và 16% nói họ là người vô thần.", "Ước tính Nga là nơi sinh sống của khoảng 15–20 triệu tín đồ Hồi giáo. Tuy nhiên học giả Hồi giáo và nhà hoạt động nhân quyền Roman Silantyev đã tuyên bố rằng chỉ có 7 tới 9 triệu người theo Hồi giáo ở Nga. Nga cũng có ước tính 3 tới 4 triệu người nhập cư Hồi giáo từ các nước cộng hoà hậu Liên xô. Đa số tín đồ Hồi giáo sống ở vùng Volga-Ural, cũng như Bắc Kavkaz, Moskva, Sankt Peterburg và Tây Siberia. Phật giáo là truyền thống của ba vùng thuộc Liên bang Nga: Buryatia, Tuva, và Kalmykia. Một số người sống ở Siberia và vùng Viễn Đông, Yakutia, Chukotka.. thực hiện các nghi thức Shaman, thuyết phiếm thần cùng với các tôn giáo chính. Việc tham gia tôn giáo chủ yếu theo sắc tộc. Đại đa số người Slav theo Cơ Đốc giáo Chính thống. Những người nói tiếng Turk chủ yếu là tín đồ Hồi giáo, dù một số nhóm Turk tại Nga không theo.", "Dưới thời Xô Viết, chính phủ đã thực hiện chính sách bài trừ tôn giáo và cùng với đó cố gắng truyền bá chủ nghĩa vô thần. Nhà nước công khai bôi nhọ các tôn giáo cũng như các tín đồ của họ, đồng thời nỗ lực tuyên truyền chủ nghĩa vô thần tại các trường học.", "Chủ nghĩa vô thần nhà nước ở Liên Xô được biết đến trong tiếng Nga là \"gosateizm\", được dựa trên hệ tư tưởng của chủ nghĩa Marx-Lenin.Chủ nghĩa Marx-Lenin đã luôn ủng hộ việc kiểm soát, đàn áp và loại bỏ tôn giáo khỏi đời sống xã hội. Trong vòng một năm sau cuộc cách mạng tháng Mười, nhà nước đã chiếm đoạt tất cả tài sản của các nhà thờ, thậm chí chiếm đoạt chính các nhà thờ, và trong giai đoạn từ 1922 đến 1926, 28 giám mục Chính thống Nga và hơn 1.200 linh mục đã bị giết hại ", "Theo một điều tra gần đây của Trung tâm nghiên cứu Pew Research Center vào năm 2015, 71% dân số Nga tự xưng là tín đồ Chính thống giáo Nga, 15% là những người vô thần, bất khả tri và những người không theo một tôn giáo cụ thể nào. Hồi giáo chiếm 10%, tín đồ các phái Kitô hữu khác chiếm 2%, trong khi 1% thuộc về các tôn giáo khác. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng trong thời kỳ Xô viết, sự đàn áp tôn giáo của chính phủ đã lan rộng, vào năm 1991 chỉ có 37% dân số Nga là tín đồ Chính thống giáo. Sau khi Liên Xô tan rã, tỉ lệ tín đồ Chính thống giáo ở Nga đã tăng lên đáng kể và năm 2015, khoảng 71% dân số Nga tuyên bố mình là tín đồ Chính thống giáo Nga, trong khi tỷ lệ người không thực hành tôn giáo đã giảm từ 61% trong năm 1991 xuống còn 18% trong năm 2008.", "Âm nhạc.", "Nhạc cổ điển phát triển mạnh ở Nga vào thế kỷ 19. Nhà soạn nhạc cổ điển vĩ đại nhất của Nga là Pyotr Ilyich Tchaikovsky. Sang đến thế kỷ 20, một số nhà soạn nhạc nổi tiếng của Nga là Alexander Scriabin, Igor Stravinsky, Sergei Prokofiev, Dmitri Shostakovich và Alfred Schnittke.", "Nhạc viện Nga đã cho ra nhiều thế hệ nghệ sĩ độc tấu nổi tiếng. Trong số những người nổi tiếng nhất là các nghệ sĩ violin Jascha Heifetz, David Oistrakh, Leonid Kogan, Gidon Kremer và Maxim Vengerov; các nghệ sĩ cello Mstislav Rostropovich, Natalia Gutman; các nghệ sĩ dương cầm Vladimir Horowitz, Sviatoslav Richter, Emil Gilels, Vladimir Sofronitsky và Evgeny Kissin; các ca sĩ Fyodor Shalyapin, Mark Reizen, Elena Obraztsova, Tamara Sinyavskaya, Nina Dorliak, Galina Vishnevskaya, Anna Netrebko và Dmitry Hvorostovsky.;", "Nửa sau thế kỷ 19, trung tâm thế giới Ballet chuyển từ Pháp sang Nga. Một trong những người tạo ra kỷ nguyên vàng cho Trường Ballet Hoàng gia Nga và đóng vai trò lớn trong việc biến St. Petersburg trở thành kinh đô của ballet thế giới là Marius Petipa. Đoàn Ballet Bolshoi tại Moskva và Mariinsky Ballet tại St Petersburg là nơi đào tạo ra những diễn viên balê vĩ đại nhất của mọi thời đại, trong đó nổi bật lên là hai cái tên Anna Pavlova và Vaslav Nijinsky, ngoài ra thời Xô viết còn có một số nghệ sỹ ballet nổi tiếng như Galina Ulanova, Maya Plisetskaya, Rudolf Nureyev, và Mikhail Baryshnikov.", "Nhạc rock hiện đại của Nga chịu ảnh hưởng từ cả nhạc rock and roll và heavy metal của phương Tây cũng như các ban nhạc truyền thống thời kỳ Xô Viết, như Vladimir Vysotsky và Bulat Okudzhava . Các nhóm nhạc rock nổi tiếng của Nga bao gồm Mashina Vremeni, DDT, Aquarium, Alisa, Kino, Kipelov, Nautilus Pompilius, Aria, Grazhdanskaya Oborona, Splean và Korol i Shut. Nhạc pop hiện đại của Nga cũng xuất hiện một số gương mặt đạt được danh tiếng nhất định ở tầm quốc tế chẳng hạn như t.A.T.u, Nu Virgos và Vitas.", "Văn học.", "Thế kỷ 18 được coi là thời kỳ Khai sáng của văn học Nga, sự phát triển của văn học Nga đã được đặt nền móng trong giai đoạn này bởi các tác phẩm của Mikhail Lomonosov và Denis Fonvizin. Vào đầu thế kỷ 19 là thời điểm xuất hiện một số nhà văn, nhà thơ được coi là vĩ đại nhất trong lịch sử Nga. Giai đoạn này còn được gọi là thời hoàng kim của Văn học Nga, mở đầu với Alexander Pushkin, người được coi là đã sáng lập ra ngôn ngữ văn học Nga hiện đại và thường được ca tụng là \"Shakespeare của nước Nga\" . Tiếp theo là thơ của Mikhail Lermontov và Nikolay Nekrasov, kịch của Alexander Ostrovsky và Anton Chekhov, và văn xuôi của Nikolai Gogol và Ivan Turgenev. Lev Tolstoy và Fyodor Dostoyevsky đã được các nhà phê bình văn học ca ngợi là những tiểu thuyết gia vĩ đại nhất mọi thời đại.", "Đến những năm 1880, truyện ngắn và thơ trở thành thể loại thống trị. Các tác giả hàng đầu của thời đại này bao gồm các nhà thơ như Valery Bryusov, Vyacheslav Ivanov, Alexander Blok, Nikolay Gumilev và Anna Akhmatova, và các tiểu thuyết gia như Leonid Andreyev, Ivan Bunin và Maxim Gorky.", "Sau cuộc Cách mạng Nga năm 1917, nhiều nhà văn và triết gia nổi tiếng đã rời bỏ đất nước, bao gồm Bunin, Vladimir Nabokov và Nikolay Berdyayev, trong khi một thế hệ các tác giả tài năng mới tham gia cùng nhau trong nỗ lực tạo ra một nền văn hóa riêng biệt. Trong những năm 1930, kiểm duyệt văn học đã được thắt chặt phù hợp với chính sách chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Vào cuối những năm 1950, các hạn chế về văn học đã được nới lỏng, và vào những năm 1970 và 1980, các nhà văn dần thoát khỏi việc bị trói buộc bởi nhà nước trong sáng tác văn học. Các tác giả hàng đầu của thời đại Xô viết bao gồm các tiểu thuyết gia Yevgeny Zamyatin (di cư), Mikhail Bulgakov (bị kiểm duyệt) và Mikhail Sholokhov, cùng với các nhà thơ Vladimir Mayakovsky, Yevgeny Yevtushenko và Andrey Voznesensky. Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn là nhà văn nổi tiếng lên án chế độ khủng bố Stalin qua tác phẩm \"GULAG quần đảo địa ngục\" từng đoạt giải thưởng Nobel Văn học.", "Điện ảnh và truyền thông.", "Các phim chiếu rạp của Nga và sau đó là Liên Xô bùng nổ mạnh mẽ giai đoạn sau năm 1917, kết quả là đã cho ra đời một số bộ phim nổi tiếng thế giới như \"Chiến hạm Potemkin\" của Sergei Eisenstein. Eisenstein là một sinh viên của nhà làm phim và nhà lý thuyết Lev Kuleshov, người đã phát triển lý thuyết về dựng phim và biên tập phim tại trường điện ảnh đầu tiên trên thế giới, Viện điện ảnh All-Union. Dưới thời Stalin, chính sách chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa của nhà nước đã phần nào hạn chế sự sáng tạo của các nhà làm phim; tuy nhiên, nhiều bộ phim của Liên Xô theo phong cách này đã thành công về mặt nghệ thuật, bao gồm \"Chapaev\", \"Khi đàn sếu bay qua\" và \"Bài ca người lính\".", "Những năm 1960 và 1970 chứng kiến nhiều phong cách nghệ thuật khác nhau trong điện ảnh Liên Xô. Các bộ phim hài của Eldar Ryazanov và Leonid Gaidai trong thời gian đó rất phổ biến. Năm 1961–68, Sergey Bondarchuk đạo diễn bộ phim \"Chiến tranh và Hòa bình \" dựa trên cuốn tiểu thuyết của Leo Tolstoy và đã đoạt giải Oscar năm 1968, đây cũng là bộ phim đắt nhất từng được sản xuất tại Liên Xô .", "Hoạt hình của Nga có niên đại từ thời Đế quốc Nga. Trong thời kỳ Xô viết, xưởng phim Soyuzmultfilm là nhà sản xuất phim hoạt hình lớn nhất. Những đạo diễn nổi tiếng của Nga trong thể loại phim họa hình là Ivan Ivanov-Vano, Fyodor Khitruk và Aleksandr Tatarsky. Nhiều nhân vật hoạt hình như Cheburashka (được coi là gấu Pooh của Nga), Sói và Thỏ trong \"Hãy đợi đấy!\" (được coi là Tom và Jerry của Nga), là những hình tượng mang tính biểu tượng ở Nga và nhiều nước xung quanh.", "Cuối những năm 1980 và 1990 là một thời kỳ khủng hoảng của điện ảnh và hoạt hình Nga. Mặc dù các nhà làm phim Nga đã được tự do thể hiện tính sáng tạo của bản thân, các khoản trợ cấp của nhà nước đã giảm đáng kể, dẫn đến ít phim được sản xuất hơn. Những năm đầu của thế kỷ 21 đã chứng kiến lượng người xem tăng lên và sự thịnh vượng trở lại của ngành công nghiệp điện ảnh khi nền kinh tế đã có sự hồi phục.", "Trong khi có rất ít đài phát thanh hoặc các kênh truyền hình trong thời Liên Xô, từ hai thập kỷ qua, nhiều đài phát thanh và kênh truyền hình do cả nhà nước và tư nhân sở hữu đã xuất hiện. Kiểm duyệt và tự do truyền thông ở Nga luôn là chủ đề chính của truyền thông Nga.", "Thể thao.", "Các vận động viên thể thao của Liên Xô và sau đó là của Nga luôn nằm trong top 4 nước đạt nhiều huy chương vàng nhất tại tất cả các kỳ Thế vận hội mùa hè mà họ từng tham dự. Nga (tính cả Liên Xô) đã 2 lần đăng cai Thế vận hội. Thế vận hội mùa hè 1980 đã được tổ chức tại Moskva trong khi Thế vận hội mùa đông 2014 được tổ chức tại Sochi.", "Doping là một vấn đề rất lớn và hết sức tiêu cực của thể thao Nga. Tổng cộng đã có 51 huy chương vàng của các vận động viên Nga bị IOC tước đoạt do sử dụng doping, nhiều nhất trong số tất cả các nước trên thế giới. Từ năm 2011 đến năm 2015, hơn 1000 vận động viên của Nga trong nhiều môn thể thao khác nhau, bao gồm cả các môn mùa hè, mùa đông và các môn thể thao Paralympic (dành cho người khuyết tật), được hưởng lợi từ sự che đậy của nhà nước đối với hành vi sử dụng doping .", "Khúc côn cầu trên băng là môn thể thao thế mạnh của Nga. Mặc dù bộ môn này chỉ được giới thiệu trong thời kỳ Xô viết, đội tuyển khúc côn cầu trên băng của Liên Xô đã giành chiến thắng tại hầu hết các kì Thế vận hội và các giải vô địch thế giới mà họ tham dự.", "Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất ở nước Nga ngày nay. Đội tuyển bóng đá quốc gia Liên Xô đã trở thành nhà vô địch châu Âu đầu tiên khi lên ngôi tại Euro 1960. Đội tuyển bóng đá quốc gia Liên Xô cũng đã lọt vào chung kết Euro 1988 nhưng đã để thua đội tuyển Hà Lan với tỉ số 0-2. Xuất hiện trong bốn kỳ World Cup liên tiếp từ năm 1958 đến 1970, Lev Yashin của đội tuyển bóng đá Liên Xô được coi là một trong những thủ môn xuất sắc nhất trong lịch sử bóng đá, ông cũng nằm trong Đội hình xuất sắc nhất lịch sử World Cup của FIFA . Liên Xô giành HCV môn bóng đá nam tại các kỳ thế vận hội năm 1956 và 1988. Các câu lạc bộ bóng đá Nga CSKA Moskva và Zenit Sankt Peterburg đã giành cúp UEFA vào năm 2005 và 2008. Một số CLB bóng đá nổi tiếng khác của Nga gồm có Spartak Moskva, Lokomotiv Moskva, Dynamo Moskva và Rubin Kazan. Đội tuyển bóng đá quốc gia Nga đã lọt vào bán kết Euro 2008 trước khi thua nhà vô địch Tây Ban Nha với tỉ số 0–3.", "Kể từ khi kết thúc thời Xô Viết, quần vợt đã trở nên phổ biến tại Nga và Nga đã sản sinh một số tay vợt nổi tiếng, chẳng hạn Maria Sharapova. Trong võ thuật, Nga là nước khai sinh ra môn thể thao Sambo cũng như là quê hương của nhiều võ sĩ nổi tiếng như Fedor Emelianenko. Cờ vua là một trò tiêu khiển phổ biến rộng rãi ở Nga; một số kỳ thủ Nga nổi tiếng là Mikhail Botvinnik, Garry Kasparov.", "Nga là nước chủ nhà World Cup 2018. Đây là kỳ World Cup bóng đá đầu tiên được tổ chức ở một quốc gia Đông Âu. Đội tuyển bóng đá quốc gia Nga đã lọt được vào vòng tứ kết ở giải đấu này.", "Các biểu tượng.", "Biểu tượng nhà nước của Nga là một con đại bàng hai đầu Byzantine kết hợp với hình ảnh của Thánh George, đây là biểu tượng xuất hiện trên quốc huy của Nga. Quốc kỳ của Nga là một lá cờ ba sắc được chia thành ba hình chữ nhật có kích thước bằng nhau: màu trắng ở trên cùng, màu xanh ở giữa, và màu đỏ ở dưới cùng. Quốc ca Nga có cùng giai điệu với Quốc ca của Liên Xô, mặc dù lời bài hát có sự khác biệt. Khẩu hiệu quốc gia có từ thời Đế quốc Nga là \"Thiên Chúa ở bên chúng ta\" và khẩu hiệu quốc gia từ thời Liên Xô là \"Vô sản toàn thế giới, đoàn kết lại!\" hiện không còn được sử dụng nữa và vẫn chưa có khẩu hiệu nào mới để thay thế. Biểu tượng búa liềm và quốc huy Liên Xô vẫn được nhìn thấy ở một số thành phố của Nga, thường là ở các công trình kiến trúc cũ. Biểu tượng ngôi sao đỏ từ thời Xô viết cũng dễ bắt gặp, thường là xuất hiện trên các thiết bị quân sự hoặc các đài tưởng niệm chiến tranh. Biểu ngữ đỏ tiếp tục được vinh danh, đặc biệt là Biểu ngữ Chiến thắng năm 1945.", "Búp bê Matryoshka là một biểu tượng nổi tiếng của Nga. Điện Kremli và nhà thờ thánh Vasily ở Moskva là những biểu tượng kiến trúc của Nga. Cheburashka là linh vật của các đội Olympic quốc gia Nga. Thánh Maria, Thánh Nikolai, Thánh Andrei, Thánh Georgiy, Thánh Alexander Nevsky, Thánh Sergius xứ Radonezh và Thánh Seraphim xứ Sarov là những vị thánh bảo trợ của Nga. Hoa cúc (\"chamomile\") là quốc hoa, còn cây bạch dương là quốc cây của Nga. Gấu Nga là quốc thú và là động vật biểu tượng của nước Nga, mặc dù trên thực tế biểu tượng này được bắt nguồn từ phương Tây và mới chỉ được người Nga chấp nhận gần đây. Nhân cách hóa dân tộc Nga là Mẹ Nga (\"Mother Russia\"), tương đương với \"Uncle Sam\" của Hoa Kỳ.", "Các vấn đề xã hội.", "Tình trạng tội phạm.", "Nước Nga là một trong những nước có làn sóng tội phạm cao trên thế giới. Tỷ lệ giết người ở Nga cao gấp bốn lần so với ở Mỹ. Vào năm 2001, 33.500 người đã bị giết hại. Tổng cộng, vào năm 2011, có hơn 3 triệu tội phạm được báo cáo. Từ trộm cắp thông thường đến tham nhũng, cướp và buôn lậu đã khiến làn sóng tội phạm ngày càng tăng. Mặc dù chính phủ Nga đã cam kết mạnh tay với tội phạm, tuy nhiên hành động này vẫn chưa đem lại hiệu quả gì lớn. Theo thống kê của Văn phòng Tội phạm và Ma túy của Liên Hợp Quốc, tỉ lệ giết người cố ý ở Nga vào năm 2016 là 10.82/100.000, cao gấp đôi so với Hoa Kỳ (5.8/100.000) và cao hơn rất nhiều so với tỉ lệ trung bình của toàn thế giới (6.2/100.000) ", "Hàng giả.", "Hàng giả cũng là một vấn đề khác gây đau đầu cho các nhà chức trách. Chính phủ Nga ước tính đến 90% hàng hóa bán lưu thông đều không rõ nguồn gốc rõ ràng. Các thiết bị điện tử chủ yếu được nhập khẩu bất hợp pháp từ Đông Nam Á còn đồ chơi nhập từ Trung Quốc. Còn thực phẩm, thuốc, quần áo và băng đĩa thường có nguồn gốc nội địa. Thuốc giả và rượu giả khiến người tiêu dùng bị đe dọa nghiêm trọng nhất. Hằng năm, hàng ngàn người Nga thiệt mạng do uống phải các chất hóa học chết người làm giả thành rượu vodka.", "Khoảng cách giàu - nghèo.", "Tình trạng cách biệt giàu nghèo đang tăng lên. Nhiều người Nga sống trong những căn nhà xây từ thời Xô Viết nay đã xuống cấp. Một điều tra vào năm ngoái của Hiệp hội các kỹ sư Nga cho biết: 20% người ở thành phố không có nước nóng, 12% không có hệ thống sưởi và phải dùng lò sưởi thủ công. Ở các làng quê, tỷ lệ này còn cao hơn. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), hiện nay có hơn 15 triệu người Nga (khoảng 11% dân số) sống dưới mức 150 USD/người/tháng.", "Tham nhũng.", "Tham nhũng ở Nga cũng được coi là một vấn đề nghiêm trọng tác động đến mọi khía cạnh của cuộc sống, bao gồm cả hành chính công, thực thi pháp luật , chăm sóc sức khỏe và giáo dục . Theo bảng xếp hạng năm 2016 về Chỉ số nhận thức tham nhũng của Tổ chức Minh bạch Quốc tế, Nga xếp thứ 131 trên tổng số 176 quốc gia với số điểm là 29 . Theo Ngân hàng Thế giới, tham nhũng gây thiệt hại lên tới 50% tổng GDP của Nga .", "Báo động tình trạng tự tử.", "Nga hiện là một trong những nước có tỉ lệ tự tử cao nhất thế giới. Theo thống kê của WHO vào năm 2016, tỉ lệ tự tử ở Nga đứng thứ 3 trên toàn cầu (chỉ sau 2 nước là Lesotho và Guyana), với 26,5 vụ trên 100.000 người . Năm 2012, tỷ lệ tự tử ở tuổi vị thành niên tại Nga cao gấp ba lần mức trung bình của thế giới .", "Khủng bố, đe doạ an ninh.", "Tính từ năm 2008 đến năm 2016, đã có 1.088 người chết trong các vụ khủng bố tại Nga , gấp 5 lần so với số lượng người chết trong các vụ khủng bố tại Mỹ cùng khoảng thời gian (235 người chết) .", "Một số vụ khủng bố đẫm máu tại Nga kể từ năm 1999 ", "Tương lai.", "Nga và Belarus đang đàm phán để thống nhất thành một nhà nước liên bang Nga – Belarus, việc đàm phán đã được bắt đầu vào năm 1997 và vẫn tiếp tục cho đến bây giờ.", "Ghi chú.", "Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.", "Liên kết ngoài.", "Thông tin chung.", "Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ." ]
861
592764
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=861
Labrador
[ "Labrador là phần đất liền của tỉnh bang Newfoundland và Labrador; phần còn lại của Newfoundland và Labrador, Newfoundland, là phần nhô ra biển.Đây là vùng địa lý lớn nhất cực bắc, Đại Tây Dương.", "Labrador chiếm phần phía đông của Bán đảo Labrador. Phía tây và nam giáp tỉnh Québec của Canada. Labrador cũng có một đường biên giới đất liền với lãnh thổ của Nunavut trên đảo Killiniq của Canada.", "Mặc dù Labrador chiếm 71% diện tích đất của tỉnh, nhưng chỉ có 8% dân số của tỉnh. Các thổ dân ở Labrador gồm có người da đỏ miền Bắc của Nunatsiavut, người Inuit miền Nam - Métis của Nunatukavut (NunatuKavut) và Innu . Nhiều người dân không phải là thổ dân ở Labrador đã không định cư lâu dài ở Labrador cho đến khi phát triển tài nguyên thiên nhiên trong những năm 1940 và 1950. Trước những năm 1950, rất ít người không phải là thổ dân sống ở Labrador quanh năm. Một số người nhập cư châu Âu làm việc theo mùa vụ cho thương gia nước ngoài và đưa gia đình họ được gọi là \"Người định cư\"." ]
865
922085
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=865
Linux
[ "\"Bài viết này trình bày về các hệ điều hành dựa trên Linux và các chủ đề liên quan. Xem hạt nhân Linux để có thêm thông tin về hạt nhân. Linux cũng có nghĩa là một loại bột rửa.\"", "Linux( hay ) là một họ các hệ điều hành tự do nguồn mở tương tự Unix và dựa trên Linux kernel, một hạt nhân hệ điều hành được phát hành lần đầu tiên vào ngày 17 tháng 9 năm 1991, bởi Linus Torvalds. Mặc dù có khá nhiều tranh cãi về việc phát âm Linux, nhưng theo như Linus chia sẻ: \"Tôi không quá bận tâm việc mọi người phát âm tên tôi như thế nào, nhưng Linux luôn là Lih-nix\". Linux thường được đóng gói thành các bản phân phối Linux. Nó có lẽ là một ví dụ nổi tiếng nhất của phần mềm tự do và của việc phát triển mã nguồn mở.", "Các bản phân phối bao gồm nhân Linux và các thư viện và phần mềm hệ thống hỗ trợ, nhiều thư viện được cung cấp bởi GNU Project. Nhiều bản phân phôi Linux sử dụng từ \"Linux\" trong tên của họ, nhưng Free Software Foundation sử dụng tên GNU/Linux để nhấn mạnh tầm quan trọng của phần mềm GNU, gây ra một số tranh cãi.", "Các bản phân phối Linux phổ biến bao gồm Debian, Fedora, và Ubuntu. Các bản phân phối thương mại bao gồm Red Hat Enterprise Linux và SUSE Linux Enterprise Server. Bản phân phối Desktop Linux bao gồm một windowing system như X11 hoặc Wayland, và một môi trường desktop giống như GNOME hay KDE Plasma. Các bản phân phối dành cho máy chủ có thể bỏ qua đồ họa hoàn toàn hoặc bao gồm một ngăn xếp giải pháp như LAMP. Vì Linux có thể phân phối lại miễn phí, bất kỳ ai cũng có thể tạo phân phối cho bất kỳ mục đích nào.", "Linux ban đầu được phát triển cho các máy tính cá nhân dựa trên kiến trúc Intel x86, nhưng sau đó đã được ported sang nhiều nền tảng hơn bất kỳ hệ điều hành nào khác. Do sự thống trị của Android trên điện thoại thông minh, Linux cũng có cơ sở được cài đặt lớn nhất trong tất cả các hệ điều hành có mục đích chung. Mặc dù nó chỉ được sử dụng bởi khoảng 2.3% máy tính để bàn, nhưng Chromebook, chạy Chrome OS dựa trên nhân Linux, thống trị thị trường giáo dục K–12 của Mỹ và chiếm gần 20% doanh số notebook dưới 300 đô la ở Mỹ. Linux là hệ điều hành hàng đầu trên các máy chủ (hơn 96,4% trong số 1 triệu hệ điều hành máy chủ web hàng đầu là Linux), dẫn đầu các hệ thống big iron như các hệ thống mainframe, và là hệ điều hành duy nhất được sử dụng trên các siêu máy tính TOP500 (kể từ tháng 11 năm 2017, đã dần dần loại bỏ tất cả các đối thủ cạnh tranh).", "Linux cũng chạy trên các hệ thống nhúng, tức là các thiết bị có hệ điều hành thường được tích hợp vào firmware và được thiết kế riêng cho hệ thống. Điều này bao gồm routers, điều khiển tự động hóa, công nghệ nhà thông minh (giống như Google Nest), TV (các smartTv của Samsung và LG dùng Tizen và WebOS, tương ứng), ô tô (ví dụ, Tesla, Audi, Mercedes-Benz, Hyundai, và Toyota đều dựa trên Linux), máy quay video kỹ thuật số, video game consoles, và smartwatches. Hệ thống điện tử của Falcon 9 và Dragon 2 sử dụng phiên bản Linux tùy biến.", "Linux là một trong những ví dụ nổi bật nhất của phần mềm tự do nguồn mở và của việc phát triển mã nguồn mở. Mã nguồn có thể được dùng, sửa đổi và phân phối - thương mại hoặc phi thương mại - bởi bất kỳ ai theo các điều khoản của giấy phép tương ứng, ví dụ như GNU General Public License.", "Lịch sử.", "Tiền thân.", "Hệ điều hành Unix được hình thành và triển khai vào năm 1969, tại Phòng thí nghiệm Bell của AT&T tại Mỹ bởi Ken Thompson, Dennis Ritchie, Douglas McIlroy, và Joe Ossanna. Phát hành lần đầu vào năm 1971, Unix ban đầu được viết bằng hợp ngữ, như thường lệ vào thời điểm đó. Vào năm 1973 theo cách tiếp cận tiên phong, nó đã được viết lại bằng ngôn ngữ lập trình C bởi Dennis Ritchie (trừ nhân (kernel) và I/O). Tính khả dụng của việc triển khai ngôn ngữ cấp cao của Unix đã giúp triển khai việc port của nó sang các nền tảng máy tính khác nhau dễ dàng hơn.", "Do một yêu cầu chống độc quyền trước đó cấm tham gia kinh doanh máy tính, AT&T được yêu cầu cấp phép mã nguồn của hệ điều hành cho bất kỳ ai yêu cầu. Do đó, Unix phát triển nhanh chóng và được các tổ chức học thuật và doanh nghiệp áp dụng rộng rãi. Năm 1984, AT&T thoái vốn khỏi Bell Labs; Được giải phóng nghĩa vụ pháp lý yêu cầu cấp phép miễn phí, Bell Labs bắt đầu bán Unix như một sản phẩm độc quyền, nơi người dùng không được phép sửa đổi hợp pháp Unix. Dự án GNU, khởi động năm 1983 bởi Richard Stallman, với mục tiêu tạo ra một \"hệ thống phần mềm tương thích Unix hoàn chỉnh\", toàn bộ bao gồm phần mềm tự do. Công việc bắt đầu vào năm 1984. sau đó, năm 1985, Stallman khởi động Quỹ Phần mềm Tự do và viết Giấy phép Công cộng GNU (GNU GPL) năm 1989. Đến đầu những năm 1990, nhiều chương trình được yêu cầu trong một hệ điều hành (như các thư viện, trình biên dịch, trình soạn thảo, một Unix shell, và hệ thống quản lý cửa sổ) đã được hoàn thành, nhưng các thành phần cấp thấp cần thiết như trình điều khiển thiết bị, daemon, và nhân được gọi là GNU/Hurd, bị đình trệ và không được hoàn thiện.", "Trước Linux người ta đã phát triển 386BSD, tiền thân của NetBSD, OpenBSD và FreeBSD sau này, tuy nhiên vì những lý do pháp lý mà nó không được phát hành cho đến tận 1992. Torvalds đã nói rằng nếu có 386BSD hay GNU/Hurd trước (1991), có lẽ ông đã không tạo ra Linux.", "MINIX được phát triển bởi Andrew S. Tanenbaum, một giáo sư khoa học máy tính, và được phát hành năm 1987 như một hệ điều hành tương tự Unix tối thiểu hướng đến sinh viên và những người khác muốn tìm hiểu các nguyên tắc của hệ điều hành. Mặc dù mã nguồn hoàn chỉnh của MINIX có sẵn miễn phí, các điều khoản cấp phép đã ngăn không cho nó trở thành phần mềm tự do cho đến khi giấy phép thay đổi vào tháng 4 năm 2000. ", "Ra đời.", "Năm 1991, khi theo học tại Đại học Helsinki, Torvalds trở nên tò mò về hệ điều hành. Thất vọng vì việc cấp phép MINIX, lúc đó chỉ giới hạn sử dụng cho mục đích giáo dục, ông bắt đầu làm việc với nhân hệ điều hành của chính mình, cuối cùng trở thành Linux.", "Torvalds đã bắt đầu phát triển nhân Linux trên MINIX và các ứng dụng được viết cho MINIX cũng được sử dụng trên Linux. Sau đó, Linux trưởng thành và việc phát triển nhân Linux được tiếp tục trên các hệ thống Linux. Các ứng dụng GNU cũng thay thế tất cả các thành phần MINIX, vì việc sử dụng mã có sẵn miễn phí từ GNU với một hệ điều hành còn non trẻ có nhiều lợi ích: mã nguồn được cấp phép theo GNU GPL có thể được sử dụng lại trong các chương trình máy tính khác miễn là chúng cũng được phát hành theo cùng một giấy phép hoặc một giấy phép tương thích. Từ một giấy phép cấm phân phối lại thương mại do ông tạo ra ban đầu, Torvalds bắt đầu chuyển sang sử dụng GNU GPL. Các nhà phát triển tích hợp các thành phần GNU với nhân Linux, tạo ra một hệ điều hành đầy đủ chức năng và tự do.", "Đặt tên.", "Linus Torvalds đã muốn đặt tên cho sáng chế của mình là \"Freax\", một cách chơi chữ khi ghép các từ \"free\", \"freak\", và \"x\" (một ám chỉ đến Unix). Trong thời gian bắt đầu công việc của mình trên hệ thống, một số makefiles của dự án bao gồm tên \"Freax\" trong khoảng nửa năm. Torvalds đã từng xem xét cái tên \"Linux\", nhưng ban đầu bác bỏ nó vì cho rằng như thế là quá tự cao tự đại.", "Để tạo điều kiện phát triển, các file đã được tải lên FTP server (codice_1) của FUNET vào tháng 9 năm 1991. Ari Lemmke, bạn học của Torvalds tại Helsinki University of Technology (HUT), một trong những quản trị viên tình nguyện của máy chủ FTP tại thời điểm đó, không nghĩ rằng \"Freax\" là một cái tên hay. Vì vậy, ông đã đặt tên dự án là \"Linux\" trên máy chủ mà không hỏi ý kiến Torvalds. Tuy nhiên, sau đó, Torvalds chấp thuận với \"Linux\".", "Theo một bài đăng lên newsgroup bởi Torvalds, từ \"Linux\" nên được phát âm là ( với một âm ‘i’ ngắn như trong ‘print’ và ‘u’ như trong ‘put’. Để mô tả rõ hơn \"Linux\" nên được phát âm như thế nào, ông đã thêm vào mã nguồn kernel một đoạn ghi âm của mình ().. Tuy nhiên trong bản ghi âm \"Linux\" lại nghe giống như (.", "Tính thương mại và sự phổ biến.", "Việc sử dụng Linux trong môi trường sản xuất, thay vì chỉ được sử dụng bởi những người có sở thích, bắt đầu vào giữa những năm 1990 trong cộng đồng siêu máy tính, nơi các tổ chức như NASA bắt đầu thay thế các máy móc ngày càng đắt tiền của họ bằng các cụm bao gồm các máy tính rẻ tiền chạy Linux. Việc sử dụng thương mại bắt đầu khi Dell và IBM, rồi đến Hewlett-Packard lần lượt cung cấp hỗ trợ Linux để thoát khỏi sự độc quyền của Microsoft trong thị trường hệ điều hành máy tính để bàn.", "Ngày nay, các hệ thống Linux được sử dụng ở mọi nơi trong ngành máy tính,từ các hệ thống nhúng đến hầu như tất cả các siêu máy tính, và có một vị trí vững trãi trong môi trường máy chủ, dưới dạng gói ứng dụng phổ biến LAMP chẳng hạn. Việc sử dụng các bản phân phối Linux trong máy tính để bàn gia đình và doanh nghiệp đang phát triển. Các bản phân phối Linux cũng đã trở nên phổ biến trên thị trường netbook, với nhiều thiết bị được phát hành với các bản phân phối Linux tùy chỉnh được cài đặt và Google đã phát hành Chrome OS của riêng họ được thiết kế cho các netbook.", "Thành công lớn nhất của Linux trong thị trường tiêu dùng có lẽ là thị trường thiết bị di động, với Android là một trong những hệ điều hành thống trị nhất trên điện thoại thông minh và rất phổ biến trên máy tính bảng và gần đây hơn là các thiết bị thông minh đeo trên người. Chơi game trên Linux cũng đang gia tăng với Valve cho thấy sự hỗ trợ của họ dành cho Linux và tung ra SteamOS, bản phân phối Linux của riêng dành cho việc chơi game. Các bản phân phối Linux cũng đã trở nên phổ biến với các chính quyền địa phương và quốc gia khác nhau, chẳng hạn như chính phủ liên bang Brazil.", "Việc phát triển ở hiện tại.", "Greg Kroah-Hartman là người đứng đầu việc bảo trì và phát triển của nhân Linux. William John Sullivan là giám đốc điều hành của Free Software Foundation, nơi hỗ trợ các thành phần GNU. Cuối cùng là các cá nhân và tập đoàn phát triển các thành phần không phải GNU của bên thứ ba. Các thành phần của bên thứ ba này bao gồm một khối lượng công việc khổng lồ và có thể bao gồm cả các mô-đun nhân và các ứng dụng người dùng và các thư viện.", "Các nhà cung cấp và cộng đồng Linux kết hợp và phân phối kernel, các thành phần GNU và không phải GNU với phần mềm quản lý gói bổ sung tạo thành một bản phân phối Linux.", "Thiết kế.", "Một hệ thống dựa trên Linux là một hệ điều hành tương tự Unix được mô-đun hóa, với phần lớn thiết kế cơ bản của nó dựa trên các nguyên tắc được Unix đề ra trong thập niên 1970 và 1980. Một hệ thống như vậy sử dụng hạt nhân nguyên khối gọi là Linux kernel, có nhiệm vụ kiểm soát các tiến trình, kết nối mạng, truy cập vào các thiết bị ngoại vi và hệ thống file. Các trình điều khiển thiết bị được tích hợp trực tiếp vào nhân hoặc được nạp vào trong lúc hệ thống đang chạy.", "GNU userland là một phần quan trọng của hầu hết các hệ thống dựa trên nhân Linux, với Android là ngoại lệ đáng chú ý. Thư viện C của GNU hoạt động như một lớp bọc cho các lời gọi hệ thống của nhân Linux cần thiết cho giao diện không gian người dùng; GNU toolchain là một tập hợp lớn các công cụ lập trình quan trọng đối với sự phát triển của Linux (bao gồm các trình biên dịch được sử dụng để xây dựng nhân Linux); và GNU coreutils (các trình tiện ích lõi) bao gồm nhiều công cụ Unix cơ bản. Dự án cũng phát triển Bash, một shell giao diện dòng lệnh phổ biến. Giao diện đồ họa người dùng (GUI) trong hầu hết các hệ thống Linux được xây dựng dựa trên một triển khai của X Window System. Gần đây, cộng đồng Linux tìm cách tiến tới Wayland như giao thức máy chủ hiển thị mới thay cho X11. Nhiều dự án phần mềm nguồn mở khác đóng góp cho các hệ thống Linux.", "Các thành phần được cài đặt trong một hệ thống Linux bao gồm:", "Giao diện người dùng.", "Giao diện người dùng hay còn gọi là shell là một giao diện dòng lệnh (CLI shell) hay giao diện đồ họa người dùng (GUI shell), hoặc bộ điều khiển gắn liền với phần cứng (các hệ thống nhúng thường sử dụng). Với các hệ thống để bàn, mặc định giao diện thường là giao diện đồ họa người dùng, mặc dù giao diện dòng lệnh cũng có thể được sử dụng thông qua trình giả lập thiết bị đầu cuối hay các console ảo.", "CLI shell là các giao diện người dùng dựa trên văn bản, sử dụng văn bản cho việc xuất và nhập. Linux shell chiếm ưu thế trong sử dụng là Bourne-Again Shell (bash), ban đầu được phát triển cho dự án GNU. Hầu hết các thành phần Linux cấp thấp, kể cả nhiều phần khác nhau của userland, chỉ sử dụng CLI. CLI đặc biệt phù hợp để tự động hóa các nhiệm vụ lặp đi lặp lại hoặc bị trì hoãn và cung cấp một kiểu giao tiếp giữa các tiến trình rất đơn giản.", "Trên các hệ thống máy để bàn, giao diện người dùng phổ biến là các GUI shell được đóng gói cùng với các môi trường desktop mở rộng như KDE Plasma, GNOME, MATE, Cinnamon, LXDE, Pantheon và Xfce, mặc dù có nhiều giao diện người dùng khác. Hầu hết các giao diện người dùng phổ biến đều dựa trên X Window System, hoặc được gọi tắt là \"X\" hoặc \"X11\". Nó cung cấp tính xuyên dụng mạng và cho phép một ứng dụng đồ họa chạy trên một hệ thống được hiển thị trên một hệ thống khác, nơi người dùng có thể tương tác với ứng dụng; tuy nhiên, một số phần mở rộng nhất định của X Window System không có khả năng hoạt động qua mạng. Có một số máy chủ hiển thị X, trong đó khai triển tham chiếu X.Org Server là phổ biến nhất.", "Các bản phân phối cho máy chủ có thể cung cấp giao diện dòng lệnh cho nhà phát triển và quản trị viên, nhưng cung cấp giao diện tùy chỉnh cho người dùng cuối, được thiết kế cho trường hợp sử dụng của hệ thống. Giao diện tùy chỉnh này được truy cập thông qua một máy khách cư trú trên một hệ thống khác, không nhất thiết phải dựa trên Linux.", "Có vài loại trình quản lý của sổ cho X11 bao gồm tiling, dynamic, stacking và compositing. Trình quản lý cửa sổ cung cấp các phương thức để kiểm soát vị trí và cách trình bày của các cửa sổ ứng dụng riêng lẻ và tương tác với X Window System. Các trình quản lý cửa sổ đơn giản hơn như như dwm, ratpoison hay i3wm chỉ cung cấp một cung cấp các tính năng tối thiểu để điều khiển các cửa sổ, trong khi các trình quản lý cửa sổ phức tạp hơn như FVWM, Enlightenment hay Window Maker cung cấp nhiều tính năng hơn nhưng vẫn nhẹ hơn so với các môi trường desktop. Trình quản lý cửa sổ là một phần của cài đặt tiêu chuẩn của các môi trường desktop, chẳng hạn như Mutter (GNOME), KWin (KDE) hay Xfwm (xfce), mặc dù người dùng có thể chọn một trình quản lý cửa sổ khác nếu muốn.", "Wayland là một giao thức máy chủ hiển thị nhằm thay thế cho giao thức X11; tuy nhiên #đổi , nó không được tiếp nhận rộng rãi hơn. Không giống X11, Wayland không cần một trình quản lý của sổ phụ và trình quản lý compositing. Do đó, một Wayland compositor đóng vai trò vừa là máy chủ hiển thị, trình quản lý cửa sổ và trình quản lý. Weston là triển khai tham chiếu của Wayland, Trong khi Mutter của GNOME và KWin của KDE đang được ported sang Wayland dưới dạng máy chủ hiển thị độc lập. Enlightenment đã được port thành công kể từ phiên bản 19.", "Hạ tầng đầu vào video.", "Linux hiện có hai API hiện đại giữa kernel và userspace để xử lý các thiết bị đầu vào video: V4L2 API cho video streams và radio, và DVB API cho truyền hình số.", "Do sự phức tạp và đa dạng của các thiết bị khác nhau và do số lượng lớn các định dạng và tiêu chuẩn được xử lý bởi các API nói trên, hạ tầng này cần phát triển để phù hợp hơn với các thiết bị khác. Ngoài ra, một thư viện thiết bị userland tốt là chìa khóa thành công để các ứng dụng userland có thể hoạt động với tất cả các định dạng được hỗ trợ bởi các thiết bị đó.", "Việc phát triển.", "Sự khác nhau cơ bản giữa Linux và nhiều hệ điều hành phổ biến đương thời là nhân Linux và các thành phần khác đều là phần mềm tự do mã nguồn mở. Linux không phải là một hệ điều hành duy nhất như vậy, mặc dù cho đến nay nó phổ biến nhất. Vài giấy phép phần mềm tự do nguồn mở dựa trên copyleft: bất cứ sản phẩm nào sử dụng một phần mềm copyleft cũng phải là copyleft. Giấy phép thông dụng nhất của phần mềm tự do là giấy phép công cộng GNU (GNU General Public License - GPL), một dạng của copyleft, và được sử dụng cho nhân Linux và nhiều thành phần từ dự án GNU.", "Các bản phân phối của Linux được các nhà phát triển hướng đến khả năng tương tác với các hệ điều hành khác và các tiêu chuẩn trong tính toán. Các hệ thống Linux gắn chặt với các chuẩn POSIX, SUS, LSB, ISO và ANSI trong khả năng có thể, mặc dù cho đến nay chỉ có một bản phân phối Linux đã được chứng nhận POSIX.1, Linux-FT.", "Các dự án phần mềm tự do được phát triển thông qua việc cộng tác, nhưng lại thường được sản xuất độc lập với nhau. Tuy nhiên, việc giấy phép phần mềm rõ ràng cho phép phân phối lại cung cấp cơ sở cho các dự án quy mô lớn hơn, bằng cách thu các thập phần mềm được sản xuất bởi các dự án độc lập lại thành dạng một bản phân phối Linux.", "Nhiều bản phân phối Linux quản lý tập hợp các gói phần mềm hệ thống và ứng dụng từ xa, có thể tải về và cài đặt thông qua kết nối mạng. Điều này cho phép người dùng thích ứng với hệ điều hành của họ theo những nhu cầu cá nhân. Các bản phân phối đều được duy trì bởi các cá nhân, các nhóm, tổ chức tình nguyền, và các công ty. Một bản phân phối chịu trách nhiệm cho cấu hình mặc định của hạt nhân Linux được sử dụng, bảo mật hệ thống chung, và nhìn chung là sự tích hợp chặt chẽ của các gói phần mềm khác nhau. Các bản phân phối khác nhau sử dụng các trình quản lý gói khác nhau như dpkg, Synaptic, YAST, apt, yum, Portage để cài đặt, xóa bỏ, và cập nhật tất cả các phần mềm trong hệ thống từ một vị trí trung ương.", "Cộng đồng.", "Một bản phân phối chủ yếu được thúc đẩy bởi các nhà phát triển và cộng đồng người dùng. Một số nhà cung cấp phát triển và tài trợ cho các bản phân phối của họ trên cơ sở tình nguyện, Debian là một ví dụ nổi tiếng. Những người khác duy trì phiên bản cộng đồng của các bản phân phối thương mại của họ, như Red Hat đang làm với Fedora, hay SUSE với openSUSE.", "Ở nhiều thành phố và khu vực, các hiệp hội địa phương được gọi là Linux User Groups (LUGs) tìm cách thúc đẩy các bản phân phối ưa thích của họ nói riêng và phần mềm miễn phí nói chung. Họ tổ chức các cuộc họp và cung cấp miễn phí các cuộc trình bày, đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật và cài đặt hệ điều hành cho người dùng mới. Nhiều cộng đồng Internet cũng cung cấp hỗ trợ cho người dùng và nhà phát triển Linux. Hầu hết các bản phân phối và các dự án phần mềm tự do nguồn mở đều có các phòng chat IRC hoặc newsgroup. Các diễn đàn trực truyến là một phương tiện hỗ trợ khác, với các ví dụ đáng chú ý là LinuxQuestions.org và các diễn đàn cộng đồng khác nhau và các diễn đàn hỗ trợ một phân phối cụ thể, chẳng hạn như các diễn đàn cho Ubuntu, Fedora, và Gentoo. Các bản phân phối Linux còn lập các mailing list; thông thường sẽ có một chủ đề cụ thể như sử dụng hoặc phát triển trong mỗi mailing list.", "Có một số trang web công nghệ tập trung vào Linux. Các tạp chí in về Linux thường đóng gói các đĩa chứa phần mềm hoặc thậm chí là các bản phân phối Linux hoàn thiện.", "Mặc dù các bản phân phối Linux thường miễn phí, một số tập đoàn lớn bán, hỗ trợ và đóng góp phát triển các thành phần của hệ thống và phần mềm tự do. Một phân tích về nhân Linux cho thấy 75% mã nguồn từ tháng 12 năm 2008 đến tháng 1 năm 2010 được phát triển bởi các lập trình viên làm việc cho các tập đoàn, còn lại khoảng 18% cho các tình nguyện viên và 7% không được phân loại. Các tập đoàn lớn tham gia đóng góp bao gồm Dell, IBM, HP, Oracle, Sun Microsystems (giờ là một phần của Oracle) và Nokia. Một số tập đoàn, đặc biệt là Red Hat, Canonical và SUSE, đã xây dựng một doanh nghiệp quan trọng xung quanh các bản phân phối Linux.", "Các gói phần mềm khác nhau trong một bản phân phối Linux dựa trên các giấy phép phần mềm tự do, trong đó nói rõ ràng về việc cho phép và khuyến khích sự thương mại hóa; mối quan hệ giữa một bản phân phối Linux nói chung và các nhà cung cấp riêng lẻ có thể được coi là cộng sinh. Một mô hình kinh doanh phổ biến của các nhà cung cấp thương mại là tính phí hỗ trợ, đặc biệt là đối với người dùng doanh nghiệp. Một số công ty cũng cung cấp một phiên bản doanh nghiệp chuyên biệt cho phân phối của họ, trong đó bổ sung các gói và công cụ hỗ trợ độc quyền để quản lý lượng cài đặt cao hơn hoặc để đơn giản hóa các tác vụ quản trị.", "Một mô hình kinh doanh khác là cho đi phần mềm để bán phần cứng. Đây là điều bình thường trong ngành công nghiệp máy tính trước đây, khi các hệ điều hành như CP/M, Apple DOS và các phiên bản Mac OS trước phiên bản 7.6 cho phép sao chép tự do (nhưng không thể sửa đổi). Khi phần cứng máy tính được chuẩn hóa trong suốt những năm 1980, các nhà sản xuất phần cứng trở nên khó khăn hơn để kiếm lợi từ chiến thuật này, vì HĐH sẽ chạy trên máy tính có chung kiến trúc của bất kỳ nhà sản xuất nào khác.", "Lập trình trên Linux.", "Hầu hết các ngôn ngữ lập trình đều hỗ trợ Linux trực tiếp hoặc thông qua các ports bên thứ ba của cộng đồng. Các công cụ phát triển ban đầu được sử dụng để xây dựng cả ứng dụng Linux và chương trình hệ điều hành được tìm thấy trong GNU toolchain, bao gồm GNU Compiler Collection (GCC) và GNU Build System. Trong số đó, GCC cung cấp trình biên dịch cho Ada, C, C++, Go và Fortran. Nhiều ngôn ngữ lập trình có một bản triển khai tham khảo đa nền tảng hỗ trợ Linux, ví dụ như PHP, Perl, Ruby, Python, Java, Go, Rust và Haskell. Phát hành lần đầu năm 2003, dự án LLVM cung cấp một trình biên dịch mã nguồn mở đa nền tảng khác cho nhiều ngôn ngữ. Trình biên dịch độc quyền cho Linux bao gồm Intel C++ Compiler, Sun Studio, và IBM XL C/C++ Compiler. BASIC dưới dạng Visual Basic được hỗ trợ dưới các hình thức như Gambas, FreeBASIC, và XBasic, và BASIC nói chung như QuickBASIC hoặc Turbo BASIC dưới dạng QB64.", "Một tính năng phổ biến của các hệ thống tương tự Unix là bao gồm các ngôn ngữ lập trình truyền thống có mục đích cụ thể như scripting, xử lý văn bản hay quản lý và cấu hình hệ thống nói chung. Các bản phân phối Linux hỗ trợ các shell script, awk, sed và make. Nhiều chương trình cũng có ngôn ngữ lập trình nhúng để hỗ trợ việc cấu hình hoặc dùng trong lập trình. Ví dụ, biểu thức chính quy được hỗ trợ trong các chương trình như grep và locate, MTA Sendmail truyền thống trên Unix chứa hệ thống scripting Turing-đầy đủ của riêng nó, và trình soạn thảo văn bản nâng cao GNU Emacs được xây dựng xung quanh trình một thông dịch Lisp thông dụng.", "Hầu hết các bản phân phối cũng bao gồm hỗ trợ cho PHP, Perl, Ruby, Python và các ngôn ngữ động khác. Mặc dù không phổ biến bằng, nhưng đôi khi Linux cũng hỗ trợ C# (thông qua Mono), Vala, và Scheme. Guile Scheme đóng vai trò là một ngôn ngữ scripting của các tiện ích hệ thống GNU, tìm cách làm cho các chương trình C nhỏ, tĩnh tuân theo quy tắc Unix có thể được mở rộng nhanh chóng và linh hoạt thông qua một hệ thống scripting với lập trình hàm. Một số máy ảo Java và bộ công cụ phát triển Java trên Linux, bao gồm JVM (HotSpot) nguyên thủy của Sun và Hệ thống J2SE RE của IBM, cũng như nhiều dự án nguồn mở như Kaffe và JikeRVM.", "GNOME và KDE là các môi trường desktop phổ biến và cung cấp một framework cho phát triển ứng dụng. Những dự án này dựa trên các widget toolkits tương ưng là GTK và Qt, mặt khác chúng cũng có thể được sử dụng độc lập với framework lớn hơn mình. Cả hai đều hỗ trợ nhiều ngôn ngữ. Có một số môi trường phát triển tích hợp có sẵn bao gồm Anjuta, , CodeLite, Eclipse, Geany, ActiveState Komodo, KDevelop, Lazarus, MonoDevelop, NetBeans, và Qt Creator, trong khi các trình soạn thảo lâu đời như Vim, nano và Emacs vẫn còn phổ biến.", "Hỗ trợ phần cứng.", "Nhân Linux là nhân hệ điều hành được ported rộng rãi, có sẵn cho hàng loạt các thiết bị từ điện thoại di động cho đến siêu máy tính;nó chạy trên một loạt các kiến trúc máy tính rất độc đáo, bao gồm iPAQ dựa trên ARM và các mainframes System z9 hay System z10 của IBM. Các bản phân phối chuyên biệt và các nhánh nhân tồn tại cho các kiến trúc ít chính thống hơn; ví dụ, nhân ELKS có thể chạy trên bộ vi xử lý 16 bit Intel 8086 hay Intel 80286, trong khi nhân µClinux có thể chạy trên các hệ thống mà không cần đơn vị quản lý bộ nhớ. Hạt nhân này cũng chạy trên các kiến trúc chỉ dành cho sử dụng hệ điều hành do nhà sản xuất tạo ra, chẳng hạn như máy tính Macintosh (với cả vi xử lý PowerPC và Intel), PDA, video game consoles, máy nghe nhạc, điện thoại di động.", "Có một số hiệp hội công nghiệp và hội nghị phần cứng dành cho việc duy trì và cải thiện hỗ trợ cho phần cứng đa dạng trong Linux, như là FreedomHEC. Theo thời gian, sự hỗ trợ cho các phần cứng khác nhau đã được cải thiện trong Linux, dẫn đến bất kỳ thiết bị nào cũng có \"cơ hội tốt\" để tương thích.", "Vào năm 2014, một sáng kiến mới đã được đưa ra để tự động thu thập cơ sở dữ liệu của tất cả các cấu hình phần cứng được thử nghiệm.", "Sử dụng.", "Bên cạnh các bản phân phối Linux được thiết kế để sử dụng cho mục đích chung trên máy tính để bàn và máy chủ, các bản phân phối có thể được chuyên dùng cho các mục đích khác nhau bao gồm: hỗ trợ kiến trúc máy tính, hệ thống nhúng, ổn định, bảo mật, bản địa hóa cho một vùng hoặc ngôn ngữ cụ thể, nhắm mục tiêu của các nhóm người dùng cụ thể, hỗ trợ cho các ứng dụng thời gian thực hoặc cam kết với một môi trường desktop nhất định. Hơn nữa, một số bản phân phối có chủ ý chỉ bao gồm phần mềm tự do. Năm 2015, hơn bốn trăm bản phân phối Linux được phát triển tích cực, với khoảng một chục bản phân phối phổ biến nhất cho mục đích sử dụng chung.", "Desktop.", "Sự phổ biến của Linux trên máy tính để bàn và máy tính xách tay tiêu chuẩn đã tăng lên trong những năm qua. Các bản phân phối hiện đại phổ biến nhất bao gồm một môi trường người dùng đồ hoạ, #đổi , hai môi trường phổ biến nhất được sử dụng là KDE Plasma Desktop và Xfce.", "Không có desktop Linux chính thức nào tồn tại: các môi trường desktop environments và bản phân phối Linux lưaqj chọn các thành phần từ các nhóm phần mềm tự do nguồn mở mà họ xây dựng một GUI triển khai một số hướng dẫn thiết kế ít nhiều nghiêm ngặt. Ví dụ, GNOME có hướng dẫn giao diện con người như một hướng dẫn thiết kế, giúp giao diện người máy đóng vai trò quan trọng, không chỉ khi thực hiện thiết kế đồ họa mà cả khi hỗ trợ người khuyết tật hay khi tập trung vào bảo mật.", "Bản chất hợp tác của phát triển phần mềm miễn phí cho phép các nhóm phân phối thực hiện bản địa hóa ngôn ngữ của một số bản phân phối Linux để sử dụng tại các địa phương nơi việc bản địa hóa các hệ thống độc quyền sẽ không hiệu quả về chi phí. Ví dụ, phiên bản tiếng Sinhalese của bản phân phối Knoppix đã có sẵn đáng kể trước khi Microsoft dịch Windows XP sang Sinhalese. Trong trường hợp này, Lanka Linux User Group đã đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển hệ thống bản địa hóa bằng cách kết hợp kiến thức của các giáo sư đại học, nhà ngôn ngữ học và nhà phát triển địa phương.", "Hiệu năng và ứng dụng.", "Hiệu năng của Linux trên desktop là một chủ đề gây tranh cãi; ví dụ vào năm 2007 Con Kolivas đã cáo buộc cộng đồng Linux tập trung hiệu năng trên các máy chủ. Ông đã từ bỏ việc phát triển nhân Linux vì thất vọng với sự thiếu tập trung vào desktop, và sau đó trả lời phỏng vấn \"nói tất cả\" về chủ đề này. Kể từ đó, một lượng phát triển đáng kể đã tập trung vào việc cải thiện trải nghiệm desktop. Các dự án như systemd và Upstart (đã dừng năm 2014) nhằm mục đích cho thời gian khởi động nhanh hơn; các dự án Wayland và Mir nhằm mục đích thay thế X11 đồng thời tăng cường hiệu năng, bảo mật và giao diện của desktop.", "Nhiều ứng dụng phổ biến có sẵn cho nhiều hệ điều hành. Ví dụ, Mozilla Firefox, OpenOffice.org/LibreOffice và Blender có các phiên bản có thể tải xuống cho tất cả các hệ điều hành chính. Thêm vào đó, một số ứng dụng ban đầu được phát triển cho Linux, như Pidgin, và GIMP, đã được ported đến các hệ điều hành khác (bao gồm Windows và macOS) do mức độ phổ biến của chúng. Ngoài ra, ngày càng nhiều ứng dụng desktop độc quyền cũng được hỗ trợ trên Linux, ví dụ như Autodesk Maya và The Foundry's Nuke trong lĩnh vực hoạt hình và hiệu ứng hình ảnh cao cấp. Ngoài ra còn có một số công ty đã ported các trò chơi của riêng họ hoặc của các công ty khác sang Linux, với Linux cũng là một nền tảng được hỗ trợ trên cả hai dịch vụ phân phối kỹ thuật số phổ biến Steam và Desura.", "Nhiều loại ứng dụng khác có sẵn cho Microsoft Windows và macOS cũng chạy trên Linux. Thông thường, một ứng dụng tự do sẽ tồn tại với các chức năng của ứng dụng được tìm thấy trên một hệ điều hành khác hoặc ứng dụng đó sẽ có phiên bản hoạt động trên Linux, ví dụ như với Skype và một vài video games như \"Dota 2\" \"vàTeam Fortress 2\". Ngoài ra, dự án Wine cung cấp một lớp tương thích Windows để chạy các dứng dụng Windows chưa sửa đổi trên Linux. Nó được tài trợ bởi các doanh nghiệp thương mại bao gồm CodeWeavers,nơi sản xuất một phiên bản thương mại của phần mềm. Từ 2009, Google cũng đã đóng góp tài chính cho dự án Wine. CrossOver, một giải pháp độc quyền dựa trên dự án Wine nguồn mở, hỗ trợ chạy các phiên bản Windows của Microsoft Office, các ứng dụng Intuit như là Quicken và QuickBooks, Adobe Photoshop CS2, và nhiều game phổ biến như \"World of Warcraft\". Trong các trường hợp khác, khi không có port Linux của một số phần mềm trong các lĩnh vực như xuất bản trên desktop và âm thanh chuyên nghiệp, thì có phần mềm tương đương có sẵn trên. Cũng có thể chạy các ứng dụng được viết cho Android trên các phiên bản của Linux khác bằng Anbox.", "Thành phần và cài đặt.", "Bên cạnh các thành phần có thể nhìn thấy bên ngoài, chẳng hạn như trình quản lý cửa sổ X, một vai trò không rõ ràng nhưng khá trung tâm được triển khai bởi các chương trình được lưu trữ bởi freedesktop.org, như D-Bus hay PulseAudio; cả hai môi trường máy tính để bàn chính (GNOME và KDE) bao gồm chúng,mỗi môi trường cung cấp giao diện đồ họa được viết bằng bộ công cụ tương ứng (GTK hoặc Qt). Một máy chủ hiển thị là một thành phần khác, trong thời gian dài nhất đã giao tiếp trong giao thức máy chủ hiển thị X11 với các máy khách của nó; phần mềm nổi bật kết nối X11 bao gồm X.Org Server và Xlib. Thất vọng về giao thức lõi X11 cồng kềnh, và đặc biệt là qua nhiều phần mở rộng của nó, đã dẫn đến việc tạo ra một giao thức máy chủ hiển thị mới, Wayland.", "Việc cài đặt, cập nhật và gỡ bỏ phần mềm trong Linux thường được thực hiện thông qua việc sử dụng các trình quản lý gói như Synaptic Package Manager, PackageKit, và Yum Extender.Mặc dù hầu hết các bản phân phối Linux lớn đều có kho lưu trữ rộng rãi, thường chứa hàng chục nghìn gói, nhưng không phải tất cả phần mềm có thể chạy trên Linux đều có sẵn từ kho chính thức. Ngoài ra, người dùng có thể cài đặt các gói từ kho lưu trữ không chính thức, tải xuống các gói được biên dịch trước trực tiếp từ các trang web hoặc tự biên dịch mã nguồn. Tất cả các phương pháp này đi kèm với mức độ khó khác nhau; Việc biên dịch mã nguồn nói chung được coi là một quá trình đầy thách thức đối với người dùng Linux mới, nhưng hầu như không cần thiết trong các bản phân phối hiện đại và không phải là một phương pháp dành riêng cho Linux.", "Netbooks.", "Các bản phân phối Linux cũng đã trở nên phổ biến trên thị trường netbook, với nhiều thiết bị như Asus Eee PC và Acer Aspire One phân phối với các bản phân phối Linux tùy chỉnh được cài đặt.", "Năm 2009, Google đã công bố Chrome OS là một hệ điều hành tối thiểu dựa trên Linux, sử dụng trình duyệt Chrome làm giao diện người dùng chính. Chrome OS ban đầu chỉ chạy các ứng dụng web, ngoại trừ trình quản lý file và trình phát phương tiện đi kèm. Một mức hỗ trợ nhất định cho các ứng dụng Android đã được thêm vào trong các phiên bản sau này. Kể từ năm 2018, Google đã thêm khả năng cài đặt bất kỳ phần mềm Linux nào trong một container, cho phép Chrome OS được sử dụng như bất kỳ bản phân phối Linux nào khác. Netbooks được bán cùng với hệ điều hành, được gọi là Chromebook, bắt đầu xuất hiện trên thị trường vào tháng 6 năm 2011.", "Server, mainframe và siêu máy tính.", "Các bản phân phối Linux từ lâu đã được sử dụng làm hệ điều hành máy chủ và đã trở nên nổi bật trong lĩnh vực đó; Netcraft đã báo cáo vào tháng 9 năm 2006, rằng tám trong số mười (hai công ty khác là \"không rõ\" hệ điều hành) công ty lưu trữ internet đáng tin cậy nhất đã chạy các bản phân phối Linux trên các máy chủ web của họ, với Linux ở vị trí hàng đầu. Vào tháng 6 năm 2008, các bản phân phối Linux có 5 trong số 10, FreeBSD 3/10, và Microsoft 2/10; kể từ tháng 2 năm 2010, các bản phân phối Linux chiếm sáu trên mười, FreeBSD 3/10, và Microsoft 1/10, với Linux ở vị trí hàng đầu.", "Các bản phân phối Linux là nền tảng của sự kết hợp phần mềm máy chủ LAMP (Linux, Apache, MariaDB/MySQL, Perl/PHP/Python) đã được các nhà phát triển phổ biến và là một trong những nền tảng phổ biến hơn để lưu trữ trang web.", "Các bản phân phối Linux đã trở nên ngày càng phổ biến trên các mainframes, một phần do giá cả và mô hình nguồn mở. Vào tháng 12 năm 2009, gã khổng lồ máy tính IBM đã báo cáo rằng họ sẽ chủ yếu tiếp thị và bán Enterprise Linux Server. dựa trên mainframes Tại LinuxCon North America 2015, IBM đã công bố LinuxONE, một loạt các mainframes được thiết kế đặc biệt để chạy Linux và phần mềm nguồn mở.", "Các bản phân phối Linux cũng chiếm ưu thế như các hệ điều hành cho siêu máy tính. Kể từ tháng 11 năm 2017, tất cả các siêu máy tính trong danh sách 500 đều chạy một số biến thể của Linux.", "Thiết bị thông minh.", "Một số hệ điều hành cho các thiết bị thông minh, ví dụ như smartphone, máy tính bảng, nhà thông minh (ví như Google Nest), smart TV (Samsung và LG Smart TV dùng Tizen và WebOS, tương ứng), và hệ thống giải trí trên xe hơi (IVI) (ví dụ Automotive Grade Linux), được dựa trên Linux. Các nền tảng chính cho các hệ thống như vậy bao gồm Android, Firefox OS, Mer và Tizen.", "Android đã trở thành hệ điều hành di động thống trị cho smartphones, chạy trên 79.3% số thiết bị được bán trên toàn thế giới trong quý II năm 2013. Android cũng là hệ điều hành phổ biến cho tablets, và Android smart TV và hệ thống thông tin giải trí trên xe hơi cũng đã xuất hiện trong thị trường.", "Mặc dù Android dựa trên phiên bản sửa đổi của nhân Linux, nhưng các nhà bình luận không đồng ý về việc liệu thuật ngữ \"bản phân phối Linux\" có nên áp dụng cho nó hay không và liệu đó có phải là \"Linux\" theo cách sử dụng phổ biến của thuật ngữ này hay không. Android là một bản phân phối Linux theo Linux Foundation, giám đốc nguồn mở của Google Chris DiBona, và một số nhà báo. Những người khác, chẳng hạn như kỹ sư Google Patrick Brady, nói rằng Android không phải là Linux theo nghĩa phân phối Linux tương tự Unix truyền thống; Android không bao gồm GNU C Library (nó dùng Bionic như một thư viện C thay thế) và một số thành phần khác thường được tìm thấy trong các bản phân phối Linux. \"Ars Technica\" đã viết rằng \"Mặc dù Android được xây dựng dựa trên nhân Linux, nhưng nền tảng này có rất ít điểm chung với ngăn xếp Linux dành cho desktop thông thường\".", "Điện thoại di động và PDA chạy Linux trên nền tảng nguồn mở trở nên phổ biến hơn từ năm 2007, các ví dụ bao gồm Nokia N810, Openmoko Neo1973, và Motorola ROKR E8. Tiếp tục xu hướng, Palm (sau này được HP mua lại) đã phát triển một hệ điều hành mới có nguồn gốc từ Linux, webOS, được tích hợp vào dòng smartphone Palm Pre.", "Maemo của Nokia, một trong những hệ điều hành di động sớm nhất, dựa trên Debian. Nó sau đó được hợp nhất với Moblin của Intel, một hệ điều hành dựa trên Linux khác, để trở thành MeeGo. Dự án này sau đó đã bị chấm dứt có lợi cho Tizen, một hệ điều hành nhắm vào các thiết bị di động cũng như IVI. Tizen là một dự án trong The Linux Foundation. Một vài sản phẩm của Samsung đã chạy Tizen, Samsung Gear 2 là ví dụ quan trọng nhất. Smartphone Samsung Z sẽ sử dụng Tizen thay vì Android.", "Do sự chấm dứt của MeeGo, dự án Mer đã phân tách cơ sở mã MeeGo để tạo cơ sở cho các hệ điều hành hướng di động. Vào tháng 7 năm 2012, Jolla đã công bố Sailfish OS, hệ điều hành di động của riêng họ được xây dựng dựa trên công nghệ Mer.", "Firefox OS của Mozilla gồm có nhân Linux, một lớp tương thích phần cứng, một runtime environment dựa trên web-standards và giao diện người dùng, web và trình duyệt web tích hợp..", "Canonical đã phát hành Ubuntu Touch, nhằm mục đích mang lại sự hội tụ cho trải nghiệm người dùng trên hệ điều hành di động này và đối tác desktop của nó, Ubuntu. Hệ điều hành cũng cung cấp một desktop Ubuntu đầy đủ khi được kết nối với màn hình ngoài.", "Hệ thống nhúng.", "Do chi phí thấp và dễ tùy chỉnh, Linux thường được sử dụng trong các hệ thống nhúng.Trong lĩnh vực thiết bị viễn thông không di động, phần lớn thiết bị cơ sở khách hàng customer-premises equipment (CPE) chạy một số hệ điều hành dựa trên Linux. OpenWrt là một ví dụ dựa vào cộng đồng mà nhiều bản phát hành phần mềm OEM dựa trên.", "Ví dụ, máy quay video kỹ thuật số TiVo dùng một bản tuỳ chỉnh của Linux, cũng như một số tường lửa và bộ định tuyến mạng từ các nhà sản xuất như Cisco/Linksys. Các Music workstation như Korg OASYS, Korg KRONOS, Yamaha Motif XS/Motif XF, Yamaha S90XS/S70XS, Yamaha MOX6/MOX8 synthesizers, Yamaha Motif-Rack XS tone generator module,và Roland RD-700GX digital piano cũng chạy Linux. Linuxcũng được sử dụng trong các hệ thống điều khiển ánh sáng sân khấu, như bảng điều khiển WholeHogIII.", "Gaming.", "Trong quá khứ, có rất ít trò chơi có sẵn cho Linux. Trong những năm gần đây, nhiều trò chơi đã được phát hành với sự hỗ trợ cho Linux (đặc biệt là Indie games), ngoại trừ một vài trò chơi tiêu đề AAA title. Android, một nền tảng di động phổ biến sử dụng nhân Linux, đã thu hút được nhiều sự quan tâm của nhà phát triển và là một trong những nền tảng chính để phát triển trò chơi di động cùng với hệ điều hành iOS của Apple cho các thiết bị iPhone và iPad.", "Ngày 14 tháng 2 năm 2013, Valve phát hành phiên bản Linux của Steam, một nền tảng phân phối game phổ biến trên PC. Nhiều game Steam đã được ported đến Linux. Ngày 13 tháng 12 năm 2013, Valve phát hành SteamOS, một hệ điều hành định hướng chơi game dựa trên Debian, để kiểm thử beta và có kế hoạch phát hành Steam Machines như một nền tảng chơi game và giải trí. Valve cũng đã phát triển VOGL, một trình gỡ lỗi OpenGL nhằm hỗ trợ phát triển video game, cũng như porting game engine Source của họ sang desktop Linux. Nhờ nỗ lực của Valve, một số trò chơi nổi bật như \"DotA 2\", \"Team Fortress 2\", \"Portal\", \"Portal 2\" \"và Left 4 Dead 2\" hiện đã có sẵn trên Steam Linux.", "Ngày 31 tháng 7 năm 2013, Nvidia phát hành Shield như một nỗ lực sử dụng Android như một nền tảng chơi game chuyên dụng.", "Một số người dùng Linux chơi các trò chơi Windows thông qua Wine hoặc CrossOver Linux. Tuy nhiên, vì chạy trên lớp tương thích nên không phải trò chơi nào cũng có thể hoạt động", "Ngày 22 tháng 8 năm 2018, Valve đã phát hành một Wineprefix riêng của họ có tên Proton, nhằm mục đích chơi game. Nó có một số cải tiến so với Wine ví dụ như các triển khai DirectX 11 và 12 dựa trên Vulkan, tích hợp Steam, hỗ trợ bộ điều khiển trò chơi và toàn màn hình tốt hơn và cải thiện hiệu suất cho các trò chơi đa luồng.", "Chuyên dùng.", "Do tính linh hoạt, khả năng tùy biến và bản chất nguồn mở và miễn phí của Linux, có thể điều chỉnh cao Linux cho một mục đích cụ thể. Có hai phương pháp chính để tạo phân phối Linux chuyên dụng: xây dựng từ đầu hoặc từ phân phối mục đích chung làm cơ sở. Các bản phân phối thường được sử dụng cho mục đích này bao gồm Debian, Fedora, Ubuntu (bản thân nó dựa trên Debian), Arch Linux, Gentoo, và Slackware. Ngược lại, các bản phân phối Linux được xây dựng từ đầu không có cơ sở mục đích chung; thay vào đó, họ tập trung vào triết lý JeOS bằng cách chỉ bao gồm các thành phần cần thiết và tránh chi phí tài nguyên gây ra bởi các thành phần được coi là dư thừa trong các trường hợp sử dụng của phân phối.", "Home theater PC.", "Một home theater PC (HTPC) là một PC chủ yếu được sử dụng như một hệ thống giải trí, đặc biệt là hệ thống rạp hát tại nhà. Nó thường được kết nối với TV và thường là một hệ thống âm thanh bổ sung.", "OpenELEC, một bản phân phối Linux kết hợp với phần mềm trung tâm truyền thông Kodi, là một hệ điều hành được điều chỉnh riêng cho HTPC. Được xây dựng từ đầu tuân thủ nguyên tắc JeOS, OS này rất nhẹ và rất phù hợp với phạm vi sử dụng hạn chế của HTPC.", "Ngoài ra còn có các phiên bản phân phối Linux đặc biệt bao gồm phần mềm trung tâm truyền thông MythTV, chẳng hạn như Mythbuntu, một phiên bản đặc biệt của Ubuntu.", "Bảo mật kỹ thuật số.", "Kali Linux là một bản phân phối Linux dựa trên Debian được thiết kế cho kiểm tra pháp y kỹ thuật số và kiểm tra thâm nhập. Nó được cài đặt sẵn một số ứng dụng phần mềm để kiểm tra thâm nhập và xác định các khai thác bảo mật. BackBox phái sinh từ Ubuntu cung cấp các công cụ phân tích mạng và bảo mật được cài đặt sẵn để hack.BlackArch dựa trên Arch bao gồm hơn 2100 công cụ để nghiên cứu pentesting và bảo mật.", "Có nhiều bản phân phối Linux được tạo ra với sự riêng tư, bí mật, ẩn danh mạng và bảo mật thông tin, bao gồm Tails, Tin Hat Linux và Tinfoil Hat Linux. Lightweight Portable Security là một bản phân phối dựa trên Arch Linux và được phát triển bởi Bộ Quốc phòng Mỹ. Tor-ramdisk là một bản phân phối tối thiểu được tạo ra chỉ để lưu trữ phần mềm ẩn danh mạng Tor.", "Hệ thống cứu hộ.", "Các Live CD Linux từ lâu đã được sử dụng như một công cụ để khôi phục dữ liệu từ hệ thống máy tính bị hỏng và để sửa chữa hệ thống.Dựa trên ý tưởng đó, một số bản phân phối Linux được thiết kế cho mục đích này đã xuất hiện, hầu hết trong số đó sử dụng GParted làm trình chỉnh sửa phân vùng, với phần mềm sửa chữa dữ liệu và phục hồi hệ thống bổ sung:", "Trong không gian.", "SpaceX sử dụng nhiều máy tính bay dự phòng trong một thiết kế có khả năng chịu lỗi trong tên lửa Falcon 9. Mỗi động cơ Merlin được điều khiển bởi ba máy tính voting, với hai bộ xử lý vật lý trên mỗi máy tính liên tục kiểm tra hoạt động của nhau. Linux vốn không có khả năng chịu lỗi (không có hệ điều hành, vì đây là chức năng của toàn bộ hệ thống bao gồm cả phần cứng), nhưng phần mềm máy tính bay làm cho mục đích của nó. For flexibility, commercial off-the-shelf parts and system-wide \"radiation-tolerant\" design are used instead of radiation hardened parts. Đến tháng 7 năm 2019, SpaceX đã thực hiện hơn 76 lần phóng Falcon 9 kể từ năm 2010, trong đó có một lần đã chuyển thành công trọng tải chính của mình lên quỹ đạo dự định và đã sử dụng nó để vận chuyển các phi hành gia lên International Space Station. Dragon 2 crew capsule cũng sử dụng Linux kết hợp với Chromium OS cho giao diện người dùng của nó.", "Windows đã được triển khai như là hệ điều hành trên các máy tính xách tay quan trọng phi nhiệm vụ được sử dụng trên trạm vũ trụ, nhưng sau đó nó đã được thay thế bằng Linux. Robonaut 2, robot hình người đầu tiên trong không gian, cũng dựa trên Linux.", "Jet Propulsion Laboratory đã sử dụng Linux trong một số năm \"để trợ giúp các dự án liên quan đến việc xây dựng chuyến bay không gian không người lái và thám hiểm không gian sâu\"; NASA sử dụng Linux trong chế tạo robot trong máy bay trên sao Hỏa và Ubuntu Linux để \"lưu dữ liệu từ vệ tinh\".", "Giáo dục.", "Các bản phân phối Linux đã được tạo để cung cấp trải nghiệm thực hành về mã hóa và mã nguồn cho sinh viên, trên các thiết bị như Raspberry Pi. Ngoài việc sản xuất một thiết bị thực tế, ý định là cho học sinh thấy \"cách mọi thứ hoạt động dưới mui xe\".", "Các dẫn xuất Edubuntu và The Linux Schools Project của Ubuntu, cũng như Skolelinux phái sinh từ Debian, cung cấp các gói phần mềm định hướng giáo dục. Chúng cũng bao gồm các công cụ để quản lý và xây dựng phòng thí nghiệm máy tính của trường và các lớp học dựa trên máy tính, như Linux Terminal Server Project (LTSP).", "Khác.", "Instant WebKiosk và Webconverger là các bản phân phối Linux dựa trên trình duyệt web thường được sử dụng trong các web kiosks và biển hiệu điện tử. Thinstation là một phân phối tối giản được thiết kế cho thin clients. Rocks Cluster Distribution được thiết kế cho các cụm tính toán hiệu năng cao.", "Có các bản phân phối Linux có mục đích chung nhắm vào đối tượng cụ thể, chẳng hạn như người dùng của một ngôn ngữ hoặc khu vực địa lý cụ thể. Những ví dụ như vậy bao gồm Ubuntu Kylin cho người dùng ngôn ngữ Trung Quốc và BlankOn nhắm vào người Indonesia. Các bản phân phối dành riêng cho chuyên gia bao gồm Ubuntu Studio để tạo phương tiện truyền thông và DNALinux cho tin sinh học. Ngoài ra còn có một bản phân phối theo định hướng Hồi giáo của tên Sabily do đó cũng cung cấp một số công cụ Hồi giáo. Một số tổ chức sử dụng các bản phân phối Linux chuyên biệt một chút trong nội bộ, bao gồm GendBuntu được sử dụng bởi Hiến binh quốc gia Pháp, Goobuntu được dùng bởi Google, và Astra Linux phát triển riêng cho Quân đội Nga", "Thị phần và tăng trưởng.", "Nhiều nghiên cứu định lượng về phần mềm tự do nguồn mở tập trung vào các chủ đề bao gồm thị phần và độ tin cậy, với nhiều nghiên cứu đặc biệt kiểm tra Linux. Thị phần Linux đang phát triển nhanh chóng và doanh thu của máy chủ, máy tính để bàn và phần mềm đóng gói chạy Linux dự kiến sẽ vượt quá 35,7 tỷ đô la#đổi ", "Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.", " vào năm 2008. Các nhà phân tích và người đề xuất cho rằng sự thành công tương đối của Linux là bảo mật, độ tin cậy, thấp chi phí và tự do từ nhà cung cấp khóa.", " Theo thống kê của máy chủ web, (nghĩa là dựa trên những con số được ghi lại từ lượt truy cập vào trang web của các thiết bị khách,) #đổi , thị phần ước tính của Linux trên máy tính để bàn là khoảng 2.1%. So sánh với, Microsoft Windows có thị phần khoảng 87%, trong khi macOS chiếm khoảng 9.7%.", " W3Cook công bố số liệu thống kê sử dụng top 1,000,000 tên miền của Alexa, trong đó ước #đổi có 96.55% máy chủ web chạy Linux, 1.73% chạy Windows, và 1.72% chạy FreeBSD.", "W3Techs công bố số liệu thống kê sử dụng top 1,000,000 tên miền của Alexa được cập nhật hàng tháng và tính đến tháng 11 năm 2016 ước tính rằng 66.7% máy chủ web chạy Linux/Unix, và 33.4% chạy Microsoft Windows.", "Tháng 9 năm 2008, Steve Ballmer CEO của Microsoft, đã tuyên bố rằng 60% máy chủ web chạy Linux, so với 40% chạy Windows Server.", "Báo cáo Q1 2007 của IDC chỉ ra rằng Linux nắm giữ 12,7% thị trường máy chủ nói chung tại thời điểm đó; ước tính này dựa trên số lượng máy chủ Linux được bán bởi các công ty khác nhau và không bao gồm phần cứng máy chủ được mua riêng mà đã cài đặt Linux sau đó.", " Android, dựa trên nhân Linux, đã trở thành hệ điều hành thống trị cho smartphones. Trong quý II năm 2013, 79,3% điện thoại thông minh được bán trên toàn thế giới đã sử dụng Android. Android cũng là một hệ điều hành phổ biến cho máy tính bảng, chịu trách nhiệm cho hơn 60% doanh số máy tính bảng tính đến năm 2013. Theo thống kê của máy chủ web, tính toán 12 tháng 3 năm 2014 Android có thị phần khoảng 46%, với iOS nắm giữ 45%, và 9% còn lại được quy cho các nền tảng thích hợp khác nhau.", " Trong nhiều năm, Linux là nền tảng được lựa chọn trong ngành công nghiệp điện ảnh. Bộ phim lớn đầu tiên được sản xuất trên máy chủ Linux là \"Titanic (1997)\". Kể từ đó, các hãng phim lớn bao gồm DreamWorks Animation, Pixar, Weta Digital, và Industrial Light & Magic đã chuyển sang. Theo Linux Movies Group, hơn 95% máy chủ và máy tính để bàn tại các công ty hoạt hình và hiệu ứng hình ảnh lớn sử dụng Linux.", " Các bản phân phối Linux cũng đã trở nên phổ biến với các chính quyền địa phương và quốc gia khác nhau. Chính phủ liên bang Brazil nổi tiếng vì hỗ trợ cho Linux. Tin tức về việc quân đội Nga tạo ra bản phân phối Linux của riêng mình cũng đã xuất hiện và đã trở thành hiện thực với tên gọi Dự án G.H.ost. Bang Kerala của Ấn Độ đã đi đến mức bắt buộc tất cả các trường trung học tiểu bang chạy Linux trên máy tính của họ. Trung Quốc sử dụng Linux làm hệ điều hành cho gia đình bộ xử lý Loongson để đạt được sự độc lập về công nghệ. Ở Tây Ban Nha, một số khu vực đã phát triển các bản phân phối Linux của riêng họ, được sử dụng rộng rãi trong các tổ chức giáo dục và chính thức, như gnuLinEx tại Extremadura và Guadalinex tại Andalusia. Pháp và Đức cũng đã thực hiện các bước đối với việc áp dụng Linux. Red Star OS của Bắc Triều Tiên, được phát triển từ năm 2002, dựa trên phiên bản Fedora Linux.", "Bản quyền, thương hiệu và tên gọi.", "Nhân Linux được cấp phép theo GNU General Public License (GPL) v2. GPL yêu cầu bất kỳ ai phân phối phần mềm dựa trên mã nguồn theo giấy phép này, phải cung cấp mã nguồn gốc (và mọi sửa đổi) cho người nhận theo cùng điều khoản. Các thành phần chính khác của bản phân phối Linux điển hình cũng chủ yếu được cấp phép theo GPL, nhưng chúng có thể sử dụng các giấy phép khác; nhiều thư viện sử dụng GNU Lesser General Public License (LGPL), một biến thể dễ dàng hơn của GPL, và việc triển khai X.Org của X Window System sử dụng MIT License.", "Torvalds tuyên bố rằng nhân Linux sẽ không chuyển từ phiên bản 2 của GPL sang phiên bản 3. Ông đặc biệt không thích một số quy định trong giấy phép mới cấm sử dụng phần mềm trong quản lý quyền kỹ thuật số. Nó cũng sẽ không thực tế để khi yêu cầu được sự cho phép từ tất cả các chủ sở hữu bản quyền, vốn dĩ có hàng ngàn.", "Một nghiên cứu năm 2001 về Red Hat Linux 7.1 cho thấy bản phân phối này chứa 30 triệu dòng mã nguồn. Sử dụng mô hình Constructive Cost Model, nghiên cứu ước tính rằng phân phối này cần khoảng tám nghìn năm thời gian phát triển. Theo nghiên cứu, nếu tất cả phần mềm này được phát triển bằng các phương tiện độc quyền thông thường, thì nó sẽ tốn khoảng USD (tỉ giá )để phát triển ở Hoa Kỳ. Hầu hết mã nguồ (71%) được viết bằng ngôn ngữ C, nhưng nhiều ngôn ngữ khác cũng được sử dụng, bao gồm C++, Lisp, Hợp ngữ, Perl, Python, Fortran, và các ngôn ngữ shell scripting khác nhau. Hơn một nửa số dòng mã được cấp phép theo GPL. Bản thân hạt nhân Linux là 2,4 triệu dòng mã, chiếm 8% tổng số.", "Trong một nghiên cứu sau đó, phân tích tương tự đã được thực hiện cho phiên bản Debian 4.0 (được phát hành năm 2007). Phân phối này chứa gần 283 triệu dòng mã nguồn, và nghiên cứu ước tính rằng nó sẽ cần khoảng bảy mươi ba nghìn năm nhân lực và tốn 8,84 đô la Mỹ (năm 2020 đô la) để phát triển bằng các phương tiện thông thường. ", "Tại Hoa Kỳ, tên \"Linux\" là nhãn hiệu đã được đăng ký cho Linus Torvalds. Ban đầu, không ai đăng ký nó, nhưng vào ngày 15 tháng 8 năm 1994, William R. Della Croce, Jr. đã nộp đơn đăng ký nhãn hiệu Linux và sau đó yêu cầu tiền bản quyền từ các bản phân phối Linux. Năm 1996, Torvalds và một số tổ chức bị ảnh hưởng đã kiện ông ta để thương hiệu được gán cho Torvalds, và, năm 1997, vụ việc đã được giải quyết. Việc cấp phép cho nhãn hiệu đã được xử lý bởi Linux Mark Institute (LMI). Torvalds đã tuyên bố rằng ông chỉ đăng ký tên thương hiệu này để ngăn người khác sử dụng nó. LMI ban đầu đã tính phí cấp phép danh nghĩa cho việc sử dụng tên Linux như một phần của nhãn hiệu, nhưng sau đó đã thay đổi điều này để cung cấp quyền cấp phép miễn phí, vĩnh viễn trên toàn thế giới.", "Free Software Foundation (FSF) muốn dùng \"GNU/Linux\" làm tên gọi khi đề cập đến toàn bộ hệ điều hành, vì họ coi các bản phân phối Linux là các biến thể của hệ điều hành GNU do Richard Stallman, chủ tịch của FSF khởi xướng năm 1983. Họ rõ ràng không có vấn đề gì đối với tên Android cho Android OS, đây cũng là một hệ điều hành dựa trên nhân Linux, vì GNU không phải là một phần của nó.", "Một số ít các nhân vật công cộng và các dự án phần mềm khác ngoài Stallman và FSF, đặc biệt là Debian (được FSF tài trợ cho đến năm 1996), cũng sử dụng GNU/Linux khi nói về toàn bộ hệ điều hành. Tuy nhiên, hầu hết các phương tiện và cách sử dụng phổ biến đều đề cập đến họ hệ điều hành này đơn giản là Linux, cũng như nhiều bản phân phối Linux lớn (ví như, SUSE Linux và Red Hat Enterprise Linux). Ngược lại, các bản phân phối Linux chỉ chứa phần mềm tự do sử dụng \"GNU/Linux\" hoặc đơn giản là \"GNU\", ví dụ như Trisquel GNU/Linux, Parabola GNU/Linux-libre, BLAG Linux and GNU, và gNewSense.", "Tài liệu học tập nghiên cứu.", "Trên thế giới có rất nhiều các website riêng về Linux. Dưới đây là một trong những trang phổ biến:", "Các forum về mã nguồn mở ở Việt Nam:", "Các bản phân phối Linux.", "Linux hiện nay có nhiều bản phân phối khác nhau, một phần là bởi vì tính chất nguồn mở của nó. Sau đây là một số bản phân phối chủ yếu, danh sách được cập nhật vào 26/10/2017:", "Tham khảo.", "Chú thích.", "Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ." ]
866
70616007
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=866
Huế
[ "Huế là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam. Huế từng là kinh đô (cố đô Huế) của Việt Nam dưới triều Tây Sơn (1788–1801) và triều Nguyễn (1802–1945). Hiện nay, thành phố là một trong những trung tâm về văn hóa – du lịch, y tế chuyên sâu, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ của Miền Trung - Tây Nguyên và cả nước. Những địa danh nổi bật là sông Hương và những di sản để lại của triều đại phong kiến, Thành phố có năm danh hiệu UNESCO ở Việt Nam: Quần thể di tích Cố đô Huế (1993), Nhã nhạc cung đình Huế (2003), Mộc bản triều Nguyễn (2009), Châu bản triều Nguyễn (2014) và Hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế (2016). Ngoài ra, Huế còn là một trong những địa phương có di sản hát bài chòi đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.", "Lịch sử và tên gọi.", "Thuận Hóa.", "Năm 1306, Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông và Hoàng đế Trần Anh Tông của Đại Việt gả Công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân theo lời hứa của Trần Nhân Tông khi đi thăm Chiêm Thành thời gian trước đó. Chế Mân dâng sính lễ gồm có hai Châu Ô và Châu Lý (từ Nam Quảng Trị đến Thừa Thiên - Huế ngày nay).", "Năm 1307, vua Trần Anh Tông tiếp quản vùng đất mới và đổi tên là châu Thuận và châu Hóa. Việc kết hợp hai châu này làm một và đặt tên phủ là Thuận Hóa (chữ Hán: 順化) được thực hiện dưới thời thuộc Nhà Minh. Đến đời Nhà Hậu Lê, châu Thuận và châu Hóa hợp thành Thuận Hóa và trở thành một đơn vị hành chính cấp tỉnh. Năm 1604, Nguyễn Hoàng đã bỏ cấp huyện Điện Bàn thuộc trấn Thuận Hóa, nâng lên thành cấp phủ, sáp nhập vào trấn Quảng Nam. Thuận Hóa dưới thời các chúa Nguyễn, (thế kỷ 17 – 18) là vùng đất trải dài từ phía nam sông Gianh cho tới đèo Hải Vân.", "\"Xem thêm bài Thuận Hóa, Huyền Trân Công Chúa.\"", "Phú Xuân.", "Năm 1626, để chuẩn bị cho việc chống lại nhà họ Trịnh, Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên dời dinh đến làng Phước Yên (Phúc An) thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên và đổi dinh thành phủ. Năm 1636, Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan chọn làng Kim Long, thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, làm nơi đặt Phủ. Năm 1687, Chúa Ngãi Nguyễn Phúc Thái, dời Phủ chúa về làng Phú Xuân (chữ Hán: 富春), thuộc huyện Hương Trà vào năm 1712, chúa Minh Nguyễn Phúc Chu dời phủ về làng Bác Vọng, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên làm nơi đặt phủ mới. Đến khi Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát lên cầm quyền năm 1738 thì phủ chúa mới trở về lại vị trí Phú Xuân và yên vị từ đó cho đến ngày thất thủ về tay quân họ Trịnh.", "Năm 1802, sau khi thống nhất Việt Nam, vua Gia Long đã \"đóng đô ở Phú Xuân, mới gọi là Kinh sư\" .", "Sự xuất hiện của tên địa danh Huế.", "Hiện chưa có nguồn thông tin nào khẳng định địa danh \"Huế\" chính thức xuất hiện lúc nào, theo một số thông tin thì:", "Triều Nguyễn.", "Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh (sau này là Hoàng đế Gia Long) đã thành công trong việc thiết lập việc kiểm soát của mình trên toàn bộ lãnh thổ của Việt Nam. Ông đặt Phú Xuân làm Kinh thành, đồng thời đặt dinh Quảng Đức làm vùng phụ cận bao bọc Kinh thành. Sau khi Minh Mạng lên ngôi, đã đổi dinh Quảng Đức thành phủ Thừa Thiên. Trong đợt cải cách hành chính 1831-1832, các đơn vị hành chính lớn như dinh, trấn được đổi thành tỉnh, trực thuộc thẳng triều đình. Riêng phủ Thừa Thiên do có vị trí kinh sư nên vẫn giữ cấp phủ, nhưng có địa vị ngang cấp tỉnh.", "Nhận xét về địa thế và lý do chọn Huế làm kinh đô, Minh Mạng cho rằng:Mậu tý, năm Minh Mệnh thứ 9 [1828],", "Vua lại bảo thị thần rằng: \"Người có nước [vua] có hai việc là sửa đức và thiết hiểm đều không thể thiếu được. Nay trẫm chế tạo tàu đồng là muốn giữ những chỗ yếu hại ven biển, làm xưởng chứa sẵn đấy, để lúc có việc dùng đến. Vả lại chỗ yếu lại không đâu bằng vụng Trà Sơn. Tàu ngoại quốc đến chỉ có thể đỗ ở đấy, mà chướng khí rất dữ, giếng độc hơn 10 cái. Trước có tàu Tây dương tránh gió đến đấy, cuối cùng bị nước độc làm hại, do đấy mà nói rằng người ngoại quốc dù có muốn dòm ngó cũng không sao làm được. Hơn nữa do đó ta lại giữ được chỗ hiểm để có thể vận dụng tàu thuyền kia mà. Vả lại lấy hình thế nước ta mà nói, Gia Định thì dòng sông quanh co, Bắc Thành thì đồng nội bằng phẳng, đều không có chỗ hiểm yếu đáng cậy được. Bình Định địa thế hơi mạnh nhưng lại chật hẹp; Quảng Nam non nước cũng tốt, nhưng lại lệch xiêu; cả đến Quảng Bình, Thanh Hoa đều không phải là chỗ đóng kinh đô được. Tóm lại không đâu bằng Phú Xuân, đất cát cao sáng, núi sông yên lặng; đường thủy thì có Thuận An, Tư Dung là nơi hiểm yếu, đường bộ thì có Quảng Bình, Hải Vân, ngăn che sông lớn quanh quất ở đằng trước, đèo cao giữ ở bên hữu, rồng lượn hổ ngồi, thế khoẻ hình mạnh. Đó là trời đất đặt ra để làm chỗ cho Liệt thánh ta đóng đô mà để lại cho con cháu đến ức muôn năm mãi mãi. Hoặc có kẻ nói Kinh sư đất nhiều đá sỏi người ta thường xem là nơi củi quế gạo châu. Nhưng giáp biển dựa núi, các thứ cá các thứ gỗ, dùng không thể hết, vốn các trấn không so sánh được; huống chi đô thành ở đấy, thấm nhuần đức trạch đã lâu. Trẫm lại tha thuế giảm thuế cho kinh kỳ trước nhất, đời sống của dân há chẳng thừa thãi hay sao? Đó thực là nơi kinh đô tốt nhất của đế vương, muôn đời không thể đổi được vậy\".Cho đến thời kỳ đầu Pháp thuộc, Huế là một tên gọi dân gian để chỉ Kinh thành. Mãi đến ngày 12 tháng 7 năm 1899, dưới tác động của chính quyền thực dân muốn đẩy nhanh quá trình đô thị hóa, vua Thành Thái đã ban Dụ thành lập thị xã Huế (\"Centre urbain de Hué\"), với ranh giới được xác lập xen giữa Kinh thành bao gồm các vùng phụ cận quanh kinh thành và dải đất dọc theo bờ nam sông Hương, tức là trục đường Lê Lợi nối từ cầu Ga đến Đập Đá ngày nay. Dụ này được Toàn quyền Đông Dương chuẩn y vào ngày 30 tháng 8 năm 1899. Từ đó, địa danh Huế trở thành địa danh chính thức cho đến tận ngày nay.", "Cho đến năm 1902, bộ máy quản lý thị xã Huế gồm Công sứ Thừa Thiên Le Marchant de Trigon, kế toán Dejoux, thư ký kế toán Vanez", "Những năm sau đó, thị xã Huế có ba lần mở rộng ranh giới về phía Nam sông Hương theo các Dụ ngày 22 tháng 6 năm 1903 của vua Thành Thái, ngày 9 tháng 5 năm 1908 của vua Duy Tân và ngày 21 tháng 11 năm 1921 của vua Khải Định. Bấy giờ, thị xã Huế được phân làm 9 phường gồm: Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ, Đệ Ngũ, Đệ Lục, Đệ Thất, Đệ Bát và Đệ Cửu. Mặc dù vậy, việc phân chia này chỉ trên danh nghĩa, vì các phần đất đai và dân cư ngoài kinh thành Huế vốn thuộc địa phận làng nào của huyện Hương Trà, Hương Thủy thì đều do các huyện ấy cai quản.", "Mãi đến ngày 12 tháng 12 năm 1929, cựu Khâm sứ Trung Kỳ, Toàn quyền Đông Dương Pierre Marie Antoine Pasquier là quyết định công nhận thị xã Huế là thành phố đô thị loại 3 (Commune de Hué), đồng thời xác lập bộ máy hành chính của thành phố đứng đầu là một viên Đốc lý do Công sứ Pháp ở phủ Thừa Thiên kiêm nhiệm, điều hành mọi công việc quản trị hành chính. Giúp việc cho Đốc lý có Phó đốc lý đồng thời là Phó công sứ. Ngoài ra còn có một Hội đồng thành phố được thành lập, cũng do viên Đốc lý người Pháp làm Chủ tịch. Đốc lý đầu tiên là Maurice-Arsène Devé (1929 - 1930), thư ký thành phố là Labbey", "Năm 1933, Bảo Đại ra Sắc lệnh số 41, chuẩn y việc chỉnh đốn công tác quản lý và điều hành thành phố Huế. Chức danh đứng đầu thành phố gọi là Bang tá, ngang hàng Tri huyện trong phẩm hàm quan lại người Việt, nhưng trên thực tế, mọi việc vẫn phụ thuộc vào viên đốc lý là Công sứ Pháp ở Thừa Thiên.", "Kể từ năm 1935, thành phố Huế mới chính thức trở thành đơn vị hành chính độc lập, không còn tình trạng nhập nhằng địa giới xen với các huyện Hương Trà, Hương Thủy; phần đất nào thuộc các phường thì sáp nhập hẳn vào thành phố quản lý. Vào thời điểm đó, trong Thành nội tức khu vực kinh thành (trừ Đại nội) gồm có 10 phường: Tây Lộc, Tây Linh, Trung Hậu, Phú Nhơn, Vĩnh An, Thái Trạch, Trung Tích, Huệ An, Thuận Cát, Tri Vụ. Ngoài kinh thành và nam sông Hương có 11 phường gồm: phường Phú Bình, Phú Thịnh, Phú Hòa, Phú Hội, Phú Nhuận, Phú Vĩnh, Phú Ninh, Phú Cát, Phú Mỹ, Phú Thọ và Phú Hậu. Tổng cộng thành phố Huế có 21 phường.", "Như vậy, kể từ năm 1929 đến 1945, vùng đất Thừa Thiên Huế cùng một lúc có ba tổ chức hành chính gồm Kinh sư do Đề đốc Kinh thành của triều đình trông coi, phủ Thừa Thiên có Phủ doãn cai quản và thành phố Huế đứng đầu là Đốc lý thành phố do Công sứ Pháp ở Thừa Thiên kiêm nhiệm. Trên thực tế, trừ khu vực Kinh thành, Công sứ Pháp ở Thừa Thiên mới thực sự là người nắm quyền cai trị hành chính trong toàn phủ Thừa Thiên.", "Chiến tranh Việt Nam.", "Năm 1945, lực lượng Việt Minh giành được chính quyền trên cả nước, lập chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặt thủ đô tại Hà Nội. Hoàng đế cuối cùng của nhà Nguyễn là Bảo Đại tuyên bố thoái vị và trở thành Cố vấn cho chính phủ mới. Từ đó, Huế mất đi địa vị kinh đô. Ngay cả khi Cựu hoàng Bảo Đại sau thời gian lưu vong trở lại Việt Nam với sự giúp đỡ của thực dân Pháp vào năm 1949, đã tuyên bố mình là \"Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam\", với đô thành là Sài Gòn. Mặc dù vậy, Quốc gia Việt Nam chỉ tồn tại trên danh nghĩa và Quốc trưởng Bảo Đại lại dành hầu hết thời gian của mình ở Đà Lạt. Ông hầu như rất ít khi về lại cố đô Huế, nơi thường diễn ra tranh chấp ác liệt giữa quân đội Pháp và lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.", "Thời kỳ Việt Nam Cộng hòa, vị trí của trung tâm thành phố Huế rất gần khu vực giới tuyến giữa 2 miền Nam Bắc, đặt nó ở một vị trí rất dễ bị tấn công trong chiến tranh Việt Nam. Trong Sự kiện Tết Mậu Thân năm 1968, trong trận Huế, thành phố đã bị thiệt hại nặng nề nhưng các danh lam thắng cảnh của thành phố vẫn đang trong tình trạng tốt.", "Thị xã Huế.", "Vào cuối thế kỷ 19, xứ Huế và cả Trung Kỳ là nơi chậm phát triển kinh tế công-thương nghiệp so với Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Một trong những giải pháp có thể đáp ứng tích cực những yêu cầu ấy là xúc tiến việc thiết lập các khu hành chính đô thị.", "Ngày 6 tháng 9 năm Thành Thái thứ 10 (ngày 20 tháng 10 năm 1898), dưới sự chỉ đạo và phê duyệt của Khâm sứ Trung Kỳ Boulloché, Cơ Mật Viện triều đình Huế đã làm tờ trình dâng lên Thành Thái yêu cầu nhà vua cho phép \"những nơi nào Khâm sứ Trung Kỳ và Cơ Mật Viện xét thấy cần thiết, sẽ thiết lập ở nơi đó một đô thị\".", "Ngày 5 tháng 6 năm Thành Thái thứ 11 (ngày 12 tháng 7 năm 1899), vua Thành Thái xuống Dụ công bố thành lập thị xã Huế với nội dung: \"Chiểu theo kết quả tốt đẹp của những biện pháp mà Cơ Mật Viện đã đề xuất vào ngày 6 tháng 9 năm Thành Thái thứ 10 về vấn đề thành lập các đô thị ở An Nam, nay trẫm quyết định bổ khuyết các biện pháp đó bằng một tổ chức hẳn hoi. Tổ chức này được áp dụng ở các thị xã là Thanh Hóa, Vinh, Huế, Hội An, Quy Nhơn và Phan Thiết\" ", "Ngày 13 tháng 7 năm 1899, Khâm sứ Trung Kỳ Boulloché phê duyệt tờ Dụ của vua Thành Thái, và đến ngày 30 tháng 8 năm 1899 Toàn quyền Đông Dương ra quyết định chuẩn y thành lập \"thị xã Huế\" (cùng 5 thị xã trên) .", "Thành phố Huế.", "Sau ngày tuyên bố độc lập (ngày 2 tháng 9 năm 1945), Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tiến hành kiện toàn lại bộ máy quản lý nhà nước, sắp xếp lại lại các đơn vị hành chính trong cả nước. Sắc lệnh số 77 ngày 21 tháng 12 năm 1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam quy định Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt, Sài Gòn đều đặt làm thành phố. Thành phố Hà Nội được đặt trực tiếp dưới quyền của Chính phủ Trung ương, còn các thành phố khác đều thuộc quyền của các Kỳ. Ở mỗi thành phố đặt cơ quan Hội đồng nhân dân thành phố, Uỷ ban hành chính thành phố, Uỷ ban hành chính khu phố... Đầu năm 1946, Chính phủ Việt Nam giải tán các cấp hành chính châu, quận, phủ, tổng; thành lập chính quyền bốn cấp từ bộ đến tỉnh- thành phố, huyện, xã (bãi bỏ cấp kỳ, thay vào đó là cấp bộ).", "Lịch sử hành chính thành phố Huế từ năm 1954.", "Giai đoạn từ năm 1954-1975: sau khi thành lập chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và ban hành hiến pháp, tổng thống Ngô Đình Diệm đã tiến hành xây dựng bộ máy hành chính từ trung ương đến cơ sở, đồng thời tiến hành cải tổ nền hành chính ở các địa phương. Theo tinh thần tờ Dụ số 57A ngày 24 tháng 10 năm 1956 với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, thị xã Huế là đơn vị hành chính ngang cấp với tỉnh Thừa Thiên, tuy tỉnh lị Thừa Thiên đặt ở Huế. Mô hình này chỉ tồn tại đến năm 1975.", "Sau năm 1975, thành phố Huế được chọn làm tỉnh lỵ tỉnh Bình Trị Thiên. Lúc này, cấp quận bị bãi bỏ, toàn thành phố được chia thành 11 phường: Phú An, Phú Cát, Phú Hiệp, Phú Hòa, Phú Thuận, Tây Lộc, Thuận Hòa, Thuận Lộc, Thuận Thành, Vĩnh Lợi và Vĩnh Ninh. Năm 1976, bốn xã: Thủy Phú, Thủy Phước, Thủy Trường, Thủy Xuân thuộc huyện Hương Thủy; xã Hương Lưu thuộc huyện Phú Vang và xã Xuân Long thuộc huyện Hương Trà được sáp nhập vào thành phố Huế.", "Ngày 13 tháng 3 năm 1979, giải thể phường Phú An, dân và đất của của phường này giao cho phường Phú Cát quản lý. Phường Phú An (trước năm 1976 là khu phố Phú An) vốn là đơn vị hành chính quản lý cư dân vạn đò trên sông Hương và các sông đào.", "Ngày 11 tháng 9 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 64-HĐBT. Theo đó:", "Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, thành phố Huế có 10 phường và 23 xã.", "Ngày 17 tháng 9 năm 1981, chia xã Hương Hồ thành 2 xã: Hương Hồ và Hương An.", "Ngày 6 tháng 1 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 03-HĐBT. Theo đó:", "Cuối năm 1988, thành phố Huế có 18 phường: An Cựu, Kim Long, Phú Bình, Phú Cát, Phú Hiệp, Phú Hòa, Phú Thuận, Phước Vĩnh, Phường Đúc, Tây Lộc, Thuận Hòa, Thuận Lộc, Thuận Thành, Trường An, Vỹ Dạ, Vĩnh Lợi, Vĩnh Ninh, Xuân Phú và 22 xã: Bình Điền, Bình Thành, Hải Dương, Hương An, Hương Bình, Hương Hồ, Hương Long, Hương Phong, Hương Sơ, Hương Thọ, Hương Vinh, Phú Dương, Phú Mậu, Phú Tân, Phú Thanh, Phú Thượng, Thuận An, Thủy An, Thủy Bằng, Thủy Biều, Thủy Dương, Thủy Xuân.", "Ngày 30 tháng 6 năm 1989, sau khi chia tách tỉnh Bình Trị Thiên, thành phố Huế trở lại là tỉnh lỵ tỉnh Thừa Thiên Huế.", "Ngày 29 tháng 9 năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 345-HĐBT. Theo đó:", "Thành phố Huế còn lại 18 phường và 5 xã trực thuộc.", "Ngày 24 tháng 9 năm 1992, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 355-CT về việc công nhận thành phố Huế là đô thị loại II.", "Ngày 22 tháng 11 năm 1995, Chính phủ ban hành Nghị định 80/CP. Theo đó:", "Ngày 24 tháng 8 năm 2005, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 209/2005/QĐ-TTg về việc công nhận thành phố Huế là đô thị loại I.", "Ngày 27 tháng 3 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định 44/2007/NĐ-CP. Theo đó:", "Ngày 25 tháng 3 năm 2010, chuyển 3 xã: Hương Long, Thủy Xuân và Thủy Biều thành 3 phường có tên tương ứng.", "Cuối năm 2020, thành phố Huế có 27 phường: An Cựu, An Đông, An Hòa, An Tây, Hương Long, Hương Sơ, Kim Long, Phú Bình, Phú Cát, Phú Hậu, Phú Hiệp, Phú Hòa, Phú Hội, Phú Nhuận, Phú Thuận, Phước Vĩnh, Phường Đúc, Tây Lộc, Thuận Hòa, Thuận Lộc, Thuận Thành, Thủy Biều, Thủy Xuân, Trường An, Vĩnh Ninh, Vỹ Dạ và Xuân Phú.", "Ngày 27 tháng 4 năm 2021, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1264/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2021). Theo đó:", "Thành phố Huế có 29 phường và 7 xã như hiện nay.", "Địa lý.", "Vị trí địa lý.", "Thành phố Huế nằm ở trung tâm tỉnh Thừa Thiên Huế, địa bàn nằm trải dài theo dòng sông Hương và có vị trí địa lý:", "Thành phố có diện tích 265,99 km², dân số năm 2020 là 652.572 người, mật độ dân số đạt 2.453 người/km².", "Thành phố nằm cách thủ đô Hà Nội 668 km về phía nam, cách Thành phố Hồ Chí Minh 1039 km về phía bắc và cách Đà Nẵng 95 km về phía bắc.", "Nằm gần dãy núi Trường Sơn, khu vực thành phố Huế là đồng bằng thuộc vùng hạ lưu sông Hương và sông Bồ, có độ cao trung bình khoảng 3 – 4 m so với mực nước biển và thường bị ngập lụt khi đầu nguồn của sông Hương (trên Dãy Trường Sơn) xảy ra mưa vừa và lớn. Khu vực đồng bằng này tương đối bằng phẳng, tuy trong đó có xen kẽ một số đồi, núi thấp như núi Ngự Bình, Đồi Vọng Cảnh...", "Khí hậu.", "Thành phố Huế có sự ngoại lệ về khí hậu so với Bắc Bộ và Nam Bộ, vì nơi đây khí hậu khắc nghiệt và có sự khác nhau giữa các vùng và khu vực trong toàn tỉnh. Huế có khí hậu nhiệt đới gió mùa, thuộc Phân loại khí hậu Köppen. Mùa khô từ tháng Ba đến tháng Tám, với nhiệt độ khá cao từ 35 đến 40 °C (95 đến 104 °F). Mùa mưa từ tháng Tám đến tháng Giêng, với một mùa lũ từ tháng Mười, trở đi. Nhiệt độ trung bình mùa mưa là 20 °C (68 °F), đôi khi thấp nhất là 9 °C (48 °F). Mùa xuân kéo dài từ tháng giêng đến cuối tháng Hai.", "Hành chính.", "Thành phố Huế có 36 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, gồm 29 phường: An Cựu, An Đông, An Hòa, An Tây, Đông Ba, Gia Hội, Hương An, Hương Hồ, Hương Long, Hương Sơ, Hương Vinh, Kim Long, Phú Hậu, Phú Hội, Phú Nhuận, Phú Thượng, Phước Vĩnh, Phường Đúc, Tây Lộc, Thuận An, Thuận Hòa, Thuận Lộc, Thủy Biều, Thủy Vân, Thủy Xuân, Trường An, Vĩnh Ninh, Vỹ Dạ, Xuân Phú và 7 xã: Hải Dương, Hương Phong, Hương Thọ, Phú Dương, Phú Mậu, Phú Thanh, Thủy Bằng.", "Hiện nay, Huế là thành phố thuộc tỉnh có nhiều đơn vị hành cấp xã nhất Việt Nam với 36 đơn vị, đồng thời là thành phố thuộc tỉnh có số phường nhiều thứ hai ở Việt Nam (sau thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa với 30 phường và có cùng 29 phường như thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai).", "Kinh tế.", "Huế có nhiều trung tâm thương mại lớn và toạ lạc ở hai bên bờ sông Hương như: chợ Đông Ba, chợ Tây Lộc, chợ An Cựu. Cùng những trung tâm thương mại, siêu thị như CoopMart, Go!, Vincom, The Manor Crown, Nguyễn Kim. Và có 4 rạp chiếu phim lớn ở trung tâm Thành phố Huế như CineStar, BHD, Starlight và Lotte Cinema", "Kinh tế thành phố phát triển chủ yếu ở ngành du lịch.", "Hiện tại trên địa bàn thành phố đã và đang hình thành một số khu đô thị cao cấp như khu đô thị An Đông Villas, khu đô thị An Cựu Villas, khu đô thị Phú Mỹ An, The Manor Crown...,", "Tình hình sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp năm 2016 duy trì ở mức ổn định; GTSX CN-TTCN trên địa bàn thành phố ước đạt 6.502 tỷ đồng (giá hiện hành) tăng 13% so với cùng kỳ. Các mặt hàng trọng điểm như dệt may, da giày vẫn giữ được tốc độ tăng khá, xuất khẩu đạt tăng trưởng cao. Các mặt hàng tiêu dùng nội tỉnh tiếp tục duy trì mức tiêu thụ ổn định.", "Văn hóa.", "Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế có một quá trình lịch sử hình thành và phát triển khoảng gần 7 thế kỷ (tính từ năm 1306), trong tiến trình hình thành văn hóa Huế có sự tác động của văn hóa Đông Sơn do các lớp cư dân từ phía Bắc mang vào trước thế kỷ 2 và sau thế kỷ 13 hỗn dung với thành phần văn hóa Sa Huỳnhtạo nên nền văn hóa Việt - Chăm. Trong quá trình phát triển, chuyển biến có ảnh hưởng của các luồng văn hóa khác các nước trong khu vực Đông Nam Á, Trung Quốc, Ấn Độ, phương Tây...", "Văn hóa Huế được tạo nên bởi sự đặc sắc về tinh thần, đa dạng về loại hình, phong phú và độc đáo về nội dung, được thể hiện rất phong phú trên nhiều lĩnh vực như: văn học, âm nhạc, sân khấu, mỹ thuật, phong tục tập quán, lễ hội, lề lối ứng xử, ăn - mặc - ở, phong cách giao tiếp, phong cách sống..", "Huế còn được gọi là \"Đất Thần Kinh\" hay \"Xứ thơ\", là một trong những thành phố được nhắc tới nhiều trong thơ văn và âm nhạc Việt Nam vì nét lãng mạn và thơ mộng.. ", "Kiến trúc.", "Kiến trúc ở Huế phong phú và đa dạng: có kiến trúc cung đình và kiến trúc dân gian, kiến trúc tôn giáo và kiến trúc đền miếu, kiến trúc truyền thống và kiến trúc hiện đại... Những công trình kiến trúc công phu, đồ sộ nhất chính là Quần thể di tích Cố đô Huế hay Quần thể di tích Huế. Đó là những di tích lịch sử - văn hóa do triều Nguyễn chủ trương xây dựng trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20 trên địa bàn kinh đô Huế xưa; nay thuộc phạm vi thành phố Huế và một vài vùng phụ cận thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam.", "Một loại hình kiến trúc dân gian độc đáo ở Huế là nhà rường xứ Huế, với những cột, kèo chống hoàn toàn làm từ gỗ, với những nét chạm trổ, vào mộng cực kỳ tinh xảo và khéo léo. Hiện còn khoảng trên dưới 100 nhà rường như thế (chỉ tính riêng nhà ở gia đình, không bào gồm đình làng, nhà thờ họ...) ở thành phố Huế và các huyện, thị xã có tuổi đời trên dưới 100 năm, cá biệt có nhà gần 200 năm.", "Trang phục.", "Các thiết kế hiện đại của áo dài, một trang phục truyền thống của người Việt, phát triển từ một bộ trang phục của triều đình Chúa Nguyễn tại Huế ở thế kỷ 18. Một khoảng thời gian trong lịch sử, triều đình nhà Nguyễn đựa ra các quy tắc ăn mặc như sau:", "Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền, không được xẻ mở. Chỉ duy nhất khi đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn có ống tay hẹp cho tiện khi làm việc thì được phép.", "Trang phục này phát triển thành \"áo dài ngũ thân\", một năm loại áo choàng phổ biến của các quý tộc mặc trong thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ thứ 20. Lấy cảm hứng từ thời trang của Paris, Nguyễn Cát Tường và các nghệ sĩ khác đã kết hợp với Trường Đại học Hà Nội thiết kế lại \"áo dài ngũ thân\" như là trang phục hiện đại trong những năm 1920 và 1930. Áo dài và nón lá thường được xem như là một biểu tượng của Việt Nam, sự kết hợp giữa áo dài và nón lá được công nhận bởi người Việt là xuất phát từ Huế. Màu tím đặc trưng của áo dài phổ biến ở Huế, màu sắc đặc biệt đó đã làm áo dài trở thành di sản của thành phố, một cố đô.", "Âm nhạc và nghệ thuật.", "Âm nhạc và nghệ thuật Huế mang đậm nét lịch sử, cổ kính.", "Nhã nhạc cung đình.", "Bắt nguồn từ tám loại lễ nhạc cung đình thời Lê là giao nhạc, miếu nhạc, ngũ tự nhạc, cửu nhật nguyệt giao trùng nhạc, đại triều nhạc, thường triều nhạc, đại yến cửu tấu nhạc, cung trung nhạc, đến triều Nguyễn lễ nhạc cung đình Việt Nam đã phát triển thành hai loại hình Đại nhạc và Nhã nhạc (tiểu nhạc) với một hệ thống các bài bản lớn.", "Vũ khúc cung đình.", "Với trên 15 vở múa lớn, từ múa tế lễ, múa chúc tụng, múa tiếp sứ, múa yến tiệc, múa trình diễn tích tuồng. Nhiều vở múa có tính hoành tráng, quy mô diễn viên đông, phô diễn được vẻ đẹp rộn ràng, lấp lánh và kỹ thuật, kỹ xảo của múa hát cung đình Việt Nam thể hiện được sự phát triển nâng cao múa hát cổ truyền của người Việt.", "Ca Huế.", "Ca Huế là một hệ thống bài bản phong phú gồm khoảng 60 tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc theo hai điệu thức lớn là điệu Bắc, điệu Nam và một hệ thống \"hơi\" diễn tả nhiều sắc thái tình cảm đặc trưng. Điệu Bắc gồm những bài ca mang âm điệu tươi tắn, trang trọng. Điệu Nam là những bài âm điệu buồn, nỉ non, ai oán. Bài bản Ca Huế có cấu trúc chặt chẽ, nghiêm ngặt, trải qua quá trình phát triển lâu dài đã trở thành nhạc cổ điển hoàn chỉnh, mang nhiều yếu tố \"chuyên nghiệp\" bác học về cấu trúc, ca từ và phong cách biểu diễn. Đi liền với ca Huế là dàn nhạc Huế với bộ ngũ tuyệt Tranh, Tỳ, Nhị, Nguyệt, Tam, xen với Bầu, Sáo và bộ gõ trống Huế, sanh loan, sanh tiền.", "Kỹ thuật đàn và hát Ca Huế đặc biệt tinh tế nhưng Ca Huế lại mang đậm sắc thái địa phương, phát sinh từ tiếng nói, giọng nói của người Huế nên gần gũi với Hò Huế, Lý Huế; là chiếc cầu nối giữa nhạc cung đình và âm nhạc dân gian.", "Nghệ thuật tuồng.", "Phát triển sớm từ thế kỷ 17 dưới thời các chúa Nguyễn. Đến triều Nguyễn, tuồng được xem là quốc kịch và triều đình Huế đã tạo điều kiện thuận lợi cho tuồng phát triển. Trong Đại Nội Huế có nhà hát Duyệt Thị Đường, Tĩnh Quang Viện, Thông Minh Đường. Tại Khiêm Lăng, có Minh Khiêm Đường. Thời Minh Mạng đã thành lập Thanh Bình Thự làm nơi dạy diễn viên tuồng. Thời Minh Tự Đức đã thành lập Ban Hiệu Thư chuyên nhuận sắc, chỉnh lý, hiệu đính và sáng tác tuồng.", "Mỹ thuật và mỹ nghệ.", "Với những kiểu thức trang trí bắt nguồn từ những mẫu mực của Trung Hoa, các nghệ nhân Việt Nam đã tạo nên một bản sắc nghệ thuật trang trí với những nét độc đáo mang cá tính Huế. Nghệ thuật trang trí mỹ thuật Huế còn tiếp thu những tinh hoa của nghệ thuật Chăm, đặc biệt là tiếp thu nghệ thuật trang trí Tây Phương. Trang trí cung đình Huế còn tiếp nhận và nâng cao nghệ thuật dân gian Việt Nam. Nhiều loại hình thủ công mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam như chạm khắc gỗ, cẩn xà cừ, cẩn tam khí ngũ khí, sơn son thếp vàng, chạm khắc xương và ngọc ngà, khảm sành sứ, làm vàng bạc, dệt, thêu, đan...đã được các tượng cục triều Nguyễn nâng lên thành những nghệ thuật tinh xảo, sang trọng. Về hội họa nhiều họa sĩ nổi tiếng về tranh thủy mặc sơn thủy, trúc lan, tranh gương, các ấn phẩm nhất thi nhất họa đặc sắc. Đặc biệt, từ Huế xuất hiện người họa sĩ vẽ tranh sơn dầu đầu tiên ở Việt Nam là họa sĩ Lê Văn Miên (1870-1912)...Về điêu khắc, cố đô Huế đã đánh dấu một thời kỳ phát triển mới, thể hiện bằng các tác phẩm điêu khắc trên đá, trên đồng, trên gỗ. Trong điêu khắc gỗ, phần khắc chạm gỗ trang trí với những bức chạm nổi, chạm lộng trên các chi tiết công trình kiến trúc đạt đến sự tinh xảo và có tính thẩm mỹ cao. Về mỹ thuật ứng dụng, ngoài việc nâng cao các loại hình thủ công mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam, Huế còn một thời sản xuất đồ mỹ nghệ pháp lam cao cấp.", "Nghệ thuật khác.", "Huế tạo nhiều cảm hứng trong các bài hát như: Ai ra xứ huế (Duy Khánh), Gửi em chiếc nón bài thơ (Lê Việt Hòa), Tặng đời chiếc nón bài thơ (Tràn Phán), Nón bài thơ (Trần Trịnh), Huế xưa (Anh Bằng), Huế đã xa rồi (Anh Bằng), Huế khóc (Anh Bằng), Huế nhớ o (Anh Bằng), Huế bây giờ (phổ nhạc bài thơ \"Huế bây giờ\" của Tôn Nữ Thụy Khương)..., các bài thơ như: Chiếc nón bài thơ (Lưu Vĩnh Hạ), Chiếc nón bài thơ (Hoàng Thanh), Ai ra xứ Huế (Chử Văn Hòa), Huế thương (Hồng Hoa), Huế bây giờ (Tôn Nữ Thụy Khương)...và nhiều nghệ thuật hiện đại khác", "Lễ hội.", "Có hai loại lễ hội: lễ hội cung đình và lễ hội dân gian. Lễ hội cung đình phản ánh sinh hoạt lễ nghi của triều Nguyễn, phần lớn chỉ chú trọng về \"lễ\" hơn \"hội\". Lễ hội dân gian gồm nhiều loại rất phong phú, tiêu biểu như: lễ hội Huệ Nam ở điện Hòn Chén hay còn gọi là lễ rước sắc nữ thần Thiên y A na theo tín ngưỡng của người Chăm pa, lễ hội tưởng niệm các vị khai sinh các ngành nghề truyền thống, lễ hội tưởng nhớ các vị khai canh thành lập làng. Trong những dịp tế lễ, nhiều sinh hoạt văn hóa bổ ích như đua thuyền, kéo co, đấu vật... còn được tổ chức và thu hút đông người xem.", "Festival Huế.", "Tổ chức lần đầu tiên vào năm 2000, đến nay Festival Huế tổ chức được 10 lần (2000, 2002, 2004, 2006, 2008, 2010, 2012, 2014, 2016 và 2018). Đây là sự kiện văn hóa lớn có quy mô quốc gia và tầm cỡ quốc tế, có ý nghĩa quan trọng trong đời sống của người dân Huế. Là điều kiện quan trọng để xây dựng Huế thành thành phố Festival của Việt Nam.", "Ẩm thực.", "Huế còn lưu giữ trên 1000 món ăn nấu theo lối Huế, có cả những món ăn ngự thiện của các vua triều Nguyễn. Bản thực đơn ngự thiện có trên vài chục món thuộc loại cao lương mỹ vị, được chuẩn bị và tổ chức rất công phu, tỉ mỉ, cầu kỳ. Các món ăn dân dã rất phổ biến trong quần chúng với bản thực đơn phong phú hàng trăm món được chế biến khéo léo, hương vị quyến rũ, màu sắc hấp dẫn, coi trọng phần chất hơn lượng; nghệ thuật bày biện các món ăn đẹp mắt, nghệ thuật thưởng thức tinh tế.", "Võ thuật.", "Huế hiện có rất nhiều hệ phái võ, có những phái võ nỗi danh truyền tụng cũng có những phái âm thầm như chính vùng đất cố đô. Tuy vậy, tất cả đều mang những đặc trưng đặc biệt riêng có của xứ Huế. Võ thuật Huế có nhiều nguồn gốc, từ Ấn Độ, Trung quốc, Thái Lan, Lào, miến điện, Hàn Quốc, Nhật Bản... tất cả quyền thuật năm châu đến Huế rồi hội ngộ với những môn phái dân dã tạo nên đặc trưng riêng của mảnh đất kinh kỳ. Bên cạnh đó cũng có nhiều môn phái sản sinh ra tại trên chính mảnh đất này cùng với lịch sử của nó và mang những tên gọi dân gian như Áo Vải, Bạch hổ, Thiếu lâm...", "Du lịch.", "Huế có nhiều di tích lịch sử đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới.", "Ngày nay, một khu vực nhỏ của thành phố vẫn còn bị cấm, mặc dù các nỗ lực tái thiết đang được tiến hành để duy trì nó như là một địa điểm lịch sử thu hút khách du lịch.", "Dọc theo sông Hương từ Huế còn vô số các di tích khác, bao gồm cả những lăng mộ của một số hoàng đế, trong đó có Minh Mạng, Khải Định và Tự Đức. Một ngôi chùa của Huế là chùa Thiên Mụ, ngôi chùa lớn nhất ở Huế và là biểu tượng chính thức của thành phố.", "Một số tòa nhà kiểu Pháp nằm dọc theo bờ phía nam của sông Hương. Trong số đó là Trường Quốc học và Trường Hai Bà Trưng, là các trường trung học phổ thông lâu đời nhất ở Việt Nam, khách sạn Saigon Morin, một trong những khách sạn lâu đời nhất Việt Nam.", "Viện bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế nằm ở số 3 đường Lê Trực cũng trưng bày một bộ sưu tập các hiện vật khác nhau từ thành phố.", "Làng Dương Nỗ, xã Phú Dương là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh từng sinh sống và học tập thời niên thiếu trong những năm ở Huế từ 1898 - 1900. Nơi đây vẫn còn lưu lại di tích.", "Ngoài những điểm thu hút du lịch khác nhau tại Huế, thành phố cũng cung cấp một vùng đất rộng lớn cho khu phi quân sự, nằm cách khoảng 70 km (43 dặm) về phía bắc, cho thiết lập các thiết bị chiến đấu khác nhau như The Rockpile, Căn cứ Khe Sanh hay Địa đạo Vịnh Mốc.", "Trong 11 tháng đầu năm 2012, thành phố Huế đã nhận được 2,4 triệu lượt khách du lịch, tăng 24,6% so với cùng kỳ năm 2011. Tất cả 803.000 khách trong 2,4 triệu khách là khách nước ngoài, tăng 25,7%.", "Mặc dù du lịch đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội của thành phố, nó cũng có tác động tiêu cực đến môi trường và tài nguyên thiên nhiên.  Ví dụ như các dịch vụ gắn với du lịch, sự phát triển của cơ sở hạ tầng và sự hoạt động của nó, việc sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, là tất cả nguyên nhân có thể gây ô nhiễm môi trường.", "Giáo dục.", "Trường Đại học và Cao đẳng.", "Đại học Huế, tiền thân là Viện Đại học Huế (1957-1975), có lịch sử hơn 60 năm phát triển và tồn tại. Đây là nơi đào tạo nhân lực cho miền Trung - Tây Nguyên. Là đại học cấp vùng cùng với bốn đại học: Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Tp.HCM, Đại học Đà Nẵng và Đại học Thái Nguyên. Đại học Huế bao gồm các trường, khoa, viện: Trường Đại học Nghệ thuật Huế, Trường Đại học Sư phạm Huế, Trường Đại học Khoa học Huế,Trường Đại học Y Dược Huế, Trường Đại học Nông lâm Huế, Trường Đại học Ngoại ngữ Huế, Trường Đại học Kinh tế Huế, Trường Đại học Luật, Khoa Giáo dục thể chất, Khoa Quốc tế, Khoa Kĩ thuật và Công nghệ, Trường Du lịch...", "Một số cơ sở giáo dục khác (bậc đại học và cao đẳng): Phân viện Hành chính Quốc gia tại Huế, Học viện Âm nhạc Huế, Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế, Trường Đại học Phú Xuân, Trường Cao đẳng Y tế Huế, Trường Cao đẳng Sư phạm Huế, Trường Cao đẳng Công nghiệp Huế, Trường Cao đẳng Du lịch Huế, Trường Cao đẳng Giao thông Huế, Trường Chính trị Nguyễn Chí Thanh, Phân hiệu Trường nghiệp vụ Thuế (thuộc Tổng cục Thuế), Phân hiệu Đại học Tài chính - Kế toán (Bộ Tài chính)...", "Trường THPT.", "1. Trường THPT chuyên Quốc Học", "2. Trường THPT Hai Bà Trưng (trường Nữ sinh Đồng Khánh cũ).", "3. Trường THPT Nguyễn Huệ (trường Nữ sinh Thành Nội cũ).", "4. Trường THPT Phan Đăng Lưu (trường cấp 3 Phú Vang cũ).", "5. Trường THPT Nguyễn Trường Tộ.", "6. Trường THPT Cao Thắng.", "7. Trường THPT Gia Hội.", "8. Trường THPT Bùi Thị Xuân.", "9. Trường THPT Đặng Trần Côn.", "10. Trường THPT Hương Vinh.", "11. Trường THPT Thuận An.", "12. Trường PT Dân tộc Nội trú tỉnh.", "Trường THCS.", "Tính đến tháng 7/2021, thành phố có 38 trường THCS công lập:", "Chi tiết:", "Trường Tiểu học và Mầm non.", "Được xây dựng và phát triển đồng bộ ở tất cả 36 phường, xã của thành phố.", "Cơ sở hạ tầng.", "Y tế.", "Bệnh viện Trung ương Huế được thành lập vào năm 1894, là bệnh viện phương Tây đầu tiên tại Việt Nam. Bệnh viện cung cấp 2078 giường và rộng 120.000 mét vuông, một trong những bệnh viện lớn tại khu vực miền Trung - Tây Nguyên.", "Giao thông vận tải.", "Huế có ga Huế là ga đường sắt với đường tàu kết nối đến tất cả các thành phố lớn của Việt Nam. Sân bay quốc tế Phú Bài nằm ở phía nam thành phố", "Xem thêm.", "<templatestyles src=\"Div col/styles.css\"/>" ]
867
821313
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=867
Võ Nguyên Giáp
[ "Võ Nguyên Giáp (25 tháng 8 năm 1911#đổi 4 tháng 10 năm 2013), tên khai sinh là Võ Giáp, còn được gọi là tướng Giáp hoặc anh Văn, là một nhà lãnh đạo quân sự và chính trị gia người Việt Nam. Ông là Đại tướng đầu tiên, Tổng Tư lệnh tối cao của Quân đội Nhân dân Việt Nam, một trong những thành viên sáng lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được Chính phủ Việt Nam đánh giá là \"người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh\", là chỉ huy trưởng của các chiến dịch trong Chiến tranh Đông Dương (1946–1954), Chiến tranh Việt Nam (1955–1975) và Chiến tranh biên giới Việt – Trung (1979).", "Xuất thân là một giáo viên dạy lịch sử, ông được đánh giá là một trong những nhà lãnh đạo quân sự lỗi lạc nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông được nhiều tờ báo ca ngợi là anh hùng dân tộc của nhân dân Việt Nam.", "Thân thế.", "Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911 ở làng An Xá, tổng Đại Phong Lộc, huyện Lệ Thủy, phủ Quảng Ninh (nay là xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình) trong một gia đình nhà nho, con của ông Võ Quang Nghiêm (Võ Nguyên Thân), một nhà nho đức độ và mẹ là bà Nguyễn Thị Kiên.", "Về họ ngoại, ông ngoại Võ Nguyên Giáp quê ở thôn Mỹ Đức, xã Sơn Thủy, huyện Lệ Thủy, đầu nguồn sông Cẩm Ly, một vùng sơn cước, dưới dãy Trường Sơn; từng tham gia Phong trào Văn Thân và Phong trào Cần Vương, làm đến chức Đề đốc coi đại đồn tiền vệ, sau bị quân Pháp bắt, tra tấn dã man, nhưng một mực trung thành, không một lời khai báo.", "Về họ nội, Võ Nguyên Giáp sinh trưởng trong một dòng họ lớn, có tiếng tăm tại làng An Xá. Ông nội ông cũng từng tham gia phò tá vua Hàm Nghi trong Phong trào Cần Vương. Cha ông, Võ Quang Nghiêm, là một nho sinh thi cử bất thành về nhà làm hương sư và thầy thuốc Đông y trong làng. Khi Chiến tranh Đông Dương bùng nổ, cụ Võ Quang Nghiêm bị người Pháp bắt, đưa về giam ở Huế và mất trong tù (sau này, con cháu đã tìm thấy và bốc mộ ông đưa về an táng tại nghĩa trang liệt sĩ huyện Lệ Thủy).", "Gia đình Võ Nguyên Giáp có 7 anh chị em, nhưng người anh cả và chị cả mất sớm vì bệnh và thiên tai, 2 người khác cũng mất trước chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau 1954, gia đình chỉ còn 2 người con trai là Võ Nguyên Giáp và Võ Thuần Nho, sau này là Thứ trưởng Bộ Giáo dục, và người em gái là bà Võ Thị Lài.", "Thời niên thiếu.", "Gia đình cụ Nghiêm thuộc diện nghèo trong làng, quanh năm phải vay nợ nặng lãi của các nhà giàu như nhà Khóa Uy, một Hoa kiều giàu có ở làng Tuy Lộc kề bên. Võ Nguyên Giáp đã có lần theo mẹ chèo thuyền chở thóc đi trả nợ. Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng những câu chuyện đêm đêm mẹ kể cho cậu nghe về tướng quân Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương, kêu gọi các sĩ phu và dân chúng đứng lên chống Pháp bảo vệ non sông, còn cha nói về phong trào đánh Pháp qua bài vè \"Thất thủ kinh đô\" đầy cảm động, đã gieo vào lòng cậu bé những ấn tượng không bao giờ phai mờ, góp phần nuôi dưỡng ý chí cho sự nghiệp cách mạng sau này.", "Cha ông là một nhà Nho nên dạy dỗ con cái rất nghiêm cẩn trong sinh hoạt gia đình và học hành, giữ gìn nề nếp gia phong của đạo Khổng. Ông khuyên dạy con: \"Chữ Nho là chữ của Thánh hiền, là nho sinh, các con không được nghịch ngợm, dẫm đạp lên sách vở chữ Nho\". Ông dạy đám học trò cùng hai con ông: \"Tam thiên tự, Ngũ thiên tự\" và cả \"Ấu học tân thư\". Năm tháng học chữ Nho không nhiều, nhưng những đạo lý học được trong các sách của Thánh hiền Nho gia, đặc biệt là Ấu học tân thư, đã trở thành nền tảng cơ bản có ảnh hưởng sâu sắc trong cả cuộc đời ông. Trong thế giới quan Nho giáo, cả ba yếu tố: cá nhân, gia đình và dân tộc đều hòa quyện chặt chẽ với nhau. Qua sách \"Ấu học tân thư\", cậu Giáp được biết tới nhiều tấm gương quên mình để bảo vệ Tổ quốc, hình thành trong cậu niềm tự hào về các chiến công của cha ông trong quá khứ. Những giá trị đạo đức, nề nếp gia phong của đạo Khổng thấm nhuần trong con người cậu: lối sống giản dị và đức hiếu học, sự kính trọng tổ tiên và ông bà cha mẹ, sự kính trên nhường dưới, đạo hiếu của con cái với cha mẹ, nghĩa vụ của con người với gia đình, xã hội và đất nước.", "Học xong lớp 3, cậu phải xuống thị xã Đồng Hới học tiếp, Đồng Hới thuộc tỉnh lỵ Quảng Bình, cách làng An Xá của cậu trên 20 km, nằm bên bờ Nhật Lệ trong xanh lung linh soi bóng Lũy thầy, với thành cổ bao quanh từ thời Gia Long năm thứ 10 (1812) và được xây lại bằng gạch năm Minh Mạng thứ sáu (1825).", "Những năm học ở thị xã Đồng Hới, cậu Giáp ở trọ nhà người quen của cụ Nghiêm. Cậu được gia chủ quý mến coi như con cháu trong nhà, không lấy tiền trọ, cậu được học với nhà sư phạm có tiếng, thầy giáo Đào Duy Anh. Hai năm học ở tiểu học Đồng Hới, hàng tháng cậu luôn đứng đầu lớp. Tại kỳ thi tốt nghiệp bậc sơ học, cậu đỗ đầu toàn tỉnh. Hồi đó, đạt được trình độ ấy là không dễ, vì thực dân Pháp hạn chế mở trường học và muốn duy trì nạn mù chữ để dễ cai trị. Về làng cậu được dân làng nể trọng, gia đình rất tự hào về cậu.", "Năm 13 tuổi (1923-1924), Võ Nguyên Giáp thi trượt trường Quốc học Huế. Trường này chỉ tuyển 90 học sinh cho 12 tỉnh miền Trung Việt Nam.", "Năm 1925, Võ Nguyên Giáp rời trường Tiểu học Đồng Hới ở quê nhà Quảng Bình để vào Huế ôn thi vào trường Quốc học Huế (ông đỗ thứ hai sau Nguyễn Thúc Hào). Trong 2 năm học, ông luôn đứng đầu lớp trừ 1 tháng bị rớt xuống hạng nhì. Trong thời gian này, cậu Giáp có vài lần đến thăm nhà yêu nước Phan Bội Châu để nghe thuyết giảng về lý tưởng Cách mạng. Trên tường nhà Cụ Châu có treo những nhà tư tưởng nổi bật mà cụ tôn kính là Tôn Dật Tiên, Vladimir Ilyich Lenin và Đức Phật Thích Ca, điều đó khiến cậu càng say mê theo đuổi chân lý của lịch sử.", "Năm 1927, ông bị đuổi học cùng với Nguyễn Chí Diểu, Nguyễn Khoa Văn (tức Hải Triều), Phan Bôi sau khi tổ chức một cuộc bãi khóa. Ông về quê và được Nguyễn Chí Diểu giới thiệu tham gia Tân Việt Cách mạng Đảng, một đảng theo chủ nghĩa dân tộc nhưng có màu sắc cộng sản thành lập năm 1924 ở miền Trung Việt Nam. Nguyễn Chí Diểu cũng giới thiệu Võ Nguyên Giáp vào làm việc ở Huế, tại nhà xuất bản Quan hải tùng thư do Đào Duy Anh sáng lập và ở báo \"Tiếng dân\" của Huỳnh Thúc Kháng. Tại đây, Võ Nguyên Giáp bắt đầu học nghề làm báo, chuẩn bị cho giai đoạn hoạt động báo chí trong thời Mặt trận Bình dân Pháp.", "Thời thanh niên.", "Tháng 4 năm 1927, tại Trường Quốc học Huế lại diễn ra một cuộc bãi khóa rầm rộ với quy mô lớn. Nguyễn Chí Diểu bị tên giám thị Pháp chú ý, coi là kẻ cầm đầu những cuộc đấu tranh bãi khóa ở trường, nên đuổi học. Võ Nguyên Giáp liền bàn với Nguyễn Khoa Văn tiếp tục tổ chức bãi khóa để phản đối việc Diểu bị đuổi học. Cuộc bãi khóa của học sinh Trường Quốc học Huế lan rộng ra khắp các trường ở Huế và phát triển thành cuộc tổng bãi khóa. Võ Nguyên Giáp bị bắt rồi bị đuổi học, phải trở về quê nhà. Bỗng nhiên một hôm Nguyễn Chí Diểu lặn lội từ Huế về làng An Xá tìm gặp Võ Nguyên Giáp. Nguyễn Chí Diểu mang theo một tập tài liệu về \"Liên đoàn các dân tộc bị áp bức trên thế giới\" và một số văn kiện cuộc họp của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội ở Quảng Châu, trong đó có 2 bài phát biểu của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Võ Nguyên Giáp đọc rất xúc động: \"Bài luận văn của Nguyễn Ái Quốc đã gây cho chúng tôi một lòng căm phẫn sâu sắc như một luồng điện giật\". Đó là sợi dây đầu tiên nối liền số mệnh của Võ Nguyên Giáp với Hồ Chí Minh và sự nghiệp Cách mạng Việt Nam.", "Mùa hè năm 1928, Võ Nguyên Giáp trở lại Huế, bước vào đời của một chiến sĩ cách mạng. Tại Huế, Nguyễn Chí Diểu giới thiệu Võ Nguyên Giáp đến làm việc ở Quan Hải Tùng thư, một nhà xuất bản do Tổng bộ Tân Việt chủ trương, trụ sở đặt ở phố Đông Sa. Sáng lập viên là Đào Duy Anh. Tại đây Võ Nguyên Giáp có điều kiện tiếp xúc với những học thuyết kinh tế, xã hội, dân tộc, cách mạng. Đặc biệt là cuốn \"Bản án chế độ thực dân Pháp\" và tờ báo \"Người cùng khổ\" (Le Paria) do Nguyễn Ái Quốc viết từ Pháp gửi về.", "Đầu tháng 10 năm 1930, trong sự kiện Xô Viết Nghệ Tĩnh, Võ Nguyên Giáp bị bắt và bị giam ở Nhà lao Thừa phủ (Huế), cùng với người yêu là Nguyễn Thị Quang Thái, em trai là Võ Thuần Nho và các giáo sư Đặng Thai Mai, Lê Viết Lượng... Sau này Nguyễn Thị Quang Thái trở thành vợ đầu tiên của Võ Nguyên Giáp và sinh cho ông một con gái tên là Võ Hồng Anh. Nguyễn Thị Quang Thái hẹn với ông rằng khi con cứng cáp sẽ đi thoát ly hoạt động. Nhưng cả hai không ngờ lần chia tay năm 1940 cũng là lần vĩnh biệt, Nguyễn Thị Quang Thái bị Pháp bắt giam và chết ngay trong ngục tù. Bà qua đời khi còn rất trẻ, nhiều người biết đến bà như một hình tượng người phụ nữ mẫu mực, kiên trung, yêu nước.", "Cuối năm 1931, nhờ sự can thiệp của Hội Cứu tế Đỏ của Pháp, Võ Nguyên Giáp được trả tự do nhưng lại bị Công sứ Pháp tại Huế ngăn cấm không cho ở lại Huế. Ông ra Hà Nội, học trường Albert Sarraut và đỗ. Ông nhận bằng cử nhân luật năm 1937 (Licence en Droit). Do bận rộn hoạt động cách mạng, vào năm 1938, ông bỏ dở học chương trình năm thứ tư về Kinh tế Chính trị và không lấy bằng Luật sư.", "Từ 1936 đến 1939, Võ Nguyên Giáp tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương, là sáng lập viên của mặt trận và là Chủ tịch Ủy ban Báo chí Bắc Kỳ trong phong trào Đông Dương đại hội. Ông tham gia thành lập và làm báo tiếng Pháp \"Notre voix\" (Tiếng nói của chúng ta), \"Le Travail\" (Lao động), biên tập các báo \"Tin tức\", \"Dân chúng\".", "Tháng 5 năm 1939, Võ Nguyên Giáp nhận dạy môn lịch sử tại Trường Tư thục Thăng Long, Hà Nội do Hoàng Minh Giám làm giám đốc nhà trường. Học sinh của ông mô tả rằng: ông có thể vẽ lên bảng đen sơ đồ từng trận đánh của Napoléon, ông sôi nổi kể về Công xã Paris, về cái chết của những nhà Cách mạng như Danton và Robespierre, \"ông không chỉ là nhà sử học đơn thuần, ông còn là một trạng sư say mê, luôn bênh vực tính chính nghĩa của lịch sử\". Học trò của Võ Nguyên Giáp là Bùi Diễm, sau này trở thành đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ, nhớ về ông như một người bị \"\"quỷ thần ám ảnh về cách mạng và các trận chiến\". Người ta kể lại khi một giáo viên khác hỏi ông \"Không chơi kiểu Napoleon à?\", ông đã trả lời \"Mình sẽ là một Napoleon\"\". Sau này, khi trả lời phỏng vấn, ông hay có điệu bộ như hoàng đế Napoleon đang độc thoại trước các nhà báo.", "Bắt đầu sự nghiệp quân sự.", "Kháng chiến chống Pháp, Nhật trong Chiến tranh thế giới thứ hai.", "Ngày 3 tháng 5 năm 1940, Võ Nguyên Giáp với bí danh là Dương Hoài Nam () cùng Phạm Văn Đồng lên Lào Cai rồi vượt biên sang Trung Quốc để gặp Hồ Chí Minh.", "Chỉ sau một thời gian ngắn, Hồ Chí Minh đã thấy Võ Nguyên Giáp là người triển vọng nên liên hệ với Đảng cộng sản Trung Quốc và cử anh đi học quân sự tại căn cứ địa Diên An. Trên đường tới Diên An, anh được Hồ Chí Minh gọi quay lại vì tình hình thế giới có nhiều thay đổi lớn. Ở châu Âu, phát xít Đức đã xâm chiếm Pháp. Hồ Chí Minh nhận định tình hình Đông Dương sẽ chuyển biến nhanh, cần gấp rút trở về nước chuẩn bị đón thời cơ.", "Ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương trong năm này và bắt đầu các hoạt động của mình trong Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội, một tổ chức chống phát-xít và đấu tranh cho độc lập của Việt Nam. Năm 1941 đúng dịp tết Nguyên đán Tân Tỵ, Võ Nguyên Giáp cùng Hồ Chí Minh trở về Cao Bằng. Trong thời gian ở hang Pác Bó, Hồ Chí Minh tiên đoán cách mạng sẽ thành công vào năm 1945, một dự đoán chuẩn xác: \"Trong 5 năm nữa (tính từ 1941) cách mạng sẽ thành công, điều chúng ta mong đợi sẽ tỏa sáng\". Niềm tin sắt đá đó đã giúp Võ Nguyên Giáp và các đồng chí có thêm niềm tin vào tương lai.", "Đời sống ở Việt Bắc rất cực khổ, ông kể: \"Tìm được cái ăn đã là chiến công. Chúng tôi phải chia nhau từng củ sắn, từng bắp ngô\". Nhiều người bối rối dao động, có người e ngại: làm sao Cách mạng thành công khi không có súng và lấy đâu ra súng? Những lúc ấy, ông không bao giờ quên lời dạy của Hồ Chủ tịch: \"Chúng ta sẽ dựa vào sức mình là chính cùng với một ít viện trợ từ nước ngoài. Mọi việc đều do nhân dân mà nên. Người trước súng sau, có nhân dân là có tất cả.\".", "Ông tham gia xây dựng cơ sở cách mạng, mở lớp huấn luyện quân sự cho Việt Minh ở Cao Bằng. Trong thời gian này, Pháp tăng cường càn quét Việt Bắc, ai mang tài liệu Việt Minh sẽ bị bắn ngay. Võ Nguyên Giáp nhớ lại: trong thời gian này, ông thường mang theo một quả lựu đạn để nếu bị bắt thì sẽ cho nổ để vừa chết nhanh chóng vừa kéo theo được vài tên địch.", "Thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân.", "Ngày 22 tháng 12 năm 1944, theo hướng dẫn của Hồ Chí Minh, ông thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân tại chiến khu Trần Hưng Đạo với 34 người, được trang bị 2 súng thập (một loại súng ngắn), 17 súng trường, 14 súng kíp và 1 súng máy. Đây là tổ chức tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.", "Ngày 25 tháng 12 năm 1944, ông đã chỉ huy đội quân này lập chiến công đầu tiên là tập kích diệt gọn hai đồn Phai Khắt và Nà Ngần.", "Ngày 14 tháng 8 năm 1945, ông trở thành uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, sau đó là ủy viên Thường vụ Trung ương, tham gia Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc.", "Tham gia thành lập Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.", "Cách mạng Tháng Tám thành công, quốc gia Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập, Võ Nguyên Giáp được cử làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Phó Bộ trưởng (Thứ trưởng thường trực) Bộ Quốc phòng trong Chính phủ lâm thời (từ ngày 28 tháng 8 đến hết năm 1945) và là Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia và Dân quân tự vệ năm 1946.", "Ngay sau khi thành lập, Võ Nguyên Giáp thay mặt Hồ Chí Minh, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời, ban hành các sắc lệnh giải tán một số đảng phái, với lý do các đảng này \"tư thông với ngoại quốc\", làm \"phương hại đến nền độc lập Việt Nam\" (như Việt Nam Quốc xã, Đại Việt Quốc dân đảng...) nhằm kịp thời trừng trị \"bọn phản cách mạng\", bảo vệ chính quyền non trẻ, đồng thời \"giáo dục ý thức về tinh thần cảnh giác\" cho nhân dân, đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cho phép Ty Liêm phóng có thể bắt những hạng người bị quy là \"nguy hiểm cho nền Dân chủ cộng hoà Việt Nam\". Cùng với đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh giải tán các nghiệp đoàn để kiểm soát nền kinh tế, thống nhất các tổ chức thanh niên (vào Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam). Đồng thời Chính phủ cũng ban hành sắc lệnh thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính địa phương các cấp.", "Ở miền Bắc, hơn 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch theo sự phân công của phe Đồng Minh tiến vào miền Bắc Việt Nam để giải giáp quân Nhật. Theo Việt Minh, đội quân này mang theo \"kế hoạch Diệt Cộng Cầm Hồ\". Đội quân Quốc dân Đảng Trung Quốc \"chạy trốn\" Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tiến hành các hoạt động cướp bóc trên đường xuống phía Nam đến Hà Nội. Trong hồi ký \"Những năm tháng không thể nào quên\" Võ Nguyên Giáp mô tả: quân đoàn 62 của Vũ Kim Thành (đi cùng là Việt Cách) tàn phá suốt dọc miền Đông Bắc Bắc Kỳ; lực lượng của Vũ Hồng Khanh (Việt Nam Quốc dân Đảng) và của Nguyễn Tường Tam (Đại Việt) đi theo quân đoàn 93 Vân Nam, cũng tiến hành những bài bản cướp bóc tương tự, dọc theo hành lang Tây Bắc từ Lào Cai đến Yên Bái, Phú Thọ. Võ Nguyên Giáp mô tả lãnh đạo Việt Quốc, Việt Cách như những người đã bỏ xứ sở mà đi, tự cho mình là những người yêu nước phụng sự cho Chủ nghĩa Quốc gia nhưng thực tế chỉ là \"một nhóm phản động đang ra sức thu vén làm giàu cho bản thân\" nhờ vào sự giúp đỡ của Trung Quốc, và rằng Trung Hoa Quốc dân Đảng đã tô vẽ cho nhiều \"tên phản bội người Việt\".", "Trong hai ngày 18 và 19 tháng 9 năm 1945, Việt Minh họp bí mật với Việt Cách (ngày 18 tháng 9 năm 1945) và Việt Quốc (ngày 19 tháng 9 năm 1945). Trong hai cuộc họp này, Nguyễn Hải Thần đại diện Việt Cách và Nguyễn Tường Tam đại diện Việt Nam Quốc dân Đảng đề nghị Hồ Chí Minh đồng ý hợp nhất Việt Minh với Việt Cách và Việt Nam Quốc dân Đảng. Đối với lời đề nghị này, trong nội bộ Việt Minh có nhiều ý kiến khác nhau. Hoàng Minh Giám nghĩ rằng việc hợp nhất Việt Minh với các đảng phái Quốc gia sẽ làm giảm bớt sự đối lập và tăng cường thế lực cho Việt Minh, làm người Trung Quốc yên lòng còn Pháp phải lo ngại, quan trọng nhất là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong con mắt của Đồng Minh, đặc biệt là Mỹ, là chính phủ thật sự dân chủ. Võ Nguyên Giáp thì dứt khoát không đồng ý, theo ông, những đề nghị đó không có giá trị và không thật thà, nó chẳng khác gì thay thế chủ nghĩa thực dân Pháp bằng ách thống trị của Trung Quốc, và nhân dân Việt Nam sẽ \"chẳng bao giờ chịu bán rẻ sự nghiệp chính nghĩa của họ để đổi lấy đô la Trung Quốc\". Cuối cùng Việt Minh đã từ chối hợp nhất với Việt Cách và Đại Việt Quốc dân Đảng.", "Ngày 1 tháng 1 năm 1946, sau một hội nghị hòa giải có Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội và Việt Minh tham gia do tướng Tiêu Văn tổ chức, Chính phủ Liên hiệp Lâm thời được thành lập thay thế Chính phủ Cách mạng Lâm thời với sự tham gia của một số đảng phái đối lập (Việt Cách, Việt Quốc...) hoạt động ở Trung Quốc với sự bảo trợ của Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Tuy nhiên chức trách các Bộ cũng thay đổi. Bộ trưởng Quốc phòng trở thành người lo về tài chính mà không được xem xét danh sách nhân sự, quân số, súng đạn còn các Bộ trưởng khác của các đảng phái Quốc gia chẳng có chức trách cụ thể gì, không bao giờ được tham dự bất cứ buổi họp nào của nội các.", "Ngày 6 tháng 1 năm 1946, Chính phủ Liên hiệp Lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã tổ chức cuộc Tổng tuyển cử trên toàn quốc, lần đầu tiên đã bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp. Nhiều đảng phái không có quyền tham gia Tổng tuyển cử đã tìm cách phá hoại. Các đảng này cho là \"trúng cử chỉ là Việt Minh cộng sản\", \"chính quyền trong tay nên Việt Minh muốn ai trúng cũng được\". Võ Nguyên Giáp cho rằng các đảng phái này tẩy chay bầu cử vì họ biết rằng mình không có uy tín trong nhân dân như Hồ Chí Minh, nếu ứng cử thì chắc chắn sẽ thua.Theo Báo Đại đoàn kết, mặc dù bị nhiều đảng phái tuyên truyền vận động dân chúng tẩy chay cuộc bầu cử và ngăn cản việc tổ chức bầu cử ở một số nơi, nhưng tại các địa phương, ở đâu cũng có người tự ứng cử, các cuộc tiếp xúc tranh cử công khai, tự do diễn ra ở khắp mọi nơi. Theo Việt Minh, cuộc bầu cử diễn ra công bằng. Tuy nhiên, lá phiếu không bí mật và theo quan sát của sử gia Trần Trọng Kim thì có nơi người dân bị cưỡng bách bầu cho Việt Minh.", "Sau khi kết quả bầu cử được công bố, sự thật hoàn toàn không như các đảng phái tuyên truyền. Nhiều \"đại biểu có uy tín của các giai cấp, tầng lớp, tôn giáo, dân tộc đều trúng cử tại Quốc hội khóa I hầu hết chưa là đảng viên\". Ông được bầu làm đại biểu quốc hội khóa đầu tiên và liên tiếp 6 kỳ sau.", "Sau khi Quốc hội được bầu, ngày 2 tháng 3 năm 1946, Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến được thành lập để thay thế Chính phủ Liên hiệp Lâm thời. Ở các địa phương, các cấp chính quyền liên hiệp được thành lập trong năm 1946. Theo thỏa thuận với Việt Minh, phe đối lập bao gồm một số tổ chức như Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội và Việt Nam Quốc dân Đảng được Trung Hoa Dân quốc ủng hộ, không tham gia Tổng tuyển cử nhưng vẫn được nắm 70 ghế Quốc hội cùng nhiều vị trí trong chính quyền trung ương do chính sách hòa hợp các đảng phái của Chính phủ. Trong hồi ký \"Những năm tháng không thể nào quên\", đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định các đảng phái này lo sợ thất bại trước sức ủng hộ lớn của cử tri với mặt trận Việt Minh nên không tham gia bầu cử. Thay vào đó, các đàng phái này dùng sự ủng hộ của Trung Hoa Dân quốc để gây sức ép nhằm giành ghế trong quốc hội mà không cần qua bầu cử.", "Cũng trong năm 1946, ông kết hôn với bà Đặng Bích Hà (con gái giáo sư Đặng Thai Mai).", "Trấn áp các đảng phái chống Chính phủ.", "Trong thời gian hoạt động, Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến tiếp tục thực hiện các biện pháp, chính sách để giữ vững nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ non trẻ. Về đối nội đã kêu gọi các đảng phái đoàn kết phụng sự quốc gia, thực hiện các chính sách kinh tế, quốc phòng, văn hóa, giáo dục...", "Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân đảng đã tổ chức các đội vũ trang như \"Thần lôi đoàn\", \"Thiết huyết đoàn\", \"Hùm xám\"... Các đội này đã tổ chức nhiều vụ cướp có vũ trang, bắt cóc, tống tiền, tổ chức ám sát những người theo Việt Minh và cả những người trung lập như ông Ba Viên (Ba Viên bị Quốc dân Đảng nghi ngờ là gián điệp của Pháp, sau khi gặp Hồ Chí Minh, Ba Viên quay về Hà Giang, bắt giữ và hành quyết một số đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng) rồi tuyên truyền đổ lỗi cho Việt Minh đã không đảm bảo được an ninh trật tự ở Hà nội và một số đô thị ở Bắc Bộ.", "Điều tệ hại nhất là quân Trung Hoa Dân Quốc gây sức ép để thành viên Việt Nam Quốc dân Đảng được nắm những ghế quan trọng trong chính phủ. Theo Võ Nguyên Giáp kể lại: \"Bọn chúng (Việt Nam Quốc dân đảng) đội lốt chủ nghĩa quốc gia nhưng chính là một bọn phản động lệ thuộc vào Trung Hoa Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch, và sức mạnh quân sự của chúng chỉ để nhặt nhạnh chút cơm thừa canh cặn\". Thiếu tá Mỹ thuộc OSS và là bạn của tướng Giáp, Al Patti cũng cùng quan điểm. Sau khi thảo luận với các đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng, ông cho rằng họ không biết phải làm gì để đáp ứng nhu cầu của nhân dân, không một ai có khái niệm về công việc sẽ làm mà chỉ chăm chăm mục tiêu tranh giành quyền lãnh đạo với Việt Minh. Ông ta nhận xét: \"Họ (Việt Nam Quốc dân Đảng) là những kẻ lạc hướng về chính trị, có lẽ vì sống quá lâu ở Trung Quốc\".", "Hồ Chí Minh giao cho Võ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hoàn, sau này trở thành Bộ trưởng Công an, nhiệm vụ vô hiệu hóa các cuộc biểu tình do Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội tổ chức nhằm chấm dứt hoạt động tuyên truyền của các đảng này trong dân chúng. Võ Nguyên Giáp kể lại: \"Chúng tôi phải trừng trị bọn phá hoại... Nhưng bằng mọi giá phải tránh khiêu khích và đảm bảo không xảy ra xung đột lớn\". Võ Nguyên Giáp dùng lực lượng tự vệ và các hội viên Hội Cứu Quốc phá các cuộc biểu tình này. Khi có lộn xộn, lính Trung Quốc bắn chỉ thiên, xông vào giải tán đám biểu tình để vãn hồi trị an. Việt Nam Quốc dân Đảng hoảng hốt khi người Trung Hoa không giúp được gì nhiều trong việc chống lại Việt Minh như họ mong đợi. Ông Nguyễn Duy Thanh, một người theo chủ nghĩa quốc gia buồn rầu nhớ lại: \"Không có Trung Hoa ủng hộ, những đảng phái theo chủ nghĩa quốc gia chẳng thể đối phó được với những người Cộng sản\"", "Sự chống đối của các đảng phái khiến Võ Nguyên Giáp rất tức giận vì nó làm cản trở các nỗ lực của Chính phủ để đối phó với Pháp, cũng như khiến chính phủ phải liên tục đề phòng quân đội Trung Hoa. Có những lần các đơn vị tự vệ thu nhặt những tờ truyền đơn do các đảng đối lập thân Trung Hoa rải trên phố phường, lập tức Hồ Chí Minh bị quân đội Trung Hoa gọi đến trụ sở và bị răn đe. Võ Nguyên Giáp đề nghị dẹp bỏ sự chống đối để Chính phủ có thể loại trừ nguy cơ đảo chính và yên tâm đối phó với Pháp, nhưng Hồ Chí Minh khuyên ông kiên nhẫn vì \"ném chuột phải tránh vỡ bình quý\", chẳng có gì phải sợ các nhóm đối lập này vì họ quá yếu kém, \"nhưng họ có quan thầy chống lưng\" (hàm ý là phải nín nhịn các đảng phái đối lập thân Trung Hoa để tránh xung đột).", "Sau khi Hiệp định sơ bộ được ký với Pháp vào tháng 3 năm 1946, quân Pháp sẽ ra miền Bắc thay thế quân Trung Hoa. Các nhóm đối lập thân Trung Hoa (bao gồm Việt Nam Quốc dân đảng) sợ bị mất chỗ dựa. Theo Jean Sainteny, các nhóm này đã cài người vào đám đông để kích động nhân dân gây bạo loạn nhằm tìm cách phá bỏ hiệp định, kích động xung đột Việt - Pháp, một kẻ giấu mặt thậm chí đã ném một quả lựu đạn vào đám đông, may mắn là kẻ này quên rút chốt lựu đạn.", "Sự có mặt của quân đội Tưởng Giới Thạch cho tới lúc đó đã đảm bảo sự tồn tại của Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội. Hai đảng này không có một chương trình gắn kết với nhau để tranh thủ dân chúng như Việt Minh. Những người lãnh đạo Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội thì còn xa mới có được những phẩm chất có thể so sánh với Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và những người có trách nhiệm khác của Việt Minh. Khi quân đội Tưởng Giới Thạch rút khỏi Việt Nam ngày 15 tháng 6 năm 1946, những đảng phái theo chủ nghĩa quốc gia mất chỗ dựa. Võ Nguyên Giáp quyết định Việt Minh phải hoàn toàn điều khiển bộ máy chính quyền, loại bỏ những kẻ chống đối trong nội bộ để tập trung đối phó với Pháp. Ông hối hả hành động ngay với mục tiêu rải khắp: Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội được Trung Hoa Quốc dân Đảng ủng hộ, Việt Nam Quốc dân Đảng (theo Cecil B. Currey tổ chức này chỉ mượn danh cách mạng của Việt Nam Quốc dân Đảng năm 1930 do Nguyễn Thái Học sáng lập còn theo David G. Marr thì đến cuối năm 1945 nhiều người dân vẫn không tin rằng Việt Nam Quốc dân Đảng đã phản bội lại sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Thái Học năm 1930 như Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên truyền), nhóm quốc gia thân Nhật Đại Việt, những người Trotskyist, những người quốc gia chống Pháp, nhóm Công giáo mang tên \"chiến sĩ Công giáo\". Võ Nguyên Giáp đã từng bước tìm cách loại bỏ dần các đảng phái này.", "Ngày 19 tháng 6 năm 1946, Báo Cứu Quốc của Tổng bộ Việt Minh đăng xã luận kịch liệt chỉ trích \"bọn phản động phá hoại Hiệp định sơ bộ Pháp Việt mùng 6 tháng 3\". Ngay sau đó Võ Nguyên Giáp bắt đầu chiến dịch truy quét các đảng phái đối lập bằng lực lượng công an và quân đội do Việt Minh kiểm soát với sự giúp đỡ của Pháp. Ông cũng sử dụng các binh lính, sĩ quan Nhật Bản tình nguyện ở lại Việt Nam và một số vũ khí do Pháp cung cấp (ở Hòn Gai quân Pháp cung cấp cho Việt Minh những khẩu pháo để diệt một số vị trí do quân Đại Việt chiếm giữ) trong chiến dịch này. Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến được thành lập nhằm tạo khối đại đoàn kết giữa các đảng phái, sau Vụ án phố Ôn Như Hầu đã mất đi ý nghĩa của nó.", "Chiến tranh Đông Dương lần 1.", "Ngày 19 tháng 12 năm 1946, Chiến tranh Đông Dương chính thức bùng nổ. Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản, ông bắt đầu chỉ đạo cuộc đấu tranh vũ trang kéo dài 9 năm chống lại sự tái chiếm Việt Nam của quân Pháp (1945-1954) trên cương vị Tổng chỉ huy và Tổng Chính ủy, từ năm 1949 đổi tên gọi là Tổng tư lệnh quân đội kiêm Bí thư Tổng Quân uỷ.", "Đại tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.", "Không được đào tạo tại bất kỳ trường quân sự nào trước đó, không phải trải qua các cấp bậc quân hàm trong quân đội, Võ Nguyên Giáp được phong quân hàm Đại tướng vào ngày 28 tháng 5 năm 1948 theo sắc lệnh 110/SL ký ngày 20 tháng 1 năm 1948, Ông trở thành Đại tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam khi 37 tuổi. Sau này, trả lời phóng viên nước ngoài về tiêu chí phong tướng, Hồ Chí Minh đã nói: \"Đánh thắng đại tá phong đại tá, đánh thắng thiếu tướng phong thiếu tướng, thắng trung tướng phong trung tướng, thắng đại tướng phong đại tướng\". Cùng đợt phong hàm có Nguyễn Bình được phong Trung tướng; Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình được phong Thiếu tướng. Tháng 7-1948, Võ Nguyên Giáp giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam. Tháng 8 năm 1948, ông là Ủy viên Hội đồng Quốc phòng Tối cao vừa mới được thành lập.", "Từ tháng 8 năm 1945 Võ Nguyên Giáp là một trong 5 ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương và trở thành ủy viên Bộ Chính trị (thay thế Ban Thường vụ Trung ương) Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1951.", "Như các danh tướng Việt Nam trong lịch sử, Võ Nguyên Giáp chú trọng nghệ thuật lấy ít địch nhiều, lấy yếu chế mạnh, lấy thô sơ thắng hiện đại. Tư tưởng quân sự nổi tiếng của ông có tên gọi là Chiến tranh nhân dân kế thừa quan điểm quân sự Hồ Chí Minh, tinh hoa nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên, tri thức quân sự thế giới, lý luận quân sự Mác-Lênin và được đúc rút từ kinh nghiệm cá nhân được liên tục cập nhật trong nhiều cuộc chiến tranh mà nổi bật là chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Ông nói:", "Trong 9 năm trường kỳ đánh Pháp, Võ Nguyên Giáp đã có những sáng kiến quan trọng để phát huy sức mạnh quân sự và đã trở thành những kinh nghiệm quý báu như: \"Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung\". Với chuyên gia quân sự Trung Quốc sang giúp huấn luyện quân đội, ông chỉ đạo chiến sĩ học tập, tiếp thu, nghiên cứu kỹ phương pháp của nước bạn, đồng thời nhắc nhở cán bộ, sĩ quan phải ghi nhớ việc tiết kiệm sinh mạng bộ đội do Việt Nam là nước nhỏ không thể nuôi nhiều quân.", "Năm 1954, Võ Nguyên Giáp được Hồ Chí Minh và Đảng Lao động tin tưởng trao cho toàn quyền chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trước khi ra trận, Hồ Chí Minh đã dặn dò: \"Cho chú toàn quyền chỉ huy. Trận này chỉ được thắng không được thua vì thua là hết vốn\". Ông lên kế hoạch và chỉ huy 5 trong 6 sư đoàn bộ binh chủ lực khi đó của Quân đội nhân dân Việt Nam là 308, 304, 312, 316 và Đại đoàn sơn pháo 351 tấn công Điện Biên Phủ. Sau 56 ngày đêm, đội quân nhà nghề được trang bị hiện đại của Liên hiệp Pháp bị đánh bại. Chiến thắng này đã đặt dấu chấm hết cho quyền lực của người Pháp tại Đông Dương sau 83 năm, và đã đưa Võ Nguyên Giáp đi vào lịch sử thế giới như là một danh nhân quân sự Việt Nam, một người hùng của các nước Thế giới thứ ba đang bị thực dân châu Âu đô hộ.", "Sau chiến thắng này, những người dân bị nô dịch đã xem Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp là thần tượng để hạ quyết tâm lật đổ chế độ thực dân xây dựng nền độc lập của riêng mình. Năm 1962, trong lời đề tựa cuốn \"Đêm thực dân\" (La Nuit Coloniale), nhà lãnh đạo giải phóng dân tộc Ferhat Abbas, sau này trở thành tổng thống đầu tiên của Algerie, đã viết: \"Điện Biên Phủ không chỉ là một chiến thắng quân sự. Đó là khẳng định của người dân châu Á và châu Phi trước người châu Âu. Đó là xác nhận về nhân quyền quy mô toàn cầu. Tại Điện Biên Phủ, nước Pháp đã đánh mất sự hiện diện hợp lý duy nhất, đó là lý lẽ của kẻ mạnh\". Năm 2013, Tổng thống Algérie - Abdelaziz Bouteflika - đã gọi Võ Nguyên Giáp là người anh hùng quân đội của nền độc lập Việt Nam, là nhà chiến lược vĩ đại đã khiến cho thực dân Pháp phải kinh hoàng ở Điện Biên Phủ, và tên tuổi ông \"sẽ vẫn mãi khắc sâu trong ký ức của nhân dân Algeria.\"", "Đại tướng Võ Nguyên Giáp tổng kết: ", "\"Dân tộc ta có thể tự hào rằng: Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, chúng ta đã chứng minh một chân lý vĩ đại. Chân lý đó là trong thời đại ngày nay một dân tộc thuộc địa bị áp bức, khi đã biết đứng dậy đoàn kết đấu tranh, kiên quyết chiến đấu cho độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội thì có đầy đủ khả năng để chiến thắng quân đội xâm lược hùng mạnh của một nước đế quốc chủ nghĩa\".", "Các chiến dịch.", "Các chiến dịch ông đã tham gia với tư cách là Tư lệnh chiến dịch - Bí thư Đảng ủy trong kháng chiến chống Pháp cùng với Thiếu tướng Hoàng Văn Thái làm tham mưu trưởng chiến dịch:", "Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ mang đậm việc tạo thế, tổ chức hậu cần, thay đổi chiến thuật. Sau chiến dịch này, Hiệp định Genève về Đông Dương được ký kết, đặt dấu chấm hết cho sự có mặt của người Pháp ở Việt Nam sau hơn 80 năm.", "Chiến tranh Đông Dương lần 2.", "Từ năm 1954 đến năm 1976, Võ Nguyên Giáp tiếp tục giữ cương vị Ủy viên Bộ Chính trị - Bí thư Quân ủy Trung ương, Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ông còn là Phó Thủ tướng Chính phủ, sau là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (từ năm 1955 đến năm 1991).", "Từ tháng 3 năm 1960, Võ Nguyên Giáp làm việc dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính trị và nhà lãnh đạo mới là Lê Duẩn, Bí thư Thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam, một người đường lối cứng rắn đã trải qua những nhà tù khắc nghiệt nhất, tận mắt chứng kiến những người Việt Minh ở miền nam sau Hiệp định Geneve trong Phong trào Tố cộng - Diệt cộng do Ngô Đình Diệm phát động. Lê Duẩn chủ trương dùng đấu tranh quân sự để \"\"đánh đuổi quân Mỹ, tiêu diệt chế độ tay sai để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước\".", "Dù có thói quen viết hồi ký, Võ Nguyên Giáp vẫn chưa xuất bản cuốn nào về giai đoạn 1954-1971. Đây là thời kỳ Lê Duẩn từ vị trí lãnh đạo Trung ương Cục miền Nam tiến đến điều hành Bộ Chính trị. Theo các sử gia phương Tây, Lê Duẩn xem trọng tài năng của Võ Nguyên Giáp, mặt khác, ông giữ ấn tượng xấu về việc lãnh đạo Việt Minh đồng ý rút quân ra bắc theo Hiệp định Geneve với Pháp, khiến những cán bộ chính trị Việt Minh còn ở lại miền Nam bị Mỹ tàn sát nghiêm trọng do không còn lực lượng vũ trang bảo vệ.", "Theo Pierre Asselin, thời gian cuộc chiến chống Mỹ tại miền Nam Việt Nam nổ ra vào năm 1964, Võ Nguyên Giáp trở thành \"một khuôn mặt của các nỗ lực chiến tranh chống Mỹ, một công cụ \"tiếp thị\" hỗ trợ cho những người khác trong Đảng, những người thiếu danh tiếng, uy tín và tính hấp dẫn trên trường quốc tế (so với Võ Nguyên Giáp)\"\". Cũng theo quan điểm của ông này, chiến lược Tổng tấn công Mậu Thân năm 1968 là do Lê Duẩn xây dựng, ông Giáp chỉ góp ý chứ không đóng vai trò lớn trong chủ trương này. Chính Lê Duẩn là người chỉ đạo chính trong cuộc chiến tranh này, là kiến trúc sư của chiến thắng của những người cộng sản vào năm 1975.", "Tuy nhiên khi nghiên cứu các tài liệu của Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Quang Ngọc cho rằng Võ Nguyên Giáp không hề có những tranh cãi với những thành viên Bộ Chính trị khác trong giai đoạn cuộc chiến tranh Việt Nam. Các tài liệu cho thấy rằng không hề có một sự phân chia ê-kíp trong nội bộ Bộ Chính trị Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như các nhà sử học phương Tây hoặc một số dư luận vẫn đồn đoán, mà theo đó Tướng Giáp được cho là thuộc phái \"chủ hoà\".", "Theo điều lệ Đảng quy định thì Tổng Bí thư Đảng Lao động (tức Lê Duẩn) sẽ được kiêm luôn chức danh Bí thư Quân ủy Trung ương, nắm quyền chỉ đạo lớn nhất về quân sự, Bộ trưởng quốc phòng (tức Võ Nguyên Giáp) sẽ chỉ có thể được làm Phó Bí thư. Như vậy, theo đúng quy định thì Lê Duẩn hoàn toàn có thể yêu cầu Võ Nguyên Giáp trao lại chức vụ này cho mình. Tuy nhiên, Lê Duẩn đã không đòi hỏi chức vụ này và vẫn ủng hộ Võ Nguyên Giáp tiếp tục giữ chức vụ Bí thư Quân ủy Trung ương trong suốt thời gian 20 năm chiến tranh, điều này cho thấy giữa hai người có sự tin tưởng lẫn nhau chứ không hề có chia rẽ, mâu thuẫn. Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng viết trong hồi ký cho biết quan hệ giữa ông và Lê Duẩn rất tốt, giữa hai người không hề có bất đồng gì lớn:", "\"\"Với tôi, những năm công tác trong Bộ Chính trị, Anh (tức Lê Duẩn) đã thường xuyên trao đổi ý kiến, thường là nhanh chóng đi đến nhất trí trong những vấn đề lớn; khi có ý kiến khác nhau thì tranh luận thẳng thắn, những điều chưa nhất trí thì chờ thực tiễn kiểm nghiệm. Lúc mới ra Bắc, Anh thường tâm sự với tôi những khó khăn trong công việc... Từ sau Đại hội III và Đại hội IV, tôi đã ba lần đề nghị Anh là Tổng Bí thư kiêm luôn Bí thư Quân ủy Trung ương, nhưng Anh nói với tôi: \"Anh (tức Võ Nguyên Giáp) là Tổng chỉ huy lâu năm nên tiếp tục làm Bí thư Quân ủy Trung ương, như vậy có lợi cho lãnh đạo\"\".\"", "Từ 1954 đến 1964.", "Từ năm 1954 đến năm 1956, Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa chủ trương đấu tranh hòa bình, yêu cầu chế độ Việt Nam Cộng hòa thực hiện Hiệp định Geneve vì một Việt Nam thống nhất, không chia rẽ về tình cảm và chính trị. Tuy nhiên, Ngô Đình Diệm đã thẳng thừng bác bỏ đề nghị này và đẩy mạnh Chính sách tố Cộng diệt Cộng.", "Từ năm 1957 đến năm 1958, Đảng Lao động đã có những cuộc họp bàn về cách mạng Miền Nam nhưng chủ trương, biện pháp đấu tranh vẫn chưa thay đổi, phong trào cách mạng tiếp tục bị đàn áp và tổn thất nặng nề.", "Tháng 1-1959, khi hy vọng thi hành Hiệp định Genève không còn, tại cuộc họp Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị (mở rộng) lần thứ 15, Võ Nguyên Giáp giúp Bộ Chính trị và các cán bộ Việt Minh mới từ miền nam ra (do Lê Duẩn đứng đầu) ban hành Nghị quyết 15 Bộ Chính trị, khẳng định việc giải phóng miền nam bằng đấu tranh vũ trang, cho phép những cán bộ kháng chiến còn lại ở miền nam được tổ chức hoạt động vũ trang.", "Năm 1959, được Bộ Chính trị đồng ý, Võ Nguyên Giáp đã quyết định thành lập Đoàn 559 mở đường mòn dọc dãy Trường Sơn để tiếp ứng phong trào cách mạng miền nam Việt Nam. Nhờ việc mở đường Trường Sơn, phong trào cách mạng và hoạt động du kích miền Nam phát triển rất mạnh. Sau 4 năm, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã thành lập được một số đơn vị cấp trung đoàn.", "Năm 1964, được Bộ Chính trị đồng ý, Võ Nguyên Giáp đã bí mật cử Nguyễn Chí Thanh, Lê Trọng Tấn vào chiến trường Đông Nam Bộ chỉ huy quân giải phóng miền Nam đánh lớn tại Bàu Bàng, Dầu Tiếng, Đồng Xoài... tạo chuyển biến chiến trường và thành lập các Sư đoàn 1, 2, 3, 5, 7, 9 nổi tiếng. Trong đó, Sư đoàn 1 trấn thủ Tây Nguyên, Sư đoàn 2 trấn thủ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Sư đoàn 3 Sao Vàng trấn thủ Bình Định, trung đoàn 10 trấn thủ Phú Yên, trung đoàn 20 trấn thủ Khánh Hòa, Sư đoàn 5 trấn thủ khu vực Sài Gòn - Gia Định, Sư đoàn 7 cơ động chiến đấu khắp Quân khu 7 gồm Lâm Đồng, Ninh Thuận, Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Thuận, Bình Phước và Sư đoàn 9 di chuyển chiến đấu khắp Tây Ninh và Quân khu 9.", "Từ 1965 đến 1972.", "Năm 1965, chia lửa với Nam Bộ, Hoàng Minh Thảo, người từng là học trò của Võ Nguyên Giáp ở trường Thăng Long được cử vào Mặt trận Tây Nguyên làm Phó Tư lệnh rồi Tư lệnh Mặt trận B3 thay Chu Huy Mân chuyển sang chỉ huy Mặt trận duyên hải Nam Trung Bộ đến khi chiến tranh kết thúc.", "Năm 1965, Quân đội Hoa Kỳ bắt đầu thực hiện chiến lược chiến tranh cục bộ. Quy mô quân viễn chinh Mỹ đã lên tới hơn 50 vạn vào cuối năm 1967, cùng với đó là hàng ngàn máy bay, trực thăng và xe thiết giáp. Đối phó với Mỹ, Võ Nguyên Giáp vấn kiên trì đường lối chiến tranh nhân dân - \"trường kỳ kháng chiến\" như Chiến tranh Đông Dương trước đó. Kết quả là hai cuộc tiến công mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 của Mỹ đã thất bại, họ đã không thể tiêu diệt được quân Giải phóng và bình định miền Nam Việt Nam trong 18 tháng như kế hoạch ban đầu, và quân Mỹ bắt đầu sa lầy vào một cuộc chiến hao tổn, mệt mỏi và không có dấu hiệu kết thúc. Ký giả James Fox nhận xét: tướng Giáp đã thi hành một đường lối không quá khác biệt (so với thời kỳ chống Pháp) nhưng vô cùng hiệu quả, mà quân Mỹ rút ra được rất ít bài học từ người Pháp trước đó.", "Năm 1968, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương tại Hà Nội phát động cuộc Tổng Tấn công và Nổi dậy Tết Mậu Thân. Một số nguồn tin từ nước ngoài cho rằng Võ Nguyên Giáp không tán thành chủ trương tổng tấn công trên toàn chiến trường miền Nam, nhưng các tài liệu lịch sử ghi chép về hoạt động của Bộ Chính trị cho thấy Võ Nguyên Giáp đã trực tiếp tham gia vào việc lập kế hoạch và chỉ đạo chiến dịch này, tuy có một số thời điểm ông phải đi chữa bệnh ở Hungary nên không thể dự họp. Ngày 25 tháng 1 năm 1968, trên đường từ Hungary về, Võ Nguyên Giáp ghé qua Bắc Kinh xin chỉ thị của Hồ Chí Minh về chiến dịch Mậu Thân. Hai người cùng chờ đợi đài phát thanh thông báo về việc mở màn chiến dịch Tết Mậu Thân vào đêm giao thừa (31 tháng 1 năm 1968). Sau khi biết tin cuộc tiến công đã diễn ra đúng thời gian đã định, ông về nước vào đầu tháng 2 năm 1968 Hội nghị Trung ương lần thứ 14 vào tháng 1 năm 1968 thông qua quyết định của Bộ Chính trị quyết định Tổng tiến công.", "Sau khi trở về, Võ Nguyên Giáp trên cương vị tổng tư lệnh tối cao của Các Lực lượng Vũ trang và bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ông đã chỉ đạo đợt tấn công Tết cũng như Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh. Chiến dịch Mậu Thân đã làm cho quân đội Hoa Kỳ bất ngờ và chịu nhiều tổn thất, thúc đẩy phong trào phản chiến ở Mỹ và trên khắp thế giới. Tuy nhiên, cuộc tổng tiến công này có những tổn thất lớn và có nhiều vấn đề cần rút kinh nghiệm về chiến thuật.", "Năm 1990, ông chia sẻ với nhà sử học Stanley Karnow về mục đích chiến lược của chiến dịch Mậu Thân: \"\"Chúng tôi muốn chứng minh cho người Mỹ thấy rằng chúng tôi không hề kiệt sức, chúng tôi có thể tấn công kho vũ khí, thông tin liên lạc, các đơn vị tinh nhuệ và thậm chí cả trụ sở, đầu não cuộc chiến của họ\".\" Trong một cuộc phỏng vấn vào năm 1994, đại tướng Võ Nguyên Giáp cho biết: so sánh tương quan lực lượng hai bên ở Khe Sanh là quá chênh lệch, hỏa lực của không quân Mỹ mạnh hơn Pháp hàng chục lần nên ông nhận thấy việc diệt gọn cứ điểm Khe Sanh (giống như trận Điện Biên Phủ) là không thể. Mục tiêu thực tế mà phía Việt Nam theo đuổi là bao vây, tập kích nhỏ nhưng liên tục để khiến quân Mỹ chịu thương vong lớn, dần suy sụp ý chí và cuối cùng phải rút chạy khỏi đó.", "Tướng Võ Nguyên Giáp tiếp tục giữ các cương vị lãnh đạo trong Bộ Chính trị và các lực lượng vũ trang cho tới khi chiến tranh kết thúc năm 1975, và ông đóng một vai trò quan trọng trong việc lên kế hoạch và tiến hành cuộc tấn công cuối cùng vào tháng 4 năm 1975.", "Từ 1972 đến 1975.", "Cuốn hồi ức mang tên \"Tổng hành dinh trong Mùa xuân đại thắng\" do Võ Nguyên Giáp xuất bản lần đầu năm 2001 đã thuật lại những hoạt động của ông vào giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ từ năm 1972 đến năm 1975.", "Năm 1972, sau đại thắng tại Chiến dịch Đường 9 Nam Lào, với binh lực liên tục được bổ sung, Võ Nguyên Giáp chủ trương khuếch trương chiến quả bằng một kế hoạch quân sự ở Tây Nguyên, nơi có khả năng triển khai lực lượng lớn, đánh lớn, gây những khó khăn lớn hơn cho quân đội Sài Gòn. Kế hoạch này đã bị Quân ủy trung ương bác bỏ do Tổng cục tình báo 2 nhận được thông tin là Mỹ và quân đội Sài Gòn đã sớm biết và đã đón lõng tại Tây Nguyên. Đồng thời do ở gần nên mặt trận Trị-Thiên cũng dễ bổ sung đạn dược, quân số hơn, lại có 2 mục tiêu cực kỳ quan trọng là Huế và Đà Nẵng.", "Một phương án mới được đưa ra. Quân Giải phóng sẽ chia quân mở 3 chiến dịch tại Trị-Thiên, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Sau 2 tháng, trước những thắng lợi lớn trong Chiến dịch Trị Thiên và quân Giải phóng đã áp sát Huế, các lực lượng bổ sung được tiếp tục đưa vào đây, còn mặt trận Tây Nguyên thì buộc phải ngừng tiến công do thiếu nhiên liệu, đạn dược dự trữ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề xuất vòng qua phía tây Huế, chia lực lượng và hỏa lực đánh vào Vùng Chiến thuật I. Tuy nhiên các đơn vị công binh mở đường do thiếu phương tiện nên thực hiện quá chậm, không kịp phục vụ mục tiêu chiến dịch (con đường này sau đó đã phát huy tác dụng vào chiến dịch mùa xuân năm 1975) 6 sư đoàn tham gia chiến dịch Trị Thiên gồm 312, 308, 324, 325, 320, 341 đã hành quân đánh trực diện từ phía bắc xuống Vùng Chiến thuật I, nơi có Quân đoàn I và lực lượng tổng trù bị của quân đội Sài Gòn gồm các Lữ đoàn Biệt động quân, Sư đoàn Dù và Sư đoàn Thủy quân Lục chiến, được không quân và Hải quân Mỹ chi viện tối đa.", "Cuối năm 1972, Võ Nguyên Giáp tham gia chỉ huy chiến dịch 12 ngày đêm chống lại cuộc ném bom oanh tạc miền Bắc bằng B-52 của không quân Mỹ. Cuối tháng 11 năm 1972, phương án tác chiến đã được Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng và tập thể lãnh đạo Bộ Tổng tham mưu trực tiếp thông qua, sau đó được Đại tướng Võ Nguyên Giáp phê chuẩn. Thất bại trong chiến dịch này buộc Mỹ phải chấp nhận ký Hiệp định Paris với những điều khoản nhân nhượng mà chính Mỹ trước đó đã từ chối ký. Đêm 26 tháng 12 năm 1972, 8 máy bay Mỹ đã bị quân và dân miền Bắc bắn rơi, riêng Hà Nội bắn rơi 5 chiếc, trong đó có 4 chiếc rơi tại chỗ. Từ sở chỉ huy tối cao, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã biểu dương các đơn vị lập công và ra lời kêu gọi: \"\"Kẻ địch thua đau và nhất định sẽ bị thất bại hoàn toàn. Nhưng, chúng vẫn ngoan cố kéo dài cuộc tập kích. Các đơn vị hãy bắn rơi nhiều B 52 nữa, hãy giáng cho quân Mỹ một đòn \"Điện Biên Phủ\" ngay trên bầu trời Hà Nội, Thủ đô thân yêu của chúng ta.\"\" Tên gọi \"Chiến thắng Điện Biên Phủ trên không\" xuất hiện từ đó.", "Năm 1974, để nắm vững tình hình thực tế chiến trường và có quyết sách đúng đắn, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng Tư lệnh trưởng Đoàn 559 Đồng Sĩ Nguyên và chính ủy Đặng Tính đã vượt hàng trăm cây số đi thăm bộ đội Trường Sơn trên đường mòn Hồ Chí Minh và kiểm tra sự chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy dự kiến vào mùa Xuân 1975.", "Cuối năm 1974, tại bản \"Kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà\", các ý kiến bổ sung của Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp đã chỉ rõ: \"Mặc dù các năm 1975 và 1976 đều quan trọng nhưng năm 1975 là năm bản lề tạo điều kiện quyết định để năm 1976 đạt mục tiêu cuối cùng. Nếu thời cơ đến vào năm 1975 thì lập tức tiến hành tổng tấn công, giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975\".", "Năm 1975, Võ Nguyên Giáp đã tán thành đề xuất của Trung tướng Hoàng Minh Thảo chọn địa bàn Nam Tây Nguyên làm hướng tấn công chiến lược, xin ý kiến Bộ Chính trị và cử Đại tướng Văn Tiến Dũng vào Nam chỉ đạo đánh đòn \"điểm huyệt\" vào hệ thống phòng ngự của quân đội Sài Gòn tại Buôn Mê Thuột. Chính ông nhân đà thắng trận Buôn Ma Thuột, trực tiếp ra lệnh Trung tướng Lê Trọng Tấn gấp rút giải phóng Đà Nẵng trong 3 ngày. Chính ông đề xuất và ra quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh mà trong đó Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh, Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh, Trần Văn Trà làm Phó Tư lệnh, chỉ huy 5 cánh quân với sức mạnh của 20 sư đoàn đồng loạt tiến vào giải phóng Sài Gòn. Mệnh lệnh nổi tiếng nhất của ông chỉ đạo Chiến dịch Hồ Chí Minh là \"\"Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến và toàn thắng\".\"", "Võ Nguyên Giáp giải thích chiến lược đánh Mỹ của ông:", "Trong thời gian diễn ra chiến tranh, Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa nhiều lần loan báo các thông tin về Võ Nguyên Giáp nhằm làm lung lay tinh thần đối phương. Thỉnh thoảng báo chí Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa lại loan tin về \"\"đảo chính ở miền Bắc\", \"tướng Giáp bị ám sát hoặc bị bắt giam\"... Trong chiến dịch Linebacker II, ngày 24 tháng 12 năm 1972, trên trang nhất tờ The Sunday Times (Mỹ) còn đăng tin: \"Tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng Bắc Việt Nam, đã thiệt mạng trong một vụ nổ ngày hôm qua khi thị sát những tổn thất sau các đợt ném bom tại Hải Phòng, theo nguồn tin tình báo Nam Việt Nam. Nguồn tin này cho biết một quả \"mìn nổ chậm\" đã phát nổ khi Tướng Giáp thị sát kho quân sự Trần Hưng Đạo tại thành phố cảng. Không có thêm chi tiết về vụ việc...\"\" Thông tin này sau đó vài ngày được chứng minh là bịa đặt, và Võ Nguyên Giáp vẫn sống khỏe mạnh cho tới hàng chục năm sau chiến tranh.", "Chiến tranh Đông Dương lần 3.", "Trong một thời gian ngắn từ tháng 7 năm 1960 đến tháng 1 năm 1963, ông kiêm thêm chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước. Năm 1978, ông thôi chức Bí thư quân ủy Trung ương, Lê Duẩn trở thành Bí thư và Văn Tiến Dũng làm Phó Bí thư Quân ủy Trung ương.", "Đất nước mới vừa thống nhất ngày 30 tháng 4 năm 1975, đã bị quân Khmer Đỏ vượt biên giới Tây Nam tiến vào Việt Nam và xung đột với Việt Nam trong một thời gian dài, Khmer Đỏ được hậu thuẫn từ Trung Quốc và sau đó có Thái Lan một phần gây xung đột biên giới với Việt Nam từ năm 1975 mãi đến năm 1990 mới chấm dứt, đỉnh điểm là cuộc Chiến tranh biên giới Việt-Trung năm 1979. Tại thời điểm này ông giữ cương vị Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Sau khi cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc kết thúc, không có thay đổi lãnh thổ đáng kể giữa Việt Nam và Trung Quốc.", "Giai đoạn làm Phó Thủ tướng phụ trách các lĩnh vực dân sự.", "Ngày 7 tháng 2 năm 1980, ông thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhưng vẫn tiếp tục giữ chức Ủy viên Bộ Chính trị (đến năm 1982) và Phó Thủ tướng phụ trách Khoa học - Kỹ thuật. Người thay thế ông ở Bộ Quốc phòng là Đại tướng Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Văn Tiến Dũng là một trong những lãnh đạo quân đội lâu năm nhất cùng thời với Võ Nguyên Giáp, và cũng là chỉ huy trực tiếp của Chiến dịch Mùa Xuân năm 1975.", "Từ cuối thập niên 1970, Việt Nam đứng trước nguy cơ bùng nổ dân số. Tư tưởng cho rằng phải sinh đẻ thật nhiều để bù đắp sự tổn thất về người trong chiến tranh vẫn tồn tại dù chiến tranh đã kết thúc, cùng với hàng triệu nam thanh niên xuất ngũ trở về lập gia đình đã khiến dân số Việt Nam tăng nhanh. Đây là một vấn đề nghiêm trọng với Việt Nam lúc bấy giờ. Lần đầu tiên, các chỉ tiêu về dân số được đưa vào Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng năm 1981. Nhận thức rõ tầm quan trọng cùng với sự khó khăn, phức tạp của công tác này, năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng quyết định thành lập Ủy ban quốc gia dân số và sinh đẻ có kế hoạch với mục tiêu kiểm soát mức sinh tại Việt Nam. Võ Nguyên Giáp khi đó là Phó Thủ tướng phụ trách Khoa học - Kỹ thuật được phân công kiêm nhiệm chức chủ tịch ủy ban này (cùng với 3 Bộ trưởng các Bộ và Tổ chức khác làm phó cho ông).", "Trong văn hóa Việt Nam khi đó, chuyện sinh đẻ bị coi là chuyện tế nhị của riêng phụ nữ, việc đàn ông tham gia phụ trách công tác này bị nhiều người Việt Nam khi đó coi là \"mất thể diện\". Cũng vì thế mà có những dư luận khi đó đồn thổi rằng các lãnh đạo khác \"ghen tị\" với tài năng và công lao của Võ Nguyên Giáp nên đã chuyển ông sang làm phụ trách ủy ban sinh đẻ có kế hoạch nhằm \"hạ uy tín\" ông. Lời đồn thổi đó lan truyền dai dẳng tới hàng chục năm sau, có người còn làm bài vè để châm biếm chuyện này. Nhưng thực ra những lời đồn thổi này là không có căn cứ. Dư luận khi ấy chỉ chú ý đến Tướng Giáp mà bỏ qua một loạt các thành viên quan trọng khác như 01 Phó Thủ tướng, 10 Bộ trưởng, lãnh đạo các ban ngành cũng tham gia ủy ban này. Ngoài ra, không chỉ Đại tướng Võ Nguyên Giáp mà cả hai Thủ tướng khác của Việt Nam là Phạm Văn Đồng và Võ Văn Kiệt cũng từng phụ trách công tác sinh đẻ kế hoạch này (Phạm Văn Đồng phụ trách giai đoạn 1961-1975, Võ Văn Kiệt phụ trách giai đoạn 1987-1991, ngay sau Võ Nguyên Giáp). Việc có tới 2 thủ tướng trực tiếp phụ trách cho thấy tầm quan trọng của công tác kế hoạch hóa gia đình khi đó.", "Ông Trần Văn Thìn, người trợ lý thân cận của Đại tướng Võ Nguyên Giáp suốt 21 năm, kể lại \"Lúc sang Ủy ban Dân số kế hoạch hóa gia đình, dư luận bàn ra tán vào chuyện đó thế nào, Đại tướng biết cả. Ông nói với chúng tôi trong sinh hoạt chi bộ: Đảng đã phân công, mình là Đảng viên thì phải cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ...\" Trong một lần nói chuyện, Đại tướng cũng đã từng cho hay: \"\"Tôi đã cống hiến một cách tự nguyện, đã thanh thản trong mọi thử thách, thế là tôi sống vui, sống lâu... Như vậy, tôi đã làm theo lời dạy và noi theo tấm gương của Bác Hồ là \"Dĩ công vi thượng\". Tôi nhận nhiệm vụ và tôi hoàn thành nhiệm vụ. Ngay cả việc phụ trách công tác sinh đẻ có kế hoạch cũng là nhiệm vụ\"\"", "Nhà sử học Dương Trung Quốc từng mạnh dạn hỏi Đại tướng Võ Nguyên Giáp về những lời đồn thổi rằng việc giao cho ông phụ trách ủy ban sinh đẻ kế hoạch là để \"hạ uy tín\" ông. Đáp lại thắc mắc của ông Dương Trung Quốc, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã cười và nói đó là do Thủ tướng Phạm Văn Đồng (người từng làm trưởng ban sinh đẻ kế hoạch suốt 15 năm trước đó) quá bận việc nên trực tiếp nhờ cậy ông làm giúp, chứ chẳng hề có \"âm mưu\" nào như dư luận đồn thổi cả: ", "Nghỉ hưu đến khi qua đời.", "Nghỉ hưu.", "Năm 1991, ông thôi chức ủy viên Trung ương, Phó Thủ tướng, nghỉ hưu ở tuổi 80. Theo tiểu sử tóm tắt khi ông mất, ông đảm nhiệm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đến tháng 12 năm 1986.", "Thời gian cuối đời, ông vẫn quan tâm và đưa ra một số lời bình luận trên mặt báo về tình hình đất nước như có bài báo yêu cầu kiểm định và báo cáo Đại hội Đảng Cộng sản X về Vụ PMU18, hay cuộc gặp gỡ và khuyến khích doanh nhân làm xuất khẩu nông sản.", "Vào ngày 1 tháng 11 năm 2007 ông gửi thư trong đó bày tỏ sự phản đối chủ trương xây dựng Nhà Quốc hội ở khu di tích 18 Hoàng Diệu. Ông cũng có bài viết thực trạng và kiến nghị 6 vấn đề \"cơ bản và cấp bách\" nhằm triển khai có kết quả công cuộc đổi mới nền giáo dục và đào tạo của Việt Nam hiện nay. Vào đầu năm 2009, ông góp ý về Dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên, ông đã viết 3 bức thư đề nghị thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng xem xét lại cẩn thận dự án này vì lý do an ninh quốc gia và vấn đề môi trường.", "Đại thọ 100 tuổi.", "Ngày 25 tháng 8 năm 2011, Võ Nguyên Giáp đã mừng đại thọ tròn 100 tuổi.", "Trong dịp ông bước sang tuổi 100 và 71 năm tuổi đảng, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã phát biểu \"Một vị đại tướng mà đã vào sinh ra tử, chiến đấu ở những chiến trường hết sức khó khăn, là thế hệ cận vệ học trò xuất sắc của chủ tịch Hồ Chí Minh nay đã sống trên 100 tuổi, đây là điều hết sức vui mừng...\"", "Đại tướng cũng thường xuyên được các chính khách hàng đầu trên thế giới đến thăm hỏi tại tư dinh của Đại tướng. Đại tướng được coi là một tượng đài sống và có ảnh hưởng sâu rộng đến Việt Nam, tầm ảnh hưởng lớn trong lòng mỗi người dân Việt Nam.", "Sau 100 tuổi, sức khỏe của ông yếu hơn trước. Ngày 22 tháng 5 năm 2011, Đài Truyền hình Việt Nam đã phát sóng chương trình thời sự với hình ảnh ông đang thực hiện việc bỏ phiếu thực hiện quyền công dân của mình trong cuộc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, xóa đi những đồn đoán về sức khỏe của ông trên những phương tiện thông tin không chính thống. Trong dịp Ngày Thương binh Liệt sĩ 27 tháng 7 năm 2011, Truyền hình Quân đội nhân dân phát sóng hình ảnh Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Hữu Đức đến thăm hỏi một số tướng lĩnh cao cấp đang nằm điều trị tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, trong đó có Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Qua theo dõi trong hình ảnh thì sức khỏe Đại tướng đã tốt lên nhiều.", "Qua đời.", "Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã qua đời vào hồi 18 giờ 9 phút ngày 4 tháng 10 năm 2013, tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Hà Nội, nơi ông thường xuyên tới điều trị từ năm 2009, đại thọ 103 tuổi (âm lịch) và là tướng lĩnh Việt Nam sống thọ nhất trong lịch sử Việt Nam từ trước tới nay.", "Văn phòng Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông báo lễ tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp được tổ chức trọng thể theo nghi thức Quốc tang trong hai ngày 12 và 13 tháng 10 năm 2013. Ông được an táng tại quê hương Quảng Bình, theo ý nguyện của ông và gia đình. Địa điểm an táng là khu vực Vũng Chùa - Đảo Yến thuộc xã Quảng Đông, Quảng Trạch tỉnh Quảng Bình, nằm cách đèo Ngang khoảng 4 cây số. Nơi an nghỉ cuối cùng của ông đã được xây dựng thành một quần thể kiến trúc để phục vụ người dân tới viếng.", "Đánh giá.", "Tại Việt Nam.", "Với hơn 50 năm tham gia hoạt động chính trị, trong đó có 30 năm là Tổng tư lệnh Quân đội, ông có uy tín lớn trong Đảng Cộng sản Việt Nam và trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Thông tin chính thống gần đây cho biết: \"Tất cả các ý kiến của anh Văn đều được Bộ Chính trị tiếp thu và tán thành trong suốt thời kỳ chiến tranh\". Thượng tướng Trần Văn Trà đã từng gọi Đại tướng Võ Nguyễn Giáp là \"tư lệnh của tư lệnh, chính uỷ của chính uỷ\". Thượng tướng Giáo sư Hoàng Minh Thảo khi được hỏi về trình độ đánh trận của các tướng lĩnh Việt Nam đã trả lời:", "Nhà giáo Hồ Cơ nhận xét về Đại tướng Võ Nguyên Giáp như sau: \"Đất nước này nên cơ nên nghiệp, thứ nhất là do công của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau đó là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, thì công của Đại tướng là công đầu. Nguy nan gì ông cũng xông vào.  Khi lâm trận thì ông nghĩ làm thế nào để chiến thắng mà quân dân hy sinh ít nhất. Cái đó là con người vĩ đại. Tôi ca ngợi một con người xứng đáng là anh hùng của Việt Nam\"; và ông cũng có nhiều câu đối ca ngợi Đại tướng, được nhiều tài liệu đề cập đến:", "Từ bên ngoài.", "Võ Nguyên Giáp đã xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam từ 34 người vào tháng 12 năm 1944 thành một đội quân với hơn một triệu người năm 1975. Ông đã chỉ huy quân đội tốt trong cả hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Tên tuổi ông gắn liền với chiến thắng Điện Biên Phủ cùng với nỗi hổ thẹn của Quân lực Hoa Kỳ tại Việt Nam, với học thuyết \"Chiến tranh nhân dân\", với toàn bộ cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước Việt Nam. Nhà sử học Derek Frisby gọi ông là kiến trúc sư của quân đội nhân dân Việt Nam, hoặc thậm chí có thể là của nước Việt Nam tồn tại như ngày nay.", "Ký giả nổi tiếng Oriana Fallaci, trong bài phỏng vấn nhan đề \"Mỹ sẽ thua, tướng Giáp khẳng định\" (Americans will lose, says General Giap), đăng trên báo Washington Post, ngày 6 tháng 4 năm 1969, mô tả Võ Nguyên Giáp như sau: \"Đôi mắt của Giáp! Hẳn đây là đôi mắt thông minh nhất mà tôi từng được thấy. Sắc sảo, linh lợi, tươi vui, dữ dội – tất thảy mọi thứ. Một đôi mắt long lanh như hai tia sáng, xuyên thấu người ta tựa như hai lưỡi kiếm, ánh mắt đầy quyết đoán, uy nghi\". Fallaci cho rằng, dù ông Giáp đã khóc khi có tin Hồ Chí Minh từ trần (tin giả, khoảng năm 1943, khi Hồ Chí Minh bị Quốc dân đảng Trung Quốc cầm tù), \"nhưng không một điều gì trên thế giới có thể buộc được cặp mắt ấy đẫm lệ một lần nữa\". Võ Nguyên Giáp tin chắc rằng quân Mỹ sẽ phải rút dần khỏi Việt Nam, rồi họ sẽ phải từ bỏ cuộc chiến tranh vì nó ngày càng ngốn nhiều nguồn lực, đẩy Hoa Kỳ đến bờ vực thẳm của lạm phát. Tháng 11 năm 1972, khi được Henry Kissinger cho phép phỏng vấn, Fallaci viết: \"\"Câu hỏi đầu tiên của Kissinger là về tướng Giáp, \"như đã bảo cô, tôi không bao giờ cho phỏng vấn riêng. Lý do tôi cho phép cô phỏng vấn là do tôi đã đọc bài phỏng vấn tướng Giáp của cô. Rất hay. Ông Giáp là người thế nào nhỉ?\"\" Bà trả lời: \"Ông Giáp là một kẻ sĩ theo phong cách Gô loa… Giọng đều đều như đọc bài giảng… Tuy nhiên, những điều ông Giáp nói (vào năm 1969) bây giờ đã trở thành sự thật\"", "Nhà sử học quân sự Cecil Currey, trong quyển tiểu sử \"Victory at Any Cost\" (\"Chiến thắng bằng mọi giá\"), có nhận xét về tính cách của ông. Tướng Giáp dành trọn tình cảm của ông đến đất nước và toàn bộ sự hiến dâng đến Đảng Cộng sản, khát vọng lớn nhất cuộc đời ông là 2 mục tiêu: giải phóng Việt Nam ra khỏi sự đô hộ của nước ngoài và thống nhất đất nước, do đó ông đã \"dành trọn khát vọng và niềm kiêu hãnh vô bờ bến của mình vào hai mục tiêu này\", và \"bề ngoài lạnh buốt của ông che đậy một tính khí rất nóng nên người Pháp đã miêu tả ông là một núi lửa được tuyết che phủ\".", "Ngay cả sau này khi chiến tranh đã kết thúc, nhiều người phương Tây cho rằng ông là người vô cảm, bất chấp tổn thất để đạt được mục tiêu. Tướng Mỹ William Westmoreland - đối phương của ông trong chiến tranh Việt Nam đã chỉ trích ông rằng \"Bất cứ tướng Mỹ nào chịu tổn thất nhiều như thế sẽ không giữ được chức trong vòng ba tuần. Sự coi thường mạng người như thế có lẽ sẽ tạo nên một đối thủ ghê gớm, nhưng không tạo nên một thiên tài quân sự\". Nhưng sau đó nhận xét của Westmoreland đã bị nhà sử học nổi tiếng Stanley Karnow phản bác. Trước hết, Westmoreland đã bỏ qua sự vượt trội về trang bị và hỏa lực của quân đội Mỹ so với quân đội Việt Nam (nếu quân đội Mỹ trang bị thiếu thốn như phía Việt Nam, thì tổn thất của họ sẽ còn cao hơn nhiều). Stanley Karnow cũng chỉ ra điểm khác biệt cơ bản giữa tướng Giáp và các tướng Mỹ: ông không phải là một người Mỹ đang đối đầu với một dân tộc xa lạ ở một xứ sở xa lạ. Bộ đội của ông, và những thường dân hỗ trợ họ, chiến đấu trên đất đai quê hương mình; họ tin tưởng rằng cuộc kháng chiến trường kỳ cuối cùng sẽ quét sạch lòng kiên nhẫn của quân thù và đưa họ đến mục đích cuối cùng là thống nhất tổ quốc. Chiến lược này đã giúp ông Giáp đánh bại người Pháp và nó sẽ lại phát huy hiệu quả trong cuộc chiến chống lại người Mỹ.", "Nhà sử học Derek Frisby chỉ ra: tướng Giáp thừa hiểu một cuộc chiến kéo dài chắc chắn sẽ mang lại nhiều tổn thất nhưng điều đó không có nghĩa là một phe nào đó chắc chắn sẽ thắng hay thua; và chỉ cần quân đội Việt Nam còn tồn tại để tiếp tục chiến đấu thì ý niệm về Việt Nam sẽ tiếp tục sống trong tâm khảm của những người ủng hộ nó. Đó là bản chất của một cuộc chiến tranh cách mạng. Những lời chỉ trích của Westmoreland dành cho tướng Giáp lại chính là chìa khóa để hiểu tại sao viên tướng Mỹ đã không thể đánh bại Võ Nguyên Giáp. Theo Frisby, Võ Nguyên Giáp đã lợi dụng sự ỷ lại của người phương Tây vào ưu thế vũ khí để đánh bại họ bằng những chiến thuật không ai ngờ tới. Một ví dụ tiêu biểu là trận Điện Biên Phủ, khi Võ Nguyên Giáp sử dụng những phương tiện thô sơ để đưa đại bác và pháo phòng không đi xuyên qua những vùng địa hình tưởng chừng không thể vượt qua được, và điều này đã khiến quân Pháp \"chết điếng người\".", "Đối với những chỉ trích từ phương Tây rằng ông là người vô cảm, chính bản thân Võ Nguyên Giáp đã từng trả lời một nhà báo Ý rằng: \"Người phương Đông chúng tôi khác người phương Tây các ông. Chúng tôi đặt sự tồn vong của cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân. Mỗi phút có hàng trăm, hàng ngàn người chết trên trái đất này. Sự sống hoặc cái chết của hàng trăm, hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn con người, đối với đồng bào của chúng tôi, cũng là không đáng kể (đối với sự nghiệp giành độc lập dân tộc)\". Ông cho biết: người Việt Nam sẽ sẵn sàng chịu bất kỳ hy sinh nào và chiến đấu tới cùng để giải phóng đất nước của họ từ quân đội nước ngoài, và ông cũng không ngoại lệ. Trong hồi ký của mình, Võ Nguyên Giáp chia sẻ: phải chỉ huy một đội quân trang bị nghèo nàn chống lại những đội quân trang bị tối tân, không thể nào giành chiến thắng mà không cần phải hy sinh, ông không thể thay đổi điều đó mà chỉ có thể tìm cách hạn chế tối đa mức độ hy sinh. Ông đã ra quyết định ngừng Chiến dịch Điện Biên Phủ thêm 2 tháng để thay đổi phương án tác chiến do e ngại việc đánh nhanh thắng nhanh sẽ gây nhiều tổn thất. Sau một đêm lo lắng mất ngủ, ông kết luận \"sẽ là tự sát nếu đưa bộ đội vào trận đánh mà không chuẩn bị chống pháo binh, xe tăng và máy bay địch\", và ông kiên quyết ra lệnh ngừng tấn công dù rằng khi đó áp lực rất lớn và ông coi đó là \"quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời\". Thượng tướng Trần Văn Trà nói rằng tướng Giáp \"là một tổng tư lệnh biết đau với từng vết thương của mỗi người lính, biết tiếc từng giọt máu của mỗi chiến binh\"", "Giáo sư Fredrik Logevall nhận định, việc đánh bại 2 quân đội mạnh như Pháp và Mỹ không chỉ đơn giản là chấp nhận đánh đổi bằng tổn thất lớn. Võ Nguyên Giáp đã thành công trong việc tận dụng các lợi thế sẵn có như địa hình và sự ủng hộ của người dân để khắc chế ưu thế về hỏa lực và vũ khí của Pháp và Mỹ, ngoài ra ông và các đồng sự cũng tranh thủ được sự ủng hộ của những người dân Pháp, Mỹ phản đối chiến tranh. Nếu không có đường lối quân sự đúng đắn này thì dù Việt Nam có hy sinh nhiều tới đâu cũng chỉ là vô ích trước những kẻ thù mạnh như Pháp và Mỹ. Cecil B. Currey nhận xét: các tướng Pháp và Mỹ đều ỷ vào sự áp đảo của xe tăng, máy bay, pháo binh với suy nghĩ là cứ chiếm thật nhiều vùng đất thì sẽ thắng, họ đã không nắm được yếu tố căn bản của chiến tranh như Võ Nguyên Giáp. Ông có thể thua trong một số trận đánh, nhưng kết quả chung cuộc thì ông luôn thắng. Tư tưởng quân sự của Võ Nguyên Giáp vừa đúc rút từ lịch sử của Việt Nam, vừa chấm phá bằng những màu sắc từ Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, của Tôn Tử, Napoleon, của Thomas Lawrence và nhiều người khác. Ông tạo nên những nét sáng tạo của chính mình trên tấm vải là Đảng và nhân dân của ông. Bức tranh hoàn toàn là của riêng ông - một kiệt tác nghệ thuật.", "Các đánh giá khác:", "Nếu như tiêu chí chọn tướng của Hồ Chủ tịch là \"Đánh thắng Đại tướng được phong Đại tướng\" thì suốt cuộc đời mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã lần lượt đọ sức và đánh thắng 10 đại tướng của Pháp và Mỹ (\"4 Pháp và 6 Mỹ\"), chưa kể đến nhiều viên đại tướng của chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Các tướng lĩnh Mỹ khi nhắc đến ông vẫn thường gọi ông là \"Đại tướng 5 sao\", William Westmoreland gọi ông là \"Tướng huyền thoại\" (Legendary Giap)... Trong bách khoa toàn thư của Mỹ và của nhiều nước, tên và hình ảnh của ông được ghi lại như là một trong những vĩ nhân quân sự hiển hách nhất.", "Kỷ niệm 60 năm ngày phát hành số đầu tiên, Thời báo châu Á (\"Time Asia\") đã ra số đặc biệt giới thiệu các \"Anh hùng châu Á\", gồm các nhân vật làm thay đổi cục diện châu lục trong những thập kỷ gần đây. Những nhân vật được giới thiệu gồm Mahatma Gandhi, Jawaharlal Nehru, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thiền sư Thích Nhất Hạnh...", "Trong một cuốn sách được xuất bản tại Anh năm 2008 mang tựa đề \"Great Military Leaders and Their Campaigns\" (\"Những nhà lãnh đạo quân sự lớn và những chiến dịch của họ\"). Sách dày hơn 300 trang khổ lớn, với hơn 500 tấm ảnh màu minh hoạ của Nhà xuất bản Thames & Hudson dành để giới thiệu 59 nhân vật danh tiếng nhất trong lịch sử các cuộc chiến tranh của thế giới trong 2.500 năm qua, thứ tự được xếp theo trình tự thời gian từ cổ đến kim. Đại tướng Võ Nguyên Giáp được lựa chọn là nhân vật thứ 59, tức là nhân vật nổi bật nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai cho tới hiện nay (xếp thứ 58 là Đô đốc Nimitz của Hoa Kỳ, người chỉ huy mặt trận Thái Bình Dương trong Thế chiến II), và Võ Nguyên Giáp cũng là người duy nhất trong 59 nhân vật vẫn còn sống khi cuốn sách được xuất bản.", "Danh tiếng của ông không chỉ bó hẹp ở Việt Nam mà các nước trên thế giới khi nhắc đến tên Võ Nguyên Giáp đều bày tỏ sự ngưỡng mộ sâu sắc, các dân tộc châu Phi và Mỹ La-tinh tin rằng chiến thắng Điện Biên Phủ do ông chỉ huy là khởi nguồn cho nền độc lập ngày nay của họ. Khi ông mất, hàng chục chính phủ các nước đã gửi điện chia buồn. Tổng thống Uruguay, Jose Mujica gọi ông là \"vị tướng huyền thoại\", người đã dành cả cuộc đời cho sự nghiệp đấu tranh chống áp bức và \"gieo niềm tin rằng yếu tố con người chính là chìa khóa của thắng lợi\". Bộ Ngoại giao Venezuela ra thông cáo khẳng định việc Đại tướng ra đi cũng là một tổn thất đối với người dân quốc gia Nam Mỹ này. Tổng thống Algérie - Abdelaziz Bouteflika - gọi ông là người anh hùng quân đội của nền độc lập Việt Nam, là nhà chiến lược vĩ đại đã khiến cho thực dân Pháp phải kinh hoàng ở Điện Biên Phủ, và tên tuổi ông \"sẽ vẫn mãi khắc sâu trong ký ức của nhân dân Algeria.\"", "Các tác phẩm chính.", "Một số tác phẩm chính của Đại tướng như:", "Gia đình riêng.", "Năm 1934, Võ Nguyên Giáp kết hôn lần đầu với bà Nguyễn Thị Quang Thái (1915-1944, em gái bà Nguyễn Thị Minh Khai) và có với nhau một người con gái là Võ Hồng Anh (1939-2009). Võ Hồng Anh là một giáo sư, tiến sĩ khoa học ngành Toán-lý đã từng đoạt giải thưởng Kovalevskaia năm 1988.", "Hai năm sau khi bà Nguyễn Thị Quang Thái hy sinh, năm 1946, Võ Nguyên Giáp tái hôn với giáo sư Đặng Bích Hà (1927-), con gái của giáo sư Đặng Thai Mai (1902-1984). Võ Nguyên Giáp và Đặng Bích Hà có bốn người con, 2 gái và 2 trai", "Vinh danh.", "Tên ông được đặt cho nhiều đường, phố và các trường học ở nhiều nơi tại Việt Nam, đặc biệt, từ ngày 12 tháng 8 năm 2014, trường trung học phổ thông chuyên Quảng Bình đổi tên thành Trường trung học phổ thông chuyên Võ Nguyên Giáp.", "Ngày 25 tháng 8 năm 2014, nhân kỷ niệm 104 năm ngày sinh Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tỉnh ủy Thái Nguyên quyết định đổi tên Quảng trường 20/08 thành Quảng Trường Võ Nguyên Giáp với diện tích 21ha.", "Ngày 7 tháng 2 năm 2015, đường cao tốc Nhật Tân - Nội Bài được đổi tên thành đường Võ Nguyên Giáp. Đây là tuyến đường huyết mạch nối trung tâm thủ đô với Sân bay quốc tế Nội Bài.", "Ngày 8 tháng 11 năm 2015, UBND tỉnh Trà Vinh long trọng tổ chức lễ công bố nghị quyết của HĐND tỉnh Trà Vinh về đặt tên ông cho tuyến đường hai chiều từ cửa ngõ đi vào trung tâm nội ô Thành phố Trà Vinh.", "Ngày 22 tháng 7 năm 2020, Hội đồng nhân dân thành phố Hải Phòng ban hành Nghị quyết số 01/2020/NQ-HĐND. Theo đó, trục đường Hồ Sen - Cầu Rào 2 được đặt tên là đường Võ Nguyên Giáp, đồng thời cầu Rào 2 cũng được đổi tên thành cầu Võ Nguyên Giáp như hiện nay.", "Sáng ngày 12 tháng 7 năm 2023, với đa số đại biểu tán thành, Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã thông qua nghị quyết về đổi tên Xa lộ Hà Nội đoạn từ cầu Sài Gòn đến ngã tư Thủ Đức (TP Thủ Đức) có chiều dài 7,79km thành đường Võ Nguyên Giáp." ]
882
812749
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=882
Chữ Nôm
[ "Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.", "Chữ Nôm (𡨸喃), còn được gọi là Chữ Hán Nôm (𡨸漢喃), Quốc âm (國音) hay Quốc ngữ (國語) là loại văn tự ngữ tố - âm tiết dùng để viết tiếng Việt. Đây là bộ chữ được người Việt tạo ra dựa trên chữ Hán, các bộ thủ, âm đọc và nghĩa từ vựng trong tiếng Việt.", "Chữ Nôm bắt đầu hình thành và phát triển từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 20. Sơ khởi, chữ Nôm thường dùng ghi chép tên người, địa danh, sau đó được dần dần phổ cập, tiến vào sinh hoạt văn hóa của quốc gia. Vào thời Nhà Hồ ở thế kỷ 14 và Nhà Tây Sơn ở thế kỷ 18, xuất hiện khuynh hướng dùng chữ Nôm trong văn thư hành chính. Đối với văn học Việt Nam, chữ Nôm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi là công cụ xây dựng nền văn học cổ truyền kéo dài nhiều thế kỷ.", "Định nghĩa và tên gọi.", "Cả hai từ \"chữ\" và \"Nôm\" trong \"chữ Nôm\" đều có gốc Hán. Từ \"chữ\" bắt nguồn từ cách phát âm trong tiếng Hán thượng cổ của chữ “tự” 字 (trong \"văn tự\"). \"Nôm\" nghĩa là Nam 南 (trong \"phía nam\"). Ý của tên gọi \"chữ Nôm\" là đây là thứ chữ dùng để ghi chép tiếng nói của người phương Nam (tức người Việt, xưa kia người Việt tự xem mình là người phương Nam, còn người Trung Quốc là người phương Bắc).", "Tên gọi \"chữ Nôm\" khi viết bằng chữ Nôm có thể viết bằng rất nhiều chữ khác nhau:", "Tên gọi \"Quốc âm\" (國音) được các thi hào sử dụng để đặt tên cho các tác phẩm bằng chữ Nôm như \"Quốc âm Thi tập\", \"Hồng Đức Quốc âm Thi tập.\" Chữ \"âm\" 音 có nghĩa là \"tiếng\" như trong từ \"âm thanh\", \"âm giọng\", liên tưởng đến \"tiếng nói\" hay \"ngôn ngữ\", nên có thể \"Quốc âm\" còn có nghĩa là \"tiếng nói của đất nước\", ám chỉ tới tiếng Việt. Một tác phẩm bằng chữ Nôm khác là \"Bạch Vân quốc ngữ thi tập\", sử dụng từ \"Quốc ngữ\" (國語). Do vậy từ lâu chữ Nôm đã được người đương thời coi là ”chữ viết tiếng Việt”, hay chính là ”chữ Quốc ngữ” của tiếng Việt lúc đó (khác với \"chữ Quốc ngữ\" hiện nay là chữ Latinh).", "Lịch sử phát triển.", "Các quan điểm về sự hình thành.", "Trong một số nghiên cứu vào thập niên 1990, các học giả căn cứ vào đặc điểm cấu trúc nội tại của chữ Nôm, dựa vào cứ liệu ngữ âm lịch sử tiếng Hán và tiếng Việt, so sánh đối chiếu hệ thống âm tiếng Hán và tiếng Hán Việt đã đi tới kết luận rằng âm Hán Việt (âm của người Việt đọc chữ Hán) ngày nay bắt nguồn từ thời nhà Đường-nhà Tống thế kỷ 8-9. Và nếu âm Hán Việt có từ thời Đường, Tống thì chữ Nôm không thể ra đời trước khi cố định cách đọc Hán Việt (nếu xét chữ Nôm với tư cách hệ thống văn tự) và chỉ có thể ra đời sau khoảng thế kỷ thứ 10 khi người Việt thoát khỏi nghìn năm Bắc thuộc với chiến thắng của Ngô Quyền vào năm 938.", "Về văn bản thì khi tìm chứng tích trước thời nhà Lý, văn tịch hoàn toàn không lưu lại dấu vết chữ Nôm nào cả. Sang thời Lý thì mới có một số chữ Nôm như trên quả chuông chùa Vân Bản, Hải Phòng (đúc năm 1076), bài bi ký ở chùa xã Hương Nộn, huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ (tạc năm 1173 niên hiệu Chính Long Bảo Ứng thứ 11) hay bia chùa Tháp Miếu, huyện Yên Lãng (nay thuộc Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc (tạc năm 1210 triều vua Lý Cao Tông).", "Trước tác thì phải sang thời nhà Trần mới có dấu tích rõ ràng. Hàn Thuyên là người có công lớn phát triển thơ Nôm thời kỳ này với việc mở đầu thể Hàn luật. Ông cũng đặt ra quy luật bằng trắc (平/仄) cho các thanh tiếng Việt trong thơ.", "Phát triển.", "Ban đầu khi mới xuất hiện, chữ Nôm thuần túy mượn dạng chữ Hán y nguyên để ghi âm tiếng Việt cổ (mượn âm Hán để chép tiếng Quốc âm). Phép đó gọi là chữ \"giả tá\" (假借). Dần dần phép ghép hai chữ Hán lại với nhau, một phần gợi âm, một phần gợi ý được dùng ngày càng nhiều và có hệ thống hơn. Phép này gọi là \"hài thanh\" hoặc \"hình thanh\" (形聲) để cấu tạo chữ mới.", "Ví dụ về giả tá: từ 别 âm Hán Việt là biệt, nghĩa phân biệt, ly biệt nhưng được dùng để ghi âm từ \"biết\".", "Kể từ thời Lê về sau số lượng sáng tác bằng chữ Nôm tăng dần trong suốt 500 năm từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19. Dồi dào nhất là các áng thi văn có tính cách cảm hứng, tiêu khiển, và nặng phần tình cảm. Những tác phẩm Nôm này rất đa dạng: từ Hàn luật (thơ Nôm (tiếng Việt) theo luật Đường), đến văn tế, truyện thơ lục bát, song thất lục bát, phú, hát nói, tuồng, chèo. Thi ca chữ Nôm đã diễn tả đầy đủ mọi tình cảm của dân tộc Việt, khi thì hào hùng, khi bi ai; khi thì trang nghiêm, khi bỡn cợt. Song sử liệu, nhất là chính sử cùng các văn bản hành chính của triều đình thì gần như toàn phần đều bằng chữ Hán. Ngoại lệ là những năm tồn tại ngắn ngủi của nhà Hồ (thế kỷ 15) và nhà Tây Sơn (thế kỷ 18).", "Trước thế kỷ 15.", "Một số di tích còn lưu lại dấu vết chữ Nôm trước thế kỷ 15 nhưng số lượng không nhiều ngoài một ít văn bia và ghi chép của người đời sau chép lại những bài tương truyền sáng tác từ thời Lý Trần. Một tác phẩm quan trọng là tập \"Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh\" (Kinh đại báo phụ mẫu trọng ân) đã ra đời vào thời nhà Lý khoảng thế kỷ 12. Đây cũng là đặc điểm vì tập này là văn xuôi, một thể văn ít khi dùng chữ Nôm.", "Nhà Trần cũng để lại một số tác phẩm chữ Nôm như mấy bài phú của vua Trần Nhân Tông: \"Cư trần lạc đạo phú\" (居塵樂道賦) và \"Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca\" (得趣林泉成道歌).", "Thời Trần tương truyền cũng có lệ làm phú bằng chữ Nôm trong kỳ thi Hội. Lê Tắc ghi lại trong \"An Nam chí lược\" rằng đời vua Trần Anh Tông một số bài hát được soạn bằng Nôm.", "Sang thời nhà Hồ thì một số sách vở kinh điển Nho học được dịch ra chữ Nôm như thiên Vô dật trong \"Kinh Thư\" năm 1395. Nhà vua cũng cho soạn cuốn \"Thi nghĩa\" bằng Nôm để giảng giải \"Kinh Thi\".", "Thế kỷ 15–17.", "Thời kỳ này phần lớn thi văn lưu truyền biết tới nay là thơ Hàn luật bát cú hoặc tứ tuyệt. Một số là trước tác cảm hứng riêng như: \"Quốc âm thi tập\" (Nguyễn Trãi), \"Hồng Đức quốc âm thi tập\" (Lê Thánh Tông và hội Tao đàn Nhị thập bát Tú), \"Bạch Vân quốc ngữ thi tập\" (Nguyễn Bỉnh Khiêm), \"Ngự đề hoà danh bách vịnh\" (Chúa Trịnh Căn), \"Tứ thời khúc vịnh\" (Hoàng Sĩ Khải), \"Ngọa long cương\" (Đào Duy Từ); nhưng cũng không thiếu những tác phẩm theo dạng sử ký như: \"Thiên Nam Minh giám\", \"Thiên Nam ngữ lục\". Thơ lục bát cũng xuất hiện với tác phẩm \"Cảm tác\" của Nguyễn Hy Quang, được sáng tác năm 1674.", "Trong chính sử thì ghi lại một số văn kiện quan trọng bằng chữ Nôm trong đó có tờ sắc chúa Thanh Đô Vương Trịnh Tráng soạn nhân danh vua Lê Thần Tông gửi cho chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên năm 1627 đòi đất Thuận Hóa nộp thuế. Dụng ý dùng Nôm là để dễ bề diễn tả tình gia tộc của kẻ cả vì Trịnh Tráng với Nguyễn Phúc Nguyên là anh em con cô con cậu.", "\"Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa\" là cuốn từ điển chữ Hán giải thích bằng chữ Nôm thuộc loại sớm nhất.", "Thế kỷ 17 cũng chứng kiến sự xuất hiện nhưng đã sớm nở rộ của văn học Nôm Công giáo, với những tác giả tên tuổi như nhà truyền giáo Girolamo Maiorica (chủ trì biên soạn hơn 45 tác phẩm nhiều thể loại), thầy giảng Gioan Thanh Minh (viết tiểu sử các danh nhân và thánh nhân), thầy giảng Lữ-y Đoan (viết \"Sấm truyền ca\", truyện thơ lục bát phỏng tác từ Ngũ Thư).", "Thế kỷ 18–19.", "Thơ Hàn luật của những thế kỷ kế tiếp càng uyển chuyển, lối dùng chữ càng tài tình, hóm hỉnh như thơ của Hồ Xuân Hương hay Bà Huyện Thanh Quan. Ngược lại thể thơ dài như Ai tư vãn của Ngọc Hân Công chúa cùng thể song thất lục bát trong \"Chinh phụ ngâm\" của Đoàn Thị Điểm lưu danh những nữ sĩ biệt tài thời trước. Riêng \"Chinh phụ ngâm\" được xem là một tuyệt tác, có phần trội hơn nguyên bản chữ Nho.", "Thể song thất lục bát cũng lưu lại tác phẩm \"Cung oán ngâm khúc\", lời văn cầu kỳ, hoa mỹ nhưng thể thơ phổ biến nhất là truyện thơ lục bát, trong đó phải kể Truyện Kiều (Nguyễn Du) và \"Lục Vân Tiên\" (Nguyễn Đình Chiểu). Văn từ truyện thơ bình dị hơn nhưng lối hành văn và ý tứ không kém sâu sắc và khéo léo. Những tác phẩm truyện Nôm khuyết danh khác như Thạch Sanh, Trê Cóc, Nhị độ mai, Phan Trần, Tấm Cám, Lưu Bình Dương Lễ, Ngư tiều y thuật vấn đáp, Nữ tú tài, Tô Công phụng sứ, tất cả được phổ biến rộng rãi khiến không mấy người Việt lại không biết vài câu, nhất là Truyện Kiều.", "Dưới triều đại nhà Tây Sơn, do sự hậu thuẫn của Quang Trung hoàng đế, toàn bộ các văn kiện hành chính bắt buộc phải viết bằng chữ Nôm trong 14 năm, từ 1788 đến 1802.", "Thời kỳ cuối của chữ Nôm xuất hiện nhiều tác phẩm thi ca theo thể hát nói như của Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Tú Xương v.v. Những thể cũ song thất lục bát và lục bát (các truyện Nôm) vẫn góp mặt song thêm vào đó là những vở tuồng hoặc chèo dân gian cũng được soạn bằng chữ Nôm như \"Kim Thạch kỳ duyên, Chàng Lía\" (Văn Doan diễn ca), \"Quan Âm Thị Kính\".", "Đối ngược lại tài liệu văn học thì triết học, sử học, luật pháp, y khoa và ngữ học tuy có được ghi lại bằng chữ Nôm nhưng tương đối ít. Văn vần thì có \"Đại Nam Quốc sử Diễn ca\" (thời Nguyễn). Đặc biệt là cuốn từ điển song ngữ Hán Nôm \"Đại Nam Quốc ngữ\" do Văn Đa Nguyễn Văn San soạn năm Tự Đức thứ 30 (1877). Trong những văn bản hành chính thường nhật như sổ sách, công văn, giấy tờ, thư từ, khế ước, địa bạ v.v. chỉ đôi khi xen chữ Nôm nếu không thể tìm được một chữ Hán đồng nghĩa để chỉ các danh từ riêng (như tên đất, tên làng, tên người), nhưng tổng thể vẫn là văn bản Hán Việt.", "\"Nam Việt–Dương Hiệp Tự vị\" là từ điển chữ Nôm đầu tiên, được phiên ra chữ Quốc ngữ và giải thích bằng tiếng Latinh.", "Suy giảm.", "Dưới chính quyền thuộc địa và bảo hộ của Pháp, vào cuối thế kỷ 19 tại Nam Kỳ và đầu thế kỷ 20 tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ, vị thế của chữ Hán và chữ Nôm bắt đầu giảm sút. Chữ Quốc ngữ được chính quyền thuộc địa bảo hộ qua các nghị định được người Pháp ban ra với mục đích xóa bỏ chữ Hán và chữ Nôm, để tiếng Việt đồng văn tự với tiếng Pháp, giúp phổ biến tiếng Pháp và dễ bề cai trị. Kỳ thi Hương cuối cùng tại Nam Kỳ được tổ chức vào năm 1864, tại Bắc Kỳ là năm 1915, tại Trung Kỳ là năm 1918 và kỳ thi Hội sau cùng được tổ chức vào năm 1919. Trong chừng mực nào đó, chữ Hán vẫn tiếp tục được dạy trong thời Pháp thuộc. \"Học chính Tổng quy\" (\"Règlement général de l'Instruction publique\") do Toàn quyền Albert Sarraut ban hành năm 1917 quy định ở cấp tiểu học, mỗi tuần dạy Hán tự một giờ rưỡi và dạy tiếng Pháp (lớp nhì và lớp nhất) ít nhất 12 giờ. Ở cấp trung học, mỗi tuần quốc văn (gồm Hán tự và quốc ngữ) dạy 3 giờ trong khi Pháp văn và lịch sử Pháp dạy 12 giờ. Bên cạnh bộ \"Quốc-văn giáo-khoa thư\" của nhóm Trần Trọng Kim, Nha Học chính Đông Pháp còn tổ chức và cho sử dụng bộ \"Hán-văn tân giáo-khoa thư\" xuất bản lần đầu năm 1928 do Lê Thước và Nguyễn Hiệt Chi biên soạn, đều được dùng rộng rãi cho tới trước năm 1949.", "Tại miền Nam, Giáo dục Việt Nam Cộng hòa quy định dạy chữ Hán cho học sinh trung học đệ nhất cấp. Tại miền Bắc, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không chủ trương dạy chữ Hán và chữ Nôm, nhưng có sử dụng chữ Hán với chữ Nôm ở một số thời điểm (đồng tiền lưu hành của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có in chữ Hán). Khi đất nước thống nhất, chương trình giáo dục phổ thông của nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam không giảng dạy chữ Hán và chữ Nôm.", "Hiện tại.", "Chữ Nôm và chữ Hán hiện nay không được giảng dạy đại trà trong hệ thống giáo dục phổ thông Việt Nam, tuy nhiên nó vẫn được giảng dạy và nghiên cứu trong các chuyên ngành về Hán-Nôm tại bậc đại học. Chữ Nôm và chữ Hán cũng được một số hội phong trào tự dạy và tự học, chủ yếu là học cách đọc bằng tiếng Việt hiện đại, cách viết bằng bút lông kiểu thư pháp, học nghĩa của chữ, học đọc và viết tên người Việt, các câu thành ngữ, tục ngữ và các kiệt tác văn học như Truyện Kiều.", "Để giúp chữ Nôm cũng được hiển thị trên máy tính và di động như chữ Hán, các nhà ngôn ngữ học về Hán Nôm đã và đang cố gắng chuẩn hoá chữ Nôm toàn diện hơn về mặt chữ, cách viết và âm đọc, đồng thời nỗ lực đưa chữ Nôm được mã hoá lên bộ mã Unicode. Điều này giúp cho chữ Nôm được bảo tồn lâu dài, dễ dàng tìm kiếm, tra cứu và thông hiểu hơn. Tính đến nay, đã có gần 12.000 chữ Nôm được cấp mã Unicode.", "Người Kinh ở Trung Quốc hiện nay vẫn sử dụng chữ Hán và chữ Nôm làm văn tự chính thức cho dạng tiếng Việt mà họ đang nói hàng ngày (tiếng Kinh Trung Quốc) thay vì chữ Latinh mà tại Việt Nam gọi là chữ Quốc ngữ.", "Do các vấn đề chính trị nhạy cảm về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc (như thời kỳ bắc thuộc, những cuộc chiến tranh trong hàng nghìn năm của lịch sử, tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa...), khiến nhiều người Việt hiện nay mang tư tưởng của Chủ nghĩa bài Trung Quốc, không phân biệt được chữ Nôm, chữ Hán với tiếng Trung (tức không phân biệt được \"chữ viết\" và \"tiếng nói\"), nên thường có hành động đả kích vô cớ những người học chữ Nôm, chữ Hán hay người viết các văn tự ngữ tố này trong tiếng Việt (ví dụ như đả kích người viết thư pháp chữ Hán Nôm thay vì viết chữ Latinh/ chữ Quốc ngữ, vì cho rằng viết chữ Hán Nôm là viết tiếng Trung). Điều này gây khó khăn lớn trong thời hiện đại cho việc bảo tồn và phát huy các giá trị mà chữ Nôm cũng như chữ Hán đã mang lại cho tiếng Việt và văn học cổ truyền Việt Nam.", "Chữ Nôm, chữ Hán và chữ Quốc ngữ.", "Chữ Quốc ngữ Latinh và chữ Nôm cùng chữ Hán là hai hệ chữ dùng để viết tiếng Việt, chúng có vai trò khác nhau nhưng bổ trợ cho nhau trong dòng lịch sử và văn hóa Việt Nam. Chữ Quốc ngữ được các nhà truyền giáo Dòng Tên tại Việt Nam sáng chế dựa trên ký tự Latinh vào nửa đầu thế kỷ 17 và cho tới cuối thế kỷ 19 chỉ được lưu hành trong giới Công giáo. Tuy nhiên, trái với nhiều người lầm tưởng, trong thời kỳ này lượng văn thư Kitô giáo chữ Nôm vượt xa chữ Quốc ngữ, và sách chữ Nôm vẫn được người Công giáo sử dụng cho đến giữa thế kỷ 20. Việc sử dụng chữ Quốc ngữ trong giai đoạn này cũng được đặt trong mối liên hệ với chữ Nôm và văn chương tiếng Việt nói chung.", "Đến thời Pháp thuộc, chính quyền thuộc địa muốn tăng cường ảnh hưởng của tiếng Pháp (cũng dùng chữ Latinh) và hạn chế ảnh hưởng của Hán học cùng với chữ Hán. Chính quyền thuộc địa ban hành các nghị định để bảo hộ cho việc sử dụng chữ Quốc ngữ:", "Như vậy, chính sách của thực dân Pháp có tác động lớn đến sự phổ biến chữ Quốc ngữ. Nhưng việc chữ Quốc ngữ trở thành chữ viết chính thức có phải thuần túy do người Pháp áp đặt hay không là một chủ đề còn bỏ ngỏ. Theo sử gia Liam C. Kelly, sắc lệnh năm 1906 của vua Thành Thái bổ sung chương trình giáo dục Nam âm (chữ Quốc ngữ Latinh) bên cạnh chữ Hán cho thấy có những cải cách ngôn ngữ học và trí thức tới từ nhà Nguyễn.", "Trên thực tế, chính quyền thực dân Pháp vốn bất đồng về việc phổ biến chữ Quốc ngữ; trong đó có ý kiến cho rằng việc thúc đẩy chữ Quốc ngữ là \"nguy hiểm cho người Pháp\". Người Pháp chê bai chữ Quốc ngữ, do các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha chế tạo, là hệ chữ \"vô tích sự vì đã không giúp ích gì trong việc truyền bá chữ Pháp\", nhưng bất đắc dĩ vẫn phải chấp nhận hệ chữ này. Kế tiếp đó, các sĩ phu vận động ủng hộ chữ Quốc ngữ trong công cuộc phổ biến tân học và lan truyền tư tưởng yêu nước. Các phong trào cải cách như Hội Trí Tri, phong trào Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục và ngành báo chí mới hình thành đã góp phần quan trọng vào việc truyền bá chữ Quốc ngữ.", "Những cách tạo chữ Nôm.", "Từ Hán Việt: tương đồng về âm và nghĩa (âm đọc).", "Mượn cả âm đọc (âm Hán Việt) và nghĩa của chữ Hán để ghi lại các từ từ Hán Việt. Âm Hán Việt có ba loại là:", "Ba loại âm Hán Việt kể trên đều được dùng trong chữ Nôm.", "Một số từ Hán Việt cổ như \"thấy\", xuất phát từ chữ gốc là 睇 nhưng không dùng từ gốc để ghi Nôm mà ghi bằng từ ghép 𫌠. Từ \"sông\" vốn bắt nguồn từ âm Hán cổ của từ \"giang\" (江) , vốn có gốc Proto-Vietic , nhưng khi ghi Nôm được ghi bằng chữ hình thanh là 滝. Một số âm Hán Việt đọc trại như huê-hoa, trường-tràng thì không có chữ Nôm bổ sung mà vẫn dùng chữ Hán để ghi.", "Dùng âm chữ Hán, không dùng nghĩa (giả tá).", "Mượn chữ Hán đồng âm hoặc cận âm để ghi âm tiếng Việt. Âm mượn có thể là âm Hán Việt tiêu chuẩn, âm Hán Việt cổ hoặc âm Hán Việt Việt hoá. Khi đọc có thể đọc giống với âm mượn hoặc đọc chệch đi. Ví dụ:", "Dùng nghĩa chữ Hán, không dùng âm (huấn đọc).", "Mượn chữ Hán đồng nghĩa hoặc cận nghĩa để ghi lại âm tiếng Việt. Ví dụ: chữ \"dịch\" 腋 có nghĩa nghĩa là \"nách\" được dùng để ghi lại từ \"nách\" trong \"hôi nách\", chữ \"năng\" 能 có nghĩa là \"có tài, có năng lực\" được dùng để ghi lại từ \"hay\" trong \"văn hay chữ tốt\".", "Chữ ghép (tạo tự).", "Chữ ghép, còn gọi chữ là chữ hợp thể, là chữ được tạo ra bằng cách ghép hai hoặc nhiều hơn chữ khác thành một chữ. Các chữ cấu thành nên chữ ghép có thể đóng vai trò là thanh phù (bộ phận biểu thị âm đọc của chữ ghép) hoặc nghĩa phù (bộ phận biểu thị ý nghĩa của chữ ghép) hoặc vừa là thanh phù vừa là nghĩa phù hoặc dùng làm phù hiệu chỉnh âm chỉ báo cho người đọc biết chữ này cần phải đọc chệch đi. Chúng có thể được viết nguyên dạng hoặc bị viết tỉnh lược mất một phần hoặc thay bằng chữ giản hóa. Thanh phù luôn có âm đọc giống hoặc gần giống với âm đọc của chữ ghép. Phù hiệu chỉnh âm được dùng trong chữ Nôm là bộ \"khẩu\" 口 (đặt ở bên trái chữ ghép), dấu \"cá\" 亇 (bắt nguồn từ chữ \"cá\" 个 viết theo thể thảo thư, đặt ở bên phải chữ ghép), dấu nháy \"𡿨\" (đặt ở bên phải chữ ghép), bộ \"tư\" 厶 (đặt ở bên trên hoặc bên phải chữ ghép), dấu \"冫\" (đặt bên trái chữ ghép, chỉ thấy dùng trong các bản văn bản Nôm ở vùng Nam Bộ Việt Nam).", "Một số ví dụ về chữ ghép:", "Tiếng Việt hiện đại không có phụ âm kép nhưng trong tiếng Việt từ giai đoạn trung đại trở về trước thì lại có phụ âm kép. Trong chữ Nôm hợp thể để biểu thị các phụ âm kép người ta dùng một hoặc hai chữ làm thanh phù. Nếu dùng hai chữ làm thanh phù thì một chữ sẽ dùng để biểu thị phụ âm thứ nhất của phụ âm kép, chữ còn lại biểu thị phụ âm thứ hai của phụ âm kép. Ví dụ:", "Lược bớt nét của chữ Hán để biểu thị phải đọc chệch đi.", "Lược bớt ít nhất là một nét của một chữ Hán nào đó để gợi ý cho người đọc biết rằng chữ này phải đọc chệch đi. Ví dụ:", "Mượn âm của chữ Nôm có sẵn.", "Dùng chữ Nôm có sẵn để ghi lại từ tiếng Việt đồng âm hoặc cận âm nhưng khác nghĩa hoặc đồng nghĩa nhưng khác âm với chữ được mượn. Khi đọc có thể đọc giống với âm đọc của chữ được mượn hoặc đọc chệch đi. Ví dụ:", "Ký tự đặc biệt.", "Có thể có nguồn gốc từ chữ \"\" (hựu) (có nghĩa là \"lại\") hoặc chữ \"\" (lại) (có nghĩa là \"quan lại\").#đổi Nó có tác dụng làm lặp lại âm tiết trong từ láy, tương tự như dấu \"々\" trong tiếng Nhật.", "Có thể có nguồn gốc từ chữ \"\" (cá) (có nghĩa là \"cái\"). #đổi Nó có tác dụng làm thay đổi âm đọc của chữ Hán từ âm Hán (được coi là cách phát âm đúng của chữ Hán, tương tự Go-on và Kan-on tiếng Nhật) thành âm Nôm (cách phát âm sai của chữ Hán, tương tự Kan'yō-on tiếng Nhật).", "Kiểu viết.", "Cũng giống như các kiểu chữ của tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Nhật, chữ Nôm là dạng ký tự mà mỗi chữ chỉ cần viết trong một phạm vi ô vuông không đổi, nên vừa có thể viết dọc kiểu truyền thống và viết ngang kiểu phương tây.", "Viết dọc.", "Kiểu viết dọc truyền thống Đông Á gọi là \"Tung Thư\" (縱書), viết từ trên xuống dưới, hàng đọc từ phải sang trái, là kiểu viết mà người Việt xưa sử dụng. Có thể thấy ở các văn bản hay di tích cổ xưa như Bia tiến sĩ, Truyện Kiều bản gốc... hay các biển hiệu xưa như \"Văn Miếu Môn\" (dựng ngang nên viết từ phải sang trái)\".\" Kiểu viết này giống kiểu viết của tiếng Nhật trong manga (nguyên nhân chính khiến manga có bản quyền ở Việt Nam đọc từ phải sang trái) và truyện chữ như light novel. Một bộ sớ cầu siêu rất dài bằng chữ Nôm được viết năm 1953 được tìm thấy ở Kon Tum, cho thấy rõ kiểu viết này.", "Tuy nhiên vì đứt gãy với văn hóa cổ cũng như quen đọc viết chữ Quốc ngữ, nhiều người Việt Nam hiện nay không hiểu rõ kiểu viết truyền thống này, nên khi viết dọc cho chữ Hán và chữ Nôm lại hay xếp ngược hàng từ trái sang phải.", "Lợi điểm của kiểu viết dọc cho chữ Nôm là không chiếm nhiều diện tích ngang nên dễ treo câu đối hay biển hiệu (vì mô men trọng lực ít); không cần phải xoay chữ hay tách chữ (điều mà chữ Quốc ngữ bắt buộc phải làm nếu muốn viết dọc); và do kích thước vuông cố định, chữ Nôm khi viết dọc sẽ thẳng đều hai bên và đẹp hơn chữ Quốc ngữ, khi số lượng và kích cỡ ký tự latinh trong mỗi từ là khác nhau nên chắc chắn sẽ bị lệch hàng.", "Viết ngang.", "Kiểu viết ngang gọi là \"Hoành Thư\" (橫書), viết từ trái sang phải, hàng xếp từ trên xuống dưới, giống như kiểu viết của chữ Quốc ngữ. Đây là kiểu viết du nhập từ kiểu viết chữ Latin của phương tây.", "Dấu chấm câu trong văn bản chữ Nôm cổ.", "Thư tịch tiếng Hán và tiếng Việt viết bằng chữ Nôm thời xưa thường không có dấu chấm câu. Nếu trong sách in có dấu chấm câu thì thường là do người đọc sách viết thêm vào. Trong văn bản, ở những chữ nào mà người xưa cảm thấy cần phải dừng lại một chút khi đọc đến chữ đó thì chữ đó cùng những chữ đứng trước nó được xem là một “câu” 句. “Câu” theo quan niệm thời xưa nhiều khi không xem được là câu theo quan niệm về câu thời nay. Việc thêm ký hiệu vào trong văn bản để chỉ ra ranh giới của các “câu” gọi là \"chấm câu\" 點句. Việc chấm câu cho sách gọi là \"chấm sách\" 點冊.", "Hai loại dấu chấm câu thường dùng trong thư tịch cổ tiếng Hán và tiếng Việt viết bằng chữ Nôm là vòng “。” và dấu chấm “、”. Khi vòng và dấu chấm được dùng cùng nhau để chấm câu thì vòng được dùng tương tự như dấu chấm “.” trong chữ Quốc ngữ, dấu chấm “、” được dùng tương tự như dấu phẩy “,” trong chữ Quốc ngữ. Cũng có khi chỉ có vòng “。” hoặc dấu chấm “、” được dùng để chấm câu. Việc chấm câu bằng vòng gọi là \"vòng câu\" 𥿺句. Trong thư tịch cổ tiếng Việt viết bằng chữ Hán và chữ Nôm, chữ được viết kiểu Tung Thư (viết dọc từ phải sang trái) chứ không viết theo hàng ngang như chữ Latinh, vòng và dấu chấm thường nằm ngoài hàng chữ, bên phải chữ cuối cùng của “câu”.", "Chuẩn hóa.", "Năm 1867, nhà cải cách Nguyễn Trường Tộ đã đề xuất chuẩn hóa chữ Nôm (cùng với việc bãi bỏ Hán văn), nhưng hệ thống mới mà ông gọi là Quốc âm Hán tự (國音漢字) đã bị vua Tự Đức bác bỏ.", "Năm 2022, Ủy ban Phục sinh Hán Nôm Việt Nam đã công bố Bảng chữ Hán Nôm Chuẩn Thường dùng, với tổng số 5.524 ký tự chuẩn, chiếm khoảng 98% lượng sử dụng hàng ngày của tiếng Việt hiện đại.", "Ưu và nhược điểm.", "Nhược điểm.", "Được tạo ra dựa trên chữ Hán, các bộ thủ, âm đọc và nghĩa từ vựng trong tiếng Việt, do vậy chữ Nôm không phải là bộ chữ đơn giản cho người mới học (không tính trẻ em học vỡ lòng).", "Với việc viết chữ, nếu đã quen các nét và cách viết chữ Hán (ít nhất là Hành thư hoặc Khải thư), việc viết chữ Nôm không phải là điều khó khăn. Tuy nhiên sẽ cần phải lưu ý kích thước các nét chữ do chữ Nôm thường nhiều nét hơn chữ Hán, nên nếu không định lượng được kích thước nét chữ, sẽ dễ làm cho chữ Nôm to hơn so với chữ Hán cùng dòng. Điều này đặc biệt quan trọng trong việc khai triển thư pháp, đảm bảo tính mỹ thuật.", "Với việc đọc hiểu, về cơ bản để đọc được chữ Nôm thì đòi hỏi người đọc phải có sự hiểu biết chữ Hán và vốn từ vựng tiếng Việt ở một mức độ nhất định. Am hiểu chữ Hán về nghĩa và âm Hán-Việt sẽ giúp ghi nhớ và đọc hiểu chữ Nôm dễ hơn.", "Hệ chữ Nôm cũng không có sự thống nhất do chưa được quan tâm chuẩn hoá toàn diện: có thể có nhiều chữ dùng để ghi cùng một âm tiết, hoặc ngược lại, một chữ có thể có nhiều cách đọc khác nhau. Tình trạng này còn do \"tam sao thất bản\", phần vì trình độ người thợ khắc chữ ngày xưa, phần vì khâu in mộc bản có chất lượng không cao (chữ bị nhòe, mất nét). Do đó có người nói \"chữ Nôm phải vừa đọc vừa đoán\", \"nôm na là cha mách qué\".", "Về mặt ngữ âm thì số âm tiết của tiếng Việt nhiều hơn số âm tiết của âm Hán Việt của chữ Hán nên người viết phải dùng dấu nháy [»] hoặc chữ khẩu [口] đặt cạnh một chữ để biểu thị những chữ cận âm. Người đọc vì vậy phải giỏi mà đoán cho trúng âm, khiến chữ Nôm khá khó đọc.", "Ưu điểm.", "Tuy không tiện dụng như chữ Quốc ngữ (chữ Latinh) về khả năng viết và phát âm, chữ Nôm cũng có ưu điểm riêng mà chữ Quốc ngữ không thể có được:", "Chữ Nôm của các dân tộc khác.", "Ở Việt Nam, không chỉ có dân tộc Kinh chế tạo ra chữ Nôm, một vài dân tộc thiểu số khác như Tày, Dao...và cả người Tráng ở Trung Quốc cũng tạo ra chữ Nôm dựa trên chữ Hán để lưu lại ngôn ngữ của họ.", "Chữ Nôm Tày.", "Chữ Nôm Tày là một sáng tạo tập thể của nhiều thế hệ trí thức người Tày, được ra đời từ khoảng thế kỷ XV - XVI, phát triển mạnh trong thời kỳ nhà Mạc cát cứ ở Cao Bằng và tồn tại cho đến ngày nay. Cũng như những dân tộc khác hiện đang sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, cư dân Tày Bắc Kạn từ lâu đời đã biết sử dụng hệ thống ký tự chữ Hán để ghi âm tiếng Tày và được các nhà nghiên cứu gọi là chữ Nôm Tày.", "Về loại hình, chữ Nôm Tày là chữ khối vuông, thuộc thể loại chữ tượng hình, kế tục và phát triển từ chữ Hán của dân tộc Hán ở phương Bắc. Là thể chữ tượng hình, chữ khối vuông nên trong cách viết, chữ Nôm Tày cũng phải tuân thủ trình tự, cách thức viết chữ của chữ Hán đó là: Trên trước, dưới sau; trong trước, ngoài sau; trái trước, phải sau; viết từ trái sang phải, từ trên xuống dưới (theo hàng dọc); sử dụng bộ thủ chữ Hán để nhận biết ngữ nghĩa, mặt chữ.", "Chữ Nôm Ngạn.", "Người Ngạn là một nhóm cư dân ở tỉnh Cao Bằng được xếp vào nhóm dân tộc Tày nhưng về mặt ngôn ngữ thì gần với người Giáy, từng sử dụng chữ Nôm Ngạn trộn với chữ Hán trong các bài \"mo\" (khấn cúng).", "\"Chữ Nôm\" của các nước khác.", "Do 喃 \"nôm\" = 口 \"khẩu\" + 南 \"nam\" nên chữ \"喃 \"nôm\"\" trong tên gọi \"chữ Nôm\" thường được hiểu với ý nghĩa là \"ngôn ngữ của người Nam\". Tuy nhiên, nếu mở rộng khái niệm \"chữ nôm\" ra cho tất cả các hệ chữ được sáng tạo dựa trên chữ Hán thì có người còn gọi những chữ được các dân tộc phương bắc như Nhật Bản, Triều Tiên là \"chữ nôm Nhật\", \"chữ nôm Triều\", hay gọi những hệ thống chữ của các dân tộc thuộc Trung Quốc như Tráng, Đồng, v.v. là \"chữ nôm Choang\", \"chữ nôm Đồng\", v.v.", "Tuy nhiên, cũng nên phân biệt những \"chữ nôm\" này với những bộ chữ biểu âm như Kana và Hangul trong tiếng Nhật và tiếng Hàn hiện đại.", "Bộ gõ chữ Nôm và chữ Hán bằng chữ Quốc ngữ.", "Có nhiều phần mềm máy tính tạo ra ký tự chữ Nôm và chữ Hán bằng cách gõ chữ Quốc ngữ.", "Phông chữ Nôm nằm trong cơ sở dữ liệu Unihan. VietUnicode là phông Unicode chứa các ký tự chữ Nôm. Nó là một dự án trên SourceForge . Phông TrueType có thể tải về từ .", "Một số từ điển chữ Nôm trên mạng Internet có Từ điển ở Viện Việt học (tiếng Việt) Nom character index (Tiếng Anh)." ]
883
4
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=883
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
[]
887
892526
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=887
Tháng 2 năm 2004
[]
889
859116
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=889
19 tháng 3
[ "Ngày 19 tháng 3 là ngày thứ 78 trong mỗi năm thường (ngày thứ 79 trong mỗi năm nhuận). Còn 287 ngày nữa trong năm." ]
891
912544
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=891
20 tháng 3
[ "Ngày 20 tháng 3 là ngày thứ 79 trong mỗi năm thường (ngày thứ 80 trong mỗi năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 286 ngày nữa trong năm. Đây cũng thường là ngày đầu của mùa xuân (xuân phân) ở Bắc Bán Cầu, và ngày đầu của mùa thu (thu phân) ở Nam Bán Cầu, do đó nó thường là ngày lễ truyền thống Norouz của người Iran ở nhiều quốc gia." ]
892
763210
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=892
21 tháng 3
[ "Ngày 21 tháng 3 là ngày thứ 80 trong mỗi năm thường (ngày thứ 81 trong mỗi năm nhuận). Còn 285 ngày nữa trong năm." ]
893
855455
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=893
22 tháng 3
[ "Ngày 22 tháng 3 là ngày thứ 81 trong mỗi năm thường (ngày thứ 82 trong mỗi năm nhuận). Còn 284 ngày nữa trong năm." ]
894
69269367
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=894
Tháng ba
[ " ", "Tháng ba là tháng thứ ba theo Lịch Gregorius, với 31 ngày.", "Xem thêm.", "Các tháng trong năm (dương lịch)", "tháng một |", "tháng hai |", "tháng ba |", "tháng tư |", "tháng năm |", "tháng sáu |", "tháng bảy |", "tháng tám |", "tháng chín |", "tháng mười |", "tháng mười một |", "tháng mười hai", "Tham khảo.", " " ]
895
715442
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=895
23 tháng 3
[ "Ngày 23 tháng 3 là ngày thứ 82 trong mỗi năm thường (ngày thứ 83 trong mỗi năm nhuận). Còn 283 ngày nữa trong năm." ]
901
70410521
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=901
24 tháng 3
[ "Ngày 24 tháng 3 là ngày thứ 83 trong mỗi năm thường (ngày thứ 84 trong mỗi năm nhuận)trong lịch Gregory. Còn 282 ngày nữa trong năm." ]
903
529523
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=903
Vương quốc Anh (1707–1800)
[ "Vương quốc Anh () là một phần của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland nằm hoàn toàn trên Đảo Anh (\"Great Britain\"). Vương quốc Anh, do đó, bao gồm ba nước (country) là Anh (\"England\"), Scotland, Wales, với lại những quần đảo Scilly, Hebride, Orkney và Shetland, nhưng không bao gồm Đảo Man hoặc Quần đảo Eo biển (\"Channel Islands\").", "Giữa những năm 1707 – 1800 nó là vương quốc ở Tây Âu đóng đô ở Luân Đôn. Nó được thành lập do Đạo luật Liên hiệp năm 1707 và được thay bởi Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland năm 1801 khi Vương quốc Ireland bị sáp nhập vào do Đạo luật Liên hiệp năm 1800, sau cuộc nổi loạn Ireland năm 1798 bị đàn áp.", "Từ nguyên.", "Tên này bắt nguồn từ tiếng Latinh của Vương quốc Anh, \"Britannia\" hoặc \"Brittānia\", vùng đất của người Anh thông qua tiếng Pháp cổ là \"Bretaigne\" (tiếng Pháp hiện đại là \"Brittany\") và Tiếng Anh trung cổ là \"Bretayne, Breteyne\". Thuật ngữ \"Vương quốc Anh\" lần đầu tiên được sử dụng chính thức vào năm 1474.", "Trước \"Britain\", việc sử dụng từ \"Great\" có nguồn gốc từ tiếng Pháp và \"Bretagne\" đã được sử dụng ở cả \"Britain\" và \"Brittany\". Do đó, người Pháp đã phân biệt hai loại này và gọi của Anh là \"la Grande Bretagne\", và sự khác biệt này sau đó được phản ánh bằng tiếng Anh.", "Lịch sử.", "Anh trước thế kỷ 18 và sau năm 1707 đã trở thành một cường quốc thực dân có ảnh hưởng thế giới và là đối thủ chính của Pháp trong cuộc cạnh tranh thuộc địa. Sau năm 1707, các thuộc địa hải ngoại của Anh mở rộng nhanh chóng ở châu Mỹ, Phi và Ấn Độ, và sớm trở thành trụ cột của nền kinh tế và dân số của Đế quốc Anh.", "Thống nhất.", "Sự hợp nhất chính trị của vương quốc là một chính sách quốc gia quan trọng của Nữ vương Anne, khiến triều đại Stuart của hai vương quốc trước đây trở thành triều đại đầu tiên của Vương quốc Liên hiệp Anh. Năm 1706, Đạo luật Liên minh đã diễn ra suôn sẻ trong các cuộc đàm phán giữa Quốc hội Anh và Scotland, và sau đó hai quốc hội từng phê chuẩn hiệp ước thông qua các dự luật riêng biệt. Đạo luật có hiệu lực vào ngày 1 tháng 5 năm 1707, khi các quốc hội độc lập của Anh và Scotland sáp nhập để tạo thành một Vương quốc Anh thống nhất. Nữ hoàng Anne trở thành Nữ hoàng đầu tiên của Vương quốc Liên hiệp Anh. Scotland đã gửi 45 nghị sĩ tham gia Quốc hội mới của Anh cùng với tất cả các nghị sĩ Anh.", "Đệ Nhất Đế quốc.", "Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha.", "Vào ngày 1 tháng 11 năm 1700, Carlos II của Habsburg thuộc Tây Ban Nha băng hà, trong di chúc của mình, ông đã để lại danh hiệu vua Tây Ban Nha cho cháu trai của vua Pháp, Công tước Philipe V của Anjo, và cầu hôn với một phụ nữ Pháp. Triển vọng thống nhất với Tây Ban Nha và các thuộc địa của nó. Điều này là không thể chấp nhận được đối với các cường quốc châu Âu khác. Nhà Habsburg của Áo tin rằng ngai vàng Tây Ban Nha nên được thừa kế bởi Charles VI của Pháp, người cũng là người thuộc gia tộc Habsburg, và tích cực tìm kiếm đồng minh để tuyên chiến với Pháp. Năm 1701, chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha nổ ra và Vương quốc Anh, Bồ Đào Nha và Cộng hòa Hà Lan đứng về phía Đế quốc La Mã Thần thánh, chiến đấu chống lại Tây Ban Nha và Pháp. Năm 1707, Anh và Scotland sáp nhập vào Vương quốc Liên hiệp Anh và vẫn còn trong chiến tranh. Cho đến năm 1714, Pháp và Tây Ban Nha đã đánh bại và ký Hiệp ước Utrecht, Philip V từ bỏ quyền của con cháu ông và ngai vàng của mình và Tây Ban Nha mất vị thế trong các đế quốc tại châu Âu. Mặc dù Tây Ban Nha vẫn duy trì các thuộc địa lớn của mình ở châu Mỹ và Philippines, nhưng cuộc chiến đã làm suy yếu đáng kể sức mạnh quốc gia của Tây Ban Nha. Và Đế quốc mới của Anh đã mở rộng lãnh thổ của mình kể từ năm 1707, với việc Anh chiếm Newfoundland và Arcadia từ Pháp và đã giành được Gibraltar và Menorca từ Tây Ban Nha. Do đó, Gibraltar đã trở thành một căn cứ hải quân quan trọng cho Vương quốc Anh và tiếp tục cho đến ngày nay, cho phép Vương quốc Anh kiểm soát kênh quan trọng giữa Địa Trung Hải và Đại Tây Dương, Eo biển Gibraltar.", "Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha.", "Vào ngày 1 tháng 11 năm 1700, Carlos II của Tây Ban Nha qua đời, trong di chúc của mình, ông để lại tước hiệu vua Tây Ban Nha cho cháu trai của vua Pháp, Felipe V, Công tước xứ Anjou, đề xuất triển vọng thống nhất hai nước. Pháp với Tây Ban Nha và các thuộc địa của nó. Điều này không được các cường quốc châu Âu khác chấp nhận, triều đại Habsburg của Áo cho rằng ngai vàng của Tây Ban Nha nên được Đại công tước Karl VI của Áo, cũng là người thuộc hoàng tộc Habsburg, kế thừa, do đó tích cực tìm kiếm đồng minh để tuyên chiến với Pháp. Năm 1701, Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha bùng nổ, Vương quốc Anh, Bồ Đào Nha và Cộng hòa Hà Lan đứng về phía Thánh chế La Mã chống lại Tây Ban Nha và Vương quốc Pháp. Năm 1707, Anh và Scotland sáp nhập vào Vương quốc Anh và vẫn trong tình trạng chiến tranh. Cho đến năm 1714, Pháp và Tây Ban Nha bị đánh bại và ký Hòa ước Utrecht, Felipe V từ bỏ quyền kế vị ngai vàng của mình và con cháu, Tây Ban Nha mất vị trí trong đế quốc châu Âu. Mặc dù Tây Ban Nha vẫn duy trì các thuộc địa rộng lớn của mình ở châu Mỹ và Philippines, nhưng cuộc chiến đã làm suy yếu sức mạnh quốc gia của Tây Ban Nha một cách không thể đảo ngược và đáng kể. Đế quốc Anh mới tiếp tục mở rộng lãnh thổ sau năm 1707, chiếm Newfoundland và Acadia từ Pháp, Gibraltar và Menorca từ Tây Ban Nha. Do đó, Gibraltar đã trở thành một căn cứ hải quân quan trọng của Anh và tiếp tục cho đến ngày nay, trao cho Anh quyền kiểm soát Eo biển Gibraltar, một tuyến đường thủy quan trọng giữa Địa Trung Hải và Đại Tây Dương.", "Chiến tranh Bảy năm.", "Chiến tranh kéo dài 7 năm bắt đầu vào năm 1756 là cuộc chiến đầu tiên trong lịch sử lan rộng trên toàn cầu. Anh chiến đấu ở châu Âu, Ấn Độ, Bắc Mỹ, Caribe, Quần đảo Philippine và bờ biển châu Phi. Năm 1763, Pháp lại bị đánh bại và Hiệp định Paris mà họ ký kết là một biểu tượng quan trọng của cuộc diễu hành của Anh tới Đế quốc Anh. Trong hợp đồng, lãnh thổ rộng lớn của Pháp ở Bắc Mỹ, Tân Pháp, đã được nhượng lại cho Vương quốc Anh, bao gồm một khu vực tập trung nhiều người nói tiếng Pháp và Tây Ban Nha nhượng Florida cho Vương quốc Anh. Kết quả là, Anh đánh bại Pháp trong cuộc đấu tranh thuộc địa và trở thành lực lượng thực dân thống trị trên thế giới." ]
907
849929
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=907
25 tháng 3
[ "Ngày 25 tháng 3 là ngày thứ 84 trong mỗi năm thường (ngày thứ 85 trong mỗi năm nhuận). Còn 281 ngày nữa trong năm.", "Tham khảo.", "[[Thể loại:Tháng ba]]", "[[Thể loại:Ngày trong năm]]" ]
910
4
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=910
Trang Cộng Đồng
[]
914
699065
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=914
26 tháng 3
[ "Ngày 26 tháng 3 là ngày thứ 85 trong mỗi năm thường (ngày thứ 86 trong mỗi năm nhuận). Còn 280 ngày nữa trong năm." ]
917
715442
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=917
27 tháng 3
[ "Ngày 27 tháng 3 là ngày thứ 86 trong mỗi năm thường (ngày thứ 87 trong mỗi năm nhuận). Còn 279 ngày nữa trong năm." ]
920
874327
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=920
28 tháng 3
[ "Ngày 28 tháng 3 là ngày thứ 87 trong mỗi năm thường (ngày thứ 88 trong mỗi năm nhuận). Còn 278 ngày nữa trong năm." ]
924
529523
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=924
29 tháng 3
[ "Ngày 29 tháng 3 là ngày thứ 88 trong mỗi năm thường (ngày thứ 89 trong mỗi năm nhuận). Còn 277 ngày nữa trong năm.", "Ngày lễ và kỷ niệm.", "Ngày 29 tháng 3 hằng năm là ngày Giải phóng thành phố Đà Nẵng" ]
925
70554882
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=925
Chủ nhật
[ "Chủ nhật (Hán Nôm: 主日 CN: 星期日/星期天 JA: 日曜日 EN: Sunday) hay còn gọi Chúa nhật (cách gọi thời xưa trong tiếng Việt là \"Chúa nhựt\") là một ngày trong tuần. Ngày chủ nhật cùng ngày Thứ Bảy được gọi chung là ngày cuối tuần.", "Hầu hết tín đồ Kitô giáo gọi là ngày \"Chúa nhật\", có nghĩa là \"Ngày của Chúa (Lord's Day),\" là ngày Chúa Kitô phục sinh, ngày đi lễ và nghỉ ngơi. Các nước như Hoa Kỳ, Canada, Trung Quốc, Nhật Bản, Philippines cũng như các nước Nam Mỹ gọi ngày Chúa nhật là ngày đầu tuần. Theo lịch Do Thái và các lịch truyền thống (bao gồm các lịch Thiên Chúa giáo), Chúa nhật là ngày đầu tiên trong tuần. Hội Tôn giáo Tín hữu xem ngày Chúa nhật là \"ngày đầu tiên\" hợp với các lời chứng về sự đơn giản của họ.", "Từ nguyên.", "Chủ nhật hay Chúa nhật đều là phát âm của một từ 主日 Hán Nôm. Chủ là âm Hán Việt, Chúa là âm Nôm. Cả hai âm chủ và chúa là hai âm khác nhau của một danh từ 主 nghĩa là \"người đứng đầu\". ", "Theo kinh điển Do Thái cổ, ngày thứ Bảy là ngày Sabát. Với những dân tộc không thuộc ảnh hưởng văn hóa Do Thái và Ki-tô giáo thì không có tên riêng cho những ngày trong tuần lễ. Khi các giáo sĩ Âu châu sang Viễn Đông dùng tiếng Việt truyền đạo thì đặt \"ngày Sabát,\" tức ngày thứ bảy của tuần lễ theo thứ tự số đếm của ngôn ngữ gốc. Vì giáo sĩ người Bồ Đào Nha đi tiên phong nên tên đặt cho bảy ngày của tiếng Việt cũng theo lối gọi của tiếng Bồ.", "Một số ngôn ngữ châu Âu đặt tên bảy ngày trong tuần theo nguồn gốc xa xưa hơn nữa, có từ trước khi Ki-tô giáo du nhập. Trong khi đó các giáo hội Chính Thống giáo Đông phương phân biệt ngày Sabát (thứ Bảy) và ngày của Chúa (Chủ nhật). Đối với Công giáo Rôma thì không đặt nặng việc phân biệt này nên nhiều tín hữu theo — nhất là trong ngôn ngữ thường ngày — gọi ngày Chủ nhật là ngày Sabát. Giáo hội Tin Lành cũng vậy.", "Tiếng Trung gọi ngày này là \"Tinh kỳ Nhật\" (chữ hán: 星期日) nghĩa là \"kỳ sao mặt trời\". Tiếng Nhật và Hàn thì ngày này gọi là \"Nhật Diệu Nhật\" (Kanji/Hanja: 日曜日, Kana: にちようび - nichi yōbi, Hangeul: 일요일 - il yo il), có nghĩa là \"ngày Nhật Diệu\" hay \"ngày Mặt Trời\".", "Vai trò của ngày Chủ nhật.", "Theo quy định của Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO), ngày Chủ nhật là ngày cuối cùng của một tuần. Việt Nam và đa số các nước trên thế giới đều theo chuẩn này. Ở một số quốc gia khác như Hoa Kỳ, Chủ nhật lại là ngày đầu tiên của tuần. Theo truyền thống Do Thái cũng như Công giáo Rôma, ngày Chủ nhật được gọi là \"ngày bắt đầu\", vì thế nó được xem là ngày đầu tuần, trước thứ hai." ]
932
679363
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=932
Lá cờ Ohio
[ "Lá cờ Ohio là một cờ đuôi nheo (tiếng Anh: \"burgee\"), được chấp nhận vào năm 1902 và được vẽ bởi John Eisenmann cho Cuộc triển lãm Liên Mỹ (\"Pan-American Exposition\") năm 1901. Tam giác lớn màu xanh tượng trưng cho các đồi và thung lũng của Ohio, và năm sọc tượng trưng cho đường sá và đường sông. Mười bảy hình sao có nghĩa rằng Ohio là tiểu bang thứ 17 được gia nhập vào liên bang. Hình tròn màu trắng với tâm vòng tròn màu đỏ không chỉ là chữ đầu tiên trong tên của tiểu bang này, mà cũng miêu tả cây mắt nai (\"buckeye\"), cây chính thức của Ohio có trong tên hiệu \"tiểu bang cây mắt nai\".", "Đây là cờ tiểu bang duy nhất ở nước Mỹ không theo hình chữ nhật, và là một trong hai cờ chính phủ cấp tiểu bang trở lên trên thế giới (cờ kia là Quốc kỳ Nepal). Nó dựa tí trên những cờ kỵ binh trong Nội chiến Mỹ và Chiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ." ]
938
69870801
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=938
Tháng tư
[ "Tháng tư là tháng thứ tư theo lịch Gregorius, có 30 ngày.", "Những sự kiện trong tháng 4.", "Tháng 4 bắt đầu cùng một ngày trong tuần với tháng 7 trong bất kỳ năm nào và cùng ngày trong tuần với tháng 1 trong những năm nhuận.", "Văn hóa về tháng 4.", "Những bài hát về tháng 4:", "\"Your lie in april\" đều là tên của anime và manga", "Xem thêm.", "Các tháng trong năm (dương lịch)", "tháng một |", "tháng hai |", "tháng ba |", "tháng tư |", "tháng năm |", "tháng sáu |", "tháng bảy |", "tháng tám |", "tháng chín |", "tháng mười |", "tháng mười một |", "tháng mười hai" ]
939
630332
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=939
3 tháng 4
[ "Ngày 3 tháng 4 là ngày thứ 93 trong mỗi năm thường (ngày thứ 94 trong mỗi năm nhuận). Còn 272 ngày nữa trong năm." ]
940
4
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=940
03 tháng 4
[]
941
4
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=941
3 tháng 04
[]
942
4
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=942
03 tháng 04
[]
943
860412
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=943
4 tháng 4
[ " ", "Ngày 4 tháng 4 là ngày thứ 94 trong mỗi năm thường (ngày thứ 95 trong mỗi năm nhuận). Còn 271 ngày nữa trong năm." ]
953
11
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=953
Chúa nhật
[]
954
399717
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=954
5 tháng 4
[ " ", "Ngày 5 tháng 4 là ngày thứ 95 trong mỗi năm thường (ngày thứ 96 trong mỗi năm nhuận). Còn 270 ngày nữa trong năm." ]
955
715442
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=955
Tháng 3 năm 2004
[ "2004: Tháng 1 - tháng 2 - tháng 3 - tháng 4 - tháng 5 - tháng 6 - tháng 7 - tháng 8 - tháng 9 - tháng 10 - tháng 11 - tháng 12", "Sự kiện qua theo tháng.", "2004: Tháng 2 - tháng 2", "Tính chất đúng lúc về thời sự theo đường loga" ]
958
537720
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=958
VN
[ "VN hay Vn có thể là:", "<templatestyles src=\"Dmbox/styles.css\" />", " Trang này liệt kê những bài viết liên quan đến tiêu đề ." ]
959
96878
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=959
TPHCM
[]
961
918586
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=961
Bách khoa toàn thư
[ " ", "Bách khoa toàn thư là bộ sách tra cứu về nhiều lĩnh vực kiến thức nhân loại. Bách khoa toàn thư là bộ sách tra cứu kiến thức tổng quát trên nhiều lĩnh vực kiến thức khác nhau (ví dụ \"Encyclopædia Britannica\" bằng tiếng Anh và \"Brockhaus\" bằng tiếng Đức là những bộ khá nổi tiếng), hoặc có thể là bộ sách tra cứu chuyên sâu về một lĩnh vực nào đó (ví dụ như bách khoa toàn thư về y học, triết học, hoặc luật). Cũng có những bộ bách khoa toàn thư đề cập đến nhiều chủ đề khác nhau trên một góc độ văn hóa, sắc tộc, hay quốc gia nhất định, ví dụ như bộ \"Đại Bách khoa thư Xô Viết. Tên gọi của bách khoa toàn thư trong tiếng Anh \"encyclopedia\" bắt nguồn từ từ\" tiếng Hy Lạp cổ đại \"εγκύκλιος\" (có nghĩa là \"phổ biến rộng rãi\") \"và παιδεία\" (có nghĩa là \"giáo dục\")\",\" hàm nghĩa là \"kiến thức phổ thông/đại chúng\".", "Bách khoa toàn thư đã tồn tại khoảng 2.000 năm và đã phát triển đáng kể trong thời gian đó liên quan đến ngôn ngữ (được viết bằng ngôn ngữ quốc tế hoặc ngôn ngữ địa phương), kích thước (ít hoặc nhiều tập), ý định (trình bày kiến thức toàn cầu hoặc giới hạn), nhận thức văn hóa (có thẩm quyền, ý thức hệ, mô phạm, thực dụng), quyền tác giả (trình độ, phong cách), độc giả (trình độ học vấn, nền tảng, sở thích, khả năng) và các công nghệ có sẵn để sản xuất và phân phối (bản thảo viết tay, sách nhỏ hoặc sách in lớn, phổ biến internet). Là một nguồn thông tin đáng tin cậy được biên soạn bởi các chuyên gia, các phiên bản in của Bách khoa toàn thư luôn có một vị trí nổi bật trong các thư viện, trường học và các tổ chức giáo dục khác.", "Có hai phương pháp chính xây dựng bách khoa toàn thư: phương pháp trong đó các mục từ được sắp xếp theo thứ tự trong bảng chữ cái, hoặc phương pháp theo thể loại chủ đề . Phương pháp đầu là phổ biến nhất, đặc biệt đối với những bộ trình bày kiến thức phổ thông.", "Những công trình bách khoa toàn thư đầu tiên.", "Ý tưởng tập hợp mọi kiến thức của thế giới vào trong tầm tay tại một nơi nhất định có từ thời Thư viện Alexandria và Pergamon cổ đại. Nhiều tác giả thời cổ đại (như Aristotle) đã cố gắng tập hợp lại toàn bộ kiến thức của nhân loại. Một trong những soạn giả bách khoa thư cổ đáng chú ý nhất là Pliny già (thế kỷ thứ nhất Công nguyên) đã viết bộ \"Naturalis historia\" (Lịch sử tự nhiên), gồm 37 tập về thế giới tự nhiên và trở nên cực kỳ phổ biến ở Tây Âu trong suốt thời kỳ Trung cổ.", "Hoàng đế Trung Quốc Thành Tổ nhà Minh đã trực tiếp trông coi việc biên soạn bộ Vĩnh Lạc đại điển (永樂大典), là một trong những bộ bách khoa thư lớn nhất trong lịch sử, được hoàn thành vào năm 1408 và bao gồm hơn 11.000 tập viết tay, trong số đó chỉ có 400 tập còn tồn tại đến ngày nay.", "Trong triều đại tiếp theo, hoàng đế Trung Quốc Càn Long nhà Thanh đã sáng tác 40.000 bài thơ rồi đưa vào trong một thư viện 4 khu với 4,7 triệu trang viết cùng với hàng ngàn bài luận. Bộ Tứ khố toàn thư (四庫全書) có thể sánh với bách khoa thư kiểu phương Tây.", "Việc biên soạn kiến thức Hồi giáo thời kỳ đầu vào thời Trung cổ đã tạo ra nhiều công trình toàn diện, và có một số đóng góp mà ngày nay chúng ta gọi là phương pháp khoa học, phương pháp lịch sử và phương pháp trích dẫn. Những công trình đáng kể bao gồm bách khoa thư khoa học của Abu Bakr al-Raziel, bộ Mutazilite gồm 270 quyển rất phong phú về nội dung của Al-Kindi, và bách khoa thư y học của Ibn Sina là một công trình tham khảo có giá trị hàng thế kỷ. Cũng phải kể tới các tác phẩm về lịch sử vạn vật (hay còn gọi là xã hội học) của Asharites, al-Tabri, al-Masudi, Ibn Rustah, al-Athir và Ibn Khaldun, trong đó bộ Muqadimmah đề cao nguyên tắc mà ngày nay hoàn toàn tiếp tục được áp dụng, đó là phải luôn luôn thận trọng kiểm chứng mọi kết luận trong các bài viết. Những học giả này có một ảnh hưởng đáng kể đối với các phương pháp nghiên cứu và biên soạn, một phần do thông lệ isnad của Hồi giáo nhấn mạnh sự trung thực so với bài viết gốc, cũng như việc kiểm chứng nguồn tham khảo, và việc luôn đặt lại vấn đề khi nghiên cứu.", "Bách khoa thư hiện đại.", "Ý tưởng hiện đại về việc xây dựng các bộ bách khoa thư dưới dạng in, đa dụng và phân phối rộng rãi xuất hiện ngay trước thời Denis Diderot và các soạn giả bách khoa thư thế kỷ thứ 18.", "Mặc dù John Harris được coi là người đã định khổ sách mà ngày nay đã trở nên phổ biến cho bách khoa thư từ năm 1704 với bộ \"Lexicon technicum\", thực tế ngay từ năm 1646, thầy thuốc và triết gia người Anh Thomas Browne đã đặc biệt dùng từ \"encyclopaedia\" trong lời tựa cho tác phẩm của mình là \"Pseudodoxia Epidemica\" hay \"Vulgar Errors\" (Các lỗi thông thường). Browne đã cấu trúc bách khoa thư của mình dựa trên lược đồ có tiếng một thời của thời kỳ Phục hưng, lược đồ này gọi nôm na là 'nấc sáng tạo' tức là theo như kiểu leo bậc thang từ thế giới khoáng vật đến thế giới thực vật, động vật, con người, hành tinh và cuối cùng là thế giới vũ trụ. Bộ sách tập hợp những lỗi thông thường vào thời đó được Browne liệt kê đã trở thành bách khoa thư gia đình phổ biến đầu tiên ở Anh. Sự phổ biến của nó được khẳng định thông qua việc nó được tái bản ít nhất là năm lần, mỗi lần đều có sửa chữa và bổ sung, lần xuất bản cuối cùng là vào năm 1672. \"Pseudodoxia Epidemica\" cũng xuất hiện trong tủ sách của nhiều học giả châu Âu trong suốt cuối thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18. Nó được dịch sang tiếng Pháp, tiếng Hà Lan và tiếng Đức cũng như tiếng La tinh. Vì vậy nó được coi là những cuốn sách hữu dụng nhất cho người đọc.", "Ephraim Chambers xuất bản tác phẩm \"Cyclopaedia\" vào năm 1723. Bản dịch tiếng Pháp của nó trở thành nguồn cảm hứng cho việc ra đời bộ \"Encyclopédie\", có lẽ là bách khoa thư sớm đạt được thành công nhất, do Jean le Rond d'Alembert và Denis Diderot biên soạn và hoàn thành vào năm 1772 bao gồm 28 tập, 71.818 đề mục, 2.885 hình minh họa. Bộ \"Encyclopædia Britannica\" nổi tiếng xuất hiện một cách khiêm tốn lúc ban đầu ở Scotland: từ năm 1768 đến 1797 chỉ có ba ấn bản.", "Những năm đầu của thế kỷ 19 chứng kiến sự thăng hoa của các bách khoa thư xuất bản ở Anh, châu Âu và Mỹ. Ở Anh bộ \"Rees's Cyclopaedia\" (1802–1819) chứa đựng một lượng thông tin khổng lồ về những cuộc cách mạng khoa học và công nghiệp thời kỳ đó. Điểm nổi bật của những ấn bản này là những hình minh họa chất lượng cao do những nhà chạm khắc như Wilson Lowry tạo ra, và các hình nghệ thuật do những chuyên gia như John Farey, Jr. phác họa. Nhiều bộ bách khoa thư xuất bản ở Scotland, là kết quả của thời kỳ Khai sáng Scotland, do nền giáo dục ở đây có chất lượng trung bình cao hơn hẳn những vùng còn lại ở Anh.", "\"Encyclopædia Britannica\" xuất hiện dưới nhiều ấn bản xuyên suốt thế kỷ, cùng với sự phát triển của giáo dục đại chúng và các học viện Mechanics Institutes ở Anh, Hiệp hội phổ biến kiến thức hữu dụng tiên phong cho ra đời các \"Penny Cyclopaedia\" (Bách khoa ba xu), tên này có nghĩa là các số được phát hành hằng tuần và với giá rẻ như báo chí thông thường.", "Vào thế kỷ thứ 20, \"Encyclopædia Britannica\" đạt đến lần tái bản thứ mười lăm, và những bách khoa thư giá rẻ như \"Bách khoa thư Harmsworth\" và \"Everyman's Encyclopaedia\" (Bách khoa thư cho mọi người) trở nên phổ biến.", "Gần đây có nhiều bách khoa toàn thư cũng được xuất bản trực tuyến, Wikipedia là một ví dụ.", "Bách khoa thư truyền thống thường được soạn bởi các soạn giả có trình độ hàn lâm. Tuy nhiên với Wikipedia thì lại khác, dự án này bắt đầu từ năm 2001 với mục đích là tạo ra một bách khoa thư mở đối với tất cả mọi người. Bất kỳ ai cũng đều có thể sửa chữa, bổ sung văn bản, hình ảnh và âm thanh trên đó. Nội dung của nó tuân theo giấy phép bản quyền công cộng (\"copyleft\") tự do (GFDL). Đến năm 2004 dự án đã có tổng cộng hơn một triệu mục từ với hơn 80 ngôn ngữ khác nhau.", "Việc biên soạn bách khoa thư.", "Cấu trúc phân cấp và bản chất luôn thay đổi của bách khoa thư đặc biệt thích hợp khi lưu trữ trên đĩa máy tính hoặc trực tuyến, và đến cuối thế kỷ thứ 20 phần lớn những bách khoa thư quan trọng đều chuyển sang những phương pháp lưu trữ này. Việc xuất bản trên đĩa (tiêu biểu là đĩa CD-ROM) có lợi thế là chi phí sản xuất rẻ và rất tiện mang đi lại. Ngoài ra, chúng có thể chứa đựng các phương tiện không thể có được trên bản in như hoạt hình, âm thanh, và video. Siêu liên kết giữa các mục có liên quan về mặt nội dung cũng là một lợi thế nữa. Các bách khoa thư trực tuyến có lợi thế ở điểm năng động: các thông tin mới cho vào có thể được xem ngay tức thì, mà không phải chờ đến khi ra ấn bản tĩnh (trong trường hợp in trên giấy hoặc đĩa).", "Thông tin trên một bách khoa thư in cần có một cấu trúc phân cấp nào đó, và thông thường thì các đề mục được sắp xếp theo thứ tự trong bảng chữ cái. Tuy nhiên với định dạng lưu trữ điện tử động, việc áp đặt một cấu trúc định sẵn là hoàn toàn không cần thiết. Thay vào đó, hầu hết các bách khoa thư điện tử cho phép sắp xếp các đề mục bằng nhiều cách khác nhau, kể cả theo chủ đề lẫn theo thứ tự trong bảng chữ cái.", "Danh sách các bách khoa thư.", "Những bách khoa thư được xuất bản từ năm 2000 trở đi.", "Trung Quốc đại bách khoa toàn thư.", "Trung Quốc đại bách khoa toàn thư gồm 80 quyển, mỗi quyển 1.200.000-1.500.000 chữ, phân quyển theo từng ngành khoa học, như \"Triết học\", \"Luật học\", \"Lực học\", \"Toán học\", \"Vật lý học\", \"Hoá học\", \"Thiên văn học\", vv." ]
966
529523
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=966
9 tháng 4
[ "Ngày 9 tháng 4 là ngày thứ 99 trong mỗi năm thường (ngày thứ 100 trong mỗi năm nhuận). Còn 266 ngày nữa trong năm." ]
967
69305489
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=967
10 tháng 4
[ "Ngày 10 tháng 4 là ngày thứ 100 trong mỗi năm thường (ngày thứ 101 trong mỗi năm nhuận). Còn 265 ngày nữa trong năm." ]
968
70424409
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=968
11 tháng 4
[ "Ngày 11 tháng 4 là ngày thứ 101 trong mỗi năm thường (ngày thứ 102 trong mỗi năm nhuận). Còn 264 ngày nữa trong năm." ]
974
70369008
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=974
12 tháng 4
[ "Ngày 12 tháng 4 là ngày thứ 102 trong mỗi năm thường (ngày thứ 103 trong mỗi năm nhuận). Còn 263 ngày nữa trong năm." ]
977
518426
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=977
13 tháng 4
[ "Ngày 13 tháng 4 là ngày thứ 103 trong mỗi năm thường (ngày thứ 104 trong mỗi năm nhuận). Còn 262 ngày nữa trong năm." ]
978
868407
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=978
14 tháng 4
[ "Ngày 14 tháng 4 là ngày thứ 104 trong lịch Gregory. Còn 261 ngày trong năm (262 ngày trong năm nhuận)." ]
980
812749
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=980
15 tháng 4
[ "Ngày 15 tháng 4 là ngày thứ 105 trong mỗi năm thường (ngày thứ 106 trong mỗi năm nhuận ). Còn 260 ngày nữa trong năm." ]
981
881427
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=981
Hóa học
[ "Hóa học (gọi tắt là hóa) là một nhánh của khoa học tự nhiên nhằm nghiên cứu về thành phần, cấu trúc, tính chất, và sự thay đổi của vật chất. Các chủ đề chính trong hóa học là nguyên tố, hợp chất, nguyên tử, phân tử, và các phản ứng hóa học.", "Hóa học đôi khi được gọi là \"khoa học trung tâm\" vì nó là cầu nối các ngành khoa học tự nhiên khác như vật lý học, địa chất học và sinh học.", "Từ nguyên.", "Tên gọi \"hóa học\" trong tiếng Việt khởi nguồn từ tiếng Trung 化學 có âm Hán Việt là \"hóa học\". Từ 化學 \"hóa học\" trong tiếng Trung là do William Alexander Parsons Martin đặt ra, xuất hiện lần đầu tiên trong quyển thứ sáu của bộ sách viết bằng văn ngôn của Martin có tên là 格物入門 \"Cách vật nhập môn\" do Kinh sư Đồng văn quán (京師同文館) xuất bản vào năm Đồng Trị thứ bảy (1868) thời nhà Thanh. 格物入門 \"Cách vật nhập môn\" được chia thành bảy quyển là 水學 \"Thủy học (nước)\", 氣學 \"Khí học (khí)\", 火學 \"Hỏa học (lửa)\", 電學 \"Điện học\", 力學 \"Lực học\", 化學 \"Hóa học\", 算學 \"Toán học\".", "Hóa học lần đầu được du nhập vào Việt Nam qua Nam Kỳ thuộc Pháp thời Đệ Nhị Đế chế Pháp và tiếp tục được giảng dạy sâu rộng ở miền Nam Việt Nam. Cho nên vẫn còn nhiều khái niệm hóa học của được kế thừa từ thời Nam Kỳ còn thuộc Pháp (axit từ acide, anđêhit từ aldehyde và cách sắp xếp các phần định chức trong hệ thống danh pháp...).", "Lịch sử.", "Hóa học phát triển từ giả kim thuật, đã được thực hành từ hàng ngàn năm trước như ở Trung Hoa, Châu Âu và Ấn Độ.", "Khoa giả kim thuật nghiên cứu về vật chất, nhưng thế giới của những nhà giả kim thuật đều dựa trên kinh nghiệm thực tế và công thức bắt nguồn từ thực hành chứ không dựa vào những nghiên cứu khoa học. Mục đích của họ là một chất gọi là \"Hòn đá triết học\" dùng để biến đổi những chất như chì thành vàng. Các nhà giả kim thuật đã tiến hành rất nhiều thí nghiệm để tìm ra chất này và qua đó họ đã phát triển nhiều dụng cụ mà ngày nay vẫn còn được sử dụng trong kỹ thuật hóa học.", "Tuy nhiên, không một nhà giả kim thuật nào tìm ra được hòn đá triết học và trong thế kỷ thứ 17, các phương pháp làm việc của khoa giả kim thuật được thay đổi bằng những phương pháp khoa học. Một phần kiến thức của các nhà giả kim thuật đang được sử dụng bởi các nhà hóa học, những người làm việc dựa vào kết luận hợp lý dựa trên những gì mà họ quan sát được chứ không dựa vào ý nghĩ biến hóa chì thành vàng.", "Lịch sử của hóa học có thể được coi như bắt đầu từ lúc Robert Boyle tách hóa học từ khoa giả kim thuật trong tác phẩm \"The Skeptical Chemist\" (Nhà hóa học hoài nghi) vào năm 1661 nhưng thường được đánh dấu bằng ngày Antoine Lavoisier tìm ra khí oxy vào năm 1783.", "Hóa học có bước phát triển mạnh và phân hóa vào thế kỷ 19. Những nghiên cứu của Justus von Liebig về tác động của phân bón đã thành lập ra ngành hóa học nông nghiệp và cung cấp nhiều nhận thức cho ngành hóa vô cơ. Cuộc tìm kiếm một hóa chất tổng hợp thay thế cho chất màu indigo dùng để nhuộm vải là bước khởi đầu của những phát triển vượt bậc cho ngành hóa hữu cơ và dược. Một đỉnh cao trong sự phát triển của ngành hóa học chính là phát minh bảng tuần hoàn nguyên tố của Dmitri Ivanovich Mendeleev và Lothar Meyer. Mendelev đã sử dụng quy luật của bảng tuần hoàn để tiên đoán trước sự tồn tại và tính chất của các nguyên tố germanium, gallium và scandium vào năm 1870. Gallium được tìm thấy vào năm 1875 và có những tính chất như Mendeleev đã tiên đoán trước.", "Nghiên cứu trong hóa học đã phát triển trong thời kỳ chuyển tiếp sang thế kỷ 20 đến mức các nghiên cứu sâu về cấu tạo nguyên tử đã không còn là lãnh vực của hóa học nữa mà thuộc về vật lý nguyên tử hay vật lý hạt nhân. Mặc dù vậy, các công trình nghiên cứu này đã mang lại nhiều nhận thức quan trọng về bản chất của sự biến đổi chất hóa học và của các liên kết hóa học. Các động lực quan trọng khác bắt nguồn từ những khám phá trong vật lý lượng tử thông qua mô hình quỹ đạo điện tử.", "Các nguyên lý nền tảng của hóa học hiện đại.", "Mô hình cấu trúc nguyên tử hiện tại là mô hình cơ học lượng tử. Hoá học truyền thống bắt đầu bằng việc nghiên cứu các hạt sơ cấp, các nguyên tử, các phân tử, các chất, kim loại, tinh thể và các hợp chất khác của vật chất. Vấn đề này có thể được nghiên cứu trong trạng thái rắn, lỏng, hoặc khí, có thể riêng lẻ hoặc hỗn hợp. Các tương tác, phản ứng và biến đổi được nghiên cứu trong hóa học thường là kết quả của các tương tác giữa các nguyên tử, dẫn đến việc sắp xếp lại các liên kết hóa học giữ các nguyên tử với nhau. Những biến đổi như vậy được nghiên cứu trong phòng thí nghiệm hóa học.", "Phòng thí nghiệm hóa học có khuôn mẫu thường sử dụng nhiều loại dụng cụ thủy tinh trong phòng thí nghiệm. Tuy nhiên, những dụng cụ thủy tinh này không phải là trung tâm của hóa học, và rất nhiều các thí nghiệm (cũng như ứng dụng / công nghiệp) hóa học được thực hiện mà không cần những dụng cụ này.", "Phản ứng hóa học là sự chuyển đổi một số chất thành một hoặc nhiều chất khác nhau. Cơ sở của sự biến đổi hóa học như vậy là sự sắp xếp lại các electron trong các liên kết hóa học giữa các nguyên tử. Nó có thể được miêu tả một cách tượng trưng qua một phương trình hóa học, trọng tâm đặt vào các nguyên tử. Số lượng các nguyên tử ở bên trái và bên phải trong phương trình cho một sự biến đổi hóa học là bằng nhau (khi số lượng các nguyên tử ở hai bên là không đồng đều, chuyển đổi được gọi là phản ứng hạt nhân hoặc sự phân rã phóng xạ). Loại phản ứng hóa học mà một chất có thể trải qua và sự thay đổi năng lượng có thể đi kèm tuân theo một số quy tắc cơ bản nhất định, được gọi là định luật hóa học.", "Các cân nhắc về năng lượng và entropy luôn quan trọng trong hầu hết các nghiên cứu hóa học. Các chất hoá học được phân loại theo cấu trúc, trạng thái, cũng như các thành phần hoá học của chúng. Chúng có thể được phân tích bằng các công cụ phân tích hóa học, ví dụ: quang phổ và sắc ký. Các nhà khoa học tham gia nghiên cứu hóa học được gọi là các nhà hóa học. Hầu hết các nhà hóa học chuyên về một hoặc nhiều tiểu ngành. Một số khái niệm rất cần thiết cho việc nghiên cứu hóa học; một số trong số đó là:", "Vật chất.", "Trong hóa học, vật chất được định nghĩa là bất cứ vật gì có khối lượng tĩnh và thể tích (chiếm không gian nhất định) và được tạo thành từ các hạt. Các hạt tạo nên vật chất cũng có khối lượng tịnh - nhưng không phải tất cả các hạt đều có khối lượng tịnh, chẳng hạn như photon. Vật chất có thể là một chất hoá học tinh khiết hoặc một hỗn hợp các chất.", "Nguyên tử.", "Nguyên tử là đơn vị cơ bản của hóa học. Nó bao gồm một lõi rất đặc gọi là hạt nhân nguyên tử, bao quanh bởi một đám mây điện tử khổng lồ. Hạt nhân được tạo thành từ các proton tích điện dương và các neutron không tích điện (gọi chung là các nucleon). Trong khi đó, đám mây điện tử lại gồm các electron tích điện âm có quỹ đạo quanh hạt nhân. Trong một nguyên tử trung hòa về điện, điện tích âm của electron cân bằng với điện tích dương của proton. Hạt nhân rất đặc; khối lượng của một nucleon gấp 1836 lần so với electron, tuy nhiên bán kính của một nguyên tử lại gấp 10000 lần hạt nhân của nó .", "Nguyên tử cũng là thực thể nhỏ nhất được cho là giữ các tính chất hóa học của nguyên tố, như độ âm điện, khả năng ion hóa, trạng thái oxy hóa, số phối trí \"(coordination number)\", và các loại liên kết có thể hình thành (ví dụ liên kết kim loại, ion, cộng hoá trị).", "Nguyên tố.", "Một nguyên tố hóa học là một chất tinh khiết chỉ bao gồm một loại nguyên tử, đặc trưng bởi số proton cụ thể trong hạt nhân của các nguyên tử, được gọi là số hiệu nguyên tử và được thể hiện bằng ký hiệu Z. Nguyên tử khối là tổng của số proton và neutron trong một hạt nhân. Mặc dù tất cả các hạt nhân của tất cả các nguyên tử thuộc một nguyên tố sẽ có cùng một số hiệu nguyên tử, chúng có thể không nhất thiết phải có cùng nguyên tử khối; các nguyên tử của một nguyên tố có nguyên tử khối khác nhau được gọi là đồng vị. Ví dụ, tất cả các nguyên tử với 6 proton trong hạt nhân là các nguyên tử của nguyên tố carbon, nhưng nguyên tử carbon có thể có nguyên tử khối là 12 hoặc 13.", "Sự trình bày tiêu chuẩn của các nguyên tố hóa học là sắp xếp vào bảng tuần hoàn, sắp xếp các nguyên tố theo số hiệu nguyên tử. Bảng tuần hoàn được sắp xếp thành các nhóm, hoặc các cột, và các chu kỳ hoặc các hàng. Bảng tuần hoàn rất hữu ích trong việc xác định khuynh hướng tuần hoàn.", "Hợp chất.", "Hợp chất là một chất hoá học tinh khiết cấu tạo từ nhiều hơn một nguyên tố. Các tính chất của một hợp chất thường ít giống với các thành phần cấu tạo nên nó. Danh pháp chuẩn của các hợp chất được quy định bởi Liên minh Quốc tế về Hóa học thuần túy và Hóa học ứng dụng (IUPAC). Các hợp chất hữu cơ được đặt tên theo hệ thống danh pháp hữu cơ . Tên của các hợp chất vô cơ được tạo ra theo hệ thống danh pháp vô cơ. Khi một hợp chất có nhiều hơn một phần, chúng có thể được chia thành hai phần chính, các thành phần tích điện dương và các tích điện âm. Thêm vào đó, Dịch vụ Tóm tắt Hóa chất (CAS) đã đưa ra một phương pháp để sắp xếp các chất hoá học. Lúc này mỗi chất hoá học có thể nhận biết được bởi một số hiệu được gọi là số đăng ký CAS.", "Phân tử.", "Một phân tử là phần nhỏ nhất không thể phân chia của một chất hoá học tinh khiết với đặc tính hóa học duy nhất, nghĩa là nó có khả năng thực hiện một số phản ứng hóa học với các chất khác. Tuy nhiên, định nghĩa này chỉ tốt đối với các chất cấu tạo từ các phân tử, mà điều này không đúng với nhiều chất (xem dưới đây). Các phân tử thường là một tập hợp các nguyên tử gắn kết với nhau bằng các liên kết cộng hóa trị, sao cho cấu trúc này là trung hòa về điện tích và tất cả các điện tử hóa trị được ghép nối với các điện tử khác trong các liên kết hoặc trong các cặp đơn (không ở trong liên kết).", "Như đã nói, các phân tử tồn tại như các đơn vị trung hòa điện, không giống như các ion. Khi quy tắc này bị phá vỡ, \"phân tử\" lúc này có một điện tích, đôi khi chúng được đặt tên là một \"ion phân tử\" hoặc một \"ion đa nguyên tử\". Tuy nhiên, các ion phân tử thường chỉ có ở dạng tách hoàn toàn, chẳng hạn như một chùm trực tiếp trong chân không ở một phổ kế khối. Rất nhiều ion đa nguyên tử này ở trong đất (ví dụ các ion sunfat hoặc nitrat thường gặp),nói chung chúng không được coi là \"phân tử\" trong hóa học. Một số phân tử có chứa một hoặc nhiều electron không ghép cặp, tạo ra các gốc tự do. Hầu hết các gốc tự do tương đối phản ứng, nhưng một số, chẳng hạn như nitric oxit (NO) có thể ổn định.", "Các nguyên tố khí \"trơ\" hoặc khí hiếm (heli, neon, argon, krypton, xenon và radon) tồn tại ở đơn vị nhỏ nhất là dưới dạng các nguyên tử đơn độc, nhưng các chất hóa học tách biệt khác thì gồm các phân tử hoặc các mạng nguyên tử liên kết với nhau một cách nào đó. Các phân tử xác định được có thể là các chất quen thuộc như nước(H2O), không khí(0x), và nhiều hợp chất hữu cơ như rượu(C2H6O hoặc C2H5OH), đường(C12H22O11), muối ăn(NaCl), xăng và các dược phẩm khác nhau.", "Tuy nhiên, không phải tất cả các chất hoặc các hợp chất hóa học bao gồm các phân tử rời rạc, và thực tế hầu hết các chất rắn tạo thành lớp vỏ rắn, lớp phủ và lõi của Trái Đất là các hợp chất hóa học mà không có các phân tử. Các loại chất khác, chẳng hạn như các hợp chất ion và các chất rắn trong mạng, được sắp xếp theo cách mà không tìm thấy tồn tại của các phân tử thực chất. Thay vào đó, các chất này được tìm hiểu dưới dạng đơn vị công thức hoặc đơn vị tế bào là cấu trúc lặp lại nhỏ nhất trong chất. Ví dụ về các chất như vậy là các muối (như muối ăn), chất rắn như carbon và kim cương, kim loại, silica và các khoáng chất silicat quen thuộc như thạch anh và granit.", "Một trong những đặc tính chính của một phân tử là cấu hình của nó; thường được gọi là cấu trúc hóa học. Trong khi cấu trúc của các phân tử nguyên tử cấu tạo từ hai nguyên tử, ba hoặc bốn có thể dễ đoán, (dạng thẳng, hình chóp góc...) thì cấu trúc của các phân tử đa nguyên tử, được #đổi cấu thành từ hơn 6 nguyên tử (của một số nguyên tố) có thể rất quan trọng đối với tính chất hoá học của nó.", "Chất và hỗn hợp.", "Một chất hoá học là một loại vật chất với thành phần và tập hợp các thuộc tính xác định. Một tập hợp các chất được gọi là hỗn hợp. Ví dụ về hỗn hợp là không khí và các hợp kim.", "Mol và lượng chất.", "Mol là một đơn vị đo lường biểu thị một lượng chất (còn gọi là lượng hóa học). Mol được định nghĩa là số nguyên tử tìm thấy chính xác 0,012 kg (12 gram) carbon-12, trong đó nguyên tử cacbon-12 không liên kết, ở trạng thái nghỉ và trạng thái nền. Số lượng các thực thể trên mỗi mol được gọi là hằng số Avogadro và được xác định một cách thực nghiệm là khoảng 6,022 × 1023 mol−1. Nồng độ mol là lượng chất đặc biệt trên một thể tích dung dịch, và thường được ghi dưới dạng trong moldm−3.", "Thể \"hoặc\" trạng thái.", "Ngoài các tính chất hóa học cụ thể phân biệt các chất hóa học khác nhau, các chất hóa học có thể tồn tại trong một vài \"thể\" hay \"trạng thái\" khác nhau. Phần lớn, việc phân loại hóa chất độc lập với các phân loại theo thể này; tuy nhiên, một số thể đặc biệt là không tương thích với các tính chất hóa học nhất định. Thể là một tập hợp các trạng thái của một hệ thống hóa học có các đặc tính cấu trúc tương tự nhau, đặt trong một loạt các điều kiện, chẳng hạn như áp suất hoặc nhiệt độ.", "Các tính chất vật lý, chẳng hạn như mật độ và độ chiết quang thường là các giá trị đặc trưng của thể. Thể của vật chất được xác định bởi quá trình \"chuyển thể\", đó là khi năng lượng đưa vào hoặc đưa ra khỏi hệ thống thoát ra sắp xếp lại cấu trúc của hệ thống, thay vì thay đổi các các điều kiện.", "Đôi khi sự khác biệt giữa các thể có thể liên tục hay không rõ ràng; thay vì có ranh giới tách biệt, trong trường hợp này vật chất được coi là ở trạng thái siêu tới hạn. Khi ba thể cùng tồn tại với các điều kiện nhất định, nó tạo nên một điểm ba trạng thái; và vì điểm này là không thay đổi, đó là một cách thuận tiện để xác định một tập hợp các điều kiện cho từng thể.", "Các ví dụ quen thuộc nhất của các thể là rắn, lỏng và khí. Nhiều chất có nhiều thể rắn. Ví dụ, sắt có ba thể rắn (alpha, gamma, và delta) thay đổi tùy theo nhiệt độ và áp suất. Một sự khác biệt chính giữa các thể rắn là cấu trúc tinh thể, hoặc sự sắp xếp của các nguyên tử. Một thể khác thường gặp trong nghiên cứu hóa học là thể lỏng, tức là trạng thái của các chất hòa tan trong dung môi (thường là trong nước).", "Các thể ít quen thuộc hơn bao gồm plasma, ngưng tụ Bose-Einstein và ngưng tụ fermion cùng với các giai đoạn thuận từ và sắt từ của vật liệu từ tính. Mặc dù hầu hết các thể là quen thuộc trong các hệ thống ba chiều, nó cũng có thể định nghĩa các tương tự trong các hệ thống hai chiều, điều này đã thu hút được sự quan tâm của nó đối với các hệ thống sinh học.", "Liên kết.", "Các nguyên tử gắn kết với nhau trong các phân tử hoặc tinh thể được gọi là liên kết với nhau. Một liên kết hóa học có thể được hình dung như là sự cân bằng đa cực giữa các điện tích dương trong hạt nhân và các điện tích âm dao động xung quanh chúng. Không chỉ là phản ứng hút và đẩy đơn giản, năng lượng và sự phân bố là đặc trưng cho khả năng một điện tử tạo liên kết với một nguyên tử khác.", "Một liên kết hóa học có thể là một liên kết cộng hóa trị, liên kết ion, liên kết hydro hoặc chỉ là lực Van der Waals. Mỗi loại liên kết này được gán cho một số tiềm năng. Những tiềm năng tạo ra các tương tác giữ các nguyên tử với nhau trong các phân tử hoặc tinh thể. Trong nhiều hợp chất đơn giản, lý thuyết hóa trị, mô hình VSEPR, và khái niệm số oxy hóa có thể được sử dụng để giải thích cấu trúc phân tử và thành phần.", "Một liên kết ion được hình thành khi một kim loại mất đi một hoặc nhiều electron của nó, trở thành một cation tích điện dương, và các electron sau đó được thu được bởi nguyên tử phi kim, trở thành một anion tích điện âm. Hai ion tích điện trái dấu sẽ thu hút bởi nhau, và liên kết ion là lực hấp dẫn giữa chúng. Ví dụ, natri (Na), một kim loại, mất một điện tử để trở thành một Na+ (cation), trong khi clo (Cl), một phi kim, thu được điện tử này để trở thành Cl− (anion). Các ion được giữ lại với nhau do lực hút tĩnh điện, và hợp chất natri chloride (NaCl), hay tên phổ biến hơn là muối ăn, được hình thành.", "Trong một liên kết cộng hoá trị, một hoặc nhiều cặp electron hóa trị được chia sẻ bởi hai nguyên tử, tạo nên nhóm các nguyên tử liên kết với nhau trung hòa về điện hay phân tử. Các nguyên tử sẽ chia sẻ các điện tử hóa trị trong một cách để tạo ra một cấu hình electron khí hiếm (với tám electron trong vỏ ngoài cùng của chúng) cho mỗi nguyên tử. Các nguyên tử có xu hướng kết hợp theo cách mà mỗi chúng có tám electron trong vỏ ngoài cùng, và sao cho là tuân thủ quy tắc bát tử (xem \"Liên kết ion\"). Tuy nhiên, một số nguyên tố như hydro và lithi chỉ cần hai điện tử trong vỏ ngoài cùng của chúng để đạt được cấu hình ổn định này; các nguyên tử này được cho là tuân theo \"quy tắc song tử (duet)\", và theo cách này, chúng sẽ đạt tới cấu hình điện tử của heli trong khí quyển, một khí hiếm chỉ có hai điện tử trong vỏ bên ngoài của nó.", "Tương tự, các lý thuyết từ vật lý cổ điển có thể được sử dụng để dự đoán nhiều cấu trúc ion. Với các hợp chất phức tạp hơn, chẳng hạn như phức hợp kim loại, lý thuyết hóa trị sẽ ít có giá trị hơn. Lúc này, các phương pháp tiếp cận khác, như lý thuyết quỹ đạo phân tử (orbital), thường được sử dụng. Xem sơ đồ về orbital điện tử.", "Năng lượng.", "Trong bối cảnh hóa học, năng lượng là một thuộc tính của một chất do kết quả của cấu trúc nguyên tử, phân tử hoặc cấu trúc tổng hợp của nó. Vì một sự biến đổi hóa học đi cùng với sự thay đổi một hoặc nhiều cấu trúc này, nó luôn đi kèm với việc tăng hoặc giảm năng lượng của các chất liên quan. Một số năng lượng được chuyển giao giữa môi trường xung quanh và các chất phản ứng dưới dạng nhiệt hoặc ánh sáng; do đó các sản phẩm của một phản ứng có thể  nhiều hoặc ít năng lượng hơn các chất phản ứng.", "Một phản ứng được cho là \"giải phóng năng lượng\" nếu trạng thái cuối cùng thấp hơn về quy mô năng lượng so với trạng thái ban đầu; trong trường hợp phản ứng \"thu năng lượng\" thì ngược lại. Một phản ứng được gọi là \"tỏa nhiệt\" nếu phản ứng thải nhiệt ra môi trường xung quanh; trong trường hợp phản ứng \"thu nhiệt\", phản ứng hấp thụ nhiệt từ môi trường xung quanh.", "Các phản ứng hóa học thường không thể xảy ra trừ khi các chất phản ứng vượt qua hàng rào năng lượng gọi là năng lượng hoạt hóa. Tốc độ phản ứng hóa học (ở nhiệt độ nhất định T) liên quan đến năng lượng hoạt hóa E, bởi yếu tố phân bố của Boltzmann - đó là xác suất của một phân tử có năng lượng lớn hơn hoặc bằng với E ở nhiệt độ nhất định T. Sự phụ thuộc có tính lũy thừa của tần suất phản ứng lên nhiệt độ được gọi là phương trình Arrhenius. Năng lượng kích hoạt cần thiết cho một phản ứng hóa học có thể dưới dạng nhiệt, ánh sáng, điện hoặc lực lượng cơ học dưới dạng siêu âm.", "Một khái niệm liên quan là năng lượng tự do, cũng cân nhắc cả khái niệm entropy, là một phương tiện rất hữu ích để dự đoán tính khả thi của phản ứng và xác định trạng thái cân bằng của một phản ứng hóa học, trong nhiệt động học hóa học. Một phản ứng chỉ khả thi nếu tổng lượng thay đổi trong năng lượng tự do Gibbs là âm, formula_1, nếu nó bằng không, phản ứng hóa học được cho là ở trạng thái cân bằng.", "Có tồn tại các trạng thái năng lượng hạn chế đối với điện tử, nguyên tử và phân tử. Điều này được xác định bởi các quy tắc của cơ học lượng tử, đòi hỏi phải lượng tử hóa năng lượng của một hệ thống bị ràng buộc. Các nguyên tử / phân tử ở trạng thái năng lượng cao hơn được cho là kích thích. Các phân tử / nguyên tử của chất trong trạng thái năng lượng kích thích thường phản ứng nhiều hơn; có nghĩa là, phù hợp cho phản ứng hóa học.", "Trạng thái hay thể của một chất được xác định một cách bất biến bởi năng lượng và năng lượng ở môi trường xung quanh nó. Khi lực giữa các phân tử của một chất lớn hơn năng lượng của môi trường xung quanh, thì đó thường là thể lỏng hoặc rắn như với trường hợp với nước (H2O); một chất lỏng ở nhiệt độ phòng bởi vì các phân tử của nó được bởi liên kết hydro. Trong khi hydrogen sulfide (H2S) là một khí ở nhiệt độ phòng và áp suất tiêu chuẩn, vì các phân tử của nó liên kết yếu hơn bởi tương tác lưỡng cực-lưỡng cực.", "Việc chuyển năng lượng từ một chất hóa học này sang một chất khác phụ thuộc vào lượng năng lượng được phát ra từ một chất. Tuy nhiên, năng lượng nhiệt thường được chuyển dễ dàng từ hầu hết chất này sang chất khác bởi vì các phonon, chịu trách nhiệm cho các mức năng lượng dao động và luân chuyển mức năng lượng trong một chất, có ít năng lượng hơn các photon được viện dẫn để chuyển năng lượng điện tử. Do đó, các mức năng lượng dao động và luân chuyển nằm gần nhau hơn mức năng lượng điện tử, nhiệt dễ dàng được chuyển giữa các chất, so với các dạng khác như: ánh sáng hoặc các dạng năng lượng điện tử khác. Ví dụ, bức xạ điện từ tia cực tím không được chuyển giao hiệu quả từ chất này sang chất khác như là năng lượng nhiệt hoặc điện.", "Sự tồn tại của các mức năng lượng đặc trưng cho các chất hoá học khác nhau rất hữu ích cho việc xác định chúng bằng cách phân tích các đường quang phổ. Các loại phổ khác nhau thường được sử dụng trong quang phổ hóa học, ví dụ: NIRS, vi sóng, NMR, EPR (\"cộng hưởng thuận từ electron\")... Quang phổ cũng được sử dụng để xác định thành phần của những ngôi sao ở xa và các thiên hà xa xôi bằng cách phân tích phổ xạ của chúng.", "Thuật ngữ năng lượng hóa học thường được sử dụng để chỉ ra tiềm năng của một chất hóa học để trải qua một quá trình chuyển đổi thông qua một phản ứng hóa học hoặc để biến đổi các chất hóa học khác.", "Phản ứng hóa học.", "Khi một chất hóa học được biến đổi do sự tương tác của nó với một chất khác hoặc với năng lượng, ta có thể nói một phản ứng hóa học đã xảy ra. \"Phản ứng hóa học\" là một khái niệm liên quan đến \"phản ứng\" của một chất khi tiếp xúc gần với chất khác, cho dù là hỗn hợp hoặc dung dịch; hoặc tiếp xúc với một số dạng năng lượng, hoặc cả hai. Nó tạo ra một số trao đổi năng lượng giữa các thành phần của phản ứng cũng như với môi trường hệ thống, môi trường này có thể được là các hộp chứa được thiết kế đặc dụng - thường là dụng cụ thí nghiệm thủy tinh.", "Các phản ứng hóa học có thể dẫn đến sự hình thành hoặc phân ly của các phân tử - tức là các phân tử sẽ bị phân tách thành hai hoặc nhiều phân tử nhỏ hơn; hoặc sắp xếp lại các nguyên tử trong hoặc ngoài các phân tử. Phản ứng hóa học thường liên quan đến việc tạo ra hoặc phá vỡ các liên kết hóa học. Các phản ứng thường gặp là oxy hóa-khử, phản ứng tách, trung hoà acid-base và tái sắp xếp nguyên tử.", "Một phản ứng hóa học có thể được mô tả một cách biểu tượng bằng phương trình hóa học. Trong phản ứng hóa học \"phi-hạt-nhân\", số lượng và loại nguyên tử ở cả hai phía của phương trình đều như nhau, đối với phản ứng \"hạt-nhân\", điều này chỉ đúng đối với các hạt trong hạt nhân như proton và neutron.", "Chuỗi các bước trong đó các liên kết hóa học được tổ chức lại xảy ra trong quá trình phản ứng hóa học được gọi là cơ chế phản ứng. Một phản ứng hóa học có thể được dự kiến ​​diễn ra theo một số bước, mỗi bước có thể có tốc độ khác nhau. Nhiều phản ứng trung gian với độ ổn định có thể do đó có thể được dự kiến ​​trong quá trình phản ứng. Các cơ chế phản ứng được đề xuất để giải thích động học và hỗn hợp sản phẩm tương đối của một phản ứng. Nhiều nhà hóa lý chuyên khám phá và đề xuất các cơ chế phản ứng hóa học khác nhau. Một số quy tắc thực nghiệm, giống như quy tắc Woodward-Hoffmann thường có ích trong khi đề xuất một cơ chế cho một phản ứng hóa học.", "Theo sách IUPAC, một phản ứng hoá học là \"một quá trình dẫn đến sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các loại chất hóa học\". Theo đó, một phản ứng hóa học có thể là một phản ứng cơ bản hoặc một phản ứng qua nhiều bước.", "Ion và muối.", "Một ion là một phần tử mang điện tích, có thể là một nguyên tử hoặc một phân tử, đã mất hoặc lấy được một hoặc nhiều điện tử. Khi một nguyên tử mất một điện tử và do đó có nhiều proton hơn electron, nguyên tử là một ion tích điện dương hoặc cation. Khi một nguyên tử thu được một electron và do đó có nhiều điện tử hơn proton, nguyên tử là một ion tích điện âm hoặc anion. Cation và anion có thể tạo thành mạng lưới tinh thể của muối trung hòa, như ion Na+ và Cl− tạo thành NaCl. Các ví dụ về các ion đa nguyên tử không phân rã trong các phản ứng acid - base là hydroxide (OH−) và phosphate (PO43−).", "Plasma gồm có chất khí đã được ion hóa hoàn toàn, thông thường là qua nhiệt độ cực cao.", "Tính axit và bazơ.", "Một chất có thể thường được phân loại như một acid hoặc một bazơ. Có một số lý thuyết khác nhau giải thích những hành vi cơ bản của axit. Đơn giản nhất là thuyết Arrhenius: một axit là một chất tạo ra ion <chem>H+</chem>còn một base thì tạo ra ion <chem>OH-</chem> khi hòa tan trong nước. Theo lý thuyết acid-base của Bronsted-Lowry, acid là chất cho <chem>H+</chem> trong một phản ứng hóa học; mở rộng hơn, base là chất nhận được ion <chem>H+", "</chem> đó.", "Lý thuyết phổ biến thứ ba là lý thuyết Lewis, dựa trên sự hình thành các liên kết hoá học mới. Lý thuyết của Lewis giải thích rằng: acid là một chất có khả năng nhận một cặp electron từ một chất khác trong quá trình hình thành liên kết, còn base là một chất có thể cung cấp một cặp electron để tạo thành một liên kết mới. Theo lý thuyết này, điều quan trọng được trao đổi là điện tích. Có một số cách khác mà một chất có thể được phân loại như một acid hoặc một base, như là bằng chứng cho lịch sử của khái niệm này.", "Độ mạnh của acid thường được đo bằng hai phương pháp. Một phép đo, dựa trên định nghĩa Arrhenius về axit, tức là độ pH, là một phép đo nồng độ ion <chem>H+</chem> trong dung dịch, được thể hiện bằng thang logarit. Một phép đo khác, dựa trên định nghĩa Bronsted - Lowry, là hằng số phân ly acid,cho biết khả năng hoạt động acid tương đối của một chất theo định nghĩa của Bronsted - Lowry. Tức là các chất có Ka cao hơn có nhiều khả năng cho các ion <chem>H+</chem> trong các phản ứng hóa học hơn là những chất có giá trị Ka thấp hơn.", "Oxy hóa-khử.", "Phản ứng oxy hóa-khử bao gồm tất cả các phản ứng hóa học mà trong đó các nguyên tử bị thay đổi trạng thái oxy hóa bằng cách thu được điện tử (quá trình khử) hoặc mất điện tử (quá trình oxy hóa). Các chất có khả năng oxy hóa các chất khác được gọi là chất oxy hóa hoặc tác nhân oxy hóa. Chất oxy hóa loại bỏ các electron khỏi một chất khác. Tương tự, các chất có khả năng khử các chất khác được gọi là chất khử, hoặc tác nhân khử.", "Một chất khử chuyển các electron sang một chất khác, và do đó nó bị oxy hóa. Và bởi vì nó \"tặng\" điện tử, nó còn được gọi là chất cho điện tử. Thuật ngữ \"oxy hóa\" và \"khử\" có lẽ đề cập đến một sự thay đổi số oxy hóa - sự chuyển giao thực sự của điện tử có thể không bao giờ xảy ra. Như vậy, quá trình \"oxy hóa\" được định nghĩa tốt hơn là sự tăng số oxy hóa, và \"khử\" là một sự giảm số oxy hóa.", "Cân bằng.", "Mặc dù khái niệm \"cân bằng\" được sử dụng rộng rãi trong khoa học, trong bối cảnh hóa học, nó phát sinh bất cứ khi nào một số trạng thái khác nhau của thành phần hoá học là khả thi, ví dụ, trong một hỗn hợp của một số hợp chất hóa học có thể phản ứng với nhau, hoặc khi một chất có thể có mặt trong nhiều hơn một trạng thái.", "Một hệ thống các chất hoá học ở trạng thái cân bằng, mặc dù có thể có thành phần không thay đổi, thường không tĩnh; các phân tử của các chất tiếp tục phản ứng với nhau do đó tiến đến sự cân bằng động. Do đó khái niệm này mô tả trạng thái trong đó các thông số như thành phần hóa học không thay đổi theo thời gian.", "Tầm quan trọng.", "Đời sống.", "Phản ứng hóa học xảy ra trong cuộc sống hằng ngày ví dụ như trong lúc nấu ăn, làm bánh hay rán mà trong đó các biến đổi chất xảy ra một cách rất phức tạp đã góp phần tạo nên hương vị đặc trưng cho món ăn. Thêm vào đó thức ăn được phân tách ra thành các thành phần riêng biệt và cũng được biến đổi thành năng lượng.", "Liên hệ với khoa học khác.", "Hóa học nghiên cứu về tính chất của các nguyên tố và hợp chất, về các biến đổi có thể có từ một chất này sang một chất khác, tiên đoán trước tính chất của những hợp chất chưa biết đến cho tới nay, cung cấp các phương pháp để tổng hợp những hợp chất mới và các phương pháp đo lường hay phân tích để tìm các thành phần hóa học trong những mẫu thử nghiệm.", "Mặc dù tất cả các chất đều được cấu tạo từ một số loại \"đá xây dựng\" tương đối ít, tức là từ khoảng 80 đến 100 nguyên tố trong số 118 nguyên tố được biết đến nhưng sự kết hợp và sắp xếp khác nhau của các nguyên tố đã mang lại đến vài triệu hợp chất khác nhau, những hợp chất mà đã tạo nên các loại vật chất khác nhau như nước, cát (chất), mô sinh vật và mô thực vật. Thành phần của các nguyên tố quyết định các tính chất vật lý và hóa học của các chất và làm cho hóa học trở thành một bộ môn khoa học rộng lớn.", "Cũng như trong các bộ môn khoa học tự nhiên khác, thí nghiệm trong hóa học là cột trụ chính. Thông qua thí nghiệm, các lý thuyết về cách biến đổi từ một chất này sang một chất khác được phác thảo, kiểm nghiệm, mở rộng và khi cần thiết thì cũng được phủ nhận.", "Tiến bộ trong các chuyên ngành khác nhau của hóa học thường là các điều kiện tiên quyết không thể thiếu cho những nhận thức mới trong các bộ môn khoa học khác, đặc biệt là trong các lãnh vực của sinh học và y học, cũng như trong lãnh vực của vật lý (Ví dụ như việc chế tạo các chất siêu dẫn mới). Hóa sinh, một chuyên ngành rộng lớn, đã được thành lập tại nơi giao tiếp giữa hóa học và sinh vật học và là một chuyên ngành không thể thiếu được khi muốn hiểu về các quá trình trong sự sống, các quá trình mà có liên hệ trực tiếp và không thể tách rời được với sự biến đổi chất.", "Đối với y học thì hóa học không thể thiếu được trong cuộc tìm kiếm những thuốc trị bệnh mới và trong việc sản xuất các dược phẩm. Các kỹ sư thường tìm kiếm vật liệu chuyên dùng tùy theo ứng dụng (vật liệu nhẹ trong chế tạo máy bay, vật liệu xây dựng chịu lực và bền vững, các chất bán dẫn đặc biệt tinh khiết...). Ở đây bộ môn khoa học vật liệu đã phát triển như là nơi giao tiếp giữa hóa học và kỹ thuật.", "Trong công nghiệp.", "Công nghiệp hóa học là một ngành kinh tế rất quan trọng. Công nghiệp hóa học sản xuất các hóa chất cơ bản như axít sunfuric hay amonia, thường là nhiều triệu tấn hằng năm, cho sản xuất phân bón và chất dẻo và các mặt khác của đời sống và sản xuất công nghiệp. Mặt khác, ngành công nghiệp hóa học cũng sản xuất rất nhiều hợp chất phức tạp, đặc biệt là dược phẩm. Nếu không có các hóa chất được sản xuất trong công nghiệp thì cũng không thể nào sản xuất máy tính hay nhiên liệu và chất bôi trơn cho công nghiệp ô tô.", "Phân ngành.", "Hóa học thường được chia thành nhiều phân ngành chính. Ngoài ra còn có một số lĩnh vực liên ngành và chuyên ngành.", "Chú thích.", "Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ." ]
983
68830578
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=983
16 tháng 4
[ "Ngày 16 tháng 4 là ngày thứ 106 trong mỗi năm thường (ngày thứ 107 trong mỗi năm nhuận). Còn 259 ngày nữa trong năm." ]
990
804975
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=990
Ngô Đình Diệm
[ "Ngô Đình Diệm (chữ Hán: 吳廷琰; 3 tháng 1 năm 1901 – 2 tháng 11 năm 1963) là một chính khách người Việt Nam. Ông từng làm quan triều Nguyễn thời vua Bảo Đại, sau đó làm Thủ tướng cuối cùng của Quốc gia Việt Nam, rồi trở thành Tổng thống Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa từ năm 1955 sau khi thành công trong việc phế truất Bảo Đại, cho đến khi bị lật đổ vào năm 1963. Ông cũng là lãnh tụ của Đảng Cần lao Nhân vị, đảng cầm quyền chính thức của miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.", "Là một nhà lãnh đạo theo Công giáo La Mã, ông bị những người theo Phật giáo phản đối vì thực hiện các chính sách thiên vị Công giáo. Tháng 11 năm 1963, một loạt các vụ biểu tình bất bạo động của Phật tử đã gây ra những bất ổn xã hội nghiêm trọng, Ngô Đình Diệm cùng em trai của mình là Ngô Đình Nhu đã bị ám sát trong một cuộc đảo chính năm 1963 do các tướng lĩnh dưới quyền thực hiện, với sự hỗ trợ của Chính phủ Hoa Kỳ.", "Ngô Đình Diệm là một nhân vật quan trọng trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam và gây ra nhiều tranh cãi trong lịch sử. Một số sử gia coi ông là công cụ chống cộng trong tay người Mỹ, một số thì lại coi ông là độc tài và gia đình trị, trong khi đó một số sử gia khác coi ông là nhà chính trị mang nặng truyền thống phong kiến Việt Nam. Một số nghiên cứu gần đây cho rằng Ngô Đình Diệm là người tự cho rằng mình đang gánh vác một \"Thiên mệnh\", ông cũng có các kế hoạch riêng về nền chính trị ở miền Nam Việt Nam.", "Thời niên thiếu.", "Ngô Đình Diệm sinh ngày 3 tháng 1 năm 1901 tại làng Đại Phong Lộc (nay thuộc xã Phong Thủy) huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình quan lại có truyền thống theo đạo Công giáo lâu đời ở tại Việt Nam. Vào thế kỉ XVII, các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha đã cải đạo cho dòng họ ông, nên tên thánh của ông là Gioan Baotixita (João Batista).", "Cha ông là Ngô Đình Khả và mẹ ông là Phạm Thị Thân, quê quán ở làng Đại Phong xã Phong Thủy huyện Lệ Thủy, Quảng Bình. Ngô Đình Khả từng làm võ quan từ triều Đồng Khánh, theo Nguyễn Thân một người hợp tác với chính phủ Liên bang Đông Dương (thuộc Pháp) đàn áp các phong trào chống Pháp như nhóm Văn Thân của Ngự sử Phan Đình Phùng ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Ông Khả từng làm tới Thượng thư triều đình nhà Nguyễn kiêm Phụ đạo Đại thần và cũng là cố vấn của vua Thành Thái.", "Ngô Đình Diệm là người con thứ 4 trong gia đình 9 anh chị em: anh đầu là Ngô Đình Khôi (thứ nhất), chị Ngô Đình Thị Giao (thứ 2), Ngô Đình Thục (thứ 3), 5 người em là Ngô Đình Thị Hiệp (thứ 5, mẹ của Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận), Ngô Đình Thị Hoàng (thứ 6), Ngô Đình Nhu (thứ 7), Ngô Đình Cẩn (thứ 8), Ngô Đình Luyện (thứ 9). Ngô Đình Khôi làm Tổng đốc Quảng Nam, còn Ngô Đình Thục một thời làm tổng Giám mục.", "Lúc thiếu thời, cha Ngô Đình Diệm tức Ngô Đình Khả theo Nho học, sau đó ông vào chủng viện học chương trình Pháp, rồi được gửi sang trường nhà dòng ở Penang, Malaysia để làm tu sinh, nhưng sau đó ông bỏ và làm quan trong triều Nhà Nguyễn. Năm 1905 ông thăng chức Tổng quan Cấm Thánh.", "Là người mộ đạo, Ngô Đình Khả dẫn gia đình ông đi lễ mỗi buổi sáng. Năm 1907, thấy chính quyền bảo hộ Pháp phế bỏ và đày vua Thành Thái sang Phi Châu, ông Ngô Đình Khả xin từ quan về quê làm ruộng để tỏ sự bất mãn. Có thuyết khác cho rằng, vì ông Khả không chịu ký vào đơn yêu cầu Thành Thái thoái vị, nên bị chính quyền bảo hộ Pháp cách chức. Dù đã từ quan nhưng ông Ngô Đình Khả vẫn đủ sức để chu cấp cho các con ông ăn học.", "Lúc nhỏ, Ngô Đình Diệm ngoài giúp cha làm ruộng còn cùng người anh Ngô Đình Thục vào học ở trường dòng Pellerin Huế. Cảm thấy cuộc sống ở trường dòng quá khắt khe, ông đã bỏ học tại trường dòng.", "Năm 1913, lúc 12 tuổi, Ngô Đình Diệm thi vào trường Collège Quốc học, học chương trình tổng hợp bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Trưởng giáo (tức hiệu trưởng) trường là Ngô Đình Khả – cha ông.", "Theo Moyar, tính cách độc lập quá mức của Ngô Đình Diệm không thích hợp với các khuôn phép trong nhà thờ. Ngoài ra, Ngô Đình Diệm còn thừa hưởng từ cha tinh thần chống thực dân Pháp xâm lược.", "Từ lúc còn nhỏ, ông được quan đại thần Nguyễn Hữu Bài – bấy giờ là phụ chính trong triều dạy dỗ và coi như con đẻ do có mối quan hệ gần gũi, người anh của Ngô Đình Diệm là Ngô Đình Khôi kết hôn với con gái của Nguyễn Hữu Bài.", "Tốt nghiệp trung học với thành tích học tập xuất sắc ở trường Collège Quốc học, Ngô Đình Diệm được trao học bổng đi học ở Paris. Nhưng ông đã từ chối. Năm 1918, ông nhập học Trường Hậu bổ (trường Hành chính công và Luật) ở Hà Nội, một trường danh tiếng của Pháp đào tạo công chức người Việt. Trong lúc học ở trường Hậu bổ, Ngô Đình Diệm yêu con gái của thầy dạy học và đây là mối tình duy nhất trong cuộc đời ông. Sau khi người con gái đó quyết định vào Nữ tu viện, Ngô Đình Diệm sống độc thân suốt phần đời còn lại. Theo Nhân Hưng, mối tình đầu của Ngô Đình Diệm là với tiểu thư Trang Đài, con gái út của quan Thượng thư họ Nguyễn ở An Cựu, Huế.", "Năm 1921, Ngô Đình Diệm tốt nghiệp trường Hậu bổ.", "Gia cảnh và giáo dục, đặc biệt là Công giáo và Nho giáo đã có ảnh hưởng đến cuộc đời và sự nghiệp của Ngô Đình Diệm, cụ thể lên suy nghĩ của ông về chính trị, xã hội, và lịch sử. Theo Miller, Ngô Đình Diệm \"tỏ ra mộ đạo Thiên chúa giáo trong tất cả mọi việc, từ việc hành lễ thành kính cho đến thói quen trích dẫn Kinh thánh vào phát biểu của mình\". Ngô Đình Diệm cũng quy định ngày sinh nhật Khổng Tử là ngày lễ quốc gia và \"thích khoe khoang kiến thức của mình về văn thơ cổ điển Trung Quốc\". Tuy nhiên, việc là tín đồ Công giáo và là một nhà Nho không có nghĩa là Ngô Đình Diệm bị mắc kẹt bởi những tầm nhìn tiền hiện đại.", "Làm quan triều Nguyễn.", "Sau khi tốt nghiệp trường Hậu bổ với vị trí đứng nhất lớp vào năm 1921, Ngô Đình Diệm nối bước anh cả Ngô Đình Khôi (lúc này đang làm việc trong Bộ Binh triều đình Huế) vào quan trường. Bắt đầu bằng chức quan thấp nhất, Ngô Đình Diệm từng bước được thăng chức. Nơi làm việc đầu tiên của ông là thư viện hoàng gia ở Huế. Trong cùng năm, ông làm tri huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế.", "Năm 1923, ông được bổ nhiệm làm Tri huyện Hương Thủy, Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên.", "Năm 1926, Ngô Đình Diệm làm tri phủ Hải Lăng, Quảng Trị, sau đó làm quản đạo phủ Ninh Thuận.", "Trong suốt thời gian làm quan, Ngô Đình Diệm có tiếng là người mẫn cán, công chính, là người theo Công giáo và là người theo chủ nghĩa dân tộc. Ngoài ra, chủ nghĩa dân tộc Công giáo ở Việt Nam từ thập niên 1920 đến thập niên 1930 cũng tạo điều kiện cho sự thăng tiến trong quan trường của Ngô Đình Diệm. Sự thăng tiến nhanh chóng của Ngô Đình Diệm một phần nhờ vào mối quan hệ thân thiết với Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Hữu Bài (anh trai ông, Ngô Đình Khôi, là con rể của ông Nguyễn Hữu Bài). Nguyễn Hữu Bài (1863 – 1935) là một người Công giáo ủng hộ việc bản địa hóa Nhà thờ Việt Nam và tăng quyền lực hành chính cho chế độ quân chủ. Nguyễn Hữu Bài được người Pháp đánh giá cao, trở thành người bảo trợ cho Ngô Đình Diệm do mối quan hệ chặt chẽ về gia đình cũng như tôn giáo.", "Năm 1929, Ngô Đình Diệm được bổ nhiệm tỉnh trưởng tỉnh Bình Thuận. Vào các năm 1930 và 1931, Ngô Đình Diệm đã giúp người Pháp đàn áp cuộc nổi dậy Xô Viết Nghệ Tĩnh của nông dân do những người cộng sản tổ chức. Theo Fall, Ngô Đình Diệm vùi dập cách mạng vì ông không ủng hộ cách mạng. Ông cho rằng cách mạng không thể quét sạch người Pháp, nhưng có thể sẽ đe dọa nền cai trị của triều đình Huế.", "Ngày 8 tháng 4, năm 1933, Bảo Đại (1913-1997) đã ban hành một đạo dụ cải tổ nội các, quyết định tự mình chấp chính và sắc phong thêm 5 thượng thư mới xuất thân từ giới học giả và hành chính là Phạm Quỳnh, Thái Văn Toản, Hồ Đắc Khải, Ngô Đình Diệm và Bùi Bằng Đoàn nhằm thay thế các thượng thư già yếu hoặc kém năng lực như Nguyễn Hữu Bài, Tôn Thất Đàn, Phạm Liệu, Võ Liêm, Vương Tứ Đại. Ngô Đình Diệm nhận lời Bảo Đại làm Thượng thư Bộ Lại (Bộ Nội vụ ngày nay) theo vận động hành lang của Nguyễn Hữu Bài. Ông là vị thượng thư trẻ tuổi nhất trong triều đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ.", "Thời gian này ông được bầu làm Tổng thư ký đứng đầu ủy ban cải cách hành chính. Ông đề xướng hai điểm cần tu chính với chính quyền bảo hộ Pháp: một là thống nhất Trung và Bắc Kỳ theo Hòa ước Giáp Thân 1884, hai là cho Viện Nhân dân Đại biểu Trung Kỳ được quyền tự do thảo luận các vấn đề kể cả chính trị. Việc thống nhất chủ yếu để buộc chính quyền Bảo hộ Pháp bãi bỏ khâm sứ Trung Kỳ và thống sứ Bắc Kỳ và thu về thành một viện tổng trú sứ (\"résident général\") ở Huế mà thôi. Việc thứ hai là để canh tân lối cai trị cũ. Vì các đề xướng không được chấp nhận, ông từ chức Thượng thư Bộ Lại ngày 12 tháng 7 năm 1933, chỉ sau 3 tháng nhậm chức. Ngô Đình Diệm lên án Hoàng đế Bảo Đại \"chẳng là gì mà chỉ là công cụ trong tay người Pháp\", và đã vứt bỏ các huân chương, chức tước được Bảo Đại trao. Sau đó người Pháp đã dọa bắt và lưu đày Ngô Đình Diệm. Ngô Đình Diệm nổi cơn thịnh nộ và sinh lòng bất mãn vì ông Eugène Châtel, người vừa nhậm chức khâm sứ Trung Kỳ, đã cùng với Phạm Quỳnh, Tổng lý Ngự tiền văn phòng, muốn bãi bỏ quyền xử án của các hàng quan lại địa phương. Phan Bội Châu có bài thơ tặng Ngô Đình Diệm đăng trên báo Tiếng dân nhân việc ông này từ quan, trong đó có những câu.", "\"Phơi tỏ cùng trời gan đỏ chói\"", "\"Nhá nhem thây kệ mắt đen thui\"", "\"Ví chăng kịp lúc làm vai vế\"", "\"Sau ngựa Châu xin quất ngọn roi\"", "Hoạt động chính trị chống Pháp.", "Sau khi từ chức Thượng thư Bộ Lại, Ngô Đình Diệm trở về làm một thường dân sống ở Huế cùng gia đình ông, nhưng vẫn bị giám sát. Ông dành thời gian cho việc đọc sách, thiền định, đi lễ nhà thờ, làm vườn, đi săn, và chụp ảnh nghiệp dư. Ngoài ra, ông đẩy mạnh các hoạt động dân tộc chủ nghĩa qua việc gặp gỡ và giao lưu với các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam, như Phan Bội Châu, một người bạn của ông. Phan Bội Châu là nhà hoạt động chống thực dân mà Ngô Đình Diệm kính trọng vì kiến thức Nho giáo uyên thâm của ông, và vì Phan Bội Châu lập luận rằng những lời dạy của Nho giáo có thể được áp dụng cho Việt Nam hiện đại.", "Ngô Đình Diệm ngấm ngầm ủng hộ Hoàng thân Cường Để đang sống lưu vong tại Nhật nhằm thực hiện một cuộc cách mạng lật đổ chính quyền bảo hộ Pháp. Ông bị xem là quá khích giống như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam. Năm 1933, ông vào Sài Gòn cùng với Nguyễn Phan Long, Lê Văn Kim... tổ chức phong trào của trí thức Nam và Trung Kỳ vận động chính giới Pháp tại Paris bãi nhiệm Toàn quyền Đông Dương Pierre Pasquier. Việc không thành, ông bị Pasquier trục xuất khỏi Huế và chỉ định cư trú tại Quảng Bình. Tuy nhiên, sau cái chết của Pasquier năm 1934, viên toàn quyền mới Eugene René Robin đã bãi bỏ chỉ định của Pasquier. Ông vào Huế dạy tại trường Thiên Hựu (Providence) do anh ông là Ngô Đình Thục làm Giám học", "Thời kỳ 1942-1944, Ngô Đình Diệm tham gia thành lập và lãnh đạo tổ chức Đại Việt Phục hưng Hội, dựa Nhật chống Pháp với thành phần nòng cốt là quan lại, linh mục, cảnh sát, và lính khố xanh bản xứ tại Trung Kỳ. Tháng 7 năm 1944, mật thám Pháp phá vỡ tổ chức này và vây bắt Ngô Đình Diệm ở tại phủ Cam. Trong thư gửi Toàn quyền Đông Dương, ông Thục kêu gọi Pháp ân xá cho em mình:", "\"Nếu hoạt động của hai em tôi được chứng tỏ là có hại cho quyền lợi nước Pháp thì – với tư cách của một Giám mục, của một người An-nam, và với tư cách là người con của một gia đình mà thân phụ tôi đã phục vụ nước Pháp ngay từ khi Pháp mới đến An-nam, và đã nhiều lần đưa mạng sống cho nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi cầm đầu, dưới quyền Nguyễn Thân, chống lại các kẻ nổi loạn do Phan Đình Phùng chỉ huy, tại Nghệ An và Hà Tĩnh – tôi, tự đáy lòng, không chấp nhận\"", "\"...Có thể tôi lầm, tuy nhiên, thưa Đô Đốc, tôi xin thú thực là không tin – cho đến khi được chứng minh ngược lại – rằng các em tôi đã phản lại truyền thống của gia đình chúng tôi đến như thế, một gia đình đã tự mình gắn liền với nước Pháp từ lúc ban đầu, trong khi ông cha của những quan lại bây giờ hầu hết đều chống lại Pháp và chỉ quyết định thiên về Pháp khi thấy có lợi... Tôi nêu ra điều nầy khi xét thấy rằng thân phụ tôi là Ngô Đình Khả đã từng được vinh dự phục vụ nước Pháp dù sinh mạng bị hiểm nguy, và khi xét đến quá trình lâu dài của các em tôi, một quá trình được hình thành bằng lòng tận tụy vô bờ của các em tôi đối với nước Pháp, mà không sợ phải hy sinh mạng sống của mình cho nước Pháp.\"", "Nhờ sự giúp đỡ của hiến binh Nhật, ông thoát nạn và về trú tại lãnh sự Nhật ở Huế. Sau vài ngày, người Nhật đưa Ngô Đình Diệm vào Đà Nẵng rồi dùng máy bay quân sự chở thẳng vào Sài Gòn trú tại trụ sở hiến binh của Nhật. Ông cũng được Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội do hoàng thân Cường Để lãnh đạo ủy nhiệm công việc vận động nhân sự ở Trung Kỳ để chống Pháp.", "Tại Sài Gòn, ông đã tham gia thành lập Ủy ban Kiến quốc với mục tiêu phò tá hoàng thân Cường Để. Tuy nhiên Nhật không ủng hộ Cường Để về nước làm vua mà ủng hộ Bảo Đại lập chính quyền thân Nhật với quốc hiệu mới là Đế quốc Việt Nam. Bảo Đại đã từng mời ông làm thủ tướng trong chính quyền mới nhưng không thành mà thay vào đó là Trần Trọng Kim.", "Trong Chiến tranh Đông Dương.", "Bị Việt Minh bắt.", "Sau khi Bảo Đại thoái vị ngày 25 tháng 8 năm 1945, Mặt trận Việt Minh giành chính quyền, Ngô Đình Diệm cùng với một số người thân trong gia đình bị Việt Minh bắt ở Tuy Hoà, Phú Yên ngoại trừ Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn. Anh cả Ngô Đình Diệm là Ngô Đình Khôi cùng con trai mình là Ngô Đình Huân trên đường bị du kích giải ra Hà Nội thì bị lực lượng áp tải này xử bắn Nguyên do là trong Cách mạng tháng 8 năm 1945, Ngô Đình Khôi khuyên hoàng đế Bảo Đại đừng thoái vị vì ông đã tích trữ được một số vũ khí, lại có thêm Ngô Đình Huân giữ vai trò liên lạc giữa triều đình Huế và Đế quốc Nhật Bản, nên có người tố cáo cha con ông Khôi có âm mưu cấu kết với Nhật chống lại Việt Minh. Thời điểm đó, một đơn vị biệt kích Pháp nhảy dù xuống miền Tây Thừa Thiên nhưng bị dân quân Việt Minh bắt, tài liệu tịch thu được cho thấy nhóm này có nhiệm vụ liên lạc với các quan lại bản xứ (bao gồm Ngô Đình Khôi) để lập lại chủ quyền của Pháp ở Đông Dương nhưng việc chưa thành thì đã bị bắt, nên Ngô Đình Khôi bị xử bắn vì tội danh thông đồng với Pháp.", "Ngô Đình Diệm bị giải ra Hà Nội. Sau đó Ngô Đình Nhu cũng bị Việt Minh bắt giam rồi được thả. Theo phim tài liệu \"Sứ mệnh đặc biệt\" của Đài Truyền hình Việt Nam nói về chuyến công tác phía nam của ông Hoàng Quốc Việt trong Cách mạng Tháng Tám, thì ông Hoàng Quốc Việt (sau khi nghe ông Hải, Bí thư Ban cán sự Đảng tỉnh Quảng Ngãi báo cáo đã bắt được Ngô Đình Diệm) đã thả ông Diệm theo chỉ thị của Hồ Chí Minh rằng các nhân sĩ trí thức phải được thả ra, và đưa ông Diệm ra Hà Nội gặp Hồ Chí Minh.", "Ngô Đình Diệm bị giam tại tỉnh miền núi Tuyên Quang ít lâu rồi được trả tự do theo lệnh ân xá vào đầu năm 1946. Theo tài liệu của Mỹ, tại Hà Nội, Ngô Đình Diệm gặp Hồ Chí Minh. Ngô Đình Diệm hỏi chủ tịch Hồ Chí Minh lý do xử bắn anh của ông thì được Hồ Chí Minh giải thích rằng đó một hành động tự phát của du kích địa phương trong lúc đất nước đang rơi vào tình trạng hỗn loạn. Sau đó, cũng theo tài liệu của Mỹ, Hồ Chí Minh mời Ngô Đình Diệm giữ chức thủ tướng vì cho rằng ông có tài lãnh đạo. Ngô Đình Diệm trả lời rằng ông chỉ đồng ý lời mời đó với điều kiện ông được Việt Minh thông báo về tất cả mọi hành động và biết riêng mọi quyết định của họ. Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chối yêu cầu này do đó Ngô Đình Diệm từ chối hợp tác với Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh vẫn giao cho ông làm phụ tá của Bảo Đại, là cố vấn tối cao của Chính phủ.", "Hoạt động chính trị.", "Sau khi được Việt Minh phóng thích, Ngô Đình Diệm duy trì các mối liên lạc với một số lãnh đạo Việt Minh với hy vọng có thể thuyết phục họ bỏ Hồ Chí Minh và quay sang ủng hộ ông. Những cuộc trao đổi này khơi dậy những quan tâm đáng kể trong hàng ngũ lãnh đạo Việt Minh ở Nam Bộ trong năm 1947-1948. Nhiều quan chức Việt Minh ngưỡng mộ Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Thục, thậm chí còn có tin đồn Ngô Đình Diệm đã lôi kéo được tướng Nguyễn Bình, chỉ huy quân sự cao nhất của Việt Minh ở Nam Bộ, đào ngũ (về sau tin đồn này được xác định là không đúng). Ông cũng tìm cách liên minh với các lãnh đạo các đảng phái khác. Giữa năm 1947, ông liên minh với Nguyễn Tôn Hoàn, một lãnh đạo Công giáo ở Nam Bộ và là thành viên sáng lập Đại Việt Quốc dân Đảng. Suốt mùa thu năm ấy, Ngô Đình Diệm và Nguyễn Tôn Hoàn cùng hợp tác để thuyết phục những người chống cộng tham gia một liên hiệp mới với tên gọi Việt Nam Quốc gia Liên hiệp, mục đích của Liên hiệp là vận động cho một phong trào chính trị mới được Bảo Đại hỗ trợ.", "Tháng 2 năm 1948, Ngô Đình Diệm và các lãnh đạo phe quốc gia gặp nhau tại Sài Gòn để thảo ra một kế hoạch đàm phán với Pháp về vấn đề độc lập của Việt Nam. Năm 1948, khi cựu hoàng Bảo Đại sống lưu vong ở Hồng Kông đang điều đình với Pháp để ký hiệp định Pháp-Việt, Ngô Đình Diệm sang Hồng Kông thuyết phục Bảo Đại kiên định trong \"vấn đề độc lập dân tộc\". Ông cũng vận động các quan chức Pháp nhượng bộ thêm về phạm vi chủ quyền của Việt Nam. Sau đó khi Bảo Đại ký hiệp định với Pháp ở Hạ Long cho Việt Nam một nền độc lập hạn chế, Ngô Đình Diệm tỏ ra thất vọng. Ông từ chối lời mời làm Thủ tướng Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại với lý do \"không tin người Pháp, càng không tin vào nền độc lập nửa vời mà Pháp vẽ ra\", và quay về Huế sống với Ngô Đình Cẩn và có thời gian Ngô Đình Diệm lên sống với vợ chồng Ngô Đình Nhu ở Đà Lạt.", "Ngày 16 tháng 6 năm 1949, Ngô Đình Diệm cho đăng một tuyên bố hoàn toàn phủ nhận Hiệp ước Elysée bằng cách đòi hỏi quyền tự trị lãnh thổ cho Việt Nam. Đồng thời, ông cũng thông báo không có ý định hợp tác với Việt Minh và kêu gọi một phong trào chống thực dân mới dưới sự lãnh đạo của “\"những thành viên đã có những cống hiến xứng đáng cho Tổ quốc\"” và đặc biệt là “\"những người kháng chiến\"” với ý định thách thức Việt Minh bằng cách lôi kéo một số người muốn bỏ Việt Minh để ủng hộ ông. Ngô Đình Diệm cũng tuyên bố viễn kiến về một cuộc cách mạng xã hội ngang với những cương lĩnh chính trị từ các đối thủ của ông: “\"... nên biết rằng cuộc tranh đấu hiện tại không phải chỉ là một cuộc chiến đấu cho độc lập Tổ quốc về phương diện chính trị mà thôi, mà còn là một cách mạng xã hội để đem lại độc lập cho nông dân và thợ thuyền Việt Nam. Để cho tất cả mọi người trong nước Việt Nam mới có đủ phương tiện để sống xứng đáng với phẩm cách con người, con người tự do thực sự, tôi chủ trương những sự cải cách xã hội hết sức tân tiến và mạnh bạo, miễn là phẩm cách con người vẫn luôn luôn được tôn trọng và được tự do nẩy nở.\"” Tuyên bố của ông được nhiều người đọc và được chú ý trên khắp Việt Nam, nhưng nó không thu hút được sự ủng hộ của quần chúng, cũng không gây tác hại gì cho “giải pháp Bảo Đại”. Trên thực tế, hiệu quả của nó là chấm dứt sự kiên nhẫn của cả Pháp lẫn Việt Minh trong việc tìm cách lôi kéo ông khiến ông buộc phải cân nhắc những chiến lược khác và đi tìm những đồng minh mới.", "Sau đó, ông cùng anh mình là Giám mục Ngô Đình Thục và người em Ngô Đình Nhu thành lập Đảng Xã hội Thiên Chúa giáo. Ngô Đình Diệm muốn xây dựng một phong trào mới có thể áp đảo cả Pháp và Việt Minh. Ông chọn một vị trí trung lập bề ngoài trong cuộc xung đột, cố gắng xây dựng và duy trì quan hệ với cả hai phía. Ngô Đình Diệm hy vọng có thể có thêm thời gian để mở rộng nhóm ủng hộ mình và gây thiệt hại cho cả hai đối thủ.", "Năm 1950, Việt Minh cố gắng giết Ngô Đình Diệm trên đường ông đi thăm anh là Giám mục Ngô Đình Thục tại Vĩnh Long. Ông theo anh là Giám mục Ngô Đình Thục đi Vatican, rồi sau đó sang Nhật gặp hoàng thân Cường Để đang sống ở đây.", "Vận động chính trị tại Mỹ.", "Trong thời gian ở Nhật, ông gặp tướng Douglas MacArthur chỉ huy quân Mỹ tại Nhật để thuyết phục Mỹ ủng hộ nền độc lập của Việt Nam, nhưng tướng Douglas MacArthur tiếp kiến ông và Giám mục Ngô Đình Thục rất lạnh nhạt, không có biểu hiện gì cho thấy tướng Douglas MacArthur sẽ ủng hộ Việt Nam. Theo lời khuyên của Wesley Fishel, giáo sư chính trị Đại học Michigan, ông Diệm sang Hoa Kỳ để thuyết phục Tổng thống Mỹ Eisenhower ủng hộ Việt Nam độc lập. Tháng 9 năm 1950, Ngô Đình Diệm đến Washington gặp các viên chức Bộ Ngoại giao Mỹ nhưng ông không gây được ấn tượng với họ. Sau khi gặp, một quan chức Bộ Ngoại giao Mỹ nhận xét Ngô Đình Diệm “\"quan tâm ngang bằng nếu không nói là hơn… đến việc thực hiện các tham vọng cá nhân, thay vì giải quyết những vấn đề phức tạp mà đất nước của ông đang đối mặt ngày hôm nay\"”. Tháng 10 năm 1950, Ngô Đình Diệm sang Vatican gặp Giáo hoàng rồi đến Paris gặp các quan chức Việt và Pháp đồng thời đề nghị Bảo Đại bổ nhiệm ông làm thủ tướng Quốc gia Việt Nam với điều kiện ông có đủ thẩm quyền để chỉ đạo các cơ quan hành chính tại Việt Nam nhưng Bảo Đại chỉ trả lời chung chung.", "Thời gian hai năm kế tiếp Ngô Đình Diệm sang Mỹ phần lớn lưu trú tại các trường dòng Lakewood ở New Jersey và trường dòng Ossining ở New York. Ông dùng đủ mọi cách để tranh thủ sự ủng hộ của chính quyền Eisenhower nhưng cũng không thành công vì Mỹ đang bận tham chiến tại Triều Tiên và Mỹ không muốn làm mất lòng người Pháp. Đây cũng là thời kỳ Ngô Đình Diệm gặp Hồng y Spellman, người đồng ý làm trung gian để ông có cơ hội diện kiến với những nhân vật quan trọng trong chính quyền Hoa Kỳ. Qua trung gian của Hồng y Spellman, ông Diệm đã gặp gỡ và tranh thủ được tình cảm của dân biểu Walter H. Judd, Thượng nghị sĩ Mike Mansfield, nhất là Thượng nghị sĩ John F. Kennedy (Kennedy sau này trở thành Tổng thống Mỹ). Ngô Đình Diệm tìm kiếm sự hỗ trợ của người Mỹ cho những kế hoạch chính trị của ông cũng như thu hút những người Mỹ tin vào phát triển, hiện đại hoá và khả năng biến đổi Việt Nam dựa trên nền tảng công nghệ Mỹ. Đặc biệt, ông tìm cách khai thác những quan tâm chính thức mới (của Mỹ) trong việc “hỗ trợ kỹ thuật” cho nước ngoài. Cũng nhờ sự giới thiệu của Spellman và một vài nhân vật cấp cao của CIA, Ngô Đình Diệm vào ở ẩn ở các chủng viện lớn như Maryknoll, Lakewood rồi vào trường đại học Michigan tham gia một số khóa học. Có thể nói, người đã giúp đỡ ông Diệm rất nhiều khi ở Mỹ là Hồng y Spellman. Nhà sử học John Cooney đã viết:", "\"Tuy rằng không có mấy người biết điều này, Hồng y Spellman đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tạo nên sự nghiệp chính trị của một người đã ở trong một Trường Dòng ở New York trước đây, vừa trở thành Thủ tướng của miền Nam Việt Nam: Ngô Đình Diệm. Ở Diệm, Spellman nhìn thấy những đặc điểm mà ông ta muốn có trong mọi chính khách: Công giáo nồng nhiệt và chống Cộng điên cuồng.\"", "Nhờ sự giúp đỡ của Wesley Fishel, Ngô Đình Diệm làm cố vấn tại đại học Michigan. Ông và Fishel hợp tác soạn thảo một dự án trợ giúp kỹ thuật cho Việt Nam. Năm 1952, Fishel viết thư gửi US Mutual Security Agency (Cơ quan An ninh Hỗ tương Hoa Kỳ) cho rằng Việt Nam cần sự giúp đỡ trong nhiều lĩnh vực khác nhau như “khoa học cảnh sát”, “vấn đề ngoại thương” và thậm chí “nghiên cứu về việc chọn theo các thể chế dân chủ”. Sau năm 1954, các quan hệ cá nhân ông thiết lập được trong thời gian sống lưu vong sẽ giúp ông giành được sự ủng hộ chính thức của Hoa Kỳ dành cho cá nhân và chính phủ của ông nhưng vào tháng 5 năm 1953, những người bạn Mỹ của ông mới chỉ ủng hộ bằng những lời động viên và khích lệ tinh thần.", "Trong thời gian sống tại Mỹ, thỉnh thoảng ông cũng sang các nước châu Âu nên có thêm kinh nghiệm hoạt động chính trị. Tháng 5 năm 1953, theo lời mời của một số chính khách Kitô giáo lưu vong theo chủ nghĩa dân tộc có khuynh hướng chống Cộng, Ngô Đình Diệm bay sang Pháp rồi sau đó qua Bỉ trú ngụ tại một tu viện lớn.", "Năm 1954, Ngô Đình Diệm từ Bỉ trở lại Paris sống tại nhà ông Tôn Thất Cẩn (con trai của cụ Thân thần phụ chính Tôn Thất Hân). Tại đây, với sự yểm trợ của Ngô Đình Luyện, Diệm bắt đầu vận động trong giới chính khách Việt sống lưu vong.", "Tại cuộc họp do Hội \"American Friends of Vietnam\", một tổ chức vận động ủng hộ Ngô Đình Diệm ở Washington D.C. ngày 1/6/1956, John F. Kennedy (về sau là Tổng thống Mỹ) tuyên bố: ", "Thủ tướng Quốc gia Việt Nam.", "Trở thành Thủ tướng.", "Sau 4 năm Hiệp định Elysée được ký kết, lãnh đạo các đảng phái quốc gia đang mất hết kiên nhẫn với Bảo Đại và chiến lược giành độc lập từng bước trong Liên hiệp Pháp của Bảo Đại. Pháp rất ít khi nhượng bộ chủ nghĩa dân tộc tại Việt Nam. Quốc gia Việt Nam chỉ độc lập trên danh nghĩa. Đa số lãnh đạo phe quốc gia thất vọng với thủ tướng Nguyễn Văn Tâm, nổi tiếng thân Pháp và chuyên quyền. Họ cũng nổi giận vì quyết định đơn phương của Paris trong việc phá giá đồng bạc Đông Dương vào đầu tháng 5 năm 1953, vi phạm những thoả thuận trước đó với các quốc gia thuộc Liên hiệp Pháp, đồng thời làm gia tăng lạm phát và khó khăn ở Đông Dương. Lợi dụng tình thế này Ngô Đình Nhu khéo léo kích động sự bất mãn và gợi ý triệu tập Đại hội Đoàn kết các đảng phái quốc gia tại Sài Gòn vào đầu tháng 9, sau khi Bảo Đại rời Việt Nam đi Pháp. Đại hội Đoàn kết diễn ra ngày 5, 6 tháng 9 năm 1953 không xây dựng được liên minh nào và cũng không đưa ra lập trường chính trị chính thức nào. Tháng 10 năm 1953, các đảng phái quốc gia lại nhóm họp và phê chuẩn quyết định bác bỏ sự tham dự của Việt Nam vào Liên hiệp Pháp và ủng hộ việc độc lập hoàn toàn. Đứng trước sự bất mãn tăng cao của các lãnh đạo đảng phái, tôn giáo, Bảo Đại phải thân thiện hơn với Ngô Đình Diệm và cân nhắc lại khả năng bổ nhiệm ông vào chức thủ tướng. Ngày 26 tháng 10, Bảo Đại gặp Ngô Đình Diệm ở Cannes để thăm dò lòng trung thành của ông này với Bảo Đại và khả năng bổ nhiệm ông vào chức thủ tướng. Tháng 12, 1953, Bảo Đại cách chức Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm và bổ nhiệm Nguyễn Phúc Bửu Lộc, một thành viên của hoàng tộc, làm thủ tướng. Đầu tháng 3 năm 1954, sau khi Bảo Đại chấp thuận trên nguyên tắc việc thành lập Quốc hội mới, Ngô Đình Nhu và những đồng minh của ông xuất bản một bài viết ở Sài Gòn thúc ép Bảo Đại nhượng bộ thêm.", "Đầu năm 1954, trong khi Pháp đang gặp khó khăn tại trận Điện Biên Phủ, Bảo Đại liên tục nhờ người chuyển lời với ông Diệm đang ở Hoa Kỳ, yêu cầu ông trở về nước thành lập chính phủ mới. Ông Diệm tiếp tục từ chối lời mời của Bảo Đại với lý do không tin tưởng vào người Pháp. Sau khi thất bại tại Điện Biên Phủ, Pháp đàm phán hiệp ước trao trả hoàn toàn độc lập cho Việt Nam. Ngày 16/6/1954, Quốc trưởng Bảo Đại gặp Ngô Đình Diệm tại Pháp. Ông Diệm đồng ý trở về nước làm Thủ tướng theo lời mời của Bảo Đại với điều kiện Bảo Đại phải đồng ý để chính phủ do ông thành lập được toàn quyền về chính trị và quân sự. Bảo Đại đồng ý với yêu cầu này, sau đó ông Diệm về nước và chính thức được bổ nhiệm làm thủ tướng. Ngày 7/7/1954, Ngô Đình Diệm thành lập chính phủ mới với nội các gồm 18 người. Sau này Bảo Đại viết trong hồi ký của mình:", "“\"Từ những gì tôi biết về ông, tôi biết rằng ông Diệm là một người khó tính. Tôi cũng biết về sự cuồng tín và xu hướng thiên về Thiên Chúa của ông. Nhưng, trong hoàn cảnh hiện tại, không có một lựa chọn nào tốt hơn. Ông được người Mỹ biết đến, và họ đánh giá cao tính không khoan nhượng của ông. Trong mắt họ, ông là người xứng đáng với chức vụ đó nhất, và Washington sẽ không dè xẻn trong việc ủng hộ ông. Bởi vì quá khứ [của ông Diệm] và bởi vì sự hiện diện của người em ông ở vị trí hàng đầu của “Phong trào Công đoàn Quốc gia”, ông sẽ có được sự cộng tác của những người quốc gia thế lực nhất, những người đã hạ bệ ông Tâm và ông Bửu-Lộc. Cuối cùng, cũng vì tính không khoan nhượng và sự cuồng tín của mình, ông là người ta có thể trông cậy được trong việc chống lại chủ nghĩa cộng sản. Đúng, ông chính là người cần thiết cho hoàn cảnh như vậy.\"”", "Các sử gia vẫn chưa tìm ra được một tài liệu hoặc bằng chứng nào cho thấy Hoa Kỳ đã bí mật đưa Ngô Đình Diệm vào chức vụ thủ tướng năm 1954. Vào tháng 5 năm 1954, Bảo Đại hầu như không còn lựa chọn nào khác ngoài việc giao cho Ngô Đình Diệm chức thủ tướng với những điều kiện mà Ngô Đình Diệm đã đòi hỏi từ lâu: Quốc gia Việt Nam phải có toàn quyền trong mọi khía cạnh hành chính, quân sự và kinh tế.", "Trong thời kỳ đầu làm thủ tướng Quốc gia Việt Nam, thực tế ông không có quyền lực đối với các lực lượng quân đội, cảnh sát với những người đứng đầu là Nguyễn Văn Hinh và Lê Văn Viễn. Hai lực lượng này liên minh với nhau nhằm chống lại chính phủ trung ương, trong khi thủ tướng cũng không kiểm soát được bộ máy quan chức dân sự vì các viên chức Pháp đang còn nhiều, nắm giữ các vị trí then chốt. Nền tài chính vẫn do ngân hàng Đông Dương mà phía sau là chính phủ Pháp quản lý. Thực tế trong giai đoạn đầu cầm quyền thủ tướng ông không có nhiều quyền hành.", "Được Mỹ ủng hộ.", "Mỹ cho rằng Hiệp định Genève, 1954 là một tai họa đối với \"thế giới tự do\" vì nó trao cho Trung Hoa cộng sản và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa căn cứ để khai thác tại Đông Nam Á. Mỹ muốn ngăn chặn điều này bằng cách ký kết Hiệp ước SEATO ngày 8 tháng 9 năm 1954 và mong muốn biến miền Nam Việt Nam thành một pháo đài chống cộng. Để làm được điều này Mỹ cần sự ủng hộ của Quốc gia Việt Nam. Kế hoạch của Mỹ là viện trợ cho chính phủ Ngô Đình Diệm để giúp miền Nam Việt Nam hoàn toàn độc lập với Pháp (đó là cách duy nhất để lôi kéo những người dân tộc chủ nghĩa rời xa Việt Minh và ủng hộ Quốc gia Việt Nam); Mỹ cũng thúc đẩy Ngô Đình Diệm thành lập một chính quyền đoàn kết quốc gia đại diện cho những xu hướng chính trị chính tại Việt Nam, ổn định miền Nam Việt Nam, bầu ra Quốc hội, soạn thảo Hiến pháp rồi sau đó phế truất Quốc trưởng Bảo Đại một cách hợp pháp; cuối cùng do Ngô Đình Diệm là một người quốc gia không có liên hệ gì trong quá khứ với Việt Minh và Pháp do đó miền Nam Việt Nam sẽ trở nên chống Cộng mạnh mẽ. Công thức này đòi hỏi một sự hợp tác từ cả Pháp và Mỹ để hỗ trợ Ngô Đình Diệm. Tuy nhiên, Pháp không có thiện cảm với Ngô Đình Diệm, Ngoại trưởng Pháp Edgar Faure (sau này là thủ tướng Pháp) cho rằng Diệm \"\"không chỉ không có khả năng mà còn bị điên\"... Pháp không thể chấp nhận rủi ro với ông ta\", hơn nữa Pháp đang bị chia rẽ chính trị nội bộ và gặp khó khăn tại Algérie nên rất miễn cưỡng trong việc giúp đỡ Quốc gia Việt Nam do đó Mỹ đã tiến hành kế hoạch một mình mà không có Pháp trợ giúp.", "Thủ tướng Pháp Edgar Faure còn đe dọa rút hết quân đội Pháp ra khỏi Đông Dương vào cơ hội sớm nhất, gây thêm xáo trộn. Tổng Tham mưu Hoa Kỳ thì cho rằng: \"Chính phủ Diệm có khả năng lớn nhất để ổn định nội bộ, một điều cần thiết cho an ninh Việt Nam. Bởi vậy, việc Pháp rút lui tuy tuy rằng sẽ làm cho Miền Nam kém ổn định, nhưng rồi các biện pháp của Mỹ trong khuôn khổ SEATO sẽ giúp cho Miền Nam được an toàn, không kém gì sự có mặt tiếp tục của quân đội Pháp.\" Ủy ban Kế Hoạch của Hội đồng An Ninh Quốc gia bình luận thêm \"Việc Pháp rút lui lại giúp cho Hoa Kỳ hết bị dính vào dấu vết của thực dân (‘taint of colonialism’) và chấm dứt khả năng nguy hiểm là Pháp sẽ làm một sự đổi chác với Việt Minh.\"\"", "Sau những cuộc tiếp xúc với các lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một số chính trị gia Pháp cho rằng Quốc gia Việt Nam đã suy yếu và biện pháp duy nhất có thể cứu vãn tình thế là hợp tác với Việt Minh và lôi kéo họ khỏi sự ràng buộc với khối cộng sản với hy vọng tạo ra một Việt Minh theo kiểu Tito có thể cộng tác với Pháp và thậm chí có khả năng tham gia khối Liên hiệp Pháp. Điều này làm Mỹ lo sợ. Ngày 23/10/1954, tổng thống Hoa Kỳ - Eisenhower gửi công hàm chính thức cho Thủ tướng Ngô Đình Diệm cho biết từ đây chính phủ Quốc gia Việt Nam sẽ nhận viện trợ trực tiếp của chính phủ Hoa Kỳ chứ không qua nhà đương cục Pháp như trước.", "Xung đột với Pháp.", "Ngô Đình Diệm muốn miền Nam Việt Nam hoàn toàn độc lập, không phụ thuộc Pháp lẫn Bảo Đại. Ông cho rằng Pháp đã thất bại trong cuộc chiến chống lại người cộng sản cũng như những người theo chủ nghĩa dân tộc tại Việt Nam. Chế độ thuộc địa đã chấm dứt và những lời hứa hẹn của Pháp về nền độc lập của Việt Nam đã bị phá vỡ. Theo ông cơ hội duy nhất cho chính phủ quốc gia Việt Nam đứng vững được là phải thoát khỏi những ảnh hưởng còn sót lại của Pháp, và ông quyết định phải thực hiện mục tiêu đó. Quan điểm của Ngô Đình Diệm là \"Muốn thuyết phục được nhân dân Việt Nam là chính quyền này độc lập thì cần thiết về mặt chính trị phải tỏ ra là chống thực dân và đặc biệt là chống Pháp\". Chỉ sau vài tháng nắm quyền thủ tướng, tháng 12 năm 1954 ông bãi bỏ quyền phát hành giấy bạc của Ngân hàng Đông Dương (một cơ quan do Pháp thành lập), từ nay giấy bạc lưu hành trên lãnh thổ miền Nam sẽ do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam mới thành lập phát hành và cục hối đoái giao cho chính phủ Quốc gia Việt Nam quản lý. Tiếp đó ông yêu cầu chính phủ Pháp trong vòng năm tháng thực hiện chuyển giao cho Quốc gia Việt Nam mọi công tác của Quân đội Quốc gia Việt Nam còn phụ thuộc vào bộ chỉ huy Liên hiệp Pháp.", "Phản ứng lại hành động của Thủ tướng Ngô Đình Diệm đang từng bước loại bỏ ảnh hưởng của Pháp tại Việt Nam, Pháp muốn duy trì ảnh hưởng tại miền Nam nhưng lại gặp phải một Thủ tướng có tinh thần dân tộc nên họ tìm mọi cách loại bỏ để thay thế bằng một người lãnh đạo thân Pháp. Thông qua một số nhân vật ngoại giao như đại sứ Mỹ Donald R. Heath tại Sài Gòn, đại sứ Mỹ Douglas Dillon tại Paris, Pháp tìm cách thuyết phục Mỹ đồng ý loại trừ ông Diệm bằng cách chỉ trích ông thiếu năng lực và không có khả năng đại diện nhân dân vì không có được sự cộng tác và ủng hộ của các phe phái tại Miền Nam do đó không có khả năng thắng trong cuộc Tổng tuyển cử dự tính được tổ chức năm 1956. Tài liệu mật số 1691/5 (ngày 15 tháng 4 năm 1955) của Bộ Quốc phòng Mỹ ghi nhận Pháp muốn giữ vai trò lịch sử lâu dài của mình tại Việt Nam và bảo vệ những đầu tư kinh tế, tài chính của Pháp tại đây.", "Lúc đó, Quốc trưởng Bảo Đại vẫn còn ở Cannes, quân đội Việt Nam còn nằm trong Liên Hiệp Pháp, và Tổng Tham mưu Trưởng quân đội, tướng Nguyễn Văn Hinh (con trai cựu thủ tướng Nguyễn Văn Tâm, người nổi tiếng thân Pháp) là một sĩ quan cũ trong Không quân Pháp, có vợ là người Pháp. Cảnh sát do lực lượng Bình Xuyên nắm giữ (thủ lĩnh là tướng Lê Văn Viễn), ngay cả lực lượng an ninh văn phòng phủ Thủ tướng Ngô Đình Diệm cũng do cảnh sát gửi đến. Chính vì thế Pháp tìm cách loại trừ Ngô Đình Diệm hoặc bằng một cuộc đảo chính, hoặc bằng cách thuyết phục Bảo Đại cách chức ông Diệm và bất hợp tác với Mỹ trong việc huấn luyện quân đội Quốc gia Việt Nam. Pháp tổ chức một cuộc họp chính trị có sự tham dự của tướng Nguyễn Văn Hinh, lãnh đạo các giáo phái, một số quan chức Pháp và đại sứ Mỹ Donald R. Heath tại Sài Gòn để đề nghị mọi người đồng ý thay thế chính phủ Diệm.", "Tướng Nguyễn Văn Hinh có tham vọng làm Thủ tướng Quốc gia Việt Nam bắt đầu công khai chống lại Thủ tướng Diệm và còn khoe \"Tôi chỉ cần nhấc cái ống điện thoại lên là có thể dẹp được Diệm rồi.\". Ngô Đình Diệm đối phó bằng cách ra lệnh cho Tướng Nguyễn Văn Hinh đi nghỉ để nghiên cứu trong sáu tuần và phải xuất ngoại trong 24 giờ. Tướng Nguyễn Văn Hinh bất tuân thượng lệnh. Một tuần sau, ông cho phổ biến tuyên bố về việc ông không tuân lệnh ông Diệm và một điện tín ông đã gửi thẳng cho Quốc trưởng Bảo Đại yêu cầu can thiệp. Cùng ngày, Ngô Đình Diệm tuyên bố tướng Hinh nổi loạn. Tướng Hinh cho xe thiết giáp bảo vệ tư dinh của mình, đồng thời phái một lực lượng bao vây Dinh Độc Lập. Trong thời gian 6 tuần tiếp theo, tình hình đi tới chỗ bế tắc. Ngày 20 tháng 9 năm 1954, 15 bộ Trưởng trong nội các Ngô Đình Diệm đồng loạt từ chức. Quân đội dưới quyền tướng Nguyễn Văn Hinh cũng đã sẵn sàng chờ lệnh để tấn công.", "Trước tình thế đó, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ gửi công điện cho Đại sứ Donald R. Heath và tướng John W. O'Daniel chỉ thị phải \"nói không úp mở (với Pháp và Tướng Hinh) rằng Hoa Kỳ sẽ không dự trù hoặc triển hạn những viện trợ lâu dài cho quân đội Việt Nam nếu còn một chút nghi ngờ gì về sự trung thành của vị tổng tham mưu trưởng và các sĩ quan cao cấp.\"", "Cố vấn quân sự Mỹ là Edward Lansdale, người chịu trách nhiệm hỗ trợ chính phủ Ngô Đình Diệm, đàm phán với tướng Trình Minh Thế về việc sử dụng lực lượng vũ trang của ông ta để hỗ trợ cho Thủ tướng Ngô Đình Diệm và Quân đội Việt Nam Cộng hòa.", "Sau khi Ngô Đình Nhu và Edward Lansdale phát hiện được âm mưu đảo chính của tướng Nguyễn Văn Hinh, Edward Lansdale đã mua chuộc được các sĩ quan cấp dưới của tướng Nguyễn Văn Hinh đi nghỉ mát. Thiếu những thuộc hạ cốt cán này, cuộc đảo chính đã không thể tiến hành được.", "Ngô Đình Diệm đã buộc tướng Nguyễn Văn Hinh từ chức, giao quyền lại cho tướng Nguyễn Văn Vỹ. Nguyễn Văn Hinh chạy đến Paris vào ngày 13 tháng 11 năm 1954. Ngô Đình Diệm đồng thời cương quyết từ chối cho thủ lĩnh Lực lượng Bình Xuyên là tướng Bảy Viễn (tức Lê Văn Viễn) tham gia chính quyền dù Bảy Viễn đe dọa \"tắm máu\" Sài Gòn nếu yêu cầu của mình không được đáp ứng.", "Tháng 12 năm 1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm xóa bỏ tất cả các hiệp ước kinh tế, tài chính ký kết với Pháp trước đó, yêu cầu Pháp hủy bỏ Hiệp định Geneve và cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau đó Ngô Đình Diệm rút đại diện của Quốc gia Việt Nam ra khỏi Liên hiệp Pháp. Ngày 22 tháng 3 năm 1956, Pháp thỏa thuận với Quốc gia Việt Nam rút toàn bộ quân đội Pháp ra khỏi Việt Nam. Ngày 26 tháng 4 năm 1956, Pháp giải thể Bộ chỉ huy quân sự Pháp tại Sài Gòn.", "Xung đột với Quốc trưởng Bảo Đại.", "Ngoài ra Thủ tướng Ngô Đình Diệm trực tiếp đối đầu với Quốc trưởng Bảo Đại khi ông thông qua Dụ số 21 ngày 11 tháng 3 năm 1955 chính thức sáp nhập vùng đất Hoàng triều Cương thổ lại vào Trung phần chấm dứt đặc quyền của người Pháp và Cựu hoàng Bảo Đại trên vùng Tây Nguyên và danh xưng Cao nguyên Trung phần được dùng lại. Ông còn tổ chức những chiến dịch tuyên truyền chống lại Quốc trưởng Bảo Đại.", "Quốc trưởng Bảo Đại thấy không điều khiển được Ngô Đình Diệm nên cũng tán thành theo người Pháp, gây áp lực đòi Mỹ rút lại mọi ủng hộ cho chính phủ Ngô Đình Diệm và gây sức ép buộc ông ta phải từ chức. Bảo Đại muốn đưa Nguyễn Văn Xuân lên làm Thủ tướng, hoặc Phó thủ tướng, Nguyễn Văn Hinh làm Tổng Tham mưu trưởng còn tướng Bình Xuyên Bảy Viễn làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Các giáo phái lớn tại miền Nam quyết định không hoàn toàn ủng hộ bên nào.", "Ngày 18 tháng 10 năm 1955, Quốc trưởng Bảo Đại ra thông cáo từ văn phòng của ông ở Paris tuyên bố cách chức Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Ngô Đình Diệm với lý do \"việc dùng các biện pháp công an trị và chế độ độc tài cá nhân phải kết thúc, tôi không thể tiếp tục để tên tuổi và quyền lực của mình vào tay một người sẽ khiến cả nước rơi vào đổ nát, đói kém và chiến tranh.\". Tuy nhiên Ngô Đình Diệm đã chặn được thông điệp này khiến nó không đến được với dân chúng.", "Âm mưu thay thế Ngô Đình Diệm của Mỹ.", "Sau đó, Tổng thống Mỹ Eisenhower cử ông Joseph Lawton Collins thay thế Donald R. Heath làm đại sứ tại Việt Nam. Tướng Pháp Paul Ély thuyết phục Collins chống Ngô Đình Diệm. Collins chỉ trích Ngô Đình Diệm yếu kém và đề nghị Mỹ tìm cách thay thế Ngô Đình Diệm. Collins quay về Mỹ vài lần, thuyết phục chính phủ Mỹ gây sức ép buộc Ngô Đình Diệm từ chức. Thời điểm này, chính phủ của Ngô Đình Diệm cũng như bản thân ông tồn tại được thực chất là nhờ những tác động hết sức cần thiết của những người bạn là dân biểu và thượng nghị sĩ Mỹ mà ông đã tranh thủ được khi sang Mỹ vận động vào năm 1950. Khi Collins yêu cầu Washington phải thay thế Ngô Đình Diệm, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Dulles tham vấn Thượng nghị sĩ Mike Mansfield. Thượng nghị sĩ Mike Mansfield khen ngợi Ngô Đình Diệm hết lời nên Ngoại trưởng Dulles chỉ thị Collins tiếp tục ủng hộ ông Diệm.", "Khi Collins trở về Mỹ, ngày 22 tháng 4 năm 1955, ông dùng bữa trưa với Tổng thống Eisenhower. Sau đó ông gặp Ngoại trưởng Dulles cùng với các đại diện Bộ Quốc phòng và Trung ương Tình báo để thuyết phục các quan chức Mỹ khác đồng ý thay thế Ngô Đình Diệm và phải có kế hoạch hành động ngay tức khắc. Collins đề nghị ông Phan Huy Quát thay thế Ngô Đình Diệm. Ngày 27 tháng 4 năm 1955, Ngoại trưởng Mỹ Dulles gửi điện cho Collins rằng \"Tướng Collins và Ely phải thông báo cho ông Diệm biết rằng vì lý do ông không thành lập được một chính phủ liên hiệp có cơ sở rộng rãi và ông bị người Việt chống đối, chính phủ Hoa Kỳ và Pháp không còn đủ tư thế để ngăn ngừa việc ông phải từ chức. Những đức tính yêu nước của ông vẫn có giá trị tiềm năng lớn đối với Việt Nam, và chúng ta hy vọng rằng ông sẽ hợp tác với bất kỳ chính phủ mới nào được chỉ định...\"", "Mật điện này lọt ra ngoài, Thủ tướng Diệm biết được nên đã ra lệnh tấn công quân Bình Xuyên trong lúc ông Collins còn đang trên đường về Sài Gòn, điều này khiến Mỹ không thể hỗ trợ lực lượng nào tại Việt Nam gây sức ép buộc Diệm từ chức. Sau đó Bộ ngoại giao Mỹ tiếp tục sẵn sàng xem xét các đề nghị thay thế Ngô Đình Diệm nhưng không tìm thấy chính trị gia nào có thể cạnh tranh với Diệm.", "Từ chối tổng tuyển cử.", "Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Ngô Đình Diệm tuyên bố \"\"Chúng ta không gạt bỏ nguyên tắc tuyển cử coi như một phương tiện hòa bình và dân chủ thích đáng để thực hiện nền thống nhất ấy.\", \"thống nhất trong tự do, chứ không phải trong nô lệ\"\" nhưng ông bác bỏ cuộc tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam vốn được dự kiến diễn ra vào tháng 7 năm 1956 theo Tuyên bố cuối cùng của Hiệp định Genève với lý do không thể đảm bảo những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc. và bác bỏ ngay cả những thảo luận sơ khởi với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về vấn đề tuyển cử thống nhất Việt Nam. Hành động này khiến Ngô Đình Diệm bẽ mặt ở phương Tây.", "Theo Mortimer T. Cohen thì Ngô Đình Diệm không chấp nhận tổng tuyển cử, vì ông biết rằng mình sẽ thua. Không ai có thể thắng cử trước Hồ Chí Minh, vì ông là một George Washington của Việt Nam. Báo cáo của CIA gửi Tổng thống Mỹ Eisenhower cũng cho rằng khoảng 80% dân số Việt Nam sẽ bầu cho Hồ Chí Minh nếu mở cuộc tổng tuyển cử. Do vậy Hoa Kỳ đã hậu thuẫn cho Ngô Đình Diệm thành lập một chính thể riêng biệt ở phía Nam vỹ tuyến 17 để không thực hiện tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam. Cuộc tổng tuyển cử tự do cho việc thống nhất Việt Nam vì vậy đã không bao giờ được tổ chức.", "Theo nhận xét của Tây phương thì Ngô Đình Diệm là kẻ ngoan cố và khao khát quyền lực chuyên chế, nhưng theo Duncanson thì vấn đề phức tạp hơn thế. Miền Bắc có dân số đông hơn miền Nam 2 triệu người (tính cả gần 1 triệu người miền Bắc di cư vào Nam). Hơn nữa, vào thời điểm 1955 – 1956, trước sự hỗn loạn bởi các giáo phái và do hoạt động bí mật của Việt Minh tại miền Nam, cuộc Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam tạo ra bầu không khí căng thẳng dẫn đến cuộc nổi dậy của nông dân tại các vùng lân cận Vinh, những tình hình diễn ra ở cả hai miền khiến Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến Đông Dương không có hy vọng đảm bảo một cuộc bầu cử thật sự tự do trong đó cử tri có thể bỏ phiếu theo ý muốn mà không sợ bị trả thù chính trị. Tuy nhiên, trái ngược với quan điểm của Ducanson, theo các báo cáo của Ủy ban giám sát quốc tế thì trong giai đoạn 1954-1956, họ chỉ nhận được 19 đơn khiếu nại về việc trả thù chính trị trên toàn lãnh thổ miền Bắc Việt Nam.", "Năm 1956, Ngoại trưởng Allen Dulles đệ trình lên Tổng thống Mỹ Eisenhower báo cáo tiên đoán nếu bầu cử diễn ra thì \"thắng lợi của Hồ Chí Minh sẽ như nước triều dâng không thể cản nổi\". Trong tình thế này, Ngô Đình Diệm chỉ có một lối thoát là tuyên bố không thi hành Hiệp định Genève. Được Mỹ khuyến khích, Ngô Đình Diệm kiên quyết từ chối tuyển cử. Theo Cecil B. Currey, Mỹ muốn có một chính phủ chống Cộng tồn tại ở miền Nam Việt Nam, bất kể chính phủ đó có tôn trọng nền dân chủ hay không.", "Báo Độc Lập của Đảng Dân chủ Việt Nam (đảng liên minh với đảng Cộng sản) có viết: \"\"Cho nên mới tháng 9 năm 1954 nghĩa là hai tháng sau ngày ký Hiệp định đình chiến thì chúng đã nghĩ ra \"sáng kiến\" là làm thử tổng tuyển cử vài nơi ở miền Nam. Ở Vĩnh Trà (Nam Bộ), tay sai của Ngô Đình Diệm tìm cách mua chuộc nhân dân bằng cách đưa vải về một làng, phát cho dân rồi tuyên truyền cho Bảo Đại, phát phiếu cho dân làng bầu. Kết quả mà chúng lo sợ đã đến: chúng đã không mua chuộc nổi: 95% số phiếu dồn cho Hồ Chủ tịch, Bảo Đại chỉ được 5%. Chúng uất đến tận cổ. Báo cáo kết quả lên \"thượng cấp\" thì lại bị chỉnh một mẻ nên thân. \"Thượng cấp\" cho là chúng không tích cực tuyên truyền vận động, và bắt chúng phải làm lại. Chúng lại tìm cách mua chuộc một lần nữa. Một số vải, gạo, thuốc men, đưa về để phát cho dân, kèm theo một đợt tuyên truyền thứ hai. Nhưng cũng như lần trước, không ai chịu để chúng mua chuộc. Kết quả cuộc bỏ phiếu thứ hai là 100% bầu Hồ Chủ tịch. Ở cực Nam Liên khu V cũng diễn ra trò hề tương tự, và cũng thất bại không kém chua cay\"\".", "Theo Cao Xuân Vỹ, một người rất thân cận với Ngô Đình Nhu, năm 1963, ông và Ngô Đình Diệm bắt đầu tìm cách đàm phán với bên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc về hòa bình và tái thống nhất bằng việc ngừng chiến và rồi tổng tuyển cử, nhưng chưa thực hiện được thì họ Ngô bị đảo chính lật đổ", "Tổng thống Việt Nam Cộng hòa.", "Trở thành Tổng thống.", "Khi Quốc trưởng Bảo Đại ra lệnh cho Ngô Đình Diệm sang Pháp để tường trình về việc trấn áp Bình Xuyên thì ông đã sửa soạn ra đi nhưng những người ủng hộ ông can ngăn. Theo tướng Trần Văn Đôn thì Bảo Đại dự định khi Ngô Đình Diệm ra khỏi nước sẽ cách chức ngay, đưa Lê Văn Viễn, Tư lệnh Bình Xuyên lên làm Thủ tướng.", "Tại miền Nam, từ 1954-1955, với cương vị thủ tướng, ông đã dẹp yên và thu phục lực lượng Bình Xuyên, lực lượng vũ trang của các giáo phái Hoà Hảo, Cao Đài được Pháp đứng sau hỗ trợ nhằm chống lại ông. Trong nước, ông được Ủy ban Cách mạng Quốc gia gồm nhiều đoàn thể, đảng phái ủng hộ. Ông cũng được gần một triệu người di cư hậu thuẫn mạnh mẽ. Ngoài nước, Ngô Đình Diệm đã cương quyết chống trả kế hoạch lật đổ ông của hai tướng Ély-Collins nên bây giờ được Washington ủng hộ.", "Quốc gia Việt Nam tổ chức cuộc trưng cầu dân ý miền Nam Việt Nam, 1955 đã phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, đưa thủ tướng Ngô Đình Diệm trở thành Quốc trưởng. Cuộc trưng cầu dân ý bị tố cáo là gian lận như tại Sài Gòn, Ngô Đình Diệm chiếm được 605.025 lá phiếu trong khi khu vực này chỉ có 450.000 cử tri ghi tên.", "Sau đó Quốc trưởng Ngô Đình Diệm tổ chức bầu Quốc hội Lập hiến cho Quốc gia Việt Nam. Quốc hội này ban hành Hiến pháp đổi tên Quốc gia Việt Nam thành Việt Nam Cộng hòa. Chính thể mới Việt Nam Cộng Hoà được thành lập vào ngày 26 tháng 10 năm 1955 và sau đó ông được bầu làm Tổng thống nền Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam. Hai năm sau, năm 1957 ông có chuyến viếng thăm chính thức Hoa Kỳ lần đầu tiên với cương vị Tổng thống của Việt Nam Cộng hoà.", "Ngày 22 tháng 10 năm 1960, Tổng thống Mỹ Eisenhower gửi thư cho Tổng thống Ngô Đình Diệm \"Chúng tôi đã chứng kiến sự can đảm và táo bạo mà Ngài và nhân dân Việt Nam đã biểu dương để đạt tới độc lập trong một tình huống nguy hiểm đến độ mà nhiều người đã coi như là vô vọng. Chúng tôi còn ngưỡng mộ khi tình trạng hỗn loạn ở Miền Nam đã nhường chỗ cho trật tự, và tiến bộ đã thay thế cho tuyệt vọng, tất cả với một tốc độ quá là nhanh chóng...\"", "Hiến pháp Đệ Nhất Cộng hòa 1956 do chính Ngô Đình Diệm tham gia soạn thảo đã trao cho ông quyền lực rất lớn, có thể toàn quyền khống chế bộ máy nhà nước, thể hiện qua những điểm:", "Tóm lại, theo Hiến pháp 1956, Tổng thống Ngô Đình Diệm có đầy đủ quyền lực để triệt tiêu hoặc làm tê liệt các đạo luật nào mà ông không vừa ý, cũng như dễ dàng ban hành và thi hành các đạo luật nào có lợi cho mình. Ngoài ra, Hiến pháp ghi là dân tộc có \"sứ mệnh\" trước \"Đấng Tạo hóa\" nên nhiều người cho rằng đây chứng minh sự thiên vị của chính quyền với Thiên Chúa giáo trong khi các tôn giáo khác không được đề cập đến.", "Thiếu tướng Đỗ Mậu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, trong cuốn hồi ký \"Tâm thư\", nói về việc tranh cử nghị sĩ thời Ngô Đình Diệm như sau:", "\"Thời Đệ Nhất cộng hòa (chế độ ông Diệm) nếu muốn ra tranh cử để thắng thì ông phải được đảng Cần Lao (của ông Diệm) hay Phong trào Cách mạng quốc gia đỡ đầu. Ngoài ra ông phải được ông Diệm, ông Nhu, ông Cẩn, Đức cha Thục, bà Nhu... giới thiệu mới hòng đắc cử. Còn ông mà thân cô, thế cô mà muốn ra (tranh cử quốc hội) thì cứ việc đóng tiền để mua lấy thất cử! Còn mánh lới như thế nào thì tìm hỏi mấy người lớn tuổi có liên quan đến tranh cử sẽ rõ\".", "Ông Diệm là người phân biệt cá nhân theo vùng miền. Ông chỉ thích nâng đỡ người gốc Huế. Ngô Đình Diệm thường nói: \"Chỉ có dân miền Trung mới có khả năng lãnh đạo quốc gia. Dân miền Bắc hợp với buôn bán, còn dân miền Nam chỉ làm tướng võ biền\". Cách hành xử của ông Diệm cũng rất cao ngạo. Ông xem Việt Nam Cộng hòa là quốc gia của riêng ông và của gia đình ông. Ông ban phát ân huệ cho thuộc cấp theo ngẫu hứng, bất chấp năng lực lẫn tình hình thực tế. Không có gì là quá ngạc nhiên khi nhiều sử gia gọi Việt Nam Đệ Nhất Cộng hòa là Ngô triều. Theo nhiều hồi ký của tướng lĩnh dưới thời ông Diệm kể lại, thì khi vào cửa Tam quan ở các đền thờ vua chúa, ông Diệm thường nói: \"Các ông đi cổng hai bên, vì cổng giữa chỉ có vua mới được đi. Chúng ta phải tôn trọng nguyên tắc này\". Dứt câu, ông Diệm đi vào bằng cổng giữa. Nội chuyện xây dựng Dinh Độc Lập và ý định dời đô từ Sài Gòn lên Cao nguyên Trung phần đã khiến ông Diệm càng trở nên xa cách với giới tướng lĩnh. Ngay cả người gần gũi với gia đình ông như tướng Trần Văn Đôn còn bất mãn với sự độc đoán này của ông Diệm.", "Nhà báo đương thời tại miền Nam, ông Vũ Bằng nhận xét:", "Thi hành chính sách chống Cộng.", "Sau khi lên làm tổng thống, ông giữ mọi quyền cai quản đất nước với người em Ngô Đình Nhu làm cố vấn và cả hai người đều sử dụng các phương pháp cứng rắn để chống lại những người kháng chiến Việt Minh được sự hỗ trợ của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc. Trong khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc Việt Nam được xây dựng dựa trên học thuyết Marx-Lenin với chính đảng Cộng sản duy nhất thì hai anh em xây dựng Thuyết nhân vị như là một học thuyết nhằm làm nền tảng ý thức hệ cho nhà nước ở miền Nam Việt Nam với chính đảng Cần lao Nhân vị.", "Theo Hiệp định Genève, lực lượng quân sự của mỗi bên tham gia cuộc chiến Đông Dương (1945-1955) sẽ rút khỏi lãnh thổ của phía bên kia. Lực lượng Quân đội nhân dân ở miền Nam phải di chuyển về phía Bắc vĩ tuyến 17. Nhưng theo ước tính của Mỹ, vẫn còn 100.000 cán bộ, đảng viên các ngành vẫn ở lại. (Hiệp định Genève chỉ quy định việc tập kết lực lượng quân sự, nên các thành viên Việt Minh không thuộc quân đội mà thuộc các bộ phận dân vận, hành chính, hội đoàn... vẫn có quyền ở lại miền Nam). Đồng thời một số cán bộ chính trị Việt Minh dày dạn kinh nghiệm được chọn lọc làm nhiệm vụ bảo vệ lãnh đạo Đảng, thâm nhập vào tổ chức quân sự và dân sự của đối phương hoặc nắm tình hình lực lượng vũ trang giáo phái, một số vũ khí và đạn dược cũng được chôn giấu để dự phòng việc Hiệp định Geneve không được thi hành bởi đối phương. Bên cạnh đó Trung ương Đảng đã cử nhiều cán bộ có kinh nghiệm, am hiểu chiến trường về miền Nam lãnh đạo phong trào hoặc hoạt động trong hàng ngũ đối phương.", "Trong giai đoạn này, Việt Minh chủ trương dùng nhiều hình thức tuyên truyền chống chính quyền Ngô Đình Diệm và sử dụng các tổ chức hợp pháp (hội đồng hương, công đoàn, vạn cấy...) tập hợp quần chúng đấu tranh chính trị đòi thi hành Tổng tuyển cử thống nhất đất nước, bảo vệ thành quả \"cách mạng\", bảo vệ cán bộ - đảng viên. Hoạt động vũ trang bị hạn chế nên thời kỳ này chưa có những xung đột quân sự lớn và công khai giữa hai bên. Các vụ bạo lực chỉ giới hạn ở mức tổ chức các vụ ám sát dưới tên gọi \"diệt ác trừ gian\", hỗ trợ các giáo phái chống chính quyền Ngô Đình Diệm hoặc thành lập các đại đội dưới danh nghĩa giáo phái, hoặc dưới hình thức các tổ chức quần chúng (dân canh, chống cướp...) để đấu tranh chính trị.", "Điều 7 Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1956 quy định \"Những hành vi có mục đích phổ biến hoặc thực hiện một cách trực tiếp hay gián tiếp chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thái đều trái với các nguyên tắc ghi trong Hiến pháp\". Việt Nam Cộng hòa \"kêu gọi\" những người cộng sản đang hoạt động bí mật ly khai tổ chức, ra \"hợp tác\" với chế độ mới đồng thời cưỡng ép những người bị bắt từ bỏ chủ nghĩa cộng sản. Dù vậy hệ thống tổ chức bí mật của Việt Minh vẫn tiếp tục tồn tại và phản kháng bằng cách tuyên truyền chống chính phủ, tổ chức những cuộc biểu tình chính trị gây sức ép lên chính phủ Việt Nam Cộng hòa.", "Chính quyền Ngô Đình Diệm đối phó với những cuộc đấu tranh chính trị đòi thi hành Tổng tuyển cử thống nhất đất nước bằng cách thực hiện chiến dịch tố cáo cộng sản nằm vùng nhằm loại bỏ những cán bộ Việt Minh hoạt động bí mật trên khắp miền Nam. Chính quyền của Ngô Đình Diệm \"luôn luôn quan niệm cộng sản là kẻ thù chính, nhiệm vụ phản công là tối ưu. Phải đẩy mạnh nhiệm vụ chống cộng\". Ông Ngô Đình Diệm rất nổi tiếng với các khẩu hiệu: \"đồng tâm diệt cộng\", \"tiêu diệt cán bộ nằm vùng\", \"tiêu diệt cộng sản tận gốc\", \"giết nhầm còn hơn bỏ sót\"; thể hiện quyết tâm chống Chủ nghĩa Cộng sản tới cùng của ông. Để thể hiện lập trường sẽ tận diệt cán bộ Việt Minh, những Ngô Đình Diệm đã tuyên bố công khai: ", "Ngô Đình Diệm hiểu rõ những cán bộ Việt Minh là đối thủ lớn nhất đe dọa quyền lực của ông ta, và uy tín của ông ta không thể sánh được với Việt Minh, những người vừa lãnh đạo nhân dân đánh bại quân Pháp. Theo lời khuyên của Edward Lansdale, để xóa đi uy tín của Việt Minh trong nhân dân, chính phủ Ngô Đình Diệm không gọi họ là Việt Minh nữa mà sử dụng tên gọi mới là Việt Cộng, để người dân miền Nam tưởng rằng đây là 2 lực lượng khác nhau. Nhằm triệt để tiêu diệt ảnh hưởng của Việt Minh trong nhân dân, Ngô Đình Diệm còn ra lệnh đập phá các tượng đài kháng chiến và san bằng nghĩa trang của những liệt sĩ Việt Minh trong Chiến tranh Đông Dương, một hành vi xúc phạm nghiêm trọng tục lệ thờ cúng của người Việt.", "Theo báo Nhân dân, ngay từ cuối năm 1954, theo lệnh Mỹ, chính quyền Ngô Đình Diệm đã gây ra những vụ tàn sát đẫm máu ở Ngân Sơn, Chí Thạnh, Chợ Được, Mỏ Cày, Củ Chi, Bình Thành... Từ tháng 5-1955 đến tháng 5-1956, Ngô Đình Diệm phát động \"chiến dịch tố cộng\" giai đoạn 1 trên quy mô toàn miền Nam; tháng 6-1955, mở chiến dịch Thoại Ngọc Hầu càn quét những khu từng là căn cứ kháng chiến chống Pháp của Việt Minh. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa tiến hành các chiến dịch tố cộng, diệt cộng, liên gia phòng vệ, dồn dân lập ấp chiến lược... một cách quyết liệt không tính đến các đặc điểm tâm lý và quyền lợi của dân chúng cũng như hoàn cảnh lịch sử Việt Nam. Những biện pháp cứng rắn nhất được áp dụng, ví dụ ngày 16-8-1954, quân Việt Nam Cộng hoà đã nổ súng trấn áp đoàn biểu tình ở thị xã Gò Công, bắn chết 8 người và 162 người bị thương.", "Trong thời gian từ 1955 đến 1960, theo số liệu của Việt Nam Cộng hoà có 48.250 người bị tống giam, theo một nguồn khác có khoảng 24.000 người bị thương, 80.000 bị hành quyết hay bị ám sát, 275.000 người bị cầm tù, thẩm vấn hoặc với tra tấn hoặc không, và khoảng 500.000 bị đưa đi các trại tập trung. Năm 2015, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Nguyễn Phú Trọng phát biểu rằng \"Trong những năm 1954 - 1959, ở miền Nam đã có 466.000 đảng viên và những người yêu nước bị bắt giam, 400.000 người bị đưa đi đày và 68.000 người bị giết.\"", "Việc bắt giam và xử tử diễn ra khắp nơi đã làm biến dạng mô hình xã hội, khiến dân chúng phản đối chính phủ Ngô Đình Diệm và đẩy những người kháng chiến (Việt Minh) vào rừng lập chiến khu. Việt Minh đáp trả bằng những cuộc biểu tình đòi thả cán bộ của họ hoặc tổ chức các cuộc \"diệt ác trừ gian\" - tiêu diệt nhân viên và cộng tác viên của chính quyền Ngô Đình Diệm được gọi là \"bọn ác ôn và bọn do thám chỉ điểm\".", "Để tăng tính uy hiếp, Việt Nam Cộng hòa sử dụng cả máy chém để hành quyết phạm nhân. Nhiều vụ xử chém của Việt Nam Cộng hòa được diễn ra công khai trước dân chúng, đầu phạm nhân được đem bêu để cảnh cáo. Báo The Straits Times (Singapore) ngày 24 tháng 7 năm 1959 có bài viết tường thuật cảnh 1.000 người dân xem xử chém ở Sài Gòn Báo Buổi sáng (Sài Gòn) ngày 15-10-1959 có viết: \"“Theo một phán quyết của phiên xử vắng mặt của Tòa án Quân sự Đặc biệt ngày 02 tháng 10, Nguyễn Văn Lép, tức Tư Út Lép, một Việt Cộng, đã bị tuyên án tử hình. Cách đây một tuần, Lép đã bị sa vào lưới của Cảnh sát trong một khu rừng ở Tây Ninh. Bản án tử hình đã được thi hành … Hiện đầu và gan của tên tử tù đã được Hội đồng xã Hào Đước cho đem bêu trước dân chúng”\".", "Ngày 6/5/1959, Quốc hội Việt Nam Cộng Hoà thông qua luật số 91 mang tên Luật 10-59, sau đó được tổng thống Việt Nam Cộng hòa là Ngô Đình Diệm ký ban hành. Luật này quy định việc tổ chức các Tòa án quân sự đặc biệt với lý do \"xét xử các tội ác chiến tranh chống lại Việt Nam Cộng Hòa\", mục đích nhằm tiến hành thanh trừng những người cộng sản ở miền Nam Việt Nam. Theo luật 10-59, bị can có thể được đưa thẳng ra xét xử mà không cần mở cuộc điều tra, án phạt chỉ có hai mức: tử hình hoặc tù khổ sai, xét xử kéo dài 3 ngày là tối đa, không có ân xá hoặc kháng án; dụng cụ tử hình có cả máy chém. Sau khi luật này được ban hành, lực lượng cách mạng miền Nam bị chính quyền Diệm đẩy mạnh truy quét, bắt bớ, khủng bố, đặc biệt là các đảng viên Đảng cộng sản nên lực lượng bị thiệt hại nặng nề.", "Chính sách kinh tế - văn hóa - xã hội.", "Kinh tế.", "Thời kỳ Tổng thống Ngô Đình Diệm nắm quyền là giai đoạn mà kinh tế của Việt Nam Cộng hòa tăng trưởng tương đối nhanh (giai đoạn 1955-1960) và tăng trưởng vừa phải (1960-1963), song vẫn giữ được mức độ tăng giá vừa phải. Ngân sách Nhà nước thời gian đầu cân đối thậm chí có thặng dư, song từ năm 1961 trở đi bắt đầu chuyển sang thâm hụt. Mức độ đầu tư lớn, nông và công nghiệp nói chung đều phát triển. Tuy nhiên chính sách ruộng đất không giải quyết được việc địa chủ chiếm hữu phần lớn ruộng đất, khiến nông dân nghèo không có kế sinh nhai.", "Năm 1955, chính phủ Đệ Nhất Cộng hòa thời Ngô Đình Diệm quyết định thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, Viện Hối đoái, phát hành đơn vị tiền tệ mới thay cho tiền Đông Dương, ấn định tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam Cộng hòa và dollar Mỹ là 35:1.", "Năm 1956, Việt Nam Cộng hòa ban hành hiến pháp trong đó có nêu rõ việc thành lập và vai trò của Hội đồng Kinh tế Quốc gia do Phó Tổng thống làm chủ tịch. Cũng năm 1956, Việt Nam Cộng hòa gia nhập Quỹ Tiền tệ Quốc tế.", "Tháng 3 năm 1957, Ngô Đình Diệm đọc \"Tuyên ngôn của Tổng thống Đệ Nhất Cộng hòa\" trong đó có kêu gọi đầu tư của tư nhân trong và ngoài nước, cam kết về những quyền lợi họ và những khuyến khích đầu tư (ưu đãi về thuế thuê mặt bằng sản xuất kinh doanh, thuế lợi tức). Để khuyến khích phát triển doanh nghiệp, chính phủ đã thành lập \"Trung tâm Khuếch trương Kỹ nghệ\" để giúp đỡ các doanh nhân lập nghiệp, giúp đỡ các doanh nghiệp về công nghệ và tín dụng, hỗ trợ công nghệ và hướng dẫn đầu tư cho doanh nghiệp. Chủ trương của Ngô Đình Diệm là \"\"Trong địa hạt kỹ nghệ, nỗ lực trước hết của chúng ta là lập những kỹ nghệ nhẹ, để cung cấp cho thị trường trong xứ, và kỹ nghệ chế biến nông sản\" và \"nguyên tắc căn bản để phát triển là tiệt kiệm ngoại tệ nhờ gia tăng xuất cảng và giảm nhập cảng. Ưu tiên trong chương trình kỹ nghệ hóa dành cho việc chế tạo những sản phẩm tiêu thụ thông dụng\"\".", "Ngô Đình Diệm cùng em trai ông là Ngô Đình Nhu chủ trương phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội theo con đường thứ ba là sự kết hợp những ưu điểm của kinh tế kế hoạch và kinh tế thị trường, là sự dung hòa giữa chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa cá nhân. Chính vì thế vai trò của chính phủ trong phát triển kinh tế thể hiện rõ qua việc triển khai kế hoạch kinh tế 5 năm (Việt Nam Cộng hòa gọi là \"Ngũ niên Kinh tế Kế hoạch\" do Tổng nha Kế hoạch thiết kế) từ năm 1957 tới 1962 (Kế hoạch Ngũ niên I) và từ năm 1962 tới 1966 (Kế hoạch Ngũ niên II). Bên cạnh đó, để khuyến khích đầu tư tư nhân, Việt Nam Cộng hòa có các biện pháp hỗ trợ về tín dụng, chẳng hạn như thành lập Quốc gia Doanh Tế Cuộc vào năm 1955 mà sau đó được thay thế bằng Trung tâm Khuếch Trương Kỹ Nghệ vào năm 1958, để hỗ trợ các doanh nghiệp mới (theo cách gọi ngày nay là ươm tạo doanh nghiệp), hướng dẫn cho các doanh nghiệp về mặt công nghệ và tài chính, cho doanh nghiệp vay với lãi suất thấp. Từ 1957 trở đi nhờ lượng vốn đầu tư tăng vọt bao gồm viện trợ của Mỹ, tiền bồi thường chiến tranh của Nhật, vốn của giới tư sản công thương nghiệp di cư từ miền Bắc nên công nghiệp Việt Nam Cộng hòa phát triển mạnh.", "Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tích cực triển khai chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu. Các hàng rào thuế quan và phi thuế quan được dựng lên để bảo hộ một loạt ngành công nghiệp nhẹ. Kết quả phải kể đến nhà máy giấy đầu tiên ở Việt Nam: nhà máy giấy Cogido An Hảo (1961) ở Biên hòa, thỏa mãn 30-40% nhu cầu tiêu thụ giấy tại miền Nam; hai xưởng dệt Vinatexco và Vimytex với năng suất 13,2 triệu mét vải mỗi năm; nhà máy thủy tinh Khánh Hội năng suất 15.000 tấn/năm; hai nhà máy xi măng, một ở Hà Tiên, một ở Thủ Đức với năng suất 540.000 tấn mỗi năm; và đập thủy điện Đa Nhim, hoàn thành năm 1961. Đồng thời, các loại máy móc, kim loại - đầu vào cho các ngành được bảo hộ - được ưu tiên nhập khẩu. Trong khi hạn chế nhập khẩu, xuất khẩu được khuyến khích. Một số mặt hàng xuất khẩu còn được chính quyền trợ cấp. Ngay cả tỷ giá hối đoái cũng được điều chỉnh thuận lợi cho xuất khẩu (thông qua trừ đi một mức phụ đảm). Thời kỳ 1955-1964 là thời kỳ thuận lợi nhất của xuất khẩu của Việt Nam Cộng hòa.", "Ngô Đình Diệm cùng em trai ông là Ngô Đình Nhu chủ trương phát triển kinh tế - xã hội theo con đường thứ ba là sự kết hợp những ưu điểm của kinh tế kế hoạch và kinh tế thị trường, là sự dung hòa giữa chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa cá nhân. Chính vì vậy vai trò của chính phủ trong phát triển kinh tế thể hiện rõ qua việc triển khai kế hoạch kinh tế 5 năm (Việt Nam Cộng hòa gọi là \"Ngũ niên Kinh tế Kế hoạch\" do Tổng nha Kế hoạch thiết kế) từ năm 1957 tới 1962 (Kế hoạch Ngũ niên I) và từ năm 1962 tới 1966 (Kế hoạch Ngũ niên II). Chính phủ Việt Nam Cộng hòa còn thành lập khu công nghiệp (hay khu kỹ nghệ theo cách gọi tại Việt Nam Cộng hòa lúc đó) để tạo thuận lợi cho đầu tư vào lĩnh vực chế tạo. Khu kỹ nghệ Biên Hòa được thành lập vào tháng 5 năm 1963, và Công ty Quốc gia Khuếch trương Khu Kỹ nghệ (SONADEZI - \"Société nationale du Dévelopment dé zones industrielles\") được thành lập vào tháng 12 năm 1963 để quản lý và phát triển các khu công nghiệp, Khu kỹ nghệ Phong Dinh (Cần Thơ ngày nay) được thành lập vào năm 1967, và Khu kỹ nghệ An Hòa - Nông Sơn (Quảng Ngãi) được thành lập từ trước đó.", "Tổng số viện trợ dân sự và quân sự của Mỹ cho Việt Nam Cộng hòa trong giai đoạn 1955 - 1960 vào khoảng gần 2 tỷ USD. Trung bình mỗi năm Mỹ viện trợ trên dưới 300 triệu USD. Viện trợ có xu hướng giảm dần, đến năm 1959 chỉ còn trên 200 triệu USD. Viện trợ kinh tế bao gồm viện trợ thương mại, viện trợ nông phẩm, viện trợ theo dự án, cho vay. Trong giai đoạn này viện trợ thương mại đa phần là hàng tiêu dùng, lượng hàng hóa này được Việt Nam Cộng hòa bán ra thị trường để tăng ngân sách nhà nước. Mỹ chỉ cho Việt Nam Cộng hòa vay trong giai đoạn 1954-1960 dưới dạng hàng hóa, không cho vay dưới dạng tiền mặt.", "Nhìn chung chính sách phát triển sản xuất nội địa để thay thế hàng nhập khẩu của Ngô Đình Diệm đã có tác dụng tích cực khiến nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa ngày càng giảm sự phụ thuộc vào viện trợ Mỹ. Một số chính sách phát triển công nghiệp của Việt Nam Cộng hòa giai đoạn này có thể coi là tiến bộ, song bất ổn định chính trị (xung đột vũ trang giữa các phe phái, các vụ đảo chính, sự nổi dậy của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam) đã hạn chế các chính sách nói trên phát huy hiệu quả.", "Ở nông thôn thì Cải cách ruộng đất (lúc đó gọi là \"Cải cách điền địa\") được triển khai từ năm 1955 và kéo dài tới cuối năm 1960. Theo chính sách này, những ruộng đất của địa chủ bỏ hoang sẽ bị thu hồi và cấp cho tá điền. Địa chủ không được phép sở hữu quá 100 hecta đất (riêng các đồn điền dù hơn 100 ha vẫn được phép), số dư ngoài 100 ha sẽ bị buộc phải bán cho chính quyền để bán lại cho tá điền. Quyết tâm tránh các biện pháp mà Ngô Đình Diệm coi là \"ăn cướp và tra tấn dã man\" như phong trào Cải cách ruộng đất tại miền Bắc, ông chỉ thị cho các quan chức địa phương trả tiền mua số đất vượt quá giới hạn, chứ không tịch thu. Sau đó chính phủ sẽ chia nhỏ số đất vượt giới hạn này để bán cho các nông dân chưa có ruộng, và họ được vay một khoản tiền không phải trả lãi trong kỳ hạn sáu năm để mua. Tá điền được yêu cầu lập hợp đồng khai thác ruộng đất với địa chủ, gọi là khế ước tá điền trong đó có ghi mức địa tô mà tá điền phải trả cho địa chủ. Thời hạn khế ước là 5 năm, có tái ký. Tá điền có quyền trả đất và phải báo trước chủ đất 6 tháng, chủ đất muốn lấy đất lại phải báo trước tá điền 3 năm.", "Tuy vậy, đường lối Cải cách điền địa mà Ngô Đình Diệm đề ra bị nông dân miền Nam phản đối dữ dội. Do mức hạn điền lớn (tới 100 ha), mặt khác các đại địa chủ lách luật bằng cách cho người nhà đứng tên, đất của các Giáo xứ Công giáo lại được miễn hạn mức, do vậy chỉ có 13% diện tích đất của miền Nam đã được phân phối lại. Đường lối cải cách ruộng đất này đã khiến 2/3 diện tích đất canh tác của Việt Nam Cộng hòa tập trung trong tay tầng lớp địa chủ.", "Trong khi Việt Minh đã giảm thuế, xóa nợ và tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho nông dân nghèo, chính sách của Ngô Đình Diệm đã đưa giai cấp địa chủ trở lại. Đến cuối thời Ngô Đình Diệm, giới chủ đất chỉ chiếm 10% dân số đã nắm giữ 55% đất canh tác của cả miền Nam. Nông dân phải trả lại đất cho địa chủ rồi phải trả tiền thuê đất và phải nộp cho quân đội. Điều này tạo ra một cơn giận dữ ở nông thôn, quân đội của Ngô Đình Diệm bị mắng chửi là \"tàn nhẫn hệt như bọn Pháp\". Đất của các Giáo xứ Công giáo thì còn được Ngô Đình Diệm thiên vị, cho miễn thuế và hạn mức. Kết quả là tại nông thôn, 75% người dân ủng hộ quân Giải phóng, 20% trung lập trong khi chỉ có 5% ủng hộ chế độ Ngô Đình Diệm.", "Theo đánh giá của Kevin Gray (Đại học Sussex), chính sách đất đai của Việt Minh (và sau này là Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam) là chống lại di sản của thực dân Pháp, cùng với tinh thần dân tộc đã giúp họ có được sự hỗ trợ mạnh của nông dân. Những chính sách của Ngô Đình Diệm với vấn đề đất đai thì lại kế thừa các di sản của thực dân Pháp hơn là đưa ra những cải cách: ông ta đã khôi phục mối quan hệ địa chủ - tá điền, hàng triệu nông dân từng được Việt Minh phân chia ruộng đất đã bị thu lại đất đai", "Joseph A. Amter nhận xét:", "\"Ở nông thôn, Diệm hoàn toàn triệt bỏ chính sách ruộng đất được lòng dân của Việt Minh trước đây. Năm 1954, sau khi đánh bại người Pháp, những người Cộng sản đã lấy tất cả đất đai đã được giải phóng chia cho nông dân. Tác động của cử chỉ đó rất sôi nổi. Như một chiến sĩ du kích đã thừa nhận: “bọn chúng không hiểu được người nông dân cùng khổ như thế nào. Khi kháng chiến giải quyết vấn đề ruộng đất thì ở nông thôn có hạnh phúc và nổi dậy mạnh mẽ. Ý nghĩa cụ thể của nền độc lập là bảo vệ ruộng đất”. Rồi thình lình đúng vào lúc người nông dân nghĩ rằng ruộng đất là của họ, thì Diệm nhảy ra sân khấu và dùng sức mạnh giật lấy ruộng đất của họ. Tệ hơn nữa là ông ta chuyển quyền sở hữu ruộng đất cho bạn bè của ông ta là những địa chủ vắng mặt đến sống ở Sài Gòn. Đáng ra được làm chủ một mảnh đất nhỏ, mỗi một nông dân lại trở thành một tá điền lần nữa, chịu những tô thuế mới cho chính phủ Diệm và cho giai cấp có đặc quyền đặc lợi\"", "Cuộc cải cách ruộng đất của Ngô Đình Diệm nhìn chung là đã thất bại vì gây bất mãn trong lòng nông dân Nam Việt Nam. Sau này, chính phủ Đệ Nhị Cộng hòa với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã phải làm lại cải cách ruộng đất vào năm 1970.", "Giáo dục.", "Năm 1958, dưới thời Bộ trưởng Giáo dục Trần Hữu Thế, Việt Nam Cộng hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài Gòn. Đại hội này quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, các trí thức, học giả, đại diện của quân đội, chính phủ và các tổ chức quần chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu học đến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật... Ba nguyên tắc \"nhân bản\", \"dân tộc\", và \"khai phóng\" được chính thức hóa ở hội nghị này. Đây là những nguyên tắc được ghi cụ thể trong tài liệu \"Những nguyên tắc căn bản\" do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959.", "Theo quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học là giáo dục phổ cập (bắt buộc). Từ thời Đệ Nhất Cộng hòa đã có luật quy định trẻ em phải đi học ít nhất ba năm tiểu học. Bậc tiểu học thời Việt Nam Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ Nhất Cộng hòa gọi là lớp Năm đến lớp Nhất). Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai thi trượt phải học lại. Các trường công lập đều miễn học phí và các khoản lệ phí khác. Học sinh tiểu học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định, một ngày được chia ra 2 ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều.", "Tuy nhiên, do ngân sách giáo dục eo hẹp, hệ thống trường công không đủ nên có nhiều trẻ em nghèo vẫn không thể đến trường. Cho tới năm 1974, tỷ lệ người dân biết đọc và viết của Việt Nam Cộng hòa ước tính vào khoảng 70% dân số, tức là sau 20 năm vẫn chưa thanh toán xong nạn mù chữ.", "Ngoài ra, theo tác giả Nguyễn Văn Trung, nền giáo dục dưới thời Ngô Đình Diệm bị xem là thiên vị Công giáo. Ngô Đình Diệm dành cho Giáo hội Công giáo quyền chi phối các trường của giáo hội về mặt tinh thần, cốt bảo đảm thực hiện được nội dung giáo dục “Duy linh” mà thực chất là nội dung thần học theo lối triết học kinh viện thời Trung cổ. Phần lớn các học bổng đi học nước ngoài đều rơi vào tay các linh mục hoặc sinh viên gia đình Công giáo.#đổi ", "Có nơi Linh mục dùng uy thế của mình để phụ huynh không cho con học trường công mà phải vào học trường của Giáo hội, nên trường tư thục của Giáo hội làm tê liệt cả trường công, khiến trường công trở nên trống rỗng do không tuyển được học sinh.#đổi ", "Đàn áp một số lực lượng đối lập.", "Không chỉ loại trừ những người cộng sản, Tổng thống Ngô Đình Diệm còn bỏ tù một số chính trị gia đối lập. Có tài liệu cho rằng Hoa Kỳ không phản đối việc này với lý do trong một xã hội chia rẽ Nam Việt Nam đứng trước nguy cơ lật đổ của cộng sản nên Tổng thống Ngô Đình Diệm phải có chính đảng riêng của mình, có chính phủ mạnh để đối phó với tình hình và Hoa Kỳ đã ủng hộ Ngô Đình Diệm thiết lập một chế độ cực quyền", "Chính sách ủng hộ này của Hoa Kỳ tạo mầm mống cho hậu quả nghiêm trọng trong nền chính trị miền Nam. Tướng Edward Lansdale - phụ trách chiến tranh tâm lý ở miền Nam lúc này đã nhìn thấy nguy cơ trong chính sách của Ngô Đình Diệm, ông tìm cách thuyết phục đại sứ Hoa Kỳ Frederick Nolting can ngăn anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm xây dựng một nhà nước cực quyền ở Nam Việt Nam vì chính sách của họ sẽ đưa đến tình trạng chia rẽ giữa những người có tinh thần dân tộc và cùng chung mục tiêu chống Cộng. Có tài liệu cho rằng với việc loại trừ các đối thủ chính trị đã tạo nên một khoảng trống chính trị ở Nam Việt Nam khiến Hoa Kỳ không có sự lựa chọn nào khác là ủng hộ chính quyền hiện hữu.", "Báo Nhân dân của Đảng Lao động dẫn lại từ tờ Le Figaro thiên hữu ở Pháp tháng 2-1961: \"\"Chế độ Diệm là độc tài và không đếm xỉa gì đến những quyền tự do cá nhân. Tổng thống nắm hết quyền hành, người ta đã tạo nên một đảng duy nhất để làm việc ép dân chúng vào tổ chức, người ta đã chăng cả một lưới mật thám và đã khuyến khích việc tố cáo những người \"phản bội\". Ba vạn người chống đối nằm chật các trại tập trung. Tất cả những cố gắng ấy để đi đến một thất bại: giai cấp tư sản công khai chống đối và nông dân thì nghiêng về phía Việt Minh. Tôi tin rằng đó là một điểm chủ yếu. Để có thể chống cộng, không thể chỉ cóp theo kỹ thuật cộng sản.\"\"\".", "Thomas D. Boettcher nhận xét về những hoạt động tiêu diệt các nhóm đối lập của Ngô Đình Diệm:", "\"Trong 10 đô la viện trợ thì 8 được dùng cho nội an chứ không dùng cho công tác chiến đấu chống những người du kích Cộng sản hay cải cách ruộng đất. Diệm lo lắng về những cuộc đảo chính hơn là những người Cộng sản.\"", "\"...Như là hậu quả của những biện pháp đàn áp càng ngày càng gia tăng, sự bất mãn của quần chúng đối với Diệm cũng càng ngày càng tăng, bất kể là toan tính của Diệm dập tắt sự bất mãn này trong mọi cơ hội. Hàng triệu nông dân ở những vùng quê trở thành xa lạ đối với Diệm. Không lạ gì, hoạt động của những người Cộng sản gia tăng cùng với sự bất mãn của quần chúng. Và những biện pháp đàn áp của Diệm cũng gia tăng theo cùng nhịp độ. Nhiều ngàn người bị nhốt vào tù.\"", "Vấn đề tôn giáo.", "Chính quyền Ngô Đình Diệm tiếp tục áp dụng quy định trong Đạo dụ số 10 của Quốc trưởng Bảo Đại: \"“Hội là Hiệp ước của hai hay nhiều người thỏa thuận góp kiến thức hay hành lực một cách liên tiếp để theo đuổi mục đích không phải là phân chia lợi tức, như là mục đích thuộc về tế tự, tôn giáo, chính trị, từ thiện, khoa học, văn học, mỹ nghệ, tiêu khiển, thanh niên, thể thao và đồng nghiệp ái hữu.”\". Ngoại trừ Hội Truyền giáo Thiên Chúa và Gia Tô, các Hoa Kiều Lý Sự Hội có quy định riêng, đạo dụ này xem các tôn giáo là các hiệp hội văn hóa thể thao. Những bộ phận của từng giáo phái có hành động chống đối đều bị Ngô Đình Diệm huy động quân đội trấn áp, đánh dẹp.", "Thời kỳ 1955-1963, lễ Noen tại các trường học được nghỉ đến 15 ngày. Trong khi đó, ngày 9/1/1956, Ngô Đình Diệm ra Dụ số 4 hủy bỏ ngày lễ Phật đản trong danh sách những ngày lễ cho các học đường, công chức và binh sĩ. Điều này gây nên sự bất bình trong dư luận xã hội nói chung và Tăng Ni, Phật tử miền Nam nói riêng.", "Trong các ngày lễ của Thiên Chúa giáo, chính quyền Ngô Đình Diệm đã tạo nhiều điều kiện hết sức to lớn cho việc tổ chức hành lễ. Văn thư số 124 ngày 1/8/1963 của Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo gửi ông Frederick E. Nolting (đại sứ Mỹ tại Sài Gòn) phản ánh: \"“Mỗi năm lễ Giáng sinh đều được cử hành với sự tham gia trực tiếp và hữu hiệu của Chính phủ, nào thông điệp của Tổng thống, công sở treo cờ trang hoàng, nào Công giáo độc chiếm Đài quốc gia để phát thanh trong mấy ngày liền trên hệ thống A chính thức, nào bắt toàn thể nhân viên của Phủ Tổng thống, các ông bộ trưởng, các công chức cao cấp, kể cả những người theo đạo Phật phải dự lễ nửa đêm... Quá quắt hơn hết là việc năm rồi, một hang đá (phỏng theo câu chuyện Jesus chào đời) được đặt ngay tại Tòa Đô chính, làm như toàn dân Châu thành Sài Gòn là người Thiên Chúa giáo.”\"", "Trên núi Thiên Bút, tỉnh Quảng Ngãi vốn có nền cũ của chùa Phật giáo, chính quyền Ngô Đình Diệm cho xây nhà thờ Công giáo trên đó. Tín đồ Phật giáo địa phương phản ứng quyết liệt. Ngày 27/7/1961, quân Việt Nam Cộng hòa bắn hàng loạt đạn cối vào chùa Cao Dân, xã Tân Lộc (Cà Mau) khi 200 người dân và sư sãi Khmer đang làm lễ nhập hạ, làm 20 người chết và bị thương.", "Ngô Đình Diệm - một người Công giáo sùng đạo - coi tôn giáo là vũ khí hữu hiệu để thực hiện chống Cộng. Trong hội nghị \"“Liên minh chống cộng châu Á”\" họp tại Sài Gòn tháng 3 năm 1957, Ngô Đình Diệm tuyên bố \"“chúng ta đừng quên vũ khí chân lý sẵn có trong kho tàng tôn giáo. Sử dụng vũ khí đó là mục tiêu của liên minh chống cộng châu Á”\". Trong cuốn “Thập giá và lưỡi gươm”, Linh mục Trần Tam Tỉnh nhận xét: ", "\"“Từ năm 1955 đến năm 1963 là thời vàng son của chủ nghĩa cha chú, với những lợi ích thật chẳng có bao nhiêu, nhưng với những hà lạm gây nhiều tiếng tăm hơn, nhất là trong khi dân chúng gồm 90% là người ngoài Công giáo mà bị kìm hãm dưới một thứ “Chính phủ Công giáo”. Khắp nơi, ở thành phố cũng như tại nông thôn, chiếc áo chùng thâm là biểu tượng của quyền thế\"", "\"... (Ngô Đình Diệm) chỉ chấp nhận một đảng duy nhất là Đảng Cần lao, được thành lập và khuynh loát bởi ông em Ngô Đình Nhu, làm nòng cốt cho cái ông gọi là Phong trào Cách mạng quốc gia... Hệ tư tưởng của Đảng này và của phong trào là “thuyết vị nhân”. Chỉ có một trường đào tạo duy nhất là “Trung tâm đào tạo nhân vị”, do một người anh của Tổng thống là Giám mục địa phận Vĩnh Long, Ngô Đình Thục sáng lập. Là người Công giáo hay không, tất cả công chức đều phải qua một khóa học tập ít nhất là một tháng tại đó. Các lớp học đều do các linh mục đảm nhiệm, nhồi nhét những khái niệm về nhân bản con người được Thiên Chúa sáng tạo, giảng về những điều lầm lạc của Phật giáo, Khổng giáo, về các tội ác của Cộng sản… Cuộc “tẩy não” này do chính các linh mục thực hiện. Họ là những người chỉ biết có triết học kinh viện Tây Âu và “đã tiếp thụ tại Roma các khái niệm về Phật giáo do các cố cựu Thừa sai dạy cho”\"", "Năm 1959, Ngô Đình Diệm tuyên bố đặt Việt Nam Cộng hòa dưới \"sự bảo trợ của Đức Mẹ Maria\". Người Công giáo được Ngô Đình Diệm tín nhiệm về mặt chính trị, trở thành nguồn nhân lực chủ yếu của bộ máy hành chính, chính trị, quân sự. Một linh mục cho biết: \"“Trong một nước chỉ có 10% dân số là (tín đồ) Công giáo mà tại Quốc hội, có tới 30% dân biểu Công giáo với 3 vị chủ tịch Quốc hội liên tiếp là Công giáo; trong bộ máy hành chính, có 9/14 tỉnh trưởng miền Trung và 14/18 tỉnh trưởng miền Nam là Công giáo; trong chính phủ có 4/12 bộ trưởng là Công giáo; trong quân đội, 3 trong số 16 tướng lĩnh là Công giáo”\" Cho đến năm 1963, trừ thị trưởng Đà Lạt là người theo Phật giáo, tất cả các tỉnh trưởng, thị trưởng tại miền Trung và Tây Nguyên đều là tín đồ Thiên chúa giáo. Tỉnh trưởng nhiều tỉnh ở Nam phần như: Gia Định, Bình Tuy, Long Khánh, Phước Thành, Phước Long, Định Tường, Kiến Hòa, Vĩnh Long… đều là người Công giáo", "Trong xã hội tồn tại dư luận về thái độ thiên vị tôn giáo của Ngô Đình Diệm. Điều này đã tạo ra hiềm khích tôn giáo gay gắt và nó đã phát tác thành xung đột chính trị lớn sau đó vài năm, dẫn đến cuộc Khủng hoảng Phật giáo 1963. Cuộc khủng hoảng này đã góp phần làm sụp đổ chế độ Ngô Đình Diệm.", "Mỹ đưa quân vào Việt Nam.", "Có những thông tin khác nhau về việc Ngô Đình Diệm có muốn Hoa Kỳ (và cả Trung Hoa Dân Quốc) đưa quân vào tham chiến trực tiếp tại Việt Nam hay không.", "Ngày 11 tháng 11 năm 1960, Ngô Đình Diệm nhờ Linh mục Raymond de Jaegher, người Bỉ quốc tịch Mỹ, xin với Đại sứ Mỹ Elbridge Durbrow cho Thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ vào Sài Gòn với lý do bảo vệ công dân Mỹ và kiểm soát phi trường Tân Sơn Nhất. Sau thất bại của Mỹ tại Lào và Cuba, Tổng thống Kenedy quyết định chọn Việt Nam làm nơi đọ sức với Liên Xô. Tổng tham mưu trưởng Mỹ đề nghị \"Để thuyết phục ông Diệm thì hay nhất là lấy cớ đem quân 'vào để huấn luyện', rồi đem một đơn vị chiến đấu quân vào đóng ở Việt Nam với công tác là giúp thiết lập hai doanh trại huấn luyện.\" Ngày 20 tháng 10 năm 1961, tướng Mỹ Maxwell D. Taylor hội thảo với Ngô Đình Diệm lần đầu tiên, Ngô Đình Diệm đề nghị một hiệp ước hỗ trợ quân sự, gia tăng quân số Việt Nam Cộng Hòa và yểm trợ không quân của Mỹ. Ngày 27 tháng 10 năm 1961, Taylor hội thảo với Ngô Đình Diệm lần thứ hai và đề nghị đưa bộ binh Mỹ vào miền Nam Việt Nam với nhiệm vụ chính thức là cứu lụt, Diệm rất tán thành. Tư liệu trong kho Cambodge-Laos-Vietnam ghi nhận Ngô Đình Diệm \"không những muốn đón nhận quân chiến đấu Mỹ và các nước đồng minh, mà còn tuyên bố đại đa số dân miền Nam chào đón (welcome) việc này.\" Tuy nhiên trong tác phẩm A Death in November, tác giả Ellen Hammer cho rằng có lần Tổng thống Diệm phàn nàn với Đại sứ Pháp Roger Lalouette: \"Tôi không bao giờ yêu cầu những người quân nhân này tới đây. Họ cũng chẳng có cả hộ chiếu nữa\". Diệm chỉ yêu cầu Hoa Kỳ yểm trợ phương tiện vật chất, hoặc là hai bên ký kết hiệp ước quốc phòng song phương thay vì mang quân đội Mỹ vào. Đại sứ Pháp Lalouette cho rằng \"lý do chính đưa tới quyết định của Mỹ loại bỏ ông Diệm là vì vào tháng 4 năm ấy (1963), ông đã toan tính yêu cầu Mỹ rút cố vấn\".", "Trong buổi họp ngày 13 tháng 10 năm 1961, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Đình Thuần đã đề nghị Mỹ hãy duyệt gấp những yêu cầu của Ngô Đình Diệm, trong đó đó đề nghị Mỹ và Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) gửi quân đến Việt Nam, cụ thể:", "Trong thực tế, quân số của Mỹ ở Việt Nam tăng nhanh trong thời Ngô Đình Diệm. Đầu năm 1961 chỉ có 685 cố vấn quân sự thì đến tháng 10-1963, trước khi Diệm và Kennedy lần lượt bị ám sát, con số đó đã lên tới 16.732 người", "Vào năm 1961, chất độc màu da cam và các loại thuốc diệt cỏ khác bắt đầu được thử nghiệm bởi quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam, mà hậu quả vẫn còn tác hại nghiêm trọng đến hơn nửa thế kỷ sau. Một số quan chức và tướng lĩnh trong quân đội Mỹ biết sự thật nhưng che giấu. Chính phủ Mỹ muốn chính phủ Ngô Đình Diệm phải nhận trách nhiệm về việc sử dụng chất diệt cỏ, và đã yêu cầu Tổng thống Ngô Đình Diệm ra tuyên bố rằng các chất này không gây hại gì cho sức khỏe con người", "Năm 1962, Ngô Đình Diệm gửi thư cho phó Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson trong đó viết \"\"Những biến chuyển gần đây tại Lào đã làm nổi bật mối quan ngại trầm trọng của chúng tôi về nền an ninh của Việt Nam Cộng hòa với những đường biên giới kéo dài và dễ bị tấn công...\". Trong một báo cáo, Edward Landsdale nhận xét về Việt Nam: \"Về tâm lý - Việt Nam luôn nghĩ mình mới là đối tượng chính - và họ tự hỏi 'khi tới lần chúng tôi, liệu sẽ có bị đối xử giống như Lào không.' Chính sách của Mỹ đã biến Lào thành nước 'trung lập' với một chính phủ liên hiệp, làm cho Tổng thống Diệm hết sức lo âu vì nghĩ rằng sau Lào thì Mỹ sẽ tính đến việc trung lập hóa Việt Nam và áp đặt một chính phủ liên hiệp với Cộng sản. Bởi vậy, Landsdale cho rằng việc chính là phải làm sao cho chính phủ Miền Nam tin tưởng rằng việc rút lui ở Lào không có nghĩa là sẽ rút khỏi Việt Nam.\"\".", "Tuy nhiên, nguồn khác cho biết đến năm 1963, Ngô Đình Diệm muốn quay sang tìm giải pháp hòa bình. Theo bộ trưởng kinh tế Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Tiến Hưng, đầu năm 1963, Ngô Đình Diệm đã nhìn thấy \"bầu trời tím\". Qua cố vấn Ngô Đình Nhu, ông liên lạc với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để đàm phán về hiệp thương rồi từng bước tiến tới thống nhất Việt Nam trong hòa bình. Theo người trung gian giữa hai bên là đại sứ Ba Lan là ông Mieczyslaw Maneli, trong Phái đoàn kiểm soát đình chiến, thì chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau cả năm suy nghĩ đã đồng ý hợp tác với Diệm để thống nhất Việt Nam. Khi biết chuyện này, đại sứ Lodge, rồi Bộ trưởng McNamara và tướng Taylor báo cáo cho Tổng thống Kennedy rằng Ngô Đình Diệm định làm trái với mục tiêu của Mỹ: \"Sự ve vãn của ông Nhu với ý định điều đình (với Hà Nội) - cho dù là nghiêm chỉnh hay không đi nữa - cũng đã cho thấy có sự bất tương phùng căn bản đối với những mục tiêu của Hoa Kỳ\".", "Còn theo lời Bùi Kiến Thành, cộng sự thân cận với Tổng thống Ngô Đình Diệm thì đến năm 1962, Ngô Đình Diệm không muốn Mỹ đưa quân vào Việt Nam mà muốn đàm phán với chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chính vì điều này mà người Mỹ đã chỉ đạo các tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa khởi động cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm: ", "\"\"... Khi Mỹ muốn vào Việt Nam năm 1962 ông Diệm nói với người Mỹ rằng các ông nên nhớ trên đất nước tôi trong 4.000 năm lịch sử không có một chế độ nào đi theo quân đội nước ngoài mà có thể được nhân dân ủng hộ. Vì vậy ngày nào quân đội Mỹ đặt chân lên đất nước này chúng tôi sẽ mất chính nghĩa, mà khi mất chính nghĩa thì các ông không thể nào thắng được và chúng tôi (Việt Nam Cộng Hòa) cũng phải thua theo. Vì vậy ngày nào quân Mỹ đổ bộ lên đất nước này thì kể như ngày đó chính nghĩa Việt Nam đã mất rồi, chúng tôi không thể chấp nhận được... Khi chính phủ Ngô Đình Diệm thấy cái nguy cơ lính Mỹ đổ bộ lên Việt Nam rồi mà không rút ra được thì chiến tranh sẽ tràn lan, dù cho quân đội Mỹ có đánh thẳng tới Hà Nội đi nữa thì chúng ta vẫn sẽ thua như thường tại vì quân đội Trung Quốc nó sẽ vào vì nó không để cho mình tiến qua biên giới của nó. Vì vậy Miền Bắc sẽ chiến đấu đến cùng để không cho quân của Trung Quốc qua chiếm đóng Việt Nam... Qua sự trung gian của đại sứ Ấn Độ trong Ủy ban Đình chiến, và Đại sứ Pháp… qua các cuộc đi săn bắn của ông Nhu trên vùng biên giới hai bên đã có những cuộc chia sẻ, chưa hẳn là thương thảo nhưng đã liên lạc được với nhau rồi. Khi Mỹ nghe như thế thì họ nói chính phủ Ngô Đình Diệm phản thùng và họ đưa việc này ra cho mấy ông tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa bảo là ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu \"bán nước cho cộng sản\", vì vậy các anh phải lật đổ Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Diệm đi để “cứu nước” không thì họ theo cộng sản, “bán đứng” các anh cho cộng sản... Tháng 9 năm 1963 Tổng thống Kennedy đã quyết định rút quân ra khỏi Việt Nam rồi nhưng do cuộc bầu cử năm 1964 nên không thể làm được cho nên chờ tới năm 1964 sau khi bầu xong thì sẽ làm, nhưng rất tiếc vận hạn của nước ta và nước Mỹ là Kennedy bị bắn chết, Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Việt Nam đi vào cuộc chiến tranh tàn khốc do sự thiếu hiểu biết của một số người nông cạn của phía Mỹ cũng như Việt Nam Cộng Hòa... Người Mỹ không chấp nhận cái lý luận của ông Ngô Đình Diệm nên họ tìm cách lật đổ ông Diệm đi, đó là vấn đề cốt lõi chứ không phải do bà Nhu thế này thế khác... Việc đảo chánh Ngô Đình Diệm không phải là chuyện của Dương Văn Minh, ông ta chỉ là một con cờ thôi, cũng như Trần Văn Đỗ cũng như mấy ông kia cũng chỉ là con cờ, còn người chỉ huy, đưa ra tất cả những chiến thuật chiến lược để làm việc này là người Mỹ, mà người đại diện cho Mỹ làm việc này là đại tá tình báo Lucien Conein, ngồi thường trực tại Bộ Tổng tham mưu để điều khiển mấy ông tướng kia, thành ra tất cả bộ tham mưu lúc đó nghe theo lời của một anh đại tá mật vụ của Mỹ, nghe có cay đắng không?\" \".", "Đến tháng 5/1963, khi trả lời phỏng vấn tờ Washington Post, ông Nhu tuyên bố Mỹ có thể rút đi một nửa số cố vấn. Đại sứ Pháp Lalouette, cho rằng \"\"quyết định của ông Nhu vào hồi tháng 4 yêu cầu rút cố vấn cấp tỉnh đã là lý do chính để người Mỹ quyết định lật đổ ông Diệm\". Sau đó tân Đại sứ Mỹ Lodge thông báo về Washington rằng chính ông nghe tin ông Nhu định điều đình với Bắc Việt Nam. Giám đốc Tình báo và Nghiên cứu Bộ Ngoại giao Roger Hilsman cho rằng \"Ông Nhu đã quyết định dấn thân vào một cuộc mạo hiểm, cho nên ta không thể nào tiếp tục con đường hòa giải với ông ta được nữa\". Trong công điện số 272 gửi cho đại sứ Lodge, Nhà Trắng đưa ra ý tưởng loại bỏ vợ chồng Ngô Đình Nhu khỏi các chức vụ và kết luận rằng \"sẽ không thành công nếu chỉ thuyết phục suông\" trừ phi \"đưa ra một lời răn đe dọa cắt viện trợ\" nhưng làm như vậy thì \"có nguy cơ rất cao là ông Diệm sẽ coi đó là chỉ dấu sắp có hành động chống lại ông và ông bà Nhu đến nơi rồi, và tối thiểu rất có thể ông ta sẽ có biện pháp mạnh đối với các tướng lãnh hay thậm chí có hành động quái đản thí dụ như kêu gọi Bắc Việt yểm trợ để trục xuất người Mỹ đi\". Sau đó Lodge báo cáo về nước rằng chính ông ta cũng đã \"có nghe tin ông Nhu đã bí mật giao thiệp với Hà Nội và Việt Cộng qua Đại sứ Pháp (Lalouette) và Ba Lan (Maneli), cả hai chính phủ các nước này đều tán thành một giải pháp trung lập giữa Bắc và Nam Việt Nam\"\".", "Theo ông Cao Xuân Vỹ, người cùng đi với Ngô Đình Nhu gặp Phạm Hùng, Diệm muốn quá trình hiệp thương Nam - Bắc Việt Nam phải có 6 giai đoạn: cho phép dân hai miền trao đổi thư tín tự do, cho dân qua lại tự do, cho dân hai bên được tự do chọn nơi định cư giữa hai miền, trao đổi kinh tế, hiệp thương chính trị, tổng tuyển cử. Còn theo Mieczyslaw Maneli, Trưởng đoàn Ba Lan trong Ủy Hội Kiểm Soát Đình Chiến, thì \"\"Mùa Xuân năm 1963, Đại sứ Pháp Lolouette nói với tôi là Tổng thống Diệm và em của ông có nhờ tôi tìm hiểu với Chính phủ Hà Nội xem có khả năng nào để giải quyết cuộc chiến bằng phương tiện hòa bình hay không. Trong mấy tháng sau đó tôi đã thảo luận nhiều với giới lãnh đạo cao cấp nhất kể cả Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Câu hỏi căn bản tôi đặt ra cho họ là: trong trường hợp Mỹ rút khỏi Miền Nam, những bảo đảm thực sự nào Miền Bắc có thể đem ra để chứng tỏ rằng một Việt Nam thống nhất sẽ không phải là một nước của thế giới Cộng sản? Lãnh đạo Miền Bắc thảo luận nhiều lần và dần dần đi tới một kế hoạch mà tôi đã dựa vào đó để thảo luận với một nhóm các đại sứ Tây phương. Theo như kế hoạch này, hai Miền Bắc - Nam sẽ từ từ đi từng bước bắt đầu từ liên lạc bưu chính, kinh tế, văn hóa. Sản phẩm kỹ nghệ Miền Bắc sẽ được dùng để mua thóc gạo Miền Nam... Miền Bắc sẽ không đòi hỏi phải thống nhất nhanh chóng, một chính phủ liên hiệp sẽ được thành lập tại Miền Nam. Tôi hỏi liệu ông Diệm có thể là lãnh đạo của chính phủ này hay không? Tới mùa hè 1963 thì câu trả lời sau cùng là có. Sau đó, tôi lại hỏi thêm: nhưng làm sao phía Thế giới Tự do (chỉ phương Tây) có thể tin rằng Hà Nội sẽ giữ lời hứa? Câu trả lời là nếu Mỹ đồng ý rút, Miền Bắc sẽ sẵn sàng đưa ra những bảo đảm có thực chất, gồm cả việc Mỹ tham dự vào việc giám sát giải pháp hòa bình... ngoài ra Miền bắc cũng sẽ có quan hệ ngoại giao và thương mại với thế giới Tự do, và sau cùng nhưng rất quan trọng, là quyền lực về kinh tế và chính trị của Hoa Kỳ sẽ vẫn còn nguyên, không bị bớt đi vì cuộc chiến.\" \".", "Tuy nhiên, một số người khác thì đánh giá rằng việc liên lạc với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để đàm phán là quyết định riêng của Ngô Đình Nhu, người được coi là mưu mẹo và thực tế hơn, còn Ngô Đình Diệm không có được sự uyển chuyển về chính trị như vậy. Bản thân Ngô Đình Diệm khi đó vẫn muốn tiếp tục chiến tranh, với việc Mỹ liên tục tăng cường thêm quân tại Việt Nam từ năm 1961 nhằm đáp ứng lời đề nghị của Ngô Đình Diệm thì ông ta vẫn không tin mình sẽ thất bại hoặc bị lật đổ", "Can thiệp vào nội bộ Campuchia và Lào.", "Với Lào, quốc gia láng giềng, chính quyền Diệm đã quyết định đoạn giao khi Chính phủ của hoàng thân Souvanna Phouma công nhận và thiết lập liên lạc ngoại giao với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào năm 1962. Ngay như Campuchia, một quốc gia liền kề cũng đã từ chối không công nhận về mặt pháp lý đối với chính quyền Ngô Đình Diệm. Ngày 2 tháng 2 năm 1956 Ngô Đình Diệm đã đóng cửa biên giới không cho hàng hóa nhập vào Campuchia. Như vậy, thất bại lớn nhất trong chính sách đối ngoại của chính phủ Ngô Đình Diệm ở Đông Nam Á là không lôi kéo được Lào Và Campuchia ủng hộ mình.", "Tháng 2 năm 1959, cơ quan Tình báo Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa hợp tác với tướng Campuchia Dap Chhoun âm mưu đảo chính lật đổ quốc vương Norodom Sihanouk để đưa Sơn Ngọc Thành lên làm lãnh đạo Campuchia do Sihanouk có khuynh hướng ngả theo Bắc Kinh. Khi cuộc đảo chính bùng nổ thì lực lượng Quân khu V và Quân khu II của Việt Nam Cộng hòa sẽ tiến đến biên giới giúp Dap Chhoun chiếm lĩnh khu vực Đông - Bắc Campuchia. Tuy nhiên, giờ khởi sự bị đình lại vì Sơn Ngọc Thành qua Thái Lan để xin viện trợ quân sự cho mặt trận phía Tây. Chính sự trì hoãn này đã làm cho âm mưu bị bại lộ. Ngay khi phát hiện âm mưu đảo chính, Sihanouk giao Lon Nol thống lãnh lực lượng lính dù mở cuộc tấn công chớp nhoáng vào Siem Reap khi Dap Chhoun còn ngủ. Dap Chhoun cải trang trốn thoát. Quân Lon Nol chiếm dinh thống đốc Siem Reap và bắt được đầy đủ tang vật gồm 100 kg vàng, hai điệp viên Việt Nam Cộng hòa và đài vô tuyến cùng một số vũ khí. Hôm sau, Sihanouk mời tất cả viên chức ngoại giao nước ngoài, trong đó có ông Ngô Trọng Hiếu, đặc sứ Việt Nam Cộng hòa tại Campuchia, đến Siem Reap. Tại dinh thống đốc Siem Reap, Sihanouk không ngớt lời thóa mạ \"“kẻ thù dân tộc Khmer”\" và bọn \"“tay sai đế quốc\"\" rồi trưng ra tất cả nhân chứng lẫn vật chứng trong đó có 100 kg vàng đóng dấu ngân khố Việt Nam Cộng hòa, hệ thống điện đài và hai điệp viên mang thông hành Việt Nam Cộng hòa. Hai điệp viên Việt Nam Cộng hòa bị kết án tử hình còn Dap Chhoun bị lực lượng lính dù của Lon Nol bắt và hạ sát.", "Báo Nhân dân dẫn theo các báo Campuchia ngày 22 tháng 6 năm 1961 cho biết tòa án Quân sự Campuchia kết án tử hình một điệp viên chính quyền Ngô Đình Diệm, về tội \"mưu sát quốc vương và hoàng hậu Campuchia\" và tội \"làm gián điệp cho Mỹ - Diệm phá hoại nền an ninh Campuchia\". Người này là chủ nhiệm tờ Hồn Việt và tờ Tự do xuất bản tại Phnôm Pênh các năm 1956-1957. Chính phủ Campuchia bắt được nhiều giấy tờ tỏ rõ điệp viên này nhận lệnh của chính quyền Ngô Đình Diệm \"âm mưu phá hoại nền an ninh Campuchia\", trong đó có cả thư khen của ông Diệm gửi cho ông ta. Kế hoạch ám sát Sihanouk được ông Ngô Đình Nhu và Trần Kim Tuyến thảo luận chi tiết, sau khi mưu đảo chính tại Campuchia thất bại. Tuy nhiên âm mưu ám sát bất thành do Sihanouk may mắn thoát chết. Phạm Trọng Nhơn là thủ phạm của vụ này. Theo báo An ninh Thế giới, Sihanouk thoát chết là nhờ một điệp viên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Ba Quốc (tên thật là Đặng Trần Đức), phụ tá Phó Giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị Xã hội Việt Nam Cộng hòa, tham gia vào âm mưu ám sát đã cố ý cài đặt bom lệch giờ.", "Theo báo Nhân dân, dẫn lại \"Đài Tiếng nói Lào\", hơn mười ngày sau cuộc đảo chính ngày 9 tháng 8 năm 1960 ở Viêng Chăn, hàng nghìn binh sĩ Mỹ, Thái Lan, Philippines, lính Đài Loan, Việt Nam Cộng hòa đã đến Savannakhet chuẩn bị tấn công Viêng Chăn. Ngày 31 tháng 1 năm 1961, Đại tá Hà Văn Lâu trưởng phái đoàn liên lạc của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi điện đến Ủy ban quốc tế, cho biết sau cuộc gặp giữa Nguyễn Khánh và Trần Văn Đôn với Phoumi Nosavan và Boun Oum, chính quyền Diệm đã cho ba đơn vị bộ binh của trung đoàn 1 và 2 thuộc sư đoàn I của quân khu 2 sang Lào.", "Các lần bị ám sát.", "Từ năm 1957 đến năm 1962, Ngô Đình Diệm nhiều lần bị ám sát nhưng đều may mắn thoát chết. Có thể kể đến 2 vụ tiêu biểu: Lần đầu tiên do Hà Minh Trí, một người cộng sản dưới danh nghĩa thành viên Cao Đài thực hiện ngày 22 tháng 2 năm 1957 tại \"Hội chợ Kinh tế Cao nguyên\" ở Buôn Ma Thuột, lần thứ hai do hai phi công thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa là Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc, vốn là đảng viên Đại Việt Quốc dân Đảng, ném bom vào dinh Tổng thống ngày 27 tháng 2 năm 1962. Nguyễn Văn Cử là con trai thứ hai của Nguyễn Văn Lực, một lãnh đạo của Đại Việt Quốc dân đảng, người mà trước đó đã bị Ngô Đình Diệm bỏ tù một thời gian vì các hoạt động chống đối. Vụ ném bom của Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc làm sập một góc của dinh Tổng thống, khiến 3 người phục vụ và lính gác bị chết, 30 người khác bị thương, song Ngô Đình Diệm đã kịp xuống hầm trú ẩn an toàn.", "Bị đảo chính lần thứ nhất.", "Đảo chính tại Việt Nam Cộng hòa năm 1960 là cuộc đảo chính quân sự đầu tiên tại Việt Nam Cộng hòa, do đại tá Nguyễn Chánh Thi và trung tá Vương Văn Đông cầm đầu. Mục đích cuộc đảo chính nhằm lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ban đầu, quân đảo chính kiểm soát được một số vị trí quan trọng tại Sài Gòn do yếu tố bất ngờ, tuy nhiên nhanh chóng thất bại khi các thủ lĩnh quân sự không kiên quyết cũng như không có được sự ủng hộ quần chúng.", "Kế hoạch đảo chính đã được Vương Văn Đông và các quan chức bất bình với chế độ Ngô Đình Diệm, trong đó có Đại tá Nguyễn Chánh Thi, chuẩn bị trong một năm. Vương Văn Đông đã cấu kết được với một trung đoàn xe thiết giáp, một đơn vị hải quân và ba tiểu đoàn quân nhảy dù. Cuộc đảo chính được dự định vào 5 giờ sáng ngày 11 tháng 11. Tuy nhiên kế hoạch đã được thực hiện không hiệu quả, quân nổi loạn đã không tuân thủ chiến thuật đã được viết ra như chiếm giữ đài phát thanh và phong tỏa các con đường vào đô thành Sài Gòn. Họ cũng đã không thể cắt đường dây liên lạc điện đàm vào dinh Độc Lập, điều này khiến cho Ngô Đình Diệm có thể liên lạc được với các đơn vị trung thành đến bảo vệ mình. Quân đảo chính đã bao vây dinh Độc Lập nhưng trì hoãn tấn công trong 36 giờ vì tin rằng Ngô Đình Diệm sẽ tuân thủ theo yêu sách của họ. Lợi dụng thời gian trì hoãn này, Ngô Đình Diệm đã xuống tầng hầm dinh Độc Lập và viết một bài diễn văn hứa hẹn sẽ có bầu cử tự do và công bằng và các biện pháp tự do khác. Khi các thỏa hiệp đang được phát trên các phương tiện truyền thông ngày 12 tháng 11, lực lượng trung thành với Ngô Đình Diệm đã tiến vào Sài Gòn. Cuộc giao tranh diễn ra chớp nhoáng nhưng khốc liệt với khoảng 400 người chết, trong đó có nhiều thường dân tò mò xuống phố để xem giao tranh. Lực lượng trung thành với Ngô Đình Diệm đã tiêu diệt gọn quân đảo chính.", "Sau cuộc chiến là một cuộc đàn áp của Ngô Đình Diệm với những người chỉ trích và nhiều bộ trưởng nội các bị bỏ tù. Một số sĩ quan quân đội và chính khách đối lập liên quan đến cuộc đảo chính bị chính quyền Ngô Đình Diệm thanh trừng và đưa ra xét xử, tiêu biểu như vụ án nhà văn Nguyễn Tường Tam.", "Khủng hoảng Phật giáo.", "Các mối quan hệ của chế độ Ngô Đình Diệm với Hoa Kỳ đã trở nên tồi tệ hơn trong năm 1963, do sự bất mãn ngày một tăng trong phần lớn Phật tử ở miền Nam Việt Nam. Tháng 5 năm 1963, ở Huế một thành phố trung tâm của đạo Phật, theo Topmiller, người anh của Ngô Đình Diệm là tổng Giám mục Ngô Đình Thục đã cấm phật tử và nhà chùa treo cờ nhà Phật trong lễ Phật đản căn cứ trên quy định cấm treo các loại cờ tôn giáo ở nơi công cộng còn theo tác giả Nguyễn Hiền Đức, Ngô Đình Cẩn chỉ thị cho Tỉnh trưởng yêu cầu ban Tổ chức lễ Phật Đản chỉ cần thông báo cho toàn thể tín đồ Phật giáo đừng treo cờ Phật giáo trong ngày lễ, Phật tử nào đã treo cờ rồi thì cứ để cho treo hết lễ. Vài ngày trước đó thì người Công giáo lại được phép treo cờ trong các lễ kỷ niệm của họ. Tuy nhiên, sau đó Phật giáo và chính quyền thành phố Huế đã đạt được thỏa thuận cho phép dân chúng treo cờ Phật giáo.", "Nhưng thượng tọa Thích Trí Quang vẫn quyết định tiếp tục đấu tranh nhằm chống lại quy định của chính quyền. Trong lúc Phật tử tụ tập trước đài phát thanh Huế chờ nghe bài diễn văn của Thượng tọa Thích Trí Quang đã xảy ra vụ nổ giết chết 9 thường dân không vũ trang. Mặc dù tỉnh trưởng bày tỏ sự cảm thông và chia buồn sâu sắc đối với thân nhân những người chết và đề xuất bồi thường cho gia đình nạn nhân, nhưng tỉnh trưởng vẫn nhất quyết phủ nhận lực lượng của chính phủ đàn áp giết chết người biểu tình, đồng thời cho rằng Việt Cộng là thủ phạm. Theo Karnow, lực lượng an ninh quân đội Việt Nam Cộng hòa đã đàn áp cuộc biểu tình của Phật giáo. Ngô Đình Diệm và những người cùng phe cáo buộc Việt Cộng phải chịu trách nhiệm về những cái chết của thường dân và tuyên bố những người biểu tình phải chịu trách nhiệm về tình trạng bạo lực", "Các tổ chức Phật giáo đã đưa ra một bản Tuyên ngôn gồm 5 điểm: tự do treo cờ tôn giáo, chấm dứt bắt bớ bừa bãi, bồi thường cho các nạn nhân Huế, các quan chức chịu trách nhiệm về vụ đàn áp phải bị xử lý và bình đẳng tôn giáo. Chính quyền cấm các cuộc biểu tình, ra lệnh cho quân đội cảnh sát bắt giữ những người tham gia vào các cuộc tuần hành biểu tình.", "Ngày 3 tháng 6 năm 1963, người biểu tình cố gắng diễu hành qua chùa Từ Đàm. Quân lực Việt Nam Cộng hòa sử dụng hơi cay và chó nghiệp vụ tấn công người biểu tình 6 lần để giải tán đám đông nhưng bất thành, cuối cùng quân đội sử dụng hóa chất lỏng màu nâu đỏ để tưới vào đám đông người biểu tình đang cầu nguyện, kết quả là 67 người phải nhập viện vì nhiễm độc. Lệnh giới nghiêm sau đó đã được chính quyền Diệm ban hành.", "Để xoa dịu Phật giáo, ngày 4 tháng 6 năm 1963, Chính phủ Ngô Đình Diệm thành lập Ủy ban Liên bộ để nghiên cứu giải quyết những nguyện vọng của Phật giáo, do Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ đứng đầu. Một phái đoàn hỗn hợp của hai bên được gửi ra Huế để giải tỏa các chùa Từ Đàm, Linh Quang, Báo Quốc, và Chùa Diệu Đế, đồng thời kêu gọi Phật tử trở về sinh hoạt bình thường, kiên nhẫn chờ đợi hành động của chính quyền.", "Bước ngoặt của cuộc khủng khoảng Phật giáo năm 1963 đến vào tháng 6, khi hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu giữa một ngã tư đông đúc ở Sài Gòn để phản đối các chính sách của Diệm; bức ảnh chụp lại cảnh tượng này đã nhanh chóng phổ biến trên khắp thế giới, và đối với nhiều người những hình ảnh này đã chứng minh cho sự thất bại của chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Một số nhà sư khác đã tự thiêu, noi gương theo hòa thượng Thích Quảng Đức.", "Trước tình hình đó, Ủy ban Liên bộ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa và Ủy ban Liên phái của Phật giáo sau khi thảo luận đã ra bản Thông cáo chung với nội dung cho phép treo cờ Phật giáo nơi công cộng nhưng phải kèm theo cờ quốc gia, chính phủ hứa sẽ thay thế dụ số 10 bằng một đạo luật mới do Quốc hội ban hành, lập Ban điều tra để xem xét tất cả các đơn khiếu nại của Phật giáo, phóng thích những người liên quan đến cuộc đấu tranh của Phật giáo, những sinh hoạt tôn giáo thuần túy và thường xuyên không diễn ra nơi công cộng không cần xin phép, tạo điều kiện cho Phật giáo xây chùa, trừng phạt các cán bộ có trách nhiệm trong sự kiện Phật đản ngày 8 tháng 5 năm 1963 nếu thật sự họ có lỗi, trợ giúp các nạn nhân trong sự kiện Phật đản.", "Sau khi bản Thông cáo chung được công bố, phía Phật giáo cho rằng các chính quyền địa phương đang ngầm chống lại việc thực thi Thông cáo chung nên tiếp tục đấu tranh. Cuộc đấu tranh của Phật giáo khiến chính quyền Việt Nam Cộng hòa do Tổng thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo mất uy tín cả trong lẫn ngoài nước. Điều này buộc Tổng thống Ngô Đình Diệm ra thông điệp kêu gọi hòa giải giữa chính phủ Việt Nam Cộng hòa và Phật giáo. Tuy nhiên Phật giáo không chấp nhận hòa giải mà vẫn tiếp tục đấu tranh.", "Chính phủ Hoa Kỳ ngày càng thất vọng với những hình ảnh công bố các nhà lãnh đạo không được ưa chuộng cả ở Việt Nam và Hoa Kỳ. Ngô Đình Diệm sử dụng lý lẽ chống cộng truyền thống của mình, buộc tội những người chống đối là cộng sản. Khi các cuộc biểu tình chống chính phủ của Ngô Đình Diệm vẫn tiếp tục trong suốt mùa hè năm 1963, thì các lực lượng đặc biệt trung thành với chính phủ đã tiến hành một cuộc đột kích vào chùa Xá Lợi ở Sài Gòn vào tháng 8 cùng năm. Chùa bị phá hoại, các nhà sư bị đánh đập, hài cốt hỏa táng của hòa thượng Thích Quảng Đức, bao gồm cả trái tim của ông được những phật tử coi là một di tích tôn giáo, cũng bị lực lượng an ninh tịch thu.", "Các cuộc tấn công đồng thời được thực hiện trên toàn Việt Nam Cộng hòa, chùa Từ Đàm ở Huế bị cướp phá, tượng phật Tất-đạt-đa Cồ-đàm bị phá hủy và di thể một nhà sư đã tạ thế cũng bị đưa đi. Khi dân chúng đến để bảo vệ các nhà sư đã đụng độ với quân đội và cảnh sát, dẫn đến 30 thường dân thiệt mạng và 200 người khác bị thương. Tổng cộng đã có 1.400 nhà sư bị bắt, khoảng 30 nhà sư bị thương trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa. Hoa Kỳ đã cho thấy quan điểm không tán thành chính quyền của Diệm khi đại sứ Hoa Kỳ là Henry Cabot Lodge, Jr. tới thăm một ngôi chùa. Không có thêm các cuộc biểu tình của Phật tử xảy ra trong thời gian nắm quyền còn lại của Ngô Đình Diệm (khoảng 5 tháng).", "Trong thời gian này, em dâu của Ngô Đình Diệm là Trần Lệ Xuân, một người từng theo đạo Phật và sau cải đạo sang Công giáo, có thể coi Trần Lệ Xuân là Đệ Nhất phu nhân \"de facto\" (trên thực tế) do Ngô Đình Diệm không lập gia đình; Trần Lệ Xuân đã đổ thêm dầu vào lửa khi chế giễu các vụ tự thiêu của các nhà sư, coi họ là \"thịt nướng\" (barbecues), và tuyên bố \"Nếu các phật tử muốn có thêm thịt nướng, Tôi sẽ vui mừng cung cấp xăng cho họ\" (nguyên văn: \"If the Buddhists want to have another barbecue, I will be glad to supply the gasoline\"). Các cuộc tấn công vào chùa chiền đã làm dấy lên băn khoăn lo lắng lan rộng trong công chúng ở Sài Gòn. Sinh viên đại học Sài Gòn đã bãi khóa và tổ chức các cuộc bạo động, dẫn đến việc bắt giữ, bỏ tù và đóng cửa các trường đại học; điều này đã lặp lại tại Đại học Huế. Khi học sinh trung học diễu hành biểu tình, Ngô Đình Diệm cũng đã bắt học sinh; trên 1.000 học sinh từ các trường trung học ở Sài Gòn, hầu hết là con em các công chức dân sự Sài Gòn, đã bị gửi tới các trại cải tạo, theo báo cáo bao gồm cả trẻ em lên năm, bị buộc tội vẽ và viết các câu, hình vẽ chống chính phủ. Bộ trưởng ngoại giao của Diệm là Vũ Văn Mẫu đã từ chức, cạo đầu giống như một nhà sư để phản đối. Khi ông cố gắng rời Việt Nam Cộng hòa để tham gia một cuộc hành hương đến đất phật Ấn Độ, thì bị bắt và bị quản thúc.", "Ngày 20 tháng 8 năm 1963, Ngô Đình Nhu chỉ đạo lực lượng an ninh của đại tá Lê Quang Tung phát động chiến dịch Nước Lũ ào ạt tấn công chùa Xá Lợi, Giác Minh, Ấn Quang, Từ Quang, Therevada ở Sài Gòn và chùa chiền khắp toàn quốc. Họ mặc đồng phục của quân đội trong khi đột kích để cho mọi người thấy rằng Quân đội chính phủ đứng sau lưng họ trong cuộc đàn áp này. Lực lượng của Ngô Đình Nhu đã bắt hơn 400 nhà sư đang ngồi trước tượng Đức Phật. Hàng ngàn phật tử khác cũng bị bắt giữ trên cả nước (riêng tại Sài Gòn là 1.400 người) với lý do \"Phật giáo là tay sai của Việt cộng\". Hệ quả tức thời của chiến dịch Nước Lũ là toàn bộ thành phần lãnh đạo Phật giáo bị bắt giữ, phong trào đấu tranh của Phật giáo gần như bị tê liệt.", "Trong ba tháng sau chiến dịch Nước Lũ, nhiều vị lãnh đạo trên thế giới, kể cả Giáo hoàng Phaolô VI và các tổ chức Công giáo, đã lên án Ngô Đình Diệm. Ngô Đình Thục đến Vatican nhưng không được Giáo hoàng tiếp, Trần Lệ Xuân dẫn phái đoàn Quốc hội đi nước ngoài bị biểu tình phản đối. Cuối tháng 9/1963, Tổ chức Liên Hợp Quốc quyết định gửi phái đoàn đến Việt Nam để điều tra tình hình đàn áp Phật giáo theo lời mời của Việt Nam Cộng hòa.", "Khủng hoảng chính trị và quân sự.", "Từ năm 1960 khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam với sự hậu thuẫn của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời tiến hành đấu tranh vũ trang đã làm cho tình hình an ninh ở miền Nam bị xáo trộn. Lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã kiểm soát được phần lớn vùng nông thôn, các kế hoạch quốc sách như Ấp Chiến lược và Khu Trù mật của Ngô Đình Diệm đều thất bại. Riêng trong năm 1963, quân Giải phóng và người dân miền Nam đã phá hoàn toàn 2.895 Ấp chiến lược trong số 6.164 ấp được lập, số còn lại đã bị phá đi phá lại 5.950 lần ấp. Quân Giải phóng giành quyền làm chủ ở 12.000 thôn trong tổng số 17.000 thôn toàn miền Nam, gồm hơn 5 triệu dân trong tổng số 14 triệu dân toàn miền Nam. Hơn 1,5 triệu ha trên tổng số 3,5 triệu ha ruộng đất đã về tay nông dân; hơn 23.000 thanh niên miền Nam đã gia nhập quân Giải phóng. Hàng nghìn ấp chiến lược đã biến thành làng chiến đấu, hệ thống Ấp chiến lược bị sụp đổ đến 4/5.", "Việc tập trung quyền lực vào gia đình, đảo ngược các chính sách cải cách ruộng đất của Việt Minh trước đây \"(xem Cải cách điền địa)\" cũng như chính sách cai trị đất nước bị coi là thiên vị với thiểu số người Công giáo tạo ra những mầm mống xung đột giữa Công giáo và Phật giáo cũng như sự bất mãn trong đội ngũ tướng lĩnh quan chức, sự chống đối của đông đảo người theo đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, trí thức và nông dân. Hơn nữa Ngô Đình Diệm còn bị các chính trị gia đối lập chỉ trích là độc tài, gia đình trị, bất lực trong việc ổn định xã hội và chống Cộng thiếu hiệu quả (\"xem Nhóm Caravelle\").", "Anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu nảy sinh bất đồng từ đầu năm 1963. Quân đội Việt Nam cộng hòa bị thua nặng tại trận Ấp Bắc, dù khi đó tại Nam Việt Nam đã có 12.000 cố vấn quân sự Mỹ, đã khiến giới quân sự Mỹ liên tục chỉ trích khả năng quân sự của các tướng Việt Nam Cộng Hòa và đòi để các tướng Mỹ nắm quyền chỉ huy. Ngô Đình Nhu tỏ ra bất mãn về việc chính phủ Việt Nam Cộng hòa phải nghe theo những khuyến cáo quân sự của người Mỹ nên quyết định tìm hướng đi mới, tỏ ý định yêu cầu Mỹ rút bớt cố vấn quân sự về nước và tìm cách tiếp xúc với những người cộng sản ở Hà Nội. Người ta đánh giá rằng việc này là quyết định riêng của Ngô Đình Nhu, còn Ngô Đình Diệm không có được sự uyển chuyển về chính trị như vậy.", "Do những ý định mới của Ngô Đình Nhu, người Mỹ bắt đầu tìm cách thay thế Ngô Đình Diệm, họ cắt một nửa viện trợ cho chính quyền Sài Gòn. Tháng 7 năm 1963, đại sứ Mỹ Frederick Nolting, người bị xem là quá bao che cho chính quyền họ Ngô, bị thay thế. Cùng lúc đó nổ ra biến cố Phật giáo, 1963 làm chính quyền Sài Gòn càng lung lay. Theo tướng Pháp Paul Ély thì vào giữa năm 1963, quyền lực của Ngô Đình Diệm chỉ còn giới hạn trong phạm vi Sài Gòn.", "Cùng với việc chống Cộng không đạt được kết quả và không xoa dịu được cuộc đấu tranh của Phật giáo được xem là nguyên nhân dẫn tới sự mất uy tín trầm trọng của chính quyền Ngô Đình Diệm trước các lực lượng chính trị hợp pháp khác tại miền Nam và trước chính quyền Hoa Kỳ. Sự kiện Phật Đản, 1963 xảy ra là giọt nước tràn ly dẫn tới hành động đảo chính của một nhóm tướng lĩnh vốn bất mãn với cách điều hành đất nước của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Chính phủ Mỹ đề nghị Ngô Đình Diệm bớt đàn áp tàn bạo đối với Phật giáo và sinh viên để lấy lại hình ảnh dân chủ hơn của chính quyền, nhưng Ngô Đình Diệm không nghe theo. Đứng trước tình thế đó, chính phủ Kennedy buộc phải gây sức ép đối với chính quyền của Ngô Đình Diệm.", "Căng thẳng với người Mỹ ngày càng tăng, nhưng Ngô Đình Diệm không nghe theo những cảnh báo của Mỹ vì ông vẫn tự tin cho rằng người Mỹ không thể tìm ra người thay thế tốt hơn mình ở vị trí Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Vì thế chính phủ Mỹ cuối cùng quyết định bỏ rơi ông.", "Bị đảo chính lần thứ hai.", "Theo Thomas Ahern Jr., bắt đầu từ tháng 10 năm 1960 CIA bắt đầu nhận thấy mầm mống nổi loạn chống Ngô Đình Diệm ở Sài Gòn ngày càng tăng, CIA tập hợp thông tin về thành phần bất mãn trong quân đội đồng thời cố gắng khai thác tướng Trần Văn Minh và các nguồn khác nhằm liên lạc với thành phần tham gia đảo chính. Nhân viên CIA Miller được lệnh của Trạm CIA tránh can dự \"cố vấn\" cho phe đảo chính mà chỉ việc lặng lẽ theo dõi diễn biến rồi báo cáo về Trạm.", "Bùi Diễm (sau năm 1963 là Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ) đã viết trong hồi ký của mình rằng: tướng Lê Văn Kim đã yêu cầu hỗ trợ nhằm thực hiện điều mà chính phủ Hoa Kỳ cũng muốn làm với chính quyền của Ngô Đình Diệm (tức gạt bỏ chính quyền của Ngô Đình Diệm). Bùi Diễm đã liên lạc với cả đại sứ và các nhà báo thạo tin của Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam, như David Halberstam (New York Times), Neil Sheehan (United Press International) và Malcolm Browne (Associated Press).", "Theo lời Bùi Kiến Thành, một người thân cận với Tổng thống Ngô Đình Diệm thì \"\"Qua sự trung gian của đại sứ Ấn Độ trong Ủy ban Đình chiến, và Đại sứ Pháp… qua các cuộc đi săn bắn của ông Nhu trên vùng biên giới hai bên đã có những cuộc chia sẻ, chưa hẳn là thương thảo nhưng đã liên lạc được với nhau rồi. Khi Mỹ nghe như thế thì họ nói chính phủ Ngô Đình Diệm phản thùng và họ đưa việc này ra cho mấy ông tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa bảo là ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu \"bán nước cho cộng sản\", vì vậy các anh phải lật đổ Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Diệm đi để “cứu nước” không thì họ theo cộng sản, “bán đứng” các anh cho cộng sản...Những đầu óc suy yếu của những anh tướng hữu dũng vô mưu không biết gì cả, nghe như thế lại tưởng rằng mình là người ái quốc ái quần, lật đổ Ngô Đình Diệm để \"cứu đất nước khỏi họa cộng sản\"\" \".", "Henry Cabot Lodge, Jr. đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Cộng hòa sau khi biết về âm mưu đảo chính được lên kế hoạch bởi các tướng lĩnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, do tướng Dương Văn Minh cầm đầu đã báo cáo cho Tổng thống Mỹ John F. Kennedy xin ý kiến. Biên bản cuộc họp ngày 29 tháng 10 năm 1963 giữa Kennedy và các cố vấn cho thấy Kennedy sau khi họp với 15 cố vấn ngoại giao cao cấp và chuyên gia an ninh quốc gia không đưa ra được ý kiến thống nhất về vấn đề này mà để cho đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge, Jr. tùy cơ ứng biến. Tại Washington, ngoại trưởng Dean Rusk truyền đạt quyết định đến Đại sứ Lodge ở Sài Gòn. Lodge báo tin cho nhân viên CIA Lucien Conein.", "Lucien Conein, đặc vụ của CIA, trở thành đầu mối liên lạc giữa Đại sứ quán Hoa Kỳ với các tướng lĩnh đảo chính, do Trần Văn Đôn đứng đầu. Ngày 3 tháng 10 năm 1963, Conein gặp tướng Minh là người nói cho ông biết ý định đảo chính và yêu cầu người Mỹ hỗ trợ nếu nó thành công. Trong phim tài liệu Việt Nam: Cuộc chiến 10.000 ngày của đạo diễn Michael Maclear, nhân viên CIA Lucien Conein kể lại rằng khi được thông báo về ý định đảo chính ông ta nói: \"Lệnh mà tôi nhận là thế này: Tôi phải cho Tướng Minh biết rằng chính phủ Hoa Kỳ sẽ không cản trở cuộc đảo chính của họ, và tôi đã truyền đạt điều này.\"\". Sau đó Conein bí mật gặp tướng Trần Văn Đôn để nói với ông này rằng Hoa Kỳ phản đối bất cứ hành động ám sát nào. Tướng Trần Văn Đôn trả lời \"Được rồi, nếu anh không thích điều đó chúng ta sẽ không nói về nó nữa.\"\". Theo một nguồn khác, Conein cung cấp cho nhóm tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa một số tiền mặt lên tới 40.000 USD để hỗ trợ cho việc thực hiện đảo chính với lời hứa rằng Hoa Kỳ sẽ không làm bất cứ điều gì để bảo vệ Ngô Đình Diệm.", "Ngày 30 tháng 10 năm 1963, phụ tá Ngoại trưởng Mỹ Roger Hilsman gửi đến Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn một bức mật thư mà ông này gọi đó là \"Hoàng hôn của các thần linh\". Trong bức mật thư này có đoạn: ", "\"Chúng ta cần khuyến khích nhóm đảo chính chiến đấu đến cùng và phá tan Dinh Độc Lập (nếu cần) để đạt được thắng lợi. Điều kiện cho gia đình họ Ngô là đầu hàng vô điều kiện, vì nếu không họ sẽ tìm cách gạt bỏ được lực lượng đảo chính lẫn sự ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Nếu gia đình họ Ngô bị bắt sống, vợ chồng ông Nhu phải nhanh chóng bị tống xuất sang Pháp hay bất cứ nước nào muốn nhận họ. Riêng ông Diệm, tùy thuộc vào ý muốn của các tướng lĩnh tham gia đảo chính\".", "Tướng Dương Văn Minh và các đồng mưu lên kế hoạch lật đổ chính phủ của Ngô Đình Diệm vào ngày 1 tháng 11 năm 1963 bằng một cuộc đảo chính nhanh gọn chóng vánh. Ngày 1 tháng 11 năm 1963, lực lượng đảo chính đưa quân đội tới chiếm đóng tất cả các vị trí trọng yếu ở Sài Gòn, chặn mọi cửa ngõ ra vào nội đô. Tại dinh tổng thống, chỉ có một lực lượng nhỏ trung thành bảo vệ cho Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu, các tướng lĩnh đảo chính kêu gọi Ngô Đình Diệm đầu hàng và Ngô Đình Diệm sẽ được ra nước ngoài sống lưu vong nếu đầu hàng. Tuy nhiên tối hôm đó, Ngô Đình Diệm và đoàn tùy tùng đã trốn thoát khỏi dinh tổng thống bằng một đường hầm tới Chợ Lớn, về lánh nạn tại nhà thờ Cha Tam - Chợ Lớn. Sáng sớm ngày 2 tháng 11, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị lực lượng đảo chính bắt, cuộc đảo chính tới đây là kết thúc, phe đảo chính chỉ còn việc thành lập chính phủ mới. Hành động đảo chính đã đưa Việt Nam Cộng hòa đến tình trạng khủng hoảng lãnh đạo trong một thời gian cho đến khi Nguyễn Văn Thiệu trở thành Tổng thống Việt Nam Cộng hòa.", "Ám sát và mai táng.", "Sau khi bị lật đổ bởi các tướng lĩnh dưới quyền ngày 1 tháng 11 năm 1963, Ngô Đình Diệm cùng em trai — cố vấn Ngô Đình Nhu — lánh nạn tại nhà thờ Cha Tam. Lúc 7 giờ sáng ngày 2 tháng 11 năm 1963, Ngô Đình Diệm gọi điện thoại cho Đại sứ Mỹ là Cabot Lodge để cầu cứu trước, nhưng Lodge đã \"“bỏ máy xuống và đi tìm cái gì đó”\". Khi trợ lý của Lodge là Mike Dunn đề nghị Lodge cho người đến đó để giải cứu, Lodge ngăn lại: \"“Chúng ta không thể dính líu như vậy được”\".", "Sáng hôm đó, Ngô Đình Diệm cùng với Ngô Đình Nhu gọi điện và ra hàng lực lượng đảo chính. Hai anh em Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị đại úy Nguyễn Văn Nhung giết bằng lưỡi lê và súng lục trong chiếc xe bọc thép M-113, theo lệnh của tướng Dương Văn Minh, khi chiếc xe đang trên đường tới Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Theo chứng nhận của bác sĩ Huỳnh Văn Hưỡn, là người đã tiến hành vụ khám nghiệm thì anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu bị bắn từ sau gáy ra phía trước. Thi thể Ngô Đình Diệm có nhiều vết bầm, chứng tỏ đã bị hành hung trước khi bị bắn. Còn thi thể Ngô Đình Nhu thì bị đâm nhiều nhát, áo rách nát và đầy máu.", "Sau khi đảo chính xảy ra ở Sài Gòn, anh trai Ngô Đình Diệm là Ngô Đình Cẩn xin tỵ nạn ở tòa lãnh sự Mỹ ở Huế. Sau đó, Mỹ đưa Cẩn vào Sài Gòn. Nhưng khi tới Sài Gòn thì Ngô Đình Cẩn được giao lại cho Lou Conein và sau đó được giao cho những người lãnh đạo đảo chính theo lệnh của Đại sứ Lodge. Mấy tháng sau, Cẩn bị xử tử tại Sài Gòn (ngày 9 tháng 5 năm 1964). Như vậy, cả ba anh em Ngô Đình Diệm đều bị giết, đại sứ Mỹ Cabot Lodge đã làm ngơ hoặc gián tiếp giao họ cho quân đảo chính giết chết.", "Sau khi biết tin Ngô Đình Diệm bị lật đổ và ám sát, phát biểu của Hồ Chí Minh được thuật lại như sau \"Tôi không thể nào tin người Mỹ lại ngu ngốc đến vậy\" Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam nói rõ hơn:\"Hậu quả của cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 sẽ trái với những tính toán của đế quốc Mỹ... Diệm là một trong số những nhân vật mạnh nhất chống lại nhân dân và Chủ nghĩa cộng sản. Tất cả những gì có thể làm nhằm cố gắng đè bẹp cách mạng đã được Diệm thực hiện. Diệm là một trong những tay sai có tài nhất của đế quốc Mỹ... Trong số những người chống cộng ở miền Nam Việt Nam hoặc đang lưu vong ở nước ngoài, không ai có đủ tài lực chính trị và khả năng làm người khác tuân phục. Do đó, chính quyền tay sai sẽ không thể vững bền. Cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963 sẽ không phải là cuộc đảo chính cuối cùng.\"\"", "Khi biết Tổng thống Ngô Đình Diệm đã bị đảo chính và giết chết, Tổng thống Mỹ John F. Kennedy bị choáng váng và ưu tư thoáng buồn. 4 giờ chiều ngày 2 tháng 11 năm 1963, khi được thông báo anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu đã bị giết, Đại sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge, đã vui vẻ thốt lên bằng tiếng Pháp: \"\"C’est formidable! C’est formidable!\" (Thật là tuyệt diệu. Thật là tuyệt diệu)\".", "Các cơ quan do Ngô Đình Diệm lập ra như Đảng Cần Lao, Sở Nghiên cứu Chính trị Xã hội, Lực lượng Đặc biệt, 4 cơ quan Mật vụ Công an, Phong trào Cách mạng Quốc gia, Thanh Niên Cộng hòa, Phụ nữ Liên đới, các xóm Đạo võ trang,… tất cả đều tê liệt rồi tan rã không một phản ứng. Cả cấu trúc chính trị mà họ Ngô xây dựng trong 9 năm đã sụp đổ chỉ trong 24 tiếng đồng hồ, tất cả đều bỏ mặc gia đình họ Ngô bị giết.", "Nhà sử học Nguyễn Hiến Lê, khi đó đang sống ở Sài Gòn, đã ghi lại không khí vui mừng của người dân ở thời điểm đó:", "\"Từ 7 giờ sáng ngày 2 tháng 11 năm 1963, khi đài phát thanh Sài Gòn báo tin dinh Gia Long bị quân đội chiếm thì già trẻ lớn bé lũ lượt kéo nhau đi xem. Lời hò reo, tiếng cười vang với sắc diện tươi vui của mọi người chứng tỏ sự giải thoát gông cùm kềm kẹp của độc tài đã bóp nghẹt lòng dân trong chín năm trời đăng đẳng” - Bác sĩ Dương Tấn Tươi. Còn thi sĩ Đông Hồ thì: “Nỗi ức hiếp, nỗi căm hờn bị đè nén, bị vùi dập một cách tàn nhẫn bất công trong 9 năm trời, một sớm được giải thoát, được cởi mở, mà phản ứng chỉ có chứng ấy thì cho thấy quần chúng Việt Nam năm 1963 này cũng đã tỏ ra hiền lành nhiều lắm, và cũng đã biết tự kiềm hãm sức giận dữ hung hãn của mình rồi đó.”\"", "Nhà báo đương thời tại miền Nam, ông Vũ Bằng ghi lại không khí của người dân miền Nam lúc đó khi nghe tin vụ đảo chính và việc anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu bị giết:", "Cái chết của anh em Ngô Đình Diệm cũng khiến cho các lãnh đạo Á Châu là đồng minh của Mỹ phải cảm thấy lo ngại cho mình. Về sau, Tổng thống (Pakistan), Ayub Khan, đã nói với Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon: ", "Tài liệu của phía Hoa Kỳ cho biết Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu được chôn trong những ngôi mộ không tên trong một nghĩa trang bên cạnh ngôi nhà của đại sứ Hoa Kỳ. Sau này tìm hiểu, thì ông Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu được chôn ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi (vị trí ở đường Điện Biên Phủ cắt với đường Hai Bà Trưng, ngày nay là Công viên Lê Văn Tám). Áo quan của Ngô Đình Diệm hình hộp, áo quan của Ngô Đình Nhu có nắp tròn. Một nhân chứng thời kỳ này giải thích vì người thân của hai ông đi mua vội quan tài nên chỉ mua được một chiếc hạng tốt dành cho ông Ngô Đình Diệm, còn chiếc hạng vừa dành cho ông Ngô Đình Nhu. Trong khoảng thập niên 1980, do nhu cầu phát triển đô thị trong nội đô Sài Gòn, nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi được di dời về nghĩa trang Lái Thiêu (Nghĩa trang Nhân dân số 6B) ngày nay. Hiện tại, mộ ông Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu chính thức đặt tại nghĩa trang Lái Thiêu. Mộ hai ông nằm hai bên mộ mẹ - bà Phạm Thị Thân. Ngoài ra, mộ ông Ngô Đình Cẩn cũng được dời về gần đó. Mộ hai ông ban đầu không có tên mà chỉ ghi tên thánh và \"Huynh\" (chỉ ông Ngô Đình Diệm) hoặc \"Đệ\" (ông Ngô Đình Nhu), sau đó, theo đề nghị của một số người, mộ đã được đề đích danh.", "Đánh giá.", "Tại Việt Nam.", "Năm 1935, nhân việc Ngô Đình Diệm bị Bảo Đại cách chức rồi lại phục chức, Phan Khôi nhận xét như sau: \"\"Thật, chúng tôi nói 50 năm nay mới có một người như ông Ngô Đình Diệm, không phải là nói quá.\"", "Ngay sau khi Ngô Đình Diệm nhậm chức Thủ tướng chính quyền Bảo Đại, báo Nhân dân của Đảng Lao động đã có bài chỉ trích \"\"Dưới thời thực dân Pháp trước đây, do tài luồn lọt bợ đỡ, Diệm từ chỗ một tên công chức nhỏ đã được cất nhắc dần dần lên tới tuần phủ. Thấy quan thầy chú ý Diệm càng trổ tài khuyến mã ra sức đàn áp cách mạng, áp bức nông dân, nên đến năm 1933 nó được quan thầy đặc cách phong chức thượng thư bộ lại trong cái thứ triều đình mọt nát của Bảo Đại. Hồi phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, địa vị thực dân Pháp lung lay, Diệm giở mặt thay thầy đổi chủ. Nó cử tên Vũ Đình Dy sang Đông Kinh thay mặt nó lạy van phát xít Nhật và xin cho nó cái chân thủ tướng bù nhìn. Nó lại cho tên tay sai Phan Thúc Ngô sang Nhật lần nữa mang cái \"Lời thề trung thành\" của nó tâu hỏi với phát xít Nhật và tên bù nhìn Cường Để, đồng thời định rước Cường Để về làm vua bù nhìn...Ngô Đình Diệm chính là một con chó săn lai Nhật, lai Tây, lai Mỹ chuyên thay thầy đổi chủ\"...\"", "Sách giáo khoa lịch sử lớp nhất của Đệ Nhị Việt Nam Cộng hòa (\"Đệ Nhị Cộng hòa\" là chính phủ do các tướng lĩnh đảo chính Ngô Đình Diệm lập nên, để phân biệt với \"Đệ Nhất cộng hòa\" là chính phủ thời Ngô Đình Diệm) xuất bản năm 1966 viết về thời kỳ Ngô Đình Diệm:", "Nhà sử học và là một tín đồ Công giáo, ông Nguyễn Đình Đầu cho rằng Ngô Đình Diệm là người yêu nước và có công. Ông nói: \"\"Vào năm 1955, tôi ở Pháp về tôi thấy ông Ngô Đình Diệm có những hoạt động rất tích cực trong việc xây dựng lại xã hội đang sa sút lúc bấy giờ trên nhiều phương diện. Về kinh tế, lúc đó đang nhập khẩu gạo mà chỉ trong vài năm đã phát triển nông nghiệp và xuất khẩu 300.000 tấn gạo ra nước ngoài. Về văn hóa tiến bộ khá rõ ràng, đã xây dựng được hệ thống giáo dục đào tạo tiến bộ theo chương trình của người Pháp và phương pháp của Hoa Kỳ, trong một thời gian ngắn đã đào tạo được nhiều chuyên gia trí thức...\"", "Theo hồi ức của tướng Trần Văn Đôn thì: \"Ông Diệm là người tuy điềm đạm bên ngoài nhưng tính rất nóng. Một hôm tôi vào Dinh Độc Lập, thấy thức ăn, cơm canh văng tung tóe dưới sảnh, người bồi đang lau dọn. Sau khi trò chuyện với ông Diệm xong, tôi quay ra hỏi tùy viên có chuyện gì xảy ra, thì được biết ông Diệm hất đổ mâm cơm vì thiếu một món mà ông thích\".", "Ngô Đình Diệm hiểu rõ bản thân ông cần quân đội, nhưng ông luôn tỏ ý coi thường quân đội, trong khi rất thích những bộ trưởng dân sự biết cách nịnh hót. Ngoài ra, ông Diệm là người phân biệt cá nhân theo vùng miền. Ông chỉ thích nâng đỡ người gốc Huế. Ngô Đình Diệm thường nói: \"Chỉ có dân miền Trung mới có khả năng lãnh đạo quốc gia. Dân miền Bắc hợp với buôn bán, còn dân miền Nam chỉ làm tướng võ biền\".", "Giáo sư Nguyễn Văn Tương, nguyên Tổng Thư ký Quốc hội, có nhận xét về việc Ngô Đình Diệm đã khống chế quốc hội như một nhà độc tài: ", "\"Ra phiên họp khoáng đại, Dân biểu ta chia làm hai khối: khối đa số và khối thiểu số, giống chế độ lưỡng đảng của Anh quốc. Nhưng đó chỉ là trò ảo thuật của cấp lãnh đạo, vì ở cấp cao còn có vai trò của Đảng Cần lao Nhân vị hoạt động trong vòng bí mật. Người ngoài cuộc nói Quốc hội lúc ấy là một cửa sổ giả, nghĩa là khi xây nhà thì phải có cửa cái, cửa sổ cho đủ bộ dễ coi, mặc dù cửa sổ giả vốn không cần thiết. Thay vì chú tâm trang bị cho nước nhà những bộ luật mới thống nhất và tiến bộ, Quốc hội chuyên ra các Quyết nghị ủng hộ Ngô Tổng thống…”\"", "Ngô Đình Diệm quá đề cao bản thân lẫn người cùng huyết thống, có cách cư xử không khéo đối với thuộc cấp. Đa phần tướng tá, sĩ quan đều bị ông Diệm gọi bằng \"thằng\" (ngoại trừ Tổng tham mưu Trưởng Lê Văn Tỵ, ông Diệm gọi là ngài, còn tướng Nguyễn Văn Đôn thì gọi khách khí bằng ông). Theo nhiều hồi ký của tướng lĩnh dưới thời ông Diệm kể lại, thì khi vào cửa Tam quan ở các đền thờ vua chúa, ông Diệm thường nói: \"Các ông đi cổng hai bên, vì cổng giữa chỉ có vua mới được đi. Chúng ta phải tôn trọng nguyên tắc này\". Dứt câu, ông Diệm đi vào bằng cổng giữa. Ngay cả người gần gũi với gia đình ông như tướng Trần Văn Đôn còn bất mãn với sự độc đoán này của ông Diệm. Nhiều sử gia gọi Việt Nam Đệ Nhất Cộng hòa là \"Ngô triều\".", "Theo ông Quách Tòng Đức, vốn là một viên chức cao cấp của chế độ thực dân từ trước năm 1945 và sau này đã phục vụ các chính phủ ở Sài Gòn cho rằng: Ngô Đình Diệm có bản chất quyết liệt đến tàn bạo, rất kiên trì trong những kế hoạch thâu tóm quyền lực và không ngần ngại sử dụng những mưu kế để đạt các mục đích đã đặt ra. Ngô Đình Diệm không hay to tiếng nhưng ông ta cũng có những lúc lớn giọng quát nạt làm đám thuộc hạ phải sợ hãi. Nhiều người từng tiếp xúc với Tổng thống Diệm ở Sài Gòn đều có cảm nhận rằng, mặc dù mang danh là đứng đầu một chính thể \"cộng hòa\" nhưng thực chất Ngô Đình Diệm vẫn cư xử như một viên quan lớn của chế độ phong kiến. Cũng dưới góc nhìn như thế nên tác giả Stanley Karnow trong cuốn \"Vietnam A History\" đã dành hẳn một chương (chương 8) nói về Ngô Đình Diệm với tựa đề \"America's Mandarin\" (Quan cận thần của Mỹ). Làm việc theo kiểu quan lại phong kiến nên Tổng thống Diệm, cũng như em trai ông là cố vấn Ngô Đình Nhu, thường xuyên ôm đồm mọi việc, vì họ không thấy ai ngoài gia tộc mình đủ độ tin cậy để trao đầy đủ trọng trách.", "Thiếu tướng Đỗ Mậu, người từng nhiều năm phục vụ Ngô Đình Diệm khi còn thất thế lẫn khi đã trở thành Tổng thống ở Sài Gòn có vài đánh giá, nhận xét: ", "\"Tất cả mọi quyết định, vi phạm mọi nguyên tắc hành chính cơ bản, để can thiệp trực tiếp và mạnh mẽ những sinh hoạt nào mà ông ta muốn, cấp độ nào mà ông ta thích… Chủ trương trung ương tập quyền tuyệt đối đó, một lần nữa phản ánh cái tâm lý độc quyền và độc tôn là một trong những nét đặc thù của con người ông Diệm từ những ngày đầu mới làm quan Nam triều…\"", "Ông Bùi Kiến Thành, một cộng sự thân cận với Tổng thống Ngô Đình Diệm nhận định về sự thất bại của ông Diệm:", "\"\"... thực sự ra chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ còn nhiều vấn đề cốt lõi hơn nữa. Ông Ngô Đình Diệm là một người yêu nước và có công tâm nhưng ông Diệm không có kinh nghiệm tổ chức. Còn ông Nhu thì rất uyên thâm về vấn đề học thuật, ông học rất giỏi về tổ chức thư viện, ông nghiên cứu rất tốt nhưng không có tài năng tổ chức lực lượng chính trị. Nếu quản lý một nhà nước mà không có tài tổ chức thì làm sao? Vì vậy cho nên cái Đảng Cần lao của ông Nhu không có tổ chức tốt còn cái “Phong trào cách mạng quốc gia” mà ông Bác sĩ Tín làm chủ tịch sáng lập thì nó cũng chỉ là phong trào thôi. Sau một phong trào rồi thì nó lặng im. Quyền chính trị trong nước là ở trong đảng, mà Đảng Cần Lao không được tổ chức tốt vì vậy cho nên chế độ Ngô Đình Diệm không tồn tại được vì không có tổ chức chính trị nòng cốt để làm việc.\"", "\"Sau nữa còn có cái lỗi ở chỗ lầm lẫn hai việc khác nhau: quản lý các vấn đề nhà nước là việc quản lý hành chính, còn tổ chức nòng cốt do một chính đảng đứng lên để đóng vai trò cột trụ cho một đất nước thì là một việc khác. Do lầm lẫn ở vai trò lãnh đạo chính trị và lãnh đạo hành chính cho nên chế độ Ngô Đình Diệm tập trung nhiều hơn về vấn đề hành chính mà quên đi vấn đề lãnh đạo chính trị, xây dựng nòng cốt tức là sự ủng hộ của nhân dân, làm sao để vấn đề đảng được nhân dân ủng hộ...\"", "\"Chính phủ Ngô Đình Diệm không làm được, không xây dựng được một đảng chính trị thật sự của dân, do dân và vì dân vì vậy cho nên không đứng vững được và vì thế có thể nói sự sụp đổ của chế độ Ngô Đình Diệm không phải là vấn đề nhỏ bé như chuyện bà Nhu nói cái này cái kia. Có! Nó có ảnh hưởng nhưng chuyện đó là chuyện nhỏ, đối với khả năng xây dựng nên một chính đảng mạnh thì chính phủ Ngô Đình Diệm không làm được.\" \"", "Ông Lý Chánh Trung, Đổng lý văn phòng Bộ Quốc gia Giáo dục, đã nhận xét vào năm 1970 rằng:", "\"Nhìn lại 9 năm cầm quyền, tôi thành thực nghĩ rằng, ông Diệm chỉ là một huyền thoại lớn do người Mỹ và một số tay chân bộ hạ tạo ra để lợi dụng. Người Mỹ lợi dụng ông để thực hiện mưu đồ của họ, một số tay chân bộ hạ đã lợi dụng ông để bòn rút những nguồn lợi béo bở của đất nước này và của viện trợ Mỹ...\"", "\"Cái lỗi căn bản của ông là đã xem người Mỹ cũng như tay chân bộ hạ của ông là những phương tiện để hoàn thành sứ mạng, trong khi chính ông mới là phương tiện của người Mỹ và một số tay chân bộ hạ.\"", "\"Ông đã tưởng mình có thể lệ thuộc Mỹ một phần nào thôi, còn phần kia thì vẫn “độc lập”, ông đã tưởng có thể chấp nhận làm con cờ trong một ván cờ rồi ngay trong ván cờ đó, có thể tự động đi một nước cờ riêng của ông. Khi ông nhìn thấy đó chỉ là ảo tưởng thì đã quá trễ: Ông đã chết vì ảo tưởng đó. Và cái chết bi thảm của ông cho thấy một sự thật hết sức tầm thường: Không một con cờ nào có thể tự đi một nước cờ cho riêng nó, dù con cờ đó mang tên Ngô Đình Diệm, và không một nước nhỏ nào có thể lợi dụng một nước lớn, nhất là nước đó mang tên Hoa Kỳ.\"", "\"Bảy năm đã qua và ngày nay, dư luận quần chúng có vẻ khoan hồng hơn đối với ông Diệm, ngay cả những nơi nạn nhân của chế độ ấy. Lý do giản dị: với thời gian, kỷ niệm đã mờ nhạt, hận thù được xoa dịu, những ẩn ức dồn nén được giải tỏa. Trong khi đó, cái thực trạng của xã hội miền Nam (năm 1970) mỗi ngày càng thêm xấu xa tệ hại, khiến cho người ta có khuynh hướng chỉ nhớ tới những nét tương đối dễ coi của chế độ Ngô Đình Diệm. Nhưng từ đó mà cho rằng chế độ ông Diệm là một thời đại hoàng kim và chỉ cần bắt chước ông Diệm là có thể giải quyết những vấn đề đất nước, như một số chân tay bộ hạ của ông đang tuyên bố rùm beng thì thật là lố bịch và vô liêm sỉ.\"", "Từ bên ngoài.", "Ngô Đình Diệm từng sống ở Hoa Kỳ một thời gian, có quan hệ với một số nhân vật trong chính giới Mỹ, được Hoa Kỳ ủng hộ về Việt Nam làm Thủ tướng trong chính phủ Bảo Đại (sau Hiệp định Genève) rồi Tổng thống Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam. Người có ảnh hưởng rất lớn trong việc ông Diệm trở thành Thủ tướng Quốc gia Việt Nam là Hồng y Spellman. John Cooney (1985) đã viết:", "\"\"Tuy rằng không có mấy người biết điều này, Hồng y Spellman đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tạo nên sự nghiệp chính trị của một người đã ở trong một Trường Dòng ở New York trước đây, vừa trở thành Thủ tướng của miền Nam Việt Nam: Ngô Đình Diệm. Ở Diệm, Spellman nhìn thấy những đặc điểm mà ông ta muốn có trong mọi người lãnh đạo: Công giáo nồng nhiệt và chống Cộng điên cuồng.\"", "Nhà hoạt động dân quyền nổi tiếng người Mỹ gốc Phi Martin Luther King, trong bài phát biểu phản đối Chiến tranh Việt Nam với tiêu đề \"“Hơn cả Việt Nam, thời khắc phá vỡ sụ im lặng” (Beyond Vietnam: A Time to Break Silence)\" vào tháng 4 năm 1967, đã phê phán:", "\"Sau khi quân Pháp bị đánh bại, có vẻ như nền độc lập và cải cách ruộng đất sẽ được thực hiện thông qua Hiệp định Genève. Nhưng thay vào đó, Hoa Kỳ đã đến, quyết định rằng Hồ Chí Minh không được quyền thống nhất đất nước tạm thời bị chia cắt. Chúng ta ủng hộ một trong những nhà độc tài xấu xa nhất, người do chúng ta chọn lựa, Tổng thống Diệm. Nông dân miền Nam Việt Nam chứng kiến ​​và run rẩy khi ông Diệm thẳng tay triệt hạ mọi phe đối lập, ủng hộ các địa chủ bóc lột họ, và thậm chí từ chối thảo luận về việc thống nhất với miền Bắc. Những người nông dân đã theo dõi tất cả những điều này, vốn là kết quả do sự chủ trì của Hoa Kỳ, và sau đó là số lượng quân nhân Hoa Kỳ ngày càng tăng kéo đến Việt Nam để giúp dập tắt các cuộc nổi dậy mà các phương pháp của Diệm đã khơi dậy.\"", "\"(Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam) phải nghĩ gì về Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, khi họ nhận ra rằng chúng ta đã cho phép sự đàn áp và tàn ác của Diệm, điều đã khiến họ trở thành một nhóm kháng chiến ở miền Nam?... Làm sao họ có thể tin tưởng chúng ta khi bây giờ chúng ta buộc tội họ bằng bạo lực sau triều đại tàn sát của Diệm, trong khi chính chúng ta đổ mọi vũ khí chết chóc mới vào đất của họ?\"", "Một số người cho rằng Ngô Đình Diệm là người theo chủ nghĩa dân tộc. Song tác giả Dennis Bloodworth (1970) nhận xét rằng:", "\"Cho tới năm 1963 mật vụ của Diệm đã bắt giữ hoặc đẩy vào tay những kẻ thù hầu như mọi người quốc gia có tên tuổi đã chiến đấu cho tự do của đất nước trong 20 năm trước. Ông ta và gia đình mình đã đàn áp mọi đối lập, chất đầy nhà tù, bịt miệng báo chí, gian lận bầu cử, và bám vào quyền lực.\"\"", "Có ý kiến cho rằng Ngô Đình Diệm đã bỏ lỡ cơ hội thống nhất đất nước khi từ chối hiệp thương, không tiến hành tổng tuyển cử và giết hại rất nhiều người thân cộng. Tuy nhiên theo Richard J. Barnet nhận xét :", "\"Điều quan tâm chính của chính quyền Diệm là sự an toàn của chính quyền. Chính quyền Diệm sợ rằng cuộc bầu cử dự định tổ chức vào tháng 7 năm 1956 đưa đến sự thắng lợi của Hồ Chí Minh và chấm dứt quyền lực của những chính trị gia không Cộng sản\"", "Đại sứ Mỹ J. Lowton Collins nhận xét về ông Diệm: \"Ông ấy quá quan tâm đến những vấn đề nhỏ nhặt, không có bất cứ sáng kiến đáng kể nào từ ngày nắm chính quyền. Những người có khả năng trong chính phủ đều khó chịu về thói quen quyết định trên đầu người khác của ông Diệm. Ông Diệm hoàn toàn không trông cậy vào họ, mà đặt hết niềm tin vào hai người em cùng những người chịu phục tùng ông ấy. Ông là người hoàn toàn không biết nhân nhượng và với thái độ của một người khổ hạnh, ông không thể đương đầu với những thế lực thực tại, điển hình nhất là Bình Xuyên…\" Người Mỹ không xem ông Diệm là một kẻ bù nhìn. Họ đánh giá ông Diệm là một con người \"luôn muốn có được tất cả, hoặc không có gì\", \"được ăn cả ngã về không\" và \"ông Ngô Đình Diệm là một con rối. Nhưng con rối ấy tự giật dây mình và giật dây luôn cả chúng ta\".", "Nhà sử học George C. Herring nhận xét:", "\"Để làm vui lòng các cố vấn Mỹ, thỉnh thoảng Diệm cũng nói trên đầu môi chót lưỡi về dân chủ, nhưng trong thực hành ông ta nắm lấy những quyền lực tuyệt đối. Đích thân ông ta ngự trị ngành hành pháp của chính phủ, đưa ba người anh em trai vào nắm ba chức trong nội các có sáu bộ, ông ta có mọi quyền quyết định.\"", "\"Sự tấn công dữ dội của Diệm vào những đối lập chính trị đã gây nên sự bất mãn trong các thành phố cũng như ở thôn quê. Báo chí chỉ trích chính phủ bị đóng cửa ngay.. Dùng quyền hành trong các sắc lệnh của tổng thống, chính quyền Diệm đã lùa vào những “trại cải huấn” nhiều ngàn người Việt Nam, cộng sản cũng như không cộng sản, những người bị coi như là đe dọa cho trật tự công cộng. Chương trình cải huấn lúc đầu nhắm vào các thành phần kháng chiến Việt Minh ở lại miền Nam, nhưng rồi với thời gian chương trình này được áp dụng cho bất cứ ai dám chống đối chính phủ của Diệm.\"", "\"Chính quyền có khuynh hướng cai trị dân với lòng nghi ngờ và cưỡng bức”, một phúc trình tình báo của Mỹ kết luận năm 1960, và “đã được đáp trả bởi thái độ bất thiện cảm và bất mãn của người dân\".", "Những báo cáo của cơ quan tình báo Mỹ CIA, soạn trong tháng 2 năm 1957, mô tả chế độ Diệm như sau:", "\"Chế độ Diệm phản ánh ý nghĩ của Diệm. Một bộ mặt chính quyền đại diện cho dân được duy trì, nhưng thực chất chính quyền là độc tài. Quyền lập pháp của quốc hội bị hạn chế gắt gao; quyền tư pháp chưa phát triển và tùy thuộc quyền hành pháp; và những nhân viên trong ngành hành pháp không gì hơn là những tay sai của Diệm. Không có một tổ chức đối lập nào, dù trung thành hay không, được phép thành lập, và mọi chỉ trích chính quyền đều bị đàn áp... Quyền lực và trách nhiệm tập trung nơi Diệm và một nhóm nhỏ gồm có những thân nhân của Diệm, những người quan trọng nhất là Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn.\"", "\"Chế độ độc tài của Diệm, dựa trên một mạng lưới mật vụ, tòa án quân sự, và công chức tham nhũng, không chỉ tuyên bố về sự nghiệp chiến đấu chống Cộng (dù cho tới năm 1957, phong trào Cộng sản vẫn chưa có hoạt động gì), mà còn chống bất cứ nhóm nào không chắc là trung thành với Diệm. Thật vậy, nhiều người không Cộng sản bị Diệm tống vào tù hơn là người Cộng sản.\"", "\"...Sự chuyên chế của Diệm, sự thiên vị trơ trẽn của ông ta đối với những người Công giáo tị nạn từ ngoài Bắc vào so với phần còn lại của dân chúng, và sự bạo hành đối với mọi người không đồng quan niệm chính trị với ông ta đã tạo nên một sự liên kết chống Diệm mà ông ta rất sợ.\"", "Theo sách \"Triangle of Death\" thì ngày 1 tháng 2 năm 1966, Lyndon B. Johnson (lúc này đã là Tổng thống Hoa Kỳ) gọi điện thoại cho Thượng nghị sĩ Eugene McCarthay, nhắc lại chuyện chính quyền tổng thống John F. Kennedy muốn tham chiến ở Việt Nam và đã cùng \"bọn du côn\" (phe đảo chính) để hạ sát Ngô Đình Diệm. Trong một bài đăng trên tuần san \"Weekly Standard\" ngày 29-9-2003, James Osen đã trình bày và phân tích đoạn băng này và kết luận rằng Tổng thống Kennedy phải chịu trách nhiệm về cái chết của Ngô Đình Diệm.", "Thủ tướng Singapore đương thời là Lý Quang Diệu tin rằng hành động tiêu diệt những người đối lập của Ngô Đình Diệm đã góp phần khiến Việt Nam Cộng Hòa thất bại. Lý Quang Diệu nói rằng chính quyền Mỹ đã \"cho phép Ngô Đình Diệm loại bỏ khỏi hệ thống chính trị tất cả những lựa chọn có thể thay thế cho ông ta\". Vì điều này, Việt Nam Cộng Hòa đã mất hết nhân tài và không còn ai có đủ tài năng để đóng vai trò dẫn dắt, dẫn tới sự lụn bại và sụp đổ của chính phủ này", "Sau này, trong cuộc phỏng vấn của Stanley Karnow, sử gia chuyên về chiến tranh Việt Nam, hỏi tổng thống Johnson là ông có tin rằng Diệm là \"Winston Churchill (Thủ tướng Anh, góp phần thắng Đức Quốc xã tại châu Âu) của Đông Nam Á\" hay không; thì Johnson đã văng tục: ", "\"Khốn kiếp, Diệm là thằng nhóc duy nhất mà chúng ta (Hoa Kỳ) có ở đó. (Shit! Diem is the only boy we’ve got out there)\" ", "Liên kết ngoài.", "Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ." ]
993
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=993
Máy tính
[ "Máy tính hay máy điện toán là một máy có thể được hướng dẫn để thực hiện các các chuỗi các phép toán số học hoặc logic một cách tự động thông qua lập trình máy tính. Máy tính hiện đại có khả năng tuân theo các tập hợp lệnh tổng quát, được gọi là \"chương trình.\" Các chương trình này cho phép máy tính thực hiện một loạt các tác vụ. Một máy tính \"hoàn chỉnh\" bao gồm phần cứng, hệ điều hành (phần mềm chính) và thiết bị ngoại vi cần thiết và sử dụng cho hoạt động \"hoàn chỉnh\" có thể được gọi là hệ thống máy tính.", "Thuật ngữ này cũng có thể được sử dụng cho một nhóm máy tính được kết nối và hoạt động cùng nhau, cụ thể là một mạng máy tính hoặc cụm máy tính.", "Máy tính được sử dụng làm hệ thống điều khiển cho nhiều loại thiết bị công nghiệp và dân dụng. Điều này bao gồm các thiết bị có mục đích đặc biệt đơn giản như lò vi sóng và điều khiển từ xa, các thiết bị nhà máy như rô bốt công nghiệp và thiết kế có sự hỗ trợ của máy tính và cả các thiết bị đa năng như máy tính cá nhân và thiết bị di động như điện thoại thông minh. Internet được chạy trên các máy tính và nó kết nối hàng trăm triệu máy tính khác và người dùng của chúng", "Máy tính ban đầu chỉ được coi là thiết bị tính toán. Từ thời cổ đại, các thiết bị thủ công đơn giản như bàn tính đã hỗ trợ con người thực hiện các phép tính. Đầu Cách mạng Công nghiệp, một số thiết bị cơ khí đã được chế tạo để tự động hóa các công việc kéo dài tẻ nhạt, chẳng hạn như hướng dẫn các mẫu cho khung dệt. Các máy điện phức tạp hơn đã thực hiện các phép tính tương tự chuyên biệt vào đầu thế kỷ 20. Các máy tính toán điện tử kỹ thuật số đầu tiên được phát triển trong Thế chiến II. Các bóng bán dẫn đầu tiên vào cuối những năm 1940 được tiếp nối bằng công nghệ chip MOSFET (bóng bán dẫn MOS) dựa trên silicon và mạch tích hợp nguyên khối (IC) vào cuối những năm 1950, dẫn đến cuộc cách mạng vi xử lý và vi máy tính vào những năm 1970. Tốc độ, sức mạnh và tính linh hoạt của máy tính đã tăng lên đáng kể kể từ đó, với số lượng bóng bán dẫn tăng với tốc độ nhanh chóng (theo dự đoán của định luật Moore), dẫn đến cuộc Cách mạng Kỹ thuật số trong khoảng cuối thế kỷ 20 đến đầu thế kỷ 21.", "Thông thường, một máy tính hiện đại bao gồm ít nhất một phần tử xử lý, điển hình là đơn vị xử lý trung tâm (CPU) dưới dạng bộ vi xử lý, cùng với một số loại bộ nhớ máy tính, điển hình là chip bộ nhớ bán dẫn. Phần tử xử lý thực hiện các phép toán số học và logic, và một đơn vị điều khiển và sắp xếp trình tự có thể thay đổi thứ tự của các hoạt động theo thông tin được lưu trữ. Các thiết bị ngoại vi bao gồm thiết bị đầu vào (bàn phím, chuột máy tính, phím điều khiển, v.v.), thiết bị đầu ra (màn hình điều khiển, máy in, v.v.) và thiết bị đầu vào/đầu ra thực hiện cả hai chức năng trên (ví dụ: màn hình cảm ứng từ những năm 2000).", "Lịch sử.", "Trước thế kỷ 20.", "Các thiết bị đã được sử dụng để hỗ trợ tính toán trong hàng nghìn năm, chủ yếu sử dụng giao tiếp 1-1 với các ngón tay. Thiết bị đếm sớm nhất có lẽ là một dạng que tính. Các công cụ hỗ trợ lưu giữ hồ sơ sau này trong suốt Fertile Crescent bao gồm các phép tính (quả cầu đất sét, hình nón, v.v.) thể hiện số lượng vật phẩm, có thể là gia súc hoặc ngũ cốc, được niêm phong trong các thùng chứa đất sét rỗng không nung. Việc sử dụng que đếm là một ví dụ.", "Bàn tính ban đầu được sử dụng cho các nhiệm vụ số học. Bàn tính La Mã được phát triển từ các thiết bị tính toán được sử dụng ở Babylonia vào đầu năm 2400 TCN. Kể từ đó, nhiều dạng bảng hoặc bảng tính toán khác đã được phát minh. Trong một nhà tính toán ở châu Âu thời Trung cổ, một tấm vải ca rô sẽ được đặt trên bàn và các điểm đánh dấu di chuyển xung quanh nó theo các quy tắc nhất định, như một biện pháp hỗ trợ tính toán các khoản tiền.", "Cỗ máy Antikythera được cho là máy tính tương tự cơ học sớm nhất, theo Derek J. de Solla Price. Nó được thiết kế để tính toán các vị trí thiên văn. Nó được phát hiện vào năm 1901 trong xác tàu Antikythera ngoài khơi đảo Antikythera của Hy Lạp, giữa Kythera và Crete, và có niên đại là khoảng năm 100 TCN. Các thiết bị có mức độ phức tạp tương đương với cỗ máy Antikythera sẽ không xuất hiện trở lại cho đến một nghìn năm sau.", "Nhiều công cụ hỗ trợ cơ học để tính toán và đo lường đã được xây dựng để sử dụng trong thiên văn và điều hướng. Planisphere là một bản đồ sao do Abū Rayhān al-Bīrūnī phát minh vào đầu thế kỷ 11. Thước trắc tinh được phát minh ở thế giới Hy Lạp vào thế kỷ 1 hoặc 2 TCN và thường được cho là do Hipparchus phát minh. Là sự kết hợp của planisphere và dioptra, thước trắc tinh thực sự là một máy tính tương tự có khả năng giải quyết một số loại vấn đề khác nhau trong thiên văn học hình cầu. Thước này kết hợp một máy tính lịch cơ học và bánh răng được Abi Bakr ở Isfahan, Ba Tư phát minh vào năm 1235. Abū Rayhān al-Bīrūnī đã phát minh ra thước trắc tinh có lịch âm dương có hộp số cơ học đầu tiên, một máy xử lý tri thức có dây cố định ban đầu với các bánh răng liên kết với nhau, khoảng năm 1000.", "Thước gấp, một công cụ tính toán được sử dụng để giải các bài toán về tỷ lệ, lượng giác, nhân và chia, và tính các hàm khác nhau, chẳng hạn như bình phương và khai căn bậc hai, được phát triển vào cuối thế kỷ 16 và được ứng dụng trong các ngành vũ khí, khảo sát và điều hướng.", "Máy đo planimeter là một công cụ thủ công để tính diện tích của một hình khép kín bằng cách đi dọc theo nó bằng một liên kết cơ học.", "Thước loga đã được phát minh vào khoảng năm 1620–1630, ngay sau khi xuất hiện khái niệm lôgarit. Nó là một máy tính tương tự vận hành bằng tay để thực hiện các phép nhân và chia. Khi quá trình phát triển thước loga phát triển, các cột tỷ lệ được bổ sung cho phép tính số nghịch đảo, bình phương và căn bậc hai, lập phương và căn bậc ba, cũng như các hàm siêu việt như logarit và hàm mũ, lượng giác tròn và hypebol và các hàm khác. Thước loga với các thang đo đặc biệt vẫn được sử dụng để thực hiện nhanh các phép tính thông thường, chẳng hạn như thước loga tròn E6B được sử dụng để tính toán thời gian và khoảng cách trên máy bay hạng nhẹ.", "Vào những năm 1770, Pierre Jaquet-Droz, một thợ đồng hồ Thụy Sĩ, đã chế tạo ra một con búp bê cơ khí có thể viết khi cầm bút lông. Bằng cách chuyển đổi số lượng và thứ tự các bánh xe bên trong của nó, búp bê này có thể viết các chữ cái khác nhau, và do đó có thể tạo ra các thông điệp khác nhau. Trên thực tế, nó có thể được \"lập trình\" một cách máy móc để đọc các hướng dẫn. Cùng với hai cỗ máy phức tạp khác, búp bê viết chữ này đang được bảo tồn ở bảo tàng Musée d'Art et d'Histoire ở Neuchâtel, Thụy Sĩ và vẫn còn hoạt động.", "Các nguyên lý cơ bản.", "Máy tính có thể làm việc thông qua sự chuyển động của các bộ phận cơ khí, điện tử (\"electron\") hay các hiện tượng vật lý khác đã biết. Mặc dù máy tính được xây dựng từ nhiều công nghệ khác nhau song gần như tất cả các máy tính hiện nay đều là máy tính điện tử.", "Máy tính có thể trực tiếp mô hình hóa các vấn đề cần được giải quyết, trong khả năng của nó các vấn đề cần được giải quyết sẽ được mô phỏng gần giống nhất với những hiện tượng vật lý đang khai thác. Ví dụ, dòng chuyển động của các điện tử có thể được sử dụng để mô hình hóa sự chuyển động của nước trong đập. Những chiếc máy tính tương tự (\"analog computer\") giống như thế đã rất phổ biến trong thập niên 1960 nhưng hiện nay còn rất ít.", "Trong phần lớn các máy tính ngày nay, trước hết, mọi vấn đề sẽ được chuyển thành các yếu tố toán học bằng cách diễn tả mọi thông tin liên quan thành các số theo hệ nhị phân (hệ thống đếm dựa trên các số 0 và 1 hay còn gọi là hệ đếm cơ số 2). Sau đó, mọi tính toán trên các thông tin này được tính toán bằng đại số Boole (\"Boolean algebra\").", "Các mạch điện tử được sử dụng để miêu tả các phép tính Boole. Vì phần lớn các phép tính toán học có thể chuyển thành các phép tính Bool nên máy tính điện tử đủ nhanh để xử lý phần lớn các vấn đề toán học (và phần lớn thông tin của vấn đề cần giải quyết đã được chuyển thành các vấn đề toán học). Ý tưởng cơ bản này, được nhận biết và nghiên cứu bởi Claude E. Shannon - người đã làm cho máy tính kỹ thuật số (\"digital computer\") hiện đại trở thành hiện thực.", "Máy tính không thể giải quyết tất cả mọi vấn đề của toán học. Alan Turing đã sáng tạo ra khoa học lý thuyết máy tính trong đó đề cập tới những vấn đề mà máy tính có thể hay không thể giải quyết.", "Khi máy tính kết thúc tính toán một vấn đề, kết quả của nó được hiển thị cho người sử dụng thấy thông qua thiết bị xuất như: bóng đèn, màn hình, máy in, máy chiếu...", "Những người mới sử dụng máy tính, đặc biệt là trẻ em, thường cảm thấy khó hiểu về ý tưởng cơ bản là máy tính chỉ là một cái máy, nó không thể \"suy nghĩ\" hay \"hiểu\" những gì nó hiển thị. Máy tính chỉ đơn giản thi hành các tìm kiếm cơ khí trên các bảng màu và đường thẳng đã lập trình trước, rồi sau đó thông qua các thiết bị đầu ra (màn hình, máy in...) chuyển đổi chúng thành những ký hiệu mà con người có thể cảm nhận được thông qua các giác quan (hình ảnh trên màn hình, chữ trên văn bản được in ra). Chỉ có bộ não của con người mới nhận thức được những ký hiệu này tạo thành các chữ hay số và gắn ý nghĩa cho chúng. Trong quan điểm của máy tính thì mọi thứ mà nó \"nhận thấy\" (kể cả khi máy tính được coi là có khả năng tự nhận biết) chỉ là các hạt electron tương đương với các số 0 và 1. Xem thêm trí tuệ nhân tạo (\"artificial intelligence\") và robot.", "Phát triển.", "Các thiết bị tính toán tăng gấp đôi năng lực (được định nghĩa là số phép tính thực hiện trong một giây cho mỗi 1.000 USD chi phí) sau mỗi 18 đến 24 tháng kể từ năm 1900. Gordon E. Moore, người đồng sáng lập ra Intel, lần đầu tiên đã miêu tả tính chất này của sự phát triển vào năm 1965 (Xem định luật Moore). Cùng với việc tăng khả năng tính toán trên một đơn vị chi phí thì tốc độ của sự thu nhỏ kích thước cũng tương tự. Những chiếc máy tính điện tử đầu tiên như ENIAC (ra đời năm 1946) là một thiết bị khổng lồ nặng hàng tấn, tiêu thụ nhiều điện năng, chiếm một diện tích lớn, thực hiện được ít phép tính và đòi hỏi nhiều người điều khiển để có thể hoạt động được. Những cỗ máy này đắt đến mức chỉ có các chính phủ hay các viện nghiên cứu lớn mới có đủ điều kiện để duy trì hoạt động của chúng. Năm 1973, Trương Trọng Thi chế tạo ra Micral mà nhiều người coi là máy tính cá nhân đầu tiên trên thế giới. Một bản mẫu của nó hiện được trưng bày trong Viện bảo tàng máy tính Boston (Mỹ). Chiếc máy này ra đời hơn một năm trước máy Altair của công ty Mỹ MITS Electronics, công ty này cũng cho mình là cha đẻ của PC.", "Phân loại máy tính.", "Những phần dưới đây miêu tả các xu hướng khác nhau trong sự phân loại các máy tính.", "Theo mục đích sử dụng chúng ta có:.", "Máy chủ thực hiện nhiều chức năng hoặc một chức năng duy nhất không bao giờ nghỉ:", "Máy tính phục vụ dân dụng:", "Điểm yếu của xu hướng phân loại này là tính chất mơ hồ của nó. Cách phân loại này thường được sử dụng khi cần phân loại tại một thời điểm nào đó trong quá trình phát triển của ngành công nghiệp máy tính. Sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp máy tính đã làm cho định nghĩa trên nhanh chóng trở nên lạc hậu. Rất nhiều loại máy tính hiện nay không được còn sử dụng nữa, như máy phân tích vi phân (\"differential analyzer\"), không được đưa vào danh sách này. Những sơ đồ phân loại khác cần được đề ra để định nghĩa thuật ngữ máy tính một cách ít (hoặc không) mơ hồ hơn.", "Theo mức cải tiến công nghệ.", "Một cách phân loại máy tính ít mơ hồ hơn là theo mức độ hoàn thiện của công nghệ. Những chiếc máy tính có mặt sớm nhất thuần túy là máy cơ khí. Trong thập niên 1930, các thành phần rơ le cơ-điện đã được giới thiệu vào máy tính từ ngành công nghiệp liên lạc viễn thông. Trong thập niên 1940, những chiếc máy tính thuần túy điện tử đã được chế tạo từ những đèn điện tử chân không. Trong hai thập niên 1950 và thập niên 1960, bóng điện tử dần dà được thay thế bởi transistor, và từ cuối thập niên 1960 đầu thập niên 1970 là bởi mạch tích hợp bán dẫn (chíp bán dẫn, hay IC) cho đến hiện nay.", "Một hướng nghiên cứu phát triển gần đây là máy tính quang (\"optical computer\") trong đó máy tính hoạt động theo nguyên lý của ánh sáng hơn là theo nguyên lý của các dòng điện; đồng thời, khả năng sử dụng DNA trong công nghệ máy tính cũng đang được thử nghiệm. Một nhánh khác của việc nghiên cứu có thể dẫn công nghiệp máy tính tới những khả năng mới như tính toán lượng tử, tuy rằng nó vẫn còn ở giai đoạn đầu của việc nghiên cứu.", "Theo đặc trưng thiết kế.", "Các máy tính hiện đại đã liên kết các đặc trưng thiết kế chính được phát triển bởi nhiều người đóng góp trong nhiều năm. Các đặc trưng này phần lớn không phụ thuộc vào mức độ hoàn thiện của công nghệ. Các máy tính hiện đại nhận được khả năng tổng thể của chúng theo cách mà các đặc trưng này tác động qua lại với nhau. Một số đặc trưng quan trọng được liệt kê dưới đây:", "Kỹ thuật số và kỹ thuật tương tự.", "Một quyết định nền tảng trong việc thiết kế máy tính là hoặc sử dụng kỹ thuật số (\"digital\") hoặc sử dụng kỹ thuật tương tự (\"analog\"). Các máy tính kỹ thuật số (\"digital computer\") tính toán trên các giá trị số rời rạc (\"discreet value\") hoặc giá trị tượng trưng (\"symbolic value\"), trong khi đó máy tính tương tự (\"analog computer\") tính toán trên các tín hiệu dữ liệu liên tục (\"continuous data signal\"). Bắt đầu từ thập niên 1940, máy tính kỹ thuật số đã trở nên phổ biến hơn mặc dù máy tính tương tự vẫn được sử dụng cho một số mục đích đặc biệt như trong kỹ thuật robot và việc kiểm soát các lò xyclôtrôn. Các thiết kế khác dùng tính toán xung lượng và tính toán lượng tử cũng hiện hữu nhưng chúng hoặc được sử dụng cho các mục đích đặc biệt hoặc vẫn đang trong vòng thử nghiệm.", "Nhị phân và Thập phân.", "Một phát triển quan trọng trong thiết kế tính toán kỹ thuật số là việc sử dụng hệ nhị phân như là hệ thống số đếm nội tại. Điều này đã bãi bỏ những yêu cầu cần thiết trong các cơ cấu kỹ thuật phức tạp của các máy tính sử dụng hệ số đếm khác, chẳng hạn như hệ thập phân. Việc áp dụng hệ nhị phân đã làm cho việc thiết kế trở nên đơn giản hơn để thực hiện các phép tính số học và các phép tính lôgic.", "Khả năng lập trình.", "Khả năng lập trình của máy tính (\"programmability\"), nghĩa là cung cấp cho nó một tập hợp các chỉ thị để thực hiện mà không có sự điều khiển vật lý đối với nó, là một đặc trưng thiết kế nền tảng của phần lớn các máy tính. Đặc trưng này là một sự mở rộng đáng kể khi các máy tính đã được phát triển đến mức nó có thể kiểm soát động luồng thực hiện của chương trình. Điều này cho phép máy tính kiểm soát được thứ tự trong sự thực thi các chỉ lệnh trong chương trình dựa trên các dữ liệu đã được tính ra.", "Điểm nổi bật chính trong thiết kế này đó là nó đã được đơn giản hóa một cách đáng kể với việc áp dụng các phép tính số học theo hệ đếm nhị phân để có thể mô tả hàng loạt các phép tính lôgic.", "Lưu trữ.", "Trong quá trình tính toán, máy tính thông thường cần phải lưu trữ các giá trị trung gian để có thể sử dụng trong các tính toán sau đó. Khả năng thực hiện của máy tính phần lớn phụ thuộc vào tốc độ đọc các giá trị từ bộ nhớ và tốc độ ghi vào bộ nhớ, cũng như dung lượng bộ nhớ. Ban đầu bộ nhớ chỉ được sử dụng cho các giá trị trung gian, nhưng từ thập niên 1940 thì chính bản thân chương trình cũng có thể được lưu trữ theo cách này. Điểm nổi trội này đã dẫn đến việc ra đời của những chiếc máy tính có sẵn chương trình đầu tiên của thế hệ máy tính ngày nay.", "Theo năng lực sử dụng.", "Có lẽ cách tốt nhất để phân loại các thiết bị máy tính là theo năng lực nội tại của nó, hơn là theo việc sử dụng, sự hoàn thiện công nghệ hay các đặc trưng thiết kế. Máy tính có thể chia làm ba dạng chính dựa theo năng lực sử dụng:", "Các máy tính có mục đích không nhất định.", "Các máy tính có mục đích không nhất định còn được gọi là các máy loại Turing hoàn tất và điều này được sử dụng như khả năng ngưỡng để định nghĩa các máy tính hiện nay, tuy nhiên, định nghĩa này có vài vấn đề. Một số thiết bị tính toán với thiết kế đơn giản đã được chứng tỏ là có tính Turing hoàn tất. Cho đến nay, Z3, phát triển bởi Konrad Zuse năm 1941, là chiếc máy tính hoạt động đầu tiên đã được chứng tỏ đạt được tính chất này, (chứng minh được hoàn thành vào năm 1998). Trong khi Z3 và có thể một số thiết bị khác có tính Turing hoàn tất trên lý thuyết, trên thực tế chúng không phải là những máy tính có mục đích không nhất định. Chúng thuộc về những cái được gọi một cách hài hước là Turing Tar-Pit - \"chỗ ở đó mọi điều đều có thể nhưng chẳng có gì là thực tế\" (Xem Jargon File). Các máy tính hiện đại không những \"có mục đích không nhất định trên lý thuyết\" mà còn \"có mục đích không nhất định trên thực tế\". Các máy tính hiện đại như loại kỹ thuật số, loại điện tử hay loại có mục đích không nhất định được phát triển bởi nhiều người đóng góp trong một khoảng thời gian dài từ giữa thập niên 1930 tới cuối thập niên 1940. Trong giai đoạn này rất nhiều cỗ máy thử nghiệm đã được phát triển có thể coi là có tính Turing hoàn tất (như ABC, ENIAC, Harvard Mk I, Colossus v.v.) (Xem thêm Lịch sử phần cứng máy tính). Tất cả các cỗ máy này trong thời đại của chúng đều được cho là chiếc máy tính đầu tiên, nhưng tất cả đều có những giới hạn nhất định trong mục đích sử dụng và thiết kế của chúng đã sớm bị đào thải.", "Các máy tính có sẵn chương trình.", "Trong cuối thập niên 1940 thiết kế đầu tiên cho máy tính có sẵn chương trình (\"stored-program computer\") đã được phát triển và biên khảo (Xem thêm Bản thảo đầu tiên) tại trường công nghệ điện Moore của Đại học Pennsylvania. Phương pháp giải quyết, miêu tả trong tài liệu, được biết đến như là kiến trúc Von Neumann, mang tên của nhà toán học Jon von Neumann mặc dù các thành viên của trường công nghệ điện Moore mới thực sự sáng chế ra thiết kế này. Kiến trúc Von Neumann đã giải quyết vấn đề thuộc về thiết kế của máy ENIAC và sửa đổi bằng cách lưu trữ chương trình của máy trong bộ nhớ của nó. Von Neumann cung cấp thiết kế này cho các nhà nghiên cứu khác ngay sau khi ENIAC được công bố vào năm 1946. Nhiều kế hoạch đã được phát triển để hoàn thiện thiết kế này tại trường Moore trong chiếc máy có tên gọi là EDVAC. EDVAC đã không hoạt động được cho đến tận năm 1953 vì những khó khăn kỹ thuật trong việc hoàn thiện độ tin cậy của bộ nhớ. Từ bản sao của thiết kế này, các viện nghiên cứu khác đã giải quyết được vấn đề đó trước trường Moore và hoàn thiện các máy tính có sẵn chương trình của họ. Theo thứ tự của việc hoạt động thành công thì 5 chiếc máy tính có sẵn chương trình đầu tiên dựa trên cơ sở của kiến trúc Von Neumann là:", "Thiết kế \"chương trình có sẵn\", được định nghĩa bởi kiến trúc Von Neumann, cuối cùng đã cho phép máy tính khai thác tiềm năng \"mục đích không nhất định\" của chúng. Bằng cách lưu trữ chương trình trong bộ nhớ, chúng có thể nhanh chóng \"nhảy\" từ chỉ thị này tới chỉ thị khác dựa trên kết quả của một điều kiện như đã được định nghĩa sẵn trong chương trình. Các điều kiện này thông thường lượng giá các dữ liệu đã được tính toán bởi chương trình và cho phép chương trình trở thành động hơn. Thiết kế này cũng hỗ trợ vào khả năng tự động viết lại chương trình ngay trong khi nó đang thực thi - một đặc trưng rất mạnh nhưng cần sử dụng một cách cẩn thận. Các đặc trưng này là nền tảng cho các máy tính hiện đại.", "Nói một cách chính xác, phần lớn các máy tính hiện đại là thiết bị tính toán theo phép nhị phân, bằng điện tử, có sẵn chương trình và có mục đích không nhất định.", "Các máy tính có mục đích đặc biệt.", "Các máy tính có mục đích đặc biệt (\"special-purpose computer\") đã được phổ biến trong thập niên 1930 và đầu thập niên 1940 nhưng vẫn chưa bị thay thế hoàn toàn bởi các máy tính có mục đích không nhất định. Sự giảm xuống về kích thước và giá cả cũng như sự tăng năng lực của chúng đã khiến việc sử dụng máy tính có mục đích đặc biệt trong các ứng dụng đặc biệt trở thành một hiệu quả tốt về mặt chi phí. Rất nhiều các thiết bị dùng tại nhà và trong công nghiệp như điện thoại di động, máy thâu video, hệ thống đánh lửa tự động v.v có chứa loại máy tính có mục đích đặc biệt này. Trong một số trường hợp các máy tính này là loại Turing hoàn tất (như máy chơi trò chơi điện tử, PDA) nhưng rất nhiều trong số chúng được lập trình một lần tại nhà máy sản xuất và rất ít khi phải lập trình lại. Chương trình mà các thiết bị này thực thi thông thường được lưu trữ trong bộ nhớ chỉ đọc (ROM) mà khi cần thiết có thể thay thế để thay đổi hoạt động của máy. Các máy tính được nhúng bên trong các thiết bị khác thông thường được gọi là vi điều khiển (\"microcontroller\") hay máy tính nhúng (\"embedded computer\").", "Các máy tính có một mục đích.", "Các máy tính có một mục đích (\"single-purpose computer\") là loại xuất hiện sớm nhất của thiết bị máy tính. Khi được cung cấp dữ liệu, nó có thể tính kết quả của một hàm đơn giản đã được thiết lập trong cơ chế của nó. Các máy tính có mục đích không nhất định gần như đã thay thế hoàn toàn các máy tính có một mục đích và, do đó, đã phát sinh một lĩnh vực hoạt động mới của loài người: phát triển phần mềm. Các máy tính có mục đích không nhất định cần phải được lập trình với một bộ chỉ thị liên quan đến phần mềm máy tính. Việc thiết kế các thiết bị tính toán có một mục đích hay có mục đích đặc biệt hiện nay là những bài tập khái niệm thuần túy bao gồm các phần mềm thiết kế.", "Theo hình thức hoạt động.", "Máy tính có thể được phân loại tùy theo cách thức người dùng vận hành. Có hai loại chính: kiểu xử lý tuần tự (\"batch processing\") và kiểu xử lý tương tác (\"interactive processing\").", "Các phần mềm và ứng dụng máy tính.", "Các máy tính điện tử dùng kỹ thuật số (\"digital computer\") đầu tiên, với kích thước lớn và giá thành cao, phần lớn thực hiện các tính toán khoa học, thông thường để hỗ trợ các mục tiêu quân sự. ENIAC đầu tiên được thiết kế để tính toán các bảng đạn đạo cho pháo binh nhưng nó cũng được sử dụng để tính toán mật độ neutron trên bình diện để hỗ trợ vào thiết kế bom khinh khí. Công việc tính toán này, xảy ra từ tháng 12 năm 1945 đến tháng 1 năm 1946 với hàng triệu , vạch ra rằng một thiết kế cho bom kinh khí đang được xem xét lúc đó sẽ không thành công. (Rất nhiều siêu máy tính hiện nay cũng được sử dụng để giả lập các vũ khí hạt nhân.) CSIR Mk I, chiếc máy tính có sẵn chương trình (\"stored-program computer\") đầu tiên của Úc được sử dụng để lượng giá các mô hình mưa cho lưu vực các sông thuộc sơ đồ dãy núi Snowy, một dự án thủy điện lớn. Các máy khác được sử dụng trong việc phân tích mã hóa, ví dụ như chiếc máy tính với kỹ thuật số được lập trình đầu tiên trên thế giới (tuy không phải là máy tính có mục đích không nhất định) là Colossus, được lắp ráp trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Bất chấp sự định hướng ban đầu cho các ứng dụng khoa học, máy tính đã được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác.", "Trước tiên các máy tính có sẵn chương trình được sử dụng để giải quyết các vấn đề kinh doanh. LEO, máy tính có sẵn chương trình lắp ráp bởi công ty J. Lyons and Co tại Anh, đã hoạt động và được sử dụng để quản lý hàng tồn kho, cũng như các mục đích khác, cho 3 năm trước khi IBM lắp ráp chiếc máy tính có sẵn chương trình đầu tiên của họ. Việc giảm giá thành và kích thước của máy đã liên tục làm nó phù hợp cho những tổ chức nhỏ hơn. Với sự phát minh ra bộ vi xử lý trong thập niên 1970 thì việc lắp ráp máy tính rẻ tiền đã trở thành khả thi. Trong thập niên 1980 máy tính cá nhân trở lên phổ biến cho nhiều công việc từ kế toán, soạn thảo, in ấn tài liệu tới tính toán các dự báo và các công việc toán học lặp lại qua các bảng tính.", "Internet.", "Trong thập niên 1970, các kỹ sư điện toán của các viện nghiên cứu trên khắp nước Mỹ bắt đầu liên kết máy tính của họ với nhau thông qua công nghệ của ngành liên lạc viễn thông. Những cố gắng này được ARPA hỗ trợ, và mạng máy tính mà nó cung cấp được gọi là ARPANET. Các công nghệ tạo ra Arpanet đã mở rộng và phát triển sau đó. Chẳng bao lâu, mạng máy tính mở rộng ra ngoài các viện khoa học và được biết đến như là Internet.", "Trong thập niên 1990, việc phát triển của công nghệ World Wide Web đã làm cho ngay cả những người không chuyên nghiệp cũng có thể sử dụng internet. Nó phát triển nhanh đến mức đã trở thành phương tiện liên lạc toàn cầu như ngày nay.", "Phương thức hoạt động.", "Trong khi các công nghệ sử dụng trong máy tính không ngừng thay đổi kể từ những chiếc máy tính có mục đích không nhất định đầu tiên của thập niên 1940 (Xem Lịch sử phần cứng máy tính) thì phần lớn các máy tính vẫn còn sử dụng kiến trúc Von Neumann.", "Kiến trúc Von Neumann chia máy tính ra làm bốn bộ phận chính: ", "Bộ nhớ.", "Bộ nhớ máy tính có 2 phần chính là bộ nhớ trong và bộ nhớ ngoài. Trong hệ thống này bộ nhớ là sự nối tiếp của các ô đánh số thứ tự, mỗi ô chứa một phần nhỏ của thông tin. Thông tin có thể là chỉ thị cho máy tính. Mỗi ô cũng có thể chứa dữ liệu mà máy tính cần để thi hành chỉ thị. Nội dung của một ô nhớ có thể thay đổi ở bất kỳ thời điểm nào.", "Kích thước một ô nhớ cũng như số lượng ô nhớ thay đổi theo từng máy tính giống như công nghệ sử dụng trong việc chế tạo bộ nhớ, từ rơ le cơ-điện tới ống chứa thủy ngân, từ băng từ tới transistor hay IC.", "Bộ xử lý (CPU).", "Đơn vị lôgic và số học, (tiếng Anh là Arithmetic and Logic Unit, viết tắt ALU), là thiết bị thực hiện các phép tính cơ bản như các phép tính số học (cộng, trừ, nhân, chia, v.v), các phép tính lôgic (AND, OR, NOT, v.v) cũng như các phép so sánh (ví dụ: so sánh nội dung của hai byte xem có bằng nhau). Đơn vị này là nơi mà các \"công việc thực sự\" được thực thi.", "Đơn vị kiểm soát theo dõi các byte trong bộ nhớ có chứa chỉ thị để máy tính thực thi, cung cấp cho ALU một chỉ thị cần phải thực thi cũng như chuyển kết quả thu được tới các vị trí thích hợp trong bộ nhớ. Sau khi điều đó diễn ra, đơn vị kiểm soát chuyển tới chỉ thị kế tiếp (thông thường nằm tại địa chỉ ngay sau), nếu không thì chỉ thị sẽ là chỉ thị nhảy thông báo cho máy tính là chỉ thị tiếp theo nằm tại một địa chỉ khác. Khi tham chiếu tới bộ nhớ, chỉ thị hiện thời có thể sử dụng một số phương thức đánh địa chỉ (\"addressing mode\") để xác định địa chỉ liên quan trong bộ nhớ. Một số bo mạch chủ trong máy tính có thể gắn được hai hay nhiều bộ xử lý. Các loại máy tính phục vụ thường có hai hay nhiều bộ xử lý.", "Kiến trúc.", "Các máy tính hiện đại ghép chung ALU và đơn vị kiểm soát vào trong một IC gọi là đơn vị xử lý trung tâm hay CPU. Thông thường, bộ nhớ máy tính nằm trong một số IC nhỏ gần CPU. Phần lớn trọng lượng máy tính là các bộ phận phụ thuộc như hệ thống cung cấp điện hay các thiết bị đầu/cuối (I/O).", "Một số máy tính lớn khác biệt với mô hình trên ở điểm chính sau - chúng có nhiều CPU và đơn vị kiểm soát hoạt động đồng bộ. Ngoài ra, một số máy tính, sử dụng chủ yếu trong nghiên cứu và tính toán khoa học, khác biệt rất đáng kể với mô hình trên, nhưng chúng ít có ứng dụng thương mại vì mô hình lập trình chúng vẫn chưa được chuẩn hóa.", "Vì vậy, hoạt động của máy tính thì không phức tạp trên nguyên lý. Thông thường, trong mỗi nhịp đồng hồ, máy tính sẽ nhận được các chỉ thị và dữ liệu từ bộ nhớ của nó. Các chỉ thị được thực thi, kết quả được lưu lại và chỉ thị tiếp theo được nhận về. Quá trình này tiếp diễn cho đến khi gặp chỉ thị \"dừng\".", "Chương trình.", "Chương trình máy tính đơn giản chỉ là một danh sách các chỉ thị để máy tính thực thi, có thể với các bảng dữ liệu. Rất nhiều chương trình máy tính chứa hàng triệu chỉ thị và rất nhiều chỉ thị được lặp đi lặp lại. Một chiếc máy tính thông thường ngày nay (năm 2003) có thể thực hiện 2-3 tỷ chỉ thị trong một giây. Máy tính không có các khả năng đặc biệt thông qua việc thực thi các chỉ thị phức tạp mà cơ bản là nó chỉ thực thi các chỉ thị đơn giản do lập trình viên đưa ra. Một số lập trình viên giỏi phát triển các tập hợp chỉ thị dùng cho một số công việc chung (như vẽ một điểm trên màn hình) và cung cấp các tập hợp chỉ thị đó cho các lập trình viên khác. Một số lập trình viên khác chỉ phát triển các ứng dụng thực tế dựa trên các nền tảng mà các lập trình viên kia cung cấp cho họ.", "Hiện nay, phần lớn máy tính có thể thực hiện \"cùng một lúc\" vài chương trình. Điều này được gọi là đa nhiệm (\"multitasking\"). Trên thực tế, CPU thực thi các chỉ thị của một chương trình, sau một khoảng thời gian ngắn, nó chuyển sang thực thi các chỉ thị của chương trình thứ hai v.v. Khoảng thời gian ngắn đó được xem như là sự phân chia thời gian của CPU và nó tạo ảo giác như là các chương trình được thực thi đồng thời. Điều này cũng tương tự như phim là sự chuyển động đơn giản của các ảnh kế tiếp nhau. Hệ điều hành là chương trình thông thường kiểm soát sự phân chia thời gian đó." ]
997
70586230
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=997
Yên Bái
[ "Yên Bái là một tỉnh thuộc vùng trung du và miền núi phía Bắc, Việt Nam.", "Địa lý.", "Tỉnh Yên Bái nằm ở vùng Tây Bắc tiếp giáp với Đông Bắc, có vị trí địa lý:", "Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Yên Bái, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 180 km.", "Hành chính.", "Tỉnh Yên Bái ngày nay bao gồm thành phố Yên Bái, thị xã Nghĩa Lộ và 7 huyện: Yên Bình, Lục Yên, Văn Chấn, Văn Yên, Trấn Yên, Trạm Tấu, Mù Cang Chải, với 173 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 13 phường, 10 thị trấn và 150 xã.", "Địa hình.", "Yên Bái có diện tích tự nhiên 6.882,9 km², nằm trải dọc đôi bờ sông Hồng.", "Địa hình Yên Bái có độ dốc lớn, cao dần từ đông sang tây, từ nam lên bắc, độ cao trung bình 600 mét so với mực nước biển và có thể chia làm hai vùng: vùng thấp ở tả ngạn sông Hồng và lưu vực sông Chảy mang nhiều đặc điểm của vùng trung du; vùng cao thuộc hữu ngạn sông Hồng và cao nguyên nằm giữa sông Hồng và sông Đà có nhiều dãy núi. Đèo Khau Phạ là đèo hiểm trở và dài nhất trên tuyến quốc lộ 32 với độ dài trên 30 km.", "Điều kiện tự nhiên.", "Sông ngòi.", "Ngoài hai con sông lớn là sông Hồng và sông Chảy, còn có khoảng 200 ngòi, suối lớn nhỏ và hồ, đầm. Đầu thập niên 1960, Liên Xô giúp thiết kế hồ Thác Bà là hồ nước nhân tạo có diện tích mặt nước trên 20.000 ha, với khoảng 1.300 đảo lớn nhỏ. Hồ có sức chứa 3–3,9 tỷ m³ nước với mục đích ban đầu là chạy nhà máy thủy điện Thác Bà - công trình thủy điện lớn đầu tiên ở Việt Nam.", "Khí hậu.", "Yên Bái có khí hậu đặc trưng của khí hậu cận nhiệt đới ẩm của miền bắc Việt Nam, mùa hè nóng ẩm mưa nhiều, mùa đông phi nhiệt đới lạnh và khô.", "Rừng.", "Yên Bái có rừng nhiệt đới, á nhiệt đới và ôn đới trên núi cao. Ở đây có gỗ quý pơ-mu sẽ tốt cho sức khỏe và đuổi muỗi nếu làm giường. Diện tích rừng chiếm 54%.", "Khoáng sản.", "Tài nguyên khoáng sản trữ lượng khá lớn - đá cocain, đá đỏ, sắt, thạch anh, đá fenspat, đá trắng Đông Nam Á.", "Kinh tế.", "Năm 2018, Yên Bái là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 50 về số dân, xếp thứ 56 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 57 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 60 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 815.600 người dân, GRDP đạt 27.404 tỉ Đồng (tương ứng với 1,18 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 33,6 triệu đồng (tương ứng với 1.459 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 6,31%.", "Yên Bái có cơ cấu kinh tế đa dạng, với các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Nông nghiệp chiếm gần 10% diện tích tự nhiên và sản xuất chủ yếu bao gồm lúa, cam, quế, ngô, khoai và các sản phẩm nông nghiệp khác. Dân số của tỉnh chủ yếu là nông dân. Công nghiệp ở Yên Bái phát triển không mạnh mẽ do địa hình núi non. Các sản phẩm công nghiệp chính bao gồm chè khô, xi măng và gỗ.", "Dịch vụ ở Yên Bái có sự phát triển trung bình. Các ngành ngân hàng, buôn bán lớn và bất động sản tập trung ở các khu vực đông dân cư như thành phố Yên Bái, thị xã Nghĩa Lộ và các thị trấn đông đúc. Các vùng miền núi thường có các phiên chợ vùng cao để trao đổi hàng hoá.", "Tuy nhiên, tổng thể, nền kinh tế Yên Bái vẫn còn khá nghèo. Tỉ lệ hộ nghèo của tỉnh là 20,2%, với hai huyện Mù Căng Chải và Trạm Tấu có tỷ lệ hộ nghèo cao lần lượt là 58% và 53%. Những khu vực miền núi, đặc biệt là các xã vùng cao, có tỷ lệ nghèo vượt ngưỡng 80%. Trong khi đó, các khu vực miền xuôi như thành phố Yên Bái, thị xã Nghĩa Lộ và các huyện Lục Yên, Văn Yên có kinh tế tương đối hơn với tỷ lệ nghèo khoảng 9-16%.", "Dân tộc.", "Tính đến năm 2019, tỉnh Yên Bái có tổng dân số là 821.030 người. Tại đây, có sự hiện diện của 30 dân tộc khác nhau sống chung hòa thuận. Các dân tộc này sinh sống xen kẽ và tập trung ở khắp các địa phương trên toàn tỉnh, mang theo những nét đặc trưng văn hoá riêng của mình. Một số dân tộc nổi bật là dân tộc Kinh, Tày, Dao, Mông... Tỷ lệ dân số sống ở đô thị là 20,3%, trong khi dân số sống ở nông thôn chiếm 79,7%. Tỷ lệ đô thị hóa của tỉnh Yên Bái tính đến năm 2022 đạt 22,38%.", "Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 7 tôn giáo khác nhau đạt 61.973 người, nhiều nhất là Công giáo có 58.145 người, tiếp theo là Phật giáo đạt 2.996 người, đạo Tin Lành có 826 người. Còn lại các tôn giáo khác như đạo Cao Đài có ba người, Phật giáo Hòa Hảo và Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam mỗi tôn giáo chỉ có một người.", "Lịch sử.", "Yên Bái là một điểm sinh tụ của người Việt cổ, có nền văn hoá nhân bản, thể hiện ở những di vật, di chỉ phát hiện ở hang Hùm (Lục Yên), công cụ bằng đá ở Thẩm Thoóng (Văn Chấn), thạp đồng Đào Thịnh, Hợp Minh (Trấn Yên), trống đồng Minh Xuân (Lục Yên). Nhiều di chỉ khảo cổ được phát hiện, như đền, tháp, khu di tích lịch sử.", "Được thành lập ngày 11 tháng 4 năm 1900, tỉnh Yên Bái được biết đến qua cuộc Khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc Dân Đảng vào thượng tuần tháng 2 năm 1930. Lãnh tụ là Nguyễn Thái Học đã bị thực dân Pháp bắt và đem hành quyết bằng máy chém ở Yên Bái cùng 12 đồng đội vào ngày 17 tháng 6 năm 1930.", "Sau năm 1945, tỉnh Yên Bái có 5 huyện: Lục Yên, Than Uyên, Trấn Yên, Văn Bàn, Văn Chấn.", "Ngày 29 tháng 4 năm 1955, thành lập Khu tự trị Thái - Mèo, địa bàn hai huyện Than Uyên và Văn Chấn thuộc khu tự trị và sau là tỉnh Nghĩa Lộ.", "Ngày 13 tháng 5 năm 1955, hai huyện Than Uyên và Văn Chấn chính thức tách khỏi tỉnh Yên Bái để sáp nhập vào khu tự trị Thái - Mèo.", "Ngày 7 tháng 4 năm 1956, thành lập lại thị xã Yên Bái.", "Ngày 1 tháng 7 năm 1956, chuyển huyện Yên Bình của tỉnh Tuyên Quang về tỉnh Yên Bái quản lý.", "Ngày 16 tháng 12 năm 1964, thành lập 2 huyện Bảo Yên (tách ra từ 2 huyện Lục Yên và Văn Bàn) và Văn Yên (tách ra từ 2 huyện Trấn Yên và Văn Bàn).", "Ngày 27 tháng 12 năm 1975, tỉnh Yên Bái được hợp nhất với 2 tỉnh Lào Cai và Nghĩa Lộ thành tỉnh Hoàng Liên Sơn.", "Ngày 12 tháng 8 năm 1991, tỉnh Hoàng Liên Sơn chia lại thành 2 tỉnh Lào Cai và Yên Bái. Tỉnh Yên Bái được tái lập, gồm thị xã Yên Bái và 7 huyện: Lục Yên, Mù Cang Chải, Trạm Tấu, Trấn Yên, Văn Chấn, Văn Yên, Yên Bình (riêng hai huyện Bảo Yên và Văn Bàn lúc này thuộc tỉnh Lào Cai).", "Ngày 15 tháng 5 năm 1995, tái lập thị xã Nghĩa Lộ trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và dân số của huyện Văn Chấn.", "Ngày 11 tháng 1 năm 2002, chuyển thị xã Yên Bái thành thành phố Yên Bái.", "Tỉnh Yên Bái có 1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện như hiện nay.", "Giao thông.", "Giao thông ở Yên Bái có hệ thống đường sắt, đường bộ, đường thủy, quốc lộ 32, 37 và 70 chạy qua tỉnh. Đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai đi qua 3 huyện thị: thành phố Yên Bái, Trấn Yên và Văn Yên. Thông thương từ Yên Bái đến các tỉnh lân cận của miền Tây Bắc và Việt Bắc ngày càng phát triển nhất là khi hệ thống đường bộ đang tiếp tục được hoàn thiện, tuyến đường sắt Hà Nội - Yên Bái - Lào Cai nối liền tới Côn Minh, Trung Quốc được nâng cấp. Từ Yên Bái đi đến các tỉnh trung du, đồng bằng Bắc Bộ có hệ thống giao thông đường bộ phát triển, tuyến cao tốc Nội Bài - Lào Cai hoàn thành làm cầu nối giao thông của Tây Bắc Bộ với các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.", "Ẩm thực.", "Đặc điểm.", "Ở Yên Bái, dân tộc chiếm gần 50% dân số. Có người Mông ở Mù Căng Chải và Trạm Tấu, người Thái ở Văn Chấn và Nghĩa Lộ, người Tày và người Kinh ở các huyện thấp. Còn lại, có Nùng, Sán Chay, Mường, Khơ Mú, Phù Lá... Mỗi dân tộc có ẩm thực đặc trưng riêng. Khí hậu và địa hình đa dạng tạo sự khác biệt trong nguyên liệu và món ăn giữa các vùng. Ở các huyện Yên Bình, Văn Yên, Trấn Yên và thành phố Yên Bái, ẩm thực không có nhiều khác biệt so với khu vực dưới.", "Giáo dục.", "Hiện nay, toàn ngành giáo dục và đào tạo đang tích cực triển khai và thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, nhằm đẩy mạnh phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong giai đoạn từ 2009 đến 2015.", "Một số trường học có uy tín tại Yên Bái:" ]
998
699065
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=998
20 tháng 4
[ "Ngày 20 tháng 4 là ngày thứ 110 trong mỗi năm thường (ngày thứ 111 trong mỗi năm nhuận). Còn 255 ngày nữa trong năm." ]
999
70630078
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=999
Đà Nẵng
[ "Đà Nẵng là một trong năm thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam, nằm tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ. Đây là thành phố trung tâm và lớn nhất miền Trung Việt Nam, đóng vai trò là hạt nhân quan trọng của Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Đà Nẵng hiện là đô thị loại I, là thành phố trung tâm cấp vùng và cấp quốc gia.", "Về mặt địa lý, Đà Nẵng nằm ở trung độ của Việt Nam, có vị trí trọng yếu cả về kinh tế – xã hội và quốc phòng – an ninh với vai trò là trung tâm công nghiệp, tài chính, du lịch, dịch vụ, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo của khu vực miền Trung – Tây Nguyên và cả nước; trung tâm tổ chức các sự kiện tầm khu vực và quốc tế. Đà Nẵng cũng là đô thị biển và đầu mối giao thông rất quan trọng về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không.", "Trong những năm gần đây, Đà Nẵng tích cực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường, nâng cao an sinh xã hội và được đánh giá là thành phố đáng sống nhất Việt Nam. Năm 2018, Đà Nẵng được chọn đại diện cho Việt Nam lọt vào danh sách 10 địa điểm tốt nhất để sống ở nước ngoài do tạp chí du lịch \"Live and Invest Overseas\" (LIO) bình chọn. <ns>10</ns>", " <id>330569</id>", " <revision>", " <id>68224158</id>", " <parentid>68214612</parentid>", " <timestamp>2022-03-02T11:06:23Z</timestamp>", " <contributor>", " <username>NguoiDungKhongDinhDanh</username>", " <id>798851</id>", " </contributor>", " <minor />", " <comment>Đã di chuyển đến </comment>", " <model>wikitext</model>", " <format>text/x-wiki</format>", "<templatestyles src=\"Giới hạn mục lục/styles.css\" />", "Tên gọi.", "Địa danh Đà Nẵng (chữ Hán: 沱㶞 hoặc 陀㶞) được nói đến sớm nhất trong sách \"Ô Châu cận lục\" (in lần đầu năm 1555 của Dương Văn An), quyển 5, \"Tự từ\" (chữ Hán: 寺祠, chùa và đền), \"Thần từ\" (chữ Hán: 神祠, đền thờ thần), \"Tùng Giang từ\" (chữ Hán: 松江祠, đền Tùng Giang):", "Nguyên văn Hán văn:", "Phiên âm Hán Việt:", "Dịch nghĩa:", "\"Đà Nẵng\" trong \"Ô Châu cận lục\" không phải là một địa danh hành chính mà chỉ là tên gọi của một cửa biển.", "Đà Nẵng là một tên dịch theo kiểu dịch âm kiêm dịch ý một phần, nếu phiên âm Hán-Việt thì đọc thành Đà Nhương, địa danh cần dịch đã được dịch bằng chữ Hán có âm đọc (âm Hán Việt) tương cận, ý nghĩa của chữ Hán dùng để dịch có liên quan nhất định với ý nghĩa của tên gọi được dịch. Phần lớn các ý kiến đều cho rằng tên gọi Đà Nẵng xuất phát từ vị trí nằm ở cửa sông Hàn của thành phố. Đó là một biến dạng của từ Chăm cổ \"Da nak\", được dịch là \"cửa sông lớn\".", "Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu về Chăm là Inrasara và Sakaya đã có những đề xuất khác. Inrasara (tức Phú Trạm, nhà thơ và nhà nghiên cứu Văn hóa Chăm Pa) cho rằng \"Đà Nẵng\" là biến dạng của từ Chăm cổ \"Đaknan\". \"Đak\" có nghĩa là nước, \"nan\" hay \"nưn\", tức \"Ianưng\" có nghĩa là rộng. Địa danh \"Đaknan\" hàm ý chỉ vùng sông nước rộng mênh mông ở cửa sông Hàn. Còn nhà nghiên cứu Sakaya (tức Trương Văn Món) cho rằng \"Đà Nẵng\" có thể xuất phát từ nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer, \"Đakdơng\" - \"Đà dơng\", có nghĩa là con sông. Đanang trong tiếng Chăm và Raglai cổ, cùng thuộc ngôn ngữ Malayo-Polynesia, có nghĩa là \"nguồn\". \"Đà Nẵng\" là \"sông nguồn\". ", "Nhưng nếu chúng ta xét về phương diện ngôn ngữ Chăm hiện đại, thì trong ngôn ngữ Ê-đê, Gia Rai thuộc nhóm Chamic vẫn còn lưu giữ cách gọi từ cổ như Krông Năng hay Rơ Năng hay Da Năng. Hiện tại, ngay cả một tỉnh đông người Chăm ở Campuchia vẫn giữ cách gọi một bến sông của người Chăm là \"Kam pong Ch'Năng\" và trở thành tên một tỉnh của Campuchia Kampong Chhnang có đông người Chăm sau tỉnh Kampong Cham. Tất cả các biến thể của ngôn ngữ Chăm Pa từ \"Da Năng\" thành \"Ênang\", \"Ch'nang\", \"R'nang\" trong ngôn ngữ Chăm, Gia Rai, Ê đê, Raglai ngày nay đều mang nghĩa là bình yên, thanh bình. Kampong Danang tức là Bến sông Thanh bình. Da Nang trong tiếng là nương tựa, \"vì 2 ông Sakaya và Inrasara là người Chăm vùng Panduranga nên không hiểu rõ từ Danang trong tiếng người Chăm chuẩn, vì tiếng Chăm Panduranga gọi Danang thành Danưng\". ", "Người Trung Quốc gọi Đà Nẵng là Hiện Cảng, vốn được viết bằng chữ Hán là 蜆港, về sau được đổi thành 峴港. Thời xưa tàu thuyền Trung Quốc đi Đà Nẵng thường lấy hòn Sơn Trà làm mốc định vị phương hướng. Hòn Sơn Trà có hình dáng giống con hến nên người Trung Quốc đã gọi nơi đây là \"Hiện Cảng\" (蜆港), có nghĩa là \"Bến Hến\". Về sau một số người không hiểu rõ nguồn gốc của tên gọi này, thấy xung quanh Đà Nẵng có nhiều núi non bao bọc nên đã thay chữ \"hiện\" 蜆 có nghĩa là \"con hến\" bằng chữ \"hiện\" 峴 là từ dùng để chỉ núi nhỏ mà cao.", "Một tên gọi khác được đặt cho Đà Nẵng là Cửa Hàn (dịch nghĩa \"cửa của sông Hàn\"). Theo tác giả Võ Văn Dật thì từ Hàn đã được Việt hóa từ cách đọc theo tiếng Hải Nam của địa danh \"Hiện Cảng\" 蜆港 là \"Hành Càng\" hay \"Hàn Càng\".", "Giáo sĩ Buzomi - đến Đà Nẵng năm 1615 - đã gọi nơi này là Porte de Kéan. Bản đồ châu Á do Sanson d'Abbeville vẽ năm 1652 ghi Đà Nẵng là Turaon. Giáo sĩ Christoforo Borri - đến Đà Nẵng năm 1618 - khi viết hồi ký về xứ Đàng Trong của chúa Nguyễn thì đã gọi Đà Nẵng là Touron. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes là người từng lui tới Đà Nẵng nhiều lần và đã gọi nơi này là Turon; trong bản đồ của ông ghi là \"Kean\" (\"Kẻ Hàn\", kẻ trong \"kẻ chợ\").", "Cho đến giữa thế kỷ XIX, địa danh \"Đà Nẵng\" vẫn còn là tên gọi của một vùng lãnh thổ gắn liền với một cửa biển, một vũng nước sâu, một \"cửa quan\" hay một \"tấn sở\". Các vua triều Nguyễn từ Gia Long đến cả Tự Đức nghiêng về ý nghĩa phòng thủ của nơi này hơn là phát triển Đà Nẵng thành một đô thị sầm uất. Vì vậy mà thời kì này Đà Nẵng được gọi là một \"tấn\", tức là một vị trí trọng yếu phòng thủ. Cho đến khi Pháp khai hỏa xâm chiếm thì Đà Nẵng vẫn chỉ là một vị trí, một địa bàn chiến lược về quân sự và chưa từng là một địa danh chỉ đơn vị hành chính.", "Từ năm 1888 cho đến hết thời Pháp thuộc, Tourane là tên chính thức của Đà Nẵng. Có nhiều cách giải thích khác nhau về nguồn gốc của từ Tourane. Thứ nhất đó là lối nói trại từ chữ Châu Ranh (chỉ ranh giới Việt Nam-Chiêm Thành). Ý kiến thứ hai cho rằng nó bắt nguồn từ một làng có tên là Thạc Gián bị viết lầm là Tu Gián. Ý kiến thứ ba giải thích rằng Tourane chỉ địa danh của một nơi vốn có một cái tháp (\"tour\") trên cửa Hàn.", "Trong văn hóa dân gian, Vũng Thùng là một tên thông tục khác để đề cập đến Đà Nẵng (hiện nay \"Vũng Thùng\" là tên gọi của một vụng biển nhỏ ở phía đông bắc phường Nại Hiên Đông, quận Sơn Trà dùng để neo đậu tàu thuyền của ngư dân). Các nhà Nho nói chữ thì gọi là Trà Áo, Trà Sơn hay Đồng Long Loan.", "Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Tourane đổi tên thành Thái Phiên - nhà yêu nước nổi tiếng của đất Quảng Nam đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Duy Tân năm 1916. Tuy nhiên vào ngày 9 tháng 10 năm 1945, Hội đồng Chính phủ ra quyết nghị giữ nguyên tên cũ của các đơn vị hành chính từ cấp kỳ, thành phố, tỉnh, huyện trong cả nước để tiện việc thông tin liên lạc và công văn giấy tờ. Thành phố trở lại tên gọi cũ Đà Nẵng.", "Lịch sử.", "Thời Sa Huỳnh và Chăm Pa.", "Thành phố Đà Nẵng nằm trong vùng đất xứ Quảng, nơi các cư dân cổ thuộc Văn hóa Sa Huỳnh đã định cư từ hàng nghìn năm trước. Đồng bằng xứ Quảng đã dựng lên một nền văn minh lúa nước và dâu tằm nổi tiếng. Người Sa Huỳnh không chỉ là những cư dân nông nghiệp mà còn đi biển và có hoạt động giao thương bằng đường biển khá phát triển. Tại di tích Vườn Đình Khuê Bắc (phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn), các nhà khảo cổ học đã phát hiện và khai quật được những vết tích liên quan đến nơi ở và nơi chôn cất của cư dân thuộc thời kỳ Tiền Sa Huỳnh, cách đây khoảng 3.000 năm và một số hiện vật ở những lớp đất phía trên thuộc thời kỳ Chăm Pa sớm, cách đây gần 2.000 năm.", "Khi nhà nước Chăm Pa ra đời, vùng đất Đà Nẵng thuộc về tiểu quốc Amaravati. Tại tiểu quốc này đã có ít nhất hai vương triều là Lâm Ấp và Indrapura tồn tại. Những dấu tích của thời kỳ Chăm Pa còn biểu hiện khá đậm nét qua các di tích từ miếu thờ tín ngưỡng ở Đình Dương Lâm (xã Hòa Phong) chỉ thờ ngẫu tượng Linga - Yony quy mô nhỏ bé đến các phế tích có quy mô lớn như lũy đất Thành Lồi, phế tích của các tháp Chăm như Tháp Quá Giáng, Tháp Xuân Dương và Tháp Phong Lệ. Trên địa bàn chùa ở Ngũ Hành Sơn còn lưu giữ một số hiện vật Chăm Pa như bệ thờ, mảnh bệ thờ, mảnh góc bệ thờ được khắc tạc với các đề tài như tượng, voi, sư tử, Drappla, hoa dây uốn xoắn... thuộc phong cách nghệ thuật Đồng Dương thế kỷ IX. Ngoài ra còn có các giếng cổ Chăm Pa phân bố rải rác tại nhiều địa phương. Cuộc khai quật di tích Chăm ở làng Phong Lệ (quận Cẩm Lệ) năm 2012 với việc phát hiện nền tháp Chăm có kích thước lớn nhất từ trước đến nay đã đưa đến giả thuyết: \"rất có thể hơn 1.000 năm trước, vùng đất này là một trung tâm kinh tế, đô thị sầm uất hoặc là nơi giao thương qua lại\".", "Thời Đại Việt.", "Trong nửa sau của thế kỷ thứ X, các vua của vương triều Indrapura đã xung đột với Đại Việt. Năm 982, ba sứ thần mà Lê Hoàn (người sáng lập ra nhà Tiền Lê) gửi đến Chăm Pa đã bị bắt giữ. Lê Hoàn đã quyết định mở một cuộc tấn công vào vương quốc Indrapura và giết chết vua Chăm Parameshvaravarman I. Như một kết cục của sự thất bại, người Chăm cuối cùng đã bỏ rơi Indrapura vào khoảng năm 1000.", "Vào năm 1306, thông qua cuộc hôn nhân của Vua Jayasimhavarman III (Chế Mân) với Công chúa Huyền Trân bằng việc nhượng hai châu Ô, Lý cho nhà Trần, thì các làng xóm của người Việt bắt đầu được hình thành. Tháng Giêng năm Đinh Mùi (1307), Vua Trần Anh Tông sai đổi tên châu Ô và châu Lý thành châu Thuận và châu Hóa. Đà Nẵng từ đây là phần đất thuộc châu Hóa, và từ sau 1446 thì Đà Nẵng thuộc địa phận của huyện Điện Bàn, phủ Triệu Phong, thừa tuyên Thuận Hóa. Sau khi sáp nhập vào Đại Việt, vùng Đà Nẵng trở vào vẫn là miền biên viễn, luôn bị quấy nhiễu và cướp phá. Vào năm 1470, Lê Thánh Tông đánh bại quân Chiêm Thành và mở rộng biên giới Đại Việt đến mũi Nạy (giữa Phú Yên và Khánh Hòa ngày nay) thì vùng đất này mới được bình ổn và bắt đầu có những cuộc khai phá mở mang. Những cư dân Việt đến sinh sống ở vùng này đã tiếp nhận và cải biến những yếu tố của văn hóa Chăm Pa để hòa nhập vào văn hóa Việt.", "Thời các Chúa Nguyễn, vùng đất này đã được khai phá và trở nên trù phú thịnh vượng; các thương nhân cùng tàu thuyền nước ngoài thường xuyên ra vào mua bán, trao đổi hàng hóa. Giữa thế kỷ XVI, khi Hội An là trung tâm buôn bán sầm uất ở phía nam thì Đà Nẵng nằm ở vị trí tiền cảng với vai trò trung chuyển hàng hóa, tu sửa tàu thuyền. Đầu thế kỷ XVIII, vị trí tiền cảng của Đà Nẵng dần dần trở thành thương cảng thay thế cho Hội An, nhất là khi kỹ thuật đóng tàu ở châu Âu phát triển; những loại tàu thuyền lớn, đáy sâu có thể ra vào vịnh Đà Nẵng dễ dàng.", "Thời kỳ các Chúa Nguyễn cũng đánh dấu sự thành lập của Hải đội Hoàng Sa với nhiệm vụ ra đóng ở quần đảo Hoàng Sa, mỗi năm 8 tháng để khai thác các nguồn lợi: đánh cá, thâu lượm những tài nguyên của đảo và những hóa vật do lấy được từ những tàu đắm đem về nộp cho triều đình. Quá trình hoạt động của Hải đội Hoàng Sa cũng là quá trình xác lập và thực thi chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa (và Trường Sa) kéo dài từ đầu thế kỷ XVII.", "Đà Nẵng trong thời Trịnh-Nguyễn phân tranh và thời Tây Sơn trở thành vùng tranh chấp dữ dội và đã chứng kiến những trận đánh quyết liệt của quan quân nhà Nguyễn trong cuộc tấn công vào cửa Đà Nẵng và Đại Chiêm. Năm 1797, quân Nguyễn Ánh đem đại binh tiến đánh Đà Nẵng. ", "Thời nhà Nguyễn.", "Với vị trí chiến lược quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến sự an nguy của kinh đô Phú Xuân, Đà Nẵng là một quân cảng và một thương cảng quan trọng bậc nhất của triều Nguyễn. Ngay sau khi thành lập, vương triều Nguyễn đã chú trọng xây dựng tại đây một hệ thống quản lý và phòng thủ cảng biển đặc biệt. Năm 1813, triều đình sai Nguyễn Văn Thành lập pháo đài Điện Hải và đồn An Hải nằm hai bên tả hữu sông Hàn để quan sát ngoài biển và phòng thủ Đà Nẵng. Trung tâm hành chính của tỉnh Quảng Nam được chuyển từ Dinh Chiêm (gần Hội An) ra đại đồn La Qua (Vĩnh Điện). Đặc biệt, Gia Long quy định việc đón tiếp các đoàn sứ ngoại quốc đến quan hệ với vương triều nhất định phải vào cửa biển Đà Nẵng mà không được cập bến tại bất kỳ một cửa biển nào khác.", "Năm 1835 (Minh Mạng thứ 15) đồn đổi tên là thành Điện Hải.", "Năm 1835, khi Vua Minh Mạng có dụ: \"...tàu Tây đậu tại cửa Hàn, còn các cửa biển khác không được vào, phép nước rất nghiêm, chẳng nên làm trái... Từ nay về sau, người Tàu phải đi tàu buôn nước Tàu, mới cho vào cửa biển, người Tây phải đi tàu nước Tây vào cửa Hàn thông thương, không được ghé vào các cửa biển khác...\" thì Đà Nẵng trở thành hải cảng chính thức và duy nhất thực thi chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn với các nước đến quan hệ qua đường biển. Vua Thiệu Trị cũng đặc biệt quan tâm đến việc an ninh cảng biển tại Đà Nẵng và đưa ra những quy định chặt chẽ quản lý người phương Tây đến buôn bán tại đây.", "Nhà Nguyễn tiếp tục thực thi nhiều chính sách khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Năm 1816, Vua Gia Long chính thức chiếm hữu đảo, ra lệnh cắm cờ trên đảo và đo thủy trình. Năm 1835, Vua Minh Mạng cho xây miếu, đặt bia đá, đóng cọc, và trồng cây. Đội Hoàng Sa được trao nhiều nhiệm vụ: khai thác, tuần tiễu, thu thuế dân trên đảo và nhiệm vụ biên phòng bảo vệ quần đảo. Hải đội này tiếp tục hoạt động cho đến khi người Pháp vào Đông Dương.", "Ngay từ giai đoạn 1843-1857 thì mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Pháp đã trở nên nóng bỏng. Tháng 3 năm 1847, Augustin de Lapierre chỉ huy tàu \"Gloire\" cập bến Đà Nẵng, trình thư cho nhà Nguyễn nhưng bị từ chối. Sang ngày 15 tháng 4 năm 1847, tàu Pháp đụng độ với bốn tàu của triều đình Huế và đánh tan quân triều đình chỉ sau hai giờ giao tranh. Giữa tháng 9 năm 1856, tàu \"Catinat\" do Lelieur chỉ huy ghé Đà Nẵng, trình quốc thư nhưng tiếp tục bị nhà Nguyễn từ chối. Ngày 28 tháng 9, phía Pháp cho tàu \"Catinat\" nã súng vào các pháo đài bảo vệ Đà Nẵng và cho quân đổ bộ đóng đinh vô hiệu hóa nhiều khẩu thần công của Việt Nam. Tính chung suốt từ 1843 đến 1857, Pháp đã sáu lần gửi chiến hạm đến Đà Nẵng.", "Thời Pháp thuộc.", "Năm 1858, cuộc xâm lược của Pháp tại Việt Nam khởi đầu bằng cuộc tấn công vào Đà Nẵng. Ngày 25 tháng 8 năm 1883, triều đình Huế buộc phải ký với Pháp Hiệp ước Harmand. Theo điều 6 và 7 của Hiệp ước này, ngoài việc yêu cầu mở cửa Đà Nẵng để thông thương còn quy định rằng Pháp sẽ được phép lập các khu nhượng địa ở đây.", "Ngày 17 tháng 8 năm 1887, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh thành lập ba thành phố ở Việt Nam là Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng. Ngày 3 tháng 9 năm 1887, Vua Đồng Khánh buộc phải ký một đạo dụ gồm 3 khoản quy định rõ \"...Đà Nẵng được chính phủ Đại Nam kiến lập thành nhượng địa Pháp và nhượng trọn quyền cho chính phủ Pháp, và chính phủ Đại Nam từ bỏ mọi quyền hành trên lãnh thổ đó\". Theo phụ đính của đạo dụ này, năm xã của huyện Hòa Vang gồm Hải Châu, Phước Ninh, Thạch Thang, Nam Dương và Nại Hiên Tây nằm bên tả ngạn sông Hàn được cắt giao cho Pháp để lập \"nhượng địa\" Tourane với diện tích 10.000 ha. Ngày 24 tháng 5 năm 1889, Toàn quyền Đông Dương Étienne Richaud ra nghị định thành lập thành phố Đà Nẵng thuộc tỉnh Quảng Nam. Đà Nẵng là thành phố loại 2, tương tự như thành phố Chợ Lớn thành lập trước đó. Đơn vị hành chính này chịu sự cai quản trực tiếp của Toàn quyền Đông Dương thay vì triều đình Huế. Đứng đầu thành phố là một viên Đốc lý do Khâm sứ đề nghị và Toàn quyền bổ nhiệm. Ngày 15 tháng 1 năm 1901, dưới sức ép của Pháp, Vua Thành Thái buộc phải ký một đạo dụ nới rộng nhượng địa Đà Nẵng thêm 14 xã, cụ thể là thêm 8 xã thuộc huyện Hòa Vang bên tả ngạn sông Hàn và 6 xã thuộc huyện Diên Phước bên hữu ngạn sông Hàn. Ngày 19 tháng 9 năm 1905, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định tách Đà Nẵng khỏi tỉnh Quảng Nam để trở thành một đơn vị hành chính độc lập gồm 19 xã. Như vậy vào đầu thế kỷ XX, thành phố Tourane/Đà Nẵng đã vươn về phía tây và tây bắc, còn phía đông thì đã vượt sang hữu ngạn sông Hàn chiếm trọn bán đảo Sơn Trà.", "Đầu thế kỷ XX, Tourane được Pháp xây dựng trở thành một đô thị theo kiểu Tây phương. Cơ sở hạ tầng xã hội, kỹ thuật sản xuất được đầu tư. Sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, chế biến hàng xuất khẩu, sửa chữa tàu thuyền, kinh doanh dịch vụ được hình thành và phát triển; cùng với Hải Phòng và Sài Gòn, Tourane trở thành trung tâm thương mại quan trọng. Cảng Đà Nẵng đã tương đối hoàn chỉnh và đi vào hoạt động từ giai đoạn 1933-1935. Sân bay dân dụng cũng được nhà cầm quyền sớm xây dựng vào năm 1926. Hầu hết các công ty lớn nhất hoạt động ở Đông Dương đều hiện diện ở Đà Nẵng. Dân số thành phố tăng lên nhanh chóng; năm 1936, Đà Nẵng có 25.000 người; năm 1945 có khoảng 30.000 người.", "Trong thời gian này, người Pháp vẫn tiếp tục quản lý quần đảo Hoàng Sa. Ngày 8 tháng 3 năm 1925, Toàn quyền Đông Dương tuyên bố quần đảo Hoàng Sa (và Quần đảo Trường Sa) là lãnh thổ của Pháp. Từ năm 1925, Viện Hải dương học và Nghề cá Nha Trang đã thực hiện các cuộc khảo sát ở Hoàng Sa. Năm 1938, Pháp bắt đầu phái các đơn vị bảo an tới các đảo và tiến hành dựng bia chủ quyền, hải đăng, trạm vô tuyến, trạm khí tượng trên đảo Hoàng Sa cùng một trạm khí tượng nữa trên đảo Phú Lâm. Ngày 15 tháng 6 năm 1938, Toàn quyền Đông Dương Jules Brévié thành lập \"đại lý hành chính\" ở quần đảo Hoàng Sa. Tháng 6 năm 1938, một đơn vị lính bảo an Việt Nam được phái ra đồn trú Hoàng Sa.", "Thời Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa.", "Năm 1949, Pháp trao trả Đà Nẵng cho chính phủ Quốc gia Việt Nam dưới thời Quốc trưởng Bảo Đại. Từ tháng 6 năm 1954, chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành phân chia lại địa giới hành chính. Lúc này, Đà Nẵng trực thuộc tỉnh Quảng Nam. Tháng 9 năm 1955, chính quyền Việt Nam Cộng hòa giải thể thành phố Tourane để thành lập thành phố Đà Nẵng trực thuộc trung ương. Như vậy thành phố Đà Nẵng là một trong 15 tỉnh thành của Nam Phần được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa thiết lập theo Sắc lệnh 153-NV ngày 22 tháng 9 năm 1955. Đến ngày 31 tháng 7 năm 1962, tỉnh Quảng Nam được tách thành hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín. Đồng thời, thị xã Đà Nẵng thuộc tỉnh Quảng Nam sáp nhập vào Đà Nẵng trực thuộc trung ương. Vào những năm 1954-1955, dân số Đà Nẵng có khoảng hơn 50.000 người.", "Trong khi đó cuộc Chiến tranh Việt Nam ngày càng gia tăng. Tháng 3 năm 1965 các đơn vị thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng và thiết lập ở đây một căn cứ quân sự hỗn hợp lớn. Sân bay Đà Nẵng được coi là một trong những sân bay \"tấp nập\" nhất trong chiến tranh. Năm 1967, Đà Nẵng được chính quyền Việt Nam Cộng hòa ấn định trực thuộc trung ương và xác định mục tiêu xây dựng Đà Nẵng thành trung tâm chính trị, quân sự, văn hóa cho vùng I và II chiến thuật. Mỹ cho xây dựng ở Đà Nẵng các căn cứ quân sự và kết cấu hạ tầng phục vụ cho mục đích quân sự như sân bay, cảng, kho bãi, cơ sở thông tin liên lạc...", "Năm 1973, khi quân Mỹ rút khỏi Việt Nam theo hiệp định Paris, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã cho phân chia lại địa giới hành chính Đà Nẵng, giữ nguyên 3 quận như cũ, chỉ sáp nhập 28 khu phố bên dưới cấp quận thành 19 phường. Thành phố Đà Nẵng được đặt dưới quyền điều hành của Hội đồng thị xã gồm 12 ủy viên và do một Thị trưởng đứng đầu. Do chính sách đô thị hoá, dân số Đà Nẵng ngày càng tăng nhanh. Dân số thành phố từ mức 148.599 người vào năm 1964 tăng lên tới gần 500.000 người vào năm 1975.", "Dưới thời Việt Nam Cộng hòa, Đà Nẵng là đô thị lớn thứ hai miền Nam. Tính đến trước sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, cảng Đà Nẵng là nơi cung cấp hàng hóa cho cả vùng I chiến thuật, đồng thời là trung tâm tiếp tế cho gần 3 triệu dân miền Nam. Toàn thị xã khi đó có hàng chục công ty kinh doanh xuất nhập khẩu. Người dân Đà Nẵng chủ yếu sống bằng nghề buôn bán.", "Sau Hiệp định Genève, quần đảo Hoàng Sa được giao cho chính quyền Quốc gia Việt Nam quản lý. Ngày 13 tháng 7 năm 1961, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh 174-NV quy thuộc quần đảo này vào tỉnh Quảng Nam và thiết lập tại đó một đơn vị hành chính lấy tên là xã Định Hải thuộc quận Hòa Vang. Tuy nhiên trên thực tế là từ tháng 2 năm 1956, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (tức Trung Quốc) đã chiếm quyền kiểm soát đảo Phú Lâm ở nhóm đảo An Vĩnh (phần phía đông của quần đảo). Phần kiểm soát của Việt Nam Cộng hòa chỉ giới hạn ở nhóm đảo Lưỡi Liềm (mà họ còn gọi là nhóm Nguyệt Thiềm, là phần phía tây của quần đảo) với năm đảo san hô là Hoàng Sa, Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Ảnh và Quang Hòa. Đến ngày 19 tháng 1 năm 1974, hải chiến Hoàng Sa diễn ra và Việt Nam Cộng hòa đánh mất hoàn toàn nhóm Nguyệt Thiềm này.", "Từ 1975 đến nay.", "Tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng.", "Sau khi hòa bình lập lại, Đà Nẵng là thành phố thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, gồm 28 phường: An Hải Bắc, An Hải Đông, An Hải Tây, An Khê, Bắc Mỹ An, Bình Hiên, Bình Thuận, Chính Gián, Hải Châu I, Hải Châu II, Hòa Cường, Hòa Thuận, Khuê Trung, Mân Thái, Nại Hiên Đông, Nam Dương, Phước Mỹ, Phước Ninh, Tam Thuận, Tân Chính, Thạc Gián, Thạch Thang, Thanh Bình, Thanh Lộc Đán, Thọ Quang, Thuận Phước, Vĩnh Trung, Xuân Hà. Ngày 5 tháng 5 năm 1990, Đà Nẵng được công nhận là đô thị loại 2.", "Trở thành Thành phố trực thuộc Trung ương.", "Vấn đề đưa Đà Nẵng trở thành thành phố trực thuộc Trung ương được đề cập đến bắt đầu từ Đại hội lần thứ IV của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng diễn ra vào ngày 8 tháng 5 năm 1989, trong đó Đại hội thống nhất kiến nghị với Trung ương và Tỉnh ủy Quảng Nam – Đà Nẵng cần có một cơ chế hợp lý cho thành phố Đà Nẵng, cho thành phố Đà Nẵng được trực thuộc trung ương, nếu chưa đủ điều kiện thì cho Đà Nẵng được trở thành Đặc khu kinh tế Đà Nẵng.", "Sau đó, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng lần thứ XV diễn ra từ ngày 16 tháng 10 năm 1991 đến ngày 19 tháng 10 năm 1991, đặc biệt Đại hội đã chính thức đưa ra bàn bạc, thảo luận đề nghị Trung ương cho tách Đà Nẵng thành thành phố trực thuộc Trung ương, nếu chưa cho tách thì cho quy chế riêng để xây dựng Đà Nẵng thành một Đặc khu kinh tế của duyên hải Miền Trung hoặc Khu kinh tế mở nhằm tạo điều kiện cho Đà Nẵng phát triển mạnh mẽ, đồng thời để Trung ương quan tâm nhiều hơn đến Quảng Nam.", "Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng lần thứ XVI diễn ra từ ngày 23 tháng 4 năm 1996 đến ngày 27 tháng 4 năm 1996, đã kiến nghị chia tách tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương là Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam. Ngày 8 tháng 10 năm 1996, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam – Đà Nẵng Mai Thúc Lân nhận được Công điện 75/CCHC/TW của Trung ương có nêu rõ ngày 7 tháng 10 năm 1996, Bộ Chính trị đã có Thông báo số 06/TB-TW về việc nhất trí chia tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chính: Thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương và tỉnh Quảng Nam. Tỉnh ủy phải chỉ đạo hoàn tất thủ tục để kịp trình Quốc hội quyết định trong cuộc họp giữa tháng 10 này. Ngày 9 tháng 10 năm 1996, Thường trực Tỉnh ủy đã có cuộc họp liên tịch của Thường trực Hội đồng nhân dân, Thường trực Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, Đoàn đại biểu Quốc hội của tỉnh để bàn việc triển khai Công điện của Trung ương.", "Ngày 11 tháng 10 năm 1996, Hội nghị Tỉnh ủy Quảng Nam – Đà Nẵng đã nghe Ủy ban nhân dân tỉnh trình bày phương án được xem hợp lý nhất. Ngày 12 tháng 10 năm 1996, Hội đồng nhân dân tỉnh đã họp để thảo luận và biểu quyết phương án chia tách. Hội đồng nhân dân tỉnh đã thống nhất chọn phương án Thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương được hình thành từ ba đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng gồm thành phố tỉnh lỵ \"Đà Nẵng ba khu vực\", huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa đồng thời nhất trí lấy thị xã Tam Kỳ làm tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Nam.", "Ngày 6 tháng 11 năm 1996, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX đã thông qua nghị quyết cho phép tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng tách thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng trực thuộc trung ương. Về địa giới hành chính, thành phố Đà Nẵng mới bao gồm thành phố Đà Nẵng trước đây cộng với huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa. Trên thực tế thì quần đảo Hoàng Sa đang nằm dưới sự kiểm soát của Trung Quốc và Ủy ban Nhân dân huyện đảo Hoàng Sa trực thuộc Sở Nội vụ thành phố Đà Nẵng. Ngày 1 tháng 1 năm 1997, Đà Nẵng chính thức trở thành thành phố trực thuộc trung ương. Ngày 23 tháng 1 năm 1997, 5 quận Hải Châu, Liên Chiểu, Ngũ Hành Sơn, Sơn Trà, Thanh Khê được thành lập. Ngày 15 tháng 7 năm 2003, Đà Nẵng được công nhận là đô thị loại I và trở thành đô thị loại I trực thuộc trung ương thứ hai của cả nước (sau Hải Phòng). Năm 2005, một phần huyện Hòa Vang (các xã Hòa Thọ, Hòa Phát và Hòa Xuân) và quận Hải Châu (phường Khuê Trung) được tách ra và thành lập nên quận mới là quận Cẩm Lệ. Từ đó, thành phố Đà Nẵng có 6 quận và 2 huyện.", "Sau khi trở thành thành phố trực thuộc trung ương, Đà Nẵng luôn đạt tốc độ tăng trưởng GDP cao hơn bình quân chung của Việt Nam, nhanh chóng cân đối được ngân sách và có đóng góp cho ngân sách trung ương trong thời gian đầu chia tách.", "Với tư cách kế thừa quyền sở hữu các quần đảo từ các chính quyền trước, Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã liên tục đưa ra những tuyên bố khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa. Năm 1994, Quốc hội Việt Nam phê chuẩn Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 và khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội Việt Nam tách huyện Hoàng Sa khỏi tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng và sáp nhập vào thành phố Đà Nẵng. Huyện Hoàng Sa được xác định có diện tích 305 km², với địa giới bao gồm một quần đảo có tên gọi là Hoàng Sa nằm cách đất liền khoảng 170 hải lý (315 km). Cuối tháng 6 năm 2012, Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Biển Việt Nam. Điều 1 đã khẳng định lại tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Ngày 4 tháng 7 năm 2012, kỳ họp thứ 4 Hội đồng Nhân dân thành phố Đà Nẵng khóa VIII nhiệm kỳ 2011-2016 đã thông qua Nghị quyết phản đối Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa.", "Địa lý.", "Vị trí địa lý.", "Tọa độ phần đất liền của thành phố Đà Nẵng từ 15°15' đến 16°40' vĩ độ Bắc và từ 107°17' đến 108°20' kinh độ Đông. Nằm ở trung độ của Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội 766 km về phía Bắc và cách Thành phố Hồ Chí Minh 961 km về phía Nam theo Quốc lộ 1. Diện tích khoảng 1285,4 km2.", "Thành phố Đà Nẵng còn là trung tâm của ba di sản văn hóa thế giới gồm cố đô Huế, phố cổ Hội An và thánh địa Mỹ Sơn. Thành phố Đà Nẵng nằm trên trục giao thông Bắc - Nam về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không, là một trong những cửa ngõ quan trọng ra biển của Tây Nguyên và các nước Lào, đông bắc Campuchia, Thái Lan và Myanma. Khoảng cách từ Đà Nẵng đến các trung tâm kinh tế chính của khu vực Đông Nam Á như Bangkok (Thái Lan), Kuala Lumpur (Malaysia), Singapore, Manila (Philippines) đều nằm trong khoảng 1.000–2.000 km.", "Các điểm cực của thành phố Đà Nẵng:.", "Ngoài phần đất liền, vùng biển của thành phố gồm quần đảo Hoàng Sa (khu vực đang bị chiếm đóng trái phép bởi Trung Quốc) nằm ở 15°45' đến 17°15' vĩ độ Bắc, 111° đến 113° kinh độ Đông, ngang bờ biển các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam và một phần tỉnh Quảng Ngãi; cách đảo Lý Sơn (thuộc tỉnh Quảng Ngãi) khoảng 120 hải lý. Khu vực quần đảo nằm trên vùng biển rộng khoảng 30.000 km². Tổng diện tích phần nổi của quần đảo khoảng 10 km², trong đó đảo Phú Lâm chiếm diện tích lớn nhất (nguồn Việt Nam: khoảng 1,5 km², nguồn Trung Quốc: 2,1 km²).", "Hoàng Sa án ngữ đường hàng hải quốc tế huyết mạch từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương. Vùng biển này có tiềm năng lớn về khoáng sản, hải sản, có thuận lợi để phát triển kinh tế nhưng quan trọng hơn đây là vị trí quân sự chiến lược, khống chế đường giao thông trên biển và trên không trong khu vực phía Bắc biển Đông.", "Bốn điểm cực của quần đảo Hoàng Sa là:", "Điều kiện tự nhiên.", "Thành phố Đà Nẵng có địa hình, thiên nhiên đa dạng, có biển, bán đảo, vùng vịnh, đồi núi, sông, suối, đồng bằng phân bố trong lòng thành phố đóng góp vào phát triển kinh tế, du lịch.", "Địa hình.", "Về mặt địa chất, Đà Nẵng nằm ở rìa của miền uốn nếp Paleozoi được biết đến với tên gọi Đới tạo núi Trường Sơn - nơi mà những biến dạng chính đã xảy ra trong kỷ Than đá sớm. Cấu trúc địa chất khu vực Đà Nẵng gồm có năm đơn vị địa tầng chủ yếu, lần lượt từ dưới lên là: hệ tầng A Vương, hệ tầng Long Đại, hệ tầng Tân Lâm, hệ tầng Ngũ Hành Sơn và trầm tích Đệ Tứ. Trong đó các hệ tầng A Vương, Long Đại, Tân Lâm có thành phần thạch học chủ yếu là đá phiến và sa thạch. Hệ tầng Ngũ Hành Sơn chủ yếu là đá vôi hoa hóa màu xám trắng. Trầm tích Đệ Tứ bao gồm các thành tạo sông, sông - biển, biển, biển - đầm lầy có tuổi từ Pleistocen sớm đến Holocen muộn, chủ yếu là cát, cuội, sỏi, cát pha, sét pha... Vỏ Trái Đất tại lãnh thổ thành phố Đà Nẵng bị nhiều hệ thống đứt gãy theo phương gần á vĩ tuyến và phương kinh tuyến chia cắt, làm giảm tính liên tục của đá, giảm độ bền của chúng, nhất là tạo nên các đới nứt nẻ tăng cao độ chứa nước. Đây là hiểm họa trong khi xây dựng các công trình.", "Địa hình thành phố Đà Nẵng vừa có đồng bằng duyên hải, vừa có đồi núi. Vùng núi cao và dốc tập trung ở phía tây và tây bắc, từ đây có nhiều dãy núi chạy dài ra biển, một số đồi thấp xen kẽ vùng đồng bằng ven biển hẹp. Địa hình đồi núi chiếm diện tích lớn, độ cao khoảng từ 700 - 1.500 m, độ dốc lớn (>40o), là nơi tập trung nhiều rừng đầu nguồn và có ý nghĩa bảo vệ môi trường sinh thái của thành phố. Đồng bằng ven biển là vùng đất thấp chịu ảnh hưởng của biển bị nhiễm mặn, là vùng tập trung nhiều cơ sở nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, quân sự, đất ở và các khu chức năng của thành phố. Ở khu vực cửa sông Hàn và sông Cu Đê địa hình đáy biển bị phức tạp và tạo ra một số bãi cạn, trũng ngầm (lòng sông). Khu vực cửa vịnh ra ngoài khơi địa hình nhìn chung là nghiêng thoải về phía đông bắc. Khoảng cách các đường đẳng sâu khá đều đặn.", "Hải đảo.", "Quần đảo Hoàng Sa (Việt Nam) gồm hai cụm đảo chính là Cụm đảo Lưỡi Liềm ở phía tây và Cụm đảo An Vĩnh ở phía đông. Cụm đảo Lưỡi Liềm nằm về phía tây, có hình cánh cung hay lưỡi liềm, bao gồm các đảo là Hoàng Sa, Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Ảnh, Quang Hòa, Bạch Quy, Tri Tôn cùng các mỏm đá, bãi ngầm. Cụm đảo An Vĩnh nằm về phía đông bao gồm các đảo tương đối lớn của quần đảo Hoàng Sa và cũng là các đảo san hô lớn nhất của biển Đông như đảo Phú Lâm, đảo Cây, đảo Linh Côn, đảo Trung, đảo Bắc, đảo Nam và cồn cát Tây. Nhiều thực thể trong quần đảo biểu hiện dạng vành khuyên cổ của các rạn san hô vòng Thái Bình Dương, vốn dĩ là kết quả phát triển của san hô cộng với sự lún chìm của vỏ Trái Đất. Hình thái địa hình các đảo tương đối đơn giản nhưng mang đậm bản sắc của địa hình ám tiêu san hô vùng nhiệt đới có cấu tạo ba phần khác nhau đó là phần đảo nổi, hành lang bãi triều (thềm san hô) bao quanh đảo và sườn bờ ngầm dốc đứng. Đa số các đảo nổi có độ cao dưới 10 m.", "Khí hậu.", "Thành phố Đà Nẵng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình, nhiệt độ cao và ít biến động. Khí hậu Đà Nẵng là nơi chuyển tiếp đan xen giữa khí hậu cận nhiệt đới ở miền Bắc và nhiệt đới xavan ở miền Nam, với tính trội là khí hậu nhiệt đới ở phía Nam. Mỗi năm có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12 và mùa khô từ tháng 1 đến tháng 8, thỉnh thoảng có những đợt rét mùa đông nhưng không đậm và không kéo dài.", "Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 25,8 °C; cao nhất vào các tháng 6, 7, 8, trung bình 28-30 °C; thấp nhất vào các tháng 12, 1, 2, trung bình 18-23 °C. Riêng vùng rừng núi Bà Nà ở độ cao gần 1.500 m, nhiệt độ trung bình khoảng 20 °C. Độ ẩm không khí trung bình là 83,4%. Lượng mưa trung bình hàng năm là 2.153 mm; lượng mưa cao nhất vào các tháng 9, 10, 11, trung bình 465 mm/tháng; thấp nhất vào các tháng 2, 3, 4, trung bình 27 mm/tháng. Số giờ nắng bình quân trong năm là 2.182 giờ; nhiều nhất là vào tháng 5, 6, 7, trung bình 246 giờ/tháng; ít nhất là vào tháng 11, 12, 1, trung bình 121 giờ/tháng. Mỗi năm Đà Nẵng chịu ảnh hưởng trực tiếp từ một đến hai cơn bão hoặc áp thấp nhiệt đới. Năm 2006, Đà Nẵng chịu ảnh hưởng của bão Xangsane - cơn bão mạnh nhất đổ bộ vào Đà Nẵng trong 100 năm qua, gây thiệt hại nặng nề cho thành phố.", "Thời gian nắng ở quần đảo Hoàng Sa dao động trong khoảng từ 2.300 đến 2.500 giờ/năm. Nhiệt độ không khí tối thấp trung bình ở vùng biển quần đảo là 22-24 °C trong tháng 1, tăng dần và đạt cực đại trung bình 28.5-29 °C trong tháng 6 và tháng 7. Chế độ gió vùng quần đảo Hoàng Sa phức tạp và thể hiện ảnh hưởng của địa hình lục địa Việt Nam và Trung Quốc. Gió tây nam chiếm ưu thế vào mùa hè; gió đông bắc chiếm ưu thế trong mùa đông. Lượng mưa trung bình năm ở Hoàng Sa là khoảng 1.300-1.700 mm. Độ ẩm tương đối trung bình 80-85% và hầu như không biến động nhiều theo mùa.", "Thủy văn.", "Hệ thống sông ngòi ngắn và dốc, bắt nguồn từ phía tây, tây bắc và tỉnh Quảng Nam. Có hai sông chính là sông Hàn với chiều dài khoảng 204 km, tổng diện tích lưu vực khoảng 5.180 km² và sông Cu Đê với chiều dài khoảng 38 km, lưu vực khoảng 426 km². Ngoài ra, trên địa bàn thành phố còn có các sông khác: sông Yên, sông Chu Bái, sông Vĩnh Điện, sông Túy Loan, sông Phú Lộc... Các sông đều có hai mùa: mùa cạn từ tháng 1 đến tháng 8 và mùa lũ từ tháng 9 đến tháng 12. Thành phố còn có hơn 546 ha mặt nước có khả năng nuôi trồng thủy sản.", "Nước ngầm của vùng Đà Nẵng khá đa dạng, các khu vực có triển vọng khai thác là nguồn nước ngầm tệp đá vôi Hòa Hải – Hòa Quý ở chiều sâu tầng chứa nước 50–60 m; khu Khánh Hòa có nguồn nước ở độ sâu 30–90 m; các khu khác đang được thăm dò. Đầu năm 2013, do các công trình thủy điện đầu nguồn tích nước không xả nước về vùng đồng bằng, vùng xuôi khiến cho người dân Đà Nẵng phải đối mặt với việc thiếu nước sinh hoạt và nguồn nước tưới tiêu cho cây trồng. Bên cạnh đó thành phố cũng phải đối phó với tình trạng nguồn nước bị nhiễm mặn hàng năm.", "Vùng biển Đà Nẵng có chế độ thủy triều thuộc chế độ bán nhật triều không đều. Hầu hết các ngày trong tháng đều có hai lần nước lên và hai lần nước xuống, độ lớn triều tại Đà Nẵng khoảng trên dưới 1 m. Dòng chảy ở vùng biển gần bờ có hướng chủ đạo là hướng đông nam với tốc độ trung bình khoảng 20–25 cm/s. Khu vực gần bờ có tốc độ lớn hơn so với khu vực ngoài khơi một chút.", "Môi trường.", "Quá trình mở rộng không gian đô thị, xây dựng cơ sở hạ tầng, khai thác tài nguyên đất và sự phát triển nhanh của ngành công nghiệp, du lịch của địa phương đã gây nên những tác động đến môi trường không khí, môi trường sinh thái và đa dạng sinh học của thành phố. Năm 2010, tổng lượng nước thải công nghiệp khoảng 6.835 m³/ngày. Các dự án lấn biển như Khu Đô thị Đa Phước, Khu Dịch vụ Thủy sản Thọ Quang, Khu Dịch vụ Hậu cần Cảng Đà Nẵng... có nguy cơ tác động đến môi trường, hệ sinh thái vùng bờ Đà Nẵng. Kết quả điều tra năm 2006 cho thấy diện tích san hô khu vực ven biển Đà Nẵng không có khả năng phục hồi là 81%. Năm 2012, Khu Dịch vụ Thủy sản Thọ Quang là điểm nóng nhất về ô nhiễm môi trường trên địa bàn thành phố. Chất lượng nước ở các con sông cũng có vấn đề, đặc biệt là vùng hạ lưu, các sông đều bị ô nhiễm bởi một lượng khá lớn coliform, BOD5, COD và các chất khác. Trong nội ô thành phố Đà Nẵng, lượng bụi, lưu huỳnh điôxit, tiếng ồn, hóa chất độc hại đều vượt tiêu chuẩn cho phép.", "Trước tình trạng ô nhiễm môi trường, vào tháng 10 năm 2008, thành phố Đà Nẵng đã phê duyệt đề án \"Xây dựng Đà Nẵng - Thành phố môi trường\". Đề án được xây dựng trên tiêu chí đến năm 2020, các yêu cầu về chất lượng môi trường đất, chất lượng môi trường nước, chất lượng môi trường không khí trên toàn thành phố được đảm bảo, tạo sự an toàn về sức khỏe và môi trường cho người dân, các nhà đầu tư, cho du khách trong và ngoài nước khi đến với Đà Nẵng.", "Quy hoạch và kiến trúc đô thị.", "Đà Nẵng khi mới hình thành theo quy hoạch của người Pháp được chia thành hai khu vực rõ rệt. Khu người Pháp (\"quartier français\") nằm ở trung tâm thành phố, chiều dọc từ đầu Quai Coubert (nay là đường Bạch Đằng) đến ngã ba Quai Coubert – Đồng Khánh (nay là Hùng Vương), chiều ngang đến đường Marc Pourpre (Lê Lợi). Khu bản xứ (\"quartier indigène\") là nơi người Việt sinh sống gồm phần lớn diện tích còn lại của thành phố. Nếu như khu người Pháp có đại lộ tráng nhựa và đường dành cho đi dạo rợp bóng cây thì khu người bản xứ lại là một khu chen lẫn giữa nhà cửa lụp xụp và nhà khá giả, đường nhựa và đường rải đá, đường đất. Quai Courbet giữ vai trò là đường xương sống của Tourane thời Pháp thuộc, chạy từ bắc xuống nam dọc theo tả ngạn sông Hàn. Dọc theo đường này có nhiều công trình kiến trúc từ thời Pháp thuộc, cũng là điểm xuất phát để từ đó người Pháp mở rộng thành phố về hướng tây và hình thành những đường phố có khoảng cách gần như đều nhau. Tuy nhiên, Pháp chỉ chú ý đầu tư xây dựng bên tả ngạn.", "Sau năm 1975, thành phố Đà Nẵng đã đầu tư cho quy hoạch đôi bờ sông Hàn với những công viên, đường đi dạo dọc hai bờ sông, nhiều cây cầu tiếp nhau nối liền hai bờ đông tây. Sông Hàn trở thành \"chiếc ban công\" thể hiện bộ mặt đô thị Đà Nẵng. Các dự án bất động sản hàng trăm triệu đô la Mỹ được đầu tư xây dựng hai bên sông Hàn, đặc biệt trong khu vực trung tâm với các công trình quy mô rất lớn tạo điểm nhấn cho thành phố. Tòa nhà Trung tâm Hành chính Thành phố cao 167m với 34 tầng là tòa nhà trung tâm hành chính cao nhất Việt Nam. Hiện nay tòa nhà cao nhất Đà Nẵng (và cũng là cao nhất miền Trung) là tòa nhà Wyndham Soleil Đà Nẵng D cao 180m với 50 tầng (đã xây xong phần thô, đang trong quá trình hoàn thiện đưa vào sử dụng cuối năm 2020). Tính đến năm 2019, Đà Nẵng có hơn 140 tòa nhà cao trên 12 tầng, trong đó có 40 tòa nhà cao trên 100m, 2 tòa nhà cao trên 200m. Cầu Rồng với hệ thống phun nước, phun lửa được xem là con rồng thép lớn nhất thế giới. Không gian đô thị Đà Nẵng cũng được quy hoạch theo hướng hướng ra sông, ra biển để tạo không gian tốt cho kinh tế phát triển. Thành phố đã phát triển nhanh các đô thị mới quy mô 500 - 1.000 ha, hình thành các khu công nghiệp thân thiện môi trường và triển khai nhiều dự án bất động sản.", "Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 2357/QĐ-TTg năm 2013 phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung thành phố Đà Nẵng đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050. Mục tiêu phát triển Đà Nẵng thành thành phố cấp quốc gia, hiện đại; tầm nhìn đến năm 2050, xây dựng và phát triển Đà Nẵng trở thành thành phố đặc biệt cấp quốc gia, hướng tới đô thị cấp quốc tế và phát triển bền vững. Theo đồ án quy hoạch chung đến năm 2030, đồ án xác định đến năm 2030 dân số Đà Nẵng là 2,5 triệu người. Diện tích đất xây dựng đô thị sẽ phát triển tương ứng là 37.500 ha. Như vậy, so với hiện nay thì dân số và diện tích đất xây dựng đô thị sẽ tăng hơn 2,5 lần. Trong định hướng phát triển, thành phố Đà Nẵng sẽ mở rộng về các hướng tây bắc, nam và đông nam. Thành phố đặc biệt chú trọng đến việc quy hoạch trên nền tảng không gian xanh, thân thiện với môi trường. Cơ sở hạ tầng giao thông ngầm với các bãi đỗ xe ngầm và tàu điện ngầm cũng nằm trong mục tiêu quy hoạch của thành phố.", "Thương hiệu Đà Nẵng.", "Để chuẩn bị cho một cuộc bứt phá của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, những năm qua, Đà Nẵng đã nỗ lực cải thiện hình ảnh và vị thế của mình. Từ năm 2001, thành phố đề ra kế hoạch thực hiện chương trình \"Thành phố 5 không\": không hộ đói, không có người mù chữ, không có người lang thang xin ăn, không có người nghiện ma túy trong cộng đồng và không có cướp của, giết người. Sau kết quả ban đầu của chương trình \"Thành phố 5 không\", Đà Nẵng lại tiếp tục với chương trình \"Thành phố 3 có\": có nhà ở, có việc làm và có nếp sống văn hóa, văn minh đô thị.. Năm 2016, thành phố đề ra Chương trình \"Thành phố 4 an\": An ninh trật tự, an toàn giao thông, an toàn thực phẩm và an sinh xã hội. Các chương trình này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, góp phần thực hiện thành công công tác an sinh xã hội, xây dựng được nếp sống văn hóa văn minh đô thị, quản lý trật tự, an ninh, đã tạo thành mục tiêu để chính quyền thành phố phấn đấu và tạo được niềm tin đối với người dân. Các chương trình này đã tạo nên một thương hiệu riêng có của Đà Nẵng được cả nước, trung ương và bạn bè quốc tế thừa nhận và đánh giá cao.", "Chính quyền.", "Đảng bộ.", "Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng (hay thường gọi là Thành ủy Đà Nẵng) là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ thành phố giữa hai kỳ Đại hội Đảng bộ. Thành ủy Thành phố Đà Nẵng khóa XXII nhiệm kỳ 2020-2025 gồm 51 ủy viên, bầu ra Thường vụ Thành ủy gồm 14 thành viên. Đứng đầu Đảng ủy Thành phố là Bí thư Thành ủy do chính Thành ủy thành phố bầu ra hoặc do Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam phân công và chỉ định, là một Ủy viên Trung ương Đảng. Bí thư Thành ủy thành phố Đà Nẵng hiện tại là ông Nguyễn Văn Quảng.", "Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Thành phố nhiệm kỳ X (2014 - 2019) gồm 90 ủy viên, bầu ra Ban Thường trực UBMTTQ Thành phố gồm 13 người. Chủ tịch UBMTTQ đương nhiệm là ông Ngô Xuân Thắng, Ủy viên Thường vụ Thành ủy thành phố, Bí thư Đảng đoàn.", "Ngày 24 tháng 1 năm 2019, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã thay mặt Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ký ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Theo đó, Bộ Chính trị đồng ý nhiều chủ trương mang tính định hướng cho Đà Nẵng phát triển trong giai đoạn mới và cần có cơ chế, chính sách đặc thù để xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng tạo động lực cho phát triển khu vực Miền Trung - Tây Nguyên và cả nước.", "Chính quyền đô thị.", "Thành phố Đà Nẵng là một trong năm thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam, được xếp vào đô thị loại I, thỏa mãn các tiêu chí như tỷ lệ lao động phi nông nghiệp khu vực nội thành (năm 2013) tối thiểu đạt 87,3% so với tổng số lao động, cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng đồng bộ và cơ bản hoàn chỉnh, cao nhất trong 5 thành phố trực thuộc Trung ương.", "Ngày 19 tháng 6 năm 2020, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Nghị quyết số 119/2020/QH14 về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng theo hướng tinh gọn bộ máy điều hành, cụ thể hóa Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24 tháng 1 năm 2019 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam với số phiếu tán thành cao với 92.13% tổng số đại biểu quốc hội tán thành, việc thí điểm chính quyền đô thị cho đến khi Quốc hội quyết định chấm dứt việc thực hiện. Mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Đà Nẵng khác hoàn toàn mô hình chính quyền nông thôn ở các tỉnh trên cả nước.", "Cũng như các tỉnh và thành phố khác của Việt Nam, Hội đồng Nhân dân thành phố Đà Nẵng là cơ quan quyền lực nhà nước ở thành phố do người dân thành phố trực tiếp bầu lên với nhiệm kỳ 5 năm. Hội đồng Nhân dân thành phố Đà Nẵng khóa IX nhiệm kỳ 2016–2021 gồm 49 đại biểu. Kỳ họp thứ nhất của Hội đồng Nhân dân thành phố ngày 16 tháng 6 năm 2016 đã bầu ra Thường trực Hội đồng Nhân dân gồm 7 người và bầu ra Chủ tịch Hội đồng Nhân dân (thường đồng thời là Bí thư Thành ủy thành phố). Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố hiện tại là ông Lương Nguyễn Minh Triết.", "Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Nẵng là cơ quan chấp hành của Hội đồng Nhân dân, do Hội đồng Nhân dân bầu ra và là cơ quan hành chính nhà nước ở thành phố, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, pháp luật, các văn bản của Chính phủ Việt Nam và các nghị quyết của Hội đồng Nhân dân thành phố. Ủy ban Nhân dân thành phố khóa IX (nhiệm kỳ 2016-2021) được Hội đồng Nhân dân thành phố bầu ra Chủ tịch và 4 Phó Chủ tịch. Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố đương nhiệm là ông Lê Trung Chinh.", "Cơ quan trung ương.", "Thành phố Đà Nẵng cũng là nơi đặt các văn phòng đại diện của các bộ, ban ngành của Chính phủ Việt Nam, các cơ quan của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam làm nhiệm vụ phụ trách khu vực Miền Trung - Tây Nguyên, nhiều thứ hai sau Thành phố Hồ Chí Minh:", "Và nhiều cơ quan đại diện khác.", "Hành chính.", "Thành phố Đà Nẵng có 8 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 6 quận và 2 huyện. Tổng diện tích thành phố là 1285,4 km², gồm 56 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 45 phường và 11 xã. Ngoại trừ quận Cẩm Lệ, năm quận còn lại của thành phố đều giáp biển.", "Kinh tế.", "Cơ cấu kinh tế.", "Sau ngày chiến tranh Việt Nam chấm dứt, cơ sở hạ tầng của Đà Nẵng còn lại gần như nguyên vẹn nhưng quy mô ngành công nghiệp vẫn nhỏ bé, đồng thời đất đai ven thành phố bị bỏ hoang. Trải qua kế hoạch năm năm 1976-1980, thành phố đạt được một số thành tựu như công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng bình quân 14,7%/năm, tổ chức khai hoang được 700 ha đất... Tổng kết kế hoạch năm năm 1981-1985 kế tiếp, sản lượng công nghiệp thành phố trong năm 1985 tăng 47% so với năm 1982; số thu ngân sách năm 1985 gấp 5,3 lần so với năm 1983. Tuy vậy, giai đoạn 1986-1990 chứng kiến khó khăn chung của cả nền kinh tế, trong đó có kinh tế Đà Nẵng. Giá trị sản xuất công nghiệp bị sụt giảm, năm 1990 chỉ bằng 95,5% so với năm 1985; một số cơ sở phải dừng hoạt động hoặc giải thể; số lượng xí nghiệp quốc doanh sụt giảm từ 64 xuống còn 59. Từ sau năm 1991, kinh tế thành phố dần đi vào ổn định và tăng trưởng. Bình quân tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1991-1998 là 15,6%/năm, cao hơn trung bình của cả nước. Sau khi trở thành thành phố trực thuộc trung ương, GDP bình quân giai đoạn 1997-8/2000 tăng 9,66%/năm; tỉ lệ đói nghèo giảm từ 8,79% của năm 1997 xuống còn hơn 2% vào năm 2000. Năm 2003, Đà Nẵng chiếm 1,5% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của toàn Việt Nam, tăng so với mức 1,31% của năm 1996 (năm cuối cùng còn thuộc tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng). Từ năm 2015-2020, Đà Nẵng đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 6,5 - 7%/năm. Tổng sản phẩm nội địa theo giá hiện hành (GRDP) trên địa bàn năm 2019 là 112.000 tỷ đồng tương đương 4,9 tỷ USD, xếp thứ 14 cả nước. GRDP bình quân đầu người năm 2019 đạt 95,7 triệu đồng tương đương với 4.117 USD. Tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 6,47%, xếp thứ 60 cả nước. Tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt gần 106.600 tỷ đồng.", "Lực lượng lao động của thành phố năm 2005 là 386.487 người đến năm 2010 đã tăng lên 462.980 người, chiếm 49,14% dân số. Đây là nguồn cung đảm bảo cho nền kinh tế phát triển, nhất là chất lượng lao động ngày một tăng; tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 37% năm 2005 tăng lên 50% năm 2010, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề tăng từ 25,5% năm 2005 lên 37% năm 2010. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2019 đạt gần 2,988 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 1,623 tỷ đồng, kim ngạch nhập khẩu đạt 1,365 tỷ đồng. Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn năm 2019 ước đạt hơn 39.712 tỷ đồng, tăng 2.84% so với năm 2018. Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2019 là hơn 28.170 tỷ đồng, trong đó thu nội địa đạt 24.420 tỷ đồng", "Năm 2019, kinh tế thành phố chỉ tăng 6,47% (mức tăng thấp nhất trong 7 năm trở lại đây). Vì vậy, Đà Nẵng là địa phương có tốc độ tăng GRDP thấp nhất trong 5 thành phố trực thuộc trung ương. Tỉ lệ vốn đầu tư trên GRDP đang dần thu hẹp, năm 2019 chỉ đạt 36,4%, thấp nhất trong giai đoạn 2016-2019.Vốn đầu tư thực hiện năm 2019 ước đạt 39.712 tỷ đồng tăng 2,84% so với 2018. Tổng thu ngân sách Nhà nước ước đạt 28.170 tỷ đồng, tăng 3,5% so với 2018. Tổng chi ngân sách đạt 24.372 tỷ đồng, tăng 30,25% so với 2018. Đến cuối tháng 12, tổng nguồn vốn huy động ước đạt 131.500 tỷ đồng, tăng 4,6% so với cùng kỳ, tổng dư nợ cho vay các thành phần kinh tế ước đạt 175.000 tỷ đồng, tăng 17% so với cùng kỳ. Thu nhập bình quân đầu người năm 2019 sơ bộ 6,057 triệu VN đồng / tháng, xếp 4/63 tỉnh thành cả nước. Tổng sản phẩm xã hội (GRDP) năm 2020 tại Đà Nẵng ước đạt 101.233 tỷ đồng, giảm 9,77% so với cùng kỳ năm 2019. GRDP bình quân đầu người ước đạt 87,16 triệu đồng, giảm 10,2% cùng kỳ. Trước khi chịu tác động xấu của Covid -19, trong giai đoạn 2016-2019 tổng sản phẩm xã hội trên địa bàn ước tăng 7,5%/năm, gấp 1,5 lần năm 2015; Tổng sản phẩm xã hội bình quân đầu người ước đạt hơn 95 triệu đồng (tương đương gần 4.100 USD) (Báo cáo Chính trị tại đại hội Đảng bộ thành phố khóa XXII).", "Thành phố Đà Nẵng có nền kinh tế khá đa dạng bao gồm cả công nghiệp, nông nghiệp cho tới dịch vụ, du lịch, thương mại, trong đó dịch vụ, du lịch chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nền kinh tế thành phố. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành dịch vụ, công nghiệp và giảm tỷ trọng nông nghiệp. Tỷ trọng nhóm ngành dịch vụ trong GDP năm 2019 là 57%, công nghiệp - xây dựng là 41% và nông nghiệp là 2%. Đến năm 2020, ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng trong GDP từ 62-65%, công nghiệp-xây dựng 35-37%, nông nghiệp 1-3%. Thành phố Đà Nẵng cũng là nơi đặt hội sở của Tập đoàn Sun Group được thành lập năm 2007 và hiện nay tập đoàn có nhiều dự án lớn trên khắp các tỉnh thành của đất nước. Giá trị sản xuất của thủy sản so với Tổng giá trị sản xuất của Nông nghiệp – Lâm nghiệp – Thủy sản  là 53,8%. ", "Nông lâm ngư nghiệp.", "Dù là một thành phố trực thuộc trung ương , Đà Nẵng vẫn có 37.800 người làm việc trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp vào năm 2007. Họ đã sản xuất được 45.000 tấn gạo và 41.000 tấn cá. Tuy nhiên, việc làm trong các ngành này đã giảm đáng kể trong thập kỷ đầu của thế kỷ 21. Sản lượng sản phẩm cũng đã giảm xuống trong nửa sau của thập kỷ. Nguyên nhân chính là do Đà Nẵng không có đủ đất để trồng cây, nuôi thú hoặc cá (tổng diện tích chỉ có 9200ha vào năm 2007) và vì nằm ở bên bờ biển, nên việc đánh bắt cá đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế hơn là nông nghiệp, với sản lượng gấp đôi nông nghiệp.", "Công nghiệp.", "Quy mô.", "Ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng bình quân 20%/năm. Thủy sản, dệt may, da giày, cao su... là những lĩnh vực mũi nhọn được tập trung phát triển. Bên cạnh đó, thành phố Đà Nẵng còn chú tâm đến ngành Công nghệ thông tin (Công viên Phần mềm Đà Nẵng, Khu đô thị Công nghệ FPT Đà Nẵng, Khu Công nghệ cao Quốc gia Đà Nẵng), ngành công nghệ sinh học (Trung tâm Công nghệ Sinh học Đà Nẵng). Đà Nẵng còn chủ trương ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp sạch phục vụ mục tiêu \"Xây dựng Đà Nẵng – Thành phố môi trường\". Năm 2008, chính quyền thành phố đã từ chối hai dự án FDI sản xuất thép và giấy với tổng vốn đăng ký lên đến 2,5 tỷ đô la Mỹ. Thành phố đề ra mục tiêu trở thành một trong những địa phương đi đầu trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa của Việt Nam, trở thành thành phố công nghiệp trước năm 2020.", "Khu công nghệ cao Đà Nẵng với số vốn đầu tư ban đầu 8.156 tỷ đồng là một trong ba khu công nghiệp công nghệ cao trên cả nước, cùng với Khu công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh và Khu Công nghệ cao Hoà Lạc. Đến nay, Khu công nghệ cao Đà Nẵng đã thu hút được một số dự án công nghiệp có vốn đầu tư lớn, như: Nhà máy sản xuất linh kiện hàng không vũ trụ Sunshine (Hoa Kỳ) hay Nhà máy sản xuất Robot và máy nén bụi khí Alton (Hoa Kỳ)... Dự kiến, đến năm 2030, Khu công nghệ cao Đà Nẵng sẽ đóng góp 25,5% vào cơ cấu GRDP của toàn thành phố, tạo ra việc làm cho hơn 10.000 lao động tay nghề cao và các chuyên gia, nhà khoa học.", "Nông nghiệp công nghệ cao.", "Sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao (CNC) là một trong 5 mũi nhọn phát triển kinh tế Đà Nẵng được nêu trong Nghị quyết 43 của Bộ Chính trị cần phải tập trung nguồn lực đầu tư. Theo đó, Đà Nẵng đã quy hoạch hạ tầng các dự án nông nghiệp CNC, dành quỹ đất và nhiều ưu đãi hấp dẫn để thu hút đầu tư vào lĩnh vực này.", "Logistic.", "Nghị quyết 43-NQ /TW của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã nêu rõ nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế của thành phố Đà Nẵng là \"trở thành một trung tâm kinh tế biển, hình thành chuỗi cung ứng dịch vụ logistics tại miền Trung với vai trò trung tâm của Đà Nẵng\".", "Thương mại.", "Về thương mại, thành phố Đà Nẵng có 30 trung tâm thương mại và siêu thị. Tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng 21,1%/năm. Thành phố Đà Nẵng hiện có hai chợ lớn nhất nằm ở trung tâm thành phố là Chợ Hàn và Chợ Cồn cùng những siêu thị lớn mới mở trong vòng vài năm trở lại đây như Metro, BigC, Vincom, Parkson, Lotte Mart, VV Mall, Indochina Riverside Mall, Soleil Mall, Bach Dang Complex, Golden Square, Co.opMart, Intimex, Viettronimex, Nguyễn Kim... Các thương hiệu F&B, thời trang lớn cũng dần xuất hiện tại Đà Nẵng trong vòng 2 năm trở lại đây, như: Starbucks, Koi Thé, El Gaucho, Burger King, Chanel, Hermes, Innisfree...", "Tài chính - Ngân hàng.", "Thành phố Đà Nẵng là trung tâm tài chính lớn thứ 3 cả nước, trên địa bàn thành phố tính đến năm 2019 có 115 chi nhánh ngân hàng cấp 1, hơn 350 phòng, điểm giao dịch, Quỹ tiết kiệm và 17 đại lý, chi nhánh công ty chứng khoán, các tổ chức cho thuê tài chính, công ty mua bán nợ... Thành phố cũng đang kêu gọi đầu tư cho dự án Danang Gateway, với số vốn đầu tư ban đầu là 2 tỷ $, gồm các toà nhà văn phòng tài chính.", "Thủ tướng Chính phủ đã cho phép Đà Nẵng nghiên cứu, lập đề án xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành trung tâm tài chính khu vực", "Năng lực cạnh tranh.", "Thành phố Đà Nẵng có chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) đứng đầu Việt Nam liên tiếp trong nhiều năm 2008, 2009, 2010, 2013, 2014, 2015 và 2016 đồng thời đứng đầu về chỉ số hạ tầng và đứng thứ tư về môi trường đầu tư. Trong bảng xếp hạng PCI của Việt Nam năm 2012, Đà Nẵng xếp ở vị trí thứ 12 trên 63 tỉnh, thành. Năm 2013, Đà Nẵng đã trở lại vị trí số 1 trên bảng xếp hạng. Năm 2014, 2015 và 2016, Đà Nẵng tiếp tục giữ vị trí đầu tiên trong bảng xếp hạng, năm thứ tư liên tiếp trụ vững ngôi đầu bảng và lần thứ bảy thành phố này dẫn đầu cả nước kể từ khi chỉ số này được công bố năm 2006. Năm 2019, Đà Nẵng đã thu hút được 108 dự án FDI, với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt 668 triệu USD và thu hút trong nước đạt 8.800 tỷ đồng, tăng 20% so với cùng kỳ năm 2018.", "Việc làm.", "Thành phố Đà Nẵng là một trong những thành phố lớn nhất cả nước, với mũi nhọn kinh tế là ngành du lịch kết hợp cùng dịch vụ đã có những bước phát triển thần tốc. Bên cạnh đó, bao quanh Thành phố Đà Nẵng là những khu vực kinh tế đang phát triển khác như Thành phố Hội An, kết hợp những khu công nghiệp quy mô lớn bao quanh thành phố Đà Nẵng như khu công nghiệp Liên Chiểu, khu công nghiệp Hòa Khánh, khu công nghiệp Hòa Cầm, vv... biến Đà Nẵng thành một thành phố có nhu cầu tuyển dụng nhân sự cao và độ khan hiếm nhân sự ở một số ngành nghề đã trở thành vấn đề lớn.", "Và để giải quyết vấn đề này, ban lãnh đạo thành phố Đà Nẵng cùng các cấp liên quan đã đưa ra nhiều phương án cho chuyển đổi cơ cấu nhân lực, thu hút nguồn nhân lực trẻ, tạo cơ hội để nguồn nhân lực ở các khu vực lân cận như Quảng Trị, Quảng Nam khan hiếm việc làm có thể tiếp cận dễ dàng hơn với việc làm tại Đà Nẵng. Bên cạnh đó, tại Đà Nẵng cũng bắt đầu có những công ty tư nhân đầu tư vào dịch vụ việc làm để hỗ trợ tuyển dụng miễn phí cho các ứng viên đang tìm việc, song song với đó là hỗ trợ các nhà tuyển dụng tìm kiếm ứng viên.", "Khởi nghiệp.", "Thành phố Đà Nẵng hiện là một trong ba trung tâm khởi nghiệp của cả nước cùng với Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Số lượng startup tại Đà Nẵng đến năm 2019 đã đạt gần 150 doanh nghiệp. Một số vườn ươm khởi nghiệp nổi tiếng của Đà Nẵng có thể kể đến như Vườn ươm doanh nghiệp Đà Nẵng, Trung tâm ươm tạo khởi nghiệp Sông Hàn...", "Theo Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Khóa XII về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư thì trên cơ sở các Khu công nghệ cao Đà Nẵng sẽ phát triển các khu đô thị sáng tạo đạt đẳng cấp quốc tế, đóng góp rất quan trọng vào sự phát triển kinh tế của thành phố. Đà Nẵng là một trong ba địa phương (cùng với Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh) được khuyến khích tập trung phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, đẩy nhanh thành lập các trung tâm khởi nghiệp sáng tạo quốc gia.", "Chính phủ Việt Nam cũng đã có kế hoạch xây dựng Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia và Khu đô thị khởi nghiệp quốc gia tại Khu công nghệ cao Đà Nẵng.", "Hiện nay, một số dự án khởi nghiệp tại Đà Nẵng đã có những bước phát triển mạnh mẽ, vươn tầm ra thị trường Việt Nam và thế giới, tiêu biểu như: DatBike, MultiGlass, Zody...", "Du lịch.", "Tham quan.", "Đà Nẵng là một thành phố có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch, là trung tâm du lịch lớn hàng đầu của Việt Nam. Phía bắc thành phố được bao bọc bởi núi cao với đèo Hải Vân được mệnh danh là \"Thiên hạ đệ nhất hùng quan\". Phía tây là Khu nghỉ dưỡng Sun World Bà Nà Hills nằm ở độ cao trên 1.400m với hệ thống 8 tuyến cáp treo có tổng công suất phục vụ 9.500 khách/giờ, tuyến cáp treo Thác Tóc Tiên - Indochine đạt bốn kỷ lục thế giới (Cáp treo một dây dài nhất thế giới: 5,771.61m; Độ chênh giữa ga đi và ga đến cao nhất thế giới: 1,368.93m; Chiều dài một sợi cáp không nối dài nhất thế giới: 11,587m; Độ nặng cuộn cáp nặng nhất thế giới: 141.24 tấn) cùng khu vui chơi giải trí trong nhà \"Fantasy Park\" lớn nhất Đông Nam Á và khu làng Pháp lớn nhất Việt Nam, mỗi ngày khu nghỉ dưỡng Sun World Bà Nà Hills phục vụ hơn 30.000 lượt khách, các ngày cao điểm lên tới hơn 40.000 lượt khách.", "Phía đông bắc là bán đảo Sơn Trà với 400 ha rừng nguyên sinh gồm nhiều động thực vật phong phú. Phía đông nam là danh thắng Ngũ Hành Sơn. Trên địa bàn thành phố còn có một hệ thống các đình, chùa, miếu theo kiến trúc Á Đông, các nhà thờ theo kiến trúc phương Tây như Nhà thờ chính toà Đà Nẵng (Nhà thờ Con Gà)...các bảo tàng mà tiêu biểu nhất là Bảo tàng Nghệ thuật Điêu khắc Chăm. Đây là bảo tàng trưng bày hiện vật Chăm quy mô nhất ở Việt Nam. Ngoài ra thành phố còn được bao bọc bởi 3 Di sản Văn hóa Thế giới: Huế, Hội An, Mỹ Sơn. Xa hơn một chút nữa là Vườn Quốc gia Bạch Mã, và Di sản Thiên nhiên Thế giới Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng. Vì thế Đà Nẵng được xem là điểm trung chuyển quan trọng trên Con đường di sản miền Trung.", "Ước tính tổng lượng khách đến tham quan, du lịch Đà Nẵng năm 2019 đón 8,98 triệu lượt khách, trong đó khách quốc tế đạt 3,52 triệu lượt, khách nội địa đạt 5,46 triệu lượt, tăng 22,5% so với năm 2018, tổng thu từ du lịch đạt hơn 30.971 tỷ đồng.", "Sự kiện du lịch.", "Đà Nẵng đã xây dựng các sự kiện du lịch lớn, trong đó Lễ hội pháo hoa quốc tế Đà Nẵng được tổ chức liên tục từ năm 2008. Vào tháng 5 năm 2012, Đà Nẵng lần đầu triển khai Cuộc thi Dù bay Quốc tế. Ngoài ra còn có các sự kiện được diễn ra hàng năm như: Ironman 70.3, Danang International Marathon, Điểm hẹn mùa hè... Tháng 6 là sự kiện \"Điểm hẹn mùa hè\"\" thường niên, quy tụ những hoạt động giải trí biển.", "Cơ sở lưu trú và dịch vụ du lịch.", "Thành phố Đà Nẵng hiện có 1.016 khách sạn, 42.206 phòng với sự có mặt của nhiều thương hiệu du lịch nổi tiếng thế giới như: Shilla, Novotel, Marriott, Hilton, Sheraton, Pullman, Mercure, Melia, Hyatt, Sofitel, Wyndham, Mikazuki..., trong đó khoảng trên 16.223 phòng lưu trú ven biển thuộc các khách sạn từ 4 đến 5 sao như Furama (198 phòng), Sheraton (258 phòng), Grand Tourane (188 phòng), Pullman(115 phòng), Hyatt (193 phòng)...chiếm 42,5% tổng số phòng toàn hệ thống (26 khách sạn hạng 5 sao và tương đương với 7.457 phòng). Đặc biệt, InterContinental Danang Sun Peninsula Resort liên tục giữ vững ngôi vị \"Khu nghỉ dưỡng sang trọng bậc nhất châu Á\" kể từ năm 2014 đến nay.", "Tính đến năm 2018, trên địa bàn thành phố có 358 đơn vị hoạt động trong lĩnh vực lữ hành, trong đó có 112 công ty lữ hành nội địa, 166 công ty lữ hành quốc tế, 47 chi nhánh lữ hành quốc tế với 22 văn phòng đại diện, 6 đại lý nước ngoài và 5 văn phòng lữ hành trong nước tại nước ngoài; có 45 đơn vị lữ hành khai thác thị trường khách Trung Quốc và 40 đơn vị khai thác khách Hàn Quốc. Đội ngũ hướng dẫn viên (HDV) du lịch có 4.274 người với 1.250 HDV trong nước và 3.024 HDV quốc tế (cụ thể là 1.485 HDV tiếng Anh; 888 HDV tiếng Trung; 156 HDV tiếng Hàn và 99 HDV tiếng Nhật...), có 730 xe đạt tiêu chuẩn phục vụ du lịch. Hiện Đà Nẵng có 83 dự án đầu tư vào lĩnh vực du lịch dịch vụ với tổng vốn đầu tư khoảng 7,3 tỷ USD (tương đương 153 ngàn tỷ đồng).", "Đánh giá quốc tế.", "Năm 2016, Đà Nẵng lọt vào Top 10 điểm đến nghỉ dưỡng hàng đầu châu Á do độc giả Tạp chí Smart Travel Asia bình chọn.", "Năm 2018, Đà Nẵng cũng đã lọt danh sách những điểm đến nên ghé thăm trước khi trở nên quá nổi tiếng trên trang \"Business Insider\".", "Theo báo Nikkei Nhật Bản, trong bảng xếp hạng các điểm đến du lịch năm 2018 của Airbnb - trang web đặt phòng nghỉ lớn nhất thế giới, Đà Nẵng đứng thứ 5 toàn cầu và số 1 tại Đông Nam Á về thu hút khách du lịch. Và cũng năm 2018, hiện tượng Cầu Vàng đã trở thành tâm điểm trên các trang báo nổi tiếng trên thế giới.", "Năm 2019, tờ báo uy tín hàng đầu của Mỹ-The New York Times bình chọn Đà Nẵng được ngợi ca như \"Miami của Việt Nam\" đứng thứ 15 trong danh sách 52 điểm phải đến trên thế giới.", "Giao thông.", "Thành phố Đà Nẵng nằm ở trung độ của Việt Nam, trên trục giao thông huyết mạch Bắc - Nam về cả đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không. Thành phố còn là điểm cuối trên Hành lang Kinh tế Đông - Tây đi qua các nước Myanma, Thái Lan, Lào và Việt Nam.", "Hệ thống cảng biển.", "Với một vị trí đặc biệt thuận lợi về giao thông đường biển, nằm gần với đường hàng hải quốc tế, Cảng Đà Nẵng là cảng biển lớn nhất của miền Trung. Cảng Đà Nẵng có độ sâu trung bình từ 15 – 20 m, có khả năng tiếp nhận các tàu lớn có trọng tải đến 40.000 tấn. Năm 2018, sản lượng hàng hóa qua Cảng Đà Nẵng chính thức đạt mốc 8,5 triệu tấn, trong đó sản lượng container đạt gần 380.000 TEU, số lượt tàu đạt gần 1.850 lượt, trong đó tàu container gần 1.130 lượt. Cảng Đà Nẵng tiếp tục giữ vững vị thế là cảng số 1 ở khu vực miền Trung và là một trong những cảng biển lớn hiện đại nhất Việt Nam. Cảng Đà Nẵng cũng góp phần phát triển du lịch của thành phố thông qua việc đón 95 lượt tàu du lịch với gần 188.000 hành khách và thuyền viên. Hiện tại, cảng Đà Nẵng mỗi tuần đón khoảng 26 tàu container cập cảng làm hàng. Các hãng container hàng đầu thế giới đều đã có mặt ở Cảng Đà Nẵng như Wanhai, Maersk Lines, Evergreen, MSC, SITC, Yangming... Thành phố Đà Nẵng cũng đang xúc tiến xây dựng bến cảng Liên Chiểu có tổng vốn đầu tư 34.000 tỷ đồng chia làm 3 giai đoạn và sẽ đưa vào sử dụng vào năm 2030. Tháng 3 năm 2021, bến cảng Liên Chiểu đã được thủ tướng chính phủ thông qua quyết định phê duyệt chủ trương đầu tư phần cơ sở hạ tầng dùng chung. Hệ thống cảng Đà Nẵng là cảng biển loại I, được kỳ vọng từng bước phát triển để đảm nhận vai trò cảng cửa ngõ quốc tế ở khu vực miền Trung (loại IA). Trong tương lai, khi bến cảng Liên Chiểu với công suất 20 triệu tấn/năm được xây dựng xong thì hệ thống cảng Đà Nẵng được nối liền với Cảng Kỳ Hà, Cảng Dung Quất ở phía nam sẽ trở thành một cụm cảng liên hoàn lớn, giữ vị trí quan trọng trên tuyến hàng hải Đông Nam Á và Đông Bắc Á,", "Đường không.", "Sân bay Quốc tế Đà Nẵng là một trong ba sân bay quốc tế lớn nhất, quan trọng nhất Việt Nam (sau Nội Bài và Tân Sơn Nhất). Trục Nội Bài - Đà Nẵng - Tân Sơn Nhất là đường bay nội địa nhộn nhịp nhất Việt Nam. Ngoài ra, đường hàng không Đà Nẵng có thể nối trực tiếp với Singapore, Siêm Riệp, Bangkok, Đài Bắc, Quảng Châu, Thượng Hải, Bắc Kinh, Hồng Kông, Ma Cao, Seoul, Busan, Tokyo, Osaka, Nagoya, Doha, Kuala Lumpur, Jakarta, Moskva, New Delhi, Phnôm Pênh, Viêng Chăn...Từ khi được đầu tư xây mới 2 nhà ga nội địa và quốc tế vào năm 2010 và năm 2017, sân bay Quốc tế Đà Nẵng với 84 quầy thủ tục và các tiện nghi hiện đại khác đã đảm bảo phục vụ hơn 10 triệu lượt khách/năm và 15 triệu lượt khách/năm từ năm 2020 trở đi, tiếp nhận 400.000 - 1.000.000 tấn hàng/năm. Sân bay đã có kế hoạch nghiên cứu mở rộng nhà ga T1, T2 và xây dựng nhà ga T3 để đạt mức 30 triệu hành khách/năm vào năm 2030. Tính đến năm 2019, từ Đà Nẵng đã có 16 tuyến bay nội địa, 48 tuyến đường bay đi quốc tế trong đó có 23 đường bay trực tiếp thường kỳ và 25 đường bay trực tiếp thuê chuyến với công suất 15,5 triệu lượt khách ", "Đường sắt.", "Tuyến đường sắt huyết mạch Bắc - Nam chạy dọc thành phố với tổng chiều dài khoảng 30 km. Trên địa bàn thành phố hiện nay có năm nhà ga, trong đó Ga Đà Nẵng là một trong những ga chính, quan trọng nhất trên tuyến đường sắt Bắc - Nam, ga chính của thành phố, hàng ngày tất cả các chuyến tàu ra Bắc vào Nam đều dừng tại đây với thời gian khá lâu để đảm bảo cho lượng khách lớn lên xuống tàu. Cơ sở hạ tầng tại ga được đầu tư hiện đại; môi trường an ninh và vệ sinh được đảm bảo. Ngoài các chuyến tàu Bắc - Nam, Ga Đà Nẵng còn có thêm những chuyến tàu Bắc - Nam kết nối Đà Nẵng - Hà Nội, Đà Nẵng - Thành phố Hồ Chí Minh đáp ứng rất lớn lượng khách trong mùa cao điểm. Ngoài ra, Đà Nẵng còn nằm trên trục chính đường sắt Tây Nguyên gồm Đà Nẵng - Kon Tum - Đắk Lắk - Buôn Ma Thuột - Chơn Thành đến Thành phố Hồ Chí Minh đang được nghiên cứu đầu tư.", "Đường bộ.", "Thành phố Đà Nẵng kết nối với các địa phương trong nước thông qua hai đường quốc lộ: Quốc lộ 1, nối Đà Nẵng với các tỉnh ở hai đầu Bắc, Nam và Quốc lộ 14B nối Đà Nẵng với các tỉnh miền Nam Trung Bộ và Tây Nguyên của Việt Nam. Việc đưa vào sử dụng hầm đường bộ Hải Vân khiến cho thời gian lưu thông được rút ngắn và giảm tai nạn giao thông trên đèo Hải Vân. Ngoài ra, việc đưa vào sử dụng hai cao tốc tiểu vùng là Đà Nẵng - Quảng Ngãi và La Sơn - Tuý Loan sẽ giúp hệ thống giao thông Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung được kết nối và đảm bảo.", "Hiện nay, Đà Nẵng đang xúc tiến Hành lang Kinh tế Đông-Tây 2 (Quốc lộ 14D) từ Đà Nẵng – cửa khẩu Đak-ốc (tỉnh Quảng Nam)-huyện Đăc Chưng (tỉnh Sekong)-thị xã Pakse (tỉnh Champasak, Lào)-Ubon Ratchathan (Thái Lan), điểm cuối Cảng Liên chiểu. Tại đây có thể nối vào hệ thống giao thông của Thái Lan. Sự có mặt của Hành lang Kinh tế Đông-Tây 2 sẽ thuận lợi về nhiều mặt trong vận chuyển hàng hóa, hành khách, đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế, du lịch, văn hóa giữa 3 nước Việt Nam-Lào-Thái Lan", "Giao thông đô thị.", "Thành phố Đà Nẵng cũng đã có những bước tiến trong giao thông nội thị. Hạ tầng giao thông nội ô được xây dựng khá hoàn chỉnh với mạng lưới giao thông tiếp nối với các đường vành đai của thành phố khiến cho Đà Nẵng là một trong ít đô thị ở Việt Nam ít khi phải đối mặt với tình trạng tắc đường. Nhiều con đường cũ đã được mở rộng và kéo dài. Đường Hoàng Sa - Võ Nguyên Giáp - Trường Sa chạy dọc bờ biển theo hướng nam nối Đà Nẵng với Hội An được mệnh danh là \"con đường 5☆\" của Đà Nẵng vì là nơi tập trung hàng loạt nhà hàng, khách sạn, khu nghỉ dưỡng cao cấp 4☆ và 5☆ đạt tiêu chuẩn quốc tế. Nhiều cây cầu đã được xây dựng bắc qua sông Hàn như cầu Thuận Phước, cầu Sông Hàn, Cầu Rồng, cầu Nguyễn Văn Trỗi, cầu Trần Thị Lý... không chỉ tạo nên những cảnh quan đẹp phục vụ du khách tham quan thành phố mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc điều tiết giao thông.", "Ngày 29 tháng 3 năm 2015, thành phố khánh thành cầu vượt khác mức Ngã Ba Huế ở cửa ngõ phía tây, giúp xóa \"điểm đen\" tai nạn giao thông giữa Quốc lộ 1 và tuyến đường sắt Bắc Nam. Đây là cầu vượt ba tầng đầu tiên lớn nhất Việt Nam.", "Ngày 30 tháng 4 năm 2017, hầm chui phía tây cầu Sông Hàn chính thức thông xe sau 7 tháng thi công, giúp giảm ùn tắc giao thông nút giao tây cầu sông Hàn, nhất là trên các tuyến đường Trần Phú và Lê Duẩn. Trong tương lai, các hầm chui phía Tây cầu Trần Thị Lý, phía Tây cầu Rồng, hầm chui sông Hàn, hầm chui qua sân bay... sẽ giúp kết nối và hoàn thiện hệ thống giao thông nội đô tốt hơn.", "Đến năm 2030, Đà Nẵng sẽ có 2 tuyến Metro line là Đà Nẵng - Hội An và Trung tâm Đà Nẵng - ven biển, cùng với 8 tuyến Tramway trong nội đô thành phố. Ngoài ra, Đà Nẵng còn phát triển hệ thống xe bus BRT với 15 tuyến nội đô và 1 tuyến kết nối giữa Đà Nẵng và Hội An.", "Tên đường phố Đà Nẵng.", "- Maréchal: tiếng Pháp, có nghĩa là Thống chế.", "Dân cư.", "Cơ cấu dân số.", "Theo kết quả điều tra ngày 1 tháng 4 năm 1999, thành phố Đà Nẵng có 684.846 người. Trong đó dân số trong độ tuổi lao động xã hội toàn thành phố là 413.460 người, chiếm 57,7% dân số. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn thành phố Đà Nẵng đạt 1.134.310 người, xếp thứ 39 cả nước, chiếm 1,18% dân số cả nước, mật độ dân số đạt 740 người/km². Trong đó dân số sống tại thành thị đạt 988.569 người, chiếm 87,2% dân số toàn thành phố, dân số sống tại nông thôn đạt 145.741 người, chiếm 12,8% dân số.. Theo tổng cục thống kê năm 2020, Đà Nẵng có dân số sống tại thành thị 1.020.44 người, vượt mốc 1 triệu người.Tỷ lệ lao động qua đào tạo của Đà Nẵng cao hàng đầu cả nước. Đà Nẵng có số dân thành thị đứng thứ ba trong 5 thành phố trực thuộc Trung ương sau Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, đứng thứ 5 toàn quốc sau Bình Dương, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Dân số nam của thành phố đạt 558.982 người, trong khi đó nữ đạt 575.328 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương là 2,45%, trong đó dân thành thị tăng nhanh hơn 2,25%/1 năm, nông thôn tăng 1,98%/năm. Đà Nẵng cũng là địa phương có tỷ lệ đô thị hóa cao nhất miền Trung-Tây Nguyên và cao nhất cả nước: 87,2%. Đà Nẵng là địa phương có tỷ lệ dân cư sống ở khu vực thành thị cao nhất nước, dân số đô thị thường tập trung trung tâm thành phố. Ngoài ra thành phố còn tiếp nhận thêm lượng dân cư từ các tỉnh, thành là sinh viên, công nhân lao động, nước ngoài... đến thành phố học tập và làm việc nên tỷ lệ dân nhập cư ngày càng tăng nên sức ép lên hạ tầng đô thị ngày càng tăng.", "Dân số Đà Nẵng tăng trưởng ở mức từ 2,5% và 3% trong hầu hết các năm từ năm 2005 tới 2011, cao hơn trung bình toàn quốc là 1% đến 1,2%. Cá biệt tỷ lệ tăng trưởng đã tăng lên 3,6% trong năm 2010 trước khi trở lại 2,68% trong năm 2011. Đây là tốc độ tăng trưởng nhanh thứ ba trong cả nước sau Bình Dương (4,41%) và Đồng Nai (3,5%). Tỷ lệ tăng dân số của thành phố năm 2015 là 1,1%. Di cư là yếu tố chủ đạo trong tăng trưởng dân số của thành phố ít nhất là từ năm 2009. Tăng trưởng dân số tự nhiên của thành phố cao hơn một chút so với mức trung bình của cả nước. Tuổi thọ trung bình đạt 77,4 tuổi đối với nữ và 72,4 hoặc 74,8 tuổi đối với nam. Trong tổng điều tra dân số năm 2019, Đà Nẵng có tổng tỷ suất sinh 1,88 con/phụ nữ, dưới mức sinh thay thế 2,1 con/phụ nữ.", "Dân tộc.", "Trên địa bàn thành phố có trên 37 dân tộc và người nước ngoài cùng chung sống. Trong đó, nhiều nhất là dân tộc Kinh với 883.343 người, người Hoa đông thứ hai với 2.974 người, dân tộc Cơ Tu có 1.198 người, cùng các dân tộc ít người khác như dân tộc Tày với 224 người, Ê Đê với 222 người, Mường có 183 người, Gia Rai có 154 người... ít nhất là các dân tộc Chơ Ro, Hà Nhì, Si La và Ơ Đu chỉ có một người.", "Tôn giáo.", "Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, trên địa bàn toàn thành phố có chín tôn giáo khác nhau, chiếm 77.029 người. Trong đó, nhiều nhất là Công giáo với 42.690 người, xếp thứ hai là Phật giáo với 37.220 người, xếp thứ ba là đạo Tin Lành có 3.730 người, Cao Đài có 3.249 người, cùng các tôn giáo khác như Minh Sư Đạo với 53 người, Bahá'í với 34 người, Phật giáo Hòa Hảo với 25 người, Hồi giáo có 19 người, ít nhất là Bà La Môn chỉ với 9 người. Đà Nẵng là nơi có Hội thánh Tin Lành đầu tiên ở Việt Nam được thành lập vào năm 1911 bởi các giáo sĩ Hội Truyền giáo Phước âm Liên hiệp (CMA).", "Y tế.", "Hệ thống chăm sóc sức khỏe.", "Thành phố Đà Nẵng là một trong những trung tâm y tế chuyên sâu của khu vực miền Trung - Tây Nguyên và cả nước. Hệ thống y tế của thành phố ngày càng hiện đại, hoàn chỉnh và đồng bộ từ tuyến thành phố đến quận, huyện và xã, phường, uy tín một số bệnh viện ngày càng được nâng cao, được các bệnh nhân các tỉnh khu vực miền Trung-Tây Nguyên tin tưởng. Theo con số của Tổng cục Thống kê (Việt Nam) thì vào năm 2018, thành phố Đà Nẵng có 73 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế và Bộ Y tế, trong đó có 26 bệnh viện, 1 Bệnh viện Điều dưỡng, 1 Bệnh viện Chỉnh hình - Phục hồi chức năng và 56 trạm y tế. Tính đến đầu năm 2018, Đà Nẵng có tỷ lệ 17,49 bác sĩ/10.000 dân, 79,03 giường/10.000 dân, số giường bệnh trực thuộc Sở Y tế là 5.920 giường, thuộc các bệnh viện của Bộ ngành Trung ương là 1.510 giường và các Trung tâm Y tế quận/huyện là 1.410 giường, các cơ sở Y tế tư nhân là 943 giường. Cũng theo thống kê năm 2011, Đà Nẵng có 746 bác sĩ, 342 y sĩ, 756 y tá và 275 nữ hộ sinh.. Theo số liệu thống kê thuộc Sở Y tế thành phố Đà Nẵng, năm 2017, toàn ngành Y tế thành phố Đà Nẵng đã thực hiện khám bệnh cho 3.739.982 lượt, điều trị nội trú cho 416.254 lượt bệnh nhân thuộc các tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Gia Lai, Đắk Lắk, Quảng Trị...", "Thành phố Đà Nẵng cũng có một hệ thống bệnh viện, phòng khám tư nhân đang dần phát triển: Tháng 3 năm 2012, thành phố thành lập giải thưởng \"Tỏa sáng blouse trắng\" nhằm tuyên dương những cá nhân người tốt, việc tốt. Đến cuối năm 2012, Đà Nẵng đã hoàn thành mục tiêu Bảo hiểm y tế toàn dân, với 91,6% dân số tham gia Bảo hiểm y tế, đi trước 2 năm so với cả nước (2014). Trong tương lai, với sự hình thành của trường Đại học Y Dược trực thuộc Đại học Đà Nẵng, thành phố Đà Nẵng tiếp tục xây dựng, phát triển thêm các bệnh viện như: Bệnh viện Đà Nẵng cơ sở 2, bệnh viện quốc tế, Bệnh viện Phụ sản - Nhi giai đoạn 2, Bệnh viện Nhi Trung ương...trên địa bàn. Thành phố Đà Nẵng đang hướng đến mục tiêu trở thành một trung tâm y tế lớn của khu vực miền Trung - Tây Nguyên và cả nước.", "Các bệnh viện lớn tại thành phố Đà Nẵng.", "Bệnh viện Đà Nẵng.", "Bệnh viện Đà Nẵng là bệnh viện đa khoa lớn nhất và là bệnh viện tuyến cuối hạng I của thành phố Đà Nẵng, có trách nhiệm thu dung - điều trị cho người dân khu vực 19 tỉnh miền Trung - Tây Nguyên. Bệnh viện có quy mô 1.900 giường (thực kê là 2.569 giường) \"(đường Hải Phòng, quận Hải Châu)\" tiền thân là \"Nhà thương thí\" - Bệnh viện bản xứ Tourane/ Hopital indigène de Tourane được người Pháp xây dựng và đưa vào hoạt động từ năm 1906 trên đường République nay là đường Hùng Vương, sau đó đổi tên thành \"Bệnh viện Đà Nẵng\" rồi thành \"Trung tâm Y tế toàn khoa Đà Nẵng\" (quy mô 1.000 giường) người dân địa phương quen gọi là Bệnh viện Giải phẫu. cũng từng là một trong những cơ sở thực hành của sinh viên của Đại học Y Khoa Huế trước năm 1975 và hiện nay bệnh viện có 9 khoa cận lâm sàng, 28 khoa cận lâm sàng và là cơ sở thực hành lâm sàng cho nhiều cơ sở giáo dục đại học cao đẳng trên địa bàn thành phố như: trường Đại học Kỹ thuật Y Dược Đà Nẵng, Khoa Y Dược – Đại học Đà Nẵng và các cơ sở đào tạo khác.", "Với định hướng đa khoa mạnh, chuyên khoa sâu, bệnh viện đã phát triển, không ngừng cập nhật và ứng dụng nhiều kỹ thuật y tế mới nhằm đáp ứng nhu cầu thăm, khám và chăm sóc sức khỏe của nhân dân như: cấy ghép tế bào gốc điều trị chấn thương tủy sống (nguyên nhân dẫn đến bại liệt) và là bệnh viện thứ hai tại Việt Nam sau Bệnh viện Việt Đức - Hà Nội thực hiện thành công, ghép thận, làm chủ kỹ thuật ECMO, thẩm tách siêu lọc máu, phòng mổ Hybrid (phòng mổ kỹ thuật hiện đại của các nước phát triển, tương đương kỹ thuật cùng với hai bệnh viện lớn nhất cả nước là Bệnh viện Chợ Rẫy - Hồ Chí Minh và Bệnh viện Bạch Mai - Hà Nội), kỹ thuật hạ thân nhiệt giúp giảm tỷ lệ tử vong, cấy điện cực ốc tai (giúp các bệnh nhân câm, điếc có thể nghe và nói)... Năm 2017, bệnh viện đã khai trương Phòng giao dịch trực tuyến, giúp kết nối, chẩn bệnh giữa các bác sĩ bệnh viện với các bác sĩ quốc tế là hợp phần của dự án Q-health do chính phủ Hàn Quốc tài trợ, từ đó các y bác sĩ Đà Nẵng sẽ có điều kiện tương tác, trao đổi chuyên môn, tăng cường năng lực trong chẩn đoán, điều trị bằng phương tiện hội chẩn từ xa. Trong tương lai, bệnh viện được chính quyền thành phố ưu tiên tập trung đầu tư và xây dựng các công trình nhằm nâng cấp và mở rộng như: Trung tâm Ghép tạng và cấy ghép tế bào gốc, Trung tâm Phẫu thuật Thần kinh, chấn thương, bỏng tạo hình, giai đoạn 2 Trung tâm tim mạch... nhằm giảm tải bệnh viện, nâng công suất tiếp nhận bệnh nhân, tự chủ, đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh ngày càng cao của nhân dân thành phố nói riêng và khu vực Miền Trung-Tây Nguyên nói chung.", "Dự án Bệnh viện Đà Nẵng (cơ sở 2): quy mô (dự kiến) 1.500 giường bệnh bao gồm các Trung tâm Huyết học, Trung tâm Lão khoa, Trung tâm Y học nhiệt đới và bệnh viện đa khoa chất lượng cao \"(đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, quận Ngũ Hành Sơn)\"", "Tương lai, bệnh viện được xếp hạng bệnh viện hạng đặc biệt ngang tầm với các bệnh viện lớn như: Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức (Hà Nội), Bệnh viện Trung ương Huế (Thừa Thiên Huế), Bệnh viện Chợ Rẫy (Thành phố Hồ Chí Minh).", "Bệnh viện Phụ sản – Nhi Đà Nẵng.", "Bệnh viện Phụ sản – Nhi Đà Nẵng: Là bệnh viện chuyên khoa hạng I về sản - nhi tuyến cuối và lớn nhất khu vực miền Trung - Tây Nguyên được thành lập tháng 4 năm 2012 trên cơ sở tổ chức lại Trung tâm Phụ sản - Nhi thuộc Bệnh viện Đà Nẵng có chức năng khám và điều trị phụ sản - nhi trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và khu vực Miền Trung-Tây Nguyên, chỉ tiêu 1.200 giường, thực kê 1.739 giường (công suất sử dụng 147%, vượt 289% so với chỉ tiêu 600 giường vào năm 2012).", "Bệnh viện Phụ sản - Nhi Đà Nẵng nhiều kỹ thuật mới như triển khai kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm từ tháng 4 năm 2014 (tỷ lệ thành công khá cao từ 40 đến 45%). Kỹ thuật Chăm sóc thiết yếu sơ sinh sớm da kề da được áp dụng từ tháng 7 năm 2014 và xây dựng Ngân hàng Sữa mẹ đầu tiên tại Việt Nam", "Dự kiến, Bệnh viện Phụ sản - Nhi Đà Nẵng tiếp tục đầu tư, mở rộng, tăng thêm 1.000 giường bệnh nội trú trên diện tích sử dụng đất 14.340m2, tổng vốn đầu tư hơn 1.830 tỷ đồng. (đường Lê Văn Hiến, quận Ngũ Hành Sơn).", "Bệnh viện Ung Bướu Đà Nẵng.", "Bệnh viện Ung Bướu Đà Nẵng tiền thân là \"Bệnh viện Ung thư Đà Nẵng\" thuộc Hội bảo trợ Phụ nữ và Trẻ em nghèo bất hạnh Đà Nẵng được khởi công tháng 3 năm 2009 và khánh thành vào tháng 1 năm 2013 do sự vận động cố Bí thư Thành ủy Nguyễn Bá Thanh trong việc đóng góp, tài trợ của các nhà hảo tâm, doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức phi chính phủ và sự quan tâm đầu tư của chính quyền thành phố. Tháng 8 năm 2015, Bệnh viện Ung bướu Đà Nẵng được thành lập trên cơ sở tổ chức lại Khoa Ung bướu thuộc Bệnh viện Đà Nẵng và tiếp nhận nguyên trạng tổ chức bộ máy, người lao động, trụ sở, cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài chính, tài sản của Bệnh viện Ung thư Đà Nẵng. Hiện nay, bệnh viện đã trở thành bệnh viện công lập hạng I chuyên khoa về Ung bướu lớn nhất khu vực Miền Trung-Tây Nguyên quy mô chỉ tiêu 650 giường (thực kê 900 giường bệnh) \"(đường Phùng Hưng, quận Liên Chiểu)\" có 12 khoa lâm sàng và 8 khoa cận lâm sàng, trang thiết bị, máy móc hiện đại xứng tầm một bệnh viện chuyên khoa Ung bướu tại Việt Nam.", "Từ khi thành lập đến nay, bệnh viện đã triển khai nhiều kỹ thuật mới trong chẩn đoán và điều trị, trong đó có một số kỹ thuật lần đầu tiên được triển khai như phẫu thuật đầu mặt cổ kết hợp phẫu thuật vi phẫu tạo hình, tạo hình thẩm mỹ trong phẫu thuật ung thư vú, kỹ thuật xạ trị áp sát vùng đầu cổ, kỹ thuật sinh thiết định vị, kỹ thuật phẫu thuật nội soi cắt gan trái cho bệnh nhân ung thư gan... Từ tháng 12 năm 2016, bệnh viện đã trở thành bệnh viện vệ tinh của Bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh, nhiều bác sĩ, nhân viên y tế tại bệnh viện đã tham gia chương trình đào tạo theo kế hoạch bệnh viện vệ tinh và đã được các bác sĩ bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh chuyển giao nhiều kỹ thuật mới trong chẩn đoán và điều trị bệnh nhân ung bướu và hậu phẫu thuật.", "Dự kiến, bệnh viện sẽ được đầu tư, thành lập Trung tâm Tầm soát Ung thư có chức năng dự báo, phòng tránh, phát hiện sớm chúng ta sẽ giảm thiểu được số ca mắc bệnh, cũng như nâng cao tỷ lệ chữa thành công cho bệnh nhân.", "Bệnh viện C Đà Nẵng – Bộ Y tế.", "Bệnh viện C Đà Nẵng tiền thân là \"Bệnh viện Việt Đức Đà Nẵng\". Bệnh viện Việt Đức Đà Nẵng được khởi công xây dựng năm 1968 và hoàn thành vào đầu năm 1972, với sự hỗ trợ cả về tài chính và chuyên môn của Tổ chức Malteser Hilfsdienst và tàu bệnh viện Helgoland. Đầu tháng 4 năm 1975, một đơn vị y tế của Khu V được hợp nhất từ Ban Dân y Khu, Bệnh viện 1 và Bệnh viện 2 của Khu ủy đã tiếp quản Bệnh viện Việt Đức và đổi tên thành Bệnh viện C Đà Nẵng. Hiện nay, bệnh viện có quy mô 1.400 giường (đường Hải Phòng, quận Hải Châu) là 1 trong 3 bệnh viện có nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cho nhân dân, cán bộ trung - cao cấp của Đảng và Nhà nước cùng với Bệnh viện Thống Nhất ở miền Nam, Bệnh viện Hữu Nghị ở miền Bắc.", "Giáo dục - Đào tạo.", "Giáo dục.", "Thành phố Đà Nẵng là trung tâm giáo dục có quy mô lớn nhất khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Hiện nay trên địa bàn thành phố có 32 trường Trung học Phổ thông, 60 trường Trung học Cơ sở, 99 trường Tiểu học, bên cạnh đó còn có 4 trường Mẫu giáo, 213 trường mầm non với 1.249 lớp học, 2.422 giáo viên và 37,8 nghìn học sinh.", "Khác với các thành phố lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng chỉ có 1 trường Trung học Phổ thông chuyên. Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn Đà Nẵng luôn là một trong các trường dẫn đầu ở khu vực miền Trung và trong cả nước. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp phổ thông của thành phố năm học 2010-2011 là 96,7%. Chất lượng giáo dục có sự chênh lệch giữa khu vực trung tâm và ngoại ô đã khiến cho các trường trong trung tâm trở nên quá tải. Từ năm học 2013-2014, Ủy ban Nhân dân thành phố có văn bản quy định đến năm 2015-2016, các trường Tiểu học phải có 100% học sinh học hai buổi/ngày, nếu có khả năng mới được tiếp nhận học sinh ngoại tuyến.", "Đào tạo.", "Giáo dục nghề nghiệp.", "Đà Nẵng có 64 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trong đó có: 13 trường cao đẳng, 6 trường trung cấp, 03 trung tâm giáo dục nghề nghiệp và 27 cơ sở khác có đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp. Quy mô tuyển sinh đào tạo của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp hiện nay là 52.563 học sinh, sinh viên với 260 ngành nghề đào tạo ở các cấp trình độ đào tạo, trong đó, nhóm ngành/nghề thương mại dịch vụ chiếm khoảng 66%, nhóm ngành/nghề công nghiệp xây dựng chiếm khoảng 31% và nhóm ngành/nghề nông, lâm, ngư nghiệp chiếm khoảng 3%.", "Giáo dục đại học.", "Thành phố Đà Nẵng là trung tâm đào tạo đại học đa ngành, đa lĩnh vực và quy mô lớn nhất khu vực miền Trung - Tây Nguyên, thứ ba sau Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, số lượng cơ sở giáo dục đại học chiếm 4,2% trên cả nước gồm có 1 Đại học Vùng (University), 12 trường Đại học, học viện chuyên ngành và đa ngành; 5 trường thuộc Trường Đại học Duy Tân; 02 Campus Trường Đại học FPT với đầy đủ ngành nghề, lĩnh vực đào tạo từ trình độ đại học cho đến trình độ tiến sỹ. Năm 2018, Đà Nẵng có hơn 180.000 sinh viên từ khắp các tỉnh, thành trong cả nước về học tập. Về phân luồng đại học thì tỷ lệ người dân Đà Nẵng muốn đi học đại học cao, so với năm thành phố trực thuộc Trung ương thì Đà Nẵng là 89%, đứng thứ hai sau Thành phố Hồ Chí Minh. Đại học Đà Nẵng là một trong 5 Đại học Vùng và Quốc gia của Việt Nam, cùng với Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Huế và Đại học Thái Nguyên. Trường Đại học Duy Tân đứng đầu về đào tạo đại học ngoài công lập ở khu vực Miền Trung-Tây Nguyên và đang phấn đấu phát triển trường thành mô hình đại học bao gồm nhiều trường thành viên trong tương lai. Ngoài ra, Đà Nẵng có 7 trường đại học có đặt cơ sở tại thành phố.", "Theo Đề án phát triển Đại học Đà Nẵng đến năm 2030 đã được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt thì sắp tới trên địa bàn thành phố sẽ có thêm một số trường đại học, viện nghiên cứu được thành lập như: Đại học Quốc tế Việt-Anh (nâng cấp từ Viện nghiên cứu và đào tạo Việt - Anh trên cơ sở Tuyên bố chung của hai chính phủ Việt Nam và Vương quốc Anh), trường Đại học Y Dược...đề xuất thành lập Đại học Quốc gia Đà Nẵng trên cơ sở sắp xếp lại, đầu tư nâng cấp Đại học Đà Nẵng, các trường đại học trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và địa phương lân cận. Tổng diện tích của làng Đại học Đà Nẵng sẽ là 300 ha với mục tiêu xây dựng Đại học Đà Nẵng trở thành một trong ba trung tâm đại học lớn của cả nước theo Nghị Quyết 33-NQ/TW của Bộ Chính trị nhưng đến nay mới có gần 50 ha được xây dựng tại khu vực dự án.", "Đối ngoại.", "Hiện nay trên địa bàn thành phố có các Tổng Lãnh sự quán phục vụ cho việc đối ngoại thành phố, góp phần mở rộng giao thương, hợp tác với các quốc gia như: ", "Ngoài ra Bộ Ngoại giao và Thành phố đang xúc tiến mở thêm các Tổng Lãnh sự quán của các quốc gia khác như Hoa Kỳ, Pháp, Úc. Bên cạnh đó Thành phố đang có các văn phòng đại diện tại Nhật Bản như Tokyo, Yokohama và đang xúc tiến mở thêm văn phòng tại Sapporo, Nagasaki, Fukuoka, Okinawa.", "Công nghệ thông tin - Truyền thông.", "Truyền thông.", "Báo chí.", "Thành phố Đà Nẵng là một trung tâm truyền thông quan trọng của Việt Nam, lớn thứ ba cả nước, đặc biệt đối với khu vực miền Trung - Tây Nguyên, hiện có hơn 110 cơ quan báo chí trong đó có 8 đơn vị báo chí thành phố, 4 cơ quan báo chí trung ương đóng trên địa bàn thành phố và 98 văn phòng đại diện báo chí trung ương, hội, đoàn thể và địa phương khác có tòa soạn, đặt văn phòng đại diện hoặc cử phóng viên thường trú hoạt động tác nghiệp, với hơn 800 người làm báo, trong đó 400 nhà báo được cấp thẻ; mật độ nhà báo, phóng viên đứng đầu cả nước. Các cơ quan báo chí của thành phố bao gồm: Báo Đà Nẵng, \"Đài Phát thanh - Truyền hình Đà Nẵng (với hai kênh DanangTV1 và DanangTV2)\", \"Báo Công an Đà Nẵng\". Có 4 tạp chí là: \"Tạp chí Khoa học và Phát triển\", \"Tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng\", \"Tạp chí Văn hóa và Du lịch\", \"Tạp chí Non Nước\" và \"Tạp chí điện tử Thông tin và Truyền thông\" (ICT Đà Nẵng). Cơ quan đại diện báo chí trung ương ở Đà Nẵng có:", "Và nhiều cơ quan báo, đài khác.", "Hoạt động xuất bản.", "Trong những năm qua, hoạt động xuất bản của thành phố có nhiều biến động, thị trường xuất bản thu hẹp. Đà Nẵng nằm xa thị trường sách lớn của cả nước nên không có lợi thế cạnh tranh. Ước tính năm 2012, các nhà xuất bản phát hành khoảng 25,6 triệu cuốn sách và xuất bản phẩm; sản lượng in đạt 10 tỷ trang khổ 13x19 cm. Nhà xuất bản Đà Nẵng đã có những đóng góp quan trọng cho hoạt động xuất bản của cả nước. Năm 2008, Nhà xuất bản bị đình chỉ hoạt động trong ba tháng nhưng phải đến sau gần sáu tháng, Nhà xuất bản mới được hoạt động trở lại.", "Năm 2010, Công viên Phần mềm Đà Nẵng đi vào hoạt động tòa nhà 21 tầng tại số 2 đường Quang Trung, quận Hải Châu với diện tích sàn 20.000 m². Khi đó, đây là cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin quy mô, hiện đại nhất thành phố nhưng hiện nay đã lấp đầy và trở nên nhỏ bé trước nhu cầu phát triển vũ bão. Hiện nay, Công viên Phần mềm Đà Nẵng là một trong những khu công nghệ thông tin hoạt động hiệu quả nhất của cả nước, với tỷ lệ sử dụng đạt hơn 99% diện tích. Tính đến tháng 6 năm 2017, Công viên Phần mềm Đà Nẵng có 75 doanh nghiệp đang hoạt động, thu hút vốn đầu tư hơn 1.520 tỷ đồng.", "Công nghệ thông tin.", "Hạ tầng.", "Thành phố Đà Nẵng xác định công nghệ thông tin là ngành mũi nhọn, khâu đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế trong tương lai, xây dựng Thành phố thông minh và có những phát triển vượt bậc. Kim ngạch xuất khẩu phần mềm năm 2018 ước đạt 78 triệu USD, doanh thu đạt 16.203 tỷ đồng, tập trung chủ yếu vào các thị trường Nhật Bản, Bắc Mỹ, Châu Âu... Với thế mạnh toàn diện về hạ tầng kỹ thuật, nhân lực và sự quan tâm sát sao của chính quyền, Đà Nẵng là một trong ba địa phương trọng tâm của cả nước sau Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh được ưu tiên đầu tư các khu Công nghệ thông tin tập trung theo Quy hoạch tổng thể phát triển khu Công nghệ thông tin tập trung đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025.", "Khu Công viên Phần mềm Đà Nẵng có quy mô 10.885,6 m², ra đời vào năm 2000, có chức năng tập trung các hoạt động nghiên cứu phát triển, đào tạo, sản xuất và kinh doanh sản phẩm, dịch vụ, cung cấp hạ tầng, cung ứng dịch vụ Công nghệ thông tin cho các tổ chức, doanh nghiệp. Năm 2017, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định công nhận Khu Công viên Phần mềm Đà Nẵng là Khu Công nghệ Thông tin Tập trung. Đà Nẵng cũng đang thúc đẩy phát triển và đẩy nhanh tiến độ các dự án nhằm cải thiện hạ tầng, thu hút nhà đầu tư như: Khu Công nghệ Thông tin Đà Nẵng, Khu Công viên Phần mềm số 2 (do Công ty Sembcorp Development làm chủ đầu tư), Khu Đô thị Công nghệ FPT Đà Nẵng...", "Đà Nẵng cũng là nơi tuyến cáp quang biển Asia-Pacific Gateway (APG) cập bờ chạy qua các nước Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Malaysia, Thái Lan và Việt Nam có khả năng cung cấp băng thông tới 54 Tbps.", "Trong số 26 thành phố được quy hoạch trong Mạng lưới đô thị thông minh ASEAN, có thành phố của Việt Nam là Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. ", "Chính quyền điện tử.", "Thành phố Đà Nẵng đã hoàn thành cơ bản và đưa vào vận hành các hạng mục chính của Hệ thống Thông tin Chính quyền Điện tử từ thành phố đến phường, xã. Hiệu quả của hệ thống này trong phục vụ người dân, doanh nghiệp và phát triển kinh tế-xã hội được thể hiện qua các đánh giá Đà Nẵng đứng đầu chỉ số ICT Index (9 năm liên tiếp từ nằm 2009 đến 2017) cùng các giải thưởng trong nước và quốc tế khác. Đến nay, Đà Nẵng đã triển khai được một số ứng dụng thông minh cấp thiết như Hệ thống quản lý Xe buýt Công cộng qua thiết bị giám sát hành trình, Hệ thống điều khiển Giao thông và camera thông minh, Hệ thống giám sát Nước tại Nhà máy nước Cầu Đỏ, giám sát nguồn nước hồ, điều khiển máy bơm thoát nước tự động, cổng góp ý, hệ cơ sở dữ liệu mở...", "Danang IT Park.", "Danang IT Park (DITP) là khu công nghệ thông tin tập trung, theo mô hình của thung lũng Silicon Valley. Ngày 29 tháng 3 năm 2019, chính quyền Đà Nẵng đã khánh thành giai đoạn 1 của dự án này với tổng số vốn đầu tư hơn 98 triệu USD. Dự kiến, DITP sẽ tuyển dựng hơn 25.000 kỹ sư công nghệ chất lượng cao và thu về 1,5 tỷ đô la mỗi năm. Ngày 6 tháng 1 năm 2020, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định 27/QĐ-TTg về việc thành lập Khu công nghệ thông tin (CNTT) tập trung Đà Nẵng - giai đoạn 1 do Công ty Cổ phần phát triển Khu công nghệ thông tin Đà Nẵng làm chủ đầu tư. Khu công nghệ thông tin tập trung Đà Nẵng được hưởng các chính sách ưu đãi đối với khu công nghệ thông tin tập trung theo quy định của pháp luật.", "Thể dục - thể thao.", "Với vai trò là trung tâm của khu vực miền Trung - Tây Nguyên, thành phố Đà Nẵng là nơi tập trung các trung tâm huấn luyện, đào tạo thể thao thành tích cao cùng các công trình thể thao quan trọng của khu vực và cả nước. Điển hình là \"Trung tâm Huấn luyện Thể thao Quốc gia III, Trung tâm Thể thao Quốc phòng III và Trường Đại học Thể dục Thể thao Đà Nẵng.\" Ngoài ra còn có Làng Vận động viên và Khu Tập luyện Bóng đá rộng gần 8 ha, hay Khu Thể thao Thành tích Cao rộng 7 ha, nằm ở Khu Đô thị mới Tuyên Sơn - Hòa Cường.", "Thành tích của các vận động viên Đà Nẵng liên tục được cải thiện qua các kỳ thi đấu. Từ năm 2000 đến năm 2010, tại các giải quốc gia, các vận động viên của thành phố đạt được tổng cộng 3.596 huy chương, trong đó có 1.026 Huy chương Vàng, 1.158 Huy chương Bạc và 1.402 Huy chương Đồng. Cũng trong giai đoạn 2000-2010, tại các giải khu vực và quốc tế, vận động của thành phố đạt được tổng cộng 182 huy chương, trong đó có 90 Vàng, 47 Bạc và 45 Đồng. Nếu như tại Đại hội Thể dục Thể thao lần thứ III năm 1995, Đoàn Đà Nẵng xếp ở vị trí 28/52 thì ở Đại hội lần thứ VI năm 2010, thành phố đã ở vị trí 4/66. Đà Nẵng có những vận động viên xuất sắc và hàng đầu ở một số môn như Vận động viên Karatedo Vũ Kim Anh (gốc Hải Phòng)và Vận động viên Bơi lội Hoàng Quý Phước.Câu lạc bộ Bóng đá Đà Nẵng có tiền thân là đội bóng đá Công nhân Quảng Nam-Đà Nẵng rồi Đội Bóng đá Quảng Nam-Đà Nẵng. Vào cuối thập niên 1980, đầu thập niên 1990, Quảng Nam-Đà Nẵng là một câu lạc bộ mạnh, đỉnh cao là khi vươn tới chức vô địch quốc gia năm 1992 cùng ba lần giành ngôi á quân vào các năm 1987, 1990 và 1991. Đến trước mùa giải 2008, Câu lạc bộ Bóng đá Đà Nẵng đổi tên thành SHB Đà Nẵng sau khi Sở Thể dục Thể thao Thành phố Đà Nẵng chuyển giao đội bóng cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội. Kể từ thời điểm này, đội bóng giành được 2 chức vô địch V-league các năm 2009, 2012; 1 chức vô địch Cúp Quốc gia năm 2009; 1 Siêu cúp QG năm 2012 cùng 1 lần Á quân và 2 lần hạng ba. SHB Đà Nẵng từng sở hữu Sân vận động Chi Lăng với sức chứa 30.000 người và được xem là một trong những sân vận động lớn nhất Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay toàn bộ khu đất rộng 5,5 ha trong đó có Sân vận động Chi Lăng đang bị bỏ hoang một cách lãng phí. Sau này được cho xây dựng Sân vận động Hòa Xuân", "Thể thao phong trào ở Đà Nẵng còn rất hạn chế. Số công trình thể thao phục vụ nhu cầu rèn luyện sức khỏe của người dân tại các quận nội thành chỉ đếm trên đầu ngón tay và chủ yếu tập trung tại các bãi biển. Trong số sáu quận nội thành, mới chỉ có quận Sơn Trà được đầu tư xây dựng nhà tập luyện, quận Ngũ Hành Sơn có sân vận động còn những nơi khác vẫn chưa được đầu tư đầy đủ. Dù thành phố có các công trình thể thao đúng chuẩn như Cung Thể thao Tiên Sơn, Câu lạc bộ Bơi lặn, Câu lạc bộ Đua thuyền Đồng Nghệ, Trung tâm Thể dục Thể thao Người cao tuổi, Nhà tập luyện taekwondo nhưng có những công trình vẫn chưa được sử dụng hết công năng, gây lãng phí và thất thoát lớn.", "Đà Nẵng là thành phố đầu tiên của Việt Nam tổ chức thành công Đại hội Thể thao Bãi biển châu Á 2016.", "Văn hóa.", "Các địa điểm văn hóa, giải trí.", "Trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có khá nhiều điểm vui chơi, văn hóa giải trí. Trên cơ sở một nhà hát cũ đã xuống cấp, Nhà hát Trưng Vương được xây mới và khánh thành năm 2006 với sức chứa hơn 1.200 chỗ ngồi. Đây là nơi thường xuyên tổ chức biểu diễn các loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống như tuồng, cải lương và nghệ thuật sân khấu hiện đại như: vũ kịch, múa ba lê, opera, nhạc giao hưởng...các hội thảo, hội nghị và các sự kiện văn hóa lớn của thành phố.", "Dành cho sân khấu tuồng ở thành phố có Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh, tiền thân là Đoàn tuồng Giải phóng Quảng Nam. Nhà hát mang tên nhà sáng tác, nghệ sĩ và người thầy Nguyễn Hiển Dĩnh, người có công lớn trong nghệ thuật tuồng Việt Nam. Nhà hát vẫn duy trì lịch biểu diễn vào thứ 4 và thứ 7 hàng tuần. Năm 2001, thành phố đã đầu tư 6 tỷ đồng để nâng cấp nhà hát.", "Cho đến năm 2013, thành phố Đà Nẵng có năm bảo tàng bao gồm: Bảo tàng Nghệ thuật Điêu khắc Chăm Đà Nẵng, Bảo tàng Đà Nẵng, Bảo tàng Khu V, Bảo tàng Hồ Chí Minh (chi nhánh Quân khu V) và Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng. Trong số đó, Bảo tàng Điêu khắc Chăm có tiền thân là Bảo tàng Chàm được Trường Viễn Đông Bác Cổ cho xây dựng từ 1915-1916 đến năm 1936 mới hoàn tất. Bộ sưu tập nguyên thủy là do Nhà khảo cổ Henri Parmentier thu thập từ thế kỷ XIX. Không gian của tòa nhà bảo tàng gần 1.000 m² với 500 hiện vật được bố trí trưng bày trong các phòng chủ đề khác nhau. Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng là một trong ba bảo tàng về mỹ thuật của cả nước và cũng là nơi lưu giữ và tổ chức trưng bày, giới thiệu đến công chúng các tác phẩm mỹ thuật có chất lượng nghệ thuật và các sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống của các họa sĩ, nhà điêu khắc, nghệ nhân ở Đà Nẵng và các tỉnh, thành khu vực miền Trung – Tây Nguyên. Bảo tàng Lịch sử thành phố Đà Nẵng được xây dựng trong khu vực Thành Điện Hải với mặt bằng trưng bày hơn 2.000 m². Thành phố cũng dự kiến xây dựng Bảo tàng Hải dương học.", "Về hệ thống thư viện, năm 2012, thành phố có 3/8 quận, huyện và 13/56 xã có thư viện, 22 tủ sách tại các thôn, tổ dân phố... Hầu hết các thư viện đều ở trong tình trạng chật hẹp, nghèo nàn về đầu sách và không thu hút được người đọc. Riêng Thư viện Khoa học Tổng hợp Đà Nẵng hiện có khoảng 180.000 bản sách/68.000 tên, trong đó đặc biệt có 3000 bản có giá trị cao nhưng đang trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng. Dự án xây dựng công trình Thư viện Khoa học Tổng hợp với tổng vốn đầu tư hơn 280 tỷ đồng được phê duyệt vào năm 2010 và đưa vào hoạt động năm 2015 có thể đáp ứng nhu cầu cho người đọc ở mọi lứa tuổi, nghề nghiệp.", "Thành phố Đà Nẵng có nhiều rạp chiếu phim. Rạp chiếu phim CGV Cinemas nằm trong tòa nhà Vĩnh Trung Plaza gồm 6 phòng chiếu và 854 ghế ngồi được khai trương từ ngày 3 tháng 7 năm 2008. Vào ngày 30 tháng 6 năm 2015, CGV Cinemas đã khai trương thêm một rạp chiếu phim tại Vincom Đà Nẵng. Ngoài ra còn có các rạp khác như Lotte Cinema Đà Nẵng nằm trên tầng 5 và 6 của khu trung tâm mua sắm Lotte Mart với bốn phòng chiếu riêng biệt; Galaxy Cinema nằm trong siêu thị Co.opmart; Starlight nằm ở tầng 4 của chợ Siêu thị Đà Nẵng. Với ưu thế về công nghệ, trang bị hiện đại, nên lượng khán giả đổ về hai rạp này ngày càng nhiều. Trong khi đó, rạp phim Lê Độ (rạp chiếu phim lâu đời nhất ở Đà Nẵng) và Cinema Fafilm rất vắng người vì không gian nhỏ, chất lượng âm thanh và hình ảnh kém. Các quán bar, vũ trường cũng là điểm đến của một bộ phận thanh niên Đà Nẵng. Lớn nhất Đà Nẵng là Vũ trường New Phương Đông nằm trên đường Đống Đa, quận Hải Châu.", "Công viên Châu Á - Asia Park Đà Nẵng do Tập đoàn Sun Group làm chủ đầu tư có diện tích 868.694 m² bên bờ Tây sông Hàn bao gồm 3 khu vực chính: công viên giải trí ngoài trời hiện đại, công viên văn hóa với các công trình kiến trúc và nghệ thuật thu nhỏ mang tính biểu trưng của 10 quốc gia châu Á và khu Sun Wheel - nơi giao thoa giữa nét hiện đại và truyền thống. Công viên giải trí tại Asia Park mang đến hàng loạt trò chơi độc đáo như tàu lượn siêu tốc, tàu điện trên cao, tháp rơi tự do, máng trượt tốc độ cao... mang đến cho du khách và người dân nhiều trải nghiệm thú vị. Công viên văn hóa mở ra một không gian phương Đông qua từng nét văn hóa đa dạng, các công trình kiến trúc lịch sử và những hoạt động nghệ thuật, ẩm thực độc đáo của 10 quốc gia châu Á: Nhật Bản, Indonesia, Singapore, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nepal, Thái Lan, Campuchia, Trung Quốc và Việt Nam.", "Công viên 29 tháng 3 nằm trên đường Điện Biên Phủ quận Thanh Khê với diện tích 20 ha chủ yếu là nơi người dân đến tập thể dục và đi dạo. Năm 2010, khu công viên trên Bãi biển Phạm Văn Đồng được Hội đồng Nhân dân Thành phố ra nghị quyết đặt tên là \"Công viên Biển Đông\". Đây còn được xem là \"Công viên hòa bình\" với đàn chim bồ câu hơn 1.000 con, là nơi nhiều đôi uyên ương chọn làm địa điểm chụp ảnh cưới và là địa điểm tổ chức lễ hội của thành phố. Hiện nay, thành phố đang chủ trương xây dựng một số công viên có quy mô lớn như công viên vui chơi giải trí quy mô 4.000 tỷ đồng dọc theo bờ tây sông Hàn hay Công viên Đại dương Sơn Trà được đầu tư 200 triệu đô la Mỹ. Ngoài ra, Đà Nẵng còn có Công viên Thanh niên nằm trên đường Xuân Thủy với diện tích 21 ha, thuộc địa bàn phường Hòa Cường Nam, quận Hải Châu và phường Khuê Trung, quận Cẩm Lệ, trong đó có một hồ điều hòa rộng hơn 9 ha là địa điểm vui chơi giải trí cho các hoạt động thanh niên, thiếu nhi cũng như người dân thành phố như cắm trại, sinh hoạt Đoàn-Đội.", "Làng nghề.", "Trải qua những thử thách khốc liệt của thời gian, chiến tranh loạn lạc, những làng nghề Đà Nẵng vẫn giữ cho mình nét hồn hậu, chân chất. Hết đời nọ đến đời kia, họ sống với nghề không chỉ bởi miếng cơm, tấm áo mà còn vì cái tâm của con người trên mảnh đất đã nuôi sống họ. Đà Nẵng có một số làng nghề truyền thống. Nổi tiếng nhất là Làng đá Mỹ nghệ Non Nước. Làng đá nằm dưới chân núi Ngũ Hành Sơn thuộc phường Hòa Hải - quận Ngũ Hành Sơn. Nghề chế tác đá ở đây được hình thành vào thế kỷ XVIII do một nghệ nhân đến từ Thanh Hóa tên là Huỳnh Bá Quát sáng lập. Từ vật liệu là đá cẩm thạch, những nghệ nhân nơi đây chế tác thành các tác phẩm tượng Phật, tượng người, tượng thú, vòng đeo tay... Tuy nhiên sự phát triển nhanh của làng nghề trong những năm gần đây đã dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước uống do các hộ đều dùng axít để tẩy rửa và tạo độ bóng cho đá. Bên cạnh đó, bụi đá và tiếng ồn cũng ảnh hưởng đến sức khỏe người dân.", "Làng chiếu Cẩm Nê nằm cách trung tâm thành phố 14 km về phía tây nam thuộc xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang. Nơi đây từ lâu đã nổi tiếng với các loại chiếu hoa truyền thống. Nghề chiếu Cẩm Nê có nguồn gốc từ Hoằng Hóa, Thanh Hóa theo chân các cư dân người Việt đến cư trú ở vùng đất này vào thế kỷ XV. Chiếu hoa Cẩm Nê đã từng được hiện diện trong cung vua nhà Nguyễn; những nghệ nhân Cẩm Nê xưa cũng đã từng được các triều đại vua sắc phong, ban thưởng. Chiếu Cẩm Nê có ưu điểm là viền chiếu được gấp kỹ hơn, dày hơn, bền hơn, nằm êm lưng hơn so với chiếu của các địa phương khác. Mùa hè nằm chiếu thấy mát; mùa đông nằm ấm và tỏa hương đồng cỏ nội dịu nhẹ.", "Gắn với nghề cá và truyền thống đi biển của ngư dân, ở Đà Nẵng còn có Làng nghề Nước mắm Nam Ô được hình thành vào đầu thế kỷ XX. Nam Ô là làng đánh cá nhỏ nằm ở cửa sông Cu Đê, nay thuộc phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu. Đặc trưng nhất của nước mắm Nam Ô là được chế biến từ cá cơm than, đánh bắt vào tháng ba âm lịch. Chum để muối cá phải bằng gỗ mít, dưới đáy chum phải chèn sạn, chổi đót và phải lọc nước mắm bằng chuộc mới đảm bảo nước mắm tinh chất, thơm đậm. Muối ướp cá phải là muối lấy từ Nha Trang (Khánh Hòa), Quảng Ngãi và Bình Thuận. Hạt muối phải trắng tinh, to, già, được nắng, không bị nước mưa, mang về đổ trên nền xi măng khô ráo bảy ngày cho chảy hết chất nước đắng, sau đó cho vào vại cất vài năm rồi mới đem ra làm. Một chum 200–300 kg cá, sau 12 tháng cho ra 100-150 lít nước mắm loại 1. Còn lại là nước mắm loại 2 và loại 3. Sau một thời gian bị mai một bởi nghề làm pháo (Làng pháo Nam Ô) thì vào năm 2006, Chính phủ Việt Nam đã hỗ trợ 12 tỷ đồng để phục hồi làng nghề.", "Lễ hội.", "Các lễ hội truyền thống của Đà Nẵng đã có từ rất xưa và được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Lễ hội của ngư dân Đà Nẵng được gọi là lễ hội Cá Ông. \"Ông\" là tiếng gọi tôn kính của ngư dân dành riêng cho cá voi, loài cá thường giúp họ vượt qua tai nạn trên biển cả. Lễ tế cá Ông thường được lồng ghép dưới hình thức lễ hội cầu ngư và lễ ra quân đánh bắt vụ cá Nam. Tại Đà Nẵng, lễ hội được tổ chức trong hai ngày vào trung tuần tháng 3 âm lịch ở những vùng ven biển như Thọ Quang, Mân Thái, Thanh Lộc Đán, Xuân Hà, Hòa Hiệp... Trong ngày lễ, bên cạnh việc cúng tế cầu mong một mùa đánh bắt bội thu, thuyền bè đi khơi về lộng an toàn, dân làng còn làm lễ rước trên biển. Trong phần hội, có các trò chơi dân gian đặc trưng của vùng biển như lắc thúng, đua thuyền, bơi lội, kéo co... Một hình thức múa hát đặc trưng diễn ra trong lễ hội là múa \"hát bả trạo\" diễn tả tinh thần đoàn kết giữa các thành viên trong một con thuyền, vượt qua sóng to gió cả, mang về một mùa bội thu cho ngư dân.", "Lễ hội lớn nhất ở Đà Nẵng là Lễ hội Quán Thế Âm được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1960. Sau một thời gian bị gián đoạn, lễ hội được khôi phục từ năm 1991, đến năm 2000 thì được công nhận là lễ hội cấp quốc gia và hiện là một trong 15 lễ hội lớn nhất cả nước. Lễ hội được tổ chức vào các ngày từ 17 - 19 tháng 2 âm lịch hàng năm tại Chùa Quán Thế Âm, nằm trong quần thể danh thắng Ngũ Hành Sơn. Trong phần lễ, đặc sắc nhất là lễ rước tượng Quán Thế Âm. Ngoài ra còn có hội hoa đăng, hội đua thuyền truyền thống, biểu diễn võ thuật, chơi hô \"hát bài chòi\"... Mặc dù Ủy ban Nhân dân thành phố đã có nhiều biện pháp chấn chỉnh nhưng trong lễ hội vẫn còn tình trạng người lang thang ăn xin, người mù bán hương xin ăn trá hình hay tình trạng trông giữ xe với giá quá cao.", "Ngoài ra ở Đà Nẵng còn có một loạt các lễ hội gắn liền với các đình làng như: lễ hội Đình làng Hòa Mỹ (quận Liên Chiểu), Đình làng An Hải (huyện Hòa Vang), Đình làng Túy Loan (huyện Hòa Vang)... Các lễ hội này đều nhằm thể hiện đạo lý \"uống nước nhớ nguồn\", cầu cho quốc thái dân an, nhân dân trong làng được hanh thông an lạc. Những năm gần đây, Đà Nẵng đã tạo cho mình những lễ hội mới như lễ hội đua thuyền được tổ chức vào ngày quốc khánh 2 tháng 9 hàng năm trên sông Hàn.", "Lễ hội Pháo hoa Quốc tế (tên tiếng Anh: \"Danang International Fireworks Festival\", viết tắt: DIFF) được tổ chức lần đầu tiên vào năm 2008, trước đây thường được tổ chức vào dịp lễ 30 tháng 4, nhưng nay Lễ hội này thường được tổ chức kéo dài trong 1 tháng (thông thường vào khoản thời gian tháng 6 hoặc tháng 7) để kết hợp cùng các hoạt động khác để tạo thêm nhiều điều thú vị, thu hút hàng nghìn người đến Đà Nẵng. Lễ hội pháo hoa năm 2013 đã có tới gần 400.000 lượt người đến thành phố.", "Ẩm thực.", "Ẩm thực Đà Nẵng chịu ảnh hưởng của ẩm thực vùng ven biển miền Trung Việt Nam, đặc biệt là vùng đất xứ Quảng nhưng vẫn có những nét đặc trưng riêng. Gỏi cá Nam Ô gắn liền với tên làng biển Nam Ô. Cá để chế biến là cá mòi, cá tớp, cá cơm... nhưng ngon nhất là cá trích. Trước khi ướp, cá được ép lấy nước để làm ráo cá và lấy nước cốt này làm món nước chấm. Rau ăn kèm với gỏi cá Nam Ô rất đa dạng và chỉ mọc trên đèo Hải Vân như cóc rừng, tim lan, lành ngạnh, lá trâm, lá dừng... đã mang lại hương vị riêng cho món gỏi cá sống.", "Cẩm Lệ thuộc phường Khuê Trung, quận Hải Châu có món bánh khô mè nổi tiếng trong đó người đi \"tiên phong\" là bà Huỳnh Thị Điểu, thường gọi là bà Liễu. Bánh khô mè được làm từ bột gạo, bột nếp, đường kính, gừng và mè. Bột gạo pha với bột nếp được cho vào khuôn, hấp cách thủy, nướng khô, \"tắm\" đường, \"tắm\" mè... Ruột bánh xốp giòn, đường dẻo, mè chín thơm, thường được người dân dâng cúng ông bà tổ tiên trong những ngày giỗ tết. Hiện nay bánh được sản xuất, tiêu thụ quanh năm cả trong và ngoài nước. Bên cạnh đó còn có bánh tráng Túy Loan. Theo phong tục của người dân Túy Loan cứ mỗi dịp lễ tết nhất là những ngày giỗ kỵ bánh tráng là món ăn không thể thiếu trên mâm cúng gia tiên.", "Đà Nẵng còn có một món ăn được rất nhiều người biết đến đó là Chả bò Đà Nẵng. Được làm hoàn toàn từ thịt bò và các gia vị như tiêu, tỏi... theo cách của người Đà Nẵng nên cho ra món ăn có hương vị rất ngon và được nhiều thực khách mua để làm quà, đặc biệt là người miền Nam. Bên cạnh đó, có món trà sâm dứa hoa lài Đà Nẵng cũng rất nổi tiếng.", "Ngoài ra ở Đà Nẵng còn có nhiều món ăn ngon tuy không gắn liền với tên một địa danh cụ thể nhưng vẫn mang những nét đặc trưng riêng như món Mì Quảng Đà Nẵng, Bánh xèo Đà Nẵng, Bánh tráng cuốn Thịt heo, thịt Bê thui, Bún chả cá, bún mắm, mít trộn, ốc hút, bò né...", "Quan hệ quốc tế.", "Thành phố kết nghĩa.", "Đà Nẵng là thành phố kết nghĩa với:", "<templatestyles src=\"Div col/styles.css\"/>", "Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.", " Hải Phòng, Việt Nam", "Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.", " Battambang, Campuchia", "Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.", " Champasak, Lào", "Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.", " Savannakhet, Lào", "Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.", " Kunming, Trung Quốc", "Hợp tác và tình hữu nghị.", "Ngoài các thành phố kết nghĩa, Đà Nẵng còn hợp tác với:", "<templatestyles src=\"Div col/styles.css\"/>", "Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.", " Attapeu, Lào", "Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.", " Saravane, Lào", "Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.", " Sekong, Lào", "Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.", " Kolkata, Tây Bengal, Ấn Độ", "Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.", " Surat, Gujarat, Ấn Độ", "Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.", " Sơn Đông, Trung Quốc", "Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.", " Macao, Trung Quốc", "Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.", " Borås, Västergötland, Thụy Điển", "Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.", " Salo, Phần Lan", "Liên kết ngoài.", "Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ." ]
1001
715442
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1001
21 tháng 4
[ "Ngày 21 tháng 4 là ngày thứ 111 trong mỗi năm thường (ngày thứ 112 trong mỗi năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 254 ngày nữa trong năm." ]
1002
70370893
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1002
22 tháng 4
[ "Ngày 22 tháng 4 là ngày thứ 112 trong mỗi năm thường (ngày thứ 113 trong mỗi năm nhuận). Còn 253 ngày nữa trong năm.", "Ngày 22/4 (ngày Trái Đất) còn là một ngày vô cùng may mắn, thuận lợi. Người Hy Lạp cho rằng đây là ngày của sự khởi đầu và mãi mãi, họ còn lấy ngày này làm ngày lễ cho mùa màng đầu tháng 5. Cùng với nữ thần Horae người Hy Lạp tin rằng mùa màng sẽ bội thu và suôn sẻ." ]
1004
69662210
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1004
23 tháng 4
[ "Ngày 23 tháng 4 là ngày thứ 113 trong mỗi năm thường (ngày thứ 114 trong mỗi năm nhuận). Còn 252 ngày nữa trong năm." ]
1007
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1007
Firefox
[ "Firefox, còn được biết đến với cái tên Mozilla Firefox, là một trình duyệt web mã nguồn mở tự do xuất phát từ Gói Ứng dụng Mozilla, do Tập đoàn Mozilla quản lý. Firefox đạt được 25% thị phần trình duyệt web vào tháng 12 năm 2011, khiến nó trở thành trình duyệt phổ biến thứ hai trên thế giới, sau Internet Explorer. Trình duyệt này giành được thành công đặc biệt tại Đức và Ba Lan với tỉ lệ sử dụng cao nhất (52%).", "Để hiển thị các trang web, Firefox sử dụng bộ máy trình bày Gecko, vốn bao gồm đầy đủ một số tiêu chuẩn web hiện nay cộng thêm một vài tính năng có thể sẽ được chuẩn hóa trong tương lai.", "Firefox có các tính năng duyệt web theo thẻ, kiểm tra chính tả, tìm ngay lúc gõ từ khóa, đánh dấu trang trực tiếp (live bookmarking), trình quản lý tải xuống, và một hệ thống tìm kiếm tích hợp sử dụng bộ máy tìm kiếm do người dùng tùy chỉnh. Nhiều chức năng có thể bổ sung vào trình duyệt thông qua tiện ích (add-on) do nhà phát triển thứ ba tạo ra, một số tiện ích thông dụng nhất bao gồm tiện ích tắt JavaScript NoScript, trình tùy biến Tab Mix Plus, thanh công cụ chơi media FoxyTunes, tiện ích chặn quảng cáo Adblock Plus, StumbleUpon (khám phá trang web), Foxmarks Bookmark Synchronizer (đồng bộ hóa trang đánh dấu), trình cải thiện việc tải xuống DownThemAll!, và thanh công cụ Web Developer.", "Firefox chạy được trên các phiên bản khác nhau của Microsoft Windows, Mac OS X, Linux, và nhiều hệ điều hành Tương tự Unix khác. Phiên bản ổn định mới nhất là bản 3.5, phát hành vào tháng 6 năm 2009. Mã nguồn của Firefox là phần mềm tự do, được phát hành theo một bộ ba giấy phép GPL/LGPL/MPL.", "Mozilla là tổ chức phi lợi nhuận (đối với người sử dụng). Nhưng lý do khiến Firefox được liên tục phát triển và quảng cáo rầm rộ là vì Mozilla được Google trả tiền để đặt Google làm công cụ tìm kiếm mặc định. Số tiền Mozilla được trả rất lớn, chiếm 85% doanh thu của cả tập đoàn này. Càng nhiều người dùng Firefox thì sẽ có càng nhiều người dùng Google làm công cụ tìm kiếm. Google sẽ thu lại tiền từ các link quảng cáo trong kết quả tìm kiếm. Đây cũng chính là lý do khiến Google là trang chủ của Firefox.", "Lịch sử.", "Dave Hyatt và Blake Ross bắt đầu làm việc với dự án Firefox như là một nhánh thử nghiệm của dự án Mozilla. Họ tin rằng các yêu cầu thương mại từ sự tài trợ của Netscape và việc cần có sự chỉ đạo của nhà phát triển sẽ làm tổn hại đến tính tiện ích của trình duyệt Mozilla. Để đấu tranh với những gì mình thấy khi Mozilla Suite trở thành một đống hỗn độn, họ đã tạo ra một trình duyệt đơn lẻ với ý định thay thế Mozilla Suite. Vào ngày 3 tháng 4 năm 2003, Tổ chức Mozilla thông báo rằng họ đã lên kế hoạch chuyển sự tập trung từ Mozilla Suite sang Firefox và Thunderbird.", "Dự án Firefox đã trải qua nhiều lần đổi tên. Ban đầu có tên là \"Phoenix\", nó đã được đặt tên lại do gặp vấn đề nhãn hiệu thương mại với Phoenix Technologies. Tên thay thế, \"Firebird\", lại gây ra phản ứng mạnh mẽ từ dự án phần mềm cơ sở dữ liệu tự do Firebird. Đáp lại, Quỹ Mozilla khẳng định rằng trình duyệt sẽ luôn mang tên \"Mozilla Firebird\" để tránh gây nhầm lẫn với phần mềm cơ sở dữ liệu đó. Nhưng áp lực liên tục từ cộng đồng phát triển của máy chủ cơ sở dữ liệu đó khiến họ bắt buộc phải đổi tên một lần nữa; vào ngày 9 tháng 2 năm 2004, Mozilla Firebird đã trở thành \"Mozilla Firefox\", thường được gọi là \"Firefox.\" Mozilla thích viết tắt Firefox là \"Fx\" hoặc \"fx\" hơn, mặc dù nó vẫn thường được viết tắt là \"FF\".", "Dự án Firefox trải qua nhiều phiên bản trước khi bản 1.0 được phát hành ngày 9 tháng 11 năm 2004. Sau một loạt các bản sửa lỗi bảo mật và ổn định, Quỹ Mozilla phát hành bản cập nhật lớn đầu tiên, Firefox phiên bản 1.5, vào ngày 29 tháng 11 năm 2005. Vào ngày 24 tháng 10 năm 2006, Mozilla phát hành Firefox 2. Phiên bản này bao gồm các cập nhật cho môi trường duyệt web theo thẻ, trình quản lý phần mở rộng, giao diện (GUI), khả năng tìm kiếm và bộ máy cập nhật phần mềm; tính năng khôi phục phiên làm việc; kiểm tra chính tả ngay trong trình duyệt; và tính năng chống lừa đảo trực tuyến được bổ sung nhờ một phần mở rộng của Google, và sau này cũng đã được tích hợp vào trong chương trình. Vào tháng 12 năm 2007, Firefox Chat Trực Tuyến đã được đưa ra. Nó cho phép người dùng hỏi những tình nguyện viên thông qua một hệ thống hỗ trợ bởi Jive Software, bảo đảm cho nhiều giờ hoạt động và khả năng trợ giúp sau đó vài giờ.", "\"Bài viết đầy đủ: Mozilla Firefox 3\"", "Phiên bản 3.0.", "Mozilla Firefox 3 được phát hành ngày 16 tháng 6 năm 2008 bởi Tập đoàn Mozilla. Firefox 3 sử dụng phiên bản 1.9 của bộ máy trình bày Mozilla Gecko để hiển thị trang web. Phiên bản mới sửa nhiều lỗi, cải tiến khả năng tương thích chuẩn, và bổ sung các API web mới. Các tính năng mới khác bao gồm trình quản lý tải xuống đã được thiết kế lại, một hệ thống \"Địa điểm\" mới để lưu trữ các trang đánh dấu và lược sử, và giao diện riêng cho các hệ điều hành khác nhau. Phiên bản hiện tại là Firefox 3.0.5.", "Quá trình phát triển kéo dài liên tục từ bản Firefox 3 beta đầu tiên (có tên mã 'Gran Paradiso') được phát hành từ trước đó vài tháng vào ngày 19 tháng 11 năm 2007, theo sau đó là vài phiên bản beta vào mùa xuân 2008 cho đến bản phát hành cuối cùng vào tháng 6.", "Firefox 3 đạt được 15.57% thị phần trình duyệt web vào tháng 11 năm 2008, và đã có hơn 8 triệu lượt tải xuống vào ngày nó được phát hành, tạo ra một Kỉ lục Thế giới Guinness.", "Tính năng tương lai.", "Tính năng chơi tập tin video trong trình duyệt, có mã nguồn mở, đang được dự tính đưa vào Firefox, theo lời Mitchell Baker, cựu Tổng giám đốc của Mozilla. Mục đích là nhằm chơi các tập tin video mà không phải lo gặp trở ngại với các vấn đề về bằng sáng chế đi kèm trong các công nghệ video.", "Baker cũng nhắc tới dự án khác của Quỹ Mozilla, đó là tạo ra một phiên bản của Firefox, tên mã Fennec, chạy được trên điện thoại di động, cũng như chiến lược đồng bộ nội dung trên PC với các thiết bị cầm tay di động.", "Trong khi đó, công nghệ hỗ trợ ứng dụng ngoại tuyến-tương tự như Gears—cũng được xây dựng như là một phần của Firefox. Baker đã nói trong một cuộc phỏng vấn rằng, đầu tư nhiều vào web cũng để nhằm đưa nó đến bước tiếp theo, đó là các ứng dụng phải tiếp tục làm việc được ngay cả lúc máy tính không còn kết nối internet.", "Tính năng.", "Những người phát triển Firefox chủ trương tạo ra một trình duyệt \"chỉ để lướt web\" và đem \"trải nghiệm duyệt web tốt nhất có thể tới lượng người nhiều nhất có thể.\"", "Người dùng có thể tùy biến Firefox với phần mở rộng và giao diện. Mozilla duy trì một kho tiện ích tại addons.mozilla.org với gần 6500 tiện ích tính tới tháng 12 năm 2008. ", "Firefox cung cấp một môi trường cho các nhà phát triển web, trong đó họ có thể sử dụng các công cụ có sẵn, ví dụ như bảng kiểm soát lỗi, hoặc DOM Inspector, hoặc các phần mở rộng, ví dụ Firebug.", "Quốc tế hóa và Bản địa hóa.", "Những người đóng góp tự nguyện trên toàn thế giới đã cộng tác với nhau trong việc dịch ngôn ngữ của trình duyệt Firefox ra rất nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế giới, cả một số ngôn ngữ rất ít được bản địa hóa, như tiếng Chichewa, nhưng hiện tại vẫn còn một số ngôn ngữ chưa được chuyển ngữ như tiếng Latvia, tiếng Malaysia, tiếng Ả Rập, tiếng Thái, tiếng Hindi và tiếng Ba Tư. Do sử dụng DTD và tệp codice_1 để sắp xếp các từ, chuỗi được hiển thị trong chương trình, nên ngay cả người dùng không có kiến thức về lập trình cũng có thể dịch ngôn ngữ của Firefox sang ngôn ngữ mẹ đẻ của mình chỉ cần một trình soạn thảo văn bản.", "Hiện tại, đã có phiên bản hỗ trợ tiếng Việt.", "Tiêu chuẩn.", "Mozilla Firefox tích hợp nhiều tiêu chuẩn web, bao gồm HTML, XML, XHTML, SVG 1.1 (một phần), CSS (dùng với phần mở rộng), ECMAScript (JavaScript), DOM, MathML, DTD, XSLT, XPath, và (ảnh động) PNG với độ trong suốt alpha. Firefox cũng tích hợp nhiều chuẩn tương lai được tạo bởi WHATWG như lưu trữ trên máy khách, and canvas element.", "Firefox vượt qua phép thử tương-thích-chuẩn Acid2 từ phiên bản 3.0. Giống tất cả các trình duyệt ổn định khác #đổi , Firefox 3.0 không vượt qua phép thử Acid3; nó đạt 71/100 điểm và không vẽ được hình ảnh chính xác.", "Bảo mật.", "Firefox sử dụng mô hình bảo mật hộp cát, và hạn chế mã kịch bản truy nhập dữ liệu từ các trang web khác dựa trên chính sách nguồn giống nhau. Nó dùng SSL/TLS để bảo vệ các liên lạc với các máy chủ web bằng chế độ mã hóa mạnh cryptography khi sử dụng giao thức https. Nó cũng cung cấp sự hỗ trợ đối với các ứng dụng web đề sử dụng smartcards cho mục đích xác thực.", "Quỹ Mozilla đưa ra chế độ \"bug bounty\" cho những người khám phá ra các lỗ hổng bảo mật nghiêm trọng của Firefox. Các hướng dẫn chính thức cho việc kiểm soát lỗ hổng bảo mật cũng không khuyến khích việc hé lộ trước các thông tin về lỗ hổng, nhằm tránh tạo ra lợi thế cho các tay tin tặc tiềm ẩn.", "Bởi vì Firefox có ít lỗ hổng bảo mật chưa vá bị công khai, hơn Internet Explorer (xem \"So sánh các trình duyệt web\"), tính năng bảo mật cải tiến thường được ghi nhận là một lý do để chuyển từ Internet Explorer sang Firefox. \"Thời báo Washington\" đưa tin rằng mã khai thác lỗ hổng bảo mật nghiêm trọng chưa được vá trong Internet Explorer tồn tại trong suốt 284 ngày vào năm 2006. Trong khi đó, mã khai thác lỗ hổng bảo mật nghiêm trọng chưa được vá trong Firefox chỉ tồn tại trong 9 ngày trước khi Mozilla đưa ra bản vá.", "Một nghiên cứu năm 2006 của Symantec nói rằng mặc dù Firefox có nhiều lỗ hổng hơn các trình duyệt khác tính đến tháng 9 của năm, những lỗ hổng này vẫn được vá nhanh hơn các trình duyệt khác rất nhiều. Symantec sau đó đã sửa lại tuyên bố của mình, và nói rằng Firefox vẫn có ít lỗ hổng bảo mật hơn Internet Explorer, theo tính toán của những nhà nghiên cứu bảo mật. Vào ngày 10 tháng 12 năm 2008, Firefox 3 chỉ có một lỗ hổng bảo mật chưa được vá theo lời Secunia. Internet Explorer 7 lại có tới 10 lỗ hổng bảo mật chưa vá, trong đó cái nặng nhất được đánh giá là \"cực kì nghiêm trọng\" bởi Secunia.", "Sự chiếm lĩnh thị trường.", "Thị phần.", "Người dùng web đã chấp nhận Firefox một cách rất nhanh chóng, bất chấp sự có mặt của Internet Explorer trên hầu hết các máy tính Microsoft Windows NT. Internet Explorer bị giảm sút thị phần dần dần kể từ khi Firefox ra mắt. Theo NetApplications, Firefox đạt được 20,78% thị phần trình duyệt web vào tháng 11 năm 2008, khiến nó trở thành trình duyệt phổ biến thứ hai trên thế giới, sau Internet Explorer.", "Tại Châu Âu, theo như một nghiên cứu của XiTi vào tháng 3 năm 2008, tỉ lệ sử dụng Firefox cao hơn, trung bình khoảng 28.8%. Tỉ lệ sử dụng cao nhất là ở Phần Lan (khoảng 45.9% tính đến tháng 3 năm 2008).", "Phản hồi chủ yếu.", "\"Forbes.com\" gọi Firefox là trình duyệt tốt nhất trong một bài phê bình vào năm 2004, và \"PC World\" đặt cho Firefox danh hiệu \"Sản phẩm của Năm\" vào năm 2005 trên danh sách \"100 Sản phẩm Tốt nhất của năm 2005\" của họ. Sau các lần phát hành của Firefox 2 và Internet Explorer 7 vào năm 2006, \"PC World\" đánh giá cả hai và tuyên bố rằng Firefox vẫn là trình duyệt tốt hơn. Tạp chí \"Which?\" đặt cho Firefox danh hiệu trình duyệt web \"Best Buy\". Vào năm 2008, CNET.com so sánh Safari, Chrome, Firefox, và Internet Explorer trong bài viết \"Cuộc chiến của các Trình duyệt\", về hiệu năng hoạt động, tính bảo mật, và tính năng, trong đó Firefox lại tiếp tục đoạt danh hiệu cao nhất.", "Hiệu năng hoạt động.", "Vào tháng 12 năm 2005, tờ \"Internet Week\" có một bài báo đưa tin rằng nhiều người đọc đã báo về việc sử dụng nhiều bộ nhớ của Firefox 1.5. Các nhà phát triển Mozilla nói rằng việc sử dụng nhiều bộ nhớ của Firefox 1.5 một phần là do tính năng tiến-và-lùi-trang nhanh (FastBack). Các nguyên nhân đã biết khác gồm các phần mở rộng hoạt động sai như Google Toolbar và một số phiên bản cũ của Adblock, hoặc phần bổ trợ, như các phiên bản cũ của Adobe Acrobat Reader. Khi \"PC Magazine\" so sánh việc sử dụng bộ nhớ của Firefox, Opera và Internet Explorer, họ nhận thấy rằng Firefox sử dụng lượng bộ nhớ tương đương với hai trình duyệt kia.", "Sau này, tình hình đã khác. Các cuộc kiểm tra thực hiện bởi \"PC World\" và Zimbra cho thấy Firefox 2 sử dụng ít bộ nhớ hơn Internet Explorer 7. Firefox 3 thậm chí còn sử dụng ít bộ nhớ hơn Internet Explorer, Opera, Safari, và Firefox 2 trong các cuộc kiểm tra thực hiện bởi Mozilla, CyberNet, và The Browser World.", "Để biết thêm chi tiết xem: Sự phổ biến Firefox", "Chiến dịch phổ biến Firefox.", "Sự chấp nhận nhanh chóng Firefox của người dùng trong thời gian vừa qua một phần cũng do một loạt các chiết dịch quảng cáo tiếp thị từ năm 2004. Ví dụ Blake Ross và Asa Dotzler tổ chức một loạt các sự kiện lấy tên là \"tuần lễ tiếp thị\".", "Ngày 14 tháng 9 năm 2004 một cổng tiếp thị được thành lập lấy tên \"Spread Firefox\" (SFX), cổng này tạo ra một môi trường tập trung để thảo luận rất nhiều kỹ thuật tiếp thị. Cổng này tăng cường nút \"tải về Firefox\" (\"Get Firefox\"), cung cấp cho người dùng thêm một \"điểm tham khảo\", khuyến khích người dùng tải về Firefox để dùng thử. Trang web lập một danh sách 250 người tải về chương trình gần thời điểm thống kê nhất. Từng giây từng phút, nhóm SFX hoặc thành viên của nhóm cập nhật các tất cả các sự kiện tại trang web Spread Firefox.", "Firefox di động.", "Firefox di động là một sản phẩm đóng gói lại của Firefox, được thiết kế để chạy trên ổ đĩa USB, iPod, ổ đĩa cứng ngoài hoặc các thiết bị di động khác. Nó ra đời trong luồng MozillaZine vào tháng 6 năm 2004. John T. Haller phát hành phiên bản đóng gói đầu tiên và dẫn dắt nó phát triển xa hơn. Nó bao gồm công cụ thực thi đặc biệt có khả năng mở rộng và theme để có thể hoạt động trên các máy tính khác nhau.", "Cũng có một phiên bản di động của Firefox khác có thể chạy trên máy Mac. ", "Haller đã bắt đầu phát triển công việc trên Portable Firefox Live, mà có thể chạy trên CD-R hoặc các thiết bị chỉ đọc khác. Rất nhiều ứng dụng đã sẵn sàng sử dụng Portable Firefox Live để gửi trình duyệt và nội dung dựa trên HTML từ đĩa CD.", "Phiên bản Firefox đầy đủ đã được xây dựng và chạy trên Sharp Zaurus dựa trên Linux trên nền PDA dưới môi trường PdaxROM.", "Câu trả lời cho sự cạnh tranh.", "Mặc dù sự xuất hiện của Firefox đã làm giảm thị phần của Internet Explorer nhưng Steve Vamos, người đứng đầu của Microsoft tại Úc, vẫn tuyên bố là không xem Firefox như là một sự đe dọa đối với trình duyệt Internet Explorer, sẽ không có điều gì quan trọng đòi hỏi người dùng Microsoft về các chức năng của Firefox. Vamos thú nhận rằng anh ta chưa bao giờ sử dụng Firefox trong công việc của mình. Tuy nhiên Bill Gates lại nói rằng ông đã sử dụng Firefox, nhưng ông cho rằng \"có nhiều phần mềm được tải về nhưng liệu người dùng có thực sự dùng phần mềm họ đã tải về?\"", "Tuy nhiên, Microsoft SEC Filing, vào ngày 30 tháng 6 năm 2006, thừa nhận trình duyệt Mozilla thực sự là một đe dọa đối với trình duyệt Internet Explorer: \"Đối thủ như Mozilla cung cấp phần mềm cạnh tranh với Internet Explorer - trình duyệt có sẵn trong sản phẩm hệ điều hành của chúng tôi\"", "Giải thưởng.", "Mozilla Firefox đã được trao một số giải thưởng bởi nhiều tổ chức khác nhau. Những giải thưởng này bao gồm:" ]
1008
886765
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1008
Nguyễn Du
[ "Nguyễn Du (chữ Hán: 阮攸; 3 tháng 1 năm 1766 – 16 tháng 9 năm 1820) tên tự là Tố Như (素如), hiệu là Thanh Hiên (清軒), biệt hiệu là Hồng Sơn lạp hộ (鴻山獵戶), Nam Hải điếu đồ (南海釣屠), là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn thời Lê mạt Nguyễn sơ ở Việt Nam. Ông được người Việt kính trọng tôn xưng là \"Đại thi hào dân tộc\" và được UNESCO vinh danh là \"Danh nhân văn hóa thế giới\".", "Tác phẩm Truyện Kiều của ông được xem là một kiệt tác văn học, một trong những thành tựu tiêu biểu nhất trong nền văn học trung đại Việt Nam.", "Tiểu sử.", "Gia thế.", "Theo một bản gia phả của dòng họ Nguyễn ở huyện Nghi Xuân, Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu (tức ngày 3 tháng 1 năm 1766 theo lịch Gregory; một số tài liệu ghi 1765) tại làng Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.", "Cha của Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm (1708 – 1775), sinh ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, tên tự \"Hy Tư\", hiệu \"Nghị Hiên\", biệt hiệu là \"Hồng Ngự cư sĩ\", đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại Tư đồ (Tể tướng), tước Xuân Quận công. Mẹ là bà Trần Thị Tần (24/8/1740 – 27/8/1778), con gái một người làm chức Câu kế. Bà Tần quê ở làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du (Đông Ngàn), xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm (kém chồng 32 tuổi, sinh được 5 con, bốn trai và một gái).", "Tổ tiên của Nguyễn Du, quê nội ở làng Tảo Dương, quê ngoại ở làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội), nổi tiếng với câu chuyện Trạng Cậu, Trạng Cháu (Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng và Trạng nguyên Nguyễn Thiến). Về sau, Nam Dương công Nguyễn Doãn Miện (tức Nguyễn Nhiệm, là cháu của Trạng nguyên Nguyễn Thiến) di cư vào Hà Tĩnh, trở thành vị tổ phụ của dòng họ Nguyễn Tiên Điền.", "Thời thơ ấu.", "Năm Đinh Hợi (1767), khi Nguyễn Du mới một tuổi, Nguyễn Nghiễm được thăng Thái tử Thái bảo, hàm tòng nhất phẩm, tước Xuân Quận công nên Nguyễn Du thời đó sống trong giàu sang phú quý.", "Năm Giáp Ngọ (1774), cha Nguyễn Du sung chức tể tướng, cùng Hoàng Ngũ Phúc đi đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Từ thời gian này Nguyễn Du chịu nhiều mất mát liền kề.", "Năm Ất Mùi 1775, anh trai Nguyễn Trụ (sinh năm 1757) qua đời.", "Năm Bính Thân 1776 thân phụ ông mất.", "Năm Mậu Tuất 1778, khi 12 tuổi, thân mẫu Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần mất. Cũng trong năm này, anh thứ hai của Nguyễn Du là Nguyễn Điều (sinh năm 1745) được bổ làm Trấn thủ Hưng Hóa. Mới 13 tuổi, Nguyễn Du mồ côi cả cha lẫn mẹ nên ông phải ở với người anh khác mẹ là Nguyễn Khản (hơn ông 31 tuổi).", "Năm Canh Tý (1780), Nguyễn Khản là anh cả của Nguyễn Du đang làm Trấn thủ Sơn Tây bị khép tội mưu loạn trong Vụ án năm Canh Tý, bị bãi chức và bị giam ở nhà Châu Quận công. Lúc này, Nguyễn Du được một người thân của Nguyễn Nghiễm là Đoàn Nguyễn Tuấn đón về Sơn Nam Hạ nuôi ăn học.", "Năm Nhâm Dần (1782), Trịnh Sâm mất, Kiêu binh phế Trịnh Cán, lập Trịnh Tông lên ngôi chúa. Hai anh của Nguyễn Du là Nguyễn Khản được làm Thượng thư bộ Lại kiêm Trấn thủ Hưng Hóa, Thái Nguyên, tước Toản Quận công và Nguyễn Điều làm Trấn thủ Sơn Tây.", "Thời niên thiếu.", "Năm Quý Mão (1783), Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam, đậu Tam trường (Sinh đồ) lúc 18 tuổi. Ông lấy vợ là con gái của ông Đoàn Nguyễn Thục. Ông được tập ấm chức Chánh Thủ hiệu quân hùng hậu hiệu, chỉ huy đội quân hùng mạnh nhất Thái Nguyên của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên cùng Nguyễn Đăng Tiến, làm quyền Trấn thủ Thái Nguyên thay mặt Nguyễn Khản.", "Nguyễn Đăng Tiến tước Quản Vũ hầu, tức Cai Gia (theo \"Hoàng Lê nhất thống chí\") một tay \"giặc già\" Trung Quốc gốc người Việt Đông, Quảng Tây sang đầu quân làm thuộc hạ, tân khách dưới trướng Nguyễn Khản. Cai Gia là người dạy võ, 18 thứ binh khí, binh thư và kết nghĩa sinh tử với Nguyễn Du. Cai Gia còn lớn tuổi hơn cả Nguyễn Khản (hơn Nguyễn Du 31 tuổi) nên Nguyễn Du gọi là người anh cả kết nghĩa sống chết, tồn vong cùng có nhau, và gọi tên là Nguyễn Đại Lang (\"Thanh Hiên thi tập\").", "Cũng trong năm này, anh cùng mẹ của Nguyễn Du là Nguyễn Đề (sinh 1761) đỗ Giải nguyên khoa thi Hương ở điện Phụng Thiên, và Nguyễn Khản đầu năm thăng chức Thiếu bảo, cuối năm thăng chức Tham tụng.", "Tháng 2 năm Giáp Thìn (1784), \"kiêu binh\" nổi dậy đưa hoàng tôn Lê Duy Kỳ lên làm thái tử. Dinh thự gia đình ở phường Bích Câu, Thăng Long bị kiêu binh phá sạch, Nguyễn Khản phải trốn lên ở với em là Nguyễn Điều đang là trấn thủ Sơn Tây.", "Năm 1786 thì Nguyễn Khản bị mắc bệnh rồi chết ở Thăng Long.", "Năm 1787, Nguyễn Du bốn năm trấn đóng Thái Nguyên, sau trận chiến với quân Tây Sơn, đi giang hồ không nhà không cửa cùng Nguyễn Đại Lang.", "Năm 1788, tướng Tây Sơn Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Nguyễn Đăng Tiến khởi nghĩa tại Tư Nông, bị chỉ huy Giáo bắt được cùng Nguyễn Quýnh giải về cho Nhậm. Nhậm trọng khí khái, tha chết và cho tùy ý muốn đi đâu thì đi. Nguyễn Đại Lang (Nguyễn Đăng Tiến) cùng Nguyễn Du, Nguyễn Quýnh sang Vân Nam, Trung Quốc.", "Đến nơi Nguyễn Du bị bệnh ba tháng xuân, hết bệnh Nguyễn Du muốn thoát vòng trần tục thành nhà sư Chí Hiên đi chu du Trung Quốc theo gương thi hào Lý Bạch. Họ chia tay tại Liễu Châu, Nguyễn Đại Lang về thăm quê cũ ở Quế Lâm, hẹn gặp nhau tại Trung Châu (Hàng Châu).", "Nguyễn Du đi chu du muôn dặm tại Trung Quốc (khoảng 5.000 km trong 3 năm), từ Liễu Châu qua Quảng Tây đi đường Trường Sa đến Hán Dương, qua sông Giang Hán đi Trường An và sau đó xuống Hàng Châu, \"Giang Nam, Giang Bắc túi tiền không\".", "Tại Hàng Châu, Nguyễn Du ngụ tại chùa Hổ Bào (虎跑寺), nơi nhân vật lịch sử Từ Hải, tức Minh Sơn Hòa thượng, từng tu hành. Nơi đây Nguyễn Du có được quyển Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và quyết chí diễn ca thơ Nôm. Nguyễn Du và Cai Gia Nguyễn Đại Lang gặp lại tại miếu thờ và ngôi mộ của Nhạc Phi ở Hàng Châu (tại mộ Nhạc Phi, Nguyễn Du viết bài thơ \"Nhạc Vũ Mục mộ\" 岳武穆墓, nghĩa là \"Mộ Nhạc Vũ Mục\"), sau đó cùng đi Yên Kinh.", "Năm Kỷ Hợi (1789), Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh, Đoàn Nguyễn Tuấn hợp tác với Tây Sơn, giữ chức Thị lang bộ Lại.", "Năm 1790, Đoàn Nguyễn Tuấn cùng Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn được cử vào sứ bộ của vua Quang Trung giả, sang Trung Quốc triều kiến vua Càn Long.", "Nguyễn Du trở về Hoàng Châu thì gặp Đoàn Nguyễn Tuấn trong sứ đoàn Tây Sơn trên đường đi Nhiệt Hà. Gặp nhau nơi lữ quán hai người đã cùng bàn luận về văn chương chuyện Hồng nhan đa truân. Nguyễn Du về trước và hẹn gặp nhau lại tại Thăng Long.", "Cuối năm 1790, Nguyễn Du trở về Thăng Long. Ông có mối thân tình quen biết với nữ sĩ Hồ Xuân Hương.", "Tháng mười, năm Tân Hợi (1791), anh thứ tư cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh do chống Tây Sơn nên bị bắt và bị giết. Dinh cơ, từ đường họ Nguyễn ở Tiên Điền, Hà Tĩnh bị tướng Tây Sơn Lê Văn Dụ đốt cháy, phá hủy, làng Tiên Điền bị làm cỏ vì cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh.", "Năm Quý Sửu (1793), Nguyễn Du về thăm quê Tiên Điền và đến cuối năm ông vào kinh đô Phú Xuân thăm anh là Nguyễn Đề đang làm thái sử ở Viện Cơ mật và anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn.", "Năm Giáp Dần (1794), Nguyễn Đề được thăng Tả phụng nghi bộ Binh và vào Quy Nhơn giữ chức Hiệp tán nhung vụ. Nguyễn Du và Nguyễn Ức được Nguyễn Đề giao cho việc về Hồng Lĩnh xây dựng lại từ đường và làng Tiên Điền mà ông bận việc quan không thể trực tiếp trông coi.", "Năm 1795, Nguyễn Đề đi sứ sang Yên Kinh dự lễ nhường ngôi của vua Càn Long nhà Thanh, đến năm 1796 trở về được thăng chức Tả đồng nghị Trung thư sảnh.", "Mùa đông năm Bính Thìn (1796), Nguyễn Du trốn vào Gia Định theo chúa Nguyễn Ánh nhưng bị Quận công Nguyễn Thận bắt giam ba tháng ở Nghệ An. Sau khi được tha ông về sống ở Tiên Điền. Trong thời gian bị giam ông có làm thơ \"My trung mạn hứng\" (Cảm hứng trong tù). Nguyễn Du ra Thăng Long thì Hồ Xuân Hương đã được mẹ gả cho thầy lang xóm Tây làng Nghi Tàm.", "Năm 1797, Nguyễn Đề thu xếp cùng Đoàn Nguyễn Tuấn cưới cô em út Đoàn Nguyễn Thị Huệ cho Nguyễn Du. Đoàn Nguyễn Tuấn giao cho Nguyễn Du gia trang tại Quỳnh Hải, từ đây chấm dứt cuộc đời mười năm gió bụi.", "Mùa thu năm Nhâm Tuất (1802), vua Gia Long diệt nhà Tây Sơn. Nguyễn Đề trốn tránh tại Phú Xuân được Gia Long gọi ra. Nguyễn Đề dâng sớ, vua Gia Long tha chết, mến tài và kính trọng dòng dõi con Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm nên cho đi theo ra Bắc Thành làm việc dưới quyền Tổng trấn Nguyễn Văn Thành. Nguyễn Nể cố vấn chỉ dẫn các kinh nghiệm nghi lễ đi sứ, tiếp sứ Trung Quốc sang phong vương cho vua Gia Long như trường hợp Phan Huy Ích. Đoàn Nguyễn Tuấn, lúc này khoảng 50 tuổi, có lẽ về ẩn cư trong \"Phong nguyệt sào\". \"Phong nguyệt sào\" (tổ gió trăng) là một cái chòi trong vườn hoa nhà Nguyễn Nể, nơi ông thường ngâm vịnh trong đó với tự hiệu là Sào Ông.", "Sự nghiệp.", "Năm Quý Hợi (1803), khi vua Gia Long ra Bắc, Nguyễn Du từ Quỳnh Hải đem quân lương đi đón vua Gia Long, đến Phù Dung, trấn Sơn Nam Thượng thì gặp vua Gia Long, vua phong ngay tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam (nay là huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên). Sự kiện này giống như Phi Tử đời Chiến Quốc dâng ngựa cho vua Chu Hiếu Vương mà được chức Phụ Dung, nên Nguyễn Du có danh hiệu là Phi Tử.", "Nhờ thời kỳ đi giang hồ, Nguyễn Du đã thông thạo các ngôn ngữ Trung Quốc, nên chỉ mấy tháng sau thăng tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc Hà Nội), ông được đặc cách lên ải Nam Quan tiếp sứ nhà Thanh sang phong sắc cho vua Gia Long.", "Năm Ất Sửu (1805), ông được thăng Đông các học sĩ, tước Du Đức hầu và vào nhậm chức ở kinh đô Phú Xuân.", "Năm Đinh Mão (1807), ông được cử làm giám khảo kỳ thi Hương ở Hải Dương. Mùa thu năm Mậu Thìn (1808), ông xin về quê nghỉ.", "Năm Kỷ Tỵ (1809), ông được bổ chức Cai bạ (hàm Tứ phẩm) ở Quảng Bình.", "Năm Quý Dậu (1813), ông được thăng Cần chánh điện học sĩ (chính Tam phẩm) và được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh.", "Năm 1814, ông đi sứ về, được thăng Lễ bộ hữu Tham tri (tòng Nhị phẩm).", "Năm Bính Tý (1816), anh rể Nguyễn Du là Vũ Trinh vì liên quan đến vụ án cha con Tổng trấn Nguyễn Văn Thành nên bị đày vào Quảng Nam.", "Năm Canh Thìn (1820), vua Gia Long qua đời, Nguyễn Phúc Đảm nối ngôi, tức vua Minh Mạng. Lúc này Nguyễn Du được cử đi làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong nhưng ông bị bệnh dịch tả chết ngày mồng 10 tháng 8 năm Canh Thìn (tức 16 tháng 9 năm 1820) hưởng thọ 54 tuổi.", "Năm Giáp Thân (1824), di cốt của ông được cải táng về quê nhà là làng Tiên Điền, Hà Tĩnh.", "Tác phẩm.", "Qua các tác phẩm của Nguyễn Du, nét nổi bật chính là sự đề cao xúc cảm. Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể thơ của Trung Quốc như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật, ca, hành... nên ở thể thơ nào, ông cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt hơn cả là tài làm thơ bằng chữ Nôm của ông, mà đỉnh cao là \"Truyện Kiều\", đã cho thấy thể thơ lục bát có khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn trong thể loại truyện thơ.", "Chính trên cơ sở này mà trong thơ Nguyễn Du luôn luôn vang lên âm thanh, bừng lên màu sắc của sự sống, hằn lên những đường nét sắc cạnh của bức tranh hiện thực đa dạng. Và giữa những âm thanh, màu sắc, đường nét vô cùng phong phú đó, Nguyễn Du hiện ra vừa dạt dào yêu thương, vừa bừng bừng căm giận. Đây là chỗ đặc sắc và cũng là chỗ tích cực nhất trong nghệ thuật của Nguyễn Du. Từ thơ chữ Hán cho đến \"Truyện Kiều\" đã tạo nên cái sức sống kỳ lạ ở hầu hết các tác phẩm của ông.", "Văn bản.", "Sáng tác của Nguyễn Du được lưu hành ngay từ lúc ông còn sống. Tương truyền \"Truyện Kiều\" được Phạm Quý Thích nhuận sắc và cho in ở phố Hàng Gai (Hà Nội lúc ấy). Sau khi Nguyễn Du mất chỉ vài chục năm, vua Tự Đức từng có sớ cho quan tỉnh Nghệ An thu thập tất cả di cảo của Nguyễn Du để đưa về kinh. Từ đó đến nay, việc sưu tập, nghiên cứu, phổ biến di sản văn học của Nguyễn Du vẫn còn tiếp tục. Còn có những ý kiến hồ nghi tác giả một số bài thơ chữ Hán vẫn được coi là của Nguyễn Du. Việc xác định thời điểm ra đời của các tác phẩm chưa được giải quyết, kể cả thời điểm Nguyễn Du viết \"Truyện Kiều\". Mặc dù đã mất nhiều công sức, nhưng các ý kiến trong giới nghiên cứu vẫn còn rất khác nhau.", "Tác phẩm bằng chữ Hán.", "Theo gia phả họ Nguyễn Tiên Điền thì Nguyễn Du để lại ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên tiền hậu tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục.", "Những năm đầu thế kỷ XX, khi biên soạn cuốn \"Truyện cụ Nguyễn Du\", Lê Thước và Phan Sĩ Bàng đã thu thập được một phần lớn những bài thơ đó, nhưng chưa công bố, chỉ mới trích dẫn một số bài lẻ tẻ. Khoảng năm 1940-41, ông Đào Duy Anh lại làm công việc đó một lần nữa. Ông cho biết:", "Ba tập thơ chữ Hán chính họ Nguyễn Tiên Điền cũng không giữ được tập nào. Những tác phẩm bằng chữ Hán của Nguyễn Du rất nhiều, nhưng mãi đến năm 1959 mới được ba nhà nho là: Bùi Kỷ, Phan Võ và Nguyễn Khắc Hanh sưu tầm, phiên dịch, chú thích và giới thiệu tập \"Thơ chữ Hán Nguyễn Du\" (Nhà xuất bản Văn hóa, 1959) chỉ gồm có 102 bài. Đến năm 1965, Nhà xuất bản Văn học đã ra \"Thơ chữ Hán Nguyễn Du tập mới\" do Lê Thước và Trương Chính sưu tầm, chú thích, phiên dịch, sắp xếp, gồm 249 bài như sau:", "\"Thanh Hiên thi tập\" (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài, viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn. Tập thơ được sáng tác trong ba giai đoạn:", "Nam trung tạp ngâm.", "\"Nam trung tạp ngâm\" (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm 40 bài thơ làm từ năm 1805 đến cuối năm 1812, tức là từ khi được thăng hàm Đông các học sĩ vào làm quan ở Kinh (gần 4 năm) cho đến hết thời kỳ làm Cai bạ dinh Quảng Bình (3 năm, 5 tháng). Ông viết khi làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh.", "Bài đầu tập thơ, \"Phượng hoàng lộ thượng tỏa hành\", đúng là bài làm trên đường đi vào Kinh nhận chức: Từ tỉnh lỵ Hà Tĩnh đi vào có núi Phượng Hoàng và quán Phượng hoàng, và bài \"Nễ giang khẩu hương vọng\", gần cuối tập, có câu:", "\"Độc bão hương tâm dĩ tứ niên\"", "(dịch nghĩa: Ôm nỗi nhớ quê đã bốn năm trời).", "Bắc hành tạp lục.", "\"Bắc hành tạp lục\" (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc. Chúng tôi có theo dõi cuộc đi xứ này trên bản đồ theo những tài liệu mà các phái đoàn của ta gần đây đi tham quan Trung Quốc tìm được và đã đối chiếu với các bài thơ, thì thấy cách sắp xếp các bài thơ đã ổn. Bài \"Thăng Long\" (tháng 2 năm 1813) và bài cuối tập \"Chu Phát\" làm khi trở lại Võ Xương (cuối năm 1813). Từ đó, nhà thơ lên thuyền về Nam Quan theo con đường đã đi lần trước, nên không có thơ nữa. Chỉ có một vài bài còn Cối, Vương thị (vợ Tần Cối), không ở chỗ thích đáng của nó, làm ta ngờ rằng nhà thơ nhân nhớ đến những nhân vật đó mà làm thơ, chứ không phải tức cảnh sinh tình như tuyệt đại đa số các bài trong tập này. Trường hợp này giống trường hợp bài \"Độc Tiểu Thanh ký\" (số 78 \"Thanh hiên thi tập\"), bài này không phải làm khi nhà thơ đi qua mộ Tiểu Thanh ở Tây Hồ, mà làm khi còn ở nhà, nên không ở trong \"Bắc hành tạp lục\".", "Với cách sắp xếp đó có thể hiểu được tâm sự của Nguyễn Du trong từng giai đoạn. Có thể xem ba tập thơ này là ba tập nhật ký ghi trong một khoảng thời gian dài, từ năm nhà thơ 21 tuổi (1786) cho đến năm nhà thơ 49 tuổi (1814), trước lúc chết 5 năm. Bài thơ nào cũng chứa đựng một lời tâm sự. Ngay những bài tức cảnh vịnh sử khi đi sứ Trung Quốc cũng không phải là những bài tức cảnh, vịnh sử thuần túy mà đều có bao hàm tâm sự của nhà thơ, bộc lộ thái độ sống của nhà thơ một cách hết sức rõ rệt.", "Tập thơ 249 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du là một công trình tập thể đã được cụ Lê Thước và Trương Chính thu thập tài liệu, dịch nghĩa, chú thích, sắp xếp.", "Tác phẩm bằng chữ Nôm.", "Về văn thơ Nôm, Nguyễn Du sử dụng tài tình hai thể thơ dân tộc lục bát và song thất lục bát. Ông đã làm mới ngôn ngữ văn học Tiếng Việt.", "Những tác phẩm bằng chữ Nôm của Nguyễn Du gồm có:", "Nguyễn Du lưu lại trong kho tàng văn học Việt Nam thiên trường thi bất hủ Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều) được truyền tụng trong dân gian và được liệt vào tài liệu giáo khoa dạy ở bậc trung học. \"Đoạn Trường Tân Thanh\" là áng văn chương tuyệt tác, viết theo thể thơ lục bát gồm 3.254 câu, dài nhất trong các tác phẩm xưa nay.", "\"Đoạn trường tân thanh\" (Tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột, tên phổ biến là \"Truyện Kiều\"), được viết bằng chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ theo thể lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thúy Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cô gái có tài sắc. Về thời điểm sáng tác, \"Từ điển văn học\" (bộ mới) ghi: \"Có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết ra sau khi ông đi sứ Trung Quốc (1814-1820), có thuyết cho nói ông viết trước khi đi sứ, có thể vào khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809). Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn\".", "Ngoài ra, \"Văn chiêu hồn\" (tức \"Văn tế thập loại chúng sinh\") là một ngâm khúc gồm có 184 câu theo thể song thất lục bát, trong đó chứa đựng tấm lòng từ bi của Phật tử Nguyễn Du đối với cảnh khổ của muôn vạn sinh linh, cũng là một tác phẩm giá trị được nhiều học giả nghiên cứu, trích giảng, hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên \"Đông Dương tuần báo\" năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Ông Hoàng Xuân Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết \"Văn chiêu hồn\" trước cả \"Truyện Kiều\", khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812).", "\"Thác lời trai phường nón\", 48 câu, được viết bằng thể lục bát. Nội dung là thay lời anh con trai phường nón làm thơ tỏ tình với cô gái phường vải.", "\"Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ\", 98 câu, viết theo lối văn tế, để bày tỏ nỗi uất hận vì mối tình với hai cô gái phường vải khác.", "Thơ Nôm của Nguyễn Du đều thấy chỗ đậm, chỗ nhạt những yếu tố hoặc biểu hiện của chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực trong văn học. Các tác phẩm thơ Nôm của ông đều thể hiện tư tưởng, tình cảm sâu sắc, tài năng nghệ thuật của ông xuyên suốt các tác phẩm của ông, xuyên suốt cuộc đời ông và thể hiện rõ nhất qua áng văn chương bất hủ là \"Truyện Kiều\".", "Trước năm 1930.", "Trong quãng thời gian hơn một trăm năm này, người bình luận các tác phẩm của Nguyễn Du là các nhà nho. Ở thế kỷ XIX, các nhà nho thường qua những bài thơ vịnh, những bài tựa mà bộc lộ cách nhìn, chính kiến của mình với tác phẩm. Sang thế kỷ XX, các nhà nho lại phát biểu bằng những bài văn chính luận. Nhưng bình luận ở giai đoạn nào họ cũng đều chia làm hai dòng khen và chê. Tuy nhiên, dù khen hay chê thì tất cả họ đều đánh giá cao nghệ thuật văn chương của Nguyễn Du. Nhưng văn chương được nhìn như có sự tách rời của hình thức với nội dung.", "Từ 1930 đến 1945.", "Nghiên cứu phê bình văn học thời gian này đã thành một bộ môn riêng biệt, mang ý nghĩa hiện đại. Các tác phẩm của Nguyễn Du trong giới nghiên cứu, phê bình thấy rõ ba khuynh hướng sau:", "Từ 1945 đến 1975.", "Trong giai đoạn chia đôi đất nước này, tại miền Bắc, việc nghiên cứu các tác phẩm của Nguyễn Du trong quan hệ với hiện thực đời sống xã hội theo quan điểm mỹ học Marxist. Tác phẩm văn học được nhìn nhận như là sự phản ánh đời sống xã hội và bộc lộ thái độ của nhà văn đối với hiện thực đó. Hai công trình theo hướng này xuất hiện sớm và đáng chú ý hơn cả là cuốn: \"Quyền sống của con người trong \"Truyện Kiều\"\" của Hoài Thanh (1949) và bài báo \"Đặc sắc của văn học cổ điển Việt Nam qua nội dung \"Truyện Kiều\"\" của Đặng Thai Mai (1955). Vấn đề tinh thần nhân đạo và tính hiện thực của \"Truyện Kiều\" được hai tác giả chú ý đặc biệt và coi là giá trị cơ bản của tác phẩm.", "Ở miền Nam, thời kỳ 1954–1975 cũng có nhiều người để tâm phê bình nghiên cứu các tác phẩm của Nguyễn Du. Dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du, trên các tập san \"Văn\" (số 43, 44) và \"Bách khoa thời đại\" (số 209) có nhiều bài phê bình được công bố. Trước đó, năm 1960, có cuốn \"Chân dung Nguyễn Du\" tập hợp một loạt bài viết về Nguyễn Du của nhiều tác giả. Trước sau năm 1970 cũng thấy một số công trình khá công phu của Phạm Thế Ngũ, Đặng Tiến, Nguyễn Đăng Thục...", "Từ 1980 đến nay.", "Trong giai đoạn này, các tác phẩm của Nguyễn Du được tiếp cận bởi nhiều phương pháp mới: phong cách học, thi pháp học, ký hiệu học... Đã xuất hiện một số công trình đáng chú ý của Phan Ngọc, Trần Đình Sử, Đỗ Đức Hiểu...", "Nhìn chung các tác giả đều cố gắng khách quan hóa việc phân tích tác phẩm, muốn làm cho các kết kuận của mình là hiển nhiên, \"không còn tranh cãi\". Tuy vậy mọi việc không đơn giản, các ý kiến vẫn cứ rất xa nhau, điều đó có nghĩa là những cuộc tranh luận sẽ vẫn tiếp diễn và như vậy nghiên cứu, phê bình về các tác phẩm của Nguyễn Du sẽ tiếp tục tiến triển.", "Sáng tác của Nguyễn Du không thật đồ sộ về khối lượng, nhưng có vị trí đặc biệt quan trọng trong di sản văn học và văn hóa dân tộc. Hơn nữa nó lại rất năng sản. Từ \"Truyện Kiều\" đã nảy sinh biết bao những hình thức sáng tạo văn học và văn hóa khác nhau: thơ ca về Kiều, các phóng tác \"Truyện Kiều\" bằng văn học, sân khấu, điện ảnh; rồi rất nhiều những dạng thức của nghệ thuật dân gian: đố Kiều, giảng Kiều, lẩy Kiều, bói Kiều... Đặc biệt là số lượng rất lớn những bài bình luận, những công trình phê bình, nghiên cứu.", "Tưởng niệm.", "Được biết, Nguyễn Du qua đời vào ngày 18 tháng 9 năm 1820. Từ đó đến nay, tại Việt Nam đang có những con đường, phố và ngôi trường mang tên ông.", "Ngày 17 tháng 11 năm 2015 tại Hà Nội, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, UBND tỉnh Hà Tĩnh đã tổ chức họp báo giới thiệu về các hoạt động kỷ niệm 250 năm ngày sinh của Nguyễn Du. Lễ kỷ niệm cấp quốc gia 250 năm sinh Đại thi hào Nguyễn Du (1765-2015) diễn ra ngày 5 tháng 12 năm 2015 tại thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. với chương trình nghệ thuật \"Tiếng thơ ai động đất trời\" do Cục Nghệ thuật biểu diễn, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ đạo và Nhà hát Nghệ thuật đương đại Việt Nam thực hiện với sự tham gia của gần 650 nghệ sĩ.", "Lễ kỷ niệm có các chuỗi hoạt động chính: Tổ chức các hội thảo khoa học trong nước và quốc tế; xuất bản \"Truyện Kiều\", các tác phẩm của Nguyễn Du ra nhiều thứ tiếng khác nhau; xây dựng phim tư liệu, các tác phẩm âm nhạc, hội họa… về thời đại, cuộc đời, sự nghiệp, tác phẩm của Nguyễn Du và dòng họ Nguyễn Tiên Điền; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, thi ngâm Kiều, lẩy Kiều, bình Kiều, diễn trò Kiều, nói chuyện về tác phẩm của Nguyễn Du; tổ chức các hoạt động hưởng ứng kỷ niệm tại Thủ đô Hà Nội là nơi sinh và tại tỉnh Bắc Ninh (quê mẹ của ông); tuần Văn hóa, Du lịch Nguyễn Du, bắt đầu từ ngày 28 tháng 11 đến ngày 5 tháng 12 năm 2015 tại Hà Tĩnh.", "Bên cạnh đó, từ ngày 17 đến 25 tháng 11 năm 2015 tại Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra Tuần triển lãm về Nguyễn Du do Thư viện Khoa học tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh và Công ty Cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam tổ chức. Triển lãm quy tụ tương đối đầy đủ các ấn bản bằng chữ Quốc ngữ, chữ Hán, chữ Nôm những sáng tác của Nguyễn Du cũng như các công trình nghiên cứu, biên khảo, chú thích về Nguyễn Du của nhiều lớp học giả. Điểm nhấn của triển lãm là những bản Nôm gốc như bản in \"Kim Vân Kiều tân tập\" (năm Bính Ngọ niên hiệu Thành Thái 1906), bản chép tay \"Kim Vân Kiều thích chú\" (Kỷ Mão 1879). Ngoài ra, còn có 20 bức thư pháp của các thành viên Chi hội Thư pháp (Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Thành phố Hồ Chí Minh) cũng sẽ được trưng bày với nội dung là những trích đoạn các sáng tác của Nguyễn Du (Truyện Kiều, Văn tế thập loại chúng sinh…).", "Liên kết ngoài.", "Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ." ]
1009
630332
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1009
CJKV
[ "CJKV là từ viết tắt theo tiếng Anh của một tập hợp ngôn ngữ bao gồm tiếng Trung (\"Chinese\"), tiếng Nhật (\"Japanese\"), tiếng Triều Tiên (\"Korean\") và tiếng Việt (\"Vietnamese\") vì đây là những ngôn ngữ có một trong các cách viết dựa vào chữ Hán. Tiếng Việt cũng được xem là một thành phần của tập hợp này vì tiếng Việt cũng có thể viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. Cả bốn ngôn ngữ đều thuộc vùng văn hóa Đông Á. Từ \"CJKV\" thường được dùng trong khoa học máy tính khi gặp vấn đề mã hóa ký tự chữ Hán và các loại chữ tương tự như chữ Nôm.", "Bất cứ hai trong bốn thứ tiếng kể trên đều có nhiều điểm chung và đều bị ảnh hưởng từ tiếng Trung. Nếu như trong tiếng Nhật bộ chữ Kanji chính là gần 2.000 chữ Hán thông dụng với tiếng Trung thì trong tiếng Việt cũng có tới 70% từ có yếu tố Hán-Việt. Dù có nhiều điểm chung như vậy tuy nhiên mỗi tiếng trong quá trình hình thành và phát triển đã tạo cho mình bản sắc văn hóa dân tộc riêng. Ví dụ như hiện nay Nhật Bản không đón tết âm lịch; Việt Nam không đọc thời gian theo kiểu năm-tháng-ngày; Việt Nam và Trung Quốc gọi ngày trong tuần theo thứ tự còn Nhật Bản và Triều Tiên, Hàn Quốc gọi theo nhật nguyệt ngũ hành.", "Âm đọc chữ Hán cũng là một điểm khác nhau đáng lưu ý khi có sự tương ứng trong âm tiết. Thí dụ chữ Hán \"明\" tiếng Việt đọc là \"Minh\", tiếng Triều Tiên đọc là \"Myeong\", tiếng Hán đọc là \"Míng\" còn tiếng Nhật đọc là \"Mei\"." ]
1013
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1013
VISCII
[ "VISCII (viết tắt của tiếng Anh \"VIetnamese Standard Code for Information Interchange\", tức là \"Mã chuẩn tiếng Việt để trao đổi thông tin\") là một bảng mã do Nhóm Viet-Std (Vietnamese-Standard Working Group - Nhóm Nghiên cứu Tiêu chuẩn Tiếng Việt) thuộc TriChlor group tại California đề xướng vào năm 1992 và dùng để gõ tiếng Việt trên máy vi tính, chỉ dùng những chữ có dấu sẵn rồi. Dùng trong nhiều hệ điều hành MS-DOS, Windows, Unix, X-Windows, Mac OS... mà không cần phải dùng một nhu liệu đặc biệt nào.", "Trước đó, VISCII còn một bảng mã quy ước khác để gõ tiếng Việt và quy ước này cần có cài đặt font chữ VISCII mới đọc được. Thí dụ: \"Việt Nam đất nước mến yêu\" => \"codice_1,\" sẽ không đọc được nếu không có cài đặt font VISCII." ]
1016
536098
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1016
Nguyễn Sinh Cung
[]
1017
4
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1017
Nguyễn Tất Thành
[]
1020
812749
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1020
29 tháng 4
[ " ", "Ngày 29 tháng 4 là ngày thứ 119 trong mỗi năm thường (ngày thứ 120 trong mỗi năm nhuận). Còn 246 ngày nữa trong năm." ]
1022
299227
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1022
Cần Thơ
[ "Cần Thơ là một trong năm thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam. Đây là thành phố sầm uất và phát triển nhất ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, có vai trò là trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục và thương mại của cả vùng. Cần Thơ hiện là đô thị loại I, là thành phố trung tâm cấp vùng và cấp quốc gia.", "Năm 2019, Cần Thơ là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 24 về số dân, Danh sách đơn vị hành chính Việt Nam theo GRDP xếp thứ 12 về tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 11 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 40 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.252.348 người dân năm 2022, GRDP đạt 117.500 tỉ Đồng, GRDP bình quân đầu người đạt 94,5 triệu đồng, tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,50%. Năm 2020 GRDP tăng 1,02%, GRDP bình quân đầu người ước đạt 94,45 triệu đồng/năm, theo kế hoạch là 97,2 triệu đồng/năm.", "Thành phố nằm bên hữu ngạn sông Hậu, thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1739, vùng đất Cần Thơ được khai phá và chính thức có mặt trên dư đồ Việt Nam với tên gọi là Trấn Giang. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, vùng đất Trấn Giang đã trải qua nhiều lần thay đổi tên gọi và địa giới hành chính.", "Cần Thơ là thủ phủ và là đô thị hạt nhân của miền Tây Nam Bộ từ thời Pháp thuộc, nay tiếp tục là trung tâm kinh tế của vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Ngoài đặc trưng về địa lý là đầu mối giao thông quan trọng giữa các tỉnh trong khu vực, thành phố Cần Thơ còn được biết đến như một đô thị miền sông nước. Thành phố có hệ thống sông ngòi chằng chịt, diện tích vườn cây ăn trái và đồng ruộng rộng lớn, nổi tiếng với Bến Ninh Kiều, Chợ nổi Cái Răng một nét sinh hoạt đặc trưng văn hóa Nam Bộ. Theo quy hoạch đến năm 2025, thành phố Cần Thơ sẽ trở thành trung tâm công nghiệp, thương mại – dịch vụ, giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ, y tế và văn hóa của vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, đồng thời là đô thị cửa ngõ của vùng hạ lưu sông Mekong, là đầu mối quan trọng về giao thông vận tải nội vùng và liên vận quốc tế. Và sẽ trở thành một thành phố phát triển khá ở khu vực Đông Nam Á.", "Tên gọi.", "Khi đối chiếu địa danh Cần Thơ với tên Khmer nguyên thủy của vùng này là Prek Rusey (sông tre), không thấy có liên quan gì về ngữ âm. Trong \"Gia Định thành thông chí\" có chép địa danh Cần Thơ bằng chữ Hán Nôm là 芹苴 . Người nghiên cứu không nên vội vàng kết luận \"Cần Thơ\" là một địa danh gốc Việt và vội vàng tìm hiểu của hai chữ Hán Nôm \"Cần - 芹\" và \"Thơ - 苴\". Nếu dò tìm trong hướng các địa danh Việt hoá, người nghiên cứu có thể thấy ngữ âm của Cần Thơ rất gần với ngữ âm của từ Khmer ត្រី កន្ធរ /trei kantho/, nghĩa là \"cá sặc rằn\" hay \"cá sặc bổi\", người Bến Tre gọi là cá \"lò tho\".", "Nếu vào thời Nhà Nguyễn độc lập, vùng đất Cần Thơ có tên là Phong Phú thì đến thời Việt Nam Cộng hòa, vùng đất này lại mang tên một địa danh mới lạ hoàn toàn và chưa bao giờ xuất hiện trước đó - Phong Dinh.", "Cần Thơ còn được biết đến với tên gọi không chính thức là Tây Đô, nghĩa là \"thành phố lớn của miền Tây\". Về mặt Hán tự, Tây 西 nghĩa là \"phía Tây\" và Đô 都 nghĩa là \"thành phố lớn\".", "Lịch sử.", "Thời phong kiến.", "Vào năm Mậu Tý 1708, ông Mạc Cửu dâng đất Hà Tiên cho chúa Nguyễn Phúc Chu. Vùng Cần Thơ lúc ấy vẫn chưa được tổ chức thành một đơn vị hành chính của Hà Tiên. Sau khi Mạc Cửu mất vào năm Ất Mão (1735), Mạc Thiên Tứ nối nghiệp cha, khai phá thêm vùng hữu ngạn sông Hậu. Năm Kỷ Mùi 1739, Mạc Thiên Tứ thành lập thêm 4 vùng đất mới ở phía hữu ngạn sông Hậu để sáp nhập vào đất Hà Tiên: Long Xuyên (Cà Mau), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (Cần Thơ) và Trấn Di (Bắc Bạc Liêu).", "Năm 1739, vùng đất Cần Thơ được khai mở và chính thức có mặt trên dư đồ Việt Nam với tên gọi là Trấn Giang, do Mạc Thiên Tích có công khai phá cùng thời với đất Cà Mau, Rạch Giá và Bắc Bạc Liêu. Sau đó cùng sáp nhập vào đất Hà Tiên. Mạc Thiên Tích đã sớm nhận thấy vị trí chiến lược của Trấn Giang - là hậu cứ vững chắc cho Hà Tiên trong việc chống lại quân Xiêm và quân Chân Lạp - nên đã tập trung xây dựng nơi đây thành Thủ sở với các thế mạnh cả về quân sự lẫn kinh tế và văn hoá.", "Năm 1771, quân Xiêm tấn công Hà Tiên nhưng không chiếm được Trấn Giang. Năm 1774, nghĩa quân Tây Sơn kéo quân vào Nam đánh chiếm thành Gia Định, sau đó kéo xuống miền Tây và Trấn Giang. Sau trận Rạch Gầm – Xoài Mút (tháng 1 năm 1785), vào năm 1787, quân Tây Sơn rút khỏi các dinh trấn miền Tây, Trấn Giang trở lại dưới quyền bảo hộ của Nhà Nguyễn. Suốt thập niên 70 của thế kỷ XVIII, Trấn Giang trở thành một cứ điểm quan trọng và phát triển mạnh trong bối cảnh lịch sử đầy xáo động.", "Năm 1808, dưới triều vua Gia Long, đất Trấn Giang thuộc trấn Vĩnh Thanh (trước đó từng có tên là dinh Long Hồ, dinh Hoằng Trấn, Vĩnh Trấn), một trong 5 trấn của Gia Định bấy giờ là: Phiên An, Biên Hoà, Vĩnh Thanh, Định Tường và Hà Tiên. Năm Quý Dậu 1814 (năm Gia Long thứ 12), huyện Vĩnh Định được thành lập. Vùng Cần Thơ thuộc huyện Vĩnh Định (Nam sông Hậu), trấn Vĩnh Thanh (có 2 huyện: Vĩnh An và Vĩnh Định), phủ Định Viễn. Huyện Vĩnh Định có vị trí địa lý: Đông giáp biển, Tây giáp Cao Miên, Nam giáp Hà Tiên, Bắc giáp huyện Vĩnh An và huyện Bình Minh. Vào thời Gia Long, huyện Vĩnh Định chưa chia tổng. Tổ chức hành chánh của huyện được chia thành 37 thôn.", "Năm 1832, dưới triều vua Minh Mạng, ngũ trấn được đổi thành lục tỉnh là Biên Hoà, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Đất Cần Thơ ngày nay (tức Trấn Giang ngày xưa) được lập thành huyện Vĩnh Định và cắt về phủ Tân Thành, tỉnh An Giang. Do có nhiều cuộc nội loạn ở vùng Nam Bộ, đặc biệt là cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi (1833–1835) nên thủ sở Trấn Giang vào thời Minh Mạng được tái thiết. Với tiềm năng kinh tế và vị trí địa lý của mình, thương mại Trấn Giang - Cần Thơ đã phát triển khá mạnh với chợ Sưu ở gần bến sông Cần Thơ, chợ Tân An liền hướng bến sông Bình Thủy và chợ Thới An Đông trên vùng gần cửa sông Ô Môn.", "Vào năm Minh Mạng thứ 17 (Bính Thân 1836), địa bạ tỉnh An Giang (2 phủ, 4 huyện, 18 tổng, 161 thôn) được hoàn thành. Huyện Vĩnh Định có 4 tổng là Định An, Định Bảo, Định Khánh và Định Thới, phân cấp hành chánh cơ sở thành 30 thôn.", "Năm 1839 (năm Minh Mạng thứ 20), huyện Vĩnh Định lại được đổi tên thành huyện Phong Phú, và cho huyện Phong Phú thuộc về phủ Tuy Biên (Châu Đốc), tỉnh An Giang. Huyện Phong Phú có 3 tổng và 31 thôn với huyện trị đặt tại thôn Tân An, ven bờ sông Cần Thơ.", "Đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 là giai đoạn lịch sử có nhiều biến động dữ dội ở Nam Kỳ lục tỉnh. Thực dân Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường) theo hoà ước nhượng bộ của Nhà Nguyễn vào năm 1862. Vào các ngày 20, 22 và 24 tháng 6 năm 1867, Pháp vi phạm hòa ước 1862, chiếm 3 tỉnh miền Tây là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.", "Thời Pháp thuộc.", "Ngày 1 tháng 1 năm 1868, Thống đốc Nam Kỳ là Bonard quyết định sáp nhập huyện Phong Phú với vùng Bãi Sào (Sóc Trăng) lập thành quận đặt dưới sự cai trị của người Pháp, lập Toà Bố tại Sa Đéc. Hạt Sa Đéc (phủ Tân Thành) đặt lỵ sở tại Sa Đéc gồm có 3 huyện: Vĩnh An, An Xuyên và Phong Phú.", "Huyện Phong Phú có địa giới hành chính Bắc giáp phủ Tân Thạnh và phủ Lạc Hóa, Tây - Bắc giáp huyện Tây Xuyên, Đông - Nam giáp huyện Vĩnh Định, phía Nam có nhiều rừng tràm và hổ báo. Huyện Phong Phú được phân cấp hành chính cơ sở gồm 8 tổng (3 tổng cũ, 5 tổng mới phía Nam sông Hậu). Vào thời điểm này ở huyện Phong Phú có 5 chợ chính là: Cần Thơ, Ô Môn, Bình Thủy, Trà Niềng và Cái Răng.", "Ngày 30 tháng 4 năm 1872, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định sáp nhập huyện Phong Phú với vùng Bắc Tràng (thuộc phủ Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long trước đây) để lập thành một hạt, đặt Toà Bố tại Trà Ôn. Một năm sau, Tòa Bố từ Trà Ôn lại dời về Cái Răng.", "Ngày 23 tháng 2 năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định mới lấy huyện Phong Phú và một phần huyện An Xuyên và Tân Thành để lập hạt Cần Thơ với thủ phủ là Cần Thơ. Hạt Cần Thơ thuộc khu vực Bassac (Hậu Giang). Hạt Cần Thơ chia làm 11 tổng, 119 làng, dân số 53.910 người.", "Năm 1899, Pháp đổi các đơn vị hành chính cấp hạt thành tỉnh và huyện đổi thành quận. Tỉnh Cần Thơ được thành lập theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương trên cơ sở đổi tên gọi \"tiểu khu\" hay \"hạt tham biện\" (arrondissement) thành \"tỉnh\" (province), kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1900. Như vậy, tỉnh Cần Thơ là một trong 20 tỉnh ở Nam Kỳ lúc bấy giờ.", "Năm 1917, tỉnh Cần Thơ có diện tích 2.191 km², gồm 4 quận: Châu Thành, Phụng Hiệp, Ô Môn, Cầu Kè. Năm 1921 có thêm quận Trà Ôn. Tỉnh lỵ tỉnh Cần Thơ đặt tại làng Tân An thuộc quận Châu Thành.", "Năm 1928, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập các thành phố Bạc Liêu, Cần Thơ, Rạch Giá và Mỹ Tho có Ủy ban thành phố, thị trưởng do chủ tỉnh bổ nhiệm và có ngân sách riêng. Tuy nhiên sau này vẫn thường gọi là \"thị xã Cần Thơ\".", "Nghị định ngày 30 tháng 11 năm 1934 sắp xếp đất đai thị xã Cần Thơ thành 5 vùng và 1 vùng ngoại ô để thu thuế thổ trạch.", "Từ năm 1876 đến năm 1954, địa giới hành chính tỉnh Cần Thơ dưới quyền kiểm soát của chính quyền Pháp không có sự thay đổi. Tuy nhiên, trong thời gian chiến tranh Đông Dương, chính quyền kháng chiến của Việt Minh có điều chỉnh một phần địa giới hành chính của tỉnh Cần Thơ. Năm 1947, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập thị xã Cần Thơ thuộc tỉnh Cần Thơ. Trong 2 năm 1948 và 1949, tỉnh Cần Thơ nhận thêm huyện Thốt Nốt từ tỉnh Long Xuyên, nhận các huyện Long Mỹ, Gò Quao, Giồng Riềng, thị xã Rạch Giá từ tỉnh Rạch Giá vừa bị giải thể và nhận huyện Kế Sách từ tỉnh Sóc Trăng. Đồng thời, tỉnh Cần Thơ giao 2 huyện Trà Ôn và Cầu Kè về tỉnh Vĩnh Trà (gồm hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh ngày nay).", "Thiết lập ách thống trị trên vùng đất này, thực dân Pháp chính thức hóa tên gọi Cần Thơ bằng những văn bản hành chính. Để dễ bề kiểm soát hoạt động của nhân dân từng tỉnh trong 3 tỉnh vừa chiếm được, Pháp còn đánh số, tỉnh Cần Thơ mang con số 19. Từ đó trở đi, các phương tiện giao thông (chủ yếu giao thông thủy) như thuyền, ghe của Cần Thơ đều phải gắn con số 19 trước mui. Ngay cả lính mã tà mỗi lần có việc di chuyển từ Cần Thơ sang tỉnh khác hoặc giải phạm nhân chống đối lên Sài Gòn đều gắn con số 19 vào cổ áo để dễ nhận diện lính của mỗi tỉnh thuộc đất nhượng địa.", "Giai đoạn 1956–1976.", "Việt Nam Cộng hòa.", "Sau hiệp định Giơnevơ năm 1954, địa giới hành chính của tỉnh Cần Thơ ở miền Nam có nhiều thay đổi. Ban đầu chính quyền Quốc gia Việt Nam và sau đó là Việt Nam Cộng hòa ban đầu vẫn duy trì tên gọi tỉnh Cần Thơ cùng với thị xã Cần Thơ như thời Pháp thuộc.", "Ngày 28 tháng 8 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành Dụ số 50 về việc bãi bỏ quy chế thị xã. Theo quyết định này, bãi bỏ Dụ số 13 ban hành ngày 30 tháng 5 năm 1954 về quy chế thị xã. Những thị xã hiện đặt dưới quy chế trên, từ nay sẽ theo chế độ thôn xã, và được quản tri bởi một Ủy ban hành chính do tỉnh trường bồ nhiệm. Theo đó, tiến hành giải thể thị xã Cần Thơ vốn được lập nên trước đó, đồng thời địa bàn thị xã được chuyển thành xã Tân An trực thuộc tổng Định An, quận Châu Thành, tỉnh Cần Thơ.", "Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143-NV để \"thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam\". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Việt Nam Cộng hòa gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Phong Dinh được thành lập do đổi tên từ tỉnh Cần Thơ. Tỉnh lỵ tỉnh Phong Dinh đặt tại Cần Thơ và vẫn giữ nguyên tên là \"Cần Thơ\", về mặt hành chánh thuộc xã Tân An, quận Châu Thành.", "Năm 1957, tỉnh Phong Dinh có 5 quận: Châu Thành, Phụng Hiệp, Ô Môn, Long Mỹ và Kế Sách. Ngày 23 tháng 2 năm 1957, tỉnh Phong Dinh nhận quận Kế Sách từ tỉnh Ba Xuyên (tức tỉnh Sóc Trăng trước đó) quản lý. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau vào ngày 16 tháng 9 năm 1958, tỉnh Phong Dinh giao lại quận Kế Sách cho tỉnh Ba Xuyên. Ngày 16 tháng 9 năm 1958, quận Ô Môn đổi tên là quận Phong Phú. Ngày 18 tháng 3 năm 1960, tỉnh Phong Dinh lập thêm quận Đức Long trên cơ sở tách đất từ quận Long Mỹ. Ngày 24 tháng 12 năm 1961, hai quận Đức Long và Long Mỹ được bàn giao cho tỉnh Chương Thiện mới thành lập. Ngày 2 tháng 7 năm 1962, tỉnh Phong Dinh lập thêm 2 quận Khắc Trung và Khắc Nhơn. Ngày 20 tháng 4 năm 1964, đổi tên 2 quận Khắc Trung và Khắc Nhơn thành Thuận Trung và Thuận Nhơn. Ngày 26 tháng 5 năm 1966 lập thêm quận Phong Điền. Ngày 23 tháng 4 năm 1968, lại lập thêm quận Phong Thuận.", "Ngày 30 tháng 9 năm 1970, Thủ tướng chính quyền Việt Nam Cộng hòa Trần Thiện Khiêm ban hành Sắc lệnh số 115-SL/NV cải biến xã Tân An và các phần đất phụ cận (bao gồm xã Thuận Đức, ấp Lợi Nguyên thuộc xã An Bình và ấp Bình Nhựt thuộc xã Long Tuyền) thuộc quận Châu Thành, tỉnh Phong Dinh thành \"thị xã Cần Thơ\", là thị xã tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương Việt Nam Cộng hòa, đồng thời kiêm tỉnh lỵ tỉnh Phong Dinh. Thị xã Cần Thơ là nơi đặt Bộ Tư lệnh Quân khu IV của quân đội Việt Nam Cộng hòa trong cuộc chiến. Ngày 7 tháng 6 năm 1971, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 585-NĐ/NV thành lập tại thị xã Cần Thơ 2 quận lấy tên là quận 1 (quận Nhứt) và quận 2 (quận Nhì). Địa phận của 2 quận này được phân chia thành 8 khu phố trực thuộc, trong đó quận 1 gồm năm khu phố: An Lạc, An Cư, An Nghiệp, An Hòa, An Thới; quận 2 gồm ba khu phố: Hưng Lợi, Hưng Phú, Hưng Thạnh.", "Ngày 22 tháng 8 năm 1972, Tổng trưởng Nội vụ chính quyền Việt Nam Cộng hòa lại ban hành Nghị định số 553BNV/HCĐP/NĐ, đối các danh xưng \"khu phố\" của thị xã thành \"phường\". Từ đó cho đến năm 1975, thị xã Cần Thơ và tỉnh Phong Dinh là hai đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau theo sự phân chia sắp xếp hành chính của Việt Nam Cộng hòa. Tỉnh Phong Dinh gồm 7 quận: Châu Thành, Phụng Hiệp, Phong Phú, Thuận Nhơn, Thuận Trung, Phong Điền, Phong Thuận.", "Chính quyền Cách mạng.", "Tuy nhiên phía chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi tỉnh Phong Dinh mà vẫn gọi theo tên cũ là tỉnh Cần Thơ. Đồng thời, chính quyền Cách mạng vẫn duy trì thị xã Cần Thơ trực thuộc tỉnh Cần Thơ trong giai đoạn 1956–1969.", "Địa giới hành chính tỉnh Cần Thơ có thay đổi một phần. Tháng 11 năm 1954, huyện Long Mỹ và các huyện Gò Quao, Giồng Riềng, thị xã Rạch Giá giao trở lại cho tỉnh Rạch Giá. Huyện Kế Sách giao về tỉnh Sóc Trăng. Huyện Thốt Nốt giao về tỉnh Long Xuyên. Tỉnh Cần Thơ nhận lại 2 huyện Trà Ôn và Cầu Kè như cũ. Năm 1956, hai huyện Trà Ôn và Cầu Kè đưa về tỉnh Vĩnh Long. Năm 1957, huyện Long Mỹ chuyển trở lại tỉnh Cần Thơ. Năm 1958, huyện Kế Sách chuyển về tỉnh Cần Thơ.", "Năm 1963, huyện Thốt Nốt thuộc tỉnh An Giang (trước năm 1956 là tỉnh Long Xuyên) lại được đưa về cho tỉnh Cần Thơ quản lý. Tháng 6 năm 1966, thành lập thị xã Vị Thanh trực thuộc tỉnh Cần Thơ. Tháng 10 năm 1966, huyện Châu Thành thuộc tỉnh Cần Thơ được chia ra thành hai huyện là Châu Thành A và Châu Thành B. Cuối 1967 nhập lại là Châu Thành. Sau nhiều lần chia tách rồi sáp nhập Châu Thành Vòng Cung vào Châu Thành A, Châu Thành B nhập lại là huyện Châu Thành.", "Năm 1969, chính quyền Cách mạng tách thị xã Cần Thơ khỏi tỉnh Cần Thơ và đặt thị xã trực thuộc Khu 9 (còn gọi là Khu Tây Nam Bộ). Năm 1971, thị xã Cần Thơ trở lại thuộc tỉnh Cần Thơ. Tháng 8 năm 1972, Thường vụ Khu ủy Khu 9 của phía chính quyền Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định tách thị xã Cần Thơ ra khỏi tỉnh Cần Thơ, hình thành Thành phố Cần Thơ trực thuộc Khu 9, bao gồm thị xã Cần Thơ và 6 xã vùng ven thuộc các huyện Ô Môn, Châu Thành trước đó. Đồng thời, chính quyền Cách mạng vẫn duy trì các đơn vị hành chính cấp quận, phường và khóm bên dưới giống như phía chính quyền Việt Nam Cộng hòa cho đến đầu năm 1976.", "Như vậy cho đến năm 1976, tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ là hai đơn vị hành chính ngang bằng nhau. Tỉnh Cần Thơ khi đó bao gồm các đơn vị hành chính trực thuộc: thị xã Vị Thanh, huyện Châu Thành, huyện Phụng Hiệp, huyện Ô Môn, huyện Long Mỹ, huyện Thốt Nốt và huyện Kế Sách.", "Sau năm 1975.", "Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ vẫn duy trì hai đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau là tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ cho đến đầu năm 1976. Lúc này, chính quyền Cách mạng cũng bỏ danh xưng \"quận\" có từ thời Pháp thuộc và lấy danh xưng \"huyện\" (quận và phường dành cho các đơn vị hành chánh tương đương khi đã đô thị hóa).", "Ngày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh trong toàn quốc \"nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, về củng cố quốc phòng, bảo vệ trị an, và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung của cả nước\". Theo Nghị quyết này, tỉnh Vĩnh Long, tỉnh Trà Vinh, tỉnh Cần Thơ (ngoại trừ huyện Thốt Nốt), tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên.", "Nhưng đến ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị lại ra Nghị quyết số 19/NQ điều chỉnh lại việc hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam cho sát với tình hình thực tế, theo đó tỉnh Cần Thơ (có cả huyện Thốt Nốt), tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ được tiến hành hợp nhất lại thành một tỉnh.", "Tỉnh Hậu Giang cũ, giai đoạn 1976–1992.", "Theo Nghị định số 03/NĐ-76 ngày 24 tháng 2 năm 1976 và Quyết định số 17/QĐ-76 ngày 24 tháng 3 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định hợp nhất ba đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau là tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ để thành lập tỉnh mới với tên gọi là tỉnh Hậu Giang. Tỉnh lỵ tỉnh Hậu Giang lúc đó là thành phố Cần Thơ, đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc tỉnh Hậu Giang.", "Khi mới thành lập, tỉnh Hậu Giang gồm có thành phố Cần Thơ, thị xã Sóc Trăng, thị xã Vị Thanh và 11 huyện: Thốt Nốt, Ô Môn, Châu Thành, Phụng Hiệp, Long Mỹ, Kế Sách, Mỹ Tú, Mỹ Xuyên, Long Phú, Thạnh Trị, Vĩnh Châu.", "Đồng thời, quận 1 (quận Nhứt) và quận 2 (quận Nhì) cũng bị giải thể, các phường xã trực thuộc thành phố Cần Thơ và cũng có một vài sắp xếp, thay đổi nhỏ. Theo đó, nhập hai phường Hưng Phú và Hưng Thạnh (thuộc quận 2 cũ) thành phường Thạnh Phú; thành lập mới phường Bình Thủy gồm một phần nhỏ đất đai trước thuộc xã Long Tuyền và giải thể phường An Thới, nhập địa bàn vào phường mới này; tách đất hai phường An Hòa và An Cư (thuộc quận 1 cũ) để lập mới phường Cái Khế. Thành phố Cần Thơ ban đầu gồm 8 phường: An Cư, An Hòa, An Lạc, An Nghiệp, Bình Thủy, Cái Khế, Hưng Lợi, Thạnh Phú và 2 xã: An Bình, Long Tuyền.", "Ngày 21 tháng 4 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 174-CP về việc chia một số phường xã thuộc thành phố Cần Thơ, tỉnh Hậu Giang như sau:", "Sau này, các ấp Thới Thuận, Thới Hòa và Thới Ngươn của xã Thới An Đông được tách ra để thành lập mới phường Trà Nóc trực thuộc thành phố Cần Thơ. Đồng thời, toàn bộ phần còn lại của xã Thới An Đông cũng được sáp nhập vào thành phố Cần Thơ. Ngày 5 tháng 5 năm 1990, thành phố Cần Thơ được công nhận là đô thị loại 2 trực thuộc tỉnh.", "Ngày 26 tháng 12 năm 1991, Quốc hội Việt Nam ban hành Nghị quyết chia tỉnh Hậu Giang thành tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng. Tỉnh Cần Thơ có 7 đơn vị hành chính gồm: thành phố Cần Thơ và 6 huyện: Thốt Nốt, Ô Môn, Châu Thành, Long Mỹ, Phụng Hiệp, Vị Thanh, có diện tích tự nhiên 3.022,30 km² với số dân 1.614.350 người. Tỉnh lỵ: thành phố Cần Thơ.", "Tỉnh Cần Thơ cũ, giai đoạn 1992–2003.", "Tỉnh Cần Thơ chính thức được tái lập và đi vào hoạt động trở lại từ tháng 4 năm 1992. Tỉnh Cần Thơ lúc đó bao gồm thành phố Cần Thơ và 6 huyện là Thốt Nốt, Ô Môn, Châu Thành, Long Mỹ, Phụng Hiệp, Vị Thanh. Tỉnh lỵ là thành phố Cần Thơ trực thuộc tỉnh Cần Thơ. Ngày 1 tháng 7 năm 1999, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 45/1999/NĐ-CP về việc thành lập thị xã Vị Thanh, đổi tên huyện Vị Thanh thành huyện Vị Thủy và thành lập các phường, xã, thị trấn thuộc thị xã Vị Thanh và huyện Vị Thủy, tỉnh Cần Thơ.", "Ngày 6 tháng 11 năm 2000, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 64/2000/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Châu Thành để thành lập huyện Châu Thành A thuộc tỉnh Cần Thơ. Theo đó, tái lập huyện Châu Thành A trên cơ sở 22.139 ha diện tích tự nhiên và 163.357 nhân khẩu của huyện Châu Thành. Từ đó cho đến cuối năm 2003, tỉnh Cần Thơ gồm 9 đơn vị hành chính trực thuộc: thành phố Cần Thơ, thị xã Vị Thanh, huyện Châu Thành, huyện Châu Thành A, huyện Phụng Hiệp, huyện Vị Thủy, huyện Long Mỹ, huyện Ô Môn, huyện Thốt Nốt.", "Thành phố Cần Thơ trực thuộc tỉnh Cần Thơ khi đó gồm 15 phường: An Cư, An Hòa, An Hội, An Lạc, An Nghiệp, An Phú, An Thới, Bình Thủy, Cái Khế, Hưng Lợi, Hưng Phú, Tân An, Thới Bình, Trà Nóc, Xuân Khánh và 7 xã: An Bình, Giai Xuân, Hưng Thạnh, Long Hòa, Long Tuyền, Mỹ Khánh, Thới An Đông.", "Trở thành thành phố trực thuộc Trung ương.", "Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội Việt Nam thông qua Nghị quyết số 22/2003/QH11 về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh. Theo đó, chia tỉnh Cần Thơ thành thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương và tỉnh Hậu Giang như sau:", "*Thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương có diện tích tự nhiên là 138.959,99 ha và dân số hiện tại là 1.112.121 ngưười, bao gồm: diện tích và số dân của thành phố Cần Thơ cũ; huyện Ô Môn; huyện Thốt Nốt; một phần của huyện Châu Thành, bao gồm: thị trấn Cái Răng; các ấp Thạnh Mỹ, Thạnh Huề, Thạnh Thắng, Yên Hạ và 176 ha diện tích cùng với 2.216 ngưười của ấp Phú Quới thuộc xã Đông Thạnh; các ấp Thạnh Hóa, Thạnh Hưng, Thạnh Thuận, An Hưng, Thạnh Phú, Phú Khánh, Khánh Bình và 254,19 ha diện tích cùng với 1.806 người của ấp Phú Hưng thuộc xã Phú An; các ấp Phú Thành, Phú Thạnh, Phú Thuận, Phú Thuận A và 304,61 ha diện tích cùng với 1.262 người của ấp Phú Lợi thuộc xã Đông Phú; một phần của huyện Châu Thành A, bao gồm: xã Trưường Long; xã Nhơn ái; xã Nhơn Nghĩa; ấp Tân Thạnh Đông và 84,7 ha diện tích cùng với 640 người của ấp Tân Thạnh Tây thuộc xã Tân Phú Thạnh.", "*Tỉnh Hậu Giang có diện tích tự nhiên là 160.772,49 ha và dân số hiện tại là 766.105 người, bao gồm: diện tích và số dân của thị xã Vị Thanh; huyện Phụng Hiệp; huyện Long Mỹ; huyện Vị Thủy; phần còn lại của huyện Châu Thành và huyện Châu Thành A, trừ phần diện tích và số dân của hai huyện này đã được điều chỉnh về thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương quy định như trên. Tỉnh lỵ tỉnh Hậu Giang đặt tại thị xã Vị Thanh.", "Thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương chính thức được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 2004. Đến ngày 2 tháng 1 năm 2004, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 05/2004/NĐ-CP về việc thành lập các quận Ninh Kiều, Bình Thủy, Cái Răng, Ô Môn, các huyện Phong Điền, Cờ Đỏ, Vĩnh Thạnh, Thốt Nốt và các xã, phường, thị trấn thuộc thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương. Thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, thành lập các đơn vị hành chính trực thuộc có 138.959,99 ha diện tích tự nhiên và 1.112.121 nhân khẩu; gồm 8 đơn vị hành chính là 4 quận: Ninh Kiều, Bình Thủy, Cái Răng, Ô Môn và 4 huyện: Phong Điền, Cờ Đỏ, Vĩnh Thạnh, Thốt Nốt; có 67 đơn vị hành chính phường xã, thị trấn: 30 phường, 33 xã và 4 thị trấn.", "Ngày 23 tháng 12 năm 2008, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 12/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính xã, thành lập xã thuộc huyện Thốt Nốt, huyện Vĩnh Thạnh, huyện Cờ Đỏ, thành lập quận Thốt Nốt và các phường trực thuộc, điều chỉnh địa giới hành chính huyện Cờ Đỏ để thành lập huyện Thới Lai thuộc thành phố Cần Thơ. Sau khi thành lập các quận, huyện mới, thành phố Cần Thơ có 140.161,60 ha diện tích tự nhiên và 1.147.067 nhân khẩu, có 9 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm các quận: Ninh Kiều, Bình Thủy, Cái Răng, Ô Môn, Thốt Nốt và các huyện: Phong Điền, Cờ Đỏ, Thới Lai, Vĩnh Thạnh.", "Ngày 24 tháng 6 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 889/QĐ-TTg về việc công nhận thành phố Cần Thơ là đô thị loại I trực thuộc trung ương.", "Địa lý.", "Cần Thơ nằm ở vùng hạ lưu của sông Cửu Long và ở vị trí trung tâm đồng bằng sông Cửu Long, và là thành phố nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long, nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 1877 km, cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh 169 km, cách thành phố Cà Mau hơn 150 km, cách Rạch Giá gần 120 km, cách trung tâm thủ đô Phnôm Pênh (Campuchia) khoảng 264 km và cách biển Đông 75 km theo đường nam sông Hậu (quốc lộ 91C), Cần Thơ có tọa độ địa lý 105°13’38\" – 105°50’35\" kinh độ Đông và 9°55’08\" – 10°19’38\" vĩ độ Bắc, trải dài trên 60 km dọc bờ Tây sông Hậu, có vị trí địa lý: ", "Cần Thơ có các điểm cực sau:", "Diện tích nội thành là 53 km². Cần Thơ có tổng diện tích tự nhiên là 1.409,0 km², chiếm 3,49% diện tích toàn vùng và dân số vào khoảng 1.400.200 người, mật độ dân số tính đến 2015 là 995 người/km². Cần Thơ là thành phố trực thuộc trung ương lớn thứ 4 của cả nước về diện tích và dân số, lớn thứ 5 về kinh tế, cũng là thành phố hiện đại và lớn nhất của cả vùng hạ lưu sông Mekong.", "Theo thống kê năm 2019, Cần Thơ có diện tích 1.439,2 km², dân số là 1.235.171 người, mật độ dân số đạt 885 người/km².", "Thống kê dân số 10 năm, kể từ năm 2009 đến nay, quy mô dân số Cần Thơ tăng 46.736 người. Tỷ lệ tăng dân số bình quân giai đoạn năm 2009 – 2019 là 0,39% cao hơn ĐBSCL 0,34 điểm phần trăm và thấp hơn cả nước là 0,75 điểm phần trăm. Như vậy dân số Cần Thơ cũng như ĐBSCL có tăng so với năm 2009 nhưng dân số tăng không đáng kể. Thể hiện dân số có sự dịch chuyển từ nông thôn về thành thị và từ miền Tây Nam Bộ về miền Đông Nam Bộ và Cần Thơ cũng không nằm ngoài xu hướng đó.", "Trong 10 năm qua, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh và rộng khắp nhiều địa phương đã tác động làm gia tăng dân số ở khu vực thành thị. Từ năm 2009 đến năm 2019, dân số khu vực thành thị tăng 77.271 người chiếm 9,8% trong khi đó dân số ở khu vực nông thôn lại giảm 30.535 người chiếm 7,5% cho thấy sự đô thị hóa ở Cần Thơ diễn ra nhanh hơn ở cấp độ vùng và toàn quốc. Qua kết quả điều tra dân số tập trung ở khu vực thành thị là 860.393 người chiếm 69,66%; nông thôn là 374.778 người chiếm 30,34% trong khi đó cách đây 10 năm tỷ lệ này là 65,9% và 34,1% tăng tỷ lệ dân số thành thị 3,36 điểm phần trăm. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 đạt 71,5%.", "Kết quả tổng điều tra 2019, cũng cho thấy Cần Thơ là thành phố có mật độ dân số cao (858 người/km²) so với các tỉnh thành khác trong cả nước đứng 12/63 và cao gấp 3 lần mật độ dân số toàn quốc (290 người/km²) cao gấp 2 lần mật độ dân số ĐBSCL (423 người/km²). Nhưng so với năm 2009 thì mật độ dân số tăng 10 người/km² trong khi đó ĐBSCL có xu hướng giảm 1 người/km². Quận Ninh Kiều là đơn vị hành chính đông dân số nhất với 280.494 người và huyện Vĩnh Thạnh có dân số ít nhất là 98.399 người. Cần Thơ có mật độ dân số 858 người/km2, cao gấp 3 lần mật độ dân số toàn quốc và đứng thứ 12/63 tỉnh, thành cả nước. Ở khu vực thành thị, dân số vẫn tập trung chủ yếu tại quận Ninh Kiều với 9.596 người/km2, tăng 1.256 người/km2 so năm 2009. Tuy nhiên, quận Ô Môn giảm 8 người/km2 và Thốt Nốt giảm 24 người/km2. Ở khu vực nông thôn, dân số các huyện Vĩnh Thạnh, Cờ Đỏ, Phong Điền, Thới Lai đều giảm. Và trong những năm gần đây do sự phát triển với tốc độ đô thị hoá diễn ra khá nhanh mà thành phố này đang phải đối mặt nhiều vấn đề của 1 đô thị như: Ùn tắc giao thông, tình trạng hư hỏng xuống cấp ở một số tuyến đường có mật độ giao thông lớn, triều cường và ngập nghẹt mỗi khi trời mưa, ô nhiễm không khí, kênh rạch, thiếu mật độ cây xanh, gia tăng mật độ dân số khá cao gây nên sự quá tải ở khu vực trung tâm thành phố như quận Ninh Kiều và mật độ giảm dần ở các quận vùng ven thành phố như Quận Ô Môn và Quận Thốt Nốt.", "Điều kiện tự nhiên.", "Cần Thơ nằm toàn bộ trên đất có nguồn gốc phù sa sông Cửu Long bồi đắp và được bồi lắng thường xuyên qua nguồn nước có phù sa của dòng sông Hậu. Địa chất trong thành phố được hình thành chủ yếu qua quá trình bồi lắng trầm tích biển và phù sa của sông Cửu Long, trên bề mặt ở độ sâu 50 mét có hai loại trầm tích là Holocen (phù sa mới) và Pleistocene (phù sa cổ).", "Địa hình nhìn chung tương đối bằng phẳng, phù hợp cho sản xuất nông, ngư nghiệp, với độ cao trung bình khoảng 1 – 2 mét dốc từ đất giồng ven sông Hậu, và sông Cần Thơ thấp dần về phía nội đồng tức là từ phía đông bắc sang phía tây nam. Bên cạnh đó, thành phố còn có các cồn và cù lao trên sông Hậu như Cồn Ấu, Cồn Khương, Cồn Sơn, Cù lao Tân Lập. Cần Thơ có 3 dạng địa hình chính là Địa hình ven sông Hậu hình thành dải đất cao là đê tự nhiên và các cù lao ven sông Hậu.", "Ngoài ra do nằm cạnh sông lớn, Cần Thơ có mạng lưới sông, kênh rạch khá chằng chịt. Vùng tứ giác Long Xuyên thấp trũng, chịu ảnh hưởng lũ trực tiếp hàng năm. Đồng bằng châu thổ chịu ảnh hưởng triều cùng lũ cuối vụ.", "Cần Thơ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, ít bão, quanh năm nóng ẩm, không có mùa lạnh. Mùa mưa kéo dài dao động từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 28 °C, số giờ nắng trung bình cả năm khoảng 2.249,2 h, lượng mưa trung bình năm đạt 2000 mm. Độ ẩm trung bình năm dao động từ 82% - 87%. Do chịu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có lợi thế về nền nhiệt độ, chế độ bức xạ nhiệt, chế độ nắng cao và ổn định theo hai mùa trong năm.", "Các lợi thế này rất thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển của sinh vật, có thể tạo ra 1 hệ thống nông nghiệp nhiệt đới có năng suất cao, với nhiều chủng loại cây con, tạo nên sự đa dạng trong sản xuất và trong chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Tuy nhiên, mùa mưa thường đi kèm với ngập lũ ảnh hưởng tới khoảng 50% diện tích toàn thành phố, mùa khô thường đi kèm với việc thiếu nước tưới, gây khó khăn cho sản xuất và sinh hoạt, nhất là khu vực bị ảnh hưởng của mặn, phèn làm tăng thêm tính thời vụ cũng như nhu cầu dùng nước không đều giữa các mùa của sản xuất nông nghiệp.", "Cần Thơ có sông Hậu chảy qua với tổng chiều dài là 65 km, trong đó đoạn qua Cần Thơ có chiều rộng khoảng 1,6 km. Tổng lượng phù sa của sông Hậu là 35 triệu m3/năm. Tại Cần Thơ, lưu lượng cực đại đạt mức 40.000 m³/s. Mùa cạn từ tháng 1 đến tháng 6, thấp nhất là vào tháng 3 và tháng 4. Lưu lượng nước trên sông tại Cần Thơ chỉ còn 2.000 m3/s. Mực nước sông lúc này chỉ cao hơn 48 cm so với mực nước biển.", "Sông Cần Thơ bắt nguồn từ khu vực nội đồng tây sông Hậu, đi qua các quận Ô Môn, huyện Phong Điền, quận Cái Răng, quận Ninh Kiều và đổ ra sông Hậu tại bến Ninh Kiều. Sông Cần Thơ có nước ngọt quanh năm, vừa có tác dụng tưới nước trong mùa cạn, vừa có tác dụng tiêu úng trong mùa lũ và có ý nghĩa lớn về giao thông. Sông Cái Lớn dài 20 km, chiều rộng cửa sông 600 – 700 m, độ sâu 10 – 12 m nên có khả năng tiêu, thoát nước rất tốt.", "Bên cạnh đó, Cần Thơ còn có hệ thống kênh rạch dày đặc, với hơn 158 sông, rạch lớn nhỏ là phụ lưu của 2 sông lớn là sông Hậu và sông Cần Thơ đi qua thành phố nối thành mạng đường thủy. Các sông rạch lớn khác là sông Bình Thủy, sông Trà Nóc, sông Ô Môn, sông Thốt Nốt, kênh Thơm Rơm và nhiều kênh lớn khác tại các huyện ngoại thành là Thốt Nốt, Vĩnh Thạnh, Cờ Đỏ và Phong Điền, cho nước ngọt suốt 2 mùa mưa nắng, tạo điều kiện cho nhà nông làm thủy lợi và cải tạo đất.", "Tổ chức hành chính và chính quyền.", "Tổ chức hành chính.", "Thành phố Cần Thơ có 9 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 5 quận và 4 huyện với 83 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 5 thị trấn, 42 phường và 36 xã (chia thành 630 khu vực, khóm, ấp).", "Chính quyền.", "Cần Thơ là một trong năm Thành phố trực thuộc trung ương (Việt Nam) , được xếp vào Đô thị loại I, thỏa mãn các tiêu chí như tỷ lệ lao động phi nông nghiệp khu vực nội thành so với tổng số lao động, cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng đồng bộ và cơ bản hoàn chỉnh, trong 5 Thành phố trực thuộc trung ương (Việt Nam).", "Cũng như các tỉnh và thành phố khác của Việt Nam, Hội đồng nhân dân thành phố Cần Thơ là cơ quan quyền lực Nhà nước ở Thành phố do người dân Thành phố trực tiếp bầu lên với nhiệm kỳ 5 năm. Hội đồng Nhân dân thành phố Cần Thơ khóa IX nhiệm kỳ 2016–2021 gồm 52 đại biểu. Kỳ họp thứ nhất của Hội đồng Nhân dân thành phố ngày 30 tháng 6 năm 2016 đã bầu ra Thường trực Hội đồng Nhân dân gồm 7 người và bầu ra Chủ tịch Hội đồng Nhân dân (thường đồng thời là Bí thư Thành ủy thành phố). Chủ tịch Hội đồng Nhân dân thành phố hiện tại là ông Phạm Văn Hiểu.", "Uỷ ban nhân dân thành phố Cần Thơ là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, do Hội đồng Nhân dân bầu ra và là Cơ quan hành chính Nhà nước ở thành phố, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, Pháp luật, các văn bản của Chính phủ Việt Nam và các nghị quyết của Hội đồng Nhân dân thành phố. Ủy ban Nhân dân thành phố khóa IX (nhiệm kỳ 2016-2021) được Hội đồng Nhân dân thành phố bầu ra Chủ tịch và 4 Phó Chủ tịch. Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố đương nhiệm là ông Trần Việt Trường.", "Về phía Đảng ủy, Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Cần Thơ (hay thường gọi là Thành ủy Cần Thơ) là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ thành phố giữa hai kỳ Đại hội Đảng bộ. Thành ủy Thành phố Cần Thơ khóa XXII nhiệm kỳ 2020-2025 gồm 52 ủy viên, bầu ra Thường vụ Thành ủy gồm 14 thành viên. Đứng đầu Đảng ủy Thành phố là Bí thư Thành ủy do chính Thành ủy thành phố bầu ra hoặc do Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam phân công và chỉ định, là một Ủy viên Trung ương Đảng. Bí thư Thành ủy thành phố Cần Thơ hiện tại là ông Lê Quang Mạnh.", "Sáng ngày (17/7), tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã chủ trì cuộc họp Bộ Chính trị tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 45 Bộ Chính trị khóa IX về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.", "Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết 45, tăng trưởng bình quân của Cần Thơ đạt 7,27% quy mô kinh tế, tăng gấp 7 lần so với cách đây 15 năm, ngân sách cân đối và điều tiết và có điều tiết về Trung ương, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng khẳng định vai trò của Cần Thơ là trung tâm của vùng Đồng bằng sông Cửu Long về dịch vụ và công nghiệp, cũng như làm vai trò đầu mối quan trọng về giao thông vận tải nội vùng và liên vận quốc tế và là 1 trong 6 đô thi trọng điểm thực hiện đề án phát triển các đô thị Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu.", "Cần Thơ đã hoàn thành trước thời hạn chương trình nông thôn mới, đồng thời từng bước khẳng định vai trò trung tâm vùng về giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa, tỷ lệ hộ nghèo của Cần Thơ 0,66% giảm ở mức thấp nhất vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Bộ Chính trị cũng ghi nhận những kết quả của Cần Thơ về công tác xây dựng đảng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, hoạt động của bộ máy hành chính từng bước đổi mới theo hướng tin gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, quốc phòng an ninh được đảm bảo vững chắc.", "Phát biểu kết luận, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh việc Bộ Chính trị cho ý kiến tổng kết Nghị quyết 45 của Bộ Chính trị sau 15 năm thực hiện rất có ý nghĩa quan trọng đối với Cần Thơ tại thời điểm địa phương đang chuẩn bị Đại hội Đảng bộ vào cuối năm nay.", "Trên cơ sở phân tích những kết quả đã đạt được, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước cho biết Bộ Chính trị nhất trí cao về sự cần thiết phải ban hành Nghị quyết mới để phát triển Cần Thơ đến năm 2028 tầm nhìn 2045. Cụ thể, mục tiêu đến năm 2030 Cần Thơ trở thành thành phố sinh thái, văn minh hiện đại mang đậm bản sắc sông nước vùng Đồng bằng sông Cửu Long, là trung tâm của vùng về dịch vụ thương mại, du lịch, logistic, công nghiệp chế biến và nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, là đô thị hạt nhân vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Một số chỉ tiêu cụ thể trong 5 nắm tới gồm: tăng trưởng đạt mức 7,5-8%, vốn đầu tư toàn xã hội tăng 10-12,5%, thu nhập đạt từ 6.200 - 6.800 USD.", "Kinh tế.", "Trong nhiệm kỳ 2010 - 2015, Đảng bộ Thành phố Cần Thơ đã thực hiện đạt và vượt 20/22 chỉ tiêu Nghị quyết Đảng bộ lần thứ 12 đề ra. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Thành phố đạt 12,19%. Cơ cấu kinh tế tăng dần ở khu vực công nghiệp, xây dựng, thương mại dịch vụ, giảm dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp, thủy sản.", "Tổng sản phẩm trên địa bàn đến 2015 đạt hơn 77.900 tỷ đồng, tăng 1,8 lần so với 2010; thu nhập bình quân đầu người đến năm 2015 đạt 78,46 triệu đồng/năm (tương đương 3.600 USD), tăng 2,15 lần so 2010. Hàng năm, thành phố Cần Thơ đóng góp cho vùng khoảng 12% tổng thu ngân sách...", "Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 1,375 ty USD. Tính đến nay, thành phố Cần Thơ đ ã có quan hệ xuất khẩu với trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ, tập trung nhiều nhất ở châu Á với 50,6%, châu Mỹ 19,2%, các nước khu vực châu Âu 13%, châu Phi 7,78% và châu Úc là 2,63%.", "Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2011 (theo giá so sánh 2010) đạt 70.187 tỷ đồng; năm 2014 đạt 93.362 tỷ đồng; năm 2015 đạt 101.868 tỷ đồng, tăng gấp 1,5 lần so với năm 2011; nhịp độ tăng trưởng bình quân ước đạt 9,8%/năm .", "Năm 2011, tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố Cần Thơ đạt 14,64%, thu nhập bình quân đầu người đạt 2.346 USD. Trong 6 tháng đầu 2012, tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố ước đạt 8,36%, trong khi đó cùng kỳ năm 2011 mức tăng là 12,21%. Thu nhập bình quân đầu người của Cần Thơ 6 tháng đầu 2012 ước đạt 1.819 USD. Tỷ trọng nông nghiệp thủy sản chiếm 10,83%, công nghiệp xây dựng chiếm 44,45% và dịch vụ thương mại chiếm 44,72%. Giá trị sản xuất nông nghiệp thủy sản thực hiện được 1.617 tỷ đồng, đạt 39,5% kế hoạch cả năm, công nghiệp xây dựng thực hiện được 12.433 tỷ đồng, đạt 38,6% kế hoạch cả năm, dịch vụ thương mại ước thực hiện được 7.309 tỷ đồng, đạt 37% kế hoạch cả năm. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước thực hiện được 3.443 tỷ đồng, đạt 40,99% dự toán Hội đồng nhân dân thành phố giao. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện được 16.770 tỷ đồng.", "Trong giai đoạn 9 Tháng đầu năm 2012, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thành phố Cần Thơ đạt 10,3%, mức cao nhất trong 5 thành phố trực thuộc Trung ương. Đây là mức tăng trưởng khá cao và hợp lý trong điều kiện sản xuất khó khăn và tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Giá trị sản xuất công nghiệp ước tăng 7,5%, tổng mức bán ra hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 18,5%, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng 4,97% so với cùng kỳ, thu ngân sách được 5.092 tỷ đồng, đạt 59,5% dự toán Hội đồng nhân dân thành phố giao… ", "Tuy nhiên, Bên cạnh những mặc tích cực vẫn còn hạn chế, các ngành, lĩnh vực có mức tăng trưởng thấp hơn mức tăng của những năm trước, ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế và thu ngân sách nhà nước, giá cả hàng hóa, dịch vụ, xăng, dầu và một số vật liệu chủ yếu tăng cao, mặt bằng lãi suất còn cao và khó tiếp cận đã gây áp lực cho sản xuất và đời sống dân cư, tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, nhũng nhiễu gây chậm trễ, phiền hà cho tổ chức và nhân dân chưa giảm…", "Cây nông nghiệp chính của Cần Thơ là lúa, với sản lượng 1.194,7 tấn. Ngoài ra có một số cây hoa màu khác nhưng sản lượng không đáng kể. Ngành chăn nuôi ở Cần Thơ chủ yếu là nuôi heo và gia cầm. Số lượng heo là 2589,3 ngàn con, số lượng gia cầm là 13 ngàn con (vì bị cúm gia cầm). Các gia súc khác như trâu bò chiếm số lượng không nhiều. Ngành thủy sản ở Cần Thơ chủ yếu là nuôi trồng.", "Công nghiệp.", "Trong năm 2020 toàn thành phố có 250 dự án trong và ngoài nước, gồm: 222 dự án đầu tư trong nước, 27 dự án đầu tư nước ngoài và 1 dự án ODA, với tổng vốn đầu tư đăng ký là 1,76 tỉ USD.Tổng doanh thu của các doanh nghiệp đang hoạt động trong các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố đạt hơn 1.866 triệu USD, đạt 99,91% so với kế hoạch; thu hút 2 dự án mới vào các khu công nghiệp, với vốn đăng ký thực hiện 4,66 triệu USD.", "Công nghiệp Cần Thơ về cơ bản đã xây dựng được nhiều cơ sở hạ tầng để phục vụ cho các đối tác nước ngoài tác nhập, điển hình là 2 khu công nghiệp tại Trà Nóc trực thuộc quận Bình Thủy, khu công nghiệp Thốt Nốt, khu công nghiệp Hưng Phú 1 và 2, khu công nghiệp tại quận Ô Môn. Trung tâm Công nghệ Phần mềm Cần Thơ, Cantho Software Park CSP cũng là một trong những dự án được Thành phố quan tâm đầu tư phát triển. Với những lợi thế về phát triển công nhiệp, Cần Thơ cũng đã được định hướng để phát triển trở thành \"thành phố công nghiệp\" trước năm 2020 theo Nghị quyết 45- NQ/TW của Bộ chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.", "Dịch vụ & Thương mại.", "Có nhiều siêu thị và khu mua sắm, thương mại lớn như: Tổ hợp TTTM và khách sạn cao cấp 5 sao Vincom Xuân Khánh, Vincom Hùng Vương, Go, Metro, Sense City (Co.opmart), Lotte Mart, VinMart (WinMart), Best Caring, Siêu thị Điện máy Sài Gòn Chợ Lớn, Siêu thị điện máy Nguyễn Kim, Khu mua sắm Đệ Nhất Phan Khang, Khu Thương mại Tây Đô, Trung tâm thương mại Cái Khế. Cùng với đó là các cửa hàng thương hiệu nổi tiếng như Grab, Vinmart, Loteria, Jollibee, Highlands Coffee, The Coffee House, Phúc Long đã có mặt trên địa bàn thành phố. Các ngành dịch vụ tại Cần Thơ rất nhiều loại hình dịch vụ đã và đang dần phát triển mạnh như Ngân hàng, Y tế, Giáo dục, Văn hóa xã hội...", "Trong năm 2020 một số ngành tăng trưởng khá, lĩnh vực thiết yếu được xem là những điểm sáng của ngành Công Thương thành phố trước bối cảnh dịch COVID-19 bùng phát và kéo dài; nhu cầu tiêu thụ hàng hóa toàn cầu giảm mạnh, kéo theo thị trường xuất nhập khẩu bị thu hẹp. Theo Sở Công Thương thành phố, một số sản phẩm đạt mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ như phi lê đông lạnh tăng 8,6%; xi măng tăng 33,83%; sản phẩm đinh tăng 43,57%; điện sản xuất tăng 3%; nước máy thương phẩm tăng 4,33%. Các sản phẩm tăng là do doanh nghiệp ký kết được đơn hàng mới và tập trung đẩy mạnh sản xuất những tháng cuối năm; đồng thời, các giải pháp tháo gỡ khó khăn phát huy tác dụng tích cực, kích cầu tiêu thụ nội địa, tăng sức mua của người tiêu dùng. Ở lĩnh vực thương mại, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ năm 2020 của thành phố đạt trên 139.077 tỉ đồng. Mức bán lẻ này chỉ đạt 92,69% kế hoạch năm song lại tăng 3,53% so với cùng kỳ. Hoạt động xuất khẩu của thành phố cũng trải qua một năm nhiều khó khăn khi giảm 13,16% so với cùng kỳ với kim ngạch xuất khẩu cả năm đạt hơn 1,93 tỉ USD. Song nhìn chung, các doanh nghiệp đã nỗ lực kết nối với các đối tác truyền thống để duy trì thị trường, tìm cơ hội trong khó khăn và duy trì việc làm cho người lao động.", "Theo Sở Công Thương thành phố Cần Thơ, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ trong 5 năm, từ 2011 - 2015 của thành phố trên 316.300 tỷ đồng; riêng năm 2015 đạt 80.900 tỷ đồng, đứng thứ ba của cả nước chỉ sau Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, góp phần đưa tỷ lệ của khu vực III (thương mại, dịch vụ) đạt 57,8% trong cơ cấu kinh tế của thành phố. Mức tăng trưởng trong lĩnh vực này bình quân trong 5 năm qua là 15,4%.", "Với vị trí thuận lợi là trung tâm của vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, ngành Dịch vụ phát triển nhanh theo hướng đa dạng hoá loại hình, tạo nên điểm nhấn khá ấn tượng làm sôi động kinh tế thành phố. Trong 7 tháng đầu năm 2009, tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu và doanh thu dịch vụ thu ngoại tệ trên địa bàn thành phố ước thực hiện 447,4 triệu USD, đạt 48,2% so kế hoạch năm và tăng 4,3% so cùng kỳ. Trong đó, xuất khẩu hàng hoá hơn 431,9 triệu USD, đạt 48% so kế hoạch và tăng 1,5% so cùng kỳ, dịch vụ thu ngoại tệ 15,5 triệu USD, đạt 53,45% so kế hoạch và giảm 4% so cùng kỳ. Trong 9 tháng đầu năm 2009, các doanh nghiệp xuất khẩu gần 437.000 tấn gạo, đạt 82,4% so kế hoạch năm và tăng 20,2% so cùng kỳ, nhưng giá trị chỉ đạt gần 187 triệu USD, giảm 8% về giá trị. Trong đó, xuất trực tiếp 239.000 tấn (giá trị 102 triệu USD), xuất ủy thác 198.000 tấn (85 triệu USD) và cung ứng cho xuất khẩu trên 110.000 tấn quy gạo.", "Tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ thu ngoại tệ năm 2019 ước 2.162,9 triệu USD, đạt 98,31%, tăng 4,49%; trong đó: xuất khẩu hàng hóa 1.712,7 triệu USD, đạt 97,87%, tăng 3,8%; dịch vụ thu ngoại tệ 450,2 triệu USD, vượt 0,04%, tăng 7,19%. Kim ngạch nhập khẩu ước 480,3 triệu USD, vượt 0,06%, tăng 11,37%. Du lịch đón trên 8,86 triệu lượt khách, doanh thu 4.435,3 tỷ đồng, tăng 17,2%. Sản xuất công nghiệp ước tăng 7,85% so với năm 2018. Tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ thực hiện 134.303,34 tỷ đồng, vượt 1,08% Kế hoạch, tăng 11,43% so năm 2018.", "Tài chính - Ngân hàng.", "Thành phố Cần Thơ hiện nay là một trung tâm tài chính đứng đầu khu vực ĐBSCL. Thành phố hiện có 46 Tổ trức tín dụng và 7 Quỹ tín dụng nhân dân đang hoạt động, bao gồm đủ loại hình: ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh; công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, với tổng đầu mối quản lý là 60 đầu mối, 257 địa điểm có giao dịch ngân hàng hoạt động (không kể hoạt động ngân hàng chính sách). Với mạng lưới này thì hầu hết các huyện vùng xa của Cần Thơ, các huyện mới tái lập, thành lập, huyện ít nhất cũng có 7 TCTD hoạt động trên địa bàn. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận tín dụng, dịch vụ ngân hàng. Hiện tại, TP Cần Thơ là một trong những địa phương có dư nợ cho vay lớn nhất khu vực ĐBSCL. Ngay cả khi bị tác động của dịch COVID-19, tín dụng vẫn tăng trưởng, dư nợ cho vay của các TCTD đến hết tháng 4-2020 đạt trên 92.627 tỉ đồng; huy động trên 82.000 tỉ đồng", "Năng lực cạnh tranh.", "Năm 2020. TP Cần Thơ nằm trong nhóm điều hành tốt với tổng điểm 68,38, đứng vị trí thứ 11/63 tỉnh thành của cả nước (giữ vững thứ hạng và tăng 3,4 điểm so với năm 2018), đứng thứ 4 so với 5 TP trực thuộc Trung ương và xếp vị trí thứ 5 tại ĐBSCL. Năng lực cạnh tranh của thành phố không ngừng được cải thiện qua từng thời kì.", "Xã hội.", "Về mặt truyền thông và thông tin đại chúng, Cần Thơ có các đài phát thanh truyền hình như Đài Tiếng nói Việt Nam cơ quan thường trú KV ĐBSCL, Đài Phát thanh và Truyền hình thành phố Cần Thơ, Trung tâm Truyền hình Việt Nam khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, Đài VTV Cần Thơ và cơ quan thường trú VOV. Ngoài ra hệ thống truyền hình cáp cũng khá đông đảo như Truyền hình cáp Saigontourist, Truyền hình cáp Thành phố Hồ Chí Minh, Truyền hình vệ tinh DTH (direct-to-home), Truyền hình vệ tinh K+, Truyền hình vệ tinh VTC, và các đài truyền thanh ở các quận, huyện cùng với đó là các cơ quan báo chí như Báo Nhân Dân, Báo Cần Thơ, Canthogov cùng với các trang báo chí ở khắp các quận, huyện.", "Cần Thơ có Sân vận động Cần Thơ với sức chứa 50.000 người đồng thời cũng là sân vận động có sức chứa lớn nhất Việt Nam ở thời điểm hiện tại. Ngoài các trận đấu của Câu lạc bộ Bóng đá Cần Thơ ở giải đấu cao thứ hai trong hệ thống các giải đấu chuyên nghiệp ở Việt Nam thì SVĐ còn tổ chức đua xe môtô. Và đây là môn thể thao được người dân Cần Thơ và các tỉnh lân cận ưa thích. Một năm thường tổ chức 3 lần đua là vào ngày mùng 4 Tết, ngày 30-4 và ngày 2-9. Hiện nay, đội bóng đá Cần Thơ đang đá ở Giải Hạng nhất Quốc gia (V.league 2). Ngoài ra còn có Nhà thi đấu đa Năng (đầu tư bởi Quân đội), Khu thi đấu tennis bãi cát quy mô 8 sân, Nhà thi đấu bơi lội và Sân bóng Quân khu 9.", "Tính đến năm 2022, thành phố Cần Thơ có 1.252.348 dân, trong đó dân số thành thị chiếm 70,5%. Quận Ninh Kiều là đơn vị hành chính có lượng dân cư tập trung đông nhất, với 292.368 người, chiếm 23,3% lượng dân cư toàn thành phố.", "Giáo dục.", "Tính đến ngày 30 tháng 9 năm 2008, thành phố Cần Thơ có 255 trường học ở các cấp phổ thông, đứng đầu ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long. Tại các bậc bậc đại học và cao đẳng, thành phố có nhiều trường đại học hàng đầu khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long.", "Danh sách các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp trên địa bàn thành phố Cần Thơ.", "Riêng thành phố Cần Thơ hiện có 9 trường đại học, 16 trường cao đẳng, 1 học viện, 2 phân hiệu và 12 trường trung cấp chuyên nghiệp với tổng số hơn 76.677 sinh viên đại học, cao đẳng và trung cấp chính quy, chiếm gần 50% số sinh viên của cả vùng. Thành phố Cần Thơ có 4.260 người có trình độ sau đại học, trong đó có 234 người có trình độ tiến sĩ. Trường Đại học Cần Thơ và trường Đại học Y Dược Cần Thơ là 2 trường có chất lượng đào tạo cao, giữ được uy tín hàng đầu trong khu vực và cả nước.", "Năm học 2019 - 2020, tỷ lệ học sinh xét tuyển lớp 1 đạt 100%, lớp 6 đạt 99,16%; thí sinh trúng tuyển vào lớp 10 các trường công lập tỷ lệ 90,73%. Mạng lưới y tế cơ sở từng bước nâng cao chất lượng, hiện có 82/82 trạm y tế đạt Bộ Tiêu chí quốc gia về y tế xã; tỷ lệ bác sĩ/vạn dân 14,96 bác sĩ. Văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao được quan tâm đầu tư.", "Y tế.", "Trong năm 2008, thành phố Cần Thơ có 83 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế. Trong đó có 12 bệnh viện, 8 phòng khám đa khoa khu vực và 60 trạm y tế phường xã, tổng số giường bệnh là 1.600 giường, trong đó các bệnh viện có 1.300 giường, phòng khám đa khoa khu vực có 85 giường, trạm y tế có 215 giường. Năm 2009, Cần Thơ đã có khoảng 58/76 trạm y tế đạt chuẩn quốc gia về y tế xã, 97% trạm y tế có bác sĩ, 96% trạm có nữ hộ sinh hoặc y sĩ sản nhi, 97% ấp có cán bộ y tế, 91% có dược sĩ trung học…Năm 2020 toàn thành phố có 34 bệnh viện. Trong đó có 28 bệnh viện đa khoa, chuyên khoa và 7 tuyến bệnh viện tại các quận, huyện.", "Tôn giáo.", "Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn thành phố có 13 tôn giáo khác nhau đạt 601.330 người, nhiều nhất là Phật giáo Hòa Hảo có 245.390 người, tiếp theo là Phật giáo đạt 193.636 người, Công giáo có 119.942 người, đạo Cao Đài có 33.821 người, đạo Tin lành có 6.055 người, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có 1.440. Còn lại các tôn giáo khác như Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có 709 người, Hồi giáo có 138 người, Bửu Sơn Kỳ Hương có 123 người, Baha'i giáo có 59 người, 11 người theo Minh Sư Đạo, 5 người theo Minh Lý Đạo, 1 người theo Bà La Môn.", "Văn hóa.", "Thành phố Cần Thơ là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc khác nhau. Người Khmer ở Cần Thơ không nhiều, chủ yếu tập trung chung quanh chùa hoặc sống rải rác xen kẽ với người Việt ở các quận Ninh Kiều, Ô Môn, Thốt Nốt. Người Hoa ở Cần Thơ chiếm 1,45% dân số thành phố với khoảng 15.000 người sống tập trung ở các quận Ninh Kiều, quận Cái Răng, quận Ô Môn và huyện Phong Điền, người Quảng Đông làm nghề mua bán, người Khách Gia làm nghề thuốc Bắc và người Hải Nam làm nghề may mặc...", "Mặc dù Cần Thơ được khám phá khá muộn. Tuy nhiên, Văn hoá Cần Thơ vừa mang những nét chung của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, đồng thời cũng mang nét đẹp văn hóa của vùng đất Tây Đô. Đặc trưng văn hoá Tây Đô được thể hiện qua nhiều phương diện ẩm thực, lối sống, tín ngưỡng, văn nghệ... Hò Cần Thơ là một trong những làn điệu dân ca độc đáo với các loại là hò huê tình, hò cấy và hò mái dài, xuất phát từ những cầu hò của khách thương hồ lúc rảnh rỗi cắm sào để tìm bạn hò và đợi con nước để rời sang bến khác.", "Từ trước đến nay chưa hề có một văn bản chính thức nào gọi Cần Thơ là Tây Đô cả. Tuy nhiên, vì vị trí địa lí chiến lược của nó, cả quân sự lẫn kinh tế—rất thuận lợi về giao thông—nên mọi lãnh vực trong toàn khu vực châu thổ Sông Cửu Long như thương mại, công kỹ nghệ, và quân sự đều tập trung tại đây. Cần Thơ xứng đáng được gọi là thủ đô của Miền Tây hay Tây Đô.", "Có lẽ cái biệt danh Tây Đô này có từ năm 1919. Trong một loạt bài du ký đăng trong tạp chí Nam Phong. Tác giả Phạm Quỳnh, một ký giả Miền Bắc, kể lại cảm xúc của ông khi lần đầu tiên viếng thăm Nam Kỳ:", "\"Cần Thơ có cái vẻ mỹ miều xinh xắn, sạch sẽ phòng quáng, thật xứng tên làm tỉnh đầu miền tây (La capitale de L'Ouest - Tây Đô). Đường phố thênh thang, nhà cửa san sát, các nhà buôn Tây cũng nhiều hơn, có chỗ coi xinh đẹp hơn ở Sài Gòn.\"", "Hơn thế nữa, từ hồi mới thành lập, qua biết bao nhiêu chế độ đổi thay, hoàn cảnh địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hóa, chính trị, văn hóa, xã hội của Cần Thơ vẫn cứ tiếp tục tồn tại và phát triển không ngừng. Chính điều này là nền tảng khiến nhiều người, ở nhiều nơi, không ai bảo ai, cứ tiếp tục gọi Cần thơ là Tây Đô.", "Cần Thơ cũng là quê hương của nhiều người nổi tiếng như Châu Văn Liêm, Út Trà Ôn... Về mặt tín ngưỡng, văn hoá, việc thờ cúng, sinh hoạt lễ hội của các ngôi đình ở Cần Thơ không khác mấy so với các ngôi đình ở Nam Bộ, Một số ngôi đình nổi tiếng ở Cần Thơ như đình Bình Thủy, thờ các nhân vật nổi tiếng như Đinh Công Chánh, Trần Hưng Đạo, Bùi Hữu Nghĩa...", "Cần Thơ từ xưa từng được biết đến qua câu ca dao:", "Du lịch.", "Năm 2019, du lịch Cần Thơ đón 8,8 triệu lượt khách, tăng 4,6% so cùng kỳ năm 2018. Khách lưu trú đạt trên 3 triệu lượt, tăng 13,1%, trong đó lưu trú quốc tế đạt trên 409.000 lượt khách, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm. Tổng doanh thu từ du lịch đạt trên 4.435 tỉ đồng, tăng 17,2% so với cùng kỳ năm.", "Năm qua, Hiệp hội Du lịch TP Cần Thơ đã kết nạp thêm 13 hội viên mới, nâng tổng số hội viên lên 82. Hiện hiệp hội có 8 câu lạc bộ, bao gồm: Khách sạn, Lữ hành, Vận chuyển, Hướng dẫn viên du lịch, Quần vợt, Điểm vườn du lịch quận Cái Răng, Điểm vườn du lịch huyện Phong Điền, Bếp ngon Phương Nam. Hiệp hội Du lịch đã phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành phố khảo sát và công nhận 2 điểm du lịch tiêu biểu cấp thành phố năm 2019: Điểm du lịch ẩm thực chay- Hakia Garden, Vườn sinh thái Xẻo Nhum; nâng tổng số số điểm du lịch tiêubiểu cấp thành phố năm 2019: Điểm du lịch ẩm thực chay- Hakia Garden, Vườn sinh thái Xẻo Nhum; nâng tổng số số điểm du lịch tiêu biểu cấp thành phố lên 15 điểm được công nhận. Hiệp hội Du lịch thành phố cũng đã mở rộng các mối quan hệ kết nối, ký kết hợp tác du lịch với Hiệp hội Du lịch tỉnh Thái Nguyên, Ninh Thuận, Bà Rịa- Vũng Tàu…", "Trên những kết quả đạt được, năm 2020, Hiệp hội Du lịch thành phố tiếp tục phát huy việc kết nối, mở rộng các hoạt động của các câu lạc bộ; tiếp tục khảo sát, nâng chất và xây dựng hệ thống các điểm du lịch tiêu biểu của thành phố, các điểm du lịch tiêu biểu cấp ĐBSCL; tăng cường công tác quảng bá, xúc tiến và liên kết với các tỉnh, thành có kết nối với du lịch Cần Thơ.", "Dịp này, Hiệp hội Du lịch thành phố cũng trao giấy khen cho các tập thể và cá nhân đạt thành tích xuất sắc trong năm 2019, tích cực tham gia hoạt động vớt rác trên sông. Ngoài ra thành phố còn có nhiều đền chùa như chùa Nam Nhã, chùa Ông (Cần Thơ), chợ nổi Cái Răng và chùa Long Quang (Cần Thơ). Một số nơi du lịch dành cho khách du lịch như: đình Bình Thủy, bến Ninh Kiều, chợ nổi Phong Điền, khu di tích Giàn Gừa và nhiều nơi khác.", "Một số nhân vật nổi tiếng người Cần Thơ.", "Văn hoá.", "• Lê Quang Chiểu là 1 Nhà thơ cận đại Việt Nam Ông là nhà soạn giả Quốc âm thi hợp tuyển được các nhà nghiên cứu văn học xác định là tập thơ chữ Quốc ngữ in đầu tiên ở Việt Nam.", "• Bùi Hữu Nghĩa (1807 - 1872) tại Quận Bình Thủy, hay Thủ Khoa Nghĩa, trước có tên là là Bùi Quang Nghĩa, hiệu Nghi Chi; là quan nhà Nguyễn, là nhà thơ và là nhà soạn tuồng Việt Nam.", "• Nguyễn Trọng Quyền Nghệ danh Mộc Quán (1876-1953) tên thật là Nguyễn Trọng Quyền là một soạn giả lớn khai sinh dòng sân khấu cải lương tuồng Tàu, được suy tôn là Hậu tổ cải lương.", "• Huỳnh Anh (2 tháng 1 năm 1932 - 13 tháng 12 năm 2013) là nhạc sĩ, nhạc công nổi tiếng trước 1975 thời Việt Nam Cộng hòa. Ông là tác giả của một số ca khúc được nhiều người biết đến như \"Mưa rừng\", \"Kiếp cầm ca\" và \"Rừng lá thay chưa.\"", "• Lana Condor Lana Therese Condor (tên thật là: Trần Đồng Lan; sinh ngày 11 tháng 5 năm 1997) tại Cần Thơ là một nữ Diễn viên và Vũ công người Việt Nam. Cô diễn xuất lần đầu với vai diễn Jubilation Lee / Jubilee trong bộ phim siêu anh hùng ' năm 2016 và có vai chính đầu tiên là Lara Jean Covey trong bộ phim năm 2018 của bộ phim \"To All the Boys I've Loved Before\". Cô trở thành sao với vai Koyomi K. trong bộ phim khoa học viễn tưởng ' (2019), và sẽ đóng vai Saya Kuroki trong bộ phim truyền hình sắp tới của Syfy, \"Deadly Class\".", "• Nhan Phúc Vinh sinh ngày 27 tháng 6 năm 1986 tại Cần Thơ) là nam diễn viên điện ảnh truyền hình Việt Nam, anh đã đạt nhiều giải thưởng lớn như Giải Mai Vàng, Cánh Diều Vàng, HTV Awards, Liên hoan phim Việt Nam", "• Phạm Lưu Tuấn Tài được biết với nghệ danh Isaac hay Isaac Phạm (sinh ngày 13 tháng 6 năm 1988) là một ca sĩ, người dẫn chương trình và diễn viên người Việt Nam. Anh thành danh trong sự nghiệp ca hát với tư cách trưởng nhóm nhạc 365 từ năm 2010 đến năm 2016 (khi nhóm ngừng hoạt động). Sau đó, Isaac chính thức solo riêng.", "• Quốc Trường tên đầy đủ Nguyễn Quốc Trường (sinh năm 1988) là một nam diễn viên người Việt Nam. Anh từng xuất thân là một người mẫu ở Cần Thơ, sau đó trở thành diễn viên. Từ năm 2008 anh bắt đầu tham gia phim truyền hình, anh luôn miệt mài với nhiều vai diễn lớn nhỏ. Đến năm 2018 anh tạo được ấn tượng mạnh với vai nhân tình đểu giả của Hân (Thúy Ngân) trong phim \"Gạo nếp gạo tẻ\". Đến năm 2019, anh tỏa sáng trên bầu trời nghệ thuật với vai Vũ trong phim \"Về nhà đi con\" (VTV1), với vai này anh đã tạo nên điểm sáng rực rỡ trong sự nghiệp diễn xuất của mình.", "• Trọng Hữu là một nghệ sĩ vọng cổ. Ông được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú năm 1997 và Nghệ sĩ Nhân dân năm 2016. Người ta hay gọi ông là \"Người nông dân hát cải lương\" vì những vai diễn của ông đa số đều đi chân trần, xuất thân ở vùng sông nước Nam Bộ và những vai diễn đó đều chân chất, mộc mạc, đậm chất miền quê.", "• Tám Danh tên thật Nguyễn Phương Danh (1901 - 9 tháng 3 năm 1976) là đạo diễn, diễn viên cải lương, một trong những cây đại thụ của sân khấu cải lương. Ông có nhiều đóng góp lớn trong cách tân cải lương, là người đầu tiên đưa môn võ nghệ thuật lên sân khấu này. Nghệ sĩ Tám Danh còn là võ sư nổi tiếng. Ông đã được truy tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân đợt 1 (1984)", "• Trần Kiết Tường sinh năm (1924-1999) tại làng Thới Thạnh,tổng Thới Bảo, quận Ô Môn, Tỉnh Cần Thơ (ngày nay thuộc thành phố Cần Thơ).là một Nhạc sĩ người Việt Nam. Ông là tác giả của ca khúc nổi tiếng \"Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người\".", "• Võ Minh Lâm (sinh năm 1989) tại Cần Thơ là một Nghệ sĩ Cải lương Việt Nam. Anh là thí sinh nhỏ tuổi nhất và cũng là người đầu tiên đoạt giải Chuông vàng vọng cổ truyền hình khi giải này được tổ chức năm 2006.", "• Cao Thái Hà sinh ngày 20-4-1990 tại thành phố Cần Thơ, cô sống và làm việc chủ yếu tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Cô là Diễn viên trẻ triển vọng của làng điện ảnh Việt Nam. Cô được khán giả biết đến nhiều nhất qua vai diễn Oanh t rong bộ phim truyền hình \" Đồng tiền quỷ ám\".", "Thể thao..", "• Nguyễn Thị Ánh Viên (sinh ngày 9 tháng 11 năm 1996 tại ấp Ba Cau, xã Giai Xuân, huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ) là 1 nữ vận động viên thuộc đội tuyển bơi lội quốc gia Việt Nam. Khi 19 tuổi cô đã giành 8 huy chương vàng, 1 huy chương bạc, 1 huy chương đồng cho Việt Nam và phá 8 kỷ lục và được công nhận là vận động viên ngoài Singapore xuất sắc nhất tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2015 ở Singapore., với 8 huy chương vàng giành được, Ánh Viên là người giành nhiều huy chương vàng thứ 2 sau vận động viên bơi lội nam Joseph Schooling của Singapore tại SEA Games 28. Cô còn đứng thứ 25 thế giới cự ly 400m tự do của nữ và thứ 9 thế giới nội dung 400m hỗn hợp. Năm 2015, cô là đại úy quân đội trẻ nhất tại Việt Nam và được tặng Huân chương lao động hạng nhì.", "• Trần Chí Công sinh ngày 25/4/1983 tại Cần Thơ, là cầu thủ bóng đá của Câu lạc bộ bóng đá Long An. Vị trí sở trường của anh là hậu vệ.Là một trong những cầu thủ tiêu biểu của bóng đá Việt Nam được chọn vào đội tuyển năm 2008.", "Người mẫu.", "• Ngô Tiến Đoàn(sinh năm 1983), quê ở Cần Thơ, là người giành giải nhất cuộc thi Manhunt Việt Nam 2006 và Mister International 2008. Anh có hình thể được xem như hoàn hảo: cao 1,83 m, nặng 80 kg, với các số đo 99-80-99.", "• Bùi Thị Diễm (sinh năm 1984) là một nữ diễn viên, người mẫu, hoa hậu Việt Nam. Cô từng đăng quang hoa hậu trong cuộc thi Hoa hậu phụ nữ Việt Nam qua ảnh năm 2004. Chồng cô là Nguyễn Xuân Anh, nguyên Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng.", "• Lilly Nguyễn sinh năm 1993, cao 1m73 có mẹ là người Việt và bố là người Canada nên cô sở hữu gương mặt lai rất quyến rũ. Cô sinh ra ở Cần Thơ nhưng lớn lên tại Canada. Tuy nhiên, cô lại không chọn Canada làm nơi lập nghiệp của mình mà quyết tâm tìm cơ hội phát triển ở thị trường châu Á, bắt đầu bằng nghề người mẫu ảnh ở Thái Lan năm 17 tuổi.", "Năm 2013, Lilly lấy danh nghĩa đại diện Việt Nam đăng kí tham gia chương trình truyền hình thực tế về người mẫu mang tên \"Supermodel Me\". Vượt qua nhiều đối thủ sừng sỏ, Lilly đã lọt vào top 4 thí sinh xuất sắc nhất của mùa giải năm đó. Cũng từ đây, sự nghiệp người mẫu của cô bước sang trang mới khi Lilly được nhiều người biết đến hơn.", "Năm 2014, cô về Việt Nam và từng đầu quân vào công ty người mẫu Venus dưới sự quản lý của ông bầu Vũ Khắc Tiệp.", "• Nguyễn Huỳnh Kim Duyên (sinh ngày 19 tháng 10, năm 1995 tại Cần Thơ) là một Á hậu và Người mẫu người Việt Nam. Cô là Á hậu 1 cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2019, Top 16 Hoa hậu Hoàn Vũ 2021 và là Á hậu 2 Hoa hậu Siêu Quốc Gia 2022", "• Lê Nguyễn Bảo Ngọc (sinh năm 2001) là Á hậu 1 cuộc thi Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2022. Hiện cô là Hoa hậu Liên lục địa 2022 ", "Giao thông.", "Hạ tầng.", "Thành phố Cần Thơ được cấp điện chủ yếu từ lưới điện quốc gia qua đường dây 220KV, cung cấp điện cho thành phố qua đường dây 110KV và 6 trạm biến áp. Ngoài nguồn cung cấp trên, thành phố được Thủ tướng Chính phủ cho phép xây dựng dự án Trung tâm điện lực Ô Môn với tổng công suất cho 4 nhà máy với công xuất 2.700MW.", "Cần Thơ nằm bên bờ phía nam sông Hậu, một bộ phận của sông Mê Kông chảy qua 6 quốc gia, đặc biệt là phần trung và hạ lưu chảy qua Lào, Thái Lan và Campuchia. Các tàu có trọng tải lớn (trên 1.000 tấn) có thể đi các nước và đến Cần Thơ dễ dàng. Ngoài ra, tuyến Cần Thơ - Xà No - Cái Tư là cầu nối quan trọng giữa Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Hậu Giang và Cà Mau.", "Hệ thống bưu điện, viễn thông của thành phố Cần Thơ gồm 1 bưu điện trung tâm, 4 bưu điện huyện đủ điều kiện cung cấp thông tin liên lạc giữa Cần Thơ với các nước trên thế giới. Về Bưu chính có 01 doanh nghiệp nhà nước và hơn 24 doanh nghiệp tư nhân đóng trên địa bàn đảm nhận, có hệ thống ổn định với 35 bưu cục, 48 điểm bưu điện văn hóa xã và 216 đại lý bưu điện, điểm giao dịch chuyển phát. Cần Thơ có 2 nhà máy cấp nước sạch có công suất 70.000 m³/ngày, và dự kiến xây dựng thêm một số nhà máy để có thể cung cấp nước sạch 200.000 m³/ngày.", "Toàn thành phố có 2.762,84 km đường bộ, trong đó có 123,715 km đường quốc lộ, 183,85 km đường tỉnh, 332,87 km đường huyện, 153,33 km đường đô thị, 1.969,074 km đường ấp, xã, khu phố. Mạng lưới đường thủy trên địa bàn có tổng chiều dài 1.157 km, trong đó có khoảng 619 km có khả năng vận tải cho loại phương tiện trọng tải từ 30 tấn trở lên. Các tuyến đường sông do quận, huyện quản lý gồm 40 tuyến với tổng chiều dài 405,05 km, đảm bảo cho phương tiện trọng tải từ 15 - 60 tấn hoạt động. ", "Đường hàng không.", "Ngoài ra Thành phố Cần Thơ còn có Sân bay quốc tế Cần Thơ là sân bay lớn nhất khu vực đồng bằng sông Cửu Long, đã chính thức đi vào hoạt động khai thác thương mại các tuyến quốc nội từ ngày 3 tháng 1 năm 2009 và mở các tuyến bay quốc tế vào cuối năm 2010. Với 4 hãng hàng không hiện nay đang khai thác như Vietnam Airlines, Vietjet Air, Vasco, Bamboo Airways. Các chuyến bay trong nước đi đến Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Vinh (Nghệ An), Đà Lạt (Lâm Đồng), Quy Nhơn (Bình Định), Côn Đảo (Bà Rịa – Vũng Tàu), Phú Quốc, Thọ Xuân (Thanh Hóa). Các chuyến bay quốc tế đi đến các thành phố trong khu vực như Đài Bắc, Cao Hùng, Kuala Lumpur, Bangkok.", "Đường sắt.", "Toàn thành phố có 2 dự án đường sắt đang được quy hoạch gồm Dự án đường sắt cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Cần Thơ và Đường sắt đô thị Cần Thơ nhưng chưa có bất kỳ tuyến nào đang hoạt động hoặc đang được xây dựng trên thực tế. Đường sắt cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Cần Thơ có chiều dài 139 km, xây dựng đường đôi khổ đường ray tiêu chuẩn là 1.435 mm với 10 nhà ga, bắt đầu tại ga Tân Kiên (Huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh)và kết thúc tại ga Cái Răng (Quận Cái Răng, Thành phố Cần Thơ). Mạng lưới Đường sắt đô thị Cần Thơ được quy hoạch có tổng chiều dài 38,8 km, đi qua địa bàn Quận Ô Môn, Quận Bình Thủy, Quận Ninh Kiều, Quận Cái Răng và sẽ bao gồm 1 tuyến trên cao có lộ trình từ Bến xe Ô Môn, theo QL.91 đến khu công nghiệp Trà Nóc, qua Lê Hồng Phong, dọc theo Cách Mạng tháng Tám, qua bến xe Cần Thơ vào trung tâm Cần Thơ, theo Trần Hưng Đạo, Lý Tự Trọng, công viên Lưu Hữu Phước, sau đó rẽ hai nhánh sang cảng Cái Cui (gần ga Cái Răng của đường sắt cao tốc) và nút giao QL.1 với QL.61.", "Cảng biển, hàng không logistics.", "Ngoài ra, hệ thống cảng của Cần Thơ đang được nâng cấp, gồm Cảng Cần Thơ có thể tiếp nhận tàu tàu biển có tải trọng 10.000 - 20.000 DWT, cảng Trà Nóc có 3 kho chứa lớn với dung lượng 40.000 tấn, khối lượng hàng hóa thông qua cảng có thể đạt 200.000 tấn/ năm có thể tiếp nhận tàu 2.500 DWT. Cảng Cái Cui là cảng mới được xây dựng có thể phục vụ̣ cho tàu từ 10.000 - 20.000 DWT, khối lượng hàng hóa thông qua cảng là 4,2 triệu tấn/năm.", "Đường bộ.", "Quốc lộ 1, Quốc lộ 91, Quốc lộ 91B và Quốc lộ 91C(Nam Sông Hậu), Quốc lộ 61C và Quốc lộ 80 nối các trung tâm Thành phố thuộc Đồng bằng sông Cửu Long với Thành phố Cần Thơ. Tương lai đang nâng cấp và mở rộng quốc lộ 80, Quốc lộ (Quốc lộ 91C) Nam Sông Hậu (đoạn từ ngã năm cầu Cần Thơ đến cảng Cái Cui); tuyến tránh thành phố Long Xuyên (đoạn Thốt Nốt - Lộ Tẻ); nâng cấp, mở rộng QL91 (đoạn Km0 - Km7)…", "Bên cạnh đó, kiến nghị Bộ GTVT ủng hộ và đề xuất Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương giao Cần Thơ làm chủ đầu tư thực hiện dự án mở rộng tuyến QL61C (đường nối Vị Thanh - Cần Thơ) đối với đoạn qua địa phận Cần Thơ với chiều dài 10,2 km, quy mô 4 làn xe, tổng mức đầu tư dự kiến là 978 tỷ đồng bằng nguồn vốn ngân sách trung ương giai đoạn 2021-2025 và xây dựng Cầu Vàm Cống nối Cần Thơ và Đồng Tháp", "Các tuyến cao tốc đang được đầu tư và hình thành như Cao tốc Lộ Tẻ - Rạch Sỏi nối liền tỉnh Kiên Giang và huyện Vĩnh Thạnh, Cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, Cao tốc Cần Thơ - Cà Mau, Cao tốc Mỹ Thuận - Cần Thơ.", "Đường đô thị.", "Hiện nay hạ tầng giao thông của TP đã và đang có những dự án được đưa vào khai thác như: cầu Quang Trung (đơn nguyên 2) nối liền hai quận Ninh Kiều và quận Cái Răng, cầu Vàm Cống nối liền quận Thốt Nốt và huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. Các dự án được đầu tư như tuyến đường vành đai phía Tây nối liền quận Ô Môn, Bình Thủy, Ninh Kiều, Cái Răng và huyện Phong Điền, Cần Thơ, dự án đường tỉnh 922 nối liền 4 quận huyện của TP như quận Bình Thủy, Ô Môn, Thới Lai, Cờ Đỏ, Đường Trần Hoàng Na và cầu Trần Hoàng Na nối 2 quận Ninh Kiều và quận Cái Răng. Đầu tư xây dựng 4 cầu vượt thép tại 4 nút giao thông đường 30 tháng 4 - Nguyễn Văn Linh, Đường 3 tháng 2 - đường Nguyễn Văn Linh, Đường Võ Văn Kiệt - Mậu Thân, Đường 3 tháng 2 - đường Trần Hưng Đạo, Cải tạo 167 tuyến đường khắp nội đô thành phố.", "-Đại lộ Nguyễn Trãi, Hai Bà Trưng (một đoạn) và Công trường Độc Lập (trước năm 1960 là đường Duy Tân) nay là đường Nguyễn Trãi", "-Công trường Tự Do nay là đường Phan Đăng Lưu", "-Đường Nguyễn Tri Phương nay là đường Ngô Gia Tự", "-Đường Hàm Nghi nay là đường Phạm Hồng Thái", "-Đường Trần Quốc Tuấn nay là đường Trần Quốc Toản", "-Đại lộ Ngô Quyền và đường Mạc Đĩnh Chi nay là đường Ngô Quyền", "-Đường Pétrus Ký nay là đường Ngô Văn Sở", "-Đường Gia Long nay là đường Tân Trào", "-Đại lộ Nguyễn Thái Học nay là hai đường Nguyễn Thái Học và Võ Văn Tần", "-Đường Nguyễn Huỳnh Đức nay là đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa", "-Đại lộ Nguyễn An Ninh nay là hai đường Nguyễn An Ninh và Châu Văn Liêm", "-Đường Lữ Gia nay là đường Hải Thượng Lãn Ông", "-Đường Trần Thanh Cần nay là đường Ngô Đức Kế", "-Đường Thành Thái nay là đường Cao Bá Quát", "-Bến Ninh Kiều (trước năm 1960 là đường Lê Lợi) và đường Lê Văn Duyệt nay là đường Hai Bà Trưng", "-Đường Nguyễn Công Trứ nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai", "-Đường Nguyễn Thành Trung, Tạ Thu Thâu, Nguyễn Trung Trực và Thoại Ngọc Hầu (Hương lộ 2 cũ) nay là đường Mậu Thân", "-Đường Trịnh Tấn Truyện nay là đường Ngô Hữu Hạnh", "-Đại lộ Phan Thanh Giản nay là đường Xô Viết Nghệ Tĩnh", "-Đường Võ Tánh nay là đường Trương Định", "-Đường Nguyễn Thần Hiến nay là đường Nguyễn Đình Chiểu", "-Đường Duy Tân (sau năm 1960) nay là đường Hoàng Văn Thụ", "-Đường Cống Quỳnh nay là đường Huỳnh Thúc Kháng", "-Đại lộ Thủ Khoa Nghĩa nay là đường Trần Phú", "-Đại Lộ Hai Bà Trưng (một đoạn) và Võ Duy Tập nay là đường Cách mạng Tháng 8", "-Đường Trạng Trình nay là đường Nguyễn Bỉnh Khiêm", "-Đường Lò Heo nay là đường Trần Văn Khéo", "-Đường Tự Đức và Võ Trường Toản nay là đường Lý Tự Trọng", "-Đại lộ Lý Thái Tổ và đường Mạc Tử Sanh nay là đường 30 Tháng 4", "-Đường Kiến Quốc nay là đường Nguyễn Văn Cừ", "-Đại lộ Nguyễn Viết Thanh (sau năm 1970) nay là đường 3 tháng 2", "-Đường Nguyễn Văn Khương (sau năm 1970) nay là đường Tầm Vu", "-Đường Triệu Ẩu nay là đường Bà Triệu", "Thành phố kết nghĩa.", "• Ngoài ra chính quyền thành phố đang nỗ lực tạo điều kiện thuận lợi nhất để kết nối thông tin với các đối tác Nhật Bản như thành lập Văn phòng Japan Desk tại Cần Thơ; 2 Văn phòng liên lạc tại Ōsaka và Tokyo.", "• Về ngoại giao nhân dân, Hội hữu nghị Việt Nam - Nhật Bản TP Cần Thơ đã ký kết hợp tác với 6 Chi hội hữu nghị Nhật - Việt của Nhật Bản và thường xuyên tổ chức các hoạt động trao đổi đoàn thông qua các sự kiện lớn của địa phương.", "Khởi nghiệp.", "Mạng lưới liên kết Hệ sinh thái KNĐMST TP Cần Thơ - CanTho Startup Ecosystem và Mạng lưới Vườn ươm Đồng bằng sông Cửu Long. TP Cần Thơ còn là thành viên Mạng lưới Khởi nghiệp ĐBSCL - Mekong Startup Network với 23 thành viên thuộc các tỉnh, thành Đồng bằng sông Cửu Long.", "Trên địa bàn thành phố hiện có 6 không gian làm việc chung nhằm giúp kết nối hoạt động khởi nghiệp sáng tạo cho sinh viên, doanh nghiệp, những dự án startups mới tại TP Cần Thơ cũng như các địa phương trong vùng:" ]
1026
715442
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1026
GNU
[ "GNU là một hệ điều hành và bộ sưu tập phần mềm máy tính phong phú. GNU bao gồm toàn bộ phần mềm tự do, hầu hết được cấp phép theo General Public License (GPL) của GNU Project.", "\"GNU\" là một kiểu viết tắt đệ quy của \"GNU's Not Unix!\", nó được chọn bởi thiết kế của GNU là tương tự Unix, nhưng khác với Unix vì nó là phần mềm miễn phí và không có mã Unix. Dự án GNU bao gồm nhân hệ điều hành, GNU Hurd, vốn là trọng tâm ban đầu của Free Software Foundation (FSF). Tuy nhiên với trạng thái của hạt nhân Hurd là chưa sẵn sàng ra mắt, các hạt nhân phi GNU, phổ biến nhất là nhân Linux, cũng có thể được sử dụng với phần mềm GNU. Sự kết hợp giữa GNU và Linux đã trở nên phổ biến đến mức bộ đôi này thường được gọi tắt là \"Linux\", hoặc ít thường xuyên hơn, \"GNU/Linux\". (xem Tranh cãi về đặt tên GNU/Linux)", "Richard Stallman, người sáng lập dự án, xem GNU như một \"phương tiện kỹ thuật để kết thúc xã hội\". Liên quan đến Lawrence Lessig trong phần giới thiệu về ấn bản thứ hai của cuốn sách \"Free Software, Free Society\" của mình Stallman đã viết về \"các khía cạnh xã hội của phần mềm và cách Phần mềm tự do có thể tạo ra công bằng và xã hội\".", "Lịch sử.", "Việc phát triển hệ điều hành GNU được Richard Stallman khởi xướng khi ông làm việc tại Phòng thí nghiệm trí tuệ nhân tạo MIT. Nó được gọi là Dự án GNU, và được công bố công khai vào ngày 27 tháng 9 năm 1983, trên các nhóm tin net.unix-wizards và net.usoft bởi Stallman. Việc phát triển phần mềm bắt đầu vào ngày 5 tháng 1 năm 1984, khi Stallman nghỉ việc tại Phòng thí nghiệm để họ không thể đòi quyền sở hữu hoặc can thiệp vào việc phân phối các thành phần GNU dưới dạng phần mềm tự do. Richard Stallman đã chọn tên bằng cách sử dụng nhiều cách chơi chữ khác nhau, bao gồm cả bài hát \"The Gnu\".(9 tháng 3 năm 2006.en.html#the-name-gnu 00:45:30)", "Mục tiêu là ra mắt một hệ điều hành phần mềm hoàn toàn tự do. Stallman muốn người dùng máy tính được tự do nghiên cứu mã nguồn của phần mềm họ sử dụng, chia sẻ phần mềm với người khác, sửa đổi hành vi của phần mềm và xuất bản các phiên bản phần mềm được sửa đổi của riêng họ. Triết lý này sau đó đã được xuất bản thành Tuyên ngôn GNU vào tháng 3 năm 1985.", "Kinh nghiệm của Richard Stallman với Incompatible Timesharing System (ITS), một hệ điều hành ban đầu được viết bằng hợp ngữ đã trở nên lỗi thời do PDP-10 bị ngừng phát triển, kiến ​​trúc máy tính mà ITS đã viết, dẫn đến một quyết định rằng hệ thống di động là cần thiết.(9 tháng 3 năm 2006.en.html#choosing-the-unix-design 00:40:52) Do đó ông đã quyết định rằng sự phát triển sẽ được bắt đầu bằng C và Lisp làm ngôn ngữ lập trình hệ thống, và GNU sẽ tương thích với Unix. Vào thời điểm đó, Unix đã là một hệ điều hành độc quyền phổ biến. Thiết kế của Unix là mô-đun, do đó, nó có thể được thực hiện lại từng phần.", "Phần lớn các phần mềm cần thiết phải được viết từ đầu, nhưng các thành phần phần mềm miễn phí của bên thứ ba tương thích hiện có cũng được sử dụng như hệ thống sắp chữ TeX, X Window System, và microkernel Mach tạo thành nền tảng của lõi GNU Mach của GNU Hurd (hạt nhân chính thức của GNU). Ngoại trừ các thành phần bên thứ ba nói trên, hầu hết GNU đã được các tình nguyện viên viết; một số trong thời gian rảnh rỗi, một số được trả bởi các công ty, tổ chức giáo dục và các tổ chức phi lợi nhuận khác. Tháng 10 năm 1985, Stallman đã thành lập Free Software Foundation (FSF). Vào cuối những năm 1980 và 1990, FSF đã thuê các nhà phát triển phần mềm viết phần mềm cần thiết cho GNU.", "Khi GNU trở nên nổi bật, các doanh nghiệp quan tâm bắt đầu đóng góp vào việc phát triển hoặc bán phần mềm và hỗ trợ kỹ thuật của GNU. Nổi bật và thành công nhất trong số này là Cygnus Solutions, bây giờ là một phần của Red Hat.", "Thành phần.", "Các thành phần cơ bản của hệ thống bao gồm GNU Compiler Collection (GCC), GNU C library (glibc), và GNU Core Utilities (coreutils), cũng bao gồm GNU Debugger (GDB), GNU Binary Utilities (binutils), GNU Bash shell. Các nhà phát triển GNU đã đóng góp cho các ports Linux của các ứng dụng và tiện ích GNU, hiện cũng được sử dụng rộng rãi trên các hệ điều hành khác như các biến thể BSD, Solaris và macOS.", "Nhiều chương trình GNU đã được port đến các hệ điều hành khác, bao gồm cả các nền tảng độc quyền như Microsoft Windows và macOS. Các chương trình GNU đã được chứng minh là đáng tin cậy hơn so với các đối chiếu Unix độc quyền của chúng.", "Tính đến tháng 11 năm 2015, có tổng số 466 gói GNU (bao gồm ngừng hoạt động, loại trừ 383) được lưu trữ trên trang web phát triển GNU chính thức.", "Biến thể GNU.", "Hạt nhân chính thức của GNU Project là GNU Hurd microkernel; tuy nhiên, vào năm 2012, Linux kernel trở thành một phần chính thức của GNU Project với Linux-libre, một biến thể của Linux với tất cả các thành phần độc quyền được loại bỏ.", "Với bản phát hành Debian GNU/Hurd 2015 ngày 30/4/2015, GNU OS hiện cung cấp các thành phần để hợp lại thành một hệ điều hành mà người dùng có thể cài đặt và sử dụng trên máy tính. Việc này bao gồm hạt nhân GNU Hurd, hiện đang ở trạng thái tiền phát hành. Trang trạng thái Hurd nói rằng \"nó có thể chưa sẵn sàng để đưa vào sử dụng, vì vẫn còn một số lỗi và thiếu tính năng. Tuy nhiên, đây phải là cơ sở tốt để phát triển thêm và sử dụng ứng dụng không quan trọng.\"", "Do Hurd chưa sẵn sàng để đưa vào sử dụng, trong thực tế, các hệ điều hành này là các bản phân phối Linux. Chúng chứa nhân Linux, các thành phần GNU và phần mềm từ nhiều dự án phần mềm tự do khác. Nhìn vào tất cả các mã chương trình có trong bản phân phối Ubuntu Linux vào năm 2011, GNU bao gồm 8% (13% trong GNOME) và Linux kernel 6% (tăng lên 9% khi bao gồm các phụ thuộc trực tiếp của nó).", "Các hạt nhân khác như FreeBSD cũng hoạt động cùng với phần mềm GNU để tạo thành một hệ điều hành hoạt động. FSF cho trì rằng một hệ điều hành được xây dựng bằng nhân Linux và các công cụ và tiện ích GNU, nên được coi là một biến thể của GNU và thúc đẩy thuật ngữ \"GNU/Linux\" cho các hệ thống đó (dẫn đến tranh cãi về đặt tên GNU/Linux). GNU Project đã phê duyệt các bản phân phối Linux, như gNewSense, Trisquel và Parabola GNU/Linux-libre. Các biến thể GNU khác không sử dụng Hurd làm hạt nhân bao gồm Debian GNU/kFreeBSD và Debian GNU/NetBSD, mang lại kết quả ban đầu cho GNU trên kernel BSD.", "Bản quyền, giấy phép GNU và quản lý.", "GNU Project khuyến nghị rằng những người đóng góp gán bản quyền cho các gói GNU cho Quỹ phần mềm tự do, mặc dù Quỹ phần mềm tự do cho rằng có thể chấp nhận phát hành các thay đổi nhỏ cho một dự án hiện theo Phạm vi công cộng. Tuy nhiên, điều này là không bắt buộc; các nhà bảo trì gói có thể giữ bản quyền đối với các gói GNU mà họ duy trì, mặc dù chỉ có chủ bản quyền mới có thể thực thi giấy phép được sử dụng (như GNU GPL), nên người giữ bản quyền trong trường hợp này thi hành nó thay vì Free Software Foundation.", "Để phát triển phần mềm cần thiết, Stallman đã viết một giấy phép gọi là GNU General Public License (ban đầu gọi là Emacs General Public License), với mục tiêu đảm bảo người dùng tự do chia sẻ và tự do thay đổi phần mềm. Stallman đã viết giấy phép này sau kinh nghiệm của mình với James Gosling và một chương trình có tên UniPress, về một cuộc tranh cãi xung quanh việc sử dụng mã phần mềm trong chương trình GNU Emacs. Trong hầu hết những năm 1980, mỗi gói GNU có giấy phép riêng: Emacs General Public License, GCC General Public License, v.v. Năm 1989, FSF đã xuất bản một giấy phép duy nhất mà có thể sử dụng cho tất cả phần mềm của mình có thể được sử dụng bởi các dự án không phải GNU: GNU General Public License (GPL).", "Giấy phép này hiện được sử dụng bởi hầu hết các phần mềm GNU, cũng như một số lượng lớn các chương trình phần mềm tự do không phải là một phần của GNU Project; nó cũng là giấy phép phần mềm tự do được sử dụng phổ biến nhất. Nó cho phép tất cả những người nhận chương trình có quyền chạy, sao chép, sửa đổi và phân phối chương trình đó, đồng thời cấm họ áp đặt các hạn chế hơn nữa đối với bất kỳ bản sao nào họ phân phối. Ý tưởng này thường được gọi là copyleft.", "Năm 1991, giấy phép GNU Lesser General Public License (LGPL), sau đó được gọi là Library General Public License, được viết cho GNU C Library để cho phép nó được liên kết với phần mềm độc quyền. Năm 1991 phiên bản 2 của GNU GPL cũng được phát hành. GNU Free Documentation License (FDL), cho tài liệu, ra mắt vào năm 2000. GPL và LGPL đã được sửa đổi thành phiên bản 3 năm 2007, thêm các điều khoản để bảo vệ người dùng chống lại các hạn chế phần cứng ngăn người dùng chạy phần mềm đã sửa đổi trên thiết bị của họ.", "Bên cạnh các gói riêng của GNU, giấy phép của Dự án GNU được sử dụng bởi nhiều dự án không liên quan, chẳng hạn như Linux kernel, thường được sử dụng với phần mềm GNU. Một số ít các phần mềm được sử dụng bởi hầu hết các bản phân phối Linux, chẳng hạn như X Window System, được cấp phép theo giấy phép phần mềm tự do.", "Logo.", "Logo của GNU là một chiếc đầu gnu. nan đầu được vẽ bởi Etienne Suvasa, một phiên bản táo bạo và đơn giản hơn được thiết kế bởi Aurelio Heckert hiện được ưa thích. Nó xuất hiện trong phần mềm GNU và trong tài liệu in và điện tử của GNU Project, và cũng được sử dụng trong các tài liệu của Tổ chức phần mềm tự do.", "Hình ảnh hiển thị ở đây là một phiên bản sửa đổi của logo chính thức. Nó được tạo bởi Quỹ phần mềm miễn phí vào tháng 9 năm 2013 để kỷ niệm 30 năm GNU Project." ]
1037
921877
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1037
Tam giác
[ " ", "Tam giác hay hình tam giác là một loại hình cơ bản trong hình học: hình hai chiều phẳng có ba đỉnh là ba điểm không thẳng hàng và ba cạnh là ba đoạn thẳng nối các đỉnh với nhau. Tam giác là đa giác có số cạnh ít nhất (3 cạnh). Tam giác luôn luôn là một đa giác đơn và luôn là một đa giác lồi (các góc trong luôn nhỏ hơn 180°). Một tam giác có các cạnh AB, BC và AC được ký hiệu là formula_1.", "Từ nguyên.", "Chữ Hán: 三角; nghĩa: \"ba góc\".", "Các yếu tố trong một tam giác.", "Các góc trong một tam giác được gọi là góc trong. Các góc kề bù với góc trong được gọi là góc ngoài. Góc ngoài thì bằng tổng các góc trong không kề bù với nó. Mỗi tam giác chỉ có 3 góc trong và 6 góc ngoài.", "Các đường đồng quy của tam giác.", "Đường cao là một đoạn thẳng đi qua một đỉnh và vuông góc với cạnh đối diện của đỉnh đó. Mỗi tam giác chỉ có ba đường cao. Ba đường cao của một tam giác đồng quy tại một điểm, điểm này được gọi là trực tâm của tam giác. Đường cao đi qua đỉnh góc vuông của một tam giác vuông thì sẽ chia tam giác ấy thành 2 tam giác đồng dạng với và cùng đồng dạng với tam giác đã cho.", "Đường trung tuyến là một đoạn thẳng nối từ đỉnh đến trung điểm của cạnh đối diện. Một tam giác chỉ có ba đường trung tuyến. Ba đường trung tuyến của một tam giác đồng quy tại một điểm, điểm này được gọi là trọng tâm của tam giác. Khoảng cách từ trọng tâm đến mỗi đỉnh bằng formula_2 đường trung tuyến tương ứng với đỉnh đó và suy ra, khoảng cách từ trọng tâm đến mỗi trung điểm bằng formula_3 đường trung tuyến tương ứng với điểm đó. Trên một mặt phẳng, đường thẳng đi qua bất kỳ một đỉnh và trọng tâm của \"tam giác đều\" thì chia tam giác đó thành hai tam giác có diện tích bằng nhau. Trong một tam giác, ba trung tuyến chia tam giác đó thành 6 tam giác có diện tích bằng nhau.", "Đường trung trực của một tam giác là đường vuông góc với một cạnh của tam giác đó tại trung điểm. Mỗi tam giác chỉ có ba đường trung trực. Ba đường trung trực của một tam giác đồng quy tại một điểm, điểm đó có tên gọi là tâm của đường tròn ngoại tiếp tam giác. Tâm của đường tròn ngoại tiếp tam giác cách đều ba đỉnh của tam giác đó.", "Đường phân giác là đoạn thẳng nối từ đỉnh đến cạnh đối diện và chia góc ở đỉnh làm 2 phần có số đo góc bằng nhau. Mỗi tam giác chỉ có ba đường phân giác. Ba đường này đồng quy tại một điểm. Điểm đó có tên gọi là tâm của đường tròn nội tiếp tam giác. Khoảng cách từ tâm của đường tròn nội tiếp tam giác tới các cạnh là bằng nhau. Đường phân giác đi qua một góc của một đinh tam giác thì chia cạnh đối diện của góc đó những đoạn tỉ lệ với hai cạnh còn lại của tam giác.", "Theo định lý Euler: \"Trong một tam giác:\" \"trực tâm, trọng tâm, tâm của đường tròn ngoại tiếp tam giác cùng thuộc một đường thẳng, trọng tâm sẽ nằm giữa trực tâm và tâm của đường tròn ngoại tiếp tam giác, từ trực tâm đến tâm của đường tròn ngoại tiếp tam giác sẽ bằng 3 lần từ trọng tâm đến tâm của đường tròn ngoại tiếp tam giác. Đường thẳng chứa ba điểm đó được gọi là đường thẳng Euler.\"", " \"Đối với các đường đồng quy của một tam giác (đường cao, đường trung tuyến, đường trung trực, đường phân giác), ta có thể nhận xét như sau:\"", "#Trọng tâm và tâm đường tròn nội tiếp luôn luôn nằm trong tam giác.", "# Trực tâm nằm ngoài tam giác khi đó là tam giác tù, trùng với đỉnh góc vuông khi đó là tam giác vuông, nằm bên trong khi đó là tam giác nhọn.", "# Tâm của đường tròn ngoại tiếp tam giác nằm ngoài tam giác khi đó là tam giác tù, trùng với cạnh (là trung điểm của cạnh huyền) khi đó là tam giác vuông, nằm bên trong tam giác khi đó là tam giác nhọn.", "# Trong một tam giác cân: trực tâm, trọng tâm, tâm của đường tròn ngoại tiếp tam giác, tâm của đường tròn nội tiếp tam giác sẽ thẳng hàng với nhau. Đường thẳng đó chính là đường trung tuyến, đồng thời cũng là đường phân giác, đường trung trực và đường cao ứng với cạnh đáy.", "# Trong một tam giác đều: trực tâm, trọng tâm, tâm của đường tròn ngoại tiếp tam giác, tâm của đường tròn nội tiếp tam giác trùng nhau. Các cặp đường trung tuyến, đường phân giác, đường trung trực, đường cao cũng trùng nhau.", "#Đường trung bình của tam giác là đoạn thẳng nối hai trung điểm của hai cạnh trong một tam giác. Đường trung bình có tính chất: song song với cạnh thứ ba và bằng một nửa cạnh thứ ba.", "Sự bằng nhau giữa các tam giác.", "Hai tam giác được gọi là bằng nhau khi chúng có thể đặt trùng khít lên nhau sau một số phép tịnh tiến, quay và đối xứng. Nói cách khác hai tam giác được gọi là bằng nhau nếu chúng có các cạnh tương ứng bằng nhau và các góc tương ứng bằng nhau. Hai tam giác bằng nhau khi và chỉ khi thỏa mãn một trong bảy điều kiện sau đây:", "Sự đồng dạng giữa các tam giác.", "Hai tam giác được gọi là đồng dạng nếu một trong chúng bằng với một tam giác nhận được từ tam giác kia sau một phép vị tự. Các điều kiện cần và đủ để hai tam giác đồng dạng:", "Các tính chất của tam giác đồng dạng:", "Tỉ số đồng dạng của hai tam giác là tỷ số giữa hai cạnh tương ứng bất của hai tam giác đó khi chúng đồng dạng", "Phân loại tam giác.", "Trong hình học Euclid, thuật ngữ \"tam giác\" thường được hiểu là tam giác nằm trên một mặt phẳng. Ngoài ra còn có tam giác cầu trong hình học cầu, tam giác hyperbol trong hình học hyperbol. Tam giác phẳng có một số dạng đặc biệt, được xét theo tính chất các cạnh và các góc của nó:", "Một số tính chất của tam giác (trong hình học Euclid).", "Trong hình học phi Euclid thì một tam giác có thể có tổng ba góc phụ thuộc vào kích thước của tam giác, khi kích thước tam giác gia tăng thì tổng đó tiến tới giá trị là 0 và có diện tích là vô hạn.", "Các công thức tính diện tích tam giác.", "Tính diện tích tam giác là một bài toán cơ bản thường được gặp trong hình học sơ cấp.", "Bằng cách sử dụng hình học.", "Diện tích \"S\" bằng \"½bh\", trong đó \"b\" là độ dài của một cạnh bất kỳ của tam giác (thường gọi là \"đáy\") và \"h\" là độ dài đường cao hạ từ đỉnh đối diện xuống cạnh ấy.", "Có thể giải thích công thức này bằng cách dùng diện tích hình chữ nhật như sau:", "Từ một tam giác (màu xanh lục), ta sẽ sao một tam giác bằng nó,(màu xanh lam), quay góc 180°, và ghép chúng thành hình bình hành. Cắt một phần của hình bình hành, ghép lại thành hình chữ nhật. Vì diện tích hình chữ nhật là \"bh\", nên diện tích tam giác là ½\"bh\".", "Nói cách khác, diện tích tam giác bằng độ dài cạnh đáy nhân với chiều cao chia 2:", "formula_4", "Đặc biệt ", "Tam giác vuông thì diện tích sẽ tính là một nửa tích hai cạnh góc vuông hoặc nửa tích đường cao với cạnh huyền.", "Tam giác đều thì diện tích sẽ tính là bình phương 1 cạnh nhân với formula_5", "Bằng phương pháp dùng tọa độ.", "Nếu đỉnh A đặt ở gốc tọa độ (0, 0) của hệ tọa độ Descartes và tọa độ của hai đỉnh kia là B = (\"x\"B, \"y\"B) và C = (\"x\"C, \"y\"C), thì diện tích \"S\" của tam giác ABC bằng một nửa của giá trị tuyệt đối của định thức", "formula_6", "Trong trường hợp tổng quát, ta có:", "formula_7", "Trong không gian ba chiều, diện tích của tam giác cho bởi {A = (\"x\"A, \"y\"A, \"z\"A), B = (\"x\"B, \"y\"B, \"z\"B) và C = (\"x\"C, \"y\"C, \"z\"C)} là tổng 'Pythagor' của các diện tích các hình chiếu của chúng trên các mặt phẳng tọa độ (nghĩa là \"x\"=0, \"y\"=0 and \"z\"=0):", "formula_8", "Áp dụng công thức Heron.", "Cũng có thể tính diện tích tam giác \"S\" theo Công thức Heron: formula_9", "trong đó formula_10 là nửa chu vi của tam giác.", "Những nguyên tắc cơ bản.", "Euclid đã trình bày các nguyên tắc cơ bản về tam giác trong tập 1 đến tập 4 tác phẩm Cơ sở (\"Elements\") của ông, viết khoảng năm 300 TCN.", "Tam giác là một đa giác và đơn hình bậc 2 (\"xem đa diện\").", "Hai tam giác là đồng dạng nếu có thể khai triển (co hay giãn) tam giác này theo cùng một tỷ lệ để có tam giác kia. Trường hợp này, độ dài của những bên đồng vị có tỷ lệ bằng nhau. Tức là hai tam giác đồng dạng với nhau, nếu cạnh lớn nhất của tam giác này gấp bao nhiêu lần cạnh lớn nhất của tam giác kia, thì cạnh bé nhất của tam giác này cũng gấp bấy nhiêu lần cạnh bé nhất của tam giác kia và tương tự với cạnh còn lại.", "Hơn nữa, tỷ lệ cạnh dài trên cạnh ngắn của một tam giác sẽ phải bằng tỷ lệ cạnh dài trên cạnh ngắn của tam giác kia. Điều quan trọng là những góc đồng vị phải bằng nhau để hai tam giác được đồng dạng nhau. Việc này cũng xảy ra nếu một tam giác có một cạnh chung với tam giác kia, và những cạnh đối với nó thì bằng nhau.", "Hàm lượng giác sin và cosin có thể hiểu được khi dùng tam giác vuông và khái niệm đồng dạng. Đó là hai hàm của góc được nghiên cứu bởi lượng giác học.", "Những định lý nổi tiếng được áp dụng trong tam giác.", "Một số định lý nổi tiếng có liên quan đến tam giác là:", "Các công trình kiến trúc sử dụng hình tam giác.", "Hiện nay, hình chữ nhật là một dạng hình học phổ biến và phổ biến nhất cho các công trình vì hình dạng dễ xếp chồng và sắp xếp, thật dễ dàng để thiết kế đồ nội thất và đồ đạc để phù hợp với bên trong các tòa nhà hình chữ nhật. Hình tam giác, trong khi khó sử dụng hơn về mặt khái niệm nhưng nó cung cấp rất nhiều sức mạnh cho chúng ta. Khi công nghệ máy tính giúp các kiến ​​trúc sư thiết kế các tòa nhà mới sáng tạo, hình dạng tam giác ngày càng trở nên phổ biến như là một phần của các công trình và là hình dạng chính cho một số loại nhà cao tầng cũng như các vật liệu xây dựng, đồ dùng nội thất. Năm 1989 tại Tokyo, Nhật Bản, các kiến ​​trúc sư đã tự hỏi liệu có thể xây dựng một tòa tháp với hơn 500 tầng để cung cấp không gian văn phòng giá cả phải chăng cho thành phố đông đúc như thế này hay không. Nhưng sự nguy hiểm đối với các tòa nhà từ trận động đất, các kiến ​​trúc sư cho rằng hình dạng tam giác sẽ là cần thiết, và như vậy một tòa nhà hình tam giác đã được xây dựng.", "Tại thành phố New York, khi đi qua các đại lộ lớn, ta có thể nhìn thấy nhiều các công trình lớn xây dựng theo hình lăng trụ đứng có đáy là tam giác. Ví dụ điển hình như vậy là Tòa nhà Flatiron hình tam giác mà mọi người thừa nhận có một \"không gian thật không dễ để chứa đồ nội thất văn phòng hiện đại\" nhưng điều đó không ngăn cản công trình trở thành một biểu tượng mang tính bước ngoặt. Các nhà thiết kế đã làm nhà ở Na Uy bằng cách sử dụng các chủ đề hình tam giác. Hình dạng tam giác cũng đã xuất hiện trong nhà thờ cũng như các tòa nhà công cộng bao gồm các trường đại học cũng như hỗ trợ cho các mẫu thiết kế nhà sáng tạo hơn nữa.", "Cấu trúc của một hình tam giác rất chắc chắn, trong khi đó cấu trúc của một hình chữ nhật có thể bị bẻ nghiêng thành hình bình hành từ áp suất đến những điểm trong nó, hình tam giác có sức mạnh tự nhiên hỗ trợ các cấu trúc chống lại các áp lực bên. Một hình tam giác sẽ không bao giờ thay đổi hình dạng trừ khi các cạnh của nó bị uốn cong, mở rộng hoặc gãy hoặc nếu các khớp của nó bị gãy. Về bản chất, mỗi một cạnh trong tam giác đều hỗ trợ cho hai cạnh còn lại. Một hình chữ nhật, ngược lại, phụ thuộc nhiều hơn vào sức mạnh của các khớp theo nghĩa cấu trúc. Một số nhà thiết kế sáng tạo đã đề xuất làm cho gạch không chỉ có hình dạng chữ nhật, và với hình dạng tam giác có thể được kết hợp theo ba chiều. Rất có khả năng các hình tam giác sẽ được sử dụng ngày càng nhiều theo những cách mới khi kiến ​​trúc tăng độ phức tạp. Điều quan trọng cần nhớ là hình tam giác rất mạnh về độ cứng, nhưng trong khi được sắp xếp theo hình tam giác sắp xếp không mạnh như hình lục giác khi bị (do đó sự phổ biến của các hình lục giác trong tự nhiên)." ]
1047
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1047
Internet
[ "Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.", "Internet hay Mạng (phiên âm tiếng Việt: in-tơ-nét) là một hệ thống thông tin toàn cầu có thể được truy nhập công cộng gồm các mạng máy tính được liên kết với nhau. Hệ thống này truyền thông tin theo kiểu nối chuyển gói dữ liệu (\"packet switching\") dựa trên một giao thức liên mạng đã được chuẩn hóa (giao thức IP). Hệ thống này bao gồm hàng ngàn mạng máy tính nhỏ hơn của các doanh nghiệp, của các viện nghiên cứu và các trường đại học, của người dùng cá nhân và các chính phủ trên toàn cầu, được liên kết bởi một loạt các công nghệ mạng điện tử, không dây và mạng quang. Internet mang theo một loạt các tài nguyên và dịch vụ thông tin, chẳng hạn như các tài liệu và ứng dụng siêu văn bản được liên kết với nhau của World Wide Web (WWW), thư điện tử, điện thoại và chia sẻ file.", "Nguồn gốc của Internet bắt nguồn từ sự phát triển của chuyển mạch gói và nghiên cứu do Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ ủy quyền thực hiện vào những năm 1960 để cho phép chia sẻ thời gian của máy tính. Mạng tiền thân chính, ARPANET, ban đầu đóng vai trò là xương sống để kết nối các mạng lưới học thuật và quân sự khu vực trong những năm 1970. Việc tài trợ cho Mạng lưới Quỹ Khoa học Quốc gia như một xương sống mới trong những năm 1980, cũng như tài trợ tư nhân cho các phần mở rộng thương mại khác, dẫn đến sự tham gia trên toàn thế giới trong việc phát triển các công nghệ mạng mới và sáp nhập nhiều mạng. Sự liên kết của các mạng thương mại và doanh nghiệp vào đầu những năm 1990 đã đánh dấu sự khởi đầu của quá trình chuyển đổi sang Internet hiện đại, và tạo ra sự tăng trưởng theo cấp số nhân khi các thế hệ máy tính cá nhân, cá nhân và di động được kết nối với mạng. Mặc dù Internet được sử dụng rộng rãi bởi các học viện trong những năm 1980, việc thương mại hóa Internet đã kết hợp các dịch vụ và công nghệ của nó vào hầu hết mọi khía cạnh của cuộc sống hiện đại.", "Hầu hết các phương tiện truyền thông truyền thống, bao gồm điện thoại, đài phát thanh, truyền hình, thư giấy và báo chí được định hình lại, xác định lại hoặc thậm chí bỏ qua Internet, khai sinh các dịch vụ mới như email, VoIP, truyền hình Internet, âm nhạc trực tuyến, báo kỹ thuật số và các trang web truyền phát video. Báo, sách và xuất bản in khác đang thích ứng với công nghệ trang web hoặc được định hình lại thành blog, web feed và tổng hợp tin tức trực tuyến. Internet đã cho phép và tăng tốc các hình thức tương tác cá nhân mới thông qua tin nhắn tức thời, diễn đàn Internet và mạng xã hội. Mua sắm trực tuyến đã tăng theo cấp số nhân cho cả các nhà bán lẻ lớn và các doanh nghiệp nhỏ và doanh nhân, vì nó cho phép các công ty mở rộng sự hiện diện \"gạch và vữa\" của họ để phục vụ thị trường lớn hơn hoặc thậm chí bán hàng hóa và dịch vụ hoàn toàn trực tuyến. Các dịch vụ từ doanh nghiệp đến doanh nghiệp và tài chính trên Internet ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng trên toàn bộ các ngành công nghiệp.", "Internet không có tổ chức quản trị tập trung duy nhất nào trong việc thực hiện công nghệ hoặc chính sách cho truy cập và sử dụng; mỗi mạng cấu thành đặt chính sách riêng của mình. Các định nghĩa của hai không gian tên chính trong Internet, không gian địa chỉ Giao thức Internet (địa chỉ IP) và Hệ thống tên miền (DNS), được chỉ đạo bởi một tổ chức bảo trì, Tập đoàn Internet về Tên miền và số được gán (ICANN). Nền tảng kỹ thuật và tiêu chuẩn hóa các giao thức cốt lõi là một hoạt động của Lực lượng đặc nhiệm kỹ thuật Internet (IETF), một tổ chức phi lợi nhuận của những người tham gia quốc tế liên kết lỏng lẻo mà bất kỳ ai cũng có thể liên kết bằng cách đóng góp chuyên môn kỹ thuật. Vào tháng 11 năm 2006, Internet đã được đưa vào danh sách \"Bảy kỳ quan mới\" của \"USA Today.\"", "Thuật ngữ.", "Mặc dù thuật ngữ \"Internet\" được sử dụng để tham khảo các hệ thống toàn cầu cụ thể của kết nối với nhau qua mạng dùng Internet Protocol (IP), từ này là một danh từ riêng theo quy định của Chicago Manual of Style mà nên được viết với một chữ cái viết hoa. Trong sử dụng phổ biến và các phương tiện truyền thông, nó thường không được viết hoa, chẳng hạn \"internet.\" Một số hướng dẫn xác định rằng từ này nên được viết hoa khi được sử dụng như một danh từ, nhưng không được viết hoa khi được sử dụng như một tính từ. Internet cũng thường được gọi là \"Net\", như một dạng viết tắt của \"mạng\". Trong lịch sử, ngay từ năm 1849, từ \"internetted\" đã không được sử dụng như một tính từ, có nghĩa là \"liên kết với nhau\" hoặc \"đan xen\" Các nhà thiết kế của các mạng máy tính ban đầu đã sử dụng \"internet\" như một danh từ và một động từ ở dạng tốc ký của mạng nội bộ hoặc mạng nội bộ, nghĩa là kết nối các mạng máy tính.", "Các thuật ngữ \"Internet\" và \"World Wide Web\" thường được sử dụng thay thế cho nhau trong lời nói hàng ngày; Người ta thường nói về \" \"truy cập Internet\" \" khi sử dụng trình duyệt web để xem các trang web. Tuy nhiên, World Wide Web hoặc \"Web\" chỉ là một trong số lượng lớn các dịch vụ Internet. Web là tập hợp các tài liệu được kết nối với nhau (các trang web) và các tài nguyên web khác, được liên kết bởi các siêu liên kết và URL. Thuật ngữ \"interweb\" là một từ ghép của \"Internet\" và \"World Wide Web\" thường được sử dụng một cách mỉa mai để nhại một người sử dụng không thành thạo về mặt kỹ thuật.", "Lịch sử.", "Cơ quan Dự án Nghiên cứu Tiên tiến (ARPA) của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã tài trợ cho nghiên cứu về việc chia sẻ thời gian của máy tính vào những năm 1960. Trong khi đó, nghiên cứu về chuyển mạch gói, một trong những công nghệ Internet cơ bản, bắt đầu trong công việc của Paul Baran vào đầu những năm 1960 và, độc lập, Donald Davies vào năm 1965. Chuyển mạch gói được tích hợp vào thiết kế đề xuất cho ARPANET vào năm 1967 và các mạng chuyển mạch gói khác như mạng NPL, Mạng Merit và CYCLADES được phát triển vào cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970.", "Sự phát triển của ARPANET bắt đầu với hai nút mạng được kết nối giữa Trung tâm đo lường mạng tại Đại học California, Los Angeles (UCLA) Trường Kỹ thuật và Khoa học ứng dụng Henry Samueli do Leonard Kleinrock chỉ đạo và hệ thống NLS tại SRI International (SRI) Douglas Engelbart tại Menlo Park, California, vào ngày 29 tháng 10 năm 1969. Địa điểm thứ ba là Trung tâm toán học tương tác Culler-Fried tại Đại học California, Santa Barbara, tiếp theo là Khoa Đồ họa của Đại học Utah. Trong một dấu hiệu của sự phát triển trong tương lai, mười lăm trang web đã được kết nối với ARPANET trẻ vào cuối năm 1971. Những năm đầu tiên này đã được ghi nhận trong bộ phim \"\".", "Hợp tác quốc tế ban đầu trên mạng ARPANET là rất hiếm. Các kết nối đã được thực hiện vào năm 1973 với Mảng địa chấn Na Uy (NORSAR) thông qua một trạm vệ tinh ở Tanum, Thụy Điển và nhóm nghiên cứu của Peter Kirstein tại Đại học College London, nơi cung cấp một cổng vào mạng lưới học thuật của Anh. Dự án ARPANET và các nhóm làm việc quốc tế đã dẫn đến sự phát triển của các giao thức và tiêu chuẩn khác nhau, theo đó nhiều mạng riêng biệt có thể trở thành một mạng hoặc \"một mạng các mạng\". Năm 1974, Vint Cerf và Bob Kahn đã sử dụng thuật ngữ \"internet\" như một cách viết tắt cho \"mạng nội bộ\" \"RFC 675\", và các RFC sau này lặp lại việc sử dụng này. Cerf và Khan tin rằng Louis Pouzin có ảnh hưởng quan trọng đến thiết kế TCP/IP. Các nhà cung cấp PTT thương mại đã quan tâm đến việc phát triển mạng dữ liệu công cộng X.25.", "Quyền truy cập vào ARPANET được mở rộng vào năm 1981 khi Quỹ khoa học quốc gia (NSF) tài trợ cho Mạng khoa học máy tính (CSNET). Năm 1982, Bộ giao thức Internet (TCP/IP) đã được chuẩn hóa, cho phép phổ biến các mạng kết nối trên toàn thế giới. Truy cập mạng TCP/IP được mở rộng trở lại vào năm 1986 khi Mạng Khoa học Quốc gia (NSFNet) cung cấp quyền truy cập vào các trang web siêu máy tính ở Hoa Kỳ cho các nhà nghiên cứu, đầu tiên là ở tốc độ 56 kbit / s và sau đó là 1,5 Mbit/s và 45 Mbit/s. NSFNet đã mở rộng thành các tổ chức nghiên cứu và học thuật ở Châu Âu, Úc, New Zealand và Nhật Bản vào năm 1988. Mặc dù các giao thức mạng khác như UUCP đã tiếp cận toàn cầu trước thời điểm này, nhưng điều này đánh dấu sự khởi đầu của Internet như một mạng lưới liên lục địa. Các nhà cung cấp dịch vụ Internet thương mại (ISP) xuất hiện vào năm 1989 tại Hoa Kỳ và Úc. ARPANET đã ngừng hoạt động vào năm 1990.", "Những tiến bộ ổn định trong công nghệ bán dẫn và mạng cáp quang đã tạo ra những cơ hội kinh tế mới cho sự tham gia thương mại trong việc mở rộng mạng lưới trong cốt lõi của nó và để cung cấp dịch vụ cho công chúng. Vào giữa năm 1989, MCI Mail và Compuserve đã thiết lập các kết nối với Internet, cung cấp email và các sản phẩm truy cập công cộng tới nửa triệu người dùng Internet. Chỉ vài tháng sau, vào ngày 1 tháng 1 năm 1990, PSInet đã đưa ra một mạng Internet thay thế cho mục đích thương mại; một trong những mạng được thêm vào cốt lõi của Internet thương mại của những năm sau đó. Vào tháng 3 năm 1990, liên kết T1 (1,5 Mbit / s) tốc độ cao đầu tiên giữa NSFNET và Châu Âu đã được cài đặt giữa Đại học Cornell và CERN, cho phép liên lạc mạnh mẽ hơn nhiều so với khả năng của các vệ tinh. Sáu tháng sau Tim Berners-Lee sẽ bắt đầu viết WorldWideWeb, trình duyệt web đầu tiên sau hai năm vận động hành lang ban quản lý CERN. Vào Giáng sinh năm 1990, Berners-Lee đã xây dựng tất cả các công cụ cần thiết cho một Web hoạt động: Giao thức truyền tải siêu văn bản (HTTP) 0.9, Ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản (HTML), trình duyệt Web đầu tiên (cũng là trình soạn thảo HTML và có thể truy cập các nhóm tin Usenet và các tệp FTP), phần mềm máy chủ HTTP đầu tiên (sau này được gọi là CERN httpd), máy chủ web đầu tiên, và các trang Web đầu tiên mô tả chính dự án. Năm 1991, Commercial Internet eXchange được thành lập, cho phép PSInet giao tiếp với các mạng thương mại khác CERFnet và Alternet. Liên minh tín dụng liên bang Stanford là tổ chức tài chính đầu tiên cung cấp dịch vụ ngân hàng trực tuyến trên Internet cho tất cả các thành viên của mình vào tháng 10 năm 1994. Năm 1996, OP Financial Group, cũng là một ngân hàng hợp tác, trở thành ngân hàng trực tuyến thứ hai trên thế giới và đầu tiên ở châu Âu. Đến năm 1995, Internet đã được thương mại hóa hoàn toàn ở Mỹ khi NSFNet ngừng hoạt động, xóa bỏ những hạn chế cuối cùng trong việc sử dụng Internet để truyền tải lưu lượng thương mại.", "Khi công nghệ phát triển và cơ hội thương mại thúc đẩy tăng trưởng đối ứng, khối lượng lưu lượng truy cập Internet bắt đầu gặp phải các đặc điểm tương tự như quy mô của bóng bán dẫn MOS, được minh họa bởi luật Moore, tăng gấp đôi cứ sau 18 tháng. Sự tăng trưởng này, được chính thức hóa theo luật Edholm, được xúc tác bởi những tiến bộ trong công nghệ MOS, hệ thống ánh sáng laser và hiệu suất xử lý nhiễu.", "Từ năm 1995, Internet đã tác động rất lớn đến văn hóa và thương mại, bao gồm sự gia tăng của giao tiếp gần như qua email, nhắn tin tức thời, điện thoại (Giao thức thoại qua Internet hoặc VoIP), các cuộc gọi video tương tác hai chiều và World Wide Web với các diễn đàn thảo luận, blog, mạng xã hội và các trang web mua sắm trực tuyến. Lượng dữ liệu ngày càng tăng được truyền ở tốc độ cao hơn và cao hơn trên các mạng cáp quang hoạt động ở tốc độ 1-Gbit/s, 10-Gbit/s hoặc hơn. Internet tiếp tục phát triển, được thúc đẩy bởi lượng thông tin và kiến thức trực tuyến, thương mại, giải trí và mạng xã hội lớn hơn bao giờ hết. Vào cuối những năm 1990, ước tính lưu lượng truy cập trên Internet công cộng tăng 100% mỗi năm, trong khi mức tăng trưởng trung bình hàng năm về số lượng người dùng Internet được cho là từ 20% đến 50%. Sự tăng trưởng này thường được quy cho việc thiếu quản trị trung tâm, cho phép tăng trưởng hữu cơ của mạng, cũng như bản chất không độc quyền của các giao thức Internet, khuyến khích khả năng tương tác của nhà cung cấp và ngăn chặn bất kỳ công ty nào kiểm soát quá nhiều mạng. ính đến ngày 31 tháng 3 năm 2011[ [cập nhật]], tổng số người dùng Internet ước tính là 2,095 tỷ (30,2% dân số thế giới). Người ta ước tính rằng vào năm 1993, Internet chỉ mang theo 1% thông tin truyền qua viễn thông hai chiều, đến năm 2000, con số này đã tăng lên 51% và đến năm 2007, hơn 97% tất cả thông tin được điều khiển qua Internet.", "Quản trị.", "Internet là một mạng toàn cầu bao gồm nhiều mạng tự trị được kết nối với nhau một cách tự nguyện. Nó hoạt động mà không có một cơ quan quản lý trung ương nào. Nền tảng kỹ thuật và tiêu chuẩn hóa các giao thức cốt lõi (IPv4 và IPv6) là một hoạt động của Lực lượng đặc nhiệm kỹ thuật Internet (IETF), một tổ chức phi lợi nhuận của những người tham gia quốc tế liên kết lỏng lẻo mà bất kỳ ai có thể liên kết bằng cách đóng góp chuyên môn kỹ thuật. Để duy trì khả năng tương tác, các không gian tên chính của Internet được quản lý bởi Tập đoàn Internet cho Tên miền và số được gán (ICANN). ICANN được điều hành bởi một ban giám đốc quốc tế được rút ra từ các cộng đồng kỹ thuật, kinh doanh, học thuật và phi thương mại khác trên Internet. ICANN điều phối việc gán các mã định danh duy nhất để sử dụng trên Internet, bao gồm tên miền, địa chỉ Giao thức Internet (IP), số cổng ứng dụng trong giao thức truyền tải và nhiều tham số khác. Không gian tên thống nhất toàn cầu là rất cần thiết để duy trì phạm vi toàn cầu của Internet. Vai trò này của ICANN phân biệt nó có lẽ là cơ quan điều phối trung tâm duy nhất cho Internet toàn cầu.", "Cơ quan đăng ký Internet khu vực (RIR) được thành lập cho năm khu vực trên thế giới. Trung tâm thông tin mạng châu Phi (AfriNIC) cho châu Phi, Cơ quan đăng ký số Internet (ARIN) của Mỹ cho Bắc Mỹ, Trung tâm thông tin mạng châu Á-Thái Bình Dương (APNIC) cho châu Á và khu vực Thái Bình Dương, Cơ quan đăng ký địa chỉ Internet ở Mỹ Latinh và Caribbean (LACNIC) cho Châu Mỹ Latinh và khu vực Caribbean và Réseaux IP Européens - Trung tâm điều phối mạng (RIPE NCC) cho Châu Âu, Trung Đông và Trung Á đã được ủy quyền để gán các khối địa chỉ Giao thức Internet và các thông số Internet khác cho các cơ quan đăng ký địa phương, như là nhà cung cấp dịch vụ Internet, từ một nhóm địa chỉ được chỉ định dành riêng cho từng khu vực.", "Cục Viễn thông và Thông tin Quốc gia, một cơ quan của Bộ Thương mại Hoa Kỳ, đã có sự chấp thuận cuối cùng đối với các thay đổi đối với vùng gốc DNS cho đến khi chuyển đổi quản lý IANA vào ngày 1 tháng 10 năm 2016. Hiệp hội Internet (ISOC) được thành lập năm 1992 với sứ mệnh \"đảm bảo sự phát triển mở, phát triển và sử dụng Internet vì lợi ích của tất cả mọi người trên toàn thế giới\". Thành viên của nó bao gồm các cá nhân (bất kỳ ai cũng có thể tham gia) cũng như các tập đoàn, tổ chức, chính phủ và trường đại học. Trong số các hoạt động khác, ISOC cung cấp một ngôi nhà hành chính cho một số nhóm ít tổ chức chính thức có liên quan đến việc phát triển và quản lý Internet, bao gồm: Lực lượng đặc nhiệm kỹ thuật Internet (IETF), Ban kiến trúc Internet (IAB), Nhóm chỉ đạo kỹ thuật Internet (IESG), Lực lượng đặc nhiệm nghiên cứu Internet (IRTF) và Nhóm chỉ đạo nghiên cứu Internet (IRSG). Vào ngày 16 tháng 11 năm 2005, Hội nghị thượng đỉnh thế giới do Liên hiệp quốc về Hiệp hội thông tin ở Tunis tài trợ đã thành lập Diễn đàn quản trị Internet (IGF) để thảo luận về các vấn đề liên quan đến Internet.", "Cơ sở hạ tầng.", "Cơ sở hạ tầng truyền thông của Internet bao gồm các thành phần phần cứng và hệ thống các lớp phần mềm kiểm soát các khía cạnh khác nhau của kiến trúc này. Như với bất kỳ mạng máy tính nào, Internet bao gồm các bộ định tuyến, phương tiện truyền thông (như cáp và liên kết vô tuyến), bộ lặp, modem, v.v. Tuy nhiên, như một ví dụ về liên mạng, rất nhiều các nút mạng không nhất thiết phải thiết bị Internet cho mỗi gia nhập, các gói dữ liệu Internet được thực hiện bởi các giao thức mạng chính thức khác với Internet đóng vai trò như một tiêu chuẩn mạng đồng nhất, chạy trên phần cứng không đồng nhất, với gói được hướng dẫn đến đích của chúng bằng bộ định tuyến IP.", "Các tuyến định tuyến và dịch vụ.", "Các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) thiết lập kết nối toàn cầu giữa các mạng riêng lẻ ở nhiều cấp độ khác nhau. Người dùng cuối chỉ truy cập Internet khi cần để thực hiện chức năng hoặc lấy thông tin, biểu thị phần dưới cùng của hệ thống phân cấp định tuyến. Ở phía trên cùng của hệ thống phân cấp định tuyến là tầng 1 mạng, các công ty viễn thông lớn mà giao thông trao đổi trực tiếp với nhau thông qua tốc độ rất cao cáp quang sợi và chi phối bởi thỏa thuận peering. Mạng cấp 2 và cấp thấp hơn mua quá cảnh Internet từ các nhà cung cấp khác để tiếp cận ít nhất một số bên trên Internet toàn cầu, mặc dù họ cũng có thể tham gia vào việc tiên phong. Một ISP có thể sử dụng một nhà cung cấp ở thượng nguồn duy nhất cho khả năng kết nối, hoặc thực hiện multihoming để đạt được khả năng dự phòng và cân bằng tải. Điểm trao đổi Internet là các trao đổi lưu lượng truy cập lớn với các kết nối vật lý đến nhiều ISP. Các tổ chức lớn, chẳng hạn như các tổ chức học thuật, doanh nghiệp lớn và chính phủ, có thể thực hiện chức năng tương tự như ISP, tham gia vào peering và mua quá cảnh thay mặt cho mạng nội bộ của họ. Các mạng nghiên cứu có xu hướng kết nối với các mạng con lớn như GEANT, GLORIAD, Internet2 và mạng nghiên cứu và giáo dục quốc gia của Vương quốc Anh, JANET. Cả cấu trúc định tuyến IP Internet và các liên kết siêu văn bản của World Wide Web là ví dụ về các mạng không có quy mô.   Máy tính và bộ định tuyến sử dụng các bảng định tuyến trong hệ điều hành của chúng để hướng các gói IP đến bộ định tuyến hoặc đích đến tiếp theo. Các bảng định tuyến được duy trì bằng cấu hình thủ công hoặc tự động bằng các giao thức định tuyến. Các nút cuối thường sử dụng tuyến mặc định hướng đến ISP cung cấp dịch vụ vận chuyển, trong khi các bộ định tuyến ISP sử dụng Giao thức cổng biên để thiết lập định tuyến hiệu quả nhất qua các kết nối phức tạp của Internet toàn cầu.", "Ước tính 70 phần trăm lưu lượng truy cập Internet của thế giới đi qua Ashburn, Virginia.", "Truy cập.", "Các phương thức truy cập Internet phổ biến của người dùng bao gồm quay số bằng modem máy tính thông qua các mạch điện thoại, băng thông rộng qua cáp đồng trục, cáp quang hoặc dây đồng, Wi-Fi, vệ tinh và công nghệ điện thoại di động (ví dụ: 3G, 4G). Internet thường có thể được truy cập từ các máy tính trong thư viện và quán cà phê Internet. Các điểm truy cập Internet tồn tại ở nhiều nơi công cộng như sảnh sân bay và quán cà phê. Các thuật ngữ khác nhau được sử dụng, chẳng hạn như \"kiosk Internet\" \"công cộng\", \"thiết bị đầu cuối truy cập công cộng\" và \"điện thoại thanh toán qua Web\". Nhiều khách sạn cũng có các điểm truy cập Internet công cộng thường có phí. Các thiết bị đầu cuối này được truy cập rộng rãi cho các mục đích sử dụng khác nhau, chẳng hạn như đặt vé, gửi tiền ngân hàng hoặc thanh toán trực tuyến. Wi-Fi cung cấp truy cập không dây vào Internet thông qua các mạng máy tính địa phương. Hotspots cung cấp truy cập như vậy bao gồm quán cà phê Wi-Fi, nơi người dùng cần phải mang theo các thiết bị không dây của họ chẳng hạn như một máy tính xách tay hoặc PDA. Các dịch vụ này có thể miễn phí cho tất cả mọi người, hoặc chỉ miễn phí cho khách hàng hoặc có tính phí.", "Những nỗ lực cơ sở đã dẫn đến các mạng cộng đồng không dây. Các dịch vụ Wi-Fi thương mại bao phủ các khu vực rộng lớn có sẵn ở nhiều thành phố, như New York, London, Vienna, Toronto, San Francisco, Philadelphia, Chicago và Pittsburgh, nơi Internet có thể được truy cập từ những nơi như ghế đá công viên. Các thử nghiệm cũng đã được thực hiện với các mạng không dây di động độc quyền như Ricochet, các dịch vụ dữ liệu tốc độ cao khác nhau qua mạng di động và các dịch vụ không dây cố định. Điện thoại thông minh hiện đại cũng có thể truy cập Internet thông qua mạng di động. Để duyệt Web, các thiết bị này cung cấp các ứng dụng như Google Chrome, Safari và Firefox và nhiều phần mềm Internet khác có thể được cài đặt từ các cửa hàng ứng dụng. Lần đầu tiên sử dụng Internet trên thiết bị di động và máy tính bảng đã vượt quá máy tính để bàn trên toàn thế giới vào tháng 10 năm 2016.", "Kết nối qua di động.", "Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU) ước tính, vào cuối năm 2017, 48% người dùng cá nhân thường xuyên kết nối Internet, tăng từ 34% vào năm 2012. Kết nối Internet di động đã đóng một vai trò quan trọng trong việc mở rộng truy cập trong những năm gần đây, đặc biệt là ở châu Á và Thái Bình Dương và ở châu Phi. Số lượng thuê bao di động duy nhất đã tăng từ 3,89 tỷ vào năm 2012 lên 4,83 tỷ vào năm 2016, hai phần ba dân số thế giới, với hơn một nửa số thuê bao ở Châu Á và Thái Bình Dương. Số lượng đăng ký được dự đoán sẽ tăng lên 5,69 tỷ người dùng vào năm 2020. ính đến năm 2016[ [cập nhật]], gần 60% dân số thế giới đã truy cập vào mạng di động băng rộng 4G, tăng từ gần 50% vào năm 2015 và 11% vào năm 2012. Các giới hạn mà người dùng phải đối mặt khi truy cập thông tin qua các ứng dụng di động trùng khớp với quá trình phân mảnh Internet rộng hơn. Phân mảnh hạn chế quyền truy cập vào nội dung phương tiện và có xu hướng ảnh hưởng đến người dùng nghèo nhất.", "Xếp hạng zero (zero rating), thông lệ của các nhà cung cấp dịch vụ Internet cho phép người dùng kết nối miễn phí để truy cập một nội dung hoặc ứng dụng cụ thể mà không phải trả chi phí, đã tạo cơ hội vượt qua các rào cản kinh tế, nhưng cũng bị các nhà phê bình cáo buộc là tạo ra Internet hai tầng. Để giải quyết các vấn đề với xếp hạng zero, một mô hình thay thế đã xuất hiện trong khái niệm 'xếp hạng bằng nhau' và đang được thử nghiệm trong Mozilla và Orange ở Châu Phi. Xếp hạng bằng nhau ngăn ngừa mức độ ưu tiên của một loại nội dung và không đánh giá tất cả nội dung cho đến giới hạn dữ liệu được chỉ định. Một nghiên cứu được công bố bởi Chatham House, 15 trong số 19 quốc gia được nghiên cứu ở Mỹ Latinh có một số loại sản phẩm lai hoặc không xếp hạng được cung cấp. Một số quốc gia trong khu vực có rất nhiều kế hoạch để lựa chọn (trên tất cả các nhà khai thác mạng di động) trong khi các quốc gia khác, chẳng hạn như Colombia, cung cấp tới 30 gói trả trước và 34 gói trả sau.", "Một nghiên cứu của tám quốc gia ở Nam toàn cầu đã phát hiện ra rằng các gói dữ liệu không được xếp hạng tồn tại ở mọi quốc gia, mặc dù có một phạm vi lớn về tần suất mà chúng được cung cấp và thực sự được sử dụng ở mỗi quốc gia. Nghiên cứu đã xem xét ba đến năm hãng hàng đầu theo thị phần ở Bangladesh, Colombia, Ghana, Ấn Độ, Kenya, Nigeria, Peru và Philippines. Một nghiên cứu khác, bao gồm Ghana, Kenya, Nigeria và Nam Phi, đã tìm thấy những điều cơ bản miễn phí và Wikipedia Zero của Facebook là nội dung không được xếp hạng phổ biến nhất.", "Bộ giao thức Internet.", "Các tiêu chuẩn Internet mô tả một khung được gọi là bộ giao thức Internet (còn được gọi là TCP/IP, dựa trên hai thành phần đầu tiên). Đây là một kiến trúc mô hình phân chia các phương thức thành một hệ thống các giao thức được phân lớp, ban đầu được ghi lại trong RFC 1122 và RFC 1123.", "Phân lớp.", "Các lớp phần mềm tương ứng với môi trường hoặc phạm vi mà dịch vụ của họ hoạt động. Trên cùng là lớp ứng dụng, không gian cho các phương thức mạng dành riêng cho ứng dụng được sử dụng trong các ứng dụng phần mềm. Ví dụ: chương trình trình duyệt web sử dụng mô hình ứng dụng máy khách-máy chủ và giao thức tương tác cụ thể giữa máy chủ và máy khách, trong khi nhiều hệ thống chia sẻ tệp sử dụng mô hình ngang hàng.", "Bên dưới lớp trên cùng này, lớp vận chuyển kết nối các ứng dụng trên các máy chủ khác nhau với một kênh logic thông qua mạng với các phương thức trao đổi dữ liệu phù hợp. Nó cung cấp một số dịch vụ bao gồm đặt hàng, phân phối đáng tin cậy (TCP) và dịch vụ datagram không đáng tin cậy (UDP).", "Dưới các lớp này là các công nghệ mạng kết nối các mạng ở biên giới của chúng và trao đổi lưu lượng qua chúng. Lớp Internet thực hiện Giao thức Internet cho phép các máy tính xác định và định vị lẫn nhau bằng địa chỉ Giao thức Internet (IP) và định tuyến lưu lượng truy cập của chúng thông qua các mạng trung gian (chuyển tuyến). Mã lớp giao thức internet độc lập với loại mạng mà nó đang chạy trên thực tế.", "Ở dưới cùng của kiến trúc là lớp liên kết, cung cấp kết nối hợp lý giữa các máy chủ. Mã lớp liên kết thường là phần mềm duy nhất được tùy chỉnh theo loại giao thức liên kết mạng vật lý. Nhiều lớp liên kết đã được triển khai và mỗi lớp hoạt động trên một loại liên kết mạng, chẳng hạn như trong mạng cục bộ (LAN) hoặc mạng diện rộng (ví dụ: Wi-Fi hoặc Ethernet hoặc kết nối quay số, ATM, v.v.).", "Giao thức Internet.", "Thành phần nổi bật nhất của mô hình Internet là Giao thức Internet (IP). IP cho phép kết nối mạng và về bản chất là thiết lập Internet. Hai phiên bản của Giao thức Internet tồn tại, IPV4 và IPV6.", "Các địa chỉ IP.", "Để định vị các máy tính cá nhân trên mạng, Internet cung cấp địa chỉ IP. Địa chỉ IP được sử dụng bởi cơ sở hạ tầng Internet để hướng các gói internet đến đích của chúng. Chúng bao gồm các số có độ dài cố định, được tìm thấy trong gói. Địa chỉ IP thường được gán cho thiết bị tự động thông qua DHCP hoặc được định cấu hình.", "Tuy nhiên, mạng cũng hỗ trợ các hệ thống địa chỉ khác. Người dùng thường nhập tên miền (ví dụ: \"vi.wikipedia.org\") thay vì địa chỉ IP vì chúng dễ nhớ hơn, chúng được Hệ thống tên miền (DNS) chuyển đổi thành địa chỉ IP hiệu quả hơn cho mục đích định tuyến.", "IPv4.", "Giao thức Internet phiên bản 4 (IPv4) định nghĩa địa chỉ IP là số 32 bit. Giao thức Internet Phiên bản 4 (IPv4) là phiên bản ban đầu được sử dụng trên thế hệ đầu tiên của Internet và vẫn đang được sử dụng chủ yếu. Nó được thiết kế để giải quyết tới 4,3 tỷ (10 9) máy chủ lưu trữ. Tuy nhiên, sự phát triển bùng nổ của Internet đã dẫn đến cạn kiệt địa chỉ IPv4, bước vào giai đoạn cuối cùng vào năm 2011, khi nhóm phân bổ địa chỉ IPv4 toàn cầu cạn kiệt.", "IPv6.", "Do sự phát triển của Internet và sự cạn kiệt của các địa chỉ IPv4 có sẵn, một phiên bản mới của IP IPv6, được phát triển vào giữa những năm 1990, cung cấp khả năng đánh địa chỉ lớn hơn rất nhiều và định tuyến lưu lượng truy cập Internet hiệu quả hơn. IPv6 sử dụng 128 bit cho địa chỉ IP và được chuẩn hóa vào năm 1998. Triển khai IPv6 đã được tiến hành từ giữa những năm 2000. IPv6 hiện đang được triển khai trên khắp thế giới, vì các cơ quan đăng ký địa chỉ Internet (RIR) bắt đầu thúc giục tất cả các nhà quản lý tài nguyên lên kế hoạch áp dụng và chuyển đổi nhanh chóng.", "IPv6 không thể tương tác trực tiếp theo thiết kế với IPv4. Về bản chất, nó thiết lập một phiên bản song song của Internet không thể truy cập trực tiếp bằng phần mềm IPv4. Do đó, các cơ sở dịch thuật phải tồn tại để liên kết mạng hoặc các nút phải có phần mềm mạng trùng lặp cho cả hai mạng. Về cơ bản, tất cả các hệ điều hành máy tính hiện đại đều hỗ trợ cả hai phiên bản Giao thức Internet. Cơ sở hạ tầng mạng, tuy nhiên, đã bị chậm trễ trong sự phát triển này. Ngoài các kết nối vật lý phức tạp tạo nên cơ sở hạ tầng, Internet được hỗ trợ bởi các hợp đồng thương mại hai bên hoặc đa bên, ví dụ như các thỏa thuận tiên phong và thông số kỹ thuật hoặc giao thức mô tả việc trao đổi dữ liệu qua mạng. Thật vậy, Internet được xác định bởi các chính sách kết nối và định tuyến.", "Mạng con.", "Mạng \"con\" là một phân vùng logic của mạng IP. :1,16 Việc thực hành chia một mạng thành hai hoặc nhiều mạng được gọi là \"subnetting.\"", "Các máy tính thuộc mạng con được xử lý với một nhóm bit quan trọng nhất giống hệt nhau trong các địa chỉ IP của chúng. Điều này dẫn đến việc phân chia hợp lý một địa chỉ IP thành hai trường, \"số mạng\" hoặc \"tiền tố định tuyến\" và trường \"còn lại\" hoặc \"định danh máy chủ\". Trường còn lại là một định danh cho một máy chủ hoặc giao diện mạng cụ thể.", "\"Tiền tố định tuyến\" có thể được thể hiện bằng ký hiệu Định tuyến liên miền không phân loại (CIDR) được viết dưới dạng địa chỉ đầu tiên của mạng, theo sau là ký tự gạch chéo (\"/\") và kết thúc bằng độ dài bit của tiền tố. Ví dụ: 198.51.100.0 / 24 là tiền tố của mạng Giao thức Internet phiên bản 4 bắt đầu tại địa chỉ đã cho, có 24 bit được phân bổ cho tiền tố mạng và 8 bit còn lại dành cho địa chỉ máy chủ. Địa chỉ trong phạm vi 198.51.100.0 đến 198.51.100.255 thuộc về mạng này. Đặc tả địa chỉ IPv6 2001:db8::/32 là một khối địa chỉ lớn với 296 địa chỉ, có tiền tố định tuyến 32 bit.", "Đối với IPv4, một mạng cũng có thể được đặc trưng bởi \"mặt nạ mạng con\" hoặc \"netmask\", đó là bitmask khi được áp dụng bởi hoạt động bitwise AND cho bất kỳ địa chỉ IP nào trong mạng, tạo ra tiền tố định tuyến. Mặt nạ mạng con cũng được thể hiện bằng ký hiệu thập phân dấu chấm như một địa chỉ. Ví dụ: 255.255.255.0 là mặt nạ mạng con cho tiền tố 198.51.100.0/24.", "Lưu lượng được trao đổi giữa các mạng con thông qua các bộ định tuyến khi tiền tố định tuyến của địa chỉ nguồn và địa chỉ đích khác nhau. Một bộ định tuyến phục vụ như là một ranh giới logic hoặc vật lý giữa các mạng con.", "Lợi ích của việc chia mạng con hiện tại thay đổi theo từng kịch bản triển khai. Trong kiến trúc phân bổ địa chỉ của Internet bằng CIDR và trong các tổ chức lớn, cần phải phân bổ không gian địa chỉ một cách hiệu quả. Mạng con cũng có thể tăng cường hiệu quả định tuyến hoặc có lợi thế trong quản lý mạng khi các mạng con được kiểm soát hành chính bởi các thực thể khác nhau trong một tổ chức lớn hơn. Các mạng con có thể được sắp xếp một cách hợp lý theo kiến trúc phân cấp, phân vùng không gian địa chỉ mạng của tổ chức thành một cấu trúc định tuyến giống như cây.", "IETF.", "Mặc dù các thành phần phần cứng trong cơ sở hạ tầng Internet thường có thể được sử dụng để hỗ trợ các hệ thống phần mềm khác, nhưng đó là thiết kế và quy trình chuẩn hóa của phần mềm đặc trưng cho Internet và cung cấp nền tảng cho khả năng mở rộng và thành công của nó. Trách nhiệm đối với thiết kế kiến trúc của các hệ thống phần mềm Internet đã được Lực lượng đặc nhiệm kỹ thuật Internet (IETF) đảm nhận. IETF tiến hành các nhóm làm việc thiết lập tiêu chuẩn, dành cho mọi cá nhân, về các khía cạnh khác nhau của kiến trúc Internet. Kết quả đóng góp và tiêu chuẩn được công bố dưới dạng tài liệu \"Yêu cầu Nhận xét\" (RFC) trên trang web của IETF. Các phương thức kết nối mạng chính cho phép Internet được chứa trong các RFC được chỉ định đặc biệt cấu thành các Tiêu chuẩn Internet. Các tài liệu ít nghiêm ngặt khác chỉ đơn giản là thông tin, thử nghiệm hoặc lịch sử hoặc tài liệu về các thực tiễn tốt nhất hiện nay (BCP) khi triển khai các công nghệ Internet.", "Ứng dụng và dịch vụ.", "Internet mang nhiều ứng dụng và dịch vụ, nổi bật nhất là World Wide Web, bao gồm phương tiện truyền thông xã hội, thư điện tử, ứng dụng di động, trò chơi trực tuyến nhiều người chơi, điện thoại Internet, chia sẻ tệp và dịch vụ truyền phát trực tuyến.", "Hầu hết các máy chủ cung cấp các dịch vụ này ngày nay được lưu trữ trong các trung tâm dữ liệu và nội dung thường được truy cập thông qua các mạng phân phối nội dung hiệu suất cao.", "World Wide Web.", "World Wide Web là tập hợp toàn cầu các tài liệu, hình ảnh, đa phương tiện, ứng dụng và các tài nguyên khác, được liên kết với nhau một cách hợp lý bởi các siêu liên kết và được tham chiếu với Mã định danh tài nguyên thống nhất (URI), cung cấp một hệ thống tham chiếu có tên toàn cầu. Các URI tượng trưng xác định các dịch vụ, máy chủ web, cơ sở dữ liệu và các tài liệu và tài nguyên mà chúng có thể cung cấp. Giao thức truyền siêu văn bản (HTTP) là giao thức truy cập chính của World Wide Web. Các dịch vụ web cũng sử dụng HTTP để liên lạc giữa các hệ thống phần mềm để truyền thông tin, chia sẻ và trao đổi dữ liệu kinh doanh và hậu cần và là một trong nhiều ngôn ngữ hoặc giao thức có thể được sử dụng để liên lạc trên Internet.", "Phần mềm trình duyệt World Wide Web, chẳng hạn như Internet Explorer/Edge của Microsoft, Mozilla Firefox, Opera, Safari và Google Chrome, cho phép người dùng di chuyển từ một trang web khác thông qua các siêu liên kết nhúng trong tài liệu. Các tài liệu này cũng có thể chứa bất kỳ sự kết hợp nào của dữ liệu máy tính, bao gồm đồ họa, âm thanh, văn bản, video, đa phương tiện và nội dung tương tác chạy trong khi người dùng đang tương tác với trang. Phần mềm phía khách hàng có thể bao gồm hình ảnh động, trò chơi, ứng dụng văn phòng và trình diễn khoa học. Thông qua nghiên cứu Internet dựa trên từ khóa bằng các công cụ tìm kiếm như Yahoo!, Bing và Google, người dùng trên toàn thế giới có thể truy cập nhanh chóng, dễ dàng vào một lượng lớn thông tin trực tuyến đa dạng. So với phương tiện truyền thông in ấn, sách, bách khoa toàn thư và thư viện truyền thống, World Wide Web đã cho phép phân cấp thông tin trên quy mô lớn.", "Web đã cho phép các cá nhân và tổ chức xuất bản ý tưởng và thông tin tới một đối tượng tiềm năng lớn trực tuyến với chi phí giảm đáng kể và thời gian trì hoãn. Xuất bản một trang web, một blog hoặc xây dựng một trang web liên quan đến ít chi phí ban đầu và nhiều dịch vụ miễn phí có sẵn. Tuy nhiên, xuất bản và duy trì các trang web lớn, chuyên nghiệp với thông tin hấp dẫn, đa dạng và cập nhật vẫn là một đề xuất khó khăn và tốn kém. Nhiều cá nhân và một số công ty và nhóm sử dụng \"nhật ký web\" hoặc blog, phần lớn được sử dụng như nhật ký trực tuyến dễ dàng cập nhật. Một số tổ chức thương mại khuyến khích nhân viên truyền đạt lời khuyên trong lĩnh vực chuyên môn của họ với hy vọng rằng khách truy cập sẽ bị ấn tượng bởi kiến thức chuyên môn và thông tin miễn phí, và kết quả là bị thu hút vào tập đoàn.", "Quảng cáo trên các trang web phổ biến có thể sinh lời và thương mại điện tử, đó là việc bán sản phẩm và dịch vụ trực tiếp qua Web, tiếp tục phát triển. Quảng cáo trực tuyến là một hình thức tiếp thị và quảng cáo sử dụng Internet để truyền tải thông điệp tiếp thị quảng cáo đến người tiêu dùng. Nó bao gồm tiếp thị qua email, tiếp thị công cụ tìm kiếm (SEM), tiếp thị truyền thông xã hội, nhiều loại quảng cáo hiển thị (bao gồm quảng cáo biểu ngữ web) và quảng cáo trên thiết bị di động. Năm 2011, doanh thu quảng cáo trên Internet ở Hoa Kỳ đã vượt qua các kênh truyền hình cáp và gần như vượt xa các kênh truyền hình phát sóng. :19 Nhiều kiểu quảng cáo trực tuyến phổ biến đang gây tranh cãi và ngày càng phải tuân theo quy định.", "Khi Web phát triển vào những năm 1990, một trang web điển hình đã được lưu trữ ở dạng hoàn chỉnh trên máy chủ web, được định dạng bằng HTML, hoàn thành để truyền tới trình duyệt web để đáp ứng yêu cầu. Theo thời gian, quá trình tạo và phục vụ các trang web đã trở nên năng động, tạo ra một thiết kế, bố cục và nội dung linh hoạt. Các trang web thường được tạo bằng phần mềm quản lý nội dung, ban đầu, rất ít nội dung. Những người đóng góp cho các hệ thống này, có thể là nhân viên được trả lương, thành viên của một tổ chức hoặc công chúng, điền vào cơ sở dữ liệu cơ bản bằng các trang chỉnh sửa được thiết kế cho mục đích đó trong khi khách truy cập bình thường xem và đọc nội dung này dưới dạng HTML. Có thể có hoặc không có các hệ thống biên tập, phê duyệt và bảo mật được xây dựng trong quá trình lấy nội dung mới được nhập và cung cấp cho khách truy cập mục tiêu.", "Liên lạc.", "Email là một dịch vụ liên lạc quan trọng có sẵn thông qua Internet. Khái niệm gửi tin nhắn văn bản điện tử giữa các bên, tương tự như gửi thư hoặc ghi nhớ, có trước khi tạo ra Internet. Hình ảnh, tài liệu và các tệp khác được gửi dưới dạng tệp đính kèm email. Tin nhắn email có thể được carbon copy đến nhiều địa chỉ email.", "Internet điện thoại là một dịch vụ liên lạc phổ biến được thực hiện với Internet. Tên của giao thức kết nối mạng chính, Giao thức Internet, cho mượn tên của nó để gọi qua giao thức Internet (VoIP). Ý tưởng bắt đầu vào đầu những năm 1990 với các ứng dụng giọng nói giống như máy bộ đàm cho máy tính cá nhân. Các hệ thống VoIP hiện đang thống trị nhiều thị trường, dễ sử dụng và tiện lợi như điện thoại truyền thống. Lợi ích là tiết kiệm đáng kể chi phí so với các cuộc gọi điện thoại truyền thống, đặc biệt là trong khoảng cách xa. Mạng cáp, ADSL và dữ liệu di động cung cấp truy cập Internet trong cơ sở của khách hàng và các bộ điều hợp mạng VoIP rẻ tiền cung cấp kết nối cho các bộ điện thoại analog truyền thống. Chất lượng thoại của VoIP thường vượt quá các cuộc gọi truyền thống. Các vấn đề còn lại đối với VoIP bao gồm tình huống các dịch vụ khẩn cấp có thể không phổ biến và các thiết bị phụ thuộc vào nguồn điện cục bộ, trong khi các điện thoại truyền thống cũ hơn được cấp nguồn từ vòng cục bộ và thường hoạt động khi mất điện.", "Các ISP.", "ISP (\"Internet Service Provider\") là nhà cung cấp dịch vụ Internet. Các ISP phải thuê đường và cổng của một IAP. Các ISP có quyền kinh doanh thông qua các hợp đồng cung cấp dịch vụ Internet cho các tổ chức và các cá nhân.", "Các loại ISP dùng riêng được quyền cung cấp đầy đủ các dịch vụ Internet. Điều khác nhau duy nhất giữa ISP và ISP riêng là không cung cấp dịch vụ Internet vào mục đích kinh doanh. Người dùng chỉ cần thoả thuận với một ISP hay ISP riêng nào đó về các dịch vụ được sử dụng và thủ tuc thanh toán được gọi là thuê bao Internet.", "Kiểm duyệt Internet.", "Một số quốc gia đã sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để thực hiện công tác kiểm duyệt, lọc thông tin thông qua các nhà cung cấp dịch vụ Internet, như tại Iran, Trung Quốc, Turkmenistan, Syria, Triều Tiên, Việt Nam." ]
1051
140515
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1051
Chữ nôm
[]
1053
623649
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1053
Hello world
[ "Hello world có thể là:", "<templatestyles src=\"Dmbox/styles.css\" />", " Trang này liệt kê những bài viết liên quan đến tiêu đề ." ]
1125
914225
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1125
Heli
[ "Heli là nguyên tố trong bảng tuần hoàn nguyên tố có ký hiệu He và số hiệu nguyên tử bằng 2, nguyên tử khối bằng 4. Tên của nguyên tố này bắt nguồn từ \"Helios\", tên của thần Mặt Trời trong thần thoại Hy Lạp, do nguồn gốc nguyên tố này được tìm thấy trong quang phổ trên Mặt Trời.", "Thuộc tính.", "Heli có điểm sôi thấp nhất trong tất cả các nguyên tố và chỉ có thể đông đặc dưới áp suất rất cao. Nguyên tố này thường thường là khí đơn nguyên tử và về mặt hoá học nó là trơ.", "Sự phổ biến.", "Heli là nguyên tố nhiều thứ hai trong vũ trụ sau hydro. Trong khí quyển Trái Đất, mật độ heli theo thể tích là 5,2 x 10−6 tại mực nước biển và tăng dần đến độ cao 24 km, chủ yếu là do phần lớn heli trong bầu khí quyển Trái Đất đã thoát ra ngoài khoảng không gian vũ trụ vì tỷ trọng thấp và tính trơ của nó. Có một lớp trong bầu khí quyển Trái Đất ở độ cao khoảng 1.000 km mà ở đó heli là chất khí chủ yếu (mặc dù tổng áp suất gây ra là rất nhỏ).", "Heli là nguyên tố phổ biến thứ 71 trong vỏ Trái Đất, chiếm tỷ lệ 8 x 10−9, còn trong nước biển chỉ có 4 x 10−12. Nói chung, nó hình thành từ sự phân rã phóng xạ của các nguyên tố, do vậy người ta có thể tìm thấy heli trong các mỏ khoáng chất chứa urani, thori v.v và trong vài loại nước khoáng cũng như khí phun trào núi lửa. Heli tồn tại trong nhiều loại khí tự nhiên.", "Đồng vị.", "Heli có 9 đồng vị, nhưng chỉ heli-3 và heli-4 là bền. Trong khí quyển Trái Đất, trong một triệu nguyên tử 4He có một nguyên tử 3He. Không giống như các nguyên tử khác, sự phổ biến của các đồng vị heli thay đổi tùy theo nguồn gốc, do các quá trình hình thành khác nhau. Đồng vị phổ biến nhất, heli-4, được tạo ra trên Trái Đất từ phân rã alpha của các nguyên tố phóng xạ nặng hơn; các hạt alpha sinh ra bị ion hóa hoàn toàn thành hạt nhân heli-4. Heli-4 là hạt nhân ổn định bất thường do các nucleon được sắp xếp vào lớp vỏ đầy đủ. Nó cũng được tạo ra với số lượng lớn trong tổng hợp hạt nhân Big Bang.", "Heli-3 có chỉ có mặt trên Trái Đất ở dạng dấu vết; đa số trong đó có từ lúc hình thành Trái Đất, mặc dù một số rơi vào Trái Đất trong bụi vũ trụ. Một lượng vết cũng được tạo ra từ phân rã beta của triti. Các đá trong vỏ Trái Đất có các tỉ lệ đồng vị thay đổi khoảng 1/10, và các tỉ lệ này có thể được dùng để khảo sát nguồn gốc của các đá và thành phần lớp phủ của Trái Đất. 3He phổ biến hơn trong các ngôi sao ở dạng sản phẩm của phản ứng tổng hợp hạt nhân. Do đó trong môi trường liên sao, tỉ lệ 3He so với 4He cao khoảng 100 lần so với trên Trái Đất. Các vật liệu ngoài hành tinh như tầng phong hóa của Mặt Trăng và tiểu hành tinh có heli-3 ở dạng vết, chúng được hình thành từ sự bắn phá của gió Mặt Trời. Bề mặt Mặt Trăng chứa heli-3 với nồng độ 0.01 ppm. Một số người, đầu tiên là Gerald Kulcinski năm 1986, đã đề xuất thám hiểm Mặt Trăng, khai thác lớp phong hóa Mặt Trăng và sử dụng heli-3 trong phản ứng tổng hợp hạt nhân.", "Heli-4 hóa lỏng có thể được làm lạnh ở khoảng 1 kelvin bằng làm lạnh bay hơi trong 1-K pot. Cách làm lạnh tương tự cũng áp dụng cho heli-3, đồng vị này có điểm sôi thấp hơn nên có thể lạnh ở 0,2 kelvin trong tủ lạnh heli-3. Hỗn hợp cân bằng của 3He và 4He lỏng dưới 0,8 K tách thành hai pha không trộn lẫn do sự khác biệt của chúng (chúng tên theo các thống kê lượng tử khác nhau: các nguyên tử heli-4 tuân theo boson trong khi heli-3 tuân theo fermion). Tủ lạnh pha loãng sử dụng tính không hòa trộn này để đạt được nhiệt độ vài milimét.", "Nó có thể tạo ra các đồng vị heli ngoại lai, mà chúng có thể phân rã nhanh chóng thành các chất khác. Đồng vị heli nặng tồn tại ngắn nhất là heli-5 có chu kỳ bán rã 7,6×10–22 giây. Heli-6 phân rã bằng cách phát ra hạt beta và có chu kỳ bán rã 0,8 giây. Heli-7 cũng phát ra hạt beta cũng như tia gamma. Heli- và heli-8 được tạo ra trong các phản ứng hạt nhân nhất định. Heli-6 và heli-8 thể hiện là một nuclear halo. Heli-2 (2 proton, không có neutron) là một đồng vị phóng xạ phân rã bằng phát xạ proton thành proti (hydro), có chu kỳ bán rã 3×10–27 giây.", "Ứng dụng.", "Heli được dùng để đẩy các bóng thám không và khí cầu nhỏ do tỷ trọng riêng nhỏ hơn tỷ trọng của không khí và như chất lỏng làm lạnh cho nam châm siêu dẫn.", "Đồng vị Heli 3 có nhiều trong gió mặt trời nhưng mà phần lớn chúng bị từ trường của Trái Đất đẩy ra. Người ta đang nghiên cứu khai thác Heli-3 trên Mặt Trăng để sử dụng như một nguồn năng lượng rất tiềm năng.", "Làm cho giọng nói trở nên thay đổi (trở nên cao hơn). Do heli nhẹ hơn không khí rất nhiều nên trong khí heli, tốc độ của âm thanh nhanh hơn tới 3 lần trong không khí, lên tới 927 m/s. Khi hít khí heli, trong vòm họng bạn tràn ngập khí ấy. Do đó, tần số giọng nói sẽ biến đổi, tăng lên rất nhiều và tất yếu khiến giọng bạn cao và trong hơn. Tuy nhiên, do hàm lượng khí heli trong bóng bay thấp nên \"giọng nói chipmunk\" chỉ tồn tại trong một thời gian rất ngắn, rồi trở về bình thường.", "Heli được sử dụng làm khí bảo vệ trong hàn kim loại như hàn TIG.", "Heli khi được làm lạnh sẽ sôi rất mạnh.Vào năm 1930,khi người ta hạ nhiệt độ xuống 2⁰K (-271,15⁰C),heli lỏng ngừng sôi và trở thành heli siêu lỏng với những tính chất rất kì lạ.Nó có thể rò qua cốc đựng và đi ngược chiều trọng lực như một chất lỏng không có độ nhớt." ]
1130
4
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1130
VIetnamese Standard Code for Information Interchange
[]
1167
915988
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1167
Từ viết tắt từ chữ đầu
[ "Từ viết tắt từ chữ đầu hay từ cấu tạo là một cách viết tắt dùng các chữ cái đầu tiên của một số từ trong một cụm từ. Tùy theo bao nhiêu từ trong đó bắt đầu với nguyên âm, và tùy theo những quy tắc về cách phát âm thuộc ngôn ngữ của từ đó, lúc thì đọc theo lối ghép âm, và lúc thì đọc nguyên loạt tên chữ. Thông thường, từ viết tắt từ chữ đầu được dùng trong biệt ngữ hay là trong tên các tổ chức để viết tắt những thuật ngữ dài dòng và được dùng nhiều." ]
1183
70124043
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1183
Berkeley Software Distribution
[ "Berkeley Software Distribution (BSD) là một hệ điều hành dẫn xuất từ UNIX được phát hành vào thập niên 1970 từ trường Đại học California tại Berkeley. Tên này cũng được sử dụng cho các bản phân phối sau này.", "Các phiên bản BSD sau này.", "Các hệ điều hành tương tự như Unix (\"Unix-like\") hiện hành được phát triển từ BSD bao gồm:" ]
1184
70124706
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1184
FreeBSD
[ "FreeBSD là một hệ điều hành kiểu Unix được phát triển từ Unix theo nhánh phát triển của BSD dựa trên 386BSD và 4.4BSD. Nó có khả năng chạy trên các bộ vi xử lý tương thích với họ vi xử lý x86 của Intel, cũng như trên các máy DEC Alpha, các bộ xử lý UltraSPARC của Sun Microsystems, các bộ xử lý Itanium (IA-64) và AMD64. Khả năng hỗ trợ cho kiến trúc PowerPC đang được phát triển. FreeBSD thường được đánh giá cao nhờ vào tính tin cậy và mạnh mẽ của nó.", "Lịch sử và quá trình phát triển.", "Quá trình phát triển của FreeBSD được khởi đầu vào tháng 11 năm 1993 bởi Jordan Hubbard, và được phát triển từ mã nguồn của 386BSD. Tuy nhiên, vì một lý do liên quan tới tính pháp lý của các mã nguồn sử dụng trong 386BSD, FreeBSD đã phải xây dựng lại rất nhiều phần trong hệ thống với phiên bản FreeBSD 2.0 phát hành vào tháng 1 năm 1995 sử dụng bản phát hành 4.4BSD-Lite của trường Đại học California tại Berkeley.", "Trong phiên bản mới 8.0, FreeBSD chính thức hỗ trợ ZFS (hệ thống file) và giao diện GSSAPI của NFS phiên bản 3.", "So sánh với Linux.", "Mặc dù có những đặc điểm tương đồng nhưng FreeBSD khác so với Linux:", "Ứng dụng.", "Có nhiều công ty lớn sử dụng FreeBSD cho hệ thống máy chủ:", "Ngoài ra, Nintendo còn sử dụng mã nguồn từ FreeBSD và Android cho Nintendo Switch." ]
1192
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1192
Tháng 4 năm 2004
[ "2004: Tháng 1 - tháng 2 - tháng 3 - tháng 4 - tháng 5 - tháng 6 - tháng 7 - tháng 8 - tháng 9 - tháng 10 - tháng 11 - tháng 12", "Sự kiện theo tháng.", "2004: Tháng 3 - tháng 5" ]
1198
3200
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1198
Khoa học Trái Đất
[ "Khoa học Trái Đất hay Địa học bao gồm tất cả các lĩnh vực khoa học tự nhiên liên quan đến hành tinh Trái Đất. Đây là một nhánh của khoa học liên quan đến sự cấu tạo của Trái Đất và bầu khí quyển của nó. Khoa học Trái Đất nghiên cứu về các đặc điểm vật lý của hành tinh của loài người, từ động đất đến hạt mưa, và từ lũ lụt đến hóa thạch. Khoa học Trái Đất có thể được coi là một nhánh của khoa học vũ trụ, nhưng có lịch sử lâu đời hơn. Khoa học Trái Đất bao gồm bốn nhánh nghiên cứu chính, thạch quyển, thủy quyển, khí quyển, và sinh quyển, mỗi nhánh được chia nhỏ thành các lĩnh vực chuyên biệt hơn.", "Khoa học Trái Đất được tiếp cận bằng cả hai hướng giản lược và toàn diện. Nó cũng bao gồm những nghiên cứu về Trái Đất và các hành tinh lân cận khác trong không gian. Một số nhà khoa học Trái Đất sử dụng tri thức của họ về các hành tinh để định vị và phát triển tài nguyên năng lượng và khoáng sản. Số khác lại nghiên cứu tác động từ hoạt động của con người đến môi trường Trái Đất; từ đó thiết kế những biện pháp bảo vệ hành tinh. Ngoài ra, số còn lại thì đi sâu hơn về nghiên cứu các hiện tượng Trái Đất như núi lửa, động đất, và bão để giúp con người tránh những thảm hoạ tàn khốc của thiên nhiên.", "Khoa học Trái Đất có thể bao gồm các nghiên cứu về địa chất, thạch quyển, và cấu trúc quy mô lớn sâu bên trong lõi Trái Đất, cũng như là bầu khí quyển của Trái Đất, thủy quyển, và sinh quyển. Thông thường, các nhà khoa học Trái Đất sử dụng các công cụ địa lý, niên đại học, vật lý, hoá học, sinh học, và toán học để xây dựng hệ tri thức định lượng về cách Trái Đất vận động và phát triển. Khoa học Trái Đất ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Ví dụ như các nhà khí tượng học nghiên cứu thời tiết và theo dõi các cơn bão nguy hiểm. Các nhà thủy văn học nghiên cứu nước và cảnh báo lũ lụt. Các nhà địa chấn học nghiên cứu động đất và dự đoán nơi nó sẽ diễn ra. Các nhà địa chất nghiên cứu đá và giúp xác định vị trí của các khoáng chất hữu ích. Các nhà khoa học Trái Đất thường làm việc ngoài thực địa như leo núi, khám phá đáy biển, bò qua các hang động hoặc lội trong đầm lầy. Họ đo lường và thu thập các vật mẫu (như các mẫu đá hoặc nước sông), sau đó họ ghi chép lại phát hiện của họ trên các biểu đồ và bản đồ.", "Các lĩnh vực nghiên cứu.", "Khoa học Trái Đất thường được phân loại thành những lĩnh vực sau đây:", "Cấu tạo bên trong Trái Đất.", "Kiến tạo mảng, sự tạo núi, núi lửa và động đất là những hiện tượng địa chất có thể được giải thích dưới dạng các quá trình vật lý và hóa học trong lớp vỏ Trái Đất. ", "Bên dưới lớp vỏ Trái Đất là quyển manti hấp thụ nhiệt năng từ sự phóng xạ của các nguyên tố kim loại nặng. Lớp quyển manti không hoàn toàn rắn chắc và bao gồm các magma ở trạng thái đối lưu bán vĩnh viễn convection. Quá trình đối lưu này làm cho các tấm thạch quyển di chuyển, mặc dù chậm. Kết quả của quá trình này được gọi là kiến tạo mảng.", "Kiến tạo mảng có thể được coi là quá trình bề mặt Trái Đất được tái tao lại). Do kết quả của sự mở rộng đáy biển, lớp vỏ và thạch quyển mới được tạo ra bởi dòng chảy magma từ quyển manti đến khu vực gần bề mặt, thông qua các khe nứt, nơi nó nguội đi và đông cứng lại. Thông qua sự/đối hút chìm, lớp vỏ đại dương và thạch quyển quay trở lại quyển manti đối lưu.", "Các khu vực của lớp vỏ Trái Đất (nơi lớp vỏ mới được tạo ra) được gọi là \" ranh giới phân kỳ \", còn khu vực vỏ bị mất đi hay bị húy chìm vào lòng Trái Đất gọi là \"]]ranh giới hội tụ]]\" và những nơi mà các mảng trượt qua nhau gọi là ranh giới chuyển dạng, tại ranh giới chuyển dạng này không có vật liệu thạch quyển mới nào được tạo ra hoặc phá hủy Động đất là kết quả của sự di chuyển của các mảng thạch quyển, và chúng thường xảy ra gần các ranh giới hội tụ, nơi các phần của lớp vỏ bị ép vào Trái Đất như một phần của sự hút chìm..", "Núi lửa kết quả chủ yếu từ sự tan chảy của vật chất vỏ chìm. Vật chất vỏ bị ép vào thiên thạch tan chảy, và một phần vật chất nóng chảy trở nên đủ nhẹ để nổi lên bề mặt—và sinh ra núi lửa.", "Bầu khí quyển của Trái Đất.", "Tầng đối lưu, tầng bình lưu, tầng trung lưu, tầng ngoài khí quyển, và tầng ngoài vũ trụ là năm lớp tạo nên bầu khí quyển của Trái Đất. 75% khí trong khí quyển nằm trong tầng đối lưu (lớp nằm gần bề mặt Trái Đất nhất). Nhìn chung, bầu khí quyển được tạo thành từ khoảng 78,0% nitơ, 20,9% oxy, and 0,92% argon. Ngoài nitơ, oxy và argon còn có một lượng nhỏ các loại khí khác bao gồm CO2 và hơi nước. Hơi nước và CO2 cho phép khí quyển Trái Đất bắt và giữ năng lượng của Mặt Trời thông qua một hiện tượng gọi là hiệu ứng nhà kính. Điều này cho phép bề mặt Trái Đất đủ ấm để có nước và hỗ trợ sự sống. Ngoài việc lưu trữ nhiệt, bầu khí quyển còn bảo vệ các sinh vật sống bằng cách che chắn bề mặt Trái Đất khỏi các tia vũ trụ — thường được cho là không chính xác và bị làm chệch hướng bởi từ trường. Trường từ trường — được tạo ra bởi các chuyển động bên trong của lõi, tạo ra từ quyển bảo vệ bầu khí quyển của Trái Đất khỏi gió mặt trời. Vì Trái Đất đã 4,5 tỉ tuổi, nó đáng lẽ đã mất hết bầu khí quyển nếu không có từ trường bảo vệ.", "Từ trường Trái Đất.", "Nam châm điện là nam châm được tạo ra bởi một dòng điện. Lõi trong của Trái Đất là một khối sắt đặc, được bao quanh bởi lõi ngoài là một dòng chất lỏng đối lưu; Do đó, có thể nói, Trái Đất là một nam châm điện. Chuyển động của sự đối lưu chất lỏng duy trì từ trường của Trái Đất..", "Phương pháp luận.", "Phương pháp luận khác nhau tùy thuộc vào bản chất của các đối tượng được nghiên cứu. Các nghiên cứu thường rơi vào một trong ba loại: quan sát, thực nghiệm hoặc lý thuyết. Các nhà khoa học Trái Đất thường tiến hành phân tích máy tính tinh vi hoặc ghé thăm một địa điểm thú vị để nghiên cứu các hiện tượng Trái Đất (ví dụ: Nam Cực hoặc chuỗi đảo điểm nóng (địa chất)).", "Một lý tưởng nền tảng trong khoa học Trái Đất là khái niệm về chủ nghĩa đồng nhất, khẳng địng rằng \" các đặc điểm địa chất cổ đại được giải thích bằng cách hiểu các quá trình hoạt động dễ dàng quan sát.\"#đổi Nói cách khác, bất kỳ quá trình địa chất nào đang hoạt động hiện nay đều hoạt động những cách tương tự trong suốt thời gian địa chất. Điều này cho phép những người nghiên cứu lịch sử Trái Đất áp dụng kiến thức về cách các quá trình Trái Đất hoạt động trong hiện tại để hiểu rõ hơn về cách hành tinh này tiến hoá và thay đổi qua lịch sử lâu dài.", "Các quyển của Trái Đất.", "Khoa học Trái Đất thường chia thành bốn phạm vi, thạch quyển, thủy quyển, khí quyển, và sinh quyển; chúng tương ứng với Đá (địa chất), nước, không khí và sự sống. Nó cũng bao gồm một số băng quyển (tương ứng với băng) như là một phần riêng biệt của thủy quyển và tầng sinh quyển (tương ứng với đất) như một khu vực hoạt động tích cực và xen kẽ.", "– Phần lớp đá của Trái Đất (hay thạch quyển) bao gồm phần nhân, lớp phủ trung gian (độ sâu 35-2900 km) và lớp vỏ (độ sâu 0-35 km, dao động tùy theo từng chỗ, có thể từ 5-70 km). Các nhánh chính bao gồm khoáng vật học, thạch học, địa hóa học, cổ sinh vật học, địa tầng học, địa chất cấu tạo, kỹ thuật địa chất và trầm tích học.", "– Các đại dương và nguồn nước ngọt của phần nước trên Trái Đất (hay thủy quyển). Các nhánh chính là Hải dương học: lý hải dương học, hóa hải dương học và sinh hải dương học.", "– Phần chứa khí của Trái Đất (hay khí quyển).", "– Phần chứa băng của Trái Đất (hay băng quyển học)", "Các quyển Trái Đất.", "Băng quyển học.", "Tuy nhiên, có một loạt các tác động tương hỗ giữa các lĩnh vực này. Rất nhiều các lĩnh vực hiện đại có cách tiếp cận đa ngành và do đó không phù hợp với sơ đồ này.", "Các lĩnh vực đa ngành.", "Ngoài ra, các chuyên ngành hiện đại khác được biết chung như là Khoa học hệ thống Trái Đất tiếp cận tới toàn bộ Trái Đất như là một hệ thống theo đúng nghĩa của nó, mà nó tiến hóa như là kết quả của các tác động tích cực và tiêu cực giữa các hệ thống hợp thành:", "Giống như các nhà khoa học khác, các nhà khoa học về Trái Đất sử dụng các phương pháp khoa học: cố gắng đưa ra công thức cho các giả thuyết sau khi quan sát và thu thập dữ liệu về các yếu tố tự nhiên và sau đó kiểm tra các giả thuyết này. Trong khoa học về Trái Đất, dữ liệu thông thường đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc kiểm tra và chứng minh các giả thuyết. Việc tiếp cận hệ thống, bằng cách sử dụng tổ hợp của các mô hình máy tính cũng như kiểm tra giả thuyết bởi các dữ liệu vệ tinh hay dữ liệu của các tàu khoa học, đã tăng thêm khả năng để các nhà khoa học có thể giải thích các biến đổi trong quá khứ và trong tương lai có thể xảy ra của hệ thống Trái Đất.", "Một phần danh sách các lĩnh vực chủ yếu.", "<templatestyles src=\"Div col/styles.css\"/> " ]
1200
309098
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1200
Việt ngữ (định hướng)
[ "Việt ngữ có thể đề cập đến:", "<templatestyles src=\"Dmbox/styles.css\" />", " Trang này liệt kê những bài viết liên quan đến tiêu đề ." ]
1205
255
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1205
Khoa học về đất
[]
1210
3399
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1210
Khoa học về trái đất
[]
1214
447093
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1214
PHP
[ "PHP: Hypertext Preprocessor, thường được viết tắt thành PHP là một ngôn ngữ lập trình kịch bản hay một loại mã lệnh chủ yếu được dùng để phát triển các ứng dụng viết cho máy chủ, mã nguồn mở, dùng cho mục đích tổng quát. Nó rất thích hợp với web và có thể dễ dàng nhúng vào trang HTML. Do được tối ưu hóa cho các ứng dụng web, tốc độ nhanh, nhỏ gọn, cú pháp giống C và Java, dễ học và thời gian xây dựng sản phẩm tương đối ngắn hơn so với các ngôn ngữ khác nên PHP đã nhanh chóng trở thành một ngôn ngữ lập trình web phổ biến nhất thế giới.", "Ngôn ngữ, các thư viện, tài liệu gốc của PHP được xây dựng bởi cộng đồng và có sự đóng góp rất lớn của Zend Inc., công ty do các nhà phát triển cốt lõi của PHP lập nên nhằm tạo ra một môi trường chuyên nghiệp để đưa PHP phát triển ở quy mô doanh nghiệp.", "Lịch sử phát triển.", "PHP/FI.", "PHP được phát triển từ một sản phẩm có tên là PHP/FI. PHP/FI do Rasmus Lerdorf tạo ra năm 1994, ban đầu được xem như là một tập con đơn giản của các mã kịch bản Perl để theo dõi tình hình truy cập đến bản sơ yếu lý lịch của ông trên mạng. Ông đã đặt tên cho bộ mã kịch bản này là 'Personal Home Page Tools'. Khi cần đến các chức năng rộng hơn, Rasmus đã viết ra một bộ thực thi bằng C lớn hơn để có thể truy vấn tới các cơ sở dữ liệu và giúp cho người sử dụng phát triển các ứng dụng web đơn giản. Rasmus đã quyết định công bố mã nguồn của PHP/FI cho mọi người xem, sử dụng cũng như sửa các lỗi có trong nó đồng thời cải tiến mã nguồn.", "PHP/FI, viết tắt từ \"Personal Home Page/Forms Interpreter\", bao gồm một số các chức năng cơ bản cho PHP như ta đã biết đến chúng ngày nay. Nó có các biến kiểu như Perl, thông dịch tự động các biến của form và cú pháp HTML nhúng. Cú pháp này giống như của Perl, mặc dù hạn chế hơn nhiều, đơn giản và có phần thiếu nhất quán.", "Vào năm 1997, PHP/FI 2.0, lần viết lại thứ hai của phiên bản C, đã thu hút được hàng ngàn người sử dụng trên toàn thế giới với xấp xỉ 50.000 tên miền đã được ghi nhận là có cài đặt nó, chiếm khoảng 1% số tên miền có trên mạng Internet. Tuy đã có tới hàng nghìn người tham gia đóng góp vào việc tu chỉnh mã nguồn của dự án này thì vào thời đó nó vẫn chủ yếu chỉ là dự án của một người.", "PHP/FI 2.0 được chính thức công bố vào tháng 11 năm 1997, sau một thời gian khá dài chỉ được công bố dưới dạng các bản beta. Nhưng không lâu sau đó, nó đã được thay thế bởi các bản alpha đầu tiên của PHP 3.0.", "PHP 3.", "PHP 3.0 là phiên bản đầu tiên cho chúng ta thấy một hình ảnh gần gũi với các phiên bản PHP mà chúng ta được biết ngày nay. Nó đã được Andi Gutmans và Zeev Suraski tạo ra năm 1997 sau khi viết lại hoàn toàn bộ mã nguồn trước đó. Lý do chính mà họ đã tạo ra phiên bản này là do họ nhận thấy PHP/FI 2.0 hết sức yếu kém trong việc phát triển các ứng dụng thương mại điện tử mà họ đang xúc tiến trong một dự án của trường đại học. Trong một nỗ lực hợp tác và bắt đầu xây dựng dựa trên cơ sở người dùng đã có của PHP/FI, Andi, Rasmus và Zeev đã quyết định hợp tác và công bố PHP 3.0 như là phiên bản thế hệ kế tiếp của PHP/FI 2.0, và chấm dứt phát triển PHP/FI 2.0.", "Một trong những sức mạnh lớn nhất của PHP 3.0 là các tính năng mở rộng mạnh mẽ của nó. Ngoài khả năng cung cấp cho người dùng cuối một cơ sở hạ tầng chặt chẽ dùng cho nhiều cơ sở dữ liệu, giao thức và API khác nhau, các tính năng mở rộng của PHP 3.0 đã thu hút rất nhiều nhà phát triển tham gia và đề xuất các mô đun mở rộng mới. Hoàn toàn có thể kết luận được rằng đây chính là điểm mấu chốt dẫn đến thành công vang dội của PHP 3.0. Các tính năng khác được giới thiệu trong PHP 3.0 gồm có hỗ trợ cú pháp hướng đối tượng và nhiều cú pháp ngôn ngữ nhất quán khác.", "Ngôn ngữ hoàn toàn mới đã được công bố dưới một cái tên mới, xóa bỏ mối liên hệ với việc sử dụng vào mục đích cá nhân hạn hẹp mà cái tên PHP/FI 2.0 gợi nhắc. Nó đã được đặt tên ngắn gọn là 'PHP', một kiểu viết tắt hồi quy của \"PHP: Hypertext Preprocessor\".", "Vào cuối năm 1998, PHP đã phát triển được con số cài đặt lên tới hàng chục ngàn người sử dụng và hàng chục ngàn Web site báo cáo là đã cài nó. Vào thời kì đỉnh cao, PHP 3.0 đã được cài đặt cho xấp xỉ 10% số máy chủ Web có trên mạng Internet.", "PHP 3.0 đã chính thức được công bố vào tháng 6 năm 1998, sau thời gian 9 tháng được cộng đồng kiểm nghiệm.", "PHP 4.", "Vào mùa đông năm 1998, ngay sau khi PHP 3.0 chính thức được công bố, Andi Gutmans và Zeev Suraski đã bắt đầu bắt tay vào việc viết lại phần lõi của PHP. Mục đích thiết kế là nhằm cải tiến tốc độ xử lý các ứng dụng phức tạp, và cải tiến tính mô đun của cơ sở mã PHP. Những ứng dụng như vậy đã chạy được trên PHP 3.0 dựa trên các tính năng mới và sự hỗ trợ khá nhiều các cơ sở dữ liệu và API của bên thứ ba, nhưng PHP 3.0 đã không được thiết kế để xử lý các ứng dụng phức tạp như thế này một cách có hiệu quả.", "Một động cơ mới, có tên 'Zend Engine' (ghép từ các chữ đầu trong tên của Zeev và Andi), đã đáp ứng được các nhu cầu thiết kế này một cách thành công, và lần đầu tiên được giới thiệu vào giữa năm 1999. PHP 4.0, dựa trên động cơ này, và đi kèm với hàng loạt các tính năng mới bổ sung, đã chính thức được công bố vào tháng 5 năm 2000, gần 2 năm sau khi bản PHP 3.0 ra đời. Ngoài tốc độ xử lý được cải thiện rất nhiều, PHP 4.0 đem đến các tính năng chủ yếu khác gồm có sự hỗ trợ nhiều máy chủ Web hơn, hỗ trợ phiên làm việc HTTP, tạo bộ đệm thông tin đầu ra, nhiều cách xử lý thông tin người sử dụng nhập vào bảo mật hơn và cung cấp một vài các cấu trúc ngôn ngữ mới.", "Với PHP 4, số nhà phát triển dùng PHP đã lên đến hàng trăm nghìn và hàng triệu site đã công bố cài đặt PHP, chiếm khoảng 20% số tên miền trên mạng Internet.", "Nhóm phát triển PHP cũng đã lên tới con số hàng nghìn người và nhiều nghìn người khác tham gia vào các dự án có liên quan đến PHP như PEAR, PECL và tài liệu kĩ thuật cho PHP.", "PHP 5.", "Sự thành công hết sức to lớn của PHP 4.0 đã không làm cho nhóm phát triển PHP tự mãn. Cộng đồng PHP đã nhanh chóng giúp họ nhận ra những yếu kém của PHP 4 đặc biệt với khả năng hỗ trợ lập trình hướng đối tượng (OOP), xử lý XML, không hỗ trợ giao thức máy khách mới của MySQL 4.1 và 5.0, hỗ trợ dịch vụ web yếu. Những điểm này chính là mục đích để Zeev và Andi viết Zend Engine 2.0, lõi của PHP 5.0. Một thảo luận trên Slashdot đã cho thấy việc phát triển PHP 5.0 có thể đã bắt đầu vào thời điểm tháng 12 năm 2002 nhưng những bài phỏng vấn Zeev liên quan đến phiên bản này thì đã có mặt trên mạng Internet vào khoảng tháng 7 năm 2002. Ngày 29 tháng 6 năm 2003, PHP 5 Beta 1 đã chính thức được công bố để cộng đồng kiểm nghiệm. Đó cũng là phiên bản đầu tiên của Zend Engine 2.0. Phiên bản Beta 2 sau đó đã ra mắt vào tháng 10 năm 2003 với sự xuất hiện của hai tính năng rất được chờ đợi: Iterators, Reflection nhưng namespaces một tính năng gây tranh cãi khác đã bị loại khỏi mã nguồn. Ngày 21 tháng 12 năm 2003: PHP 5 Beta 3 đã được công bố để kiểm tra với việc phân phối kèm với Tidy, bỏ hỗ trợ Windows 95, khả năng gọi các hàm PHP bên trong XSLT, sửa chữa nhiều lỗi và thêm khá nhiều hàm mới. PHP năm bản chính thức đã ra mắt ngày 13 tháng 7 năm 2004 sau một chuỗi khá dài các bản kiểm tra thử bao gồm Beta 4, RC 1, RC2, RC3. Mặc dù coi đây là phiên bản sản xuất đầu tiên nhưng PHP 5.0 vẫn còn một số lỗi trong đó đáng kể là lỗi xác thực HTTP.", "Ngày 14 tháng 7 năm 2005, PHP 5.1 Beta 3 được PHP Team công bố đánh dấu sự chín muồi mới của PHP với sự có mặt của PDO, một nỗ lực trong việc tạo ra một hệ thống API nhất quán trong việc truy cập cơ sở dữ liệu và thực hiện các câu truy vấn. Ngoài ra, trong PHP 5.1, các nhà phát triển PHP tiếp tục có những cải tiến trong nhân Zend Engine 2, nâng cấp mô đun PCRE lên bản PCRE 5.0 cùng những tính năng và cải tiến mới trong SOAP, streams và SPL.", "PHP 6.", "Phiên bản PHP 6 được kỳ vọng sẽ lấp đầy những khiếm khuyết của PHP ở phiên bản hiện tại, ví dụ: hỗ trợ namespace; hỗ trợ Unicode; sử dụng PDO làm API chuẩn cho việc truy cập cơ sở dữ liệu, các API cũ sẽ bị đưa ra thành thư viện PECL... Phiên bản 6 này chỉ dùng ở việc nghiên cứu và thử nghiệm. Sau này PHP bỏ hẳn phiên bản 6 và lên 7.", "PHP 7.", "Với việc sử dụng bộ nhân Zend Engine mới PHPNG cho tốc độ nhanh gấp 2 lần. Ngoài ra ở phiên bản này còn thêm vào rất nhiều cú pháp, tính năng mới giúp cho PHP trở nên mạnh mẽ hơn. Những tính năng mới quan trọng có thể kể đến như:", "Cú pháp.", "PHP chỉ phân tích các đoạn mã nằm trong những dấu giới hạn của nó. Bất cứ mã nào nằm ngoài những dấu giới hạn đều được xuất ra trực tiếp không thông qua xử lý bởi PHP. Các dấu giới hạn thường dùng nhất là codice_1 và codice_2, tương ứng với dấu giới hạn mở và đóng. Các dấu giới hạn codice_3 và codice_4 cũng đôi khi được sử dụng. Cách viết dấu giới hạn dạng thẻ ngắn cũng có thể được dùng để thông báo bắt đầu đoạn mã PHP, là codice_5 hay codice_6 (dấu này được sử dụng để in ra (echo) các xâu ký tự hay biến) với thẻ thông báo kết thúc đoạn mã PHP là codice_2. Những thẻ này thường xuyên được sử dụng, tuy nhiên giống với những thẻ kiểu ASP (codice_8 hay codice_9 và codice_10), chúng không có tính di động cao bởi có thể bị vô hiệu khi cấu hình PHP. Bởi vậy, việc dùng các thẻ dạng ngăn hay các thẻ kiểu ASP không được khuyến khích. Mục đích của những dấu giới hạn này là ngăn cách mã PHP với những đoạn mã thuộc ngôn ngữ khác, gồm cả HTML. Mọi đoạn mã bên ngoài các dấu này đều bị hệ thống phân tích bỏ qua và được xuất ra một cách trực tiếp.", "Các biến được xác định bằng cách thêm vào trước một dấu đô la (\"$\") và không cần xác định trước kiểu dữ liệu. Không giống với tên hàm và lớp, tên biến là trường hợp nhạy cảm. Cả dấu ngoặc kép (codice_11) và ký hiệu đánh dấu văn bản (codice_12) đều có thể dùng để truyền xâu và giá trị biến. PHP coi xuống dòng như một khoảng trắng theo kiểu như một ngôn ngữ dạng tự do (\"free-form language\") (trừ khi nó nằm trong trích dẫn xâu), và các phát biểu được kết thúc bởi một dấu chấm phẩy. PHP có ba kiểu cú pháp chú thích: codice_13 cho phép một đoạn chú thích tùy ý, trong khi đó codice_14 và codice_15 cho phép chú thích trong phạm vi một dòng. Phát biểu echo là một trong những lệnh của PHP cho phép xuất văn bản (vd. ra một trình duyệt web).", "Về cú pháp các từ khóa và ngôn ngữ, PHP tương tự hầu hết các ngôn ngữ lập trình bậc cao có cú pháp kiểu C. Các phát biểu điều kiện codice_16 (\"Nếu\"), vòng lặp codice_17 và codice_18, các hàm trả về đều tương tự cú pháp của các ngôn ngữ như C, C++, Java và Perl.", "Kiểu dữ liệu.", "Kiểu dữ liệu nguyên thủy.", "Kiểu số nguyên(int), chuỗi ký tự(string),kiểu số thực(float, double)...", "Kiểu dữ liệu có cấu trúc.", "Kiểu class." ]
1217
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1217
Wiki
[ "Wiki (phát âm: ; từ tiếng Hawaii: \"wikiwiki\", có nghĩa: \"nhanh\"; cũng được gọi là công trình mở) là một loại ứng dụng xây dựng và quản lý các trang thông tin do nhiều người cùng phát triển. Đặc điểm nổi bật của wiki là thông tin không được xây dựng một cách tập trung theo nguyên tắc \"phân quyền\" như thường thấy ở các ứng dụng CMS hay forum mà theo nguyên tắc \"phân tán\": ai cũng có thể chỉnh sửa, thêm mới, bổ sung thông tin lên các trang tin và không ghi lại dấu ấn là ai đã cung cấp thông tin đó. Tác giả của wiki theo triết lý của những người đã xây dựng phần mềm wiki là: tác giả của thông tin này là chúng ta. Những trang tin như vậy được xây dựng và bổ sung dựa trên động lực của cộng đồng.", "Wiki là một website có tính chất riêng tư cho một nhóm hoặc tổ chức, cộng đồng. Không giống như một website truyền thống chỉ phục vụ cho mục đích đọc, xem thông tin, wiki cho phép người dùng nó có thể soạn thảo, sửa đổi, cập nhật thông tin trực tiếp lên web theo kiểu đóng góp thông tin. Điểm đáng chú ý của wiki là người dùng không nhất thiết phải biết về Web, HTML.", "Wikipedia, một dự án để xây dựng bách khoa toàn thư mở, có lẽ là wiki nổi tiếng nhất trên thế giới, nhưng cũng có thể sử dụng hình thức wiki theo nhiều mục đích khác.", "Lịch sử.", "Phần mềm đầu tiên được gọi là wiki, WikiWikiWeb do Ward Cunningham đặt tên. Cunningham nhớ một nhân viên tại Sân bay quốc tế Honolulu chỉ ông sử dụng tuyến xe buýt Chance RT-52 gọi là \"Wiki Wiki\". Theo Cunningham, \"Tôi chọn wiki-wiki là cụm từ điệp âm thay thế cho 'quick' để tránh vụ đặt tên cái này là 'quick-web'.\" \"Wiki Wiki\" là từ láy của \"wiki\", từ tiếng Hawaii có nghĩa \"nhanh\". Từ \"wiki\" gọi tắt cho wiki wiki. Đôi khi từ này được giải thích là từ cấu tạo ngược (\"backronym\") của \"cái mà tôi biết là như thế\" (\"what I know is\"), cách giải thích đó miêu tả các chức năng đóng góp, lưu giữ và trao đổi kiến thức.", "Theo Cunningham, ý kiến \"wiki\" bắt nguồn từ một ngăn xếp ông tạo ra trong HyperCard vào cuối thập niên 1980. Vào khoảng mười năm sau, công nghệ wiki từ từ được công nhận là một cách đầy hứa hẹn để quản lý tri thức bí mật và công khai và khả năng này dẫn đến dự án bách khoa thư Nupedia, về sau trở thành Wikipedia. Vào đầu thập niên 2000, công nghệ wiki được nhận vào hãng trong vai phần mềm cộng tác. Nó thường được sử dụng để hỗ trợ giao thông trong dự án, xây dựng intranet, và viết tài liệu, mới đầu cho những người quen sử dụng máy tính. Vào tháng 12 năm 2002, Socialtext khởi đầu sản phẩm wiki nguồn mở thương mại. Phần mềm wiki nguồn mở có sẵn rộng rãi, được tải xuống và cài đặt nhiều vào những năm này. Ngày nay một số công ty sử dụng wiki như phần mềm cộng tác duy nhất và để thay cho intranet khó thay đổi. Phần mềm wiki có thể được sử dụng nhiều hơn ở những công ty, đằng sau bức tường lửa, đối với Internet công cộng.", "Các tính năng của một Wiki.", "Chỉnh sửa.", "\"\"Wikitext\" chuyển hướng đến đây. Đối với trang trợ giúp Wikipedia, xem Trợ giúp:Wikitext .\"", "Chỉnh sửa trực quan (Visual Editor).", "Wiki cũng có thể cung cấp khả năng chỉnh sửa WYSIWYG cho người dùng, thường là thông qua một điều khiển JavaScript dịch các hướng dẫn định dạng được nhập bằng đồ họa thành các thẻ HTML hoặc wikitext tương ứng. Trong các triển khai đó, đánh dấu của một phiên bản đánh dấu, mới được chỉnh sửa của trang được tạo và gửi tới máy chủ một cách minh bạch , bảo vệ người dùng khỏi chi tiết kỹ thuật này. Một ví dụ về điều này là VisualEditor trên Wikipedia. Tuy nhiên, các điều khiển WYSIWYG không phải lúc nào cũng cung cấp tất cả các tính năng có sẵn trong wiki và một số người dùng không muốn sử dụng trình soạn thảo WYSIWYG. Do đó, nhiều trang trong số này cung cấp một số phương tiện để chỉnh sửa trực tiếp văn bản wiki.", "Lịch sử phiên bản.", "Một số wiki lưu giữ hồ sơ về những thay đổi được thực hiện đối với các trang wiki; thông thường, mọi phiên bản của trang đều được lưu trữ. Điều này có nghĩa là các tác giả có thể hoàn nguyên về phiên bản cũ hơn của trang nếu cần thiết do đã mắc lỗi, chẳng hạn như nội dung vô tình bị xóa hoặc trang đã bị phá hoại để bao gồm văn bản gây khó chịu hoặc độc hại hoặc nội dung không phù hợp khác.", "Điều Hướng.", "Trong văn bản của hầu hết các trang, thường có nhiều liên kết siêu văn bản tới các trang khác trong wiki. Hình thức điều hướng phi tuyến tính này \"gốc\" đối với wiki hơn là các sơ đồ điều hướng có cấu trúc/chính thức hóa. Người dùng cũng có thể tạo bất kỳ số lượng trang chỉ mục hoặc mục lục nào, với phân loại theo thứ bậc hoặc bất kỳ hình thức tổ chức nào họ muốn. Đây có thể là một thách thức để duy trì \"bằng tay\", vì nhiều tác giả và người dùng có thể tạo và xóa các trang theo cách đặc biệt , không có tổ chức. Wiki có thể cung cấp một hoặc nhiều cách để phân loại hoặc gắn thẻ các trang để hỗ trợ duy trì các trang chỉ mục đó. Một số wiki, bao gồm cả bản gốc, có một liên kết ngược tính năng, hiển thị tất cả các trang liên kết đến một trang nhất định. Thông thường, trong wiki cũng có thể tạo liên kết đến các trang chưa tồn tại, như một cách để mời những người khác chia sẻ những gì họ biết về một chủ đề mới đối với wiki. Người dùng wiki thường có thể \"gắn thẻ\" các trang bằng danh mục hoặc từ khóa để giúp người dùng khác tìm thấy bài viết dễ dàng hơn. Ví dụ: một người dùng tạo một bài viết mới về đạp xe trong thời tiết lạnh có thể \"gắn thẻ\" trang này dưới các danh mục đi lại, thể thao mùa đông và đi xe đạp. Điều này sẽ giúp những người dùng khác tìm thấy bài viết dễ dàng hơn.", "Tạo một website Wiki.", "Một website tương tự Wikipedia có thể được tạo bởi mã nguồn mở MediaWiki. Mã nguồn mở MediaWiki được viết bằng ngôn ngữ lập trình PHP và được dùng phổ biến bởi các website viết theo hình thức Wiki như các website của Wikimedia, website wiki du lịch Wikitravel, website wiki thương mại Wikibiz...", "Để sử dụng MediaWiki, có thể truy cập vào website MediaWiki, sau đó download và cài đặt theo phiên bản ngôn ngữ phù hợp. Các bước hướng dẫn cài đặt rất đơn giản và trực quan.", "Chú thích.", " " ]
1218
859204
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1218
Tiêu chuẩn quốc gia (Việt Nam)
[ "TCVN là viết tắt của cụm từ Tiêu chuẩn Việt Nam, dùng làm ký hiệu tiền tố cho các bộ tiêu chuẩn quốc gia của Việt Nam.", "Các TCVN do Viện Tiêu chuẩn Chất lượng Việt Nam (thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng) và các bộ, ngành tổ chức xây dựng, Bộ Khoa học và Công nghệ công bố.", "Hiện nay đã có hàng nghìn TCVN bao gồm tiêu chuẩn cơ bản, tiêu chuẩn thuật ngữ, tiêu chuẩn yêu cầu kỹ thuật, tiêu chuẩn phương pháp thử và lấy mẫu, tiêu chuẩn ghi nhãn, bao gói, vận chuyển và bảo quản; thuộc các lĩnh vực như cơ khí, luyện kim, giao thông vận tải, xây dựng, hóa chất, dầu khí, khoáng sản, nông nghiệp, thực phẩm, hàng tiêu dùng, môi trường, an toàn, điện, điện tử, công nghệ thông tin...", "Các tiêu chuẩn có ảnh hưởng khá rộng rãi là: TCVN 5712 định nghĩa chuẩn cho bộ mã ABC với cách nhập liệu Telex; TCVN 6909 định nghĩa chuẩn mã hóa tiếng Việt như là một tập con của bộ mã Unicode 3.1; TCVN ISO 9001 (tương đương với ISO 9001) về các yêu cầu đối với hệ thống quản lý chất lượng.", "Ký hiệu tiêu chuẩn quốc gia.", "Ký hiệu tiêu chuẩn quốc gia bao gồm số hiệu, năm công bố tiêu chuẩn đứng sau cụm từ viết tắt TCVN và được phân cách bằng dấu hai chấm (:). Ví dụ: TCVN 4980:2006 là ký hiệu của tiêu chuẩn quốc gia có số hiệu là 4980, được công bố năm 2006.", "Trường hợp tiêu chuẩn quốc gia hoàn toàn tương đương với tiêu chuẩn quốc tế, ký hiệu tiêu chuẩn gồm ký hiệu tiêu chuẩn quốc gia và ký hiệu của tiêu chuẩn quốc tế để trong ngoặc đơn, cách nhau khoảng trống một ký tự. Ví dụ: TCVN 111:2006 (ISO 15:1998).", "Hoặc có thể thể hiện như sau:", "TCVN 111:2006", "ISO 15:1998", "là ký hiệu của tiêu chuẩn quốc gia có số hiệu là 111 được xây dựng trên cơ sở chấp nhận hoàn toàn tiêu chuẩn quốc tế ISO 15:1998 và được công bố năm 2006.", "Trường hợp đặc biệt, khi tiêu chuẩn quốc gia được xây dựng trên cơ sở chấp nhận hoàn toàn tiêu chuẩn quốc tế của Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO) về hệ thống quản lý (ISO 9000, ISO 14000, ISO 18000 và các tiêu chuẩn về hệ thống quản lý khác), ký hiệu tiêu chuẩn quốc gia bao gồm ký hiệu TCVN đứng trước, ký hiệu ISO đứng sau một ký tự, sau đó là số hiệu tiêu chuẩn ISO được chấp nhận và năm ban hành tiêu chuẩn quốc gia được phân cách bằng dấu hai chấm (:).", "Ví dụ: ký hiệu TCVN ISO 14001:2006 là ký hiệu tiêu chuẩn quốc gia được xây dựng trên cơ sở chấp nhận hoàn toàn tiêu chuẩn quốc tế ISO 14001 về hệ thống quản lý môi trường và được công bố vào năm 2006.", "Ký hiệu tiêu chuẩn quốc gia thay thế bao gồm số hiệu của tiêu chuẩn quốc gia được thay thế, năm công bố tiêu chuẩn quốc gia thay thế được phân cách bằng dấu hai chấm (:) và được đặt sau ký hiệu TCVN.", "Ví dụ: TCVN công bố năm 2006 để thay thế TCVN 289:2000 được ký hiện là TCVN 289:2006.", "Ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia.", "Phần lớn các tiêu chuẩn quốc gia của Việt Nam hiện nay được xây dựng theo hình thức sử dụng các ban kỹ thuật.", "Ban kỹ thuật tiêu chuẩn là tổ chức tư vấn kỹ thuật về hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn cụ thể.", "Tiểu ban kỹ thuật tiêu chuẩn là tổ chức trực thuộc ban kỹ thuật tương ứng để triển khai hoạt động trong chuyên ngành hẹp thuộc lĩnh vực tiêu chuẩn của ban kỹ thuật.", "Ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia của Việt Nam do Bộ Khoa học và Công nghệ thành lập.", "Thành viên ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia bao gồm đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức khoa học và công nghệ, hội, hiệp hội, doanh nghiệp, các tổ chức khác có liên quan, người tiêu dùng và các chuyên gia." ]
1219
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1219
Java (công nghệ)
[ "Java là một nền tảng phát triển các ứng dụng phần mềm có vị trí rất lớn trong những năm cuối thế kỉ 20, đầu thế kỉ 21. Đánh dấu sự trưởng thành của mô hình lập trình hướng đối tượng, nó được coi là một nền tảng mang tính cách mạng trong ngành phần mềm. Mô hình máy ảo Virtual Machine đã cho phép các ứng dụng viết bằng Java có thể chạy trên nhiều hệ điều hành khác nhau.", "Lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1992 như là một ngôn ngữ dùng trong nội bộ tập đoàn Sun Microsystems để xây dựng ứng dụng điều khiển các bộ xử lý bên trong máy điện thoại cầm tay, lò vi sóng, các thiết bị điện tử dân dụng khác. Không chỉ là một ngôn ngữ, Java còn là một nền tảng phát triển và triển khai ứng dụng trong đó máy ảo Java, bộ thông dịch có vai trò trung tâm.", "Sun, công ty đã phát minh ra ngôn ngữ Java, chính thức ban hành bản Java Development Kit 1.0 vào năm 1996 hoàn toàn miễn phí để các nhà phát triển có thể tải về, học Java, xây dựng các ứng dụng Java và triển khai chúng trên các hệ điều hành có hỗ trợ Java. Ban đầu, Java chủ yếu dùng để phát triển các applet, các ứng dụng nhúng vào trình duyệt, góp phần làm sinh động các trang web tĩnh vốn hết sức tẻ nhạt hồi đó. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin và nhu cầu của xã hội, Java applet đã dần mất đi vị trí của nó và thay vào đó, các công ty, cộng đồng ủng hộ Java đã phát triển nó theo một hướng khác. Hiện nay, công nghệ Java được chia làm ba bộ phận:", "Gồm các đặc tả, công cụ, API của nhân Java giúp phát triển các ứng dụng trên desktop và định nghĩa các phần thuộc nhân của Java. ", "Gồm các đặc tả, công cụ, API mở rộng J2SE để phát triển các ứng dụng quy mô xí nghiệp, chủ yếu để chạy trên máy chủ (server). Bộ phận hay được nhắc đến nhất của công nghệ này là công nghệ Servlet/JSP: sử dụng Java để làm các ứng dụng web.", "Gồm các đặc tả, công cụ, API mở rộng để phát triển các ứng dụng Java chạy trên điện thoại di động, thẻ thông minh, thiết bị điện tử cầm tay, robo và những ứng dụng điện tử khác", "Java đã trải qua 3 bước phát triển quan trọng: Java 1.0 gắn liền với bản JDK đầu tiên, Java 2 gắn với JDK 1.2 và Java 5 gắn với J2SDK 1.5", "Ngày nay, khi nhắc đến Java người ta không còn chỉ nhắc đến Java như là một ngôn ngữ mà nhắc đến Java như là một công nghệ hay một nền tảng phát triển. Nó bao gồm các bộ phận:", "Trang chủ của công nghệ Java", "Các site thông tin phát triển Java lớn gồm có:", "* JavaWorld.com", "* Java.net", "* JavaRanch.com", "* TheServerSide.com", "* JavaLobby.org ", "Cộng đồng các nhà phát triển Java ở Việt Nam", "Lịch sử phát triển của công nghệ Java " ]
1220
802888
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1220
Tòa án Công lý Quốc tế
[ "Tòa án Quốc tế là cơ quan tư pháp chính của Liên Hợp Quốc. Tòa án Quốc tế có nhiệm vụ xét xử các vụ kiện giữa các nước và tư vấn pháp lý về các vấn đề luật quốc tế. Tòa án Quốc tế là cơ quan tư pháp quốc tế duy nhất xét xử cho các nước. Quyết định và kết luận pháp lý của Tòa án Quốc tế là một phần của luật quốc tế.", "Tòa án Quốc tế được thành lập trên cơ sở kế thừa Tòa án Thường trực Quốc tế của Hội Quốc Liên: Quy chế Tòa án Quốc tế vay mượn nội dung của Quy chế Tòa án Thường trực Quốc tế, tất cả các quyết định của Tòa án Thường trực Quốc tế vẫn còn có hiệu lực. Tất cả các nước thành viên của Liên Hợp Quốc đều là thành viên của Quy chế Tòa án Quốc tế. Một nước thành viên bất kỳ của Liên Hợp Quốc có thể khởi kiện tại Tòa án Quốc tế. Một cơ quan bất kỳ của Liên Hợp Quốc có thể yêu cầu Tòa án Quốc tế ra ý kiến tư vấn về một vấn đề pháp luật bất kỳ.", "Tòa án Quốc tế gồm 15 thẩm phán do Đại hội đồng và Hội đồng Bảo an bầu ra. Nhiệm kỳ của một thẩm phán là chín năm, cứ ba năm bầu lại năm thẩm phán. Không được có hai thẩm phán có quốc tịch của cùng một nước. Phải có đại diện của tất cả các hệ thống pháp luật trên thế giới. Tòa án Quốc tế là cơ quan duy nhất của Liên Hợp Quốc không đặt trụ sở ở Thành phố New York mà ở Den Haag tại Cung Hòa bình. Ngôn ngữ chính thức của Tòa án Quốc tế là tiếng Anh và tiếng Pháp.", "Tòa án Quốc tế đã xét xử 181 vụ kiện từ khi được thành lập tới tháng 9 năm 2021.", "Lịch sử.", "Công ước Den Haag năm 1899 thành lập Tòa án Thường trực Trọng tài làm cơ quan tư pháp quốc tế đầu tiên trên thế giới. Trụ sở của Tòa án đặt ở Den Haag, Hà Lan. Các trọng tài đều do những nước đương sự chọn trong danh sách do các nước thành viên của công ước lập. Tòa án có một ban thư ký giúp việc. Tòa án Thường trực Trọng tài bắt đầu thụ lý vụ kiện vào năm 1902.", "Công ước Den Haag năm 1907 sửa lại thủ tục trọng tài của Tòa án Thường trực Trọng tài. Tại hội nghị, Hoa Kỳ, Anh và Đức cùng đề nghị thành lập một tòa án quốc tế mới có các thẩm phán có nhiệm kỳ cố định, nhưng các bên không nhất trí về cách chọn thẩm phán mà gác đề nghị lại để bàn ở hội nghị sau.", "Năm 1908, Tòa án Trung Mỹ được thành lập, vay mượn ý tưởng của hai công ước Den Haag. Từ năm 1911 tới năm 1919 có những đề nghị thành lập một cơ quan tư pháp quốc tế mà phải tới sau Chiến tranh thế giới thứ nhất mới được thực hiện.", "Tòa án Thường trực Quốc tế.", "Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Khối Đồng Minh thành lập Hội Quốc Liên để giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế. Hiến chương của Hội Quốc Liên quy định thành lập một Tòa án Thường trực Quốc tế có thẩm quyền xét xử các vụ tranh chấp giữa các nước và đưa ra ý kiến tư vấn về một vụ tranh chấp hay vấn đề bất kỳ theo yêu cầu của Hội Quốc Liên.", "Tháng 12 năm 1920, Đại hội đồng Hội Quốc Liên nhất trí thông qua Quy chế Tòa án Thường trực Quốc tế, được đa số nước thành viên phê chuẩn vào năm sau. Quy chế quy định các thẩm phán do Đại hội đồng và Hội chính vụ bầu riêng. Thành phần của TATTQT phải có đại diện của \"các nền văn minh và hệ thống pháp luật chính trên thế giới\". Trụ sở của TATTQT cũng đặt ở Cung Hòa bình.", "Tòa án Thường trực Quốc tế có những điểm đổi mới:", "Tòa án Thường trực Quốc tế không phải là cơ quan của Hội Quốc Liên, nên một nước thành viên Hội Quốc Liên không đương nhiên là thành viên của Quy chế. Ví dụ: Hoa Kỳ không phải là thành viên, tuy đã tích cực thuyết phục thành lập TATTQT. Tuy nhiên, thành phần của TATTQT có nhiều thẩm phán người Mỹ.", "Tòa án Quốc tế.", "Sau năm 1933, Tòa án Thường trực Quốc tế không còn hoạt động tích cực do tình hình căng thẳng trên trường quốc tế và chính sách biệt lập của các nước. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, TATTQT họp lần cuối cùng vào tháng 12 năm 1939, lệnh cuối cùng của TTATTQT là vào tháng 2 năm 1940. Năm 1942, Hoa Kỳ và Anh cùng tuyên bố ủng hộ thành lập hoặc khôi phục một tòa án quốc tế. Năm 1943, một nhóm nhà luật học trên khắp thế giới họp ở Anh để thảo luận vấn đề. Năm 1944, nhóm ra bản báo cáo khuyến nghị rằng:", "Ở Hội nghị Moskva vào năm 1943, bốn nước Đồng Minh chính là Anh, Hoa Kỳ, Trung Hoa Dân quốc và Liên Xô ra bản tuyên bố chung thừa nhận cần phải thành lập một tổ chức quốc tế để giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế, tức Liên Hợp Quốc sau này.", "Ở Hội nghị Dumbarton Oaks vào năm 1944, bốn nước Đồng Minh chính cùng những nước khác chính thức đề nghị thành lập một tổ chức liên chính phủ có một tòa án quốc tế. Tháng 4 năm 1945, 44 nhà luật học trên khắp thế giới họp ở Washington, D.C. để soạn quy chế của Tòa án Quốc tế trên cơ sở quy chế của TATTQT. Ở Hội nghị San Francisco, 50 nước thuộc khối Đồng Minh đồng ý thành lập Liên Hợp Quốc có Tòa án Quốc tế là một cơ quan chính.", "Tháng 10 năm 1945, Tòa án Thường trực Quốc tế giao lại hồ sơ cho Tòa án Quốc tế. Tất cả các thẩm phán đồng loạt từ chức vào ngày 31 tháng 1 năm 1946. Tháng 4 năm 1946, TATTQT chính thức bị giải thể. Vốn là chủ tịch TATTQT, José Gustavo Guerrero được bầu làm chủ tịch đầu tiên của Tòa án Quốc tế.", "Tòa án Quốc tế thụ lý vụ tranh chấp đầu tiên vào tháng 5 năm 1947 giữa Anh và Albania.", "Công tác.", "Tòa án Quốc tế được Hiến chương Liên Hợp Quốc thành lập vào năm 1945 trên cơ sở kế thừa Tòa án Thường trực Quốc tế. Quy chế Tòa án Quốc tế quy định tổ chức, quyền hạn và thủ tục.", "Thành phần.", "Tòa án Quốc tế gồm 15 thẩm phán do Đại hội đồng và Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc bầu ra trong danh sách do Tòa án Thường trực Trọng tài đưa ra. Quy chế Tòa án Quốc tế quy định thủ tục bầu các thẩm phán. Nhiệm kỳ của thẩm phán là chín năm, cứ ba năm bầu lại năm thẩm phán. Trường hợp thẩm phán qua đời thì thường sẽ bầu bổ khuyết thẩm phán mới.", "Không được có hai thẩm phán có cùng một quốc tịch. Điều 9 của Quy chế Tòa án Quốc tế quy định thành phần TAQT phải có \"đại diện của các hình thái văn hóa chủ yếu nhất và các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới\", tức thông luật, dân luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa.", "Có sự thỏa thuận ngầm rằng thành phần của Tòa án Quốc tế sẽ được chia theo các nhóm khu vực: các nước phương Tây có năm thẩm phán, châu Phi có ba thẩm phán (gồm một thẩm phán đại diện cho dân luật Pháp, một thẩm phán đại diện cho thông luật Anh và một thẩm phán đại diện cho Ả Rập), Đông Âu có hai thẩm phán, châu Á có hai thẩm phán, Mỹ Latinh và vùng Caribe có hai thẩm phán. Năm nước thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an gần như luôn có thẩm phán trong TAQT. Ngoại lệ là Trung Quốc không tiến cử thẩm phán từ năm 1967 tới năm 1985 và Anh rút ứng viên thẩm phán vào năm 2017 do không được Đại hội đồng chấp nhận.", "Điều 2 của Quy chế Tòa án Quốc tế quy định các thẩm phán được bầu \"không căn cứ quốc tịch, trong số những người có phẩm chất đạo đức tốt\", có đủ tư cách ở nước họ để giữ chức vụ xét xử cao nhất hoặc là những nhà luật học có uy tín lớn về luật quốc tế. Thẩm phán không được kiêm chức vụ chính trị, hành chính hoặc nghề nghiệp. Thẩm phán không được tham gia xét xử nếu từng làm luật sư cho một trong các bên. Miễn nhiệm một thẩm phán phải được tất cả các thẩm phán khác tán thành.", "Thẩm phán đặc phái.", "Điều 31 của Quy chế Tòa án Quốc tế cho phép các bên tranh chấp cử thêm một thẩm phán để tham gia xét xử. Mục đích của quy định này là khuyến khích các nước thừa nhận thẩm quyền của TAQT bởi vì nước đó có thể cử một người có cùng quan điểm tham gia nghị án. Tuy trái với chức năng tư pháp của TAQT, chế độ thẩm phán đặc phái hiếm khi ảnh hưởng quyết định của TAQT do thẩm phán đặc biệt của các bên thường biểu quyết ngược nhau.", "Ban xét xử.", "Thành phần xét xử của Tòa án Quốc tế thường gồm tất cả 15 thẩm phán. TAQT có quyền thành lập những ban xét xử gồm ít nhất ba thẩm phán. Có hai loại ban xét xử: ban chuyên trách và ban chuyên án. Ban chuyên trách xét xử các vụ tranh chấp thuộc một phạm vi nhất định như lao động, quá cảnh và liên lạc. Ban chuyên án xét xử các vụ tranh chấp đặc biệt.", "Thành phần hiện tại.", "Tính tới ngày 6 tháng 11 năm 2021, thành phần của Tòa án Quốc tế gồm:<ref name=\"GA/12285\"></ref> ", "Thẩm quyền.", "Tất cả 193 nước thành viên Liên Hợp Quốc đương nhiên đều tham gia Quy chế Tòa án Quốc tế. Những nước không phải là thành viên Liên Hợp Quốc có thể tham gia Quy chế TAQT trong trường hợp đặc biệt. Tuy nhiên, tham gia Quy chế TAQT không phải là thừa nhận thẩm quyền của TAQT. Quyền hạn của TAQT gồm xét xử tranh chấp, biện pháp tạm thời và ý kiến tư vấn.", "Xét xử tranh chấp.", "Trong các vụ tranh chấp, quyết định của Tòa án Quốc tế có hiệu lực đối với các bên ở trong vụ tranh chấp. Chỉ pháp nhân nhà nước được tham gia tranh chấp, nhưng nhà nước được thay mặt công dân hoặc tổ chức của nước mình mà nộp đơn tranh chấp.", "Nguyên tắc trọng yếu là Tòa án Quốc tế chỉ được xét xử nếu các bên đã thừa nhận thẩm quyền của TAQT. Theo điều 36 của Quy chế TAQT, TAQT có thẩm quyền trong bốn trường hợp:", "Biện pháp tạm thời.", "Cho đến khi có quyết định cuối cùng, Tòa án Quốc tế có quyền ra các biện pháp tạm thời để bảo đảm quyền lợi của các bên theo điều 41 của Quy chế TAQT.", "Ý kiến tư vấn.", "Tòa án Quốc tế có quyền ra những ý kiến tư vấn theo yêu cầu của những cơ quan Liên Hợp Quốc được Hiến chương LHQ cho phép. Đại hội đồng và Hội đồng Bảo an có quyền yêu cầu TAQT ra ý kiến tư vấn về một vấn đề pháp luật bất kỳ. Những cơ quan khác cần phải có Đại hội đồng cho phép, thường chỉ yêu cầu ý kiến tư vấn về những vấn đề thuộc phạm vi công tác của mình.", "Quan hệ với Hội đồng Bảo an.", "Một nước thành viên LHQ phải tuân theo quyết định của Tòa án Quốc tế trong mọi vụ tranh chấp mà nước ấy là đương sự. Trường hợp nước ấy không chịu tuân thủ thì Hội đồng Bảo an có quyền cưỡng chế chấp hành. Tuy nhiên, nếu nước đương sự là nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an thì nghị quyết cưỡng chế chấp hành có thể bị phủ quyết. Ví dụ: Hoa Kỳ phủ quyết nghị quyết Hội đồng Bảo an yêu cầu Hoa Kỳ ngừng vi phạm chủ quyền của Nicaragua căn cứ quyết định của TAQT.", "Những điều luật quốc tế được áp dụng.", "Tòa án Quốc tế áp dụng các điều ước quốc tế, tập quán quốc tế và nguyên tắc pháp luật chung trong việc xét xử các vụ tranh chấp. Ngoài ra, TAQT được dùng các án lệ và học thuyết của các nhà luật học có chuyên môn cao nhất về luật quốc tế làm tư liệu phụ giúp xác định quy phạm pháp luật. Quyết định của TAQT không phải là án lệ, nhưng TAQT thường dẫn những quyết định của mình.", "Trường hợp các bên đương sự đồng ý thì TAQT được xét xử cho công bằng cho các bên mà không cần phải dẫn pháp luật.", "Thủ tục.", "Tòa án Quốc tế tự ban hành thủ tục.", "Nguyên đơn nộp đơn khởi kiện, ghi rõ cơ sở thẩm quyền của TAQT và lý do yêu cầu của mình là có căn cứ. Bị đơn có thể thừa nhận thẩm quyền của TAQT và nộp đơn riêng.", "Yêu cầu bác đơn sơ bộ.", "Trường hợp bị đơn thấy Tòa án Quốc tế thiếu thẩm quyền thì bị đơn có quyền yêu cầu TAQT bác đơn khởi kiện. Yêu cầu của bị đơn đưa ra các lý do TAQT không nên thụ lý vụ tranh chấp. Ví dụ: vấn đề đưa ra TAQT không phải là vấn đề tư pháp, bị đơn chưa thừa nhận thẩm quyền của TAQT. TAQT xem xét yêu cầu bác đơn khởi kiện của bị đơn và ra quyết định trước khi xem xét đơn khởi kiện của nguyên đơn.", "Nếu TAQT thụ lý vụ tranh chấp thì các bên có quyền yêu cầu TAQT ra các biện pháp tạm thời để bảo đảm quyền lợi của mình đương lúc đợi xét xử.", "Đơn tham gia tranh chấp.", "Trường hợp vụ tranh chấp ảnh hưởng tới quyền lợi của một nước thứ ba thì nước ấy có quyền nộp đơn yêu cầu tham gia tranh chấp làm một bên đương sự. TAQT quyết định đơn của nước thứ ba.", "Quyết định.", "Sau khi nghị án xong, TAQT ra quyết định. Mỗi thẩm phán có quyền nêu ý kiến riêng về quyết định. Quyết định của TAQT là chung thẩm, nhưng các bên có quyền yêu cầu TAQT giải thích phạm vi của quyết định.", "Chỉ trích.", "Tòa án Quốc tế đã bị chỉ trích về thẩm quyền, thủ tục và quyết định. Những ý kiến chỉ trích chính gồm:", "Đọc thêm.", "Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ." ]
1225
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1225
Sun Microsystems
[ "Sun Microsystems, thành lập năm 1983, là một công ty sản xuất phần mềm, bóng bán dẫn và máy tính có trụ sở tại Silicon Valley. Ngày 27 tháng 1 năm 2010, Sun bị hãng Oracle Corporation mua với giá 7,4 tỷ USD, theo một thỏa ước ký ngày 20 tháng 4 năm 2009. Một tháng sau đó, Sun được nhập với Oracle USA để trở thành Oracle America, Inc.", "Các sản phẩm của Sun bao gồm máy tính, các máy chủ và máy trạm chạy trên bộ xử lý SPARC, các hệ điều hành SunOS và Solaris, hệ thống file mạng NFS (network file system), nền tảng Java, và (cùng với AT&T) chuẩn hóa Hệ thống Unix V bản 4. Một số sản phẩm kém thành công hơn có thể kể đến hệ thống cửa sổ NeWS và giao diện đồ họa người sử dụng OpenLook.", "Lịch sử.", "Thiết kế ban đầu của máy trạm UNIX của Sun do nhóm sáng lập gồm bốn sinh viên tốt nghiệp Đại học Stanford ở Palo Alto, California, nghiên cứu ra. Cái tên công ty SUN ban đầu là viết tắt của Stanford University Network (và nó được phản ánh trong biểu trưng chứng khoán của công ty, SUNW). Những người sáng lập bao gồm Vinod Khosla, Scott McNealy, Bill Joy và Andy Bechtolsheim. Trong số này, chỉ còn McNealy và Bechtolsheim là hiện còn ở lại với Sun. Bill Joy đã rời bỏ Sun vào đầu năm 2004.", "Những người có ảnh hưởng lớn ở Sun gồm có những nhân viên ban đầu của Sun John Gilmore, Bill Joy và James Gosling. Bill Joy đã được mời tham gia khi ông đang phát triển BSD ở UC Berkeley dưới quyền điều hành của Ken Thompson. James Gosling và những người đồng sự của ông đã phát triển ngôn ngữ lập trình Java. Cùng với thời gian, Sun đã trở thành một công ty có đẳng cấp thế giới, một tập đoàn hàng đầu của ngành công nghiệp, được nhắc đến với khẩu hiểu rất nổi tiếng \"The Network Is The Computer\". Gần đây nhất, Jon Bosak, một nhân viên của Sun cũng đã lãnh đạo nhóm nghiên cứu phát triển đặc tả XML ở W3C.", "Biểu trưng của Sun, có hình ảnh bốn con chữ xếp vào nhau từ chữ \"sun\", do giáo sư Vaughan Pratt, cũng của Đại học Stanford, thiết kế. Ban đầu biểu trưng này sắp xếp các cạnh của nó theo chiều ngang và đứng nhưng về sau nó được thay đổi với một góc tựa xuống phía dưới.", "Máy tính.", "Sun ban đầu sử dụng họ CPU Motorola 68000 từ Sun 1 đến Sun 3. Chỉ trong một thời gian ngắn khoảng cuối những năm 1980, họ đã bán các máy tính chạy trên Intel 80386, đó là Sun 386i. Sau dòng Sun 4, Sun đã phát triển kiến trúc CPU của riêng hãng, SPARC, vay mượn lại kiến trúc RISC chuẩn của IEEE. Năm 1995, Sun cho ra đời loại CPU 64-bit, đó là UltraSPARC.", "Các hệ điều hành.", "Sun 1 được phân phối với hệ điều hành Unisoft V7 UNIX. Sau này vào năm 1982 Sun cung cấp bản UNIX 4.1BSD tùy biến có tên là SunOS để làm hệ điều hành cho các máy trạm của hãng. Vào năm 1992, cùng với AT&T, hãng này đã tích hợp BSD UNIX và System V thành Solaris, như là một kết quả dựa trên UNIX SVR4.", "Sun cũng nổi tiếng với việc cấp các giấy phép sử dụng dựa trên cộng đồng cho tất cả các sản phẩm công nghệ quan trọng của hãng bao gồm trong đó có một số ấn bản mã nguồn mở. Mặc dù là người đi sau, nhưng hãng này cũng đã đưa Linux trở thành một bộ phận trong chiến lược của hãng – Sun đã và đang phải đối mặt với thời điểm khó khăn khi mà Linux đã bắt đầu gặm nhấm dần dần thị phần máy chủ của hãng. Mặc dù vậy, gần đây Sun đã phát triển hệ thống phần mềm chạy trên desktop dựa trên Linux có tên Java Desktop System (tên mã ban đầu là 'Madhatter') để sử dụng cả trên phần cứng x86 và trên các hệ thống máy tính mạng SunRay của Sun. Hãng này cũng công bố các kế hoạch cung cấp Java Enterprise System (một ngăn xếp thuộc tầng trung gian) của hãng trên Linux, và công bố mở mã nguồn Solaris dưới một dạng nào đó.", "Nền tảng Java.", "Nền tảng Java platform, được phát triển vào đầu những năm 1990 đã được phát triển có chủ đích cho mục tiêu cho phép các chương trình chạy mà không cần quan tâm đến chúng đang chạy trên loại thiết bị nào, đó là linh hồn của khẩu hiệu \"Write once, run everywhere\".", "Nền tảng này gồm có ba phần chính, ngôn ngữ lập trình Java, Máy ảo Java (JVM), và Giao diện lập trình ứng dụng Java (API).", "Ngôn ngữ lập trình Java là một ngôn ngữ lập trình hướng đối tượng. Kể từ khi nó được giới thiệu vào cuối năm 1995, thì nó đã nhanh chóng trở thành ngôn ngữ lập trình phổ biến nhất thế giới.", "Để chạy được (dạng ảo) các chương trình viết bằng Java trên bất cứ một thiết bị nào, các chương trình Java đó được biên dịch ra mã nhị phân. Loại mã này được mọi JVM đọc, mà không có ảnh hưởng gì từ phía môi trường.", "Java API cung cấp một tập hợp phong phú các tác vụ thư viện. Standard Edition của API nhắm vào các máy trạm thông thường, trong khi Enterprise Edition nhằm vào các công ty phần mềm lớn đang chạy các máy chủ ứng dụng cấp xí nghiệp. Micro Edition được sử dụng để xây dựng nên các phần mềm cho các thiết bị có hạn chế về tài nguyên như là các thiết bị di động.", "Bộ ứng dụng văn phòng.", "Sun đã mua StarOffice bằng cách thôn tính công ty phần mềm của Đức StarDivision và công bố nó như là bộ ứng dụng văn phòng OpenOffice.org dưới đồng thời cả giấy phép GNU LGPL lẫn SISSL (Sun Industry Standards Source License). OpenOffice.org, thường được so sánh với Microsoft Office (một người phát ngôn của Microsoft đã tuyên bố là nó có thể sánh được với Office 97), có đủ các phiên bản để chạy trên nhiều nền tảng và được sử dụng rộng rãi trong cộng đồng mã nguồn mở.", "Sản phẩm StarOffice hiện thời là một sản phẩm mã nguồn đóng dựa trên OpenOffice.org. Sự khác biệt chính giữa StarOffice và OpenOffice.org là ở chỗ Sun hỗ trợ nó và được đóng gói tốt cùng với nguồn tài liệu khá dồi dào, số font và mẫu trình bày đa dạng hơn cùng với những tính năng mà Sun bổ sung gồm có hệ từ điển và từ điển từ đồng nghĩa được cải tiến. Trong khi các phiên bản OpenOffice.org được công bố khá thường xuyên thì StarOffice lại tuân thủ một lịch trình công bố bảo thủ hơn để thích hợp hơn với quá trình triển khai ở doanh nghiệp." ]
1227
891443
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1227
OpenOffice.org
[ "OpenOffice.org (OOo) hay gọi tắt là OpenOffice là bộ trình ứng dụng văn phòng miễn phí, mã nguồn mở được xây dựng trên phiên bản StarOffice mã nguồn mở của Sun Microsystems. OpenOffice có thể chạy trên các hệ điều hành Windows (đòi hỏi phải có Java Runtime Environment), MacOS, Solaris và Linux. Phiên bản mới nhất của OpenOffice cho phép đọc/ghi các định dạng file của Microsoft Office khá hoàn hảo.", "Các thành phần cơ bản của OOo:", "Thông tin về giao diện tiếng Việt của OpenOffice.org có tại vi.openoffice.org.", "Thay thế.", "Vào ngày 28 tháng 9 năm 2010, một số thành viên của Dự án OpenOffice.org thành lập một nhóm mới với tên gọi The Document Foundation và công bố một nhánh mới của OpenOffice.org với gọi là LibreOffice. Lý do ra đời LibreOffice vì các thành viên của dự án lo sợ rằng Oracle Corporation, sau khi mua lại Sun Microsystems (hãng tài trợ trước đây của dự án OpenOffice.org) sẽ ngưng việc phát triển OpenOffice.org như họ đã làm với OpenSolaris." ]
1228
41
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1228
OpenOffice
[]
1229
721305
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1229
Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc
[ "Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (tiếng Anh: \"United Nations Development Programme\", viết tắt UNDP) có trụ sở tại Thành phố New York.", "UNDP có mạng lưới phát triển toàn cầu, có mặt tại hơn 166 quốc gia với nhiệm vụ chính là tuyên truyền vận động cho sự đổi mới và là cầu nối giữa các nước với tri thức, kinh nghiệm và nguồn lực để giúp người dân xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Chi phí hoạt động của UNDP được bảo trợ thông qua các khoản viện trợ không bắt buộc từ các cá nhân và các tổ chức trên thế giới.", "Lịch sử.", "UNDP được thành lập ngày 22 tháng 11 năm 1965, là sự hợp nhất của \"Chương trình mở rộng hỗ trợ kỹ thuật\" EPTA (Expanded Programme of Technical Assistance) vốn được thành lập năm 1949, và \"Quỹ đặc biệt\" của Liên Hợp Quốc (UN Special Fund) thành lập năm 1956..", "Sự hợp nhất nhằm tránh trùng lặp hoạt động. EPTA hỗ trợ các khía cạnh kinh tế và chính trị của các nước kém phát triển, trong khi Quỹ đặc biệt là để mở rộng phạm vi hỗ trợ kỹ thuật của Liên Hợp Quốc.", "Năm 1971, UNDP tích hợp đầy đủ của hai tổ chức này.", "Năm 1995, \"Văn phòng Dịch vụ Dự án\" của Liên Hợp Quốc UNOPS (UN Office for Project Services), tách ra thành một tổ chức dịch vụ độc lập với UNDP. UNOPS tiếp quản việc quản lý và thực hiện các chương trình.", "UNDP tại Việt Nam.", "Trọng tâm của UNDP tại Việt Nam là giúp Việt Nam xây dựng và chia sẻ giải pháp cho các thách thức sau đây:", "Đại sứ thiện chí.", "UNDP cùng với các cơ quan khác của LHQ, đã từ lâu tranh thủ các dịch vụ và hỗ trợ của các cá nhân nổi bật làm Đại sứ thiện chí. Sự nổi tiếng của họ sẽ giúp khuếch trương các thông báo cấp thiết và phổ quát của phát triển con người và hợp tác quốc tế, giúp tăng tốc độ đạt được Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Họ nói lên chương trình UNDP về các cơ hội tự lực phát triển và thúc đẩy mọi người hành động vì lợi ích của việc cải thiện cuộc sống của mình và những người đồng bào của họ." ]
1231
630332
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1231
22 tháng 1
[ "22 tháng 1 là ngày thứ 22 của năm theo lịch Gregory. Sau ngày này còn 343 ngày trong năm thường hoặc 344 ngày trong năm nhuận." ]
1232
894948
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1232
Việt Minh
[ "Việt Nam Độc lập Đồng minh (tên chính thức trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương) còn gọi là Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội, gọi tắt là Việt Minh, là liên minh chính trị cánh tả mang danh nghĩa dân tộc chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập ngày 19 tháng 5 năm 1941 với mục đích công khai là \"liên hiệp tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đang cùng nhau đánh đuổi Nhật - Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa\".", "Do Việt Minh được Đảng Cộng sản Việt Nam xem là một mặt trận dân tộc thống nhất ở Việt Nam nên còn được gọi là Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh, Mặt trận Việt Minh. Mặt trận dân tộc thống nhất là mặt trận thống nhất do các dân tộc, các giai cấp, các đảng phái quốc nội kết thành nhằm tiến hành cách mạng dân tộc, chống lại sự xâm lược và áp bức của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân.", "Trước đó, đã có một tổ chức chính trị chống đế quốc của người Việt Nam ở nước ngoài có tên gọi tương tự là Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội, gọi tắt là Việt Minh, được thành lập năm 1936 ở Nam Kinh (Trung Quốc). Theo Hoàng Văn Hoan, Hồ Chí Minh chủ trương lấy danh nghĩa hội này và mời Hồ Học Lãm làm chủ trì để dựa vào mà hoạt động.", "Sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố \"giải tán\", Việt Minh là tổ chức chính trị tham gia bầu cử và nắm chính quyền, là thành viên của Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Hội Liên Việt), sau lại tách ra. Đầu năm 1951 Đảng Cộng sản Đông Dương tái lập với tên gọi Đảng Lao động Việt Nam, Mặt trận Việt Minh sáp nhập với Hội Liên Việt để thành lập Mặt trận Liên Việt, nhưng nhiều người vẫn quen gọi là \"Việt Minh\".", "Trong cuộc chiến chống Pháp, Việt Minh là vũ khí chính trị hiệu quả do Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập nhằm thu hút mọi tầng lớp người dân, kể cả những người Quốc gia và không Cộng sản, tham gia chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Bên cạnh đó, Việt Minh cũng từng xung đột với các nhóm chính trị, xã hội khác như Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, Đại Việt Quốc dân Đảng, Đệ Tứ Quốc tế Cộng sản và các nhóm tôn giáo.", "Thành lập.", "Tháng 10 năm 1940, tại Quế Lâm, Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc lấy danh nghĩa Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội (trước có tên là Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội, do Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần và một số chính trị gia khác thành lập năm 1936), đã mời ông Hồ Học Lãm đứng ra chủ trì để các đảng viên cộng sản Việt Nam tại Trung Quốc có danh nghĩa hợp pháp để hoạt động tại Trung Quốc. Chủ trương này xuất phát từ chỗ Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương (thành lập năm 1939, là tiền thân của Việt Minh sau này) là một tổ chức không phải là cộng sản và người sáng lập của tổ chức này là Hồ Học Lãm có quan hệ tốt với Nguyễn Ái Quốc. Những đảng viên cộng sản Việt Nam giới thiệu với Lý Tề Thâm, Chủ nhiệm Hành dinh khu Tây Nam Trung Hoa Quốc dân Đảng, rằng Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương là tổ chức chính trị lớn bên cạnh Đảng Cộng sản Đông Dương. Đảng Cộng sản Đông Dương có ảnh hưởng trong giai cấp công nhân thành thị còn Mặt trận Phản đế hoạt động chủ yếu trong các tầng lớp trên ở nông thôn. Người đồng sáng lập Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội là Nguyễn Hải Thần tuy không đồng ý với việc Đảng Cộng sản Đông Dương sử dụng danh nghĩa Mặt trận Phản đế để hoạt động vẫn hợp tác với Đảng Cộng sản.", "Trước tình hình Chiến tranh Thế giới thứ hai ngày càng lan rộng và ác liệt, đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc quyết định về nước. Hội nghị cán bộ tỉnh Cao Bằng của Đảng Cộng sản Đông Dương, họp vào cuối tháng 4 năm 1941, dưới sự chủ tọa của Hoàng Văn Thụ và Vũ Anh (Trịnh Đông Hải).", "Sau một thời gian nắm tình hình và chuẩn bị, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5 năm 1941 trong rừng Khuổi Nậm, thuộc Pác Bó, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Hội nghị đã xác định cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng và chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất riêng cho mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Ngoài ra, hội nghị cũng hoàn chỉnh hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, được đề ra từ Hội nghị VI vào tháng 11 năm 1939, là nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, vào ngày 19 tháng 5 năm 1941, Hội nghị quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh, thay cho Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương (thành lập theo Quyết nghị của Hội nghị Trung ương VI - khóa I, tháng 11 năm 1939).", "Sau Hội nghị Trung ương lần thứ VIII bế mạc, một đại hội (ngày 19-5-1941) gồm đại diện đảng Cộng sản và các tổ chức quần chúng thành lập chính thức Việt Minh.", "Ngoài Đảng Cộng sản, trong thời gian đầu có các tổ chức tham gia lần lượt gồm Đảng Cách mệnh An Nam, Việt Nam Quốc dân Cách mệnh Đảng, Đảng Quốc gia Cách mệnh An Nam, Phục quốc Hội, Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội, Đảng Đại Việt Quốc xã, Đảng Hưng Việt, Đảng Đại Việt, Việt Cách… Sau khi Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tan rã, một số đảng phái tiếp tục hợp tác với Việt Minh, một số khác thì tách khỏi Việt Minh và ủng hộ Bảo Đại thành lập Quốc gia Việt Nam chống lại Việt Minh còn Việt Minh gọi các đảng phái này là Việt gian, phản động.", "Theo báo Cứu quốc \"nhà đại ái quốc Hồ Chí Minh, ròng rã ba mươi năm nay bị mật thám thuộc địa truy nã, từ trong bóng tối nhảy ra, có một nhãn quan chính trị hết sức minh mẫn, ông đề nghị với người Pháp ở Đông Dương lập một mặt trận chung chống phát xít. Việt Minh, hay là mặt trận chung chống phát xít dành độc lập, ra đời\" nhưng chính quyền thuộc địa về phe phát xít.", "Cương lĩnh.", "Tháng 9 năm 1941, văn kiện \"Chương trình Việt Minh\" kèm theo điều lệ của một số hội cứu quốc đã được soạn thảo, coi như phụ lục của Nghị quyết hội nghị tháng 5 năm 1941. Ngày 25 tháng 10, Tổng bộ Việt Minh chính thức \"Chương trình Việt Minh\" để phổ biến rộng rãi trong quần chúng. Văn kiện này nhấn mạnh tới những mục tiêu của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc:", "Chương trình của Việt Minh được Nguyễn Ái Quốc soạn thành một bài thơ dài theo thể song thất lục bát gồm 212 câu và được Bộ Tuyên truyền Việt Minh xuất bản. Tháng 8 năm 1942, Tòa soạn báo \"Việt Nam độc lập\" phát hành cuốn \"Ngũ tự kinh\" (kinh 5 chữ) dùng văn vần để phổ biến chương trình của Việt Minh. Ngày 15 tháng 3 năm 1944, Bộ Tuyên truyền Cổ động Việt Minh cho in một tập sách bao gồm: \"Tuyên ngôn\", \"Chương trình\" (đã được bổ sung) và \"Điều lệ của Mặt trận Việt Minh\".", "Chủ trương cụ thể: - Chủ trương liên hiệp hết thảy các từng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp - Nhật giành quyền độc lập cho xứ sở. Việt Nam Độc lập Đồng minh lại còn hết sức giúp đỡ Ai Lao Độc lập Đồng minh và Cao Miên Độc lập Đồng minh để cùng thành lập Đông Dương Độc lập Đồng minh hay là mặt trận thống nhất dân tộc phản đế toàn Đông Dương để đánh được kẻ thù chung giành quyền độc lập cho nước nhà. - Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng nǎm cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra sẽ thi hành những nhiệm vụ như sau:", "Tổ chức.", "Việt Minh cũng công bố luôn \"Tuyên ngôn\" và \"Điều lệ\", nói rõ tôn chỉ, mục đích của mình: \"\"Liên hiệp hết thảy tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đang cùng nhau đánh đuổi Nhật-Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa\".\" Tôn chỉ đó đã quy định điều kiện gia nhập Việt Minh: \"\"Việt Minh kết nạp từng đoàn thể, không cứ đảng phái, đoàn thể nào của người Việt Nam hay của các dân tộc thiểu số sống trong nước Việt Nam, không phân biệt giai cấp, tôn giáo và xu hướng chính trị, hễ thừa nhận mục đích, tôn chỉ và chương trình của Việt Minh và được Tổng bộ Việt Minh thông qua, thời được gia nhập Việt Minh\".\"", "Về tổ chức, Mặt trận có một cơ chế riêng, khác hẳn với cơ chế tổ chức của Đảng Cộng sản Đông Dương. Về hệ thống tổ chức, ở các xã có Ban Chấp hành Việt Minh do các đoàn thể Việt Minh ở làng hay xã cử ra; tổng, huyện (hay phủ, châu, quận), tỉnh, kì có Ban Chấp ủy Việt Minh cấp ấy; Việt Minh toàn quốc có Tổng bộ. Ngoài những đoàn thể cứu quốc có tính chất chính trị, cách mạng rõ rệt (như Hội Công nhân Cứu quốc, Hội Nông dân Cứu quốc, Hội Phụ nữ Cứu quốc, Hội Thanh niên Cứu quốc...) còn có những đoàn thể không có điều lệ, hoạt động công khai và bán công khai như Hội Cứu tế Thất nghiệp, Hội Tương tế, Hội Hiếu hỉ, nhóm học Quốc ngữ, nhóm đọc sách, xem báo... Chỉ thị về công tác của Ban Chấp hành Trung ương ngày 1 tháng 12 năm 1941 đã chỉ rõ: \"Cần phải chú ý không nên dùng phương pháp Đảng mà tổ chức quần chúng, vì Đảng là một tổ chức gồm những phần tử giác ngộ nhất, hăng hái, trung thành nhất, hoạt động nhất của vô sản giai cấp. Tổ chức của Đảng cần phải chặt chẽ và nghiêm ngặt. Còn những tổ chức quần chúng phải rộng rãi, nhẹ nhàng\". Tổng bộ Việt Minh, theo một tài liệu của Mỹ, từ tháng 6/1945 đến giữa năm 1946 có Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Trường Chinh và Hồ Tùng Mậu.", "Mối quan hệ với Đảng Cộng sản Đông Dương.", "Trong quan hệ với Việt Minh, Đảng Cộng sản Đông Dương đã xác định: \"\"Đảng ta cũng là một bộ phận trong mặt trận phản đế Đông Dương, bộ phận trung kiên và lãnh đạo\",\" là \"\"một bộ phận linh động nhất trong Mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật-Pháp\".\"", "Ngày 11/11/1945, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán khi Pháp, Trung Hoa Dân quốc và các đồng minh của họ muốn tiêu diệt Đảng, đi vào hoạt động bí mật và thành lập tổ chức công khai của Đảng là Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương đồng thời đóng cửa tờ báo \"Cờ giải phóng\".", "\"Thông cáo Đảng Cộng sản Đông Dương tự ý giải tán, ngày 11-11-1945:\"", "\"1- Cǎn cứ vào điều kiện lịch sử, tình hình thế giới và hoàn cảnh trong nước, nhận rằng lúc này chính là cơ hội nghìn nǎm có một cho nước Việt Nam giành quyền hoàn toàn độc lập;\"", "\"2- Xét rằng: muốn hoàn thành nhiệm vụ dân tộc giải phóng vĩ đại ấy, sự đoàn kết nhất trí của toàn dân không phân biệt giai cấp, đảng phái là một điều kiện cốt yếu;\"", "\"3- Để tỏ rằng: những đảng viên cộng sản là những chiến sĩ tiền phong của dân tộc, bao giờ cũng hy sinh tận tụy vì sự nghiệp giải phóng của toàn dân, sẵn sàng đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi của giai cấp, hy sinh quyền lợi riêng của đảng phái cho quyền lợi chung của dân tộc;\"", "\"4- Để phá tan tất cả những điều hiểu lầm ở ngoài nước và ở trong nước có thể trở ngại cho tiền đồ giải phóng của nước nhà.\"", "\"Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp ngày 11 tháng 11 nǎm 1945, nghị quyết tự động giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương.\"", "\"Những tín đồ của chủ nghĩa cộng sản muốn tiến hành việc nghiên cứu chủ nghĩa sẽ gia nhập \"Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương\"\"", "Sau khi Đảng Cộng sản tuyên bố tự giải tán, phần lớn đảng viên cộng sản chuyển sang hoạt động bí mật và trên danh nghĩa Việt Minh; một số ít tham gia Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Marx ở Đông Dương để hoạt động công khai. Các lãnh đạo Đảng cộng sản tham gia Quốc hội và Chính phủ như Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Khánh Toàn, Trần Huy Liệu... cũng với tư cách là thành viên Việt Minh. Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương cũng là một tổ chức thành viên của Việt Minh.", "Tuy nhiên Việt Minh không chỉ có tổ chức thành viên là Đảng Cộng sản Đông Dương và các đoàn thể cứu quốc mà còn có các đảng phái cách mạng theo đường lối khác. Năm 1941 Đại hội thành lập Việt Minh thiết lập liên minh chống phát xít của người Việt ngoài Đảng Cộng sản Đông Dương, có Tân Việt Nam đảng (Tân Việt đảng), Hội Thanh niên cách mạng Việt Nam, một phần Việt Nam Quốc dân Đảng, một số hội giải phóng dân tộc... góp phần vào việc nâng cao uy tín Mặt trận. Một trong những biểu hiện rõ nét là vào năm 1943, Đảng đưa ra \"Đề cương Văn hóa Việt Nam\", tập hợp đông đảo những nhà văn hóa, văn nghệ, trí thức. Trên cơ sở đó, cuối năm 1944, Hội văn hóa cứu quốc Việt Nam ra đời, trở thành một thành viên của Mặt trận Việt Minh. Tháng 6 năm 1944, Đảng Cộng sản Đông Dương giúp cho một số trí thức thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam. Đảng Dân chủ Việt Nam gia nhập Việt Minh một thời gian ngắn rồi tách ra do mâu thuẫn với Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 12 năm 1946, đảng Dân chủ Việt Nam lại gia nhập Việt Minh.", "Đảng Cộng sản Đông Dương còn mở rộng Mặt trận Việt Minh trong việc liên lạc với một số người cộng sản và cánh tả thuộc Đảng Xã hội Pháp trong quân đội Lê dương và giới công chức Pháp ở Việt Nam. Nhưng do quan điểm khác nhau nên kế hoạch lập Hội của Đảng thất bại. Đảng còn tranh thủ sự giúp đỡ của các lực lượng chống Nhật ở Trung Quốc, vận động thành lập Mặt trận Trung-Việt liên minh, đặt quan hệ hợp tác với Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội (và một thời gian nhập vào tổ chức này trên danh nghĩa) - một tổ chức chính trị của người Việt Nam ở Trung Quốc để tranh thủ đoàn kết rộng rãi với những người Việt yêu nước hoạt động ở Trung Quốc. Ở Nam Kì, các cán bộ Đảng trong khi tập hợp lực lượng đã vận động được nhiều đảng phái khác tham gia Việt Minh. Kì bộ Việt Minh Nam Kì bao gồm Đảng Cộng sản Đông Dương, Tân Dân chủ, Tổng Công đoàn, Thanh niên Tiền phong, Việt Nam Quốc gia, Cao Đài hợp nhất, Việt Nam Cứu quốc Đoàn (Kì bộ cũ của Việt Minh), Quốc gia Độc lập, Công giáo, Thanh niên Nghĩa dũng Đoàn.", "Vào cuối năm 1944, Việt Minh tuyên bố tổng số thành viên là 500.000 người, trong đó có 200.000 người ở Bắc Kỳ, 150.000 người ở Trung Kỳ, và 150.000 người tại Nam Kỳ.", "Trong suốt quá trình vận động cách mạng từ Hội nghị 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đến Cách mạng Tháng Tám, những chủ trương nghị quyết của Đảng nhằm xây dựng lực lượng cách mạng đều được quán triệt trong các văn kiện của Mặt trận Việt Minh.", "Về thực tế Đảng Cộng sản Đông Dương còn lãnh đạo chi bộ đảng ngoài Việt Nam, như Lào, Miên, và sau khi tách các chi bộ này ra, để thành lập ba đảng riêng năm 1951, cùng với thành lập Liên Việt trên cơ sở hai tổ chức Việt Minh và Liên Việt, cũng thành lập Mặt trận liên minh Việt - Miên - Lào (do Tôn Đức Thắng làm chủ tịch) nhằm phối hợp cách mạng ba nước, tiến tới giành độc lập cho mỗi nước.", "Hợp tác với cơ quan tình báo Mỹ OSS.", "Ngày 29 tháng 3 năm 1945, Hồ Chí Minh gặp Thiếu tướng Claire Lee Chennault - Chỉ huy trưởng Không đoàn 14 Không lực Lục quân Hoa Kỳ, tại Côn Minh, Trung Quốc. Chennault cảm ơn Việt Minh và sẵn sàng giúp đỡ những gì có thể theo yêu cầu. Còn Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm của Việt Minh là ủng hộ và đứng về phía Đồng Minh chống phát xít Nhật. Theo Hồ Chí Minh, việc được tướng Chennault tiếp kiến được xem là một sự công nhận chính thức của Mỹ, là bằng chứng cho các đảng phái Quốc gia thấy Mỹ ủng hộ Việt Minh. Người Mỹ xem đây chỉ là một mưu mẹo của Hồ Chí Minh nhưng ông cũng đã đạt được kết quả.", "Hồ Chí Minh nhận thấy Hoa Kỳ đang muốn sử dụng các tổ chức cách mạng người Việt vào các hoạt động quân sự chống Nhật tại Việt Nam, ông đã thiết lập mối quan hệ với các cơ quan tình báo Hoa Kỳ đồng thời chỉ thị cho Việt Minh làm tất cả để giải cứu các phi công gặp nạn trong chiến tranh với Nhật Bản, cung cấp các tin tức tình báo cho OSS (Cơ quan Tình báo chiến lược Hoa Kỳ), tiến hành một số hoạt động tuyên truyền cho Trung Hoa Dân quốc và Văn phòng Thông tin Chiến tranh Hoa Kỳ (OWI). Đổi lại, cơ quan tình báo Hoa Kỳ OSS (U.S Office of Strategic Services) cung cấp vũ khí, phương tiện liên lạc, giúp đỡ y tế, cố vấn và huấn luyện quân đội quy mô nhỏ cho Việt Minh.", "Ngày 16 tháng 7 năm 1945, nhóm \"Con Nai\" thuộc cơ quan tình báo Mỹ OSS do Thiếu tá Allison K. Thomas chỉ huy nhảy dù xuống vùng lân cận làng Kim Lung cách Tuyên Quang 20 dặm về phía đông. Nhóm tình báo \"Con Nai\" được lực lượng Việt Minh tại Tuyên Quang gồm khoảng 200 người đón tiếp. Trong vòng một tháng, nhóm \"Con Nai\" đã huấn luyện cho lực lượng Việt Minh cách sử dụng những vũ khí Mỹ và chiến thuật du kích. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, nhóm \"Con Nai\" cùng Việt Minh về Hà Nội và tham dự lễ thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.", "Thông qua mối quan hệ với OSS, Việt Minh đề nghị Mỹ biến Đông Dương thành một xứ bảo hộ của Mỹ và yêu cầu Mỹ can thiệp với Liên Hợp Quốc để gạt người Pháp và người Trung Quốc ra ngoài kế hoạch chiếm đóng tại Đông Dương của Đồng Minh. Việt Minh lo sợ Trung Quốc sẽ trở thành những kẻ chiếm đất đai ở Đông Dương, sống bằng cướp bóc và tước đoạt. Tổng bộ Việt Minh ở Hà Nội gửi một công hàm cho Chính phủ Mỹ để giải thích lập trường của họ. Trong đó có đoạn viết:", "\"\"Nếu người Pháp mưu toan trở lại Đông Dương để hòng cai trị đất nước này và một lần nữa lại đóng vai những kẻ đi áp bức thì nhân dân Đông Dương sẵn sàng chiến đấu đến cùng chống lại việc tái xâm lược đó của Pháp. Mặt khác, nếu họ đến với tư cách là những người bạn để gây dựng nền thương mại, công nghiệp mà không có tham vọng thống trị thì họ sẽ được hoan nghênh như bất kỳ cường quốc nào khác\".\"", "Tổng bộ Việt Minh muốn báo cho Chính phủ Mỹ biết nhân dân Đông Dương yêu cầu trước hết là nền độc lập của Đông Dương và mong rằng nước Mỹ sẽ giúp đỡ họ giành lại độc lập bằng những cách sau đây:", "Hồ Chí Minh cố gắng thuyết phục Mỹ tiếp tục chính sách chống thực dân của Mỹ đối với Đông Dương. Ông tìm cách làm Mỹ tin rằng ông không phải là một phái viên của Quốc tế Cộng sản mà là một người Quốc gia - Xã hội mong muốn giải thoát đất nước khỏi ách đô hộ của ngoại bang. Thông qua OSS, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi một bức điện cho Tổng thống Mỹ Truman yêu cầu Mỹ đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ Lâm thời đồng thời Mỹ và Chính phủ Lâm thời sẽ có đại diện trong Ủy ban Liên tịch các nước Đồng Minh giải quyết các vấn đề liên quan đến Việt Nam. Việt Minh hy vọng tranh thủ được sự có mặt của Mỹ trong cuộc thương lượng giữa Trung Quốc và Pháp về Đông Dương vì hai nước này có thể làm nguy hại đến nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam đồng thời khuyến khích các nước Đồng Minh công nhận Chính phủ Lâm thời là đại diện duy nhất và hợp pháp của Việt Nam trong các vấn đề liên quan đến chủ quyền của Việt Nam. Việt Minh lo ngại việc không được các nước Đồng Minh công nhận sẽ làm suy yếu địa vị lãnh đạo của họ và có lợi cho Việt Cách, Việt Quốc trong việc thành lập chính phủ của các lực lượng này. Hồ Chí Minh nói với chỉ huy OSS tại miền Bắc, Archimedes L.A Patti, rằng ông theo chủ nghĩa Lenin, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp và xin gia nhập Đệ Tam Quốc tế vì đây là những cá nhân và tổ chức duy nhất quan tâm đến vấn đề thuộc địa. Ông không thấy có sự lựa chọn nào khác. Nhưng trong nhiều năm sau đó những tổ chức này cũng không có hành động gì vì nền độc lập của các dân tộc thuộc địa. Trước mắt, ông đặt nhiều tin tưởng vào sự giúp đỡ của Mỹ trước khi có thể hy vọng vào sự giúp đỡ của Liên Xô. Người Mỹ xem ông là một người quốc tế cộng sản, bù nhìn của Moskva vì ông đã ở Moskva nhiều năm nhưng ông không phải là người cộng sản theo nghĩa Mỹ hiểu mà là nhà cách mạng hoạt động độc lập. Tuy nhiên Mỹ không đáp lại nguyện vọng của Hồ Chí Minh. Cuối tháng 9 năm 1946, Mỹ rút tất cả các nhân viên tình báo tại Việt Nam về nước, chấm dứt liên hệ với chính phủ Hồ Chí Minh.", "Lãnh đạo nhân dân giành chính quyền.", "Theo Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, kể từ khi Việt Minh ra đời, \"\"toàn bộ phong trào chống phát xít Pháp-Nhật của nhân dân ta mang tên \"Phong trào Việt Minh\", cái tên tiêu biểu cho lòng yêu nước, chí quật cường của dân tộc ta\".\"", "Tổ chức này giành quyền và thành lập chính quyền với tên Khu Giải phóng Việt Bắc gồm 6 tỉnh năm 1944. Năm 1945, khi Nhật vừa đầu hàng phe Đồng Minh và chính phủ Trần Trọng Kim vừa thành lập, Việt Minh là lực lượng chính trị quan trọng tổ chức một số cuộc biểu tình trên cả nước và tuyên bố thành lập chính quyền. Quốc dân Đại hội do Tổng bộ Việt Minh triệu tập họp ở Tân Trào trong 2 ngày 16 và 17 tháng 8 năm 1945 đã thông qua lệnh Tổng khởi nghĩa, quyết định Quốc kỳ, Quốc ca, cử ra Ủy ban Giải phóng Dân tộc tức là Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập Chính phủ lâm thời của Việt Minh, khai sinh nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.", "Sau khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, Việt Minh chuyển mục tiêu sang đấu tranh giành lại toàn vẹn chủ quyền và lãnh thổ cho Việt Nam từ tay của thực dân Pháp.", "Thành lập Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.", "Thời gian đầu năm 1946, các lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Văn Hoan lui vào hoạt động bí mật. Hoạt động công khai với danh nghĩa là thành viên Việt Minh gồm có chủ tịch Hồ Chí Minh, các ông Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Hoàng Hữu Nam, Hồ Tùng Mậu và Nguyễn Lương Bằng. Về mặt công khai, trong một thời gian ngắn nhóm Mác-xít độc lập với Việt Minh. Thành viên Việt Minh không công khai là người Mác-xít. Theo các tài liệu chính thống của nhà nước Việt Nam, Chủ nhiệm Tổng bộ một thời gian dài là Hoàng Quốc Việt. Cơ quan ngôn luận là báo \"Cứu quốc\".", "Việt Minh lãnh đạo chính phủ trung ương Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ khi được thành lập cho đến khi chiến tranh Đông Dương kết thúc. Đảng Lao động chính thức xác nhận vai trò lãnh đạo năm 1951. Một số ít thành viên Việt Minh chuyển sang ủng hộ cho Quốc gia Việt Nam khi Việt Minh ngả sang khuynh hướng thân Liên Xô - CHND Trung Hoa công khai. Tại miền Nam, Việt Minh cũng lãnh đạo Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ. Các nhóm chính trị khác tham gia hợp tác với Việt Minh trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở trung ương và địa phương trong giai đoạn 1945 - 1946.", "Ủy ban Dân tộc Giải phóng gồm 12 thành viên Việt Minh, trong đó có 6 thành viên Đảng Cộng sản Đông Dương, 2 thành viên Đảng Dân chủ Việt Nam. Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ thành lập ngày 25/8/1945 có 6 thành viên Việt Minh (4 là thành viên Đảng Cộng sản, gồm Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tây, 2 thành viên Việt Minh không công khai là đảng viên cộng sản Phạm Ngọc Thạch, Hoàng Đôn Văn), 1 thành viên Đảng Dân chủ Việt Nam (Huỳnh Văn Tiểng), 2 thành viên không đảng phái (Phạm Văn Bạch, Huỳnh Thị Oanh), 1 thành viên Đảng Độc lập Dân tộc (Ngô Tấn Nhơn) (sau cải tổ đưa Huỳnh Phú Sổ - Hòa Hảo, Trần Văn Thạch - Trotskyist, Huỳnh Văn Phương - trí thức, Phan Văn Hùm, Trần Văn Nhọ, Nguyễn Văn Thủ... tham gia, nhưng sau một thời gian Việt Minh xung đột với các nhóm tôn giáo và Trotskyist). Ngày 10/9/1945, Ủy ban Nhân dân Nam Bộ thành lập, theo thể lệ của Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh, gồm: Phạm Văn Bạch (trạng sư, không đảng phái): Chủ tịch, Trần Văn Giàu (Giáo sư, Đảng Cộng sản Đông Dương), Phạm Ngọc Thạch (bác sĩ, thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong), Huỳnh Văn Tiểng (cựu sinh viên, Tân Dân chủ đoàn), Ngô Tấn Nhơn (kỹ sư, Đảng Quốc gia Độc lập), Nguyễn Văn Thọ (viết báo, Đảng Cộng sản Đông Dương), Hoàng Đôn Văn (Lao động Tổng công đoàn), Giáo chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ (Việt Nam Độc lập Vận động hội), Nguyễn Văn Nghiêm (kỹ sư, không đảng phái), Tứ Bảo Hòa (điền chủ, không đảng phái), dự khuyết Phan Văn Hùm, Trần Văn Nhọ, Nguyễn Văn Thủ", "Chính phủ Cách mạng Lâm thời có 9 thành viên Việt Minh (6 đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương), 4 đảng viên Đảng Dân chủ Việt Nam, 2 không đảng phái, 1 Công giáo. Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến thành lập ngày 2/3/1946 có 2 thành viên Việt Minh (thuộc Đảng Cộng sản Đông Dương), 3 thành viên Việt Quốc, 1 thành viên Việt Cách, 2 thành viên Dân chủ, 1 thành viên Xã hội, 3 độc lập. Chính phủ Liên hiệp Quốc dân thành lập ngày 3/11/1946 có 5 thành viên Việt Minh (thuộc Đảng Cộng sản), 5 độc lập, 2 Dân chủ, 1 Xã hội, 1 Dân tộc (Việt Nam Quốc dân Đảng - Chu Bá Phượng), khuyết 2 ghế.", "Chính phủ Liên hiệp Quốc dân năm 1949, 5 thành viên Đảng Cộng sản - Việt Minh, 5 độc lập, 2 đảng Dân chủ, 3 đảng Xã hội, 1 dân tộc (Việt Nam Quốc dân Đảng - Chu Bá Phượng), 1 Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội (Bồ Xuân Luật). Trong các thứ trưởng có 4 độc lập, 2 đảng Dân chủ, 1 đảng Xã hội, 1 Việt Minh (thuộc Đảng Cộng sản), 1 trống. Theo tài liệu của CIA thì Đảng Cộng sản tuy tuyên bố \"giải tán\" năm 1945 nhưng năm 1946 có 50.000 đảng viên, và tới 1950 có 400.000 đảng viên, dù trên danh nghĩa người của Việt Minh (Liên Việt), nhưng thực tế bán công khai.", "Xung đột với các nhóm chính trị đối lập.", "Trước năm 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương và các đảng phái Quốc gia khác tuy có ý thức hệ khác nhau nhưng vẫn có chung nền tảng giáo dục, thường xuyên có sự hợp tác và đôi khi có cùng quan hệ huyết thống hoặc hôn nhân. Trong giai đoạn 1924 - 1927, ở miền Nam Trung Quốc, các nhóm người Việt chống thực dân Pháp đa dạng tương tác với nhau, với cả người Trung Quốc, Triều Tiên và các dân tộc khác. Từ năm 1941 đến 1944 ở miền nam Trung Quốc, Đảng Cộng sản Đông Dương, Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội (Việt Cách) cùng tham gia vào mặt trận chống Nhật, đôi khi tố giác nhau với chính quyền Trung Quốc, nhưng không bắt cóc hoặc ám sát lẫn nhau. Chính sự cạnh tranh để kết nạp thành viên, thu nhận viện trợ cũng như sự bảo trợ của người Trung Quốc, hơn là sự khác biệt về ý thức hệ, mới là nguyên nhân khiến căng thẳng giữa các tổ chức lưu vong gia tăng. Trong nước, Đảng Cộng sản Đông Dương cũng từng hợp tác với những người Trotskyist tại Nam Kỳ trong giai đoạn 1933-1937. Hai bên sau đó chỉ trích nhau chẳng hạn thành viên của Quốc tế Thứ ba (Đảng Cộng sản Đông Dương) và Quốc tế Thứ tư (những người Trotskyist) cáo buộc lẫn nhau là phục vụ lợi ích đế quốc. Ban đầu cuộc tranh đấu chỉ trong phạm vi báo chí, truyền thông. Đến năm 1945 thì nhiều phe đã dùng vũ lực để tiêu diệt lẫn nhau. Quốc dân Đại hội Tân Trào do Việt Minh tổ chức ngày 16/8/1945, trước khi Việt Minh nắm chính quyền, xác định 10 chính sách lớn trong đó chính sách đầu tiên là \"Phản đối xâm lược; Tiêu trừ Việt gian. Lập nên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hoàn toàn độc lập\". Theo hồi ký của tướng Võ Nguyên Giáp, dù được Việt Minh trao nhiều ưu đãi (được nhường 70 ghế đại biểu Quốc hội mà không cần bầu cử, được giao một số chức vụ cao trong nhà nước) nhưng một số đảng phái như Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt... vẫn không bằng lòng với địa vị chính trị của mình và đã tìm nhiều cách lật đổ Việt Minh nhằm chiếm chính quyền. Theo sử gia David G. Marr, đó là một thời kỳ đầy hận thù, phản bội và giết chóc. Cho tới tháng 8 năm 1946, các đảng phái đối lập, ngoại trừ Giáo hội Công giáo, đều bị phá vỡ, vô hiệu hóa, hoặc buộc phải lưu vong.", "Việt Nam Quốc dân Đảng.", "Ngay sau khi Việt Minh giành chính quyền ngày 19/8/1945, Lê Khang dẫn đầu một nhóm Việt Quốc rời Hà Nội đến Vĩnh Yên nằm trên tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội. Tại đây họ tổ chức một cuộc biểu tình của dân chúng để thuyết phục lực lượng Bảo an binh địa phương tham gia. Ngày 29/8/1945, hàng ngàn người ủng hộ Việt Minh thuộc 3 huyện lân cận tiếp cận căn cứ của Việt Quốc tại Vĩnh Yên kêu gọi Việt Quốc tham gia một cuộc diễu hành xuyên qua thị trấn. Khi bị từ chối, họ bắn thành viên Việt Quốc. Việt Quốc bắn trả khiến một số người chết đồng thời bắt giữ khoảng 150 người. Những người bị bắt được thả sau khi đã được tuyên truyền về Việt Quốc và thừa nhận mình bị lừa khi tham gia biểu tình. Sau đó, Việt Minh và Việt Quốc tiếp tục thảo luận về việc phóng thích những người còn bị Việt Quốc giam giữ, về việc tổ chức đàm phán và những đề xuất liên quan đến việc thành lập chính quyền liên hiệp ở địa phương. Trong khi hai bên thảo luận, Việt Minh cắt đứt nguồn cung cấp lương thực cho thị xã Vĩnh Yên khiến cuộc sống ngày càng khó khăn.", "Ngày 18/9/1945, Hoàng Văn Đức, một thành viên quan trọng của Đảng Dân chủ Việt Nam cùng đại diện chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ Hà Nội đến Vĩnh Yên thương lượng. Cuộc thương lượng không thành công, Lê Khang tấn công Phúc Yên nhưng thất bại. Các đơn vị quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tấn công Vĩnh Yên nhưng không giành được thị xã này. Sau đó hai bên ngừng bắn trong vài tháng. Việt Quốc không tranh giành ảnh hưởng với Việt Minh ở vùng nông thôn ngoài việc chiếm giữ nông trại Tam Lộng tại Vĩnh Yên. Đầu tháng 12/1945, Việt Minh tấn công Tam Lộng nhưng bị đẩy lùi.", "Tháng 9/1945, Việt Quốc thỏa thuận bí mật với Đại úy Nguyễn Duy Viên theo đó đại đội lính Khố đỏ của ông sẽ theo Việt Quốc. Tuy nhiên Việt Quốc nghi ngờ Đại úy Viên là điệp viên hai mang của Pháp và sẽ điều động đơn vị của mình thủ tiêu đảng viên Việt Quốc ngay sau khi vượt biên giới về Việt Nam. Đầu tháng 11, Viên đến Hà Giang gặp các thành viên Việt Quốc tại đây. Những binh sĩ đào ngũ từ các đơn vị lính thuộc địa cũng đổ về Hà Giang giúp Viên có được một đội quân khoảng 400 người. Việt Quốc và Việt Minh tại Hà Giang mâu thuẫn nhau khiến Viên đến Hà Nội yêu cầu chính phủ cử đại diện đến thuyết phục mọi người cùng chống Pháp. Sau khi gặp Hồ Chí Minh, Viên trở về Hà Giang, cho quân bắt giữ các đảng viên Việt Quốc tại đây và xử bắn một số người trên một ngọn đồi gần thị xã. Tháng 4/1946, Việt Quốc cho người ám sát Viên tại Hà Nội.", "Tháng 5/1946, Trần Đăng Ninh, phụ trách an ninh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đến Vĩnh Yên với lý do thảo luận về công tác sửa chữa đê điều và bị Vũ Hồng Khanh bắt. Ninh và 2 người khác trốn thoát. Việc bắt giữ này trở thành lý do để đàn áp Việt Quốc. Vệ quốc quân bắt đầu tuần tra quanh nơi hoạt động của Việt Quốc. Ngày 20/5/1946, trong một cuộc đụng độ gần Phú Thọ, Việt Quốc bắt giữ và hành quyết một nhóm người ủng hộ Việt Minh, thả vài xác chết xuống sông Hồng để cảnh cáo.", "Giữa tháng 5/1946, Bộ Nội vụ ra lệnh cho tất cả các cán bộ công chức đang làm việc tại 7 thị xã ở các tỉnh phía Tây và Tây Bắc Hà Nội sơ tán và tham gia vào các Ủy ban thay thế được thành lập ở các địa điểm mới. Những người không thực hiện lệnh này không còn là người của chính phủ.", "Tháng 6/1946, khi quân đội Trung Quốc rút về Vân Nam, dân quân của Việt Minh cô lập các thị xã do Việt Quốc kiểm soát. Ngày 18/6/1946, Vệ quốc quân tấn công Phú Thọ và Việt Trì. Quốc dân quân của Việt Quốc ở Phú Thọ hết đạn sau 4 ngày và phải rút lui. Vũ Hồng Khanh chỉ huy 350 lính phòng thủ Việt Trì trong 9 ngày rồi rút lui về Yên Bái. Việt Quốc ở Vĩnh Yên do Đỗ Đình Đạo chỉ huy đàm phán với Việt Minh và đạt được thỏa thuận ngừng bắn trong 2 tháng. Đỗ Đình Đạo đồng ý sáp nhập lực lượng của ông vào Vệ quốc quân và thành lập Ủy ban Hành chính liên hiệp tại Vĩnh Yên. Lực lượng này được chia nhỏ đưa về các tiểu đoàn Vệ quốc quân tại nhiều nơi. Đỗ Đình Đạo được thuyên chuyển về Hà Nội. Trong suốt tháng 5 và tháng 6/1946, Báo Việt Nam của Việt Quốc tại Hà Nội khẩn thiết kêu gọi Việt Minh ngừng tấn công Việt Quốc.", "Cuối tháng 6 tại Hà Nội, các thành viên Việt Quốc họp để thảo luận về việc có nên thừa nhận sự lãnh đạo của Việt Minh, rút lui về biên giới hay tổ chức đảo chính lật đổ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong khi đó, Trương Tử Anh, đảng trưởng Đại Việt Quốc dân Đảng là đồng minh của Việt Quốc, đang lên kế hoạch cho một cuộc đảo chính có thể bắt đầu bằng việc tấn công lính Pháp để gây rối loạn. Người Pháp lại có ý định diễu binh quanh hồ Hoàn Kiếm để kỷ niệm Quốc khánh Pháp (14/7/1789) khiến lực lượng an ninh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lo ngại sự kiện này có thể trở thành mục tiêu của các đảng phái đối lập với Việt Minh. Võ Nguyên Giáp hỏi ý kiến của chỉ huy quân Pháp tại Bắc Kỳ, Đại tá Jean Crépin, về thái độ của Pháp nếu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tăng cường trấn áp Việt Quốc và Việt Cách thì được ông này trả lời Pháp sẽ không can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trường Chinh (Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, khi đó rút vào hoạt động bí mật, chức danh công khai là Hội trưởng Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương) được Nha Công an Trung ương báo cáo phát hiện được âm mưu của thực dân Pháp câu kết với Việt Nam Quốc dân Đảng đang chuẩn bị đảo chính Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chỉ đạo phải tập trung trấn áp Việt Nam Quốc dân Đảng, nhưng phải có đủ chứng cứ.", "Sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 và cuộc bầu cử ngày 6 tháng 1 năm 1946, Việt Nam Quốc dân Đảng được giữ hơn 40 ghế trong số 70 ghế \"đại biểu đương nhiên\" (không phải qua bầu cử) trong Quốc hội khóa I và có một số thành viên chủ chốt tham gia lãnh đạo Quốc hội và Chính phủ do Quốc hội khóa I bầu ra như Nguyễn Hải Thần (Phó Chủ tịch Quốc hội), Trương Đình Chi (Bộ trưởng Xã hội, Y tế và Lao động). Theo hồi ký \"Những năm tháng không thể nào quên\" của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, do không bằng lòng với vị trí có được, Việt Nam Quốc dân Đảng tìm cách lật đổ Việt Minh để cùng với các đảng phái Việt Cách, Đại Việt... chiếm chính quyền.", "Trong khi giải giáp vũ khí của quân Nhật tại phía Bắc vĩ tuyến 16 theo Hiệp ước Hoa - Pháp tháng 2 năm 1946 và Hiệp định Sơ bộ Việt - Pháp ngày 6 tháng 3 năm 1946, quân Pháp đã chuyển giao cho Việt Nam Quốc dân Đảng và các đảng phái đối lập với Việt Minh hàng tấn vũ khí thu gom được của Nhật. Với số vũ khí này và được thực dân Pháp \"bật đèn xanh\", Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân đảng đã tổ chức các đội vũ trang mang tên \"Thần lôi đoàn\", \"Thiết huyết đoàn\", \"Hùm xám\"... Các đội vũ trang này đã tổ chức nhiều vụ cướp có vũ trang, bắt cóc, tống tiền, tổ chức ám sát những người theo Việt Minh và cả những người không đảng phái như \"ông Ba Viên\" rồi tuyên truyền đổ lỗi cho Việt Minh đã không đảm bảo được an ninh trật tự ở Hà Nội và một số đô thị ở Bắc Bộ.", "Đầu tháng 6 năm 1946, Việt Nam Quốc dân Đảng tổ chức cho Nghiêm Xuân Chi (đảng viên Việt Quốc) ám sát một số lãnh đạo của Việt Minh như Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh và ông Bồ Xuân Luật, một người cũ của Việt Cách nay đứng về phe Việt Minh. Vụ ám sát được bố trí tại Nhà Thủy tọa, cạnh Hồ Gươm, đối diện với nhà số 8 đường Vua Lê (nay là phố Lê Thái Tổ), một trong những nơi ăn nghỉ của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, khi Nghiêm Xuân Chi chưa kịp ra tay thì đã bị tổ trinh sát của Sở Công an Bắc Bộ do Nguyễn Bá Hùng chỉ huy khống chế. Khám người Nghiêm Xuân Chi, Công an Bắc bộ thu được hai khẩu súng ngắn với 12 viên đạn trong ổ đạn. Mỗi khẩu đều có một viên đã lên nòng. Tại trụ sở Công an Bắc bộ (số 87 đường Gamberta, nay là phố Trần Hưng Đạo), Nghiêm Xuân Chi khai nhận đã được các lãnh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng giao nhiệm ám sát một số lãnh đạo Việt Minh.", "Trước những hoạt động gây mất trật tự an ninh tại Hà Nội và một số thành phố ở Bắc Bộ, Sở Công an Bắc Bộ đã lập chuyên án mà sau này được lấy tên công khai là Chuyên án số 7 phố Ôn Như Hầu.", "Sau khi Việt Nam Công an vụ xin ý kiến chỉ đạo của Trường Chinh (Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, với chức danh công khai là Hội trưởng Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương), vào rạng sáng ngày 12 tháng 7 năm 1946, Đội Trinh sát đặc biệt đã thực hiện nhiệm vụ bắt, khám xét những người có mặt tại số 7 phố Ôn Như Hầu vì can tội tống tiền và bắt cóc người, đã thực hiện phá vụ án phố Ôn Như Hầu. Chỉ đạo trực tiếp lực lượng công an phá vụ án này là Lê Giản (Giám đốc Nha Công an Bắc bộ), Nguyễn Tuấn Thức (Giám đốc Công an Hà Nội) và Nguyễn Tạo (Trưởng nha Điệp báo Công an Trung ương). Lực lượng công an xung phong đã thực hiện khám xét các trụ sở Việt Nam Quốc dân Đảng tại Hà Nội, bắt tại chỗ nhiều thành viên của Việt Nam Quốc dân Đảng cùng nhiều tang vật như truyền đơn, vũ khí, dụng cụ tra tấn, đồng thời phát hiện nhiều xác chết tại đó... Trong số các thành viên của Quốc dân Đảng bị bắt, có Phan Kích Nam tự xưng là một lãnh đạo của Quốc dân Đảng. Theo điều tra của Nha công an, Việt Nam Quốc dân Đảng đang chuẩn bị những hành động khiêu khích rất nghiêm trọng. Dự định các thành viên của Việt Nam Quốc dân Đảng sẽ phục sẵn dọc đường quân Pháp diễu qua nhân ngày Quốc khánh Pháp, bắn súng, ném lựu đạn để tạo ra những chuyện rắc rối giữa Pháp và Chính phủ, gây sự phá hoại hòa bình rồi tung truyền đơn hô hào lật đổ chính quyền và sau đó đứng ra bắt tay với Pháp.", "Trên thực tế, trong cuộc vây bắt, khám xét tại số 7 - Ôn Như Hầu ngày 12 tháng 7, Công an Bắc Bộ thu được 8 súng ngắn, 5 súng trường và 1 trung liên Nhật, dụng cụ tra tấn, thuốc mê và đào được 6 xác người chôn đứng trong vườn chuối sau nhà. Tuy nhiên, trụ sở hành chính của Việt Nam Quốc dân Đảng tại số 7 phố Ôn Như Hầu (nay là phố Nguyễn Gia Thiều) chỉ là bình phong để che đậy hai căn cứ quan trọng hơn của Việt Nam Quốc dân Đảng trong nội thành Hà Nội khi đó là nhà số 132 phố Duvigneau (nay là phố Bùi Thị Xuân) và nhà số 80 phố Quán Thánh. Cuộc bắt, khám xét tại 132 - Duvigneau và 80 Quán Thánh diễn ra cùng thời điểm với vụ bắt, khám xét ở số 7 - Ôn Như Hầu. Tại nhà số 132 phố Duvigneau, Nha Công an Bắc Bộ thu giữ nhiều tang vật gồm 6 máy in tipo với các \"bát chữ\" còn nguyên vẹn nội dung; 11 mặt đá in lito đã khắc chữ; trên 3 tạ truyền đơn, khẩu hiệu; tài liệu chống Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa in xong còn chưa kịp chuyển đi; 18,6 kg tiền giả (gồm cả giấy bạc Quan kim và giấy bạc Đông Dương); 12 khẩu súng ngắn, 8 khẩu tiểu liên, 17 súng trường, 3 trung liên FM và 13 quả lựu đạn Nhật. Khám xét tại nhà số 80 phố Quán Thánh, Công an Bắc Bộ thu được 9 súng ngắn, 21 súng trường, 2 trung liên Nhật, 11 quả lựu đạn các loại, hai thùng tài liệu, truyền đơn chống chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quân Pháp tại Hà Nội đã điều xe tăng đến can thiệp vào vụ bắt, khám xét tại 80 phố Quán Thánh nhưng Việt Minh đã tiến hành đàm phán trên cơ sở Hiệp định Sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1945. Trưa ngày 12 tháng 7, xe tăng và quân Pháp rút khỏi phố Quán Thánh.", "Ngày 13 tháng 7, tướng Morlière, Tư lệnh các Lực lượng Pháp tại Hà Nội đã cử sĩ quan tùy tùng đến trụ sở chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Bắc Bộ Phủ thông báo việc người Pháp rút đề nghị tổ chức cuộc diễu binh của quân Pháp tại Hà Nội do nhận thấy không bảo đảm an toàn. Tại đây, viên tùy tùng của tướng Morlière được đại diện Chính phủ Việt Nam thông báo rằng Việt Minh sẽ tổ chức cuộc mít tinh lớn ở Quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội và một số con phố quanh Hồ Gươm để chào mừng kỷ niệm ngày Cách mạng Pháp 14-7-1789. Tất cả những chứng cứ, tang vật, truyền đơn, khẩu hiệu, ảnh chụp những xác chết, những hố chôn người... mà Công an Bắc Bộ thu tập được trong Vụ án phố Ôn Như Hầu đều được trưng bày cho toàn thể nhân dân Hà Nội được biết trong cuộc mít tinh diễu hành này.", "Nhà nước sau đó thông báo sự việc với báo chí. Các cuộc tấn công được gọi tắt là \"Vụ án phố Ôn Như Hầu\". Các báo của Việt Minh và các đảng phái thân Việt Minh đều tường thuật vụ án này. Các báo đưa tin công an đã phá tan âm mưu chống chính phủ, đã bắt những kẻ tiến hành những vụ bắt cóc tống tiền, ám sát, bán nước, in truyền đơn chống chính phủ, làm bạc giả... Tuy nhiên Việt Quốc đã không bị kể tên trong một số bài báo.", "Theo David G. Marr, nếu thật sự Pháp muốn đảo chính (họ đã cân nhắc và hoãn nhiều lần) thì không cần phải dựa vào Trương Tử Anh khơi ngòi, càng không cho Anh thành lập chính phủ. Công an cố tình lập lờ giữa Đại Việt Quốc dân Đảng do Trương Tử Anh lãnh đạo và Việt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Tưởng Tam và Vũ Hồng Khanh lãnh đạo khi nhắm vào tòa soạn \"Báo Việt Nam\" và các trụ sở khác của Việt Nam Quốc dân Đảng. Sau cuộc tấn công, có người trong chính quyền đã cố gắng hạn chế những lời lên án công khai Việt Quốc để tuyên truyền về Mặt trận Thống nhất. Việt Quốc trên danh nghĩa vẫn nằm trong mặt trận. Ngoại trừ một vài đảng viên Việt Quốc hợp tác với Việt Minh, mọi công dân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ đó trở đi đều sợ hãi khi bị cho là đảng viên Việt Quốc. Việt Quốc đồng nghĩa với tội phản quốc.", "Ngày 20/7/1946, Ủy ban Hành chính Bắc Bộ dù không nhắc đến Việt Quốc đã thông báo đến các tỉnh rằng gần đây công an đã phát hiện được việc tống tiền, bắt cóc và làm tiền giả. Tất cả đều phải bị điều tra và truy tố. Ủy ban hướng dẫn các địa phương không để việc bắt bớ và giam giữ các phần tử phản động biến thành khủng bố. Các Ủy ban Hành chính địa phương giờ đã được chấp thuận cho việc bắt giữ các đảng viên Việt Quốc đã bị phát hiện hay còn tình nghi, tuy nhiên họ không săn lùng và hành quyết ngay lập tức. Trong những tháng sau đó, hàng ngàn người bị bắt, bị thẩm vấn. Hàng trăm người bị tống giam, bị đưa đến các trại cải tạo; hàng trăm người khác bị cách chức. Cán bộ phòng chính trị thuộc Sở Công an các tỉnh bắt những kẻ tình nghi, thẩm vấn, bắt ký vào lời khai, sau đó báo cáo lên chính quyền tỉnh là thả, xét xử hay biệt giam những người này. Từ cuối tháng 7/1946 cho đến cuối năm 1946, phần lớn những người bị công an giam giữ vì lý do chính trị đều bị xem là Việt Quốc. Công an tiếp tục thẩm vấn các đảng viên Việt Quốc về vụ bắt cóc một số đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương xảy ra vào cuối năm 1945.", "Cuối tháng 7/1946, Báo Việt Nam bị đình bản nhưng Tuần báo Chính Nghĩa vẫn tiếp tục xuất bản suốt 3 tháng sau. Báo chính Nghĩa đăng một loạt bài xã luận lên án chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa đế quốc Xô Viết đồng thời chỉ trích hệ thống Ủy ban Hành chính của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và việc chính phủ không thể thành lập hệ thống tư pháp độc lập, chính sách ngoại giao của Hồ Chí Minh cũng bị hoài nghi. Cuối tháng 10/1946, các bài xã luận và tin tức trong nước bị loại bỏ. Tới đầu tháng 12, Tuần báo Chính Nghĩa hoàn toàn bị vô hiệu hóa, không còn một tin tức hay bài viết nào đáng phải kiểm duyệt nữa.", "Từ tháng 7/1946 đến tháng 11/1946, nhiều Đại biểu Quốc hội là đảng viên Việt Quốc bị bắt. Đại biểu Phan Kích Nam, đảng viên Việt Quốc, bị bắt trong vụ án phố Ôn Như Hầu, bị buộc tội bắt cóc, tống tiền và bị tống giam ngay lập tức. Đại biểu Nguyễn Đổng Lâm bị công an Hải Dương bắt và bị kiến nghị gửi đến trại biệt giam trong 2 năm với lý do \"chính quyền địa phương sẽ gặp nhiều khó khăn nếu ông Lâm còn tự do ngoài vòng pháp luật\". Trường hợp của Lâm được báo cáo lên Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội Nguyễn Văn Tố. Nguyễn Văn Tố cùng Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra lệnh thả Lâm. Ngày 21/8/1946, Nguyễn Đổng Lâm được thả. Tại các địa phương khác, các Đại biểu Quốc hội là đảng viên Việt Quốc cũng bị sách nhiễu hoặc bắt giữ. Đại biểu Trình Như Tấu gửi kháng nghị đến 5 cơ quan chính phủ khác nhau sau khi ông bị dân quân bao vây nhà riêng để yêu cầu bồi thường một máy đánh chữ không có thật và đe dọa dùng vũ lực nếu ông không tuân thủ. Trình Như Tấu yêu cầu được bảo vệ với tư cách nghị sĩ nhưng không được hồi đáp. Tại Kỳ họp lần thứ hai của Quốc hội vào cuối tháng 10/1946, chưa tới 12 người trong số 50 Đại biểu Quốc hội thuộc Quốc dân Đảng tham dự.", "Sau khi rút lui về Yên Bái, Vũ Hồng Khanh nhận ra rằng nguồn cung cấp lương thực tại địa phương chỉ đủ nuôi sống lực lượng quân đội Việt Quốc chứ không đủ cung cấp cho những người ủng hộ Việt Quốc từ đồng bằng sông Hồng đến. Việc tiếp tế từ Lào Cai gặp nhiều khó khăn vì Việt Minh đã phá hủy đường sắt. Tới tháng 11, Lào Cai bị Vệ quốc quân bao vây và lương thực sắp hết. Vũ Hồng Khanh quyết định sơ tán sang Vân Nam và ra lệnh hành quyết 2 giảng viên học viện quân sự vì cố gắng dẫn học viên của họ quay trở lại đồng bằng. Tháng 10/1947, khi Pháp nhảy dù xuống Phú Thọ, công an Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bị cáo buộc giết chết hơn 100 tù nhân Việt Quốc trước nguy cơ họ có thể trốn thoát hoặc rơi vào tay người Pháp.", "Đại Việt Quốc dân đảng.", "Sau khi giành được chính quyền, ngày 5 tháng 9 năm 1945, nhân danh Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã ký Sắc lệnh số 8 giải thể Đại Việt Quốc dân Đảng với lý do \"\"Đại Việt Quốc dân Đảng đã âm mưu những việc hại cho sự độc lập quốc gia và nền kinh tế Việt Nam\".\"", "Do Chính phủ ban hành Sắc lệnh giải tán Đại Việt Quốc dân Đảng, nên các đảng viên Đại Việt đã mất tư cách pháp nhân để tham gia chính trường. Trước chiến thắng của Việt Minh trong cuộc Tổng tuyển cử, ngày 15 tháng 12 năm 1945, Đại Việt Quốc dân Đảng cùng với Việt Nam Quốc dân Đảng (lãnh đạo là Vũ Hồng Khanh) và Đại Việt Dân chính Đảng (lãnh đạo là Nguyễn Tường Tam) thành lập Mặt trận Quốc dân Đảng Việt Nam nhằm chống lại \"phe Cộng sản\". Trương Tử Anh làm Chủ tịch, Vũ Hồng Khanh làm Bí thư trưởng và Nguyễn Tường Tam làm Tổng thư ký. Việc tham gia Mặt trận Quốc dân Đảng giúp các đảng viên Đại Việt có lại khả năng tham chính dưới danh nghĩa của Mặt trận.", "Đối với chương trình hành động của Mặt trận Quốc dân Đảng, Đại Việt Quốc dân Đảng đưa ra kế hoạch bốn điểm nhằm chống lại Việt Minh trong việc bầu cử Quốc hội và thành lập Chính phủ Liên hiệp:", "Trong tháng 9 và tháng 10 năm 1945, các tổ chức khác nhau của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Minh có thể đã thủ tiêu hoặc bắt giữ hàng trăm đảng viên và những người có liên quan đến Đại Việt Quốc dân Đảng, Đại Việt Duy dân Cách mệnh Đảng tại các tỉnh Ninh Bình, Tuyên Quang, Thái Bình, Phú Thọ, Hưng Yên... Trương Tử Anh lẩn trốn sự truy nã của công an Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng thời liên tục cảnh báo Việt Nam Quốc dân Đảng không được liên minh với Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong suốt năm 1946, công an tiếp tục truy lùng các thành viên đảng Đại Việt. Theo David G. Marr, nhờ tuyên truyền có hiệu quả nên Việt Minh làm dân chúng tin rằng đảng viên Đại Việt là những tên tay sai cho phát xít Nhật dù trên thực tế trước ngày 9/3/1945 khi Nhật đảo chính Pháp chỉ có một số ít người Việt có quan hệ với người Nhật, sau ngày 9/3/1945 tất cả các đảng phái ở Việt Nam kể cả Việt Minh đều tiếp xúc với quân đội và nhân viên dân sự Nhật.", "Trong ngày 12/7/1946, một tiểu đội công an do Lê Hữu Qua chỉ huy bao vây khám xét trụ sở của đảng Đại Việt tại số 132 Duvigneau, do phát hiện Đại Việt cấu kết với Pháp âm mưu tiến hành đảo chính chính quyền cách mạng đúng vào ngày quốc khánh Pháp 14/7/1946. Khi thực hiện cuộc bao vây khám xét này, lực lượng công an chưa có chứng cứ cụ thể và chưa có lệnh của cấp trên. Nhưng vẫn thực hiện bao vây khám xét để các thành viên Đại Việt không có thời gian rút vào bí mật và tẩu tán truyền đơn, hiệu triệu lật đổ chính quyền. Lực lượng công an đột kích bất ngờ vào lúc sáng sớm khiến cho lính canh và các đảng viên Đại Việt không kịp có hành động phản ứng. Tại trụ sở của Đại Việt, lực lượng công an đã tìm thấy nhiều truyền đơn, hiệu triệu chưa kịp tẩu tán cùng nhiều súng ống, lựu đạn.", "Sau khi Pháp tái chiếm Đông Dương, ngày 19 tháng 12 năm 1946, thì Trương Tử Anh đột ngột mất tích. Có nguồn cho là ông bị Việt Minh thủ tiêu.", "Đại Việt Quốc gia Xã hội Đảng.", "Đại Việt Quốc gia Xã hội Đảng (thường được gọi tắt là Đại Việt Quốc xã) theo Chủ nghĩa Quốc xã do Nguyễn Xuân Tiếu sáng lập vào năm 1936, Trần Trọng Kim là Tổng bí thư. Đây là tổ chức chính trị thân Đế quốc Nhật Bản, được thành lập để làm hậu thuẫn chính trị cho việc lập ra một Đế quốc Việt Nam, được xem là \"chính phủ tay sai\" của Nhật Bản trong thời kỳ Đế quốc Nhật chiếm đóng và thống trị Đông Á, Đông Nam Á và Việt Nam trong Chiến tranh Thái Bình Dương. Đại Việt Quốc xã là lực lượng có xu hướng bảo hoàng với khoảng 2 ngàn thành viên, ảnh hưởng ở các thị thành công nghiệp nhẹ ở miền Bắc như Hà Nội, Hải Phòng trong thời gian Chiến tranh Thế giới thứ hai diễn ra.", "Sau khi Việt Minh giành được chính quyền, ngày 5 tháng 9 năm 1945, thừa ủy quyền Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã ký Sắc lệnh số 8 giải thể Đại Việt Quốc gia Xã hội Đảng với lý do \"Đại Việt Quốc gia Xã hội Đảng đã tư thông với ngoại quốc để mưu những việc có hại cho sự độc lập Việt Nam\".", "Đại Việt Duy dân Cách mệnh Đảng.", "Trong thời gian quân Tưởng vào miền Bắc, Đại Việt Duy dân tìm cách thâm nhập gây cơ sở ở Hòa Bình, xây dựng Hòa Bình thành căn cứ. Đại Việt Duy dân liên kết với một số lang đạo chống chính quyền, lôi kéo một số lang đạo có thái độ hai mặt trong bộ máy chính quyền các cấp và được số này che chở. Vì vậy, cơ sở Đại Việt Duy dân phát triển khá nhanh bao gồm một số huyện của tỉnh Hà Đông (cũ), Ninh Bình, Hà Nam, Hòa Bình. Đảng Đại Việt Duy dân chọn Mường Diềm làm căn cứ chính của Đại Việt Duy dân ở Hòa Bình. Được các lang đạo giúp đỡ, Đại Việt Duy dân đã tích cực xây dựng lực lượng vũ trang bằng cách đưa thành viên từ miền xuôi lên, tập hợp thành viên ở địa phương, thành lập được một số đơn vị, mở một vài lớp huấn luyện quân sự...", "Giữa năm 1946, Đại Việt Duy dân bị chính quyền tấn công mạnh tại Hà Nội và các tỉnh ở đồng bằng. Đảng trưởng Đại Việt Duy dân Lý Đông A (tức Trần Khắc Tường) phải rời Hà Nội về Gia Viễn (Ninh Bình). Tại đây, Lý Đông A lại bị truy đuổi phải chạy lên Hòa Bình và về vùng Diềm. Nhiều thành viên Đại Việt Duy dân ở các nơi khác bị truy quét cũng chạy lên Hòa Bình.", "Trong thế bị truy đuổi, dồn ép, các lãnh đạo Đại Việt Duy dân dựa vào sự giúp đỡ của lang đạo chống chính quyền và có được một vài đơn vị vũ trang trong tay dự định đánh chiếm Lương Sơn, Lạc Sơn, Chợ Bờ, Suối Rút rồi tiến lên đánh chiếm thị xã Hòa Bình, làm chủ toàn bộ tỉnh Hòa Bình. Lấy Hòa Bình làm bàn đạp chiếm Sơn La, xây dựng Hòa Bình - Sơn La thành một căn cứ rộng lớn ở miền núi rừng Tây Bắc để chống lại chính quyền do Việt Minh lãnh đạo. Nhưng kế hoạch của Đại Việt Duy dân đã bị quần chúng phát giác.", "Ban cán sự Đảng Cộng sản Đông Dương tỉnh Hòa Bình thông qua con trai lang cun Mường Diềm là cán bộ phụ trách lực lượng vũ trang của huyện Mai Đà đã nắm được những tin tức quan trọng về tổ chức, hoạt động của Đại Việt Duy dân và đặc biệt là nắm được âm mưu kế hoạch bạo loạn của Đại Việt Duy dân.", "Do nắm được kế hoạch của Đảng Đại Việt Duy dân nên trước ngày Đại Việt Duy dân định khởi sự, Ban cán sự Đảng tỉnh Hòa Bình đã chỉ đạo lực lượng vũ trang, công an tiêu diệt các toán vũ trang của Đại Việt Duy dân ở Lạc Sơn, Kỳ Sơn, Cao Phong, Lương Sơn, thị xã Hòa Bình. Để tiêu diệt căn cứ của Lý Đông A tại vùng Mường Diềm, Ban cán sự Đảng tỉnh đã dùng mưu dụ toán vũ trang của Đại Việt Duy dân ra khỏi căn cứ. Lực lượng chiến đấu của Ban cán sự Đảng tỉnh Hòa Bình đã tiêu diệt và bắt sống đại bộ phận lãnh đạo và lực lượng vũ trang của Đại Việt Duy dân tại Bến Chương. Đảng trưởng Lý Đông A chết tại Bến Chương thuộc xã Hiền Lương - Mai Đà.", "Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội.", "Khi quân Trung Hoa tiến vào miền Bắt Việt Nam để giải giáp quân Nhật, lực lượng của Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội cũng theo về, mục đích của Việt Quốc, Việt Cách để mở đường, tạo dựng cơ sở cho Quân đội Trung Hoa Dân quốc vào Việt Nam, gây xung đột vũ trang với Quân Giải phóng và cướp chính quyền các địa phương... Ngày 11 tháng 5, các Lữ đoàn hành động theo 4 hướng vượt biên giới. Tuy nhiên trong 4 cánh quân này khi xung đột vũ trang với Việt Minh thì 3 cánh quân (do Lê Tùng Sơn, Bồ Xuân Luật và Trương Trung Phụng chỉ huy) đã hạ vũ khí, tự giải giáp hoặc gia nhập lực lượng quân đội quốc gia của Việt Minh, chỉ có một cánh quân do Vũ Kim Thành chạy về vùng Hải Ninh rồi bị tiêu diệt. Bồ Xuân Luật sau đó làm Bộ trưởng trong Chính phủ Liên hiệp.", "Riêng Nguyễn Hải Thần thì về Hà Nội lập trụ sở ở đường Quan Thánh phố Cửa Bắc, tìm cách vận động dân chúng nội thành ủng hộ. Việt Cách bắc loa tố cáo Việt Minh là cộng sản; sự việc dẫn đến xô xát giữa những đám người ủng hộ và chống đối. Trong khi lãnh đạo các phe phái Việt Minh, Việt Quốc, Việt Cách tranh cãi về các định nghĩa pháp lý, về việc bổ nhiệm các bộ trưởng và việc đưa ra các tuyên bố chung để đi đến thành lập Chính phủ Liên hiệp thì các chủ bút, cán bộ chính trị, lực lượng vũ trang của các bên vẫn đấu tranh với nhau gay gắt. Bộ Tuyên truyền của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi đến ban biên tập các tờ báo một bức thư hư cấu chỉ trích Nguyễn Hải Thần không cử người tham gia đoàn quân Nam tiến chi viện cho miền Nam đồng thời buộc tội ông thỏa thuận với quân Pháp. Báo chí thường xuyên cáo buộc Việt Cách và Việt Quốc tống tiền dân chúng. Công an Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thường xuyên bắt giữ các thành viên Việt Cách vì tội tống tiền, đặc biệt là đối với Hoa kiều. Các thành viên Việt Minh và Việt Cách xé áp phích của nhau, đe dọa tính mạng và phá các cuộc họp của đối thủ. Việt Minh khuyến khích Bồ Xuân Luật rời bỏ Việt Cách lập ra tờ \"báo Đồng Minh\" xuất bản cho đến tháng 11 năm 1946. Mười ngày sau đó, tại Hà Nội, Bồ Xuân Luật bị phục kích nhưng may mắn thoát chết.", "Các lãnh đạo Việt Cách không gặp khó khăn gì trong việc kiểm soát các thị xã từ biên giới Trung Quốc đến đồng bằng sông Hồng cho đến khi quân đội Trung Quốc rút về nước vào tháng 4/1946. Các viên chức nhà nước tại những nơi đó phải đối mặt với việc trung thành với Việt Cách, trung lập hay di tản khỏi thị xã. Việt Cách đôi khi phải xin phép chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để thực hiện một số hoạt động của họ.", "Bị Việt Quốc làm lu mờ và ngày càng mất đoàn kết, tháng 3/1946, Việt Cách bị chia rẽ. Một số thành viên tập trung bảo vệ các thị xã phía Bắc Hà Nội, những người khác gia nhập Việt Quốc, số còn lại lệ thuộc Việt Minh. Việt Cách có thể đã tổ chức một số cuộc tấn công vào lính Pháp tại Hải Phòng vào tháng 4/1946. Cuối tháng 4/1946, Pháp khai quật được 12 thi hài tại tầng hầm trụ sở cũ của Việt Cách tại Hà Nội trong đó có 2 công dân Pháp mất tích ngày 24/12/1945. Cuối tháng 5/1946, thành viên Việt Cách Hồ Đắc Thành tham gia Hội Liên Việt. Các thành viên Việt Cách ở Quảng Yên và Móng Cái đã rút qua Trung Quốc vào giữa tháng 6/1946. Cuối tháng 10/1946, \"báo Đồng Minh\" của Bồ Xuân Luật đưa tin về cuộc họp của một số chi bộ còn lại của Việt Cách và việc một số thành viên Việt Cách tham gia kỳ họp thứ hai của Quốc hội. Công an thu được một số tài liệu của Việt Cách và triệu tập các thành viên Việt Cách tới thẩm vấn. Từ đó trở đi một vài thành viên Việt Cách hợp tác với Việt Minh để xây dựng một hình ảnh mặt trận quốc gia liên hiệp giữa các đảng phái trong khi đó các thành viên khác bị tống giam hoặc phải lưu vong.", "Trotskyist.", "Tạ Thu Thâu là người tổ chức và lãnh đạo phong trào Tả Đối lập Trốt-kít (\"L'Opposition de Gauche\"), ông hoạt động cách mạng bằng nhiều phương tiện. Về báo chí, ông xuất bản tờ \"Vô sản\" (tháng 5 năm 1932), làm báo Pháp ngữ \"La Lutte\" (\"Tranh đấu\"; tháng 4 năm 1933); nhóm trí thức làm báo này được gọi là \"Les Lutteurs\" (\"nhóm Tranh đấu\") theo tên tờ báo. Có tên trong đó còn có Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Huỳnh Văn Phương, Trần Văn Thạch và Dương Bạch Mai. Vì những hoạt động này Tạ Thu Thâu bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam từ tháng 8/1932 đến tháng 1/1933.", "Ngay sau khi cấm Đại Việt Quốc dân Đảng hoạt động, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tố cáo những người Trotskyist (nhóm La Lutte và nhóm Liên minh Cộng sản Quốc tế) là kẻ thù của mình. Đảng cộng sản Đông Dương và những người Trotskyist từ lâu đã chỉ trích nhau là tay sai đế quốc. Tuy nhiên xung đột của hai nhóm này trước năm 1945 chỉ thể hiện bằng báo chí, diễn thuyết, truyền đơn. Sau năm 1945, hai nhóm bất đồng quan điểm về việc thực hiện cách mạng xã hội và cách đối phó với việc Đồng Minh đổ bộ vào Nam Kỳ. Những người Trotskyist muốn thực hiện ngay lập tức một cuộc cách mạng xã hội và vũ trang quần chúng chống lại lực lượng Đồng Minh còn Đảng Cộng sản Đông Dương muốn thực hiện giải phóng dân tộc trước rồi làm cách mạng xã hội đồng thời thỏa hiệp với Đồng Minh để giành độc lập từng bước.", "Ngày 7 và 8 tháng 9 năm 1945, một số thành viên Trotskyist cùng tín đồ Phật giáo Hòa Hảo tham gia một cuộc tấn công đẫm máu nhưng bất thành nhằm vào các thành viên Việt Minh ở Cần Thơ. Họ tổ chức một cuộc biểu tình của khoảng 20.000 tín đồ Phật giáo Hòa Hảo với các khẩu hiệu \"Võ trang quần chúng chống thực dân Pháp. Tẩy uế các phần tử thúi nát trong Ủy ban Hành chánh Nam bộ\". Việt Minh huy động Thanh niên Tiền phong bắn vào đoàn biểu tình khiến nhiều người chết và bị thương.", "Ngay sau đó, Dương Bạch Mai tống giam những người Trotskyist tại Sài Gòn. Binh lính Anh tìm thấy họ đêm 22/9/1945 và giao nộp cho người Pháp. Sau khi được thả, những người Trotskyist tổ chức tấn công quân Anh, Pháp theo lời kêu gọi Nam Bộ kháng chiến của Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ do Trần Văn Giàu đứng đầu. Trong một đợt tổng rút quân của lực lượng kháng chiến Nam Bộ giữa tháng 10/1945, Đảng Cộng sản Đông Dương đã truy lùng, bắt giữ và hành quyết một cách có hệ thống khoảng 20 lãnh đạo phe Trotskyist trong đó có Phan Văn Hùm, một lãnh đạo có uy tín của phe Trotskyist. Những thành viên Trotskyist khác phải nương tựa Hòa Hảo và các đảng phái quốc gia khác ở đồng bằng sông Cửu Long.", "Cuối năm 1945, trên đường ra Hà Nội, vừa đến Quảng Ngãi, ông bị giết. Một số ý kiến khác cho rằng sau khi Nhật đảo chính Pháp vào tháng 9 năm 1945, Tạ Thu Thâu về Nam Kỳ. Trên đường về, ông bị Việt Minh bắt và sau đó xử tử tại Quảng Ngãi. Phan Văn Hùm cũng là một thành viên nổi bật trong nhóm Trotskyist. Đầu năm 1946, khi Pháp đánh chiếm lại Nam Bộ, Phan Văn Hùm bị Kiều Đắc Thắng giết tại miền Đông Nam Bộ.", "Tại miền Bắc, các chính quyền địa phương được lệnh phát hiện, bắt giữ và tống giam những người Trotskyist tuy Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không ra văn bản nào cấm lực lượng này hoạt động. Đến năm 1946, những người Trotskyist tại miền Bắc không còn là mối lo ngại đối với chính quyền hoặc không còn người Trotskyist nào bị phát hiện. Trên báo chí, từ Trotskyist vẫn tiếp tục xuất hiện là để cảnh cáo những nhân viên nhà nước công khai phàn nàn đồng lương không đủ sống hay những người dám đấu tranh để người lao động kiểm soát nhà máy, xí nghiệp.", "Hòa Hảo.", "Tây Nam Bộ là nơi phát tích của giáo phái Hòa Hảo. Đa số tín đồ là những người dân hiền hòa, yêu nước. Nhằm thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân, Ủy ban Nhân dân Nam Bộ mới thành lập sau Cách mạng tháng Tám đã mời người sáng lập giáo phái Hòa Hảo là Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ giữ chức ủy viên đặc biệt của Ủy ban. Tuy nhiên, theo Việt Minh, một số lãnh đạo Hòa Hảo có nhiều tham vọng về quyền hành đã lợi dụng danh nghĩa của giáo phái Hòa Hảo đòi giao những tỉnh có đông tín đồ (như Cần Thơ, Long Xuyên, Châu Đốc) cho họ cai quản, quản lý. Khi yêu sách này không được đáp ứng, họ 2 lần tổ chức biểu tình tuần hành, kéo vào thị xã Long Xuyên (cuối tháng 8-1945) và thị xã Châu Đốc (đầu tháng 9-1945) định gây bạo loạn cướp chính quyền. Lực lượng vũ trang cách mạng được huy động đến kịp thời giải tán. Theo Archimedes L.A Patti, Hòa Hảo chống lại chủ trương của Việt Minh muốn đàm phán với Đồng Minh nên tổ chức biểu tình đòi vũ trang quần chúng chống lại việc quân Anh, Pháp đổ bộ vào Nam Kỳ.", "Ngày 9/9/1945, những người đứng đầu Phật giáo Hòa Hảo lại tổ chức tuần hành ở thị xã Cần Thơ với lý do \"đi rước Đức Thầy\", theo Việt Minh Hòa Hảo dự định cướp chính quyền. Chính quyền tỉnh Cần Thơ giải tán cuộc biểu tình này, bắt những người cầm đầu, đưa ra tòa xét xử và kết án tử hình 3 người đứng đầu. Đối với tín đồ, chính quyền giải thích ý đồ của lãnh đạo Hòa Hảo, khuyên họ trở về nhà tiếp tục làm ăn, không để bị lợi dụng.", "Với chủ trương đại đoàn kết toàn dân, ngày 6 tháng 2 năm 1946, tại Chợ Mới (Long Xuyên), Nguyễn Hữu Xuyến, Trung đoàn trưởng Khu 8, đã ký với Trần Văn Soái (Năm Lửa), thủ lĩnh một nhóm Hòa Hảo Dân Xã, một thỏa ước nhằm gác bỏ mọi hiềm khích và hiểu lầm cũ, cùng nhau đoàn kết chống thực dân Pháp. Thỏa ước này gồm 3 điều khoản:", "Tháng 6 năm 1946 Hòa Hảo tổ chức lại lực lượng vũ trang lấy tên Nghĩa quân Cách mạng Vệ quốc Liên đội Nguyễn Trung Trực. Pháp hỗ trợ những người chống chính quyền của Việt Minh trong đạo Hòa Hảo, trang bị và cung cấp tiền bạc cho họ. Pháp liên minh với những người đứng đầu Hòa Hảo có tư tưởng chống Việt Minh, lập ra nhiều đơn vị vũ trang mới ngoài những đơn vị vũ trang Hòa Hảo khác thành lập từ năm 1944, chiếm cứ một số vùng ở Tây Nam Bộ. Được Pháp trợ giúp, những người chống Việt Minh lập ra 4 nhóm nhằm mục đích để chống lại Việt Minh. Các nhóm này gồm:", "Sau một thời gian tạm hòa hoãn với Việt Minh, từ tháng 3-1947, nhóm Trần Văn Soái bỏ không tham gia kháng chiến do Việt Minh lãnh đạo nữa, mà cùng một tiểu đoàn Lê dương Pháp mở cuộc càn quét lớn vào 5 làng ở vùng Tân Châu (Châu Đốc). Đại đội 65 Vệ quốc đoàn cùng dân quân du kích địa phương đã đánh trả quyết liệt, buộc lực lượng của Năm Lửa và quân Pháp phải rút lui.", "Cuối tháng 3 đầu tháng 4-1947 ở Tịnh Biên, Tri Tôn (Châu Đốc), lực lượng Hòa Hảo và Cao Đài Tây Ninh chống Việt Minh liên tục đánh phá vùng Việt Minh kiểm soát, tàn sát thường dân, đốt phá xóm làng, truy lùng cán bộ Việt Minh và quần chúng cốt cán của kháng chiến. Theo Việt Minh, những người cầm đầu Dân xã Hòa Hảo phát động một cuộc tắm máu ở Tây Nam Bộ vào ngày 6/4/1947. Những người dân không ủng hộ Dân xã Hòa Hảo đều bị xem là kẻ thù, bị giết, buộc đá vào cổ, thả trôi sông. Dân chúng vô cùng phẫn uất trước hành động dã man của Dân xã Hòa Hảo. Ngoài việc giết hại dân thường, quân Dân xã Hòa Hảo còn tổ chức các hành động cướp phá ở các vùng do Việt Minh kiểm soát tại các tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc, Cần Thơ.", "Ngày 16 tháng 4 năm 1947 Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ đột ngột mất tích khi đến Tân Phú, Đồng Tháp Mười để hòa giải xung đột giữa Việt Minh và Phật giáo Hòa Hảo. Các tài liệu của phương Tây, Việt Nam Cộng hòa đều cho rằng Việt Minh thủ tiêu Huỳnh Phú Sổ. Sau khi Huỳnh Phú Sổ mất tích, quan hệ Việt Minh - Hòa Hảo hoàn toàn đổ vỡ.", "Năm 1947, các lực lượng Việt Minh vừa tổ chức tuyên truyền vũ trang, vừa mở một trận đánh lớn tại Kinh 13. Chỉ huy quân sự của Dân xã Hòa Hảo lừa dối tín đồ nói: \"Súng Việt Minh bắn không nổ!\", xua tín đồ tràn vào trận địa của Việt Minh. Lực lượng vũ trang của Việt Minh một mặt giải thích cho các tín đồ hiểu, mặt khác đánh quân của Dân xã Hòa Hảo, diệt nhiều lính, thu nhiều súng, có 1 Bazoka. Ở khu vực giữa Phú An - Phú Lâm (Tân Châu), Đại đội 65 đánh bật lực lượng của Dân xã ra khỏi vùng này. Việt Minh mở rộng công tác vũ trang tuyên truyền về hướng Thoại Sơn, tiếp tục tiến công ở Ba Thê, đánh lính Lê dương đi tàu sắt đổ bộ lên Mốp Văn và Núi Sập, diệt trên 200 lính.", "Tháng 6/1947, nhằm thu hút tín đồ Hòa Hảo tạo thành khối đoàn kết các lực lượng chống Pháp, Việt Minh thành lập Ban Hòa Hảo vận tại Chợ Mới - Nhà Bàn, tập trung hoạt động vùng Long Xuyên, Châu Đốc, tuyên truyền chính sách đại đoàn kết dân tộc, vận động tín đồ Hòa Hảo cùng toàn dân kháng chiến chống xâm lược Pháp. Do Phật giáo Hòa Hảo có tín đồ rất đông ở miền Tây, nhất là các tỉnh: Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên, Cần Thơ… Đạo này có tổ chức chính trị là Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng làm nòng cốt, nên có nhiều diễn biến phức tạp ngay cả trong nội bộ của đạo. Những người chống Việt Minh trong đạo Hòa Hảo, tổ chức nhiều lực lượng vũ trang hợp tác với Pháp, áp bức khủng bố dân chúng ủng hộ Việt Minh, gây ra nhiều tội ác. Dù vậy, đa số tín đồ là nông dân, khi Việt Minh tích cực vận động thì một số tín đồ Hòa Hảo giác ngộ và tham gia cuộc kháng chiến do Việt Minh lãnh đạo. Sư thúc Huỳnh Văn Trí là người chỉ huy một đơn vị vũ trang trong kháng chiến đã có công lớn trong công cuộc vận động tín đồ Hòa Hảo tham gia kháng chiến. Trong những năm 1949 - 1950, nhiều đồn bốt đã án binh bất động, \"trung lập hóa\", không đàn áp dân chúng và tránh không đụng độ với lực lượng Việt Minh.", "Cao Đài.", "Đạo Cao Đài là một tôn giáo được thành lập ở Việt Nam vào đầu thế kỷ XX, năm 1926. Tên gọi Cao Đài theo nghĩa đen chỉ \"một nơi cao\", nghĩa bóng là nơi cao nhất ở đó Thượng đế ngự trị; cũng là danh xưng rút gọn của Thượng đế trong tôn giáo Cao Đài, vốn có danh xưng đầy đủ là \"Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát\". Để tỏ lòng tôn kính, một số tín đồ Cao Đài thường gọi tôn giáo của mình là đạo Trời.", "Cả người Nhật lẫn Việt Minh đều tranh thủ ra sức lôi kéo các nhóm Cao Đài. Do sự vận động của các cán bộ Việt Minh, một nhóm các chức sắc Cao Đài, nòng cốt ở các phái Tiên Thiên, Ban Chỉnh Đạo và Minh Chơn Đạo, đã bí mật thành lập Hội Cao Đài Cứu Quốc. Hội hoạt động chủ yếu ở các vùng xa ở Tây Nam Bộ, bí mật tập hợp lực lượng trên nền tảng Thanh niên Đạo đức đoàn dưới sự lãnh đạo của Cao Triều Phát cố vấn Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, có xu hướng chống cả Pháp lẫn Nhật. Người Nhật thì can thiệp mở lại Tòa Thánh Tây Ninh tại Sài Gòn, đổi lại việc Giáo sư Thượng Vinh Thanh (Trần Quang Vinh), người tạm thời thay mặt Hộ pháp Phạm Công Tắc lãnh đạo các tín đồ Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh, tập hợp các tín đồ hợp tác với quân đội Nhật để chống Pháp. Khá đông tín đồ Cao Đài được tuyển làm nhân công của xưởng đóng tàu Nichinan của quân đội Nhật tại Nam Bộ. Một lực lượng bán vũ trang Cao Đài được ra đời với tên gọi Nội ứng nghĩa binh, dưới danh nghĩa được Hoàng thân Cường Để chỉ thị thành lập để liên minh với Nhật Bản.", "Trong Cách mạng tháng Tám, nhiều nhóm bán vũ trang Cao Đài đã gia nhập Cao Đài Cứu Quốc và tham gia giành chính quyền ở khắp Nam Bộ. Sau khi giành được chính quyền cuối tháng 8 năm 1945, nhiều chức sắc Cao Đài được chính quyền Việt Minh mời ra tham chính. Tại Tây Ninh, một tín đồ Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh là ông Trương Văn Xương được mời làm Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chánh tỉnh, một chức sắc Cao Đài thuộc Tòa Thánh Tây Ninh khác là Giáo sư Thượng Chữ Thanh (Đặng Trung Chữ) được mời làm cố vấn.", "Khi Pháp tái chiếm Nam Bộ, lực lượng vũ trang Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh tham chiến tại các mặt trận số 1 và số 2, chiến đấu ở mặt Đông và Bắc Sài Gòn. Sau khi vào Nam, Đặc phái viên Trung ương Nguyễn Bình đã tổ chức hội nghị An Phú Xã, thống nhất tổ chức các đơn vị vũ trang thành các chi đội Vệ Quốc đoàn. Lực lượng vũ trang Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh được tổ chức thành 2 chi đội số 7 do Nguyễn Thanh Bạch chỉ huy và chi đội số 8 do Nguyễn Hoài Thanh chỉ huy.", "Tuy nhiên, trước sức mạnh của quân Pháp, các mặt trận nhanh chóng tan vỡ. Nhiều đơn vị vũ trang tan rã, hoặc trở thành những lực lượng quân phiệt cát cứ, không chịu sự chỉ huy thống nhất. Một số chức sắc cao cấp và chỉ huy quân sự Cao Đài đã đưa lực lượng của mình rút về Tây Ninh và xây dựng các căn cứ để bảo vệ Tòa Thánh Tây Ninh. Hành động cát cứ này là lý do để các phần tử Việt Minh quá khích lên án các tín đồ Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh là phản bội. Một vài cuộc xung đột đẫm máu đã nổ ra bắt nguồn từ những tín đồ Cao Đài và các phần tử Việt Minh quá khích. Chi đội số 7 và số 8 do Cao Đài chỉ huy bị Việt Minh bao vây tước khí giới. Giáo sư Thượng Vinh Thanh (Trần Quang Vinh) cũng bị bắt tại Chợ Đệm và bị giải giam tại Cà Mau cùng với Giáo sư Hồ Văn Ngà, Chủ tịch Việt Nam Độc lập Đảng.", "Nắm được sự mâu thuẫn này và để tranh thủ thêm đồng minh trong cuộc chiến chống Việt Minh, chính quyền Pháp cho phép Hộ pháp Phạm Công Tắc trở về Tòa Thánh Tây Ninh, đổi lại các tín đồ Cao Đài sẽ không tấn công người Pháp và được quân Pháp bảo trợ. Thậm chí, chính quyền Pháp còn cho phép các lãnh thổ do Tòa Thánh Tây Ninh kiểm soát có quyền tự trị. Lực lượng vũ trang Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh được chính quyền Pháp bảo trợ và trang bị vũ khí, do Trung tướng Trần Quang Vinh làm Tổng tư lệnh, Thiếu tướng Nguyễn Văn Thành làm Tham mưu trưởng, có vai trò như một lực lượng bổ sung (Forces supplétives), hỗ trợ quân Pháp trong các chiến dịch tấn công Việt Minh.", "Bất đồng trước sự hợp tác của một số chức sắc với quân Pháp, các chức sắc còn lại của Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh đã gia nhập \"Cao Đài Cứu Quốc\", mở rộng thành \"Cao Đài Cứu Quốc 12 phái Hiệp Nhứt\" với lập trường tiếp tục ủng hộ kháng chiến chống Pháp. Các lực lượng vũ trang của Cao Đài Cứu Quốc được tập hợp thành Trung đoàn 124, chiến đấu cho đến hết cuộc Kháng chiến chống Pháp dưới quyền chỉ huy của Việt Minh. Phản ứng trước việc này, lãnh đạo Tòa Thánh Tây Ninh tuyên bố trục xuất các chức sắc và tín đồ Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh nào tham gia Cao Đài Cứu Quốc.", "Bình Xuyên.", "\"Bình Xuyên\" nguyên thủy là ấp Bình Xuyên thuộc làng Chánh Hưng, huyện Nhà Bè, Sài Gòn. Kể từ năm 1945, danh xưng \"Bình Xuyên\" được dùng để mô tả Bộ đội Bình Xuyên với nòng cốt là giới du đãng ven Sài Gòn, hoạt động trong 10 năm (1945 - 1955).", "Sau khi quân Anh-Pháp gây hấn ở Sài Gòn (23 tháng 9 năm 1945), nhiều lực lượng quân sự chống Pháp được thành lập. Người lập bộ đội thường lấy tên của mình đặt cho lực lượng trong vùng, như bộ đội Tân Quy cũng được gọi là bộ đội Dương Văn Dương, hay gọn hơn là bộ đội Ba Dương. Bộ đội Nhà Bè mang tên bộ đội Hai Nhị, Hai Soái... Khi Dương Văn Dương, thủ lĩnh các nhóm giang hồ Nam Bộ, thống nhất các lực lượng quân sự chống Pháp ở Tân Quy, Tân Thuận, Nhà Bè, Thủ Thiêm, ông đã chọn cái tên \"Bình Xuyên\" để đặt cho lực lượng thống nhất này. Đây là tên chữ trên bản đồ Sài Gòn - Chợ Lớn để chỉ vùng Hố Bần, còn gọi là Xóm Cỏ, địa bàn hoạt động của lực lượng này. Cái tên \"Bình Xuyên\" còn hàm chỉ: \"Bình\" gợi chiến công đánh chiếm và bình định, còn chữ \"Xuyên\" để chỉ vùng chi chít sông rạch.", "Bộ đội Bình Xuyên là lực lượng quân sự mạnh nhất ở vùng Đông Nam Bộ thời bấy giờ. Địa bàn hoạt động được tổ chức thành Liên khu Bình Xuyên (gồm các chi đội số 2, 3, 4, 7, 9, 21, 25), đảm trách nhiệm vụ bao vây quân Anh-Pháp ở mạn Nam Sài Gòn. Sau khi đặc phái viên trung ương Nguyễn Bình vào tổ chức quân đội, Dương Văn Dương được chỉ định làm Khu bộ phó Khu 7. Sau khi Dương Văn Dương tử trận vào năm 1946, lực lượng Bình Xuyên bị phân hóa. Một bộ phận chống Pháp do Dương Văn Hà (tức Năm Hà, em cùng cha khác mẹ của Dương Văn Dương) chỉ huy, được tổ chức lại và phiên chế chính quy thành Vệ quốc đoàn. Một bộ phận khác do Lê Văn Viễn (tức Bảy Viễn) chỉ huy, li khai năm 1948 và hợp tác với Pháp, sau đó tham gia vào chính phủ Quốc gia Việt Nam. Thành phần này là lực lượng Bình Xuyên được biết đến nhiều nhất vào thập niên 1950. Tháng 12/1947, Đại úy Savani (Thuộc Phòng nhì Pháp, một cơ quan tình báo quốc phòng hải ngoại của Pháp) cho người bí mật tiếp xúc với Bảy Viễn để chuẩn bị lập Chiến khu Quốc gia Rừng Sác.", "Đầu năm 1948, Bảy Viễn đồng ý đi Đồng Tháp gặp Nguyễn Bình (Nguyễn Bình cho mời Huỳnh Văn Nghệ hay còn gọi là Tám Nghệ đi Rừng Sác để thuyết phục vì biết Bảy Viễn rất nể trọng Tám Nghệ dù ông tướng này không phải dân giang hồ), và để tham gia cuộc họp quan trọng do Nguyễn Bình chủ trì với mục đích phong Bảy Viễn chức Khu trưởng khu 7, đồng thời giải quyết những mâu thuẫn đang tồn tại giữa bộ đội Bình Xuyên của Bảy Viễn và bộ đội Nguyễn Bình. Tại cuộc họp, Bảy Viễn đã trả lời những chất vấn của Nguyễn Bình về những mâu thuẫn nội bộ và tỏ ý nghi ngờ, lưỡng lự trong việc nhận chức Khu trưởng khu 7 mà trước đó Bảy Viễn cho rằng người xứng đáng nhận chức này phải là Huỳnh Văn Nghệ vì chiến công của bộ đội Tám Nghệ vượt xa những chiến công của bộ đội Bảy Viễn. Nguyễn Bình quyết định giải tán các đơn vị thuộc Bình Xuyên, phiên chế thành các đơn vị Vệ quốc đoàn để đối phó âm mưu chia rẽ các lực lượng Quốc gia và Việt Minh của Phòng nhì Pháp, mặc cho rất nhiều những lãnh đạo chủ chốt bên phía Bình Xuyên phản đối quyết định này (Bao gồm cả Mười Trí, một trong những thủ lĩnh chính của Lực lượng Bình Xuyên). Nguyễn Long Thành Nam cho rằng Bảy Viễn phản đối quyết liệt vì ông nghĩ Nguyễn Bình đã sát hại Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ và hai lần ám sát Viễn nhưng bất thành. Bảy Viễn nói với Nguyễn Bình \"\"chúng tôi không hài lòng về cung cách đồng chí đối xử với chúng tôi. Bình Xuyên đã chiến đấu từ trước khi đồng chí vào tới Nam Bộ, đồng chí không hề đề nghị giúp đỡ gì chúng tôi, mà đồng chí chỉ hạ lịnh bắt chúng tôi phải thi hành... Chúng tôi nghĩ rằng các chánh trị viên không có gì để dạy dỗ chúng tôi. Chúng tôi đã ý thức cầm súng chiến đấu vì nền độc lập của tổ quốc, và để đòi tự do. Chúng tôi không chiến đấu cho một chế độ đảng trị, hay để củng cố uy quyền lãnh đạo đã nhẫn tâm tàn sát đồng đội một cách ác độc hơn là đối với quân thù...\". Bảy Viễn hỏi Nguyễn Bình vì sao giết giáo chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ thì được Nguyễn Bình trả lời \"Đó là kẻ lúc nào cũng mưu tính diệt Cộng sản và cá nhân tôi, cho nên phải tiêu diệt\". Bảy Viễn kết tội Nguyễn Bình đã hai lần ám sát ông, Nguyễn Bình phản bác \"Chính hắn (Bảy Viễn) đã nhiều lần mưu sát tôi, đoàn hộ vệ của tôi đã chết về tay hắn\"\". Bảy Viễn từ chối chức Khu trưởng khu 7 và tỏ vẻ bất hợp tác với Việt Minh. Trên đường từ Đồng Tháp trở về Rừng Sác, Bảy Viễn và đoàn tùy tùng bị Trung đoàn 306 của Nguyễn Bình phục kích trong đêm nhưng Bình Xuyên đã đề phòng nên họ thoát khỏi vòng phục kích.", "Ngày 12 tháng 6 năm 1948, qua sự trung gian móc nối của Đại úy Savani (Trưởng phòng nhì Pháp) cùng Thiếu úy Cistisni, Bảy Viễn họp với 2 sĩ quan Pháp bàn việc hợp tác giữa 2 bên. Ngày 13 tháng 6, Bảy Viễn mở cuộc hành quân để tái chiếm chiến khu Rừng Sác của Việt Minh nhưng không thành vì tướng Nguyễn Bình đã cho củng cố chiến khu này rất chặt chẽ. Ngày 1 tháng 8 cùng năm, Bảy Viễn được Tướng De Latour gắn lon Đại tá và thuộc quyền Tổng trấn Nam phần.", "Từ năm 1948, nhóm Bình Xuyên li khai là một lực lượng quân sự bổ sung nằm trong khối Liên hiệp Pháp dưới danh xưng \"Công an Xung phong\", địa bàn hoạt động ở xung quanh Sài Gòn. Dưới sự đồng thuận của Pháp, Bình Xuyên kiểm soát nhiều sòng bài, nhà thổ, cùng những thương cuộc lớn nhỏ khắp vùng Sài Gòn - Chợ Lớn trong đó phải kể Casino Grande Monde (Đại Thế giới), Casino Cloche d'Or (Kim Chung), Bách hóa Noveautes Catinat. Có tài liệu còn cho thấy Bảy Viễn móc nối với người đảo Corse (Thuộc nước Pháp) để buôn thuốc phiện và ma tuý công khai. Trong giới giang hồ miền Nam khi đó thì Bảy Viễn là người thành công nhất về quyền lực, sự giàu sang cũng như danh vọng.", "Sau Hiệp định Genève, Bình Xuyên phải sáp nhập vào Quân đội Quốc gia Việt Nam nhưng ngầm không phục tùng. Đến năm 1955 thì nhóm Bình Xuyên bị lực lượng của Ngô Đình Diệm tiêu diệt. Bảy Viễn và các thuộc cấp được Pháp giải thoát và đưa sang Pháp bằng phi cơ, bắt đầu cuộc sống lưu vong.", "Công giáo.", "Người Công giáo Việt Nam tích cực ủng hộ sự độc lập của Việt Nam, đặc biệt thấy rõ khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được tuyên bố thành lập vào tháng 9 năm 1945. Ngày tuyên ngôn độc lập mùng 2 tháng 9 khi đó trùng vào ngày lễ kính các đấng tử đạo Việt Nam. Trong chính quyền Việt Nam có những nhân vật Công giáo nổi bật như Nguyễn Mạnh Hà, Ngô Tử Hạ, Vũ Đình Tụng. Người Công giáo Việt Nam chống lại việc thực dân Pháp quay trở lại Đông Dương, và họ trở nên dấn sâu vào phong trào độc lập dân tộc. Chính quyền Việt Nam cử lãnh đạo cấp cao tới dự lễ tấn phong Giám mục Tađêô Lê Hữu Từ và lễ thành lập Liên đoàn Công giáo tại Phát Diệm. Là người quyết liệt chống Pháp, Giám mục Lê Hữu Từ nhận lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh làm cố vấn tối cao của chính phủ.", "Trong giai đoạn ban đầu này, tiếp xúc giữa Công giáo và cộng sản tại miền Bắc diễn ra trực tiếp và ở cấp cao nhất, còn tại miền Nam, nơi sớm bị Pháp tái chiếm, các cuộc liên lạc này ít chính thức hơn. Phong trào kháng Pháp của người Công giáo ở Nam Bộ cũng diễn ra sôi nổi, nhiều người trong số đó ủng hộ Việt Minh như bác sĩ Nguyễn Tấn Gi Trọng, luật sư Thái Văn Lung, luật sư Nguyễn Thành Vĩnh.", "Nhiều giáo sĩ Công giáo Việt Nam đề cao tinh thần dân tộc, chống thực dân đồng thời cố gắng giữ người Công giáo khỏi bị cuốn vào cuộc chiến giữa thực dân Pháp và Việt Minh. Hai địa phận Phát Diệm và Bùi Chu được vũ trang thành khu tự vệ Công giáo. Trong suốt cuối thập niên 1940, khu vực này giữ được sự độc lập khỏi cả thực dân Pháp và Việt Minh. Nhiều người dân lương, giáo đã kéo về đây để tránh tình hình chiến sự căng thẳng.", "Trong suốt Chiến tranh Đông Dương, Tòa Thánh Vatican không sẵn lòng ủng hộ thực dân Pháp lôi kéo người Công giáo Việt Nam. Vấn đề là phong trào dân tộc ở Việt Nam lại do Đảng cộng sản lãnh đạo. Vatican cho rằng thức hệ cộng sản với chủ trương nhà nước vô thần muốn loại bỏ các tôn giáo. Tháng 6 năm 1948, Vatican nhận định rằng người cộng sản Việt Nam \"từng chút một\" bộc lộ bản chất không phải là những người yêu nước mà là một đảng chống tôn giáo sẽ tiến hành việc \"bách hại có hệ thống\" người Công giáo Việt Nam. Ngày 1 tháng 7 năm 1949, khi Đảng cộng sản đang dần kiểm soát toàn bộ Trung Quốc, Giáo hoàng Piô XII ra sắc lệnh cấm tín hữu Công giáo khắp thế giới cộng tác với phong trào cộng sản.", "Từ năm 1950, cả thực dân Pháp và Việt Minh đều muốn kiểm soát khu tự trị Phát Diệm–Bùi Chu, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trở nên gắn bó với khối cộng sản quốc tế, trong khi Vatican thì lên án mọi sự cộng tác với cộng sản, còn Quốc gia Việt Nam phi cộng sản được Hoa Kỳ hậu thuẫn đang trỗi dậy, dẫn đến việc các giáo sĩ Việt Nam nghiêng về phía chống cộng nhưng không từ bỏ chủ nghĩa dân tộc và chống thực dân. Năm 1951 tại Hà Nội, các đấng bản quyền Đông Dương ra thư chung thể hiện lập trường chống cộng sản gay gắt: \"Chẳng những không được nhập đảng cộng sản, mà lại anh em không thể cộng tác bất kỳ dưới hình thức nào có thể giúp đỡ họ nắm chính quyền.\" Lá thư thôi thúc lòng yêu nước và đức bác ái: \"Lòng ái quốc là tình yêu tổ quốc, là yêu quê cha đất tổ … chúng tôi khích lệ và vun trồng nó như các nhân đức Kitô giáo khác.\"", "Năm 1951, thực dân Pháp kiểm soát về mặt hành chính và quân sự đối với khu Phát Diệm–Bùi Chu, chấm dứt sự tự trị của nơi này. Thái độ chính trị hoặc trung lập chính trị của người Công giáo Việt Nam cho thấy sự đa dạng: họ không phải là một khối đồng nhất. Đông đảo hơn cả là những giáo hữu theo đường lối của các giám mục, thiểu số là những người ủng hộ Bảo Đại, hoặc là theo Việt Minh. Tại Địa phận Hà Nội, Giám mục Giuse Maria Trịnh Như Khuê xử lý quân bình trước cả hai phía. Theo trang VietCatholic ở hải ngoại, các nghiên cứu gần đây cho thấy Tòa Thánh và giới Công giáo Việt Nam không cộng tác với thực dân Pháp như thường được tuyên truyền.", "Trong Chiến tranh Đông Dương.", "Tháng 2 năm 1951, Đảng Cộng sản Đông Dương (lúc này đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam) ra hoạt động công khai. Hội nghị hợp nhất từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 3 năm 1951 tại xã Vinh Quang, Chiêm Hóa, Tuyên Quang đã tuyên bố hợp nhất Việt Minh và Hội Liên Việt thành Mặt trận Liên Việt. Tuy vậy Mặt trận Liên Việt vẫn được nhiều người quen gọi là Việt Minh.", "Năm 1955, Mặt trận Liên Việt tuyên bố hoàn thành nhiệm vụ và tự giải tán. Ngày 10 tháng 9 năm 1955, một tổ chức kế thừa Mặt trận Liên Việt là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời và hoạt động cho đến ngày nay.", "Tên gọi Việt Cộng và Vi Xi (VC).", "Năm 1954, tại Điện Biên Phủ quân Pháp đã đầu hàng. Theo quy định của Hiệp định Genève, Việt Nam được tạm thời chia cắt thành hai vùng tập kết quân sự và một cuộc tổng tuyển cử tự do trên toàn quốc sẽ được tổ chức trong vòng 2 năm để thống nhất đất nước. Phần lớn lực lượng của Việt Minh được tập trung về phía Bắc vĩ tuyến 17. Quân đội thực dân Pháp và đồng minh, Quân đội Quốc gia Việt Nam, tập trung về phía Nam vĩ tuyến 17.", "Các nhà lãnh đạo Việt Minh tin rằng với sự ủng hộ của đa số dân chúng, họ chắc chắn sẽ giành thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử. Tuy nhiên, Ngô Đình Diệm, dựa vào sự ủng hộ của Hoa Kỳ thông qua Chính sách Truman, đã đè bẹp lực lượng dân chủ đối lập, kẻ thù cá nhân cũng như các nhân vật tình nghi ủng hộ cộng sản tại miền Nam và tuyên bố thành lập nước Việt Nam Cộng hòa, từ chối tiến hành tổng tuyển cử. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, tiếp tục đấu tranh để thống nhất đất nước bằng tổng tuyển cử theo Hiệp định Genève. Một phần lực lượng Việt Minh tại miền Nam lui vào hoạt động bí mật và sau này đã tuyên bố thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam vào năm 1960. Trong các tài liệu, sách báo của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa, họ được gọi là Việt Cộng, còn sách báo phương Tây gọi là \"Viet Cong\", hay \"Victor Charlie\", \"Vietnamese Communist\" hay \"V.C.\" (Vi Xi)." ]
1233
771817
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1233
Thuyết Truman
[ "Học thuyết Truman được đề xuất bởi Tổng thống Truman của Hoa Kỳ vào ngày 12 tháng 3 năm 1947, nó dựa trên chính sách ngăn chặn chủ nghĩa Cộng sản và được thông qua vào ngày 22 tháng 5 năm 1947. Học thuyết này nêu rõ Hoa Kỳ sẽ viện trợ cho bất kỳ nước nào mà họ thấy là \"đang bị đe dọa bởi chủ nghĩa Cộng sản\", và được dùng để ngăn ảnh hưởng chính trị của Liên Xô. ", "Lúc đầu, học thuyết Truman được trình lên nghị viện Hoa Kỳ bởi tổng thống Truman vào ngày 12 tháng 3 năm 1947 và được phát triển thêm đến ngày 4 tháng 7 năm 1948 khi ông cam kết ngăn sự lan truyền của chủ nghĩa Cộng sản ở Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Hơn nữa, học thuyết Truman đã được sử dụng để hỗ trợ các quốc gia thân Mỹ chống lại các quốc gia thân Liên Xô khác như Đại Hàn Dân Quốc trong Chiến tranh Triều Tiên, Pháp và Quốc gia Việt Nam trong Chiến tranh Đông Dương, Việt Nam Cộng hòa trong Chiến tranh Việt Nam.", "Nói một cách tổng quát hơn, Học thuyết Truman là sự hỗ trợ của Mỹ đối với các quốc gia khác bị Moskva đe dọa. Nó trở thành nền tảng trong chính sách đối ngoại của Mỹ, và dẫn đến việc thành lập NATO vào năm 1949, một liên minh quân sự vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Các nhà sử học thường sử dụng bài phát biểu của Truman để xác định thời điểm bắt đầu Chiến tranh Lạnh.", "Học thuyết Truman được mở rộng một cách không chính thức để trở thành cơ sở cho chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh, áp dụng trên khắp châu Âu và trên toàn thế giới. Học thuyết Truman đã trực tiếp dẫn đến học thuyết Domino, mở đường cho việc Hoa Kỳ đưa quân tham chiến hoặc tài trợ cho các cuộc đảo chính tại hàng loạt các quốc gia trên thế giới." ]