input
stringlengths
0
196
output
stringlengths
1
199
『なんだ、矢が……?
[Có chuyện gì với những mũi tên vậy……?]
『とにかく狙え!城に近づけるな!
[Cứ bắn đi! Không được để hắn ta tiếp cận lâu đài]
再び矢が迫る。
Các mũi tên lại lao đến lần nữa.
もちろん、それらは当たるはずもない。
Tất nhiên là chúng không thể trúng được.
だが、決して気分がいいものでもなかった。
Nhưng thế này khá khó chịu.
「……鬱陶しいな」
“….Khó chịu thật.”
ぼくは城壁塔へとそれぞれヒトガタを飛ばし、片手で印を組む。
Tôi di chuyển hình nhân đến một tòa tháp  và kết ấn bằng một tay.
《土の相――――要石の術》
[Thổ hợp――――Yêu thạch thuật]
注連縄の巻かれた巨大な一枚岩が二つ降り、それぞれの城壁塔を完全に押し潰した。
Hai tảng đá khổng lồ được quấn bằng dây shimenawa hạ xuống, nghiền nát hoàn toàn từng tháp tường.
同時に、式神からの声も途絶える。
Cùng lúc đó, những tiếng la hét truyền đến tai thức thần cũng im bặt.
「止まれッ!!
"Dừng lại!!"
並ぶ松明の明かりに、ぼくはわずかに目を細める。
Tôi nheo mắt trước ánh sáng của những ngọn đuốc.
いつの間にか、はるか前方には衛兵たちが集っていた。
Một nhóm lính canh đã tập trung ở phía trước tôi từ bao giờ.
中央にいる隊長らしき男が、ぼくへ声を張り上げる。
Có một người khá nổi bật ở giữa, trông giống như một đội trưởng, hét lên với tôi.
「貴様は何者だッ!何が目的で帝城へ参った!?
"Ngươi là ai? Mục đích của ngươi tới đây là gì?
時間稼ぎか。
Câu giờ sao?
ぼくは足を止め、そう思い至る。
Tôi dừng lại và đi đến kết luận này.
まあいい。
Chẳng sao cả.
忠告くらいはしてやろう。
Ít nhất cũng nên cảnh báo.
「邪魔をするな」
"Đừng có cản đường ta."
ぼくの声に、隊長らしき男がたじろぐ気配がする。
Nghe thấy giọng nói của tôi, đội trưởng có vẻ nao núng.
「疾く道を空けよ。従うならば、其の方らの命までは取らない」
“Nếu các ngươi không muốn chết thì tránh sang một bên”
放てッ!!
Bắn tên!”
こらえきれなくなったかのように、隊長らしき男が命令を下す。
Như thể không thể kìm nén lâu hơn nữa, đội trưởng ra lệnh.
弓兵の動きに、ぼくは再び《磁流雲》を使おうとして――――舌打ちと共に、その場から大きく跳び退った。
Chuyển động của cung thủ làm tôi muốn sử dụng [Từ Lưu Vân thuật] của mình, nhưng khi nhận ra có gì đó không ổn, tôi nhảy khỏi vị trí của mình.
先ほどまでいた場所に、幾本もの火矢が突き立つ。
Vài mũi tên lửa ngay lập tức găm vào chỗ đó.
この術は、火矢には効果が薄い。
Thuật này không hiệu quả lắm với mũi tên lửa.
鏃の金属が熱せられると、十分な磁力の反発を得られないのだ。
Khi kim loại của đầu mũi tên được nung nóng thì lực từ không còn có nhiều hiệu quả.
おそらく視界を確保するためで、これを意図したわけではないだろうが……面倒なことだ。
Có lẽ nó chỉ có mục đích giúp soi sáng và không ai tính tới chuyện những mũi tên lửa không bị thuật thức này ảnh hưởng.
あの隊長も目ざとい。
Đội trưởng cũng rất tinh ý.
弓兵に普通の矢でなく再び火矢をつがえさせているのを見る限り、この弱点を見抜かれたと考えていいだろう。
Một lần nữa lệnh cho cung thủ bắn tên lửa thay vì tên thường, hẳn là đã phát hiện ra điểm yếu này.
別の矢避けに切り替えようとしたその時、剣を抜いてこちらへ迫る兵たちの姿が目に映る。
Khi tôi chuẩn bị chuyển sang một cách tránh mũi tên khác, tôi thấy những người lính rút kiếm và bắt đầu áp sát.
ぼくは……急に、馬鹿馬鹿しくなってしまった。
Tôi…… bỗng thấy chuyện này thật nhảm nhí.
思えばもう、こんなにちまちまと戦う必要などない。
Tôi đâu cần phải chiến đấu theo cách này.
「ああ、煩わしい」
“Hừ, thật rắc rối.”
《陽火の相――――皓焔の術》
[Dương hỏa hợp nhất――――Hạo Diễm thuật]
真白の炎が、夜を昼に変えた。
Một ngọn lửa trắng sáng chói chiếu sáng toàn bộ khu vực với ánh sáng như thể từ mặt trời.
放たれた火矢は一瞬のうちに蒸発し、前の方にいた衛兵の一部が炎を上げて燃え始める。
Những mũi tên lửa bốc hơi ngay lập tức, những kẻ vốn định tiến lại gần cũng bốc cháy và bị thiêu sống.
白い炎に直接炙られてはいないものの、その輻射熱で装備が自然発火したようだった。
Mặc dù không bị ngọn lửa trắng thiêu đốt trực tiếp, nhưng trang bị có vẻ đã tự bốc cháy do nhiệt bức xạ.
当然中の人体が耐えられるはずもなく、衛兵はそのままバタバタと倒れていく。
Đương nhiên cơ thể con người không thể nào có thể chịu được ngọn lửa, và những người lính sau một hồi la hét và lăn lộn đã gục ngã và nằm im.
陰の気で余剰な熱を抑えなければ、《皓焔》はこれほどまでに強い。
Nếu không dùng Âm khí để triệu tiêu nhiệt lượng thừa của [Hạo diễm thuật] thì sẽ khá nguy hiểm vì thuật này rất mạnh.
ぼくは全身にできた火ぶくれを治しながら、焼けただれた唇で笑った。
Tôi mỉm cười với đôi môi bỏng rát khi tự chữa lành những vết phồng rộp khắp người.
《召命――――鎌鼬》
[Triệu hồi――――Kamaitachi]
空間の歪みから現れたつむじ風が、残った兵たちを切り裂いていく。
Một cơn lốc nổi lên sau khi không gian bị bóp méo và xé xác những người lính còn lại.
しばらく暴れた鎌鼬は一度城の屋根に降り立つと、その手に生えた巨大な鎌の血を、毛繕いでもするかのように丁寧に舐めとった。
Sau khi nổi cơn thịnh nộ, Kamaitachi (liêm dứu) đáp xuống nóc lâu đài và cẩn thận liếm máu dính trên lưỡi liềm khổng lồ trên tay nó như thể đang chải chuốt lại.
そして再びつむじ風と化し、衛兵を血祭りにあげていく。
Sau đó, nó lại biến thành một cơn lốc và tiếp tục hất những kẻ xấu xố lên không trung và thảm sát họ. Cơn lốc của Kamaitachi dần nhuốm màu đỏ của máu.
あれは鎌鼬の中でも特に体の大きく、力の強い個体だ。
Con Kamaitachi đó so với đồng loại thì thể hình khá to lớn.
あの鎌と風の刃に襲われれば、切り傷程度では済まない。
Nếu bị lưỡi hái và gió tấn công thì chắc chắn sẽ bị xé xác thành từng mảnh nhỏ bởi vô số vết chém.
悲鳴と血しぶきの上がる惨劇を眺めながら、ぼくは笑う。
Tôi cười điên dại khi chứng kiến sự tàn sát cùng với những tiếng la hét và máu thịt bắn tung tóe.
同時にヒトガタが二つ、宙へ浮かんだ。
Cùng lúc đó tôi thả hai thức thần lên giữa không trung và kết ấn.
「ははは」
“Hahahahaha”
《陽水の相――――熱瀑布の術》
[Dương thủy hợp nhất――――Nhiệt bộc bố thuật]
《召命――――雷獣》
[Triệu hồi――――Lôi thú]
幾条もの稲妻が奔るエネルギーのせいで、大気の組成が組み代わり、雷臭気特有の生臭い臭気が辺りに発生していた。
Không khí bị biến đổi bởi năng lượng của những tia sét cùng với những con người dần bị biến thành xác chết bởi những hình thức khác nhau. Nó làm không khí nồng nặc mùi hôi tanh của máu thịt.
ぼくは笑いながら、さらなるヒトガタを飛ばしていく。
Trong khi cười lớn, tôi tiếp tục kết ấn và sử dụng chú thuật.
「はははは――――」
“Hahahahaha”
――――圧倒的な力の前には、あらゆる者がひれ伏す。
Trước sức mạnh áp đảo, bất cứ kẻ nào cũng không thể kháng cự.
ガレオスの言っていたことを、かつてはぼくも強く信じていた。
Tôi cũng đã từng tin vào những điều ấy. Cũng là những điều tên Hắc ác ma đã nói.
正統な血筋も、崇高な法も、神の言葉も、民衆の意思も、強大な暴力には抗い得ない。
Không một dòng máu quý tộc nào, không một luật lệ nào, không một phát quyết từ Thần linh nào, không một ý chí nào của người dân có thể chống lại sức mạnh áp đảo.
なぜならそれらの権威も、結局は暴力が背景にあって成り立つ概念だからだ。
Bởi tất cả những khái niệm này cũng từ bạo lực mà ra cả thôi.
自身を超える暴力の前に、弱い権威は存在を許されず、そしてより強い暴力こそが次の権威となる。
Quyền lực yếu kém không thể tồn tại trước bạo lực mạnh hơn nó, và chính thứ bạo lực mạnh hơn sẽ trở thành cơ sở của quyền lực tiếp theo.
世界はその繰り返しだ。
Đó là cách thế giới vận hành.
すべてを超越する力さえあれば、世界は自分の思い通りになると思った。
Tôi đã nghĩ rằng miễn mình có sức mạnh vô song thì thế giới sẽ trở thành thứ mà tôi muốn.
野盗や獣や化生の類を撃退し、民を虐げる貴族の私兵や、略奪を繰り返す敵国の軍を滅ぼし、悪意ある民衆をも黙らせる……。
Đẩy lùi đạo tặc, dã thú, tiêu diệt quý tộc áp bức người dân, quét sạch quân đội của các quốc gia địch liên tục cướp bóc, và buộc những kẻ mang ác ý phải im lặng...
そうして弱い者から奪っていく数多の暴力に打ち勝っていけば、自分だけは、世界に満ちる理不尽や悲劇から無縁でいられると思った。
Tôi nghĩ nếu như có thể vượt lên trên tất cả thì chính mình sẽ thoát khỏi sự phi lý và bi kịch tràn ngập thế giới.
ぼくは力を求め、最強の頂を目指し――――そして到達した。
Tôi đã tìm kiếm sức mạnh, nhắm đến đỉnh cao nhất…và tôi đã đạt được nó.
もはやどんな大軍を、呪いを、怪異を、災害をもってしても、ぼくを倒すことなどできはしない。
Không một đội quân nào, không một lời nguyền nào, không có bất cứ loại quái vật nào có thể thắng được tôi.
それは異世界だろうと変わらない。
Dù cho có là thảm họa hay đây là thế giới khác thì mọi chuyện cũng không thay đổi.
だからこそ、不思議だった。
Đó là lý do tại sao tôi tự hỏi.
どうして今こんなに――――自棄にならなければいけないのか。
Tại sao giờ tôi phải liều mạng như vậy?
白い炎が宙を薙ぎ、衛兵や建物の壁を溶かしていく。
Ngọn lửa trắng làm tan chảy những bức tường và thiêu sống trước khi biến những kẻ bị nó nuốt chửng thành cát bụi.
縦横に走るつむじ風が、血煙を次々に巻き上げる。
Cơn lốc nhuộm màu đỏ càn quét ngang dọc, cuốn theo những chùm máu tươi và mảnh vụn thi thể.
高温の蒸気が満ちる空気を稲妻が裂き、この場に立つ者を一人また一人と減らしていく。
Tia sét xé toạc bầu không khí đầy hơi nước nóng, từ từ giết chết từng kẻ một trong đau đớn, sợ hãi và tuyệt vọng.
それはもはや、戦いとは呼べないものになっていた。
Đây không còn là một trận chiến nữa, mà là thảm sát một chiều.
「ははは…………ああ」
“Hahahahaha….Aaaa!”
――――ぼく以外の人間は、こんなにも弱いはずなのに。
Tiếng cười lớn không ngớt, những nhân loại khác ngoài tôi đều là những kẻ yếu ớt.