id
stringlengths
1
8
url
stringlengths
31
389
title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
184
322k
19822363
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gustavo%20Bacarisas
Gustavo Bacarisas
Gustavo Bacarisa (1872–1971) GMH là một họa sĩ người Gibralta. Ông sinh ra tại Gibraltar và mất ở Seville, Tây Ban Nha. Tác phẩm của ông theo phong cách tượng hình và chủ đề đa dạng, được đặc trưng bởi cách sử dụng màu sắc phong phú. Ông đã kết hôn với nghệ sĩ và nhà thiết kế Thụy Điển Elsa Jernås. Sự nghiệp Bacaris theo học ở Paris, Pháp và làm việc ở Buenos Aires, Argentina cho đến năm 1916. Sau đó, ông chuyển đến thủ đô Seville của Andalucia. Ông cũng từng đến Thụy Điển để tạo ra các bối cảnh và bức tượng cho vở opera Carmen. Tương tự như vậy với phần đầu của El amor brujo () tại Teatro Español ở Madrid. Trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha, ông đã chuyển chỗ ngụ cư, lần này là đến đảo Madeira của Bồ Đào Nha, rồi trở lại Gibraltar vào năm 1937. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, ông chuyển đến Tây Ban Nha, định cư ở Seville. Bacarisas đã trưng bày tác phẩm của mình ở nhiều thành phố của Tây Ban Nha cũng như ở nước ngoài. Ông được trao huy chương vàng và danh hiệu giáo sư danh dự bởi Real Academia de Bellas Artes de Santa Isabel de Hungría () và là thành viên của Real Academia de Bellas Artes de San Fernando. Xem thêm Danh sách người Gibraltar Chú thích và Tham khảo Liên kết ngoài Biography of Gustavo Bacarisas y Podestá (tiếng Tây Ban Nha), được lấy từ Sinh năm 1872 Mất năm 1971 Người Gibraltar Hoạ sĩ thế kỷ 20
19822364
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sophie%20Hedevig%20c%E1%BB%A7a%20%C4%90an%20M%E1%BA%A1ch
Sophie Hedevig của Đan Mạch
Sophie Hedevig của Đan Mạch và Na Uy (28 tháng 8 năm 1677 – 13 tháng 3 năm 1735) là một Vương nữ Đan Mạch, con gái của Christian V của Đan Mạch và Charlotte Amalie xứ Hessen-Kassel. Tiểu sử Sophie Hedevig đã sớm trở thành đối tượng của những cuộc hôn nhân triển vọng và đã được hứa hôn ba lần. Khi còn nhỏ, Sophie Hedevig được đính hôn với em họ là Johann Georg IV xứ Sachsen, một truyền thống về mặt chính trị giữa Đan Mạch và Sachsen. Năm 1689, cuộc hôn nhân của hai người sẽ được tiến hành vào hai năm sau đó. Tuy nhiên, khi Johann Georg IV kế vị cha mình trở thành Tuyển hầu tước xứ Sachsen vào năm 1691 thì đã hủy bỏ hôn ước với Sophie Hedevig. Vào năm 1692, và sau đó là từ năm 1694 đến năm 1697, một cuộc hôn nhân với Joseph của Áo (tương lai là Hoàng đế của Thánh chế La Mã) đã được đề xuất. Tuy nhiên, Sophie Hedevig từ chối cải sang Công giáo bất chấp áp lực từ cha. Từ năm 1697 đến năm 1699, Đan Mạch mong muốn một liên minh với Thụy Điển, liên minh này sẽ được hiện thực hóa bằng một đám cưới kép của Sophie Hedevig với Karl XII của Thụy Điển, và em trai là Carl với chị gái của Karl XII là Hedvig Sofia (sau khi Hedvig Sofia kết hôn vào năm 1698, em gái của Hegvid Sophia Ulrika Eleonora trở thành lựa chọn thay thế). Tuy nhiên, mặc dù phần nào tiếp nhận ý tưởng về một liên minh với Đan Mạch, Karl XII thực tế không muốn kết hôn, và liên minh Đan Mạch-Thụy Điển rất không được chấp thuận ở Thụy Điển. Sophie Hedevig do đó vẫn duy trì tình trạng độc thân, mặc dù có tin đồn rằng vương nữ đã bí mật kết hôn với một cận thần quý tộc là Carl Adolph von Plessen (1678-1758). Năm 1699, cha của Sophie Hedevig qua đời và được kế vị bởi anh trai với tên hiệu là Frederik IV. Theo thông lệ, Sophie Hedevig sống với mẹ cho đến khi mẹ vương nữ qua đời vào năm 1714, và sau đó Sophie Hedevig sống tại triều đình của anh trai Frederik IV. Trong số những thị nữ của Sophie Hedevig có Elisabeth Helene von Vieregg, là tình nhân của Frederik IV từ năm 1701 và vào năm 1703 thì trở thảnh vợ lẽ của Frederik IV. Khi Thái hậu Charlotte Amalie qua đời vào năm 1714, Sophie Hedevig được thừa kế các điền trang của Gjorslev và Erikstrup và Vương nữ đã trao cho Frederik IV để đổi lấy các điền trang của Dronninglund, Dronninggård và Tu viện Børglum (Børglumkloster). Sophie Hedevig có mối quan hệ tốt với anh trai Frederik IV cho đến năm 1721, khi vương nữ rời triều đình cùng với em trai Carl để phản đối cuộc hôn nhân của Frederik IV với Nữ Bá tước Anne Sophie Reventlow. Hai chị em dựng nên một triều đình riêng của tại Vemmetofte, một trang viên mà Carl được thừa kế từ mẹ của hai chị em. Họ có một triều đình gồm 70 cận thần quý tộc, đứng đầu là Carl Adolph von Plessen, bạn của Carl, và thậm chí có thể là người chồng bí mật của chính Sophie Hedevig. Hai chị em chỉ làm hòa với Quốc vương vài năm sau đó. Sophie Hedevig, cùng với Carl và Carl Adolph, đã thành lập các trường học dành cho người dân trên các vùng lãnh địa của mình, vì Sophie Hedevig tin rằng trường học là cần thiết để đưa ra các chỉ dẫn tôn giáo. Khi Carl qua đời vào năm 1729, Sophie Hedevig là người thừa kế được ưu ái em trai. Vương nữ được thừa kế những vùng lãnh địa tương đối rộng lớn: Vemmetofte, Højstrup và Charlottenborg. Tuy nhiên, Vương nữ cũng phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ của Carl và Sophie Hedevig đã chi trả bằng thu nhập từ Cung điện Sorgenfri, Dronninggård và Frederiksdal mà Vương nữ được cháu trai Christian VI ban cho khi Christian VI kế vị Frederik IV vào năm 1730. Vương nữ Sophie Hedevig là một họa sĩ vẽ chân dung tài năng và có niềm đam mê đến âm nhạc, đồ thủ công mỹ nghệ như đồ trang trí bằng ngà voi và thêu thùa. Vương nữ cũng thu thập sách thánh vịnh và các ấn phẩm khác nhau. Nhiều tác phẩm của Vương nữ được lưu giữ trong Bộ sưu tập Vương thất Đan Mạch tại Lâu đài Rosenborg. Năm 1735, Tu viện Vemmetofte (Vemmetofte Kloster), một nơi dành cho những phụ nữ quý tộc chưa lập gia đình được thành lập theo chỉ dẫn trong di chúc của Sophie Hedevig. Vương nữ qua đời ở tuổi 57 tại Charlottenborg. Gia phả <center> Ghi chú Tham khảo Nguồn tài liệu khác G.Greer, The Obstacle Race (1979) Liên kết ngoài Dansk Kvindebiografisk Leksikon Kvinfo.dk Dansk biografisk Lexikon / XVI. Bind. Skarpenberg - Sveistrup Sophie Hedevig tại trang web của Bộ sưu tập Vương thất Đan Mạch Vương nữ Đan Mạch Vương nữ Na Uy Vương tộc Oldenburg (Đan Mạch) Vương nữ Chôn cất tại nhà thờ chính tòa Roskilde Sinh năm 1677 Mất năm 1735
19822365
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%9D%20Lyon
Cờ Lyon
Cờ Lyon bao gồm một tấm vải hình chữ nhật, trên đó hiển thị các yếu tố của quốc huy, do đó nó là một lá cờ huy hiệu. Theo thói quen, nó được tính theo tỷ lệ thông thường là 3: 2 và là một lá cờ dành cho mục đích dân dụng, vì trong Tòa thị chính và các khu vực phụ thuộc của nó, chỉ có quốc kỳ Pháp được kéo lên. Chiếc khiên đặc trưng của Lyon bao gồm một cánh đồng gule (màu đỏ), trong đó có con sư tử xuất hiện một cách hung hãn (có hình dạng và dáng đứng) và bằng bạc (màu trắng). Quốc huy này được bổ sung từ Chief (huy hiệu), bộ phận chiếm phần ba phía trên. Đây là "Đứng đầu nước Pháp", được trao cho tất cả các "Bonnes Villes", thể hiện huy hiệu của các vương triều trước đây của họ: màu xanh lam với ba bông hoa vàng (nền màu xanh lam được trang trí bằng ba bông hoa loa kèn màu vàng). Vào thế kỷ thứ 13, các thương hội bắt tay vào một cuộc nổi dậy chống lại quyền thế của Tổng giám mục-Bá tước Lyon. Những người này đã sử dụng các lá cờ riêng biệt với một con sư tử để tượng trưng cho sức mạnh của mình, khiến cho vua Philip V của Pháp buộc phải can thiệp vào cuộc xung đột năm 1320. Do sự can thiệp của nhà vua, thành phố phải phụ thuộc một cách trực tiếp vào Vương quốc Pháp, được đưa vào danh sách "Bonnes Villes" và nhận được huy hiệu khiên chắn (và cờ). Năm 1376, Vua Charles V đã đơn giản hóa huy hiệu, giảm xuống còn ba con số vô định của fleurs de lys mà cho đến nay vẫn bao trùm toàn bộ không gian của các kho vũ khí hoàng gia và huy hiệu chief của "Bonnes Villes". Chú thích và Tham khảo Liên kết ngoài Symboles de la ville de Lyon bằng tiếng Pháp Cờ Pháp Lịch sử Lyon Lyon Lá cờ
19822373
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nestor%20Ivanovych%20Makhno
Nestor Ivanovych Makhno
Nestor Ivanovych Makhno ( năm 1888 – 25 tháng 7 năm 1934), biệt danh Bat'ko Makhno ("Cha Makhno"), là một nhà cách mạng vô trị chủ nghĩa người Ukraina, và là thủ lĩnh Nghĩa quân Cách mạng Ukraina thời nội chiến Ukraina (1917-1921). Chú thích Tham khảo Thư mục Đọc thêm Liên kết ngoài Kho lưu trữ Nestor Makhno Các công trình của hoặc nói về Nestor Makhno tại The Anarchist Library Các công trình của hoặc nói về Nestor Makhno tại Libcom.org Sinh năm 1888 Mất năm 1934 Người Ukraina thế kỷ 19 Người Ukraina thế kỷ 20 Nhà cách mạng Ukraina
19822381
https://vi.wikipedia.org/wiki/Terbi%28III%29%20oxide
Terbi(III) oxide
Terbi(III) oxide, còn được gọi là terbi sesquioxide, là một oxide hóa trị ba của kim loại đất hiếm terbi, có công thức hóa học Tb2O3. Nó là một chất bán dẫn loại p, dẫn proton, tính bán dẫn được cải thiện khi pha tạp với calci. Nó có thể được điều chế bằng cách khử Tb4O7 trong hydro ở 1300 °C trong 24 giờ. Nó là một oxide kiềm, dễ tan trong acid loãng, tạo ra muối terbi gần như không màu. Tb2O3 + 6 H+ → 2 Tb3+ + 3 H2O Hợp chất thuộc cấu trúc tinh thể lập phương và hằng số mạng là a = 1057 pm. Tham khảo Vật liệu bán dẫn Hợp chất terbi Oxide Oxide base Articles containing unverified chemical infoboxes Articles with short description Short description matches Wikidata
19822383
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ban%20C%C3%A1n%20s%E1%BB%B1%20%C4%90%E1%BA%A3ng%20Ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB%A7%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
Ban Cán sự Đảng Chính phủ Việt Nam
Ban Cán sự Đảng Chính phủ Việt Nam là một tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Chính phủ Việt Nam. Bí thư Ban Cán sự Đảng Chính phủ là Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và đồng thời là Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nhiệm vụ và quyền hạn Lãnh đạo Chính phủ thực hiện đúng đắn đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực hiện các nghị quyết của Đảng về tổ chức, cán bộ; quyết định những vấn đề về tổ chức, cán bộ theo sự phân công, phân cấp của Bộ Chính trị. Kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng trong hoạt động của Chính phủ. Chịu trách nhiệm trước Bộ Chính trị, Ban Bí thư về những đề xuất và quyết định của Ban cán sự đảng. Phối hợp với Đảng ủy khối và Đảng ủy cơ quan xây dựng Đảng bộ cơ quan Văn phòng Chính phủ trong sạch, vững mạnh. Tổ chức Ban Cán sự Đảng có từ 7 đến 9 ủy viên, gồm các đồng chí Đảng viên là Thủ tướng, các Phó Thủ tướng và một số đồng chí Bộ trưởng. Bí thư, Phó Bí thư và các ủy viên Ban Cán sự Đảng do Bộ Chính trị chỉ định. Ban Cán sự Đảng chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Ban Cán sự Đảng có con dấu. Thành viên Ban Cán sự Đảng Chính phủ hiện gồm: Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam; thành viên khác (nếu có) do Ban Cán sự Đảng đề nghị, Bộ Chính trị quyết định. Thủ tướng Chính phủ làm Bí thư Ban cán sự Đảng Chính phủ, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ làm Phó Bí thư Ban Cán sự Đảng Chính phủ. Ban Cán sự Đảng Chính phủ hiện nay Bí thư: Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị khóa XIII, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Phó Bí thư: Lê Minh Khái, Bí thư Trung ương Đảng khóa XIII, Phó Thủ tướng Chính phủ Ủy viên: Trần Lưu Quang, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII, Phó Thủ tướng Chính phủ Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị khóa XIII, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị khóa XIII, Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam Bùi Thanh Sơn, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thị Thanh Trà, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Việt Nam Trần Văn Sơn, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Việt Nam Bí thư qua các thời kỳ Nguyễn Tấn Dũng (2007-2016) Nguyễn Xuân Phúc (2016-2021) Phạm Minh Chính (2021-nay) Xem thêm Đảng Cộng sản Việt Nam Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII Chính phủ Việt Nam 2021-2026 Đảng đoàn Quốc hội Tham khảo
19822384
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20Buccleuch
Công tước xứ Buccleuch
Công tước xứ Buccleuch ( ; tiếng Anh: Duke of Buccleuch), trước đây cũng được đánh vần là Công tước xứ Buccleugh, là một tước hiệu trong Đẳng cấp quý tộc Scotland được lập ra hai lần, lần đầu tiên là vào ngày 20 tháng 4 năm 1663, trao cho James Scott, Công tước thứ nhất xứ Monmouth, và được lập ra lần thứ hai dưới hình thức Suo jure để trao cho vợ của ông là Anne Scott, Nữ bá tước thứ 4 xứ Buccleuch. Monmouth, con trai ngoài giá thú lớn tuổi nhất của Vua Charles II, đã bị bãi bỏ tước vị sau khi nổi dậy chống lại chú của mình là Vua James II và VII, nhưng tước hiệu của vợ ông không bị ảnh hưởng và được truyền lại cho con cháu của họ, những người lần lượt mang họ Scott, Montagu-Scott, Montagu là Douglas Scott và Scott. Năm 1810, Công tước thứ 3 xứ Buccleuch thừa kế Công tước xứ Queensberry, cũng thuộc Đẳng cấp quý tộc Scotland, do đó tách tước hiệu đó khỏi Hầu tước xứ Queensberry. Tham khảo Ghi nhận Liên kết ngoài Buccleuch Estates Montagu-Douglas-Scott Family Tree Đẳng cấp quý tộc Scotland Công tước thuộc Đẳng cấp quý tộc Scotland Công tước xứ Buccleuch Thị tộc Scott
19822388
https://vi.wikipedia.org/wiki/La%20Kim%20Ph%E1%BB%A5ng
La Kim Phụng
La Kim Phụng (sinh năm 1970 tại Sài Gòn) là một siêu mẫu Việt Nam. Cô là một trong những tên tuổi hàng đầu của thời trang Việt Nam vào đầu thập niên 1990. Cô được mệnh danh là siêu mẫu đầu tiên của Việt Nam. Tiểu sử La Kim Phụng sinh năm 1970 tại TP HCM, ấn phẩm đầu tiên của người mẫu là quyển lịch treo tường Nhà xuất bản Khoa học, năm 1988 của tác giả là Đức Huy. Năm 1990, cô nhận giải thưởng Gương mặt khả ái khi tham dự cuộc thi người mẫu do báo Người lao động tổ chức lần đầu tiên ở Việt Nam, bắt đầu đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cuộc đời với nghề mẫu. Cùng năm trên, chị góp mặt trong vai phụ bộ phim nổi tiếng Vị đắng tình yêu của đạo diễn Lê Xuân Hoàng. Năm 1991, La Kim Phụng xuất hiện trên bìa quyển sách Mặt nạ hóa trang của nhà nhiếp ảnh Đức Huy và ấn phẩm này đoạt giải A xuất sắc, đồng thời, người mẫu có mặt trong danh sách 12 văn nghệ sĩ được yêu thích nhất (tiền thân của giải Mai vàng) do báo Người Lao Động tổ chức. Những năm đầu 1990, La Kim Phụng nổi lên như một hiện tượng với gương mặt lạ, cá tính và có nét phá cách, khác với sự dịu dàng, nhẹ nhàng của đa số người đẹp cùng thời khác.Thời kỳ đó, tên tuổi chị trở thành hiện tượng thời và được xem là người mẫu hàng đầu của làng thời trang. Sở hữu làn da ngăm và cũng được xem là người mẫu đầu tiên chuộng làn da mà sau này trở thành mốt, La Kim Phụng thường trang điểm làm nổi bật làn da đặc trưng của mình bằng màu nâu đỏ cho thêm sắc sảo. Nhiều đạo diễn nhận thấy thần thái đặc biệt của chị nên gợi ý chị tham gia phim ảnh. Nhờ vậy, La Kim Phụng xuất hiện trong bộ phim Cánh hoa hoang dại mà đến giờ nhiều người trong lứa khán giả thế hệ 7X vẫn còn nhớ. Dù được đánh giá là người mẫu ấn tượng, nhưng đến những năm 2000 La Kim Phụng quyết định làm kinh doanh cùng chị gái ở Thụy Sĩ gây nhiều sự tiếc nuối cho người hâm mộ. Hiện nay, sau một lần gãy gánh trong hôn nhân, La Kim Phụng chọn cách sống ở ẩn tại TP.HCM và tập trung cho công việc kinh doanh. Ở tuổi gần 50, La Kim Phụng khiến người hâm mộ không khỏi ngỡ ngàng với nhan sắc bị thời gian bỏ quên mỗi khi xuất hiện. Giải thưởng Gương mặt người mẫu khả ái Báo Lao Động lần đầu tiên (1990) Tham khảo Sinh năm 1970 Nhân vật còn sống Người mẫu Việt Nam Nữ người mẫu Việt Nam Người Sài Gòn
19822391
https://vi.wikipedia.org/wiki/Erbi%28III%29%20nitrat
Erbi(III) nitrat
Erbi(III) nitrat là một hợp chất vô cơ của erbi và acid nitric có công thức hóa học Er(NO3)3. Hợp chất tạo thành tinh thể màu hồng, dễ tan trong nước, cũng tạo thành tinh thể ngậm nước. Điều chế Một cách đơn giản để điều chế erbi(III) nitrat là hòa tan erbi kim loại trong acid nitric: Hoặc hòa tan erbi(III) oxide/erbi(III) hydroxide trong acid nitric: Một cách khác là phản ứng của nitơ dioxide với erbi kim loại: Tính chất vật lý Erbi(III) nitrat tạo thành tinh thể màu hồng, có tính hút ẩm. Nó tạo thành tinh thể Er(NO3)3·5H2O hoặc Er(NO3)3·6H2O. Pentahydrat có cấu trúc giống Y(NO3)3·5H2O, các hằng số mạng tinh thể a = 0,6603 nm, b = 0,9516 nm, c = 1,052 nm, α = 63,65°, β = 84,6°, γ = 76,07°. Cả erbi(III) nitrat khan và ngậm nước đều bị phân hủy khi đun nóng. Hợp chất tan trong nước và EtOH. Tính chất hóa học Erbi(III) nitrat ngậm nước bị phân hủy nhiệt để tạo thành ErONO3 và sau đó thành erbi(III) oxide. Ứng dụng Nó được sử dụng để điều chế erbi kim loại và trong thuốc thử hóa học. Tham khảo Muối nitrat Hợp chất erbi Articles containing unverified chemical infoboxes Chembox articles without image Articles with short description Short description matches Wikidata
19822404
https://vi.wikipedia.org/wiki/G%E1%BB%97%20tr%E1%BA%AFc
Gỗ trắc
Cây Gỗ Trắc là một trong những loại gỗ cứng và có độ bền cao, được sử dụng trong việc  trang trí nội thất. Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về các đặc điểm của cây gỗ Trắc, phân loại gỗ Trắc, cách nhận biết gỗ Trắc tự nhiên thật, ứng dụng của cây gỗ Trắc trong trang trí nội thất, phương pháp trồng và chăm sóc cây gỗ Trắc, cùng với một số ưu và nhược điểm của loại cây này. Ngoài ra, chúng ta cũng sẽ tìm hiểu về những điều cần biết khi sử dụng sản phẩm từ cây gỗ Trắc và nơi để mua gỗ Trắc. 1. Tìm hiểu về Cây Gỗ Trắc Cây Gỗ Trắc là một loại cây gỗ cứng, có đặc tính bền và có tuổi thọ lâu dài. Chúng thường sinh trưởng tại các khu rừng nhiệt đới. Tùy thuộc vào loại, cây gỗ Trắc có màu sắc và đặc tính khác nhau. Một số loại cây gỗ Trắc có mùi thơm đặc trưng, được sử dụng trong sản xuất nước hoa và xà phòng. 2. Các đặc điểm của Cây Gỗ Trắc Cây Gỗ Trắc có đặc tính cứng, độ bền cao, và có màu sắc và hoa văn đa dạng. Chúng có khả năng chống mối mọt, chống thấm nước và chống cháy. Theo từng loại, cây gỗ Trắc có màu sắc và hoa văn khác nhau. 3. Phân loại gỗ Trắc 3.1: Gỗ Trắc đen Gỗ Trắc đen là một loại cây gỗ có màu sắc đen đặc trưng. Gỗ trắc đen có tên khoa học là Diospyros ebenum, là một loại cây gỗ quý hiếm thuộc họ Thị (Ebenaceae). Gỗ trắc đen có nguồn gốc từ các nước Đông Nam Á, trong đó Việt Nam là một trong những quốc gia có trữ lượng lớn nhất. Gỗ trắc đen có màu đen sẫm, thớ gỗ mịn và có mùi thơm nhẹ. Gỗ trắc đen có độ cứng cao, khả năng chịu lực tốt và không bị mối mọt. Gỗ trắc đen còn có khả năng chống ẩm và chống thấm nước tốt. Gỗ trắc đen được sử dụng để làm nhiều đồ nội thất cao cấp như bàn ghế, tủ, giường,... Gỗ trắc đen cũng được sử dụng để làm đồ trang trí như tượng gỗ, lục bình,... Gỗ trắc đen còn được sử dụng để làm nhạc cụ như đàn tranh, đàn nguyệt,... Gỗ trắc đen là một loại gỗ quý hiếm và có giá trị cao. Gỗ trắc đen được sử dụng để làm những đồ vật có giá trị cao và được nhiều người yêu thích. Dưới đây là một số đặc điểm của gỗ trắc đen: Màu sắc: Gỗ trắc đen có màu đen sẫm, thớ gỗ mịn và có mùi thơm nhẹ. Độ cứng: Gỗ trắc đen có độ cứng cao, khả năng chịu lực tốt và không bị mối mọt. Khả năng chống ẩm: Gỗ trắc đen có khả năng chống ẩm và chống thấm nước tốt. Giá trị: Gỗ trắc đen là một loại gỗ quý hiếm và có giá trị cao. Gỗ trắc đen là một loại gỗ quý hiếm và có giá trị cao. Gỗ trắc đen được sử dụng để làm những đồ vật có giá trị cao và được nhiều người yêu thích. 3.2: Gỗ Trắc đỏ Gỗ Trắc đỏ có màu sắc từ đỏ nâu đến đỏ gạch. Gỗ trắc đỏ là một loại gỗ quý hiếm, có giá trị cao trên thị trường. Gỗ trắc đỏ có tên khoa học là Dalbergia cochinchinensis, thuộc họ Đậu. Gỗ trắc đỏ có nguồn gốc từ Đông Nam Á, trong đó Việt Nam là một trong những nước có trữ lượng gỗ trắc đỏ lớn nhất. Gỗ trắc đỏ có màu đỏ đậm, vân gỗ đẹp mắt, có mùi thơm đặc trưng. Gỗ trắc đỏ rất cứng, chắc và có độ bền cao. Gỗ trắc đỏ cũng có khả năng chống mối mọt và ẩm mốc tốt. Gỗ trắc đỏ được sử dụng để làm nhiều đồ nội thất cao cấp như bàn ghế, tủ, giường,... Gỗ trắc đỏ cũng được sử dụng để làm đồ thủ công mỹ nghệ như tượng gỗ, tranh gỗ,... Gỗ trắc đỏ là một loại gỗ quý hiếm và có giá trị cao. Tuy nhiên, gỗ trắc đỏ cũng đang bị khai thác quá mức, dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng. Vì vậy, việc bảo tồn và phát triển rừng là rất cần thiết để bảo vệ nguồn tài nguyên quý giá này. Dưới đây là một số đặc điểm nổi bật của gỗ trắc đỏ: Màu đỏ đậm, vân gỗ đẹp mắt Mùi thơm đặc trưng Cứng, chắc và có độ bền cao Chống mối mọt và ẩm mốc tốt Giá trị cao trên thị trường Gỗ trắc đỏ là một loại gỗ quý hiếm và có giá trị cao. Tuy nhiên, gỗ trắc đỏ cũng đang bị khai thác quá mức, dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng. Vì vậy, việc bảo tồn và phát triển rừng là rất cần thiết để bảo vệ nguồn tài nguyên quý giá này. 3.3: Gỗ Trắc vàng Gỗ Trắc vàng có màu sắc vàng nhạt, đến màu kem. Gỗ trắc vàng là một loại gỗ quý hiếm, có tên khoa học là Dalbergia cochinchinensis. Gỗ trắc vàng có nguồn gốc từ Đông Nam Á, trong đó Việt Nam là nước có trữ lượng gỗ trắc vàng lớn nhất. Gỗ trắc vàng có màu vàng nhạt, thớ gỗ mịn, vân gỗ đẹp và có mùi thơm đặc trưng. Gỗ trắc vàng có độ cứng cao, chịu lực tốt, không bị mối mọt và có khả năng chống ẩm cao. Gỗ trắc vàng được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất đồ nội thất, đồ trang trí cao cấp, nhạc cụ và các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Gỗ trắc vàng là một loại gỗ quý hiếm và có giá trị cao. Giá gỗ trắc vàng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như kích thước, độ tuổi, chất lượng và nguồn gốc của gỗ. Gỗ trắc vàng có thể có giá từ vài chục triệu đồng đến vài tỷ đồng cho một khối gỗ. Gỗ trắc vàng là một loại gỗ đẹp, có giá trị cao và có nhiều công dụng. Gỗ trắc vàng là một lựa chọn tuyệt vời cho những người yêu thích đồ nội thất cao cấp, đồ trang trí tinh tế và các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Dưới đây là một số đặc điểm nổi bật của gỗ trắc vàng: Màu vàng nhạt, thớ gỗ mịn, vân gỗ đẹp Độ cứng cao, chịu lực tốt, không bị mối mọt và có khả năng chống ẩm cao Mùi thơm đặc trưng Có nhiều công dụng, như làm đồ nội thất, đồ trang trí, nhạc cụ và các sản phẩm thủ công mỹ nghệ Giá trị cao Gỗ trắc vàng là một loại gỗ quý hiếm và có giá trị cao. Nếu bạn đang tìm kiếm một loại gỗ đẹp, có giá trị cao và có nhiều công dụng thì gỗ trắc vàng là một lựa chọn tuyệt vời. 3.4: Gỗ Trắc xanh Gỗ Trắc xanh có màu sắc xanh đậm đặc trưng. Gỗ trắc xanh là một loại gỗ quý hiếm có nguồn gốc từ Nam Mỹ, thuộc họ Burseraceae, cùng họ với gỗ trầm hương. Cây trắc xanh có tên khoa học là Bursera graveolens, có chiều cao trung bình từ 10 đến 20 mét. Cây trắc xanh thường mọc ở vùng núi cao, khí hậu khô hạn, có nhiều nắng. Gỗ trắc xanh có đặc điểm nổi bật là có màu xanh ngọc bích đặc trưng, không lẫn vào đâu được. Vân gỗ trắc xanh rất đẹp, uyển chuyển, có nhiều hình thù độc đáo. Gỗ trắc xanh có độ bền cao, chắc chắn, không bị mối mọt, cong vênh, nứt nẻ. Gỗ trắc xanh có mùi hương thơm nhẹ nhàng, dễ chịu. Gỗ trắc xanh được sử dụng để làm đồ nội thất, đồ trang trí, đồ mỹ nghệ,... Gỗ trắc xanh được dùng để làm bàn ghế, tủ, giường,... mang lại vẻ đẹp sang trọng, quý phái cho không gian sống. Gỗ trắc xanh cũng được dùng để làm tượng Phật, tượng thần,... thể hiện sự tôn kính, thành kính. Gỗ trắc xanh còn được dùng để làm nhạc cụ,... mang lại âm thanh du dương, trầm ấm. Gỗ trắc xanh là loại gỗ quý hiếm, có giá trị kinh tế cao. Giá gỗ trắc xanh dao động từ vài triệu đến 10 triệu đồng/kg, tùy thuộc vào kích thước, chất lượng gỗ. Ứng dụng của gỗ trắc xanh Gỗ trắc xanh có giá trị kinh tế cao, được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực, bao gồm: Đồ nội thất: Gỗ trắc xanh được sử dụng để làm bàn ghế, tủ, giường,... mang lại vẻ đẹp sang trọng, quý phái cho không gian sống. Gỗ trắc xanh có độ bền cao, chắc chắn, không bị mối mọt, cong vênh, nứt nẻ. Gỗ trắc xanh có mùi hương thơm nhẹ nhàng, dễ chịu. Đồ trang trí: Gỗ trắc xanh được sử dụng để làm tượng Phật, tượng thần,... thể hiện sự tôn kính, thành kính. Gỗ trắc xanh còn được dùng để làm nhạc cụ,... mang lại âm thanh du dương, trầm ấm. Chế tác đồ mỹ nghệ: Gỗ trắc xanh được dùng để chế tác các sản phẩm mỹ nghệ tinh xảo, mang giá trị nghệ thuật cao. Trị bệnh: Gỗ trắc xanh có tác dụng chữa bệnh, giúp an thần, giảm đau,... Giá trị phong thủy của gỗ trắc xanh Gỗ trắc xanh là loại gỗ quý hiếm, có giá trị phong thủy cao. Gỗ trắc xanh được xem là biểu tượng của sự may mắn, tài lộc, thịnh vượng. Gỗ trắc xanh còn được xem là biểu tượng của sự trường thọ, sức khỏe. Cách bảo quản gỗ trắc xanh Gỗ trắc xanh là loại gỗ quý hiếm, có giá trị cao nên cần được bảo quản cẩn thận. Để bảo quản gỗ trắc xanh được bền đẹp, bạn cần lưu ý những điều sau: Tránh để gỗ trắc xanh tiếp xúc với nước, độ ẩm cao. Tránh để gỗ trắc xanh tiếp xúc với ánh nắng mặt trời trực tiếp. Thường xuyên lau chùi, vệ sinh gỗ trắc xanh bằng khăn mềm. Khi không sử dụng, cần bảo quản gỗ trắc xanh ở nơi khô ráo, thoáng mát. Trên đây là những thông tin về gỗ trắc xanh. Gỗ trắc xanh là loại gỗ quý hiếm, có giá trị kinh tế cao, được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực. 3.5: Gỗ Trắc dây Gỗ Trắc dây có hoa văn dạng rối, cùng với màu sắc nâu đen. Gỗ trắc dây có màu đỏ đậm, vân gỗ đẹp và có mùi thơm đặc trưng. Gỗ trắc dây có độ cứng cao, chịu lực tốt và có độ bền cao. Gỗ trắc dây cũng có khả năng chống mối mọt và ẩm mốc tốt. Gỗ trắc dây được sử dụng để làm đồ nội thất cao cấp, đồ thủ công mỹ nghệ và các sản phẩm cao cấp khác. Gỗ trắc dây cũng được sử dụng làm nguyên liệu trong y học cổ truyền. Gỗ trắc dây là một loại gỗ quý hiếm và có giá trị cao. Gỗ trắc dây được săn lùng và khai thác quá mức nên hiện nay đang trở nên khan hiếm. Chính phủ Việt Nam đã ban hành các quy định về bảo vệ và phát triển nguồn gỗ trắc dây. Dưới đây là một số đặc điểm của gỗ trắc dây: Màu sắc: Gỗ trắc dây có màu đỏ đậm, vân gỗ đẹp và có mùi thơm đặc trưng. Độ cứng: Gỗ trắc dây có độ cứng cao, chịu lực tốt và có độ bền cao. Khả năng chống mối mọt và ẩm mốc: Gỗ trắc dây có khả năng chống mối mọt và ẩm mốc tốt. Giá trị: Gỗ trắc dây là một loại gỗ quý hiếm và có giá trị cao. Gỗ trắc dây là một loại gỗ đẹp, có giá trị cao và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Gỗ trắc dây đang trở nên khan hiếm nên cần được bảo vệ và phát triển. 3.6: Gỗ Trắc bách diệp Gỗ trắc bách diệp, hay còn gọi là bá diệp, là loại gỗ quý hiếm thuộc họ trắc bách (hay còn gọi là hoàng đàn). Có tên khoa học là Platycladus orientalis. Cây trắc bách diệp có nguồn gốc từ Trung Quốc, sau đó được du nhập vào Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác. Cây trắc bách diệp là loại cây thân gỗ nhỏ, thường cao từ 6 đến 8 m. Vỏ cây màu nâu xám, sần sùi. Lá cây mọc đối xứng ở hai bên thân cây, có hình dạng giống như lá thông, dẹp, có hình nón và trông giống những chiếc vẩy. Hoa màu nâu xám, cánh hoa nhỏ nhưng rất dày, sau khi hoa tàn thì cây sẽ ra quả ngay. Quả trắc bách diệp có màu xanh lam, bên ngoài có gai mỏng, dày và sắc, bên trong chứa hạt. Hạt trắc bách diệp có màu nâu sẫm, hình bầu dục, nhẵn, thuôn dài. Gỗ trắc bách diệp có màu vàng nhạt hoặc vàng nâu, thớ mịn, vân gỗ đẹp và có mùi thơm dịu. Gỗ trắc bách diệp có độ cứng và độ bền cao, không bị cong vênh, mối mọt, chịu được nước và nhiệt độ cao. Gỗ trắc bách diệp được sử dụng để làm đồ mỹ nghệ trang trí, đồ nội thất, ván sàn gỗ tự nhiên cao cấp. Gỗ trắc bách diệp mang lại giá trị kinh tế lớn cho người trồng và mang đến sự đẳng cấp, sang trọng cho gia chủ. Đặc điểm của gỗ trắc bách diệp Màu sắc: Gỗ trắc bách diệp có màu vàng nhạt hoặc vàng nâu, thớ mịn, vân gỗ đẹp và có mùi thơm dịu. Độ cứng và độ bền: Gỗ trắc bách diệp có độ cứng và độ bền cao, không bị cong vênh, mối mọt, chịu được nước và nhiệt độ cao. Khả năng chịu lực: Gỗ trắc bách diệp có khả năng chịu lực tốt, không dễ bị nứt vỡ. Khả năng chống thấm nước: Gỗ trắc bách diệp có khả năng chống thấm nước tốt, không bị ngấm nước khi tiếp xúc với nước. Khả năng chịu nhiệt: Gỗ trắc bách diệp có khả năng chịu nhiệt tốt, không bị biến dạng khi tiếp xúc với nhiệt độ cao. Giá trị của gỗ trắc bách diệp Gỗ trắc bách diệp là loại gỗ quý hiếm, có giá trị kinh tế cao. Giá trị của gỗ trắc bách diệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như kích thước, chất lượng, độ hiếm,... Thông thường, gỗ trắc bách diệp có giá từ 350.000 đến 400.000 đồng/kg. Cách bảo quản gỗ trắc bách diệp Để bảo quản gỗ trắc bách diệp luôn bền đẹp, cần chú ý những điều sau: Tránh để gỗ trắc bách diệp tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời hoặc nơi có nhiệt độ cao. Tránh để gỗ trắc bách diệp tiếp xúc với nước 3.7: Gỗ Trắc Nam Phi Còn được gọi là Trắc Ngố, loại cây này là hàng nhập khẩu từ Châu Phi và rất hiếm thấy ở Lào và Campuchia. Đặc điểm của loại cây này là không có mùi hương tự nhiên của gỗ do không có tinh dầu trong thân cây. Tự nhiên, nó có độ lượng khá nặng, cứng và vẫn đẹp, đều. Nhược điểm của nó là tôm gốc to, dễ bị khô nứt. Do đó, giá thành có phần cao hơn, chỉ bằng từ 10 đến 15% so với các loại gỗ thông thường khác. 4. Cách nhận biết gỗ trắc tự nhiên thật Để nhận biết gỗ Trắc tự nhiên thật, chúng ta có thể áp dụng các phương pháp sau đây: Nhìn Chúng ta có thể kiểm tra màu sắc và hoa văn của cây gỗ Trắc để xác định tính chất của nó. Gỗ Trắc thật sẽ có màu sắc và hoa văn tự nhiên, không bị tạo giả hay sửa đổi. Ngửi Một số loại cây gỗ Trắc có mùi thơm đặc trưng. Nếu chúng ta có thể ngửi được mùi thơm này từ gỗ Trắc, chắc chắn đó là gỗ Trắc tự nhiên thật. Cân Cây gỗ Trắc tự nhiên thật có mật độ cao hơn so với gỗ Trắc giả. Chúng ta có thể sử dụng cân để kiểm tra mật độ của gỗ Trắc và xác định tính chất của nó. 5. Ứng dụng của Cây Gỗ Trắc trong Trang Trí Nội Thất Cây Gỗ Trắc được sử dụng trong việc trang trí nội thất, từ các sản phẩm đồ nội thất nhỏ như giá sách, đèn tiffany, vật dụng trang trí cho đến những sản phẩm lớn như bàn ghế, tủ kệ. Gỗ Trắc có khả năng mang đến vẻ đẹp sang trọng và hiện đại cho không gian sống của chúng ta. Gỗ trắc là một loại gỗ quý hiếm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực, trong đó có nội thất. Gỗ trắc có màu đỏ nâu sang trọng, vân gỗ đẹp mắt và có độ bền cao. Chính vì vậy, gỗ trắc được sử dụng để làm các đồ nội thất cao cấp như bàn ghế, tủ, giường,... Các sản phẩm nội thất làm từ gỗ trắc mang đến vẻ đẹp sang trọng và đẳng cấp cho không gian sống. Gỗ trắc có thể được sử dụng trong nhiều phong cách nội thất khác nhau, từ cổ điển đến hiện đại. Một số ứng dụng phổ biến của gỗ trắc trong nội thất bao gồm: Bàn ghế gỗ trắc: Bàn ghế làm từ gỗ trắc có độ bền cao và sang trọng. Chúng thường được sử dụng trong phòng khách, phòng ăn, phòng ngủ,... Tủ Gỗ Trắc : Tủ làm từ gỗ trắc có thể được sử dụng để lưu trữ quần áo, đồ đạc,... Chúng có độ bền cao và có thể sử dụng trong nhiều năm. Giường Gỗ Trắc: Giường làm từ gỗ trắc mang đến sự thoải mái và sang trọng cho giấc ngủ. Chúng có độ bền cao và có thể sử dụng trong nhiều năm. Các đồ nội thất khác: Gỗ trắc cũng có thể được sử dụng để làm các đồ nội thất khác như kệ sách, bàn làm việc,... Chúng mang đến vẻ đẹp sang trọng và đẳng cấp cho không gian sống. Nếu bạn đang tìm kiếm một loại gỗ quý hiếm để làm nội thất thì gỗ trắc là một lựa chọn tuyệt vời. Gỗ trắc có độ bền cao, màu sắc đẹp mắt và mang đến vẻ đẹp sang trọng cho không gian sống. 6. Phương pháp trồng và chăm sóc Cây Gỗ Trắc Phương pháp trồng và chăm sóc cây gỗ Trắc cũng rất quan trọng để đảm bảo sức khỏe và tuổi thọ của cây. Để trồng cây gỗ Trắc, chúng ta cần chuẩn bị đất trồng phù hợp, tưới nước đầy đủ và đảm bảo ánh sáng cho cây. Khi chăm sóc cây gỗ Trắc, chúng ta cần cung cấp đủ nước và dinh dưỡng cho cây, cắt tỉa cây định kỳ để giữ cho cây luôn cân bằng và tươi mới. Cây gỗ trắc (hay còn gọi là cẩm lai) là một loại cây gỗ quý, có giá trị kinh tế cao. Cây gỗ trắc có thân cây cao, thẳng, gỗ chắc chắn, có màu đỏ tươi đẹp mắt. Gỗ trắc được sử dụng làm đồ mỹ nghệ, đồ nội thất cao cấp, có giá trị thẩm mỹ và giá trị kinh tế cao. Để trồng và chăm sóc cây gỗ trắc đạt hiệu quả cao, bà con cần lưu ý một số kỹ thuật sau: 1. Chọn giống Cây gỗ trắc có thể nhân giống bằng hạt, giâm cành, chiết cành. Tuy nhiên, phương pháp nhân giống bằng chiết cành và giâm cành phổ biến hơn cả. Khi chọn cây giống, bà con nên chọn cây giống khỏe mạnh, không bị sâu bệnh, thân cây thẳng, chiều cao từ 30-50cm, có từ 3-5 cành. 2. Chuẩn bị đất trồng Cây gỗ trắc có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau, nhưng tốt nhất nên trồng trên đất thịt pha cát, đất thịt sét. Đất trồng cần được cày xới kỹ, bón lót bằng phân chuồng hoai mục, phân lân, phân vi sinh để cung cấp dinh dưỡng cho cây. 3. Trồng cây Thời vụ trồng cây gỗ trắc tốt nhất là vào mùa xuân hoặc mùa thu. Khi trồng, bà con cần đào hố trồng có kích thước 40x40x40cm, bón lót phân chuồng hoai mục, phân lân, phân vi sinh vào hố. Sau đó, đặt cây giống vào hố, lấp đất đến cổ rễ, nén nhẹ đất xung quanh gốc và tưới nước cho cây. 4. Chăm sóc cây Cây gỗ trắc sau khi trồng cần được chăm sóc cẩn thận để cây sinh trưởng và phát triển tốt. Tưới nước: Cây gỗ trắc cần được tưới nước thường xuyên, đặc biệt là trong giai đoạn cây con. Khi cây trưởng thành, bà con chỉ cần tưới nước khi cây bị khô hạn. Làm cỏ: Bà con cần thường xuyên làm cỏ dại xung quanh gốc cây để cây không bị cạnh tranh dinh dưỡng. Bón phân: Cây gỗ trắc cần được bón phân định kỳ 2-3 lần/năm để cung cấp dinh dưỡng cho cây. Bà con có thể bón phân NPK, phân hữu cơ, phân vi sinh cho cây. Phòng trừ sâu bệnh: Cây gỗ trắc có thể bị một số loại sâu bệnh như sâu đục thân, sâu cuốn lá, rệp sáp,... Bà con cần thường xuyên kiểm tra cây để phát hiện sớm và phòng trừ sâu bệnh kịp thời. 5. Thu hoạch Cây gỗ trắc có thể cho thu hoạch gỗ sau 15-20 năm trồng. Khi cây đạt chiều cao từ 20-30m, đường kính thân từ 50-60cm thì có thể thu hoạch gỗ. Một số lưu ý khi trồng và chăm sóc cây gỗ trắc Cây gỗ trắc là loài cây ưa sáng, bà con cần trồng cây ở những nơi có nhiều ánh sáng. Cây gỗ trắc có khả năng chịu hạn kém, bà con cần chú ý tưới nước đầy đủ cho cây trong mùa khô. Cây gỗ trắc có khả năng chống chịu sâu bệnh khá tốt, tuy nhiên bà con vẫn cần thường xuyên kiểm tra cây để phát hiện sớm và phòng trừ sâu bệnh kịp thời. Với những kỹ thuật trồng và chăm sóc cây gỗ trắc trên đây, bà con có thể trồng và chăm sóc cây gỗ trắc đạt hiệu quả cao, mang lại giá trị kinh tế cao. 7. Một số ưu và nhược điểm của cây gỗ trắc Ưu điểm Cây gỗ Trắc có độ bền cao và tuổi thọ lâu dài. Có khả năng chống mối mọt, chống thấm nước và chống cháy. Màu sắc và hoa văn đa dạng, phù hợp với nhiều loại trang trí nội thất. Nhược điểm Giá thành của cây gỗ Trắc khá cao do tính quý hiếm của cây. Cây gỗ Trắc tự nhiên ngày càng khan hiếm, dẫn đến tình trạng nhập khẩu và sản xuất gỗ giả, không đảm bảo chất lượng. 8. Những điều cần biết khi sử dụng sản phẩm từ Cây Gỗ Trắc Khi sử dụng sản phẩm từ cây gỗ Trắc, chúng ta cần đảm bảo rằng chúng ta mua sản phẩm từ những nguồn tin cậy và đảm bảo chất lượng. Việc sử dụng sản phẩm từ cây gỗ Trắc cũng cần được thực hiện đúng cách để đảm bảo an toàn cho sức khỏe của con người và bảo vệ môi trường. 9. Báo giá Gỗ trắc bao nhiêu tiền 1m3 Gỗ trắc là loại gỗ quý hiếm, có giá trị kinh tế cao, được sử dụng trong nhiều lĩnh vực như nội thất, đồ mỹ nghệ,... Giá gỗ trắc hiện nay dao động từ 100 triệu đồng/m3 đến 200 triệu đồng/m3, tùy thuộc vào loại gỗ, kích thước và độ tuổi của cây. Dưới đây là bảng giá gỗ trắc cập nhật mới nhất năm 2023: Gỗ trắc đỏ là loại gỗ quý nhất trong các loại gỗ trắc, có màu đỏ đậm, thớ gỗ mịn, vân gỗ đẹp và có hương thơm đặc trưng. Gỗ trắc đỏ được sử dụng để làm các sản phẩm nội thất cao cấp như giường, tủ, bàn ghế,... Gỗ trắc đen có màu đen sẫm, thớ gỗ mịn, vân gỗ đẹp và có độ bền cao. Gỗ trắc đen được sử dụng để làm các sản phẩm đồ mỹ nghệ như tượng, tranh,... Gỗ trắc vàng có màu vàng nhạt, thớ gỗ mịn, vân gỗ đẹp và có độ bền trung bình. Gỗ trắc vàng được sử dụng để làm các sản phẩm nội thất bình dân như bàn ghế, tủ,... Giá gỗ trắc có thể thay đổi tùy thuộc vào nhiều yếu tố như loại gỗ, kích thước, độ tuổi của cây, thời điểm mua bán,... Do đó, khách hàng nên tham khảo giá từ nhiều cửa hàng khác nhau trước khi mua. Kết luận Cây Gỗ Trắc là một loại cây quý hiếm và rất được ưa chuộng trong thiết kế nội thất. Đặc biệt, gỗ Trắc có đặc tính bền vững và đa dạng về màu sắc và hoa văn, phù hợp với nhiều loại trang trí nội thất. Tuy nhiên, để sử dụng sản phẩm từ cây gỗ Trắc đúng cách và đảm bảo an toàn, chúng ta cần hiểu rõ về tính chất và phương pháp nhận biết gỗ Trắc tự nhiên thật, phương pháp trồng và chăm sóc cây gỗ Trắc, cũng như mua sản phẩm từ những nguồn đáng tin cậy và chất lượng.Dù có những ưu điểm và nhược điểm của cây gỗ Trắc, tuy nhiên với sự quan tâm và chăm sóc đúng cách, cây gỗ Trắc sẽ trở thành một sản phẩm trang trí nội thất độc đáo và sang trọng. Ngoài ra, việc bảo vệ và duy trì nguồn tài nguyên gỗ Trắc tự nhiên là rất cần thiết để giữ được giá trị của loại cây này.
19822407
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n%20g%E1%BB%97%20t%E1%BB%B1%20nhi%C3%AAn
Trần gỗ tự nhiên
Trần gỗ tự nhiên là một trong những lựa chọn phổ biến cho các kiến trúc sư và chủ nhà khi thiết kế kiến trúc nội thất. Bài viết này sẽ giải thích chi tiết về trần gỗ tự nhiên, từ khái niệm đến ứng dụng và lợi ích của nó. Khái niệm và tính năng Trần gỗ tự nhiên là loại trần được làm từ gỗ tự nhiên, với các thanh gỗ được xếp chồng lên nhau và cố định bằng các đinh hoặc keo. Loại trần này có nhiều tính năng tốt cho không gian sống như âm thanh ấm áp, bền vững và thẩm mỹ. Các loại gỗ được sử dụng cho trần gỗ tự nhiên Trần gỗ tự nhiên là một lựa chọn phổ biến cho những người muốn thêm nét ấm áp và sang trọng cho ngôi nhà của họ. Có nhiều loại gỗ khác nhau có thể được sử dụng cho trần gỗ tự nhiên, mỗi loại có những đặc điểm và giá cả riêng. Một số loại gỗ phổ biến nhất được sử dụng cho trần gỗ tự nhiên bao gồm: Gỗ sồi: Gỗ sồi là một loại gỗ cứng chắc và bền, có màu nâu sẫm. Đây là một lựa chọn phổ biến cho trần gỗ tự nhiên vì nó đẹp và dễ bảo trì. Gỗ thông: Gỗ thông là một loại gỗ mềm nhẹ, có màu nâu nhạt. Đây là một lựa chọn phổ biến cho trần gỗ tự nhiên vì nó giá cả phải chăng và dễ dàng tìm thấy. Gỗ Pơ mu: Trần gỗ pơmu là một loại vật liệu được làm từ cây gỗ pơmu, một loại gỗ quý hiếm có nguồn gốc chủ yếu ở khu vực Đông Nam Á. Gỗ pơmu có chất lượng tốt, màu sắc đẹp và độ bền cao, là lựa chọn hàng đầu cho các sản phẩm nội thất cao cấp và kiến trúc phức tạp. Gỗ gõ đỏ: Gỗ gõ đỏ (tên khoa học: Dalbergia cochinchinensis) là một loại gỗ quý hiếm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực, như chế tác nội thất như trần gỗ, đồ trang sức và nhạc cụ. Gỗ cherry: Gỗ cherry là một loại gỗ cứng có màu đỏ hồng. Đây là một lựa chọn phổ biến cho trần gỗ tự nhiên vì nó đẹp và dễ bảo trì. Khi chọn gỗ cho trần gỗ tự nhiên, cần xem xét các yếu tố sau: Màu sắc của gỗ: Màu sắc của gỗ sẽ có tác động lớn đến diện mạo tổng thể của ngôi nhà. Chọn một màu sắc phù hợp với màu sắc của sàn nhà, đồ nội thất và các yếu tố trang trí khác. Chất lượng của gỗ: Chất lượng của gỗ sẽ ảnh hưởng đến tuổi thọ của trần gỗ tự nhiên. Chọn một loại gỗ cứng và bền để đảm bảo rằng trần gỗ tự nhiên sẽ tồn tại trong nhiều năm tới. Giá cả của gỗ: Giá cả của gỗ sẽ khác nhau tùy thuộc vào loại gỗ, kích thước và chất lượng. Chọn một loại gỗ có giá cả phù hợp với ngân sách của bạn. Trần gỗ tự nhiên là một cách tuyệt vời để thêm nét ấm áp và sang trọng cho ngôi nhà của bạn. Với nhiều loại gỗ khác nhau có sẵn, bạn có thể tìm thấy một loại gỗ phù hợp với phong cách và ngân sách của mình. Lợi ích của trần gỗ tự nhiên Trần gỗ tự nhiên là một loại vật liệu trang trí nội thất được sử dụng rộng rãi trong các công trình nhà ở, biệt thự, khách sạn, nhà hàng,... Trần gỗ tự nhiên có nhiều ưu điểm nổi bật, mang lại lợi ích thiết thực cho người sử dụng. Tính thẩm mỹ cao Trần gỗ tự nhiên có vẻ đẹp sang trọng, ấm cúng và gần gũi với thiên nhiên. Vân gỗ tự nhiên đa dạng, độc đáo tạo nên sự khác biệt cho từng không gian sống. Trần gỗ tự nhiên có thể được thiết kế theo nhiều phong cách khác nhau, từ cổ điển đến hiện đại, phù hợp với mọi sở thích và nhu cầu của khách hàng. Độ bền cao Gỗ tự nhiên là vật liệu có độ bền cao, có thể sử dụng lâu dài mà không bị hư hỏng. Trần gỗ tự nhiên được xử lý kỹ lưỡng, chống cong vênh, mối mọt, ẩm mốc,... giúp đảm bảo tuổi thọ của sản phẩm. Thân thiện với môi trường Gỗ tự nhiên là vật liệu được lấy từ thiên nhiên, có thể tái tạo và phân hủy. Việc sử dụng trần gỗ tự nhiên góp phần bảo vệ môi trường, hạn chế ô nhiễm môi trường. Tốt cho sức khỏe Gỗ tự nhiên có khả năng hấp thụ khí độc và phát ra khí oxy, giúp thanh lọc không khí, tạo môi trường sống trong lành, tốt cho sức khỏe con người. Ngoài ra, trần gỗ tự nhiên còn có một số ưu điểm khác như: Cách âm, cách nhiệt tốt Dễ dàng thi công, lắp đặt Đa dạng về mẫu mã, chủng loại Nhược điểm của trần gỗ tự nhiên Trần gỗ tự nhiên có giá thành cao hơn so với các loại trần khác như trần thạch cao, trần nhựa,... Ngoài ra, trần gỗ tự nhiên cũng cần được bảo dưỡng định kỳ để đảm bảo độ bền và tính thẩm mỹ. Nhìn chung, trần gỗ tự nhiên là một loại vật liệu trang trí nội thất có nhiều ưu điểm nổi bật. Nếu bạn đang tìm kiếm một loại trần có tính thẩm mỹ cao, bền đẹp, thân thiện với môi trường và tốt cho sức khỏe thì trần gỗ tự nhiên là một lựa chọn đáng cân nhắc. Ứng dụng của trần gỗ tự nhiên Trần gỗ tự nhiên được sử dụng phổ biến trong các kiến trúc nội thất và kiến trúc cảnh quan, từ các căn hộ đô thị cho đến các biệt thự sang trọng. Dưới đây là một số ứng dụng phổ biến của trần gỗ tự nhiên: Kiến trúc nội thất Trần gỗ tự nhiên thường được sử dụng trong thiết kế nội thất để tạo ra không gian sống ấm áp và thân thiện với môi trường. Kiến trúc cảnh quan Trần gỗ tự nhiên cũng có thể được sử dụng trong kiến trúc cảnh quan, như là mái che cho khu vực sân vườn hoặc khu vực tiệc ngoài trời. Kiến trúc công cộng Trần gỗ tự nhiên được sử dụng rộng rãi trong các kiến trúc công cộng như các trung tâm thương mại, khách sạn và các khu giải trí để tạo ra vẻ đẹp tự nhiên và sang trọng. Kết luận Trần gỗ tự nhiên là lựa chọn hoàn hảo cho không gian sống của bạn, mang lại tính thẩm mỹ, âm thanh ấm áp và bền vững. Với nhiều loại gỗ được sử dụng và ứng dụng rộng rãi trong kiến trúc nội thất, trần gỗ tự nhiên có thể giúp tạo ra một không gian sống độc đáo và thu hút cho ngôi nhà của bạn.
19822408
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n%20Nh%E1%BB%B1a%20pvc
Trần Nhựa pvc
1. Trần nhựa PVC là gì? Trần nhựa PVC (Polyvinyl Chloride) là loại vật liệu mới thường được sử dụng trong ngành xây dựng và trang trí nội thất. Với đặc tính linh hoạt và có khả năng chống ẩm tốt, trần nhựa PVC đã trở thành lựa chọn hàng đầu của nhiều gia đình trong việc trang trí nội thất. 2. Các loại trần nhà được trang trí bằng tấm nhựa PVC Có 3 loại trần nhà bằng tấm nhựa PVC chính: trần nhựa PVC vân đá, Trần nhà bằng tấm nhựa Nano, Trần nhà bằng tấm lam sóng. Trần nhựa PVC Giả Đá Trần nhựa PVC giả đá là một loại vật liệu được sử dụng để ốp trần nhà. Nó được làm từ nhựa PVC, có bề mặt được in họa tiết vân đá. Trần nhựa PVC giả đá có nhiều ưu điểm như: Giá thành rẻ hơn so với đá tự nhiên Dễ thi công và bảo dưỡng Đa dạng về mẫu mã và màu sắc Chống nước, chống ẩm, chống cháy Tạo vẻ đẹp sang trọng và hiện đại cho ngôi nhà Trần nhựa PVC giả đá được sử dụng phổ biến trong các công trình dân dụng như nhà ở, văn phòng, khách sạn, nhà hàng,... Trần nhựa PVC Nano Trần nhựa PVC Nano là loại trần được làm từ tấm nhựa PVC có cấu trúc dạng Nano, chống ẩm, chống cháy. Loại trần này đang ngày càng được ưa chuộng bởi những ưu điểm vượt trội về tính thẩm mỹ, độ bền và khả năng cách âm, cách nhiệt. Trần nhựa Lam Sóng Trần nhựa lam sóng là một loại trần được làm từ tấm nhựa PVC có hình dạng sóng. Trần nhựa lam sóng có nhiều ưu điểm như: Giá thành rẻ Dễ dàng thi công Chống ẩm, chống cháy Đa dạng màu sắc và mẫu mã Trần nhựa lam sóng được sử dụng phổ biến trong các công trình nhà ở, văn phòng, nhà xưởng,... Trần nhựa lam sóng có thể được lắp đặt trên nhiều loại trần khác nhau, bao gồm trần phẳng, trần dốc và trần giật cấp. Trần nhựa lam sóng có thể được lắp đặt bằng nhiều phương pháp khác nhau, nhưng phương pháp phổ biến nhất là sử dụng khung xương. Khung xương được làm từ thanh gỗ hoặc thanh nhôm và được lắp đặt trên trần nhà. Sau khi khung xương được lắp đặt xong, các tấm trần nhựa lam sóng sẽ được gắn vào khung xương bằng vít. Trần nhựa lam sóng là một loại trần đẹp mắt, sang trọng và hiện đại. Trần nhựa lam sóng có thể giúp làm tăng tính thẩm mỹ cho ngôi nhà của bạn và tạo ra một không gian sống thoải mái, tiện nghi. 3. Ưu điểm của trần nhựa PVC Trần nhựa PVC có rất nhiều ưu điểm, chính là lý do tại sao nó trở thành lựa chọn hàng đầu trong việc trang trí nội thất. Dễ dàng lắp đặt Vì trần nhựa PVC rất linh hoạt, nó có thể được cắt và lắp đặt dễ dàng trên mọi bề mặt. Điều này giúp cho việc lắp đặt trần nhựa PVC nhanh chóng và tiết kiệm chi phí lao động. Không thấm nước và chống ẩm Với đặc tính không thấm nước và khả năng chống ẩm tuyệt vời, trần nhựa PVC là lựa chọn hàng đầu cho các khu vực có độ ẩm cao như phòng tắm hay nhà bếp. Bảo trì dễ dàng Trần nhựa PVC rất dễ dàng trong việc bảo trì và vệ sinh. Bạn chỉ cần lau chùi nó bằng một miếng khăn ướt, và không cần sử dụng các loại hoá chất phức tạp như khi dọn dẹp trần sơn. 4. Nhược điểm của trần nhựa PVC Mặc dù có nhiều ưu điểm, trần nhựa PVC vẫn có một số nhược điểm cần được lưu ý. Không thể chịu được nhiệt độ cao Trần nhựa PVC không thể chịu được nhiệt độ cao, vì chất liệu PVC có khả năng dẫn nhiệt thấp. Vì vậy, nếu bạn sử dụng trần nhựa PVC trong các khu vực có nhiệt độ cao, chúng sẽ bị biến dạng và không còn đẹp như ban đầu. Dễ bị xước Trần nhựa PVC rất dễ bị xước, do đó khi lau chùi hoặc di chuyển đồ vật trên trần nhựa PVC, bạn cần phải cẩn thận để tránh làm hỏng bề mặt của nó.
19822409
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20H%C3%A1n%20t%E1%BB%B1%20th%C3%B4ng%20d%E1%BB%A5ng%20hi%E1%BB%87n%20%C4%91%E1%BA%A1i
Danh sách Hán tự thông dụng hiện đại
Danh sách Hán tự thông dụng hiện đại () là một danh sách gồm 7.000 Hán tự thông dụng trong tiếng Trung Hoa. Nó được lập nên vào năm 1988 dưới thời Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Còn có một danh sách khác có tên Hiện đại Hán ngữ thường dụng tự biểu () là một danh sách phụ gồm 3.500 Hán tự thường xuyên được sử dụng trong tiếng Trung. Vào năm 2013, Danh sách Hán tự quy phạm chung đã thay thế Danh sách Hán tự thông dụng hiện đại làm các Hán tự tiêu chuẩn của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Chú thích và Tham khảo Liên kết ngoài Liên kết phụ: danh sách các Hán tự thông dụng tại Learnchineseok.com Danh sách thông dụng CJK-CODE Hán tự Chữ Trung Quốc Chữ Hán Văn bản 1988
19822414
https://vi.wikipedia.org/wiki/Neodymi%28III%29%20hydroxide
Neodymi(III) hydroxide
Neodymi(III) hydroxide là một hợp chất vô cơ có công thức hóa học Nd(OH)3. Chất rắn màu trắng hồng đến tím này không tan trong nước. Điều chế Neodymi(III) nitrat và dung dịch amoni hydroxide sẽ phản ứng để tạo ra neodymium(III) hydroxide. Nd(NO3)3 + 3 NH3·H2O → Nd(OH)3↓ + 3 NH4NO3 Nếu lượng Nd(NO3)3 là 40 g/L thì lượng amoni hydroxide cần dùng là 0,50 mol/L. Amoni hydroxide được trộn vào dung dịch Nd(NO3)3 với tốc độ 1,5 mL/phút với polyethylen glycol được sử dụng để kiểm soát pH. Quy trình sẽ tạo ra bột neodymium(III) hydroxide có kích thước hạt ≤ 1 μm. Tính chất vật lý Neodymi(III) hydroxide có thể tạo thành kết tủa màu hồng đến tím hoặc trắng, không tan trong nước. Cấu trúc của Nd(OH)3 giống UCl3, thuộc hệ tinh thể lục phương, nhóm không gian P63/m, các hằng số mạng tinh thể a = 0,6418 nm, c = 0,3743 nm, α = 90°, γ = 120°. Tính chất hóa học Neodymium(III) hydroxide có thể phản ứng với acid, tạo ra muối neodymi(III): Nd(OH)3 + 3 H + → Nd3+ + 3 H2O Ví dụ, để tạo ra neodymi(III) acetat: Nd(OH)3 + 3 CH3COOH → Nd(CH3COO)3 + 3 H2O Xem thêm Neodymi Hydroxide Họ Lanthan Tham khảo Hydroxide Hợp chất neodymi Base Articles containing unverified chemical infoboxes Articles with short description Short description matches Wikidata
19822419
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20X%C3%A3%20h%E1%BB%99i%20ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20Croatia
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Croatia
Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Croatia (tiếng Serbia-Croatia: Socijalistička Republika Hrvatska / Социјалистичка Република Хрватска), thường viết tắt là SR Croatia hoặc chỉ gọi là Croatia, là một nước cộng hoà cấu thành của Nam Tư. Theo hiến pháp, Croatia hiện đại là sự tiếp nối trực tiếp của cộng hoà. Cùng với năm nước cộng hòa Nam Tư khác, CHXHCN Croatia được thành lập trong Chiến tranh thế giới thứ hai và trở thành một cộng hòa xã hội chủ nghĩa sau chiến tranh. Nhà nước có bốn tên chính thức đầy đủ trong suốt 48 năm tồn tại. Theo lãnh thổ và dân số, đây là nước cộng hòa lớn thứ hai tại Nam Tư, sau Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Serbia. Vào năm 1990, chính phủ đã dỡ bỏ hệ thống chính phủ độc đảng – được Liên đoàn Những người cộng sản thiết lập – và áp dụng một nền dân chủ đa đảng. Chính phủ mới được bầu của Franjo Tuđman chuyển nước cộng hòa thành quốc gia độc lập, chính thức ly khai khỏi Nam Tư vào năm 1991 và do đó góp phần giải thể liên bang. Tên gọi Croatia trở thành một phần của liên bang Nam Tư vào năm 1943 sau Phiên họp thứ hai của AVNOJ và thông qua các nghị quyết của ZAVNOH, cơ quan thảo luận thời chiến của Croatia. Nước cộng hoà được chính thức thành lập với tên gọi Nhà nước Liên bang Croatia () vào ngày 9 tháng 5 năm 1944, tại phiên họp thứ 3 của ZAVNOH. Nam Tư khi đó được gọi là Liên bang Dân chủ Nam Tư (Demokratska Federativna Jugoslavija, DFJ), đây không phải là một nhà nước xã hội chủ nghĩa theo hiến pháp, hay thậm chí là một nước cộng hòa trước khi chiến tranh kết thúc, khi những vấn đề này được giải quyết. Vào ngày 29 tháng 11 năm 1945, Liên bang Dân chủ Nam Tư trở thành Cộng hòa Nhân dân Liên bang Nam Tư (Federativna Narodna Republika Jugoslavija, FNRJ), một nước cộng hòa nhân dân xã hội chủ nghĩa. Theo đó, Nhà nước Liên bang Croatia trở thành Cộng hòa Nhân dân Croatia (Narodna Republika Hrvatska, NR Hrvatska). Vào ngày 7 tháng 4 năm 1963, Cộng hòa Nhân dân Liên bang Nam Tư (FPRY) được đổi tên thành Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư (SFRY). Nam Tư (và do đó là Croatia) dần dần từ bỏ chủ nghĩa Stalin sau chia rẽ Tito–Stalin vào năm 1948. Năm 1963, Cộng hòa Nhân dân Croatia cũng theo đó trở thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Croatia. Vào ngày 22 tháng 12 năm 1990, Hiến pháp mới được thông qua, theo đó Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Croatia được đổi tên thành Cộng hòa Croatia. Theo hiến pháp này, Croatia trở nên độc lập vào ngày 25 tháng 6 năm 1991. Thành lập Thế chiến II Trong những năm đầu tiên của thế chiến, Quân Du kích Nam Tư tại Croatia không được nhiều người Croat ủng hộ, ngoại trừ người Croat trong vùng Dalmatia của Croatia. Phần lớn quân du kích trên lãnh thổ Croatia là người Serb Croatia. Tuy nhiên, vào năm 1943, người Croat bắt đầu tham gia quân du kích với số lượng lớn hơn. Năm 1943, số lượng quân du kích người Croat tại Croatia tăng lên, vì vậy vào năm 1944, họ chiếm 61% số quân du kích trên lãnh thổ của Nhà nước Độc lập Croatia, trong khi người Serb chiếm 28%; tất cả các dân tộc khác chiếm 11% còn lại. Vào ngày 13 tháng 6 năm 1943 tại Otočac, Lika, quân du kích Croatia đã thành lập ZAVNOH (Hội đồng Chống phát xít Quốc gia Giải phóng Nhân dân Croatia), một cơ quan lập pháp của nước cộng hòa Croatia trong tương lai của Nam Tư. Tổng thống đầu tiên của họ là Vladimir Nazor. Quân du kích Croatia có quyền tự chủ cùng với các quân du kích Slovenia và Macedonia. Tuy nhiên, vào ngày 1 tháng 3 năm 1945, họ được đặt dưới quyền chỉ huy của Bộ Tư lệnh Tối cao Quân đội Nam Tư, do đó mất quyền tự chủ. Do các chiến thắng của quân du kích và lãnh thổ do họ nắm giữ tăng lên, AVNOJ quyết định tổ chức phiên họp thứ hai tại Jajce vào cuối tháng 11 năm 1943. Tại phiên họp đó, ban lãnh đạo cộng sản Nam Tư quyết định tái lập Nam Tư thành một quốc gia liên bang. Hình thành Vào ngày 29 tháng 11 năm 1945, Hội đồng Lập hiến Nam Tư tổ chức một phiên họp quyết định rằng Croatia sẽ được gia nhập cùng với năm nước cộng hòa khác tạo thành Nam Tư: Slovenia, Bosnia và Herzegovina, Montenegro, Serbia và Macedonia. Không lâu sau, Đảng Cộng sản bắt đầu truy tố những người phản đối hệ thống độc đảng cộng sản. Vào ngày 30 tháng 1 năm 1946, Hội đồng Lập hiến phê chuẩn Hiến pháp của Cộng hòa Nhân dân Liên bang Nam Tư. Croatia là nước cộng hòa cuối cùng có hiến pháp riêng, phần lớn giống với hiến pháp liên bang và các nước cộng hòa khác. Hiến pháp của Cộng hòa Nhân dân Croatia được Nghị viện Lập hiến của Cộng hòa Nhân dân Croatia thông qua vào ngày 18 tháng 1 năm 1947. Trong hiến pháp của họ, tất cả các nước cộng hòa đều bị tước quyền giành độc lập. Các cộng hòa chỉ có quyền tự trị danh nghĩa; ban đầu, Nam Tư cộng sản là một quốc gia tập trung cao độ, dựa trên mô hình Xô viết. Các quan chức của Đảng Cộng sản đồng thời là các quan chức nhà nước, trong khi Ban Chấp hành Trung ương Đảng là cơ quan cao nhất của đảng; tuy nhiên, các quyết định chính được đưa ra bởi Bộ Chính trị. Chính phủ của các nước cộng hòa chỉ là một bộ phận của cơ chế thi hành các quyết định của Bộ Chính trị. Bầu cử Tại Nam Tư thời hậu chiến, những người cộng sản tranh giành quyền lực với phe đối lập ủng hộ Quốc vương Petra. Milan Grol là thủ lĩnh của phe đối lập; ông phản đối ý tưởng về một nhà nước liên bang, từ chối quyền có các nước cộng hòa của người Montenegro và người Macedonia, đồng thời cho rằng một thỏa thuận giữa Tito và Ivan Šubašić đảm bảo rằng phe đối lập cần phải có một nửa số ghế các bộ trưởng trong chính phủ mới. Đảng Nông dân Croatia (HSS) là một phần của phe đối lập, đã chia thành ba nhánh: một nhánh ủng hộ Ustaše, nhánh còn lại ủng hộ những người cộng sản và nhánh thứ ba ủng hộ Vladko Maček. Tuy nhiên, những người cộng sản chiếm đa số trong quốc hội và kiểm soát quân đội, khiến phe đối lập không có bất kỳ quyền lực thực sự nào. Šubašić có những người ủng hộ riêng mình trong HSS và ông cố gắng đoàn kết đảng một lần nữa, tin rằng, một khi đoàn kết thì đó sẽ là một nhân tố chính trị lớn của đất nước. Đảng Nông dân Cộng hòa Croatia, một đảng tách ra khỏi HSS, muốn gia nhập Mặt trận Nhân dân, một tổ chức siêu chính trị do Đảng Cộng sản Nam Tư kiểm soát. Šubašić biết rằng điều này sẽ đặt HSS dưới quyền kiểm soát của những người cộng sản và kết thúc các cuộc đàm phán về việc thống nhất. Trong chiến dịch bầu cử, các đảng đối lập muốn hợp nhất với Đảng Cấp tiến Serbia và các đảng khác; tuy nhiên, các hoạt động của cộng sản, sử dụng nhiều mưu kế khác nhau, đã phá hỏng kế hoạch của họ. Vào ngày 20 tháng 8 năm 1945, Grol từ chức và cáo buộc những người cộng sản phá vỡ thỏa thuận Tito–Šubašić. Bản thân Šubašić cũng sớm bị buộc phải từ chức vào cuối tháng 10 vì ông cũng đã tách mình ra khỏi Tito. Chẳng mấy chốc, những người cộng sản thắng cử. Họ giành được đa số tuyệt đối trong quốc hội, điều này cho phép họ tạo ra hình thức Nam Tư của riêng mình. Chính phủ và chính trị Cộng hòa Nhân dân Croatia thông qua Hiến pháp đầu tiên của mình vào năm 1947. Năm 1953, "Luật Hiến pháp về các vấn đề cơ bản của tổ chức chính trị và xã hội và về các cơ quan thẩm quyền của nước Cộng hòa" sau đó trên thực tế là một hiến pháp hoàn toàn mới. Hiến pháp thứ hai (về mặt kỹ thuật là thứ ba) được thông qua vào năm 1963; họ đổi tên Cộng hòa Nhân dân Croatia (NRH) thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Croatia (SRH). Những sửa đổi lớn về hiến pháp được thông qua vào năm 1971, và vào năm 1974, Hiến pháp mới của CHXHCN Croatia được ban hành, trong đó nhấn mạnh tình trạng quốc gia của Croatia với tư cách là một nước cộng hòa cấu thành của Nam Tư. Tất cả các hiến pháp và sửa đổi được thông qua bởi Nghị viện Croatia (). Sau cuộc bầu cử nghị viện đa đảng đầu tiên được tổ chức vào tháng 4 năm 1990, Nghị viện thực hiện nhiều sửa đổi hiến pháp và bỏ tên hiệu "xã hội chủ nghĩa" khỏi tên chính thức, vì vậy "Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Croatia" rút gọn thành "Cộng hòa Croatia" (RH). Vào ngày 22 tháng 12 năm 1990, Nghị viện bác bỏ hệ thống độc đảng cộng sản và áp dụng chế độ dân chủ tự do thông qua Hiến pháp Croatia. Theo Hiến pháp này, nền độc lập sẽ được tuyên bố vào ngày 25 tháng 6 năm 1991 (sau Trưng cầu dân ý về độc lập của Croatia được tổ chức vào ngày 19 tháng 5 năm 1991). Theo Điều 1.2 của Hiến pháp Croatia năm 1974, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Croatia được định nghĩa là "nhà nước dân tộc của người Croatia, nhà nước của người Serbia tại Croatia và nhà nước của các dân tộc khác sinh sống tại đây". Giai đoạn Tito Nhà lãnh đạo nhà nước đầu tiên sau chiến tranh của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Croatia là Vladimir Nazor (thực ra là Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Nghị viện Cộng hòa Nhân dân Croatia), trong chiến tranh, ông là Chủ tịch của Hội đồng Chống phát xít Nhà nước Giải phóng Nhân dân Croatia (ZAVNOH), trong khi người đứng đầu chính phủ đầu tiên là Vladimir Bakarić. Mặc dù những người cộng sản thúc đẩy chủ nghĩa liên bang, nhưng Nam Tư sau chiến tranh vẫn được tập trung hóa nghiêm ngặt. Cơ quan chính yếu là Bộ chính trị Uỷ ban trung ương Đảng Cộng sản Croatia (từ năm 1952 là Liên đoàn Những người cộng sản Croatia) gồm khoảng mười người. Các thành viên của họ được chỉ định vào một số lĩnh vực nhất định: một người kiểm soát lực lượng vũ trang, người kia kiểm soát sự phát triển của nhà nước, người thứ ba kiểm soát nền kinh tế, v.v. Bề ngoài, hệ thống chính phủ là dân chủ đại diện: người dân sẽ bầu ra các ủy viên hội đồng và thành viên của nghị viện. Tuy nhiên, quyền lực thực sự nằm trong tay các cơ quan hành pháp. Các cơ quan đại diện (Nghị viện và các hội đồng khác nhau ở cấp địa phương và huyện) chỉ phục vụ tính hợp pháp cho các quyết định của họ. Đảng cai trị CHXHCN Croatia là chi nhánh của Đảng Cộng sản Nam Tư gọi là Đảng Cộng sản Croatia (KPH). Mặc dù đảng mang tên Croatia, nhưng thành viên của nó chỉ có 57% là người Croatia, cùng với 43% là người Serb. Phần lớn các thành viên là nông dân và phần lớn được giáo dục không hoàn chỉnh. Ngay sau khi giành được quyền lực, những người Cộng sản bắt đầu bức hại các cựu quan chức của Nhà nước Độc lập Croatia để khiến họ phải thỏa hiệp. Vào ngày 6 tháng 6 năm 1946, Tòa án Tối cao của CHXHCN Croatia kết án một số quan chức hàng đầu của NDH, bao gồm Slavko Kvaternik, Vladimir Košak, Miroslav Navratil, Ivan Perčević, Mehmed Alajbegović, Osman Kulenović và những người khác. Những người cộng sản cũng có một số phiên tòa lớn nhỏ nhằm đối phó với chế độ phát xít NDH. Ngoài ra, các nhà lãnh đạo địa phương của các đảng dân sự thường "biến mất" mà không có bất kỳ nhân chứng nào. Những người cộng sản không chỉ thanh trừng các quan chức đang làm việc cho NDH mà cả những người ủng hộ Đảng Nông dân Croatia và Giáo hội Công giáo. Đảng dân sự lớn duy nhất ở Croatia là Đảng Nông dân Cộng hòa Croatia, chỉ hoạt động vài năm sau cuộc bầu cử, nhưng với tư cách là một vệ tinh của Đảng Cộng sản. Cuộc đụng độ với các lực lượng dân sự chống cộng sản đã kích thích tính tập trung và chủ nghĩa độc tài của Đảng Cộng sản. Khi lên nắm quyền, Tito biết rằng mối đe dọa lớn nhất đối với sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản ở Nam Tư là chủ nghĩa dân tộc. Do đó, những người cộng sản sẽ đè bẹp ngay cả một hình thức chủ nghĩa dân tộc nhỏ nhất bằng cách đàn áp. Những người cộng sản nỗ lực hết sức nhằm đè bẹp chủ nghĩa dân tộc tại Bosnia và Herzegovina và Croatia, đồng thời cố gắng dập tắt sự thù hận giữa người Croatia, người Serb và người Hồi giáo, nhưng ngay cả như vậy, những người ủng hộ lớn nhất của họ trong quá trình này là người Serb địa phương. Không lâu sau, người Serb chiếm đa số trong ban lãnh đạo đảng và nhà nước Croatia và Bosnia. Sau khi Tito mất Năm 1980, Josip Broz Tito qua đời. Những khó khăn về chính trị và kinh tế bắt đầu gia tăng và chính phủ liên bang bắt đầu sụp đổ. Chính phủ liên bang nhận ra rằng họ không thể trả lãi cho các khoản vay của mình và bắt đầu đàm phán với IMF kéo dài trong nhiều năm. Các cuộc luận chiến công khai tại Croatia liên quan đến nhu cầu giúp đỡ các vùng nghèo và kém phát triển trở nên thường xuyên hơn, vì Croatia và Slovenia đóng góp khoảng 60% số tiền đó. Cuộc khủng hoảng nợ, cùng với lạm phát tăng vọt, buộc chính phủ liên bang phải đưa ra các biện pháp như luật ngoại tệ đối với thu nhập của các hãng xuất khẩu. Ante Marković, một người Croat từ Bosnia vào thời điểm đó là người đứng đầu chính phủ Croatia, nói rằng Croatia sẽ mất khoảng 800 triệu đô la vì luật đó. Marković trở thành người đứng đầu chính phủ cuối cùng của Nam Tư vào năm 1989 và dành hai năm để thực hiện nhiều cải cách kinh tế và chính trị. Những nỗ lực của chính phủ của ông ban đầu đã thành công, nhưng cuối cùng chúng thất bại do bất ổn chính trị nan y của Nam Tư. Căng thẳng sắc tộc ngày càng gia tăng và sẽ dẫn đến sự sụp đổ của Nam Tư. Cuộc khủng hoảng ngày càng gia tăng tại Kosovo, Bản ghi nhớ của Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Serbia chủ nghĩa dân tộc, sự nổi lên của Slobodan Milošević với tư cách là nhà lãnh đạo của Serbia, và mọi thứ khác sau đó đã gây ra một phản ứng rất tiêu cực. Rạn nứt kéo dài 50 năm bắt đầu nổi lên, và người Croatia ngày càng bắt đầu thể hiện tình cảm dân tộc của mình và bày tỏ sự phản đối đối với chế độ Beograd. Vào ngày 17 tháng 10 năm 1989, nhóm nhạc rock Prljavo kazalište đã tổ chức một buổi hòa nhạc lớn trước gần 250.000 người tại quảng trường trung tâm thành phố Zagreb. Do hoàn cảnh chính trị đang thay đổi, bài hát của họ "Mojoj majci" ("Gửi mẹ tôi"), trong đó nhạc sĩ ca ngợi người mẹ trong bài hát là "bông hồng cuối cùng của Croatia", đã được lòng những người hâm mộ vì lòng yêu nước được bày tỏ. Vào ngày 26 tháng 10, Nghị viện tuyên bố Ngày Các Thánh (1 tháng 11) là một ngày nghỉ lễ. Vào tháng 1 năm 1990, trong Đại hội lần thứ 14 của Liên đoàn Những người cộng sản Nam Tư, phái đoàn của Serbia do Milošević dẫn đầu đã nhất quyết thay thế chính sách hiến pháp năm 1974 trao quyền cho các nước cộng hòa bằng chính sách "một người, một phiếu bầu", điều này sẽ có lợi cho người Serb chiếm đa số. Điều này khiến phái đoàn Slovenia khởi đầu và sau đó là Croatia (lần lượt do Milan Kučan và Ivica Račan dẫn đầu) rời Đại hội để phản đối và đánh dấu đỉnh điểm sự rạn nứt của đảng cầm quyền. Dân tộc Serb chiếm 12% dân số Croatia, bác bỏ quan điểm tách khỏi Nam Tư. Các chính trị gia người Serb lo sợ mất ảnh hưởng mà họ có trước đây thông qua tư cách thành viên của Liên đoàn Những người cộng sản ở Croatia (mà một số người Croatia tuyên bố là họ có đại diện không tương xứng). Những ký ức về Chiến tranh thế giới thứ hai được gợi lên bởi những lời hùng biện đến từ chính quyền Beograd. Khi Milošević và nhóm của ông thúc đẩy làn sóng chủ nghĩa dân tộc Serbia trên khắp Nam Tư, nói về các trận chiến vì quốc gia Serb, nhà lãnh đạo mới nổi của Croatia Franjo Tuđman đã đáp lại bằng cách nói về việc biến Croatia thành một quốc gia dân tộc. Sự sẵn có của các phương tiện thông tin đại chúng cho phép tuyên truyền được lan truyền nhanh chóng và châm ngòi cho chủ nghĩa hiếu chiến và chứng sợ hãi, tạo ra bầu không khí chiến tranh. Vào tháng 2 năm 1990, CHXHCN Croatia đã thay đổi hệ thống hiến pháp của mình sang hệ thống đa đảng. Vào tháng 3 năm 1991, Quân đội Nhân dân Nam Tư đã gặp Tổng thống Nam Tư (một hội đồng tám thành viên bao gồm đại diện từ sáu nước cộng hòa và hai tỉnh tự trị) trong một nỗ lực để khiến họ tuyên bố tình trạng khẩn cấp, sẽ cho phép quân đội nắm quyền kiểm soát đất nước. Các đại biểu Serbia và do người Serb thống trị (Montenegro, Vojvodina và Kosovo) đồng ý với quân đội, đã bỏ phiếu thuận cho đề xuất này, nhưng khi đại biểu của Croatia, Slovenia, Macedonia và Bosnia bỏ phiếu chống, âm mưu đã thất bại. Chuyển đổi sang độc lập Cuộc bầu cử nghị viện Croatia năm 1990 được tổ chức vào ngày 22 tháng 4 và ngày 6 tháng 5 năm 1990. Sau cuộc bầu cử đa đảng đầu tiên, việc thành lập một nước cộng hòa cấu thành dựa trên các thể chế dân chủ đã diễn ra. Sau cuộc bầu cử tự do đầu tiên, vào tháng 7 năm 1990, tiền tố "xã hội chủ nghĩa" đã bị loại bỏ và sau đó Croatia được đặt tên là Cộng hòa Croatia. Franjo Tuđman được bầu làm tổng thống và chính phủ của ông bắt tay vào con đường hướng tới độc lập của Croatia. Kinh tế Mô hình và lý thuyết kinh tế Nền kinh tế của CHLBXHCN Nam Tư và do đó của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Croatia ban đầu chịu ảnh hưởng của Liên Xô. Vì Đảng Cộng sản Nam Tư là thành viên của Quốc tế Cộng sản, những người cộng sản Nam Tư nghĩ rằng con đường Liên Xô đi tới chủ nghĩa xã hội là lựa chọn duy nhất để tạo nên một nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong những năm đầu của CHLBXHCN Nam Tư, các đảng viên cộng sản đã đàn áp những người chỉ trích Liên Xô và nuôi dưỡng thiện cảm với nước này. Những người cộng sản Nam Tư thường cho rằng sở hữu nhà nước và chủ nghĩa tập trung là cách duy nhất để tránh đổ vỡ kinh tế, và nếu không có sở hữu nhà nước và kiểm soát hành chính thì không thể tích lũy các nguồn lực lớn về vật chất và con người để phát triển kinh tế. Vì mọi quốc gia chưa phát triển đều cần nguồn tài nguyên khổng lồ để bắt đầu phát triển, và Nam Tư nằm trong số đó, nên những người cộng sản nghĩ rằng đây là cách duy nhất để cứu nền kinh tế của Nam Tư. Ngoài ra, hệ tư tưởng của họ bao gồm việc loại bỏ khu vực tư nhân, vì họ cho rằng một hệ thống kinh tế như vậy là điều bị đào thải trong lịch sử. Kinh tế thời chiến Quá trình quốc hữu hóa đầu tiên bắt đầu vào ngày 24 tháng 11 năm 1944, khi các đảng viên Nam Tư tước đoạt tài sản của kẻ thù. Nạn nhân đầu tiên của vụ tịch thu là những người chiếm đóng và tội phạm chiến tranh. Tuy nhiên, không lâu sau, tài sản của 199.541 người dân tộc Đức, tức toàn bộ người Đức thiểu số, bao gồm 68.781 ha đất, cũng bị tịch thu. Cho đến khi chiến tranh kết thúc, nhà nước kiểm soát 55% công nghiệp, 70% khai thác mỏ, 90% luyện kim màu và 100% ngành công nghiệp dầu mỏ. Đổi mới nền kinh tế Trong CHXHCN Croatia, thiệt hại và tổn thất vật chất trong thế chiến ở mức cao. Trong chiến tranh, CHXHCN Croatia mất 298.000 người, chiếm 7,8% tổng dân số. Do chiến tranh du kích kéo dài 4 năm, các vụ đánh bom, khai thác quá mức nguyên liệu thô và tài nguyên nông nghiệp, đồng thời phá hủy các con đường và cơ sở công nghiệp, nên nhà nước rơi vào tình trạng hỗn loạn kinh tế. Giai cấp nông dân cung cấp cho tất cả các bên xung đột trong cuộc chiến đã bị tàn phá và thiệt hại về người cũng ở mức cao. Thiệt hại về công nghiệp tại Nam Tư là tồi tệ nhất trên toàn châu Âu, trong đó CHXHCN Croatia nằm trong số các nước cộng hòa bị thiệt hại nặng nề nhất của Nam Tư, cùng với Bosna và Herzegovina và Montenegro. Nhà cầm quyền cộng sản cần phải làm gì đó để ngăn chặn nạn đói, tình trạng mất trật tự và hỗn loạn. Nam Tư thiếu lao động có trình độ, vì vậy sự đổi mới của nền kinh tế chủ yếu dựa vào công việc tình nguyện quần chúng. Việc tuyển dụng cho các công việc tình nguyện được tiến hành bằng tuyên truyền về một tương lai cộng sản tốt đẹp hơn, đặc biệt là trong các thành viên du kích và thanh niên Nam Tư. Một bộ phận khác của những người lao động này là những người sợ bị ngược đãi, chủ yếu là những người phản đối chế độ cộng sản và những người cộng tác với Đức Quốc xã. Họ tham gia lao động tình nguyện để thoát khỏi sự ngược đãi. Bộ phận thứ ba của lực lượng lao động bao gồm các tù nhân chiến tranh, họ là những người làm các công việc nặng nhọc nhất. Việc phân phối thực phẩm và vật liệu cần thiết cho ngành công nghiệp phụ thuộc vào tốc độ làm mới nhanh chóng những con đường bị hư hỏng. Tuyến đường sắt Zagreb-Belgrade được tái thiết cả ngày lẫn đêm, vì vậy chuyến tàu đầu tiên đi trên tuyến đường sắt này thời hậu chiến đã hoàn thành vào cuối tháng 6 năm 1945. Các bãi mìn cũng được rà phá. Mặc dù quan hệ giữa các nước phương Tây và Nam Tư rất căng thẳng, nhưng sự trợ giúp đáng kể cho người dân Nam Tư đã đến từ UNRRA, một cơ quan viện trợ của Mỹ được thành lập trong vai trò một chi nhánh của Liên Hợp Quốc. Họ phân phát thực phẩm, quần áo và giày dép giúp những người cộng sản tránh khỏi nạn đói. Từ năm 1945 đến 1946, UNRRA đã triển khai 2,5 triệu tấn hàng hóa, chủ yếu là thực phẩm, trị giá 415 triệu USD. Số tiền này tương đương hai lần nhập khẩu của Vương quốc Nam Tư vào năm 1938, hay 135% doanh thu thuế của nước này. Người ta thường cho rằng UNRRA đã cung cấp thức ăn và quần áo cho khoảng 5 triệu người. Cải cách nông nghiệp Đồng thời với việc đàn áp các kẻ thù chính trị, chính quyền cộng sản đã tiến hành Cải cách ruộng đất,, một cuộc cải cách được thực hiện vào ngày 23 tháng 8 năm 1945. Quá trình này bao gồm việc tước quyền sở hữu của những công dân và nông dân giàu có. Cải cách ruộng đất làm thay đổi quan hệ sở hữu tài sản nông nghiệp. Đất trên 35 acre được lấy từ chủ sở hữu. Gần một nửa số đất bị lấy được chuyển thành đất nông nghiệp (tài sản nhà nước), trong khi nửa còn lại được trao cho nông dân nghèo. Cuộc cải cách này cũng bao gồm việc di cư đến CHXHCN Croatia, nơi người dân từ những khu vực lạc hậu chuyển đến những khu vực mà người dân tộc Đức đã bị trục xuất. Ở CHXHCN Croatia, quá trình thuộc địa hóa diễn ra ở Slavonia, trong khi những người di cư là nông dân nghèo, chủ yếu là người Serb tại Croatia và người Serb tại Bosnia. Việc tịch thu tài sản cũng được tiến hành; những người buôn bán trong chiến tranh được tuyên bố là những kẻ trục lợi trong chiến tranh và bằng cách này, nhà nước đã giành được các nhà máy, ngân hàng và cửa hàng lớn. Những người cộng sản cũng giới thiệu một phương thức phân phối nông sản mới. Để cung cấp cho những người sống ở các thị trấn và thành phố, họ đã giới thiệu chế độ mua lại những sản phẩm đó. Chính sách phân phối dựa trên ý tưởng rằng bộ phận lao động của xã hội nên có lợi thế về số lượng và sự đa dạng hàng hóa so với bộ phận không lao động, ký sinh. Điều này dẫn đến sự phát triển của thị trường chợ đen và đầu cơ. Bước kế tiếp trong việc thực hiện cải cách ruộng đất là quốc hữu hóa các tài sản lớn của thành phần dân cư tư sản. Vào ngày 28 tháng 4 năm 1948, khi các cửa hàng nhỏ và phần lớn ngành thủ công được quốc hữu hóa, khu vực tư nhân tại CHXHCN Croatia đã bị thanh lý đến cùng; trong số 5.395 cửa hàng tư nhân, chỉ có 5 cửa hàng còn hoạt động. Quyết định này là một con dao hai lưỡi: trong khi bộ phận người nghèo trong xã hội hài lòng với nó, thì phần lớn dân chúng lại phản kháng và sẵn sàng nổi dậy. Giống như tại Liên Xô, nhà nước kiểm soát toàn bộ nền kinh tế, trong khi thương mại tự do bị cấm để ủng hộ kế hoạch hóa tập trung. Do đó, nhà nước bắt đầu phân phối hợp lý các nhu yếu phẩm cho cuộc sống, được phân phối cho người dân, trong khi người tiêu dùng nhận được một số lượng tem phiếu nhất định mỗi tháng để mua một lượng hàng hóa nhất định, bao gồm thực phẩm, quần áo và giày dép. Vào mùa xuân năm 1949, nhà nước áp dụng các loại thuế cao đối với nền kinh tế tư nhân của nông dân khiến nông dân không có khả năng chi trả. Điều này buộc họ phải tham gia vào các liên đoàn lao động nông dân, được thành lập dựa trên các kolhoz của Liên Xô. Theo cách này, nhà nước đã tiến hành tập thể hóa cưỡng bức các làng xã. Quá trình tập thể hóa này sớm làm thất vọng những nông dân nghèo, những người được cấp đất miễn phí trong quá trình tước đoạt từ những nông dân giàu có. Mặc dù những người cộng sản nghĩ rằng tập thể hóa sẽ giải quyết vấn đề lương thực, nhưng ngược lại, tập thể hóa đã tạo ra cái gọi là "Khủng hoảng bánh mì" vào năm 1949. Quá trình tước đoạt ở Nam Tư kéo dài từ giữa năm 1945 đến cuối năm 1949. Đây là quá trình tước đoạt nhanh nhất, thậm chí khi so với các quốc gia cộng sản Đông Âu. Đối với quá trình này, nhà nước cần một số lượng lớn quan chức là đảng viên Đảng Cộng sản, nhận lệnh từ Bộ Chính trị, do đó khiến nước cộng hòa Nam Tư không có bất kỳ quyền lực nào trong nền kinh tế. Nền kinh tế của một nước cộng hòa phụ thuộc vào các quyết định của Bộ Chính trị ở Beograd, do đó Nam Tư trở thành một quốc gia tập trung nghiêm ngặt. Hơn nữa, việc thanh lý khu vực tư nhân, thanh lọc bộ máy nhà nước và các quan chức cấp cao và thay thế họ bằng những đảng viên có học thức không hoàn chỉnh, giảm mạnh khoảng cách giữa tiền lương của bộ trưởng và công nhân (3:1), cùng sự di cư và cái chết của giai cấp tư sản dẫn đến tầng lớp trung lưu biến mất trong cơ cấu xã hội, tác động tiêu cực đến đời sống xã hội. Công nghiệp hoá Kế hoạch 5 năm Công nghiệp hóa là quá trình quan trọng nhất trong sự phát triển kinh tế của CHXHCN Croatia, do những người cộng sản thúc đẩy công nghiệp hóa làm nhân tố chính cho sự phát triển nhanh chóng. Sau quá trình đổi mới, quá trình công nghiệp hóa và điện khí hóa bắt đầu theo mô hình Xô viết. Andrija Hebrang phụ trách toàn bộ nền kinh tế, tạo ra một hệ thống và xây dựng chiến lược phát triển trong Kế hoạch 5 năm. Với tư cách là Chủ tịch Hội đồng Kinh tế và Chủ tịch Ủy ban Kế hoạch, Hebrang phụ trách tất cả các bộ liên quan đến kinh tế. Cùng với Tito, Edvard Kardelj và Aleksandar Ranković, ông là người có ảnh hưởng nhất tại Nam Tư. Với tư cách là người đứng đầu toàn bộ nền kinh tế, Hebrang đã hoàn thành Kế hoạch 5 năm của mình vào mùa đông 1946–47, được chính phủ phê duyệt vào mùa xuân năm 1947. Vì thiếu kiến thức, Kế hoạch này sao chép mô hình của Liên Xô. Các nhà máy được xây dựng nhanh hơn là các nhà máy thuộc lĩnh vực công nghiệp nặng và công nghiệp quân sự, trong đó nổi tiếng nhất tại CHXHCN Croatia là "Rade Končar" và "Prvomajska". Trong Kế hoạch 5 năm, Hebrang muốn tăng sản lượng công nghiệp lên 5 lần và sản xuất nông nghiệp lên 1,5 lần, tăng GDP bình quân đầu người lên 1,8 lần và thu ngân sách quốc gia lên 1,8 lần. Kế hoạch này cũng bao gồm việc tăng số lao động có trình độ, từ 350.000 lên 750.000. Đối với CHXHCN Croatia, người ta đã quyết định rằng sản lượng công nghiệp của nước này cần phải tăng thêm 452%. Công nghiệp phát triển nhanh đòi hỏi số lượng công nhân cao, từ 461.000 công nhân vào năm 1945, đến năm 1949 đã có 1.990.000 công nhân. Vào ngày 17 tháng 1 năm 1947, Kardelj tuyên bố với Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Croatia rằng Nam Tư sẽ mạnh hơn về mặt công nghiệp so với Áo và Tiệp Khắc. Cả Kardelj và Bakarić đều ủng hộ phát triển công nghiệp nhẹ, thay vì ý tưởng của Hebrang về công nghiệp phục vụ nông nghiệp. Kế hoạch 5 năm thực sự đã được phóng đại; kế hoạch này không có nhân sự có trình độ, thị trường và vốn; mặc dù vậy, nhà nước vẫn tiếp tục thực hiện nó. Trên khắp đất nước, nhà nước xây dựng các công trình, và tất cả các dự án công nghiệp hóa và điện khí hóa được thực hiện với tuyên truyền rằng người dân sẽ giảm nghèo đói và thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp thực sự đã giảm, tuy nhiên, những người lao động mới không được đào tạo để làm việc, vì vậy nhiều công trình được xây dựng chậm và nhiều công trình trong số đó không được xây dựng. Theo quan điểm khi đó của Đảng Cộng sản, vai trò lãnh đạo nền kinh tế được trao cho tổng cục trưởng, đó là một liên kết giữa các bộ và ban lãnh đạo của Đảng. Bằng cách thực hiện chúng, nhà nước thậm chí còn giành được quyền kiểm soát lớn hơn đối với nền kinh tế. Các công ty có pháp nhân của họ; tuy nhiên, họ không có quyền tự chủ hoạt động, vì họ có tư cách là cơ quan nhà nước, chịu sự kiểm soát của nhà nước. Tôn giáo Phần lớn cư dân là tín đồ Công giáo La Mã và khoảng 12% dân số là tín đồ Cơ đốc giáo Chính thống của Thượng phụ Serbia, với một số ít người theo các tôn giáo khác. Do mối quan hệ căng thẳng giữa Tòa thánh và các quan chức cộng sản Nam Tư, không có giám mục Công giáo mới nào được bổ nhiệm tại Cộng hòa Nhân dân Croatia cho đến năm 1960. Điều này khiến các giáo phận Križevci, Đakovo-Osijek, Zadar, Šibenik,Split-Makarska, Dubrovnik, Rijeka và Poreč-Pula không có giám mục trong vài năm. Từ giữa những năm 1950, chỉ có bốn giám mục đương nhiệm tại Croatia trong ba giáo phận: Aloysius Stepinac, Franjo Salis-Seewiss, Mihovil Pušić, và Josip Srebrnič. Nhiều linh mục bị buộc tội hợp tác với Ustaše và phe Trục trong Thế chiến II đã bị bắt sau khi Thế chiến II kết thúc, trong bối cảnh xung đột giữa Giáo hội Công giáo và Đồng minh, bao gồm cả Tổng giám mục của Zagreb là Aloysius Stepinac. Aloysius Stepinac bị bắt vào ngày 16 tháng 9 năm 1946. Ông bị kết án 16 năm tù, nhưng vào tháng 12 năm 1951 ông được trả tự do để quản thúc tại nhà riêng ở Krašić gần Jastrebarsko, nơi ông qua đời vào năm 1960. Stepinac được Giáo hoàng Pious XII phong làm hồng y vào năm 1953. Biểu tượng Xem thêm Croatia Lịch sử Croatia Thời gian biểu lịch sử Croatia Tham khảo Nguồn Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư Phân khu Nam Tư Quốc gia và vùng lãnh thổ chấm dứt năm 1991 Cựu cộng hòa xã hội chủ nghĩa Khởi đầu năm 1943 ở châu Âu Quốc gia Balkan Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Croatia Croatia
19822421
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20H%C3%A1n%20t%E1%BB%B1%20quy%20ph%E1%BA%A1m%20chung
Danh sách Hán tự quy phạm chung
Danh sách Hán tự quy phạm chung () là danh sách tiêu chuẩn hiện tại gồm 8.105 Hán tự, được phát hành bởi chính phủ của Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa công bố và ban hành vào tháng 6 năm 2013. Trong số các ký tự bao gồm, có 3.500 ký tự ở Cấp I và được chỉ định là các ký tự thường xuyên sử dụng, giảm đi so với 7.000 ký tự trong Danh sách Hán tự thông dụng hiện đại trước đó; Cấp II bao gồm 3,000 ký tự được chỉ định là các ký tự thông dụng nhưng ít sử dụng hơn so với các ký tự Cấp I; Cấp III bao gồm các ký tự thường được sử dụng trong tên và thuật ngữ. Danh sách cũng cung cấp một bảng tương ứng giữa 2.546 ký tự Giản thể và 2.574 ký tự Phồn thể, cùng với các biến thể được lựa chọn khác, phục vụ một cách hiệu quả như hệ thống tiêu chuẩn ký tự Phồn thể của Trung Quốc Lục Địa. Các ký tự phi-BMP Trong Unicode, một số ký tự trong Danh sách Hán tự quy phạm chung được định vị ngoài mặt phẳng đa ngữ cơ bản (BMP). Xem thêm Danh sách Hán tự quy phạm chung kèm theo phát âm Quan Thoại Chỉ mục bính âm cho Danh sách Hán tự quy phạm chung Đệ nhất phê dị hình từ chỉnh lý biểu Jōyō kanji, danh sách tiêu chuẩn các Hán tự được sử dụng trong tiếng Nhật (kanji) được phát hành bởi Bộ Giáo Dục Nhật Bản Hanja cơ bản sử dụng trong giáo dục, danh sách tiêu chuẩn các Hán tự được sử dụng trong tiếng Hàn (Hanja) được phát hành bởi Bộ Giáo Dục Nam Triều Tiên Chú thích và Tham khảo Liên kết ngoài Hán tự Chữ Hán Tiếng Trung Quốc Tiếng Trung
19822424
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0%20V%C4%83n%20%C4%90%E1%BA%A1i
Hà Văn Đại
Hà Văn Đại đỗ Phó bảng, làm quan lại trong triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam, sau đó tham gia trong chính quyền cách mạng Việt Nam dân chủ cộng hòa với chức vụ Chánh án Tòa án đệ nhị cấp Hà Tĩnh. Tiểu sử Hà Văn Đại sinh năm 1896 tại xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, là con trai cả của cụ Hà Văn Kỳ, một nhà nho yêu nựớc, từng tham gia phong trào Cần Vương và đã bị bắt giam nhiều lần. Cụ Hà Văn Kỳ có lối sống cần kiệm nhưng tính tình khảng khái, trọng nghĩa khinh tài, khi cần cứu giúp người thì không tiếc sức, tiếc của. Các con cụ đều chịu ảnh hưởng đức tính cao quý ấy. Sau những năm đầu học chữ Hán với cha mình, đến 16 tuổi, Hà Văn Đại được gửi vào Huế học chữ Hán và cả chữ Pháp. Năm 19 tuổi Hà Văn Đại đỗ cử nhân và đến 23 tuổi thì đỗ Phó bảng khoa Kỷ Mùi năm Khải Định thứ tư (1919), khoa thi cuối cùng của nền khoa cử Hán học. Vào khoảng 1925, sau khi cụ Phan Bôi Châu bị thực dân Pháp đưa về “an trí” ở Huế, cụ Phan Chu Trinh cũng đã về nước, phong trào chính trị ở cả 3 miền bùng lên sôi nổi. Hà Văn Đại liên lạc với những trí thức Tân tộc như thầy giáo Võ Liêm Sơn, Đốc học Lê Ấm (con rể cụ Phan Chu Trinh), Đốc học Nguyễn Đình Ngân, thầy giáo trường tư Đặng Chánh Kỷ, nhà viết báo Đào Duy Anh... cùng nhau lập nhóm tọa đàm về thời cuộc, thảo luận về văn thơ yêu nước của Phan Sào Nam, các tác phẩm của Mạnh-đức-tư-cưu, Lư thoa... và của Mác và Lênỉn. Cuối 1926, được Võ Liêm Sơn và Đào Duy Anh giới thiệu, Hà Văn Đại tham gia Việt Nam Cách mạng đồng chí Hội (sau đổi thành đảng Tân Việt), sinh hoạt trong tiểu tổ của nhũng người làm ở nhà in báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng. Giữa năm 1929, tiểu tổ này bị lộ, mỗi người một ngả. Hà Văn Đại tiếp tục cuộc đời một viên chức hạng thấp của Nam triều là Thừa phái bộ Công. Hơn 10 năm sau ông được bổ làm tri huyện Nghĩa Hành, một huyện miền núi Quảng Ngãi. Đầu năm 1939, Mặt trận Bình dân ở Pháp sụp đổ, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, quân Nhật kéo vào Đông Dương, thực dân Pháp cùng phát xít Nhật ra sức khủng bố cách mạng Việt Nam. Bắt đầu từ những năm 40, Hà Văn Đại được điều lên cấp tỉnh. Năm 1943, khi ông đang giữ chức Án sát tỉnh Thanh Hóa, một số người thân Nhật ở địa phương muốn lợi dụng uy tín của Hà Văn Đại, có tiếng là một vị thanh quan, đã ra sức vận động ông vào đảng Đại Việt, nhưng ông cương quyết từ chối. Khi nạn đói ngày càng trầm họng, Hà Văn Đại, đang làm Bố chánh Nghệ An, đã tích cực tham gia cứu đói. Ngoài việc cứu tế chung cho nhân dân trong tỉnh, ông tìm hết cách lo được 2,6 tấn gạo chở về Tiên Điền góp phần cứu đói cho đồng bào xã nhà. Cuộc đảo chính ngày 09/3/1945 của quân Nhật diễn ra ở Vinh một cách nhanh gọn. Chính phủ Trần Trọng Kim vừa mới ra đời đã điều ngay Hà Văn Đại ra làm Tỉnh trưởng Thanh Hóa. Ngày 23/7/1945 tại phủ Hoàng Hóa, dân chúng bắt viên Tri huyện đang đi hành hạt, tước khí giới của lính bảo an rồi xông vào phủ lỵ tịch thu hết tiền bạc và súng đạn. Được tin, quân đội Nhật đang đóng tại thị xã Thanh Hóa, tức tốc định dùng vũ lực triệt hạ 2 xã Hải Châu và Hòa Lộc. Tỉnh trưởng Hà Văn Đại vội tìm cách ngăn chặn. Ông viện lý: việc này thuộc phạm vi cai trị của Nam triều, quân đội Nhật không có lý do gì để can thiệp. Cuộc tranh luận trở nên gay gắt nhưng cuối cùng phía Nhật chịu nhượng bộ. Vì thế dân 2 xã nói trên được bảo vệ an toàn. Đầu tháng 8/1945, Chính phủ Trần Trọng Kim phế truất Tuần vũ Hà Tĩnh Nguyễn Khoa Nghi và Bố chánh Hà Tĩnh Đặng Thành Đôn vì tội tham nhũng và bất lực, ông Hà Văn Đại được điều về làm Tỉnh trưởng (Tuần vũ) Hà Tĩnh. Cách mạng tháng Tám nổ ra, do có cảm tình với Việt Minh nên Hà Văn Đại đã tạo điều kiện thuận lợi việc bàn giao chính quyền cho Cách mạng. Tháng 2-1946, ông được chính quyền cách mạng mời ra nhận chức Chánh án Tòa án đệ nhị cấp Hà Tĩnh, với nhiệm vụ tổ chức lại bộ máy tư pháp và phụ trách công tác xét xử của Tòa án trong tỉnh. Ông vui vẻ nhận lời và trở thành một người cán bộ gương mẫu của chính quyền cách mạng. Năm 1955, ông được điều ra Hà Nội công tác ở Bộ Tư pháp, sau đó ở Tòa án tối cao. Đến giữa năm 1960, theo yêu cầu của việc dịch thuật và nghiên cứu Hán nôm của Nhà nước, ông chuyển sang Viện Văn học, công tác trong tổ nghiên cứu văn học cổ đại và cận đại Việt Nam. Lúc này ông có điều kiện phát huy sở học của mình. Ông tham gia biên dịch nhiều tác phẩm, như: Thơ văn Lý - Trần, Thơ văn yêu nước Việt Nam, Thơ Nguyễn Xuân Ôn..., về văn xuôi có Hiển học Khổng Mặc là một công trình nghiên cứu về triết học Trung Quốc. Là một nhà Hán học vững vàng, bên cạnh việc dịch thuật, ông còn tham gia nghiên cứu và hiệu đính các công trình của nhiều người khác. Ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhì. Đầu năm 1963, lúc đã 67 tuổi, ông về nghỉ hưu tại Hà Nội. Ông mất ngày 4 tháng 6 năm 1964 tại Hà Nội, thọ 68 tuổi. Đời tư Vợ ông là bà Nguyễn Thị Khuê, cháu nội Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn, thủ lĩnh phong trào Cần vương ở Nghệ An. Ông có một người con là Hà Văn Mạo, Giáo sư, Tiến sĩ y khoa, Thầy thuốc nhân dân; và một người cháu (gọi ông bằng bác ruột) là Hà Văn Tấn, Giáo sư, Nhà giáo nhân dân, Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học. Tham khảo Người Hà Tĩnh Phó bảng Sinh năm 1896 Mất năm 1964 Quan lại nhà Nguyễn
19822451
https://vi.wikipedia.org/wiki/Serie%20A%202023%E2%80%9324
Serie A 2023–24
Serie A 2023–24 (được gọi là Serie A TIM vì lý do tài trợ) là mùa giải thứ 122 của hạng đấu cao nhất bóng đá Ý, lần thứ 92 của một giải đấu vòng tròn tính điểm, và lần thứ 14 kể từ khi nó được tổ chức dưới một ủy ban giải đấu riêng, Lega Serie A. Napoli là nhà đương kim vô địch. Tổng quan Các đội bóng Sân vận động và địa điểm Số đội theo khu vực Nhân sự và trang phục Bảng xếp hạng Kết quả Thống kê mùa giải Xem thêm Tham khảo Liên kết ngoài
19822452
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A7u%20c%E1%BB%AD%20t%E1%BB%95ng%20th%E1%BB%91ng%20Hoa%20K%E1%BB%B3%201884
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1884
Cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1884 là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 25, được tổ chức vào Thứ Ba, ngày 4 tháng 11 năm 1884. Trong cuộc bầu cử này, Thống đốc Đảng Dân chủ Grover Cleveland từ New York đã đánh bại James G. Blaine từ Maine thuộc Đảng Cộng hòa. Nó là cuộc bầu cử tràn ngập những lời vu khống cá nhân đáng xấu hổ, thứ đã làm lu mờ các vấn đề thực tại xảy ra trên đất nước, chẳng hạn như thay đổi công vụ. Cleveland là đảng viên Đảng Dân chủ đầu tiên được bầu làm Tổng thống Hoa Kỳ kể từ James Buchanan vào năm 1856, là người đầu tiên giữ chức vụ này kể từ khi Andrew Johnson rời Nhà Trắng vào năm 1869, và là người cuối cùng giữ chức vụ này cho đến khi Woodrow Wilson nhậm chức năm 1913. Vì lý do này, năm 1884 là một cuộc bầu cử quan trọng trong lịch sử chính trị Hoa Kỳ, đánh dấu thời gian gián đoạn đầu tiên trong kỷ nguyên mà Tổng thống phần lớn đến từ Đảng Cộng hòa giữa Tái thiết và Đại khủng hoảng. Cleveland đã giành được đề cử Tổng thống trong lần bỏ phiếu thứ 2 tại Đại hội toàn quốc đảng Dân chủ năm 1884. Tổng thống đương nhiệm Chester A. Arthur kế vị Tổng thống vào năm 1881 sau khi Tổng thống James A. Garfield bị ám sát, nhưng ông đã không thành công trong nỗ lực tìm kiếm đề cử Tổng thống trong cuộc bầu cử này. Blaine, người từng là Ngoại trưởng dưới thời Tổng thống Garfield, đã đánh bại Arthur và các ứng cử viên khác trong lần bỏ phiếu thứ 4 tại Đại hội toàn quốc Đảng Cộng hòa năm 1884. Một nhóm những người theo chủ nghĩa cải cách của Đảng Cộng hòa được gọi là "Mugwumps" đã từ chối ủng hộ Blaine, coi ông ta là một kẻ tham nhũng. Chiến dịch tranh cử đã bị hủy hoại bởi những công kích cá nhân vô căn cứ. Blaine là người tai tiếng với việc tham nhũng công và điều này vô tình làm những cử tri Công giáo xa lánh vào phút cuối và quay sang ủng hộ các ứng cử viên khác. Trong cuộc bầu cử, Cleveland đã giành được 48,9% tổng số phiếu phổ thông trên toàn quốc và 219 phiếu đại cử tri, giành được miền Nam và một số tiểu bang dao động quan trọng. Blaine đã giành được 48,3% số phiếu phổ thông và 182 phiếu đại cử tri. Cleveland đã thắng bang quê hương New York của mình chỉ với cách biệt 1.149 phiếu bầu; và nếu ông thua tại đây, ông sẽ thất cử. Hai ứng cử viên của các đảng nhỏ, John St. John từ Đảng Cấm rượu và Benjamin Butler từ Đảng Đồng bạc xanh và Đảng Chống độc quyền, mỗi người giành được ít hơn 2% tổng số phiếu phổ thông. Blaine là cựu Ngoại trưởng cuối cùng được đề cử bởi một đảng chính trị lớn cho đến khi Hillary Clinton được đề cử vào năm 2016, trong khi Cleveland trở thành Tổng thống duy nhất đến từ Đảng Dân chủ từ khi Nội chiến kết thúc đến khi Woodrow Wilson thắng cử trong năm 1912, một khoảng thời gian gần 50 năm. Blaine, tương tự, cũng trở thành ứng cử viên Đảng Cộng hòa duy nhất trong khoảng thời gian 60 năm từ 1856 đến 1916 không bao giờ thắng trong một cuộc bầu cử Tổng thống và là 1 trong 2 ứng cử viên duy nhất thất cử trong khoảng thời gian 80 năm từ 1856 đến 1936. Đề cử Đề cử của Đảng Dân chủ Đại hội của Đảng Dân chủ nhóm họp tại Chicago từ ngày 8 đến 11 tháng 7 năm 1884, với Thống đốc New York Grover Cleveland là người dẫn đầu rõ ràng, ông nhận được sự ủng hộ từ các nhà cải cách miền Bắc và những người giàu có. Mặc dù nhóm Tammany Hall gay gắt phản đối Cleveland, nhưng nhóm này chỉ chiếm thiểu số trong phái đoàn của New York. Họ dự định ngăn Cleveland bằng cách thay đổi quy tắc bỏ phiếu, tức là thay vì cả phái đoàn chỉ có 1 phiếu duy nhất để bầu cho ứng cử viên thì mỗi người đều được bỏ phiếu; tuy nhiên, nó chưa bao giờ trở thành hiện thực. Daniel N. Lockwood từ phái đoàn New York là người đề cử Cleveland trước đại hội. Nhưng bài phát biểu khá mờ nhạt của ông đã bị lu mờ bởi bài phát biểu sau đó của Edward S. Bragg từ Wisconsin. "Họ yêu mến ông ấy, thưa các quý ông," Bragg nói về Cleveland, "và họ tôn trọng ông, không chỉ vì bản thân ông ấy, vì tính cách của ông ấy, vì sự chính trực, óc phán đoán và ý chí sắt đá của ông ấy, mà hơn hết, họ yêu ông ấy vì những kẻ thù mà ông ấy đã 'tạo ra'." Bài phát biểu giống như cú tát vào mặt nhóm Tammany, đến mức ông chủ của nó, John Kelly, lao lên bục, hét lên rằng Tammany chỉ coi bài phát biểu này như một lời tán dương mà thôi. Trong lần bỏ phiếu đầu tiên, Cleveland dẫn đầu với 392 phiếu bầu, kém số phiếu tối thiểu để được đề cử hơn 150 phiếu. Theo sau ông là Thomas F. Bayard từ Delaware, 170 phiếu; Allen G. Thurman từ Ohio, 88 phiếu; Samuel J. Randall từ Pennsylvania, 78 phiếu và Joseph E. McDonald từ Indiana, 56 phiếu;.... Randall sau đó rút lu và tuyên bố ủng hộ Cleveland. Động thái này, cùng với việc khối miền Nam cũng ủng hộ Cleveland, đủ để đưa ông vượt lên dẫn đầu trong lần bỏ phiếu thứ 2, với 683 phiếu bầu so với 81,5 cho Bayard và 45,5 cho Thomas A. Hendricks từ Indiana. Hendricks được nhất trí đề cử làm Phó Tổng thống trong lần bỏ phiếu đầu tiên sau khi John C. Black, William Rosecrans và George Washington Glick rút lui. Đề cử của Đảng Cộng hòa Đại hội toàn quốc Đảng Cộng hòa năm 1884 được tổ chức tại Chicago, Illinois, từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 6, với cựu Ngoại trưởng James G. Blaine từ Maine, Tổng thống Arthur và Thượng nghị sĩ George F. Edmunds từ Vermont là những người dẫn đầu. Mặc dù vẫn còn nổi tiếng, nhưng Arthur đã không nghiêm túc tham gia giành đề cử vì biết rằng các vấn đề sức khỏe ngày càng gia tăng của ông có nghĩa là ông có thể sẽ không sống sót qua nhiệm kỳ thứ 2 của mình (cuối cùng ông qua đời vào tháng 11 năm 1886, tức là nếu tái cử lần này, ông sẽ mất 1 năm 8 tháng sau khi nhậm chức lần 2). Blaine dẫn đầu trong lần bỏ phiếu đầu tiên, Arthur về thứ 2 và Edmunds về thứ 3. Thứ tự này không thay đổi trong các lần bỏ phiếu tiếp theo khi Blaine giành được thêm nhiều phiếu hơn và đã giành được đa số phiếu trong lần bỏ phiếu thứ 4. Sau khi đề cử Blaine, đại hội đã chọn Thượng nghị sĩ John A. Logan từ Illinois làm ứng cử viên Phó Tổng thống. Blaine đến này vẫn là ứng cử viên Tổng thống duy nhất từng đến từ Maine. Vị tướng nổi tiếng thời Nội chiến, William Tecumseh Sherman, được coi là một ứng cử viên tiềm năng của Đảng Cộng hòa, nhưng đã rút lui theo vì được gọi là "lời thề của Sherman": "Nếu được chỉ định, tôi sẽ không ứng cử; nếu được bổ nhiệm, tôi sẽ không đảm nhận; nếu được bầu, tôi sẽ không phục vụ." Robert Todd Lincoln, Bộ trưởng Chiến tranh Hoa Kỳ, và là con trai của cố Tổng thống Abraham Lincoln, cũng được các chính trị gia và giới truyền thông đương thời hết sức ủng hộ để ra tranh cử nhưng Lincoln cũng từ chối giống Sherman. Đảng nhỏ Đề cử của Đảng Chống độc quyền Các ứng cử viên của Đảng Chống độc quyềnĐại hội toàn quốc Đảng Chống độc quyền được triệu tập tại Hershey Music Hall ở Chicago, Illinois vào ngày 14 tháng 5. Đảng được thành lập để phản đối các hoạt động kinh doanh của các công ty mới nổi trên toàn quốc. Có khoảng 200 đại biểu đến từ 16 bang, nhưng 61 người trong số họ đến từ Michigan và Illinois. Alson Streeter là chủ tịch tạm quyền và John F. Henry là chủ tịch thường trực. Benjamin Butler đã được đề cử làm Tổng thống trong lần bỏ phiếu đầu tiên. Các đại biểu từ New York, Washington, DC và Maryland đã phản đối đại hội khi có vẻ như không được phép thảo luận về bất kỳ ứng cử viên khác. Allen G. Thurman và James B. Weaver được đưa ra làm những lựa chọn thay thế cho Butler, nhưng Weaver từ chối, không muốn thực hiện một chiến dịch toàn quốc khác cho một chức vụ chính trị, và Thurman cũng không mấy nhiệt tình. Butler, mặc dù không phản đối việc đề cử, nhưng hy vọng sẽ được Đảng Dân chủ hoặc Đảng Cộng hòa đề cử, hoặc ít nhất là giống như trước, soạn cương lĩnh dễ nhận được ủng hộ hơn Đảng Đồng bạc xanh. Cuối cùng, chỉ có Đảng Đồng bạc xanh tán thành ông ra tranh cử. Đại hội đã chọn không đề cử một ứng cử viên cho chức Phó Tổng thống, hy vọng rằng các đại hội khác sẽ tán thành một cương lĩnh tương tự họ và đề cử một ứng cử viên Phó Tổng thống phù hợp.Ủy ban cuối cùng đã đề cử Absolom Madden West làm ứng cử viên Phó Tổng thống của đảng. Đề cử của Đảng Đồng bạc xanh Ứng cử viên Đảng Đồng bạc xanh:Đại hội toàn quốc của Đảng Đồng bạc xanh được tổ chức tại Nhà hát Opera của Anh ở Indianapolis, Indiana. Các đại biểu từ 28 tiểu bang và Quận Columbia đã tham dự. Đại hội đã đề cử Benjamin F. Butler làm Tổng thống thay vì Chủ tịch Đảng Jesse Harper trong lần bỏ phiếu đầu tiên. Absolom M. West đã được nhất trí đề cử cho vị trí Phó Tổng thống, và sau đó cũng được Đảng Chống độc quyền tán thành. Butler ban đầu hy vọng các "đảng thiểu số" ở mỗi bang, Dân chủ hoặc Cộng hòa, cùng những người ủng hộ ông thuộc các đảng khác nhau thành lập một liên minh với cái tên "Đảng Nhân dân". Nhưng nhiều thành viên 2 đảng lớn, trong khi có thể đồng ý với thông điệp và cương lĩnh của Butler, lại không sẵn lòng ủng hộ một đảng khác đảng mình. Ở một số nơi, đặc biệt là Iowa, các liên minh đã được đề cử; về cơ bản, các phiếu bầu của Butler và Cleveland sẽ được cộng lại với nhau để tạo thành tổng số phiếu bầu của cả liên minh, cho phép họ giành được bang ngay cả khi cả 2 tính riêng không đạt đa số, với phiếu đại cử tri được chia theo tỷ lệ phần trăm phiếu bầu mà mỗi bên giành được. Nhưng ngay cả khi liên minh thắng tại một số bang có triển vọng (như Indiana, Nebraska, Wisconsin, Illinois), nó sẽ không thay đổi kết quả, không có tiểu bang nào mà Blaine thắng chuyển sang Cleveland thắng. Đề cử của Đảng Cấm rượu Hoa Kỳ Đảng Cấm rượu Hoa Kỳ đã tổ chức đại hội toàn quốc tại tòa nhà YMCA ở Chicago, Illinois. Có 150 đại biểu, trong đó có nhiều đại biểu không tham gia bỏ phiếu. Đảng đã tìm cách lôi cuốn các phong trào cải cách chống Hội Tam Điểm, cấm rượu, chống chế độ đa thê thành lập một đảng mới. Jonathan Blanchard là một nhân vật quan trọng trong đảng. Ông ấy đã đi khắp các bang miền Bắc vào mùa xuân và đưa ra một bài phát biểu có tựa đề "Đảng Hoa Kỳ - Nguyên tắc và Tuyên bố của nó." Trong đại hội, tên đảng đã được đổi từ Đảng Hoa Kỳ thành Đảng Cấm rượu Hoa Kỳ. Đảng này được gọi là Đảng Chống Hội Tam điểm vào năm 1880. Nhiều đại biểu tại đại hội ban đầu quan tâm đến việc đề cử John St. John, cựu thống đốc bang Kansas, nhưng người ta sợ rằng việc đề cử như vậy có thể khiến ông mất cơ hội được đề cử bởi Đảng Cấm rượu. Các nhà lãnh đạo Đảng đã gặp Samuel C. Pomeroy, một cựu thượng nghị sĩ cùng bang, người về nhì trong lần bỏ phiếu tại đại hội, và theo đề nghị của Pomeroy, họ sẽ rút lui nếu St. John giành được đề cử của Đảng Cấm rượu. Được đề cử cùng với Pomeroy là John A. Conant đến từ Connecticut. John sau đó đã giành được đề cử của Đảng Cấm rượu, Pomeroy và Conant lập tức rút khỏi cuộc đua và ủng hộ ông. Thời báo New York suy đoán rằng sự ủng hộ này "mang lại cho ông ấy 40.000 phiếu bầu". Đề cử của Đảng Cấm rượu Đại hội toàn quốc của Đảng Cấm rượu được tổ chức tại Lafayette Hall, Pittsburgh, Pennsylvania. Có 505 đại biểu từ 31 tiểu bang và vùng lãnh thổ dự đại hội. Liên danh tranh cử đã được nhất trí đề cử: John St. John cho vị trí Tổng thống và William Daniel cho vị trí Phó Tổng thống. Cương lĩnh Đảng Cấm chỉ đơn giản ủng hộ việc hình sự hoá đồ uống có cồn. Đề cử của Đảng Quyền Bình đẳng Không hài lòng với sự phản đối của các đảng lớn đối với quyền bầu cử của phụ nữ, một nhóm nhỏ phụ nữ đã tuyên bố thành lập Đảng Quyền bình đẳng vào năm 1884. Đảng Quyền Bình đẳng đã tổ chức đại hội toàn quốc tại San Francisco, California, vào ngày 20 tháng 9. Đại hội đã đề cử Belva Ann Lockwood, một luật sư ở Washington, DC, làm Tổng thống. Chủ tịch Marietta Stow, người phụ nữ đầu tiên chủ trì một đại hội toàn quốc, đã được đề cử làm Phó Tổng thống. Lockwood đã đồng ý trở thành ứng cử viên Tổng thống của đảng mặc dù hầu hết phụ nữ ở Hoa Kỳ chưa có quyền bầu cử. Cô ấy nói, "Tôi không thể bỏ phiếu nhưng tôi có thể được bầu chọn." Cô ấy là người phụ nữ đầu tiên tổ chức một chiến dịch tranh cử lớn (Victoria Woodhull trước đó chỉ tiến hành một chiến dịch nhỏ vào năm 1872). Đảng Quyền bình đẳng không ngân quỹ, nhưng Lockwood đã thuyết trình để kiếm tiền cho chiến dịch vận động tranh cử. Bà đã nhận được khoảng 4.194 phiếu bầu trên toàn quốc. Tổng tuyển cử Chiến dịch Tính cách và đạo đức cá nhân là điều tối quan trọng trong chiến dịch năm 1884. Blaine đã không được đề cử làm Tổng thống trong hai cuộc bầu cử trước đó vì cái được gọi là "những bức thư Mulligan": Vào năm 1876, một nhân viên kế toán ở Boston tên là James Mulligan đã tìm thấy một số bức thư ới nội dung cho thấy Blaine đã dùng ảnh hưởng của mình ở Quốc hội để giúp đỡ các doanh nghiệp một cách bất hợp pháp. Lá thư kết thúc bằng cụm từ "hãy đốt lá thư này", từ đó nảy sinh một khẩu hiệu phổ biến của Đảng Dân chủ - "Đốt, đốt, đốt lá thư này!" Chỉ một lần làm như vậy, ông ta sẽ nhận được 110.150 đô la (hơn 1,5 triệu đô la theo tỷ giá hối đoái năm 2010) từ Công ty Đường sắt Little Rock và Fort Smith đổi lại là sự đảm bảo về trợ cấp đất liên bang, cùng những thứ khác. Kết quả là các đảng viên Đảng Dân chủ và đảng viên Cộng hòa chống Blaine đã tấn công không ngừng nghỉ vào tính chính trực của ông. Mặt khác, Cleveland được biết đến với biệt danh "Grover Cương trực" vì tính chính trực của mình; trong khoảng thời gian 3 năm trước, ông đã lần lượt trở thành thị trưởng của Buffalo, New York, và sau đó là thống đốc của bang New York, thành công dẹp yên nạn hối lộ của Tammany Hall. Nhà bình luận Jeff Jacoby bình luận rằng, "Không phải kể từ thời George Washington đến nay, Hoa Kỳ mới tìm được một ứng cử viên Tổng thống nổi tiếng về sự ngay thẳng của mình." Vào tháng 7, Đảng Cộng hòa đã tìm ra một điểm yếu trong quá khứ của Cleveland. Được hỗ trợ bởi các bài giảng của một mục sư tên là George H. Ball, họ buộc tội rằng Cleveland đã có một đứa con ngoài giá thú khi ông còn là luật sư ở Buffalo. Đối mặt với vụ bê bối, Cleveland ngay lập tức nói: "Trên hết, hãy nói sự thật." Cleveland thừa nhận đã trả tiền chu cấp vào năm 1874 cho Maria Crofts Halpin, người phụ nữ tuyên bố rằng ông là cha của đứa con của cô ấy, tên là Oscar Folsom Cleveland (đặt tên theo một người bạn và đối tác luật của Cleveland), nhưng ông khẳng định rằng quan hệ cha con với đứa trẻ này chưa chắc là sự thật. Không lâu trước ngày bầu cử, các phương tiện truyền thông của Đảng Cộng hòa đã công bố một bản khai có tuyên thệ của Halpin, trong đó cô ấy nói rằng cho đến tận khi gặp Cleveland, "cuộc sống của cô ấy trong sáng và không tì vết" và nói thêm rằng cô "không có và chưa bao giờ nghi ngờ về quan hệ cha con giữa 2 người, cũng như không tin Grover Cleveland cùng những người bạn của ông đã đặt tên Oscar Folsom cho cậu bé để chối bỏ nó, vì đơn giản việc này thật bỉ ổi và sai trái." Trong một bản khai khác, Halpin cũng ngụ ý rằng Cleveland đã cưỡng hiếp cô, làm cô có thai. Các họa sĩ vẽ tranh biếm họa của Đảng Cộng hòa trên khắp cả nước đã có những ngày tháng "vui vẻ" vì với những bản khai của Halpin, họ có thể phát hành hàng tá tranh biếm họa nhắm vào Cleveland về vấn đề này. Chiến dịch tranh cử của Cleveland quyết định rằng trực tiếp và thẳng thắn là cách xử trí tốt nhất trước vụ bê bối này: họ thừa nhận rằng Cleveland đã có một "mối quan hệ bất chính" với người mẹ và rằng một đứa trẻ đã được sinh ra và mang họ Cleveland. Họ cũng lưu ý rằng không có bằng chứng nào cho thấy Cleveland là cha và tuyên bố rằng, việc ông chịu trách nhiệm cho vấn đề này và tìm một ngôi nhà cho đứa trẻ, chỉ là cách Cleveland làm đúng nghĩa vụ của mình. Cuối cùng, họ chứng minh được rằng người mẹ không bị buộc phải đi biệt tích; chỉ là nơi ở của cô ấy không được biết đến. Những người ủng hộ Blaine đã lên án Cleveland bằng những lời lẽ nặng nề nhất, khi dùng câu giễu cợt "Ma, Ma, Where's my Pa?" [Mẹ, Mẹ, Cha con đâu?] (Sau chiến thắng của Cleveland, những người ủng hộ Cleveland sẽ đáp lại lời chế nhạo bằng câu: "Đã đến Nhà Trắng, Ha, Ha, Ha.") Tuy nhiên, việc kiểm soát vấn đề của chiến dịch của Cleveland đã đạt hiệu quả và ông vẫn dẫn đầu cho đến tận Ngày Bầu cử. Hơn nữa, mối đe dọa lớn nhất đối với Đảng Cộng hòa đến từ những nhà cải cách được gọi là "Mugwumps", những người tức giận trước quá khứ tham nhũng của Blaine hơn là những vấn đề riêng tư của Cleveland. Trong tuần cuối cùng của cuộc bầu cử, chiến dịch Blaine gặp thảm họa. Tại một cuộc họp của Đảng Cộng hòa có Blaine tham dự, một nhóm các nhà thuyết giáo từ New York đã chọc tức Mugwumps. Người phát ngôn của nhóm này, Mục sư, Tiến sĩ Samuel Burchard, cho biết, "Chúng tôi là những người theo Đảng Cộng hòa, và không rời bỏ đảng của mình và tham gia đảng có tiền thân là rượu rum, chủ nghĩa La Mã và Nội chiến." Blaine không nhận ra lời nói tục tĩu chống Công giáo của Burchard, cũng như các phóng viên đã có mặt tự lúc nào, trong đó có cả những người do Đảng Dân chủ cài cắm, đảm bảo rằng vụ việc này sẽ được công bố rộng rãi. Tuyên bố này đã thúc đẩy tỷ lệ bỏ phiếu của người Ireland và Công giáo ở Thành phố New York nhằm chống lại Blaine, khiến ông phải trả giá bằng việc thua bang New York với cách biệt sít sao. Ngoài bài phát biểu của Burchard, người ta cũng tin rằng chiến dịch của John St. John là nguyên nhân giúp Cleveland giành chiến thắng trong cuộc bầu cử ở New York. Vì những người theo chủ nghĩa Cấm rượu có xu hướng liên minh nhiều hơn với những người Cộng hòa, nên Đảng Cộng hòa đã cố gắng thuyết phục St. John rút lui. Khi họ không thuyết phục được, họ tìm cách vu khống ông ta. Vì điều này, ông ấy đã nỗ lực gấp nhiều lần để thu hút cử tri ở ngoại ô New York, nơi Blaine dễ để thua vì lập trường cấm rượu của mình, cuối cùng đã lấy đi phiếu bầu của Đảng Cộng hòa. Kết quả Mặc dù kết quả nhìn chung vẫn giống như kết quả từ năm 1880 nhưng Cleveland đã thắng ở ba bang (New York, Indiana và Connecticut) mà James A. Garfield đã thắng, trong khi Blaine thắng ở hai bang ( California và Nevada) mà Winfield Hancock đã thắng. Nhưng hầu hết các bang đó đều có số phiếu đại cử tri tương đối nhỏ, và chiến thắng của Cleveland ở New York là chiến thắng quyết định. Cleveland đã thắng với cách biệt lớn hơn một chút so với Garfield (0,57% so với 0,11%) trong phiếu phổ thông, nhưng cách biệt nhỏ hơn một chút trong Đại cử tri đoàn (29 phiếu so với 59). Cleveland trở thành đảng viên Đảng Dân chủ đầu tiên giành chiến thắng mà không thắng Pennsylvania, California, Nevada và Illinois. Pennsylvania bỏ phiếu cho ứng cử viên thua cuộc lần đầu tiên kể từ năm 1824, lần đầu bỏ phiếu cho người thua phiếu phổ thông kể từ năm 1800. Kết quả đánh dấu một bước đột phá của cho Đảng Cấm rượu, đảng chỉ là một đảng nhỏ trong ba cuộc bầu cử trước đó. Mặc dù họ chưa bao giờ đến gần với ghế Tổng thống và chỉ đạt được thành công hạn chế trong các cuộc bầu cử quốc hội và tiểu bang, nhưng họ sẽ thường xuyên giành được ít nhất một điểm phần trăm số phiếu phổ thông (và đôi khi đứng thứ ba) trong các cuộc bầu cử Tổng thống trong 3 thập kỷ tiếp theo cho đến khi Tu chính án 18, chính thức cấm đồ uống có cồn, được thông qua vào năm 1919. Ngược lại, Butler chỉ giành được ít hơn một nửa số phiếu phổ thông mà James B. Weaver giành được vào năm 1880, đẩy nhanh sự suy tàn của Đảng Đồng bạc xanh. Đây là cuộc bầu cử tổng thống cuối cùng mà đảng này tham gia; nó sụp đổ sau khi cuộc bầu cử năm 1888. Tại Quận Burke, Georgia, 897 phiếu bầu đã được kiểm bầu cho "Đảng Cộng hòa Whig" cho chức Tổng thống (chúng không được tính cho Blaine). Đảng Cộng hòa đã thắng ở 20 trong số 33 thành phố có dân số trên 50.000 người bên ngoài Nam Hoa Kỳ. Thư viện Kết quả Kết quả theo bản đồ Kết quả theo tiểu bang Nguồn: Dữ liệu từ Walter Dean Burnham, Presidential ballots, 1836–1892 (Johns Hopkins University Press, 1955) pp 247–57. Tiểu bang sít sao Các bang có cách biệt chiến thắng dưới 1% (55 phiếu đại cử tri): New York, 0,10% (1.149 phiếu) Michigan, 0,82% (3.308 phiếu) Connecticut, 0,94% (1.284 phiếu) Các bang có cách biệt chiến thắng giữa 1% và 5% (117 phiếu đại cử tri): Indiana, 1,32% (6.516 phiếu) New Jersey, 1,67% (4.358 phiếu) Virginia, 2,15% (6.135 phiếu) Tây Virginia, 3,19% (4.215 phiếu) Tennessee, 3,72% (9.669 phiếu) Illinois, 3,73% (25.118 phiếu) Ohio, 4,05% (31.802 phiếu) Oregon, 4,28% (2.256 phiếu) Wisconsin, 4,59% (14.682 phiếu) New Hampshire, 4,80% (4.056 phiếu) Các bang có cách biệt chiến thắng giữa 5% và 10% (104 phiếu đại cử tri): Iowa, 5,24% (19.773 phiếu) Maryland, 5,98% (11.118 phiế) Florida, 6,23% (3.738 phiếu) California, 6,64% (13.081 phiếu) Bắc Carolina, 6,66% (17.884 phiếu) Missouri, 7,47% (32.942 phiếu) Massachusetts, 8,03% (24.372 phiếu) Pennsylvania, 9,52% (86.019 phiếu) Xem thêm Grover Cleveland James G. Blaine Đảng Dân chủ Đảng Cộng hòa Tham khảo Nguồn Hirsch, Mark. "Election of 1884," in History of Presidential Elections: Volume III 1848–1896, ed. Arthur Schlesinger and Fred Israel (1971), 3:1578. Norgren, Jill. Belva Lockwood: The Woman Who Would be President (2007). online version, focus on 1884 Summers, Mark Wahlgren. Rum, Romanism, and Rebellion: The Making of a President, 1884 (2000) online version "1884 Election Cleveland v. Blaine Overview", HarpWeek, July 26, 2008. Thomas, Harrison Cook, The return of the Democratic Party to power in 1884 (1919) online Nguồn chính Chester, Edward W A guide to political platforms (1977) online Porter, Kirk H. and Donald Bruce Johnson, eds. National party platforms, 1840-1964 (1965) online 1840-1956 Liên kết ngoài Presidential Election of 1884: A Resource Guide from the Library of Congress 1884 popular vote by counties Election of 1884 in Counting the Votes Grover Cleveland Nhiệm kỳ tổng thống Grover Cleveland
19822454
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trung%20t%C3%A2m%20l%C6%B0u%20tr%E1%BB%AF%20qu%E1%BB%91c%20gia
Trung tâm lưu trữ quốc gia
Trung tâm Lưu trữ quốc gia I là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, có chức năng trực tiếp quản lý tài liệu lưu trữ và thực hiện hoạt động lưu trữ thuộc phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn được giao.  I. Vị trí và chức năng          1. Trung tâm Lưu trữ quốc gia I là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, có chức năng trực tiếp quản lý tài liệu lưu trữ và thực hiện hoạt động lưu trữ thuộc phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn được giao.           2. Trung tâm Lưu trữ quốc gia I có tư cách pháp nhân, con dấu, tài khoản và trụ sở làm việc đặt tại thành phố Hà Nội.          II. Nhiệm vụ và quyền hạn          1. Đề xuất, trình Cục trưởng để trình Bộ trưởng Bộ Nội vụ xem xét, phê duyệt hoặc trình cấp có thẩm quyền phê duyệt các đề án, dự án về bảo quản và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ và kinh phí thực hiện các nhiệm vụ không thường xuyên đối với tài liệu được giao quản lý.          2. Đề xuất, trình Cục trưởng phê duyệt, ban hành kế hoạch thực hiện các hoạt động lưu trữ đối với tài liệu được giao quản lý.          3. Thực hiện các nhiệm vụ theo phân cấp của Cục trưởng           a) Trực tiếp quản lý tài liệu lưu trữ hình thành trong quá trình hoạt động của cơ quan, tổ chức và cá nhân:          - Thời kỳ phong kiến.           - Thời kỳ Pháp thuộc xứ Bắc kỳ và chính quyền cấp Đông Dương.           - Chính quyền thân Pháp ở trong vùng tạm bị chiếm từ năm 1946 đến năm 1954 tại khu vực Bắc Kỳ.           - Tài liệu được sưu tầm, hiến tặng, ký gửi từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân, gia đình, dòng họ tiêu biểu.          -  Các tài liệu khác được giao quản lý;           b) Thực hiện hoạt động lưu trữ đối với tài liệu lưu trữ được giao trực tiếp quản lý:          - Sưu tầm, bổ sung tài liệu đối với các phông, sưu tập tài liệu.           - Phân loại, chỉnh lý, xác định giá trị tài liệu lưu trữ.          - Thực hiện các biện pháp bảo vệ, bảo quản an toàn tài liệu lưu trữ: Sắp xếp, vệ sinh tài liệu trong kho; khử trùng, khử a-xit, tu bổ, phục chế, số hóa tài liệu và các biện pháp khác.           - Xây dựng và quản lý an toàn, bảo mật toàn bộ cơ sở dữ liệu, hệ thống công cụ thống kê, tra cứu tài liệu.           - Tổ chức khai thác, sử dụng và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ;           c) Ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào thực tiễn công tác của Trung tâm;          d) Quản lý người làm việc, cơ sở vật chất kỹ thuật, vật tư, tài sản và kinh phí của Trung tâm theo quy định của pháp luật và phân cấp của Cục trưởng Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước;          đ) Thực hiện các dịch vụ công và dịch vụ lưu trữ theo quy định pháp luật và quy định của Bộ Nội vụ, Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, gồm:          - Chỉnh lý tài liệu lưu trữ.          - Số hóa tài liệu, xây dựng và bảo mật thông tin cơ sở dữ liệu theo quy định của pháp luật.          - Nghiên cứu, khai thác, tổ chức triển lãm và dịch thuật tài liệu lưu trữ.          - Cung cấp dịch vụ bảo quản: Khử trùng, khử axit, tu bổ, phục chế và các biện pháp khác.          - Tư vấn, trực tiếp hướng dẫn về nghiệp vụ lưu trữ; cung cấp phần mềm chuyên dụng về quản lý, khai thác tài liệu lưu trữ.          - Sử dụng tài sản công vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết;          e) Thực hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Cục trưởng Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước giao.          III. Cơ cấu tổ chức          1. Phòng Xử lý Nghiệp vụ.          2. Phòng Phát huy giá trị tài liệu lưu trữ.         3. Phòng Hành chính – Tổng hợp.          IV. Lãnh đạo Trung tâm          a) Trung tâm Lưu trữ quốc gia I có Giám đốc và không quá 02 Phó Giám đốc.          b) Giám đốc Trung tâm do Cục trưởng Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, chịu trách nhiệm trước Cục trưởng Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của Trung tâm.          c) Các Phó Giám đốc Trung tâm do Cục trưởng Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Giám đốc, chịu trách nhiệm trước Giám đốc và trước pháp luật về nhiệm vụ được phân công.          Song song với việc thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn, tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I có một phòng đọc để phục vụ nhu cầu nghiên cứu tài liệu lưu trữ của độc giả. Phòng đọc của Trung tâm mở cửa tất cả các ngày trong tuần (trừ buổi chiều thứ sáu, các ngày thứ bảy, chủ nhật, các ngày lễ). Giờ mở cửa hàng ngày như sau: Sáng từ 8h đến 11h30'; Chiều từ 13h30' đến 16h30'.           Trong thời gian nghiên cứu tại trung tâm, các độc giả cần chấp hành nghiêm túc các điều khoản trong Nội quy sử dụng tài liệu lưu trữ tại Phòng đọc của Trung tâm Lưu trữ quốc gia I.          Số lượng và thành phần cơ bản của tài liệu lưu trữ tại Trung tâm:          Trung tâm Lưu trữ quốc gia I hiện đang bảo quản một khối lượng tài liệu và tư liệu lớn gồm:          - Khối tài liệu lưu trữ Hán-Nôm (thời kỳ Phong kiến).          - Khối tài liệu lưu trữ tiếng Pháp (thời kỳ thuộc địa).          - Khối tư liệu (ấn phẩm, báo chí ... tiếng Pháp, Việt, Anh, Hán - Nôm).          Sau đây là số lượng và thành phần của các khối tài liệu:          1. Khối tài liệu Hán-Nôm:           Đây là khối tài liệu được hình thành trong các cơ quan thuộc các triều đại phong kiến ở Việt nam, chủ yếu là triều đại nhà Nguyễn (từ Gia Long năm 1802 đến Bảo Đại năm 1945). Cụ thể như sau:          - Tài liệu Châu bản triều Nguyễn từ Gia Long (1802) đến Bảo Đại (1945);          - Tài liệu Địa bộ: gồm trên 10.000 tập về các loại đất đai, kích thước, vị trí, chủ sở hữu v.v... các làng xã từ Miền Bắc đến Miền Nam được lập trong hơn 30 năm đầu của triều Minh Mạng (1806-1837);          - Tài liệu Nha huyện Thọ Xương: là tài liệu thuộc thành nội Hà nội;          - Tài liệu Phông Nha Kinh Lược Bắc Kỳ: là tài liệu của cơ quan đại diện của triều đình nhà Nguyễn ở Bắc Kỳ trong những năm cuối thế kỷ XIX;          - Sưu tập Tài liệu Hương Khê: từ Hậu Lê (1619) đến Tự Đức;          - Khối Sách Hán- Nôm: gồm chục ngàn cuốn;          - Sách Kinh Phật.          2. Khối tài liệu tiếng Pháp:          Là khối tài liệu được hình thành trong các cơ quan chính quyền thuộc địa Pháp ở Đông Dương trước đây (gồm Việt Nam - Lào và Cămpuchia) và các sở chuyên môn của chính quyền thuộc địa Pháp ở Bắc Kỳ. Cụ thể các phông tài liệu như sau:          • Khối tài liệu hành chính:          - Phông Đô đốc và Thống đốc (Fonds des Amiraux et des Gouverneurs).          - Phông Toàn quyền Đông Dương (Fonds du Gouvernement général de l'Indochine).          - Phông Nha Nông - Lâm - Thương mại Đông Dương (Fonds de la Direction de l'Agriculture, des Forets et du Commerce).          - Phông Sở Địa dư Đông Dương (Fonds du Service géographique de l'Indochine ).          - Phông Tổng Thanh tra Công chính Đông Dương (Fonds de I'Inspection générale des Travaux publics de l'Indochine).          - Phông Sở Tiếp tế và Vận tải biển Đông Dương (Fonds du Service du Ravitaillement et des Transports maritimes de l'Indochine).          - Phông nha Tài chính Đông Dương (Fonds de la Direction des Finances de l'Indochine).          - Phông Sở Kiểm tra Tài chính Đông Dương (Fonds du Controle financier de l'Indochine).          - Phông Nha Thương chính Đông Dương (Fonds de la Direction des Douanes et Régies de l'Indochine).          - Phông Sở Trước bạ và Tem Đông Dương (Fonds du Service de I'Enregistrement, des Domaines et du Timbre de l'Indochine).          - Phông Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương (Fonds de la Direction des Archives et des Bibliothèques de l'Indochine).          - Phông Tổng Thanh tra Y tế Đông Dương (Fonds de I'Inspection générale I'Hygiène et de I'Indochine de la Santé publique de I'Indochine ).          - Phông Tổng hội Viên chức Đông Dương (Fonds de I'Inspection genéral syndicale des Fonctionnaire et Agént de I'Indochine).          - Phông Hạm đội Đông Dương (Fonds de la Flotte indochinoise).          - Phông Công ty Đường sắt Đông Dương- Vân Nam (Fonds de la Compagnie franầasie des Chemins de Fer de I'Indochine et du Yunnan).          - Phông Toà Thượng Thẩm Hà nội (Fonds de la Cour d'Appel de Hà nội).          - Phông Thống sứ Bắc Kỳ (Fonds de la Residence Supérieure au Tonkin).          - Phông Sở Nông nghiệp Bắc Kỳ (Fonds du Service de I'Agriculture du Tonkin).          - Phông Sở Địa chính Bắc Kỳ (Fonds du Service du Cadastre et de la Topographie du Tonkin).          - Phông Sở Công chính Bắc Kỳ (Fonds des Travaux publics du Tonkin).          - Phông Sở Học chính Bắc Kỳ (Fonds du Service de I'Enseignement au Tonkin).          - Phông Sở Y tế Bắc Kỳ (Fonds de la Direction de la Santé du Tonkin).          - Phông Sở Thú Y Bắc Kỳ (Fonds du Service vétérinaire et des Epizootíe du Tonkin).          - Phông Công ty Than Hòn Gai (Fonds de la Société franầasie des Charbonnages du Tonkin).          - Phông Công ty Bông Bắc Kỳ (Fonds de la Société cotonniere du Tonkin).          - Phông Toà án Hải Phòng (Fonds du Tribunal de Première instance de Hai Phong).          - Phông Toà án Đà Nẵng (Fonds du Tribunal de Paix de Tourane).          - Phông Toà Đốc lý Hà Nội (Fonds de la Mairie de Ha noi).          - Phông Sở Địa chính Hà Nội (Fonds du Service du Cadatre et des Domaines de Ha noi).          - Phông Toà sứ Bắc Giang (Fonds de la Résidence de Bac Giang).          - Phông Toà sứ Hà Đông (Fonds de la Résidence de Ha Dong).          - Phông Toà sứ Hoà Bình (Fonds de la Résidence de Hoa Binh).          - Phông Toà sứ Lào Cai (Fonds de la Résidence de Lao Cai).          - Phông Toà sứ Nam Định (Fonds de la Résidence de Nam Dinh).          - Phông Toà sứ Ninh Bình (Fonds de la Résidence de Ninh Binh).          - Phông Toà sứ Phú Thọ (Fonds de la Résidence de Phu Tho).          - Phông Toà sứ Thái Bình (Fonds de la Résidence de Thai Binh).          - Phông Toà sứ Thanh Hoá (Fonds de la Résidence de Thanh Hoá).          - Phông Toà sứ Tuyên Quang (Fonds de la Résidence de Tuyên Quang).          - Phông Toà sứ Yên Bái (Fonds de la Résidence de Yên Bai).          - Các sở chuyên môn thành phố Hà Nội và Sài Gòn.          - Khối tài liệu Sổ sách về Ngân sách Đông Dương.          - Khối tài liệu nhân sự.          - Sổ Thuế.          - Tài liệu về điều tra dân số.          - Sưu tập bản đồ.          • Khối tài liệu chính quyền thân Pháp:          - Phông Bảo Đại Hà Nội.          - Phông Bảo Đại Đà Lạt.          - Phông Sở Học chính Bắc Việt.          - Phông Sở Thông tin- Tuyên truyền Bắc Việt          - Phông Toà Thị chính Hà Nội.          • Khối tài liệu kỹ thuật:          - Tài liệu kiến trúc.          - Tài liệu Giao thông đường bộ.          - Tài liệu Thuỷ Lợi.          - Tài liệu Thuỷ Lợi Miền Trung.
19822460
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A1ch%20ph%E1%BB%A7%20nguy%C3%AAn%20quy
Sách phủ nguyên quy
Sách phủ nguyên quy () là bộ loại thư (bách khoa toàn thư) lớn nhất của Trung Quốc được biên soạn dưới thời Tống (960–1279). Đây là cuốn cuối cùng trong Tống tứ đại thư, ba cuốn trước được xuất bản vào thế kỷ 10. Lịch sử Cuốn bách khoa toàn thư này do Tống Chân Tông hạ chiếu cho Vương Khâm Nhược và Dương Ức cùng cộng sự biên soạn vào tháng 10 năm 1005 với tiêu đề Lịch đại quân thần sự tích nhưng về sau được Hoàng đế đổi tên thành Sách phủ nguyên quy, toàn sách mất đến tám năm mới hoàn thành vào ngày 20 tháng 9 năm 1013. Bản khắc in được chia thành 1.000 quyển, 31 danh mục và 1014 phụ lục, tất cả đều "liên quan đến việc quản lý triều chính, bộ máy quan lại và hoàng tộc các triều đại từ xưa đến nay". Sách không bao gồm các chương nói về thế giới tự nhiên. Nhiều viên chức đã tham gia vào công tác soạn ra bộ sách này, bao gồm cả Vương Khâm Nhược và Dương Ức, với lời thỉnh cầu hoàng đế thuê thêm người biên soạn. Tên gọi Tiêu đề tiếng Anh cho bách khoa toàn thư này là: Prime Tortoise of the Record Bureau, The Magic Mirror in the Palace of Books, Archival Palace as the Great Oracle, General Preface on Outer Ministers, Outstanding Models from the Storehouse of Literature Models from the Archives. Tham khảo Trích dẫn Thư mục Hu, Wenjie, Cefu Yuangui ("Prime Tortoise of the Record Bureau"). Encyclopedia of China, 1st ed. Kurz, Johannes. "The Compilation and Publication of the Taiping Yulan and the Cefu Yuangui", in Florence Bretelle-Establet and Karine Chemla (eds.), Qu'est-ce qu'écrire une encyclopédie en Chine?. Extreme Orient-Extreme Occident Hors série (2007), 39–76. Liên kết ngoài Thông tin sơ lược về Sách phủ nguyên quy — Chinaknowledge.de. Loại thư Văn học nhà Tống Văn học Trung Quốc Văn hiến Trung Quốc Sách Trung Quốc thế kỷ 11 Bách khoa toàn thư Trung Quốc
19822461
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n%20uy%E1%BB%83n%20anh%20hoa
Văn uyển anh hoa
Văn uyển anh hoa () là tuyển tập thơ từ, ca dao, khúc ca và tác phẩm từ thời nhà Lương đến thời Ngũ đại thập quốc. Văn uyển anh hoa là một tác phẩm văn học nổi tiếng thời Tống. Cuốn sách này ban đầu do một nhóm quan lại bao gồm Tống Bạch (宋白), Hỗ Mông (扈蒙), Từ Huyễn (徐鉉) biên soạn theo lệnh của triều đình từ năm 982 đến 986 dưới thời Bắc Tống. Học giả thời Nam Tống Chu Tất Đại đã khắc in cuốn sách bản hoàn chỉnh vào năm 1204, trong khi có tới bốn lần sửa đổi lớn và vô số sửa đổi nhỏ diễn ra trong suốt 200 năm qua. Văn uyển anh hoa được chia thành 1.000 quyển và 38 loại theo phần với 19.102 tác phẩm do khoảng 2.200 tác giả chấp bút; phần lớn việc biên soạn các tác phẩm quan trọng đến từ giới học giả thời Đường. Sách này được coi là một trong Tống tứ đại thư. Mặc dù vậy, Văn uyển anh hoa có một lượng lớn nội dung đáng giá về lịch sử và văn học Trung Quốc; tác phẩm này hầu như đã bị các học giả ở cả phương Đông và phương Tây bỏ quên kể từ khi cuốn sách được biên soạn và in ấn. Nó có mối liên hệ sâu rộng với các tuyển tập văn học Trung Quốc thời Đường Tống khác. Tham khảo Liên kết ngoài Cheng, Yizhong, Văn uyển anh hoa ("Những bông hoa đẹp nhất trong vườn văn học"). Đại bách khoa toàn thư Trung Quốc Loại thư Văn học nhà Tống Văn học Trung Quốc Văn hiến Trung Quốc Sách Trung Quốc thế kỷ 11 Bách khoa toàn thư Trung Quốc
19822480
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%E1%BB%A5y%20bi%E1%BB%87n%20d%C3%A8m%20pha%20g%C3%A2y%20ch%C3%A1n%20gh%C3%A9t
Ngụy biện dèm pha gây chán ghét
Ngụy biện dèm pha gây chán ghét (tiếng Anh: appeal to spite) là loại ngụy biện trong đó người ta cố gắng giành được sự ủng hộ cho một lập luận bằng cách khai thác cảm giác cay đắng, chán ghét hoặc khinh bỉ với lập luận đối lập. Nó nỗ lực tác động đến cảm xúc người nghe bằng cách liên kết hình ảnh thù địch với lập luận đối lập với lập luận của người nói. Người ta thường nhầm loại ngụy biện này với ngụy biện tấn công cá nhân. Ngụy biện tấn công cá nhân cũng khơi gợi cảm xúc tiêu cực, nhưng khác với loại ngụy biện này ở chỗ nó chỉ trích trực tiếp đối thủ. Ở loại ngụy biện này, điều đó là không nhất thiết. Ví dụ "Tại sao lại không bắt tù nhân lao động khổ sai? Chúng toàn hạng cặn bã!" "Hãy dừng việc tái chế [rác thải .ND] đó lại! Chúng ta còn chưa đủ chán ngán những ngôi sao ở Hollywood chuyên rao giảng về việc cứu trái đất hay sao? "Đừng đi nghe opera, Hitler cũng thích opera đấy, chúng mình đi xem xiếc đi." Nguồn tham khảo Thể loại:Ngụy biện lợi dụng cảm xúc
19822491
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nicotinamin%20mononucleotit
Nicotinamin mononucleotit
Nicotinamin mononucleotit (“NMN” và “β-NMN”) là một nucleotit, khởi phát từ ri-bô-zơ, nicotinamit, nicotinamit riboxit và niacin. Trong cơ thể con người, một số enzym sử dụng NMN để sản xuất nicotinamit adenin dinucleotit (NADH). Trên loài chuột, người ta cho rằng NMN được hấp thụ thông qua ruột non trong vòng 10 phút kể từ khi nuốt qua đường miệng và chuyển hoá thành nicotinamit adenin dinucleotit (NAD+) thông qua kênh vận chuyển Slc12a8. Mặc dù vậy, quan sát này vẫn đang được truy vấn, và cơ chế thực sự vẫn còn chưa hoàn toàn được giải đáp. Bởi vì NADH là một đồng nhân tố Cofactor cho các quá trình xảy ra bên trong ty thể và một số protein, NMN đã và đang được nghiên cứu trên mô hình bệnh tật động vật như một loại thuốc thần kinh và thoái hoá tiềm năng. Nó giảm thiểu thoái hoá ty thể với sự góp mặt của nồng độ NAD+ cao. Các công ty dược phẩm do đó tăng cường quảng bá, tự công nhận các lợi ích của nó. Mặc dù vậy, chưa có nghiên cứu trên con người nào từng chỉ ra các tác dụng của nó một cách hợp lý. Cuộc thử nghiệm trên người tại Đại học Kaio đã quan sát các tác động của liều 500 mg. Một cuộc thử nghiệm y khoa năm 2021 cũng tìm hiểu tác động của NMN đối với sự nhạy cảm insulin của cơ trên các nữ bệnh nhân tiền tiểu đường, và cũng có một nghiên cứu trong tình huống vận động điền kinh. Một cuộc nghiên cứu y khoa năm 2023 cho thấy NMN cải thiện chức năng đi bộ trong bài tập 6 phút cùng một bài đánh giá sức khoẻ tổng lược chủ quan. NMN dễ bị phân huỷ ngoại tế bào bởi enzym CD38, điều này bị hạn chế bởi hợp chất như CD38-IN-78c. Các nguồn chất NMN được phát hiện thấy trong hoa quả và rau củ như edamame, bông cải xanh, bắp cải, dưa chuột và quả bơ ở nồng độ 1mg trên mỗi 100g, một nồng độ không đáng kể, gần như không ảnh hưởng bằng liều lượng thuốc nghiên cứu trong y dược. Sản xuất Việc sản xuất NMN bị ngưng trệ tại Hoa Kỳ do một cuộc điều tra của FDA cuối năm 2022 dưới danh nghĩa nghiên cứu dược phẩm. Các hình thái khác nhau trong cơ quan nội tạng Việc tổng hợp và tiêu thụ các enzym NMN cũng thể hiện tính đặc chủng của mô: NMN phân bố tại các mô và cơ quan trong cơ thể và xuất hiện trong nhiều tế bào khác nhau kể từ khi phát triển bào thai embryonic. Chú thích và Tham khảo Nucleotides Thuốc Dược phẩm Dược chất
19822492
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gautam%20Adani
Gautam Adani
Gautam Shantilal Adani (sinh ngày 24 tháng 6 năm 1962) là một nhà công nghiệp tỷ phú người Ấn Độ, là người sáng lập và chủ tịch của Adani Group, một tập đoàn đa quốc gia tham gia vào hoạt động và phát triển cảng ở Ấn Độ. Adani được mô tả là thân cận với Thủ tướng Narendra Modi và chính phủ cầm quyền Đảng Bharatiya Janata của ông. Điều này đã dẫn đến các cáo buộc về chủ nghĩa thân hữu , vì các công ty của ông đã giành được nhiều hợp đồng năng lượng và cơ sở hạ tầng ở Ấn Độ và nước ngoài sau khi Modi trở thành Thủ tướng Ấn Độ. Vào tháng 1 năm 2023 , sau các cáo buộc thao túng cổ phiếu và gian lận của công ty hoạt động bán khống Mỹ Nghiên cứu Hindenburg, Tài sản của Adani và gia đình anh ấy đã giảm mạnh hơn 50%. Ông đã mất hàng chục tỷ đô la chỉ trong vài ngày, rồi xuống còn ước tính 50,2 tỷ đô la Mỹ, tính đến tháng 3 năm 2023, đồng thời tụt xuống vị trí thứ 24 trên Forbes Danh sách tỷ phú theo thời gian thực.Tạp chí Time đã đưa ông vào 100 người có ảnh hưởng nhất trên thế giới vào năm 2022. Sự nghiệp Khi còn là một thiếu niên, Adani chuyển đến Mumbai vào năm 1978 để làm công việc phân loại kim cương cho Mahendra Brothers. Năm 1981, anh trai của ông là Mahasukhbhai Adani mua một cơ sở sản xuất nhựa ở Ahmedabad và mời ông quản lý hoạt động. Liên doanh này hóa ra lại là cửa ngõ để Adani tiến tới giao dịch toàn cầu thông qua nhập khẩu polyvinyl clorua (PVC). Vào tháng 2 năm 2022, ông trở thành người giàu nhất châu Á, vượt qua Mukesh Ambani. Vào tháng 8 năm 2022, ông được Fortune bầu chọn là người giàu thứ 3 trên thế giới. Tập đoàn Adani Năm 1988, Adani thành lập Adani Exports, hiện được gọi là Adani Enterprises, công ty cổ phần của Tập đoàn Adani. Ban đầu, công ty kinh doanh các mặt hàng nông nghiệp và năng lượng. Năm 1991, các chính sách tự do hóa kinh tế trở nên thuận lợi cho công ty của ông và ông bắt đầu mở rộng kinh doanh sang lĩnh vực kinh doanh kim loại, dệt may và các sản phẩm nông nghiệp. Năm 1995, ông lập cầu cảng đầu tiên. Ban đầu được điều hành bởi Cảng Mundra & Đặc khu kinh tế, các hoạt động được chuyển giao cho Cảng Adani & SEZ (APSEZ). Cảng Mundra là cảng khu vực tư nhân lớn nhất ở Ấn Độ, với khả năng xử lý gần 210 triệu tấn hàng hóa mỗi năm. Năm 1996, nhánh kinh doanh năng lượng của Tập đoàn Adani, Adani Power, được thành lập bởi Adani. Adani Power nắm giữ nhà máy nhiệt điện với công suất 4620MW, nhà sản xuất nhiệt điện tư nhân lớn nhất của đất nước. Năm 2006, Adani tham gia kinh doanh phát điện. Từ năm 2009 đến 2012, ông mua lại cảng Abbot Point ở Úc và mỏ than Carmichael ở Queensland. Vào tháng 5 năm 2020, Adani đã thắng thầu năng lượng mặt trời lớn nhất thế giới của Solar Energy Corporation of India (SECI) trị giá 6 tỷ USD. Dự án nhà máy điện quang điện 8000MW sẽ được Adani Green đảm nhận; Adani Solar sẽ thiết lập thêm 2000MW công suất sản xuất mô-đun và pin mặt trời. Vào tháng 11 năm 2021, khi phát biểu tại Diễn đàn kinh tế Bloomberg Ấn Độ, Adani cho biết tập đoàn này đang đầu tư 70 tỷ đô la Mỹ vào một doanh nghiệp năng lượng xanh mới. Vào tháng 7 năm 2022, ông đã cung cấp thông tin chi tiết mới về cách khoản đầu tư này sẽ được sử dụng để xây dựng ba nhà máy khổng lồ – năng lượng mặt trời, máy điện phân (để tạo ra hydro xanh), nhà máy tua-bin. Cáo buộc gian lận Vào tháng 1 năm 2023, Adani và các công ty của ông bị buộc tội thao túng cổ phiếu bởi công ty đầu tư có trụ sở tại New York Nghiên cứu Hindenburg. Theo sau đó, cổ phiếu của Tập đoàn Adani giảm mạnh 45 tỷ USD. Các khoản lỗ dẫn đến việc Adani tụt xuống vị trí giàu thứ 22 trên bảng xếp hạng tỷ phú của Forbes. Báo cáo cáo buộc tập đoàn có khoản nợ lớn, khiến cổ phiếu của bảy công ty Adani niêm yết giảm 3-7%. Báo cáo được phát hành trước đợt chào bán công khai tiếp theo của Adani Enterprises, mở cửa vào ngày 27 tháng 1 năm 2023. Giám đốc tài chính của Tập đoàn Adani (Jugeshinder 'Robbie' Singh) đã tuyên bố rằng thời điểm công bố báo cáo là một "ý định trắng trợn, bất chính" nhằm làm hỏng sản phẩm. Đợt chào bán công khai của Adani Enterprises đã bị hủy vào ngày 1 tháng 2 năm 2023. Tham khảo Liên kết ngoài Profile at Forbes Profile at Bloomberg L.P.
19822493
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B9i%20V%C4%A9%20H%C3%A0o
Bùi Vĩ Hào
Bùi Vĩ Hào (sinh ngày 24 tháng 2 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cắm hoặc tiền đạo cánh cho câu lạc bộ Becamex Bình Dương và đội tuyển U-23 quốc gia Việt Nam. Sự nghiệp câu lạc bộ Sinh ra ở An Giang, Vĩ Hào đã dành sự nghiệp bóng đá trẻ của mình để thi đấu cho Câu lạc bộ bóng đá An Giang. Năm 2021, anh được PVF mượn để thi đấu tại Giải bóng đá Hạng Nhì Quốc gia 2021, nhưng anh đã không được ra sân sau khi giải đấu bị hủy bỏ do sự bùng phát của dịch bệnh COVID-19 tại Việt Nam. Năm 2022, Vĩ Hào gia nhập câu lạc bộ Becamex Bình Dương và thi đấu tại V.League 1. Anh ghi bàn thắng chuyên nghiệp đầu tiên vào ngày 21 tháng 7 năm 2022, bàn thắng duy nhất cho Becamex Bình Dương trong trận thua 1–2 trước Hoàng Anh Gia Lai tại V.League 1. Sự nghiệp quốc tế Vĩ Hào được điền tên vào đội hình 23 cầu thủ cho Cúp bóng đá U-20 châu Á 2023 bởi Hoàng Anh Tuấn. Vĩ Hào ra sân trong cả ba trận vòng bảng cho U-20 Việt Nam nhưng lại không ghi được bàn thắng nào. U-20 Việt Nam cuối cùng đã không thể lọt vào vòng đấu loại trực tiếp của giải đấu. Thông kê sự nghiệp Bàn thắng quốc tế U-23 Việt Nam Danh hiệu Cá nhân Vua phá lưới Giải bóng đá Vô địch U-21 Quốc gia Việt Nam: 2022 Tham khảo Liên kết ngoài Sinh 2003 Người họ Bùi tại Việt Nam Tiền đạo bóng đá Cầu thủ câu lạc bộ bóng đá Becamex Bình Dương Cầu thủ giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam Cầu thủ bóng đá Việt Nam Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-19 quốc gia Việt Nam Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-23 quốc gia Việt Nam
19822495
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%21%20PARIS
Hi! PARIS
Hi! PARIS là một tổ chức có trụ sở tại Paris nhằm thúc đẩy giáo dục, nghiên cứu và đổi mới trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI) và phân tích dữ liệu. Công việc của Hi! PARIS bao gồm nghiên cứu về an toàn AI kỹ thuật và đạo đức AI, vận động và hỗ trợ để phát triển lĩnh vực nghiên cứu an toàn AI. Nó đã được tạo ra vào năm 2020 bởi HEC Paris và Institut polytechnique de Paris. Vào tháng 7 năm 2021, Inria đã trở thành đối tác. Nghiên cứu Trung tâm chủ yếu tập trung vào hai chủ đề: AI & Dữ liệu cho doanh nghiệp và AI & Dữ liệu cho xã hội. Các công ty như Schneider Electric hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu. Các hoạt động Ngoài các hoạt động nghiên cứu, trung tâm còn tổ chức một trường học hè và một cuộc thi hackathon. Tham khảo Ứng dụng của trí tuệ nhân tạo Ứng dụng phần mềm học sâu Học tập không giám sát Tường thuật tương tác Phân tích ngôn ngữ tự nhiên Trợ lý ảo Xử lý ngôn ngữ tự nhiên Mô hình hóa ngôn ngữ
19822496
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A2n%20v%E1%BA%ADt%20ch%C3%ADnh%20th%E1%BB%A9%20hai
Nhân vật chính thứ hai
Nhân vật chính thứ hai (tiếng Anh: deuteragonist; tiếng Hy Lạp cổ: δευτεραγωνιστής) hay nhân vật á chính, là nhân vật quan trọng thứ hai của một câu chuyện, sau nhân vật chính và trước nhân vật chính thứ ba. Nhân vật chính thứ hai thường đóng vai trò là người bạn thường xuyên đồng hành cùng nhân vật chính, hoặc là một người tích cực hỗ trợ nhân vật chính, hoặc là đối thủ của nhân vật chính. Nhân vật chính thứ hai có thể chuyển đổi giữa việc hỗ trợ hoặc đối đầu với nhân vật chính, tùy thuộc vào mối quan hệ của họ và diễn biến của câu chuyện. Chính kịch Bởi vì kịch Hy Lạp cổ đại chỉ có ba diễn viên (nhân vật thứ nhất, nhân vật thứ hai và nhân vật thứ ba) cùng với dàn đồng ca, nên mỗi diễn viên thường đóng nhiều phần. Tham khảo Đọc thêm Liên kết ngoài Sân khấu Hy Lạp cổ đại Kịch Protagonists by role
19822498
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A2n%20v%E1%BA%ADt%20ch%C3%ADnh%20th%E1%BB%A9%20ba
Nhân vật chính thứ ba
Nhân vật chính thứ ba (tiếng Anh: tritagonist; tiếng Hy Lạp cổ: τριταγωνιστής) hay nhân vật quý chính, là nhân vật quan trọng thứ ba trong một câu chuyện, sau nhân vật chính và nhân vật chính thứ hai. Trong kịch Hy Lạp cổ, nhân vật chính thứ ba là thành viên thứ ba của đoàn diễn xuất. Với tư cách là một nhân vật quan trọng, nhân vật chính thứ ba thường đóng vai trò là kẻ chủ mưu hoặc là nguyên nhân gây ra những đau khổ cho nhân vật chính. Lịch sử Tham khảo Sân khấu Hy Lạp cổ đại Kịch Protagonists by role
19822502
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%89nh%20t%E1%BB%B1%20tr%E1%BB%8B%20X%C3%A3%20h%E1%BB%99i%20ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20Vojvodina
Tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Vojvodina
Tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Vojvodina (; ) là một trong hai tỉnh tự trị của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Serbia, thuộc Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư trước đây. Tỉnh này là tiền thân trực tiếp của tỉnh tự trị Vojvodina của Serbia ngày nay. Tỉnh được chính thức thành lập vào năm 1945 sau kết quả của Chiến tranh thế giới thứ hai tại Nam Tư, với tên gọi Tỉnh tự trị Vojvodina (; ). Năm 1968, Vojvodina được trao quyền tự chủ chính trị ở mức độ cao hơn, và từ Xã hội chủ nghĩa được thêm vào tên chính thức của họ. Năm 1990, sau cuộc cải cách hiến pháp chịu ảnh hưởng của thứ được gọi là cách mạng chống quan liêu, quyền tự trị của tỉnh bị giảm xuống mức trước năm 1968, và thuật ngữ Xã hội chủ nghĩa bị loại bỏ khỏi tên gọi. Tỉnh bao gồm các khu vực Srem, Banat và Bačka, với thủ phủ là Novi Sad. Trong suốt sự tồn tại của tỉnh, người Serb tại Vojvodina tạo thành nhóm dân tộc lớn nhất trong tỉnh, song song với điều này là sự khẳng định mạnh mẽ các yếu tố đa sắc tộc và đa văn hóa là trung tâm của bản sắc tỉnh. Bên cạnh tiêu chuẩn Serbia của tiếng Serbia-Croatia chính thức khi đó, Vojvodina xã hội chủ nghĩa còn chính thức sử dụng các ngôn ngữ khác bao gồm tiếng Hungary, tiếng Rusyn Pannonia, tiếng Slovak và tiếng Romania. Sau khi phe đối lập không giành được bất kỳ ghế nào trong cuộc bầu cử năm 1945, tỉnh được cai trị bởi Liên đoàn Những người cộng sản Vojvodina, một bộ phận của cả đảng cầm quyền Serbia và Nam Tư. Lịch sử Trong Chiến tranh thế giới thứ hai tại Nam Tư (1941–1945), lãnh thổ này bị phe Trục chiếm đóng. Vào mùa thu năm 1944, Quân đội Nam Tư và Hồng quân trục xuất quân phe Trục khỏi hầu hết khu vực, các vùng đất này được đặt dưới chính quyền quân đội. Vào thời điểm đó, tình trạng chính trị của lãnh thổ vẫn chưa được xác định. Biên giới dự kiến của Vojvodina trong tương lai bao gồm các vùng Banat, Bačka, Baranja và hầu hết vùng Syrmia, bao gồm Zemun. Biên giới tạm thời theo pháp lý giữa Vojvodina và Croatia ở Syrmia là đường Vukovar-Vinkovci-Županja. Trên thực tế, các phần phía tây của Syrmia vẫn nằm dưới sự kiểm soát của quân đội phe Trục cho đến tháng 4 năm 1945. Từ ngày 17 tháng 10 năm 1944 đến ngày 27 tháng 1 năm 1945, phần lớn khu vực (Banat, Bačka, Baranja) nằm dưới quyền quản lý quân sự trực tiếp, và đến mùa xuân năm 1945, chính quyền khu vực lâm thời được thành lập. 1945–1968 Tỉnh tự trị Vojvodina () được thành lập vào năm 1945, với tư cách là một tỉnh tự trị trong Cộng hòa Nhân dân Serbia, một đơn vị liên bang của Cộng hòa Nhân dân Liên bang Nam Tư. Quá trình được bắt đầu vào ngày 30–31 tháng 7 năm 1945, khi hội đồng tỉnh lâm thời của Vojvodina quyết định rằng tỉnh nên gia nhập Serbia. Quyết định này được xác nhận trong phiên họp thứ ba của AVNOJ vào ngày 10 tháng 8 năm 1945, và luật quy định tình trạng tự trị của Vojvodina trong Serbia được thông qua vào ngày 1 tháng 9 năm 1945. Biên giới cuối cùng của Vojvodina với Croatia và Trung Serbia được định nghĩa vào năm 1945: Baranja và tây Syrmia được giao cho Croatia, trong khi các phần nhỏ của Banat và Syrmia gần Beograd được giao cho Trung Serbia. Một phần nhỏ phía bắc Mačva gần Sremska Mitrovica được giao cho Vojvodina. Thủ phủ của tỉnh là Novi Sad, cũng là thủ phủ của tỉnh Danube Banovina cũ tồn tại từ trước Chiến tranh thế giới thứ hai. Vị thế của Vojvodina trong Serbia được xác định trong Hiến pháp Nam Tư (1946) và Hiến pháp Serbia (1947). Quy chế đầu tiên của tỉnh tự trị Vojvodina được thông qua vào năm 1948 và quy chế thứ hai vào năm 1953. Sau khi cải cách hiến pháp năm 1963, quy chế thứ ba được thông qua trong cùng năm. 1968–1990 Cho đến năm 1968, Vojvodina được hưởng một mức độ tự trị hạn chế trong Serbia. Sau cải cách hiến pháp được ban hành vào năm 1968, tỉnh được trao quyền tự trị cao hơn, và tên của tỉnh được đổi thành Tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Vojvodina (). Theo Luật Hiến pháp ngày 21 tháng 2 năm 1969, tỉnh này đạt được quyền tự trị lập pháp, đồng thời bốn ngôn ngữ thiểu số cũng được công nhận (ngoài tiếng Serbia-Croatia) là ngôn ngữ chính thức (Điều 67) trong tỉnh (Magyar, Slovak, Romania, Rusyn). Theo Hiến pháp Nam Tư 1974, tỉnh giành được quyền tự trị cao hơn, xác định Vojvodina (vẫn còn nằm trong Serbia) là một trong những chủ thể của liên bang Nam Tư, đồng thời trao cho tỉnh này quyền biểu quyết tương đương với chính Serbia trong ban chủ tịch tập thể của liên bang. Hiến pháp của tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Vojvodina () được thông qua vào năm 1974, trở thành đạo luật pháp lý cao nhất của tỉnh, thay thế Luật Hiến pháp năm 1969 trước đó. Sau cải cách hiến pháp tại Nam Tư (1988), quá trình dân chủ hóa được bắt đầu. Năm 1989, các sửa đổi Hiến pháp Serbia được thông qua, hạn chế quyền tự trị của Vojvodina. Dưới sự cai trị của tổng thống Serbia Slobodan Milošević, Hiến pháp mới của Serbia được thông qua vào ngày 28 tháng 9 năm 1990, loại bỏ từ xã hội chủ nghĩa khỏi tên chính thức và giảm thêm quyền lợi của các tỉnh tự trị. Sau đó, Vojvodina không còn là chủ thể của liên bang Nam Tư nữa mà chỉ còn là tỉnh tự trị của Serbia với mức độ tự trị hạn chế. Tên của tỉnh cũng được hoàn nguyên thành tỉnh tự trị Vojvodina. Trong toàn bộ thời kỳ từ 1945 đến 1990, đảng chính trị được cấp phép duy nhất trong tỉnh là Liên đoàn Những người cộng sản Vojvodina, là một phần của Liên đoàn Những người cộng sản Serbia và một phần của Liên đoàn Những người cộng sản Nam Tư. Thể chế Các thể chế của tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Vojvodina bao gồm: Ban chủ tịch (Predsedništvo) Cơ quan làm việc của ban chủ tịch (Radna tela predsedništva): Hội đồng phòng thủ nhân dân (Savet za narodnu odbranu) Hội đồng bảo vệ hệ thống hiến pháp (Savet za zaštitu ustavnog poretka) Ủy ban các vấn đề về tổ chức và nhân sự (Komisija za organizaciona i kadrovska pitanja) Ủy ban ân xá (Komisija za pomilovanja) Uỷ ban các ứng dụng và đề xuất (Komisija za predstavke i predloge) Uỷ ban huy chương (Komisija za odlikovanja) Uỷ ban cải cách kinh tế (Komisija za privrednu reformu) Nghị viện (Skupština) Các hội đồng của nghị viện (Veća skupštine): Hội đồng công việc liên quan (Veće udruženog rada) Hội đồng các khu tự quản (Veće opština) Hội đồng chính trị-xã hội (Društveno-političko veće) Các ủy ban cấp tỉnh (Pokrajinski komiteti): **Uỷ ban cấp tỉnh về năng lượng và nguyên liệu (Pokrajinski komitet za energetiku i sirovine) Uỷ ban cấp tỉnh về hợp tác quốc tế (Pokrajinski komitet za međunarodnu saradnju) Uỷ ban cấp tỉnh về giao thông và liên kết (Pokrajinski komitet za saobraćaj i veze) Uỷ ban cấp tỉnh về kinh tế nước (Pokrajinski komitet za vodoprivredu) Uỷ ban cấp tỉnh về giáo dục và văn hoá (Pokrajinski komitet za obrazovanje i kulturu) Uỷ ban cấp tỉnh về công việc (Pokrajinski komitet za rad) Uỷ ban cấp tỉnh về y tế và bảo vệ xã hội (Pokrajinski komitet za zdravlje i socijalnu zaštitu) Uỷ ban cấp tỉnh về vác vấn đề cựu chiến binh và người tàn tật (Pokrajinski komitet za boračka i invalidska pitanja) Uỷ ban cấp tỉnh về các vấn đề đô thị, nhà ở và môi trường nhân sinh (Pokrajinski komitet za urbanizam, stambena pitanja i zaštitu čovekove sredine) Uỷ ban cấp tỉnh về thông tin (Pokrajinski komitet za informacije) Uỷ ban cấp tỉnh về kế hoạch hoá xã hội (Pokrajinski komitet za društveno planiranje) Uỷ ban cấp tỉnh về lập pháp (Pokrajinski komitet za zakonodavstvo) Uỷ ban cấp tỉnh về khoa học và tin học (Pokrajinski komitet za nauku i informatiku) Các hội đồng xã hội cấp tỉnh (Pokrajinski društveni saveti): Uỷ ban xã hội cấp tỉnh về vấn đề điều tiết xã hội (Pokrajinski društveni savet za pitanja društvenog uređenja) Uỷ ban xã hội cấp tỉnh về phát triển kinh tế và chính trị kinh tế (Pokrajinski društveni savet za privredni razvoj i ekonomsku politiku) Uỷ ban xã hội cấp tỉnh về quan hệ đối ngoại (Pokrajinski društveni savet za odnose sa inostranstvom) Chính phủ (Izvršno veće) Các cơ quan quản lý cấp tỉnh (Pokrajinski organi uprave): Bí thư cấp tỉnh về phòng thủ nhân dân (Pokrajinski sekretarijat za narodnu odbranu) Bí thư cấp tỉnh về nội vụ (Pokrajinski sekretarijat za unutrašnje poslove) Bí thư cấp tỉnh về thẩm quyền và quản lý (Pokrajinski sekretarijat za pravosuđe i upravu) Bí thư cấp tỉnh về tài chính (Pokrajinski sekretarijat za finansije) Bí thư cấp tỉnh về công nghiệp, xây dựng, và các hoạt động cấp ba (Pokrajinski sekretarijat za industriju, građevinarstvo i tercijarne delatnosti) Bí thư cấp tỉnh về nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm và công nghiệp gỗ (Pokrajinski sekretarijat za poljoprivredu, prehrambenu industriju i šumarstvo) Bí thư cấp tỉnh về thị trường, giá cả, theo dõi diễn biến kinh tế, và du lịch (Pokrajinski sekretarijat za tržište, cene, praćenje privrednih kretanja i turizam) Các tổ chức hành chính cấp tỉnh (Pokrajinske upravne organizacije): Tổ chức cấp tỉnh về kế hoạch hoá xã hội (Pokrajinski zavod za društveno planiranje) Tổ chức cấp tỉnh về statistics (Pokrajinski zavod za statistiku) Tổ chức cấp tỉnh về hành chính công (Pokrajinski zavod za javnu upravu) Tổ chức cấp tỉnh về hợp tác khoa học, văn hóa, giáo dục và kỹ thuật quốc tế (Pokrajinski zavod za međunarodnu naučnu, kulturnu, prosvetnu i tehničku saradnju) Tổ chức cấp tỉnh về khí tượng thuỷ văn (Pokrajinski hidrometeorološki zavod) Tổ chức cấp tỉnh về nhân sự (Pokrajinski zavod za kadrovske poslove) Tổ chức cấp tỉnh về giá cả và giám sát phát triển kinh tế (Pokrajinski zavod za cene i praćenje privrednih kretanja) Cơ quan quản lý cấp tỉnh về các vấn đề trắc địa và tài sản-tư pháp (Pokrajinska uprava za geodetske i imovinsko-pravne poslove) Cơ quan quản lý ngân sách (Uprava za budžet) Cơ quan quản lý cấp tỉnh về lợi ích xã hội (Pokrajinska uprava društvenih prihoda) Ban giám đốc cấp tỉnh về dự trữ (Pokrajinska direkcija za robne rezerve) Dịch vụ tổng hợp và công tác liên tịch của các cơ quan cấp tỉnh (Službe za opšte i zajedničke poslove pokrajinskih organa) Các cơ quan tư pháp của tỉnh tự trị XHCN Vojvodina (Pravosudni organi SAP Vojvodine): Toà án hiến pháp Vojvodina (Ustavni sud Vojvodine) Toà án tối cao Vojvodina (Vrhovni sud Vojvodine) Viện kiểm sát công cộng của tỉnh tự trị XHCN Vojvodina (Javno tužilaštvo SAP Vojvodine) Cơ quan bảo vệ pháp lý công cộng tỉnh tự trị XHCN Vojvodina (Javno pravobranilaštvo SAP Vojvodine) Cơ quan bảo vệ quyền tự chủ tư pháp xã hội cấp tỉnh (Pokrajinski društveni pravobranilac samoupravljanja) Tòa án của công việc hợp tác (Sud udruženog rada) Chủ tịch Các chủ tịch của tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Vojvodina: Radovan Vlajković (1974–1981) Predrag Vladisavljević (1981–1982) Danilo Kekić (1982–1983) Đorđe Radosavljević (1983–1984) Nandor Major (1984–1985) Predrag Vladisavljević (1985–1986) Đorđe Radosavljević (1986–1988) Nandor Major (1988–1989) Jugoslav Kostić (1989–1991) Nhân khẩu Điều tra nhân khẩu 1948 Điều tra nhân khẩu 1953 Điều tra nhân khẩu 1961 Theo điều tra nhân khẩu năm 1981, dân số của tỉnh bao gồm: Người Serb = 1.107.375 (54.4%) Người Hungary = 385.356 (18,9%) Người Croat = 119.157 (5,9%) Người Slovak = 69.549 (3,4%) Người Romania = 47.289 (2,3%) Người Montenegro = 43.304 (2,1%) Người Rusyn và Ukraina = 24.306 (1,2%) Khác = 238.436 (11,8%) Xem thêm Vojvodina Lịch sử Vojvodina Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Serbia Tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Kosovo Các vụ sát hại 1944–1945 tại Vojvodina Tham khảo Nguồn Liên kết ngoài Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư Phân khu Nam Tư Khởi đầu năm 1945 ở Nam Tư Chấm dứt năm 1990 ở châu Âu Serbia thế kỷ 20 Phân cấp hành chính Serbia Phân khu Nam Tư
19822513
https://vi.wikipedia.org/wiki/Giai%20%C4%91o%E1%BA%A1n%20v%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20v%C3%A0%20v%C3%B2ng%20play-off%20UEFA%20Europa%20League%202023-24
Giai đoạn vòng loại và vòng play-off UEFA Europa League 2023-24
Giai đoạn vòng loại và vòng play-off UEFA Europa League 2023–24 bắt đầu vào ngày 8 tháng 8 và kết thúc vào ngày 31 tháng 8 năm 2023. Có tổng cộng 27 đội thi đấu ở hệ thống vòng loại bao gồm giai đoạn vòng loại và vòng play-off. 10 đội thắng ở vòng play-off tiến vào vòng bảng, để cùng với 12 đội tham dự vào vòng bảng, 6 đội thua của của vòng play-off Champions League (4 đội từ Nhóm các đội vô địch và 2 đội từ Nhóm các đội không vô địch) và 4 đội thua thuộc Nhóm các đội không vô địch của vòng loại thứ ba Champions League. Thời gian là CEST (UTC+2), như được liệt kê bởi UEFA (giờ địa phương, nếu khác nhau thì nằm trong ngoặc đơn). Vòng loại thứ ba Lễ bốc thăm cho vòng loại thứ ba được tổ chức vào ngày 24 tháng 7 năm 2023. Tóm tắt Các trận lượt đi được diễn ra vào ngày 8 và 10 tháng 8, các trận lượt về được diễn ra vào ngày 17 tháng 8 năm 2023. Đội thắng của các cặp đấu đi tiếp vào vòng play-off. Đội thua được chuyển qua vòng play-off Europa Conference League thuộc nhóm tương ứng của họ. |+Nhóm các đội vô địch |} |+Nhóm chính |} Nhóm các đội vô địch BK Häcken thắng với tổng tỷ số 8–1. Qarabağ thắng với tổng tỷ số 4–2. Zrinjski Mostar thắng với tổng tỷ số 6–3. Sheriff Tiraspol thắng với tổng tỷ số 7–3. Ludogorets Razgrad thắng với tổng tỷ số 6–3. Nhóm chính Olympiacos thắng với tổng tỷ số 2–1. Slavia Prague thắng với tổng tỷ số 4–1. Vòng play-off Lễ bốc thăm cho vòng play-off được tổ chức vào ngày 7 tháng 8 năm 2023. Tóm tắt Các trận lượt đi được diễn ra vào ngày 24 tháng 8, các trận lượt về được diễn ra vào ngày 31 tháng 8 năm 2023. Đội thắng của các cặp đấu đi tiếp vào vòng bảng. Đội thua được chuyển qua vòng bảng Europa Conference League. |} Ghi chú Tham khảo Liên kết ngoài
19822521
https://vi.wikipedia.org/wiki/Get%20Blake%21%20%28phim%29
Get Blake! (phim)
Get Blake! là một bộ phim hoạt hình do Antonie Guilbaud tạo ra và được sản xuất bởi Marathon Media và hãng Nickelodeon (Nickelodeon Productions). Bộ phim này được phát sóng trên cả 2 đài: Gulli và Nickelodeon ở Pháp. Theo Marathon Media, bộ phim này là loạt phim hài rộng rãi đầu tiên sau nhiều năm thực hiện những pha hành động nhẹ nhàng như "Totally Spies!" hoặc "Martin Mystery". Get Blake! đã kết thúc vào ngày 29 tháng 10 năm 2015, với tổng cộng 26 tập. Tóm tắt Loạt phim theo chân Blake Myers, một cậu bé tuổi teen thích phiêu lưu, người được định sẵn một ngày sẽ bảo vệ loài người khỏi những con sóc ngoài hành tinh được gọi là "Squaliens". Tuy nhiên, các Squalien đã được gửi ngược thời gian để ngăn Blake hoàn thành sứ mệnh này. Nhân vật Blake Myers (đóng bởi Robbie Daymond) - một cậu bé 13 tuổi mơ ước trở thành một nhân viên kiểm lâm không gian. Cậu thành thạo trò chơi parkour giúp thoát khỏi Squaliens. Cậu có sự đồng cảm mạnh mẽ với Leonard. Mitch de la Cruz (đóng bởi Spike Spencer) - là người Mỹ gốc México, đồng thời cũng là người bạn thân nhất của Blake, người không trân trọng gì hơn tình bạn của họ và luôn ghen tị mỗi khi sự chú ý của Blake chuyển hướng sang người khác. Maxus (đóng bởi John T. Fisher) - người hách dịch nhất và lùn nhất trong bộ ba Squalien, anh trai của Jerome và cháu trai của Tướng quân. Jerome (đóng bởi Danny Katiana) - Kẻ ngu dốt nhất của bộ ba Squalien, anh trai của Maxus và là cháu trai của Tướng quân. Leonard (đóng bởi Kevin Glikmann) - Nhà lãnh đạo thiên tài và tự bổ nhiệm của bộ ba Squalien. Hắn ta luôn là người phát minh ra các tiện ích cần thiết cho nhiệm vụ của họ. Squalien General (đóng bởi Kevin Glikmann) - Chỉ huy của Squaliens, người đã gửi Leonard, Jerome và Maxus từ tương lai để bắt Blake. Là chú của Maxus và Jerome, hắn chủ yếu đứng về phía họ và nghi ngờ Leonard. Zorka - Nhà thầu thường trú và cũng là người giám hộ của Roy. Skye Gunderson (đóng bởi Katie Leigh) - Hàng xóm của Blake cũng như người yêu của anh ấy. Cô cũng tình nguyện làm y tá nha khoa giúp cha mình. Roy Cronk (đóng bởi Faruq Tauheed) - Người hàng xóm cáu kỉnh nhất mà Blake và Mitch thường xuyên nổi cáu. Dale Myers (đóng bởi Derek Dressler) - Cha của Blake, đồng thời là người đồng sở hữu công ty kinh doanh du lịch của gia đình, "Let's Travel!". Darla Myers (đóng bởi Tarah Consoli) - Mẹ của Blake, và đồng sở hữu của "Let's Travel!". Rodrigo de la Cruz - Cha của Mitch, đồng thời cũng là một nhà phát minh lành nghề. Carmen de la Cruz (đóng bởi Yeni Álvarez) - Mẹ của Mitch, người tổ chức các bữa tiệc của thị trấn. Tiến sĩ Björn Gunderson - Cha của Skye, là nha sĩ nội trú và giống như cô ấy, ông cũng có răng thưa. Isabelle Gunderson - mẹ của Skye. Sunshine Gunderson - Em gái của Skye. Fast Eddy - Thú cưng của Zorka, luôn bảo vệ bãi cỏ của anh ấy. Phát tin Get Blake! ban đầu sẽ được công chiếu trên Nickelodeon ở Hoa Kỳ vào tháng 4 năm 2015, nhưng thay vào đó, nó đã bắt đầu phát sóng trên vào ngày 20 tháng 4 năm 2016. Ở Ả Rập, nó đang được phát sóng trên cả Nickelodeon và Nicktoons. Nó cũng được phát sóng trên ABC Me ở Úc. Chiếu tại Việt Nam Tại Việt Nam, phim được chiếu trên kênh SAM - BTV11 với tên "Blake và người ngoài hành tinh (?)". Chú thích https://www.hollywoodreporter.com/tv/tv-news/frances-marathon-teams-nickelodeon-blake-373788 https://www.marathon-media.fr/get-blake-2 https://www.awn.com/news/zodiak-kids-launches-get-blake https://www.zodiakmedia.com/press_detail.php?id=679 Tham khảo Liên kết ngoài Get Blake! trên IMDb Phim hoạt hình Khoa học viễn tưởng