source
stringlengths
3
14.5k
summary keyword
stringlengths
3
90
summary
stringlengths
265
1.86k
Chiều 8/4, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì Hội nghị công bố quyết định của Bộ Chính trị về phân công Trưởng Ban Tổ chức Trung ương và Ban Dân vận Trung ương. Thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trao quyết định phân công bà Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Dân vận Trung ương giữ chức Trưởng Ban Tổ chức Trung ương; phân công bà Bùi Thị Minh Hoài, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương giữ chức Trưởng Ban Dân vận Trung ương. Bà Trương Thị Mai, sinh ngày 23/1/1958, quê quán xã Hiền Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bà là thạc sĩ Hành chính công, cử nhân Sử, cử nhân Luật, trình độ cử nhân Lý luận chính trị. Tháng 8/1994, bà Trương Thị Mai là Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, đến năm 1998 là Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam. Từ năm 2002, bà là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội. Tháng 1/2016, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, bà Trương Thị Mai được bầu là Ủy viên Trung ương Đảng. Tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, bà được bầu vào Bộ Chính trị khoá XII. Tháng 2/2016, bà Mai được Bộ Chính trị phân công tham gia Ban Bí thư Trung ương Đảng; giữ chức vụ Trưởng Ban Dân vận Trung ương. Ngày 30/1/2021, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, bà Trương Thị Mai được bầu là Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII, nhiệm kỳ 2021-2026. Tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, bà được bầu vào Bộ Chính trị khoá XIII. Bà Bùi Thị Minh Hoài, sinh năm 1965, quê quán xã Thanh Tân, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Bà là Ủy viên Trung ương Đảng: Khóa X (dự khuyết), XI, XII, XIII; Bí thư Trung ương Đảng khóa XIII; Phó Chủ nhiệm Thường trực Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Từ tháng 4/2006, bà là Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng khóa X; Trưởng ban Dân vận Tỉnh ủy Hà Nam; rồi Bí thư Thành ủy Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Tháng 12/2008, bà là Phó Chủ tịch rồi Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nông dân Việt Nam. Từ tháng 1/2011, bà Bùi Thị Minh Hoài giữ chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Tính đến thời điểm 16 giờ ngày 25/9, trên địa bàn cả nước xảy ra ít nhất 3 vụ TNGT khiến 1 người thiệt mạng cùng nhiều phương tiện hư hỏng. 5 Đã có nguyên nhân của vụ xô xát giữa người dân, lực lượng lấy mẫu ở TP.HCM
Bùi Thị Minh Hoài
Bùi Thị Minh Hoài (sinh ngày 12 tháng 1 năm 1965) là một quan chức cấp cao của Việt Nam. Bà hiện là Bí thư Trung ương Đảng khóa XIII, Trưởng Ban Dân vận Trung ương, Ủy viên Ban chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch COVID-19, Đại biểu Quốc hội khóa XV Tỉnh Đắk Lắk. Quê quán của bà ở xã Thanh Tân, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. - Từ tháng 5/2018 - 1/2021: Ủy viên Trung ương Đảng khóa XII, Phó Chủ nhiệm Thường trực Ủy ban Kiểm tra Trung ương. - Ngày 30 tháng 01 năm 2021, tại phiên bầu cử Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, bà được bầu làm Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XIII. Ngày 31, tại phiên họp đầu tiên của Trung ương Đảng khóa XIII, bà được bầu làm Bí thư Trung ương Đảng khóa XIII. - Ngày 8 tháng 04 năm 2021, tại Quyết định số 39-QĐNS/TW, Bộ Chính trị phân công bà Bùi Thị Minh Hoài, Bí thư Trung ương Đảng, giữ chức Trưởng ban Dân vận Trung ương.- Tháng 6 năm 2021: Hội đồng bầu cử Quốc gia công bố trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV tỉnh Đắk Lắk.- Ngày 25 tháng 8 năm 2021, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký Quyết định số 1438/QĐ-TTg, bổ nhiệm bà Bùi Thị Minh Hoài làm Trưởng Tiểu ban Dân vận, Ủy viên Ban chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch COVID-19.
Bất động sản là gì không khó để giải đáp, hiểu rõ ràng, đó chính là cách viết tắt của bất động sản. Mỗi người có cách kiếm tiền bằng bất động sản khác nhau tùy vào kỹ năng hay cách thức của họ, từ đó làm tăng lên giá trị cho việc mua bán bất động sản. Trong bài viết này, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về những giá trị đó thông qua việc tìm hiểu khái niệm Bđs là gì cũng như những đặc điểm cơ bản nhất của nó nhé. Có rất nhiều cách định nghĩa về Bđs, chúng ta có thể dựa vào những định nghĩa chính thống được lấy từ các trang web uy tín mà chúng tôi gửi tới các bạn trong nội dung dưới đây. “Bất động sản hay còn gọi là địa ốc hay nhà đất là một thuật ngữ pháp luật (ở một số nước như Liên hiệp Anh, Canada, Úc, Mỹ và Bahama) có ý nghĩa bao gồm đất đai và những gì dính liền vĩnh viễn với mảnh đất. Những thứ được xem là dính liền vĩnh viễn như là nhà cửa, ga ra, kiến trúc ở trên hoặc dầu khí, mỏ khoáng chất ở dưới mảnh đất đó. Những thứ có thể dỡ ra khỏi mảnh đất như nhà di động, lều, nhà tạm thì không được xem là bất động sản”. Cũng tại đây, khái niệm bất động sản (Real Estate, Real Property) được phân biệt rõ ràng với từ động sản (Personal Property). Những người sở hữu bất động sản sẽ được hưởng mọi quyền đối với bất động sản đó bao gồm sử dụng, cho thuê, mua bán, làm quà, ký quỹ,. cho những người khác, hoặc cũng có thể để yên bất động sản đó cho riêng mình. Bất động sản gắn liền mật thiết với tài chính và vốn. Đây là những gì được Wikipedia định nghĩa, cho bạn hiểu rõ về khái niệm bất động sản là gì. Tuy nhiên, với những khái niệm “nôm na” và đầy đủ ý nghĩa được đưa ra dưới đây chắc chắn sẽ dễ dàng đi vào tư duy của các bạn hơn. Vậy hãy tham khảo thêm một cách hiểu đơn giản nữa về khái niệm bất động sản nhé. Khi phân loại tài sản, người ta phân chia rõ ràng làm hai loại, đó là bất động sản và động sản. Trong đó, khái niệm bất động sản ngoài việc bao hàm cả giá trị đất đai, của cải thì nó còn chỉ toàn bộ những tài sản được làm ra từ chính sức lao động của con người. Như vậy, có thể thấy bất động sản ở đây còn bao gồm cả các công trình xây dựng, cây trồng hay mùa màng,. Mặc dù trên thế giới, pháp luật của các quốc gia đều thống nhất khái niệm Bất động sản ở chỗ nó bao gồm đất đau cùng những tài sản gắn liền với đất đai. Thế nhưng, về cụ thể thì mỗi nước lại đưa ra những khái niệm riêng về bất động sản mang tính đặc thù, thể hiện rõ quan điểm về việc phân loại và các tiêu chí phân loại bất động sản. Dựa vào các điều luật đến từ các nước như Điều 86 Luật Dân sự Nhật Bản, Điều 517 và 518 của Luật Dân sự Cộng Hòa Pháp, Điều 94 và 96 của Luật Dân sự Cộng Hòa Liên Bang Đức, Điều 130 Luật Dân sự Cộng hòa Liên bang Nga,. đều quy định rằng Bất động sản là tài sản cố định, không tách rời đất đai. Bất động sản được xác định theo vị trí của đất. Nhưng, với Liên Bang Nga thì quy định rằng, bất động sản ở đây chính là mảnh đất không phải là đất đai nói chung. Hiểu theo như vậy là điều hợp lý bởi vì đất đai nói chung chỉ bộ phận lãnh thổ, không phải là đối tượng để thực hiện việc giao dịch dân sự. Từ khái niệm đã đưa ra, mặc dù có nói bất động sản còn bao gồm những tài sản gắn liền với đất đai thế nhưng mỗi quốc gia sẽ có cách nhìn nhận khác nhau về tài sản đó. Điển hình như các điều luật được đưa ra ở các nước Pháp (Điều 520 Luật Dân sự), Nhật Bản, Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ và Sài Gòn cũ quy định rằng “mùa màng chưa gặt, trái cây chưa bứt khỏi cây là BĐS, nếu đã bứt khỏi cây được coi là động sản”. Trái lại, theo điều 100 Luật Dân sự của đất nước Thái Lan có quy định: “BĐS là đất đai và những vật gắn liền với đất đai, bao gồm cả những quyền gắn với việc sở hữu đất đai”. Còn Luật Dân sự Đức lại quy định rằng Bất động sản gồm đất đai và những tài sản gắn liền với đất. Năm 1994, Luật Dân sự của Nga đã đưa ra những quy định mới, khác biệt so với khái niệm truyền thống. Tại điều 130 đưa thêm khái niệm chung về bất động sản: “những đối tượng mà dịch chuyển sẽ làm tổn hại đến giá trị của chúng” và đưa cả những yếu tố không hề liên quan đến đất đai cũng là bất động sản như máy bay, tàu biển, phương tiện vũ trụ,. Còn trong Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ban hành năm 2005, tại Điều 174 có quy định cụ thể như sau: “BĐS là các tài sản bao gồm: Đất đai; Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó; Các tài sản khác gắn liền với đất đai; Các tài sản khác do pháp luật quy định”. Dựa vào những phân tích trên chúng ta có thể thấy được rằng, bất động sản là một khái niệm rất rộng lớn và đa dạng. Nó cần được quy định rõ ràng bằng pháp luật, tùy vào mỗi quốc gia sẽ quy định đâu là tài sản thuộc bất động sản và không phải bất động sản. Bất động sản nhà đất: Đây là nhóm bất động sản cơ bản, chiếm tỷ trọng lớn nhất nhưng có tính phức tạp cao, gồm đất đai và tài sản gắn với đất đai. - Bất động sản không đầu tư xây dựng: trong loại bất động sản này sẽ bao gồm đất chưa sử dụng, đất hiếm, đất nông nghiệp, đất làm muối, đất nuôi trồng thủy sản,. - Bất động sản đặc biệt: gồm những công trình là di sản văn hóa vật thể, đình chùa miếu mạo, nhà thờ, các công trình bảo tồn quốc gia,. Sở dĩ bất động sản mang đặc điểm này là do xuất phát từ tính chất khan hiếm và cá biệt của đất. Tính khan hiếm của đất chính là sự giới hạn của đất về mặt diện tích, khu vực, lãnh thổ,. Do bất động sản có tính khan hiếm, và cố định, không di dời được cho nên dẫn đến đất đai trở thành thứ hàng hóa mang tính cá biệt. Vậy tính chất này được thể hiện như thế nào? Không chỉ đơn giản ở việc đi tìm khái niệm bất động sản là gì nữa mà chúng ta còn tìm thấy cả đặc điểm của chúng thông qua những biểu hiện cụ thể. Điển hình đó là tính khan hiếm, cá biệt đang được nhắc tới ở đây. Để hình dung rõ nhất về tính chất này, chúng ta có thể dựa vào các ví dụ, dẫn chứng thiết thực có trong thực tế. Chẳng hạn như, cùng nằm trong một khu vực, thậm chí đó là hai bất động sản được đặt cạnh nhau thì chúng cũng đều chứa đựng những yếu tố hoàn toàn khác nhau. Chính vì thế mà dù có được đặt cạnh nhau và có chung một kiểu thiết kế đi chăng nữa thì những công trình bất động sản này cũng sẽ mang tính cá biệt, không cái nào giống với cái nào, ít nhất là chúng có vị trí không gian khác nhau. Hơn nữa, tính cá biệt cũng là một đặc điểm mà các nhà đầu tư khá là quan tâm vì chính đặc điểm này là chiếc chìa khóa giúp cho bất động sản trở nên hấp dẫn hơn trong mắt của khách hàng, có thể đáp ứng được sở thích cá nhân của họ. Sở dĩ bất động sản có đặc điểm này là do đất đai là “vật phẩm” được thiên nhiên ban tặng, là nguồn tài nguyên quý giá và không bao giờ có thể hủy hoại được. Nhất là khi các công trình, kiến trúc nếu được xây dựng trên nền đất đai thì có thể mang giá trị tồn tại lâu bền hàng trăm năm khi được tu tạo, nâng cấp cẩn thận. Qua đây có thể thấy, tính chất bền lâu của bất động sản mang ý nghĩa chỉ tuổi thọ của công trình xây dựng và vật kiến trúc. Tuổi thọ của bất động sản có hai kiểu, đó là tuổi thọ vật lý và tuổi thọ kinh tế. Nếu là tuổi thọ kinh tế thì sức sống của bất động sản sẽ ngắn ngủi hơn và nó có thể chấm dứt ngau trong điều kiện thị trường hoạt động bình thường, mang đến giá trị kinh tế chỉ ngang bằng với lợi ích do bất động sản tạo ra. Trong khi đó, tuổi thọ vật lý thì dài hơn và mang đến những giá trị kinh tế nhiều hơn bởi lẽ nó chỉ chấm dứt khi công trình và vật kiến trúc có kết cấu chịu lực đã bị hư hỏng, lão hóa. Theo nghiên cứu, ước tính trung bình, bất động sản của nhà ở, khách sạn. sẽ từ 40 năm tuổi thọ. Còn các công trình như nhà xưởng, nhà ở phổ thông sẽ có tuổi thọ trên 45 năm. Tính chất lâu bền của bất động sản quy định hàng hóa bất động sản mang đặc điểm đa dạng, phong phú, không bao giờ vơi cạn, có thể dùng vào nhiều mục đích khác nhau. Hiện nay việc làm bất động sản được rất nhiều nhà tuyển dụng uy tín tìm kiếm ứng viên, nếu bạn yêu thích công việc này thì hãy gửi một bản CV chuyên nghiệp đến cho nhà tuyển dụng mà bạn mong muốn. Sau khi nắm được khái niệm bđs là gì thì ắt bạn sẽ đoán được bất động sản sẽ có tính chất này – chịu sự ảnh hưởng lẫn nhau. Thậm chí đó còn là sức ảnh hưởng rất lớn. giá trị của bất động sản này có thể sẽ chịu sự tác động rõ rệt của bất động sản khác, chẳng hạn như khi Nhà nước xây dựng những công trình hạ tầng thì đương nhiên nó làm gia tăng vẻ đẹp, nâng cao hơn nữa giá trị sử dụng của các bất động sản khác ở trong khu vực đó. Nói một cách khác, các bất động sản có giá trị làm tôn lên vẻ đẹp, sự hấp dẫn cho nhau. Ngoài 3 tính chất trên, bất động sản còn có những tính chất khác như tính thích ứng, tính phụ thuộc vào năng lực quản lý, tính tập quán và mang nặng tư tưởng tâm lý xã hội. Bất động sản ngày nay là một lĩnh vực ngành nghề không thể nào “hấp dẫn hơn”. Thực tế chứng mimh nhiều doanh nghiệp chuyên cung cấp về dịch vụ môi giới nhà đất luôn có nhu cầu tuyển dụng nhân viên kinh doanh bất động sản. Chính vì vậy, nếu bạn muốn tim viec và trở thành những nhân viên kinh doanh bất động sản có thể kiếm đến hàng chục triệu/ tháng trong tương lai, ngay giờ đây, hãy truy cập đến website của chúng tôi - Timviec365.vn. Là một trong những trang web hàng đầu về uy tín và chất lượng, sứ mệnh của chúng tôi là giúp đỡ các ứng viên gặp khó khăn trong quá trình tìm việc. Chỉ cần bạn đăng ký tài khoản thành viên, tạo lập và cung cấp các thông tin cần thiết để hoàn thành hồ sơ ứng viên. Bạn đã có thể tham khảo tất cả các thông tin tuyển dụng Hải Dương mới nhất và các tỉnh thành khác với việc làm kinh doanh bất động sản trên toàn quốc. Tất cả những trải nghiệm của bạn đều được cho phép hoàn toàn miễn phí, kể cả việc nộp hồ sơ trực tiếp qua website. Cơ hội việc làm bất động sản tại Hồ Chí Minh thu nhập hấp dẫn dành cho ứng viên tìm việc. Như vậy, qua bài viết này, chúng tôi đã cung cấp cho bạn những hiểu biết căn bản nhất về khái niệm bất động sản là gì và những đặc điểm cơ bản của nó. Hy vọng, nếu có ý định theo đuổi việc làm trong ngành bất động sản thì nội dung trên đây sẽ là nguồn tư liệu có giá trị dành cho bạn.
Bất động sản
Bất động sản hay còn gọi là địa ốc hay nhà đất là một thuật ngữ pháp luật (ở một số nước như Liên hiệp Anh, Canada, Úc, Mỹ và Bahama) có ý nghĩa bao gồm đất đai và những gì dính liền vĩnh viễn với mảnh đất. Những thứ được xem là dính liền vĩnh viễn như là nhà cửa, ga ra, kiến trúc ở trên hoặc dầu khí, mỏ khoáng chất ở dưới mảnh đất đó. Những thứ có thể dỡ ra khỏi mảnh đất như nhà di động,lều, nhà tạm thì không được xem là bất động sản. Bất động sản ("real estate" hay "real property") có nghĩa ngược với động sản ("personal property"). Người sở hữu bất động sản được phép sử dụng, mua bán, cho thuê, làm quà tặng, dùng để ký quỹ, để di chúc lại cho người được thừa hưởng, hoặc để yên bất động sản của mình. Thị trường bất động sản có liên hệ mật thiết với thị trường vốn, thị trường tài chính.
Theo lịch sử Whig , các xã hội tất yếu tiến bộ, trở nên tự do hơn và được khai sáng bởi lý trí. Điều này có nghĩa là hiện đại là đỉnh cao của những phát triển trước đó hoặc ít nhất là khoa học, công nghiệp, chủ nghĩa tư bản và dân chủ là những cải tiến rõ ràng của các chế độ thời trung cổ và cổ đại, và lịch sử bằng cách nào đó đã được hướng dẫn để thực hiện mục đích này. Lời giải thích đơn giản nhất về sự tiến bộ đó là chúng ta là tác nhân của nó: chúng ta là những sinh vật tự nhận thức về quá khứ và cố gắng khắc phục các vấn đề cho thế hệ tương lai. Vậy thì, chủ nghĩa trẻ sơ sinh hiện đại sẽ phù hợp với bức tranh vui vẻ này ở đâu? Tại sao văn hóa đại chúng của Mỹ, đặc biệt, ánh sáng hàng đầu của quá trình hiện đại hóa, lại là trẻ sơ sinh? Nó chỉ ra rằng sự suy thoái nghiêm trọng của xã hội này là bằng chứng cho sự tiến bộ của thời Khai sáng, nhưng chống lại sự tự phụ viễn vông rằng sự tiến bộ là không thể tránh khỏi. Hãy xem xét các bước của lập luận này, bắt đầu bằng lời nhắc nhở về nhiều cách mà chúng ta những người trưởng thành siêu hiện đại là trẻ con; sau đó, đến sự xấu hổ của sự giàu có. Nói đến xu hướng trẻ sơ sinh trong văn hóa tiêu dùng, điều tối thiểu là phải lo lắng rằng chúng ta không tiến bộ về mặt xã hội để theo kịp tốc độ của những tiến bộ công nghệ. Thật vậy, vì lý do kinh tế, thế hệ Millennials và thế hệ Z đã bị buộc vào một tình trạng khó khăn trẻ con, bởi vì tầng lớp trung lưu Mỹ phần lớn đã biến mất. Nhờ sự phá sản của công đoàn và phần còn lại của các doanh nghiệp lớn chống lại lao động trong những năm 1980, tăng trưởng GDP của Mỹ và sự gia tăng năng suất của người lao động không kéo dài với sự gia tăng thu nhập của người lao động trung bình. Một phần trăm hàng đầu, và đặc biệt là một phần trăm phần trăm những người có thu nhập cao nhất ở Hoa Kỳ đã bòn rút phần lớn lợi nhuận từ sự tăng trưởng quốc gia đó. (Xem hai phút trong video này về When More is Not Better của Roger Martin , trình bày biểu đồ của sự bất bình đẳng từ Cơ sở dữ liệu về Bất bình đẳng Thế giới.). Kết quả là, các thế hệ trẻ không độc lập như vậy và cha mẹ của họ đã phản ứng bằng cách dạy dỗ những người trẻ kém may mắn này và duy trì một ảo tưởng cho giới tinh hoa ven biển. Đây là điều tưởng tượng rằng các vấn đề hệ thống có thể được bỏ qua một cách an toàn miễn là chúng ta có “không gian an toàn”, nơi chúng ta có thể giả vờ mọi thứ đều ổn và có thể kiểm duyệt hoặc “hủy bỏ” những giọng nói khó chịu làm đảo lộn trạng thái phủ nhận Thiền của chúng ta, sửa chữa những “vi phạm” nhỏ nhặt hoặc sai lệch so với quy tắc về tính đúng đắn chính trị. Ngoài ra, mạng xã hội là phương thức giao tiếp dành cho trẻ nhỏ , vì chúng ta cảm thấy như trẻ con khi giới hạn suy nghĩ của mình trong các cụm từ ngắn trong nhắn tin, Twitter, email hoặc bằng cách “thích” trên Facebook hoặc YouTube. Donald Trump phù hợp là linh vật chính của Twitter. Thật vậy, việc người Mỹ bầu chọn một người có lòng tự ái công khai vào Nhà Trắng giống như một sự thừa nhận vô thức rằng văn hóa Mỹ quá non nớt đến mức nó xứng đáng được đại diện bởi một đứa trẻ trưởng thành ngông cuồng như vậy. Neil Postman và Theodore Roszak đã có ý tưởng đúng khi họ nói rằng chúng ta sống theo môi trường công nghệ cao mà chúng ta tạo ra. Chúng ta cạnh tranh với những chiếc máy tính hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nhất định, nhưng lại đáng thương ở những người khác, vì vậy chúng ta lại trở nên đáng thương. Khi đó, sự giao tiếp của chúng ta trở nên non trẻ, khi những cỗ máy chống xã hội hay chống đối xã hội và các tập đoàn độc quyền thiết lập các tiêu chuẩn cho sự tương tác của chúng ta. Internet cũng góp phần vào vòng xoáy đi xuống này, khi số hóa và dân chủ hóa thông tin làm cho các sáng tạo kỹ thuật số của chúng ta - các bài báo, bài thơ, tiểu thuyết, bản vẽ, phim, bài hát - dùng một lần . Do đó, người sáng tạo nội dung có thể dành ít công sức hơn cho công việc của họ, dù biết rằng nó sẽ sớm lỗi thời và bị cuốn trôi trong dòng nội dung tầm thường. Ngoài ra, nhờ vào khoa học nhận thức và trao quyền cho công nghệ, chúng ta có thể thao túng lẫn nhau thành thạo hơn, như trong trường hợp “ nhạc ăn khách ” chiếm đoạt các tính năng của não chúng ta bằng “móc câu”, trong trường hợp đó người hâm mộ trở thành con rối hoặc nô lệ theo mốt và thuật toán. Tương tự như vậy, phụ nữ sử dụng đồ trang điểm và các sản phẩm làm đẹp khác để tạo khuôn mặt trẻ thơ cho chính mình, nhằm chiếm đoạt bản năng bảo vệ trẻ sơ sinh của chúng ta. Tương tự như vậy, đàn ông cạo lông trên cơ thể để thu hút phụ nữ bằng cách làm cho mình “dễ thương” như trẻ sơ sinh, khai thác bản năng làm mẹ. Thử thách ăn uống và các cuộc thi ăn uống trong đó những người ăn cố gắng ăn càng nhiều càng tốt là trò trẻ con vì những thí sinh này đang bắt chước một cách hiệu quả những đứa trẻ vô kỷ luật, háu ăn, những người vui vẻ tự ăn thành sững sờ hoặc ăn xin càng nhiều món ăn yêu thích của họ và phải cưỡng bức từ chối đối tượng của sự thèm muốn của họ. Ngành công nghiệp hỗ trợ bản thân, trị liệu đại chúng là non trẻ trong việc đưa ra những lời khuyên hữu ích về cách hạnh phúc và cách tìm thấy ý nghĩa cuộc sống bằng cách thể hiện thay vì làm chủ bản thân. Đây là cách tiếp cận của nhà tâm lý học nhân văn Carl Rogers , người đã đưa ra lý thuyết rằng con người có thể bị thu hẹp thành những sinh vật chủ yếu tìm kiếm sự tự hiện thực hóa. Rogers vì vậy phản đối cảnh báo của Freud rằng có thể cần một số hình thức đàn áp hoặc kỷ luật để ổn định xã hội. Các ví dụ rõ ràng khác là mốt ASMR trên YouTube, trong đó chúng tôi sử dụng trí tuệ của mình và phân vùng. Và sự chú ý ngắn của số đông không đọc sách, thích xem các video ngắn trên YouTube hoặc TikTok hoặc đọc các bài báo ngắn gọn, mang tính trấn an trên những nơi như Trung bình, với các đoạn nhỏ như những đoạn tôi buộc phải viết đây. Và đừng quên mặt trái của sự tiện lợi của kinh doanh trực tuyến, nơi chúng ta có thể đặt hàng trên internet và giao hàng cho chúng ta mà không cần phải rời ghế: chúng ta dường như đang rèn luyện bản thân để trở nên lười biếng, thiếu kiên nhẫn và bồng bột. , để yêu cầu câu trả lời dễ dàng và các bản sửa lỗi nhanh chóng, và than vãn khi chúng tôi không hiểu ý mình - như trẻ em. Vô sinh hóa xã hội phần lớn là một vấn đề của Thế giới thứ nhất và là một chức năng của chủ nghĩa tiêu dùng và sự phụ thuộc quá mức của chúng ta vào công nghệ. Tuy nhiên, chính xác hơn, đây chủ yếu là hiện tượng của người Mỹ hay đúng hơn là do người Mỹ lãnh đạo vì sức mạnh của văn hóa Mỹ tác động đến nền độc canh toàn cầu của Thế giới thứ nhất. Văn hóa đại chúng của Mỹ - không phải mọi nền văn hóa con mà là khuôn mẫu của các xu hướng thống trị - còn non trẻ vì sự nổi bật của công nghệ kỹ thuật số và chủ nghĩa tiêu dùng ở quốc gia đó. Chủ nghĩa tiêu dùng như một tập hợp các giá trị vật chất, thiển cận phát triển mạnh mẽ ở đó bởi vì Hoa Kỳ theo chủ nghĩa cá nhân về mặt xã hội và là nước khuyến khích hàng đầu cho quyền tự do cá nhân gần như vô điều kiện. Các quốc gia khác cũng theo chủ nghĩa vật chất, chẳng hạn như Trung Quốc, nhưng phương Đông kiểm tra tính tham lam và thôi thúc ích kỷ của người dân bằng các tiêu chuẩn và huyền thoại thực dụng, chủ nghĩa tập thể. Trẻ sơ sinh không có vấn đề gì khi trở thành trung tâm của sự chú ý vì chúng không có siêu phàm, không có cảm giác trang trí. Họ là những người tự ái bởi tất yếu. Những người trưởng thành ở tuổi trẻ sơ sinh cũng tự buông thả, vì vậy rõ ràng chủ nghĩa trẻ sơ sinh có văn hóa phát triển mạnh mẽ trong một xã hội theo chủ nghĩa cá nhân hơn là trong một xã hội chủ nghĩa tập thể. Hơn nữa, các quốc gia thuộc Thế giới Cũ có ý thức sâu sắc hơn, khiêm tốn hơn về thời gian sâu sắc, vì lịch sử của họ thường kéo dài trở lại thế giới cổ đại. Hoa Kỳ là một quốc gia tương đối trẻ, và người Mỹ thậm chí không thể tự hào rõ ràng về quá khứ ngắn ngủi của họ mà không cần phải tưởng tượng, bởi vì Hoa Kỳ được thành lập một phần dựa trên sự tàn bạo của chế độ nô lệ và chủ nghĩa thực dân. Tất nhiên, không có quốc gia hùng mạnh nào có được danh tiếng bằng bảng Anh, nhưng sự khác biệt giữa lý tưởng và thực tiễn của người Mỹ đặc biệt gây chói tai. Vì vậy, người Mỹ thường bỏ qua lịch sử nói chung; về mặt bài ngoại, họ tự cho mình là vĩ đại nhất trong tất cả các quốc gia, được ban phước cho một “ số phận hiển hiện ”. Điều này giống như một đứa trẻ đang khoe khoang về bức tranh vẽ bằng ngón tay của mình và đòi hỏi mọi người xung quanh phải ngưỡng mộ nó. Việc thiếu hiểu biết về lịch sử chỉ cần kiểm tra lại những xung động trẻ sơ sinh của chúng ta mà chủ nghĩa tư bản tràn lan và những gã khổng lồ công nghệ đang khai thác và mang lại cho chúng ta. Hơn nữa, các nước phương Đông có nhiều tôn giáo và triết học trưởng thành hơn (Ấn Độ giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo). Cơ đốc giáo ở Hoa Kỳ đã bị Mỹ hóa , vì vậy bạn có những nhà truyền hình “bảo thủ” hoạt động như những người biện hộ cho, và như những người đồng phạm với những hành động hoành tráng nhất của sự ích kỷ và sa đọa phản đối tinh thần. Một lần nữa, chủ nghĩa Trump lại xuất hiện trong tâm trí, nhưng sự khốn khổ của tôn giáo lớn của Hoa Kỳ đã đi qua một chặng đường dài và thậm chí còn được đưa vào Cơ đốc giáo có tổ chức kể từ khi người Cơ đốc giáo thỏa hiệp với quyền lực thế tục vào thế kỷ thứ tư khi họ đề nghị tôn giáo của mình như lá sung chính thức của Đế chế La Mã. Nói về mặt chính trị, chúng ta có thể tự hỏi liệu những thành viên quyền lực nhất của tầng lớp thượng lưu có được hưởng lợi từ việc cai trị những nhóm dân số ít thông tin, đáng tin cậy và không biết cách suy nghĩ chín chắn hay không. Phần lớn sự bối rối trong văn hóa đại chúng có thể được khuyến khích hoặc dung thứ bởi các nhà quản lý của các tổ chức của chúng tôi, bằng cách họ cho quần chúng ăn tương đương với “bánh mì và rạp xiếc”. Tương tự như vậy, Đế chế La Mã đã sử dụng các môn thể thao đẫm máu để đánh lạc hướng những người cầu xin khỏi những nguy cơ gây ra bởi sự xâm lược quá mức của đế chế, dẫn đến sự sụp đổ của nó. Ngoài ra còn có vấn đề về quan điểm: chúng ta dường như ngày càng trẻ sơ sinh hơn so với các vấn đề gắn kết mà chúng ta phải đối mặt khi nền văn minh trở nên toàn cầu và phức tạp hơn. Ví dụ, chúng ta phải đối mặt với thảm họa môi trường, hoặc cái mà Timothy Morton gọi là siêu dự án của biến đổi khí hậu, và chúng ta có thể la hét như những đứa trẻ không biết gì vì chúng ta không đủ trang bị để đối phó với mớ hỗn độn mà chúng ta đã tạo ra. Bây giờ chúng ta đã xem xét chủ nghĩa trẻ sơ sinh do người Mỹ lãnh đạo là gì và nó phát sinh như thế nào, chúng ta có thể quay trở lại câu hỏi làm thế nào điều này phù hợp với lịch sử của Whig. Người lớn hành động như trẻ nhỏ có tiến bộ không? Đó có phải là số phận của chúng ta, nơi mà chúng ta nên hướng tới? Ngược lại, điều này giống như một phản ứng tuyệt vọng đối với khoảnh khắc trưởng thành ban đầu trong thời kỳ sơ khai - hiện đại, khi đạo Tin lành và các cuộc cách mạng khoa học và công nghiệp đã đánh bật châu Âu ra khỏi giấc ngủ thời trung cổ. Nghịch lý thay, sau đó, sự rõ ràng rất rõ ràng của việc rút lui về thời thơ ấu văn hóa lại minh chứng cho thực tế của tiến bộ xã hội hoặc ít nhất là quá trình chuyển đổi từ thời kỳ trung cổ sang một cái gì đó khác. Thay vì theo đuổi lộ trình giác ngộ phổ quát chưa được khám phá đó thông qua sự tự quyết định của lý trí, chúng tôi đã rút lui và kiểm tra lại. Chúng tôi tìm kiếm một hình thức mới của chủ nghĩa thời trung cổ, một hình thức trong đó các công ty công nghệ lớn đã thay thế Giáo hội làm người điều khiển chính của chúng tôi. Sự rõ ràng của việc rút lui của chúng ta về một trạng thái nhân tạo không biết gì về thời thơ ấu phải phù hợp với sự phá vỡ tàn khốc của "hiện đại" khỏi chủ nghĩa trung cổ bởi vì cái trước là sự che đậy của cái sau hoặc giả vờ rằng chúng ta không có cách gọi nào cao hơn. Thật vậy, không có ý nghĩa gì khi nói về trẻ sơ sinh hóa hàng loạt trừ khi có một tiêu chuẩn tương phản về sự trưởng thành của người lớn. Như đã đề xuất ở trên, chúng ta có thể nhìn về phương Đông ở một số khía cạnh đối với các mô hình, nhưng có một lý tưởng phổ quát hơn trong triết học và tâm lý học hiện sinh. Đó là một câu hỏi về việc đối mặt với sự thật phũ phàng và có sức mạnh của nhân vật để không bị suy sụp hoặc rút lui trước những huyền thoại và sự phân tâm không đáng có. Đây là điều chúng ta thường không làm được với tư cách là người tiêu dùng phương Tây (do Hoa Kỳ lãnh đạo). Phương tiện truyền thông xã hội, internet và giải trí đại chúng làm chúng ta mất tập trung và làm chúng ta vô thức trong quá trình này, vì chúng ta không thể trưởng thành, nói một cách tồn tại . Không chỉ là thế hệ Millennials bị mắc kẹt mà không có hy vọng lọt vào tầng lớp trung lưu, do bất bình đẳng kinh tế ngày càng gia tăng. Vấn đề sâu xa hơn là chúng ta không phát huy hết tiềm năng của mình với tư cách là những người có lý trí, tự nhận thức và sáng tạo để đối đầu với thực tế khắc nghiệt rằng vũ trụ là phi lý, vô thần, vô đạo đức và bất công, và nhìn nhận những sự thật đó với danh dự , phẩm giá, và cả chủ nghĩa anh hùng. Không có gì vinh dự khi suy thoái tâm lý trẻ nhỏ, như chúng ta tưởng tượng về việc trở thành siêu anh hùng trong truyện tranh - không phải khi hành vi tập thể thực tế của chúng ta là hèn nhát và man rợ, như trong việc hủy hoại môi trường do chủ nghĩa tiêu thụ hàng loạt. Nếu bạn xem một cái gì đó giống như bộ phim tài liệu Netflix mới của David Attenborough về thách thức môi trường, bạn sẽ thấy chỉ là loại sự thật khủng khiếp mà chúng ta đã bỏ qua một cách có hệ thống trong giấc mơ hàng ngày của chúng ta.
Chủ nghĩa tiến bộ
Chủ nghĩa tiến bộ hay chủ nghĩa cấp tiến (tiếng Đức: Progressivismus từ tiếng Latinh: Progressio, Tiến bộ) biểu thị một triết lý chính trị được xây dựng trên ý tưởng về sự tiến bộ, khẳng định sự tiến bộ trong khoa học, công nghệ, phát triển kinh tế, tổ chức xã hội là rất quan trọng để cải thiện tình trạng của con người. Vì vậy, nó là phong trào chống lại chủ nghĩa bảo thủ. Nguồn gốc của chủ nghĩa tiến bộ bắt đầu từ thời đại Khai sáng, từ lòng tin tưởng là châu Âu đang chứng minh các xã hội có thể tiến bộ trong khuôn khổ từ những điều kiện dã man lên nền văn minh qua sự tăng cường cơ sở kiến thức thực nghiệm là nền tảng của xã hội. Nhiều nhân vật thời Khai sáng tin tưởng rằng tiến bộ có thể áp dụng phổ quát cho tất cả các xã hội và những ý tưởng này sẽ lây lan ra toàn thế giới từ châu Âu. Nhà xã hội học Robert Nisbet định nghĩa năm "cơ sở quan trọng" của ý tưởng của tiến bộ: giá trị của quá khứ; sự cao quý của nền văn minh phương Tây; giá trị tăng trưởng kinh tế / công nghệ; kiến thức khoa học / học thuật thu thập được thông qua lý trí hơn là đức tin; tầm quan trọng của thực chất và giá trị của sự sống trên Trái Đất.
Marketing quốc tế là gì? Marketing quốc tế được hiểu đơn giản nhất đó là tiếp thị quốc tế. Vậy hiểu sâu xa, chi tiết thì thuật ngữ này nghĩa là gì? Vai trò và cách thức của nó ra sao?. Johansson (2000) định nghĩa như sau: "Kết quả là một cách tiếp cận toàn cầu đối với tiếp thị quốc tế. Thay vì tập trung vào thị trường quốc gia, đó là sự khác biệt do vị trí thực tế của các nhóm khách hàng, các nhà quản lý tập trung vào thị trường sản phẩm, nghĩa là các nhóm khách hàng tìm kiếm lợi ích chung hoặc được phục vụ với cùng một công nghệ, nhấn mạnh sự tương đồng của chúng bất kể khu vực địa lý nơi chúng được đặt. Với Muhlbacher, Helmuth và Behringer (2006) phân định tiếp thị quốc tế (thích nghi) và tiếp thị toàn cầu (tiêu chuẩn hóa) như sau: "Tiếp thị toàn cầu, xuyên quốc gia tập trung vào việc tận dụng tài sản, kinh nghiệm và sản phẩm của công ty trên toàn cầu và thích nghi với những gì thực sự độc đáo và khác biệt ở mỗi quốc gia. Keegan (2002) lấy một tổng quan chiến lược, của công ty để xác định bản chất xuyên quốc gia của tiếp thị toàn cầu. Vì vậy, cũng như nhiều yếu tố khác của tiếp thị, không có định nghĩa duy nhất về tiếp thị quốc tế và có thể có một số nhầm lẫn về nơi tiếp thị quốc tế bắt đầu và tiếp thị toàn cầu kết thúc. Những bài học này sẽ cho rằng cả hai thuật ngữ đều có thể hoán đổi cho nhau và sẽ xác định tiếp thị quốc tế. Tiếp thị quốc tế đơn giản là việc áp dụng các nguyên tắc tiếp thị cho nhiều quốc gia. Ở cấp độ đơn giản nhất, tiếp thị quốc tế liên quan đến công ty đưa ra một hoặc nhiều quyết định tiếp thị hỗn hợp xuyên biên giới quốc gia. Ở cấp độ phức tạp nhất, công ty liên quan đến việc thành lập các cơ sở sản xuất ở nước ngoài và điều phối các chiến lược tiếp thị trên toàn cầu. Theo Doole và Lowe (2001) phân biệt giữa tiếp thị quốc tế (thay đổi hỗn hợp đơn giản) và tiếp thị toàn cầu (phức tạp và sâu rộng hơn). "Tiếp thị quốc tế là việc thực hiện các hoạt động kinh doanh nhằm hướng dòng chảy của hàng hóa và dịch vụ của công ty tới người tiêu dùng hoặc người dùng ở nhiều quốc gia để kiếm lợi nhuận. Cateora và Ghauri (1999) xem xét tiếp thị quốc tế trong trường hợp không có tiếp thị toàn cầu. "Tiếp thị quốc tế là ứng dụng định hướng tiếp thị và khả năng tiếp thị cho kinh doanh quốc tế”. Muhlbacher, Helmuth và Behringer (2006) xem xét tiếp thị quốc tế liên quan đến định hướng và năng lực tiếp thị định hướng : "Thị trường quốc tế vượt ra ngoài nhà tiếp thị xuất khẩu và tham gia nhiều hơn vào môi trường tiếp thị tại các quốc gia mà họ đang kinh doanh. Marketing quốc tế là gì? Marketing quốc tế được hiểu là tiếp thị quốc tế được định nghĩa là hiệu suất của các hoạt động kinh doanh được thiết kế để lập kế hoạch, giá cả, quảng bá và định hướng dòng hàng hóa và dịch vụ của công ty tới người tiêu dùng hoặc người dùng ở nhiều quốc gia để kiếm lợi nhuận. Sự khác biệt duy nhất giữa các định nghĩa về tiếp thị trong nước và tiếp thị quốc tế là trong trường hợp sau, các hoạt động tiếp thị diễn ra ở nhiều quốc gia. Bất kể trong nước hay quốc tế, mục tiêu Marketing vẫn giống nhau đối với các nhà Marketer. Mục tiêu là kiếm lợi nhuận bằng cách bán sản phẩm hoặc dịch vụ tại các khu vực địa lý có nhu cầu cho họ. Khi công nghệ tạo ra những bước nhảy vọt trong giao tiếp, vận chuyển và dòng tài chính, thế giới tiếp tục cảm thấy ngày càng nhỏ hơn. Các công ty và người tiêu dùng có thể tiến hành kinh doanh ở hầu hết các quốc gia trên thế giới nhờ những tiến bộ trong thương mại quốc tế. Theo Tổ chức Thương mại Thế giới, khối lượng giao dịch hàng hóa quốc tế tăng 33 lần trong khoảng thời gian từ 1951 đến 2010. Thương hiệu và sản phẩm có nguồn gốc từ một quốc gia được chấp nhận nhiệt tình ở những quốc gia khác. Ví dụ, túi xách Louis Vuitton, BMW và cà phê Colombia, tất cả các sản phẩm nước ngoài, là biểu tượng của địa vị và chất lượng ở Hoa Kỳ - và nhiều thương hiệu Mỹ, như hình ảnh chuyển động của Warner Brothers, có chỗ đứng tương tự ở nước ngoài. Tuy nhiên, toàn cầu hóa đã tạo ra nhiều thách thức như cơ hội cho các thương hiệu liên doanh ở nước ngoài. Bởi vì người tiêu dùng có rất nhiều lựa chọn hơn cho các sản phẩm tương tự, các công ty phải đảm bảo rằng sản phẩm của họ có chất lượng cao và khả năng chi trả. Ngoài ra, những sản phẩm này không thể được bán trên thị trường giống hệt nhau trên toàn cầu.Tiếp thị quốc tế xem xét nhiều hơn là ngôn ngữ - liên quan đến văn hóa, bão hòa thị trường và hành vi của khách hàng. Các công ty Mỹ và châu Âu đặc biệt đã biến những nỗ lực tiếp thị quốc tế của họ thành một thứ gì đó hơn là chỉ xuất khẩu - họ đã điều chỉnh thương hiệu của mình để giải thích cho sự khác biệt về người tiêu dùng, nhân khẩu học và thị trường thế giới. Các công ty đã làm rất tốt điều này bao gồm Coca-Cola, người đã phát hiện ra rằng từ “Diet” mang ý nghĩa tiêu cực ở Mỹ Latinh và đổi tên sản phẩm không calo của họ thành “Coke Lite” cho các quốc gia đó. UPS, được biết đến ở Mỹ với những chiếc xe tải màu nâu của họ, đã ban hành một đội tàu có màu khác sau khi biết rằng những chiếc xe tải màu nâu hàng đầu của họ giống như những chiếc xe tăng của Tây Ban Nha. Tiếp thị quốc tế là việc áp dụng các nguyên tắc tiếp thị ở nhiều quốc gia, bởi các công ty ở nước ngoài hoặc xuyên biên giới quốc gia. Tiếp thị quốc tế dựa trên sự mở rộng của chiến lược tiếp thị địa phương của công ty, đặc biệt chú ý đến việc xác định, nhắm mục tiêu và quyết định tiếp thị quốc tế. Theo Hiệp hội Tiếp thị Hoa Kỳ (AMA) "tiếp thị quốc tế là quá trình đa quốc gia về lập kế hoạch và thực hiện quan niệm, định giá, quảng bá và phân phối ý tưởng, hàng hóa và dịch vụ để tạo ra các trao đổi thỏa mãn các mục tiêu cá nhân và tổ chức.". Tiếp thị quốc tế đơn giản là việc áp dụng các nguyên tắc tiếp thị cho nhiều quốc gia. Tuy nhiên, có một sự giao thoa giữa những gì thường được thể hiện là tiếp thị quốc tế và tiếp thị toàn cầu. Đối với mục đích của bài học này về tiếp thị quốc tế và những người đi theo nó, tiếp thị quốc tế và tiếp thị toàn cầu có thể thay thế cho nhau. Tiến bộ công nghệ trở nên nhanh chóng có nghĩa là các rào cản truyền thông văn hóa và địa lý đang dần biến mất, và thậm chí các doanh nghiệp nhỏ hơn mà không có sự hiện diện thực tế ở các quốc gia khác có thể tiếp thị và bán sản phẩm của họ ra quốc tế. Điều này có nghĩa là hầu hết bất cứ ai có mong muốn đều có thể tiếp thị quốc tế, nhưng sẽ làm như vậy với mức độ thành công khác nhau, tùy thuộc vào suy nghĩ và nghiên cứu được đưa vào chiến lược tiếp thị quốc tế. Các công ty bán hàng hóa có các hạn chế hải quan, như thực phẩm và thực vật sống, phải đấu tranh với một quy trình quản lý chặt chẽ hơn trước khi tiếp thị sản phẩm của họ ra quốc tế. Mặc dù họ có thể gặp khó khăn hơn khi thiết lập doanh nghiệp xuất khẩu quốc tế của mình, họ cũng có cơ hội tiếp xúc với các quốc gia khác đối với các sản phẩm bản địa mà họ không thể truy cập bằng cách khác. Các loại công ty khác thường hoạt động tốt trên phạm vi quốc tế bao gồm những công ty liên quan đến xuất khẩu, liên doanh và đầu tư trực tiếp. Xuất khẩu là thông lệ vận chuyển hàng hóa trực tiếp ra nước ngoài. Các công ty nổi tiếng làm tốt công việc tiếp thị hàng xuất khẩu nước ngoài của họ sang Hoa Kỳ bao gồm nước ngọt Fanta, Honda và công ty bán lẻ khổng lồ H & M. Trên thực tế, H & M đã trả 3,5 triệu đô la cho quảng cáo 30 giây trong Super Bowl 2012, một quảng cáo tiếp thị đã bị các thương hiệu Mỹ thống trị từ lâu. Các công ty liên doanh đề cập đến những nỗ lực kết hợp của hai hoặc nhiều doanh nghiệp vì lợi ích chung của họ. Một trong những câu chuyện thành công liên doanh quốc tế nổi tiếng nhất là Sony-Ericsson, một sự hợp tác giữa một công ty điện tử Nhật Bản và một công ty viễn thông Thụy Điển. Chiến lược tiếp thị quốc tế của họ, bao gồm màu sắc tươi sáng và hình dạng hiện đại, đã giúp liên doanh được cả thế giới biết đến. Một công ty đầu tư trực tiếp đặt một tài sản cố định ở nước ngoài với mục đích sản xuất một sản phẩm, hoặc một phần của sản phẩm ở nước ngoài. Chẳng hạn, máy tính Dell là một công ty Mỹ có các nhà máy ở nhiều quốc gia khác lắp ráp máy tính cá nhân từ các bộ phận được sản xuất trên toàn thế giới. Dell sau đó tiếp thị máy tính của họ với sự nhấn mạnh đặc biệt vào nhu cầu và tùy biến của khách hàng - không giống như các công ty khác bán sản phẩm tiền sản xuất; Máy tính Dell được lắp ráp tùy chỉnh sau khi khách hàng đặt hàng. Khi so sánh với Marketing trong nước, Marketing quốc tế có những thách thức riêng. Các nhà tiếp thị thường không biết về môi trường nước ngoài và do đó phải đi sâu vào thị trường nơi họ dự định mạo hiểm. Những thách thức có thể là:. Kiểm soát tất cả các yếu tố được đề cập ở trên để tạo ra một thị trường mục tiêu thuận lợi là điều không thể đối với các nhà tiếp thị vì hầu hết chúng nằm ngoài tầm kiểm soát của họ. Do đó, các nhà tiếp thị cần tập trung nhiều hơn vào những gì họ có thể kiểm soát thay vì những thứ nằm ngoài tầm nhìn của họ. Các nhà quản lý tiếp thị quốc tế thích ứng với các điều kiện và chức năng hiện hành theo cách để họ có thể làm trơn tru hoạt động của họ ở trong nước với kết quả dự đoán về hành động của họ. Điều làm cho tiếp thị thú vị trên trường quốc tế là việc các nhà tiếp thị phải thay đổi là các yếu tố tiếp thị - sản phẩm, giá cả, khuyến mãi, phân phối và nghiên cứu ghi nhớ các yếu tố không thể kiểm soát của thị trường - cạnh tranh, chính trị, luật pháp, hành vi của người tiêu dùng, công nghệ, theo cách mà các mục tiêu tiếp thị đạt được. Ví dụ như khi McDonalds vào Ấn Độ, họ đã thực hiện một nghiên cứu sâu rộng trước khi chọn thực đơn phục vụ cho người tiêu dùng Ấn Độ. Toàn bộ thực đơn được thiết kế riêng theo sở thích của người tiêu dùng Ấn Độ. Công ty bị mắc kẹt với 40% cung cấp chay thuần không giống như bất kỳ thị trường nước ngoài khác. McDonald cũng đảm bảo tôn trọng văn hóa Ấn Độ bằng cách không phục vụ các công thức thịt bò hoặc thịt lợn mà mặt khác là các thành phần phổ biến ở các thị trường khác. McDonalds cũng đảm bảo tạo ra các công thức nấu ăn với các loại gia vị Ấn Độ để phù hợp với khẩu vị địa phương. Đầu tiên để tham gia thị trường marketing quốc tế cách đầu tiên các doanh nghiệp thường thực hiện đó là xuất khẩu. Đây cũng được xem là một trong những cách dễ dàng nhất để tham thị trường quốc tế để quảng bá thương hiệu. Thông qua xuất khẩu, các công ty có thể tạo điều kiện cho việc trao đổi hàng hóa dịch vụ với nước ngoài. Chiến lược web toàn cầu chính là hình thức tham gia marketing quốc thế thứ hai được sử dụng nhiều nhất hiện nay. Ngày nay, các công ty thương mại, có thể chỉ cần sử dụng mạng internet để quảng bá thương hiệu của mình đến với thị trường marketing quốc tế mà không phải đến những showroom quảng bá. Có thể nói, nhờ internet, việc tiếp thị doanh nghiệp đến với truyền thông quốc tế đã trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Thông qua hệ thống các website của mình, doanh nghiệp có thể tạo những điều thuận lợi nhất, để khách hàng có thể dễ dàng đọc, tìm kiếm những thông tin cần thiết cũng như để đặt hàng trực tuyến. Một trong những cách khác để tham gia marketing thương mại quốc tế đó là cấp phép và nhượng quyền. Thống nhượng quyền thương mại, các doanh nghiệp được hưởng thương hiệu, chiến lược marketing từ doanh nghiệp nhượng quyền của mình. Đây cũng được xem là bước nhanh nhất để tham gia marketing quốc tế hiện nay. Liên doanh: ngoài ra, liên doanh với các doanh nghiệp nước ngoài cũng được xem là cách thức nhanh chóng để tham gia marketing quốc tế. Liên doanh với những doanh nghiệp nước ngoài vừa giúp tìm kiếm được đồng minh nhưng cũng đồng thời giúp doanh nghiệp phát triển thương hiệu vươn tầm thế giới. Đầu tư trực tiếp: cuối cùng, đầu tư trực tiếp cũng chính là cách để marketing tiếp thị quốc tế. Đầu tư trực tiếp bằng cách mở chi nhánh doanh nghiệp, đầu tư vào doanh nghiệp khác hay xây dựng doanh nghiệp mới tại nước ngoài, … tuy nhiên hình thức này tồn tại tương đối nhiều rủi ro mà bạn cần chú ý thật kỹ trước khi thực hiện. Marketing quốc tế này càng trở nên phố biến trong thời đại công nghệ số, toàn cầu hóa hiện nay. Hy vọng rằng thông qua bài viết này bạn đã nắm rõ được khái niệm marketing quốc tế là gì? Cùng với đó là những chú ý, những kiến thức liên quan đến marketing quốc tế.
Trường quốc tế
Trường quốc tế là trường học cung cấp nền tảng học vấn trong môi trường giáo dục quốc tế, thường áp dụng dạy các chương trình như Tú tài Quốc tế, Edexcel, chương trình Cambridge Quốc tế hoặc theo chương trình đặc thù của mỗi quốc gia khác với chương trình học của nước sở tại. Những trường này chủ yếu phục vụ cho các đối tượng học sinh không phải là công dân của nước sở tại, ví dụ con em của các nhân viên ngoại quốc trong các doanh nghiệp nước ngoài, tổ chức quốc tế, đại sứ quán nước ngoài, cơ quan đại diện, các chương trình truyền giáo. Nhiều học sinh thuộc các gia đình bản xứ có điều kiện kinh tế khá giả cũng theo học các trường quốc tế với mong muốn được thụ hưởng hệ thống giáo dục toàn diện trong môi trường đa ngôn ngữ cùng trình độ ngoại ngữ đáp ứng tiêu chuẩn công dân toàn cầu và học lên cấp cao hơn ở nước ngoài. Các trường quốc tế đầu tiên được thành lập vào nửa sau của thế kỷ 19 tại Nhật Bản, Thụy Sĩ và Thổ Nhĩ Kì. Ban đầu các trường quốc tế được lập ra phục vụ nhu cầu học tập cho các gia đình hay phải di chuyển qua nhiều nước, ví dụ như con cái của các nhân viên trong công ty xuyên quốc gia, tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ (NGO) và nhân viên đại sứ quán.
Bài viết phân tích kinh nghiệm của các nước Trung Quốc, Thái Lan, Singapore, Indonesia trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh ngân hàng thương mại (NHTM) và bài học cho Việt Nam. Nền kinh tế Trung Quốc đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ và chính thức vươn lên trở thành cường quốc kinh tế lớn thứ hai trên thế giới từ năm 2010. Tiền đề là tăng trường kinh tế mạnh kết hợp thu nhập và tài sản trong nước lớn đã tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các NHTM trong nước. Các ngân hàng trên có tỉ lệ vốn cấp 1 ở mức rất cao, và tiếp tục cố gắng gia tăng tỉ lệ này theo thời gian. Đồng thời các ngân hàng Trung Quốc rất chủ động trong việc gia tăng khả năng cạnh tranh của mình về yếu tố khoa học công nghệ. Các ngân hàng đã xác định trong xu thế phát triển của mình thì yếu tố khoa học công nghệ sẽ chiếm một vị thế chủ đạo góp phần cung cấp các dịch vụ công nghệ cao của mình cho khách hàng và nền kinh tế; đồng thời khoa học công nghệ sẽ là một trong những nhân tố giúp gia tăng quy mô hoạt động của bản thân các ngân hàng trong tương lai. Ngoài ra, sự phát triển của thanh toán trực tuyến trong nước đã khiến các ngân hàng Trung Quốc đã chủ động hoặc kết hợp với các công ty tài chính công nghệ (Fintech), hoặc tự sáng tạo ra các ứng dụng thanh toán cho mình. Đặc biệt với sự ra đời và phát triển của MYbank tại Trung Quốc năm 2015 đã thực sự là một bàn đạp lớn cho các ngân hàng Trung Quốc trong thời gian sau đó. Ngân hàng Công thương Trung Quốc (ICBC) được thành lập vào ngày 01/01/1984 dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn và chuyển đổi hình thức hoạt động sang công ty cổ phần vào ngày 28/10/2005. Sau đó tròn một năm, ngân hàng đã thành công trong việc niêm yết chứng khoán của mình ở cả hai sàn giao dịch Thượng Hải và Hồng Kông- đây là lần phát hành ra công chúng lớn nhất trên thế giới tính đến thời điểm đó, với tổng giá trị đạt tới 21,9 tỷ đôla Mỹ. Sau nhiều năm hoạt động, ICBC đã trở thành ngân hàng số 1 trong 1000 ngân hàng hàng đầu thế giới theo xếp hạng bởi The Banker và xếp vị trí đầu tiên trong danh sách Global 2000 do Forbes bình chọn. Từ khi thành lập đến nay, ICBC đã đưa ra các chiến lược phát triển của mình theo từng giai đoạn, thường là chiến lược cho 3 đến 5 năm. Nhìn chung, ICBC đã hướng tới việc chuyển đổi mô hình kinh doanh theo xu hướng phát triển kinh tế, tài chính cũng như phù hợp với nhu cầu của khách hàng làm chiến lược trọng tâm, cốt lõi. Thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, kinh tế và tài chính của Trung Quốc bị ảnh hưởng nghiêm trọng dẫn tới sự chao đảo lớn trong hoạt động của các ngân hàng nội địa. ICBC trong giai đoạn đó đã thực hiện điều chỉnh cơ cấu của mình để đảm bảo được cân đối được các tiêu chí tài sản với vốn; chất lượng với lợi ích; chi phí và hiệu quả. Có thể thấy rằng ICBC đã xác định hướng tới sự phát triển bền vững và chuyên sâu của mình cho tương lai. Bên cạnh đó, ngân hàng đã chủ động nâng cao khả năng cạnh tranh của mình thông qua các chỉ số cạnh tranh chính và dần vươn lên dẫn đầu các ngân hàng tiên tiến trên thế giới. Trong giai đoạn từ năm 2015 trở lại đây, nền kinh tế Trung Quốc có dấu hiệu giảm sút khi GDP liên tục giảm đã dẫn tới sự bất ổn trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Trung Quốc. Với bối cảnh kinh tế như vậy, ICBC đã đưa ra chiến lược ba năm và năm năm, tập trung vào những nội dung chủ yếu như: tái cấu trúc quản lý tín dụng, kiểm soát tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng, và gia tăng quản lý rủi ro của ngân hàng. Cùng với chiến lược cốt lõi chính xác và hợp lý đó, ICBC đã đạt được những thành tích vượt bậc. Vào thời điểm kết thúc kế hoạch chiến lược phát triển ba năm lần thứ tư của mình (năm 2017), ICBC đã xuất sắc vươn lên và dẫn đầu tất cả các ngân hàng trên thế giới, từ vốn cấp 1 đến thu nhập thuần đạt được, tổng tài sản,… Những năm sau đó, chiến lược này vẫn được ICBC áp dụng nhưng kết hợp tập trung sâu hơn vào phương thức kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cốt lõi của mình. Indonesia nổi tiếng là quốc gia bao gồm nhiều quần đảo (hơn 13.600 đảo) với dân số đứng thứ tư trên thế giới (khoảng 240 triệu người). Đây cũng là quốc gia đa sắc tộc, phần lớn dân số theo Hồi giáo. Indonesia phát triển trọng tâm vào một số ngành chính, bao gồm: lĩnh vực dịch vụ (chiếm 45.3% GDP); công nghiệp (40.7% GDP) và nông nghiệp (14.1% GDP). Trong ba ngành trọng điểm, ngành nông nghiệp là ngành có ảnh hưởng mạnh nhất đến tỷ lệ lao động quốc gia, khi chiếm 44.3% lực lượng lao động của cả nước. Từ đó cho thấy rằng nông nghiệp là ngành quan trọng nhất của Indonesia. Indonesia giống các nước Đông Nam Á khi phải chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực (năm 1997), tác động tiêu cực tới hoạt động của tất cả các ngành, chủ thể của xã hội. Trong giai đoạn khó khăn này, các ngân hàng thương mại của Indonesia đã đưa ra những chiến lược phát triển riêng để có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Điển hình cho trường hợp này đó là BRI. BRI là ngân hàng thương mại nhà nước đầu tiên của Indonesia, được thành lập vào ngày 16/12/1895. Thời kỳ khủng hoảng tài chính Đông Nam Á 1997, BRI đã phải chịu những tổn thất nặng nề giống như bao ngân hàng nội địa trong nước khác. Để thoát khỏi ảnh hưởng của những tổn thất đó, BRI đã thực hiện cổ phần hóa với phần lớn vốn nằm trong tay nhà nước (70%) vào năm 2003. Đồng thời, ngân hàng thực hiện chuyển đổi tập trung vào lĩnh vực bán lẻ vừa và nhỏ. Kết quả là ngân hàng đã gia tăng được lợi nhuận và tối ưu hóa giá trị của các cổ đông cho ngân hàng. Số lượng chi nhánh của ngân hàng đã được mở rộng phục vụ cho khách hàng trên mọi lĩnh vực (từ nông nghiệp nông thôn đến công nghiệp, thương mại,…). Giao dịch trực tuyến được ngân hàng đã đạt được những thành công lớn. Thái Lan là một trong ba nước phải chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á 1997, bên cạnh Malaysia và Indonesia. Cuộc khủng hoảng đã khiến cho nhiều ngân hàng thương mại của Thái Lan phải đóng cửa, một số khác phải đối mặt với sự gia tăng của các khoản nợ xấu và tình hình tài chính ngày một khó khăn. Các ngân hàng Thái Lan đã phải tự đưa ra những chính sách để vượt qua cơn khó khăn đó. Ra đời vào ngày 30 tháng 1 năm 1907, ngân hàng SCB là ngân hàng thương mại đầu tiên của Thái Lan và đến nay là ngân hàng nội địa lớn nhất của Thái. Tuy nhiên, giống như những ngân hàng thương mại khác trong nước, SCB cũng phải đối mặt với khó khăn khi cuộc khủng hoảng tài chính 1997 xảy ra. Trước và ngay sau thời điểm khủng hoảng tài chính xảy ra, SCB và các ngân hàng của Thái Lan đều chưa coi trọng đến việc xây dựng mối quan hệ với khách hàng của mình. Thông thường, một khách hàng để có thể gặp giao dịch viên của ngân hàng sẽ phải mất khoảng 45 phút (Jennifer Robison). Đồng thời, những người quản lý của ngân hàng đều làm việc ở phía bên trong ngân hàng, không trực tiếp gặp mặt khách hàng, hay nói cách khác khách hàng rất khó để có thể nhận ra được người làm việc cấp cao của ngân hàng. Bên cạnh đó, các ngân hàng đều chưa xây dựng cho mình một chiến lược về phát triển các sản phẩm đặc trưng và dịch vụ chiến lược của mình. Hệ lụy của những hạn chế này đó là sự giới hạn trong thu hút khách hàng, thu hút người lao động đến với ngân hàng. Nhận thấy những hạn chế đó, SCB vào năm 2001 đã thay đổi chiến lược hoạt động của mình, thông qua việc: thiết lập các ATM, tập trung vào phát triển khoa học công nghệ gia tăng hiệu quả kinh doanh, đồng thời mở thêm các chi nhánh giao dịch trên cả nước. Mục tiêu SCB hướng tới trong giai đoạn này đó là những khách hàng cá nhân, những khách hàng nhỏ lẻ thay vì quá tập trung vào các khách hàng doanh nghiệp như trước- khi mà các doanh nghiệp trong nước đang phải đối mặt với khó khăn tài chính đến từ cuộc khủng hoảng. Kết quả ngân hàng đạt được từ những thay đổi của mình rất khả quan, tổng tài sản của ngân hàng đã gia tăng mạnh mẽ chỉ sau hai năm thay đổi, tăng lên khoảng hơn 2 tỷ USD (Jennifer Robison). Cũng trong năm 2003, SCB quyết định thay đổi người quản lý mảng bán lẻ của mình, với việc tuyển dụng Kannikar Chalitaporn- một chuyên gia trong mảng bán lẻ nhưng không phải là người có kinh nghiệm về ngân hàng. Đây là một trong những sự thay đổi lớn trong hoạt động quản lý của ngân hàng SCB. Từ đó, các chi nhánh của SCB phải tự chịu trách nhiệm trước các chỉ số hiệu suất chính, gắn liền với mục tiêu chung của toàn bộ ngân hàng. Các nhà quản lý thay vì quản lý đằng sau từ tổng bộ như trước đây thì giờ sẽ phải trực tiếp đến quản lý các chi nhánh- thường là những chi nhánh có lợi nhuận thấp nhất. Nói dễ hiểu hơn, nếu các quản lý hoạt động không hiệu quả thì họ có thể bị luân chuyển đến các chi nhánh khác hoặc thậm chí bị thay đổi. Người quản lý mới cũng đưa ra chiến lược phát triển những sản phẩm, dịch vụ vốn có của mình mà không phát triển những sản phẩm và dịch vụ mới. Để gia tăng mối quan hệ với khách hàng, Chalitaporn thực hiện việc đánh giá của khách hàng đối với các chi nhánh, nhân viên của mình. Đồng thời cô cũng thực hiện những cuộc khảo sát, đánh giá ngắn về sự tham gia của khách hàng và nhân viên. Các cuộc khảo sát và đánh giá đã cho SCB một cái nhìn tổng quan về mức độ thu hút khách hàng và thu hút nhân viên của mình, một kết quả hết sức khiêm tốn. Qua đó, SCB đã quyết định mục tiêu trong thời gian tới phải nâng cao được sự thu hút của mình đối với khách hàng và người lao động. Với những chính sách đặt khách hàng lên hàng đầu, SCB đã có những kết quả hết sức ấn tượng, chỉ sau một năm thực hiện ngân hàng đã có hai chi nhánh đạt đẳng cấp quốc tế, và đến năm 2006 con số này gia tăng lên là 440 chi nhánh. Số lượng người lao động của ngân hàng cũng gia tăng mạnh mẽ. Như vậy có thể thấy, cuộc khủng hoảng tài chính 1997 đã là bàn đạp để SCB tăng trưởng mạnh mẽ như ngày nay. Với chính sách thay đổi quản lý, thay đổi mục tiêu chiến lược trong ngắn, trung và dài hạn phụ thuộc không chỉ tình hình trong nước mà còn dựa vào thực trạng tình hình của ngân hàng, ngân hàng đã có những quyết định then chốt chính xác. Singapore đang trở thành một trong những thị trường quan trọng và có tính cạnh tranh nhất trên thế giới, không chỉ về các sản phẩm tài chính mà còn ở các sản phẩm khác. Hệ thống ngân hàng thương mại tại đây này được xem là một bộ phận quan trọng trong hoạt động tài chính của Châu Á, giống như bất kỳ quốc gia nào trên thế giới hiệu quả của hệ thống ngân hàng cấu tạo rất lớn trong tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Để có thể trở thành một trong những trung tâm về tài chính, giao dịch tỷ giá hối đoái lớn nhất toàn cầu (sau London, Newyork, và Tokyo), hệ thống ngân hàng của Singapore đã có nhiều thay đổi. Ví dụ, sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997-1998, hệ thống ngân hàng của Singapore đã thực hiện sáp nhập các ngân hàng với nhau để tạo ra những tổ chức lớn mạnh có khả năng cạnh tranh trên thế giới. Đến năm 2001, Singapore trở thành nền kinh tế có tính cạnh tranh cao thứ hai trên thế giới . Đồng thời, hệ thống ngân hàng tại Singapore tập trung gia tăng khả năng, sức mạnh về công nghệ thông tin của mình từ đó gia tăng cạnh tranh về trí tuệ và nhân lực cho nền kinh tế. Như vậy, Singapore đang thực hiện gia tăng khả năng, sức mạnh cho các ngân hàng nội địa của mình, qua đó gia tăng được khả năng cạnh tranh của các ngân hàng nội địa khi so sánh với các đối thủ đến từ bên ngoài. Tuy nhiên sau khi thực hiện sáp nhập các ngân hàng, một thực tế cho thấy các ngân hàng tại Singapore có hiệu quả giảm theo quy mô . Việc sáp nhập này đã gia tăng năng lực của các ngân hàng, xây dựng được đội ngũ quản lý chất lượng và nâng cao được hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng này. Bên cạnh đó, các ngân hàng nội địa này thực hiện liên doanh ở nước ngoài, thông qua đó gia tăng được vị thế của ngân hàng trong khu vực thông qua các hoạt động mua lại của mình. Mặt khác, các ngân hàng thương mại của Singapore nhận thấy rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ là thị phần quan trọng của thị trường. Việc đáp ứng được nhu cầu dịch vụ tài chính cho nhóm khách hàng này sẽ cấu thành một bộ phận lớn tổng lợi nhuận của các ngân hàng thương mại nội địa Singapore. Các sản phẩm tiền gửi, dịch vụ quản lý tiền mặt, sản phẩm cho vay, sản phẩm thẻ, sản phẩm bảo hiểm, dịch vụ xuất nhập khẩu, sản phẩm đầu tư được các ngân hàng Singapore xây dựng phù hợp với nhu cầu của các đối tượng khác hàng. Các ngân hàng thương mại Singapore cũng chú trọng tới đối tượng khách hàng cá nhân, phát triển mạnh về khác hàng bán lẻ trong nước. Thứ nhất, phát triển các dịch vụ, sản phẩm vốn có; đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao. Kinh nghiệm từ các ngân hàng nước ngoài (đặc biệt là trường hợp của Thái) cho thấy rằng BIDV trước tiên cần chú trọng phát triển tối ưu những dịch vụ và sản phẩm vốn có của mình. Việc làm này sẽ giúp ngân hàng tối đa hóa được lợi nhuận từ những sản phẩm, dịch vụ sẵn có của mình. Song song với đó, BIDV cần chủ động gia tăng cạnh tranh với các đối thủ về cung ứng sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao trong thời kỳ cách mạng 4.0. Những sản phẩm, dịch vụ mới được đưa ra cần phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của khách hàng, đặc biệt là các khách hàng tiềm năng tại thị trường Việt Nam, như: doanh nghiệp khởi nghiệp, khách hàng cá nhân nhỏ lẻ, doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ,… Sẽ rất tốt nếu BIDV có thể phát triển những sản phẩm, dịch vụ mang đặc trưng và chiến lược của mình.
Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (tên giao dịch Tiếng Anh: Joint Stock Commercial Bank for Investment and Development of Vietnam ) tên gọi tắt: "BIDV", là ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam tính theo quy mô tài sản năm 2019 và là doanh nghiệp đứng thứ 10 trong danh sách 1000 doanh nghiệp đóng thuế thu nhập doanh nghiệp lớn nhất năm 2018. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2020, BIDV được xếp vào loại hình công ty cổ phần với cổ đông Nhà nước (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) chiếm cổ phần chi phối. Ngày 8/4/2021, tạp chí The Asian Banker trao cho Ngân hàng này giải thưởng "Ngân hàng bán lẻ tốt nhất Việt Nam" năm 2020, đồng thời sản phẩm QuickLoan được giải "Sản phẩm cho vay tiêu dùng tốt nhất Việt Nam". BIDV là một trong bốn ngân hàng thương mại, thường được gọi là Bộ Tứ (Big 4), với các thành viên còn lại gồm có: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank), Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (Vietinbank). Nhóm bốn ngân hàng này đều có quy mô tài sản, nguồn vốn, doanh thu ở nhóm hàng đầu và đều có Nhà nước đóng vai trò là cổ đông kiểm soát (với BIDV, Vietinbank, Vietcombank) hoặc là chủ sở hữu (với Agribank).
Giáo sư Marc Bekoff, người chuyên nghiên cứu về động vật đã chỉ ra rằng cảm xúc là một món quà từ tổ tiên xa xôi của chúng ta. Cả con người và động vật đều có cảm xúc. Tuy nhiên, nhiều nhà khoa học dường như quên đi điều này và coi động vật là đối tượng nghiên cứu vô tri vô giác. Marc Bekoff đôi khi hỏi những người đồng nghiệp tiến hành thí nghiệm trên động vật rằng họ có đối xử như vậy với những con chó của họ theo cách tương tự không. Câu hỏi đơn giản này vừa bất ngờ, vừa khiến ta phải suy nghĩ. Nhờ các nhà khoa học như Marc Bekoff và Jane Goodall mà nghiên cứu về hành vi của động vật mới dần trở nên nhân đạo hơn. Vậy các loài động vật có cảm xúc và cảm giác giống như con người không?. Hầu hết chúng ta coi hai từ trên là một từ duy nhất và có thể đổi chỗ cho nhau. Mặc dù điều này không sai về mặt ngôn ngữ, nhiều nhà tâm lý học coi chúng là hai khái niệm hoàn toàn khác biệt. Cảm xúc là phản ứng tâm lí của chúng ta đối với các kích thích bên ngoài và bên trong khiến chúng ta cảm động sâu sắc. Cảm xúc không kéo dài trong một thời gian dài, nhưng rất phức tạp. Chúng có lẽ được hình thành thông qua quá trình tiến hóa, để thích nghi với thế giới xung quanh. Có thể nói rằng chúng ổn định và sâu sắc hơn cảm xúc. Chúng giúp mọi người sửa chữa hành vi của họ, khám phá các giải pháp mới, tạo cộng đồng. Chúng ta có thể coi cảm giác là cách chúng ta nhìn nhận cảm xúc. Lý thuyết về cảm xúc của động vật đã được hình thành từ nhiều năm trước và người đầu tiên tuyên bố ủng hộ nó chính là Charles Darwin. Sau khi quan sát tinh tinh và các loài vượn khác, ông kết luật rằng chúng phát ra tiếng động tương tự như tiếng cười của con người. Darwin đưa ra một giả thuyết rằng cảm xúc là một hình thức thích nghi của giao tiếp và động lực. Ông cũng chấp nhận quan điểm của Lamarck (nhà tự nhiên học người Pháp), người nói rằng những cảm xúc hữu ích được truyền lại cho con cháu. Mặc dù Darwin coi biểu hiện cảm xúc là một tính trạng di truyền bên trong nhưng chức năng của chúng vượt lên cả nhu cầu thích nghi với môi trường. Ví dụ, ông nhận thấy rằng con người sử dụng răng của họ để thể hiện sự nhạo báng hoặc giận dữ. Ông tuyên bố rằng tổ tiên của con người đã sử dụng răng của họ để thể hiện hành vi hung hăng. “Các nhà khoa học đương đại rất thận trọng về cảm xúc của động vật”. Trong nhiều năm, họ đã thực hiện nhiều thí nghiệm trên động vật (thường rất tàn nhẫn) để chứng minh hoặc bác bỏ cảm xúc của chúng. Có 2 luồng tư tưởng: một lượng lớn các nhà khoa học tuyên bố rằng động vật có thể thể hiện các hành vi giống như các phản ứng cảm xúc phức tạp, nhưng họ tránh sự nhân hóa (gán cho động vật những đặc điểm của con người). Nhóm thứ hai là những người hoài nghi. Ngày càng có nhiều nhà khoa học nghiêng về nhóm thứ nhất, tin rằng động vật có thể trải qua trạng thái cảm xúc. Nhờ đó, ngành khoa học về hành vi động vật đã được đặt tên riêng - Tập tính học. Đây là một trong những ngành khoa học tự nhiên mới nhất. Tập tính học hiện đại được công nhận vào những năm 1930 bởi các nhà sinh học người Hà Lan và Áo Nikolaas Tinbergen, Konrad Lorenz và Karl von Frisch. Ba nhà khoa học này đã được trao giải thưởng Nobel về sinh lý học và y học.
Cảm xúc ở động vật
Cảm xúc ở động vật là biểu hiện về mặt cảm xúc của giới động vật. Sự tồn tại và bản chất của cảm xúc ở động vật được cho là tương quan với cảm xúc của con người và được phát triển từ những cơ chế giống nhau. Charles Darwin là một trong những nhà khoa học đầu tiên viết về chủ đề này, và cách tiếp cận quan sát (và đôi khi mang tính giai thoại) của ông đã phát triển thành một cách tiếp cận khoa học mạnh mẽ hơn, dựa trên giả thuyết của ông. Các bài kiểm tra thiên vị nhận thức và các thí nghiệm về bất lực tập nhiễm đã cho thấy cảm giác lạc quan và bi quan ở nhiều loài, bao gồm chuột, chó, mèo, khỉ đuôi dài, cừu, gà con, chim sáo đá, lợn và ong mật. Jaak Panksepp đóng một vai trò lớn trong nghiên cứu về cảm xúc của động vật, dựa trên nghiên cứu của ông về khía cạnh thần kinh. Đề cập đến bảy cảm xúc cảm xúc cốt lõi được phản ánh thông qua một loạt các hệ thống hành động cảm xúc thần kinh năng động, bao gồm tìm kiếm, sợ hãi, thịnh nộ, ham muốn, quan tâm, hoảng sợ và vui chơi (nô đùa).
Kính hiển vi (KHV) được xem là một công cụ khoa học hỗ trợ cho mục đích nghiên cứu cũng như một số hoạt động khác trong cuộc sống. Điều gì đã khiến nó trở nên hữu dụng đến như vậy? Tham khảo bài viết để biết thêm chi tiết về công cụ này. Kính hiển vi được mệnh danh là con mắt thứ hai để quan sát các vật thể có kích thước rất nhỏ trong không gian mà mắt thường của con người khó có thể quan sát kĩ càng được. Thiết bị cho phép con người có thể thấy rõ những vật có kích thước cực kỳ nhỏ, phóng đại nó trở nên chi tiết và rõ ràng hơn. Độ phân giải chính là yếu tố quyết định khả năng quan sát của kính. Về cơ bản, bên trong KHV là nhiều thấu kính giúp làm phóng đại hình ảnh của vật thể rồi hiển thị nó trên một mặt phẳng vuông góc với trục của thấu kính. Sự ra đời của nó là sự mở đầu cho kỹ thuật hiển vi hay còn gọi là microscopy. Những chiếc KHV đầu tiên trên Thế Giới được phát minh bởi ba người thợ Hans Lippershey, Zacharias, Janssen Hans Janssen vào năm 1590 Tại Hà Lan. Nhưng những chiếc kính hiển vi này chỉ là tiền thân của kính hiển vi hiện nay. Đến năm 1611, nhà toán học người Đức đã bỏ thời gian nghiên cứu và cải tiến thiết bị nhà thành dòng được sử dụng phổ biến ngày nay. Theo dòng chảy của thời gian, con người áp dụng ngày càng nhiều kỹ thuật khoa học vào việc phát triển kính hiển vi để đạt được độ chính xác cao hơn so với thế kỷ trước. Trong lĩnh vực sinh học, KHV được sử dụng để quan sát các mẫu sinh học mà mắt thường không nhìn thấy được. Đó có thể là tế bào thực vật, động vật, vi khuẩn cực nhỏ. Tất cả những hình ảnh này được sử dụng với mục đích nghiên cứu và học tập của học sinh. Trong lĩnh vực điện tử, để thực hiện công việc sửa chữa các chi tiết nhỏ trong các linh kiện điện tử mà mắt thường khó có thể nhìn thấy. Trong y học, KHV có thể quan sát các tế bào trong cơ thể đồng thời quan sát quá trình hoạt động, sinh trưởng và phát triển của nó khi có sự tác động của các chất xúc tác. Ngoài ra ít người biết được để quan sát các đồ cổ và xác định tính chân thật của nó, nhiều người còn dựa vào KHV. – Hệ giá đỡ: hệ thống này bao gồm thân máy, rơvonve mang vật kính, bệ máy, bàn để tiêu bản và kẹp tiêu bản. Thị kính: thị kính thực tế là một thấu kính hội tụ có tiêu cự rất ngắn. Kính có tác dụng tạo ra ảnh thật của vật cần quan sát. Thị kính là bộ phận để người quan sát đặt mắt vào và soi, thực tế thị kính gồm hai loại là thị kính ống đôi và ống đơn. Vật kính: Đây là một bộ phận quan trọng không thể thiếu đối với KHV. Nó có tác dụng phóng đại hình ảnh vật thể lên gấp nhiều lần. – KHV cần được đặt ở nơi khô thoáng hoặc bảo quản trong hộp có bỏ gói hút ẩm silicagel nhằm hạn chế bị ẩm mốc. – Việc vệ sinh giá đỡ hàng ngày phải được thực hiện bằng khăn sạch. Đối với vật kính dầu, bạn phải lau chùi bằng giấy mềm chuyên dụng có tẩm xylene hoặc cồn. – Để ánh sáng được chuẩn nhất, bạn cũng nên chăm sóc lau chùi sạch sẽ hệ thống chiếu sáng của kính. KHV điện tử là loại được sử dụng phổ biến phục vụ cho đa số đối tượng sử dụng. Các chùm điện tử hẹp được tăng tốc dưới hiệu điện thế từ vài chục kV đến vài trăm kV thay thế cho các nguồn bức xạ ánh sáng được. Nói cách khác KHV điện tử sử dụng các loại thấu kính từ để hội tụ chùm điện tử không giống như KHV với thấu kính thủy tinh. KHV quang học là kính hiển vi sử dụng ánh sáng khả kiến dựa trên hệ thống các thấu kính thủy tinh để quan sát hình ảnh các vật thể nhỏ được phóng đại. Đây cũng là loại kính lâu đời và đơn giản nhất trong số các loại KHV. Ngày nay với sự phát triển công nghệ điện tử, các KHV quang học không còn cần phải được quan sát trực tiếp mà thông qua các bộ phận chụp ảnh để ghi lại hình ảnh. KHV soi nổi là thiết bị để quan sát những vật mẫu có độ phóng đại không quá cao. Loại ánh sáng chủ yếu được sử dụng khi quan sát là ánh sáng phản xạ. Trong đó ánh sáng được truyền thông qua vật kính và thị kính là tách biệt. Chính đặc điểm này đã khiến KHV soi nổi có một khả năng tạo ra nhiều góc nhìn từ đó tạo nên hình ảnh 3 chiều của mẫu. Đặc điểm này mang lại cho chúng ta cảm giác về không gian của hình ảnh một cách sinh động nhất. Hiện nay KHV soi nổi được áp dụng để quan sát vật nhỏ trong nhiều lĩnh vực khác nhau với mục đích mang lại màu sắc chính xác, hình ảnh rõ nét cũng như ảnh thuận chiều tương tự như quan sát bằng mắt thường. KHV sinh học là loại kính khá phổ biến tại các trường cấp 3, đại học và phòng thí nghiệm khoa học chuyên nghiệp. Chức năng chính của kính là để nghiên cứu các sinh vật và các quá trình sinh sản của chúng. Điểm khác của nó với các loại kính phóng đại thông thường là kính hiển vi sinh học được cấu tạo từ hệ thống thấu kính ở mức cao hơn. Kính hiển vi sinh học được phân loại nhiều loại khác nhau từ đơn giản đến các loại kính tiên tiến dùng cho lĩnh vực nghiên cứu tế bào, pháp y, loại tốt nhất có độ phân giải cao thường được áp dụng vào nghiên cứu phân tử. KHV có gắn Camera hay KHV kỹ thuật số là thiết bị hiện đại được tích hợp camera CCD cho phép xuất ra hình ảnh hay video trên máy tính. Loại kính hiển vi này sử dụng nguồn sáng đèn LED bên trong do đó không thể quan sát thông qua thị kính. Để quan sát, người dùng phải quan sát hình ảnh được hiển thị thông qua màn hình. Đối với KHV có gắn camera, người sử dụng có thể zoom lên từ 20 đến 80 lần đồng thời chụp ảnh, quay video trên phần mềm đính kèm. Kính hiển vi soi ngược còn được biết đến với tên gọi là KHV đảo ngược. Đây là loại kính có nguồn ánh sáng và tụ quang ở phía trên và ở phía dưới là bàn đặt mẫu. Trong khi đó, các vật kính còn lại và bàn để vật kính được đặt ở dưới bàn mang mẫu và hướng lên trên. KHV soi ngược được áp dụng trong lĩnh vực nghiên cứu tế bào hay các sinh vật sống,…Với cách quan sát bằng KHV soi ngược, kính sẽ giúp ta nhìn thấy được các hình ảnh tự nhiên hơn so với các loại kính thông thường khác. KHV phản pha còn được gọi là kính hiển vi tương phản. Đây là một trong những loại KHV quang học có có khả năng thay đổi độ sáng trên hình ảnh thông qua chuyển đổi lệch pha trong ánh sáng truyền qua một mẫu vật trong suốt. Hiện tượng tương phản là cơ sở để kính phản pha có thể quan sát các mẫu không màu, trong suốt hoặc không nhuộm. KHV phản pha được ứng dụng trong một số lĩnh vực chẳng hạn như sinh học phân tử, vi sinh, sinh học tế bào, và nghiên cứu về y khoa. Hiện nay một số hồng cầu, vi khuẩn, nấm mốc hay các hạt dưới mức tế bào đã có thể được quan sát bằng kính phản pha. Kính hiển vi cầm tay là một thiết bị điện tử được kết nối với máy tính thông qua cổng USB giúp hiển thị hình ảnh phóng to của vật trên màn hình máy tính. Ưu điểm lớn nhất của nó là tính nhỏ gọn, dễ dàng cầm đi thị trường. Kính cho phép người sử dụng zoom hình ảnh lên đến 100 lần. Ngoài ra, kính hiển vi cầm tay cũng có thể chụp ảnh và quay video lại trên phần mềm đi kèm máy tính. Tùy theo chủng loại và thương hiệu khác nhau mà giá thành của những loại KHV có sự thay đổi nhất định. Mức giá đối với mỗi loại KHV dao động từ 1 triệu đến vài chục triệu. Cấu hình của kính cũng là một nhân tố làm ảnh hưởng đến giá thành của kính hiển vi. Cấu hình của kính càng phức tạp thì giá thành cũng ngày càng cao hơn so với các loại kính có cấu hình đơn giản hơn. Lưu tên, email và trang web của tôi trong trình duyệt này cho lần tiếp theo tôi nhận xét.
Kính hiển vi
Kính hiển vi là một thiết bị dùng để quan sát các vật thể có kích thước nhỏ bé mà mắt thường không thể quan sát được bằng cách tạo ra các hình ảnh phóng đại của vật thể đó. Kính hiển vi có thể gấp độ phóng đại bình thường lên từ 40 - 3000 lần. Kỹ thuật quan sát và ghi nhận hình ảnh bằng các kính hiển vi được gọi là kỹ thuật hiển vi (microscopy). Ngày nay, kính hiển vi có thể bao gồm nhiều loại từ các kính hiển vi quang học sử dụng ánh sáng khả kiến, cho đến các kính hiển vi điện tử, hay các kính hiển vi quét đầu dò, hoặc các kính hiển vi phát xạ quang. Kính hiển vi được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành như vật lý, hóa học, sinh học, khoa học vật liệu, y học và được phát triển không chỉ là công cụ quan sát mà còn là một công cụ phân tích mạnh. Những kính hiển vi ban đầu được phát minh vào năm 1590 ở Middelburg, Hà Lan . Ba người thợ tạo kính là Hans Lippershey (người đã phát triển các kính viễn vọng trước đó), Zacharias Janssen, cùng với cha của họ là Hans Janssen là những người đầu tiên xây dựng nên những kính hiển vi sơ khai.
Chủ nghĩa lập thể, còn gọi là trường phái lập thể (Cubism) là một trường phái hội họa tạo ra cuộc cách mạng về hội họa và điêu khắc châu Âu vào đầu thế kỷ 20. Trong tác phẩm của họa sỹ lập thể, đối tượng được mổ xẻ, phân tích và được kết hợp lại trong một hình thức trừu tượng. Người họa sỹ không quan sát đối tượng ở một góc nhìn cố định mà lại đồng thời phân chia thành nhiều mặt khác nhau, nhiều khía cạnh khác nhau. Thông thường các bề mặt, các mặt phẳng giao với nhau không theo các quy tắc phối cảnh làm cho người xem khó nhận ra chiều sâu của bức tranh. Chủ nghĩa lập thể do Georges Braque và Pablo Picasso khởi xướng năm 1906 tại khu Montmartre của kinh đô ánh sáng Paris, Pháp. Họ gặp nhau năm 1907 và làm việc cùng nhau cho đến năm 1914, khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bắt đầu. Lập thể được sinh ra ở Pháp nhưng sau đó đã lan rộng ra khắp châu Âu và kết hợp những quan điểm nghệ thuật của một số nước. Nó nổi lên như trường phái vị lai (Vorticism) ở Ý, trường phái vị lai ở Anh, chủ nghĩa Siêu Việt hay chủ nghĩa Tuyệt đỉnh (Suprematism) và tạo dựng ở Nga, chủ nghĩa biểu hiện ở Đức. Nó cũng ảnh hưởng nhiều tới các phong cách thiết kế và kiến trúc của thế kỷ 20 và chiếm ưu thế cho đến ngày nay, là một phương thức biểu hiện trong ngôn ngữ của nghệ thuật. Trong bốn thập kỷ từ 1870-1910, xã hội phương Tây chứng kiến sự tiến bộ công nghệ hơn so với bốn thế kỷ trước. Trong thời gian này, những phát minh như chụp ảnh, quay phim, ghi âm, điện thoại, các loại xe cơ giới và máy bay đã báo trước buổi bình minh của thời đại mới. Vấn đề đối với các nghệ sĩ vào lúc này là làm thế nào để phản ánh tính hiện đại của thời đại bằng cách sử dụng các yếu tố truyền thống vốn dĩ đã phục vụ cho nghệ thuật của bốn thế kỷ trước. Nhiếp ảnh đã bắt đầu thay thế các bức tranh minh họa, và hình ảnh từ công nghệ mới với độ chính xác ngày càng cao đã trở thành thách thức đối với các họa sĩ đương thời. Nghệ sĩ cần một cách tiếp cận triệt để hơn – một “cách nhìn mới” để mở rộng những khả năng của nghệ thuật. Cách nhìn mới này cho thấy cái gọi là phái lập thể – phong cách trừu tượng đầu tiên của nghệ thuật hiện đại. Picasso và Braque phát triển ý tưởng của họ về Cubism khoảng năm 1907 tại Paris và điểm khởi đầu của họ là lợi ích chung trong các bức tranh sau này của Paul Cézanne. Nhà phê bình hội họa người Pháp Louis Vauxcelles sử dụng danh từ “lập thể” lần đầu tiên để ngụ ý rằng đó là những hình lập phương kỳ quặc vào năm 1908. Sau đó danh từ này được hai nhà khai phá của trường phái lập thể sử dụng một vài lần và cuối cùng trở thành tên gọi chính thức. Trường phái Lập thể khai sinh ở đồi Montmartre, sau đó lan ra các họa sỹ khác ở gần đó và được nhà buôn tranh Henry Kahnweiler truyền bá. Nó nhanh chóng trở nên phổ biến vào năm 1910 và được gọi là chủ nghĩa lập thể. Ban đầu hội họa của trường phái lập thể hầu hết là những bề mặt gần như đơn sắc, xám, nâu, những đường thẳng không hoàn thiện, những hình khối đan xen lẫn nhau. Vật thể bị gãy thành nhiều mảnh, tập trung vào hình thức hình học, sử dụng màu sắc nhẹ nhàng. Những người nghệ sĩ luôn cố gắng kết hợp nhiều vật thể với nhau để tạo nên các hình khối mới. Và ngày nay, Lập thể được đưa vào trong thiết kế nội thất với những khối màu nổi bật, hình dáng trừu tượng, kết hợp một cách ăn ý từ trần nhà, tường cho đến đồ nội thất. Với phong cách trang trí lập thể, chúng ta như đang đắm chìm trong bữa tiệc của màu sắc và hình khối. Đó là những căn phòng được phối màu không theo quy luật nhưng lại có mối liên hệ chặt chẽ tạo nên ấn tượng mạnh với người xem. Sắc màu không gian là sự kết hợp giữa một màu tươi sáng như vàng, xanh lá, đỏ, tím, xanh dương, cam,… và màu trắng với vẻ đẹp hết sức khỏe khoắn. Với những căn phòng kiểu này, chủ nhân cũng phải là người ưa sáng tạo và có cá tính. Không gian đôi khi như được chiếu sáng bởi những chùm tia laser bởi hiệu ứng của sự phân chia không gian thành những mảng màu đối lập, xuất hiện như các mê cung, điều đó làm cho căn phòng nhỏ hẹp trở lên rộng hơn bằng cách đánh lạc hướng mắt người xem từ tỉ lệ thực. Chúng ta có thể thấy rất rõ qua các ví dụ dưới đây. Căn bếp như được trang hoàng với sắc xanh của những nhành cây tươi mát, màu trắng cho sự thuần khiết, đó chính là nguồn không khí trong lành. Thêm vào đó là màu đỏ tươi cho độ tương phản hoàn toàn mạnh mẽ với màu xanh lá. Điều đó làm cho không gian trở nên gần gũi, tự nhiên, sống động, tiếp thêm năng lượng cho chính chủ nhân của ngôi nhà. Ban đầu tưởng chừng như nghệ thuật Lập thể và kiến trúc Lập thể không cùng tồn tại. Nhưng thực chất cả hai cùng mang đặc điểm giống nhau về hình thức và các dạng hình học. Các họa sĩ Lập thể vẽ những đối tượng trừu tượng với các dạng hình học, còn đối với kiến trúc hay thiết kế nội thất khi dựa trên nguyên tắc Lập thể thì đó là những dạng hình học được lồng vào nhau hay đơn giản là một dạng hình học đơn. Một trong những người đầu tiên thiết kế nội thất lập thể là Vlastislov Hoffman (1884-1964), mà hiện nay đã trở thành một doanh nghiệp trên toàn thế giới, ông còn thiết kế gốm sứ lập thể, thủy tinh và kim loại. Lập thể ảnh hưởng đồ nội thất hiện đã có mặt trên toàn thế giới. Để hiểu rõ hơn về trường phái lập thể trong thiết kế nội thất, mời bạn đọc cùng chúng tôi điểm qua những không gian tiêu biểu cho phong cách lập thể đương đại. Trong những không gian dưới đây, chủ nghĩa lập thể biểu hiện chủ yếu qua cách vận dụng màu sắc của nhà thiết kế. Tính hiện đại và sự trẻ trung cũng được bộc lộ rất rõ qua từng chi tiết trang trí cũng như việc sử dụng màu sắc. Lưu tên của tôi và email trong trình duyệt này cho lần bình luận kế tiếp của tôi. Cập nhật tin tức, kiến thức, kỹ năng các chuyên ngành Thiết kế và Nghệ thuật toàn cầu. Nâng tầm Thiết kế và Nghệ thuật Việt Nam
Lập thể
Chủ nghĩa lập thể, còn gọi là trường phái lập thể, (Cubism) là một trường phái hội họa tạo ra cuộc cách mạng về hội họa và điêu khắc châu Âu vào đầu thế kỷ 20. Trong tác phẩm của họa sĩ lập thể, đối tượng được mổ xẻ, phân tích và được kết hợp lại trong một hình thức trừu tượng. Người họa sĩ không quan sát đối tượng ở một góc nhìn cố định mà lại đồng thời phân chia thành nhiều mặt khác nhau, nhiều khía cạnh khác nhau. Thông thường các bề mặt, các mặt phẳng giao với nhau không theo các quy tắc phối cảnh làm cho người xem khó nhận ra chiều sâu của bức tranh. Chủ nghĩa lập thể do Georges Braque và Pablo Picasso khởi xướng năm 1906 tại khu Montmartre của kinh đô ánh sáng Paris, Pháp. Họ gặp nhau năm 1907 và làm việc cùng nhau cho đến năm 1914 khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bắt đầu. Nhà phê bình hội họa người Pháp Louis Vauxcelles sử dụng danh từ "lập thể" lần đầu tiên để ngụ ý rằng đó là những hình lập phương kỳ quặc vào năm 1908.
Phình động mạch chủ bụng là một khu vực mở rộng ở phần dưới của mạch chính cung cấp máu cho cơ thể (động mạch chủ). Động mạch chủ chạy từ tim của bạn qua trung tâm của ngực và bụng của bạn. Động mạch chủ là mạch máu lớn nhất trong cơ thể, do đó, một túi phình động mạch chủ bụng bị vỡ có thể gây chảy máu nguy hiểm đến tính mạng. Tùy thuộc vào kích thước của túi phình và tốc độ phát triển của nó, mà việc điều trị có thể khác nhau. Phình động mạch chủ bụng thường phát triển chậm mà không có triệu chứng nên khó phát hiện. Một số chứng phình động mạch không bao giờ bị vỡ. Phình động mạch có thể phát triển ở bất cứ đâu dọc theo động mạch chủ, nhưng hầu hết chứng phình động mạch chủ xảy ra ở phần của động mạch chủ nằm trong bụng. Một số yếu tố có thể đóng vai trò trong việc phát triển chứng phình động mạch chủ, bao gồm:. Làm cứng động mạch (xơ vữa động mạch). Xơ vữa động mạch xảy ra khi chất béo và các chất khác tích tụ trên niêm mạc của mạch máu. Huyết áp cao có thể làm hỏng và làm suy yếu các bức tường của động mạch chủ. Các bệnh về mạch máu. Đây là những bệnh làm cho các mạch máu bị viêm. Nhiễm trùng trong động mạch chủ. Hiếm khi, nhiễm trùng do vi khuẩn hoặc nấm có thể gây ra chứng phình động mạch chủ bụng. Ví dụ, bị tai nạn xe hơi có thể gây ra chứng phình động mạch chủ bụng. Sử dụng thuốc lá. Hút thuốc là yếu tố nguy cơ mạnh nhất. Nó có thể làm suy yếu các thành động mạch chủ, làm tăng nguy cơ không chỉ phát triển chứng phình động mạch chủ mà còn gây vỡ. Bạn hút thuốc lá càng lâu và càng nhiều thì nguy cơ phát triển chứng phình động mạch chủ càng cao. Những chứng phình động mạch này xảy ra thường xuyên nhất ở những người từ 65 tuổi trở lên. Đàn ông phát triển chứng phình động mạch chủ bụng thường xuyên hơn nhiều so với phụ nữ. Những người da trắng có nguy cơ bị phình động mạch chủ bụng cao hơn. Lịch sử gia đình. Có tiền sử gia đình bị phình động mạch chủ bụng làm tăng nguy cơ mắc bệnh này. Các chứng phình động mạch khác. Có một chứng phình động mạch trong một mạch máu lớn khác, chẳng hạn như động mạch phía sau đầu gối hoặc động mạch chủ ở ngực, có thể làm tăng nguy cơ bị phình động mạch chủ bụng. Chứng bóc tách động mạch chủ hoặc chứng phình động mạch bị vỡ là những biến chứng chính. Vết vỡ có thể gây chảy máu trong đe dọa tính mạng. Nói chung, phình mạch càng lớn và càng phát triển nhanh thì nguy cơ vỡ càng cao. Phình động mạch chủ cũng có nguy cơ hình thành cục máu đông. Nếu cục máu đông vỡ ra từ thành trong của túi phình và làm tắc nghẽn mạch máu ở những nơi khác, nó có thể gây đau hoặc chặn dòng máu đến chân, ngón chân, thận hoặc các cơ quan trong ổ bụng. Không sử dụng các sản phẩm thuốc lá. Bỏ hút thuốc, nhai thuốc và tránh khói thuốc. Ăn một chế độ ăn uống lành mạnh. Tập trung ăn nhiều loại trái cây và rau quả, ngũ cốc nguyên hạt, thịt gia cầm, cá và các sản phẩm từ sữa ít béo. Tránh chất béo bão hòa, chất béo chuyển hóa và hạn chế muối. Kiểm soát huyết áp và cholesterol của bạn. Nếu bác sĩ đã kê đơn thuốc, hãy dùng thuốc theo hướng dẫn. Tập thể dục thường xuyên. Dành ít nhất 150 phút mỗi tuần để tập thể dục nhịp điệu vừa phải. Cố gắng hình thành thói quen này. Hỏi ý kiến bác sĩ về loại hoạt động thể dục này phù hợp với bạn. Nếu bạn có nguy cơ bị phình động mạch chủ, bác sĩ có thể đề nghị các biện pháp khác, chẳng hạn như thuốc để giảm huyết áp và giảm căng thẳng cho các động mạch bị suy yếu. Như vậy, qua những thông tin Medplus đã tổng hợp, hy vọng rằng sẽ giúp bạn có thêm những thông tin bổ ích về chứng phình động mạch chủ bụng. Cảm ơn bạn đã dành thời gian đọc bài viết này của chúng tôi.
Phình động mạch chủ bụng
Phình động mạch chủ bụng được định nghĩa là sự phình khu trú của động mạch chủ bụng với đường kính ngang lớn hơn 3 cm hay 50% so với bình thường. Phình động mạch chủ bụng thường không có triệu chứng cho đến khi túi phình bị vỡ ra. Trong vài trường hợp, bệnh nhân có thể sẽ đau ở phần bụng, lưng hoặc chân. Các túi phình lớn đôi khi có thể cảm nhận được bằng cách ấn vào vùng bụng. Khi túi phình vỡ, bệnh nhân sẽ thấy đau ở bụng hoặc lưng, tụt huyết áp, hoặc ngất, và thường dẫn đến tử vong. Phình động mạch chủ bụng thường gặp ở những người trên 50 tuổi, nam giới và có tiền sử gia đình. Các yếu tố nguy cơ khác bao gồm hút thuốc lá, huyết áp cao, và các bệnh lý tim hay mạch máu khác. Các rối loạn di truyền làm tăng nguy cơ mắc bệnh bao gồm hội chứng Marfan và hội chứng Ehlers–Danlos. Phình động mạch chủ bụng là dạng thường gặp nhất của phình động mạch chủ. Khoảng 85% trường hợp túi phình nằm ở dưới thận, còn lại nằm ở vị trí ngang bằng hoặc trên thận.
Khi lý thuyết tương đối xuất hiện vào đầu những năm 1900, nó đã nâng cao lên hàng thế kỷ của khoa học và mang đến cho các nhà vật lý một sự hiểu biết mới về không gian và thời gian. Isaac Newton thấy không gian và thời gian là cố định, nhưng trong bức tranh mới được cung cấp bởi thuyết tương đối đặc biệt và thuyết tương đối rộng, chúng rất lỏng và dễ uốn. Ông đã xuất bản phần đầu của lý thuyết – thuyết tương đối đặc biệt – trong tạp chí vật lý Đức Annalen der Physik vào năm 1905 và hoàn thành lý thuyết tương đối rộng chỉ sau một thập kỷ làm việc khó khăn. Ông đã trình bày lý thuyết sau này trong một loạt các bài giảng ở Berlin vào cuối năm 1915 và được xuất bản ở Annalen năm 1916. Trong thế giới tự nhiên không có khung tham chiếu ưu tiên. Khi một vật thể đang chuyển động trên một đường thẳng với tốc độ không đổi (nghĩa là không có gia tốc), các định luật vật lý đều như nhau đối với mọi người. Nó giống như khi bạn nhìn ra cửa sổ xe lửa và thấy một đoàn tàu bên hông dường như di chuyển – nhưng nó đang di chuyển, hay bạn? Einstein nhận ra rằng nếu chuyển động hoàn toàn đều thì theo nghĩa đen là không thể nói – và xác định đây là một nguyên tắc trung tâm của vật lý. Ánh sáng di chuyển với tốc độ không thay đổi của 186.000 dặm một giây. Cho dù người quan sát đang di chuyển nhanh như thế nào hoặc một vật phát sáng đang di chuyển nhanh như thế nào, các phép đo tốc độ ánh sáng luôn mang lại kết quả tương tự. Bắt đầu từ hai định đề này, Einstein đã chỉ ra rằng không gian và thời gian đan xen theo những cách mà các nhà khoa học chưa từng nhận ra trước đây. Thông qua một loạt các thí nghiệm chỉ bằng tư tưởng, Einstein đã chứng minh rằng hệ quả của thuyết tương đối đặc biệt thường phản trực giác – thậm chí gây sửng sốt. Ví dụ, nếu bạn đang ở trong một hoả tiển và vượt qua một người bạn trong một hoả tiền khác giống hệt nhưng di chuyển chậm hơn, thì bạn sẽ thấy rằng đồng hồ bạn của bạn đang chậm hơn so với bạn (các nhà vật lý gọi đây là “sự giãn nở thời gian”). Còn gì nữa, hoả tiễn của người bạn sẽ xuất hiện ngắn hơn hoả tiển bạn. Nếu hoả tiễn bạn tăng tốc, khối lượng bạn và hoả tiễn bạn sẽ tăng lên. Bạn càng đi nhanh, mọi thứ càng trở nên nặng nề và hoả tiễn bạn sẽ chống lại mọi nỗ lực bạn làm cho hoả tiễn đi nhanh hơn. Einstein đã chỉ ra rằng không có gì có khối lượng có thể đạt tới tốc độ ánh sáng. Một hệ quả khác của thuyết tương đối đặc biệt là vật chất và năng lượng có thể hoán đổi cho nhau thông qua phương trình nổi tiếng E = mc² (trong đó E là viết tắt của năng lượng, m cho khối lượng và c² tốc độ ánh sáng nhân với chính nó). Bởi vì tốc độ ánh sáng là một con số lớn như vậy, thậm chí một khối lượng nhỏ sẽ. tương đương với – và có thể được chuyển đổi thành – một lượng năng lượng rất lớn. Đó là lý do tại sao bom nguyên tử và hydro rất mạnh. Về cơ bản, nó là một lý thuyết về trọng lực. Ý tưởng cơ bản là thay vì là một lực vô hình thu hút các vật thể với nhau, trọng lực là một đường cong hoặc cong vênh của không gian. Một vật thể càng nặng nó càng làm cong không gian xung quanh nó. Ví dụ, mặt trời đủ lớn để làm cong không gian trên hệ mặt trời của chúng ta – giống như cách một quả bóng nặng nằm trên một tấm cao su làm cong tấm cao su đó. Kết quả là Trái đất và các hành tinh khác di chuyển theo những đường cong (quỹ đạo) xung quanh nó. Sự cong vênh này cũng ảnh hưởng đến các phép đo thời gian. Chúng ta có xu hướng nghĩ về thời gian như tích tắc ở mức ổn định. Nhưng giống như trọng lực có thể kéo dài hoặc làm cong không gian, nó cũng có thể làm giãn thời gian. Nếu bạn của bạn leo lên đỉnh núi, bạn sẽ thấy đồng hồ của anh ấy chạy nhanh hơn so với của bạn; một người bạn khác, ở dưới cùng của một thung lũng, sẽ có một chiếc đồng hồ tích tắc chậm hơn, đó là vì sự khác biệt về sức mạnh của trọng lực ở mỗi nơi. Các thí nghiệm sau đó đã chứng minh rằng điều này thực sự xảy ra. thời gian không gian, và tăng khối lượng. Các phương trình liên quan đến không có gì phức tạp hơn toán học trung học. Thuyết tương đối rộng thì phức tạp hơn. Gồm các phương trình trường mô tả mối quan hệ giữa khối lượng độ cong của không gian và sự giãn nở của thời gian, thường được dạy trong các khóa học vật lý đại học cấp sau bậc cử nhân. của thuyết tương đối đặc biệt và tổng quát. Trong thử nghiệm lớn đầu tiên về thuyết tương đối rộng, các nhà thiên văn học năm 1919 đã đo độ lệch của ánh sáng từ các ngôi sao xa xôi khi ánh sáng sao qua mặt trời, chứng minh rằng trên thực tế, lực hấp dẫn làm biến dạng hoặc làm cong không gian. Năm 1971, các nhà khoa học đã thử nghiệm cả hai phần của lý thuyết Einstein bằng cách đặt đồng hồ nguyên tử được đồng bộ hóa chính xác trong máy bay và bay vòng quanh thế giới. Kiểm tra đồng hồ sau khi máy bay hạ cánh cho thấy đồng hồ trên máy bay đang chạy chậm hơn một chút (chưa đến một phần triệu giây) so với đồng hồ trên mặt đất. Sự chênh lệch xuất phát từ tốc độ của các máy bay (hiệu ứng thuyết tương đối đặc biệt) và khoảng cách lớn hơn của chúng so với tâm của trường hấp dẫn Trái đất (hiệu ứng thuyết tương đối tổng quát). trong kết cấu của không thời gian – là một xác nhận khác về thuyết tương đối rộng. Trong khi những ý tưởng đằng sau thuyết tương đối có vẻ bí truyền, thì lý thuyết này đã có tác động rất lớn đến thế giới hiện đại. Các nhà máy điện hạt nhân và vũ khí hạt nhân, chẳng hạn, sẽ không thể phát hiện nếu không có kiến thức rằng vật chất có thể biến thành năng lượng. Và mạng lưới vệ tinh GPS (hệ thống định vị toàn cầu) cần dùng đến các hiệu ứng tinh tế của cả thuyết tương đối đặc biệt và tổng quát; nếu không, những kết quả sẽ sai đi vài dặm.
Thuyết tương đối rộng
Thuyết tương đối rộng hay thuyết tương đối tổng quát là lý thuyết hình học của lực hấp dẫn do nhà vật lý Albert Einstein công bố vào năm 1915 và hiện tại được coi là lý thuyết miêu tả hấp dẫn thành công của vật lý hiện đại. Thuyết tương đối tổng quát thống nhất thuyết tương đối hẹp và định luật vạn vật hấp dẫn của Newton, đồng thời nó miêu tả lực hấp dẫn (trường hấp dẫn) như là một tính chất hình học của không gian và thời gian, hoặc không thời gian. Đặc biệt, độ cong của không thời gian có liên hệ chặt chẽ trực tiếp với năng lượng và động lượng của vật chất và bức xạ. Liên hệ này được xác định bằng phương trình trường Einstein, một hệ phương trình đạo hàm riêng phi tuyến. Nhiều tiên đoán và hệ quả của thuyết tương đối rộng khác biệt hẳn so với kết quả của vật lý cổ điển, đặc biệt khi đề cập đến sự trôi đi của thời gian, hình học của không gian, chuyển động của vật thể khi rơi tự do và sự lan truyền của ánh sáng. Những sự khác biệt như vậy bao gồm sự giãn thời gian do hấp dẫn, thấu kính hấp dẫn, dịch chuyển đỏ do hấp dẫn của ánh sáng, và sự trễ thời gian do hấp dẫn.
Tâm lý học xã hội là phân ngành của tâm lý học tập trung vào quá trình các hiện tượng xã hội ảnh hưởng lên con người và cách thức con người tương tác với nhau. Cách ta nhìn nhận về bản thân trong mối tương tác với thế giới đóng một vai trò quan trọng trong từng lựa chọn, từng hành vi và niềm tin của mỗi người. Ngược lại, ý kiến của người khác cũng ảnh hưởng đến hành vi và cách ta nhìn nhận bản thân. NĂm bắt được tâm lý học xã hội có thể hữu ích cho bạn vì nhiều lý do. Thứ nhất, ta có thể hiểu rõ hơn làm thế nào mà những nhóm người khác nhau có thể tác động lên cách chúng ta lựa chọn hay hành động. Hơn nữa, nó có thể cho phép ta đánh giá sâu rộng hơn về sự atcs động của những nhận thức xã hội lên từng mối liên hệ và tương tác của ta với người khác. Có một số nội dung cơ bản của hành vi xã hội có vai trò lớn quyết định cách ta hành động và nhìn nhận bản thân. Tương tác xã hội giúp ta đạt được mục tiêu hoặc thỏa mãn các nhu cầu. Một số mục tiêu hoặc nhu cầu chung có thể kể đến là nhu cầu được kết nối xã hội, mong muốn hiểu được bản thân và những người xung quanh, ước muốn đạt được hoặc duy trì vị thế bản thân hoặc sự bảo vệ và nhu cầu được bầu bạn. Sự tương tác giữa cá nhân và hoàn cảnh có thể quyết định kết quả. Để hiểu được đầy đủ tại sao con người lại hành động như thế này như thế kia, ta cần nhìn vào bản chất tính cách của từng cá nhân, từng tình huống/bối cảnh, và sự tương tác giữa chúng. Có nhiều thời điểm, con người ta cư xử rất khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh. Ví dụ, một người bình thường ít nói và dè dặt có thể trở nên cởi mở hơn khi bị đặt vào thế phải dẫn dắt, lãnh đạo ai đó. Một ví dụ khác là con người có những hành vi ứng xử khi ở trong một nhóm khác với lúc họ ở một mình. Các yếu tố về môi trường và hoàn cảnh đóng một vai trò quan trọng và gây ảnh hưởng lên hành vi của chúng ta. Con người thường dành ra phần lớn thời gian để suy xét các tình huống xã hội. Các mối tương tác xã hội giúp ta hình thành quan niệm và nhận thức bản thân. Một phương pháp hình thành quan niệm về bản thân là thông qua quá trình đánh giá phản chiếu, tức là ta sẽ tưởng tượng ra cách người khác nhìn nhận về chúng ta. Một phương pháp khác là qua so sánh xã hội, nơi ta so sánh bản thân với những người khác trong nhóm bạn của chúng ta. Đôi khi chúng ta so sánh theo chiều hướng đi lên, tức ta đánh giá bản thân dựa trên những người giỏi hơn, tốt hơn ta về một/một số khía cạnh nào đó. Ngoài ra, ta còn so sánh theo chiều đi xuống, tức là đối với những người kém hơn ta. Một hiện tượng phổ biến là xu hướng xác nhận sự mong đợi có sẵn, tức là ta thường ngó lơ các yếu tố mà ta không mong đợi hay nghĩ đến, thay vào đó ta chỉ tìm kiếm bằng chứng để xác nhận niềm tin ta xây dựng sẵn về người khác. Điều này giúp đơn giản hóa thế giới quan, nhưng nó cũng bóp méo nhận thức và từ đó góp phần hình thành các lối tư duy khuôn mẫu và thành kiến. Ví dụ, nếu bạn nghĩ mọi người sẽ cư xử theo cách A, bạn có thể sẽ tìm kiếm các chứng cứ để xác định niềm tin của bạn là đúng, đồng thời ngó lơ các bằng chứng đi ngược lại với niềm tin xây dựng sẵn trong bạn. Ta thường tin hành vi của một người là chỉ thị cho tính cách của họ. Thuyết suy luận tương ứng có thể giúp lý giải một yếu tố gây ảnh hưởng lên quá tình ta nhìn nhận người khác. Nó xuất hiện khi ta suy luận một hành động và hành vi nào đó của người khác có liên quan đến những ý định và tính cách của họ. Ví dụ, nếu ta thấy một người phụ nữ đang giúp đỡ một người lớn tuổi qua đường, ta có thể quy kết rằng cô ấy là một người tử tế. Hành vi mang tính cung cấp thông tin trong một số tình huống, tuy nhiên đôi lúc nó cũng không chính xác lắm đặc biệt là khi người thực hiện hành động đó cố ý. Nếu vòng tương tác giới hạn với người khác bị giới hạn trong phạm vi hẹp, hành vi chúng ta thấy có thể không mang tính điển hình hoặc được thực hiện do hoàn cảnh cụ thể thúc đẩy hơn là do bản chất, tính cách mấu chốt của người đó. Như trong ví dụ trước, người phụ nữ có thể chỉ giúp người cao tuổi vì cô ấy được thuê để làm điều đó chứ không hẳn do cô ấy có tấm lòng nhân hậu. Tìm hiểu nhiều về tâm lý học xã hội có thể mở mang sự hiểu biết của bạn về bản thân và thế giới xung quanh bạn. Qua việc tìm hiểu cách con người nhìn nhận nhau, cư xử khác nhau nhau khi ở trong những nhóm khác nhau, sự hình thành thái độ, bạn có thể đánh giá đúng đắn về những ảnh hưởng của những mối tương tác xã hội lên từng cá nhân. Đây là trang tổng hợp, dịch và hiệu đính các tài liệu về ngành tâm lý học, nhằm chia sẻ kiến thức cập nhật và đa dạng về ngành học lý thú này cho những cá nhân quan tâm. Các bài viết được tổng hợp từ nhiều nguồn, được dịch sang tiếng Việt và thể hiện bằng song ngữ để giúp thuận lợi cho quá trình tra cứu của độc giả và hạn chế sai sót trong quá trình chuyển ngữ. Nhập địa chỉ email của bạn để đăng ký theo dõi blog này và nhận thông báo về các bài mới qua email. Hãy ủng hộ để trangtamly.blog tiếp tục tồn tại và phát triển nội dung ngày càng đa dạng thông tin và hữu ích cho mọi người hơn. Mọi sự đóng góp đều vô cùng đáng quý. Chân thành cám ơn các bạn!
Giả thuyết tâm lý xã hội
Giả thuyết tâm lý xã hội, viết tắt PSH, lập luận rằng ít nhất một số báo cáo UFO được giải thích tốt nhất bằng phương thức tâm lý hoặc xã hội. Nó thường trái ngược với giả thuyết ngoài Trái Đất (ETH) khá nổi tiếng và đặc biệt phổ biến trong giới nghiên cứu UFO ở Anh, như David Clarke, Hilary Evans, biên tập viên của tạp chí Magonia, và nhiều cộng tác viên cho tạp chí Fortean Times. Nó cũng phổ biến ở Pháp kể từ khi xuất bản một cuốn sách vào năm 1977 được viết bởi Michel Monnerie, với nhan đề Et si les ovnis n existaient pas? (Điều gì xảy ra nếu UFO không tồn tại?). Giới UFO học cho rằng giả thuyết tâm lý xã hội đôi khi bị nhầm lẫn với việc hạ bệ chống lại ETH tích cực, nhưng có một sự khác biệt quan trọng ở chỗ nhà nghiên cứu PSH coi UFO là một chủ đề thú vị đáng để nghiên cứu nghiêm túc, ngay cả khi nó được tiếp cận bằng thái độ hoài nghi (tức là cách không đáng tin).Giả thuyết tâm lý xã hội được xây dựng dựa trên phát hiện rằng hầu hết các báo cáo UFO đều có những giải thích thông thường như thiên thể, đèn máy bay, bóng bay và một loạt những thứ lẫn lộn khác nhìn thấy trên bầu trời thể hiện sự hiện diện của bầu không khí cảm xúc bất thường làm sai lệch nhận thức và ý nghĩa thấy được và sự bất thường của các chất kích thích trên mặt đất đơn thuần.
Kinh xuất hiện khoảng thế kỉ thứ 2 sau Công nguyên, mang tên của Duy-ma-cật (tiếng Phạn: विमलकीर्ति, Vimalakīrti), một cư sĩ giàu có, sống cuộc đời thế tục nhưng vẫn đi trên con đường Bồ Tát. Nhờ kinh này mà người ta có thể xem cư sĩ và tăng sĩ có một mục đích như nhau trên đường tiến đến giác ngộ. Điều may mắn hiếm có là Phạn bản của kinh này – được cho là thất truyền từ bao nhiêu thế kỉ – đã được Giáo sư Takahashi Hisao (Cao Kiều Thượng Phu) phát hiện ngày 30 tháng 6 năm 1999, trong khi ông cùng nhóm nghiên cứu đang sưu tầm thư tịch trong thư viện của cung điện Potala, kinh đô Lhasa, Tây Tạng. Sau hơn bốn năm nghiên cứu và ký âm la-tinh, bản này được nhóm Nghiên cứu Văn học Phật giáo Sanskrit, Viện Đại học Taisho, Tokyo (大正大學總合佛教研究所—梵語佛典研究會) phát hành tháng 3 năm 2004. Chất lượng văn bản khá tốt mặc dù còn nhiều lỗi ghi chép, cần được chỉnh lại trước khi dịch. Tuy nhiên, việc cho ra một bản khảo cứu vẫn còn là một điều đáp ứng được, đòi hỏi một công trình nghiên cứu, đối chiếu phục hồi văn bản hẳn hoi. dharmatāśīla) dịch cuối thế kỷ 8. Bảng Tạng văn này được xem là giống bản gốc Phạn nhiều nhất. Bản gốc Phạn và bản dịch Tạng có 12 chương, trong khi ba bản Hán có 14 chương. Tên các chương của bản Phạn và Tạng gần như giống nhau hoàn toàn. Ngoài các bản dịch Hán, Tạng nói trên còn nhiều bản dịch sang tiếng Anh, Pháp, Đức quan trọng khác; được dịch từ các bản dịch Hán, Tạng nêu trên. Trong các bản dịch tiếng Việt thì bản của Thượng toạ Thích Tuệ Sỹ chỉnh hơn hết. Thượng toạ dịch từ bản Cưu-ma-la-thập, nhưng đối chiếu với hai bản Hán còn lại, thêm vào đó so với bản Phạn cũng như những bản chú giải căn bản của Khuy Cơ, Tăng Triệu, Cát Tạng, v.v…. Khung cảnh của kinh này thuật lại hoàn cảnh Duy-ma-cật đang lâm bệnh tại nhà. Bệnh của ông được hiểu như một sự khéo léo trong lúc áp dụng phương tiện (sa. Phật cử nhiều đại đệ tử đi đến nhà ông hỏi thăm nhưng tất cả đều khước từ. Cách hiểu sai lầm của họ về giáo lý đã được Duy-ma-cật chỉnh lại và vì thế họ hổ thẹn, không dám đại diện Phật đến hỏi thăm. Giáo lý của kinh này được trình bày rõ nhất trong chương thứ ba. Bài dạy cho Xá-lợi-phất ngay đầu chương đã đưa ngay lập trường của thiền Đại thừa, đặc biệt là Thiền như Thiền tông chủ trương. Trong chương thứ tư, khi được Văn-thù hỏi thăm vì sao bệnh và thế nào thì hết được, Duy-ma-cật nhân đây giảng rõ về đạo hạnh của một vị Bồ Tát cho tất cả cùng nghe. Quan niệm trọng yếu của kinh này là tính không (sa. śūnyatā) của tất cả các pháp. Trong tính không này thì cả Hữu lẫn Vô đều được hợp nhất. advaya) là nền tảng của giáo lý trong kinh này thế nhưng, bất nhị rất khó diễn bày. Ba mươi hai vị Bồ Tát (chương 8) đều không trình bày nổi. Ngay cả Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi (sa. mañjuśrī) – hiện thân của trí huệ siêu việt – cũng không giải thích nổi bởi vì ngôn ngữ không thể diễn bày Pháp môn bất nhị này. Chỉ có Duy-ma-cật giãi bày bằng sự im lặng, một sự im lặng sấm sét (mặc như lôi 默如雷). Im lặng ở đây không phải là không hiểu, không diễn bày mà chính là ngôn ngữ tuyệt đỉnh, ngôn ngữ duy nhất có thể trình bày cái Bất khả tư nghị (sa. Ngoài ra, kinh này còn minh họa rất sinh động cách sống của người Phật tử để nhắm đến giải thoát và cách áp dụng tri kiến về tính không trong cuộc sống hàng ngày, được Phật tử tại Đông Á, Đông Nam Á rất ưa chuộng và tụng đọc. Rất nhiều bài luận chú được viết và nổi tiếng nhất là: Chú Duy-ma (zh. Tại Nhật, Thánh Đức Thái tử (zh. 聖德太子, 574-662) đã viết một bài luận quan trọng về kinh này dưới tên Duy-ma kinh nghĩa sớ (zh. Ông dùng bản dịch của Cưu-ma-la-thập và có lẽ vì vậy, bản dịch này được sử dụng nhiều hơn hết tại Đông Á. Sự kiện xảy ra tại rừng Am-la-vệ (sa. āmrapālīvana), nơi Phật Thích-ca Mâu-ni thuyết pháp cho Pháp hội với rất nhiều Thanh Văn, Bồ Tát và chư thiên tham dự. Một đồng tử với tên Bảo Tích (sa. ratnākara) cùng với 500 đồng tử thuộc dòng tộc Li-thiếp-tì (sa. licchavi) đến dự pháp hội, tán thán Phật qua một bài kệ khá dài được ghi lại dưới dạng tiếng Phạn lai (hybrid Sanskrit). Sau đó, Phật giải thích thế nào là sự thanh tịnh của Phật độ và sự thanh tịnh tâm của một vị Bồ Tát. Cuối cùng, Phật xua tan hoài nghi của Xá-lợi-phất và những vị khác, nói lý do vì sao thế giới này không thanh tịnh mặc dù Phật xuất hiện, và sau đó, ngài thi triển thần thông để pháp hội có thể chứng kiến được điều này. Cảnh tượng được chuyển đến nhà một vị cư sĩ với tên Duy-ma-cật. Cư sĩ không rời nhà được vì thụ bệnh. Những nhân vật quan trọng trong thành phố Quảng Nghiêm đều đến thăm ông và nhân dịp này, ông ta trình bày cho họ những khuyết điểm của thân thể, đặc điểm của thân Phật và vì sao ta nên gắng sức tu tập để đạt được thân Phật. Duy-ma-cật suy tư tại sao Phật không gửi ai đến hỏi bệnh an ủi. Tuy nhiên, tất cả những vị này đều từ chối đi thăm với lý do là đã bàn luận với ông và hổ thẹn vì không đủ khả năng đối đầu tài biện luận của vị cư sĩ này. Và cũng như vậy, bốn vị Bồ Tát Di-lặc (sa. sudatta) đều khước từ đi thăm. Chương này được ba bản Hán phân làm hai chương, tức là III và IV với phần thứ nhất miêu tả hoàn cảnh của mười đại đệ tử hàng Thanh Văn và phần hai bao gồm cuộc nói chuyện với bốn vị Bồ Tát. Cuối cùng, Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi chấp nhận yêu cầu của Phật. Khung cảnh được chuyển về nhà của cư sĩ Duy-ma-cật, một căn phòng nhỏ bé nhưng có thể dung nạp vô số người viếng thăm. Nơi đây, cuộc đàm thoại giữa Văn-thù-sư-lợi và Duy-ma-cật bắt đầu. Rất nhiều Bồ Tát, thiên, nhân và vô số chúng sinh khác đến nghe cuộc đàm thoại vô song giữa hai người được tán thán là trí huệ đệ nhất. Các đề tài được đàm luận ở đây là tính không (sa. śūnyatā), một cái nhìn phân tích sâu sắc về bệnh tình của Duy-ma-cật và lĩnh vực hoạt động (sa. gocara) của một Bồ Tát. Xá-lợi-phất suy nghĩ là pháp hội lớn như thế làm sao có chỗ ngồi trong căn phòng nhỏ. Duy-ma-cật biết ý khuyên tôn giả Xá-lợi-phất không nên tìm chỗ ngồi mà phát tâm cầu pháp, và sau đó ông ta giải thích ý nghĩa của việc cầu pháp này. Pháp hội ngồi trên những toà sư tử to lớn, được Như Lai Tu-di Đăng Vương (sa. Sau đó, Duy-ma-cật diễn giảng sự giải thoát bất khả tư nghị (sa. acintyavimokṣa) cho các vị Như Lai và Bồ Tát. Cuộc luận đàm giữa Văn-thù-sư-lợi và Duy-ma-cật được tiếp nối và lần này, những điểm quan trọng dành cho một Bồ Tát được đề cập đến. Ví dụ như Duy-ma-cật giải một trường hợp nghịch lý là Bồ Tát một mặt xem chúng sinh không thật hiện hữu, nhưng mặt khác vẫn phát triển lòng đại bi (sa. mahāmaitrī) dành cho chúng sinh. Sau đó, một thiên nữ (sa. devatā) xuất hiện và bắt đầu một luận đàm nghịch lý với Xá-lợi-phất với nội dung nhấn mạnh bản chất ưu việt của Đại thừa. Sau khi giảng tám điều huyền diệu nơi nhà Duy-ma-cật, thiên nữ thi triển thần thông, hoán chuyển hình tướng giữa chính mình với Xá-lợi-phất để làm tôn giả tin vào tính phi nam phi nữ của các pháp. Cuối cùng, Duy-ma-cật cho biết thiên nữ này trước đây đã phụng sự nhiều vị Phật nên giờ đây đạt được những năng lực siêu nhiên, thi triển thần thông một cách ung dung tự tại (sa. Cuộc đàm luận giữa Văn-thù-sư-lợi và Duy-ma-cật được tiếp nối và bây giờ, Duy-ma-cật giảng thế nào là theo Phật đạo mặc dù không trực tiếp đi trên đường này, cũng như giảng thế nào là chủng tính Như Lai. Thêm vào đó, ông còn dùng bài kệ được ghi lại bằng tiếng Phạn lai (hybrid Sanskrit) để ứng đáp vị Bồ Tát tên Hiện Nhất Thiết Sắc Thân (sa. Theo lời yêu cầu của Duy-ma-cật, ba mươi mốt vị Bồ Tát trình bày quan điểm của mình về pháp môn bất nhị. Khi Văn-thù-sư-lợi trình bày quan điểm của mình và yêu cầu Duy-ma-cật trình bày kiến giải, ông ta chỉ lặng thinh. Xá-lợi-phất nghĩ đến giờ ăn và thức ăn cho các vị trong hội. Duy-ma-cật biết ý, hiện thần thông cho đại chúng thấy cảnh ẩm thực ở Phật độ Nhất Thiết Diệu Hương (sa. Duy-ma-cật dùng thần lực tạo một vị Bồ Tát uy nghiêm, bảo vị này đến Phật độ kia khất thực. Vị Bồ Tát này trở về bát khất thực đầy thức ăn và được 90.000 Bồ Tát hộ tòng. Duy-ma-cật trao đổi ý kiến với các vị Bồ Tát từ cõi Nhất Thiết Diệu Hương về cách dạy của Phật Tối Thượng Hương Đài và của Phật Thích-ca Mâu-ni. Sự việc lại chuyển đến khu rừng Am-la-vệ tại thành Quảng Nghiêm. Toàn pháp hội tại nhà Duy-ma-cật được chuyển đến rừng Am-la-vệ, ngay trước mặt Phật Thích-ca. Sau khi hỏi Duy-ma-cật, A-nan-đà bạch Phật rằng thức ăn tại nhà Duy-ma-cật có cùng hiệu quả như hiệu quả của Phật (sa. Phật Thích-ca đồng ý và thuyết một bài pháp tên Ngộ nhập nhất thiết Phật pháp pháp môn (sa. sarvabuddhadharmapraveśa), giải thích những điểm sau: những điểm dị biệt và giống nhau của Phật độ, tính bình đẳng và bất khả tư nghị của Phật, tính chất siêu việt của các vị Bồ Tát so với hàng Thanh Văn. Thể theo yêu cầu của các vị Bồ Tát từ Phật độ Nhất Thiết Diệu Hương (sa. sarvagandhasugandha), Phật Thích-ca giảng thêm pháp môn Tận vô tận vô ngại giải thoát pháp môn (sa. Các vị Bồ Tát nghe bài thuyết pháp (sa. dharmaparyāya) xong hoan hỉ trở về Phật độ của họ. Được Phật hỏi quán Như Lai như thế nào, Duy-ma-cật trình bày cách quán Như Lai, tức là quán thân Như Lai như thể không hiện hữu. Xá-lợi-phất trao đổi vài lời với Duy-ma-cật và sau đó, Phật cho Xá-lợi-phất biết rằng Duy-ma-cật đến từ cõi Diệu Hỉ (sa. abhirati) của Phật Bất Động (sa. Biết pháp hội muốn chứng kiến cõi Diệu Hỉ, Phật Thích-ca yêu cầu Duy-ma-cật chỉ cho họ. Duy-ma-cật liền dùng thần thông nắm lấy cõi Diệu Hỉ bằng bàn tay mặt mang đến cho pháp hội xem. Sau khi thụ ký là những người trong pháp hội sẽ tái sinh tại Phật độ Diệu Hỉ này, Duy-ma-cật mang Phật độ Diệu Hỉ đưa về chỗ cũ. Sau đó, Phật Thích-ca nhấn mạnh đến công đức đạt được khi bảo trì bài kinh (sa. śakra) hứa sẽ bảo hộ kinh và những ai thụ trì đọc tụng kinh này. Phật tán thán và kể lại mẩu truyện của Chuyển luân thánh vương tên Bảo Cái (sa. ratnacchattra) và các người con trai của ông, nói về việc cúng dường pháp (sa. Sau đó, Phật phó chúc pháp vô thượng chính đẳng chính giác cho Bồ Tát Di-lặc và cuối cùng, A-nan-đà được Phật yêu cầu thụ trì và truyền bá kinh này rộng rãi.
Duy-ma-cật sở thuyết kinh
Duy-ma-cật sở thuyết kinh (tiếng Phạn: विमलकीर्तिनिर्देशसूत्र, tiếng Tạng chuẩn: འཕགས་པ་དྲི་མ་མེད་པར་གྲགས་པས་བསྟན་པ་ཞེས་བྱ་བ་མདོ།, Vimalakīrti Nirdeśa Sūtra, tiếng Trung: 維摩詰所說經) là một tác phẩm quan trọng của Phật giáo Đại thừa, có ảnh hưởng rất lớn đến nền Phật giáo tại Trung Quốc, Việt Nam và Nhật Bản. Kinh xuất hiện khoảng thế kỉ thứ 2 sau Công nguyên, mang tên của Duy-ma-cật (tiếng Phạn: विमलकीर्ति, Vimalakīrti), một cư sĩ giàu có, sống cuộc đời thế tục nhưng vẫn đi trên con đường Bồ Tát. Nhờ kinh này mà người ta có thể xem cư sĩ và tăng sĩ có một mục đích như nhau trên đường tiến đến giác ngộ. Điều may mắn hiếm có là Phạn bản của kinh này - được cho là thất truyền từ bao nhiêu thế kỉ - đã được Giáo sư Takahashi Hisao (Cao Kiều Thượng Phu) phát hiện ngày 30 tháng 6 năm 1999, trong khi ông cùng nhóm nghiên cứu đang sưu tầm thư tịch trong thư viện của cung điện Potala, kinh đô Lhasa, Tây Tạng. Sau hơn bốn năm nghiên cứu và ký âm la-tinh, bản này được nhóm Nghiên cứu Văn học Phật giáo Sanskrit, Viện Đại học Taisho, Tokyo (大正大學總合佛教研究所—梵語佛典研究會) phát hành tháng 3 năm 2004.
Nước cộng hòa này nằm trên bán đảo Krym, được phần lớn các quốc gia trên thế giới công nhận là lãnh thổ của Ukraina song hiện do Nga quản lý. Cộng hòa Krym và thành phố liên bang Sevastopol là hai thực thể cấu thành Vùng liên bang Krym. Ukraina cũng như hầu hết các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc hiện không công nhận hành động sáp nhập Krym của Nga từ sau sự kiện Trưng cầu dân ý Krym 2014 và tiếp tục xem Krym là một nước cộng hòa tự trị thuộc Ukraina. Đại hội đồng Liên Hợp Quốc còn ra Nghị quyết 68/262 không mang tính ràng buộc để lên án hành động này của Nga. Tuy nhiên Nga bác bỏ nghị quyết trên và Bán đảo Krym trở thành một phần của Liên bang Nga trước sự bất lực của Ukraina. Cơ quan lập pháp Cộng hòa Krym là nghị viện 100 ghế và đã được đổi tên từ Hội đồng Tối cao Krym thành Hội đồng Nhà nước Krym (tiếng Nga: Государственный Совет Республики Крым). Cơ quan hành pháp là Hội đồng Bộ trưởng Krym, đứng đầu là Thủ tướng Krym. Quyền lực và hoạt động của các cơ quan này do Hiến pháp Krym và các luật khác của Krym quy định, cũng như bởi các quyết định thường kì của Hội đồng Nhà nước Krym. Ở Krym có một tổ chức phi chính thức gọi là Mejlis của người Tatar Krym. Tổ chức này đại diện do cộng đồng người Tatar Krym và thể hiện sự bất bình đối với Hội đồng Nhà nước, Thủ tướng và các tổ chức quốc tế. Cộng hòa Krym giữ nguyên cách phân chia hành chính như của Cộng hòa Tự trị Krym, tức là cả nước cộng hòa vẫn được chia thành 25 vùng: 14 huyện và 11 “đô thị tự trị thành phố” (“lãnh thổ do hội đồng thành phố quản hạt”). Vùng được thành lập vào ngày 21 tháng 3 năm 2014 và bao gồm Cộng hòa Krym và thành phố liên bang Sevastopol. Kết quả cuộc bỏ phiếu về sự toàn vẹn lãnh thổ của Ukraina tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc vào tháng 3 năm 2014. Tình trạng pháp lý của nước Cộng hòa Krym vẫn nằm trong vòng tranh cãi giữa Nga và các quốc gia khác. Nga và một số nước công nhận sự độc lập của Krym và Sevastopol, cũng như công nhận sự gia nhập Liên bang Nga của chúng. Đa số các quốc gia trên thế giới không công nhận các hành động này. Nga cho rằng kết quả của cuộc trưng cầu dân ý diễn ra tại Krym là bằng cớ cho sự sáp nhập, song trên trường quốc tế hành động của Nga đã bị lên án là một sự vi phạm chủ quyền của Ukraina. Bản thân Ukraina vẫn xem Krym và Sevastopol là các đơn vị hành chính của nước mình chiểu theo luật pháp Ukraina. Ngày 21 tháng 3 năm 2014, Armenia công nhận cuộc trưng cầu dân ý Krym, dẫn tới chuyện Ukraina triệu hồi đại sứ của mình tại Armenia về nước. Trước đó vào ngày 17 tháng 3, Cộng hòa Nagorno-Karabakh cũng công nhận cuộc trưng cầu dân ý trên. Ngày 22 tháng 3 năm 2014, Tổng thống Afghanistan Hamid Karzai cho một phái đoàn Hoa Kỳ biết rằng ông công nhận và ủng hộ cuộc trưng cầu dân ý Krym, và ông “tôn trọng ý chí độc lập của nhân dân Krym và Sevastopol nhằm quyết định tương lai của chính họ.” Ngày 23 tháng 3 năm 2014, Belarus công nhận Krym là một bộ phận trên thực tế của Nga. Ngày 27 tháng 3 năm 2014, Nicaragua công nhận không điều kiện việc sáp nhận Krym vào Liên bang Nga. Ngày 27 tháng 3 năm 2014, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc tiến hành bỏ phiếu đối với Nghị quyết 68/262 không mang tính ràng buộc có nội dung tuyên bố rằng cuộc trưng cầu dân ý Krym là vô hiệu và tái khẳng định sự toàn vẹn lãnh thổ của Ukraina. Kết quả có 100 phiếu thuận, 11 phiếu chống, 58 phiếu trắng và 24 thành viên vắng mặt. Kênh truyền hình RT viện lý do rằng các nước phương Tây đã dùng phương cách “hăm dọa chính trị và đe dọa kinh tế” để ép buộc nhà ngoại giao các nước phải bỏ phiếu thuận, trong khi đó hãng thông tấn Reuters lại viện lý do rằng phái đoàn Nga đã de dọa sẽ trừng phạt một số quốc gia Đông Âu và Trung Á nếu họ ủng hộ nghị quyết. Ngày 6 tháng 4 năm 2014, Tổng thống Cộng hòa Séc Miloš Zeman trả lời phỏng vấn một đài phát thanh Séc rằng các cường quốc phương Tây và cụ thể là Liên minh châu Âu nên chấp nhận sự thật rằng Krym giờ đã là một phần của Nga. Ông cho rằng Krym sẽ không quay lại với Ukraina trong tương lai có thể dự đoán trước. Trước khi cuộc bỏ phiếu, các nước đứng về phía Ukraine đã mong muốn có được tỷ lệ áp đảo phản đối cuộc trưng cầu dân ý của Crimea nhằm thể hiện sự cô lập của quốc tế đối với nước Nga trong cuộc khủng hoảng này. Mong muốn này của các quốc gia ủng hộ Ukraine đã không thể trở thành hiện thực khi nhiều nước thành viên đảo ngược cam kết trước đó, do sự vận động hành lang quyết liệt của Nga. “Nhiều thành viên Liên hiệp quốc tránh bỏ phiếu về những cuộc tranh chấp nhạy cảm không liên quan tới họ tại Đại hội đồng”, ông Richard Gowan, một chuyên gia từ Trung tâm Hợp tác quốc tế thuộc Đại học New York, đánh giá. “Chẳng hạn, các nước châu Phi đặc biệt tránh bỏ phiếu thuận hoặc chống các nghị quyết về nhân quyền ở Iran hay Triều Tiên”. Tuy nhiên, nghị quyết của Đại hội đồng Liên hiệp quốc về Crimea có thể được sử dụng như một bằng chứng để chống lại Nga, trong quá trình tìm kiếm sự công nhận quốc tế đối với việc Crimea trở thành lãnh thổ của nước này. Theo một nhà ngoại giao của Liên hiệp quốc, Đại sứ Nga tại Liên hiệp quốc Vitaly Churkin đã ra sức vận động các thành viên tổ chức này để có được con số nhiều nhất có thể các thành viên bỏ phiếu trắng hoặc vắng mặt trong cuộc bỏ phiếu ngày 27/3. Khi gặp đại diện các nước châu Phi và Trung Á, ông Churkin đã nhắc lại việc Nga đã từng thể hiện sự ủng hộ đối với họ như thế nào. Một số nước thông cảm với Ukraine quyết định bỏ phiếu trắng vì không muốn “dính” vào cuộc xung đột. Một số khác lo sẽ phá hỏng quan hệ kinh tế với Nga. Về phần mình, 28 nước thành viên EU và Mỹ cũng mở một chiến dịch ngoại giao nhằm chống lại những nỗ lực vận động hành lang của Nga. Đại sứ Nhật tại Liên hiệp quốc Motohide Yoshikawa nói: “Đây không chỉ là một vấn đề của riêng Ukraine hay châu Âu. Bất kỳ nỗ lực nào nhằm thay đổi hiện trạng bằng vũ lực đều là thách thức nghiêm trọng đối với toàn bộ cộng đồng quốc tế”. Ngoại trưởng Ukraine Andriy Deshchytsya cho rằng nước này tìm đến Đại hội đồng Liên hiệp quốc để gửi đi “một thông điệp quan trọng rằng, cộng đồng quốc tế sẽ không cho phép những gì xảy ra ở Crimea trở thành một tiền lệ cho những thách thức sau này đối với khuôn khổ luật pháp quốc tế”. Cuối năm 2014, EU, Mỹ và Canada đã ban hành nhiều quy định cấm mới liên quan tới việc Nga nhập Krym vào nước mình, hầu như cấm mọi hoạt động kinh tế chung với vùng này. Các công ty Âu Châu và cả các công ty Âu Châu đặt cơ sở ở Krym không được phép mua bất cứ loại tài sản nào, và không được cho các công ty địa phương mượn tiền hay cung cấp các dịch vụ tài chính. Họ cũng bị cấm bán, cung cấp hay xuất cảng hàng hóa và kỹ thuật về lưu thông, thông tin, nhiên liệu, dầu hỏa và tìm kiếm khí đốt. Các cơ sở du lịch ở EU bị cấm không được tổ chức các cuộc du lịch đến bán đảo này, và các tàu du lịch EU không được phép vào các cảng ở đó. Tổng thống Hoa Kỳ Obama cũng đưa ra những biện pháp trừng phạt tương tự. Hiệp hội Bóng Đá châu Âu (UEFA) đã ra quyết định, các hội của bán đảo này không được phép tham dự vào các giải mà hiệp hội bóng đá Nga (RFS) tổ chức, tổng thư ký của UEFA Gianni Infantino sau cuộc họp của ủy ban điều hành ở Nyon đã cho biết. Quyết định này có giá trị từ đầu năm 2015. Không có sự đồng ý của UEFA và hiệp hội bóng đá Ukraina (FFU), RFS cũng không được tổ chức các cuộc thi ở Krym. Nếu hiệp hội bóng đá Nga vi phạm quyết định này, họ sẽ phải chịu một biện pháp kỷ luật, Infantino nói.
Bán đảo Krym
Bán đảo Krym hay Crưm (tiếng Ukraina: Кримський півострів, tiếng Nga: Крымский полуостров, tiếng Tatar Krym: Qırım yarımadası, tiếng Hy Lạp cổ: Κιμμερία/Ταυρική, chuyển tự Kimmería/Taurikḗ) là một bán đảo lớn ở châu Âu được nước bao bọc gần như hoàn toàn. Bán đảo nằm ngay về phía nam của đất liền của Ukraina và về phía tây của miền Kuban thuộc Nga. Bán đảo Krym nằm giữa hai biển Azov và biển Đen và được nối với đất liền của Ukraina theo eo đất Perekop. Về hành chính, bán đảo này là một chủ thể liên bang Nga trong cuộc Khủng hoảng Krym 2014 khi Nga sáp nhập lãnh thổ này sau cuộc trưng cầu dân ý của cư dân trên bán đảo từ Ukraina. Tuy nhiên nhiều nước không công nhận sự sáp nhập này và coi bán đảo vẫn thuộc chủ quyền của Ukraine. Lãnh thổ Krym bị chiếm đóng nhiều lần trong lịch sử. Các sắc dân như Kimmeri, Hy Lạp, Scythia, Goth, Hung, Bulgar, Khazar, quốc gia Rus Kiev, Đế quốc Đông La Mã của người Hy Lạp, Kim Trướng hãn quốc của người Tatar và người Mông Cổ đều từng có thời gian kiểm soát Krym.
Khoa học, văn hóa, giáo dục, tâm lý, thể thao và một lối sống lành mạnh. các tăng nặng Quá mức hoặc chăn thả gia tăng xảy ra khi thảm thực vật của lãnh thổ chưa phục hồi hoàn toàn từ chăn thả quá khứ khi đồng cỏ của vùng đất đột nhiên bị loại bỏ mà không có đủ thời gian tăng trưởng để đạt đến trạng thái trưởng thành tối ưu cho thức ăn gia súc. Điều này có thể xảy ra với vật nuôi hoặc với động vật hoang dã, trong các khu vực nông nghiệp được quản lý kém, các khu bảo tồn tự nhiên hoặc cả ở các khu vực được xác định để buôn bán động vật. Nó đại diện cho một mối đe dọa đối với môi trường làm cho chất thực vật còn lại giảm, mang lại hậu quả tiêu cực cho đất và động vật. Quá tải thể hiện một chủ đề thách thức môi trường để giữ cân bằng tự nhiên vì nó làm giảm tính hữu dụng, năng suất và đa dạng sinh học của đất. Một số nguyên nhân chính gây ra tình trạng quá tải là: dân số động vật trên một ha đất cao, giảm diện tích chăn thả để tăng không gian nông nghiệp, quy hoạch không đầy đủ và quản lý kém đồng cỏ của người sản xuất, thiếu Phương pháp tiếp cận để cải thiện đồng cỏ bản địa, khan hiếm nước hoặc hệ thống thủy lợi không đủ, suy thoái đất và xói mòn đất. Nếu nhiều động vật gặm cỏ trong chu vi mà không có sự giám sát và xoay vòng phù hợp với sự phát triển của đồng cỏ, chúng có xu hướng ăn cây và hạt non, làm giảm khả năng sống sót và sinh sản của chúng, do đó phá hủy thành phần đất dinh dưỡng cuối cùng làm xấu đi sự phát triển của cây và ảnh hưởng đến sự phát triển của động vật. Các nhà máy dinh dưỡng được tiêu thụ đầu tiên mà ít hấp dẫn hơn, điều này khiến cho những cây cuối cùng này phát triển cho đến khi trưởng thành và giải phóng hạt của chúng, trong một số trường hợp, những cây ít ngon miệng này có thể không đủ cho đồng cỏ, ví dụ như cây gai hoặc với chất độc. Người ta tin rằng quá mức là một nguyên nhân của sự lây lan của các loài và cỏ dại xâm lấn, không bản địa. Đó là, thành phần của các loại thảo mộc là không hấp dẫn hoặc có hại cho vật nuôi. Nếu động vật gặm nhấm nhiều thời gian trên một số không gian nhất định, chúng sẽ làm nản lòng sự phát triển của rễ cây thảo mộc, vì chúng không thể tạo ra năng lượng cần thiết để thực hiện quá trình quang hợp và phát triển. Nếu rễ của chúng không phát triển đúng cách và nhỏ, có nguy cơ cây bị chết trong mùa khô. Do đó, quá mức có thể dẫn đến cái chết của tất cả các nhà máy của một khu vực cụ thể, tạo ra một loại đất khô và vô trùng làm cho sự tăng trưởng mới là không thể. Thường thì chăn thả gia súc ở một khu vực nhất định vượt quá khả năng mang vác. Dân số chăn nuôi lớn này cần được cho ăn đúng cách và đất không phù hợp với sự tăng trưởng và sinh sản lý tưởng của nó. Tác động của quá mức bao gồm: xói mòn đất, suy thoái đất và mất các loài hữu ích. Sự giảm độ che phủ thực vật và loại bỏ đất theo bước chân của động vật tạo ra đất dễ bị tác nhân xói mòn, thuận lợi cho sự xói mòn của nước bởi mưa, gió mạnh và các yếu tố khác. Rễ là chất kết dính cần thiết để nén chặt đất và khi loại bỏ các loại thảo mộc, đất trở nên lỏng lẻo và dễ bị ảnh hưởng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng tái sinh của cây. Xói mòn làm giảm giá trị bán của các lĩnh vực vì chúng kém năng suất do suy thoái môi trường tiến bộ. Trong trường hợp cực đoan, quá mức có thể dẫn đến sa mạc hóa biến vùng đất màu mỡ thành sa mạc. Xói mòn do hậu quả của quá mức có thể gây ra suy thoái lớn của đất. Có một vùng đất trống và lộ ra mà không có thảm thực vật, trạng thái hoạt động của nó giảm dần, vì rễ không thể đi sâu và không có độ ẩm cần thiết. Những điều đã nói ở trên, góp phần vào một loại đất nghèo hữu cơ, khô, nén, làm mất khả năng xâm nhập; gây mất nước mà không giữ được độ ẩm, gây vô sinh và mất cấu trúc đất. Quá mức kết hợp với dân số dư thừa hóa ra là bất lợi nhất cho môi trường. Sự khan hiếm nước ở một số vùng lãnh thổ và sự ô nhiễm của nó, cũng như sự thoái hóa của các rạn san hô, có liên quan đến tình trạng quá tải, vì các chất ô nhiễm chính của nó là chất thải động vật và hóa chất nông nghiệp. Ở những vùng khô và khí hậu nóng, ảnh hưởng tồi tệ hơn, lớp đất bị phá hủy, khiến tiến trình sa mạc hóa không ngừng. Việc lập kế hoạch và quản lý động vật hợp lý, có thể cải thiện điều kiện chăn thả và tối ưu hóa việc sản xuất cỏ nghĩ về sức khỏe của đất. Quá mức gây hại cho thành phần của quần thể thực vật và ngăn chặn sự tái sinh thích hợp của nó, do đó các loài thực vật hữu ích bị mất để lấy thức ăn và sự sống của động vật. Sự đa dạng và sức sống của các loài thực vật suy ra độ sâu của đất làm thay đổi độ ẩm của nó để nó thịnh vượng. Gia súc có thể làm rụng lá hơn một nửa số cây trồng vào đầu mùa sinh trưởng của cây. Rễ rất nhạy cảm với sự rụng lá này và sự phát triển của chúng ở cây non sẽ ngừng tăng trưởng trong khoảng thời gian từ một đến hai tuần, sự giảm thiểu của rễ tham gia vào việc giảm sức sống của cây. Mất đồng cỏ ban đầu là một rủi ro, vì chúng là loại thảo mộc chất lượng tốt nhất và là nguồn dinh dưỡng tuyệt vời được động vật ưa thích. Một số giải pháp chính bao gồm nén tốc độ tăng trưởng của cây vì mỗi loài cây cần nhiều hơn hoặc ít thời gian hơn để phát triển cho đến khi đạt đến độ chín. Việc luân chuyển chăn thả dựa trên sự tăng trưởng của đồng cỏ đang loại bỏ nhiều vấn đề phát sinh với việc tăng quá mức. Động vật thường thích cùng một nơi chăn thả, vì vậy điều quan trọng là phải kiểm tra đất liên tục để xác định vị trí của các khu vực trống và tách vật nuôi ra khỏi chúng, cần xác định các địa điểm ưa thích của vật nuôi và chuyển hướng chúng khỏi khu vực đó. Một số loại thảo mộc có thể phát triển rất nhanh và thật khôn ngoan khi xác định chúng để hình thành mô hình xoay vòng, ở những nơi có lượng mưa thường xuyên, thuận tiện để xoay thường xuyên. Thời gian luân chuyển phải luôn linh hoạt và kết hợp theo nhu cầu của động vật và tài nguyên của vùng đất. Với kiến thức tốt về luân chuyển và ít sử dụng hóa chất, việc tăng quá mức có thể không còn là vấn đề nữa.
Chăn thả quá mức
Chăn thả gia súc quá mức (Overgrazing) là hiện tượng xảy ra khi thảm thực vật tiếp xúc với việc chăn thả thâm canh trong thời gian dài, hoặc không có đủ thời gian để phục hồi. Chăn thả quá mức có thể được gây ra bởi một trong hai nguyên nhân từ chăn thả vật nuôi và nguyên nhân từ các ứng dụng nông nghiệp được quản lý kém. Nó cũng có thể được gây ra bởi việc hạn chế dân số của động vật hoang dã bản địa hoặc không có nguồn gốc từ địa phương. Chăn nuôi bò là những điều chính gây ra chăn thả quá mức. Nó làm giảm tính hữu ích, năng suất và đa dạng sinh học của đất và là một nguyên nhân gây ra sa mạc hóa, hoang hóa đất đai và hiện tượng xói mòn. Chăn thả quá mức cũng được xem là nguyên nhân của sự lây lan của các loài xâm lấn của thực vật không có nguồn gốc và cỏ dại. Chăn thả quá mức là một khái niệm gây tranh cãi, dựa trên lý thuyết hệ thống cân bằng. Nó được gây ra bởi những người chăn thả du mục trong các quần thể gia súc hoang di cư khổng lồ, chẳng hạn như bò rừng của vùng đồng bằng lớn hoặc linh dương đầu bò di cư ở châu Phi, hoặc theo kế hoạch chăn thả toàn diện.
Chiếc váy “mang thông điệp nhân quyền” của Lady Gaga chiếm ngôi quán quân trong top 10 Tuyên ngôn thời trang của năm do tạp chí Time tổng kết. Tiêu chí không phải hở hang, gây sốc mà là tươi mới và có ý tưởng đột phá.> Lady Gaga: Váy thịt sống mang thông điệp nhân quyền/ Lady Gaga diện váy thịt sống lên sân khấu. “Nếu bạn cố tạo ra tuyên ngôn thời trang bằng mọi giá, nó sẽ rất dễ nhàm chán”, Time khuyến cáo. “Bạn khoe áo lót? Bạn mặc quần áo làm từ bong bóng? Sử dụng tóc làm nơ cài đầu? Xin lỗi, những trò đó đã cũ rồi. Nhưng nếu dùng thịt sống làm váy, giày, mũ, ví và phụ kiện, ồ cái này thì mới đấy!”. Lady Gaga diện váy thịt bò sống tại MTV Video Music Awards và người mẫu trình diễn một bộ váy chất liệu tương tự tại buổi diễn thời trang mùa xuân 2011 của nhà thiết kế Jeremy Scott tại Mỹ. Bộ trang phục độc nhất vô nhị mà Lady Gaga mặc ở lễ trao giải MTV Video Music Awards làm nảy sinh bao nhiêu thắc mắc: Cái váy được tạo nên như thế nào? Nó có ý nghĩa gì? Nữ ca sĩ chỉ giải thích đơn giản: "Nếu chúng ta sống mà không biết đấu tranh cho quyền lợi của mình, chúng ta cũng chỉ là những đống thịt sống mà thôi". Xếp thứ 2 là bộ trang phục đạo Hồi của M.I.A. Nữ ca sĩ đến biểu diễn tại lễ trao giải Grammy, hát nhảy rất “sung” khi đang mang bầu 9 tháng, nhưng đó không phải là điều gây sốc nhất mà cô có thể làm được. Trên thảm đỏ, M.I.A khiến tất cả phải ngoái nhìn khi cô diện một bộ trang phục kín mít từ đầu đến chân, chỉ chừa mỗi đôi mắt theo phong cách của phụ nữ đạo Hồi. M.I.A vác bụng bầu 9 tháng và diện trang phục đạo Hồi tại lễ trao giải Grammy 2010. Tạp chí Time đánh giá đây là một trong những “bộ trang phục gây tranh cãi nhất trong thời đại của chúng ta”. Đối với nhiều người, bộ đồ là biểu tượng của sự đàn áp, những gì người phụ nữ đạo Hồi phải chịu đựng. Với nhiều người khác, đó là biểu tượng của tự do, đấu tranh giải phóng phụ nữ, đòi quyền bình đẳng giới. Mặc dù vậy, bộ trang phục được điểm xuyết bởi những dòng chữ thân thiện “Love you”, “XXXO” và khó có thể bị lên án. Venus Williams gây sốc cho tất cả khán giả và giới truyền thông tại trận đấu của cô ở giải Quần vợt Pháp mở rộng hồi tháng 5. Đó là một bộ váy thi đấu có hình dáng tựa như váy ngủ may bằng vải ren, điểm nhấn là những đường viền đỏ rực và độ dài thì siêu… ngắn. Mỗi lần Venus nhảy lên để đánh bóng, chiếc váy bay theo gió để lộ lớp vải bên trong rất che chắn kín đáo nhưng lại có màu da. Venus Williams với chiếc váy ngủ trên sân đấu quần vợt và bộ đồ lót màu da. Sau trận đấu, những gì người ta bàn tán chỉ là chiếc váy của Venus, nằm trong bộ sưu tập EleVen do chính cô thiết kế, chứ không phải chiến thắng của cô trước đối thủ. “Bộ trang phục này nói về sự ảo tưởng”, Venus nói. “Thông thường khi nói về váy ngủ với đăng ten và ren, người ta thường ảo tưởng rằng không có gì bên dưới nữa. Tôi muốn cho họ biết họ đã nhầm”. Đây là một năm tràn ngập những khoảnh khắc thời trang đáng nhớ. Trong phần còn lại của Top 10, có bộ áo dài thắt ngang lưng của nam ca sĩ Prince, bộ áo liền quần màu xanh mỏng manh mà Rihanna mặc tại Liên hoan âm nhạc Đức hồi tháng 3 hay chiếc áo nhìn xuyên thấu của Britney Spears.
Váy thịt của Lady Gaga
Tại lễ trao giải Video âm nhạc của MTV năm 2010, nữ ca sĩ người Mỹ Lady Gaga đã mặc một chiếc váy làm bằng thịt bò sống, được giới truyền thông gọi là chiếc váy thịt. Chiếc váy này do Franc Fernandez thiết kế và Nicola Formichetti tạo mẫu. Nó bị nhiều nhóm bảo vệ quyền động vật lên án, nhưng lại được tạp chí Time vinh danh là phong cách thời trang hàng đầu năm 2010. Sau buổi lễ, giới báo chí và truyền thông đã bắt đầu đưa ra những phỏng đoán về sự ra đời của ý tưởng chiếc váy thịt và so sánh với những hình ảnh tương đồng trong nghệ thuật đương đại và văn hóa đại chúng. Cùng với nhiều trang phục khác của Gaga, chiếc váy được lưu trữ và bảo quản như một loại khô bò trước khi chính thức xuất hiện tại Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll năm 2001. Gaga giải thích bộ váy này đóng vai trò như một lời khẳng định cho nhu cầu đấu tranh cá nhân, đồng thời nhấn mạnh sự phản đối của cô trước chính sách "Không hỏi, không nói" trong quân đội Hoa Kỳ.
Ngày Tết thiếu nhi 1/6 đang đến rất gần và nếu bố mẹ vẫn chưa biết dành tặng các bé nhà mình món quà gì, vậy thì hãy đưa các bé đến rạp chiếu phim gần nhất để theo dõi bộ phim Quỷ lùn tinh nghịch: Chuyến lưu diễn thế giới (tựa gốc: Troll World Tour). Đây là một tác phẩm âm nhạc đầy sôi động và thú vị dành cho các bạn nhỏ. Quỷ lùn tinh nghịch: Chuyến lưu diễn thế giới là bộ phim kể về hành trình giải cứu âm nhạc của nữ hoàng nhạc pop Poppy. Câu chuyện xa xưa kể lại rằng, cách đây nhiều năm về trước 6 loài Troll từng sống rất hòa thuận với nhau. Mỗi loài Troll lại sở hữu một thể loại âm nhạc khác nhau: rock, pop, đồng quê, cổ điển…. Những đến một ngày nọ loài Troll không còn chịu đựng được âm nhạc của những loài khác, do vậy họ đã quyết định mỗi loài đi về một hướng và gây dựng nên một quốc gia riêng, không ai xâm phạm lãnh thổ của ai. Cho đến khi Poppy trở thành nữ hoàng của vương quốc nhạc pop, cô bé đã nhận được thư mời từ nữ hoàng nhạc rock với mục đích thống nhất loài Troll. Tuy nhiên mục đích thực sự của nữ hoàng nhạc rock chính là tiêu diệt 5 thể loại nhạc kia và chỉ giữ lại duy nhất nhạc rock mà thôi. Sau khi phát hiện ra âm mưu đó, Poppy và nhóm bạn của mình đã quyết định lên đường giải cứu âm nhạc, thống nhất các loài Troll nhưng vẫn giữ nguyên bản sắc âm nhạc của mỗi loài. Thoạt đầu khi theo dõi phim, khán giả sẽ có cảm giác Quỷ lùn tinh nghịch có nội dung khá đơn giản. Tuy nhiên càng về sau, bộ phim càng mang đến những thông điệp ý nghĩa mà chỉ người lớn mới đủ sức hiểu. Đó là mỗi người đều có sự khác biệt của riêng mình, chúng ta cần tôn trọng và học cách chấp nhận người khác, giữ gìn sự khác biệt và chung sống với nhau hòa thuận là điều mọi người cần làm khi đó. Ngược lại các bản nhỏ sẽ bị cuốn hút vào bữa tiệc âm nhạc đầy sôi động với những màu sắc cực kỳ rực rỡ xuyên suốt từ đầu đến cuối phim. Cái hay của Quỷ lùn tinh nghịch chính là những tác phẩm âm nhạc rất xuất sắc được thể hiện bởi những giọng ca đầy ấn tượng và không bị chuyển ngữ gượng gạo trong bản phụ đề. Điều này khiến các bé không thể ngừng nhún nhảy, lắc lư khi theo dõi phim. Quỷ lùn tinh nghịch sở hữu dàn diễn viên lồng tiếng là những ca sĩ, diễn viên tên tuổi của Hollywood. Vậy nên những ca khúc được cất lên trong phim đầy cảm xúc, khiến các bé cũng không thể thoát khỏi sự mê hoặc của những bài hát đó. Bộ phim mang đến cho khán giả những nhân vật rất đỗi dễ thương và những bối cảnh phim đẹp mắt, lung linh từ đầu cho đến cuối phim. Những tông màu chủ đạo trong phim không chỉ được các bé gái yêu thích, mà đến các bé trai cũng mê mẩn vì quá đẹp. Phần âm cũng được xử lý rất tốt khi sử dụng âm thanh nổi và hệ thống âm thanh vòm trong rạp phát huy tác dụng, giúp âm nhạc trong phim hay hơn, sống động hơn và hay hơn nữa. Quỷ lùn tinh nghịch: Chuyến lưu diễn thế giới đã có suất chiếu sớm vào hai ngày 23 – 24/5. Lịch chiếu phim chính thức sẽ bắt đầu từ ngày 29/5 tại các rạp chiếu phim trên toàn quốc.
Quỷ lùn tinh nghịch
Trolls World Tour là một bộ phim hài kịch hoạt hình máy tính hoạt hình năm 2020 của Mỹ được sản xuất bởi DreamWorks Animation và được phân phối bởi Universal Pictures. Bộ phim là phần tiếp theo của bộ phim Trolls năm 2016, do Walt Dohrn đạo diễn với David P. Smith, do Gina Shay sản xuất, và được viết bởi Jonathan Aibel, Glenn Berger, Elizabeth Tippet, Maya Forbes và Wallace Wolodarsky, từ một câu chuyện của Aibel và Berger. Phim có sự góp mặt của Anna Kendrick, Justin Timberlake, Rachel Bloom, James Corden, Ron Funches, Kelly Clarkson, Anderson Paak, Sam Rockwell, George Clinton và Mary J. Blige. Trolls World Tour được phát hành tại Hoa Kỳ trong một số rạp hạn chế vào ngày 10 tháng 4 năm 2020. Do đại dịch COVID-19 ở Hoa Kỳ, nó cũng được phát hành cho thuê kỹ thuật số trong cùng một ngày. Bộ phim đã thiết lập một số kỷ lục phát trực tuyến, bao gồm cả việc cho thuê một ngày thành công nhất của Universal. Thành công của nó đã khiến Universal tuyên bố rằng họ sẽ xem xét phát hành sân khấu và phát trực tuyến đồng thời hơn và để đáp lại, một số chuỗi rạp, bao gồm Nhà hát AMC, tuyên bố họ sẽ không phân phối phim của hãng nữa.
Al2(SO4)3 hay phèn nhôm Sunfat được biết đến là một hợp chất hóa học khá phổ biến nhờ ứng dụng lọc tẩy. Trong công nghiệp hóa học, Al2(SO4)3 mang khá nhiều vai trò quan trọng trong việc điều chế và ứng dụng chất cơ bản. Mạnh mẽ và rộng rãi đến thế, vậy cơ bản Al2(SO4)3 là gì? Nếu bạn đang muốn MUA sử dụng phèn nhôm Sunfat thì nên mua ở đâu là tốt nhất, uy tín nhất? Tất cả sẽ được giải đáp tại bài viết dưới đây!. Trước khi đi vào phần chi tiết về tính chất của Al2(SO4)3, bạn CẦN hiểu rõ về TÍNH CHẤT HÓA HỌC của nó. Câu hỏi rằng tại sao chất Al2(SO4)3 lại được ứng dụng nhiều đến thế? Hay như điều gì khiến Nhôm Sunfat được sử dụng trong ngành công nghiệp hóa học lọc tẩy? Tất cả câu trả lời đều được lý giải qua định nghĩa và tính chất hóa học của chất này. Mạnh mẽ và toàn diện là 2 tính từ được nhắc đến đối với hợp chất Al2(SO4)3. Hợp chất hóa học đặc biệt này có thể tự hòa tan được trong nước, nó được sử dụng chủ yếu dưới dạng 1 chất kết tủa. Nói thêm và chất kết tủa này thì nó được sử dụng để khiến các hạt ô nhiễm cơ bản bị co cụm lại. Các hạt ô nhiễm sau khi co cụm lại sẽ trở nên lớn hơn do quá trình tích tụ. Chúng sẽ dễ dàng bị kẹt lại ở ngay bên trên bề mặt của phần lọc nước của các nhà máy xử lý chất thải và lọc trong sản xuất. Nhôm Sunfat (Al2(SO4)3) đôi khi còn được dân hóa chất gọi là một loại phèn. Phèn này cụ thể là muối Sunfat kép được hình thành và cấu tạo bởi công thức đó là :. Trong công thức này, A: là 1 cation có hóa trị như Kali hoặc hợp chất Amoni. M đóng vai trò như một ion kim loại hóa trị III như Nhôm (Al). Về cơ bản thì Nhôm Sunfat khá tối ưu và mạnh mẽ trong việc giải quyết vấn đề lọc nước thải công nghiệp. Phèn nhôm Sunfat là một dạng hợp chất hóa học có dạng màu trắng, đôi khi có màu vàng đục. Phèn nhôm Sunfat nhôm (khô) ở thực tế là một chất bột màu trắng tinh khiết, tỷ trọng chính là 2710kg/m3. Về độ nhớt chính của dung dịch này trong khoảng nhiệt độ đã được do là khoảng 10 độ C, khoảng nồng độ là 0,049 £ C £ 0,305kg/kg. Tuy nhiên, tỷ trọng dung dịch hóa học này sẽ có sự thay đổi tương đối theo hàm số biến động đó là:. Trong dung dịch và trong khoảng nhiệt độ từ -12 độ C, thành phần của Sunfat nhôm 27,2% sẽ hình thành nên điểm Ơtecni. Chúng ta sẽ xem xét hợp chất Al2(SO4)3 trong 3 môi trường chính đó là: oxi hóa, môi trường khử và môi trường trung hòa khi đốt nóng. Trong môi trường Oxi hóa: Nhôm Sunfat là một hợp chất hóa học phân hủy theo cấp độ. Trong khoảng nhiệt độ từ 50 - 60 độ C chúng ta sẽ quan sát thấy được 16 Hydrat Sunfat nhôm. Và trong khoảng 80 - 90 độ C, thành phần hóa học sẽ được chuyển sang thành 12 Hydrat. Trong môi trường khử: Độ tan của Nhôm Sunfat sẽ phụ thuộc khá nhiều vào nồng độ của Axit Sunfuric. Trong dung dịch Axit loãng, độ tan chính của Al2(SO4)3 sẽ lớn hơn khá nhiều so với trong nước cất. Tuy nhiên, khi tăng nồng độ H2SO4 lên thì bỗng nhiên sẽ xảy ra hiện tượng đó là giảm đột ngột nồng độ, chỉ còn khoảng 1% trong dung dịch H2SO4 60%. Trong môi trường trung hòa khi đốt nóng: Khi chúng ta đốt nóng nhanh nhiệt độ lên tới 150 độ C, Al2(SO4).16H2O sẽ tan thành tinh thể nước. Quá trình nóng chảy của tinh thể Hydrat trong điều kiện môi trường bình kín sẽ xảy ra ở nhiệt độ đó là thấp hơn 86 độ C. Đặc biệt trong khoảng nhiệt độ từ 200 - 300 độ C thì quá trình loại nước sẽ xảy ra mạnh mẽ, tại nên sự hình thành của tinh thể hydrat tướng đồng loại. Không còn phủ nhận gì nữa về các chức năng và vai trò đặc thù của Nhôm Sunfat trong ngành công nghiệp hóa chất. Đầu tiên, nhắc đến Nhôm Sunfat là nhắc đến một hợp chất Ưu Việt trong ứng dụng lọc tẩy chất cặn bẩn công nghiệp. Nhôm Sunfat còn được ví như một chất gắn màu trong ngành công nghiệp dệt nhuộm và in ấn. Lọc nước, loại bỏ cặn bẩn: Nhôm Sunfat sẽ tiến hành thu gom các loại cặn bã bẩn li ti, sau đó tiến hành làm đông các cặn bẩn này lại thành các hạt rất lớn. Các hạt này sẽ dần dần chìm xuống phần màng lọc của các bình nước lọc.Quá trình cơ bản này còn có cái tên khác đó là quá trình đông hoặc kết bông. Ở Úc thì một cuộc nghiên cứu hóa học đã chỉ ra là: Nhôm Sunfat có thể được sử dụng để làm 1 chất xử lý nước uống, đồng thời H2(SO4)3 còn là một nguồn chất chủ yếu của khí Hydro Sunfua trong hệ thống cống thoát nước vệ sinh. Trong ứng dụng nhuộm, in vải và in ấn, Nhôm Sunfat sẽ tạo ra các chất kết tủa. Các chất này sẽ được kích thích hóa học, tạo keo giúp cho thuốc nhuộm dễ dàng dính vào quần áo. Bằng cách làm chop các sắc tố không thể hòa tan, Nhôm Sunfat thực sự giúp cho ngành công nghiệp in ấn phát triển lên 1 tầm cao mới. Nhôm Sunfat hiện nay còn được sử dụng làm một chất hóa học giảm độ pH cho đất vườn. Lí do là vì nhôm Sunfat khi cho xuống đất sẽ diễn ra quá trình thủy phân, tạo các kết tủa Nhôm Hydroxit và một loại dung dịch Axit Sunfuric (loãng). Những người làm vườn hiện nay để có thể khiến những bông hoa biến sang một màu sắc khác nhau thì chỉ cần cho Nhôm Sunfat xuống vùng đất trồng. Trong ngành công nghiệp xây dựng hiện nay, Nhôm Sunfat được sử dụng làm chất chống thấm hiệu quả nhờ đặc tính hóa học của nó. Đồng thời nó cũng là 1 chất giúp cho quá trinh tăng tốc ngưng tụ và kết dính bê-tông trong xây dựng được nhanh hơn. Trong nha khoa, Nhôm Sunfat có vai trò là một chất cầm máu và làm se khi bạn tiến hành rút nướu. Công ty của bạn đang cần mua và sử dụng phèn nhôm Sunfat để tẩy rửa và lọc các chất cặn bẩn trong sản xuất công nghiệp. Việt Quang chúng tôi ở đây để mang đến cho bạn một sản phẩm - một giải pháp cực kỳ ưu Việt và tối ưu cho doanh nghiệp của bạn. Là đơn vị đi đầu trong sản xuất cũng như cung cấp các sản phẩm hóa chất công nghiệp. Đặc biệt và mạnh nhất phải kể đến các dòng sản phẩm hóa chất công nghiệp tẩy rửa. Với các thế mạnh về công nghệ và hệ thống công xưởng máy móc điều chế sản phẩm hóa học cực kỳ hiện đại. Việt Quang cam kết mang đến cho doanh nghiệp một giải pháp "SẠCH - KHÔNG ĐỂ LẠI DƯ CHẤT VÀ CỰC KỲ THÂN THIỆN VỚI MÁY MÓC CÔNG NGHIỆP". Sẵn sàng hỗ trợ doanh nghiệp của bạn 24/24 về mọi vấn đề liên quan đến hóa chất công nghiệp. Đảm bảo chất lượng cam kết 100% không pha tạp đối với mọi loại sản phảm liên quan đến phèn nhôm Sunfat. Các loại hóa chất đã được VIỆT QUANG tinh chế và sản xuất với 3 không "không dư chất - không tàn dư hóa phẩm - không ảnh hưởng máy móc".
Nhôm sulfat
Nhôm sunfat là một hợp chất hóa học với công thức Al2(SO4)3. Nó hòa tan trong nước và chủ yếu được sử dụng như một chất kết tủa (khiến các hạt ô nhiễm co cụm lại thành các hạt lớn hơn, dễ dàng bị mắc kẹt) trong lọc nước uống và các nhà máy xử lý nước thải, và trong sản xuất giấy.
Nếu câu trả lời chủ yếu là c hay d, con chúng ta đã có dấu hiệu “nghiện Internet”. Ban đầu đối với trẻ, Internet chỉ là một thế giới ảo nhiều màu sắc mà trong đó trẻ có thể lùng sục các kiến thức mới lạ, vi vu làm quen với hàng nghìn người bạn, trầm ngâm viết nhật ký điện tử (blog) hay "bung mình" trong vô vàn game online. Nhưng rồi một ngày nọ việc không lên mạng khiến trẻ có cảm giác như điều gì đó thiết yếu đang mất đi và mỗi lần bật Internet là trẻ bắt đầu “cắm rễ” cho đến khi bị buộc phải rời khỏi máy. Nếu không phát hiện sớm các dấu hiệu trên và “cắt đứt” tiến trình này kịp thời, trẻ dần mất tự chủ và sợi dây Internet ngày càng “siết chặt” vào tay, trẻ bắt đầu bước vào các giai đoạn của chứng “nghiện Internet”. Internet không xấu và thậm chí còn là “phần thiết yếu của cuộc sống” nếu mỗi người biết làm chủ nó. Tuy nhiên khi dành một thời gian kha khá “sống” trên mạng với hàng trăm mạng xã hội, hàng ngàn game online, ngâm mình trong hàng triệu trang web, tâm trí của trẻ sẽ “đi lạc - sống lạc” trong một thế giới ảo. Chuyên gia chỉ tiếp xúc với trẻ một thời gian ngắn, việc xây dựng mối quan hệ giữa nhà tư vấn với trẻ không quan trọng bằng việc kết nối giữa cha mẹ và con cái. Đó là chưa kể đến trường hợp bất mãn hay phản đối ở những đứa trẻ khi cha mẹ khăng khăng đưa trẻ đến gặp “bác sĩ tâm lý”, trong khi 90% trẻ đều chống chế “con có bệnh đâu mà bắt con phải đi chữa!”. Vì vậy, nhìn dưới góc độ nào đi chăng nữa, bên cạnh sự cố vấn của chuyên gia thì cha mẹ chính là người “thầy thuốc” tốt nhất chữa trị “căn bệnh” này. Sắp xếp với con một cuộc nói chuyện thân tình. Nội dung cuộc trò chuyện không nên “đả động” ngay đến vấn đề Internet mà hãy bắt đầu bằng vài câu chuyện phiếm rồi đi vào những nội dung thân mật. Hãy tâm sự với con một vài bí mật của chúng, hỏi ý con về một vài dự định nhỏ và sau đó bắt đầu hỏi han con chuyện bạn bè, chuyện mua sắm quần áo mới hay chuyện học hành. Từ đó, chúng ta có “đà” để trao đổi với con một chút về việc lên mạng quá nhiều và hỏi ý con nghĩ gì về chuyện đó. Cuối buổi trò chuyện, đề nghị con tổ chức buổi ăn nhẹ cuối tuần và gợi ý con hãy rủ bạn bè về nhà, chính tay chúng ta sẽ cùng con vào bếp. Việc làm trên không chỉ tiến hành một lần mà hãy thường xuyên “hẹn hò” với con, ít nhất là trong khoảng một tuần trước khi chuyển qua bước kế tiếp. Hãy tìm các biện pháp khéo léo để cách ly đứa trẻ và Internet. Ví dụ một trong các cách sau đây:. - Đặt máy tính ở nơi mọi người dễ dàng nhìn thấy. Đứa trẻ sẽ tự biết “mọi người có thể thấy tất cả những gì mình làm trên máy”. - Hạn định thời gian sử dụng Internet mỗi ngày (dưới 30 phút) và cứng rắn đảm bảo “luật pháp” được tôn trọng, kèm theo các biện pháp trừng phạt nếu vi phạm. - Tạm ngưng thuê bao dịch vụ nối mạng (với lý do hư modem - nếu cần thiết). Bạn cần khỏa lấp sự hụt hẫng trong nhu cầu của con bằng cách hướng con vào hoạt động như các loại hình giải trí bổ ích, những hoạt động khám phá thú vị: picnic, trại hè, trang trí tường - nhà, câu cá, trồng cây, trang trí sân, xem kịch, thể thao. Kế tiếp, bạn cần nối kết giữa bố mẹ với con tốt hơn. Nếu cần thiết hãy làm một cuộc “cách mạng” trong gia đình để cải tạo mối quan hệ giữa chúng ta với con cái, không chỉ giúp con thoát khỏi chứng nghiện mà còn đưa tình cảm gia đình lên một cấp độ mới. Luôn sẵn sàng có mặt khi con cần, tức dành thời gian cho con cả về chất lẫn lượng. Hãy có mặt để lắng nghe con trước khi quá muộn. Khi con bắt đầu hòa nhập vào các hoạt động mới, hãy chọn ra một vài hoạt động “đỉnh” nhất mà trẻ hứng thú để trẻ luyện thành những thói quen có ích, thay thế thói quen online cũ. Song song đó, để giúp con cai nghiện mãi mãi và cũng là biện pháp phòng ngừa tái nghiện là giúp con đặt mục tiêu cho cuộc sống. Ở thế giới 1.001 “hang cùng ngõ hẻm” của Internet mà mỗi “hẻm” lại có một “bí kíp” thích cái tai, lạ con mắt, con chúng ta không chỉ khám phá mãi không hết mà còn tự quyền làm gì tùy thích. Cộng thêm với tính tự chế ngự kém, nhiều trẻ sẽ không nhận ra (hoặc cố ý không nhận ra) rằng mình ngày càng bị hút vào cái mạng nhện khổng lồ (nhưng thú vị) và đến khi nhận ra thì nó đã dán chặt vào tâm trí bằng một loại keo cực bền và trở thành một nhu cầu. Các phụ huynh ngày càng ít thời gian hơn và mỗi khi phụ huynh quay lưng làm việc thì thế giới online lại dang tay mỉm cười chào đón đứa trẻ 24/24. Song song đó, khoảng cách lứa tuổi là một bức tường cực kỳ kiên cố ngăn cách giữa chúng ta và con cái. Hai bên ít tương đồng về suy nghĩ, cảm xúc không cùng tần số và thường theo hai nhịp độ sống trái ngược nhau. Chính vì vậy mà con cái chúng ta ngày nay rất dễ “chông chênh” khi tìm một chỗ dựa tinh thần và dễ dàng tìm một nguồn thỏa mãn nhu cầu tinh thần khác chỉ bằng một cái click chuột. Game online, các website và mạng xã hội đánh rất đúng tâm lý giới trẻ, chúng luôn luôn đổi mới và có những hoạt động thú vị nhằm thu hút các độc giả truy cập thường xuyên nhất có thể. Chúng ta đã chứng kiến bao phần mềm hỗ trợ học tập “chết non” vì chưa đủ sức làm cho giới trẻ thật sự rung động, nhưng nếu một lần chơi game online bạn sẽ hiểu những người thiết kế chúng đã “tâm lý” thế nào. Tháo gỡ rào chắn ở TP.HCM: tháo chướng ngại vật và tâm lý nặng nề cho người dân. TTO - Thông tin các hàng rào bằng thép gai, ghế đá, giàn giáo. làm rào chắn ở các tuyến đường, con hẻm, chốt kiểm soát tại TP.HCM sẽ được tháo dỡ từ nay đến ngày 30-9, người dân bày tỏ sự phấn khởi sau nhiều ngày đường sá bị ngăn cách. TP.HCM kiến nghị Thủ tướng cho phép áp dụng quy định riêng để mở cửa kinh tế. TTO - Với điều kiện đặc thù, TP.HCM kiến nghị Thủ tướng xem xét cho phép TP.HCM áp dụng quy định riêng do Thủ tướng quyết định để có thể mở cửa nền kinh tế. TTO - Phương án lưu thông giữa TP.HCM và các tỉnh, đi lại trong TP để áp dụng từ ngày 1-10 đang được Sở Giao thông vận tải lấy ý kiến. Nhiều băn khoăn đặt ra: người lao động quay lại TP.HCM bằng cách nào, thông tin cho xe cá nhân ra sao.?. Đi lại và ra vào TP.HCM sau ngày 1-10: Xe gắn máy thì sao? Chưa tiêm vắc xin như thế nào?. TTO - Phương án lưu thông giữa TP.HCM và các tỉnh, đi lại trong TP để áp dụng từ ngày 1-10 đang được Sở Giao thông vận tải lấy ý kiến. Nhiều băn khoăn đặt ra: người lao động quay lại TP.HCM bằng cách nào, thông tin cho xe cá nhân ra sao.?. TTO - Đại diện êkip của ca sĩ Phi Nhung cho biết ca sĩ vẫn đang được điều trị tích cực tại Bệnh viện Chợ Rẫy TP.HCM. TTO - Tính từ ngày 26-5, thời điểm phát hiện ca COVID-19 từ ổ dịch là nhóm truyền giáo, hôm nay, TP.HCM đã đi qua tròn 4 tháng chống dịch. Cùng nhìn lại đợt dịch này tại TP.HCM để ghi nhớ 4 tháng đặc biệt, không thể nào quên.
Nghiện Internet
Nghiện Internet (tiếng Anh: Internet addiction disorder, IAD) được định nghĩa là việc sử dụng Internet có vấn đề, mang tính lạm dụng, dẫn đến suy giảm đáng kể chức năng của một cá nhân trong các lĩnh vực cuộc sống khác nhau trong một thời gian dài. Thanh niên là một trong những nhóm có nguy cơ đặc biệt phát triển rối loạn nghiện Internet hoặc sử dụng Internet có vấn đề. Mối quan hệ này và các mối quan hệ khác giữa việc sử dụng phương tiện truyền thông kỹ thuật số và sức khỏe tâm thần đã được nghiên cứu, tranh luận và thảo luận đáng kể giữa các chuyên gia trong một số lĩnh vực, và đã gây ra tranh cãi từ cộng đồng y tế, khoa học và công nghệ. Những rối loạn như vậy có thể được chẩn đoán khi một cá nhân tham gia vào các hoạt động trực tuyến với cái giá phải trả là không hoàn thành trách nhiệm hàng ngày hoặc theo đuổi các sở thích khác mà không quan tâm đến hậu quả tiêu cực. Internet có thể thúc đẩy nhiều chứng nghiện khác nhau bao gồm nghiện nội dung khiêu dâm, chơi trò chơi, các trang đấu giá, các trang mạng xã hội và lướt Web.
Bột gừng thơm ngon giúp cho món ăn của gia đình tăng thêm hương vị. Sóng vô tuyến hiện được ứng dụng trong rất nhiều lĩnh vực và mang lại rất nhiều lợi ích cho con người. Vậy ứng dụng của các loại sóng vô tuyến vào những sản phẩm nào trong cuộc sống như thế nao?. Sóng vô tuyến có tần số từ 3 KHz đến 300 GHz và tương ứng với bước sóng từ 100Km đến 1mm. Chúng là một dạng bức xạ điện từ có bước sóng trong phổ điện từ lớn hơn ánh sáng của tia hồng ngoại. Sóng vô tuyến xuất hiện hiện tượng sét của tự nhiên bởi thế tốc độ truyền của loại sóng này ngang bằng với vận tốc ánh sáng. Chúng được ứng dụng cho radar phát thanh, liên lạc vô tuyên di động, các hệ thống dẫn đường, thông tin vệ tinh và một số ứng dụng khác…. Các tần số của sóng vô tuyến khác nhau thì có đặc tính lan truyền khác nhau trong không gian Trái đất. Sóng dài thì truyền theo đường cong bề mặt Trái đất, sóng ngắn sẽ truyền theo đường thẳng và bị yếu hơn nhưng nhờ phản xạ từ tầng điện ly nên vẫn có thể truyền đi rất xa. Khoảng cách sóng vô tuyến đi được trong 1 giây ở chân không là 0909638569 mét, đây là bước sóng của tín hiệu vô tuyến 1 Hertz. Một tín hiệu vô tuyến 1 Megahertz có bước sóng là 299 mét. Sóng vô tuyến đập vào vật thể dẫn điện có kích thước bất kỳ, nó sẽ đi chậm lại phụ thuộc vào độ từ thẩm và hằng số điện môi. Hai thành phần điện trường và từ trường của sóng vô tuyến luôn dao động đồng pha với nhau. Sóng vô tuyến là các sóng điện từ có bước sóng vài mét đến vài km được áp dụng trong thực tế rất nhiều. Sóng vô tuyến chia thành 4 loại theo độ dài các bước sóng: sóng cực ngắn, sóng ngắn, sóng trung, sóng dài. Sóng vô tuyến được sử dụng trong rất nhiều các sản phẩm cuộc sống, tiêu biểu như sau. Năng lượng tần số vô tuyến (RF) đã được dùng trong điều trị y tế hơn 75 năm qua nói chung từ các ca phẫu thuật xâm lấn tối thiểu và động máu, bao gồm cả điều trị ngưng thở khi ngủ chụp cộng hưởng từ (MRI) dùng tần số vô tuyến để tạo ra hình ảnh về cơ thể con người. Hệ thống RFID sử dụng các thiết bị phát mã RFID dạng nhỏ có gắn chíp (gắn thẻ anen điện tử) dính vào từng cuốn sách hay tài liệu hoặc thậm chí được ẩn bên trong trong suốt quá trình sản xuất. Điều này sẽ giúp cho việc quản lý sách trở nên đơn giản thuận tiền hơn rất nhiều. Tia tử ngoại mạnh hơn tia hồng ngoại nên được sử dụng để diệt tế bào ung thư (dùng trong xạ trị) và sát trùng, diệt khuẩn. Dùng trong phẫu thuật các khối u hoặc các khối dị dạng động mạch, tĩnh mạch chỉ với một lần. Kính viễn vọng tia gamma dùng quan sát các vụ nổ vũ trụ hoặc hố đen. Những chia sẻ trên hy vọng sẽ giúp các bạn hiểu hơn về những ứng dụng của các loại sóng vô tuyến cũng như những lợi ích to lớn mà nó đem lại cho cuộc sống con người. Cho đến nay, các nhà khoa học vẫn đang có những nghiên cứu để ứng dụng của các loại sóng vô tuyến một cách mới mẻ hơn với loại sóng đa năng này. C. Ứng dụng của các loại sóng vô tuyến1. Liên lạc vô tuyếnSóng vô tuyến được áp dụng vào việc liên lác chao đổi thông tin. Muốn thu được tín hiệu vô tuyến cần có một dụng cụ thu sóng gọi là anten. Anten sẽ nhận được rất nhiệu loại sóng vô tuyến nên phải đi kèm thêm 1 bộ dò sóng để cộng hưởng với một tần số cụ thể cố định.2. Công nghệ nhận dangCông nghệ nhận dạng đối tượng bằng sóng vô tuyến (RFID) sẽ được thực hiện nhằm giám sát và quản lý sách, tạp chí và tài liệu điện tử một cách đơn giản và hiệu quả.5. Sóng vô tuyến được áp dụng vào việc liên lác chao đổi thông tin. Muốn thu được tín hiệu vô tuyến cần có một dụng cụ thu sóng gọi là anten. Anten sẽ nhận được rất nhiệu loại sóng vô tuyến nên phải đi kèm thêm 1 bộ dò sóng để cộng hưởng với một tần số cụ thể cố định. Công nghệ nhận dạng đối tượng bằng sóng vô tuyến (RFID) sẽ được thực hiện nhằm giám sát và quản lý sách, tạp chí và tài liệu điện tử một cách đơn giản và hiệu quả.
Vô tuyến sóng ngắn
Vô tuyến sóng ngắn là thông tin vô tuyến sử dụng tần số phía trên của MF (tần số trung bình) và tất cả dải tần HF (tần số cao) thuộc phổ vô tuyến, từ 1.800–30.000 kHz. Có tên gọi vô tuyến sóng ngắn là do bước sóng trong băng tần này nhỏ hơn 200 m (1500 kHz), đây là giới hạn trên đầu tiên của băng tần số trung bình lần đầu tiên được dùng cho thông tin vô tuyến. Băng tần sóng trung phát thanh hiện nay đã được mở rộng lên trên giới hạn 200 m/1500 kHz và băng tần vô tuyến nghiệp dư 1,8 MHz – 2,0 MHz (còn gọi là "băng tần trên") là băng tần thấp nhất được coi là sóng ngắn. Vào thuở ban đầu của thông tin vô tuyến, vô tuyến sóng ngắn thường bị coi là không hữu dụng, nhưng ngày nay vô tuyến sóng ngắn lại có rất nhiều ứng dụng, cơ chế truyền lan của sóng vô tuyến trong khí quyển Trái Đất giúp tầm liên lạc đạt xa nhất có thể. Vô tuyến sóng ngắn được sử dụng cho phát thanh, thông tin liên lạc tầm xa với tàu biển và máy bay; hay giúp những khu vực hiểm trở như vùng núi, hải đảo có thể tiếp cận các dịch vụ thông tin không dây hay vô tuyến khác.
Hội chứng Stockholm thường có liên hệ chặt chẽ với các vụ bắt cóc và giam giữ con tin. Bên cạnh những vụ án nổi tiếng, con người bình thường cũng có thể xuất hiện tình trạng tâm lý này nhằm phản ứng lại với nhiều dạng sang chấn khác nhau. Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu Hội chứng Stockholm chính xác là gì, nguồn gốc tên gọi, những dạng tình huống có thể khiến một người xuất hiện hội chứng này, và phương thức điều trị. Hội chứng Stockholm là một phản ứng tâm lý. Nó xuất hiện khi con tin hoặc nạn nhân bị lạm dụng “gắn kết” với kẻ bắt giữ hoặc người lạm dụng họ. Kết nối tâm lý này hình thành qua nhiều ngày, nhiều tuần, nhiều tháng thậm chí nhiều năm bị giam cầm hoặc lạm dụng. Theo đó, con tin hoặc nạn nhân có thể thấy thông cảm với kẻ giam giữ. Điều này đối lập với nỗi sợ, sự kinh hoàng và sự khinh bỉ thường thấy ở những nạn nhân khi lâm vào những tình huống kiểu này. Qua một khoảng thời gian, một số nạn nhân thực sự xuất hiện cảm xúc tích cực với kẻ bắt giữ họ, thậm chí còn bắt đầu cảm thấy có chung mục tiêu và lý do với những kẻ kia. Nạn nhân có thể dần hình thành cảm xúc tiêu cực với cảnh sát hoặc cơ quan chức năng. Họ cảm thấy bực tức với bất kỳ ai cố giúp họ trốn thoát khỏi tình huống nguy hiểm họ đang gặp phải. Không phải nạn nhân hay con tin nào cũng vướng phải nghịch lý này và lý do xuất hiện hiện tượng này cũng không mấy rõ ràng. Nhiều nhà tâm lý học và chuyên gia y tế coi Hội chứng Stockholm là một cơ chế phòng vệ, hoặc một cách để giúp nạn nhân đối phó với sang chấn gây ra do tình huống đáng sợ này. Thực sự thì lịch sử xuất hiện hội chứng này có thể giúp giải thích lý do hình thành của nó. Những hiện tượng na ná với Hội chứng Stockholm có lẽ đã xuất hiện nhiều thập kỷ, thậm chí nhiều thế kỷ rồi. Nhưng mãi đến năm 1973 thì phản ứng đặc biệt trước tình trạm giam giữ hoặc lạm dụng này mới được gọi tên. Đó là khi hai người đàn ông bắt giữ bốn con tin trong 6 ngày sau một vụ cướp ngân hàng ở Stockholm, Thụy Điển. Sau khi các con tin được thả ra, họ từ chối làm chứng chống lại những kẻ bắt giữ và thậm chí còn gây quỹ để thuê luật sư cho các bị cáo. Sau đó, các nhà tâm lý học và các chuyên gia sức khỏe tâm thần đã dùng thuật ngữ “Hội chứng Stockholm” để chỉ hiện tượng con tin hình thành một kết nối tâm lý hoặc cảm xúc với người giam cầm họ. Mặc dù được nhiều người biết đến nhưng Hội chứng này lại không được công nhận trong Sổ tay số liệu và chẩn đoán các rối loạn tâm thần (DSM) phiên bản mới. Sổ tay này được sử dụng bởi các chuyên gia tâm thần và những nhà chuyên môn khác trong chẩn đoán các rối loạn tâm thần. Hội chứng Stockholm được định hình bởi ba sự kiện hay có thể gọi là “triệu chứng”. – Nạn nhân hình thành cảm xúc tích cực với người đang giam cầm hoặc lạm dụng họ. – Nạn nhân hình thành cảm xúc tiêu cực với cảnh sát, cơ quan chức năng hoặc bất cứ ai cố giúp họ thoát khỏi kẻ bắt giữ. Họ thậm chí còn từ chối hợp tác chống lại kẻ giam giữ họ. – Nạn nhân bắt đầu nhìn nhận “tính người” của kẻ bắt giữ và tin rằng đôi bên có chung mục tiêu và giá trị. Những cảm xúc này thường xuất hiện do một tình huống nào đó đưa đến cảm xúc và căng thẳng cao độ trong quá trình bắt cóc hoặc lạm dụng. Ví dụ, những người bị bắt cóc hoặc bị giữ làm con tin thường cảm thấy bị đe dọa bởi người bắt giữ nhưng họ cũng phụ thuộc cực kỳ vào những kẻ này để sinh tồn. Nếu kẻ bắt cóc hoặc người lạm dụng họ cho thấy một chút tử tế, họ sẽ dần có cảm xúc tích cực với những kẻ này do bởi “lòng thương” mà họ nhận được. Dần dà theo thời gian, nhận thức của những người này bắt đầu được định hình lại và làm méo mó cách họ nhìn nhận những kẻ đang giữ họ làm con tin hay lạm dụng họ một cách đúng nghĩa. Một vài vụ bắt cóc nổi tiếng có liên quan mật thiết với Hội chứng Stockholm liệt kê ở dưới. Đây có lẽ là vụ nổi tiếng nhất: cháu gái của doanh nhân và chủ tòa soạn William Randolph Hearst bị bắt cóc vào năm 1974 bởi Quân đội Giải Phóng Symbionese (SLA). Trong suốt quá trình bị bắt cóc, cô từ bỏ gia đình, chọn một cái tên mới và thậm chí còn tham gia cùng SLA trong các vụ cướp ngân hàng. Sau này, Hearst bị bắt và cô này sử dụng thuật ngữ Hội chứng Stockholm để biện hộ cho chính mình khi ra tòa. Lời biện hộ này vô hiệu và cô bị tuyên án 35 năm tù giam. Năm 1998, Natascha lúc đó mới lên 10 và bị bắt cóc, bị giam trong một căn hầm tối, biệt lập dưới mặt đất. Kẻ bắt cóc, Wolfgang Přiklopil, giam cô bé trong hơn 8 năm. Trong suốt thời gian đó, anh ta lúc thì đối xử tử tế, lúc thì đánh đập cô bé và đe dọa sẽ giết cô. Natascha sau đó đã trốn thoát được và Přiklopil đã tự sát. Tin tức ghi nhận lúc khai báo Natasha đã cho thấy “đau buồn khôn nguôi.”. Năm 1933, 4 người đàn ông đã chĩa súng bắt giữ Mary lúc đó mới 25 tuổi, xích cô vào bức tường trong một căn nhà ở một trang trại bỏ hoang, đòi gia đình cô phải đưa tiền chuộc cô về. Khi được thả, cô đã rất vất vả để nhớ lại tên kẻ bắt cóc trong phiên tòa sau đó. Cô này cũng công khai bay tỏ sự cảm thông cho những kẻ này. Mặc dù Hội chứng Stockholm nói chung thường có liên hệ với các vụ bắt cóc hoặc giữ con tin nhưng nó thực sự có thể xuất hiện trong một số tình huống và mối quan hệ khác trong cuộc sống thường nhật. – Các mối quan hệ lạm dụng. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người bị lạm dụng có thể hình thành sự gắn bó cảm xúc với kẻ lạm dụng họ. Lạm dụng tình dục, thể chất và cảm xúc cũng như tình trạng loạn luân có thể kéo dài trong nhiều năm. Theo thời gian, một người có thể hình thành cảm xúc tích cực và lòng cảm thông với người đang lạm dụng họ. – Lạm dụng trẻ em. Người lạm dụng thường đe dọa sẽ làm đau, thậm chí dọa giết nạn nhân. Nạn nhân có thể cố gắng tránh không làm kẻ lạm dụng bực mình bằng cách nghe lời. Những kẻ lạm dụng cũng có thể đối xử tử tế với nạn nhân một cách chân thành. Điều này sẽ càng khiến đứa trẻ bối rối và khiến chúng không hiểu thấu bản chất tiêu cực của mối quan hệ. – Mua bán tình dục. Những người bán thân thường dựa dẫm vào người lạm dụng mình để đảm bảo những nhu cầu thiết yếu, như thức ăn và nước uống. Khi lẻ lạm dụng cung cấp những thứ này thì nạn nhân sẽ dần hình thành cảm xúc tích cực với kẻ đang lạm dụng mình. Họ cũng có thể kháng cự không hợp tá với cảnh sát vì sợ bị trả thù hoặc nghĩ rằng họ phải bảo vệ kẻ lạm dụng để bảo vệ chính bản thân mình. – Huấn luyện thể thao. Tham gia một môn thể thao là một cách tuyệt vời để xây dựng kỹ năng và các mối quan hệ. Không may là một số quan hệ kiểu này cuối cùng lại có thể vô cùng tiêu cực. Huấn luyện khắc nghiệt có thể biến tướng thành lạm dụng. Vận động viên có thể tự nói với bản thân rằng hành vi của huấn luyện viên là vì muốn tốt cho họ và điều này, theo một nghiên cứu năm 2018, rốt cuộc lại trở thành một dạng biểu hiện của hội chứng Stockholm. Nếu bạn tin rằng bạn hay người quen của bạn đang gặp hội chứng Stockholm thì hãy tìm kiếm giúp đỡ. Tư vấn hoặc điều trị tâm lý cho rối loạn căng thẳng sau sang chấn (PTSD) có thể giúp làm giảm bớt những vấn đề trước mắt có liên quan đến phục hồi như chứng lo âu và trầm cảm. Tâm lý trị liệu lâu dài có thể hỗ trợ bạn hoặc người thân phục hồi theo hướng bền vững hơn. Các nhà tâm lý học và chuyên gia tâm lý trị liệu có thể dạy bạn những cơ chế phòng vệ lành mạnh và những cách phản ứng với vấn đề, giúp bạn hiểu được điều gì đã xảy ra, tại sao nó lại xảy ra và làm sao để bước tiếp. Tái lập lại những cảm xúc tích cực giúp bạn hiểu được những gì đã xảy ra không phải là lỗi của bạn. Hội chứng Stockholm là một cơ chế đối phó có thể xuất hiện ở những người bị lạm dụng hoặc bắt cóc. Nỗi sợ hãi hay hoảng loạn có thể là những biểu hiện thường gặp nhất trong những tình huống này, nhưng vẫn có người dần hình thành những cảm xúc tích cực với kẻ bắt giữ hay người lạm dụng mình. Họ không muốn phối hợp hay liên hệ với cảnh sát, thậm chí còn do dự chống lại kẻ lạm dụng hay bắt cóc.
Hội chứng Stockholm
Hội chứng Stockholm hay quan hệ bắt cóc là thuật ngữ mô tả một loạt những trạng thái tâm lý, trong đó con tin lâu ngày hình thành mối quan hệ tình cảm với kẻ bắt cóc trong thời gian bị giam cầm. Những cảm xúc nói trên của "nạn nhân" thường được xem là vô lý vì họ đang nhầm lẫn hành vi hành hạ với lòng tốt của kẻ bắt cóc, mặc cho những nguy hiểm mà họ đã phải trải qua. Hệ thống quản lý dữ liệu bắt cóc của FBI ước tính có 5% nạn nhân có biểu hiện của hội chứng Stockholm. Hội chứng Stockholm không những chỉ phát triển ở những nạn nhân bắt cóc mà còn có thể xuất hiện ở bất cứ ai nằm trong dạng quan hệ "vô cùng thân thiết và gần gũi trong đó một người xúc phạm, đánh đập, đe dọa, hành hạ (tâm lý hoặc/và thể xác) người còn lại." Một trong những giả thiết giải thích sự tồn tại của Hội chứng Stockholm được dựa trên lý thuyết của nhà phân tâm học Anna Freud: Sự đồng cảm của nạn nhân với kẻ hành hạ là cách mà nạn nhân phản ứng với nỗi đau mà họ đang phải trải qua.
Việc trình bày và truyền tải số lượng thông tin lớn sao cho gọn gàng, súc tích và thu hút được sự chú ý, quan tâm của người nghe, người đọc nhất là một trong những bài toán khó. Đặc biệt, đối với các công ty, doanh nghiệp, công việc này càng trở nên quan trọng hơn. Để giải quyết bài toán này, một trong những giải pháp khá hữu hiệu được lựa chọn hiện nay đó là thiết kế infographic. Thay vì trình bày thông tin một cách nhàm chán và tràn lan, Infographic cho phép chúng ta có thể trình bày toàn bộ thông tin chỉ trên một trang giấy A4. Với thiết kế đẹp mắt, minh họa ấn tượng cùng những thông tin gọn gàng, súc tích, người đọc có thể nắm được những thông tin chủ chốt được trình bày trên infographic. Thiết kế Infographic có lẽ không còn là thuật ngữ quá xa lạ. Infographic là từ ghép của Information graphic, có nghĩa là hình thức đồ họa trực quan nhằm trình bày thông tin, dữ liệu hoặc kiến thức một cách rõ ràng, nhanh chóng và bắt mắt. Thay vì trình bày thông tin 1 cách khô khan, cứng nhắc như trước đây, hiện nay, với Infographic, chúng ta sẽ kết hợp thông tin ngắn gọn, hình ảnh minh họa và màu sắc sinh động, bắt mắt. Thiết kế Infographic đòi hỏi chúng ta phải bố trí các thông tin và hình ảnh sao cho khoa học, đẹp mắt, giúp người đọc dễ hiểu, thu hút sự chú ý, quan tâm của người đọc ngay từ lần đầu tiên nhìn vào, đồng thời nắm được toàn bộ những thông tin chủ chốt từ Infographic đó. Mục đích chính của thiết kế Infographic là nhằm trình bày thông tin sao cho trở nên gọn gàng, súc tích, dễ nắm bắt và thu hút được sự quan tâm, chú ý của người xem hơn. Chúng ta có thể sử dụng hình thức thiết kế này để chuẩn bị những bản báo cáo, tường trình thông tin hoặc làm những tấm poster, quảng cáo cho nội dung của một chương trình, sự kiện hoặc một kế hoạch nào đó mà cá nhân, công ty, doanh nghiệp chuẩn bị triển khai. Với sự trình bày, bố trí khoa học, thông minh cũng như sự kết hợp của những hình ảnh minh họa, màu sắc sinh động, bắt mắt, chắc hẳn những infographic này sẽ mang đến hiệu quả truyền tải thông tin và quảng bá sản phẩm, dịch vụ ấn tượng hơn rất nhiều so với những hình thức truyền thống. Hiện nay, rất nhiều công ty chuyên về thiết kế infographic đã ra đời. Hình thức này cũng trở thành một trong những cơ hội khởi nghiệp, làm giàu lớn của nhiều đối tượng khác nhau. Như đã nhấn mạnh từ đầu bài viết, hình thức thiết kế infographic mang rất nhiều ưu điểm nổi bật so với hình thức trình bày thông tin như truyền thống. Bởi lẽ, thay vì trình bày thông tin dài, khô khan, khó tiếp thu và gây nhàm chán cho người đọc, chúng ta có thể thu gom tất cả thông tin vào trong chỉ 1 trang giấy và minh họa bằng hình ảnh, màu sắc, các từ khóa chính. Khi đó, người đọc sẽ thích thú và bị thu hút hơn, từ đó tiếp nhận thông tin nhanh chóng, hiệu quả hơn rất nhiều. Kích thước Infographic vô cùng đa dạng, thay đổi tùy theo nhu cầu sử dụng cũng như ý tưởng thiết kế của từng đối tượng khác nhau. Vì thế, sẽ không có giới hạn nào về sự sáng tạo, độ dài ngắn hay kích thước của infographic. Tất cả đều phụ thuộc vào ý tưởng, trình độ của người thiết kế cũng như đặc thù thông tin. Mẫu Infographic hiện nay vô cùng đa dạng và mỗi mẫu lại mang đến những công năng sử dụng khác nhau. Cho nên, tùy thuộc vào loại thông tin, đặc thù lĩnh vực liên quan cũng như nhu cầu của người tiếp cận thông tin, mà người thiết kế cần lên ý tưởng và thiết kế, sử dụng sao cho phù hợp. Bạn có thể sử dụng những mẫu thiết kế infographic thông minh này để trình bày báo cáo, kế hoạch, thuyết trình về dự án,… trong cả lĩnh vực học tập lẫn làm việc. Hoặc, đây cũng trở thành 1 trong những công cụ quảng cáo vô cùng hiệu quả và hấp dẫn. Thiết kế Infographic là 1 trong những xu hướng được các cá nhân, công ty, doanh nghiệp lựa chọn hiện nay. Bởi lẽ, thông qua hình thức thiết kế này, chúng ta có thể trình bày, truyền tải thông tin một cách nhanh chóng, gọn gàng, súc tích chỉ trong một trang giấy và giúp người đọc có thể hiểu và nắm được toàn bộ thông tin. Bên cạnh đó, Infographic còn đặc trưng với thiết kế sáng tạo, hình ảnh minh họa sống động cùng màu sắc được phối hợp ấn tượng. Chính vì thế, đây chắc hẳn sẽ là một trong những giải pháp tuyệt vời trong việc truyền tải thông tin đối với mọi người. Nếu như bạn đang có nhu cầu thiết kế Infographic chuyên nghiệp, thì hãy lựa chọn ngay 1 phần mềm thiết kế thông minh chẳng hạn như DesignBold nhé. Infographic la gì Wikipedia là một trong những từ khóa tìm kiếm đang nhận được rất nhiều sự quan tâm của bạn đọc. Infographic tiếng việt la gì? Là cụm từ được ghép bởi hai khái niệm Information (thông tin), và Graphic (đồ họa). Do đó, cụm từ Infographic có thể được hiểu ngắn gọn là thiết kế đồ họa dạng thông tin. Infographic là dạng thức thể hiện những thông tin, số liệu, kiến thức bằng mô hình đồ họa thống kê trực quan sinh động. Có tính ứng dụng cao trong nhiều trường hợp và mục đích sử dụng khác nhau. Nắm vững và biết cách thiết lập bài Infographic bổ trợ cho người dùng học tập, ôn luyện hoặc giảng giải vấn đề vô cùng hiệu quả. Thay vì đọc một đoạn văn trải dài vài trang giấy A4 và bạn phải tóm tắt lại nội dung thì giờ đây, chỉ cần nhìn vào mô hình Infographic, bạn đã có thể nắm đươc 90% nội dung vấn đề then chốt. Giúp tiết kiệm được không ít thời gian và công sức khi học tập, làm việc. Một trong những ứng dụng rõ nhất của Infographic chính là infographic địa lý. Những biểu đồ về dân số, mật độ dân cư, giá trị kinh tế, xã hội được thâu tóm và hiển thị dưới nhiều dạng kích thước infographic hình ảnh trực quan sinh động khác nhau, dễ dàng so sánh và đưa ra kết luận chính xác. Đi từ những lợi ích mà ứng dụng này có thể đem lại cho người dùng, ngày càng có nhiều infographic website hỗ trợ tạo mô hình đồ họa thông tin logic, đẹp mắt, sinh động. Một trong những công cụ hỗ trợ thực hiện infographic design nhanh chóng, đơn giản tốt nhất hiện nay, đó chính là DesignBold. Với hệ thống kho ảnh đa dạng, đặc sắc, phong phú nhiều chủ đề, bạn có thể dễ dàng tìm kiếm những mẫu mô hình Infographic có sẵn và điều chỉnh theo nhu cầu hoàn toàn miễn phí, cho kết quả chuyên nghiệp chuẩn chuyên gia đồ họa Design. Đừng quên theo dõi những tips thiết kế mới nhất được cập nhật liên tục mỗi ngày tại website: designbold.com nhé. Cảm ơn bạn đã dành thời gian theo dõi.
Đồ họa thông tin
Đồ họa thông tin (tiếng Anh: infographic, là từ ghép của Information graphic), là sự kết hợp thông tin ngắn gọn với hình ảnh minh họa và màu sắc sinh động, bắt mắt để có thể truyền đạt thông tin nhanh và rõ ràng hơn. Đồ họa thông tin còn được hiểu là dạng "thiết kế đồ họa thông tin" để trình bày thông tin, dữ liệu hoặc kiến thức phức tạp một cách nhanh và rõ ràng, hình ảnh hóa các thông tin, dữ liệu phức tạp thông qua sự kết hợp và lồng ghép các yếu tố như biểu tượng, kí hiệu, bản đồ… để từ đó có thể thấy được xu hướng và đặc điểm của thông tin được nói đến. Thiết kế đồ họa thông tin thường bị giới hạn ở phần chữ viết nên Đồ họa thông tin tập trung diễn đạt các thông tin cần nói bằng hình ảnh nhiều hơn. Với thông tin dạng đồ họa, các đơn vị kinh doanh trong lĩnh vực khoa học, toán học hay các lĩnh vực phức tạp khó truyền đạt thông tin như nghiên cứu thị trường, xây dựng, y tế sẽ dễ dàng diễn giải các số liệu, tài liệu chuyên ngành của mình một cách ngắn gọn và dễ hiểu.
Tôi nghĩ đây là một thuật ngữ không còn mới nữa. Không mới là vì trong số chúng ta, sẽ có nhiều người từng nghe nhắc đến cụm từ “ năm ánh sáng ” trong các chương trình khoa học giới thiệu về hành tinh, vũ trụ… . Tuy nhiên cách tính một năm ánh sáng đi được quãng đường dài bao nhiêu thì không phải ai cũng biết và nhớ. Với một sự hiểu biết còn hạn hẹp thì goctomo.com xin được giới thiệu với mọi người đôi nét về “ năm ánh sáng ” và độ dài của nó là bao nhiêu km nhé. Bởi vì vũ trụ quá rộng lớn, thậm chí nó còn giãn nở thêm theo thời gian. Sự rộng lớn của vũ trụ đã có một con số cụ thể nhưng không thể hình dung được bằng kilomet hay met mà chúng ta luôn dùng trong cuộc sống thường ngày. Và cuộc đời của con người chúng ta quá ngắn để có thể khám phá được toàn bộ vũ trụ. Nó không phải giống như khoảng cách từ nhà này đến nhà khác, từ thành phố này đến thành phố khác. Nó là vô tận. Vậy nên với vận tốc ánh sáng là 299.792,458 km/ giây ( xấp xỉ 300 ngàn km ) thì dùng tốc độ của ánh sáng để đo khoảng cách trong vũ trụ là một cách tính rút gọn tiên tiến trong khoa học của con người. Thuật ngữ “ năm ánh sáng ” có lẽ được tìm ra từ khoảng những năm giữa thế kỉ 19. Một nhà thiên văn học người Đức tên là F.Bessel đã đo thành công khoảng cách từ Trái Đất đến một ngôi sao khác ngoài hệ Mặt Trời vào năm 1838. Mặc dù giới thiên văn học vẫn sử dụng đơn vị lớn nhất khi đó để tính khoảng cách vũ trụ là “ Đơn vị thiên văn ”. Nhưng Bessel nghĩ rằng mọi người sẽ dễ hình dung hơn với hình ảnh bước sóng ánh sáng đi được bao xa để biết về các khoảng cách trong vũ trụ. Tuy nhiên ông lại ngập ngừng chưa công bố việc sử dụng “ năm ánh sáng ” vì cho rằng cách tính mới này sẽ làm sai kết quả ông mới tìm ra - khi mà vận tốc ánh sáng còn chưa biết chính xác là bao nhiêu. Tuy nhiên vào những năm sau đó, thuật ngữ “ năm ánh sáng ” bắt đầu được đưa vào các sách, tài liệu chuyên môn Thiên văn học, nhưng vẫn bị xem là cái tên lạ lẫm . Thời điểm này, các nhà khoa học đã lần lượt tìm ra được vận tốc ánh sáng. Từ năm 1968 đến 1983 họ lại sử dụng “ năm chí tuyến ” ( không phải năm Julius ) và phép đo tốc độ ánh sáng để tính toán khoảng cách không gian trong vũ trụ. Đến năm 1984, “ năm ánh sáng ” mới được Hiệp hội Thiên văn quốc tế ( IAU ) công bố chính thức và sử dụng phổ biến . Với tên tiếng Anh của cụm từ là Light Year nên Hiệp hội cũng lấy kí hiệu cho đơn vị này là Ly. Ngoài Ly, “ năm ánh sáng ” cũng được một số nước khác gọi theo ngôn ngữ riêng nên sẽ có kí hiệu riêng của họ. Bạn cần quy đổi thời gian 1 năm ra giây. 1 năm có 365,24 ngày, mỗi ngày 24 giờ, mỗi giờ 60 phút và mỗi phút có 60 giây. Lấy 2 con số trên nhân với nhau ta có : 9.460.528.400.000 km– con số dài như vậy thật hoa mắt chóng mặt nên rút gọn lại là tương đương xấp xỉ 9,5 ngàn tỷ km. Thật ra vào thế kỉ 20, một nhà thiên văn học người Mỹ tên là Robert Burnham Jr đã sáng kiến ra một cách đo mới ngắn hơn đó là dùng Đơn vị vũ trụ ( AU ). Một AU tương đương với khoảng cách từ Trái Đất – xấp xỉ 150 triệu km, tương đương 8 phút ánh sáng. Điều đặc biệt là số lượng đơn vị vũ trụ ( AU ) trong một năm ánh sáng đúng bằng số lượng inch trong một dặm . Như vậy 1 dặm ta có 63,000 inch thì 1 “ Năm ánh sáng ” có 63,000 đơn vị thiên văn. Như vậy chúng ta cũng tương đối hình dung được khoảng cách trong vũ trụ khi liên tưởng khoảng cách trong thực tế. Ngoài năm ánh sáng ra thì chúng ta có một số đơn vị đo khoảng cách trong không gian vũ trụ tính theo tháng, tuần, ngày, phút, giờ… nhưng kết quả độ dài sẽ được quy định bằng met chứ không phải kilomet như năm ánh sáng nữa. Tuy nhiên - những đơn vị này tuy có mặt đặt tên nhưng lại rất ít được sử dụng, chỉ có một số thiên thể lạ nằm trong vùng khoảng cách này như các đám mây Oort xung quanh Mặt Trời – chúng cách Trái Đất khoảng 290 – 580 ngày ánh sáng, tương đương 41 đến 82 tuần ánh sáng, 10 đến 20 tháng ánh sáng. Từ Trái Đất đến Mặt Trăng : với khoảng cách là 384,403 km thì chỉ cần mất 1.3 giây ánh sáng. Nếu như bạn đi bộ trên quãng đường trong một năm ánh sáng ( tức gần 9, 5 ngàn tỷ km ), trung bình bạn bước 20 phút một dặm thì bạn phải mất 225 triệu năm - từ trước khi khủng long xuất hiện trên Trái Đất cho đến bây giờ thì chuyến hành trình của bạn mới kết thúc. Với điều kiện là bạn không ăn uống, không nghỉ ngơi gì cả. Bạn cũng cần phải tiêu thụ 80 calo trên mỗi dặm đi bộ, vậy nên bạn sẽ mang theo túi thực phẩm chứa đủ 2 nghìn tỷ năng lượng. Đôi giày bạn đi cũng được 500 dặm, nhưng bạn sẽ cần đến 11, 8 tỷ đôi giày để mang đi trong suốt hành trình đó. Còn nếu bạn sử dụng phương tiện hiện đại nhất – máy bay siêu thanh X-43A của NASA nhanh nhất thế giới hiện nay, thời gian sẽ được rút ngắn xuống còn 97 nghìn năm. Đúng là một sự siêu phàm. Nên bạn là người thường thì bạn không thể nào đi được hết một năm ánh sáng dù cho bạn đi bộ hay đi bằng máy bay đi chăng nữa. Đơn giản là bạn không thể nào sống thọ đến 97 nghìn năm hay 225 triệu năm được. Vậy nên đường kính vũ trụ mà các nhà thiên văn học đã ước lượng rằng khoảng 93 tỷ năm ánh sáng – đó là dựa trên những phần quan sát được, nếu bạn còn siêu hơn cả vận tốc ánh sáng – đi được 9,5 ngàn tỷ km/s thì bạn cũng phải mất 3000 năm để tới đầu bên kia của vũ trụ. Bài viết này đã giúp tôi hiểu ra một điều - Vũ trụ là một sự bao la bất tận mà con người chúng ta mới chỉ khám phá ra được 0,0001 % của nó. Khoa học vẫn đang cố gắng tìm kiếm nhiều hơn những gì còn bí ẩn bên ngoài hành tinh duy nhất có sự sống là Trái Đất. Nhưng có thể khám phá hết hay không và liệu có một nơi nào cho sinh vật trú ngụ được khi mà Trái Đất đang dần dần bị bào mòn đi từng ngày – thì đó vẫn là chuyện của một tương lai còn xa lắm.
Năm ánh sáng
Năm ánh sáng là đơn vị đo chiều dài sử dụng trong đo khoảng cách thiên văn. Theo những đo lường thực nghiệm, ánh sáng truyền đi trong chân không với vận tốc khoảng 300.000 km/s, do vậy, nó bằng khoảng 9,5 nghìn tỷ km hoặc 5,9 nghìn tỷ dặm. Theo định nghĩa của Hiệp hội Thiên văn Quốc tế (IAU), một năm ánh sáng là khoảng cách ánh sáng truyền trong chân không trong khoảng thời gian một năm Julius (365,25 ngày). Bởi vì nó gồm từ "năm", thuật ngữ năm ánh sáng đôi khi bị giải thích nhầm thành đơn vị của thời gian. Năm ánh sáng thường hay được sử dụng nhất khi biểu diễn khoảng cách đến các sao hoặc đến những khoảng cách lớn hơn trong phạm vi thiên hà, đặc biệt đối với đại chúng và ở các ấn phẩm phổ biến khoa học. Đơn vị đo thường hay sử dụng trong trắc lượng học thiên thể là parsec (ký hiệu: pc, bằng khoảng 3,26 năm ánh sáng; đây là khoảng cách mà khi nhìn một đơn vị thiên văn dưới góc mở bằng một giây cung). Theo định nghĩa của IAU, năm ánh sáng là khoảng cách tính bằng nhân thời gian một năm Julius (365,25 ngày so với 365,2425 ngày của lịch Gregorius) với tốc độ ánh sáng (299792458 m/s).
Bộ phim hài giả tưởng có tựa gốc Click này kể về anh kiến trúc sư Michael Newman bận rộn, được tặng một chiếc điều khiển từ xa với quyền năng độc đáo là có thể xoay chuyển thời gian. Nhưng Newman đã lạm dụng nó và vô tình tua nhanh cuộc đời mình, bỏ lỡ những khoảnh khắc quý giá bên gia đình. Kiến trúc sư Michael Newman có tất cả mọi thứ một người đàn ông mơ ước, một người vợ xinh đẹp chỉn chu, những đứa con dễ thương, ngoan ngoãn. Nhưng anh quá bận rộn với công việc, ngập đầu trong đống bản vẽ, và luôn phải cố gắng hết mình với hy vọng ông sếp bạc bẽo có thể nhận ra thực lực và cất nhắc anh lên vị trí xứng đáng. Một ngày kia, chợt nghe từ miệng con nhắc đến một chiếc điều khiển từ xa tổng hợp, có thể điều khiển mọi thiết bị gia dụng trong nhà, anh đã vào cửa hàng bách hoá Beyond để mong tìm được một chiếc như thế. Tình cờ anh đã gặp nhà khoa học lập dị Morty và được ông tặng cho chiếc điều khiển từ xa kỳ lạ. Với nó, Newman có thể quay ngược thời gian trở về thời thơ ấu, trai trẻ, hay đến với tương lai của vài chục năm sau. Tự dưng bị vợ hỏi anh có nhớ bản nhạc êm đềm hôm anh ngỏ lời với cô, chỉ một vài cú click anh đã có thể trả lời chính xác bằng cách trở về quá khứ của mười mấy năm về trước. Bị sếp mắng hay tranh cãi với vợ, chỉ cần "Stop" là xong. Thật không ngờ, Newman đã không biết quý trọng cái gia đình lý tưởng đó và dành tối đa thời gian cho công việc, cho sự nghiệp. Anh tiết kiệm luôn cả phút giây bên gia đình, để thể hiện tình cảm, sự chăm lo tới người thân. Newman đã lạm dụng nút tua nhanh và chiếc điều khiển từ xa trở thành con dao lưỡi, khiến anh gần như tua hết những khoảnh khắc quan trọng của đời người. Cô vợ hoàn hảo Donna và hai đứa con (Samatha và Ben) dễ thương xinh xắn của Newman. Từ ý tưởng giỡn chơi bấm nút mute (tắt tiếng) khi tranh luận với người bạn gái, nhà viết kịch bản kiêm đồng sản xuất Steve Koren đã làm nên một kịch bản hấp dẫn, hài hước khiến khán giả cười nghiêng ngả từ đầu đến cuối và có cả những khoảng lặng để cho khán giả phải suy ngẫm. Mặc dù chiếc điều khiển từ xa đó chỉ có trong trí tưởng tượng, nhưng thông điệp của phim lại đầy ý nghĩa: Hãy biết quý trọng từng khoảnh khắc trong cuộc sống, và học cách yêu thương những người bên cạnh từng phút giây, bởi "không ai có thể tắm hai lần trong một dòng sông". Phim không sử dụng nhiều hiệu ứng mà chỉ có những lớp hoá trang và kỹ xảo Photoshop, để cho các nhân vật có thể đi về giữa quá khứ và tương lai, gặp lại chính mình ở các độ tuổi khác nhau, lúc già lúc trẻ, lúc béo lúc gầy. Thế giới trong tương lai cũng được phác hoạ cực kỳ khôi hài, chẳng hạn như chiếc xe cứu thương hình con cá, không có đèn pha mà chỉ có cái miệng mở to nhấp nháy đèn. Nam diễn viên chính Adam Sandler (Micheal Newman) là một hiện tượng của làng giải trí Hollywood. Anh thành công với khá nhiều lĩnh vực từ diễn viên, viết kịch bản, nhà sản xuất, đạo diễn thậm chí là nhà soạn nhạc. Lần đầu tiên anh được khán giả biết đến là chương trình truyền hình Saturday Night Live và tham gia diễn hài từ năm 17 tuổi. Anh còn tham gia các phim ăn khách như 50 First Dates (tựa đề tại Việt Nam là Yêu 24 giờ) và phim The wedding Singer diễn cùng Drew Barrymore (doanh thu 22 triệu USD). Hay các phim Happy Gilmore (2006) với doanh thu 40 triệu USD tiền vé và 35 triệu tiền video phim. Adam còn chứng còn tỏ sự đa tài khi tham gia viết kịch bản của khá nhiều phim như Happy Gilmore, Little Nicky, Billy Madison, Big Daddy, và The Waterboy. Cô vợ hoàn hảo Donna Newman do nữ diễn viên người Anh Kate Beckinsale thủ vai. Diễn viên khả ái này đã tham gia các phim, tiêu biểu có Pearl Harbor đóng cùng Leonardo Dicarpro, phim kinh dị Van Helsing đóngvới Hugh Jackman, và cô cũng là vai chính trong phim kinh dị về ma cà rồng: Underword: Evolution for Screen Gems. Người đóng nhà khoa học lập dị Morty, diễn viên kỳ cựu Christopher Walken, người từng đoạt giải Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất giải Oscar năm 1987 với một vai diễn làm sửng sốt giới phê bình nghệ thuật trong The Deer Hunter. Không ai phủ nhận Walken là diễn viên kỳ cựu, bởi ông đã tham gia tổng số hơn 50 phim. Tên tuổi đạo diễn của Click, Frank Coraci, cũng gắn liền với các phim nổi tiếng như "80 ngày vòng quanh thế giới" có sự tham gia của Thành Long, Luke Wilson, Steve Coogan. hay phim Murdered Innocence đã đem về cho ông giải Phim điện ảnh hay nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất tại Liên hoan phim Long Island. Cú Click huyền bí, do công ty Thiên Ngân giới thiệu, sẽ được trình chiếu tại các rạp ở Hà Nội (Tháng 8, Bạch Mai, Đặng Dung, Dân Chủ, Ngọc Khánh, TTCP Quốc gia và rạp Megastar) vào ngày mai, 8/12.
Cú click huyền bí
Cú click huyền bí (tựa gốc tiếng Anh: Click) là phim điện ảnh kỳ ảo khoa học viễn tưởng hài-chính kịch của Mỹ năm 2006 do Frank Coraci đạo diễn với kịch bản chắp bút bởi Steve Koren và Mark O Keefe. Diễn viên Adam Sandler là nhà sản xuất của phim kiêm vai chính. Phim còn có sự tham gia của Kate Beckinsale vai người vợ Donna và Christopher Walken vai Morty. Sandler thủ vai Michael Newman, một kiến trúc sư quá chú tâm vào công việc mà không quan tâm đến gia đình. Khi anh vớ được một chiếc điều khiển từ xa giúp anh "tua nhanh" qua những phần tẻ nhạt hoặc gây khó chịu trong cuộc sống, anh sớm nhận ra rằng những khoảnh khắc tưởng như tồi tệ mà anh bỏ qua lại chứa quãng thời gian quý giá bên gia đình và những bài học quan trọng trong cuộc sống. Trong suốt bộ phim, một người đàn ông tên là Morty giải thích cách chiếc điều khiển hoạt động và những tiềm ẩn rủi ro đi kèm. Phim từng khởi chiếu tại thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 27 tháng 10 năm 2006. Michael Newman là một kiến trúc sư, anh có vợ là Donna và hai đứa con nhỏ là Ben và Samantha.
Trong quá trình tìm kiếm nhân sự, để chiêu mộ được những người tài cho công ty, người làm tuyển dụng phải trang bị cho mình các kỹ năng (interpersonal skills) cần thiết nhất. Không có nhân viên thì doanh nghiệp không thể tồn tại. Vậy nên các kỹ năng này ảnh hưởng rất lớn đến tương lai của doanh nghiệp. Để hiểu rõ hơn về interpersonal skills là gì, chúng ta hãy bóc nghĩa của cụm từ này nhé. Dịch sang tiếng Việt “interpersonal” có nghĩa là giữa các cá nhân, “skills” dịch ra là kỹ năng. Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ này, vậy đâu mới là ý nghĩa bao quát nhất?. Interpersonal skills hiểu một cách đơn giản là kỹ năng xã hội, kỹ năng mềm. Nó là thuật ngữ chỉ các kỹ năng tạo điều kiện thuận lợi giữa các cá nhân trong quá trình giao tiếp với nhau. Với cách dịch này chúng ta có thể hiểu interpersonal skills bao gồm nhiều kỹ năng khác nhau chứ không phải là một kỹ riêng lẻ. Các kỹ năng xã hội có thể kể đến như là: giao tiếp, làm việc nhóm, thuyết phục, quản lý công việc và thời gian… Sẽ không có một sách vở nào có thể dạy chúng ta kỹ năng xã hội mà nó được rèn luyện thông qua giao tiếp với các cá nhân khác. Trong cuộc sống chúng ta có rất nhiều kỹ năng xã hội khác nhau, tùy vào từng hoàn cảnh mà sẽ có một kỹ năng tương ứng. Đối với một người làm trong lĩnh vực tuyển dụng thì việc sở hữu các kỹ năng xã hội sẽ giúp ích rất nhiều. Dưới đây là một số interpersonal skills tiêu biểu. Đây là một kỹ năng quan trọng nhất đối với mỗi người. Giao tiếp đặc biệt quan trọng với công việc tuyển dụng nhân sự. Một nhà tuyển dụng giỏi là người phải biết cân bằng cách nói chuyện với cấp trên, đồng nghiệp và các ứng viên. Mỗi đối tượng sẽ có cách giao tiếp khác nhau, nó sẽ giúp cho đối phương cảm thấy tin tưởng, thoải mái và hòa đồng trong công việc. Doanh nghiệp là một môi trường làm việc tập thể, khi bạn chính thức tham gia vào môi trường này tức là bạn đồng ý thực hiện theo các nguyên tắc chung của công ty. Đặc biệt, mỗi một cá nhân sẽ có điểm mạnh và điểm yếu riêng, vì thế mà bạn lại càng phải biết kết hợp với nhau để hoàn thành công việc được giao. Đây là một kỹ năng quan trọng của người làm lãnh đạo. Trong lời nói của họ có sự tự tin, khiến người khác nghe theo chỉ đạo của họ. Trong tuyển dụng, muốn chiêu mộ được một nhân tài về cho công ty thì kỹ năng thuyết phục là hết sức cần thiết. Những ứng viên giỏi thường sẽ nhận được chiêu mộ hấp dẫn từ các doanh nghiệp, bạn cần phải đưa ra những lý lẽ xác đáng để thuyết phục họ. Kỹ năng giải quyết vấn đề rất thiết thực nhất trong đời sống và công việc. Người có kỹ năng giải quyết vấn đề là người nhanh nhạy, linh hoạt. Trong quá trình tuyển dụng không tránh khỏi việc nằm ngoài kế hoạch. Vì thế mà người nắm chắc kỹ năng này sẽ dễ dàng, bình tĩnh để giải quyết vấn đề một cách ổn thỏa nhất. Đặc biệt, với một người nhân sự, họ còn phải đứng ra giảng hòa giữa những mâu thuẫn của đồng nghiệp trong công ty. Đây là một kỹ năng quan trọng giúp bạn nâng cao hiệu suất công việc. Một nhà tuyển dụng cần biết cách sắp xếp trình tự công việc một cách khoa học. Kỹ năng này sẽ giúp bạn tránh làm lãng phí thời gian, công sức của bản thân cũng như người khác mà không mang lại hiệu quả. Interpersonal skills đóng vai trò thật sự quan trọng trong việc tuyển dụng. Không phải người làm nhân sự nào cũng thành công trong việc chiêu mộ nhân tài, đào tạo người giỏi cho doanh nghiệp. Những người tuyển dụng không có kỹ năng xã hội tốt, thì dù có mời được ứng viên cũng sẽ khiến họ cảm thấy nhàm chán trong cuộc phỏng vấn. Trong một cuộc phỏng vấn, qua cách ứng xử, giao tiếp của nhân sự, ứng viên cũng có thể đánh giá được văn hóa của công ty đó. Với cuộc chiến “tranh giành ứng viên” không khoan nhượng giữa các HR, bạn thật sự cần đến interpersonal skills để hoàn thành tốt công việc của mình đó. Như vậy, qua bài viết trên JobsGO đã giúp bạn hiểu thêm về interpersonal skills là gì? Mong rằng bạn có thể áp dụng những thông tin trên của chúng tôi vào công tác tuyển dụng. Chúc bạn thành công!. Số ĐKKD:‎‎ 0108266100, cấp ngày 09/05/2018 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội cấp.
Kỹ năng xã hội
Kỹ năng xã hội là bất kỳ năng lực tạo thuận lợi cho sự tương tác và giao tiếp với những người khác, nơi các quy tắc xã hội và các mối quan hệ được tạo ra, truyền đạt và thay đổi theo các cách nói và không lời. Quá trình học các kỹ năng này được gọi là xã hội hóa. Để xã hội hóa, kỹ năng giao tiếp là cần thiết để liên hệ với nhau. Kỹ năng giao tiếp là những hành vi cá nhân mà một người sử dụng để tương tác với những người khác, có liên quan đến cân bằng: thống trị so với chịu đựng, yêu ghét và thù hận, liên kết và gây hấn, và kiểm soát các loại tự chủ (Leary, 1957). Các kỹ năng giao tiếp tích cực bao gồm thuyết phục, lắng nghe tích cực, ủy nhiệm, quản lý, và một số kỹ năng khác. Một lợi ích xã hội lành mạnh có liên quan đến việc không chỉ các cá nhân trong một nhóm mà việc có các kỹ năng xã hội là cần thiết cho để các mối quan hệ trong nhóm được điều chỉnh tốt. Tâm lý xã hội là kỷ luật học tập mà nghiên cứu liên quan đến kỹ năng xã hội và nghiên cứu kỹ năng được học bởi một cá nhân thông qua những thay đổi về thái độ, suy nghĩ và hành vi.
Sự phát triển mạnh của làn sóng Internet cùng với nhu cầu chia sẻ, trao đổi thông tin của con người ngày càng cao đã kéo theo sự bùng nổ của các ngành truyền thông. Với tác vụ chính là truyền tải, thỏa mãn tối đa nhu cầu không thể thiếu của con người - thông tin, đồng thời góp phần chủ đạo cho sự nâng cấp về thương hiệu của doanh nghiệp, ngành truyền thông đại chúng đã và đang trở thành ngành hot được lựa chọn bởi nhiều bạn trẻ năng động và hé mở nhiều cơ hội việc làm hấp dẫn. Vậy ngành truyền thông đại chúng là gì? Ngành truyền thông đại chúng ra làm gì? Chúng ta hãy cùng tìm hiểu ngay trong bài viết sau nhé. So với người anh em truyền thông đa phương tiện, chúng ta bắt gặp nhiều vào thời gian gần đây nhờ sự lên ngôi của công nghệ, truyền thông đại chúng được ví là ông tổ của ngành truyền thông ra đời trong bối cảnh bùng phát, lớn mạnh của hàng loạt những ấn phẩm hút sự quan tâm mạnh mẽ của công chúng: Từ những ấn phẩm lâu đời nhất có thể kể đến báo in, báo truyền hình, phim ảnh, video và truyền thông qua Internet. Bản chất của truyền thông đại chúng là một quá trình định hướng thông tin, truyền tải những thông điệp đến đối tượng mục tiêu bằng những công cụ truyền thông đại chúng để đạt được mục đích đề ra và được xem là kênh hình đắc lực hỗ trợ ngành công nghiệp sản xuất phim ảnh, truyền hình, thiết kế, quảng cáo. Bởi lẽ, những ấn phẩm này dù truyền thống hay có ứng dụng Internet chỉ hiệu quả khi nó mang một nội dung, thông điệp có ý nghĩa, thu hút và truyền tải những thông điệp ý nghĩa này thông qua những phương tiện “quen mặt” với tất cả công chúng. Sự lên đời của Internet và chuyên nghiệp hóa của các tòa soạn báo chí, có vẻ như việc trao đổi, chia sẻ, tương tác các thông tin.trở thành một phần không thể thiếu của cuộc sống. Chắc hơi khó để bạn có thể bỏ qua những mẫu tin hot buổi sáng trong lúc nhâm nhi tách cà phê. Những lúc nghỉ ngơi hay trước giờ làm việc, lướt Facebook, đọc báo nghe phim ảnh.để chiều chuộng thứ thời gian rảnh rỗi ít ỏi là thói quen giải trí cố hữu mà mỗi chúng ta khó kìm lòng trong thời buổi công nghệ phát triển mạnh. Nhưng giải trí hay tiếp cận những thông tin nóng hot chỉ là một phạm trù trong tổng thể ngành truyền thông đại chúng. Ngày nay, nền kinh tế phát triển, quảng bá đẩy mạnh hình ảnh, thông tin doanh nghiệp biến truyền thông trở thành những người “giữ hồn cho thương hiệu”. Với lý do chủ đạo này, hiện nay, cùng với quảng cáo, PR, truyền thông đại chúng trở thành lựa chọn đầu tiên của doanh nghiệp từ nhỏ đến lớn và thành ngành học cực hot, xu thế của thế kỷ nguyên số được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp tại các trường đại học. Tên tiếng Anh phổ biến cho ngành học này là Mass Communication. Tại các môi trường đào tạo chuyên nghiệp các sinh viên được tiếp cận với đa dạng các công cụ về phương tiện truyền thông, chương trình học nâng cao khả năng giao tiếp và đối thoại với công chúng trên tất cả các phương tiện từ chữ viết, âm thanh đến hình ảnh, đồng thời chắt lọc những kinh nghiệm thực tiễn cũng như trang bị các khả năng phân tích đánh giá, thẩm định các thông tin, chương trình, các dịch vụ truyền thông. Nhưng chuyên gia trong ngành này trở thành người bắc cầu kết nối doanh nghiệp đến với lực lượng khách hàng tiềm năng bằng nội dung ấn phẩm có tình huống. Nét tiêu biểu và phân biệt sâu sắc của ngành truyền thông đại chúng và báo chí chính là mô tả việc dù cả hai được xếp vào những kênh truyền tải nội dung thông tin. Nếu báo chí hướng người đọc đến những tin tức có tính chất sự kiện nhằm phản ánh đúng bản chất của sự việc đó bằng những nội dung thông qua kỹ năng viết lách, tác nghiệp hiện trường.thì những sinh viên truyền thông đại chúng sẽ được trang bị đầy đủ những kỹ năng lập kế hoạch, hoạch định những chiến lược, tự xây dựng những kế hoạch truyền thông, các kỹ năng tổ chức triển khai kế hoạch, đốc thúc quá trình sản xuất ra các ấn phẩm truyền thông cũng như các hoạt động quản lý để quá trình này diễn ra suôn sẻ. Dĩ nhiên, cũng như báo chí, truyền thông không thể tách rời các phương tiện kỹ thuật. Truyền thông đại chúng là nghề tiếp cận với công chúng thường xuyên, đặc biệt là ở lực lượng công chúng tiềm năng, quá trình xây dựng và sản xuất ấn phẩm làm sao để hút công chung và tạo ra hiệu quả cao đòi hỏi ở ứng viên cách sử dụng thành thạo các hầu hết các phương tiện như máy ảnh, máy quay phim, máy ghi âm, phòng phát thanh, phòng thu âm.Đây là những chủ thể được hầu hết trường đào tạo bài bản. Bên cạnh đó, các sinh viên của ngành này cũng được hướng dẫn, trang bị, vận dụng những tri thức cho từng nhánh nhỏ của truyền thông bao gồm kỹ thuật truyền thông, truyền thông doanh nghiệp và ngành thông trong mảng giải trí như cách tạo các MV âm nhạc, quản trị các website, các sản phẩm truyền thông, văn hóa - nghệ thuật, truyền thông thể thao giải trí. Các sản phẩm truyền thông đại chúng tính đến thời điểm hiện tại không thuần túy là mang lại cho con người những thông tin để phong phú, giàu có thêm đời sống tinh thần mà còn là “kênh”quảng bá sản phẩm của doanh nghiệp. Việc ứng dụng truyền thông đại chúng bằng việc đăng tin, bài trên những báo các trang tin đã trở nên cực kỳ phổ biến và mang lại khoản thu nhập đáng kể cho những người có năng khiếu viết lách và làm việc trong môi trường doanh nghiệp chuyên nghiệp. Nhưng đó chỉ là một mảng rất nhỏ của doanh nghiệp trong cả một chiến lược xúc tiến,đẩy mạnh thương hiệu. Doanh nghiệp cần đến việc đẩy mạnh, xây dựng các chiến lược truyền thông dài hạn và khai thác sức mạnh của nó trên cả 8 phương tiện lớn của truyền thông đại chúng, đặc biệt là tối ưu hóa nội dung trên Internet dưới dạng các bài viết website, các video, phim ngắn có nội dung về quảng bá. Nhưng chưa hết, để có thể thực hiện những khâu này, cần có người đứng ra tổ chức, triển khai, hoạch định những chiến thuật định hướng, dự trự kinh phí, dựng phim, xây dựng kịch bản, các bước gặp gỡ công chúng để khai thác thông tin.tất cả những bước này sẽ quá tải chỉ do một người đảm nhiệm mà phải phối hợp nhịp nhàng giữa nhiều cá nhân và nhiều doanh nghiệp. Do vậy, cơ hội đầu tiên của nghề truyền thông chính là sự lựa chọn đa dạng vị trí nghề nghiệp. Một sinh viên đa di năng có thể bảo nhiệm hầu hết mọi khâu trong quá trình xây dựng một sản phẩm và hỗ trợ đồng nghiệp khi lực lượng chuyên trách của bộ phận đó không thể có mặt. Được trang bị đầy đủ những kỹ năng từ giao tiếp đến viết lách, ứng dụng các trang thiết bị kỹ thuật.đủ để một sinh viên truyền thống có thể tự mình chinh phục một vị trí yêu thích trong phòng truyền thông của doanh nghiệp hay các công ty về truyền thông, công ty giải trí với một mức thu nhập hấp dẫn. Mức lương khởi điểm tại các doanh nghiệp đang chiêu mộ những ứng cử viên truyền thông hiện nay dao động từ 8 - 12 triệu động. So với mặt bằng chung, đây là lực thu nhập khá tốt. Ngoài ra sự chuyên nghiệp của môi trường và năng động của đội ngũ dân trong ngành tạo hứng khởi cho lớn, đặc biệt có những sinh viên mới ra trường bởi được theo đuổi nghề theo đam mê và thỏa chí tích lũy kinh nghiệm giao tiếp, kinh nghiệm sống. Thậm chí, một người học truyền thông đại chúng được trang bị đầy đủ những kiến thức, kỹ năng, đặc biệt là những kỹ năng về công nghệ có thể “đổi gió” sang báo chí - công tác tại các phòng media tại các tòa soạn lớn nhỏ hay biên tập cho những trang tin. Nhưng trước hết, ta hãy khám phá xem các trường đại học đào tạo truyền thông đại chúng đang mong muốn sinh viên của mình có thể đảm nhiệm được những vị trí nào đã nhé. Xây dựng nội dung là một phần quan trọng trong tổng thể chiến lược truyền thông dù lớn hay nhỏ. Nhưng nó không đơn thuần lách các kịch bản cho các chương trình truyền thông tại chỗ mà còn tạo ra các ấn phẩm media hút công chúng như video, các MV ngắn phản ánh sản phẩm thương hiệu. Đây có thể xem là vị trí đa năng nhất trong các công ty truyền thông bởi họ sẽ đảm nhiệm luôn việc chụp ảnh, quay phim để xây dựng nội dung thậm chí là thiết kế hoặc lên ý tưởng cho các sản phẩm nhận diện thương hiệu. Một vị trí khác yêu cầu khả năng sáng tạo không kém là các biên tập viên - họ là những người chịu trách nhiệm nội dung cho các website tại các cơ quan truyền thông. Họ là người tối ưu nội dung bằng khả năng viết lách trên những kênh truyền thông chính của doanh nghiệp như website, fanpage…. Thay vì lên nhưng kịch bản video hay viết lách và đăng nội dung lên các page hay website, chuyên viên về truyền thông.là vị trí phản ánh rõ nhất bản chất của truyền thông đại chúng. Họ là người lập những kế hoạch, phát triển chiến lược truyền thông và trực tiếp đứng ra tổ chức những sự kiện có thể trong nội bộ công ty ( truyền thông nội bộ) hay các chương trình PR, tổ chức các chương trình tài trợ để tăng tính nhận diện thương hiệu…(Nhân viên PR). Vị trí này đang được nhiều công ty truyền thông và doanh nghiệp ở nhiều lĩnh vực tuyển dụng với mức thù lao khá tốt từ 8- 15 triệu đồng. Đến đây, các bạn đã trả lời cho mình câu hỏi “học ngành truyền thông đại chúng ra làm gì” rồi đúng không. Vậy đâu chính là địa điểm đào tạo uy tín giúp bạn thực hiện ước mơ này?. Như cầu tuyển dụng nhân sự cho các ngành truyền thông đại chúng của doanh nghiệp tăng lên mạnh mẽ khẳng định cho sức hút của ngành này. Tuy nhiên, các mảng của truyền thông đang được đào tạo kết hợp chưa có sự phân biệt rõ ràng. Tính đến thời điểm hiện tại, chỉ có Viện Báo chí - Học viện Báo chí và Tuyên truyền đáp ứng được đầy đủ các tiêu chuẩn đào tạo nghề này. Đây là cơ sở duy nhất trên toàn quốc gieo đam mê truyền thông đại chúng với tín đồ của ngành này ở 4 tổ hợp môn gồm D01 (Toán, Văn, Anh), R22 (Địa lý, Toán, Tiếng Anh) với điểm chuẩn năm 2019 là 20,75 điểm, Khối A16 (Toán, Khoa học tự nhiên, tiếng Anh) với điểm chuẩn là 20.25 điểm và khối C15 (Ngữ văn, Toán Khoa học xã hội) - điểm chuẩn là 22 điểm. Hi vọng rằng, những thông tin trên đây của timviec365.vn xoay quanh chủ đề định hướng nghề nghiệp ngành truyền thông đại chúng sẽ thật sự hữu ích với bạn trong quá trình tìm kiếm cho mình một ngành học và cơ hội việc làm phù hợp nhất nhé!
Truyền thông đại chúng
Truyền thông đại chúng đề cập đến một loạt các công nghệ truyền thông nhằm tiếp cận một lượng lớn khán giả thông qua giao tiếp đại chúng. Các công nghệ mà truyền thông đại chúng sử dụng bao gồm nhiều loại đầu ra. Các phương tiện quảng bá truyền thông tin dưới dạng điện tử qua các phương tiện như phim, đài phát thanh, nhạc ghi âm sẵn hoặc truyền hình. Phương tiện kỹ thuật số bao gồm cả Internet và truyền thông di động. Phương tiện truyền thông Internet bao gồm các dịch vụ như email, các trang mạng xã hội, trang web và đài phát thanh và truyền hình dựa trên Internet. Nhiều phương tiện truyền thông đại chúng khác có thêm sự hiện diện trên web, bằng các phương tiện như liên kết đến hoặc chạy quảng cáo truyền hình trực tuyến hoặc phân phối mã QR trên các phương tiện truyền thông ngoài trời hoặc in ấn để hướng người dùng di động đến một trang web. Bằng cách này, họ có thể sử dụng khả năng tiếp cận và tiếp cận dễ dàng mà Internet mang lại, do đó dễ dàng truyền phát thông tin đến nhiều khu vực khác nhau trên thế giới đồng thời và tiết kiệm chi phí.
Trần Hưng Đạo (1228 – 20 tháng 8, 1300), còn được gọi là Hưng Đạo đại vương hay Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương là một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một nhà chính trị, nhà văn cũng như là Tư lệnh tối cao chỉ huy quân đội toàn quốc của Đại Việt thời nhà Trần. Ông nổi tiếng trong lịch sử nước Việt với vai trò chỉ huy quân đội Đại Việt ba lần đẩy lùi quân Nguyên – Mông trong thế kỷ 13 (1258-1288). Chiến thắng của ông trước đội quân Nguyên – Mông dưới thời Hốt Tất Liệt là một trong những chiến công vĩ đại của lịch sử quân sự thế giới. Được coi là một trong những nhà quân sự kiệt xuất nhất trong lịch sử dân tộc. Tư tưởng quân sự của ông đã được thể hiện rõ trong các luận thuyết, tác phẩm của mình. Trần Hưng Đạo tên thật là Trần Quốc Tuấn là con trai của Khâm minh Đại vương Trần Liễu. Chú ruột của Trần Quốc Tuấn chính là vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh). Sinh ra đã mang dòng máu hoàng gia nhưng hoàn cảnh gia đình lúc bấy giờ của ông lại vô cùng phức tạp. Thái sư khai quốc nhà Trần, Trần Thủ Độ vô cùng lo lắng khi vua Trần Thái Tông lên ngôi đã lâu mà chưa có con. Vì vậy, Trần Thủ Độ đã ép Trần Liễu phải “nhường” vợ lại cho em trai để có con nối dõi ngay trong lúc Thuận Thiên Công chúa đang mang thai. Như vậy khác gì Trần Liễu vừa mất vợ, vừa mất con?. Quá tức giận, Trần Liễu tập hợp quân chống lại nhưng không thành, nhưng vẫn được sống vì vua Thái Tông nhân thương anh, tha tội chết. Nhưng cũng từ đó, Trần Liễu không nguôi hậm hực, không phục cho nên đi khắp nơi, tìm thầy giỏi, người tài dạy võ công, lễ giáo, văn chương cho con trai với mong muốn Trần Quốc Tuấn sau này sẽ thành người thập toàn thập mỹ, văn võ song toàn, có đủ phẩm chất để trả thù cho cha. Sau này, khi Trần Liễu ốm bệnh, sắp gần đất xa trời có gọi Trần Quốc Tuần lại gần căn dặn: “Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì người cha này dưới suối vàng cũng không thể nhắm mắt”. Lời trăn trối của cha trước lúc lâm chung, dĩ nhiên ông phải “Dạ”, nhưng trong lòng Trần Quốc Tuấn không cho là chuyện nên làm. Sinh ra đã được coi là bậc kỳ tài, văn võ song toàn, khôi ngô tuấn tú, thể chất hơn người, luôn bị người đời nghi kỵ khi được nhà vua tin dùng, nhưng Hưng Đạo Đại Vương vẫn luôn 1 mực giữ tấm lòng trung, sắt son không đổi. Truyện kể rằng, có lần, ông cùng vua Trần Nhân Tông đi dạo, biết có kẻ nhòm ngó việc ông cầm gậy có bịt sắt đi cạnh. Thấy vậy, Trần Quốc Tuấn liền bẻ đôi cây gậy rồi bỏ đi. Chỉ 1 hành động nhỏ trong khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng chính điều này khiến cho những lời gièm pha tự động biến mất. Tương truyền, Trần Quốc Tuấn từng mang lời trăn trối của cha mình để thử lòng các con trai ông cùng các tướng như Yết Kiêu, Dã Tượng. Khi đó, không ai tán đồng việc “trả thù” ngoại trừ 1 người con của ông tên Trần Quốc Tảng. Có lần khác, đứng trước trận chiến lớn với quân Nguyên Mông, chính Trần Quốc Tuấn chủ động xóa tan nghi ngại với Trần Quang Khải, con trai lớn của Trần Cảnh. Hai người vốn là đầu mối của 2 chi, dĩ nhiên thừa hưởng “mối thù” từ đời cha. Chuyện kể rằng: Hưng Đạo Vương chủ động mời thái sư Trần Quang Khải đến trò chuyện, chơi cờ rồi sai người đun nước thơm. Sau đó, ông tự tay kỳ lưng, tắm cho thái sư. Đường đường là Quốc Công Tiết Chế của nhà Trần, vị trí không hề kém cạnh nhưng vẫn chủ động làm những việc đó, đủ thấy Trần Quốc Tuấn vị tha thế nào, gạt thù nhà để chung tay lo nghiệp nước. Tình hình đã căng thẳng lại càng có phần căng thẳng hơn. Phải đối phó với Sài Thung ra sao? Sách Đại Việt sử kí toàn thư (quyển 5, bản kỉ, tờ 41a và 41b) có một đoạn chép như sau: Thung ngạo mạn vô lễ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh, quân sĩ Thiên Trường ngăn lại. Thung dùng roi ngựa quất họ bị thương ở đầu. Đến điện Tập Hiền, thấy chăng đầy màn trướng, hắn mới chịu xuống ngựa. Vua sai Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp, Thung nằm khểnh không ra. Quang Khải vào hẳn trong phòng, hắn cũng không dậy tiếp. Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn nghe thấy thế, tâu xin đến sứ quán xem Thung làm gì. Lúc ấy, Quốc Tuấn đã gọt tóc, mặc áo vải. Đến sứ quán, ông đi thẳng vào phòng. Thung đứng dậy, vái chào và mời ngồi. Mọi người đều kinh ngạc, bởi cứ ngỡ người gọt tóc, mặc áo vải này là nhà sư phương Bắc. Ông ngồi xuống pha trà, cùng uống với hắn. Sau, người hầu của Thung nhận ra ông, cầm cái tên chọc vào đầu Quốc Tuấn đến chảy máu, nhưng sắc mặt Quốc Tuấn vẫn không hề thay đổi. Khi về, Thung ra tận cửa tiễn ông.
Trần Hưng Đạo
Trần Hưng Đạo (chữ Hán:陳興道); 1228 – 1300), tên thật là Trần Quốc Tuấn (chữ Hán:陳國峻), tước hiệu Hưng Đạo đại vương, là một nhà chính trị, nhà quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần. Ông được biết đến trong lịch sử Việt Nam với việc chỉ huy quân đội đánh tan hai cuộc xâm lược của quân Nguyên – Mông năm 1285 và năm 1288. Phần lớn tài liệu nghiên cứu lịch sử và cả dân gian thời sau thường dùng tên gọi vắn tắt là "Trần Hưng Đạo" thay cho cách gọi đầy đủ là "Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn", vốn bao gồm tước hiệu được sắc phong cho ông. Ông là 1 trong 14 vị anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam. Là con của thân vương An Sinh vương Trần Liễu và là cháu nội của Trần Thái Tổ, Trần Hưng Đạo có mối quan hệ mật thiết với hoàng tộc họ Trần và vua Trần Nhân Tông gọi ông bằng bác. Năm 1257, ông được vua Trần Thái Tông phong làm đại tướng chỉ huy các lực lượng ở biên giới đánh quân Mông Cổ xâm lược. Sau đó, ông lui về thái ấp ở Vạn Kiếp.
Nhưng “Bên nhau dài lâu”, cảm thấy ai cũng không sánh bằng, là duyên, cũng là bản lĩnh, tài năng của cả hai đủ mạnh để níu giữ nhau, không cần ai khác đến thay nữa. “CÓ THỂ GẶP NHAU Ở THỜI KHẮC ĐẸP NHẤT, ĐÓ CHÍNH LÀ NHÂN DUYÊN TỐT NHẤT, QUAN TRỌNG HƠN BẮT CỨ ĐIỀU GÌ.” (Trích lời Thư Kỳ). Hầu Hiếu Hiền được xem một trong những lá cờ đầu, đồng thời là tên tuổi có tầm ảnh hưởng quốc tế lớn nhất của phong trào Điện Ảnh Mới Đài Loan (còn gọi Làn Sóng Mới của Đài Loan) từ thập niên 1980. Ông là người Hoa đầu tiên được trao giải Sư Tử Vàng tại Liên hoan phim Venezia năm 1989 cùng tác phẩm Bi Tình Thành Thị. Năm 2015 ông được trao giải Đạo Diễn Xuất Sắc Nhất tại Liên hoan phim Cannes cùng bộ phim Nhiếp Ẩn Nương. Là lá cờ đầu của phong trào Điện Ảnh Mới Đài Loan, hiếm ai định mức thời gian xuất sắc và mang tính thẩm mỹ cao như Hầu Hiếu Hiền, chưa kể trong bao năm qua, ông đã tinh giản các thước phim như đang nhìn vào đời sống, sự chảy trôi của thời đại. Ưu điểm đó đã dần khẳng định tên tuổi của Hầu Hiếu Hiền không chỉ dọc chiều dài đất nước mà còn ở các lục địa, các quốc gia châu Âu. Phong cách làm phim của Hầu chịu ảnh hưởng sâu sắc từ bậc thầy Yasujiro Ozu. Các bộ phim của ông đều mang tinh thần “thiền” để khơi gợi mọi cảm xúc, từ day dứt đến bi thương, từ nhẹ nhàng đến dữ dội.
Hầu Hiếu Hiền
Hầu Hiếu Hiền (phồn thể: 侯孝賢; giản thể: 侯孝贤; bính âm: Hóu Xiàoxián; Wade-Giles: Hou Hsiao-Hsien; 8 tháng 4 năm 1947) là một nhà làm phim của điện ảnh Đài Loan. Ông được biết tới như một trong những đại diện tiêu biểu nhất của trào lưu điện ảnh Làn sóng mới ở Đài Loan bắt đầu từ thập niên 1980. Thường tự biên kịch và đứng ra sản xuất cho các bộ phim mình đạo diễn, Hầu Hiếu Hiền đã tạo được một phong cách làm phim riêng được điện ảnh thế giới đánh giá cao, ông là đạo diễn Đài Loan nói riêng và người Hoa nói chung đầu tiên được trao giải Sư tử vàng tại Liên hoan phim Venezia với tác phẩm Bi tình thành thị năm 1989. Hầu Hiếu Hiền sinh năm 1947 trong một gia đình người Khách Gia ở huyện Mai, Quảng Đông, Trung Quốc. Cả gia đình Hầu Hiếu Hiên chuyển sang Đài Loan chỉ một năm sau đó. Sau khi tốt nghiệp phổ thông tại thành phố Phượng Sơn, huyện Cao Hùng, Hầu Hiếu Hiền theo học đại học tại Học viện Nghệ thuật Quốc gia Đài Loan. Năm 1973 Hầu Hiếu Hiền bắt đầu sự nghiệp điện ảnh trong vai trò trợ lý và biên kịch của đạo diễn nổi tiếng Lý Hành.
Để giúp khách hàng có thể tìm hiểu rõ hơn về quy trình dệt thảm cũng như quy chuẩn và chất lượng từng chủng loại thảm Fine18 cung cấp. Thảm dệt truyền thống được những người nghệ nhân lành nghề nhất lựa chọn theo từng sợi dệt. Được đan bằng tay hoàn toàn. Để hoàn thành được 1 mét vuông thảm bằng cách này sẽ cần rất nhiều thời gian và sự kiên nhẫn của người thợ dệt thảm. Thời gian được tính bằng tháng thậm trí nhiều mét vuông thảm có mật độ lớn được dệt hàng năm mới có thể hoàn thành. Thông thường trên thị trường thường bán các loại thảm dệt với mật độ từ 90.000 nút/m2 đến 215.000 nút/m2 với giá thành từ 3 triệu đồng mỗi mét vuông trở lên. Thảm đan tay thủ công là loại thảm rất đặc biệt nên chúng thường được những nghệ nhân chọn từ những nguyên liệu tốt nhất. Chủ yếu như len lông cừu từ vùng NewZealand hoặc lụa của Tô Châu, Trung quốc. Thậm chí để đáp ứng yêu cầu cao hơn nữa, Công ty cổ phần thảm len Hàng Kênh còn lựa chọn những sợi lụa của làng nghề Vạn Phúc, Hà Nội để dệt. Đây là những sản phẩm thảm đan tay đặc sắc nhất mang lại những vị thế của HangkenhRugs trên thị trường trong nước cũng như nước ngoài. Tùy theo sự lựa chọn của khách hàng. Chúng tôi có những tấm thảm dệt tay được vẽ sẵn hoặc có thể vẽ theo ý tưởng hoặc thiết kế khách hàng. Ngày nay, với sự trợ giúp từ công nghệ vẽ mẫu trên các thiết bị điện tử. Chúng tôi có thể thực hiện dựng phiên bản mẫu âm trên phần mềm vẽ. Nhưng để thực hiện được một tấm thảm truyền thống mang tính nghệ thuật cao vẫn không thể thiếu bàn tay tài hoa vẽ mẫu trên giấy thật. Đôi khi sự sai lệch tương tác trong bản vẽ âm rồi đến bản vẽ giấy thiết kế. Rồi đến thao tác chỉnh sợi của nghệ nhân dệt lại đem đến một tác phẩm nghệ thuật thực sự. Đây chính là điều ấn tượng đặc biệt của thảm dệt tay truyền thống. Các sợi ngang được thắt nút rất chắc chắn trên các sợi cotton dọc theo từng nút thắt một. Từng sự tỉ mỷ một, chăm chút từng nút một để có thể tạo ra một tấm thảm đẹp. Có khi mật độ của chúng lên tới hàng 500.000 nút sợi trên 1 mét vuông. Các hoa văn trên thảm thủ công gần tương đồng với hoa văn trên bản vẽ mẫu. Người thợ dệt sẽ chuyển thể qua các nút thắt sợi như trên. Thời gian trung bình để dệt xong 1 mét vuông thảm đan tay thủ công này thường được tính theo tháng thậm chí lên đến hàng năm. Đã có tấm thảm đan tay được dệt với mật độ lên đến hàng triệu nút sợi/m2 với khổ rộng chỉ 2m x 4m và mất 15 tháng để hoàn thành. Đó là câu trả lời rằng tại sao đây là loại thảm dệt đắt đỏ nhất, tốn kém thời gian nhất và khách hàng cũng phải là người kiên nhẫn nhất. Đây là công đoạn thổi hồn cho tấm thảm. Người thợ sẽ cố gắng bằng kinh nghiệm của mình để làm nổi bật lên những chi tiết hoa văn. Hay những chi tiết cần phải được tạo ra để tôn lên vẻ đẹp của cả tấm thảm thủ công. Đây thường là công đoạn khó khăn nhất trong quá trình hoàn thiện tấm thảm. Chúng tôi khẳng định sự kiên nhẫn của người nghệ nhân được thể hiện rõ nhất trong thời gian này. Cuối cùng là giặt thảm bằng phương pháp truyền thống, tấm thảm sẽ được giặt bằng tay, sấy khô trong phòng sấy kiểm soát nhiệt độ. Sau cuối là người thợ cả sẽ kiểm tra lần cuối cùng những chi tiết nhỏ của các nút sợi. Những nét tỉa cần phải chau chuốt hay không trước khi được đóng gói giao hàng. Với độ bền và tính nghệ thuật rất cao, chúng tôi luôn cam kết bảo hành trong 5 năm với các sản phẩm thảm dệt tay thủ công như vậy. Các thiết kế thảm dệt tay truyền thống thường mang tính cá nhân rất nhiều. Đây là không gian rộng, đòi hỏi thiết kế rất tỷ mỷ và phải nổi bật được tính chủ đạo theo chủ đề của cả căn phòng. Với đặc trưng các hoa văn truyền thống Việt Nam. Được cách điệu và thường được sử dụng tông màu đỏ đặc trưng. Điều này nhằm làm nổi bật tính thẩm mỹ trang trọng nhưng lại phải đồng nhất với tổng thể căn phòng. Truyền thống cổ điển Việt Nam và phá cách về nột thất dẫn đến phá cách hiện đại trong nguyên mẫu thiết kế thảm. Có thể xem thêm các mẫu thảm thủ công tại đây. Nhưng với phong cách nào thì tỷ lệ hoa và màu truyền thống của Việt Nam luôn chiếm tới trên 50% tổng thể diện tích. ( xem các thiết kế Thảm len hàng kênh đã thực hiện tại đây ). Chúng tôi tất nhiên thường cố gắng dệt theo chủ ý của chủ đầu tư. Nhưng tuy nhiên, với kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực chúng tôi cũng có những nhận xét cùng một số ý kiến tham vấn. Diện tích tấm thảm và chủ đề hoa văn cũng như mật độ người dùng cao tại những khu vực khánh tiết luôn được quan tâm nhất. Một trong những yêu tiên hàng đầu trong thiết kế thảm khánh tiết. Đây là nét chung trong các công trình khánh tiết. Logo (nếu có) các đơn vị thường được đặt tại vị trí trung tâm của tấm thảm và phải đảm bảo đây là khu vực không được bước qua. Các mép cửa nên được gia cố bằng thanh nẹp đồng chắc chắn. Thường là tông màu đậm hơn so với màu chủ đạo của tấm thảm. Sự quy chuẩn và đẳng cấp nhất trong thiết kế của khách sạn cao cấp quốc tế. Các thiết kế được tuân thủ nghiêm ngặt nhất về chất lượng cũng như thiết kế của chủ đầu tư. Các công trình khách sạn 3* thường sử dụng loại thảm đan tay này để trang trí phòng tổng thống khách sạn. Điểm nhấn cho cả căn phòng chính là tấm thảm này. Tại công ty chúng tôi có hàng nghìn mẫu thiết kế theo các phong cách khác nhau với các module phòng khác nhau dựa trên các tone màu sắc sợi khác nhau. Trong các thiết kế chuẩn mực đến kinh điển trang trí nội thất thì đều phải có một phần thảm len trong đó. Như đã nói chúng tôi sẵn sàng đáp ứng đầy đủ nhất các yêu cầu khó tính tỷ mỷ của tất cả Khách hàng. Các thiết kế tại HangkenhRugs là đơn lẻ, đa dạng. Chắc chắn rằng chúng luôn luôn phù hợp ngay cả với những phong cách thiết kế nội thất riêng nhất của từng Khách hàng. Có rất nhiều mẫu thiết kế thảm trang trí nhà. Có thể bạn muốn xem thêm thảm sofa phòng khách tại đây. Các sản phẩm thảm len trang trí luôn được bảo hành và bảo trì liên tục khi khách hàng mua và dệt tại HangkenhRugs. Chúng tôi sẵn sàng giúp khách hàng từ khâu sản xuất đến sử dụng và bảo quản sao cho tấm thảm luôn trong tình trạng tốt nhất. Chúng tôi cũng sản xuất thảm trải đường dẫn dành cho khối cơ quan nhà nước hoặc đơn vị khai thác dịch vụ cao cấp. Thảm được đan theo cách Hook với các sợi đan đơn lên nhau. Điều này được cải tiến hơn so với các cách đan thảm thông thường. Với cách này tấm thảm sẽ dễ sử dụng hơn, nhẹ hơn trong vận chuyển lắp đặt và dễ vệ sinh hơn. Điều đặt biệt là thảm đường dẫn có thể chịu được nước và chịu được nước kèm bụi bẩn. Thảm dẫn đường hay được dùng trong các tiệc đón tiếp cơ quan nhà nước hoặc thảm đường dẫn mặt đất tại các sân bay trên thế giới. Đây là một trong những bước đột phá rất lớn trong ngành thảm dệt tay trên thế giới cũng như lần đầu tiên được áp dụng tại Việt Nam. Với kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực sợi len và thủ công. Ban Giám đốc cùng đội ngũ nghệ nhân HangkenhRugs đã mạnh dạn áp dụng công nghệ nhằm giải quyết bài toán về thời gian thi công nhanh hơn. Nhưng vẫn giữ được tính cá nhân, tùy biến theo thiết kế sàn của Chủ đầu tư. Thảm dệt bán thủ công tại xưởng của HangkenhRugs đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn khắt khe giống như thảm đan tay 100% nhưng giải quyết rất nhanh về thời gian cung ứng sản phẩm. Chúng tôi vẫn áp dụng quy chuẩn trong khâu nhuộm sợi, vẫn gồm các công đoạn trong thiết kế. Vẫn những nghệ nhân đó nhưng bài toán về thời gian đã giảm đến 80%. Chất lượng sợi thảm cũng như các vấn đề kháng ẩm hay chịu được mật độ cao đã được cải tiến hơn rất nhiều. Một tấm thảm dệt bán thủ công có thể đáp ứng thêm tiêu chuẩn cho các công trình đặc biệt. Đòi hỏi chịu được các khu vực có mật độ đi lại cao kèm theo yêu cầu bảo dưỡng và giặt thảm liên tục. Các thiết kế thảm bán thủ công được dùng trong các khu vực cũng giống thảm đan tay như đã nói ở trên. Từ trải trang trí cho các phòng Khánh tiết cấp cao, các phòng khách sạn 5* hay đến những tấm trang trí gia đình. Nhưng cũng từ lý do giảm đáng kể về mặt thời gian dệt nên giá thành được giảm mạnh. Khách hàng chỉ cần đầu tư 50% giá thành so với thảm đan tay truyền thống đã có thể sử dụng được thảm dệt bán thủ công tại HangkenhRugs. Trong khi các yêu cầu kỹ thuật cũng như thẩm mỹ không hề thay đổi, thậm trí tốt hơn ở công trình có mật độ đi lại rất cao. Một bài toán đã giải quyết được tính cạnh tranh rất lớn trong ngành nội thất. Giải pháp cho các đơn vị tư vấn đến chủ đầu tư trong việc vẫn đảm bảo các yêu cầu quy chuẩn cần có trong sử dụng vật liệu trang trí nhưng với giá thành Việt Nam hơn rất nhiều. Trong quá trình phát triển sản phẩm cũng như định dạng thị trường, chúng tôi đã làm việc với một số đối tác tại Trung Quốc, Đức, Thailand. Những đối tác có thể đáp ứng được công nghệ sản xuất thảm với số lượng rất lớn. Dệt được các thiết kế linh động hơn và quy chuẩn yêu cầu bất kỳ. Với chi phí rẻ hơn các đơn vị khác và các đơn hàng yêu cầu số lượng từ vài nghìn m2 trở lên với thời gian gấp… Trong một số trường hợp riêng sẽ được chúng tôi thiết kế và hợp tác cùng các đơn vị trên gia công dệt thảm công trình. Từ nguồn nguyên liệu được kiểm soát chặt chẽ từ các sợi pha, sợi tự nhiên. Đến các quy cách dệt sẽ được bản thảo để thực hiện. Với chi phí giá thành thấp, tiến độ gấp và với quy chuẩn chất lượng HangkenhRugs. Đảm bảo như các sản phẩm được dệt tại xưởng nhà máy Việt Nam. Các sản phẩm được sản xuất theo quy chuẩn thảm Axminster được sản xuất tại Đức. Điều này sẽ đảm bảo được tính chịu mật độ giao thông đi lại cao cũng như quá trình bảo dưỡng giặt liên tục. Chủng loại thảm axminster trên giá thành sẽ thấp hơn rất nhiều chỉ từ 700.000vnd/m2 và được phát bảo hành tại HangkenhRugs. Thảm wilton: Chất liệu sợi được thay đổi nhiều hơn, nhưng đồng nghĩa giá thành cũng giảm chỉ từ 300.000vnd/m2. HangkenhRugs phát bảo hành nhưng thời gian áp dụng sẽ thấp hơn. Do chi phí thấp và quy trình bảo dưỡng sẽ cao hơn so với thảm Axminster. Độ thẩm mỹ về màu sắc hoa văn sẽ bị giới hạn hơn và độ bền cũng sẽ thấp hơn. Điều này để đảm bảo hơn tính đa dạng trong sản phẩm và phần nào đáp ứng tối đa các yêu cầu của Quý Khách hàng. Thông tin cá nhân của bạn sẽ được sử dụng để tăng trải nghiệm sử dụng website, quản lý truy cập vào tài khoản của bạn, và cho các mục đích cụ thể khác được mô tả trong chính sách riêng tư.
Thảm
Thảm là một chất liệu phủ sàn nhà bao gồm hai lớp gắn liền nhau. Lớp trên thường làm từ lông cừu hoặc sợi nhân tạo như polypropylene, nylon hoặc polyester và thường bao gồm các búi xoắn được xử lý nhiệt để duy trì cấu trúc của chúng. Thảm được chia ra làm hai dòng là thảm công nghiệp và thảm dệt tay. Thuật ngữ "rug" thường được sử dụng thay thế cho thuật ngữ "carpet", mặc dù thuật ngữ "carpet" có thể được áp dụng cho sàn bao phủ toàn bộ ngôi nhà, trong khi "rug" thường không lớn hơn một phòng, và theo truyền thống thậm chí không trải dài từ bức tường này sang bức tường khác, và thường không được gắn vào như một phần của sàn nhà. Thảm được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, bao gồm cách nhiệt chân của một người từ gạch lạnh hoặc sàn bê tông, làm cho căn phòng trở nên thoải mái hơn khi ngồi trên sàn nhà (ví dụ như khi chơi với trẻ em hoặc như một tấm thảm cầu nguyện), giảm âm thanh từ việc đi bộ (đặc biệt là trong các tòa nhà chung cư) và thêm trang trí hoặc màu sắc cho một căn phòng.
Tấm khảm thế kỷ 19 minh họa Kaaba ở Mecca, thành phố nơi Muhammad sinh trưởng và là thành phố chí thánh nhất trong thế giới Hồi Giáo. Vì lý do xấu hay tốt, gần như không một ngày nào trôi qua mà Hồi Giáo và những người theo đạo Hồi không xuất hiện trên dòng đầu của tin tức. Có thể dễ hiểu rằng nhiều người không theo đạo Hồi—kể cả Các Thánh Hữu Ngày Sau—đều cảm thấy tò mò, thậm chí lo lắng. Chúng ta có chia sẻ bất cứ điều gì giống với những người láng giềng theo đạo Hồi của mình không? Chúng ta có thể sống và làm việc chung với nhau không?. Vào năm 610 Sau Công Nguyên, một thương gia Ả Rập tên là Muhammad leo lên những ngọn đồi ở phía trên trị trấn Mecca quê hương ông để suy ngẫm và cầu nguyện về tình trạng tôn giáo hỗn loạn xung quanh ông. Sau lần đó, ông cho biết rằng ông đã nhận được một khải tượng kêu gọi ông trở thành một vị tiên tri cho dân ông. Sự kiện này đánh dấu sự khởi đầu của tôn giáo được biết đến là Islam (iss-LAAM) tức là Hồi Giáo, một từ mà có nghĩa là “quy phục” (Thượng Đế). Một người tin theo đạo Hồi được gọi là Muslim (MUSS-lim), có nghĩa là “người quy phục.”. Kể từ lúc đó, Muhammad nói rằng ông đã nhận được nhiều điều mặc khải cho đến khi ông qua đời gần 25 năm sau đó. Ban đầu ông chia sẻ những điều mặc khải đó với dân chúng trong thị trấn của mình, cảnh báo về những sự phán xét thiêng liêng sẽ xảy đến; hô hào những người nghe ông phải hối cải và đối xử tử tế với những góa phụ, trẻ mồ côi, và người nghèo túng; thuyết giảng về sự phục sinh chung cho người chết và sự phán xét cuối cùng của Thượng Đế. Tuy nhiên, sự nhạo báng và ngược đãi mà ông và những người theo ông phải chịu đựng trở nên mãnh liệt đến mức họ buộc phải chạy trốn đến thị trấn Medina, cách khoảng bốn ngày đi bằng lạc đà về phía bắc. Ở đó, vai trò của Muhammad đã thay đổi một cách đột ngột.1 Từ việc chỉ là một người thuyết giáo và nói lời cảnh báo, ông trở thành luật sư, quan tòa, và nhà lãnh đạo chính trị của một trị trấn quan trọng ở Ả Rập, và sau này, của Bán Đảo Ả Rập. Sự thành lập ban đầu của một cộng đồng những người tin theo đã cho đạo Hồi một bản sắc tôn giáo dựa trên luật pháp và công lý mà tiếp tục là những điểm đặc trưng nổi bật và có ý nghĩa nhất. Hai dòng chủ yếu đã nổi lên trong số những người theo Muhammad sau khi ông qua đời vào năm 632 Sau Công Nguyên, họ bắt đầu chia rẽ vì câu hỏi ai là người kế nhiệm ông với vai trò lãnh đạo cộng đồng Hồi Giáo.2 Dòng lớn nhất được gọi là Sunni (tự cho là tuân theo sunna, hoặc tập quán Muhammad và tương đối linh hoạt trong vấn đề kế nhiệm). Dòng kia, nổi lên với con rể của Muhammad, ‘Ali, được gọi là shi‘at ‘Ali (dòng ‘Ali) và hiện được biết đến rộng rãi chỉ là Shi‘a. Không giống như dòng Sunnis, Shi‘a (được biết đến là Shi‘ite hay là những tín đồ Hồi Giáo Shi‘i) tin rằng quyền để kế vị Muhammad với tư cách là các lãnh đạo trong cộng đồng sẽ thuộc về người nam, những người có họ hàng gần nhất với Tiên Tri Muhammad, ‘Ali, và những người kế tự của ông. Mặc dù có những bất đồng, các tín đồ Hồi Giáo đã trở nên hợp nhất hơn về mặt tôn giáo so với những người theo đạo Cơ Đốc. Hơn nữa, trong vài thế kỷ vào khoảng năm 800 Sau Công Nguyên, nền văn minh Hồi Giáo có thể được cho là tiến bộ nhất trên thế giới về lĩnh vực khoa học, y tế, toán học, và triết học. Những điều mặc khải được cho là của Muhammad được thu thập và đóng thành sách gọi là kinh Qur’an (Koran) (từ một động từ tiếng Ả Rập là qara’a, “để đọc” hoặc “đọc thuộc lòng”) trong vòng một hoặc hai thập kỷ sau khi ông qua đời. Kinh Qur’an gồm có 114 chương, và không phải là câu chuyện kể về Muhammad. Giống như Sách Giáo Lý và Giao Ước, cuốn kinh này không hề mang tính chất tường thuật; những người theo đạo Hồi coi sách đó như là lời (và những lời) của Thượng Đế trực tiếp ban cho Muhammad.3. Áp Ra Ham, được mô tả là một người bạn của Thượng Đế, được nhắc đến nhiều lần trong sách này.4 (Trong số nhiều điều khác, người ta tin rằng ông đã nhận được những điều mặc khải mà ông đã viết xuống nhưng kể từ khi đó đã bị thất lạc.5) Môi Se, Pha Ra Ôn, và cuộc hành trình ra khỏi xứ Ê Díp Tô của con cái của Y Sơ Ra Ên cũng đều được đề cập đến trong sách đó. Đáng chú ý là Ma Ri, mẹ của Chúa Giê Su, được nhắc đến 34 lần trong kinh Qur’an, so với 19 lần trong Kinh Tân Ước. (Thực ra, bà là người phụ nữ duy nhất được nói đến trong kinh Qur’an.). Một điều giảng dạy của kinh Qur’an thường xuyên được đề cập đến là giáo lý tawhid (taw-HEED), một từ mà có thể được phiên dịch là “thuyết một thần” hoặc, theo nghĩa đen, là “làm thành một.” Giáo lý này tượng trưng cho một trong các nguyên tắc căn bản của Hồi Giáo: rằng chỉ có một đấng trọn vẹn thiêng liêng độc nhất vô nhị mà thôi. Kinh Qur’an khẳng định rằng “Ngài không sinh con cái, và cũng không được sinh ra, và Ngài là độc nhất vô nhị.”6 Những gì chúng ta có thể rút ra từ điều này chắc chắn là sự khác biệt quan trọng giữa Hồi Giáo và Ky Tô Giáo: người theo Đạo Hồi không tin vào Đức Chúa Giê Su Ky Tô hay Đức Thánh Linh. Điều này cũng chỉ ra rằng, trong khi tất cả mọi người đều được Thượng Đế sáng tạo như nhau, nhưng theo như giáo lý của Hồi Giáo thì chúng ta không phải là con cái của Ngài. Vả lại, các tín đồ Hồi Giáo tin rằng Chúa Giê Su là một vị tiên tri vô tội của Thượng Đế, được sinh ra bởi một nữ đồng trinh và được dự định là sẽ đóng một vai trò quan trọng trong các sự kiện của những ngày sau. Ngài thường xuyên được nhắc tới một cách tôn kính trong kinh Qur’an. Vì không có chức tư tế trong đạo Hồi, nên cũng không có các giáo lễ chức tư tế. Cũng không hề có một “giáo hội” Hồi Giáo riêng lẻ nào. Vì thế, việc tuyên đọc shahada, trong một nghĩa nào đó, tương tự như phép báp têm đối với đạo Hồi. Hiện việc thiếu cơ cấu lãnh đạo chính thức, hợp nhất, và toàn cầu có nhiều ngụ ý khác. Ví dụ, không có một người nào lãnh đạo toàn thể tín đồ Hồi Giáo, không có ai lên tiếng cho toàn thể cộng đồng. (Muhammad gần như là vị tiên tri cuối cùng của chung mọi người.) Điều này cũng có nghĩa rằng không có giáo hội nào mà những tên khủng bố hoặc “những kẻ dị giáo” có thể bị khai trừ. Nhiều người không theo đạo Hồi đều biết về lễ nghi cầu nguyện của đạo Hồi gọi là salat (sa-LAAT), mà bao gồm một số lần sụp lạy nhất định, năm lần một ngày. Việc đọc lên các câu đã được quy định từ kinh Qur’an và chạm trán xuống đất biểu lộ sự quy phục khiêm nhường đối với Thượng Đế. Lời cầu nguyện tự ý hơn, gọi là du‘a, có thể được dâng lên bất cứ lúc nào và không đòi hỏi phải sụp lạy. Đối với những lời cầu nguyện ban trưa vào ngày thứ Sáu, những người nam theo đạo Hồi được đòi hỏi phải, và các phụ nữ theo đạo Hồi được khuyến khích nên cầu nguyện trong thánh đường Hồi Giáo (tiếng Ả Rập là masjid, hoặc “nơi sụp lạy”). Ở đó, trong các nhóm chia theo giới tính, họ sắp thành hàng, cầu nguyện theo sự dẫn dắt của người thầy tế của thánh đường (ee-MAAM, tiếng Ả Rập là amama, có nghĩa là “ở đằng trước”), và lắng nghe một bài giảng ngắn. Tuy nhiên, ngày thứ Sáu không tương đương với ngày Sa Bát; mặc dù “ngày cuối tuần” ở hầu hết các quốc gia Hồi Giáo tập trung vào yawm al-jum‘a (“ngày tụ họp”) hoặc ngày thứ Sáu, nhưng làm việc vào ngày đó không bị cho là có tội. Zakat (za-KAAT, có nghĩa là “điều thanh sạch”) bao gồm việc hiến tặng từ thiện để hỗ trợ người nghèo khó, cũng như hỗ trợ các thánh đường và các công việc Hồi Giáo. Số tiền hiến tặng được tính là 2,5 phần trăm tổng số gia tài của một tín đồ trên một khoản tối thiểu nhất định. Tại một số quốc gia Hồi Giáo, số tiền này do các tổ chức chính phủ thu. Tại các quốc gia khác, số tiền đó là tự nguyện. Mỗi năm, trong suốt tháng Ramadan tính theo lịch mặt trăng, các tín đồ Hồi Giáo sùng tín không ăn, không uống, và không quan hệ tình dục từ lúc mặt trời mọc cho đến khi mặt trời lặn. Họ cũng thường xuyên tự mình cống hiến cho một công việc từ thiện giúp người nghèo khó và đọc kinh Qur’an trong suốt tháng.7
Thế giới Hồi giáo
Thế giới Hồi giáo thường dùng để chỉ cộng đồng Hồi giáo (Ummah), bao gồm tất cả những người theo tôn giáo Hồi giáo, hoặc nói đến các xã hội nơi Hồi giáo được thực hành. Theo nghĩa địa chính trị hiện đại, các thuật ngữ này đề cập đến các quốc gia nơi Hồi giáo có mặt rộng rãi, mặc dù không có tiêu chí nào được thống nhất để đưa vào. Thuật ngữ các quốc gia đa số theo Hồi giáo là một từ thay thế thường được sử dụng cho nghĩa thứ hai. Lịch sử của thế giới Hồi giáo kéo dài khoảng 1400 năm và bao gồm nhiều sự phát triển chính trị - xã hội, cũng như những tiến bộ về nghệ thuật, khoa học, triết học và công nghệ, đặc biệt là trong Thời kỳ hoàng kim của Hồi giáo. Tất cả người Hồi giáo tìm kiếm hướng dẫn từ Kinh Qur an và tin vào sứ mệnh tiên tri của Muhammad, nhưng những bất đồng về các vấn đề khác đã dẫn đến sự xuất hiện của các trường phái và tôn giáo khác nhau trong Hồi giáo. Trong kỷ nguyên hiện đại, hầu hết thế giới Hồi giáo đều chịu ảnh hưởng hoặc sự thống trị của thực dân các cường quốc châu Âu.
Các đặc trưng cơ bản, chức năng, bộ máy cũng như hình thức của nhà nước XHCN. Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định rằng, cách mạng vô sản và sự ra đời của nhà nước vô sản là một tất yếu lịch sử. Tính tất yếu đó được quy định bởi mâu thuẫn nội tại giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trong lòng chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc đạt đến mức không thể điều hòa được nữa thì cách mạng vô sản ra đời là một tất yếu lịch sử. Nguyên nhân dẫn đến cách mạng vô sản và sự ra đời của nhà nước vô sản là các tiền đề kinh tế, chính trị và xã hội, tư tưởng nảy sinh trong lòng tư bản chủ nghĩa. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng lực lượng sản xuất ngày càng phát triển đến một trình độ xã hội hóa cao ngay trong lòng chủ nghĩa đế quốc thì những quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư đã trở nên mâu thuẫn, không còn phù hợp nữa. Mâu thuẫn này ngày càng trở nên gay gắt, đòi hỏi phải có cách mạng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và thiết lập nên một quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đó là kiểu quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa biểu hiện về mặt chính trị – xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Tới giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, xuất hiện chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước. Nhà nước tư sản đã tham gia trực tiếp vào một số hoạt động kinh tế, trở thành công cụ trong tay giới tư bản độc quyền, đã sử dụng nhiều phương pháp phản dân chủ được che đậy dưới các hình thức dân chủ. Chính điều này dẫn tới bản chất của nhà nước tư sản ngày càng biến đổi, mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trở nên gay gắt. Mặt khác, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo điều kiện cho giai cấp vô sản phát triển mạnh về số lượng và tính tổ chức kỷ luật. Lúc này giai cấp vô sản trở thành tầng lớp tiến bộ nhất của xã hội, có sứ mệnh dẫn dắt tầng lớp lao động làm cách mạng xóa bỏ nhà nước tư sản. Phong trào đấu tranh diễn ra mạnh mẽ, nhiều nước đã dành được thắng lợi và lựa chọn con đường đi lên xã hội chủ nghĩa. Nhà nước Xô Viết ra đời năm 1917 đã có sức lan tỏa mạnh mẽ tới nhiều nước và có sức ảnh hưởng lớn tới quá trình phát triển của thế giới. Giai cấp vô sản có vũ khí tư tưởng và lý luận sắc bén là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để nhận thức đúng đắn các quy luật vận động và phát triển của xã hội. Đó là chủ nghĩa Mác-Lênin. Đây là cơ sở nhận thức lý luận để giai cấp vô sản và tầng lớp lao động đề ra những chủ trương biện pháp tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà nước kiểu mới. Trong tiến trình cách mạng, giai cấp vô sản và nhân dân lao động sử dụng bạo lực cách mạng để đập tan bộ máy nhà nước cũ và xây dựng bộ máy nhà nước kiểu mới. Bộ máy nhà nước ấy là công cụ sắc bén để giai cấp vô sản và tầng lớp lao động giữ vững thành quả cách mạng và xây dựng xã hội mới. Như vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả của cách mạng do giai cấp vô sản và nhân dân lao động tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Nhà nước XHCN được xây dựng trên cơ sở của chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa, là công cụ để thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản. Khác với các kiểu nhà nước trước đây, nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc (giống như bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa). Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, bản chất của bất kỳ nhà nước nào trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng mang bản chất của giai cấp thống trị xã hội (ví dụ: nhà nước dân chủ chủ nô, nhà nước quân chủ phong kiến, nhà nước dân chủ tư sản…). Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa (nhà nước chuyên chính vô sản) do đó trước hết nó mang bản chất giai cấp công nhân. Nhưng giai cấp công nhân lại là giai cấp thuộc nhân dân lao động mà ra, đại biểu phương thức sản xuất mới, hiện đại, gắn với lợi ích của toàn thể nhân dân lao động và dân tộc. Chỉ có nền sản xuất công nghiệp hiện đại mới đưa năng suất lao động lên cao, tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội, đảm bảo đáp ứng những nhu cầu về vật chất và văn hóa của nhân dân, không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội cho toàn dân. Nền công nghiệp hiện đại đó được phát triển dựa trên lực lượng sản xuất đã phát triển. Thủ tiêu chế độ tư hữu là cách nói vắn tắt nhất, tổng quát nhất về thực chất của công cuộc cải tạo xã hội theo lập trường của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, không phải xóa bỏ chế độ tư hữu nói chung mà là xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội được hình thành dựa trên cơ sở từng bước thiết lập chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Chế độ sở hữu này được củng cố, hoàn thiện, bảo đảm thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, xóa bỏ dần những mâu thuẫn đối kháng trong xã hội, làm cho mọi thành viên trong xã hội ngày càng gắn bó với nhau vì những lợi ích căn bản. Quá trình xây dựng Nhà nước XHCN và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một quá trình hoạt động tự giác của đại đa số nhân dân lao động, vì lợi ích của đa số nhân dân. Chính bản chất và mục đích đó, cần phải tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới phù hợp với địa vị làm chủ của người lao động, đồng thời khắc phục những tàn dư của tình trạng lao động bị tha hóa trong xã hội cũ. Nhà nước XHCN bảo đảm cho mọi người có quyền bình đẳng trong lao động sáng tạo và hưởng thụ. Mọi người có sức lao động đều có việc làm và được hưởng thù lao theo nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Đó là một trong những cơ sở của công bằng xã hội ở giai đoạn này. Nhà nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thông qua nhà nước, Đảng lãnh đạo toàn xã hội về mọi mặt và nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình trên mọi mặt của xã hội. Nhân dân lao động tham gia nhiều vào công việc nhà nước. Đây là một “nhà nước nửa nhà nước”, với tính tự giác, tự quản của nhân dân rất cao, thể hiện các quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của chính mình ngày càng rõ hơn. Mục tiêu cao nhất của Nhà nước XHCN là giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức về kinh tế và nô dịch về tinh thần, bảo đảm sự phát triển toàn diện cá nhân, hình thành và phát triển lối sống xã hội chủ nghĩa, làm cho mọi người phát huy tính tích cực của mình trong công cuộc xây dựng Nhà nước XHCN. Nhờ xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa mà xóa bỏ sự đối kháng giai cấp, xóa bỏ tình trạng người bóc lột người, tình trạng nô dịch và áp bức dân tộc, thực hiện được sự công bằng, bình đẳng xã hội. Những đặc trưng trên phản ánh bản chất của Nhà nước XHCN, do đó, Nhà nước XHCN là một xã hội tốt đẹp, lý tưởng, ước mơ của toàn thể nhân loại. Những đặc trưng đó có mối quan hệ mật thiết với nhau. Vì vậy, trong quá trình xây dựng Nhà nước XHCN cần phải quan tâm đầy đủ tất cả các đặc trưng này. – Chức năng bảo đảm ổn định chính trị, an ninh, an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích cơ bản của công dân. Chức năng bảo đảm ổn định chính trị, an ninh, an toàn xã hội là chức năng đặc biệt quan trọng của nhà nước XHCN. Nội dung của chức năng này như sau:. Chức năng bảo vệ quyền và lợi ích cơ bản của công dân là chức năng có ý nghĩa quan trọng của nhà nước XHCN. Bởi việc bảo vệ trật tự xã hội gắn liền với bảo vệ quyền và lợi ích của công dân. Nhà nước XHCN đã ghi nhận quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong pháp luật cũng như thực hiện các cơ chế được quy định trong pháp luật một cách hữu hiệu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân; tạo mọi điều kiện để công dân phát huy các quyền tự do của mình và xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm quyền và lợi ích của công dân. Nhà nước XHCN là tổ chức quyền lực chính trị, đại diện cho ý chí và lợi ích của nhân dân lao động; là người chủ đại diện cho sở hữu toàn dân đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu; có quyền quản lý, kiểm soát việc sử dụng tài sản của quốc gia. Chính vì vậy, chức năng tổ chức và quản lý kinh tế là chức năng cần thiết với nhà nước XHCN. Để thực hiện chức năng này, nhà nước XHCN phải nhận thức đúng đắn quy luật khách quan của nền sản xuất xã hội và nền kinh tế thị trường và phân tích thực trạng kinh tế – xã hội của đất nước và quốc tế. Từ đó, nhà nước XHCN xây dựng một chiến lược đúng đắn và một cơ chế quản lý hợp lý với đội ngũ cán bộ công chức có năng lực quản lý và kinh doanh. Tóm lại, chức năng tổ chức quản lý kinh tế của nhà nước gồm những nội dung sau:. Xây dựng và thực hiện các chính sách tài chính, tiền tệ phù hợp và chính sách đầu tư hợp lý vào các chương trình, mục tiêu, vùng, lãnh thổ,…. Kết hợp với các biện pháp xử lý hành chính nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh doanh nhằm quản lý kinh tế tốt hơn. Chức năng quản lý văn hóa – xã hội phản ánh thuộc tính xã hội của nhà nước XHCN. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các vấn đề như văn hóa, giáo dục, sức khỏe, việc làm,… cần phải được giải quyết trong mối quan hệ với sự tăng trưởng kinh tế. Nội dung cơ bản của chức năng này là:. Chăm lo sự nghiệp giáo dục và đào tạo, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu của quốc gia. Đảm bảo cho sự phát triển khoa học và công nghệ với vai trò then chốt trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tạo nhiều việc làm cho người lao động, khuyến khích mở rộng sản xuất để thu hút nguồn lao động, khuyến khích đào tạo nghề,…. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và hệ thống quản lý chăm sóc sức khỏe cho công dân. Xây dựng chính sách về lương, thuế hợp lý nhằm đảm bảo đời sống của người dân. Chức năng bảo vệ tổ quốc, củng cố quốc phòng để bảo vệ độc lập dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của các nước XHCN. Bởi thông qua chức năng này nhằm mục đích bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo đảm hòa bình ổn định đất nước. Nền quốc phòng của các nước XHCN mang tính chất tự vệ. Tính chất đó thể hiện trong việc xây dựng các lực lượng vũ trang với đầy đủ sức mạnh cần thiết và khả năng tác chiến cao sẵn sàng chống lại mọi âm mưu phá hoại, thế lực phản động từ các thế lực đế quốc. Mục đích của chức năng này là nhằm mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác quốc tế để góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ. Nội dung của chức năng này gồm:. Củng cố và tăng cường tính đoàn kết, hợp tác, tương trợ lẫn nhau giữa các nước trên thế giới. Ủng hộ và góp phần tích cực vào phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập và dân tộc. Nhà nước XHCN là tổ chức quyền lực của nhân dân, đại diện cho nhân dân quản lý mọi mặt của đời sống xã hội trên tất cả các lĩnh vực. Để thực hiện nhiệm vụ tổ chức và quản lý toàn diện cần lập ra một bộ máy nhà nước. Xuất phát từ bản chất của nhà nước, bộ máy nhà nước XHCN có những đặc điểm sau:. Bộ máy nhà nước XHCN được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất quyền lực. Tính thống nhất quyền lực xuất phát từ quan điểm: tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan đại diện, mà trước hết là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của đất nước.
Chủ nghĩa xã hội nhà nước
Chủ nghĩa xã hội nhà nước là một cách gọi cho tất cả các tư tưởng kinh tế và chính trị ủng hộ việc quốc hữu hóa phương tiện sản xuất vì bất kì mục đích nào, dù để làm giải pháp tạm thời tiền đề cho việc chuyển đổi từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội, hay là làm cơ sở căn bản cho chủ nghĩa xã hội đó. Từ này thường được dùng, đôi khi ngang nghĩa với chủ nghĩa tư bản nhà nước (mặc dù trong thực tế cả hai thuật ngữ có nhiều tính chất khác biệt) khi nhắc đến các hệ thống kinh tế của các nước theo chủ nghĩa Marx – Lenin như Liên bang Xô viết để nhấn mạnh vai trò của kinh tế theo kế hoạch trong những nền kinh tế này, trong khi những nhà phê bình của hệ hay nước này thường gọi nó là "chủ nghĩa tư bản nhà nước". Những nước này thường chỉ có một số lượng giới hạn các tính chất của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội nhà nước được đặt ở vị trí đối lập với chủ nghĩa xã hội tự do cá nhân, một chủ nghĩa không đồng tình với quan điểm chủ nghĩa xã hội có thể được xây dựng nên bằng việc sử dụng cơ sở hạ tầng nhà nước sẵn có hay bằng các chính sách nhà nước.
Trưa 29/8: F0 tăng, TP.HCM khuyên người dân bình tĩnh; Gia Lai chống dịch quá “gắt”, Tổng cục Đường bộ cấp tốc ‘gỡ’ chốt. Hạt giống vàng (P.4): Những thanh niên Đài Loan đầu tiên tìm được Đại Pháp từ Internet. Là một trong những phát hiện khảo cổ vĩ đại nhất mọi thời đại, nhưng lăng mộ của vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, Tần Thủy Hoàng, vẫn còn là một bí ẩn đối với giới khảo cổ học và lịch sử học, vì hầu hết quần thể lăng mộ này hiện vẫn đang bị đóng cửa và chưa được khám phá. Giai đoạn lịch sử chết chóc và kỳ lạ của khu lăng mộ này cũng như các đồ tuẫn táng bên trong đã được niêm phong kín và ngụy trang dưới một lớp thảm thực vật trong hàng nghìn năm qua. Hai thập kỷ sau năm 218 TCN là một thời kỳ bất ổn ở khu vực Địa Trung Hải, khi đang xảy ra chiến tranh giữa Cộng hòa La Mã và đế chế Carthage. Tuy nhiên ở khu vực Viễn Đông, đây lại là một thời kỳ tương đối ổn định, khi Trung Quốc vừa thống nhất sau thời kỳ Chiến Quốc hỗn loạn . Tần Thủy Hoàng là người thống nhất bảy nước chư hầu để khai sáng nên triều đại hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc. Vị hoàng đế này là một người vô cùng ám ảnh với cuộc sống hiện tại cũng như sau khi chết đi. Dù mải mê với việc tìm kiếm phương thuốc trường sinh bất tử, Tần Thủy Hoàng cũng bận rộn bỏ công xây dựng lăng mộ của mình. Trên thực tế, việc khởi công xây dựng khu lăng mộ này đã bắt đầu từ lâu trước khi Tần Thủy Hoàng lên ngôi hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc. Khi Tần Thủy Hoàng được 13 tuổi, ông lên ngôi nước Tần, và ngay lập tức ra lệnh xây dựng chốn yên nghỉ ngàn thu của ông. Tuy nhiên, chỉ đến năm 221 SCN, khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc thành công thì việc xây dựng mới được tập trung toàn lực, với hơn 700.000 nhân công trên khắp cả nước. Khu lăng mộ này nằm ở huyện Lâm Đồng, tỉnh Thiểm Tây. Nó đã mất hơn 38 năm xây dựng, và chỉ được hoàn thiện một vài năm sau khi ông qua đời. Quá trình xây dựng lăng mộ Tần Thủy Hoàng cũng như mô tả về nó có thể được tìm thấy trong cuốn Thái sử công thư của một nhà sử học thời Hán tên là Tư Mã Thiên (nên cũng được gọi là Sử ký Tư Mã Thiên). Theo tư liệu này, lăng mộ Tần Thủy Hoàng chứa ‘các cung điện đền đài cho một trăm quan lại’, cũng như các đồ tạo tác, châu báu quý hiếm. Hai con sông chủ chốt của Trung Quốc là Trường Giang và Hoàng Hà cũng được mô phỏng trong ngôi mộ bằng cách sử dụng thủy ngân. Phần sàn lăng mộ miêu tả các con sông và đặc điểm đất liền, còn phần trần phía trên lại là hình trang trí các chòm sao trên trời. Ý tưởng này được cho là để Tần Thủy Hoàng tiếp tục cai trị vương quốc ngay cả khi sang thế giới bên kia. Nhằm bảo vệ lăng mộ, thợ thủ công của hoàng đế đã tạo ra những cái bẫy có thể bắn tên vào bất cứ ai dám xâm phạm nơi yên nghỉ của ông. Con trai Tần Thủy Hoàng đã đứng ra tổ chức tang lễ cho ông. Cây cối được trồng phía trên lăng mộ khiến nó trông giống một ngọn đồi. Lăng mộ Tần Thủy Hoàng được phủ kín bởi thảm thực vật và nhìn trông giống một ngọn đồi. Tài liệu liên quan đến nơi an nghỉ của Tần Thủy Hoàng đã tồn tại gần một thế kỷ sau cái chết của vị hoàng đế, nhưng các nhà khảo cổ mới chỉ phát hiện lăng mộ trong thế kỷ 20 (không ai biết khu lăng mộ này đã từng bị trộm cướp trong quá khứ hay chưa). Năm 1974, một nhóm nông dân đào giếng ở huyện Lâm Đồng, tỉnh Thiểm Tây, đã đào được một chiến binh làm từ đất nung có kích thước giống người thật. Đây là điểm khởi đầu cho việc phát hiện một trong những di chỉ khảo cổ lớn nhất mọi thời đại. Trong vòng 40 năm qua, các nhà khoa học tìm thấy khoảng 2.000 chiến binh đất nung. Theo ước tính, có tổng cộng từ 6.000 đến 8.000 chiến binh đất nung được chôn cùng với Tần Thủy Hoàng. Đội quân đất nung thực chất chỉ là “đỉnh của tảng băng chìm”, khi phần còn lại của lăng mộ vẫn chưa được đào lên. Các chiến binh đất nung và ngựa nung, là một bộ sưu tập các bức điêu khắc mô tả đội quân của Tần Thủy Hoàng, vị hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc. Nếu muốn khai quật phần còn lại, các nhà nghiên cứu phải vượt qua những cái bẫy (thông tin mà Tư Mã Thiên từng đề cập đến), dù vẫn còn nhiều lời tranh cãi về khả năng hoạt động của chúng sau hơn 2.000 năm. Sự hiện diện của thủy ngân cũng là yếu tố nguy hiểm đối với bất kỳ ai dám bước vào lăng mộ mà không có biện pháp bảo vệ thích hợp. Công nghệ hiện nay chưa thể xử lý toàn bộ khu tổ hợp lăng mộ dưới lòng đất, cũng như bảo quản hiện vật khai quật. Lấy ví dụ, trước đây đội quân đất nung từng có một lớp sơn sáng, nhưng việc tiếp xúc với không khí và ánh sáng mặt trời đã khiến lớp sơn này mờ dần một cách mau chóng. Cho đến khi chúng ta có các công nghệ tiên tiến hơn, có lẽ các nhà khảo cổ sẽ không dám liều lĩnh khai quật lăng mộ này trong tương lai gần. Trưa 29/8: F0 tăng, TP.HCM khuyên người dân bình tĩnh; Gia Lai chống dịch quá “gắt”, Tổng cục Đường bộ cấp tốc ‘gỡ’ chốt
Lăng mộ Tần Thủy Hoàng
Lăng mộ của Tần Thủy Hoàng (tiếng Trung: 秦始皇帝陵; Hán-Việt: Tần Thủy Hoàng Đế lăng; bính âm: Qínshǐhuáng dìlíng) nằm ở phía bắc núi Ly Sơn (骊山) thuộc huyện Lâm Đồng, thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Đây là lăng mộ được xây dựng trong hơn 38 năm, từ 246-208 TCN và nằm dưới một gò mộ cao 76 mét có hình dạng gần giống một kim tự tháp. Bố cục của nó mô phỏng theo kinh đô nhà Tần là Hàm Dương được chia thành các khu nội thành và ngoại thành. Chu vi của khu vực nội thành là 2,5 km (1,55 dặm) và ngoại là 6,3 km (3,9 dặm). Mộ chính nằm ở phía Tây Nam của nội thành và hướng về phía đông. Buồng lăng mộ chính chứa quan tài và các hiện vật chôn cất là tâm điểm của quần thể kiến trúc lăng mộ. Ngôi mộ chưa được khai quật hoàn toàn. Các cuộc thám hiểm khảo cổ hiện đang tập trung vào các địa điểm khác của nghĩa địa rộng lớn bao quanh lăng mộ, bao gồm cả Đội quân đất nung ở phía đông của gò mộ. Đội quân đất nung tượng trưng như là những người bảo vệ cho lăng mộ và vẫn chưa được khai quật hoàn toàn.
Phân trùn quế là sản phẩm được tạo thành từ chất thải của con trùn quế. Thức ăn chính của trùn quế là phân bò, phân heo, rác thải hữu cơ… Các chất hữu cơ này được xử lý thông qua hệ thống tiêu hóa của trùn quế và tạo thành phân trùn quế. Từ lâu mọi người đều nghe nói đến phân trùn quế như một “thức ăn” thần kì cho mọi loại cây trồng. Vậy loại phân này là gì? Tại sao được xem là loại phân có hàm lượng chất dinh dưỡng cao nhất? Tác dụng và cách dùng nó như thế nào. Bài viết này sẽ giải đáp cho các bạn nhé. Phân trùn quế hay còn gọi là phân trùn đỏ là chất thải thu hoạch được sau khi con trùn quế ăn chất hữu cơ. Đây là một loại phân hữu cơ 100%, được tạo thành từ phân trùn nguyên chất, là loại phân thiên nhiên có hàm lượng dinh dưỡng cao nhất trong tất cả các loại phân. Trong phân chứa các sinh vật có hoạt tính cao như vi khuẩn, nấm mốc. Đặc biệt là hệ vi khuẩn cố định đạm tự do ( Azotobacter), vi khuẩn phân giải lân, phân giải cellulose và các chất xúc tác sinh học. Chất dinh dưỡng trong phân có thể hòa tan trong nước và chứa đựng hơn 50% chất mùn được tìm thấy trong lớp đất mặt, phân trùn có thể được cây trồng sử dụng ngay. Đồng thời, nó cũng chứa mangan, đồng, kẽm, coban, borat, sắt. Các chất này cây có thể hấp thụ được ngay, sẽ không có bất cứ rủi ro, hay tình trạng cháy cây xảy ra khi bón phân trùn quế. Đẩy lùi những bệnh của cây trồng nhờ chất mùn trong phân loại trừ được những độc tố, nấm hại và vi khuẩn có hại trong đất. Để sản xuất ra một kg phân trùn quế không hề đơn giản. Để ra được thành phẩm chất lượng phải trải qua rất nhiều công đoạn và đòi hỏi thời gian dài. Chính vì vậy, giá thành phân trùn quế không hề rẻ. Tuy nhiên, bạn vẫn có thể tự mình làm ra loại phân này. Thành phẩm do chính bạn làm, vừa đảm bảo chi phí lại vừa chất lượng. Không thể thiếu đó là con trùn, bạn có thể mua con giống trùn ở các trại nuôi trùn quế hoặc ở các cửa hàng bán đồ câu cá. Cứ một lớp đất, cho 1 lớp rác hữu cơ. Nếu có phân trùn, thì nên cho vào một ít vì thường trong phân trùn sẽ có nhiều trứng trùn. Cho vào thêm các thành phần có chứa cacbon. Sau đó cho trùn vào. Cuối cùng đậy nắp thùng xốp lại. Phân bò là thức ăn rất tốt cho trùn, nếu có phân bò thì nhớ đổ vào. Nên dùng phân bò tươi, hòa tan với nước rồi đổ vào cho trùn ăn, để nguyên phân tươi có thể sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thành quả đang ủ. Không dùng phân bò đã qua xử lý nhé. Lưu ý: Trùn sống trong môi trường ẩm ướt. Vì vậy, hỗn hợp tạo phân trùn phải luôn giữ ẩm, nếu khô thì có thể khiến trùn bị chết. Luôn giữ ẩm cho hộp phân trùn sẽ giúp trùn sinh sôi nhanh. Sau một tháng, thành quả mà bạn thu được sẽ là phân trùn quế có màu nâu, tơi xốp không phát mùi và nhiều trùn con. Trồng rau tại nhà: Trộn tỷ lệ 1/1 (1 phần phân trùn và 1 phần còn lại (đất, xơ dừa, tro trấu. ), không cần bón thêm bất cứ loại phân nào khác, có thể sử dụng nhiều lần. Trồng rau mầm: chỉ cần 1kg phân trùn cho vào khay nhựa 30cm x 45cm và 30g hạt giống sau 5 ngày chúng ta sẽ có 600gr rau mầm. Phân trùn có thể được sử dụng như thành phần của đất ươm, vườn ươm hay là phân bón hữu cơ cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng và cải tạo đất. Làm phân bón lỏng: Lấy 1kg phân trùn cho vào thùng nhựa cùng với 10 lít nước, dùng máy bơm oxy (loại nhỏ dùng sục khí cho hồ cá) sục 24 – 36h, sau đó lấy nước cho vào bình xịt, xịt cho tất cả các loại cây, có tác dụng như loại phân bón lá rất tốt, ngoài ra còn có tác dụng ngăn ngừa sâu bệnh, còn phần bã bón cho cây bình thường. Cho sự nảy mầm: Dùng 20-30% phân trùn quế trộn với đất, đảm bảo cho cây phát triển trong 3 tháng mà không cần bất cứ thức ăn nào khác. Có khả năng làm tăng tỷ lệ nảy mầm của hạt, giúp cây con phát triển nhanh và có tỷ lệ sống cao. Như là chất điều hòa chất: Nếu bạn bỏ phân trùn và tưới nước thường xuyên vào một vùng đất cằn cỗi đã được cuốc lên, thì lớp đất này sẽ cải tạo đáng kể (3000 – 3500kg/ha). Như là phân bón: Bỏ phân trùn trực tiếp quanh gốc cây (không gây hư hại cây nếu dùng nhiều) bón lót cho cây, rau, quả các loại sẽ tạo ra một loại thực phẩm có năng suất và chất lượng cao. Như là nhà cải tạo đất: Vì phân trùn chứa đựng hàng ngàn kén trùn, nên khi ta bón vào đất, gặp điều kiện thuận lợi, kén trùn sẽ nở ra và sinh sống trên chính mảnh đất canh tác của chúng ta và nơi nào có trùn sinh sống thì nơi đó đất luôn màu mỡ và tơi xốp. Để phát huy tốt nhất tác dụng của phân, bạn nên thực hiện thêm 2 việc. Thứ nhất, bổ sung thêm nấm đối kháng tricodecma để tăng khả năng đối kháng mầm bệnh cho cây trồng lên gấp bội, phân trùn quế không có được chủng này nên chúng ta cần phải bổ sung thêm vào ngay khi bón. Thứ hai, sau mỗi 10-15 ngày cần bổ sung thêm chế phẩm sinh học hoặc dịch trùn quế, vì bản thân dịch trùn quế sẽ có những vi sinh vật có lợi mà phân trùn quế sở hữu. Giá thể là chuyên trang về đất – giá thể trồng cây. Chúng tôi chia sẻ các kiến thức về đất trồng, giá thể đồng thời giới thiệu và cung cấp các sản phẩm liên quan. Từ đó giúp cho người dùng có cái nhìn đúng đắn về tầm quan trọng của đất trồng.
Phân trùn quế
Phân trùn quế là phân bón sản xuất từ chất thải được thu hoạch sau khi con trùn quế (hay còn gọi là giun quế, giun đỏ) ăn chất hữu cơ. Đây là một loại phân hữu cơ đặc biệt có hàm lượng dinh dưỡng rất cao, là một loại phân tự nhiên tốt. Quá trình sản xuất của phân trùn được gọi là ủ sâu (worm composting), có thể thực hiện với quy mô nhỏ để xử lý rác thải hữu cơ tại các gia đình như rau củ trái cây thừa, chuyển đổi chúng thành phân bón cho cây trồng.
Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội. BHXH đã trở thành một phần quan trọng trong cuộc sống của nhiều công dân. Tuy nhiên vẫn còn nhiều người chưa thật sự hiểu rõ về BHXH. Bài viết dưới này Kỹ Năng CB sẽ nêu ra những nội dung nổi bật nhất về BHXH. Sổ BHXH là căn cứ để giải quyết chế độ BHXH cho người tham gia theo quy định của pháp luật. Những thông tin trong sổ gồm thời gian làm việc, quá trình đóng và hưởng BHXH. học hành chính nhân sự tốt nhất. – BHXH bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức mà người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia. – BHXH tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức mà người tham gia được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình và Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội để người tham gia hưởng chế độ hưu trí và tử tuất. – BHXH bắt buộc có các chế độ sau đây: Ốm đau; Thai sản; Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; Hưu trí; Tử Tuất. NLĐ tham gia BHXH bắt buộc được giải quyết các chế độ ốm đau, thai sản, hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp khi đáp ứng đủ các điều kiện tương ứng theo quy định của pháp luật. – Được cấp và quản lý sổ BHXH và nhận lại sổ khi không còn làm việc. – Hưởng bảo hiểm y tế trong các trường hợp: đang hưởng lương hưu, nghỉ việc hưởng trợ cấp thai sản, nhận con nuôi, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hay trợ cấp ốm đau. – Chủ động đi khám giám định mức suy giảm khả năng lao động và được thanh toán chi phí giám định y khoa nếu đủ điều kiện hưởng BHXH. – Ủy quyền nhận lương hưu, trợ cấp BHXH cho người khác. học hành chính nhân sự tốt nhất. – Được cung cấp thông tin về đóng BHXH theo định kỳ; yêu cầu người sử dụng lao động cung cấp thông tin về việc đóng và quyền được hưởng các chế độ của BHXH. – Người tham gia được khiếu nại, tố cáo và khởi kiện BHXH theo quy định pháp luật. Trên đây, Kỹ Năng CB vừa trình bày với bạn đọc các chế độ bảo hiểm xã hội và các vấn đề liên quan. Hy vọng bài viết hữu ích với bạn đọc!
Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội (viết tắt: BHXH) là sự đảm bảo thay thế được bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất, dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm bảo đảm an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội. Bảo hiểm xã hội là trụ cột chính trong hệ thống an sinh xã hội ở mỗi nước. Các chế độ của bảo hiểm xã hội đã hình thành khá lâu trước khi xuất hiện thuật ngữ an sinh xã hội. Hệ thống bảo hiểm xã hội đầu tiên được thiết lập tại nước Phổ (nay là Cộng hòa Liên bang Đức) dưới thời của Thủ tướng Otto von Bismarck (1850) và sau đó được hoàn thiện (1883-1889) với chế độ bảo hiểm ốm đau; bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp; bảo hiểm tuổi già, tàn tật và sự hiện diện của cả ba thành viên xã hội: người lao động; người sử dụng lao động và Nhà nước.
Trong lịch sử phát triển của triết học có rất nhiều quan điểm khác nhau về giai cấp, nhiều nhà triết học và xã hội học của những giai cấp bóc lột đã xuyên tạc bản chất của sự phân chia xã hội thành giai cấp. Họ cho rằng sự khác nhau về giai cấp, là do sự khác nhau về chủng tộc, về tài năng cá nhân, về địa vị và uy tín xã hội, về sở thích cá nhân v.v… Đồng thời, khẳng định sự tồn tại của giai cấp có tính chất tuyệt đối và vĩnh cửu. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử thì giai cấp chỉ là một hiện tượng có tính chất lịch sử, gắn liền với những điều kiện lịch sử nhất định, nó mang tính khách quan và quy luật. Trong tác phẩm: “Sáng kiến vĩ đại”, Lê-nin đã định nghĩa về giai cấp như sau: “ Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn người to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải của xã hội, ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn người này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”. Đặc trưng thứ nhất: Giai cấp là những tập đoàn người có địa vị khác nhau trong một hệ thống sản xuất nhất định. Điều đó có nghĩa là giai cấp chỉ là một hiện tượng mang tính chất lịch sử, nó chỉ tồn tại và phát triển trong những điều kiện lịch sử xã hội nhất định. Giai cấp không phải tồn tại trong tất cả các xã hội khác nhau của lịch sử và nó không thể tồn tại vĩnh viễn và tuyệt đối. Ví dụ: Trong xã hội nguyên thủy là một xã hội không có giai cấp và nếu như xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản thì cũng là một xã hội không có giai cấp. Đặc trưng thứ hai: Các giai cấp có mối quan hệ khác nhau đối với tư liệu sản xuất. Quan hệ với tư liệu sản xuất của xã hội, thực chất là quan hệ với sở hữu tư liệu sản xuất được thể hiện trong quan hệ sản xuất vật chất của xã hội. Đây là quan hệ có tính chất quyết định với những quan hệ khác của giai cấp như quan hệ về địa vị xã hội và tổ chức sản xuất vật chất của xã hội. Đặc trưng thứ ba: Các giai cấp có vai trò khác nhau trong việc tổ chức lao động xã hội. Quan hệ này phụ thuộc vào quan hệ thứ hai, bởi vì các giai cấp có vai trò khác nhau trong việc tổ chức lao động xã hội phải phụ thuộc vào quan hệ sở hữu với tư liệu sản xuất của xã hội. Nếu như giai cấp nào nắm tư liệu sản xuất vật chất của xã hội thì giai cấp đó trở thành giai cấp thống trị và có quyền tổ chức lao động sản xuất xã hội. Đặc trưng thứ tư: Các giai cấp có những phương thức và quy mô thu nhập khác nhau về của cải xã hội. Đặc trưng này cũng phụ thuộc vào đặc trưng thứ hai. Bởi sự khác nhau về thu nhập, phương thức thu nhập đều phụ thuộc vào quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất vật chất của xã hội. Bốn đặc trưng trên có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó đặc trưng thứ hai là quan trọng nhất; nhưng đồng thời thiếu một trong bốn đặc trưng thì cũng không thành giai cấp. Như vậy, giai cấp là một phạm trù lịch sử, có nghĩa là giai cấp chỉ xuất hiện và tồn tại trong những điều kiện lịch sử nhất định. Giai cấp là các tập đoàn người to lớn, mà sự khác nhau căn bản của họ là sự khác nhau về các mặt của quan hệ sản xuất. Giai cấp và quan hệ giai cấp không phải là quan hệ giữa các cá nhân riêng lẻ, mà là quan hệ giữa các tập đoàn người thông qua các tổ chức chính trị xã hội nhất định. Sự phân chia xã hội thành giai cấp dẫn đến sự xuất hiện mâu thuẫn và quá trình đấu tranh giai cấp trong lịch sử.
Giai cấp
Giai cấp xã hội đề cập đến các thứ bậc khác nhau phân biệt giữa các cá nhân hoặc các nhóm người trong các xã hội hoặc các nền văn hóa. Các sử gia và các nhà xã hội học coi giai cấp là phổ quát (là sự phổ biến), mặc dù những điều xác định giai cấp là rất khác nhau từ xã hội này đến xã hội khác. Thậm chí ngay cả trong một xã hội, các cá nhân khác nhau hoặc những nhóm người khác nhau cũng có rất nhiều ý tưởng khác nhau về những điều gì làm nên thứ bậc cao hay thấp trong trật tự xã hội. Theo Marx và Lenin, giai cấp là những tập đoàn người to lớn, khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất và phân công lao động, về vai trò của họ trong những tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải ít hoặc nhiều mà họ được hưởng.
Liên kết bạn vừa chọn sẽ đưa bạn tới trang web của một bên thứ ba. Chúng tôi không kiểm soát hay có trách nhiệm đối với nội dung trang web của bất kỳ bên thứ ba nào. Ngộ độc thịt (botulism) gây ra bởi độc tố của Clostridium botulinum và gây ảnh hưởng đến dây thần kinh ngoại vi. Có thể nhiễm botulism mà không gây bệnh nếu nuốt, tiêm hoặc hít phải độc tố Triệu chứng bao gồm liệt dây thần kinh sọ đối xứng kèm theo yếu hai bên và liệt mềm mà không có rối loạn cảm giác. Chẩn đoán bằng lâm sàng và xét nghiệm tìm thấy độc tố Điều trị hỗ trợ và kháng độc tố. C. botulinum là một trong vài loài Clostridia gây bệnh ở người. Nhiễm botulism là một rối loạn hiếm gặp, nguy hiểm đến tính mạng xảy ra khi độc tố botulinum lan theo đường máu và gây ảnh hưởng không hồi phục giải phóng acetylcholine ở các đầu mút dây thần kinh ngoại vi. Nhiễm botulism là một cấp cứu y tế và đôi khi là trường hợp khẩn cấp về y tế cộng đồng. C. botulinum tạo ra 8 loại chất kháng nguyên gây độc tố thần kinh khác nhau(từ type A đến H). Năm trong số các độc tố(loại A, B, E, và hiếm gặp là F và H) ảnh hưởng đến con người. Độc tố botulinum type A và B là các protein gây độc cao có khả năng đề kháng với sự phân hủy của axit dịch vị và các enzym phân hủy protein. Khoảng 50% các vụ dịch bùng phát ngộ độc thực phẩm ở Hoa Kỳ là do độc tố type A, tiếp theo là các type B và E. Nhiễm độc tố type A xuất hiện chủ yếu ở phía tây sông Mississippi, type B ở các bang phía đông, và type E ở Alaska và khu vực Great Lakes (type E thường liên quan đến việc ăn cá và các sản phẩm từ cá). Type H là độc tố mạnh nhất được biết đến. Nhiễm botulism có thể xảy ra khi độc tố thần kinh neurotoxin được tạo ra trong cơ thể bằng C. botulinum hoặc khi nhiễm độc tố thần kinh từ một nguồn bên ngoài. Trong nhiễm độc ở trẻ sơ sinh và trong ngộ độc ruột ở người trưởng thành, các bào tử được hấp thụ, và độc tố được tạo thành trong đường tiêu hoá. Nhiễm độc ruột ở người trưởng thành thường chỉ xảy ra ở người lớn bị suy giảm sức đề kháng. Trong ngộ độc thực phẩm, độc tố thần kinh có trong thực phẩm bị ô nhiễm khi ăn phải. Trong hít phải botulism, chất độc ở dạng khí dung, được sử dụng vô tình hoặc cố ý như một vũ khí sinh học; độc tố dạng khí dung không xảy ra trong tự nhiên. Bào tử C. botulinum có khả năng chịu nhiệt rất cao và có thể sống sót trong vài giờ ở nhiệt độ 100° C. Tuy nhiên, tiếp xúc với nhiệt độ ở 120° C trong 30 phút sẽ giết chết bào tử. Các độc tố, mặt khác, dễ bị phá hủy bằng nhiệt, và nấu ăn ở 80° C trong 30 phút là an toàn để tránh ngộ độc botulism C. botulinum có thể sản xuất độc tố type E ở nhiệt độ thấp tới 3° C (ví dụ, trong tủ lạnh - ví dụ như trong cá hun khói đóng gói chân không). C. botulinum có thể sản xuất độc tố loại E ở nhiệt độ thấp tới 3° C, vì vậy nếu thức ăn bị nhiễm bẩn, thì làm lạnh không có tác dụng bảo vệ. Thực phẩm đóng hộp, đặc biệt là thức ăn có độ acid thấp (pH> 4.5), là nguồn nhiễm độc tố phổ biến nhất qua đường tiêu hóa; thực phẩm chế biến thương mại có liên quan đến khoảng 10% số vụ bùng phát. Rau quả (thường không phải là cà chua), cá, trái cây và gia vị là phương tiện truyền bệnh phổ biến nhất; thịt bò, các sản phẩm từ sữa, thịt lợn, gia cầm và các loại thực phẩm khác cũng có thể gây bệnh. Trong các vụ dịch bùng phát gây ra bởi hải sản, type E gây ra khoảng 50%; các type A và B gây ra phần còn lại. Trong những năm gần đây, thực phẩm không đóng hộp (ví dụ như khoai tây nướng lát mỏng, tỏi băm nhỏ chiên dầu, bánh mì sandwich) đã gây ra các ổ dịch liên quan đến nhà hàng. Đôi khi độc tố được hấp thụ qua mắt hoặc vết thương hở trên da. Những trường hợp như vậy thường gây ra bệnh nghiêm trọng. Bào tử C. botulinum phổ biến trong môi trường; hầu hết các trường hợp nhiễm botulism ở trẻ sơ sinh là do ăn phải bào tử, đặc biệt là ăn mật ong. Các bào tử cũng có thể xâm nhập vào cơ thể khi tiêm thuốc bằng kim tiêm không vô khuẩn; vết thương có thể nhiễm botulism. Tiêm heroin đen bị nhiễm bẩn vào cơ hoặc dưới da (da bị kích thích) là nguy cơ cao nhất; nó có thể gây hoại thư sinh hơi như botulism. Nếu độc tố botulinum xâm nhập vào máu, kết quả ngộ độc, bất kể chất độc nhiễm theo đường nào. Phản xạ ánh sáng giảm hoặc hoàn toàn mất. Khó nuốt có thể dẫn đến viêm phổi hít Các triệu chứng thần kinh điển hình xuất hiện ở cả hai bên và đối xứng, bắt đầu với liệt dây thần kinh sọ và sau đó yếu dần hoặc liệt. Yếu dần từ ngọn chi và thân mình và các cơ hô hấp Thường không sốt, mạch bình thường hoặc chậm chạp, trừ khi có nhiễm trùng gian phát tiến triển. Táo bón là triệu chứng phổ biến sau khi suy yếu thần kinh. Các triệu chứng bắt đầu đột ngột, thường là từ 18 đến 36 giờ sau khi ăn phải độc tố, mặc dù giai đoạn ủ bệnh có thể thay đổi từ 4 giờ đến 8 ngày. Buồn nôn, nôn mửa, đau thắt bụng, và tiêu chảy thường xảy ra trước các triệu chứng thần kinh. Triệu chứng thần kinh xuất hiện tương tự như trong bệnh ngộ độc thực phẩm, nhưng không có triệu chứng đường tiêu hóa hoặc bằng chứng liên quan đến thực phẩm. Tiền sử chấn thương hoặc vết thương châm sâu (đặc biệt nếu tiêm thuốc bất hợp pháp) trong vòng 2 tuần trước đó có thể gợi ý chẩn đoán. Cần khám xét kỹ các trường hợp có tổn thương hở trên bề mặt da và các trường hợp apxe da do tự tiêm thuốc bất hợp pháp. Nhiễm độc tố botulism có thể bị nhầm lẫn với hội chứng Guillain-Barré (biến thể Miller-Fisher), bại liệt, đột quị, bệnh nhược cơ, liệt do ve và nhiễm độc kim loại nặng, ngộ độc cura hoặc alkaloid belladonna. Điện cơ cho thấy đáp ứng tăng lên đặc trưng đối với kích thích lặp đi lặp lại nhanh chóng trong hầu hết các trường hợp. Trong bệnh ngộ độc thực phẩm, hình thái rối loạn thần kinh cơ và nguồn thức ăn đã ăn phải là những đầu mối chẩn đoán quan trọng. Việc xuất hiện đồng thời ít nhất 2 bệnh nhân ăn cùng thực phẩm giúp đơn giản hóa chẩn đoán, được xác nhận bằng cách chứng minh độc tố C. botulinum trong huyết thanh hoặc phân. Phát hiện độc tố C. botlinum trong thực phẩm nghi ngờ giúp xác định nguồn gây bệnh. Trong vết thương nhiễm botulism, tìm thấy độc tố trong huyết thanh hoặc cô lập được vi khuẩn C. botulinum trong môi trường yếm khí của vết thương là bằng chứng chẩn đoán xác định. Các xét nghiệm độc tố chỉ được thực hiện bởi các phòng thí nghiệm nhất định, được đặt thông qua các cơ quan y tế địa phương hoặc CDC. Bệnh nhân ngộ độc botulism phải nhập viện và theo dõi chặt chẽ bằng cách đo một loạt các dấu hiệu sinh tồn. Liệt tiến triển ngăn dự phòng bệnh nhân khỏi các dấu hiệu suy hô hấp tiên triển cũng như giảm năng lực sống còn. Suy hô hấp đòi hỏi được theo dõi và điều trị tại các đơn vị hồi sức cấp cứu, nơi luôn sẵn sàng để đặt nội khí quản và hỗ trợ bằng máy thở. Các tiến bộ trong điều trị hỗ trợ đã làm giảm tỷ lệ tử vong xuống < 10%. Bệnh nhân bị nhiễm độc vết thương do botulism đòi hỏi phải làm sạch vết thương và kháng sinh ngoài đường tiêu hóa như penicillin hoặc metronidazole. Một loại kháng độc tố botulinum 7 giá được sản xuất từ ngựa(HBAT ) có ở Mỹ; thuốc sẽ thay thế các thuốc kháng độc tố 3 giá. Thuốc kháng độc tố không có tác dụng trung hòa độc tố mà ràng buộc ở đầu mút thần kinh cơ, do đó, tình trạng suy giảm thần kinh trước đây không thể hồi phục nhanh chóng được (Phục hồi cuối cùng phụ thuộc vào việc tái tạo đầu mút dây thần kinh, có thể mất hàng tuần hoặc hàng tháng.) Tuy nhiên, chất kháng độc tố có thể làm chậm lại hoặc ngăn chặn tiến triển hơn nữa. Ở những bệnh nhân bị ngộ độc vết thương, thuốc kháng độc tố có thể làm giảm các biến chứng và tỷ lệ tử vong. Thuốc kháng độc tố nên được cung cấp càng sớm càng tốt sau khi chẩn đoán lâm sàng và không trì hoãn để chờ kết quả nuôi cấy. Thuốc kháng độc tố dường như ít đem lại lợi ích nếu được dùng > 72 giờ sau khi khởi phát triệu chứng. Một lọ 20 hoặc 50 ml của chất kháng độc tố 7 giá, pha loãng 1:10, truyền chậm cho người ; liều lượng và tốc độ truyền được điều chỉnh cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Tất cả các bệnh nhân cần thuốc kháng độc tố phải được báo cáo với cơ quan y tế nhà nước, sau đó yêu cầu kháng độc tố từ CDC, đây là nguồn duy nhất; các đơn vị lâm sàng không thể có được thuốc kháng độc tố trực tiếp từ CDC. HBAT không được khuyến cáo cho trẻ <1 năm. Globulum botulinum ở người có sẵn cho trẻ sơ sinh; nó có sẵn từ Chương trình Dự phòng và Điều trị nhiễm botulism Trẻ nhỏ (IBTPP- 231-7600; xem thêm IBTPP trang mạng). Liều 50 mg/kg tiêm tĩnh mạch, được tiêm chậm. Ngay cả khi chỉ nhiễm độc tố C. botulinum trong vài phút cũng có thể gây bệnh nghiêm trọng nên tất cả các vật nghi ngờ chứa độc tố cần được xử lý đặc biệt. Toxoids có sẵn để tiêm chủng chủ động cho những người làm việc với C. botulinum hoặc độc tố của vi khuẩn Thông tin chi tiết về cách thu thập mẫu và xử lý có thể lấy từ các đơn vị y tế của bang hoặc CDC. Việc đóng hộp đúng cách và đun nóng đủ thức ăn đóng hộp trước khi ăn là rất cần thiết. Các loại thực phẩm đóng hộp có dấu hiệu hư hỏng và các hộp bị nở hoặc rò rỉ phải được loại bỏ. Nhiễm độc botulism có thể do nhiễm phải độc tố botulism do con người tạo ra hoặc vì lý do thẩm mỹ hoặc hít phải (ở dạng khí dung). Độc tố botulinum ngăn chặn sự phóng thích acetylcholin ở đầu tận cùng dây thần kinh ngoại vi và gây ra liệt mềm đối xứng hai bên, từ từ, bắt đầu từ dây thần kinh sọ. Kháng độc tố từ ngựa thu được cung cấp từ CDC thông qua Đơn vị y tế của bang. Merck & Co., Inc., Kenilworth, NJ, Hoa Kỳ (có tên là MSD ở các quốc gia bên ngoài Hoa Kỳ và Canada) là một công ty hàng đầu trong chăm sóc sức khỏe toàn cầu làm việc để giúp thế giới khỏe mạnh. Từ việc phát triển các liệu pháp mới để điều trị và ngăn ngừa bệnh tật đến giúp đỡ những người gặp khó khăn, chúng tôi cam kết cải thiện tình trạng sức khỏe và hạnh phúc trên toàn thế giới. Cẩm nang được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1899 dưới dạng một dịch vụ cho cộng đồng. Di sản của nguồn tài nguyên tuyệt vời này tiếp tục là Cẩm nang Merck ở Hoa Kỳ và Canada và Cẩm nang MSD ở các quốc gia bên ngoài Bắc Mỹ. Tìm hiểu thêm về cam kết của chúng tôi về Kiến thức Y khoa Toàn cầu.
Ngộ độc thịt
Ngộ độc thịt (tiếng Anh: botulism, phát âm ; từ tiếng Latinh: botulus, có nghĩa là xúc xích) là một căn bệnh gây bại liệt hiếm thấy và có khả năng tử vong, gây ra bởi một loại độc tố do các vi khuẩn Clostridium botulinum tạo ra. Biểu hiện ban đầu của bệnh là cảm thấy yếu, mệt mỏi, nói và nhìn khó. Sau đó có thể bị liệt tay, chân và cơ ngực. Bệnh thường không gây mất ý thức hoặc sốt. Ngộ độc thịt có thể do vài nguyên nhân khác nhau. Các bào tử của vi khuẩn gây bệnh rất phổ biến ở trong đất và nước. Chúng sản sinh ra độc tố botulin khi trong môi trường yếm khí (ít hoặc không có oxy) và nhiệt độ nhất định. Ngộ độc thịt do thực phẩm xảy ra khi ăn phải thực phẩm có chứa độc tố. Ngộ độc thịt ở trẻ sơ sinh xảy ra khi vi khuẩn phát triển trong ruột và phát tán độc tố, thường chỉ ở trẻ em dưới sáu tháng tuổi. Ngộ độc thịt từ vết thương thường thấy nhất ở những người tiêm chích ma túy. Trong trường hợp này, bào tử xâm nhập vào một vết thương, và do trong điều kiện thiếu oxy nên sẽ giải phóng độc tố.
Xác suất tiên nghiệm là một phương pháp dự đoán khả năng một biến cố sẽ xuất hiện theo một cách nhất định dựa trên tỉ lệ phần trăm, chứ không phải được xác định từ dữ liệu lịch sử. Nói cách khác, xác suất tiên nghiệm nhìn vào tính logic hơn là dữ liệu trong quá khứ để xác định xác suất một biến cố có thể xảy ra. Xác suất tiên nghiệm thường được sử dụng trong phương pháp tính toán xác suất. Điều này là do người quan sát phải sử dụng logic để xác định các kết quả có thể xảy ra của một biến cố để xác định các hình thức mà các kết quả này có thể xảy ra. Xác suất tiên nghiệm thường được sử dụng để xác định khả năng xảy ra các biến cố độc lập ở đó khả năng xảy ra một biến cố nhất định sẽ không bị ảnh hưởng bởi các biến cố đã xảy ra trước đó. Xác suất tiên nghiệm có thể được áp dụng cho tất cả các trò chơi ngẫu nhiên như roullette, ném xúc xắc, chơi xổ số, v.v. Hạn chế lớn nhất của phương pháp xác định xác suất này là nó chỉ có thể được áp dụng cho một tập hợp các biến cố hữu hạn vì hầu hết các biến cố đều có xác suất có điều kiện. - Ví dụ 1: một ví dụ điển hình về xác suất tiên nghiệm là khi tung một đồng xu. Một đồng xu đồng chất có hai mặt là mặt sấp và mặt ngửa, mỗi lần tung đồng xu khả năng xuất hiện mặt sấp và mặt ngửa là bằng nhau bất kể kết quả ném trước đó như thế nào. Xác suất tiên nghiệm xuất hiện mặt ngửa khi tung đồng xu là 50%, tương tự, xác suất tiên nghiệm xuất hiện mặt sấp khi tung đồng xu cũng là 50%. - Ví dụ 2: ví dụ khác phổ biến hơn là khi giá của một cổ phiếu thay đổi. Giá của nó có thể tăng, giảm hoặc giữ nguyên. Do đó, theo xác suất tiên nghiệm, chúng ta có khả năng giá tăng/ giảm / giữ nguyên là 1/3 hay 33%. Khả năng xảy ra một trong các kết quả được xác định này đều bằng nhau. - Ví dụ 3: giả sử cổ phiếu của công ty XYZ đóng cửa ở mức 10 ngày hôm qua. Dựa trên vài ngày cuối cùng trong lịch sử giao dịch, cổ phiếu có vẻ như đang có xu hướng tăng, vì vậy các nhà đầu tư cho xác suất khả năng giá cổ phiếu tăng là 66% vào ngày mai. Tuy nhiên, với xác suất tiên nghiệm, giá cổ phiếu của công ty XYZ chỉ có thể xảy ra một trong ba kịch bản sau: đi lên, đi xuống hoặc giữ nguyên. Vì vậy, chỉ có 33% cơ hội cổ phiếu sẽ tăng giá vào ngày mai. Nhược điểm của xác suất tiên nghiệm là chỉ dựa trên lí trí do các kết quả được xác định bởi người quan sát chứ không phải từ hiểu biết, nhận thức hay dữ liệu lịch sử.
Xác suất
Xác suất là một nhánh của toán học liên quan đến các mô tả bằng số về khả năng xảy ra một sự kiện, hoặc khả năng một mệnh đề là đúng. Xác suất của một sự kiện là một số trong khoảng từ 0 đến 1, trong đó, nói một cách đại khái, 0 biểu thị sự bất khả thi của sự kiện và 1 biểu thị sự chắc chắn. Xác suất của sự kiện càng cao thì khả năng xảy ra sự kiện càng cao. Một ví dụ đơn giản là tung đồng xu công bằng (không thiên vị). Vì đồng xu là công bằng, nên cả hai kết quả ("sấp" và "ngửa") đều có thể xảy ra như nhau; xác suất của "sấp" bằng xác suất của "ngửa"; và vì không có kết quả nào khác có thể xảy ra, xác suất xảy ra "sấp" hoặc "ngửa" là 1/2 (cũng có thể được viết là 0,5 hoặc 50%). Những khái niệm này đã được chuẩn hóa toán học bằng tiên đề trong lý thuyết xác suất, được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực nghiên cứu như toán học, thống kê, tài chính, cờ bạc, khoa học (đặc biệt là vật lý), trí tuệ nhân tạo, học máy, khoa học máy tính, lý thuyết trò chơi, và triết học, ví dụ, rút ra suy luận về tần suất dự kiến của các sự kiện.
Cơ quan Tình báo Trung ương (tiếng Anh: Central Intelligence Agency; viết tắt: CIA) là một cơ quan tình báo quan trọng của Chính quyền Liên bang Hoa Kỳ, có nhiệm vụ thu thập, xử lí và phân tích các thông tin tình báo có ảnh hưởng tới an ninh quốc gia của Hoa Kỳ từ khắp nơi trên thế giới, chủ yếu là thông qua hoạt động tình báo của con người (human intelligence viết tắt là HUMINT). Là thành viên chính thuộc Cộng đồng tình báo Hoa Kỳ (IC), CIA có nhiệm vụ phải báo cáo thông tin cho Giám đốc Tình báo Quốc gia và cũng đồng thời cung cấp các thông tin tình báo quan trọng cho tổng thống và nội các của Hoa Kỳ. CIA có tổng hành dinh nằm ở Langley, Virginia, một vài dặm về phía Tây Thủ đô Washington, D.C. Nhân viên của cơ quan hoạt động từ các Đại sứ quán của Hoa Kỳ và nhiều địa điểm ở khắp thế giới. Không giống như FBI với nhiệm vụ đảm bảo an ninh trong phạm vi lãnh thổ Hoa Kỳ, CIA không có lực lượng thực thi pháp luật trong nước mà chủ yếu tập trung vào hoạt động thu thập thông tin tình báo ở nước ngoài và bị giới hạn việc thu thập thông tin tình báo bên trong nước. Trước đạo luật cải tổ hệ thống tình báo vào chống khủng bố của Quốc hội Hoa Kỳ năm 2004, Giám đốc CIA là người đứng đầu trong Cộng đồng tình báo Hoa Kỳ; ngày nay, CIA dưới quyền của Giám đốc Tình báo Quốc gia. Năm 2013, tờ Washington Post thông báo rằng CIA có phần chia đều trong Chương trình Tình báo Quốc gia (National Intelligence Program - NIP), một tổ chức phi quân sự và là một phần của Quỹ Cộng đồng Tình báo Hoa Kỳ đã tăng 28% trong năm 2013, vượt quá phần chia bởi NIP đến các Cơ quan Quân sự như Cơ quan Trinh sát Quốc gia (National Reconnaissance Office - NRO) và Cơ quan An ninh Quốc gia (National Security Agency - NSA). CIA đã tăng cường trong việc đóng vai trò chủ động, bao gồm các chiến dịch bán quân sự mật. Một trong số các bộ phận lớn nhất của Cơ quan, Trung tâm Thông tin Chiến dịch (Information Operations Center - IOC) đã chuyển mục tiêu từ chống khủng bố sang các Hoạt động Điện tử Chủ động. Thu thập thông tin về chính phủ của các nước ngoài, công ty và cá thể. Phân tích dữ liệu đó cùng với các Cơ quan thu thập tình báo khác của Hoa Kỳ với mục đích để cung cấp các đánh giá về Tình báo An ninh Quốc gia đến các quan chức cấp cao của Hoa Kỳ. Chịu sự chỉ đạo từ Tổng thống Hoa Kỳ, thực hiện giám sát các hoạt động mật và các hoạt động chiến thuật bởi nhân viên của chính Cơ quan, bởi binh sĩ của Quân đội Hoa Kỳ hoặc là các đối tác của Cơ quan. CIA có thể làm tăng sức ảnh hưởng của chính trị tại các nước qua các bộ phận chiến thuật, ví dụ như là Bộ phận Hoạt động Đặc biệt.Cơ quan Tình báo Trung ương, với tiền nhiệm là Cơ quan Công tác Chiến thuật (Office of Strategic Services - OSS), thành lập trong Đệ nhị Thế Chiến để phối hợp các Hoạt động Nội gián Mật chống lại phe Trục cho Lực lượng Vũ trang Hoa Kỳ. Đạo luật An ninh Quốc gia năm 1947 thiết lập ra CIA, với tư cách "Không phải là Cơ quan Cảnh sát hoặc Nhà nước, kể cả ở trong nước đến ngoài nước.". Đã có các dư luận nhiều đáng kể về CIA liên quan đến an ninh và các thất bại chống lại các hoạt động nội gián, thất bại trong việc phân tích thông tin tình báo, các mối lo về quyền con người, các cuộc điều tra và công bố tài liệu, làm ảnh hưởng đến ý kiến của công chúng và các Cơ quan hành luật, buôn lậu ma túy và nói dối với Quốc hội Hoa Kỳ. Những ý kiến khác, như từ kẻ ly khai Cộng sản, Ion Mihai Pacepa, đã bảo vệ CIA khi nói "CIA cho đến nay là Tổ chức Tình báo tốt nhất thế giới," và tranh luận rằng các hoạt động của CIA nằm trong số các hoạt động được giám sát cẩn thận ở mức độ chưa từng thấy ở các Cơ quan Tình báo của thế giới. Chống khủng bố, ưu tiên hàng đầu, được xác định qua Cuộc chiến Với Khủng bố đang diễn ra. Ngăn sự phổ biến của vũ khí hủy diệt hàng loạt với mục tiêu khó nhất là Triều Tiên. Cảnh báo các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ về các sự kiện quan trọng quốc tế, với Pakistan được mô tả là "Mục tiêu bất kham.". Phản gián, với Trung Quốc, Nga, Iran, Cuba và Israel được mô tả là các mục tiêu ưu tiên. Biểu tượng của CIA bao gồm 3 phần mang ý nghĩa tượng trưng: đầu chim đại bàng quay sang trái, ngôi sao 16 cánh và một cái khiên. Đại bàng là linh vật quốc gia, tượng trưng cho sức mạnh và sự tỉnh táo. Ngôi sao 16 cánh mang hàm ý CIA là tổ chức tìm kiếm thông tin tình báo từ khắp mọi nơi trên thế giới ngoài biên giới Hoa Kỳ và những thông tin đó được quy tụ về trụ sở đầu não để phân tích, kiểm tra và phân bố đến các nhà làm luật. Ngôi sao được đặt trên cái khiên, tượng trưng cho sự phòng thủ vững chắc. Tổ chức của CIA thay đổi theo từng thời kỳ. Dưới đây là một số sơ đồ tổ chức ví dụ. Sau khi chiến tranh Lạnh kết thúc, ngân sách đào tạo của CIA bị cắt giảm, việc này đã gây ảnh hưởng đến vấn đề nhân sự, buộc CIA phải giảm số nhân viên. Để giải quyết vấn đề nhân sự, giám đốc CIA George Tenet đã quyết định thành lập Đại học CIA vào năm 2002. Đại học CIA tổ chức từ 200 đến 300 khóa học mỗi năm, đào tạo cho cả những sĩ quan tình báo mới hoặc đã có kinh nghiệm cũng như những nhân viên trong các khâu khác của hoạt động tình báo. Việc tuyển các nhân viên người nước ngoài làm việc cho CIA là việc làm bình thường của một cơ quan tình báo. Một số người Việt khi được hỏi về vấn đề hoạt động gián điệp ở Việt Nam thì họ cho biết rất sẵn sàng. Hiện tại ngân sách của CIA vẫn được giữ kín. Tuy nhiên số tiền mà tổ chức này tiêu tốn hàng năm có thể lên tới nhiều tỷ đô la, một phần do quốc hội cung cấp, còn một phần là hoạt động kinh doanh và bán những thông tin tình báo của mình cho các cơ quan khác của nước Mỹ. Vào năm 1997, lần đầu tiên Chính phủ Mỹ công khai các số liệu tổng hợp với mọi hoạt động liên quan đến tình báo (trong đó CIA chỉ là một phần) với ngân sách khoảng 22,6 tỉ USD trong năm tài chính 1997. Ngân sách tình báo của những năm khác vẫn được giữ bí mật. CIA được thành lập vào ngày 26 tháng 7 năm 1947 theo Đạo luật An ninh Quốc gia năm 1947 do Quốc hội thông qua và Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman ký ban hành, có tiền thân là Cơ quan Tình báo chiến lược (OSS) thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai. Vụ tấn công của đế quốc Nhật Bản trong trận Trân Châu Cảng cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định thành lập CIA. Sau khi chiến tranh thế giới II kết thúc, chính phủ Hoa Kỳ cũng cảm thấy sự cần thiết của một cơ quan đủ khả năng để phối hợp sức mạnh của các cơ quan tình báo và quân đội. Chiến thắng của lực lượng biệt kích hải quân Anh trong chiến tranh thế giới thứ II đã khiến cho tổng thống Franklin D. Roosevelt nghĩ đến việc thành lập một cơ quan tình báo theo mô hình của cơ quan tình báo hải ngoại Anh MI6. Việc này dẫn đến việc thành lập tổ chức OSS. Tổ chức OSS đã giải tán vào tháng 11 năm 1945 và các hoạt động được chuyển giao cho Bộ Ngoại giao và Bộ Chiến tranh. Do sự cần thiết của một hệ thống tình báo tập trung sau chiến tranh nên 11 tháng trước đó, vào năm 1944, William J. Donovan, người khai sinh OSS, đã đệ trình lên Tổng thống Franklin D. Roosevelt một bản kế hoạch thành lập một tổ chức tình báo chịu sự giám sát trực tiếp của Tổng thống. Mặc dù gặp phải sự phản đối từ phía Bộ ngoại giao và Cục Điều tra Liên bang nhưng Tổng thống Truman vẫn quyết định thành lập Khối Tình Báo Trung ương vào tháng 1 năm 1946. Sau đó theo Đạo Luật An Ninh Quốc gia năm 1947 (có hiệu lực từ ngày 18 tháng 9 năm 1947), Hội đồng An Ninh Quốc gia và Cơ quan Tình Báo Trung ương chính thức ra đời. Thiếu tướng hải quân Roscoe H. Hillenkoetter là người đầu tiên được bổ nhiệm vào chức Giám đốc Tình Báo Trung ương. Năm 1949, điều lệ 81-110 được thông qua, cho phép cơ quan này được quyền sử dụng các thủ tục về mật vụ, tài chính và hành chính và được miễn khỏi hầu hết những hạn chế trong việc sử dụng ngân quỹ liên bang. Sắc lệnh này cũng cho phép CIA không cần công bố các thông tin về tổ chức, nhiệm vụ, văn tự, tiền lương, số lượng nhân viên. Sắc lệnh này cũng bao gồm cả chương trình "PL-110" để lợi dụng những kẻ đào ngũ và một số cá nhân nước ngoài, đồng thời cung cấp tài chính họ. Năm 1949, cơ quan tình báo của Tây Đức Bundesnachrichtendienst dưới quyền lãnh đạo của Reinhard Gehlen, đã nằm trong sự điều khiển của CIA. Năm 1950, CIA thành lập Tập đoàn Pacific, một trong những tổ chức kinh doanh đầu tiên của CIA. Cũng trong thời gian đó, Giám đốc Hillenkoetter lần đầu tiên phê chuẩn chương trình điều khiển nhận thức (mind control) mang tên Dự án BLUEBIRD. Sau đó, Tổng thống Truman quyết định đổi tên Dự án BLUEBIRD thành Dự án ARTICHOKE. Trong những năm đầu mới đi vào hoạt động, CIA không chịu nhiều sự điều khiển từ các cơ quan khác của chính phủ. Tuy nhiên mọi chuyện đã thay đổi vào khoảng những năm 70, thời điểm xảy ra biến cố chính trị Watergate. Vào thời gian đầu Chiến tranh Triều Tiên, nhân viên CIA Hans Tofte tuyên bố rằng đã huấn luyện thành công hàng ngàn người trốn chạy từ Triều Tiên thành một lực lượng du kích với các kĩ năng xâm nhập, chiến tranh du kích, và cứu trợ các phi công. Năm 1952, CIA đã tung 1,500 điệp viên trong số này ra hoạt động. Năm 1949, đại tá Adib Shishakli lên nắm quyền ở Syria trong một cuộc đảo chính được Syria hậu thuẫn. 4 năm sau, ông bị đảo chính bởi quân đội, các lực lượng Cộng sản và những người Baath. CIA và MI6 bắt đầu tài trợ cho phe hữu thuộc quân đội nhưng việc này lại gặp khó khăn do hậu quả của vụ khủng hoảng kênh đào Suez. Một số quan chức, sĩ quan của Syria đã xuất hiện trên truyền hình và thừa nhận rằng họ đã nhận "những đồng tiền dơ bẩn và độc ác của Mỹ" để lật đổ chính quyền hợp hiến ở Syria. Sau đó các lực lượng quân đội của Syria đã bao vậy đại sứ quán Mỹ và muốn bắt một điệp viên CIA Rocky Stone, người trước đó đóng một vai trò nhỏ trong cuộc cách mạng ở Iran và hiện tại đang làm nhân viên ngoại giao ở Damascus. Stone trở thành nhân viên ngoại giao người Mỹ đầu tiên bị trục xuất khỏi một nước Arab. Việc này cũng đã làm bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Syria và Ai Cập, giúp hình thành Cộng hòa Ả Rập Thống nhất và việc này bị cho là đã làm mất quyền lợi kinh tế của Mỹ trong thời điểm này. Trong thời chiến tranh và cả hậu chiến, CIA đã hoạt động mạnh ở Việt Nam. Trong chiến tranh Đông Dương, Mỹ coi Việt Nam là địa bàn quan trọng trong chiến lược chính trị của họ nên bắt đầu các hoạt động can thiệp. Đúng 20 ngày sau khi Hiệp định Genève về Đông Dương được ký kết, đô đốc Mỹ Sabin đến Hà Nội, họp với phái đoàn quân sự Mỹ tại đây. Năm 1955, phái đoàn quân sự này của Mỹ do Edward Lansdale chỉ huy, nhân viên cao cấp của CIA và đã làm cố vấn cho Pháp tại Việt Nam từ 1953, đã thực hiện các hoạt động tuyên truyền chiến tranh tâm lý để kêu gọi dân chúng miền Bắc di cư vào Nam. Trong chiến tranh Việt Nam, chiến dịch Phượng hoàng với sự hậu thuẫn của CIA, đã được triển khai nhằm tróc rễ các cơ sở bí mật nằm vùng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Từ năm 1985–1986, gần như toàn bộ điệp viên CIA hoạt động ở Đông Âu đều bị lộ danh tính. Chi tiết về việc điều tra nguyên nhân đều không rõ ràng cũng như việc điều tra cũng không có kết quả khả quan và việc này cũng bị chỉ trích bởi dư luận. Vào tháng 6 năm 1987, tướng Florentino Aspillaga Lombard, người đứng đầu hệ thống tình báo của Cuba đã đào tẩu đến Vienna và đến đại sứ quán Mỹ ở đây. Ông tiết lộ rằng tất cả điệp viên nằm trong biên chế của CIA ở Cuba đều là những điệp viên "hai mang", tức là đều làm việc cho CIA nhưng vẫn trung thành với chính phủ Castro. CIA sau đó cũng điều tra được rằng các thông tin tình báo tối mật về Liên Xô đều dựa trên những tin tình báo sai dựa trên cung cấp của những chuyên gia phân tích của CIA. Việc điều tra sau đó dẫn tới việc bắt giữ Aldrich Ames, một chuyên viên phân tích và phản gián của CIA nhưng làm gián điệp cho Liên Xô. Ngày 21 tháng 2 năm 1994, Ames bị FBI bắt giữ. Ames bị kết án tù chung thân không ân xá. Hình ảnh CIA được tái hiện rất nhiều trong các sách (của các tác giả người Mỹ lẫn ngoại quốc), phim ảnh của Hollywood, trò chơi điện tử và cả truyện tranh.
Cơ quan Tình báo Trung ương (Hoa Kỳ)
Cơ quan Tình báo Trung ương (tiếng Anh: Central Intelligence Agency; viết tắt: CIA) là một cơ quan tình báo quan trọng của Chính quyền Liên bang Hoa Kỳ, có nhiệm vụ thu thập, xử lí và phân tích các thông tin tình báo có ảnh hưởng tới an ninh quốc gia của Hoa Kỳ từ khắp nơi trên thế giới, chủ yếu là thông qua hoạt động tình báo của con người (human intelligence viết tắt là HUMINT). Là thành viên chính thuộc Cộng đồng tình báo Hoa Kỳ (IC), CIA có nhiệm vụ phải báo cáo thông tin cho Giám đốc Tình báo Quốc gia và cũng đồng thời cung cấp các thông tin tình báo quan trọng cho tổng thống và nội các của Hoa Kỳ. CIA có tổng hành dinh nằm ở Langley, Virginia, một vài dặm về phía Tây Thủ đô Washington, D.C. Nhân viên của cơ quan hoạt động từ các Đại sứ quán của Hoa Kỳ và nhiều địa điểm ở khắp thế giới. Không giống như FBI với nhiệm vụ đảm bảo an ninh trong phạm vi lãnh thổ Hoa Kỳ, CIA không có lực lượng thực thi pháp luật trong nước mà chủ yếu tập trung vào hoạt động thu thập thông tin tình báo ở nước ngoài và bị giới hạn việc thu thập thông tin tình báo bên trong nước.
Quản trị tri thức (QTTT) là một quá trình, một công cụ quản trị hiệu quả nhằm chia sẻ, thu nhận, lưu giữ, lựa chọn, sáng tạo tri thức và cung cấp đúng người, đúng nơi, đúng lúc nhằm nâng cao hiệu quả quyết định, hiệu quả thực thi và khả năng thích ứng của doanh nghiệp. Có nhiều quan điểm và nhiều mô hình khác nhau về QTTT. Tuy nhiên, mục tiêu cuối cùng của quá trình QTTT nhắm đến là: sáng tạo, chia sẻ, lưu giữ, phát triển và sử dụng tối ưu nguồn tri thức trong tổ chức hoặc doanh nghiệp. Bản chất của QTTT là quá trình kiến tạo, chia sẻ, khai thác, sử dụng và phát triển nguồn tài sản tri thức trong tổ chức và biến những tài sản vô hình đó thành những giá trị kinh tế hay vật chất của tổ chức. - QTTT là một lĩnh vực có liên quan chặt chẽ với lí luận và thực tiễn và là một lĩnh vực mang tính đa ngành, đa lĩnh vực. - QTTT không phải là công nghệ thông tin, những tiến bộ trong công nghệ thông tin hỗ trợ cho việc này tốt hơn mà thôi. - Những vấn đề của con người và học tập là điểm trung tâm của QTTT. Vốn tri thức và rộng lớn hơn nữa là quản trị tri thức đang thực sự trở thành nhân tố chủ đạo tạo nên những bước tiến thần kì của mỗi quốc gia, mỗi tổ chức, mỗi doanh nghiệp. - QTTT là phương thức tối ưu để ngăn chặn "nạn chảy máu chất xám" trong doanh nghiệp. - QTTT là phương thức tạo nên một tổ chức với những cá nhân năng động, một cấu trúc hệ thống học hỏi không ngừng với khả năng thích ứng cao. - QTTT là con đường tốt nhất để biến khách hàng thành những người bạn trung thành của doanh nghiệp.
Quản trị tri thức
Quản trị tri thức là tạo ra tri thức, và việc này được nối tiếp với việc thể hiện kiến thức, truyền bá và sử dụng kiến thức, và sự duy trì (lưu giữ, bảo tồn) và cải biên kiến thức. Quản trị tri thức là quá trình của việc quản lý một cách cẩn trọng tri thức để đáp ứng các nhu cầu hiện hữu, để nhận ra và khai thác những tài sản tri thức hiện có và có thể đạt được và để phát triển những cơ hội mới. Quản trị tri thức là hoạt động mà hoạt động này quan tâm tới chiến lược và chiến thuật để quản lý những tài sản mà trọng tâm là con người (human center assets). Quản trị tri thức là quá trình hệ thống của việc nhận dạng, thu nhận và chuyển tải những thông tin và tri thức mà con người có thể sử dụng để sáng tạo, cạnh tranh và hoàn thiện. Trên cơ sở tổng kết các định nghĩa khác nhau về quản trị tri thức, McAdam và McGreedy (1999) đã chỉ ra rằng chúng thể hiện một miền rộng lớn từ những quan điểm có tính cơ giới (coi tri thức là tài sản) tới quan điểm thiên về định hướng xã hội (tri thức được tạo ra trong tổ chức thông qua những quan hệ xã hội).
Theo học giả Joseph (1986), đồng phục học sinh, sinh viên là một biểu tượng của sự đoàn kết, tinh thần đồng lòng của đội/ nhóm/ tập thể. Đối lập với những yếu tố cá nhân. Theo định nghĩa thông thường, đồng phục học sinh là trang phục mặc đi học của học sinh, sinh viên. Nó tương đồng giữa các học sinh, sinh viên. Nó mang những lợi ích và ý nghĩa tích cực nhất định. Nó được áp dụng ở Việt Nam và cả các nước trên thế giới. Tronng đó có cả đồng phục học sinh mùa đông, đồng phục học sinh mùa hè. Tuy nhiên, có sự khác nhau giữa giới tính nam và nữ. Các bạn nam thường mặc sơ mi tối màu và áo màu sáng. Kèm với thắt cà vạt. Còn các bạn nữ thường mix áo sơ mi với chân váy. Hoặc có những nơi mặc áo dài. Không những có nhiều ý nghĩa với học sinh. Đồng phục học sinh đẹp còn mang lại nhiều ý nghĩa cho phụ huynh và nhà trường. Khám phá các ý nghĩa quan trọng của đồng phục học sinh sau đây:. Đầu tiên, đồng phục học sinh có ý nghĩa nhất với người mặc. Khoác lên người những bộ trang phục kín đáo nhưng không kém phần phong cách sẽ giúp các em học sinh cảm thấy tự tin hơn. Mặt khác, mặc trang phục giống nhau khi đến trường tạo nên sự bình đẳng. Thể hiện thái độ quan tâm, chăm sóc của nhà trường và cha mẹ đối với các con là như nhau. Không có sự phân biệt các em học sinh được sinh ra trong hoàn cảnh nào, học lực ra sao. Giúp một số em không bị kỳ thị. Bên cạnh đó, nó thể hiện sự chấp hành nghiêm ngặt các nội quy của các bạn học sinh. Phụ huynh cũng sẽ tiết kiệm một nguồn chi phí nhất định. Cũng bớt lo âu về mua trang phục gì để con đến trường cho phù hợp. Đối với nhà trường, đồng phục học sinh cũng cực kỳ quan trọng. Tất cả các chiếc áo đồng phục sẽ có in logo của trường mà học sinh theo học. Vì thế, ý nghĩa của bộ đồng phục học sinh tạo nên thương hiệu của nhà trường. Thể hiện niềm tự hào đối với nhà trường. Hơn nữa, ý nghĩa của việc mặc đồng phục học sinh còn là sản phẩm đại diện cho cả một tập thể lớp. Sự đoàn kết, gắn bó và thân thiết giữa các bạn cùng lớp, cùng trường. Đó cũng chính là sự quan tâm của nhà trường đối với học sinh. Đặc biệt là đối với đồng phục học sinh tiểu học. Hiện nay đồng phục học sinh nói chung và đồng phục học sinh Đà Nẵng nói riêng,được sản xuất với rất nhiều mẫu mã, chất liệu khác nhau, nhà trường cũng có thể thỏa sức sáng tạo để tìm được những bộ đồng phục mang đặc trưng riêng. Đồng phục học sinh giá bao nhiêu?. Bạn có thể dễ dàng tìm kiếm các địa điểm xưởng may đồng phục tại Đà Nẵng chất lượng, uy tín. Và nếu bạn đặt hàng với số lượng lớn, bạn sẽ được hưởng các khoản hỗ trợ chi phí ưu đãi. Vậy đồng phục học sinh mua ở đâu? Bạn cần liên hệ ngay cho Thanh Hưng. Với nhiều năm kinh nghiệm hoạt động trong nghề, Thanh Hưng là xưởng sản xuất đồng phục quy mô lớn được nhiều đội bóng lựa chọn.
Đồng phục học sinh
Đồng phục học sinh là một trang phục có những tiêu chuẩn riêng và được mặc chủ yếu trong các trường học. Đồng phục phổ biến ở các trường tiểu học và trung học tại nhiều quốc gia khác nhau. Khi được áp dụng, chúng sẽ tạo ra các quy chuẩn về ăn mặc cho mỗi nhà trường. Mặc dù có thể sử dụng thay thế nhau nhưng vẫn có sự khác biệt rõ rệt giữa khái niệm đồng phục với quy chuẩn ăn mặc. Theo học giả Joseph (1986), quần áo có thể được coi là đồng phục khi nó "(a) được coi như là một biểu tượng nhóm, (b) xác nhận tính hợp pháp của một tổ chức bằng cách thể hiện được vai trò và vị trí của các cá nhân và (c) ngăn chặn yếu tố cá nhân". Đồng phục học sinh áp dụng trong các trường học hiện nay tại Việt Nam nói riêng và trên thế giới nhìn chung có nhiều điểm khá tương đồng. Ví dụ, các nam sinh thì mặc quần tối màu với áo sơ mi sáng màu. Phụ kiện (nếu có) thường là cà vạt. Đồng phục cho các bạn nữ sinh thường là sơ mi phối cùng chân váy hoặc quần dài.
Một bộ phim bắt đầu với nhà sản xuất và kết thúc cũng là nhà sản xuất. Nhà sản xuất phim là chất xúc tác cho một bộ phim hay video clip, chu kỳ sản xuất phim hoàn chỉnh và phát hành cuối cùng, tiếp thị và phân phối. Một nhà sản xuất giỏi sẽ gieo trồng ý tưởng và biến ý tưởng thành một cái gì đó lớn lao, tỏa sáng trên màn ảnh rộng. Chúng ta luôn nhìn thấy tên của các nhà sản xuất trong phần credit, quen thuộc với một số nhà sản xuất lớn nhỏ ở Hollywood hay ở mỗi quốc gia cụ thể. Nhưng một nhà sản xuất phim thực sự làm những gì? Hôm nay ButVangMedia giới thiệu cho bạn đọc nào muốn quan tâm tìm hiểu và sản xuất phim và quá trình sản xuất phim như thế nào!. Một nhà sản xuất phim thường là người bắt đầu bộ phim của mình bằng cách tìm kiếm một câu chuyện. Cho dù đó là một câu chuyện có thật, truyện tranh, tiểu thuyết, cuốn sách nổi tiếng hay sự kiện thời sự, một nhà sản xuất giỏi luôn luôn tìm kiếm những điều mới mẻ và thú vị để phát triển ý tưởng phim. Khi có một ý tưởng từ một các tài sản văn học, nhà sản xuất sẽ làm việc để phát triển nó từ một ý tưởng thành một concept cho một bộ phim. Nhà sản xuất sẽ làm việc với một hoặc nhiều biên kịch để chỉnh sửa và sau đó tạo ra một kịch bản để sản xuất – cũng như giám sát việc viết lại và hoàn thành kịch bản. Phần quan trọng nhất của quá trình sản xuất phim là việc chuẩn bị ngân sách cho bộ phim, một nhà sản xuất sẽ mua một kịch bản hoặc chỉnh sửa để các nhà đầu tư hoặc các hãng phim tài trợ để thực sự biến kịch bản đó thành một bộ phim hoàn chỉnh và có cơ hội lên sóng. Nếu chưa làm việc với một đạo diễn, một nhà sản xuất sẽ xem xét chặt chẽ, tìm kiếm và thuê một đạo diễn cho bộ phim của mình. Đây là lúc mà nhà sản xuất sẽ bàn giao công việc và ở phía sau trong phần còn lại của quá trình sản xuất cho đạo diễn. Nhà sản xuất chọn diễn viên cho dự án phim của mình hoặc việc tuyển diễn viên là do một đạo diễn tuyển diễn viên thực hiện và đạo diễn với nhà sản xuất đóng vai trò trung gian tùy thuộc vào kiến thức và nhu cầu. Vì nhà sản xuất thường là người bỏ tiền ra, nên quyền quyết định diễn viên thường là thuộc việc của nhà sản xuất. Sản xuất phim được giám sát bởi nhà sản xuất, bởi các thiết bị được mang đến như camera, đèn được thiết lập, một lịch trình sản xuất cẩn thận, chi tiết và ngân sách được đặt ra cho đạo diễn và đoàn làm phim để làm theo. Một nhà sản xuất không nhất thiết xuất hiện hàng ngày. Tùy thuộc vào công việc của đạo diễn, nhà sản xuất sẽ tìm một nhà dựng phim để hoàn thiện phim sau hay cuối quá trình sản xuất. Một số đạo diễn sẽ tham gia trực tiếp, trong khi đó một số sẽ không tham gia và để cho nhà dựng phim thay đổi khi cần thiết. Một nhà sản xuất sẽ giám sát theo quá trình sản xuất, thực sự chỉ kiểm tra theo đúng tiến độ, ngân sách và liên quan đến cốt truyện chính. Khi bộ phim hoàn tất, nhà sản xuất tiếp nhận lại bộ phim của mình. Nhà sản xuất giỏi sẽ làm việc với một người hay một nhóm marketing để phát triển một chiến lược xây dựng chiến dịch quảng cáo cho bộ phim, cũng như tham gia vào các giải thưởng lớn và có thể là một chuyến quảng báo phim của mình. Nếu quý khách đang muốn tìm một nhà sản xuất phim quảng cáo. Hãy liên hệ ngay với ButVangMedia, nhà sản xuất phim quảng cáo chuyên nghiệp, uy tín với hơn 12 năm kinh nghiệm trong việc ngành làm phim quảng cáo, sở hữu mô hình sản xuất phim quảng cáo khép kín, đội ngũ ekip chuyên nghiệp, ý tưởng sáng tạo đột phá ,… chắc chắn mang đến cho quý khách những thước phim chuyên nghiệp, hiệu quả quảng bá cao, nâng tầm thương hiệu.
Nhà sản xuất nhạc
Nhà sản xuất âm nhạc hay nhà sản xuất bản thu (tiếng Anh: record producer) là một cá nhân làm việc trong nền công nghiệp âm nhạc, là người có công việc là giám sát và quản lý thu âm (ví dụ như "sản xuất") âm nhạc của nghệ sĩ. Một nhà sản xuất có nhiều vai trò có thể bao gồm, nhưng không hạn chế là, tập hợp những ý tưởng cho dự án, lựa chọn các bài hát và/hoặc các nghệ sĩ, hướng dẫn nghệ sĩ và nhạc sĩ trong phòng thu, kiểm soát những lần thu âm, và giám sát toàn bộ quá trình thông qua việc trộn lẫn và làm chuẩn. Những nhà sản xuất còn thường được nhận những vai trò kinh doanh lớn hơn, với trách nhiệm về ngân sách, các lịch trình và các cuộc thương lượng. Ngày nay, nền công nghiệp thu âm có 2 kiểu nhà sản xuất: giám đốc sản xuất và nhà sản xuất âm nhạc; họ có vai trò khác nhau. Trong khi một giám đốc sản xuất giám sát tài chính của một dự án, một nhà sản xuất âm nhạc lại giám sát quá trình tạo ra âm nhạc.
Là con gái hầu hết mọi người ai cũng muốn có mái tóc thẳng hoặc suôn mượt. Bạn được bạn bè giới thiệu là hãy đi “ÉP TÓC” đi? Bạn cũng muốn có một mái tóc đẹp suôn mượt như vậy, nhưng bạn đang bị rối trong quá trình tìm hiểu các vấn đề này? duỗi tóc khác gì ép tóc?. Hãy cùng LANDO giải đáp tất cả những thắc mắc trong bài viết dưới đây nhé. Ép tóc (hay còn gọi: ép tóc thẳng, ép tóc tạm thời) là một phương pháp làm thẳng tóc tạm thời bằng việc sử dụng các công cụ nhiệt và hóa chất chuyên dụng trong việc ép tóc, để làm phẳng thẳng tóc. Tuy nhiên, hóa chất dùng để ép tóc không mạnh bằng hóa chất dùng trong các việc duỗi tóc, đó là sự khác biệt chính. Ngoài ra 1 số kỹ thuật khác biệt nhỏ giữa 2 cách làm thẳng tóc này giúp ta có thể phân biệt được chúng. Hiện nay ép tóc được xem là phương pháp hiện đại hơn so với duỗi tóc truyền thống vì ép tóc được cho rằng là hạn chế được sự tổn hại của tóc hơn là duỗi tóc truyền thống. Duỗi tóc khác với ép tóc, vì vậy hãy hỏi người thợ làm tóc của bạn thật kỹ càng để được tu vấn trước khi thực hiện. Vậy ép tóc thích hợp cho tóc nào? – Ép tóc thích hợp cho những người có mái tóc tương đối thẳng rồi, những người có mái tóc đang bị hư tổn, những người có mái tóc yếu không thích hợp cho việc duỗi tóc. Ép tóc là phương pháp hiên đại và có phần mắc tiền hơn so với duỗi tóc truyền thống. Người có mái tóc đang bị hư tổn nhưng vẫn muốn có mái tóc thẳng. Đơn giản dễ hiểu nhất, ép tóc và duỗi tóc có điểm khác nhau lớn nhất là ở Thuốc Ép Tóc và Thuốc Duỗi Tóc. Ở thuốc Ép Tóc: Người thợ làm tóc sử dụng dung dịch formaldehyde để làm mền tóc. Sau đó thợ làm tóc làm khô tóc và dùng bàn là phẳng ở nhiệt độ vừa phải để giữ tóc được thẳng. Ở Thuốc Duỗi Tóc: Người thợ làm khi duỗi tóc sẽ sử dụng hỗn hợp nhiều loại hóa chất khác nhau để duỗi bao gồm: Natri hydroxit (dung dịch kiềm), Lithium hydroxit, Canxi hydroxit và một số thuốc dưỡng tóc khác. Tóc bạn sẽ được các loại thuốc trên tái cấu trúc sợi tóc, dùng nhiệt độ định hình lại tóc. Ép tóc giúp tóc giữ thẳng được từ 1 tới 3 tháng (duỗi tóc giữ được 6 T – 1 năm). Tuy nhiên việc tóc ép của bạn có tồn tại lâu bên hay không tùy thuộc vào các yêu tố như: liều lượng thuốc, tay nghề của thợ, cách bạn bảo vệ mái tóc của bạn…. Sự khác biệt của dễ thấy nhất của việc ép tóc và duỗi tóc là tóc sử dụng phương pháp ép tóc sẽ làm tóc thẳng trong có vẻ tự nhiên hơn là tóc sử dụng phương pháp duỗi tóc. Tóc duỗi có thể làm duỗi thẳng tóc cho những người có mái tóc xoắn tự nhiên khó duỗi. LANĐO làm tiệm làm tóc tại Gò Vấp Tphcm. Chúng tôi chuyên cắt, gội, uốn, nhuộm duỗi, làm móng…. Chúng tôi đã làm tiệm lâu năm, có kinh nghiệm và cung cấp dịch vụ làm tóc với giá rẻ bình dân phục vụ phái nữ. Duỗi Tóc Mất Bao Nhiêu Thời Gian Tại Tiệm Tóc? Qúa Trình Duỗi Tóc Tại Tiệm. Duỗi Tóc Giữ Được Bao Lâu? Những yếu tố ảnh hưởng đến tóc duỗi của bạn. Cách Làm Tóc Duỗi Trở Lại Bình Thường Sau Khi Lỡ Duỗi Tóc Tại Tiệm Mà Bạn Không Thích. Tiệm làm tóc Lan Đo là một tiệm làm tóc nhỏ yên tĩnh tại Gò Vấp Tphcm. Thợ của tiệm có kinh nghiệm lâu năm trong nghề chuyên phục vụ phái đẹp cắt tóc, uốn tóc, duỗi tóc, nhuộm tóc, hấp dưỡng tóc, trang điểm, gội đầu, làm móng…. Với sự nhiệt tình tận tâm, kinh nghiệm làm tóc lâu năm sẽ làm bạn hài lòng về mái tóc đẹp, óng ả, suôn mượt. uốn nhuộm tự nhiên. Các bạn hoàn toàn yên tâm khi làm tóc tại Lan Đo.
Duỗi tóc
Duỗi tóc là một kỹ thuật tạo kiểu tóc có liên quan đến việc làm phẳng và thẳng tóc để làm cho tóc mượt và mịn, các sợi tóc sắp xếp hợp lý, và có kiểu dáng đẹp. Nó có thể được thực hiện bằng cách sử dụng nhiệt hay hơi nước, như dùng bàn ủi tóc và lược nóng, kẹp định hình tóc bằng nhiệt hoặc dùng hóa chất như hóa chất, keo thẳng tóc Nhật Bản, hoặc thuốc duỗi tóc Brasil. Ngoài ra, một số dầu gội đầu và gel tóc có thể giúp để làm cho tóc thẳng tạm thời. Phụ nữ các nước Đông Nam Á thường ưa chuộng duỗi tóc như một phương pháp làm đẹp, như tại Mã Lai và Philippines. Bàn ủi (bàn là) tóc và lược nóng, chỉ có thể tạm thời thay đổi kết cấu của tóc, trong khi các hóa chất và các phương pháp khác có thể làm thay đổi vĩnh viễn cấu trúc của tóc, mặc dù sự phát triển tóc mới không bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, việc lạm dụng hóa chất cũng có thể dẫn đến những nguy cơ về sức khỏe, tổn hại da đầu và làm rụng tóc và có thể gây ung thư.
(LLCT) - Chuyên chính vô sản là một trong những tư tưởng cốt yếu nhất của chủ nghĩa Mác. Sức sống của tư tưởng đó đòi hỏi trong nhận thức và vận dụng phải nắm vững tinh thần khoa học của nó, đồng thời phải có sự phát triển và vận dụng sáng tạo trên cơ sở thực tiễn mới. Chủ trương đổi mới Nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và phát triển nền kinh tế thị trường XHCN làm nền tảng kinh tế cho nó là sự vận dụng tư tưởng chuyên chính vô sản của C.Mác một cách sáng tạo trong đổi mới ở Việt Nam. Nghiên cứu làm rõ nguồn gốc và bản chất của nhà nước, đặc biệt làm rõ bản chất của nhà nước tư sản là cơ sở khoa học cho việc hình thành, phát triển tư tưởng về một nhà nước kiểu mới, tư tưởng chuyên chính vô sản. Tư tưởng chuyên chính vô sản là một tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác. Nói về vị trí của tư tưởng đó trong lý luận của chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: cái chủ yếu trong học thuyết của C.Mác không phải là đấu tranh giai cấp mà là chuyên chính vô sản, do đó, thừa nhận hay không thừa nhận chuyên chính vô sản là “hòn đá thử vàng” để phân biệt ai là người “hiểu biết thực sự và thừa nhận thực sự chủ nghĩa Mác”(1). Ý tưởng manh nha về nhà nước kiểu mới đã được C.Mác đề cập tới trong Hệ tư tưởng Đức.Đó là tư tưởng giai cấp vô sản phải nắm chính quyền(2). Những ý tưởng đó đã được phát triển thành một luận điểm trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: “bước thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ”(3). Đó là kết quả của sự nghiên cứu, phân tích, mổ xẻ nền kinh tế hiện đại, sự trưởng thành và vai trò lịch sử của giai cấp vô sản trong nền công nghiệp hiện đại. Và dựa trên quy luật lịch sử: giai cấp nắm chính quyền nhà nước trong một thời đại, phải là giai cấp đại diện cho toàn thể xã hội trong thời đại của nó(4). Đến tác phẩm Ngày mười tám tháng Sương mù của Lu-i Bô-na-pác-tơ, C.Mác đã tổng kết cuộc cách mạng tư sản năm 1848 - 1851, phát triển tư tưởng chuyên chính vô sản lên một bước mới: tất cả những cuộc cách mạng trước kia đã làm cho bộ máy nhà nước thêm hoàn bị, nhưng điều cần làm là phải phá hủy, phải đập tan nó đi(5). Nhắc lại luận điểm đó, trong thư gửi cho I. Cughenman, C.Mác viết: “Nếu anh liếc đọc chương cuối cùng trong quyển Ngày 18 tháng Sương mùcủa tôi anh sẽ thấy tôi tuyên bố rằng cố gắng tiếp theo của cách mạng Pháp không phải là việc chuyển bộ máy quân phiệt - quan liêu từ tay nhóm người này sang tay tay nhóm người khác, như vẫn xảy ra từ trước tới nay, mà là đập tan bộ máy đó, và đó chính là điều kiện tiên quyết của mọi cuộc cách mạng nhân dân thật sự ở lục địa”(6). Như vậy, tư tưởng chuyên chính vô sản đã được phát triển một bước cụ thể hơn: “Trong cách mạng vô sản giai cấp công nhân không thể chỉ đơn giản chiếm lấy bộ máy nhà nước có sẵn mà phải “đập tan” nó đi”. Cùng vào những năm này, trong thư gửi cho Vai-đê-mai-ơ ngày 5-3-1852 lần đầu tiên C.Mác sử dụng thuật ngữ “chuyên chính vô sản”(7). Tư tưởng chuyên chính vô sản của C.Mác tiếp tục được phát triển cùng với việc tổng kết kinh nghiệm Công xã Pari năm 1871 trong tác phẩm Nội chiến ở Pháp. Trong đó, khi phân tích một cách rất chăm chú về Công xã Pari, C.Mác viết: “Công xã dẫn đến rất nhiều cách giải thích. Bí quyết thật sự của Công xã là ở chỗ: về thực chất nó là chính phủ của giai cấp công nhân., là hình thức chính trị rốt cuộc đã tìm ra được khiến cho có thể thực hiện được việc giải phóng lao động về mặt kinh tế”(8). Khi nói về thực chất, sức mạnh của nhà nước kiểu mới, của chuyên chính vô sản, C.Mác, Ph.Ăngghen cho rằng đó là dân chủ. Trong tác phẩm Nội chiến ở Pháp, C.Mác đã khẳng định: “sự cai quản nhân dân do chính nhân dân đảm nhiệm” là một xu hướng tất yếu dưới CNXH(9). Tuy vậy, các ông vẫn lưu ý rằng mặt chuyên chính là điều không tránh khỏi. Năm 1875, trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gô-ta, C.Mác đã phê phán quan điểm của phái Lát-san - một phái trong Đảng Dân chủ - xã hội Đức thời bấy giờ. Phái này đề xuất mô hình nhà nước trong thời kỳ quá độ là “nhà nước tự do”(10), một kiểu nhà nước dân chủ, phi chuyên chính. C.Mác đã vạch trần tính chất ảo tưởng tiểu tư sản của quan điểm đó. Nhấn mạnh lại điều đó, trong thư viết cho A.Bê-ben, Ph.Ăngghen viết: “Vì nhà nước, xét đến cùng, chỉ là một thiết chế tạm thời mà người ta phải dùng đến trong đấu tranh, trong cách mạng để đàn áp kẻ địch của mình bằng bạo lực, nên nói đến một nhà nước nhân dân tự do là hoàn toàn vô nghĩa; chừng nào mà giai cấp vô sản còn cần đến nhà nước, thì như thế tuyệt nhiên không phải vì tự do, mà để trấn áp kẻ địch của mình; và ngày nào có thể nói đến tự do sẽ không còn là nhà nước nữa”(11). Đề xuất lý luận về nhà nước kiểu mới, nhà nước chưa xuất hiện trong lịch sử là vấn đề phức tạp, nhạy cảm nên C.Mác hết sức thận trọng. Đó là quá trình phát triển tư tưởng không phải trên cơ sở duy tâm, tư biện, chủ quan, mà là thông qua tổng kết thực tiễn, khái quát từ những biến đổi và phát triển của thực tiễn trong vòng 40 năm. Mỗi kết luận mà C.Mác rút ra, như V.I.Lênin đã viết: “Không phải là những suy luận lô gic, mà là sự phát triển thực tế của những sự biến, kinh nghiệm sống.”(12). Còn đối với những gì mà chưa có cơ sở thực tiễn vững chắc thì “không muốn rơi vào không tưởng, C.Mác chờ kinh nghiệm của phong trào quần chúng để giải đáp vấn đề”(13). Tính khoa học và giá trị những luận điểm của chủ nghĩa Mác chính là ở chỗ đó, ở chỗ luôn đứng vững trên nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Trong quá trình Đổi mới, một mặt Đảng đã phát hiện và khắc phục những lệch lạc do sự nhận thức và vận dụng cực đoan, giáo điều một số tư tưởng của C.Mác về nhà nước. Đó là đối lập một cách trừu tượng giữa nhà nước vô sản với nhà nước tư sản; hiểu tính giai cấp của nhà nước một cách hẹp hòi v.v. Những lệch lạc đó là một trong những nguyên nhân khiến cho nhà nước XHCN có nhiều khuyết tật, chẳng những hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả, mà còn rơi vào tình trạng thiếu dân chủ hoặc dân chủ hình thức. Tình trạng đó không chỉ bị kẻ thù của CNXH chế giễu, mà còn làm cho nhân dân lao động thất vọng, giảm sút lòng tin vào chế độ, vào Đảng và Nhà nước. Trong Đổi mới, Đảng ta đã ý thức được những lệch lạc đó và dần dần khắc phục. Chủ trương xây dựng một xã hội “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, do nhân dân làm chủ”; “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”; “phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”; thực hiện “đại đoàn kết toàn dân tộc”.(14) trong đổi mới thể hiện rõ điều đó. Một là, chủ trương đổi mới nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Trong quá trình đổi mới Nhà nước, Đảng ta không sử dụng thuật ngữ chuyên chính vô sản (chuyển từ “hệ thống chuyên chính vô sản”, sang “hệ thống chính trị”; từ “nhà nước chuyên chính vô sản” sang “nhà nước XHCN”, cuối cùng là “nhà nước pháp quyền XHCN”). Nhưng từ đây đã xuất hiện những nhận thức cực đoan: một là, băn khoăn, lo ngại xa rời quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác. Một cực đoan khác cho rằng tư tưởng Mác về chuyên chính vô sản đã bị vượt qua. Những thái cực đó, nếu không vì mục đích chính trị nào đó thì về thực chất vẫn chưa thoát khỏi những giáo điều, máy móc; hoặc chưa hiểu thực sự tinh thần tư tưởng chuyên chính vô sản của C.Mác. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác về nhà nước kiểu mới, như đã nêu trên đây, là “đập tan nhà nước tư sản”, “biến giai cấp vô sản thành giai cấp thống trị”, “giành lấy dân chủ” và “bí quyết thực sự là chính phủ của giai cấp công nhân”. Vậy, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo không hề xa rời, phủ nhận, mà là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng chuyên chính vô sản của C.Mác. Bởi lẽ, thứ nhất,nhà nước pháp quyền mà nhân dân ta xây dựng là nhà nước pháp quyền XHCN chứ không phải là nhà nước pháp quyền tư sản. Hai kiểu nhà nước này có những điểm tương đồng nhất định về hình thức, nhưng cái quyết định bản chất của nhà nước - như chúng ta đã biết - không phải là hình thức nhà nước. Thứ hai, về bản chất đó vẫn là nhà nước “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”, hay nói cách khác là sự thống trị chính trị của giai cấp công nhân trên nền tảng chính trị - xã hội của CNXH. Thứ ba, dân chủ là sức sống, sức mạnh của nhà nước kiểu mới, mà nhà nước pháp quyền - như kết quả nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn trong những thập kỷ qua cho thấy - là hình thức nhà nước có khẳng năng thực hiện dân chủ tốt nhất hiện nay. Việc “giành lấy dân chủ” và thực hiện thống trị chính trị trên nền tảng dân chủ là là nội dung rất cốt lõi của tư tưởng chuyên chính vô sản, là vấn đề chủ nghĩa Mác rất quan tâm, nhưng vẫn chưa có điều kiện phác họa, dự báo, gợi mở thực hiện dưới những hình thức chính trị như thế nào để thống trị chính trị một cách thực sự dân chủ. Nghiên cứu một cách kỹ càng, phân tích một cách chăm chú Công xã Pari - nhà nước vô sản đầu tiên và cũng là nhà nước vô sản cuối cùng mà C.Mác và Ph.Ăngghen được chứng kiến, hai ông đã cảnh báo về quan liêu, thiếu dân chủ. Lênin trong quá trình lãnh đạo xây dựng nhà nước kiểu mới, nhà nước vô sản đầu tiên đã phải đối mặt với tình trạng quan liêu đang hoành hành trong chính quyền Xôviết. Ông đã có những quyết tâm cao độ trong việc cải tổ chính quyền Xôviết với phương châm: “Phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thứccủa sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn, v.v.”(15) nhất là trong những năm tháng thực hiện chính sách kinh tế mới (NEP, 1921). Nhưng do phải đối mặt với quá nhiều khó khăn của chiến tranh, nội chiến, suy thoái kinh tế, khó khăn, hơn nữa đây là vấn đề quá mới mẻ đối một chính quyền còn non trẻ, ngoài ra thời gian vật chất của ông cũng rất ít ỏi nên cũng chưa khẳng định được trên thực tế một hình thức chính trị như thế nào để thực hiện sự thống trị chính trị một cách thực sự dân chủ. Sau khi V.I.Lênin qua đời, dưới sự lãnh đạo của Xtalin, vào những năm 30 của thế kỷ này, Liên xô đã thiết lập mô hình XHCN đầu tiên trên thế giới. Mô hình đó sau này được áp đặt cho các nước đi lên CNXH (trong đó có nước ta). Về mặt chính trị thực chất đấy là một hệ thống quan liêu, mệnh lệnh hành chính thiếu dân chủ. Thiếu dân chủ, dân chủ hình thức, hạn chế là một trong những nguyên nhân buộc thế giới XHCN buộc phải cải tổ, cải cách, đổi mới. Bước vào đổi mới cùng với quyết tâm xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, Đảng ta đã chủ trương đổi mới Nhà nước, đổi mới một cách căn bản tổ chức và phương thức hoạt động của nhà nước. Sau hơn 5 năm tìm tòi, khảo nghiệm với một tinh thần đổi mới tư duy, Đảng đã chủ trương đổi mới Nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền - một hình thức nhà nước có khả năng thực hiện dân chủ tốt nhất hiện nay. Như vậy, chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN nhà nước của dân, do dân và vì dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo là một đột phá trong đổi mới tư duy, là sự vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác về nhà nước đánh dấu một mốc quan trọng trong xây dựng nhà nước XHCN ở nước ta. Sau 30 năm đổi mới, nhà nước pháp quyền XHCN đã hình thành, từng bước hoàn thiện và trên thực tế đã có những tác dụng tích cực thúc đẩy sự phát triển của đất nước, phát huy quyền dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân. Tuy nhiên, xây dựng nhà nước pháp quyền đối với nước ta là vấn đề mới mẻ, vả lại đây là vấn đề phức tạp, nhạy cảm vì vậy cho đến hiện nay, “xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”(16) vẫn là nhiệm vụ trước mắt đối với nước ta. Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN - cơ sở kinh tế cho nhà nước pháp quyền XHCN. Theo nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, kinh tế quyết định chính trị, bản chất nhà nước do cơ sở kinh tế trên đó nhà nước tồn tại quy định. Vậy cơ sở kinh tế nào để nhà nước kiểu mới vừa là sự thống trị chính trị của giai cấp công nhân, vừa phát huy được quyền dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác - Ph.Ăngghen chủ trương xóa bỏ chế độ tư hữu và thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất(17). Tuy nhiên C.Mác - Ph.Ăngghen đề xuất cơ sở kinh tế đó là gợi ý cho những nước tư bản phát triển cao đi lên chủ nghĩa xã xã hội. Nhưng sau Công xã Pari những nước đi lên CNXH đều có xuất phát điểm thấp, ngay Nga cũng chỉ là nước tư bản trung bình, thậm chí, như V.I.Lênin đã chỉ ra, còn lạc hậu hơn nhiều nước tư bản láng giềng khác. Quá trình lãnh đạo cách mạng Nga xây dựng nhà nước kiểu mới (chính quyền Xôviết) sau những khó khăn và tổn thất do phải vận dụng chính sách cộng sản thời chiến, V.I.Lênin đã đề xuất cơ sở kinh tế cho phù hợp với nước Nga là nền kinh tế nhiều thành phần (chính sách kinh tế mới - NEP, 1921), nhưng sau khi V.I.Lênin mất, chính sách đó bị phủ nhận. Dưới sự lãnh đạo của Xtalin, vào những năm 30 của thế kỷ XX, Liên Xô đã thiết lập mô hình xã hội XHCN đầu tiên trên thế giới, mô hình dựa trên nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung thuần nhất XHCN. Mô hình đó lại được coi là mô hình duy nhất của CNXH áp đặt một cách phổ biến cho các nước đi lên CNXH. Thực tế lịch sử đã chỉ ra rằng nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp “thuần nhất XHCN” được áp đặt một cách giáo điều, cứng nhắc, chủ quan duy ý chí đó không phải là cơ sở của dân chủ XHCN như có thời kỳ đã lầm tưởng. Nhà nước tồn tại trên cơ sở kinh tế đó về thực chất là một hệ thống quan liêu, mệnh lệnh hành chính thiếu dân chủ. Trong nền kinh tế này tính chủ động sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh của người lao động bị hạn chế nghiêm trọng, làm triệt tiêu động lực phát triển kinh tế.
Chuyên chính vô sản
Chuyên chính vô sản hay nền chuyên chính vô sản là một lý thuyết của chủ nghĩa Marx là một bộ phận quan trọng của chủ nghĩa cộng sản khoa học theo đó chuyên chính vô sản là việc giai cấp công nhân nắm quyền lực nhà nước và sử dụng quyền lực nhà nước trấn áp giai cấp tư sản để tiến hành xây dựng một xã hội không giai cấp. Đây là sự thống trị về chính trị của giai cấp công nhân với chức năng thực hiện dân chủ đối với nhân dân, tổ chức xây dựng và bảo vệ chế độ mới, chuyên chính với những phần tử thù địch, chống lại nhân dân. Chuyên chính vô sản được những người cộng sản cho là một trong những tư tưởng đặc sắc và trọng yếu nhất của chủ nghĩa Marx về vấn đề Nhà nước, là đỉnh cao của vai trò cách mạng của giai cấp vô sản trong lịch sử và là sự phát triển của Lý luận về Nhà nước mà Karl Marx đề ra và được những người kế thừa tư tưởng của ông phát triển. Khái niệm Chuyên chính vô sản lần đầu xuất hiện trong loạt bài Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848 - 1850 của Marx xuất bản lần đầu năm 1850.
Sau khi chủ tịch Ủy ban Olympic Quốc Tế Jacques Rogge công bố Tokyo sẽ đăng cai tổ chức Thế vận hội mùa hè 2020 và Paralympic Games với lí do: “Tokyo chiếm ưu thế trong việc xây dựng một công trình với chất lượng xuất sắc.” Liên đoàn Thể thao Nhật Bản đã chọn thiết kế của KTS Zaha Hadid cho công trình quy mô này. Đây là nơi sẽ diễn ra các sự kiện thể thao chính, cũng như lễ khai mạc và bế mạc của Tokyo Olympic 2020 và Paralympic Games. Sân vận động quốc gia mới nằm gần Shinjuku, với thiết kế mái vòm có thể linh hoạt mở ra thu vào và sức chứa lên khoảng 80.000 người. Đặc biệt, có thể di chuyển khán đài gần hơn về phía sân bóng đá, thiết kế này cho phép sân vận động có thể cùng lúc tổ chức nhiều sự kiện văn hóa, thể thao khác nhau. Theo dự kiến, sân vận động cũ được xây dựng từ Olympic 1964 sẽ bị phá bỏ vào tháng 10/2015 và sẽ hoàn thành công trình mới khi mùa giải bóng bầu dục quốc tế năm 2019 bắt đầu. Đây là bản thiết kế được lựa chọn gắt gao bởi KTS Tadao Ando. Ông nhận xét đây là một thiết kế năng động, thể hiện rõ nét những thông điệp mà Nhật Bản muốn nhắn gửi ra Thế Giới, ông còn tin chắc rằng sân vận động này sẽ trở thành đền đài thể thao của thế giới trong 100 năm tới.
Sân vận động Quốc gia Nhật Bản
Sân vận động Quốc gia Nhật Bản (国立競技場 (Quốc lập Cạnh kỹ trường), Kokuritsu kyōgijō), trước đây gọi là Sân vận động Quốc gia Mới, tên chính thức là Sân vận động Quốc gia, là một sân vận động đa năng được sử dụng chủ yếu cho bóng đá ở Kasumigaoka, Shinjuku, Tokyo, Nhật Bản. Sân vận động sẽ đóng vai trò là sân vận động chính cho lễ khai mạc và bế mạc, cũng như địa điểm cho các nội dung thi đấu điền kinh tại Thế vận hội Mùa hè 2020 và Thế vận hội Người khuyết tật Mùa hè 2020 vào năm 2021. Việc phá bỏ Sân vận động Quốc gia cũ đã được hoàn thành vào tháng 5 năm 2015, cho phép việc xây dựng sân vận động mới bắt đầu vào ngày 11 tháng 12 năm 2016. Các kế hoạch ban đầu cho sân vận động mới đã bị Thủ tướng Nhật Bản Abe Shinzō hủy bỏ vào tháng 7 năm 2015, người đã công bố một sự phản kháng sau một cuộc phản đối kịch liệt vì chi phí xây dựng tăng lên. Kết quả là thiết kế mới chưa sẵn sàng cho Giải vô địch bóng bầu dục thế giới 2019, như dự định ban đầu.
Nghe đến kiến trúc phần mềm (KTPM), bạn có hiểu được đây là thuật ngữ đề cập đến khía cạnh nào trong ngành công nghệ thông tin không? Nếu câu trả lời là “Không”, hãy theo dõi bài viết dưới đây. Got It sẽ cùng bạn tìm hiểu những kiến thức cơ bản về khái niệm này.Bạn đang xem: Kiến trúc phần mềm là gì. Một phần mềm (software) được tạo nên bởi rất nhiều các thành phần khác nhau. Mỗi thành phần lại nắm một vai trò và nhiệm vụ cụ thể. Để biết cách xây dựng, thay đổi, hay nâng cấp software như thế nào, chúng ta cần đến KTPM. Vậy, ta có thể hiểu, kiến trúc phần mềm (Software Architecture) là kiến trúc giúp các Software Engineer dễ dàng hình dung các thành phần của phần mềm và cách chúng móc xích để tạo nên sản phẩm. KTPM đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng, hiệu quả vận hành và sự thành công của một sản phẩm phần mềm. Nếu không nắm chắc và liên tục rà soát, xem xét lỗ hổng trong KTPM, rồi đưa ra những biện pháp cải thiện phù hợp, các developer sẽ dễ gặp phải những hậu quả nghiêm trọng như phần mềm bị hack, vận hành kém,…. Hiện nay, có nhiều mẫu KT được sử dụng để xây dựng phần mềm. KTPM không bị bó buộc trong một mẫu nhất định. Thay vào đó, các Engineer sẽ kết hợp nhiều mẫu kiến trúc để tạo nên một hệ thống hoàn chỉnh. Mẫu KTPM này thường được sử dụng trong các hệ thống có thể được phân tách thành các nhóm gồm nhiều công việc nhỏ. Đặc điểm của mẫu này là:. Mẫu KT hướng sự kiện được sử dụng nhiều cho các sản phẩm phần mềm có khả năng scale (mở rộng quy mô) mạnh mẽ. Mẫu KTPM này rất dễ sử dụng. Dù là xây dựng các phần mềm nhỏ, đơn giản hay các phần mềm lớn, phức tạp, Engineer đều có thể cân nhắc sử dụng mẫu này. KT hướng sự kiện được tạo thành từ các thành phần xử lý sự kiện (event processing components) giúp nhận và xử lý các sự kiện một cách không đồng bộ. Đây là một mô hình KT dựa trên việc phân chia công việc cho một ứng dụng hoặc hệ thống thành các đối tượng có thể tái sử dụng và tự vận hành. KT hướng đối tượng xem một hệ thống phần mềm như một tập hợp các thực thể được gọi là các đối tượng. Bài viết đã giới thiệu những thông tin cơ bản về Software Architecture và các mẫu kiến trúc phổ biến nhất hiện nay. Từ đó, bạn sẽ có cái nhìn tổng quát về kiến trúc phần mềm. Và bắt đầu hành trình trở thành Software Architect. Hãy để lại bình luận bên dưới nếu bạn cần giải đáp các kiến thức về IT nhé. Nếu bạn quan tâm, hãy xem các vị trí đang tuyển dụng của Got It tại: bit.ly/gotit-hanoi và đọc thêm về quy trình tuyển dụng tại đây.
Kiến trúc phần mềm
Kiến trúc phần mềm của một chương trình máy tính hay một hệ thống tính toán là cấu trúc của các thành phần trong hệ thống đó. Kiến trúc phần mềm bao gồm các phần tử phần mềm, các thuộc tính và mối quan hệ giữa chúng. Ngoài ra, thuật ngữ "kiến trúc phần mềm" cũng đề cập đến các tài liệu kiến trúc phần mềm của một hệ thống, thuận tiện cho việc trao đổi thông tin giữa các thành viên trong một dự án. Kiến trúc phần mềm giúp việc quyết định ở mức cao trong thiết kế phần mềm dễ dàng hơn và cho phép tái sử dụng các thành phần và mẫu thiết kế của các dự án. Lĩnh vực khoa học máy tính trải qua sự kết hợp các vấn đề cùng với sự phức tạp của cấu trúc. Lúc đầu, sự phức tạp được giải quyết bởi người phát triển bằng cách lựa chọn các cấu trúc dữ liệu đúng đắn, phát triển các thuật toán và áp dụng các thuật toán để chia nhỏ các vấn đề. Thuật ngữ kiến trúc phần mềm liên quan đến sự mới mẻ của ngành công nghiệp này, nhưng nguyên tắc cơ bản của nó đã được áp dụng bởi các chuyên gia tiên phong trong ngành công nghệ phần mềm từ những năm 1980.
Nhắc đến Kiến trúc Cổ điển và Tân cổ điển, chắc hẳn ai cũng sẽ nghĩ ngay đến đặc trưng là hệ thống trụ cột bề thế hay còn gọi là thức cột. Các thức cột này có nguồn gốc từ Hy Lạp cổ đại với 3 loại cột cơ bản bao gồm: cột Doric, Ionic và Corinth. Sự kế thừa và phát triển của hai thức cột La Mã: thức cột Tuscan và thức cột Composite2.1. Thức cột Toscan – hậu thân của thức cột Doric2.2. Các thức cột Hy Lạp và La Mã được ứng dụng trong thiết kế kiến trúc ngày nay như thế nào?3.1. Sử dụng thức cột Doric cho các công trình tân cổ điển3.2. Sử dụng thức cột Corinth cho các công trình biệt thự cổ điển. Thức cột là hệ thống tỷ lệ và hình thức trang trí cột, là cách người Hy Lạp cổ đại tìm kiếm đến cái đẹp lý tưởng. Những thức cột Hy Lạp đã mang đến cho kiến trúc một hình thức, một sức sống, chịu đựng được thử thách của thời gian, biểu trưng cho vẻ đẹp trong sáng, khỏe mạnh và tinh tế của kiến trúc cổ điển. Thức cột Hy Lạp được xem như biểu tượng của kiến trúc cổ điển. Có 3 loại thức cột cơ bản trong kiến trúc Hi Lạp: cột Doric, cột Lonic và cột Corinth. Sau đó đến thời đế chế La Mã đã phát triển và sáng tạo thêm 2 thức cột nữa đó là cột Tuscan là loại đơn giản hơn cột Doric và cột Composte là cột tổng hợp có nhiều hoa văn hơn cột Corinth. Thức cột Doric là một trong 3 cột cơ bản và được sử dụng nhiều nhất trong hệ thống thức cột cổ điển của kiến trúc Hy Lạp cổ đại, hai cột còn lại là Ionic và Corinth. Thức cột Doric được xem là thức cột được tạo ra đầu tiên, vào khoảng thế kỉ 7 trước Công nguyên và hoàn thiện vào thế kỷ 5 và được sử dụng ở đền Parthenon và đền Propylaea ở Athena, Hy Lạp. Thức cột Doric do người Dorian sáng tạo ra, sau đó phát triển mạnh mẽ ở Peloponnesus, miền nam của Ý và Sicilia, ngược lại với thức lonic, vốn phát triển ở lonia, ngày nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ. Có những vùng mà người ta có thể tìm thấy cả hai loại cột như khu Acropolis ở thủ đô Athena được xây dựng với cả 2 loại cột. Để tham khảo chi tiết mẫu Biệt thự đẹp 2 tầng Tân cổ điển với hệ thức cột Doric khỏe khoắn ở trên, mời quý độc giả click vào đây. Thức cột Doric, có hậu thân là thức cột Toscan, là thức cột cổ nhất và đơn giản nhất trong hệ thống các thức cột cổ điển. Thức này được hình thành từ một trụ thẳng đứng phình to ở đáy. Nói chung, thức cột này không có phần đế cột (base) lẫn không có phần đầu cột (capital). Vẻ đẹp thức cột này thường được so sánh với vẻ đẹp khỏe mạnh của người đàn ông cường tráng, do nó được sử dụng ở tầng dưới cùng của đấu trường Coliseum và có khả năng chịu lực cao nhất. Tỷ lệ đường kính cột trên chiều cao cột khoảng 1:4. Trong kiến trúc La Mã, thức cột Doric ít được sử dụng trong các công trình công cộng hơn kiến trúc Hy Lạp, có lẽ vì người La Mã thích vẻ đẹp giàu sang và tinh tế của các thức cột Ionicvà thức cột Corinthian. Và vì vậy, trong phiên bản của kiến trúc La Mã, thức cột Doric thường có một vài sửa đổi như thêm phần đế cột và một vài chi tiết ở đầu cột. Thức cột Ionic mang dáng dấp nữ tính, mảnh dẻ và giàu tính trang trí hơn cột Doric. Nguồn gốc cột Ionic làIonia, thuộc địa của Hy Lạp. Cột Ionic có 24 gờ sống đứng trong khi cột Doric chỉ có 20 gờ, tỷ lệ đường kính cột trên chiều cao cột là 1:9. Ngoài ra, cột này có thêm đế cột (base) ở phía dưới và đầu cột có hình đệm nhỏ, phía trên có hình xoắn ốc loe ra rồi cuộn vào trong (volute). Các dầm ngang của cột Ionic được phân vị theo chiều ngang thành ba dải. Thức cột Lonic ra đời từ thế kỷ VI trước CN, bắt nguồn từ một vùng duyên hải miền Trung Thổ Nhĩ Kỳ gọi là Lonia, nơi có nhiều khu định cư Hi Lạp cổ đại. Bên cạnh đó Lonia là vùng bao gồm bở biển phía Tây Nam của Hy Lạp và các hòn đảo của vùng Tiểu Á, nơi mà người Hi Lạp định cư và thổ ngữ của người lonia được sử dụng. Không giống thức cột Doric, thức cột Ionic đặt trên phần đế và có phần bệ đỡ cột (stylobate) nằm giữa thân cột và đế cột. Đầu cột Ionic có đặc điểm gồm hai vòng cuốn xoắn ốc (volute) được gắn trên đầu cột được trang trí gờ chỉ. Đầu cột được trang trí với các họa tiết khắc chìm. Khởi đầu, phần cuốn ốc này thường nằm trên một mặt phẳng, sau này được uốn cong ra ngoài ở các góc. Đặc điểm này làm cột Ionic trông mềm mại hơn cột Docric, người quan sát có thể quan sát được cả từ mặt đứng hoặc mặt bên của cột. Thức cột Corinth ra đời sau hai cột trên, vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, có đường nét mảnh mai, giàu trang trí, đầu cột có nhiều chi tiết hoa lệ, giống như một lẵng hoa kết hợp cùng với mấy tầng là phiên thảo diệp (acanthe). Thức cột này do kiến trúc sư Callimachus sáng tạo ra. Cột này có ưu điểm hơn hai cột trên là đối xứng nhiều chiều và có thể cảm nhận được trong không gian. Có thể thấy công trình sử dụng loại cột này tại đền Olympeion ở Athena và đền Apollo ở Bassae. Cái tên cột Corinthian có từ tên của một thành phố ở Hi Lạp là Corinth, mặc dù lần đầu được xuất hiện và sử dụng rộng rĩa là ở Athens. Mặc dù có nguồn gốc từ Hi Lạp, cột Corinthian thực sự hiếm khi được sử dụng tại Hi Lạp, nó được đưa vào các kiến trúc của La Mã, như đền Mars Ultor trong hệ thống án tòa Augustus, ở Maison Careé Gaul phía Nam, ở đền bậc đài vòng ở Vienne. Xem chi tiết thông tin công trình Biệt thự Lâu đài 2 tầng 1 tum phong cách Châu Âu sang trọng, bề thế tại Đông Anh - Hà Nội tại đây. Đây là loại thức cột hoa mĩ nhất và tỉ mỉ, công phu nhất với những ránh nhỏ trên thân cột. Đầu cột được trang trí cầu kỳ bằng các chi tiết hoa lá, các lá là các loại lá phiến thảo hình xoắn ốc đậm chất thiên nhiên. Cột có chiều cao bằng 10 lần đường kính của phần đầu cột. Giống như thức cột Lonic, cột Corinthian phần đế có bệ đỡ rất kiêu sa và kì vĩ, phù hợp sử dụng cho các mẫu lâu đài cổ điển tráng lệ. Được hình thành và sáng tạo từ thức cột Doric nhưng có những ưu thế được xem là phù hợp hơn với các công trình bình thường và có thể áp dụng rộng rãi hơn: khỏe khoắn, bình dị, đơn giản. So với cột Doric, cột Toscan được xây dựng và thiết kế mảnh mai hơn, nhỏ hơn. Ngoài ra trục cột Toscan thường trơn tru, nhẵn bóng chứ không có các đường sáo (rãnh) như thức cột Doric. Các cột Tuscan còn được gọi là các cột Toscany, đôi khi được gọi là Roman Doric hoặc Carpenter Doric vì những điểm tương đồng. Từ thứ cột Doric, người La Mã tạo nên thức Toscan gây được ấn tượng chịu tải trọng ổn định nhờ lược bỏ hết các khía của thức Doric. Đôi khi cột Toscan còn có thêm chân đế. Ngày nay thức cột Toscan thường được vận dụng trong các công trình tân cổ điển đơn giản. Đến cuối thời Cộng hòa, Roman tạo ra thức cột đậm chất diêm dúa và tỉ mỉ, đó là cột Composite là một kiểu cột được thiết kế theo kiểu La Mã kết hợp giữa thức cột Lonic và Corithian Hi Lạp. Các yếu tố trang trí lá của phong cách Corinthian kết hợp với các thiết kế cuộn (volute) đặc trưng cho phong cách Ionic làm cho cột Composite trang trí công phu và tỉ mỉ hơn các cột khác, nên các cột Composite đôi khi có bóng dáng trong kiến trúc xa hoa có từ thế kỷ 17. Trong kiến trúc đương đại, cột phức hợp là thuật ngữ có thể được sử dụng để mô tả bất kỳ cột kiểu nào được đúc từ vật liệu tổng hợp nhân tạo như sợi thủy tinh hoặc nhựa polymer, đôi khi được được gia cố bằng kim loại. Hiện nay thức cột Composite có lẽ là chi tiết kiến trúc phổ biến nhất khi thiết kế và xây dựng các công trình kiến trúc cổ điển, những công trình cổ điển càng lớn như lâu đài, cung điện thường sử dụng thức cột phức hợp này để tăng sự sang trọng và đẳng cấp. Từ khi kiến trúc Châu Âu xâm nhập vào nền kiến trúc Việt Nam đã tạo nên một sư ảnh hưởng vô cùng lớn về sau này với sự ra đời hàng loạt của các công trình công cộng, công trình dân dụng được thiết kế và xây dựng theo phong cách kiến trúc tân cổ điển và cổ điển. Một trong những chi tiết kiến trúc được thể hiện thành công nhất trong các công trình đó là chi tiết thức cột với sự khắc họa ngày càng khéo léo và linh hoạt. Ra đời sau kiến trúc cổ điển, kiến trúc tân cổ điển kết hợp chặt chẽ giữa kiến trúc cổ điển và hiện đại, lược bỏ những chi tiết trang trí rườm rà phức tạp của cổ điển nhưng vẫn đảm bảo sự mềm mại duyên dáng không nhàm chán, cứng nhắc như kiến trúc hiện đại, vì thế sự lựa chọn thức cột cổ điển Doric Hi Lạp cho các công trình Biệt thự Tân cổ điển là phù hợp nhất, vừa đơn giản gọn gàng vừa uyển chuyển, khỏe khoắn. Khác với sự đơn giản, bình dị trong kiến trúc tân cổ điển, những chi tiết trong kiến trúc cổ điển luôn tỉ mỉ và công phu đòi hỏi sự phức tạp trong đó, vì vậy, lựa chọn thức cột Corinth cho các công trình cổ điển mới phù hợp và tương xứng với đặc điểm kiến trúc. GỬI YÊU CẦU TƯ VẤNYêu cầu tư vấn của bạn sẽ được gửi tới các chuyên gia của KIẾN TRÚC APOLLO VIỆT, Chúng tôi sẽ trả lời sớm nhất có thể thông qua Email, điện thoại.Họ tên Email Số điện thoạiBạn quan tâm---Thiết kế biệt thựThiết kế nhà phốThiết kế nội thấtNội dung yêu cầu tư vấn Gợi ý viết yêu cầu: Địa chỉ khu đất, diện tích đất, mặt tiền, chiều dài. Loại hình bạn lựa chọn (biệt thự, nhà phố …) Bạn định xây mấy tầng. Mỗi tầng bạn yêu cầu các phòng nào, không gian nào. Số tiền dự kiến .Gửi yêu cầu
Thức cột Doric
Thức cột Doric là một trong 3 cột cơ bản và được sử dụng nhiều nhất trong hệ thống thức cột cổ điển của kiến trúc Hy Lạp cổ đại, hai cột còn lại là Ionic và Corinth. Thức cột Doric được xem là thức cột được tạo ra đầu tiên, vào khoảng thế kỉ 4 trước Công nguyên và hoàn thiện vào thế kỷ 5 và được sử dụng ở đền Parthenon và đền Propylaea ở Athena, Hy Lạp. Thức cột Doric do người Dorian sáng tạo ra, sau đó phát triển mạnh ở Peloponnesus (Πελοπόννησος), miền nam của Ý và Sicilia; ngược lại với thức Ionic, vốn phát triển ở Ionia, ngày nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ. Có những vùng mà người ta có thể tìm thấy cả hai loại cột như khu Acropolis ở thủ đô Athena được xây dựng với cả hai loại cột. Từ nửa sau thế kỷ 6 trước Công nguyên, người Hy Lạp dùng thức Doric với tỷ lệ đường kính cột trên chiều cao cột là 1:5 đến 1:6. Với dáng vẻ khỏe mạnh và vững chắc của mình, cột Doric thể hiện một sức mạnh và vẻ đẹp nam tính, trong khi thức cột Ionic phản ánh sự duyên dáng và vẻ đẹp mềm mại của người phụ nữ.
Bài viết này sẽ giúp bạn có cái nhìn toàn cảnh những gì đang xảy ra ngay hiện tại với con mắt ‘thịt’ mà không cần phải có khả năng thần thông nào cả. Tuy nhiên, để hiểu rõ nó bạn cần đọc với cái đầu rộng mở nhất và quan sát xung quanh, kiểm nghiệm lại xem có đúng những điều này đang xảy ra hay không. Như bài trước chúng ta đã cùng bàn luận, bản chất của vũ trụ là sự phát triển, tiến hóa và chuyển dịch không ngừng nghỉ. Mọi vật chất trong vũ trụ này đều tiến hóa từ đơn giản tới phức tạp qua các vòng xoắn ốc khác nhau theo thời gian, với mỗi chu kỳ là một vòng xoắn ốc khác nhau. Trong quá trình tiến hóa này, với mỗi vòng xoáy trôn ốc luôn có sự dịch chuyển liên tục của các trường năng lượng, từ mộc ➡️ hỏa ➡️ thổ ➡️ kim ➡️ thủy theo chiều dương, tức là mở rộng phát triển rồi tới quá trình tiếp theo là thủy➡️ kim ➡️ thổ ➡️ hỏa ➡️ mộc với chiều âm, tức là co vào, hoại rồi diệt vong. Con người chúng ta là sinh mệnh sống trên Trái Đất, vì vậy tất cả mọi chuyển động của Trái Đất, cũng như hệ mặt trời đều ảnh hưởng tới các sinh mệnh sống trên đó, qua rất nhiều cấp độ và chu kỳ lớn nhỏ khác nhau. Chu kỳ lớn nhất của Hệ mặt trời chính là sự quay vòng của hệ mặt trời quanh dải ngân hà, với chu kỳ kéo dài khoảng từ 230 – 250 triệu năm. Trong chu kỳ này hệ mặt trời chúng ta cũng bị ảnh hưởng bởi các dạng năng lượng biến đổi liên tục của dải ngân hà như trên đó là mộc➡️ hỏa ➡️ thổ ➡️ kim ➡️ thủy rồi thủy ➡️ kim ➡️ thổ ➡️ hỏa ➡️ mộc. Trong chu kỳ này sẽ có khoảng 100-120 triệu năm thuộc dạng năng lượng dương, và tương ứng thời gian còn lại là dạng năng lượng âm. Trong đó lại đều đặn từ 20-50 năm là thời điểm một dạng năng lượng ngũ hành chiếm ưu thế và biến đổi liên tục theo chu trình như trên. Với một giai đoạn chu kỳ như vậy, mức năng lượng biến đổi khác nhau sẽ ảnh hưởng đến hệ mặt trời và Trái Đất khác nhau, từ đó dẫn đến thay đổi ở mọi khía cạnh của Trái Đất. Sự thay đổi lớn đầu tiên của Trái Đất chính là bề mặt các lục địa sẽ biến đổi khác nhau, theo các mẫu hình học thiêng liêng. Khi có sự thay đổi năng lượng, các mẫu hình học thiêng liên thay đổi và các lục địa dịch chuyển theo tương ứng, từ đó tạo ra núi lửa, động đất, sóng thần – sự trồi lên cũng như sụt lún của các lục địa và đại dương. Thay đổi năng lượng cũng tạo ra sự biến đổi DNA của các sinh vật trên Trái Đất, với mỗi dải DNA chính là các mẫu hình học thiêng liêng hình lục giác khác nhau (xem hình cuối bài viết), từ đó tạo ra các loài mới khác nhau. Với cuối mỗi giai đoạn biến đổi theo chu kỳ này lại xảy ra một thời kỳ được các nhà khoa học gọi là đại tuyệt chủng. Thực tế nó không phải là tuyệt chủng mà chỉ là một giai đoạn tiến hóa theo nấc thang mới cao hơn của tự nhiên, với những loài mới được tạo ra có rung động phù hợp hơn và những loài cũ có rung động không phù hợp sẽ bị đào thải. Sự sống phát triển liên tục theo vòng xoáy trôn ốc đó, ban đầu chỉ với những vi khuẩn sinh vật đơn bào đơn giản, rồi tiếp tục phát triển thành cá, động vật lưỡng cư, bò sát, khủng long, động vật có vú và cuối cùng là con người.Và chúng ta cũng sẽ tiếp tục tiến hóa thành một dạng sinh mệnh mới với rung động cao hơn, thông minh hơn cũng như có nhiều khả năng hơn. Trong giai đoạn rất dài hàng chục triệu năm như vậy, lại có những chu kỳ nhỏ hơn và nhỏ hơn nữa. Khi hệ mặt trời di chuyển quanh dải ngân hà, nó cũng đi theo hình dạng sóng xung quanh đường xích đạo của dải ngân hà. Một chu kỳ như vậy kéo dài khoảng 26000 năm, chính là lịch Long Count của người Maya. Trong mỗi chu kỳ như vậy, Trái Đất lại bị ảnh hưởng bởi mức năng lượng biến đổi từ dương sang âm theo ngũ hành, từ đó xuất hiện 02 chu kỳ lớn đó là chu kỳ nóng lên, ấm lên của Trái Đất và chu kỳ lạnh đi hay kỉ băng hà. Hai chu kỳ này xuất hiện liên tục thay thế lẫn nhau trong suốt giai đoạn lịch sử, tương ứng với các mức năng lượng biến đổi liên tục khác nhau. Điều này có nghĩa là sự nóng lên của Trái Đất hiện nay thực ra chỉ là sự thay đổi năng lượng theo chu kỳ chứ không phải do lượng khí thải nhà kính Co2 con người tạo ra, và sự thật là những hiệp định kêu gọi cắt giảm co2 của các quốc gia không phải là để bảo vệ môi trường mà chỉ là chiêu trò cạnh tranh kinh tế giữa họ mà thôi. Lịch sử cho thấy rằng cứ giai đoạn nào có nhiệt đột bắt đầu thay đổi mạnh, là xảy ra những sự thay đổi của nhiều loài vật khác nhau, là các chu kỳ tiến hóa, tuyệt chủng nhỏ hơn như gần đây nhất có voi Ma-mút và hổ răng kiếm, kèm theo là sự phát triển mạnh mẽ của giống người hiện đại. Trong lịch sử cận đại, mỗi giai đoạn như vậy lại có thay đổi về các hình thức xã hội khác nhau, dẫn tới sự sinh ra hoặc sụp đổ của các đế chế cổ xưa. Như vậy những giai đoạn lịch sử, những hình thức xã hội cũng chỉ là sự biểu hiện của các dạng năng lượng khác nhau, chúng cũng sẽ thay đổi khi đến thời điểm thay đổi. Khi ta hiểu được điều này sẽ có thể biết được quá trình sinh diệt, biến đổi của mọi thứ diễn ra như thế nào. Nhỏ hơn nữa là các chu kỳ của mặt trời và mặt trăng. Theo luật ngũ hành thì mỗi chu kỳ, một năm là một lần thay đổi năng lượng của mặt trời, vì vậy cứ 10 năm là mặt trời lại hoàn thành một chu trình biến đổi năng lượng tuần hoàn. Điều này lý giải nhiều sự việc diễn ra tương tự cứ sau 10 năm, và cũng chỉ có 10 thiên can. Trong 10 năm này năng lượng biến chuyển liên tục giữa mộc – hỏa – thổ – kim – thủy và từng năm tương ứng sẽ có những sự biến đổi lớn tương ứng với dạng năng lượng đó. Những năm thiên về hỏa sẽ là năm xuất hiện nhiều vụ cháy hơn, ánh sáng nhiều hơn, nắng nóng hơn hoặc ngược lại đó là u tối, thời tiết lạnh bất thường. Về con người sẽ ảnh hưởng tới các bệnh tim mạch, thần kinh hoặc trầm cảm. Những năm thiên về thổ sẽ là những năm vật chất lưu chuyển nhiều hơn, tức là kinh tế phát triển hơn hoặc có khủng hoảng kinh tế, hoặc những bệnh liên quan tới tiêu hóa, cơ bắp. Những năm thiên về kim là những năm xuất hiện những sự việc liên quan tới không khí, có thể là gió bão, các bệnh liên quan đến hô hấp, ô nhiễm không khí hoặc những thứ làm không khí tốt hơn. Những năm thiên về thủy là những năm xuất hiện nhiều vấn đề liên quan tới nước, đó là lũ lụt, hạn hán hoặc các bệnh liên quan tới thận, đồ uống. Những năm thiên về mộc là những năm xuất hiện nhiều sự kiện liên quan tới các sinh vật, con người. Có thể đó là năm bầu cử, chiến tranh, thay đổi các vị trí quan trọng trong các quốc gia, hoặc các bệnh tật liên quan tới gan. Trong mỗi năm lại có sự ảnh hưởng bởi mặt trăng, với một năm có 12 chu kỳ của Mặt Trăng. Vì 10 năm mặt trời hoàn thành một chu kỳ lớn và trong đó có 12 chu kỳ mặt trăng một năm, nên con số nhỏ nhất chia hết cho số 10 và 12 chính là số 60. Và 60 chính là vòng quay chu kỳ của 60 năm hoa giáp, là thời điểm kết thúc một vòng quay năng lượng của cả 2 thiên thể này. Chúng ta đều từng nghe rằng ngày 21/12/2012 theo lịch của người Maya là tận thế, thực ra đây chỉ là thời điểm kết thúc chu kỳ dài nhất của họ, gọi là Long Count sau 26000 năm. Năm 2012 là thời điểm Trái Đất chúng ta tiến động thẳng hàng với đường xích đạo của dải ngân hà, và sau năm 2012 này chúng ta chính thức đi vào một trường năng lượng mới, hay một chu kỳ mới của Trái Đất – Hệ mặt trời. Như vậy thời điểm thay đổi năng lượng đã xảy ra từ năm 2012 và ngày càng tăng tốc hơn. Chu kỳ 10 năm mặt trời đầu tiên từ 2012-2022 là giai đoạn thay đổi nền tảng, sau đó giai đoạn 2022-2032 là giai đoạn tăng tốc sự thay đổi nhất và tiếp theo đó là sự thay đổi một cách chậm rãi, đều đặn trong các thập kỷ tiếp theo. Sự kiện này cũng đã từng diễn ra liên tục trong suốt các giai đoạn lịch sử, nửa chu kỳ gần đây nhất, khi hệ mặt trời di chuyển ra điểm xa nhất cách đường xích đạo của dài ngân hà là 13000 năm trước, và đó là thời điểm sụp đổ của nền văn minh Atlantis bằng sự kiện các bạn từng được nghe rất nhiều chính là đại hồng thủy trong kinh thánh. Khi mức năng lượng thay đổi lớn đến cấp độ toàn hệ mặt trời, hình dạng của tất cả các thiên thể sẽ thay đổi. Trong vài năm gần đây bạn có thể thấy xuất hiện nhiều cơn bão mặt trời hơn, nhiều chấm đen khác nhau trên mặt trời và đó là sự thay đổi của năng lượng nguồn trên hệ mặt trời này. Riêng với Trái Đất, nó sẽ làm thay đổi hình dạng sao cho phù hợp với các trường năng lượng theo hình học thiêng liêng mới. Điều này có nghĩa là vỏ trái đất sẽ dịch chuyển, có những nơi sẽ xuất hiện núi cao và một số nơi chìm xuống thành đại dương. Đó là lý do tại sao chúng ta không tìm được Atlantis trong thời điểm hiện nay vì nền văn minh đó đang nằm dưới đáy Đại Tây Dương. Trong giai đoạn dịch chuyển này, sẽ xảy ra nhiều vụ động đất lớn nhỏ khắp thế giới, kèm theo đó là núi lửa và sóng thần. Năm 2020 là bước ngoặt đánh dấu thay đổi năng lượng lớn nhất, với hiện tượng tất cả các núi lửa trên thế giới hoạt động trở lại, kể cả những núi lửa đã ngủ im hàng chục nghìn năm như ở Indonesia, Mỹ, Alaska, Hàn Quốc,…. Năm nay chúng ta cũng thấy động đất xảy ra ở khắp nơi trên thế giới trên tất cả các lục địa, từ nhỏ như 4-5 độ richter đến những trận động đất lớn vừa rồi ở Mexico là khoảng 7 độ richter. Sự thay đổi này sẽ xảy ra nhiều hơn và mức độ cao hơn trong vài năm tiếp theo, có thể dẫn tới những trận động đất và sóng thần còn lớn hơn cả những gì đã xảy ra tại Nhật Bản năm 2011. Sự thay đổi năng lượng tất nhiên cũng gây ra ảnh hưởng tới khí hậu, trong giai đoạn trái đất nóng lên này mực nước biển sẽ dâng cao hơn và nhiều cơn bão cũng như lũ lụt hơn. Theo nguyên tắc cân bằng thì những cơn bão này sẽ làm sạch năng lượng ở những khu vực có năng lượng tiêu cực lớn, thường đó là những thành phố lớn trên thế giới hoặc các khu vực thiên nhiên bị con người tàn phá nhiều nhất. Khi mức năng lượng toàn bộ Trái Đất thay đổi, nó cũng ảnh hưởng tới trường năng lượng của mỗi các nhân. Ví dụ vào những ngày năng lượng thay đổi nhiều như trăng rằm thì nhiều người đau đầu, hoặc những ngày tần số Schumann thay đổi cũng gây ra hiện tượng tương tự. Trong 08 năm vừa qua năng lượng của Trái Đất đã thay đổi tương đối, và sẽ tăng tốc trong 10 năm tiếp theo. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể thấy rõ ràng năng lượng tăng lên đã làm cho nhận thức con người tăng lên tương ứng. Khi nhận thức con người thay đổi, thì cơ cấu hệ thống của xã hội cũng thay đổi, những hệ thống kinh tế – xã hội cũ sẽ bị đào thải để tiến hóa thành một cơ cấu kinh tế xã hội cao hơn. Biểu hiện gần đây nhất chính là việc Donald Trump đắc cử tổng thống vào năm 2016, và điều này làm cho hệ thống xã hội – kinh tế – chính trị toàn cầu thay đổi chóng mặt từ thời điểm này. Bạn cần hiểu rằng, tất cả những mối quan hệ kinh tế, dòng lưu chuyển hàng hóa là một dạng biểu hiện của năng lượng, khi năng lượng thay đổi thì cơ cấu, mối quan hệ của các quốc gia sẽ thay đổi, vì vậy mới xảy ra chiến tranh kinh tế Mỹ – Trung, và dẫn tới thay đổi toàn bộ cấu hình kinh tế của thế giới. Khi năng lượng bắt đầu tăng lên nhanh hơn (chính xác là từ cuối 2019) thì sẽ gây ảnh hưởng nhiều hơn tới các cấu hình kinh tế xã hội này, và sự điều chỉnh không những năm trong vấn đề kinh tế, mà còn là các biên giới quốc gia với phương tiện là những cuộc chiến tranh, nhất là các cuộc chiến toàn cầu như đã từng xảy ra trong lịch sử. Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ sắp tới sẽ là bước ngoặt của giai đoạn này, với khả năng cao là Donald J Trump sẽ tái đắc cử. Khi đó những người cầm đầu hệ thống cũ – Cabal sẽ dùng đến vũ khí cuối cùng đó chính là các cuộc chiến tranh để lật đổ, và nhiều khả năng sẽ bắt đầu tại Mỹ hoặc Trung Quốc. Điều này có nghĩa là, sẽ xảy ra rất nhiều kịch bản gọi là đen tối với loài người, từ thiên tai, dịch bệnh cho đến chiến tranh. Nhưng những người vượt qua được sẽ bước vào giai đoạn mới, gọi là Thời đại vàng – The Golden Age. Qua năm 2012 là thời điểm chúng ta bước sang một vòng xoáy trôn ốc mới sau 26000 năm, cứ sau một khoảng thời gian như vậy thì Trái Đất hoàn thành một chu kỳ và rung động lên một nấc thang mới, cùng với tất cả những sinh vật, sinh mệnh sống trên bề mặt của Trái Đất. Khi mức năng lượng được thay đổi đột ngột trong thời gian ngắn, chỉ cần vài thế hệ là có thể tạo ra được một loài mới tiến hóa cao hơn. Khi đó mức năng lượng cao hơn sẽ tạo ra dải DNA có kết cấu phức tạp hơn, mở khóa được những chuỗi DNA còn đang nằm im trong mỗi chúng ta để có thể tiến hóa thành chủng loài cao cấp hơn. Sự tiến hóa này không giống như thuyết tiến hóa của Darwin thường mô tả là các biến dị tự nhiên của DNA, mà nó luôn xảy ra theo đúng các chu kỳ tự nhiên của hệ mặt trời và Trái Đất, dựa vào sự thay đổi năng lượng theo chu kỳ đó và nâng cấp cho các sinh vật trên Trái Đất thông qua ánh sáng của mặt trời và mặt trăng. Điều này lý giải tại sao những đứa trẻ được sinh trong thời gian gần đây có kích thước trán, não bộ lớn hơn so với người trưởng thành. Chúng cũng thông minh hơn, dễ tiếp thu hơn nên các trường học, các phương pháp giáo dục hiện nay thường gắn nhãn chúng là tăng động, tự kỷ, dễ mất tập trung. Những đứa trẻ này chỉ là tiếp thu quá nhanh nên chúng không muốn nghe lại những thứ chúng đã biết rồi, và những linh hồn bên trong những đứa bé đó cũng là những linh hồn phát triển hơn, có rung động cao sẵn tự nhiên.
Lịch sử tiến hóa của sự sống
Lịch sử tiến hóa của sự sống trên Trái Đất là quá trình mà cả sinh vật sống lẫn sinh vật hóa thạch tiến hóa kể từ khi sự sống xuất hiện trên hành tinh, cho tới hiện tại. Trái Đất hình thành khoảng 4,5 tỉ năm trước và các bằng chứng cho thấy sự sống hình thành trước 3,7 tỉ năm. Mặc dù có một số bằng chứng gợi ra rằng sự sống xuất hiện sớm tận 4,1 tới 4,28 tỉ năm trước, bằng chứng này vẫn gây tranh cãi do các cơ chế phi sinh học có thể đã tạo nên những hóa thạch này. Sự tương đồng giữa tất cả các sinh vật ngày nay ám chỉ rằng sự tồn tại của một tổ tiên chung mà tất cả các sinh vật đã biết đều tách ra từ nó thông qua quá trình tiến hóa. Ước tính hơn 99 phần trăm tất cả các loài, lên đến hơn năm tỉ loài, từng sinh sống trên Trái Đất đã tuyệt chủng. Các ước tính về số lượng các loài hiện tại của Trái Đất dao động từ 10 triệu tới 14 triệu, trong đó ước tính 1,9 triệu đã được định danh và 1,6 triệu được ghi nhận trong cơ sở dữ liệu trung tâm cho tới hiện tại.
Tâm bệnh hoặc bệnh tâm lý là các rối loạn về chức năng của não bộ, gây ra những thay đổi về suy nghĩ, nhận biết, tâm trạng, tính tình hoặc hành vi của người bệnh. Các thay đổi này không phù hợp với quan niệm bình thường của mọi người. Trong đa số các trường hợp, triệu chứng của bệnh đều tạo ra nhiều khó khăn cho sức khỏe, đời sống và khả năng làm việc của con người.Tâm bệnh đã được biết tới từ nhiều ngàn năm về trước nhưng sự điều trị chưa hữu hiệu lắm. Ngày nay, sự tiến bộ của y khoa học đã giúp hiểu rõ hơn về nguyên nhân của bệnh và các phương thức điều trị. Do đó, đa số người mắc bệnh đã sẵn sàng tìm kiếm điều trị, giúp đỡ. Tâm bệnh và bệnh Thần kinh có giống nhau không?Hai nhóm bệnh đều có nhiều điểm khác nhau nhưng có liên hệ chặt chẽ với nhau.Trong bệnh thần kinh có tổn thương thực thể tại các phần khác nhau của hệ thần kinh như não bộ, tủy sống, dây thần kinh ngoại vi. Người bệnh ít có các hành vi kỳ dị, ý nghĩ bất bình thường nhưng có thể tê liệt nửa người, khó khăn đi đứng, ăn nói. Trong tâm bệnh, các tổn hại thực thể của hệ thần kinh không rõ rệt. Ða số các dấu hiệu bệnh là do rối loạn chức năng của não. Bệnh nhân có thể đi lại bình thường nhưng tâm trạng, hành vi, suy nghĩ của họ đều khác thường.Tâm Bệnh còn được gọi bằng từ “Bệnh Tâm Thần”. Tuy nhiên, khi nói tới “Bệnh Tâm Thần” thì nhiều người hiểu là bệnh Điên. Cho nên các nhà chuyên môn tâm lý học đề nghị danh từ “Tâm Bệnh”, tiếng Anh là “Mental illness” và tiếng Pháp là “Maladie Mentale”. Nguyên nhân nào gây ra tâm bệnh?Nguyên nhân đích thực gây ra một số bệnh tinh thần chưa được biết rõ. Tuy nhiên đa số bệnh là do sự phối hợp của nhiều yếu tố khác nhau, như là:-Sự mất thăng bằng của một vài hóa chất đặc biệt ở não bộ-Di truyền-Ảnh hưởng xấu lên thai nhi khi mẹ có thai hoặc khi sinh đẻ-Tổn thương não bộ vì nhiễm vi khuẩn, chấn thương.-Yếu tố tâm lý như biến cố đau thương, mất mát, bị bạc đãi, lạm dụng, căng thẳng.-Ảnh hưởng hóa chất như lạm dụng thuốc, rượu, do ô nhiễm môi trường. Có bao nhiêu loại Tâm bệnh?Tâm bệnh được phân chia ra làm nhiều loại tùy theo những triệu chứng mà người bệnh diễn tả và các dấu hiệu do quan sát phát hiện. Sau đây là các tâm bệnh thường thấy:-Rối loạn về tâm trạng như bệnh trầm cảm, bệnh lưỡng cực-Lo âu như bệnh hoảng loạn, ám ảnh tự kỷ, ám ảnh sợ hãi-Bệnh liên quan tới nghiện rượu, thuốc cấm, nicotine, caffein-Bệnh rối loạn tinh thần như tâm thần phân liệt-Rối loạn nhận thức như sa sút trí tuệ, mê sảng-Rối loạn hành vi, bạo động, đập phá, lạm dụng-Rối loạn về phát triển như Chậm phát triển trí tuệ. Xin cho biết các dấu hiệu chính của Tâm bệnhRối loạn tinh thần được biểu lộ bằng một số dấu hiệu mà người khác có thể quan sát thấy hoặc các triệu chứng mà bệnh nhân diễn tả. 1- Tâm trạng buồn - Lúc nào người bệnh cũng có vẻ buồn chán, ít cười nói, hay khóc thầm2- Thay đổi tính tìnhNgười bệnh hay cáu kỉnh, bực bội, giận dỗi, than phiền, gây gổ với mọi người3- Giảm quan tâm đến mọi sự việc và mọi ngườiBệnh nhân không còn thích thú và tham gia các sinh hoạt thường lệ, thích sống một mình, tránh các sinh hoạt xã hội, bỏ hoạt động tình dục, nằm lì trong giường, không coi TV, nghe radio, không muốn ra khỏi nhà, bỏ học, bỏ sở làm.4- Lên cân hoặc xuống cânTừ chối ăn uống hoặc ăn quá nhiều, tăng hoặc giảm ký, dấu thức ăn.5- Mất ngủ hoặc ngủ quá nhiều - Thường thường họ khó đi vào giấc ngủ, thức dậy quá sớm, thức giấc giữa đêm, ngủ nhiều ban ngày, nằm thu mình co ro ở góc nhà, hành lang. Một số người lại hay ngủ quá nhiều vào ban đêm.6- Thay đổi tác phong, dáng điệuHọ đi đứng chậm chạp, giảm sinh lực, ít nói hoặc nói nhát gừng, tiếng một.7- Mệt mỏi, hay nẳm vật nằm vạ, ngồi yên một chỗ, không chịu đi ra ngoài, không chăm sóc vệ sinh cá nhân, hay than phiền đau đầu, nhức mình mẩy.8- Cảm thấy trở thành vô dụng, không có giá trị, cho là mình xấu xa, bất bình thường9- Giảm khả năng suy nghĩ, không sáng suốt, hay quên, kém tập trung, dễ bị chia trí.10- Nghĩ tới chuyện ma chay, chết chóc, dọa và có ý định tự tử, tự hủy hoại thân xác11- Có dấu hiệu hoang tưởng, tin là có mà thực ra không có; có ảo giác, ảo tưởng như nghe các âm thanh hoặc nhìn thấy sự vật vô hình.Dấu hiệu thay đổi tùy theo loại bệnh. Nếu có một hay nhiều triệu chứng kể trên, nên tới các nhà chuyên môn để được giúp đỡ, nhất là khi các triệu chứng đó gây ra ảnh hưởng không tốt cho sinh hoạt hàng ngày.Nhận ra bệnh sớm và được trị liệu ngay, các thay đổi khó khăn này có thể hết đi. Tâm bệnh có chữa được không?Bệnh có thể chữa được bằng dược phẩm và các phương thức trị liệu khác. Ai có thể chữa được Tâm bệnh?Các nhà chuyên môn sau đây là những người đóng góp vào việc điều trị và tư vấn, giải tỏa các rối loạn của bệnh nhân. Công việc của mỗi người có khác nhau nhưng tập trung đều là để phục hồi sức khỏe của người bệnh. 1-Bác sĩ Thần Kinh Tâm Trí (Psychiatrist). Ðây là một y khoa bác sĩ có thêm ít nhất 4 năm huấn luyện chuyên môn về tâm bệnh lý, sau khi hoàn tất chương trình đại học y khoa.Các bác sĩ này có thể khám và chẩn đoán tất cả các loại tâm bệnh, biên toa cho thuốc, áp dụng tâm lý trị liệu và nhận bệnh nhân vào bệnh viện để điều trị. Có bác sĩ chuyên về bệnh tâm lý của trẻ em, người cao tuổi, lạm dụng thuốc rượu và bác sĩ tâm lý tổng quát. Ðây là các nhà chuyên môn nghiên cứu khoa học về tâm lý, có học vị tiến sĩ nhưng không phải về y khoa. Họ được huấn luyện về đánh giá, trắc nghiệm tâm lý, tư vấn, điều trị tâm bệnh bằng lời nói với cá nhân hoặc một nhóm bệnh nhân.Họ làm việc tại trung tâm tư vấn, bệnh viện, trường học hoặc tại phòng điều trị tư. Những chuyên viên y tế này đã được huấn luyện về cách phòng chống, điều trị và phục hồi khả năng cho bệnh nhân tâm lý.Họ thực hiện trị liệu cá nhân, nhóm hoặc với thân nhân người bệnh tại trung tâm tư vấn, bệnh viện, trường học, các trung tâm xã hội. Là các nhà chuyên môn đã được huấn luyện về tâm lý trị liệu, có thể tư vấn từng người, đôi vợ chồng hoặc từng nhóm bệnh nhân. Họ cũng hướng dẫn bệnh nhân về các vấn đề liên quan tới chính quyền, cộng đồng và các cơ sở tư nhân khác. 5-Chuyên viên hỗ trợ (Case Managers and Outreach Workers).Các chuyên viên này hành động như người tranh đấu và tư vấn cho bệnh nhân giải quyết các vấn đề phức tạp trong hệ thống y tế, giới thiệu người đang bị bệnh trầm trọng, không nhà ở, không lợi tức. tới các cơ quan chính quyền, cộng đồng để được giúp đỡ trong cuộc sống. Ðôi khi, họ cũng tranh đấu để bảo vệ quyền lợi của người bệnh. Ngoài ra còn các chuyên viên khác như âm nhạc trị liệu, giải trí, hướng dẫn nghề nghiệp . cũng có vai trò hỗ trợ cho việc trị bệnh tâm lý. Bệnh có chữa được bằng dược phẩm không?Có nhiều loại thuốc chuyên biệt để chữa từng loại tâm bệnh. Các thuốc này rất công hiệu nhưng cũng có một số tác dụng phụ không muốn. Do có bệnh nhân cần dùng thuốc theo chỉ định, hướng dẫn của bác sĩ, không tự ý gia giảm liều lượng hoặc ngưng thuốc. Chữa tâm bệnh ở đâu? - Có nhiều cơ sở công hoặc tư nhân chữa tâm bệnh như tại bệnh viện, trung tâm bệnh tâm lý, phòng mạch các nhà chuyên môn tâm lý, phòng tư vấn tại các tổ chức y tế xã hội, các trung tâm sinh hoạt cộng đồng. Xin kể những ngộ nhận về tâm bệnhMột số ngộ nhận về tâm bệnh mà ta cần để ý như:. Người mắc tâm bệnh đều là điên khùng, nguy hiểm, cần phải nhốt riêng.Sự thực: Tâm bệnh không phải là điên, nguy hiểm như nhiều người thưởng nghĩ và họ không đáng để được nhốt riêng.Tuy nhiên, có một số người mắc bệnh tâm lý có thể có khó khăn ứng phó với các điệu kiện sống hàng ngày. Nếu khó khăn trở nên tột độ, họ có thể trở thành nguy hiểm cho chính họ và cho người khác. Chỉ trong trường hợp này họ mới cần ở riêng trong một thời gian ngắn. Người mắc tâm bệnh không bao giờ trở lại bình thường.Sự thực: Với điều trị đúng đắn, giúp đỡ tận tình, bệnh nhân có thể trở lại bình thường và tiếp tục đời sống lành mạnh, sản xuất tốt như mọi người khác. Chỉ nhìn vào mắt là biết người đó bị tâm bệnh.Sự thực: Mặc dù có nhiều dấu hiệu, triệu chứng khi một người mắc tâm bệnh, nhưng chẩn đoán bệnh không phải dễ dàng và cần có sự ước định của các nhà chuyên môn tâm lý. Chỉ có mấy người điên mới đi bác sĩ chuyên về tâm bệnh học để khám và trị bệnh.Sự thực: Mọi người dù ở tuổi nào có khó khăn tinh thần đều có thể và đều nên đi bác sĩ chuyên khoa để được khám nghiệm điều trị. Tìm kiếm và nhận giúp đỡ là điều cần thiết và rất tốt, để tránh bệnh trầm trọng hơn.Ngộ nhận 5. Nếu ai nói đến tự hủy hoại thì chẳng bao giờ thực hiệnSự thực: Nói đến tự tử là điều quan trọng vì những người này thường có các dự định, kế hoạch rồi thực hiện việc tự hủy hoại. Vì thế, cần hỏi họ cho rõ ràng để phòng ngừa chuyện chẳng lành có thể xẩy ra.
Tâm bệnh học
Tâm bệnh học là một ngành nghiên cứu về các bệnh tâm trí, những khổ đau tinh thần và các hành vi bất thường/thích ứng sai. Thuật ngữ này thường được dùng trong ngành tâm thần học – lĩnh vực mà tâm bệnh học được đề cập tới như các quá trình mang tính bệnh lý. Tâm lý học bất thường (abnormal psychology) cũng là một thuật ngữ thường được sử dụng trong lĩnh vực phi y học của tâm lý học. Tuy nhiên nội dung trong mục bài này được viết thiên theo hướng Tâm thần học (Psychiatry) của Hoa Kì, không mang tính đại diên cho tất cả lĩnh vực này; bởi Tâm thần học tại Hoa Kì chịu ảnh hưởng nhiều từ Dược học (thuốc hỗ trợ những khó khăn tâm lý) và Y học, hoặc các liệu pháp tâm lý ngắn hạn (CBT, REBT), trong khi các phân nhánh lâm sàng của Phân tâm học lại là hướng phát triển chính của Tâm bệnh học khu vực châu Âu từ đầu TK 20 tới nay. Có nhiều chuyên ngành khác nhau trong nghiên cứu về các bệnh lý hay khổ đau tinh thần. Đáng chú ý nhất là các nhà tâm thần học và tâm lý học lâm sàng, họ đặc biệt quan tâm tới lĩnh vực này, có thể là trong trị liệu lâm sàng các bệnh tâm thần hoặc nghiên cứu nguồn gốc, sự phát triển và những biểu hiện ra các trạng thái; hay thường là quan tâm tới cả hai mảng.
Trong công nghệ thông tin, Nén dữ liệu (tiếng Anh: Data compression) là việc chuyển định dạng thông tin sử dụng ít bit hơn cách thể hiện ở dữ liệu gốc. Tùy theo dữ liệu có bị thay đổi trước và sau khi giải nén không, người ta chia nén thành hai loại: Nguyên vẹn (lossless) và bị mất dữ liệu (lossy). Nén mất dữ liệu giảm số lượng bit bằng cách xác định các thông tin không cần thiết và loại bỏ chúng. Nén dữ liệu là cần thiết vì giảm được nguồn tài nguyên cũng như dung lượng lưu trữ hay băng thông đường truyền. Tuy nhiên, vì dữ liệu nén cần được giải nén nên sẽ đòi hỏi nhiều phần cứng và xử lý. Các thuật toán nén không mất dữ liệu thường dựa trên giả thuyết dư thừa trong dữ liệu và thể hiện dữ liệu chính xác hơn mà không mất các thông tin. Nén mà không làm mất dữ liệu là khả thi vì tất cả các dữ liệu thực tế đều có dư thừa. Ví dụ một hình ảnh có thể có các vùng màu sắc không thay đổi trong nhiều pixel. Thay vì ghi nhận từng pixel như đỏ, đỏ, đỏ… dữ liệu có thể được ghi là 279 điểm ảnh đỏ liên tiếp. Đây là một ví dụ về run-length encoding; ngoài ra còn có rất nhiều giải thuật khác. – Nén tệp tin: Đây là dạng thức nén truyền thống và thuật toán nén được áp dụng cho từng tệp tin riêng lẻ. Tuy vậy nếu 2 tệp tin giống nhau thì vẫn được nén 2 lần và được ghi 2 lần. Chỉ các byte trùng lắp trong 1 file được loại trừ để giảm kích thước. Tùy dữ liệu nhưng thông thường khả năng giảm sau khi nén chỉ từ 2-3 lần. – Loại trừ trùng lắp file: Đây là dạng thức nén mà thuật toán nén được áp dụng cho nhiều tập tin. Các file giống hệt nhau sẽ chỉ được lưu một lần. Ví dụ một thư điện tử có tệp tin đính kèm được gửi cho 1000 người. Chỉ có một bản đính kèm được lưu và vì vậy có thể giảm khá nhiều. Thông thường có thể giảm từ 5-10 lần so với dữ liệu gốc. Đây là một trong những chuẩn cổ nhất mà hiện nay vẫn sử dụng. Chuẩn này hiện chỉ sử dụng trong các thiết bị DVR rẻ tiền, chất lượng thấp. Không những chất lượng hình ảnh kém, tốn tài nguyên xử lý, cần nhiều dung lượng ổ chứa, và còn hay làm lỗi đường truyền. Chuẩn MPEG là một chuẩn thông dụng. Đã được sử dụng rộng rãi trong hơn một thập kỉ qua. Tuy nhiên, kích thước file lớn so với những chuẩn mới xuất hiện gần đây, và có thể gây khó khăn cho việc truyền dữ liệu. Ví dụ như trong MPEG-2, nơi mà nội dung được tạo ra từ nhiều nguồn như video ảnh động, đồ họa, văn bản… và được tổ hợp thành chuỗi các khung hình phẳng, mỗi khung hình (bao gồm các đối tượng như người, đồ vật, âm thanh, nền khung hình…) được chia thành các phần tử ảnh pixels và xử lý đồng thời, giống như cảm nhận của con người thông qua các giác quan trong thực tế. Các pixels này được mã hoá như thể tất cả chúng đều là các phần tử ảnh video ảnh động. Tại phía thu của người sử dụng, quá trình giải mã diễn ra ngược với quá trình mã hoá không khó khăn. Vì vậy có thể coi MPEG-2 là một công cụ hiển thị tĩnh, và nếu một nhà truyền thông truyền phát lại chương trình của một nhà truyền thông khác về một sự kiện, thì logo của nhà sản xuất chương trình này không thể loại bỏ được. Với MPEG-2, bạn có thể bổ sung thêm các phần tử đồ hoạ và văn bản vào chương trình hiển thị cuối cùng (theo phương thức chồng lớp), nhưng không thể xoá bớt các đồ hoạ và văn bản có trong chương trình gốc. Mpeg-4 là chuẩn cho các ứng dụng MultiMedia. Mpeg-4 trở thành một tiêu chuẩn cho nén ảnh kỹ thuật truyền hình số, các ứng dụng về đồ hoạ và Video tương tác hai chiều (Games, Videoconferencing) và các ứng dụng Multimedia tương tác hai chiều (World Wide Web hoặc các ứng dụng nhằm phân phát dữ liệu Video như truyền hình cáp, Internet Video…). Mpeg-4 đã trở thành một tiêu chuẩn công nghệ trong quá trình sản xuất, phân phối và truy cập vào các hệ thống Video. Nó đã góp phần giải quyết vấn đề về dung lượng cho các thiết bị lưu trữ, giải quyết vấn đề về băng thông của đường truyền tín hiệu Video hoặc kết hợp cả hai vấn đề trên. Với MPEG-4, các đối tượng khác nhau trong một khung hình có thể được mô tả, mã hoá và truyền đi một cách riêng biệt đến bộ giải mã trong các dòng cơ bản ES (Elementary Stream) khác nhau. Cũng nhờ xác định, tách và xử lý riêng các đối tượng (như nhạc nền, âm thanh xa gần, đồ vật, đối tượng ảnh video như con người hay động vật, nền khung hình …), nên người sử dụng có thể loại bỏ riêng từng đối tượng khỏi khuôn hình. Sự tổ hợp lại thành khung hình chỉ được thực hiện sau khi giải mã các đối tượng này. H.264 (MPEG-4 AVC hay MPEG-4 part 10), hiện đang là phương thức tiên tiến nhất trong lĩnh vực nén video. H.264 cho chất lượng hình ảnh tốt nhất khi có cùng dung lượng so với các chuẩn nén khác. H.264 cũng được ứng dụng như thuật nén chính trong video độ phân giải cao (HD)
Nén dữ liệu
Trong công nghệ thông tin, Nén dữ liệu (tiếng Anh: Data compression) là việc chuyển định dạng thông tin sử dụng ít bit hơn cách thể hiện ở dữ liệu gốc. Tùy theo dữ liệu có bị thay đổi trước và sau khi giải nén không, người ta chia nén thành hai loại: Nguyên vẹn (lossless) và bị mất dữ liệu (lossy). Nén mất dữ liệu giảm số lượng bit bằng cách xác định các thông tin không cần thiết và loại bỏ chúng. Nén dữ liệu là cần thiết vì giảm được nguồn tài nguyên cũng như dung lượng lưu trữ hay băng thông đường truyền. Tuy nhiên, vì dữ liệu nén cần được giải nén nên sẽ đòi hỏi nhiều phần cứng và xử lý.
Ngày càng có nhiều người nổi tiếng, chẳng hạn như Miley Cyrus, Janelle Monae và Jazz Jennings, công khai tự nhận bản thân là người toàn tính (pansexual). Như một kết quả tất yếu, thuật ngữ ấy đã hòa vào vốn từ vựng thịnh hành của chúng ta, và dẫn tới việc đặt ra câu hỏi toàn tính luyến ái (pansexuality) nghĩa là gì và làm thế nào để phân biệt nó với song tính luyến ái (bisexuality). Thông thường, nhiều người hiểu “song tính” có nghĩa là “cảm thấy hấp dẫn bởi cả nam và nữ giới”, nhưng định nghĩa về người song tính thực ra rộng hơn nhiều. Nhưng “nam giới” và “nữ giới” thậm chí còn không bao quát nổi phần nào tất cả bản dạng giới tồn tại trên đời. Chỉ riêng Facebook đã có gần 60 gợi ý về giới cho người dùng chọn lựa khi hoàn thiện hồ sơ của họ. Và như chúng ta đã biết, (định nghĩa về) giới rất linh hoạt, có nhiều giới hiện diện ở ngoài đời hơn là hệ nhị nguyên nam và nữ điển hình chúng ta đã quen. Thế nên khái niệm toàn tính luyến ái mới xuất hiện đấy. Tiền tố “toàn-” (“pan-”) bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là “tất cả” (“all”). Những người nhận bản thân là người toàn tính là những người cảm thấy hấp dẫn bởi tất cả các bản dạng giới, theo GLAAD. Bản dạng giới là chìa khóa để thấu hiểu song tính luyến ái và toàn tính luyến ái. Nhìn thoáng qua, hai khái niệm có vẻ gần như là một. Chúng khá là tương tự nhau. Tuy nhiên, nhiều người chọn thuật ngữ “người toàn tính” để nhấn mạnh rằng họ có thể bị hấp dẫn bởi tất cả mọi người, bất kể họ là giới gì. Và vài người xem “người song tính” như một sự khẳng định rằng họ có thể bị hấp dẫn bởi nhiều giới khác nhau, chứ không nhất thiết là tất cả. Việc một người tự nhận họ là người toàn tính hay không có liên quan mật thiết đến cách nhìn nhận của họ về bản dạng giới. Theo Viện Song tính Hoa Kỳ (the American Institute of Bisexuality), điều này nghĩa là giới không có vai trò gì trong tính dục của người đó và họ không hề thích những người thuộc một giới này hơn những giới khác. Người toàn tính có thể bị hấp dẫn bởi những người là nam giới (male), nữ giới (female), trung tính (androgynous), chuyển giới (transgender) hay liên giới tính (intersex), mang đến một bước tiến xa hơn so với cách nhìn truyền thống về song tính luyến ái. Tất nhiên tính dục đa dạng tùy từng đối tượng, cho nên những định nghĩa này không hề bất biến – điều quan trọng duy nhất chỉ là việc một người dán nhãn họ như thế nào mà thôi. (*) Thực ra câu này sai. ”Bi” trong “bisexual” có nghĩa là 2, tức là người bisexual bị hấp dẫn bởi 2 giới khác nhau, thông thường là nam và nữ, nhưng cũng có thể là nam và nonbinary, hoặc nữ và genderqueer,… Nếu một người bị hấp dẫn bởi nhiều giới khác nhau thì gọi là “polysexual” (đa tính). Cũng cần lưu ý là những thế hệ trẻ hơn dường như cởi mở hơn với định nghĩa về tình yêu và sự hấp dẫn nằm ngoài hệ nhị nguyên giới. Trong một nguyên cứu được thực hiện vào năm 2015 bởi J. Walter Thompson Intelligence, 82% số người được hỏi (trong độ tuổi từ 12 đến 19 tuổi, thuộc Thế hệ Z) trả lời rằng họ không quan tâm đến xu hướng tính dục của người khác, và 81% nói rằng họ không nghĩ giới còn định nghĩa một người nhiều như trước đây. Asia Kate Dillon, diễn viên đầu tiên công khai mình là người phi nhị nguyên giới trên ti vi, lưu ý rằng mặc dù toàn tính luyến ái là một khái niệm đại chúng tương đối mới, thuật ngữ này miêu tả hoàn hảo góc nhìn của họ về tình yêu. “Kể từ khi tôi hiểu về giới tính (sex) và xu hướng tính dục (sexual orientation) và tất cả mọi thứ, tôi đã nhận mình là người toàn tính, và tôi luôn luôn cảm thấy bản thân có khả năng về tinh thần, xúc cảm và thể chất để bị hấp dẫn bởi bất kỳ giới nào,” Dillon trả lời tờ HuffPost.
Toàn tính luyến ái
Toàn tính luyến ái (tiếng Anh: Pansexuality và Omnisexuality) là chỉ sự hấp dẫn tình dục và/hoặc tình cảm với bất kể giới và giới tính nào. Những người toàn tính (pansexual) có thể xem bản thân họ như là người mù giới, khẳng định rằng giới và giới tính không phải là yếu tố quyết định sự hấp dẫn tình cảm và tình dục của họ đối với những người khác. Toàn tính là một xu hướng tính dục độc lập hoặc là một nhánh của song tính. Người toàn tính có được sự hấp dẫn với mọi người, cả nam, nữ lẫn những người phi nhị nguyên giới. Tính dục toàn giới hoàn toàn phủ nhận hệ nhị phân giới. Đây cũng thường được xem là một xu hướng tính dục bao quát hơn tính dục song giới. Mức độ bao quát của thuật ngữ "song tính" khi so với thuật ngữ "toàn tính" vẫn còn gây tranh cãi trong cộng đồng LGBT nói chung và cộng đồng người song tính nói riêng.
Hệ thống quản lý môi trường (Environmental Management System - EMS) là một phần trong hệ thống quản lý của một tổ chức được sử dụng để triển khai và áp dụng chính sách môi trường và quản lý các khía cạnh môi trường của tổ chức. Hệ thống quản lý môi trường được xây dựng trên cơ sở các yêu cầu của tiêu chuẩn ISO 14001, phiên bản hiện hành là ISO 14001:2004. Hoạt động của hệ thống quản lý môi trường dựa theo mô hình PDCA - Hoạch định, thực hiện, kiểm tra, hành động, cụ thể:. Hành động: Triển khai các chương trình môi trường, thực hiện việc xem xét, và cải tiến liên tục. TIP Bộ tiêu chuẩn ISO 14000 là tiêu chuẩn được công nhận rộng rãi nhất trên thế giới về cách tiếp cận có hệ thống đối với quản lý môi trường. Hệ thống quản lý môi trường cho phép tổ chức của bạn xác định và kiểm soát các tác động môi trường tổ chức gây ra. Hệ thống quản lý môi trường sẽ giúp bạn xác định những thứ tác động đến môi trường, và xây dựng các quy trình nhằm ngăn ngừa hoặc giảm tối đa tác động này. Hệ thống quản lý môi trường có thể áp dụng Hệ thống quản lý môi trường cho mọi loại hình tổ chức với các quy mô khác nhau trong Phạm vi mà bạn đã xác định. Khi một tổ chức muốn hiểu những tác động đối với môi trường và kiểm soát chúng. Các tác động môi trường thường liên quan tới chất thải và những tiết kiệm có ý nghĩa nhờ cải tiến quản lý. Hệ thống quản lý môi trường là một công cụ nâng cao hiệu quả Hoạt động, Sản phẩm và Dịch vụ của tổ chức, vì vậy, nó mang lại lợi ích cho toàn tổ chức. Các mối quan hệ với nhà cung cấp và khách hàng có thể được cải thiện thông qua việc quản lý nhất quán và giảm thiểu các tác động. Cộng đồng xung quanh cũng có thể hưởng lợi từ việc giảm thiểu các tác động môi trường, và nhận thấy rằng tổ chức sẽ thực hiện việc ngăn ngừa những tai nạn hoặc các tác động có thể trong tương lai một cách hệ thống. Lưu ý: Một sự kết hợp giữa Hệ thống quản lý môi trường và việc tuân thủ các quy định pháp lý về môi trường có thể áp dụng cho tổ chức của bạn. Các quy định pháp lý về môi trường có thể giúp bạn xác định các lĩnh vực liên quan đến các tác động môi trường của tổ chức bạn và vì thế cho biết bạn cần tập trung những nỗ lực quản lý môi trường vào đâu. Ngược lại, Hệ thống quản lý môi trường có thể là một công cụ quản lý và nâng cao sự tuân thủ với các quy định pháp lý về môi trường. Tuy nhiên, quan trọng là phải hiểu rằng hai vấn đề này là rất khác nhau. Hệ thống quản lý môi trường không đưa thêm bất kỳ một yêu cầu pháp lý nào đối với tổ chức của bạn, cũng như không có nghĩa là Hệ thống quản lý môi trường lúc nào cũng phải tuân thủ 100% để góp thêm ích lợi cho tổ chức của bạn. Một vài quy định pháp lý tập trung vào các hoạt động báo cáo mà không đưa ra hướng dẫn cách thức bạn có thể nâng cao hiệu quả hoạt động môi trường. Bản đồ sinh thái đưa ra hướng dẫn bằng cách giúp bạn xác định các vấn đề cụ thể đối với các hoạt động tồn tại ở đâu. Khi đã xác định được các vấn đề và các cơ hội cải tiến ở đâu, bạn nên kiểm tra chéo với các vấn đề pháp định. VIETCERT là nhà cung cấp dịch vụ thử nghiệm, giám định, hiệu chuẩn, kiểm tra nhà nước hàng nhập khẩu, chứng nhận sản phẩm hợp chuẩn, chứng nhận sản phẩm hợp quy, chứng nhận các hệ thống quản lý ISO, chứng nhận VietGAP trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, các dịch vụ đào tạo chuyển gia đánh giá sản phẩm, chuyên giá đánh giá các hệ thống quản lý ISO, và sử dụng kiến thức sâu rộng về ngành để hỗ trợ các tổ chức khắc phục rủi ro và hoạt động trong môi trường kinh doanh năng động và đầy thử thách.
Hệ thống quản lý môi trường
Hệ thống quản lý môi trường (tiếng Anh: Environmental Management System, viết tắt EMS) đề cập đến việc quản lý các chương trình môi trường của một tổ chức một cách toàn diện, có hệ thống,có kế hoạch và được lưu trữ. Nó bao gồm cơ cấu tổ chức, lập kế hoạch và nguồn lực cho phát triển, thực hiện và duy trì chính sách bảo vệ môi trường. Chính thức hơn, EMS là " một hệ thống và cơ sở dữ liệu kết hợp các quy trình và quy trình đào tạo nhân sự, giám sát, tổng hợp và báo cáo thông tin về hiệu suất hoạt động về môi trường cho các bên liên quan bên trong và bên ngoài của một công ty. Các tiêu chuẩn được sử dụng rộng rãi nhất mà một EMS dựa vào là Tổ chức Tiêu chuẩn Quốc tế (ISO) 14001. Lựa chọn thay thế bao gồm EMAS. Một hệ thống thông tin quản lý môi trường (EMIS) là một giải pháp công nghệ thông tin để theo dõi dữ liệu về môi trường cho một công ty như là một phần của hệ thống quản lý môi trường tổng thể của họ.
Cho đến nay, ngay cả những người đã sống lâu năm ở Đà Lạt, cũng mấy ai biết rằng phía Tây Nam của thành phố này, có một quần thể lăng mộ tráng lệ Long Mỹ Quận công Nguyễn Hữu Hào, cha ruột Nam phương Hoàng hậu - Nguyễn Hữu Thị Lan, tức quốc trượng Hoàng đế Bảo Đại – Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy. Tổng thể khu lăng mộ được xây dựng liên tục trong 4 năm, đến ngày 10-9-1941 thì hoàn thành. Khu lăng mộ Nguyễn Hữu Hào là công trình kiến trúc tráng lệ, uy nghi, tọa lạc tại một vị trí được coi là đắc địa, cao điểm long mạch, cổng trước hướng về trung tâm TP Đà Lạt. Lăng được xây trên ngọn đồi thông bạt ngàn, có kiến trúc hình hoa sen nở, trông vừa thanh thoát, trang nghiêm, kín đáo. Lăng nằm cách Dinh thự của ông chừng 4 km - Dinh thự Nguyễn Hữu Hào nay là Bảo tàng tỉnh Lâm Đồng. Ngoài Dinh thự này, Dinh I, III còn được cho là ông xây tặng cho con gái sau khi lập gia đình với Bảo Đại. Cha vợ của cựu Hoàng Bảo Đại là ông Nguyễn Hữu Hào, một đại điền chủ gốc Gò Công, Tiền Giang. Ông vốn là dân Tây học, sinh thời là người có đầu óc khai thác đồn điền. Vào những năm đầu thế kỷ 20, ông theo chân người Tây đến xứ sương mù để cùng khai thác đồn điền và càng trở nên giàu có. Vợ ông là bà Lê Thị Bính, con gái ông Huyện Sỹ (Lê Phát Đạt), một trong 4 người giàu nhất Việt Nam đầu thế kỷ 20. Theo các tài liệu còn lưu lại, chỉ tính riêng quận Long Mỹ, tỉnh Lạch Giá (nay thuộc Cần Thơ), vào năm 1928 gia đình ông Nguyễn Hữu Hào đã có hơn 1.000 mẫu ruộng. Sau khi lập gia đình, được sự hậu thuẫn từ phía nhà vợ, ông Nguyễn Hữu Hào không ngừng mở rộng đất đai, đồn điền trồng lúa, cao su… ở các tỉnh Tây Nam bộ, Đông Nam bộ và vùng Tây Nguyên, trong đó có Đà Lạt. Lăng Nguyễn Hữu Hào được chính Nam Phương Hoàng hậu xây dựng năm 1939 trên một ngọn đồi cao ở phía Tây Nam thành phố Đà Lạt. Cổng lăng nằm dưới chân đồi, là trụ biểu gồm 4 trụ thẳng đứng trang trí hoa sen và chó ngao và đề tự 2 cặp câu đối do Nam Phương Hoàng Hậu đề tự. Trưởng nữ Agnès Nguyễn Hữu Hào sau đó được gã cho Nam tước Pierre Didelol, bấy giờ đang giữ chức Khâm mạng Hoàng triều cương thổ (thuộc các tỉnh Tây Nguyên ngày nay). Thứ nữ Mariette Jeannette Nguyễn Hữu Thị Lan là người có nhan sắc hơn người, thông minh, học rộng, có bằng Tú tài toàn phần năm 18 tuổi, thuộc diện nữ giới học cao bậc nhất đất Nam kỳ bấy giờ. Trước tài sắc toàn diện của Nguyễn Hữu Thị Lan, cô được một số viên chức người Pháp thân cận với hoàng đế Bảo Đại chọn để cho tiếp cận, làm quen với nhà vua. Đường lên lăng gọi là nhất chính đạo (con đường duy nhất lên lăng) gồm 36 bậc, cứ cách 9 – 13 bậc sẽ có một chiếu nghỉ. Lối đi này giờ đây trở nên hoang phế, cỏ mọc um tùm, dấu hiệu của nhiều năm không có bước chân người lui tới. Ngay lần gặp gỡ đầu tiên, vị Hoàng đế trẻ tuổi này đã “say nắng” trước nhan sắc và tài hành lễ theo nghi thức cung đình của Nguyễn Hữu Thị Lan. Bảo Đại nhanh chóng mê mẫn trước sắc đẹp thùy mị của Nguyễn Hữu Thị Lan. Thậm chí, trước khi nhận lời cưới Hoàng đế, Nguyễn Hữu Thị Lan còn ra 4 “điều kiện” với Bảo Đại, trong đó có việc phải phong Hoàng hậu cho cô ngay sau lễ cưới. Đây là điều mà trong các vị vua trước đó dưới triều đại nhà Nguyễn chưa từng có tiền lệ. Thông thường, việc phong Hoàng hậu chỉ được thực hiện sau khi người đó đã qua đời. Bên cạnh đó, Nguyễn Hữu Thị Lan đề nghị được giữ nguyên đạo Thiên chúa, Bảo Đại vẫn theo đạo Phật và được Tòa thánh La Mã cho phép đặc biệt hai người lấy nhau, giữ hai tôn giáo khác nhau, không ai được bắt buộc ai về tôn giao. Đây cũng là điều chưa từng có tiền lệ. Toàn bộ phần nhà mộ được xây bằng gạch trát đá rửa, mái đúc bê tông cốt thép và tán xòe rộng. La phông được đổ theo kiểu dàn hoa, mái được lợp bằng ngói hoàng lưu ly. Chuyện kể rằng, sau năm 1975, nhiều người dân sinh sống trong vùng đã vào gỡ lớp đá lát quanh lăng đem về làm đường. Bia đá được cho là của Nam Phương Hoàng hậu tạc để ghi nhớ công ơn Long Mỹ Quận công Nguyễn Hữu Hào cũng bị đào tung. Tuy nhiên, do bia đá quá lớn và nặng nên chỉ bị di chuyển khỏi vị trí ban đầu vài chục mét rồi bỏ đó đến mấy chục năm sau. Thậm chí, có tin đồn đại rằng đã có người cạy phá lăng Long Mỹ Quận Công để tìm, trộm cắp châu báu? Khoảng sau năm 1990, một doanh nghiệp du lịch, đơn vị được nhà chức trách giao trông coi, quan lý khu khu di tích này đã tiến hành cải tạo, trùng tu và di chuyển tấm bia đá cố định về chỗ cũ. Bên trong lăng, hai ngôi mộ của ông bà Nguyễn Hữu Hào được làm bằng bằng đá xanh cao khoảng 30 cm, nằm hai bên một hương án cũng bằng đá xanh đặt chính giữa. Ngày 6-2-1934, tại điện Kiến Trung trong Hoàng thành Huế, đã diễn ra lễ cưới của Nguyễn Hữu Thị Lan và vị Hoàng đế cuối cùng của xã hội phong kiến Việt Nam. Sau khi phong Nguyễn Hữu Thị Lan là Nam phương Hoàng hậu, 3 năm sau, ngày 30/07/1937, Bảo Đại phong tước quốc trượng Nguyễn Hữu Hào là Long Mỹ Quận công. Bà Lê Thị Bính cũng được nhà vua phong tước Nhị phẩm phu nhân. Hai ngôi mộ đều được chạm khắc tinh xảo với hình tượng thập giá của đạo Thiên Chúa ở trung tâm. Lại nói về Quận công Nguyễn Hữu Hào, những tháng năm cuối đời, vợ chồng ông hầu như chỉ sinh sống ở Đà Lạt mà ít khi trở về quê nhà Gò Công. Mặc dù quê gốc ở Nam bộ nhưng quốc trượng của vua Bảo Đại lại có nguyện vọng sau khi qua đời sẽ được chôn cất tại Đà Lạt. Bởi vậy, sau một thời gian ông Nguyễn Hữu Hào lâm bệnh, biết khó có thể qua khỏi, ngoài việc gấp rút phong tước Long Mỹ Quận công, Hoàng đế Bảo Đại và Nam phương Hoàng hậu đã mời nhiều cao nhân phong thủy tìm vị trí đặt lăng mộ cho quốc trượng sau khi qua đời. Đỉnh một quả đồi cao phía Tây Nam, đối diện với thác Cam Ly, nay thuộc phường 5, TP Đà Lạt được Nhà vua và Hoàng hậu lựa chọn. Dù được coi là một trong những di tích tiêu biểu của Đà Lạt, nhưng hiện nay toàn bộ khu lăng mộ đã nằm trong tình trạng hoang phế suốt nhiều năm qua. Ngày nay, khu lăng mộ ông Nguyễn Hữu Hào vẫn là điều bí ẩn. Một phần vì khu lăng mộ bị bao phủ, che khuất bởi rừng thông, phần vì nhà chức trách địa phương chưa thực sự quan tâm tới khu di tích lịch sử, văn hóa này. Hằng ngày, khu lăng mộ đìu hiu lạnh tanh không hương hỏa và có những dấu hiệu bị xuống cấp.
Lăng Nguyễn Hữu Hào
Lăng Nguyễn Hữu Hào là nơi chôn cất và thờ ông Nguyễn Hữu Hào và bà Lê Thị Bình - song thân của Nam Phương Hoàng Hậu - tọa lạc tại ngọn đồi ở phía Tây Nam thành phố Đà Lạt - lăng nằm trên đường Vạn Thành - Tà Nùng từ ngã ba Hoàng Văn Thụ cách thác Cam Ly 150m. Đây là một di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh nằm trong số 150 danh lam thắng cảnh chưa được khai thác du lịch tại Đà Lạt. Ông Nguyễn Hữu Hào vốn là một đại điền chủ giàu có, quê quán tại Gò Công (nay thuộc tỉnh Tiền Giang). Ông kết hôn với bà Lê Thị Bình, con gái ông Huyện Sỹ (Lê Phát Đạt), một trong những người giàu có nhất Việt Nam thời bấy giờ. Ông bà Nguyễn Hữu Hào có 2 người con gái: trưởng nữ là Agnès Nguyễn Hữu Hào, được gả cho một quý tộc người Pháp là Nam tước Pierre Didelol lúc đó đang giữ chức Khâm mạng Hoàng triều cương thổ (Hoàng triều Cương thổ là vùng đất biên cương do hoàng gia cai quản, gồm Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng ngày nay).
Trong lao động sản xuất, vì lý do chủ quan và khách quan ước tính hàng năm có khoảng trên 2,3 triệu người chết liên quan đến thương tích và bệnh nghề nghiệp. Trong đó, khoảng 350.000 người chết do tai nạn lao động và 2 triệu người chết vì bệnh nghề nghiệp. Do đó, để giảm thiểu đến mức tối đa những thiệt hại do tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp gây ra, mỗi cơ sở sản xuất cần phải thiết lập các biện pháp đảm bảo “ An toàn, vệ sinh lao động”. – Nguồn điện, tia lửa hàn các yếu tố nguy hiểm có thể gây thương tật hoặc tử vong cho thợ hàn. – Ánh sáng hàn, khói, bụi phát sinh, tư thế làm việc là các yếu tố có hại có thể gây bệnh tật, làm suy giảm sức khỏe của người thợ hàn. – Nắm bắt các nguyên tắc ứng cứu khi xảy ra sự cố thông qua huấn luyện, đào tạo. – Làm việc ở tư thế hợp lý tránh mắc các bệnh về cơ, xương, khớp. “ AN TOÀN LAO ĐỘNG” là giải pháp phòng, chống tác động của các yếu tố nguy hiểm nhằm bảo đảm không xảy ra thương tật, tử vong đối với con người trong quá trình lao động. “VỆ SINH LAO ĐỘNG” là giải pháp phòng, chống tác động của yếu tố có hại gây bệnh tật, làm suy giảm sức khỏe cho con người trong quá trình lao động. Nếu trong môi trường làm việc độc hại có tiếp xúc trực tiếp với hóa chất mà người lao động không được bảo vệ bởi các biện pháp bảo vệ an toàn lao động cần thiết thì sẽ có thể có rất nhiều hệ lụy ảnh hưởng trực tiếp tới người tham gia lao động. Các hệ lụy về sức khỏe này có thể thể hiện ngay khi người lao động tiếp xúc với môi trường, hóa chất độc hại cũng có thể gây ảnh hưởng tới sức khỏe về lâu dài, cũng có thể sẽ ảnh hưởng tới cả tính mạng của người lao động. Thẻ an toàn lao động còn được cấp trong các trường hợp: Khi tuyển dụng, bố trí công việc lần đầu; khi NLĐ chuyển từ công việc khác về làm công việc có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động, vệ sinh lao động; khi thay đổi máy móc, thiết bị và công nghệ có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động, vệ sinh lao động”. Như vậy, thẻ an toàn lao động có tác dụng chứng nhận NLĐ đã được huấn luyện về an toàn lao động, vệ sinh lao động khi làm các công việc có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động, vệ sinh lao động.
An toàn và vệ sinh lao động
An toàn và vệ sinh lao động ( viết tắt :ATVSLĐ), trước còn gọi là Bảo hộ lao động, tiếng Anh : Occupational safety and health (OSH) hay occupational health and safety (OHS) hoặc workplace health and safety (WHS) là một lĩnh vực liên quan đến an toàn, sức khỏe và phúc lợi người tham gia vào công việc hoặc việc làm. Tổng hợp tất cả các hoạt động trên các mặt luật pháp, tổ chức, hành chính, kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật. nhằm mục tiêu là thúc đẩy một môi trường làm việc an toàn và lành mạnh như cải thiện điều kiện lao động, ngăn ngừa tai nạn lao động, đảm bảo an toàn sức khoẻ cho người lao động. ATVSLĐ cũng có thể bảo vệ đồng nghiệp, các thành viên gia đình, người sử dụng lao động, khách hàng và nhiều người khác có thể bị ảnh hưởng bởi môi trường làm việc. Bảo hộ lao động là một môn khoa học về an toàn và vệ sinh lao động, an toàn phòng chống cháy nổ (tức là các mặt về an toàn và vệ sinh môi trường lao động). Cụ thể, bảo hộ lao động nghiên cứu nguyên nhân và tìm các giải pháp phòng ngừa: tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, các yếu tố gây độc hại trong lao động, sự cố cháy nổ trong sản xuất; đồng thời tìm giải pháp đảo bảo sức khỏe và an toàn tính mạng cho người lao động.
Nước hoa là hỗn hợp các chất tạo mùi như tinh dầu, chất thơm, chất hãm hương (lưu hương), và dung môi hòa tan. Dùng để tạo ra cho cơ thể người, con vật, đồ vật hay không gian một mùi hương dễ chịu. Các thành phần của nước hoa có thể được tổng hợp nhân tạo hoặc chiết xuất từ thực vật và động vật. Trên khía cạnh hóa học, nước hoa là một hợp chất gồm alcohol, nước lã và những phân tử có mùi thơm bốc hơi ở nhiệt độ bình thường. Một mùi hương là những phân tử nhẹ để có thể lơ lửng trong không khí lọt vào mũi và theo đó, gửi một tín hiệu lên óc, tạo ra nhận thức. Thành phần chính là tinh dầu tự nhiên thu được qua các quá trình chưng cất hay tách ra bằng hóa học từ thực vật hoa hay trái cây…. Có khoảng 1000-1200 loài hoa khác nhau và được cất ra tinh dầu; Vỏ, rễ, quả, nhựa và lá cây đều có thể làm được nước hoa nhưng phổ biến nhất là cam và chanh. Ngoài ra một số thành phần khác như: Cassi, Gạo Basmati, Đàn Hương. Hoắc Hương, Hổ Phách, Xạ hương, Lá cây Thường Xuân, Hạt Hồi, Rễ Huệ Tím, Cỏ Thần, Đậu Tonka, Vani, Nhựa Thơm, Hoa cam thảo, Cánh kiến trắng,…tạo cho mỗi loại nước hoa những mùi đặc trưng quyến rũ : nồng nàn, nhẹ nhàng, bí ẩn, gợi cảm, lãng mạn hay sang trọng. Sau đó, chúng được kết hợp với các chất gây bay mùi mà thành phần là dung dịch cồn, trong ấy lượng cồn chiếm đáng kể (thường là cồn 700) bôi một ít nước hoa trên da, ta thấy mát lạnh, là do cồn bốc hơi thu lấy nhiệt. Trong nước hoa còn có chất tạo màu đặc biệt còn có chất có mùi thơm và giữ mùi được lâu gọi là chất định hương. Chất định hương chiếm vị trí vô cùng quan trọng để cố định hương cho thành phần hỗn hợp nước hoa giữ mùi được rất lâu. Thường sử dụng nhất là xạ hương, long duyên hương. Xạ hương được lấy từ túi xạ là tuyến nằm cạnh cơ quan sinh dục đực của hươu xạ. Xạ hương có mùi rất bền và thuộc loại hương liệu cao cấp. Còn long duyên hương (còn gọi long diên hương) là sản phẩm tiêu hóa có trong ruột của một loài cá voi được bài tiết nổi trên mặt biển và được vớt lên để chế biến. Mỗi loại nước hoa có một mùi đặc trưng, nhưng không chỉ chứa một loại tinh dầu mà là một tập hợp nhiều loại tinh dầu (mà mỗi hãng sản xuất giữ bí mật) theo một tỉ lệ nhất định để cuối cùng cho một mùi trội nhất. Thành phần của bất cứ loại nước hoa nào cũng được chia làm 3 lớp, và mỗi lớp được gọi bằng tên chuyên ngành là “note”: Top (đỉnh), Middle (giữa) và Base (nền). Top note là mùi hương bạn ngửi thấy ngay khi sau khi xức và phần nhiều là alcohol. Phần body được xem là middle note, và là trái tim của nước hoa. Còn base note chính là phần tạo nên mùi hương độc đáo duy nhất cho loại nước hoa bạn đang sở hữu. *Nốt hương đầu (top notes, head notes): mùi hương bật ra ngay lập tức (vài giây sau khi xịt), tạo ấn tượng quan trọng đầu tiên cho người sử dụng. Chứa những mùi nhẹ, dễ bay hơi, và nhanh phai mùi như mùi hoa, trái cây. Lớp này lưu mùi trong khoảng 10 phút sau khi xịt. *Nốt hương giữa (middle notes, heart notes): Khoảng 10-20 phút sau khi bạn bắt đầu xức cho đến 1 tiếng rưỡi, mùi hương của lớp giữa này bắt đầu lên tiếng (sau khi nốt hương đầu tiêu tán), tạo mùi hương chính và đặc trưng của nước hoa nên lưu mùi khá lâu. Đây là khi mùi hương đã nhẹ trút bỏ lớp mùi sắc sảo ban đầu và trở nên dịu ngọt hơn, tạo nên ấn tượng đậm nhất. Đó cũng là lý do vì sao chúng ta coi lớp giữa này như “Trái tim” của nước hoa, và khi mùi hương của lớp này xuất hiện thì sự hiện diện của chất cồn gần như đã bay hơi mất tăm. Lớp giữa này chứa nhiều hương hoa cỏ (rich florals) và gia vị. *Nốt hương cuối (base note): Nốt hương cuối kết hợp với nốt hương giữa trở thành mùi hương chính của lọ nước hoa. Nốt hương cuối đem lại cảm giác trầm lắng và đậm đặc, lưu mùi rất lâu và mạnh, thường chứa mùi của gỗ, xạ hương và nhựa thông. Sau 1 tiếng rưỡi cho đến 2 tiếng thì mùi hương bạn “nghe” được lúc này là “giọng” của lớp nền. Đây là lớp chịu trách nhiệm đưa ra mùi hương đặc trưng sau khi đã hòa quyện cùng các phân tử mùi khác có trên da của bạn và cùng sự kết hợp với lớp “Trái tim”, từ bạn sẽ tỏa ra mùi hương ngất ngây tinh tế. Vì thế không có gì lạ nếu lớp này thường sâu hơn và giàu hơn so với mùi hương ban đầu. Nốt hương đầu và giữa chịu ảnh hưởng của nốt hương cuối. Cũng như vậy, mùi hương của nốt cuối có thể bị bẻ cong khi kết hợp với nốt hương giữa. Các nhà sản xuất thường ghi chú những nguyên liệu họ sử dụng trong các nốt hương cũng như thời gian lưu hương theo từng bậc (ở điều kiện chuẩn thí nghiệm của họ). Các phân tử mùi nhờ vào lớp này để gắn kết với nhau và đem lại độ tuyệt hảo cũng như uy lực ma thuật của nước hoa. Warm woods và các loại thuốc hãm (fixative) như tuyết tùng (cedarwood), đàn hương (sandalwood) và vanilla thường được tìm thấy ở lớp cuối này. Nước hoa hiện đại được làm từ rất nhiều thành phần khác nhau nên cách duy nhất để tìm thấy mùi hương bạn yêu thích là phân loại chúng. Đó là lý do tại sao chúng ta có các mùi hương hoa nhẹ, hương gỗ, hương lá cây, mùi hương của đại dương, mùi trái cây và mùi hương bí ẩn của phương Đông. Nước hoa cũng có sự khác biệt về nồng độ nên loại nhẹ nhất, nhanh bay hơi nhất là nước hoa Colognes, loại chỉ có 5% tinh chất và loại giữ mùi lâu nhất có nồng độ 20%- 40% tinh chất nước hoa. Trên mỗi 1 chai nước hoa thường xuất hiện dòng chữ: “Perfume”, “Eau de Perfume”, “Eau de Toilet”, “Eau de Cologne”, “Eau Tender”, “Eau Fraiche” đây chính xác là dấu hiệu để phân biệt nước hoa và lý do mức giá của nó lại không giống nhau. Một số nước hoa được dán mác “perfume” tức là loại “nặng mùi” nhất, “toilet water” sẽ có mùi nhẹ hơn một chút và nhẹ nhất là “cologne spray”. Đây là loại nước hoa đắt tiền nhất và hiếm nhất vì nồng độ tinh dầu rất cao, đồng nghĩa với việc mùi hương rất nồng và bền. Loại nước hoa đắt thứ nhì sau EDPvà chủ yếu dành cho phái nữ, với nồng độ tinh dầu cao, nồng nàn và bền mùi. Là dạng nước hoa phổ biến hiện nay, sử dụng hợp với những vùng khí hậu khô, hay mùa lạnh. Loại nước hoa phổ biến nhất và được nhiều người ưa chuộng hiện nay trên thế giới,với giá cả phải chăng và chất lượng mùi hương trung bình. Đa dạng về mẫu mã, chủng loại hay nhà sản xuất. Đây là loại nước hoa với mùi nhẹ nhàng, khá bền mùi, và được dành cho cả nam và nữ. Thương hiệu : “Original Eau de Cologne” ra đời lần đầu tiên ở thành phố Cologne-Đức, sau đó lan rộng ra toàn thế giới. Mùi nhẹ, khả năng giữ mùi kém, phù hợp với túi tiền “bình dân”. Eau Fraiche hay Splash Cologne: Loại mau phai mùi nhất do thành phần tinh dầu chỉ chiếm từ 1-3%. Loại này dành riêng cho những ai chuộng sự tinh tế và thanh nhã. Nước hoa được coi là thứ thần dược tăng sự hấp dẫn giữa đàn ông và phụ nữ trong thế giới hiện đại. Đó là chất xúc tác cho những rung cảm qua sự cảm nhận mùi hương từ cơ thể. Chúng không chỉ hiện hữu để sử dụng trong việc tạo mùi mà đó còn là một nghệ thuật đến từ hương liệu.
Nước hoa
Nước hoa hay dầu thơm (tiếng Anh: Perfume, tiếng Pháp: parfum) là hỗn hợp của tinh dầu thơm hoặc các hợp chất tạo mùi thơm, chất hãm hương (lưu hương) và dung môi, thường ở dạng lỏng. Sử dụng với mục đích tạo ra mùi thơm cho cơ thể, cảm giác dễ chịu, sự quyến rũ giới tính hay đơn giản chỉ là che giấu một mùi khó chịu nào đó. Các văn bản cổ và các cuộc khai quật khảo cổ cho thấy việc sử dụng nước hoa trong một số nền văn minh tiền sử. Nước hoa hiện đại bắt đầu vào cuối thế kỷ 19 với sự tổng hợp của các hợp chất tạo mùi thơm thương mại như vanillin hoặc coumarin, cho phép tạo ra nước hoa có mùi mà trước đây không thể đạt được nếu chỉ dùng các chất thơm tự nhiên. Từ nước hoa trong tiếng Anh (Perfume) bắt nguồn từ tiếng Latinh perfumare, có nghĩa là "hút qua". Nước hoa cũng như nghệ thuật làm nước hoa bắt nguồn từ vùng Lưỡng Hà, Ai Cập, Văn minh lưu vực sông Ấn cổ đại và có thể cả Trung Quốc cổ đại. Nó được người La Mã và người Ả Rập tinh chỉnh thêm.
Ngày 10/05 vừa qua, mâu thuẫn giữa hai nhà nước Israel và Palestine bùng nổ. Tại khu vực tranh chấp, quân đội hai bên đã tiến hành những cuộc không kích và phóng tên lửa. Đã có tổng cộng hơn 1.700 người thương vong vì cuộc chiến, trong đó có ít nhất 58 trẻ em. Tính đến thời điểm hiện tại, cuộc xung đột đã bước qua tuần thứ 2 và chưa có dấu hiệu hạ nhiệt. Cuộc xung đột này cũng làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn vốn có từ lâu giữa hai bên. Những cuộc không kích và phóng tên lửa từ cả hai bên đã khiến cuộc sống người dân tại khu vực này chịu ảnh hưởng nặng nề. Không chỉ mất đi những người yêu thương từ bom đạn, việc mất nơi ở và sinh hoạt, đặc biệt là việc không thể đến trường học khiến cho hoàn cảnh của trẻ em tại khu vực này rất khó khăn. Trong một video đang lan truyền mạnh mẽ trên mạng xã hội, một bé gái 10 tuổi người Palestine đứng khóc trước khu nhà đã đổ nát của gia đình. Bên cạnh đó là nơi ở của những người hàng xóm, nơi cô bé vừa biết rằng có 8 người bạn của cô và 2 người phụ nữ đã chết trong đống đổ nát. “Con chỉ muốn làm bác sĩ thôi. để giúp đỡ mọi người, nhưng con không thể. con không biết phải làm gì cả, con chỉ mới 10 tuổi.". Những hậu quả nhân đạo này đã khiến Israel phải mở lại cửa khẩu thương mại cho phép chuyển hàng viện trợ tới khu vực giao tranh, vốn đã bị đóng cửa từ hôm 10/05 - ngày nổ ra cuộc xung đột. Nguồn gốc sâu xa của cuộc xung đột bắt nguồn từ mâu thuẫn sắc tộc giữa người Do Thái và người Ả Rập ở Lãnh thổ Ủy trị Palestine, với nhiều xung đột quân sự lớn nhỏ kéo dài đã hơn 100 năm. Cuộc xung đột này nằm trong khu vực có nhiều ý nghĩa về mặt tôn giáo và chính trị, khiến cả hai bên Israel và Palestine đều khẳng định quyền lợi chính đáng thuộc về mình. Nguồn cơn của cuộc xung đột lần này xuất phát từ việc chính quyền Israel trục xuất một số gia đình Palestine sinh sống từ lâu tại Đông Jerusalem - khu vực đang tranh chấp. Sự việc này xảy ra vào đầu tháng 03/2021. Đến giữa tháng 04/2021, khu vực này tiếp tục xảy ra cuộc đụng độ giữa cảnh sát Israel và người Palestine tại một đền thờ hồi giáo. Sau sự việc này, mâu thuẫn vốn có giữa hai bên trở nên bùng nổ. Quân đội Israel và Hamas - tổ chức vũ trang của người Palestine ở Dải Gaza bắt đầu giao tranh đẫm máu, đẩy mâu thuẫn tại khu vực này đến bờ vực chiến tranh. Những người Israel tin rằng khu vực tranh chấp hiện nay - Jerusalem là thủ đô của nhà nước Israel cổ đại từ thế kỷ thứ 10 TCN, trong khi đến hơn 1.600 năm sau người Ả Rập - tổ tiên của những người Palestine mới đặt chân đến vùng đất này. Phía Israel cũng đổ lỗi cho việc giới lãnh đạo chính trị và tôn giáo Palestine kích động giết hại người Do Thái, điển hình là sự kiện một giáo sĩ Palestine kêu gọi người dân Palestine vũ trang và tấn công bằng dao vào người Israel tại Afula, Tel Aviv và Jerusalem. Chỉ sau vài giờ thuyết giáo của nhân vật này, các vụ giết người bằng dao đã xảy ra ở cả 3 thành phố nói trên. Tương tự, phía Palestine cũng có nhiều lý do để ủng hộ cho hành động của mình. Lý do mạnh mẽ nhất xuất phát từ sự thất vọng trước thất bại của tiến trình công nhận Nhà nước Palestine và chấm dứt sự chiếm đóng của Israel. Người Palestine cũng đổ lỗi cho việc Israel tiếp tục xây dựng các khu định cư tại khu vực tranh chấp và dừng trao trả tù nhân Palestine theo thoả thuận. Những hành động quá khích của người định cư Israel với người Palestine cũng góp phần khiến mâu thuẫn trở nên đậm nét hơn. Israel nhận được sự ủng hộ của Mỹ và các nước đồng minh tại châu Âu khi quốc gia này ngày càng tăng cường kiểm soát khu Bờ Tây. Vào tháng 12/2017, Tổng thống Mỹ Donald Trump thậm chí đã công nhận khu vực tranh chấp Jerusalem là thủ đô của nhà nước Israel. Các quốc gia Arab trong khu vực cũng có quan điểm bình thường hóa quan hệ với nhà nước Israel nhằm phục vụ lợi ích riêng trong nỗ lực cạnh tranh ảnh hưởng với Iran. Trong khi đó, phía Palestine nhận được sự ủng hộ của Nga, Trung Quốc và Ai Cập. Trong khuôn khổ Hội nghị kinh tế quốc tế năm 2019 tại Bahrain, Bộ Ngoại giao của cả ba nước thể hiện sự ủng hộ cho các quyền lợi chính đáng và sự cần thiết phải thành lập một nhà nước độc lập của người Palestine. Ba quốc gia trên cũng đề nghị các nước phương Tây đứng ngoài cuộc xung đột. Theo đó, họ cho rằng cuộc xung đột chỉ nên được giải quyết độc lập giữa hai bên Israel và Palestine. Trong quá khứ, đã có nhiều giải pháp được đưa ra để giảm thiểu mâu thuẫn. Tiêu biểu là các nghị quyết của Liên Hiệp Quốc, các thỏa thuận đã được ký kết giữa Israel và Palestine; đặc biệt là Hiệp định Oslo năm 1993. Dù nhiều giải pháp đã được đưa ra, hai bên chưa có đủ thiện chí để ngừng bắn. Bên cạnh đó, sự can thiệp chính trị của các nước lớn nhằm thu về quyền lợi đã khiến tiến trình hòa giải thêm phần khó khăn. Xung đột giữa Israel và Palestine càng phức tạp vì bị đan xen bởi các yếu tố chính trị, lịch sử và tôn giáo. Với nỗ lực hòa giải của cộng đồng quốc tế, hy vọng mâu thuẫn này sẽ được giải quyết trong tương lai.
Palestine (khu vực)
Palestine (tiếng Ả Rập: فلسطين‎ Filasṭīn, Falasṭīn hoặc Filisṭīn; tiếng Hebrew: פלשתינה Palestina) là một khu vực địa lý tại Tây Á, nằm giữa Địa Trung Hải và sông Jordan. Đôi khi nó được cho là bao gồm các lãnh thổ lân cận. Tên gọi này được các nhà văn Hy Lạp cổ đại sử dụng, và sau đó được sử dụng cho tỉnh Syria Palaestina của La Mã, tỉnh Palaestina Prima của Đông La Mã, và huyện Jund Filastin của Hồi giáo. Khu vực gồm hầu hết lãnh thổ của Vùng đất Israel, là Đất Thánh theo kinh thánh Do Thái. Theo lịch sử, nó được cho là phần phía nam của các định danh khu vực rộng hơn như Canaan, Syria, ash-Sham, và Levant. Khu vực Palestine nằm tại vị trí chiến lược, giữa Ai Cập, Đại Syria và bán đảo Ả Rập, là nơi khởi nguồn của Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo. Khu vực có lịch sử lâu dài và náo động do là nơi giao thoa về tôn giáo, văn hoá, thương nghiệp và chính trị. Khu vực từng nằm dưới quyền kiểm soát của nhiều dân tộc, gồm có người Ai Cập cổ đại, Canaan, Israel cổ đại và Judea, Assyria, Babylon, Ba Tư, Hy Lạp cổ đại và Macedonia, Vương quốc Hasmoneus Do Thái, La Mã, Đông La Mã, các đế quốc Ả Rập (Rashidun, Umayyad, Abbasi và Fatimid), Thập tự quân, Ayyub, Mamluk, Mông Cổ, Ottoman, Anh, và người Israel, Jordan, Ai Cập và Palestine hiện đại.
Thời gian là khái niệm mô tả sự tiến triển không ngừng của sự tồn tại và các sự kiện xảy ra trong một sự kế thừa không thể đảo ngược từ quá khứ, qua hiện tại, và đến tương lai. Hãy tưởng tượng nếu thời gian chạy ngược, con người sẽ trẻ dần thay vì già đi, và sau một thời gian trẻ hóa dần dần, cuộc đời của họ sẽ kết thúc trong rưng rưng nước mắt của bố mẹ. Đó là thời gian được miêu tả trong một cuốn tiểu thuyết của nhà văn khoa học viễn tưởng Philip K Dick. Nhưng, ngạc nhiên thay, chiều của thời gian lại cũng là một vấn đề khiến các nhà vũ trụ học phải đau đầu. Trong khi chúng ta thừa nhận rằng thời gian có một chiều nhất định, thì các nhà vật lý lại nói không: Hầu hết các định luật vật lý đều phải "quay ngược thời gian", có nghĩa là họ sẽ chỉ làm việc với thời gian được định nghĩa chạy ngược về quá khứ. Hình 1: Bầu trời đêm có thể nói cho chúng ta biết một chút về thời gian. Bất cứ khái niệm phổ quát nào của thời gian cuối cùng cũng phải dựa trên chính sự phát triển của vũ trụ. Khi bạn nhìn vào vũ trụ, bạn đang thấy các sự kiện đã diễn ra trong quá khứ, bởi ánh sáng cần thời gian để đến với chúng ta. Trong thực tế, thậm chí việc quan sát đơn giản nhất cũng có thể giúp chúng ta hiểu về thời gian vũ trụ: lấy ví dụ thực tế là bầu trời đêm tối. Nếu vũ trụ có một quá khứ vô hạn và vô biên, thì bầu trời đêm sẽ phải hoàn toàn sáng do được lấp đầy bởi ánh sáng từ vô số các vì sao trong vũ trụ đã luôn luôn tồn tại. Trong một thời gian dài, các nhà khoa học, kể cả Albert Einstein, nghĩ rằng vũ trụ là tĩnh lặng và vô hạn. Các quan sát sau này đã chỉ ra rằng vũ trụ thực ra đang giãn nở, và thậm chí là đang giãn nở ngày càng nhanh hơn. Điều này có nghĩa là nó phải có nguồn gốc từ một trạng thái nhỏ gọn mà chúng ta gọi là Vụ Nổ Lớn (Big Bang), ngụ ý rằng thời gian có điểm khởi đầu. Trong thực tế, nếu chúng ta quan sát ánh sáng có tuổi đời đủ cao, chúng ta thậm chí có thể nhìn thấy các bức xạ tàn dư từ Vụ Nổ Lớn - bức xạ nền vũ trụ (Cosmic Microwave Background - CMB). Nhận thức này là bước đầu tiên để xác định tuổi của vũ trụ. Nhưng có một trở ngại, thuyết tương đối đặc biệt của Einstein chỉ ra rằng thời gian là. tương đối! Nếu bạn di chuyển càng nhanh đến tôi, thời gian của bạn sẽ trôi qua chậm hơn tương đối với nhận thức của tôi về thời gian. Do đó trong vũ trụ của các thiên hà đang di chuyển xa nhau, các ngôi sao quay quanh nhau và các hành tinh đang quay, thực nghiệm về thời gian cũng khác nhau: Quá khứ, hiện tại, và tương lai của mọi thứ là tương đối. Bởi vì vũ trụ về bình diện là như nhau ở mọi nơi, và nhìn chung là giống nhau ở mọi hướng, nên có tồn tại một "thời gian vũ trụ". Để đo được nó, tất cả những gì chúng ta phải làm là đo đạc các tính chất của bức xạ nền vũ trụ. Các nhà vũ trụ học đã dùng điều này để xác định tuổi của vũ trụ và xác định rằng, vũ trụ có khoảng 13.799 tỷ năm tuổi. Chúng ta biết thời gian rất có thể bắt đầu từ Vụ Nổ Lớn. Nhưng có một câu hỏi dai dẳng vẫn tồn tại: Thời gian chính xác nó là gì?. Để giải đáp câu hỏi này, chúng ta phải nhìn vào tính chất cơ bản của không gian và thời gian. Trong chiều của không gian, bạn có thể di chuyển tới hoặc lùi; tất cả mọi người đều trải nghiệm việc di chuyển này hàng ngày. Nhưng thời gian thì khác, nó có một chiều mà thôi, bạn luôn luôn phải đi tới, không bao giờ quay lại được. Vậy rại sao chiều thời gian lại không thể quay ngược? Đây là một vấn đề lớn chưa được giải quyết của vật lý. Để giải thích tại sao bản thân thời gian là không thể đảo ngược, chúng ta cần phải tìm đến các quá trình trong tự nhiên đồng thời cũng không thể đảo ngược. Một trong những khái niệm vật lý (và cuộc sống!) là mọi thứ có xu hướng bớt "gọn gàng" khi thời gian trôi qua. Chúng ta mô tả điều này bằng một tính chất vật lý gọi là entropy, thứ đang mã hóa cách mà mọi thứ được xếp đặt. Hãy tưởng tượng một hộp chứa chất khí, trong đó tất cả các hạt ban đầu được đặt ở một góc (một trạng thái trật tự). Theo thời gian chúng sẽ tự nhiên tìm cách lấp đầy chiếc hộp (một trạng thái rối loạn). Để đưa các hạt này trở lại trạng thái trật tự sẽ cần đến năng lượng. Điều này gọi là không thể đảo ngược. Nó giống như đập vỡ một quả trứng để làm món trứng tráng, một khi quả trứng đã lan ra và tràn vào chảo, nó sẽ không bao giờ quay lại hình dạng của quả trứng nữa. Cũng tương tự với vũ trụ: khi vũ trụ phát triển, entropy tổng thể sẽ tăng lên. Hóa ra entropy là một cách khá tốt để giải thích mũi tên thời gian. Và trong khi vũ trụ có vẻ như đang trở nên trật tự hơn - ví dụ là khi nó đi từ sự rối loạn trong giai đoạn đầu hình thành các ngôi sao, các hành tinh đến giai đoạn có vẻ trật tự hiện nay - thì vũ trụ vẫn có thể có khả năng gia tăng sự rối loạn. Bởi vì lực hấp dẫn liên quan đến các khối lượng lớn có thể kéo vật chất vào trạng thái gần như trật tự mà chúng ta vẫn thấy, thì với sự gia tăng rối loạn mà chúng ta đang nghĩ phải xảy ra bằng cách nào đó ẩn giấu trong trường hấp dẫn. Do đó sự rối loạn có thể tăng lên cho dù chúng ta không nhìn thấy được. Nhưng với xu hướng của tự nhiên thiên về sự rối loạn, tại sao vũ trụ lại bắt đầu từ trạng thái ổn định ban đầu? Điều này vẫn được xem là một bí ẩn. Một số nhà nghiên cứu cho rằng Vụ Nổ Lớn có thể không phải là sự bắt đầu, mà trong thực tế có thể có các "vũ trụ song song", nơi mà thời gian chạy theo các hướng khác nhau. Thời gian có điểm khởi đầu, nhưng liệu nó sẽ có kết thúc hay không tùy thuộc và bản chất của năng lượng tối đang khiến cho vũ trụ giãn nở ngày càng nhanh. Sự gia tăng của quá trình giãn nở này có thể cuối cùng sẽ xé toạc vũ trụ, buộc vũ trụ phải kết thúc bằng một Vụ Xé Lớn (Big Rip); khả năng khác là năng lượng tối có thể phân rã, đảo ngược vũ trụ trở lại Vụ Nổ Lớn và vũ trụ kết thúc bằng một Vụ Co Lớn (Big Crunch); hoặc vũ trụ đơn giản là sẽ giãn nở mãi mãi. Nhưng liệu những viễn cảnh này có kết thúc thời gian? Theo các định luật kỳ lạ của cơ học lượng tử, các hạt ngẫu nhiên nhỏ xíu có thể trong giây lát bật ra khỏi chân không - một thứ gì đó nhìn thấy liên tục trong các thí nghiệm vật lý hạt. Một số cho rằng năng lượng tối có thể khiến các "thăng giáng lượng tử" này tạo nên một Vụ Nổ Lớn mới, kết thúc dòng thời gian của chúng ta và bắt đầu một dòng thời gian mới. Trong khi điều này là rất lý thuyết và không chắc chắn, thì thứ chúng ta biết hiện nay là: chỉ khi chúng ta hiểu được năng lượng tối thì chúng ta sẽ biết được số phận của vũ trụ.
Thời gian
Thời gian là một khái niệm để diễn tả trình tự xảy ra của các sự kiện, biến cố và khoảng kéo dài của chúng. Thời gian được xác định bằng số lượng các chuyển động của các đối tượng có tính lặp lại (sự lượng hoá các chuyển động lặp lại) và thường có một thời điểm mốc gắn với một sự kiện nào đó. (cần lưu ý nếu khái niệm chỉ đơn thuần như trên thì không có cơ sở logic để khẳng định thời gian chỉ có một chiều). Từ "thời gian" có trong tất cả các ngôn ngữ của loài người. Khái niệm thời gian có thể có cả ở động vật. Định nghĩa về thời gian là định nghĩa khó nếu phải đi đến chính xác. Đa số chúng ta ai cũng phải dùng từ đó và nói đến nó, ví dụ "thời gian trôi",. và do đó dứt khoát phải có một cách hiểu chung nhất. Thời gian là thuộc tính của vận động và phải được gắn với vật chất, vật thể. Các nhà triết học đúc kết rằng "thế giới" luôn luôn vận động. Giả sử rằng nếu mọi vật trong vũ trụ đứng im, khái niệm thời gian trở nên vô nghĩa.
Khái niệm kinh tế tri thức manh nha xuất hiện từ đầu những năm 1960 của thế kỷ trước, tiên phong bởi Fritz Machlup và Peter Drucker. Trong hơn bốn thập kỷ qua, đã có nhiều nghiên cứu nhằm xác định và giải thích cơ chế của nền kinh tế này. Trong những năm qua kinh tế tri thức được chọn làm chiến lược phát triển của nhiều quốc gia, cả những nước phát triển và đang phát triển. Tuy nhiên, kinh tế tri thức là khái niệm không dễ hiểu vì dựa trên hai khái niệm trừu tượng là kinh tế và tri thức, và do vậy đã được hiểu nhiều ít khác nhau. Nền kinh tế tri thức, còn gọi là kinh tế dựa vào tri thức (Knowledge – BasedEconomy) là nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức, trên cơ sở phát triển khoa học và công nghệ cao. “Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế ngày càng phụ thuộc trực tiếp vào việc sản xuất phân phối và sử dụng tri thức và thông tin” (OECD 1996). : “Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế mà trong đó quá trình sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức trở thành động lực chính cho tăng trưởng, cho quá trình tạo ra của cải và việc làm trong tất cả các ngành kinh tế” (APEC 2000). Ngân hàng Thế giới (WB,2000) đánh giá “Đối với các nền kinh tế tiên phong trong nền kinh tế Thế giới, cán cân giữa hai yếu tố tri thức và các nguồn lực đang nghiêng về tri thức.Tri thức thực sự đã trở thành yếu tố quan trọng nhất quyết định mức sống – hơn cả yếu tố đất đai, hơn cả yếu tố tư liệu sản xuất, hơn cả yếu tố lao động. Các nền kinh tế phát triển nhất về công nghệ ngày nay thực sự đã dựa vào tri thức”. Còn theo Bộ Thương mại và Công nghiệp Anh: Kinh tế tri thức là nền kinh tế mà việc sản sinh ra và khai thác tri thức có vai trò nổi trội trong quá trình tạo ra của cải. : Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Kinh tế tri thức xuất hiện trong mọi lĩnh vực, trong toàn bộ cơ cấu nền kinh tế quốc dân. ở Bắc Mỹ và một số nước Tây Âu, nền kinh tế tri thức đã bắt đầu hình thành. Hiện nay, ở những nước này riêng về kinh tế thông tin (những ngành kinh tế chủ yếu dựa vào công nghệ thông tin) trong đó nền kinh tế tri thức là chủ yếu, chiếm khoảng 40-50% GDP. Trong các nước OECD kinh tế tri thức chiếm hơn 50% GDP, công nhân tri thức chiếm trên 60% lực lượng lao động. Nhiều người ước tính khoảng năm 2030 các nước phát triển đều trở thành nước có nền kinh tế tri thức. Nền kinh tế tri thức có những đặc trưng cơ bản như: 1.Tri thức đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là vốn; 2. Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu sản xuất dựa ngày càng nhiều vào việc ứng dụng các thành tựu của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao; 3. Cơ cấu lao động trong kinh tế tri thức có những biến đổi như Lao động tri thức chiếm tỷ trọng cao (70-90%), nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa, sự sáng tạo, đổi mới, học tập trở thành nhu cầu thường xuyên đối với mọi người. ở đỉnh cao của nó, xã hội của nền kinh tế tri thức sẽ trở thành xã hội học tập; 4. Trong nền kinh tế tri thức, quyền sở hữu đối với tri thức trở nên quan trọng; 5. Mọi hoạt động của kinh tế tri thức đều liên quan đến vấn đề toàn cầu hóa. Chi nghiên cứu và triển khai các công trình khoa học vào thực tiễn so với tổng chi ngân sách nhà nước;. Chi cho đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao so với tổng chi cho giáo dục của toàn xã hội;. Tỷ lệ vốn đầu tư cho lĩnh vực công nghệ thông tin so với tổng vốn đầu tư;. Tỷ lệ doanh thu của ngành công nghệ thông tin so với tổng giá trị sản xuất của nền kinh tế;. Tỷ lệ doanh thu bán phần mềm so với tổng doanh thu của khu vực doanh nghiệp trong nền kinh tế;. Tỷ lệ giá trị tăng thêm của các ngành thông tin so với tổng sản phẩm trong nước;. Tỷ lệ của sản nghiệp tri thức so với tổng giá trị tài sản của nền kinh tế;. Nhân tử đầu ra của ngành văn hóa, du lịch văn hóa, du lịch tri thức đối với các ngành sản xuất vật chất và tiêu dùng của dân cư;. Hệ số liên hệ xuôi (Forward linkage), hệ số liên hệ ngược (Backward linkage) của ngành văn hóa, du lịch văn hóa, du lịch tri thức đối với các ngành sản xuất vật chất và tiêu dùng của dân cư;. Tỷ lệ lao động làm công tác thông tin so với tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế;. Chi cho nghiên cứu và triển khai các công trình khoa học vào thực tiễn so với tổng vốn đầu tư của khu vực doanh nghiệp;. Tỷ lệ cán bộ làm nghiên cứu và triển khai công nghệ của khu vực doanh nghiệp so với tổng số lao động của khu vực doanh nghiệp;. Tỷ lệ dân cư tham gia hoạt động thương mại điện tử so với tổng dân số;. Các chỉ tiêu về tiếp cận, sử dụng và thụ hưởng thông tin trong đời sống hằng ngày của dân cư. Ngay từ những năm 70 của thế kỷ XX, các quốc gia có nền kinh tế và khoa học công nghệ phát triển đã đề ra những chương trình, chiến lược nhằm hướng nền kinh tế phát triển theo những đặc trưng của kinh tế tri thức. Có thể kể đến những ví dụ điển hình như: từ 1984 đến nay, mỗi năm chính phủ Mỹ chi hàng trăm tỷ USD cho hoạt động khoa học, công nghệ. Từ những năm 80 của thế kỷ XX, chính phủ Nhật đã dành cho chương trình vi điện tử hơn 100 tỷ USD. Những năm 90 đến nay, nước Nhật đã dành khoảng 3% tổng sản phẩm quốc dân cho hoạt động nghiên cứu và triển khai. Các nước Tây Âu cũng đẩy mạnh hoạt động vào lĩnh vực công nghệ cao, như: công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, điển hình là các nước Đức, Pháp, Italia, Anh, Ba Lan…. để đo lường sự phát triển của kinh tế tri thức tại các quốc gia, hiện nay có chỉ số KEI (knowledge economy index) của Ngân hàng thế giới. Năm 2012, Thụy Điển, Phần Lan và Đan Mạch là 3 quốc gia đạt hạng cao nhất thế giới về phát triển kinh tế tri thức với số điểm lần lượt là 9,43, 9,33 và 9,16. Trong bảng đánh giá này, Việt Nam xếp hạng 104 với số điểm 3,4, tăng 9 bậc so với năm 2000. Xã hội tri thức là một trật tự xã hội ở các nước phát triển, trong đó kiến thức của các cá nhân và tập thể và tổ chức của họ ngày càng trở thành nền tảng của xã hội và kinh tế, cũng như sự chung sống với nhau.
Kinh tế tri thức
Kinh tế tri thức xuất hiện trong mọi lĩnh vực, trong toàn bộ cơ cấu nền kinh tế quốc dân. ở Bắc Mỹ và một số nước Tây Âu, nền kinh tế tri thức đã bắt đầu hình thành. Hiện nay, ở những nước này riêng về kinh tế thông tin (những ngành kinh tế chủ yếu dựa vào công nghệ thông tin) trong đó nền kinh tế tri thức là chủ yếu, chiếm khoảng 40-50% GDP. Trong các nước OECD kinh tế tri thức chiếm hơn 50% GDP, công nhân tri thức chiếm trên 60% lực lượng lao động. Nhiều người ước tính khoảng năm 2030 các nước phát triển đều trở thành nước có nền kinh tế tri thức. Nền kinh tế tri thức có những đặc trưng cơ bản như: 1. Tri thức đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là vốn; 2. Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu sản xuất dựa ngày càng nhiều vào việc ứng dụng các thành tựu của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao; 3. Cơ cấu lao động trong kinh tế tri thức có những biến đổi như Lao động tri thức chiếm tỷ trọng cao (70-90%), nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa, sự sáng tạo, đổi mới, học tập trở thành nhu cầu thường xuyên đối với mọi người.
Hiểu một cách khái quát, Đông phương học là ngành học tìm hiểu về lịch sử, địa lý, kinh tế, chính trị, ngôn ngữ, văn hóa… các nước phương đông. Với những bạn có thiên hướng về ngành xã hội, muốn tìm tòi, khám phá và nghiên cứu những điều mới mẻ từ các quốc gia thì Đông phương học chính là một lựa chọn vô cùng phù hợp. Theo học ngành đông phương, bạn sẽ được cung cấp những trí thức, hiểu biết đặc sắc về những nền văn hóa lớn như Nhật Bản, Hàn Quốc, khu vực Đông Á, Đông Nam Á… Song song với việc học ngôn ngữ, sinh viên cũng sẽ lĩnh hội những nền tảng căn bản thông qua những môn học thú vị như cơ sở văn hóa Việt Nam, xã hội học , lịch sử văn minh thế giới…. Theo trình tự từ kiến thức tổng quát đến riêng biệt, chương trình tại nhiều trường đào tạo ngành này đều có những điểm chung như các tiết về nhập môn đông phương học, quan hệ quốc tế phương đông, tôn giáo phương đông và nghiệp vụ hướng dẫn du lịch. Sau đó, tùy theo nhu cầu và mục đích học tập, sự phân ngành sẽ bắt đầu ở các môn như tiếng Nhật thương mại, kinh tế chính trị Nhật Bản, văn hóa – xã hội – lịch sử Nhật Bản… cho những ai yêu đất nước phù tang. Các bạn say mê xứ kim chi thì có thể chọn cho mình các môn như tiếng Hàn thương mại, kinh tế chính trị Hàn Quốc và cuối cùng là văn hóa – xã hội – lịch sử Hàn Quốc. Tại Tp.HCM, có thể kể đến một số trường đại học uy tín có truyền thống đào tạo ngành đông phương học lâu đời như trườngĐại học Khoa học Xã hội Nhân văn – Đại học quốc gia TPHCM, Đại học Sư phạm TPHCM, Đại học Công Nghệ TPHCM (thienmaonline.vn), …. Và dĩ nhiên, tại những trường này, chất lượng có thể được nhìn nhận rất rõ thông qua những thế hệ sinh viên đông phương học thành công tại nhiều cơ quan trong nước lẫn quốc tế. Sinh viên khoa đông phương học sau khi tốt nghiệp thật sự có rất nhiều lựa chọn, với những vị trí công tác đa dạng. Với vốn ngoại ngữ cũng như kiến thức chuyên môn, sinh viên ngành này có thể làm trong các tổ chức nhà nước của Việt Nam như: các cơ quan ngoại giao, văn phòng đại diện nước ngoài, giảng dạy tại các trường đại học, các viện nghiên cứu khoa học xã hội, các cơ quan thông tấn báo chí, các đài phát thanh – truyền hình trung ương lẫn địa phương. Ngoài ra, cử nhân ngành đông phương học còn có thể chọn lựa công tác tại Đại sứ quán, Lãnh sự quán các quốc gia, các tổ chức quốc tế, các công ty du lịch – lữ hành, các doanh nghiệp tư nhân và nước ngoài có trụ sở đặt tại Việt Nam với những vị trí như biên phiên dịch, admin, thư ký, trợ lý, hướng dẫn viên… Theo những giảng viêngiàu kinh nghiệm của ngành Đông phương thienmaonline.vn – một ngôi trường nổi bật về chất lượng nguồn nhân lực ngành này trong những năm gần đây – thì ngoài việc trang bị những kiến thức cơ bản, kỹ năng mềm chính là yếu tố vô cùng quan trọng. Bên cạnh việc thông thạo ngoại ngữ, nắm vững kiến thức thì kỹ năng giao tiếp tự tin hay thuyết trình trước đám đông sẽ là những “chiêu thức” hiệu quả để bạn trẻ dễ dàng ghi điểm trước các nhà tuyển dụng đầy khó tính trong tương lai. Môi trường làm việc rộng, cơ hội việc làm cao, và có cơ hội khẳng định bản thân mình là những ưu thế mà các bạn lựa chọn ngành Đông Phương học có khả năng đạt được từ ít tới nhiều, tùy vào năng lực. Những thông tin trên có lẽ đã phần nào giúp bạn giải thích được cho những câu hỏi ngành Đông phương là gì? Ra trường làm gì? để định hướng cho con đường tương lai sau này. Tuy nhiên, để hiểu sâu hơn về cách thức xét tuyển của ngành này phải thi những tổ hợp môn nào? Hình thức xét tuyển ra sao?, bạn nên vào trang web của ngôi trường mà mình quan tâm để tra cứu kỹ hơn nhé. Chúc bạn may mắn và thành công!
Đông phương học
Đông phương học là ngành của khoa học xã hội với mục tiêu nghiên cứu con người và xã hội phương Đông. Theo cách hiểu của môn này thì phương Đông gồm các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Triều Tiên, Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ hay cả Úc hoặc Đông Nam Á nói chung. Về lịch sử ngành này được những thương nhân và nhà truyền giáo châu Âu khi sang châu Á lập ra nhằm nghiên cứu nền văn hóa, phong tục tập quán của những nước ở phương Đông. Vì vậy tuy về mặt địa lý, Ấn Độ không nằm ở Đông Á nhưng vẫn được nghiên cứu trong ngành này. Ngành này là một ngành lớn với những ngành học con như Nhật Bản học, Trung Quốc học, Đông Nam Á học, Úc học, Hàn Quốc học, Ấn Độ học và Việt Nam học. Do đó để có thể nghiên cứu được những ngành con thì điều quan trọng người nghiên cứu phải nắm vũng được ngôn ngữ chính thức được sử dụng tại từng quốc gia rồi sau đó mới có thể tìm hiểu được lịch sử, địa lý, văn hóa, kinh tế, chính trị tại những nước này, cũng như mối quan hệ lịch sử giữa các nền văn hóa phương Đông.
Bất đẳng vật dụng xứng đáng nhớ rằng kỹ năng đặc trưng vào lịch trình Tân oán cho những em học viên. Việc vắt được bất đẳng thức là gì, các bất đẳng thức Cođê mê (AM-GM), bất đẳng thức Bunhiacopxki, bất đẳng thức Schwarz… để giúp những em tìm kiếm được giải thuật cho các bài xích toán thù. Cùng duhoc-o-canada.com.COM.toàn nước khám phá các kiến thức và kỹ năng về bất đẳng thức lưu niệm vào nội dung bài viết dưới đây!. Trong toán học, một bất đẳng thức (tiếng Anh:Inequality) là một tuyên bố về tình dục thứ tự giữa nhì đối tượng người dùng, với hai đối tượng người sử dụng là các biểu thức đựng các số với những phnghiền toán thù.Bạn đang xem: Bất đẳng thức là gì. Biểu thức phía phía bên trái dấu bất đẳng thức được Call là vế trái, biểu thức phía mặt buộc phải được Call là vế yêu cầu của bất đẳng thức. Lúc một bất đẳng thức đúng với đa số giá trị của toàn bộ những biến có mặt vào bất đẳng thức, thì được call là bất đẳng thức tuyệt đối hoàn hảo hay không điều kiện. khi một bất đẳng thức đúng cùng với một số trong những quý giá như thế nào đó của biến chuyển, với các quý giá khác thì nó bị thay đổi chiều hay không còn đúng nữa thì được goị là 1 bất đẳng thức gồm ĐK. Một bất đẳng thức đúng, sẽ vẫn đúng nếu cả nhì vế của nó được chế tạo hoặc ít hơn cùng một giá trị, giỏi giả dụ cả nhì vế của chính nó được nhân hay chia với thuộc một trong những dương. Một bất đẳng thức sẽ bị hòn đảo chiều ví như cả hai vế của nó thực hiện nhân tuyệt chia vị một trong những âm. Đây là hồ hết kiến thức và kỹ năng cơ bản tuy thế đặc biệt cho những bất đẳng thức lưu niệm. Trường hợp nếu như a > b hoặc a = b, hoàn toàn có thể cam kết hiệu là (ageq b). Quy ước: – lúc nói về một bất đẳng thức cơ mà không nói gì thêm thì ta hiểu rõ rằng kia là một trong những bất đẳng thức đúng. Phnghiền nhân (hoặc chia) cùng với một vài thực dương bảo toàn dục tình vật dụng trường đoản cú bên trên tập số thực, phxay nhân (hoặc chia)với một số trong những thực âm hòn đảo ngược quan hệ nam nữ máy trường đoản cú bên trên tập số thực. Dễ thấy, cũng bằng những đặc điểm làm việc bên trên, hoàn toàn có thể cộng/trừ thuộc một vài vào tía số hạng này, hay nhân/phân tách cả cha số hạng này với cùng một số trong những không giống 0, cùng tùy từng lốt của số nhân/phân chia đó mà có hòn đảo chiều bất đẳng thức hay là không. Trong tân oán học thường ít dùng đẳng cấp ký kết hiệu này, còn trong ngữ điệu lập trình sẵn, chỉ có một không nhiều ngôn ngữ nhỏng Pynhỏ cho phép dùng một số loại ký kết hiệu này. Khi chạm chán đề xuất những đại lượng mà lại cần thiết kiếm được hoặc ko dễ ợt tìm được công thức tính đúng mực, những công ty tân oán học hay được sử dụng bất đẳng thức nhằm giới hạn khoảng tầm tổn phí trị nhưng những đại lượng kia hoàn toàn có thể bao gồm. Bất đẳng thức Coham mê, tốt bất đẳng thức AM-GM thực chất là 1 trong bất đẳng thức lưu niệm chỉ mối quan hệ giữa vừa phải cộng và vừa đủ nhân. Đây là một trong trong số bất đẳng thức lưu niệm được sử dụng nhiều nhất trong các bài xích toán thù chứng minh bất đẳng thức nghỉ ngơi chương trình toán trung học tập phổ quát. Bất đẳng thức AM-GM là tên đúng của bất đẳng thức vừa phải cùng cùng mức độ vừa phải nhân. Có những cách để chứng minh bất đẳng thức này nhưng xuất xắc độc nhất vô nhị là giải pháp chứng tỏ quy hấp thụ của Comê mẩn (Cauchy). Do vậy, đa số người lầm lẫn rằng Cauchy phân phát hiển thị bất đẳng thức này. Trung bình cộng của n số thực không âm luôn luôn lớn hơn hoặc bởi vừa phải nhân của bọn chúng, và vừa đủ cùng chỉ bằng vừa đủ nhân Lúc và chỉ còn Lúc n số đó đều nhau. Bất đẳng thức Bunhiacopxki mang tên gọi và đúng là bất đẳng thức Cauchy – Bunhiacopxki – Schwarz, vày tía bên toán học hòa bình phân phát hiện tại với khuyến nghị, có nhiều áp dụng trong số lĩnh vực toán thù học tập. Với bất đẳng thức lưu niệm này, bạn cần gắng được các kiến thức và kỹ năng sau:. Bất đẳng thức Cauchy – Chwarz là 1 trong những hệ trái của bất đẳng thức Holder lúc m=2. Nlỗi bất đẳng thức Holder, bất đẳng thức Minkowski dẫn cho Kết luận rằng những không gian Lp là những không gian vector định chuẩn chỉnh. Bất đẳng thức Schawarz có cách gọi khác là Bất đẳng sản phẩm Cauchy, Bất đẳng thức Cauchy Schwarz, Bất đẳng thức Cauchy-Buyakovski-Schwarz. Đây là một trong bất đẳng thức đáng nhớ hay được vận dụng trong nhiều nghành không giống nhau của toán học tập, chẳng hạn sử dụng cho những vector trong đại số tuyến đường tính, trong giải tích sử dụng cho các chuỗi vô hạn và tích phân của những tích, vào triết lý Phần Trăm sử dụng cho những phương thơm sai. Bất đẳng thức cùng Chebyshev cũng là 1 trong bất đẳng thức lưu niệm với quan trọng. Nó được đặt theo thương hiệu bên toán học tập Pafnuty Chebyshev:
Bất đẳng thức Cauchy–Schwarz
Trong toán học, bất đẳng thức Cauchy – Schwarz, còn được gọi là bất đẳng thức Schwarz, bất đẳng thức Cauchy, hoặc bằng cái tên khá dài là bất đẳng thức Cauchy – Bunyakovsky – Schwarz, đặt theo tên của Augustin Louis Cauchy, Viktor Yakovlevich Bunyakovsky và Hermann Amandus Schwarz, là một bất đẳng thức thường được áp dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau của toán học, chẳng hạn trong đại số tuyến tính dùng cho các vector, trong giải tích dùng cho các chuỗi vô hạn và tích phân của các tích, trong lý thuyết xác suất dùng cho các phương sai và hiệp phương sai. Tài liệu giáo khoa Việt Nam gọi bất đẳng thức này là bất đẳng thức Bunyakovsky hoặc bằng tên dài nói trên nhưng đảo thứ tự là bất đẳng thức Bunyakovsky – Cauchy – Schwarz nên thường viết tắt là bất đẳng thức BCS. Cũng cần tránh nhầm lẫn với bất đẳng thức trung bình cộng và trung bình nhân mà tài liệu giáo khoa tại Việt Nam gọi là bất đẳng thức Cauchy. Dấu đẳng thức xảy khi và chỉ khi x và y phụ thuộc tuyến tính (hay nói theo ý nghĩa hình học là chúng song song với nhau).
Xác suất có điều kiện là khả năng, cơ hội xảy ra một biến cố hoặc kết quả dựa trên số lần xuất hiện của biến cố hoặc kết quả đó trước đó. Xác suất có điều kiện được tính bằng cách nhân xác suất trước đó của biến cố với xác suất cập nhật của biến cố. - Biến cố A là trời đang mưa và xác xuất của biến cố A là 0,3 hay khả năng hôm nay trời có mưa là 30%. - Biến cố B là một sẽ ra khỏi nhà và xác xuất của biến cố B là 0,5 hay khả năng hôm nay người đó ra khỏi nhà là 50%. Xác suất có điều kiện sẽ xem xét hai biến cố này với giả định là chúng có mối quan hệ với nhau, được gọi là xác suất một người sẽ ra khỏi nhà khi trời đang mưa. Vì xác suất có điều kiện phụ thuộc vào các kết quả xảy ra trước đó, nó cũng bao hàm một số giả định. Trong lần lấy đầu, xác suất có điều kiện của việc cậu bé lấy được viên bi đỏ là xấp xỉ 33% vì đó là một trong ba kết quả có thể xảy ra. Giả sử biến cố đầu tiên xảy ra hay cậu bé đã lấy ra viên bi đỏ, trong túi chỉ còn hai viên bi màu xanh lá và xanh dương, xác suất lấy được mỗi viên tăng lên 50% do chỉ còn hai kết quả có thể xảy ra. Vì vậy, xác xuất để lấy được viên bi màu xanh sau khi lấy viên bi đỏ sẽ là xấp xỉ 16,5% hay 33%*50%. - Xác suất biên hay còn gọi là xác suất vô điều kiện, là xác suất một biến cố xảy ra kí hiệu là p(A), không bị ảnh hưởng bởi các biến cố khác hay các thông tin mới. Ví dụ xác suất một cổ phiếu tăng là xấp xỉ 33% do cổ phiếu chỉ có thể tăng, giảm hoặc giữ nguyên giá. - Xác suất kết hợp kí hiệu là p(A∩B) là xác suất của biến cố A và biến cố B cùng xảy ra. Xác xuất kết hợp có thể là xác suất giao điểm của hai hoặc nhiều biến cố. Ví dụ xác suất cổ phiếu của hai công ty trong một danh mục đầu tư là 33% hay (1/6 +1/6) = 2/6 = 1/3.
Xác suất có điều kiện
Xác suất biên duyên và Xác suất hợp được định hướng tới bài này. Bài này định nghĩa một số thuật ngữ về phân bố xác suất của hai biến trở lên. Xác suất có điều kiện (Conditional probability) là xác suất của một biến cố A nào đó, biết rằng một biến cố B khác xảy ra. Ký hiệu P(A B), và đọc là "xác suất của A, biết B". Xác suất hợp (Joint probability) là xác suất của hai biến cố cùng xảy ra. Xác suất biên (Marginal probability) là xác suất của một biến cố mà không quan tâm đến các biến cố khác. Xác suất biên được tính bằng cách lấy tổng (hoặc tổng quát hơn là tích phân) của xác suất hợp trên biến cố không cần đến. Việc này được gọi là biên hóa (marginalization). Xác suất biên của A được ký hiệu là P(A), còn xác suất biên của B được ký hiệu là P(B). Trong các định nghĩa này, lưu ý rằng không cần có một quan hệ nhân quả hay thời gian giữa A và B. A có thể xảy ra trước B hoặc ngược lại, hoặc chúng có thể xảy ra cùng lúc.
Là tên một gò đất trên cánh đồng phía Đông Nam núi Ba Thê, Óc Eo đi vào lịch sử khảo cổ học Việt Nam như một vùng đất văn hóa khảo cổ đầy hấp dẫn. Văn hóa Óc Eo hình thành và phát triển từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VII sau Công nguyên. Đây là một nền văn hóa lớn trong lịch sử Việt Nam, gắn liền với đất nước - con người ở vùng đồng bằng - châu thổ hạ lưu sông Mê công; đồng thời, nó còn có quan hệ mật thiết với lịch sử Đông Nam Á thời cổ. Vùng này phân bố trên một khu vực rất rộng ở miền châu thổ sông Cửu Long, trong miền đất trũng Tây sông Hậu bao gồm nhiều vùng sinh thái khác nhau của các tỉnh An Giang (Óc Eo - Ba Thê), Kiên Giang (Đá Nổi, Nền Chùa, Tân Long), Đồng Tháp (vùng Đồng Tháp Mười), vùng ven biển Tây Nam (U Minh, Năm Căn) kéo đến vùng rừng Sác duyên hải (Cần Giờ, Giồng Am.) và vươn ra tận Biển Đông (khu vực từ cửa sông Tiền đến Cà Mau). Ngoài ra, khảo cổ học đã phát hiện nhiều di tích, di vật thuộc văn hóa Óc Eo ở các tỉnh Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Đồng Nai, một phần Long An, Bình Thuận và thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở các cuộc khai quật vào năm 1944, Louis Malleret cho rằng cánh đồng Óc Eo là một thành thị cổ và đặt tên là thành thị Óc Eo hay thị cảng Óc Eo, có diện tích rộng tới 450 ha với một tiền cảng có tên là Tà Keo, cách Óc Eo 12 km về phía Tây Nam. Vùng này không chỉ có hình ảnh của một đô thị quy củ mà còn có nhiều dấu tích của một trung tâm tôn giáo - văn hóa lớn với 3 cụm quần thể kiến trúc: Vùng Linh Sơn Tự, vùng Đông Bắc núi Ba Thê và vùng Giồng Cát, Giồng Xoài. Trong các cuộc khảo sát và khai quật đã tìm thấy ở các di chỉ thuộc văn hóa Óc Eo các loại tượng to nhỏ, nhẫn, hoa tai, hạt đá quý, mã não, hạt thủy tinh, con dấu, bùa đeo, công cụ bằng đồng và bằng đá; các loại hiện vật bằng đất nung như dọi xe sợi, bếp lò, đĩa đèn, chậu, nồi, vò v.v…. Các sưu tập hiện vật của Óc Eo thể hiện tính phong phú và đa dạng của nền văn hóa này; tính bản địa, sự giao thoa và đan xen giữa các nền văn hóa trong khu vực cũng như với các vùng khác. Sự ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ ở Óc Eo rất đậm nét, biểu hiện qua các đề tài trang trí, qua kiểu mũ hay tư thế ngồi của các pho tượng, qua con dấu với dòng chữ viết bằng các kiểu văn tự Ấn Độ v.v…. Tính bản địa của nền văn hóa này được thể hiện qua đồ gốm, qua nồi nấu kim loại, khuôn đúc và các công cụ chế tác. Mối liên hệ tiếp nối văn hóa Đồng Nai - Óc Eo được minh chứng bởi sự hiện diện ở văn hóa Óc Eo hàng loạt loại hình hiện vật đã có mặt trong văn hóa Đồng Nai. Đó là các đồ dùng, vật dụng sinh hoạt bằng gốm, dụng cụ thủ công (bàn xoa, bàn dập, bàn mài…); đồ đồng, đồ sắt (lục lạc, mũi dùi, rìu); đồ trang sức (hạt chuỗi thủy tinh, mã não); nhà sàn trên cọc gỗ…. Văn hóa Óc Eo có những giao lưu văn hóa rộng lớn với những nền văn minh thời cổ đại như với văn minh Đông Sơn (những hoa văn trang trí và những hiện vật đồng kiểu tương tự như văn minh Đông Sơn); với Ấn Độ (những tượng thờ thuộc Ấn Độ giáo, Phật giáo, đồ trang sức, hoa văn chạm chìm, con dấu, văn tự…); với thế giới Địa Trung Hải và Trung Đông (huy chương La Mã, hoa văn trang trí, hình chạm chìm, tượng đồng, hạt chuỗi La Mã, hình tượng vua Ba Tư…); và với Trung Hoa (mảnh gương đồng, tượng phật nhỏ). Óc Eo là một di tích rất lớn, một trung tâm văn hóa cổ của đồng bằng sông Cửu Long, một hình mẫu của sự kết hợp những yếu tố nội sinh và ngoại sinh trong sự phát triển; một vốn quý và điểm chốt quan trọng trong việc nghiên cứu những vấn đề lịch sử văn hóa của đất nước và khu vực Đông Nam Á. Do đó, cần phải bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Óc Eo - một di sản văn hóa - lịch sử quan trọng của Việt Nam nói riêng và của Đông Nam Á nói chung.
Văn hóa Óc Eo
Văn hóa Óc Eo là một nền văn hóa cổ hình thành và phát triển ở Nam Bộ Việt Nam từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 7 sau Công Nguyên. Đây là một nền văn hóa lớn trong lịch sử Việt Nam, gắn liền với đất nước, con người ở vùng châu thổ hạ lưu sông Mê Kông và có quan hệ mật thiết với lịch sử Đông Nam Á cổ đại. Óc Eo vốn là tên một gò đất trên cánh đồng phía đông nam núi Ba Thê (nay thuộc thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang), là nơi đầu tiên tìm thấy những di chỉ quan trọng của nền văn minh này vào năm 1944. Văn hóa Óc Eo là nền văn hóa bản địa gắn liền với sự tồn tại của Phù Nam – một vương quốc hùng mạnh tại Đông Nam Á trong những thế kỷ đầu Công nguyên. Phạm vi phân bố của nền văn hóa này trải rộng không chỉ ở Nam Bộ Việt Nam, mà còn ảnh hưởng sang Campuchia, Thái Lan, Myanmar và một phần Malaysia hiện nay. Tại Nam Bộ, nhiều di tích văn hóa Óc Eo đã được khai quật ở các tỉnh thành như An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Bạc Liêu, Vĩnh Long, Tiền Giang, Long An, Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai.
Các câu chuyện dân gian và tác phẩm dã sử Trung Quốc thường khắc họa nhân vật Lưu Bá Ôn là một vị quân sư xuất chúng có khả năng tiên tri thần sầu. Thậm chí, trong nhiều tích cổ, Lưu Bá Ôn còn được coi như vị thần tái thế, mang sức mạnh siêu nhiên hô mưa gọi gió, nắm rõ lịch sử 500 năm trước và tiên lượng 500 năm sau. Trên phương diện văn thơ, hậu thế vẫn ưu ái gọi tên ông là "Thần cơ diệu toán". Ông được người đời biết đến với vai trò công thần khai quốc nhà Minh, đi theo phò tá Chu Nguyên Chương (1328-1398) hoàn thành đế nghiệp. Nhờ có sự phò tá của quân sư họ Lưu, Chu Nguyên Chương từ một thường dân ở tầng lớp tá điền nghèo khổ đã vươn lên trở thành hoàng đế khai quốc nhà Minh. Theo cuốn "Sử ký Nhà Minh" chương 16, năm Chí Chính thứ 12 (1352), Chu Nguyên Chương tham gia lực lượng khởi nghĩa nông dân có tên là Quân Khăn Đỏ, nhậm chức Tả phó Nguyên soái. Bốn năm sau, Chu Nguyên Chương đánh chiếm Tập Khánh (nay là thành phố Nam Kinh, Trung Quốc), được thủ lĩnh phong trào tiến phong lên chức Ngô Quốc Công. Vào thời điểm này, nghĩa quân của ông cùng lúc phải đối mặt với hai kình địch: Một là Trần Hữu Lượng đang chiếm cứ vùng Hồ Quảng, vùng đất thượng du sông Trường Giang. Phe còn lại là Trương Sĩ Thành, đang xưng bá tại vùng châu thổ Tô Châu, Hàng Châu phì nhiêu giàu có. Vị trí chiếm đóng của hai kẻ này tạo thành "thế gọng kìm" vô cùng nguy hiểm, có thể đánh kẹp Chu Nguyên Chương ở giữa bất kỳ lúc nào. Sức người và quân lương có hạn, nghĩa quân Hồng Cân không thể cùng lúc đánh bại cả hai kẻ thù. Chu Nguyên Chương lúc này rơi vào thế bí, tìm đến sự giúp đỡ của Lưu Bá Ôn. Quân sư họ Lưu vốn rất thấu hiểu quân địch, nghe vậy mới hiến kế cho chủ soái:. "Trương Sĩ Thành là người thụ động, chỉ bo bo giữ lấy lãnh địa của mình nên sẽ không phạm đến chúng ta. Hắn không đáng để bận tâm. Còn Trần Hữu Lượng, hắn là kẻ hiếu thắng và nông nổi. Trước tiên, chúng ta nên xử lý Trần Hữu Lượng. Khi họ Trần diệt vong, quân đội của Trương Sĩ Thành sẽ trở cô độc và yếu thể. Như vậy mới có thể giải quyết cả hai mối bận tâm này cùng một lúc.". Vào thời điểm đó, Trần Hữu Lượng đang đi dần về phía Đông, quân sĩ mạnh lên như vũ bão. Thuộc hạ của Chu Nguyên Chương bắt đầu dao động, một số đưa ra đề nghị đầu hàng, một số đề nghị chạy trốn đến Trung Sơn, chỉ có Lưu Bá Ôn chưa lên tiếng. Chu Nguyên Chương triệu quân sư vào phòng trong bàn chuyện, Lưu Cơ khi nghe những kiến nghị của quân sĩ, tức giận mà nói: "Những kẻ chủ trương đầu hàng hoặc chạy trốn đáng bị chặt đầu". Sau đó, nói về kế hoạch của mình, Lưu Cơ đáp: "Trần Hữu Lượng là kẻ kiêu ngạo, vội vàng, muốn đánh nhanh thắng nhanh. Vì vậy, chúng ta cần bình tĩnh và bí mật đợi hắn tiến vào sâu, tập kích hắn rồi hạ thủ, chuyện này không có gì là khó". Chu Nguyên Chương nghe theo lời khuyên của Lưu Cơ, tập kích quân Trần Hữu Lượng. Quả nhiên đối phương ngông nghênh tiến vào và bị hạ nhanh chóng. Ngô Quốc công sau đó quyết định thưởng lớn cho Lưu Bá Ôn nhưng ông nhất định từ chối. Tập tư liệu "Nhân vật lịch sử vĩ đại" được lưu giữ tại Thư viện Chiết Giang có thuật lại một lần Lưu Bá Ôn dùng tài tiên đoán của mình để cứu mạng Chu Nguyên Chương. Năm Chí Chính thứ 23 (1363), quân của Trần Hữu Lượng một lần nữa chiếm được An Khánh (nay thuộc tỉnh An Huy). Chu Nguyên Chương lần này muốn tự mình dẫn quân đi chinh phạt, để quân sư họ Lưu ở lại trấn giữ phủ Ứng Thiên. Khi tới gần chiến thuyền của địch, binh sĩ bèn quăng móc để móc dính thuyền địch và thuyền hỏa công, rồi nổi lửa đốt. Chỉ trong chốc lát, lửa cháy ngút trời. Chiến hạm lớn của địch đều bị thiêu rụi. Cuộc chiến đấu giữa đôi bên diễn ra vô cùng ác liệt, tướng sĩ thương vong vô số. Trần Hữu Lượng không tiên liệu được điều đó nên tổn thất càng lớn hơn. Trận thủy chiến kéo dài ngày đêm bất phân thắng bại, quân sư họ Lưu đề nghị nhanh chóng đi đến Giang Châu, đánh thẳng vào hang ổ của Trần Hữu Lượng. Như vậy, đoàn quân nhanh như vũ bão tiến thẳn về phía Tây, Trần Hữu Lượng bị tập kích bất ngờ, không kịp phản kháng, bị giết chết trên đường tháo chạy. Cũng trong chính trận thủy chiến căng thẳng này, Lưu Cơ đã lập công lớn khi bảo vệ được hoàng đế khai quốc nhà Minh trước âm mưu sát hại của quân địch. Tập tư liệu "Nhân vật lịch sử vĩ đại" được lưu giữ tại Thư viện Chiết Giang có thuật lại một lần Lưu Bá Ôn dùng tài tiên đoán của mình để cứu mạng Chu Nguyên Chương. Năm Chí Chính thứ 23 (1363), quân của Trần Hữu Lượng một lần nữa chiếm được An Khánh (nay thuộc tỉnh An Huy). Chu Nguyên Chương lần này muốn tự mình dẫn quân đi chinh phạt, để quân sư họ Lưu ở lại trấn giữ phủ Ứng Thiên. Ngay sau khi Lưu Bá Ôn trở về Bắc Kinh, ông đã thuyết phục Chu Nguyên Chương rằng: "Cả quân Hán và quân Ngô đều đang chờ cơ hội để tấn công. Chúng ta không nên hành động hấp tấp.". Tuy nhiên do quá nóng lòng, chủ soái đã không nghe theo lời khuyên của Lưu Bá Ôn mà hành động theo ý mình, ngay lập tức dẫn quân đến An Khánh. Tại đây, Trần Hữu Lượng đã bày binh bố trận sẵn sang chuẩn bị nghênh chiến tại hồ Bà Dương (nay là tỉnh Giang Tây). Chu Nguyên Chương nhiều lần gặp bất lợi, suýt nữa lâm nguy, nên ngay lập tức triệu Lưu Bá Ôn đến trợ giúp. Quân sư đi bất kể ngày đêm để kịp thời đến nơi bàn bạc chiến thuật phá địch. Hai người đều chủ trương dùng hỏa công. Lúc bấy giờ, Phương Quốc Trân - một trong những thủ lĩnh của nhánh quân nhỏ phía Nam, đã viết thư cho Lưu Bá Ôn để chia buồn với cái chết của mẹ ông, đồng thời, ngỏ ý muốn triệu Lưu Cơ về phe mình. Lưu Bá Ôn sau đó gửi thư lại, không nhiều lời về hoàn cảnh gia đình mà đanh thép khẳng định sự đức độ, quyền lực và tài năng của Chu Nguyên Chương. Sự kiên trung một lòng của Bá Ôn đã khiến Phương Quốc Trân vô cùng nể trọng. Là nhân tài có công lớn lại tận tâm tận lực phò tá chủ soái, thế nhưng cuộc đời của Lưu Bá Ôn sau khi trở thành công thần nhà Minh lại gặp phải nhiều sóng gió, oan khuất. Đến cuối đời, Lưu Bá Ôn đành phải xin cáo quan về ở ẩn. Khi tới gần chiến thuyền của địch, binh sĩ bèn quăng móc để móc dính thuyền địch và thuyền hỏa công, rồi nổi lửa đốt. Chỉ trong chốc lát, lửa cháy ngút trời. Chiến hạm lớn của địch đều bị thiêu rụi. Cuộc chiến đấu giữa đôi bên diễn ra vô cùng ác liệt, tướng sĩ thương vong vô số. Trần Hữu Lượng không tiên liệu được điều đó nên tổn thất càng lớn hơn. Trận thủy chiến kéo dài ngày đêm bất phân thắng bại, quân sư họ Lưu đề nghị nhanh chóng đi đến Giang Châu, đánh thẳng vào hang ổ của Trần Hữu Lượng. Như vậy, đoàn quân nhanh như vũ bão tiến thẳn về phía Tây, Trần Hữu Lượng bị tập kích bất ngờ, không kịp phản kháng, bị giết chết trên đường tháo chạy. Cũng trong chính trận thủy chiến căng thẳng này, Lưu Cơ đã lập công lớn khi bảo vệ được hoàng đế khai quốc nhà Minh trước âm mưu sát hại của quân địch. Năm Chí Chính thứ 23, Trương Sĩ Thành bao vây thành Kiến Đức. Vị nguyên soái giữ thành là Lý Văn Trung nghe tin cả giận, muốn đánh một trận chết sống với hắn. "Đội quân của Trương Sĩ Thành chỉ vài ba hôm nữa nhất định sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp tế lương thảo, buộc phải triệt thoái. Đợi khi chúng cạn kiệt rút lui chúng ta bắt đầu đuổi theo, chắc chắn chỉ cần đánh một trận là bắt sống được hắn". Lý Văn Trung bèn xuống lệnh truy kích. Sau một trận kịch chiến, quả nhiên quân đội của Trương Sĩ Thành vốn đang đói lại đang mệt mỏi, nên không sao chống đỡ nổi. Chẳng mấy chốc chúng thất bại thảm hại và bị quân của Lý Văn Trung bắt sống toàn bộ. Không chỉ là một vị tướng tài ba, Lưu Bá Ôn còn hết lòng tôn trọng và trung thành với chủ soái của mình. Theo cuốn ký "Thành Ý" của Lưu Cơ, giữa lúc chiến trận căng thẳng nhất, mẹ ông đã đột ngột qua đời. Dù vậy, chỉ đến khi thế sự tạm thời ổn định ông mới dám xin chủ soái về quê làm lễ tang cho mẹ. Lúc bấy giờ, Phương Quốc Trân - một trong những thủ lĩnh của nhánh quân nhỏ phía Nam, đã viết thư cho Lưu Bá Ôn để chia buồn với cái chết của mẹ ông, đồng thời, ngỏ ý muốn triệu Lưu Cơ về phe mình. Lưu Bá Ôn sau đó gửi thư lại, không nhiều lời về hoàn cảnh gia đình mà đanh thép khẳng định sự đức độ, quyền lực và tài năng của Chu Nguyên Chương. Sự kiên trung một lòng của Bá Ôn đã khiến Phương Quốc Trân vô cùng nể trọng. Là nhân tài có công lớn lại tận tâm tận lực phò tá chủ soái, thế nhưng cuộc đời của Lưu Bá Ôn sau khi trở thành công thần nhà Minh lại gặp phải nhiều sóng gió, oan khuất. Đến cuối đời, Lưu Bá Ôn đành phải xin cáo quan về ở ẩn.
Lưu Bá Ôn
Lưu Bá Ôn (chữ Hán: 劉伯溫, 1310-1375), tên thật là Lưu Cơ (劉基), tên tự là Bá Ôn (伯溫), thụy hiệu Văn Thành (文成); là nhà văn, nhà thơ và là công thần khai quốc nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một trong những nhân vật có nhiều huyền thoại, là người đã đề cao tư tưởng "Quan bức, dân phản", đồng thời là tác giả tản văn "Mại cam giả ngôn" nổi tiếng nhằm đả kích giới "thống trị thối nát". Lưu Bá Ôn là người huyện Thanh Điền (nay là huyện Văn Thành), tỉnh Chiết Giang. Ông sinh ra trong một gia đình Nho học từng có truyền thống chiến đấu dũng cảm chống lại quân xâm lược Nguyên Mông trước đây. Nhờ siêng học, đam mê đọc sách, ông sớm làu thông kinh sử, văn chương, binh pháp và thiên văn. Đương thời có câu khen ông là: Thông binh pháp ai hơn Tôn Võ - Giỏi thiên văn phải kể Lưu Cơ. Lưu Bá Ôn đã là một thiếu niên đắc chí, nên tha thiết muốn tận trung góp sức với triều đình nhà Nguyên, để làm nên những sự nghiệp oanh liệt. Năm Nguyên Thống thứ nhất đời Nguyên Thuận Đế (1333), ông thi đỗ Tiến sĩ, được bổ nhiệm làm quan.
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam (tên giao dịch quốc tế: Vietnammese Academy of Forest Sciences; viết tắt: VAFS) là đơn vị sự nghiệp nghiên cứu khoa học của ngành lâm nghiệp, trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Viện Nghiên cứu Lâm nghiệp là tiền thân của Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, được thành lập năm 1961. Tiền thân là Viện Nghiên cứu Lâm nghiệp 1961-1971; sau đó thành được phân chia thành ba viện (Viện Lâm nghiệp 1972-1988, Viện Công nghiệp rừng 1974-1988, Viện Kinh tế Lâm nghiệp 1981-1988). Ngày 25/11/2011 Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ban hành Quyết định số 2099/QĐ-TTg về tổ chức và hoạt động của Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam là tổ chức sự nghiệp khoa học hạng đặc biệt, trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Viện khoa học Lâm nghiệp Việt Nam là tổ chức sự nghiệp khoa học hạng đặc biệt, có chức năng nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, hợp tác quốc tế, đào tạo sau đại học và tư vấn trong lĩnh vực lâm nghiệp phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước về nông nghiệp và phát triển nông thôn. Ngày 18/5/2012, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT ban hành quyết định số 1149/QĐ-BNN-TCCB quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam. Nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, hợp tác quốc tế, đào tạo và tư vấn trong lĩnh vực lâm nghiệp phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước về nông nghiệp và phát triển nông thôn. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giao. Thẩm tra hoặc tham gia thẩm tra về công nghệ, kinh tế, kỹ thuật các dự án trọng điểm cấp nhà nước về lĩnh vực lâm nghiệp theo quy định của pháp luật. Xây dựng các tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, định mức kinh tế, kỹ thuật lâm nghiệp trình cấp có thẩm quyền phê duyệt theo nhiệm vụ được giao và theo quy định của pháp luật. Đào tạo tiến sĩ, liên kết đào tạo thạc sĩ, tham gia bồi dưỡng nguồn nhân lực về khoa học và công nghệ lâm nghiệp và các lĩnh vực khác có liên quan theo quy định của pháp luật. Hợp tác quốc tế, liên doanh, liên kết với các tổ chức, cá nhân về nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực lâm nghiệp theo quy định của pháp luật. Thực hiện các dịch vụ khoa học và công nghệ; chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ vào sản xuất; triển khai thực nghiệm, sản xuất thử nghiệm trên cơ sở ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học theo quy định của pháp luật. Tổ chức sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu các sản phẩm và công nghệ lâm nghiệp, nông lâm kết hợp, các sản phẩm phù hợp với lĩnh vực hoạt động chuyên môn của Viện theo quy định của pháp luật. Tư vấn lập dự án; tư vấn giám sát, thẩm tra; tư vấn thẩm định hồ sơ thiết kế, dự toán các chương trình, dự án đầu tư, công trình xây dựng lâm nghiệp theo quy định của pháp luật. Thẩm định, phê duyệt đề cương nghiên cứu, dự toán, quyết toán và nghiệm thu kết quả đề tài nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, dự án sản xuất thử, thử nghiệm công nghệ của các đơn vị trực thuộc Viện theo quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Xuất bản các ấn phẩm, thông tin khoa học, công nghệ và môi trường, phát hành tạp chí, trang thông tin điện tử theo chuyên ngành theo quy định của pháp luật. Quản lý nguồn nhân lực, kinh phí, tài sản và các nguồn lực khác được giao theo quy định của pháp luật. Thực hiện nhiệm vụ liên quan đến Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES) theo quy định của pháp luật. Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch 5 năm, hàng năm, các chương trình, dự án của ngành, của Viện về khoa học, công nghệ trong lĩnh vực lâm nghiệp theo quy định; tổ chức thực hiện sau khi được các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Khoa học cơ sở về lý thuyết lâm học các hệ sinh thái rừng nhiệt đới Việt Nam. Kỹ thuật và công nghệ trồng, phục hồi, làm giàu, cải tạo, xúc tiến tái sinh tự nhiên để phát triển và quản lý bền vững rừng tự nhiên, rừng trồng ở Việt Nam và nông lâm kết hợp. Cơ sở khoa học và các biện pháp bảo tồn và phát triển nguồn gen thực vật rừng, động vật rừng. Về giống cây lâm nghiệp, gồm các loại hình rừng giống, vườn giống, chọn tạo giống và nhân giống cây lâm nghiệp, lưu giữ tập đoàn giống công tác lâm nghiệp. Sinh lý, sinh thái cá thể và quần thể, quần xã thực vật rừng và các biện pháp phục hồi hệ sinh thái rừng, bảo vệ, bảo tồn các hệ sinh thái đặc thù. Cơ sở khoa học về đánh giá, dự báo tác động môi trường lâm nghiệp, biến đổi khí hậu, quan trắc môi trường. Kỹ thuật nuôi, gây trồng, khai thác, chế biến, bảo quản các loại lâm sản ngoài gỗ. Cơ sở khoa học và biện pháp phòng, trừ sâu bệnh hại rừng; công nghệ phòng, chữa cháy rừng. Khoa học về tổ chức và quản lý lâm nghiệp; cơ chế, chính sách lâm nghiệp; kinh tế tài nguyên và môi trường rừng; thị trường lâm sản; lâm nghiệp cộng đồng. Cơ giới hóa sản xuất giống cây lâm nghiệp, trồng rừng, khai thác, vận xuất, vận chuyển, chế biến, bảo quản lâm sản. Đặc tính công nghệ cơ bản của gỗ và các loại lâm sản phục vụ công nghiệp chế biến. Công nghệ gia công, xử lý, chế biến cơ, hóa lâm sản; bảo quản lâm sản, thuốc bảo quản lâm sản. Lãnh đạo Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam có Giám đốc và các Phó Giám đốc viện. “Lịch sử hình thành — Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam”. Truy cập 6 tháng 10 năm 2015. “Chức năng và nhiệm vụ — Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam”. Truy cập 6 tháng 10 năm 2015. “Cơ cấu tổ chức của Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam — Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam”. Truy cập 6 tháng 10 năm 2015.
Viện khoa học Lâm nghiệp Việt Nam
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam (tên giao dịch quốc tế: Vietnammese Academy of Forest Sciences; viết tắt: VAFS) là đơn vị sự nghiệp nghiên cứu khoa học của ngành lâm nghiệp, trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Viện Nghiên cứu Lâm nghiệp là tiền thân của Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, được thành lập năm 1961. Tiền thân là Viện Nghiên cứu Lâm nghiệp 1961-1971; sau đó thành được phân chia thành ba viện (Viện Lâm nghiệp 1972-1988, Viện Công nghiệp rừng 1974-1988, Viện Kinh tế Lâm nghiệp 1981-1988). Ngày 25/11/2011 Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ban hành Quyết định số 2099/QĐ-TTg về tổ chức và hoạt động của Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam là tổ chức sự nghiệp khoa học hạng đặc biệt, trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
Bả chó là một trong những hình thức trộm chó được những tên trộm chó chuyên nghiệp - còn được gọi là “cẩu tặc” sử dụng. Vậy, bả chó là gì, tác hại của bả chó như thế nào?. Bả chó là phương pháp dùng để độc chết chó, là phương pháp có từ lâu trong dân gian. Bả chó có thành phần chủ yếu là các loại chất độc nguy hiểm tác động tới hệ thần kinh và tim mạch của chó. Trong đó, có Xyanua và bột Lưu huỳnh, 2 thành phần thường thấy và cũng độc nhất. Chất độc Xyanua được xếp vào loại siêu nguy hiểm, chỉ cần 1 lượng rất nhỏ, khoảng 100mg Cyanua đã đủ giết một con chó. Ngoài ra, người ta còn có thể chế bả chó từ các loại thảo mộc có tính độc khác như hạt mã tiền hoặc hạt ba đậu (hay còn gọi là ba đậu tàu, mần để). Những hóa chất được dùng để làm bả chó rất độc hại nhưng lại có thể dễ dàng mua ở các chợ hóa chất hay trên mạng. “Cẩu tặc” tìm mua các loại hóa chất, sau đó pha trộn thành bả chó. Những kẻ này thường rắc bả chó vào bên trong các miếng thịt gà, thịt vịt, thịt heo hay dồi, lòng để át đi mùi hăng của hóa chất và dễ dụ chó ăn. Nếu chó ăn phải bả, chúng sẽ chết rất nhanh. Hiện nay trên thị trường xuất hiện nhiều thuốc đánh bả chó dạng hình viên kẹo mút rất độc hại và nguy hiểm được cẩu tặc sử dụng để trộm chó. Tuy nhiên, nhiều trẻ nhỏ không biết, có thể ăn nhầm gây ra hậu quả khôn lường. Chó sau khi ăn bả, bị cẩu tặc bắt và bán cho các nhà hàng bán thịt chó để chế biến thành những món ngon bán cho khách hàng. Điều này cực kỳ nguy hiểm bởi nếu ăn phải thịt chó trúng bả độc, lượng độc trong thịt chó vẫn còn tồn dư, lượng chất độc này sẽ tích tụ trong cơ thể người gây ra một số bệnh khá nguy hiểm.
Trộm chó
Trộm chó là hành vi trộm cắp các con chó từ chủ sở hữu với các mục đích khác nhau. Ở phương Tây, thông thường hành vi trộm chó này nhắm đến những con chó cưng của gia chủ với mục đích đòi tiền chuộc, đây là một hành vi vi phạm Đạo Luật về quyền Động vật năm 1966 (Dognapping). Ở Việt Nam, hành vi trộm chó phổ biến với mục đích chính là bắt những con chó để đem bán cho các quán để giết lấy thịt chế biến món thịt chó. Việc trộm chó là một vấn đề nổi cộm, thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội với nhiều ý kiến khác nhau và mở rộng vấn đề ở góc độ là nên hay không nên ăn thịt chó vốn được quan tâm rất lớn. Người thực hiện việc trộm chó còn được gọi là cẩu tặc. Nhiều cẩu tặc đã bị đánh chết vì bức xúc trong dư luận xã hội. Những kẻ trộm chó thường là loại đang khát tiền, và những con chó quý thuần chủng hẳn nhiên là mối kiếm lợi nhanh chóng, đây là những hành vi trộm cướp chó đầy bạo lực và nguy hiểm ở Việt Nam.
Hụi (họ/biêu/phường) là một hình thức huy động vốn theo tập quán từ xưa, tồn tại lâu đời và khá phổ biến ở nước ta, được hình thành dựa trên tinh thần tương thân, tương ái, cùng nhau hỗ trợ tài chính. Hụi họ gần giống với hình thức vay trả góp ngày nay. Dây hụi được tổ chức với những thành viên thuộc cùng một khu vực địa phương, xóm, khu phố… Người chơi hụi khi đến kỳ hốt hụi sẽ nhận được một khoản tiền hơn nhiều lần so với số tiền góp định kỳ mà không cần tích lũy dài hạn. Chủ hụi: Người đứng ra tổ chức chơi hụi, kêu gọi các thành viên khác tham gia và chịu trách nhiệm thu tiền của các thành viên. Con hụi: Những người tham gia đóng hụi trong một dây hụi. Trong một dây hụi, không giới hạn số thành viên tham gia. Hốt hụi: Chỉ việc một con hụi nhận được số tiền sau khi đóng hụi (Có người nhận trước, có người nhận sau tùy theo nhu cầu với khoản vay). Bể hụi: Một trong những con hụi không chịu đóng hụi hoặc rút khỏi dây hụi khiến những người chơi khác chịu ảnh hưởng xấu. Giựt hụi: Trường hợp chủ hụi lừa đảo, con hụi đến thời gian hốt hụi nhưng không tìm được chủ hụi. Hụi chết: Là con hụi đã hốt trước và đang trả lãi cho những kỳ sau. Hụi sống: Là con hụi chưa hốt hụi, đang nhận tiền lãi từ người hốt hụi trước. Hiện nay có hai hình thức chơi hụi chính là: Chơi hụi không tính lãi và chơi hụi tính lãi. Dưới đây là ví dụ cụ thể cách thức chơi hụi 5 triệu mà bạn có thể tham khảo:. Ví dụ: Dây hụi 5 triệu/1 tháng với 10 con hụi, kỳ đóng hụi 3 ngày/lần. Như vậy mỗi con hụi sẽ phải đóng 50.000 VNĐ/kỳ. Trong lần hốt hụi đầu tiên, con hụi nào được hốt sẽ nhận được số tiền là 5 triệu = 50.000 x 10 x 10 người. Sau khi hốt hụi, người này sẽ tiếp tục đóng hụi định kỳ cho đến khi tất cả con hụi đều trong dây đều được hốt hụi. Bên cạnh đó, những người hốt hụi trước sẽ phải trả tiền hoa hồng cho chủ hụi nếu có thỏa thuận trước. Vay hụi giống hình thức vay tiền trả góp với những người hốt hụi đầu, ngược lại với những người hốt hụi cuối, vay hụi lại giống hình thức tích cóp tiền. Khi trong dây hụi có những con hụi cần tiền gấp, muốn được hốt hụi trước (hụi chết), người này sẽ phải chịu một phần lãi đỡ cho các con hụi chưa cần tiền và chấp nhận hốt hụi sau (hụi sống). Phần lãi này sẽ trừ trực tiếp vào số tiền đóng hụi của các con hụi khác. Hụi sống sẽ được nhận nhiều tiền hơn so với số vốn góp tuy nhiên lại chịu rủi ro cao hơn trong trường hợp các con hụi chết ôm tiền bỏ trốn. Ví dụ: Dây hụi 5 triệu/tháng với 10 con hụi, kỳ đóng hụi 3 ngày/lần, mỗi con hụi sẽ phải đóng 50.000đ/kỳ đóng hụi. Anh A cần tiền gấp, muốn hốt hụi đầu tiên. Anh sẽ thỏa thuận với các con hụi khác và chủ hụi, chịu mức lãi là 45.000đ/kỳ đóng hụi. Khi đó, anh A sẽ nhận được 5 triệu trong kỳ hốt hụi đầu tiên và từ đó cho đến khi kết thúc dây hụi, anh sẽ phải đóng 95.000đ/kỳ. Lãi suất anh A phải trả sẽ trừ vào số tiền đóng hụi định kỳ của các con hụi khác. Do đó, 9 người con lại chỉ cần đóng: 50.000 - 45.000/9 = 45.000đ. Tới tháng thứ 2, chị B muốn hốt hụi và thỏa thuận với chủ hụi cùng 8 con hụi còn lại (trừ anh A), cũng chấp nhận mức lãi suất 40.000đ/kỳ đóng hụi. Sau khi hốt hụi 5 triệu, từ đó cho đến khi kết thúc dây hụi, chị B sẽ phải đóng 45.000 + 40.000 = 85.000đ/kỳ. Lãi suất chị B phải trả sẽ được trừ vào số tiền đóng hụi định kỳ của các con hụi chưa hốt hụi. Do đó, 8 người còn lại chỉ cần đóng: 45.000 - 40.000/8 = 40.000đ. Bên cạnh khoản lãi phải trả nếu muốn hốt hụi trước, các con hụi phải trả chủ hụi tiền công theo thỏa thuận. Hãy cân nhắc việc tham gia dây hụi nếu tiền công cho chủ hụi quá cao bạn nhé!. Mecash, phần mềm quản lý chơi hụi họ, vay lãi, cầm đồ số 1 hiện nay, công cụ hỗ trợ tiện ích cho mọi chủ hụi, giúp quản lý hoạt động chơi hụi một cách dễ dàng, nhanh chóng, hiệu quả, nói không với mọi nhầm lẫn, sai sót. - Đầy đủ tính năng: Mecash giúp bạn quản lý các hợp đồng góp hụi, quản lý thông tin khách hàng, quản lý cửa hàng, quản lý nguồn vốn, quản lý thu chi, làm báo cáo - thống kê lợi nhuận, check nợ xấu với bên Ngân hàng, check nợ xấu tại cửa hàng của bạn bè. - Tiện ích hơn: Ứng dụng điện toán đám mây, cho phép chủ hụi quản lý mọi lúc mọi nơi trên mọi thiết bị. Chỉ một click, mọi dữ liệu cần thiết sẽ được Mecash cung cấp, bạn không cần mất công ghi chép hay tra cứu sổ sách. - An toàn hơn: Sử dụng server dự phòng sao lưu dữ liệu thời gian thực, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho dữ liệu của bạn. - Tiết kiệm hơn: Chỉ với 4,5k/ngày để sở hữu phần mềm Mecash. Tặng ngay 3 tháng sử dụng khi giới thiệu khách hàng gia hạn tài khoản thành công. - Hiệu quả hơn: Chỉ 5 - 10 phút mỗi ngày để quản lý mọi vấn đề. Tính năng tự động nhắc lịch thu lãi giúp chủ cửa hàng xử lý khoản vay kịp thời và hiệu quả hơn. Hỗ trợ quản lý nhân viên, ngăn ngừa mọi thất thoát về tiền và tài khoản. Mecash - Miễn phí 20 ngày dùng thử với đầy đủ tính năng như dùng thật. Liên hệ ngay với chúng tôi qua hotline: 024.730.54.222!. Phần mềm quản lý cửa hàng cầm đồ số 1 Việt Nam với hơn 10.000 khách hàng đang sử dụng rộng rãi trên 63 tỉnh thành.Đơn giản, dễ dùng, tiết kiệm chi phí, công sức và tương thích với mọi thiết bị
Chơi hụi
Chơi hụi (tên khác: họ, hội, biêu, phường, huê) gọi chung là họ, là một hình thức huy động vốn trong dân gian Việt Nam và thường do phụ nữ thực hiện. Đây là hình thức trái ngược với trả góp. Trước đây, việc chơi hụi chưa được pháp luật Việt Nam thừa nhận và bảo vệ quyền lợi nhưng kể từ năm 2006 đã có nghị định 144/2006/NĐ-CP quy định hướng dẫn về họ. Chơi hụi giống hình thức bỏ ống tiết kiệm nhưng giúp các con hụi có cơ hội nhận trước tổng số tiền mình định tiết kiệm nhanh hơn. Và khi đã nhận được tiền hụi, người đó trở về giống hình thức trả góp. Bể hụi: Khi chủ hụi đã thu hụi của các con hụi, đến kì mở hụi mà không chi trả cho người được hốt hụi thì được coi là bể hụi. Giật hụi: Tới kì mở hụi mà không tìm ra chủ hụi, thì gọi là giật hụi.
Dự trữ bắt buộc, hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một quy định của ngân hàng trung ương về tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi mà các ngân hàng thương mại bắt buộc phải tuân thủ để đảm bảo tính thanh khoản. Các ngân hàng có thể giữ tiền mặt cao hơn hoặc bằng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc nhưng không được phép giữ tiền mặt ít hơn tỷ lệ này. Nếu thiếu hụt tiền mặt các ngân hàng thương mại phải vay thêm tiền mặt, thường là từ ngân hàng trung ương để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đây là một trong những công cụ của ngân hàng trung ương nhằm thực hiện chính sách tiền tệ bằng cách làm thay đổi số nhân tiền tệ. Thông qua hoạt động tạo tiền, từ tiền cơ sở (gồm tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng cộng với tiền mặt dự trữ trong hệ thống ngân hàng), cácữa tiền mặt so với tiền gửi (C/D) của các ngân hàng; r là tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Do đó khi r thay đổi thì số nhân tiền thay đổi theo tỷ lệ nghịch. Chính vì thế bằng cách thay đổi tỷ lệ dữ trữ bắt buộc, ngân hàng trung ương có thể thay đổi số nhân tiền để điều tiết cung tiền với một tiền cơ sở bất kỳ.
Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc, hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một quy định của ngân hàng trung ương về tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi mà các ngân hàng thương mại bắt buộc phải tuân thủ để đảm bảo tính thanh khoản. Các ngân hàng có thể giữ tiền mặt cao hơn hoặc bằng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc nhưng không được phép giữ tiền mặt ít hơn tỷ lệ này. Nếu thiếu hụt tiền mặt các ngân hàng thương mại phải vay thêm tiền mặt, thường là từ ngân hàng trung ương để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đây là một trong những công cụ của ngân hàng trung ương nhằm thực hiện chính sách tiền tệ bằng cách làm thay đổi số nhân tiền tệ.
Sự tò mò là mong muốn học hỏi, hiểu những điều mới và biết cách mà chúng hoạt động. Sự tò mò có thể biểu hiện theo nhiều cách, như mong muốn đọc các cột tin đồn hoặc xem các chương trình thực tế trên TV, hoặc mong muốn biết về con người và cuộc sống của họ. Nó cũng có thể biểu hiện như mong muốn tích lũy kiến thức về khoa học, địa lý hoặc các chủ đề khác, hoặc như sự thôi thúc muốn biết cách sửa chữa mọi thứ. Sự tò mò là biểu hiện của sự thôi thúc muốn tìm hiểu và tiếp thu các sự kiện và kiến thức. Nó mở rộng tâm trí và mở ra cho nó những ý kiến khác nhau, lối sống khác nhau và các chủ đề khác nhau. Những người tò mò đặt câu hỏi, đọc và khám phá. Họ tích cực tìm kiếm thông tin hoặc kinh nghiệm và sẵn sàng đối mặt với những thách thức và mở rộng tầm nhìn của mình. Họ không ngại đặt câu hỏi và đi sâu vào chủ đề mà họ quan tâm. Sự tò mò có thể hướng đến những câu chuyện phiếm và những chi tiết không quan trọng hoặc những vấn đề quan trọng hơn. Nó cũng có thể dẫn đến việc học hỏi, tiếp thu kiến thức và trở thành chuyên gia trong lĩnh vực của một người. Sự tò mò là một yếu tố quan trọng để trở thành một nhà báo, nhà văn, nhà phát minh hoặc nhà khoa học giỏi. Sự tò mò rất quan trọng để hoàn thành xuất sắc bất kỳ công việc nào và hoàn thành công việc đó tốt hơn, bởi vì bạn đặt câu hỏi, học hỏi từ những người khác và tìm cách hoàn thành công việc của mình tốt hơn. Tâm trí của những người tò mò đang hoạt động. Họ muốn biết và hiểu. Điều này đặt họ vào một vị trí tốt hơn để học một trường hợp và làm công việc đó tốt hơn và sáng tạo hơn, không giống như một người thiếu sự tò mò. Khi những người tò mò thất bại, họ phân tích thất bại của họ, bởi vì họ muốn biết nguyên nhân, vì vậy họ có thể làm tốt hơn vào lần sau. Điều này làm tăng cơ hội thành công của họ. Là một người ham học hỏi là điều quan trọng để hoàn thành xuất sắc bất kỳ công việc nào và hoàn thành công việc đó tốt hơn, bởi vì bạn đặt câu hỏi, học hỏi từ những người khác và tìm cách để hoàn thành công việc của mình tốt hơn. Nếu bạn thể hiện sự quan tâm nhiều hơn đến những gì bạn đang làm, bạn cho thấy rằng bạn quan tâm và muốn học hỏi và để tiến bộ. “Khi sự tò mò còn hoạt động, chúng ta bị thu hút bởi nhiều thứ; chúng ta khám phá ra nhiều thế giới. Bản chất trẻ con thường tò mò về mọi thứ. Là cha mẹ, bạn cần khuyến khích con đặt câu hỏi, tìm hiểu những điều mới, đọc sách, có sở thích và giữ ngọn lửa tò mò cho con. Sự tò mò là một thành phần quan trọng của quá trình học hỏi ở mọi lứa tuổi. Trẻ em ở trường cần nó, học sinh và mọi người trong mọi công việc cũng vậy. Sự sở hữu của nó đánh thức sự quan tâm, động lực và cảm giác được sống. Sống mà không tò mò làm cho cuộc sống trở nên nhàm chán, trong khi sự hiện diện của nó khiến một người sống động và tràn đầy năng lượng hơn. Nó giữ cho tâm trí mạnh mẽ và ở trạng thái tốt. Sự tò mò về trí tuệ rất quan trọng để giữ cho đầu óc bạn nhạy bén, nhanh nhẹn và rất quan trọng trong mọi thời đại. Nó kích thích tâm trí và giữ cho bạn trẻ trung hơn. Tôi đã tập hợp dưới đây một vài trích dẫn về sự tò mò và tầm quan trọng của nó, giúp bạn hiểu sâu hơn về chủ đề này. “Nhà khoa học rốt cuộc là gì? Đó là một người đàn ông tò mò nhìn qua lỗ khóa, lỗ khóa của tự nhiên, cố gắng biết chuyện gì đang xảy ra ”.– Jacques Yves Cousteau. “Tham gia tất cả các khóa học trong chương trình học của bạn. Thực hiện nghiên cứu. Tìm ai đó làm những gì bạn quan tâm!. “Tính tò mò ở trẻ em không chỉ là ham thích kiến thức. Lý do tuyệt vời khiến trẻ em hoàn toàn từ bỏ bản thân mình để theo đuổi những thứ ngớ ngẩn và tiêu tốn thời gian của chúng một cách vô vị là vì chúng nhận thấy sự tò mò của mình bị hạn chế và những thắc mắc của chúng bị bỏ quên. “Không có câu hỏi nào ngu ngốc, và không có người đàn ông nào trở thành kẻ ngốc cho đến khi anh ta ngừng đặt câu hỏi.”– Charles Proteus Steinmetz. “Hãy bớt tò mò về mọi người và tò mò hơn về những ý tưởng.”– Marie Curie. “Tất cả thế giới là một phòng thí nghiệm đối với tâm trí ham học hỏi. “Cảm xúc đầu tiên và đơn giản nhất mà chúng ta khám phá ra trong tâm trí con người là sự tò mò.”– Edmund Burke. “Hãy bỏ qua suy nghĩ rằng chỉ trẻ em mới nên dành thời gian cho việc học. Hãy là một sinh viên miễn là bạn vẫn còn điều gì đó để học, và điều này sẽ có ý nghĩa suốt cuộc đời bạn ”.– Henry L. Doherty. Hãy gọi mình là Bão! Bão rất thích viết lách về tất cả các lĩnh vực trong cuộc sống, đặc biệt là về các lĩnh vực phát triển bản thân, trau dồi kiến thức và học hỏi.
Tò mò
Tò mò là một phẩm chất liên quan đến việc tư duy thu thập như thăm dò, điều tra, và học tập, một cách rõ ràng bằng cách quan sát ở người và động vật khác. Sự tò mò gắn liền với tất cả các khía cạnh của sự phát triển của con người, trong đó xuất phát quá trình học hỏi và khao khát có được kiến thức và kỹ năng. Thuật ngữ tò mò cũng có thể được sử dụng để biểu thị hành vi hoặc cảm xúc của sự tò mò, liên quan đến mong muốn có được kiến thức hoặc thông tin. Sự tò mò như một hành vi và cảm xúc được quy cho hàng thiên niên kỷ là động lực thúc đẩy không chỉ sự phát triển của con người, mà cả sự phát triển trong khoa học, ngôn ngữ và công nghiệp.
Theo các nhà nghiên cứu, trước thế kỷ 20, sự khác biệt giữa ngôn ngữ nam giới và phụ nữ khá lớn, đồng thời tồn tại những quy định nghiêm ngặt dành riêng cho ngôn ngữ của phụ nữ, không những trong ngôn ngữ nói mà cả trong ngôn ngữ viết. Tuy vậy, từ đầu thế kỷ 20 trở lại đây, “ngôn ngữ phụ nữ” đã thay đổi theo chiều hướng đơn giản hóa dần, tiến lại gần với ngôn ngữ chung hơn. Mặc dù vậy, hiện nay, hiện tượng giới tính của người sử dụng để lại dấu ấn trong cấu trúc ngôn ngữ này vẫn là một vấn đề được không ít nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Nhật Bản và nước ngoài để tâm đến như một trong những hiện tượng ngôn ngữ phản ánh đặc trưng xã hội điển hình. Dấu ấn này không chỉ được thể hiện trong cấp độ từ vựng mà cả ở các cấp độ khác như ngữ âm, ngữ pháp, hoạt động ngôn ngữ. Người ta nói rằng ngôn ngữ của phụ nữ Nhật “mềm mại” hơn, “chuẩn” hơn ngôn ngữ của đàn ông. Tính mềm mại, tính chuẩn mực – cái đặc trưng cho giới tính của phụ nữ – là đặc điểm quan trọng nhất để phân biệt ngôn ngữ của phụ nữ với ngôn ngữ của đàn ông. Các tính chất này có thể được miêu tả cụ thể qua những tiêu chí sau:. Khi nói đến sự khác biệt về cách sử dụng từ vựng giữa nam và nữ, trước tiên người ta thường nhắc đến các từ nhân xưng. Việc sử dụng từ nhân xưng của nam và nữ có những khác biệt đáng kể. Đối với ngôi thứ nhất, ngoài hai từ わたし và わたくし (tôi – dùng khi nói lễ phép) mà cả nam giới và phụ nữ đều có thể sử dụng, còn có những từ chỉ phụ nữ dùng nhưあたし , hay chỉ nam giới dùng và hầu như không bao giờ xuất hiện trong lời nói của những phụ nữ có học như ぼく hay おれ . Đối với ngôi thứ hai cũng như vậy. Bên cạnh từ あなた là từ chung mà cả hai giới đều dùng được, phụ nữ có thể sử dụng một từ nữa là あんた như là một biến thể ngắn của từ chuẩn chung. Nhưng nam giới còn “đặc quyền” được phép dùng thêm một số từ nữa như おまえ (mày), きみ (em)… Trong khi đó, nếu những từ này xuất hiện trong lời nói của phụ nữ thì sẽ bị coi là cách nói bất lịch sự. Có lẽ đó là vì theo quan điểm cũ của xã hội Nhật, những đối tượng thấp kém hơn cả phụ nữ để có thể bị gọi là おまえ hay きみ… hầu như không có. Cách xưng hô này được trẻ em nghe người lớn dùng rồi bắt chước một cách rất tự nhiên ngay từ khi còn nhỏ. Trong gia đình, người chồng có thể gọi trực tiếp tên vợ, ví dụ: 京子 , gọi thay vai con お母さん (mẹ), hoặc cũng có thể gọi vợ là おまえ (mình) một cách thân mật, suồng sã. Còn người vợ, ngoài cách gọi thay con お父さん (bố), chỉ có thể gọi chồng một cách lễ phép あなた mà thôi. Ngoài xã hội, khi cần gọi tên đối tượng giao tiếp trực tiếp (ngôi thứ hai), hoặc người thuộc ngôi thứ ba, người Nhật thường thêm một số từ vào sau bộ phận tên để biểu thị các mức độ kính trọng. Thành phần thường được thêm, có tính trung hòa nhất là từ さん. Đối với những người vốn giữ một chức vụ xã hội nào đó thì các chức vụ đó thường được gọi cùng với tên, như:田中先生 (thầy Tanaka), 鈴木課長 (trưởng phòng Suzuki)… Những cách gọi này nói chung được duy trì, đảm bảo một cách nghiêm túc trong lời nói của phụ nữ ở cả phạm vi giao tiếp chính thức lẫn không chính thức. Trong khi đó, ở ngôn ngữ của nam giới, mức độ lễ phép thông qua cách xưng hô thường dễ bị thay đổi khi chuyển từ giao tiếp chính thức sang giao tiếp không chính thức với cách gọi さん là chủ yếu, và cách gọi thêm từ くん đối với những người giao tiếp cũng là nam giới nhưng kém tuổi mình, như 前田くん , 田中くん …. Lớp từ Hán Nhật thường được dùng trong những bối cảnh giao tiếp chính thức hay trang trọng. Còn các từ thuần Nhật thường xuất hiện trong các bối cảnh không chính thức, thân mật. Cùng để diễn đạt một nghĩa có thể dùng hoặc từ thuần Nhật, hoặc từ Hán Nhật. Theo kết quả nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ xã hội học Nhật Bản, tần số xuất hiện của các từ Hán Nhật trong ngôn ngữ của nam giới lớn hơn so với ngôn ngữ của phụ nữ. Ngược lại, thay vào đó, trong ngôn ngữ của phụ nữ có nhiều từ thuần Nhật dễ hiểu, thông dụng. Cùng để diễn đạt ý nghĩa “về lại đất nước”, nam giới thích dùng động từ 帰国する , còn phụ nữ lại có xu hướng dùng cụm động ngữ 国へ帰る . Hay từ 売買する (mua bán) xuất hiện trong lời nói của nam giới nhiều hơn, trong khi phụ nữ lại có vẻ ưa cách nói đồng nghĩa nhưng có tính diễn giải売ったり買ったりする . Việc sử dụng từ Hán hay từ Nhật xưa kia chịu ảnh hưởng lớn của việc lựa chọn dạng thức văn tự. Hiện nay, người ta còn lưu giữ được những bức thư do nam giới viết hoàn toàn bằng chữ Hán, còn nữ giới viết bằng chữ Kana – loại chữ ghi âm thuần túy vốn có thời được coi là loại chữ dành riêng cho phụ nữ và tầng lớp dưới. Ngày nay, những phân biệt ngặt nghèo như vậy không còn nữa. Trong mỗi văn bản bất kỳ đều tồn tại đồng thời cả chữ Hán và chữ Kana. Tuy vậy, tỷ lệ xuất hiện chữ Hán trong những văn bản do nam giới viết, theo thống kê, vẫn lớn hơn ở những văn bản do phụ nữ viết. Nam giới thường thêm vào cuối câu những từ cảm thán, từ tình thái tạo nên cảm giác mạnh mẽ, dứt khoát như: な , かなあ , の , ぜ , ぞ , だろう … Tương ứng với các từ trên, trong lời nói của phụ nữ lại sử dụng các từ như: わ , わよ , のよ , ね , かしら … Cảm giác về sự mềm mại, nhẹ nhàng mà các từ tình thái trên đem lại luôn là dấu hiệu để tách một lời nói nào đó là của phụ nữ ra khỏi những lời nói của nam giới hay những lời nói không có biểu hiện giới tính. Ngoài ra, chúng còn tạo nên ấn tượng về mong muốn thiết lập một mối quan hệ thân thiện giữa người nói và người nghe, hay về sự không dứt khoát, không tự tin khi phán đoán một điều gì đó và muốn phó mặc hay mong chờ sự giải đáp giúp từ phía đối tượng giao tiếp. Một số từ cảm thán ở đầu câu như まあ (chà!) cũng được người Nhật coi là những cách nói đặc thù riêng của phụ nữ mà nam giới không được phép sử dụng. Những quy định về các từ tình thái đặc trưng riêng cho phụ nữ này được cả xã hội chấp nhận và tuân thủ. Nếu chẳng may một người nam giới nào đó “nhỡ” dùng nhầm thì ngay lập tức sẽ gây ra những phản ứng nào đó từ phía người nghe. Ở các hoàn cảnh giao tiếp chính thức, hay khi nói chuyện với những người thuộc tầng lớp xã hội cao, những người không quen biết, những người được coi là “người ngoài” so với cộng đồng của người nói, việc sử dụng kính ngữ với các quy tắc riêng không những về từ vựng mà cả về ngữ pháp là có tính bắt buộc với tất cả mọi người. Tuy vậy, theo kết quả khảo sát của các nhà nghiên cứu, phụ nữ có hướng tuân thủ các quy định sử dụng kính ngữ chặt chẽ hơn nam giới. Thậm chí ngay cả ở những hoàn cảnh giao tiếp không chính thức, trong khi đàn ông rất dễ dàng chuyển lời nói sang các dạng thức thân mật, suồng sã, thì một số dạng thức của kính ngữ vẫn có xu hướng được lưu giữ trong lời nói của phụ nữ, đặc biệt là những biến thể từ vựng. Việc thêm các tiếp đầu ngữ お hay ご vào các danh từ nhằm tăng thêm độ kính trọng đối với những sự vật thuộc về người giao tiếp, như おかばん cặp (của ông), ご意見 ý kiến (của ông), お子さん con cái (của ông)… hay nhằm mỹ từ hóa những đồ vật vốn bị coi là rất bình thường, đặc biệt là những đồ vật, dụng cụ có liên quan trực tiếp đến đời sống của người phụ nữ như: お米 (gạo), おさら (đĩa), お台所 (bếp)… rất thường thấy trong ngôn ngữ của phụ nữ. Những dạng thức lễ phép hay lịch sự của động từ như ~です , ~ます cũng được phụ nữ ưa dùng hơn các động từ dạng ngắn ~だ hay ~る . Khái niệm “chuẩn” được thể hiện qua việc phát âm rõ ràng, không nuốt âm, biến âm. Trong ngôn ngữ của nam giới, đặc biệt là thanh niên, thường thấy hiện tượng biến âm một loạt từ theo những quy luật nào đó. Ví dụ các tính từ loại 1 (kết thúc bằng đuôi –i) được chuyển thành tính từ kết thúc bằng ~え :. Hiện tượng biến âm này hầu như không thấy trong ngôn ngữ của phụ nữ. Ngoài ra, cách nói với ngữ điệu lên giọng ở cuối câu nghi vấn cũng được coi là cách nói chuẩn. Nhưng theo thống kê của các nhà nghiên cứu Nhật Bản, trong số những người được khảo sát, thì có khoảng 84% phụ nữ nói lên giọng ở cuối câu hỏi, trong khi đó chỉ có khoảng 56% số nam giới phát âm theo kiểu này. Ngoài một số đặc trưng điển hình trên, còn có thể kể ra một số hiện tượng khác cho phép phân biệt ngôn ngữ của nam giới và ngôn ngữ của phụ nữ. Ví dụ như trong lời nói, phụ nữ tránh dùng các dạng thức động từ hay tính từ biểu thị sự kết thúc câu, mà thường dùng các dạng thức biểu thị câu chưa kết thúc, với hàm ý rằng còn muốn nói tiếp. Trong khi đó, nam giới lại có xu hướng dùng các dạng thức kết thúc câu, tạo cảm giác dứt khoát trong giao tiếp. Ngoài các dấu hiệu ngữ pháp biểu thị sự chưa kết thúc câu, trong lời nói của phụ nữ, ở cuối câu còn thường thấy xuất hiện các từ như: が , けれど , けれども … (cũng có nghĩa tương ứng như từ “nhưng” hay “thế nhưng”). Việc dùng các từ nối trên, trong nhiều trường hợp, không phải để biểu thị quan hệ logic ngữ nghĩa nào đó giữa vế hiển ngôn với các phần đứng sau mà thuần túy chỉ là dấu hiệu gợi mở, đón chờ sự hợp tác trong giao tiếp từ phía người đối thoại, qua đó biểu thị thành ý của người nói. Cách nói này ít thấy trong ngôn ngữ của nam giới. Hay cùng để thể hiện một hành vi như đề nghị hoặc từ chối một điều gì đó, phụ nữ thường dùng những cách nói vòng, gián tiếp chứ không hay đưa ra những mục đích hay lý do thẳng, trực tiếp như nam giới. Các cách nói như:わたしは……したい (tôi muốn), hay いいえ、忙しいから…… (Không được, vì tôi bận…), 用事があるので……できません (Vì có việc nên tôi không thể…) hầu như hiếm thấy trong lời nói của phụ nữ. Tính chuẩn xác, sự mềm mại, tế nhị trong cách sử dụng ngôn ngữ của phụ nữ khiến nhiều người nói rằng muốn học hay nghiên cứu tiếng Nhật thì hãy quan sát và học ngôn ngữ của phụ nữ, vì nó thể hiện chính xác tiếng Nhật cùng với những đặc trưng về tâm lý, dân tộc điển hình của người Nhật truyền thống. Thực ra, sự phân biệt giới tính trong sử dụng ngôn ngữ phần nào phản ánh đặc điểm của xã hội Nhật Bản kéo dài hàng nhiều thế kỷ, trong đó có vai trò của người phụ nữ Nhật Bản trong gia đình cũng như trong xã hội. Đó là vai trò thấp kém (nếu nhìn từ phía nam giới), là mặc cảm tự ti (nếu nhìn từ phía người phụ nữ). Chế độ phong kiến càng hà khắc thì sự khu biệt giữa hai loại “ngôn ngữ” càng rạch ròi, các dấu hiệu để phân biệt chúng càng nhiều, càng rõ ràng. Bắt đầu từ cuối thế kỷ 19, cùng với cuộc cải cách dân chủ hóa được thực hiện ở Nhật Bản, quan niệm về vai trò, vị trí của nam và nữ trong xã hội cũng có những thay đổi đáng kể. Những khác biệt về phong cách, trang phục, ứng xử… và cả ngôn ngữ giữa hai giới dần dần được thu hẹp lại. Các tiêu chí vốn được dùng để phân biệt ngôn ngữ của nam giới và ngôn ngữ của phụ nữ không còn được thấy rõ và được tuân thủ một cách chặt chẽ như trước nữa. Hiện nay, trong các tình huống giao tiếp chính thức và trong ngôn ngữ viết, hầu như nam giới và phụ nữ hoàn toàn sử dụng ngôn ngữ như nhau. Những đặc điểm về giới tính hầu như chỉ còn được thể hiện ở ngôn ngữ nói, ở các tình huống giao tiếp không chính thức mà thôi. Ngay cả trong ngôn ngữ nói, hiện cũng đang diễn ra hai xu hướng ngược nhau:. Cả hai xu hướng này đều là kết quả của sự phát triển của xã hội Nhật bản hiện đại. Xu hướng nữ hóa ngôn ngữ nam giới được giải thích là do kết quả của chế độ giáo dục con cái hoàn toàn do người mẹ đảm nhận (tiếng Nhật gọi là “hahaoya kyooiku”). Người cha do bận rộn công việc của công ty, của xã hội nên hoàn toàn giao phó cho người vợ công việc gia đình, trong đó chủ yếu là công việc chăm sóc con cái. Do vậy, ở giai đoạn chưa đến trường, đứa trẻ chịu ảnh hưởng rất lớn của người mẹ về mọi thứ, trong đó có cả ngôn ngữ. Chúng bắt chước một cách vô ý thức cách nói của người mẹ, từ cách sử dụng từ ngữ đến những cách nói hoàn toàn đặc trưng của phụ nữ. Chỉ đến khi được đi học, đặc biệt từ trung học trở lên, ý thức về những khác biệt trong sử dụng ngôn ngữ do xã hội quy định mới được bọn trẻ nhận thức và dần dần tuân thủ. Một nguyên nhân nữa cũng có thể được dùng để giải thích cho xu hướng này là do chế độ kinh tế thị trường, các nam thanh niên, đặc biệt là những người làm trong các ngành dịch vụ, buộc phải luyện ngôn ngữ của mình thật chuẩn xác, lịch sự, nhã nhặn, mềm mại… nhằm thu hút khách hàng.
Phân biệt giới tính
Phân biệt giới tính hay kỳ thị giới tính (tiếng Anh: sexism), một thuật ngữ xuất hiện giữa thế kỷ 20, là một dạng niềm tin hay thái độ cho rằng một giới tính là hạ đẳng, kém khả năng và kém giá trị hơn giới tính còn lại. Thuật ngữ này hầu như được dùng để ám chỉ sự thống trị của nam so với nữ. Cuộc đấu tranh chống lại sự phân biệt giới tính, mà trung tâm là phong trào nữ quyền diễn ra dưới nhiều hình thức đa dạng và không chỉ dành riêng cho nữ. Phong trào chống phân biệt giới tính thường phê phán sự phân chia giới tính giữa các vai trò khác nhau trong xã hội, gia đình, kinh doanh hay chính trị. Trong đó nam giới thường đảm nhiệm các công việc về nghệ thuật, kỹ nghệ, quân đội, trong khi phụ nữ đảm nhận việc nội trợ gia đình và chăm sóc trẻ em. Ngược lại, những người phê phán phong trào này cho rằng: các đặc tính sinh học khác nhau giữa nam và nữ đã tạo nên vai trò đó, và việc "cào bằng" vai trò đặc thù giữa 2 giới là phản khoa học và không khả thi (ví dụ: nam giới có sức khỏe tốt hơn nữ giới nên đương nhiên được ưu tiên trong các công việc nặng nhọc hơn so với nữ, hoặc nữ giới phải mang thai nên họ đương nhiên được ưu tiên hơn trong việc chăm sóc thai sản).
Giải bóng chuyền U19 Vô địch thế giới 2021 được tổ chức tại Iran đang nhận được sự quan tâm của rất nhiều người Việt khi có sự xuất hiện của một chàng trai trẻ gốc Việt tại giải đấu này. Tất nhiên, đó không phải đội tuyển trẻ Việt Nam khi chúng ta không được tham gia giải đấu. Đội bóng mà chàng trai gốc Việt này đang thi đấu là đội tuyển bóng chuyền U19 CH Séc. Theo như danh sách đăng ký thi đấu, chàng trai này có tên Hoang Trung Hieu (nhiều khả năng là Hoàng Trung Hiếu), một cái tên thuần Việt và nhìn gương mặt cũng như hình thể của anh thì có lẽ đây là VĐV chỉ mang trong mình dòng máu Việt Nam. “Hot boy” bóng chuyền gốc Việt sinh năm 2003 sở hữu chiều cao 1.80m cùng sức bật lên đến 3.18m. Hiện anh đang thi đấu ở vị trí chuyền hai nên chiều cao có lẽ sẽ không cản trở quá nhiều. CH Séc không phải đội tuyển bóng chuyền mạnh tại giải đấu lần này nhưng sự xuất hiện của cái tên Việt Nam đã nhận được rất nhiều sự chú ý. Không ít người kỳ vọng, chàng trai này sẽ tiếp tục phát triển hơn nữa để góp mặt ở ĐTQG CH Séc tham gia các giải đấu lớn hơn. Tại U19 Vô địch thế giới năm nay, đội tuyển bóng chuyền CH Séc đã giành quyền vào vòng loại trực tiếp sau khi giành vị trí thứ 3 tại bảng B. Họ có chiến thắng trước Belarus, Colombia và để thua trước hai ứng viên rất mạnh là Brazil cùng Italia. Giải Vô địch bóng chuyền nữ châu Âu 2021 đã bước sang vòng 1/8 sau khi kết thúc vòng đấu bảng ngày 27/8. Xem lịch thi đấu bóng chuyền nữ Vô địch châu Âu 2021 hôm nay. Cập nhật lịch thi đấu môn bóng chuyền nữ Vô địch châu Âu được tổ chức năm 2021 mới nhất. Giải bóng chuyền nữ Vô địch châu Âu năm 2021 đã bước sang vòng 1/8 với những trận đấu vô cùng hấp dẫn và kịch tính. Sở hữu tới 4 VĐV sinh sau năm 2000, bóng chuyền Nga đang là đội thi đấu hết sức ấn tượng tại giải Vô địch châu Âu. Đặng Văn Lâm vui mừng hội ngộ thầy Park sau 2 năm là tin tức đáng chú ý nhất trong bản tin nhanh Thể thao ngày 28/08. Hủy VBA 2021 - Nốt trầm thể thao đỉnh cao giữa đại dịch COVID-19 là tin tức đáng chú ý nhất trong bản tin nhanh Thể thao ngày 28/08. Liên Quân Mobile cùng Honor of Kings sẽ ra mắt một chế độ thi đấu Esports hoàn toàn mới vào năm sau, bắt đầu bằng giải đấu AWC 2022 được tổ chức trong quý 4. Bảng xếp hạng Ngoại hạng Anh mùa giải 2021/2022 mới nhất. Xem BXH bóng đá NHA được Webthethao.vn cập nhật hôm nay chính xác. Cập nhật danh sách các đội giành vé tham gia CKTG 2021, giải đấu lớn nhất trong năm của LMHT với sự góp mặt của 24 đội tuyển mạnh nhất thế giới. HLV Graham Arnold vừa chốt danh sách 27 cầu thủ chuẩn bị cho hai trận ra quân vòng loại thứ 3 World Cup 2022 gặp Trung Quốc và Việt Nam. Trong đó có đến 21 cầu thủ đang đá ở châu Âu. Lịch thi đấu MU 2021-2022 hôm nay. Cập nhật lịch trực tiếp bóng đá của Man Utd tối đêm nay tại giải Ngoại Hạng Anh, Cúp FA, Cúp C1 mới nhất. Sau hành trình dài từ Nội Bài, quá cảnh ở Doha, đội tuyển Việt Nam (ĐTVN) đã đặt chân đến Saudi Arabia vào chiều nay (theo giờ Việt Nam). Giải Vô địch bóng chuyền nữ châu Âu 2021 đã bước sang vòng 1/8 sau khi kết thúc vòng đấu bảng ngày 27/8. Trực tiếp cuộc thi đua xe tăng hành tiến tại Nga diễn ra hôm nay. Cập nhật link xem trực tuyến đội tuyển xe tăng Việt Nam đua tài ở Army Games 2021. Có hai tay vợt Việt kiều tham dự vòng loại đơn nam giải tennis US Open 2021. Antoine Hoang vào vòng chính, nhưng Thai-Son Kwiatkowski phải dừng bước. Trong sự tiếc nuối của một sản phẩm còn dang dở, VBA 2021 đã bị hủy mà không đến được trận đấu cuối cùng. Vậy chuyện gì đã xảy ra tại "bong bóng" VBA?. Tuyển thủ SadBoy của đội tuyển King Man đã bất ngờ tạm dừng thi đấu để lên đường vào TP Hồ Chí Minh, hỗ trợ người dân chống dịch COVID-19. Cristiano Ronaldo được chờ đợi sẽ ra mắt MU gặp Newcastle vào ngày 11/9 tới và sau đó là chơi trận đầu tiên ở Champions League. Mỹ nhân tennis Ukraine Elina Svitolina có sự chuẩn bị cho US Open 2021 rất tốt khi lần đầu trong năm nay, cô vào chung kết tại WTA Chicago. Cập nhật chiều cao của các cầu thủ đội tuyển Việt Nam (ĐTVN) tham dự vòng loại thứ 3 World Cup 2022 diễn ra năm 2021. Thang Long Warriors và huấn luyện viên Predrag Lukic đã bỏ lỡ cơ hội giành chức vô địch VBA theo một cách không mong muốn. Lịch thi đấu C1 2021/2022 hôm nay mới nhất. Xem lịch trực tiếp bóng đá, ltđ Cúp C1 châu Âu Champions League mùa giải mới chính xác nhất. VĐV Nguyễn Thị Hải đã hoàn thành thi đấu nội dung ném đĩa nữ ngồi hạng thương tật F57 Paralympic Tokyo, có thành tích tốt nhất mùa giải nhưng chưa đủ giành huy chương. Lịch thi đấu giải US Open 2021 nội dung nam và nữ hôm nay. Xem lịch trực tiếp tennis Mỹ mở rộng năm 2021 cập nhật mới nhất. Giữa thời buổi COVID-19 đầy khó khăn khiến các BTC giải giỏi lắm chỉ dám tăng tiền thưởng nhè nhẹ, Giải tennis US Open 2021 có mức thưởng tuyệt vời. Cập nhật thông tin lực lượng, đội hình dự kiến, đội hình ra sân trận Liverpool vs Chelsea thuộc vòng 3 Ngoại hạng Anh diễn ra lúc 23h30 ngày 28/8. Kết quả cuộc thi đua xe tăng quốc tế diễn ra ở Nga mới nhất. Cập nhật kết quả đua xe tăng của đoàn Việt Nam tại Army Games 2021. Trước trận chung kết LCK Mùa Hè 2021, Faker đã nhận định Showmaker sẽ chính là đối thủ lớn nhất cản bước Quỷ Vương chinh phục chức vô địch LCK thứ 10. Làng thể thao đối kháng đang phân chia hai trường phái "Boxing và MMA" rõ rệt khi nói về trận Jake Paul và Tyron Woodley. Với tính hình diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19, giải bóng rổ chuyên nghiệp Việt Nam VBA mùa giải 2021 đã chính thức bị hủy. Trực tiếp Paralympic Tokyo 2021 xem ở đâu? Cập nhật link xem trực tuyến Thế vận hội Paralympic hôm nay mới nhất. Lịch thi đấu giải Army Games 2021 mới nhất. Cập nhật lịch thi đấu của đoàn Việt Nam tại Hội thao Quân sự quốc tế - Army Games năm 2021. Sau nhiều tuần yên ắng, thị trường chuyển nhượng NBA đã được khuấy động bởi một thương vụ trao đổi thú vị giữa 3 đội bóng. Cristiano Ronaldo hứa hẹn giúp MU có hàng tấn công giàu sức hủy diệt. Nhưng anh sẽ được xếp chơi ở vị trí nào trong đội hình của HLV Solskjaer?
Giải vô địch bóng rổ thế giới
Giải vô địch bóng rổ thế giới (FIBA Basketball World Cup, trước là FIBA World Championship từ 1950-2010) là giải vô địch thế giới dành cho cấp độ đội tuyển quốc gia cho các đội tuyển nam do Liên đoàn bóng rổ quốc tế (FIBA) tổ chức 4 năm 1 lần. Đây là giải đấu quan trọng nhất trong khuôn khổ hoạt động của FIBA. Cấu trúc giải đấu có nhiều nét tương đồng với Giải vô địch bóng đá thế giới, và cả hai giải đấu này vẫn được tổ chức trong cùng một năm suốt giai đoạn 1970-2014. Đối với các đội tuyển nữ, FIBA tổ chức Giải vô địch bóng rổ nữ thế giới. Cũng trong giai đoạn 1986-2014, Giải vô địch bóng rổ thế giới của nam và nữ đều được tổ chức cùng năm, và thường tại các quốc gia khác nhau. Hiện tại, giải vô địch quy tụ 32 quốc gia trong đó có đội chủ nhà, và từ năm 1967 chức vô địch được mang tên Cúp Naismith. Tây Ban Nha đang là đương kim vô địch thế giới sau khi đánh bại Argentina ở trận chung kết năm 2019. Sau giải vô địch thế giới năm 2014, FIBA quyết định không tổ chức Giải vô địch bóng rổ nam trùng năm với Giải vô địch bóng đá thế giới, trong khi giải vô địch bóng rổ nữ vẫn tiếp tục trùng năm với Giải vô địch bóng đá thế giới.
Kinh tế học chuẩn tắc (normative economics) là các phân tích kinh tế đưa ra những quyết định hoặc nhận định về cái cần phải và nên có chứ không phải cái hiện có. Kinh tế học chuẩn tắc (normative economics) đưa chúng ta đến những nhận định như "cần phải điều tiết độc quyền" hoặc "nên đánh thuế lợi nhuận". Những nhận định này có thể khác với kinh tế học thực chứng - một hướng phân tích quan tâm đến việc mô tả và phân tích nền kinh tế như nó đang tồn tại. Thông thường, kinh tế học chuẩn tắc được thiết lập trên cơ sở kinh tế học thực chứng và tồn tại dưới một đánh giá nào đó về việc xã hội cần có những mục tiêu gì trong quá trình phát triển kinh tế và nghiên cứu xem hành vi kinh tế nên dược tổ chức và thực hiện như thế nào (gọi là đánh giá giá trị). Vì vậy, chúng ta có thể tranh cãi với nhau về một nhận định do kinh tế học chuẩn tắc đưa ra vì cho rằng phân tích thực chứng làm cơ sở cho nó không đúng hoặc chúng ta không nhất trí về những đánh giá giá trị có liên quan. Sự phân biệt giữa Kinh tế học Thực chứng và Chuẩn tắc giúp chúng ta hiểu tại sao có sự bất đồng giữa các nhà Kinh tế. Thực tế, sự bất đồng bắt nguồn từ quan điểm của mỗi nhà Kinh tế khi nhìn nhận vấn đề. Chẳng hạn, trong một chương trình phỏng vấn trên truyền hình về chính sách thương mại của Chính phủ, một nhà Kinh tế ủng hộ chính sách tự do thương mại, rong khi một nhà Kinh tế khác cho rằng Chính phủ nên tăng cường rào cản thương mại. Về Kinh tế học Thực chứng, cả hai nhà Kinh tế đều thừa nhận rằng mở rộng thương mại là có lợi cho tổng thể nền kinh tế. Mặc dù điều này cũng có ảnh hưởng đến một số thành phần nào đó của nền kinh tế. Tuy nhiên, sự bất đồng của họ về chính sách là do các giá trị khác nhau. Nhà kinh tế thứ nhất nhấn mạnh lợi ích của tổng thể nền kinh tế, trong khi nhà kinh tế thứ hai nhấn mạnh vào việc hạn chế ảnh hưởng của chính sách đối với một nhóm hay ngành nào đó cần được bảo hộ. Tuy rằng cả hai nhà Kinh tế cùng có kết luận thực chứng như nhau, nhưng kết luận chuẩn tắc thì lại khác nhau do các giá trị khác nhau về chính sách của Chính phủ. Trên phương diện truyền thông, các nhà kinh tế thường không có đủ thời gian để giải thích rõ về quan điểm. Điều này làm cho chúng ta cảm nhận rằng các nhà kinh tế không thống nhất với nhau trong chính sách kinh tế của chính phủ.
Kinh tế học chuẩn tắc
Kinh tế học chuẩn tắc (hay còn gọi là Kinh tế học lý thuyết) (Tiếng Anh: Normative economics) là một nhánh kinh tế học chuyên phán xét xem nền kinh tế phải như thế nào hoặc phải có chính sách kinh tế gì để đạt được một mục tiêu đáng có. Kinh tế học chuẩn tắc chú ý tới sự đáng có của những mặt nhất định của nền kinh tế. Nó nhấn mạnh sự cần thiết có các chính sách kinh tế. Chú ý là kinh tế học chuẩn tắc (phải như thế nào) khác với kinh tế học thực chứng (như thế nào). Tuy nhiên, việc phán xét các giá trị chuẩn tắc đòi hỏi phải có những điều kiện (giả thiết), và khi điều kiện thay đổi thì giá trị cũng thay đổi.
1 Assumption University (AU, formerly known as ABAC) được bắt nguồn từ trường Assumption Commercial College vào năm 1969 là một cơ sở giáo dục tư nhân dưới tên của Assumption School of Business. Năm 1972, trường được chính thức thành lập dưới tên là Assumption Business Administration College hoặc ABAC. Vào tháng Năm năm 1975, ABAC đã được công nhận bởi Bộ giáo dục và trở thành Assumption University (Đại học Assumption). Trường đại học Assumption này là một tổ chức phi lợi nhuận được quản lý bởi Brothers ò St Gabriel, một tổ chức Công giáo trên toàn thế giới. Trường Đại học Assumption university là một cộng đồng quốc tế của các học giả, bởi cảm hứng của giáo Kitô tham gia vào việc theo đuổi chân lý và kiến thức để phục vụ cho xã hội đặc biệt là thông qua việc sử dụng các cách tiếp cận đa ngành với đày sáng tạo và công nghệ thông tin. Trường đại học Assumption với hơn 1,300 giảng viên đến từ các nơi trên thế giới, giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh. Khu học xá mới, hiện đại với nguồn vốn đầu tư lên đến hàng trăm triệu đô Mỹ. Sinh viên được học và thực tập tại các cơ sở chuyên ngành liên quan. Đặc biệt: Có cơ hội học bổng (giảm 30 – 50% học phí) cho sinh viên đạt kết quả học tập cao khi học tại trường. Với hơn 30 năm kinh nghiệm, trung tâm tư vấn du học OEC Global Education là một trong những đơn vị tiên phong đưa sinh viên Việt Nam sang du học Thái Lan và là đại diện tuyển sinh chính thức của Đại học Assumption.
Đại học Assumption (Thái Lan)
Đại học Assumption (tiếng Thái: มหาวิทยาลัยอัสสัมชัญ) là trường đại học tư Công giáo với hai cơ sở ở khu vực Hua Mak và Bang Na của Bangkok, Thái Lan. Trường này được sáng lập bởi Dòng thánh Gabriel, những người hoạt động tích cực trong nền giáo dục Thái Lan kể từ năm 1901. Đại học Assumption nổi tiếng là một trong những trường đại học thu hút sinh viên ngoại quốc đến từ các nước Ấn Độ, Trung Quốc, Myanma, Nga, Bangladesh, Pakistan và các quốc gia khác ở Á châu. Sinh viên từ Trung Quốc chiếm tỷ lệ đông nhất với 6000 sinh viên. Khoảng 1000 sinh viên Ấn Độ đang học ở đây. Trường có chương trình trao đổi sinh viên từ Hoa Kỳ (Loyola) và Âu châu. Đại học Assumption trở thành một cơ sở giáo dục độc lập năm 1969 khi Assumption Commercial College (ACC) trở thành Assumption School of Business. Năm 1972, trường thành Assumption Business Administration College (ABAC). Năm 1990 trường cao đẳng đã được Bộ Đại học Thái Lan đồng ý trở thành trường đại học. Hiện nay, đại học đã mở rộng cơ sở ở Bang Na với các tòa nhà có kiến trúc kiểu gothic và nằm giữa bầu không khí thiên nhiên, trường còn được gọi là "Trường đại học trong công viên".
LGBT là tên viết tắt của cộng đồng những người đồng tính luyến ái nữ (Lesbian), đồng tính luyến ái nam (Gay), song tính luyến ái (Bisexual) và hoán tính hay còn gọi là người chuyển giới (Transgender). Hiện nay, thuật ngữ “LGBT” đang trở nên ngày càng phổ biến, tuy nhiên nhiều người trong chúng ta vẫn chưa hiểu rõ ý nghĩa của thuật ngữ này. Bài viết dưới đây sẽ cung cấp những thông tin cần thiết nhằm giải đáp các thắc mắc về đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới.Bạn đang xem: Toàn tính là gì. “LGBT” là tên viết tắt của “đồng tính nữ (Lesbian), đồng tính nam (Gay), song tính (Bisexual) và chuyển giới (Transgender)”. Thuật ngữ này mô tả xu hướng tình dục của một người, tức là họ có sự hấp dẫn tình yêu và tình dục với những người cùng giới tính.Bạn đang xem: Toàn tính là gì. Theo thống kê tại Hoa Kỳ có khoảng 3,5% số người được xác định là người đồng tính hoặc song tính. Nhưng nhiều người trong số họ cảm thấy rằng họ không phải là 100% đồng tính, thẳng tính hay song tính. Xu hướng tình dục của những người này thường theo hướng liên tục, lâu dài và cố định. Tuy nhiên, cũng có một số người không cảm thấy có bất kỳ sự hấp dẫn tình dục nào kể cả ở người cùng giới hay khác giới, đây được coi là trường hợp “vô tính”. Bản dạng giới, hay còn gọi là nhận thức giới tính không giống với xu hướng tình dục. Bản dạng giới tức là nhận thức của một người về giới tính, có thể là nam, nữ hoặc giới tính khác. Người chuyển giới có nghĩa là người có bản dạng giới khác với giới tính mà họ được chỉ định khi sinh ra (giới tính sinh học). Một người sinh ra là nữ nhưng có thể cảm thấy rằng họ thực sự là con trai và ngược lại, sinh ra là nam nhưng họ lại cảm thấy mình là một cô gái. Một số người chuyển giới quyết định sống, ăn mặc và hành động theo giới tính mà họ nhận thức rằng họ thực sự thuộc về giới tính đó. Một số người chọn phẫu thuật hoặc dùng hormone để cơ thể phù hợp hơn với bản dạng giới của họ. Nhưng cũng có những người khác thì chưa phẫu thuật để chuyển đổi giới tính. Quan hệ tình dục của một người không quyết định xu hướng tình dục của họ. Đôi khi xu hướng tình dục có liên quan nhiều hơn đến cảm giác yêu thương và chăm sóc. Nhiều người trưởng thành và thanh thiếu niên chưa bao giờ quan hệ tình dục với người cùng giới nhưng vẫn xác định là đồng tính. Xã hội nói chung đang thay đổi, hiện nay đã có nhiều nước cho phép các cặp đồng giới kết hôn. Bên cạnh đó, nhiều trường học đã hỗ trợ cho thanh thiếu niên LGBT và tạo môi trường an toàn cho tất cả học sinh. Tuy nhiên, tình trạng những học sinh LGBT bị bắt nạt ở trường vẫn xảy ra. Nếu những ai đang bị lâm vào tình trạng này, hãy nói chuyện với cha mẹ, giáo viên để tìm ra giải pháp. Hiện nay, vẫn còn nhiều cộng đồng không chấp nhận người LGBT. Đã có một số nước đưa ra luật pháp để giải quyết các hành vi thù địch hoặc chống lại người LGBT, nhưng nhiều nước vẫn không ban hành luật để bảo vệ họ khỏi sự phân biệt đối xử. Tất cả những yếu tố này có thể khiến một thiếu niên LGBT cảm thấy lo lắng và cô đơn. Thanh thiếu niên LGBT nếu không được nhận sự ủng hộ bởi gia đình và trường học có nhiều khả năng sẽ bị trầm cảm. Nhiều người trong số họ đã đối phó với những suy nghĩ và cảm xúc này theo những cách tiêu cực. Họ có thể làm tổn thương chính họ hoặc chuyển sang ma túy và rượu. Một số bỏ học, bỏ nhà ra đi. Đây là một câu hỏi mà nhiều người LGBT ở mọi lứa tuổi đều băn khoăn, trăn trở. Một số cha mẹ sẽ cởi mở và chấp nhận, trong khi những người khác có thể không hiểu ý nghĩa của đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính hoặc chuyển giới nên họ sẽ có những định kiến về người LGBT. Nếu chưa đủ can đảm để công khai giới tính của mình, hãy tìm đến những chuyên gia tư vấn để được giải đáp băn khoăn và đưa ra quyết định đúng đắn. Các cô gái tuổi teen nên đi khám để kiểm tra tình trạng sức khỏe sinh sản vào khoảng từ 13 đến 15 tuổi, và nên đi khám định kỳ mỗi năm. Ngoài ra, những người chuyển giới vẫn có cơ quan sinh sản nữ hoặc đang sử dụng nội tiết tố nữ cũng cần được chăm sóc sức khỏe sinh sản nữ. Tất cả những người có hoạt động tình dục với bạn tình khác giới cần sử dụng biện pháp tránh thai để tránh mang thai ngoài ý muốn. Điều quan trọng là phải sử dụng bao cao su mỗi lần để không mắc phải các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STIs). Bên cạnh đó có thể sử dụng phương pháp rào cản như tấm chắn miệng và găng tay khi chạm vào bộ phận sinh dục khác bằng ngón tay, miệng hoặc chạm vào đồ chơi tình dục.
Toàn tính luyến ái
Toàn tính luyến ái (tiếng Anh: Pansexuality và Omnisexuality) là chỉ sự hấp dẫn tình dục và/hoặc tình cảm với bất kể giới và giới tính nào. Những người toàn tính (pansexual) có thể xem bản thân họ như là người mù giới, khẳng định rằng giới và giới tính không phải là yếu tố quyết định sự hấp dẫn tình cảm và tình dục của họ đối với những người khác. Toàn tính là một xu hướng tính dục độc lập hoặc là một nhánh của song tính. Người toàn tính có được sự hấp dẫn với mọi người, cả nam, nữ lẫn những người phi nhị nguyên giới. Tính dục toàn giới hoàn toàn phủ nhận hệ nhị phân giới. Đây cũng thường được xem là một xu hướng tính dục bao quát hơn tính dục song giới. Mức độ bao quát của thuật ngữ "song tính" khi so với thuật ngữ "toàn tính" vẫn còn gây tranh cãi trong cộng đồng LGBT nói chung và cộng đồng người song tính nói riêng.
Christina Aguilera lần đầu tiên đạt được các bảng xếp hạng pop quốc gia ở tuổi thiếu niên vào năm 1999. Kể từ đó sự nghiệp của cô đã thay đổi qua các pop tuổi teen, những bản ballad dành cho người lớn mạnh mẽ và âm nhạc nhìn lại nhạc jazz và swing cho cảm hứng. "Đẹp" được viết bởi Linda Perry, và ban đầu cô muốn ghi lại nó cho chính mình. Pink cũng thích bài hát này, nhưng cuối cùng Christina Aguilera đã thắng và thu âm "Beautiful" cho album Stripped của cô. Nó nói về ai đó chiến đấu vì lòng tự trọng, và video âm nhạc đi kèm đã nhận được sự ca ngợi mạnh mẽ cho vai diễn nhạy cảm của các cá nhân lgbt. "Genie In a Bottle" là đĩa đơn đầu tiên trong album đầu tay của Christina Aguilera, và nó trở thành hit đầu tiên của cô. Cô lo ngại nó đã không cung cấp đủ cho một showcase cho giọng nói của cô với sản xuất pop dance nhẹ. Tuy nhiên, nó đã cho ra mắt cô như một ngôi sao nhạc pop mới với "Genie In a Bottle" dành năm tuần ở vị trí 1 trên bảng xếp hạng đĩa đơn pop. Lời khen ngợi mạnh mẽ cho người đàn ông trong cuộc đời cô được lấy cảm hứng từ đám cưới năm 2005 cho Jordan Bratman. Bài hát bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi âm nhạc nhạc jazz cổ điển, nhưng nó vẫn giữ nhịp điệu nhảy đương đại. Nó đã giành giải Christina Aguilera cho giải Nữ ca sĩ nhạc pop xuất sắc nhất. Bài hát đề cập đến nỗi đau của việc mất đi một người thân yêu, và đó là một sự giới thiệu về sức mạnh của giọng hát của Christina Aguilera. Khi viết bài hát, Linda Perry bị ảnh hưởng bởi cái chết của cha cô. Video âm nhạc đi kèm lần đầu tiên được đạo diễn bởi Christina Aguilera và có chủ đề lễ hội. Đĩa đơn đầu tiên của Christina Aguilera với các yếu tố rock mạnh liên quan đến chủ đề duy nhất của một người yêu đã làm điều gì đó sai trái cho nhân vật chính. Tuy nhiên, sự thay đổi độc đáo là bài hát kỷ niệm thời gian khó khăn để tạo ra một "máy bay chiến đấu". Scott Storch đồng sáng tác và sản xuất ca khúc, và nó có nghệ sĩ guitar rock Dave Navarro. Phiên bản album gốc của "What a Girl Wants" là chậm hơn đáng kể so với kết hợp hit của bài hát. Trẻ Christina Aguilera khẳng định rằng một sự pha trộn lạc quan hơn được tạo ra để được phát hành như là đĩa đơn chính thức thứ hai từ album đầu tay tự mang tên của cô. Bản năng của cô ấy là chính xác. "What a Girl Wants" đã trở thành hit thứ 2 liên tiếp thứ hai của cô. Cô ấy nói trong một cuộc phỏng vấn về sự hợp tác nói rằng, "Chúng tôi mất một thập kỷ trong cùng một doanh nghiệp và quan sát lẫn nhau từ xa, vì vậy chúng tôi bây giờ đến với nhau và tôn trọng đạo đức làm việc của nhau và cách chúng tôi muốn được nghe và làm một cuộc hôn nhân ra khỏi nó, tôi nghĩ Cơ thể của bạn là đỉnh cao nhất của điều đó. " Bài hát đứng đầu bảng xếp hạng khiêu vũ ở Mỹ và lọt vào top 20 ở đài phát thanh pop chính thống. Được viết bởi Diane Warren, bài hát "I Turn To You" ban đầu được thu âm bởi nhóm nhạc R & B All-4-One cho nhạc nền cho bộ phim Space Jam năm 1996. Christina Aguilera đã thu âm lại nó và bài hát trở thành thứ tư thứ tư của cô top 10 hit single vào thời điểm đó. Nhạc sĩ Diane Warren là nhà sản xuất điều hành cho việc thu âm. Single phát hành của "Come On Over Baby (Tất cả tôi muốn là bạn)" đã được làm lại đáng kể từ bản thu âm gốc. Nó đã được đưa ra nhiều hơn hip hop và các yếu tố nhảy cũng như giọng hát mạnh mẽ hơn từ Christina Aguilera và một vết sưng về phía trước trong hấp dẫn tình dục. Những thay đổi đã thành công khi bài hát trở thành đĩa đơn hit thứ 3 của cô. Lấy cảm hứng từ "Boogie Woogie Bugle Boy" cổ điển của Andrews Sisters, "Christina Aguilera và Linda Perry đã cùng nhau tập luyện bài hát thanh nhạc đầy phong cách năm 1940 này. Đây là đĩa đơn thứ ba trong album Back To Basics .
Beautiful (bài hát của Christina Aguilera)
"Beautiful" là bài hát bởi ca sĩ-người viết bài hát người Mỹ Christina Aguilera. Bài hát được Linda Perry sáng tác và sản xuất cho album phòng thu thứ tư của Aguilera, Stripped (2002). Ca khúc mang thể loại nhạc pop và được viết ở giọng E giáng trưởng. Lời bài hát có ý nghĩa không nên vì lời bình phẩm của những người khác mà trở nên mất tự tin, mà thay vào đó hãy chú ý vẻ đẹp nội tâm. "Beautiful" được hãng thu âm RCA gửi tới các đài phát tại Mỹ ngày 16 tháng 10 năm 2002 và sau đó tiếp tục phát hành tại các lãnh thổ khác vào tháng 1 năm 2003, dưới dạng đĩa đơn thứ hai trích từ album. Ca khúc đã nhận được nhiều đánh giá tích cực từ phía phê bình, cho rằng đó là điểm nhấn của album Stripped. "Beautiful" đã mang về cho Christina một giải Grammy ở hạng mục "Trình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất" năm 2004. "Beautiful" đã đạt được thành công vang dội, đứng đầu bảng xếp hạng của các quốc gia Úc, Canada, New Zealand, Ireland, Liên hiệp Anh và lọt vào tốp năm bảng xếp hạng của các quốc gia Mỹ, Áo, Bỉ, Đức, Na Uy cùng rất nhiều quốc gia khác.
Bãi đá cổ Nấm Dẩn là di tích khảo cổ cấp quốc gia của huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang. Nơi đây được thiên nhiên ưu ái ban tặng cho vẻ đẹp hoang sơ và kỳ bí. Bãi đá cổ Nấm Dẩn hay còn có tên gọi khác là bãi đá cổ Xín Mần. Bãi đá nằm ngay giữa thung lũng bản Nùng Ma Lù thuộc xã Nấm Dẩn, huyện Xín Mần. Bãi đá cổ được các nhà khoa học của Việt Nam phát hiện năm 2004. Đến tham quan bãi đá cổ Nấm Dẩn, du khách sẽ được chiêm nghiệm những tinh hoa văn hóa của con người thời tiền sử. Theo tìm hiểu của BestPrice, khu di tích bãi đá cổ Nấm Dẩn bao gồm nhiều tảng đá lớn nằm dọc theo con suối Nậm Khoòng. Những tảng đá này mang hình dáng vẻ lạ nhưng lại cực kỳ độc đáo. Có những tảng đá mang hình bàn cờ, tảng khác lại có hình tấm hoặc trông như một chiếc ghế ngồi. Cách suối Nậm Khoòng khoảng hơn 700m về phía Đông là hai tảng đá cực lớn (cự thạch), không có hình dạng xác định. Hai cự thạch có bề mặt phẳng với các rìa cạnh vẫn còn giữ nguyên nét tự nhiên của trạng thái phong hóa, không có sự can thiệp nhân tạo của con người. Cự thạch có bề mặt không bằng phẳng, hình dạng gần giống như mai rùa. Trên bề mặt có khoảng 84 hình khắc và 80 lỗ đục. Những hình khắc và lỗ đục này có niên đại khoảng hơn 2000 năm. Theo các nhà khoa học nghiên cứu, hai di tích cự thạch có khả năng là ngôi mộ của thủ lĩnh trong vùng hoặc là nơi thờ cúng thần linh của người dân cổ xưa. Ngoài ra, còn một khả năng khác là nơi liên quan đến tục thờ thần đá của người dân tiền sử. Từ khu di tích cự thạch đi men theo triền núi khoảng 500m đến bản người Mông thuộc thôn Nấm Dẩn, du khách sẽ nhìn thấy tiếp một bãi đá có hình vẽ chạm khắc cổ. Các hình vẽ này được khắc bằng kim loại, có niên đại khoảng hơn 1000 năm. Bao gồm các hình khối như tròn, vuông, hình chữ nhật và hình bậc thang, hình sinh khí thực nữ, hình bàn chân người có kích thước như thật. Cho đến ngày nay, các hình khắc trên đá ở bãi đá cổ Nấm Dẩn vẫn chưa được các nhà khoa học giải mã cụ thể. Có ý kiến cho rằng, các hình vẽ này là bản đồ họa tương tự như bản đồ bây giờ để ghi chép lại các vấn đề trong vùng. Có ý kiến khác lại đưa ra rằng đây là những hình vẽ có liên quan đến tín ngưỡng thờ thần mặt trời của người dân trong vùng. Bãi đá cổ Nấm Dẩn gần với một số điểm đến tham quan hấp dẫn của huyện Xín Mần như: Thác tiên, suối khoáng Nậm Choong, hang thần tiên ở Nà Ma,. Vì thế bạn nên kết hợp tham quan bãi đá cổ cùng với những điểm đến này trong chuyến du lịch Hà Giang của mình nhé. - Cung đường số 1: Đi theo QL2 về đến Yên Bình. Từ Yên Bình tiếp tục đi dọc theo DT178 đến Đèo Gió. Từ Đèo Gió bạn di chuyển thêm khoảng 15km là đến bãi đá cổ Nấm Dẩn. Thời gian đi khoảng 3 giờ 45 phút. - Cung đường số 2: Từ thành phố, du khách đi qua đường 197C đến thị trấn Vinh Quang. Từ đây đi tiếp theo DT177 đến trung tâm xã Nấm Dẩn. Sau đó từ trung tâm xã đi thêm khoảng 1,7km là đến bãi đá cổ Nấm Dẩn. Thời gian đi của tuyến đường này là 4 giờ 40 phút. Bãi đá cổ Nấm Dẩn là điểm đến hấp dẫn cho những ai muốn tìm hiểu về người Việt cổ xưa. Vậy nên để có một chuyến tham quan đầy ý nghĩa, bạn nên lưu ý một số vấn đề sau:. - Nên mặc những bộ trang phục lịch sự và thoải mái bởi bãi đá cổ Nấm Dẩn là một nơi linh thiêng đối với người tộc Dao của huyện Xín Mần. - Sau khi tham quan bãi đá cổ, du khách có thể dừng chân tại một nhà hàng địa phương và thưởng thức những món ăn đặc sản nổi tiếng như mèn mén, bún chua,. Bãi đá cổ Nấm Dẩn hay còn có tên gọi khác là bãi đá cổ Xín Mần. Bãi đá nằm ngay giữa thung lũng bản Nùng Ma Lù thuộc xã Nấm Dẩn, huyện Xín Mần. Bãi đá cổ được các nhà khoa học của Việt Nam phát hiện năm 2004. Đến tham quan bãi đá cổ Nấm Dẩn, du khách sẽ được chiêm nghiệm những tinh hoa văn hóa của con người thời tiền sử. Theo tìm hiểu của BestPrice, khu di tích bãi đá cổ Nấm Dẩn bao gồm nhiều tảng đá lớn nằm dọc theo con suối Nậm Khoòng. Những tảng đá này mang hình dáng vẻ lạ nhưng lại cực kỳ độc đáo. Có những tảng đá mang hình bàn cờ, tảng khác lại có hình tấm hoặc trông như một chiếc ghế ngồi. Cách suối Nậm Khoòng khoảng hơn 700m về phía Đông là hai tảng đá cực lớn (cự thạch), không có hình dạng xác định. Hai cự thạch có bề mặt phẳng với các rìa cạnh vẫn còn giữ nguyên nét tự nhiên của trạng thái phong hóa, không có sự can thiệp nhân tạo của con người. Cự thạch có bề mặt không bằng phẳng, hình dạng gần giống như mai rùa. Trên bề mặt có khoảng 84 hình khắc và 80 lỗ đục. Những hình khắc và lỗ đục này có niên đại khoảng hơn 2000 năm. Theo các nhà khoa học nghiên cứu, hai di tích cự thạch có khả năng là ngôi mộ của thủ lĩnh trong vùng hoặc là nơi thờ cúng thần linh của người dân cổ xưa. Ngoài ra, còn một khả năng khác là nơi liên quan đến tục thờ thần đá của người dân tiền sử. Từ khu di tích cự thạch đi men theo triền núi khoảng 500m đến bản người Mông thuộc thôn Nấm Dẩn, du khách sẽ nhìn thấy tiếp một bãi đá có hình vẽ chạm khắc cổ. Các hình vẽ này được khắc bằng kim loại, có niên đại khoảng hơn 1000 năm. Bao gồm các hình khối như tròn, vuông, hình chữ nhật và hình bậc thang, hình sinh khí thực nữ, hình bàn chân người có kích thước như thật. Cho đến ngày nay, các hình khắc trên đá ở bãi đá cổ Nấm Dẩn vẫn chưa được các nhà khoa học giải mã cụ thể. Có ý kiến cho rằng, các hình vẽ này là bản đồ họa tương tự như bản đồ bây giờ để ghi chép lại các vấn đề trong vùng. Có ý kiến khác lại đưa ra rằng đây là những hình vẽ có liên quan đến tín ngưỡng thờ thần mặt trời của người dân trong vùng. Bãi đá cổ Nấm Dẩn gần với một số điểm đến tham quan hấp dẫn của huyện Xín Mần như: Thác tiên, suối khoáng Nậm Choong, hang thần tiên ở Nà Ma,. Vì thế bạn nên kết hợp tham quan bãi đá cổ cùng với những điểm đến này trong chuyến du lịch Hà Giang của mình nhé. - Cung đường số 1: Đi theo QL2 về đến Yên Bình. Từ Yên Bình tiếp tục đi dọc theo DT178 đến Đèo Gió. Từ Đèo Gió bạn di chuyển thêm khoảng 15km là đến bãi đá cổ Nấm Dẩn. Thời gian đi khoảng 3 giờ 45 phút. - Cung đường số 2: Từ thành phố, du khách đi qua đường 197C đến thị trấn Vinh Quang. Từ đây đi tiếp theo DT177 đến trung tâm xã Nấm Dẩn. Sau đó từ trung tâm xã đi thêm khoảng 1,7km là đến bãi đá cổ Nấm Dẩn. Thời gian đi của tuyến đường này là 4 giờ 40 phút. Bãi đá cổ Nấm Dẩn là điểm đến hấp dẫn cho những ai muốn tìm hiểu về người Việt cổ xưa. Vậy nên để có một chuyến tham quan đầy ý nghĩa, bạn nên lưu ý một số vấn đề sau:. - Nên mặc những bộ trang phục lịch sự và thoải mái bởi bãi đá cổ Nấm Dẩn là một nơi linh thiêng đối với người tộc Dao của huyện Xín Mần. - Sau khi tham quan bãi đá cổ, du khách có thể dừng chân tại một nhà hàng địa phương và thưởng thức những món ăn đặc sản nổi tiếng như mèn mén, bún chua,. Theo tìm hiểu của BestPrice, khu di tích bãi đá cổ Nấm Dẩn bao gồm nhiều tảng đá lớn nằm dọc theo con suối Nậm Khoòng. Những tảng đá này mang hình dáng vẻ lạ nhưng lại cực kỳ độc đáo. Có những tảng đá mang hình bàn cờ, tảng khác lại có hình tấm hoặc trông như một chiếc ghế ngồi. Cách suối Nậm Khoòng khoảng hơn 700m về phía Đông là hai tảng đá cực lớn (cự thạch), không có hình dạng xác định. Hai cự thạch có bề mặt phẳng với các rìa cạnh vẫn còn giữ nguyên nét tự nhiên của trạng thái phong hóa, không có sự can thiệp nhân tạo của con người. Cự thạch có bề mặt không bằng phẳng, hình dạng gần giống như mai rùa. Trên bề mặt có khoảng 84 hình khắc và 80 lỗ đục. Những hình khắc và lỗ đục này có niên đại khoảng hơn 2000 năm. Theo các nhà khoa học nghiên cứu, hai di tích cự thạch có khả năng là ngôi mộ của thủ lĩnh trong vùng hoặc là nơi thờ cúng thần linh của người dân cổ xưa. Ngoài ra, còn một khả năng khác là nơi liên quan đến tục thờ thần đá của người dân tiền sử. Từ khu di tích cự thạch đi men theo triền núi khoảng 500m đến bản người Mông thuộc thôn Nấm Dẩn, du khách sẽ nhìn thấy tiếp một bãi đá có hình vẽ chạm khắc cổ. Các hình vẽ này được khắc bằng kim loại, có niên đại khoảng hơn 1000 năm. Bao gồm các hình khối như tròn, vuông, hình chữ nhật và hình bậc thang, hình sinh khí thực nữ, hình bàn chân người có kích thước như thật. Cho đến ngày nay, các hình khắc trên đá ở bãi đá cổ Nấm Dẩn vẫn chưa được các nhà khoa học giải mã cụ thể. Có ý kiến cho rằng, các hình vẽ này là bản đồ họa tương tự như bản đồ bây giờ để ghi chép lại các vấn đề trong vùng. Có ý kiến khác lại đưa ra rằng đây là những hình vẽ có liên quan đến tín ngưỡng thờ thần mặt trời của người dân trong vùng. Bãi đá cổ Nấm Dẩn gần với một số điểm đến tham quan hấp dẫn của huyện Xín Mần như: Thác tiên, suối khoáng Nậm Choong, hang thần tiên ở Nà Ma,. Vì thế bạn nên kết hợp tham quan bãi đá cổ cùng với những điểm đến này trong chuyến du lịch Hà Giang của mình nhé. - Cung đường số 1: Đi theo QL2 về đến Yên Bình. Từ Yên Bình tiếp tục đi dọc theo DT178 đến Đèo Gió. Từ Đèo Gió bạn di chuyển thêm khoảng 15km là đến bãi đá cổ Nấm Dẩn. Thời gian đi khoảng 3 giờ 45 phút. - Cung đường số 2: Từ thành phố, du khách đi qua đường 197C đến thị trấn Vinh Quang. Từ đây đi tiếp theo DT177 đến trung tâm xã Nấm Dẩn. Sau đó từ trung tâm xã đi thêm khoảng 1,7km là đến bãi đá cổ Nấm Dẩn. Thời gian đi của tuyến đường này là 4 giờ 40 phút. Bãi đá cổ Nấm Dẩn là điểm đến hấp dẫn cho những ai muốn tìm hiểu về người Việt cổ xưa. Vậy nên để có một chuyến tham quan đầy ý nghĩa, bạn nên lưu ý một số vấn đề sau:. - Nên mặc những bộ trang phục lịch sự và thoải mái bởi bãi đá cổ Nấm Dẩn là một nơi linh thiêng đối với người tộc Dao của huyện Xín Mần. - Sau khi tham quan bãi đá cổ, du khách có thể dừng chân tại một nhà hàng địa phương và thưởng thức những món ăn đặc sản nổi tiếng như mèn mén, bún chua,. Theo tìm hiểu của BestPrice, khu di tích bãi đá cổ Nấm Dẩn bao gồm nhiều tảng đá lớn nằm dọc theo con suối Nậm Khoòng. Những tảng đá này mang hình dáng vẻ lạ nhưng lại cực kỳ độc đáo. Có những tảng đá mang hình bàn cờ, tảng khác lại có hình tấm hoặc trông như một chiếc ghế ngồi. Cách suối Nậm Khoòng khoảng hơn 700m về phía Đông là hai tảng đá cực lớn (cự thạch), không có hình dạng xác định. Hai cự thạch có bề mặt phẳng với các rìa cạnh vẫn còn giữ nguyên nét tự nhiên của trạng thái phong hóa, không có sự can thiệp nhân tạo của con người. Cự thạch có bề mặt không bằng phẳng, hình dạng gần giống như mai rùa. Trên bề mặt có khoảng 84 hình khắc và 80 lỗ đục. Những hình khắc và lỗ đục này có niên đại khoảng hơn 2000 năm. Theo các nhà khoa học nghiên cứu, hai di tích cự thạch có khả năng là ngôi mộ của thủ lĩnh trong vùng hoặc là nơi thờ cúng thần linh của người dân cổ xưa. Ngoài ra, còn một khả năng khác là nơi liên quan đến tục thờ thần đá của người dân tiền sử. Từ khu di tích cự thạch đi men theo triền núi khoảng 500m đến bản người Mông thuộc thôn Nấm Dẩn, du khách sẽ nhìn thấy tiếp một bãi đá có hình vẽ chạm khắc cổ. Các hình vẽ này được khắc bằng kim loại, có niên đại khoảng hơn 1000 năm. Bao gồm các hình khối như tròn, vuông, hình chữ nhật và hình bậc thang, hình sinh khí thực nữ, hình bàn chân người có kích thước như thật. Cho đến ngày nay, các hình khắc trên đá ở bãi đá cổ Nấm Dẩn vẫn chưa được các nhà khoa học giải mã cụ thể. Có ý kiến cho rằng, các hình vẽ này là bản đồ họa tương tự như bản đồ bây giờ để ghi chép lại các vấn đề trong vùng. Có ý kiến khác lại đưa ra rằng đây là những hình vẽ có liên quan đến tín ngưỡng thờ thần mặt trời của người dân trong vùng. Bãi đá cổ Nấm Dẩn gần với một số điểm đến tham quan hấp dẫn của huyện Xín Mần như: Thác tiên, suối khoáng Nậm Choong, hang thần tiên ở Nà Ma,. Vì thế bạn nên kết hợp tham quan bãi đá cổ cùng với những điểm đến này trong chuyến du lịch Hà Giang của mình nhé. - Cung đường số 1: Đi theo QL2 về đến Yên Bình. Từ Yên Bình tiếp tục đi dọc theo DT178 đến Đèo Gió. Từ Đèo Gió bạn di chuyển thêm khoảng 15km là đến bãi đá cổ Nấm Dẩn.
Bãi đá cổ Nấm Dẩn
Bãi đá cổ Nấm Dẩn hay Bãi đá cổ Xín Mần là nơi có những khối đá lớn có khắc các hình ở ven dòng suối Nậm Dẩn, còn gọi là Nậm Khoòng, xã Nấm Dẩn, huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang, Việt Nam. Bãi đá cổ Nấm Dẩn được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích cấp quốc gia Việt Nam tại Quyết định 03/2008/QÐ-BVHTTDL ngày 21/02/2008. Nơi có bãi đá này được dân địa phương gọi là "Nà Lai Shứ" theo tiếng Tày-Nùng có nghĩa là "ruộng nhiều chữ" (hoặc "cánh đồng nhiều chữ"). Hiện có văn liệu viết là Bãi đá cổ Nấm Dẩn Viện Khảo cổ học đã để ý nghiên cứu, nhưng tất cả đều đang chứa đựng những ẩn số, huyền bí. Để khẳng định và tìm lời giải cho vấn đề này, các nhà khoa học cần tiếp tục nghiên cứu . Bãi đá cổ Nấm Dẩn cùng với Đèo Gió 22°34′11″B 104°30′05″Đ và Thác Tiên ở bản Ngam Lâm hợp thành các điểm của tour du lịch hấp dẫn .
Lâu đài bay của pháp sư Howl, còn dịch nghĩa khác là Lâu đài di động của Howl, là bộ phim hoạt hình Nhật Bản ra mắt năm 2004, được biên kịch và đạo diễn bởi Miyazaki Hayao của Studio Ghibli, dựa trên một tiểu thuyết cùng tên của Diana Wynne Jones. Ban đầu đạo diễn của phim là Mamoru Hosoda - từng đạo diễn 2 phim trong loạt phim Digimon - nhưng ông đột ngột rời khỏi dự án, do đó Miyazaki tuy đã về hưu nhưng phải đứng ra nhận vai trò đạo diễn. Phim đã được công chiếu lần đầu tại Liên hoan phim Venice vào 5 tháng 9 năm 2004, và tại các rạp chiếu phim ở Nhật vào 20 tháng 11 năm 2004. Bộ phim đã thu về khoảng 231.7 triệu USD trên toàn thế giới để trở thành một trong những phim thương mại Nhật thành công nhất trong lịch sử. Sau đó, phim được Peter Docter thuộc hãng Pixar chuyển thể sang tiếng Anh và công chiếu tại Bắc Mỹ bởi hãng Walt Disney. Phim cũng được giới hạn công chiếu tại Mỹ, Canada vào ngày 10 tháng 6 năm 2005, trên toàn lãnh thổ Australia vào 22 tháng 9 và Anh vào tháng 9 sau đó. Bộ phim được đề cử giải Oscar cho phim hoạt hình hay nhất tại Oscar lần thứ 78 năm 2006. Quyển tiểu thuyết của Wynne Jones đã cho phép Miyaki kết hợp hình tượng một cô gái trẻ gan dạ và một bà lão thành một cá tính duy nhất của nhân vật nữ chính của phim, Sophie. Cô bắt đầu phim trong hình dáng một cô thợ làm mũ 18 tuổi và sau đó lời nguyền của mụ phù thủy già biến cô thành một bà lão 90 với mái tóc bạc trắng. Ban đầu Sophie rùng mình bởi sự thay đổi này. Tuy nhiên, cô dần chấp nhận điều này như một cách để tự giải phóng mình khỏi lo lắng, sợ hãi và ngại ngùng. Lời nguyền này cũng là một cơ hội may mắn để cô bắt đầu chuyến phiêu lưu. Cô thợ làm mũ Sophie, người điều hành cuối cùng cửa hàng làm mũ của cha cô, có cơ hội gặp gỡ phù thủy bí ẩn Howl. Anh bắt đầu thích cô từ đó. Điều này thu hút sự chú ý của kẻ luôn tìm kiếm trái tim của Howl, Phù thủy Hoang mạc. Bà ta yểm bùa Sophie, biến cô thành một bà lão. Khi biết rằng lời nguyền cũng ngăn không cho mình nói với bất kỳ ai, Sophie quyết định chạy trốn. Trên đường, cô kết bạn với một con bù nhìn, cô gọi nó là Đầu củ cải, và họ đi ngang qua lâu đài của Howl. Khi vào trong Sophie đã gặp quỷ lửa Calcifer, người giữ sức mạnh của cả lâu đài và cũng là người đã nhận ra Sophie đã bị nguyền rủa. Calcifer nói sẽ giải lời nguyển trên người Sophie, đổi lại cô phải giúp giải phóng hắn khỏi một thỏa thuận với Howl. Khi Howl xuất hiện, Sophie nói rằng cô là người lau chùi mới của lâu đài. Khi bắt đầu cuộc sống mới của mình ở đó, cô khám phá ra rằng chiếc cửa thần kỳ có thể dẫn đến nhiêu nơi khác nhau. Howl nhận được lệnh triệu tập của Đức vua, người ra lệnh cho anh phải tham gia vào một cuộc chiến mà nguyên nhân chính là sự mất tích của Thái tử Justin. Howl đã cử Sophie giả làm mẹ mình đến triều đình để từ chối Đức vua. Tại cung điện, Sophie lại gặp mụ Phù thủy Hoang mạc. Khi Sophie cầu xin, mụ nói rằng không thể giải được lời nguyền đã yểm lên cô. Madame Suliman đã trừng phạt mụ bằng cách rút hết mọi sức mạnh của mụ. Mất hết vẻ ngoài trẻ trung của mình, mụ trở về với chính tuổi tác của mình và trở thành một bà già suy nhược. Suliman nói với Sophie rằng Howl sẽ có số phận tương tự nếu không tham gia chiến tranh. Rồi Howl xuất hiện giải cứu Sophie cùng mụ Phù thủy Hoang mạc và con chó lông dài của Suliman. Anh đưa cho Sophie một chiếc nhẫn phép, nói rằng nó sẽ dẫn Sophie đến chỗ Calcifer. Suliman bắt đầu đuổi theo cô để bắt Howl. Sophie nhận ra rằng Howl đã biến hình thành một loài vật giống chim để chiến đấu, nhưng sau mỗi lần biến đổi anh càng khó có cơ hội để trở lại hình dáng con người. Howl bày tỏ sự cảm kích của mình với Sophie bằng cách biến đổi cả tòa lâu đài thành nhà cũ của Sophie và nơi cư trú lúc nhỏ của Howl. Tại đó, anh đưa cho Sophie một món quà. Một ngày người mẹ - vẫn còn trẻ và xinh đẹp - của Sophie đến thăm. Thực chất cô ta đến vì sự đe dọa của Suliman, và Phù thủy Hoang mạc đã phát hiện ra có "gián điệp" trong túi của cô ta. Mụ cũng tìm thấy một điếu thuốc và bắt đầu hút. Mụ không nhận thấy rằng khói từ điếu thuốc đã làm cho Calcifer yếu đi, và hắn bắt đầu không thể bảo vệ ngôi nhà khỏi sự truy lùng của bọn tay sai của Suliman. Howl lại biến hình và đuổi bọn chúng đi, trong khi Sophie và Calcifer đưa lâu đài đến Sa mạc. Sophie mang Calcifer ra khỏi lâu đài để cắt mọi dấu vết ở thành phố nhằm bảo vệ Howl, rồi lại đưa hắn trở vào để tạo ra một phiên bản nhỏ hơn của lâu đài và bắt đầu cứu Howl. Mụ phù thủy Hoang mạc đã bất ngờ nhận ra trái tim của Howl nằm trong ngọn lửa của Calcifer, và chộp lấy nó. Để tránh cho mụ ta bị thiêu cháy, Sophie đã hắt nước vào mụ và Calcifer. Tòa lâu đài bị sụp đổ ngay sau đó, và Sophie cùng Heen bị rỡi vào một vách đá. Sophie bừng tỉnh lại trong nước mắt, tin rằng mình đã giết hại cả Calcifer và Howl vì mạng sống của cả hai bị phụ thuộc vào nhau. Trong lúc thổn thức, chiếc nhẫn của Howl chỉ vào chiếc cửa còn sót lại của tòa lâu đài, và Sophie bước vào đó. Cô tìm thấy chính mình trong quá khứ của Howl, cô cũng thấy Calcifer - một ngôi sao băng. Howl đã bắt Calcifer khi rơi xuống, và làm một bản giao kèo với quỷ dữ rằng anh sẽ đưa trái tim mình cho hắn nếu hắn chấp nhận phục vụ mình. Sau đó Sophie bị đẩy ngược trở lại với hiện tại. Khi trở về, Sophie tìm thấy Howl và nhận thấy anh đã chờ đợi mình quá lâu. Rồi anh mang cô về chỗ những người kia và ngã quỵ. Cô lấy trái tim của Howl từ mụ Phù thủy Hoang mạc và trả lại cho anh. Calcifer trở lại với hình dáng nguyên thủy của mình và bay đi. Những gì còn sót lại của tòa lâu đài đổ sập xuống các vách đá. Đầu củ cải đã chặn lại và cứu mọi người, nhưng đã bị thương nặng. Khi Sophie cảm kích và hôn Đầu củ cải thì Đầu củ cải biến hình trở lại thành Thái tử Justin bị mất tích. Lúc này Sophie đã hoàn toàn trở lại với tuổi trẻ của mình nhưng tóc thì vẫn còn những phần màu xám. Thái tử Justin đã kết thúc cuộc chiến ngay sau đó. Sau này, Howl, Sophie và những người khác đều sống trên một tòa lâu đài mới, lâu đài biết bay và tất nhiên dưới sự điều khiển của Calcifer. Diana Wynne Jones đã có cuộc gặp mặt với đại diện hãng Studio Ghibli nhưng không đóng góp hay tham gia vào quá trình sản xuất phim. Miyazaky đã đến Anh vào mùa hè năm 2004 để cho Jones một cái nhìn riêng về bộ phim sau khi đã hoàn thành. Đây là trích dẫn lời của cô:. Bộ phim rất khác so với tiểu thuyết gốc của Jones. Cốt truyện thì tương tự, nhưng được thêm vào phong cách và cá tính quen thuộc của Miyazaki, cũng như một vài khúc ngoặc còn thiếu hoặc được thay đổi rất nhiều của truyện. Cốt truyện vẫn tập trung vào Sophie và cuộc phiêu lưu của cô khi bị nguyền rủa bằng tuổi già; tuy nhiên, phần chính của câu chuyện trong phim lại chọn bối cảnh chiến tranh, và cốt truyện tập trung vào sự trốn chạy của Howl bởi lòng yêu hòa bình của anh. Khía cạnh này trong phim thực ra được nảy sinh từ góc nhìn chính trị của Miyazaki như là một người theo chủ nghĩa hòa bình - trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Newsweek, Miyazaki đã nói với phóng viên rằng bộ phim khởi đầu bằng cái cách "giống như đất nước bạn đã bắt đầu cuốc chiến tranh chống lại Iraq", và sự giận dữ của ông được "thể hiện sâu sắc" trong bộ phim Bộ phim lấy bối cảnh ở một đất nước tưởng tượng nhưng phần nào gợi nhớ đến vùng Grand Est của Pháp đầu thế chiến thứ nhất. Rất nhiều ngôi nhà trong thị trấn được xây dựng dựa theo các kiến trúc thực tế tại thị trấn Alsatian của Colmar, nơi mà Miyazaki thừa nhận là nguồn cảm hứng cho bộ phim. Ngược lại, quyển tiểu thuyết lại đề cập tới sự quyến rũ của Howl đối với phụ nữ và nỗ lực của anh để hóa giải lời nguyền trên chính bản thân mình sau này thân phận phù thủy của anh được khám phá khi anh vướng vào vụ hoàng tử bị mất tích cũng như sự trốn chạy khỏi Phù thủy Hoang mạc vô cùng quyền năng và xinh đẹp, nhân vật phản diện chính của bộ phim và không hề xấu xí, cũng như vô hại, cá tính mà khán giả thấy trong phim. Một thay đổi đáng chú ý khác nữa là việc bản thân Sophie là một phù thủy vô thức và không hề ý thức được sức mạnh của mình, với khả năng "talk life into things" thổi sự sống vào trong đồ vật như khi những chiếc mũ cô làm và chiếc đũa biết đi, khoác chiếc áo sự sống vào mình thì cô càng quan tâm đến chúng hơn. Còn có một chương của tiểu thuyết đi vòng qua một chương khác để nói về xứ Wales thế kỷ 20 nơi mà Howl được biết đến với tên Howell Jenkins ở cùng với một người em gái và các con. Cái nhìn thoáng qua về quá khứ rối rắm của Howl không được đề cập đến trong phim, nhưng một trong các biệt danh của Howl là "Pháp sư vĩ đại Jenkins". Đĩa CD nhạc phim ハウルの動く城 Howls Moving Castle được phát hành lần đầu vào 19 tháng 11 năm 2004 bởi Tokuma. Nghệ sĩ Hisaishi Joe cũng đã biên soạn và chỉ đạo cho album Howls Moving Castle: Symphony Suite, được ra mắt vào 21 tháng 1 năm 2005, bao gồm 10 bản nhạc được sắp xếp lại từ nhạc phim gốc. Đến tháng 8 năm 2011, tổng hợp các bài nhận xét của Rotten Tomatoes thông báo rằng 86% các bài phê bình đưa ra các đánh giá tích cực cho bộ phim, dựa theo 148 bài phê bình, bình xét phim là "Fresh". Nhà phê bình Claudia Puig của USA Today đánh giá cao bộ phim vì khả năng hòa trộn "cái nhìn tò mò của trẻ em với những cảm xúc phức tạp và những động cơ" trong khi Richard Roeper gọi đây là "tác phẩm tưởng tượng tuyện vời". Các bài nhận xét khác cho đây là một "kỳ quan ảo", "một mảnh ghép cuộc sống tuyệt mĩ", và "an animated tour de force." Roger Ebert, của tờ Chicago Sun-Times, bình chọn phim 2.5 trên 4 sao, và cảm thấy rằng đây là một trong những phim "yếu nhất" của Miyazaki. Bộ phim xuất hiện trong danh sách top 10 phim hay nhất năm 2005 của rất nhiều nhà phê bình.
Lâu đài bay của pháp sư Howl (phim)
Lâu đài bay của pháp sư Howl (ハウルの動く城, Hauru no Ugoku Shiro, tựa tiếng Anh là Howl s Moving Castle), hay Lâu đài di động của Howl, là một bộ phim điện ảnh hoạt hình Nhật Bản thuộc thể loại kỳ ảo năm 2004 do Miyazaki Hayao đạo diễn kiêm viết kịch bản, dựa trên tiểu thuyết cùng tên năm 1986 của nữ tác giả người Anh Diana Wynne Jones. Bộ phim do Suzuki Toshio sản xuất, với phần đồ hoạ hoạt hình thuộc về Studio Ghibli và được phân phối bởi Toho. Hai diễn viên lồng tiếng chính cho phiên bản tiếng Nhật bao gồm Baisho Chieko và Kimura Takuya, trong khi đó các diễn viên lồng tiếng Anh gồm có Jean Simmons, Emily Mortimer và Christian Bale. Lấy bối cảnh một vương quốc hư cấu nơi mà cả phép thuật và công nghệ tiên tiến đầu thế kỷ 20 cùng tồn tại, câu chuyện xoay quanh Sophie, cô thợ làm mũ trẻ luôn bằng lòng với cuộc sống bình lặng của mình. Sau khi bị một mụ phù thủy yểm bùa biến thành bà già, Sophie gặp được pháp sư Howl và cùng anh đối đầu với nhà vua, người yêu cầu anh tham gia vào cuộc chiến tranh với nước láng giềng.
Dongguk là ngôi trường Đại học Phật giáo uy tín duy nhất tại Hàn Quốc được thành lập vào năm 08/05/1906 bởi Đạo sư Jogye thông tuệ của Hàn Quốc.Trải qua hơn 100 năm hoạt động, trường Đại học Dongguk Hàn Quốc đã cung cấp hơn 300.000 nhân tài trong nhiều lĩnh vực như tôn giáo, kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục… cho sự phát triển của Hàn Quốc. Trường Đại học tổng hợp Dongguk biên soạn giáo trình giảng dạy một cách kỹ lưỡng để có thể cung cấp đầy đủ kiến thức chuyên ngành một cách chuyên sâu nhất cho sinh viên. Tạo nền tảng kiến thức cũng như tầm nhìn chiến lược một cách tối ưu nhất để sinh viên có thể sử dụng thành thạo khi ra trường. Là một ngôi trường Phật giáo, dù nằm giữa trung tâm Seoul tấp nập và ồn ào, bạn vẫn cảm nhận được sự yên tĩnh, thanh bình khi bước chân vào ngôi trường này. Các sư thầy đi lại, đọc sách tại thư viện hay ngồi trong quán cafe… chính là những hình ảnh mà bạn thường xuyên có thể nhìn thấy được. Các tòa ở phía bắc trường chạy thẳng tới các lối đi của công viên Namsan.Từ trường có thể đi bộ đến Dongdaemun, phía đối diện trường là khách sạn Shilla, cửa hàng miễn thuế Shinlla… vị trí trung tâm Seoul có thể dễ dàng tiếp cận những khu vực nổi tiếng như Meongdong…. Dongguk university cũng không ngừng cải tiến cơ sở vật chất hiện đại như: bảo tàng, trung tâm thể hình, phòng học ngoại ngữ, phòng học đa phương tiện, café internet, sân bóng rổ… để đáp ứng yêu cầu học tập của sinh viên. Năm 2008, Khoa kinh doanh Dongguk trở thành tổ chức đầu tiên tại Hàn Quốc được viện thẩm định giáo dục Kinh doanh Hàn Quốc (KABEA) công nhận là tổ chức tốt nhất trong giáo dục kinh doanh. Đại học Dongguk (Seoul) có: Viện Nghiên cứu Phật giáo, Viện Nghệ thuật Tự do, Viện Khoa học, Viện Luật, Viện Khoa học Xã hội, Viện Khoa học Tài nguyên cuộc sống, Viện Kỹ thuật, Viện Khoa học Công nghiệp và Thông tin, Viện Giáo dục và Viện Nghệ thuật. Đại học Dongguk Gyeongju có: Viện Văn hóa Phật giáo, Nhân văn, Khoa học Tự nhiên, Luật và Khoa học Chính trị, Thương mại và Kinh tế, Kinh doanh Du lịch, Đông y, Y khoa. Phần lớn các khóa nghiên cứu sinh được cung cấp tại cơ sở Seoul. Các chuyên ngành sau Đại học được thành lập vào năm 1953 với ba khoa đào tạo chương trình thạc sĩ. Hiện nay, trường Đại học Dongguk đã mở rộng đa dạng hơn với các chuyên ngành đào tạo sau Đại học. Là một ngôi trường năng động và cá tính, khoa điện ảnh và nghệ thuật biểu diễn của trường là nơi xuất thân của rất nhiều ngôi sao K-POP nổi tiếng. Có thể kể đến những cái tên rất quen thuộc đại học Dongguk cựu sinh viên nổi bật như:. Trường còn được biết đến nhiều nhờ có các ngôi sao điện ảnh theo học tại đây: diễn viên được yêu thích nhất của Hàn Quốc năm 2010, Lee Seung Gi sau khi tốt nghiệp cử nhân loại giỏi đã theo học thạc sĩ ngành thương mại quốc tế. Hãy gọi ngay cho chúng tôi để nhận được những ưu đãi mới nhất và tư vấn của chuyên gia.
Đại học Dongguk
Đại học Dongguk (동국대학교, 東國大學校, Dongguk Daehakgyo, Đông Quốc Đại Học giáo) là trường đại học tư của Hàn Quốc. Trường có các cơ sở tại Seoul, tại Gyeongju, Bắc Gyeongsang và ở Los Angeles, Mĩ. Ngoài ra, trường còn có hai bệnh viện Tây y và bốn bệnh viện Đông y. Trường bắt đầu với tên gọi Trường Myeongjin (명진학교, Myeongjin hakgyo) ngày 8 tháng 5 năm 1906. Trường bị chính quyền đô hộ Nhật Bản buộc đóng cửa từ năm 1922 đến 1928, sau phong trào vận động ngày 1 tháng 3, và một lần nữa vào năm 1944, do những sự kiện náo loạn khoảng cuối Chiến tranh thế giới thứ hai. Đây là một trong những cơ sở đào tạo tại Hàn Quốc được nhận tư cách đại học, theo đúng nghĩa phương Tây, vào năm 1953. Đại học Dongguk đem đến một nền giáo dục đẳng cấp quốc tế liên kết văn hóa Đông Tây trên nhiều phương diện. Được thành lập năm 1906 bởi khuynh hướng thống nhất giáo hội Phật giáo toàn thế giới của Tông phái Tào Khê của Triều Tiên, Dongguk là một trong số ít các trường đại học Phật giáo có liên hệ mật thiết trên thế giới.
Hội Tam điểm là một xã hội từ thiện, giáo dục và tôn giáo, cũng như tình anh em. Thành viên của cơ quan bao gồm những người nổi tiếng như George Washington và Simon Bolivar . Hôm nay, tôi đánh dấu phần từ thiện của định nghĩa Hội Tam điểm đó để ghi nhận đại dịch COVID-19 đang càn quét quốc gia. Kể từ ngày tôi được đề cử trở thành một Hội Tam điểm, cho đến buổi tối khi tôi lấy được bằng thứ ba với tư cách là một Hội Tam điểm chính thức (và hơn thế nữa), tôi đã thấy việc cung cấp từ thiện cho những Hội Tam điểm đau khổ. Điều này có nghĩa là nếu một thành viên trong nhà nghỉ ma quái của tôi rơi vào thời kỳ khó khăn, nhà nghỉ có thể bỏ phiếu để cung cấp tổ chức từ thiện cho thành viên đó và gia đình của anh ta. (Ngoài ra, một thành viên cá nhân có thể tiếp cận một người bạn Mason, góa phụ hoặc trẻ mồ côi của anh ta để cung cấp hỗ trợ). Một vài lời về tổ chức từ thiện masonic. Không cần phải nói, bất kể một người đàn ông cần cù hay tiết kiệm đến đâu, khi gặp bất hạnh đột ngột hoặc những điều kiện khác mà anh ta không thể kiểm soát, có thể tạm thời cần một bàn tay giúp đỡ. Khi tôi viết các hoạt động nhà nghỉ chính thức này ở Quận Columbia (nơi tôi đặt trụ sở nhà nghỉ), Maryland, Virginia và các tiểu bang khác đã tạm dừng vì cuộc khủng hoảng sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng mà COVID-19 gây ra. Nói cách khác, các nhà nghỉ ma quái gần và xa không gặp nhau để thảo luận về việc từ thiện của những anh em gặp khó khăn về tài chính và gia đình của họ. Hơn nữa, việc kiểm dịch bắt buộc trên toàn tiểu bang đối với hầu hết cư dân của California, New York và các tiểu bang khác báo trước những hạn chế trong khu vực DMV, nơi có nhà nghỉ của tôi. Đại dịch coronavirus có thể đẩy Hoa Kỳ lên mức 14,7% vào tháng 4 - những con số xa lạ với Hoa Kỳ kể từ cuộc Đại suy thoái. Phải thừa nhận rằng những tương tác của riêng tôi với anh trai Freemasons của tôi đã bị hạn chế phần nào trong vài năm qua. Vào năm 2016, tôi trở lại trường học và việc đến nhà nghỉ của tôi đã thưa thớt hơn trong ba năm sau đó. Nói cách khác, kiến thức của tôi về công việc kinh doanh hiện tại tại Potomac Lodge №5, nhà nghỉ chính của tôi, là rất chi tiết. Ngay trước khi cuộc khủng hoảng COVID-19 bùng phát, tôi đã thề sẽ tích cực hơn trong nhà nghỉ của mình. Bây giờ COVID-19 đã quản thúc tôi tại nhà ảo, tôi tự hỏi tôi có nghĩa vụ gì với anh trai Masons?. Không chắc chắn về các nghĩa vụ từ thiện chính thức của mình, tôi đã nói với người dọn dẹp của mình (không liên kết với Hội Tam điểm) rằng tôi sẽ tiếp tục trả tiền cho cô ấy như bình thường trong cuộc khủng hoảng COVID-19, ngay cả khi tôi bảo cô ấy đừng đến nhà tôi. (Trong khi đó, đối tác của tôi đang gửi hàng tạp hóa Whole Foods đến một ngân hàng địa phương thông qua Amazon.). Tôi đã không vòng tay quanh những nghĩa vụ của tôi đối với các thành viên trong nhà nghỉ ma quái của tôi là gì trong những tuần và tháng gầy của COVID-19. Tuy nhiên, tôi đã xem xét cẩn thận các tập sách đào tạo về giáo dục ma thuật để thu thập thông tin chi tiết. Trong cuốn thứ hai trong số năm tập sách giáo dục về thợ nề mà tôi được đào tạo để trở thành một Thợ nề hoàn chỉnh, tôi tìm thấy câu trích dẫn sau: “Bất kỳ quan niệm nào về tình anh em đều phải bao gồm sự sẵn lòng giúp đỡ, hỗ trợ” bởi vì sự sẵn lòng giúp đỡ những người Thợ nề này là một trong tự nhiên bao hàm những hành động của tình anh em. Câu hỏi duy nhất là làm thế nào mà một người Tam điểm, ở bất cứ đâu, anh ta có thể ở, thực hiện sự sẵn lòng giúp đỡ này. Đậu mùa là một trong những căn bệnh tồi tệ nhất mà con người phải đối mặt thường xuyên. Nó thường xuyên giết chết ba trong mười người, nó sẽ tấn công dường như ngẫu nhiên và dường như không báo trước. Tôi Điện thoại là thứ đầu tiên Peter làm sạch mỗi sáng. Khi anh ấy phục vụ ở U. Album thường bị bỏ qua xuất hiện ngay trước The Dark Side of the Moon. Pink Floyd là một trong những nhóm nhạc yêu thích của tôi trong phần lớn cuộc đời. Tôi muốn được xác định không phải bằng khuôn mặt của tôi, nhưng bằng trái tim của tôi. Namaste, xin gửi lời chào đến bạn vào Chủ nhật Đêm trò chơi gia đình này. B Corp Nhìn thấy Lợi ích lâu dài của Đào tạo và Hỗ trợ Nơi làm việc - Đặc biệt đối với Phụ nữ Trí tuệ nhân tạo (AI) là một lực lượng mới nổi trong thế giới kinh doanh có tiềm năng thay thế con người trong một số ngành nhất định hoặc trao quyền cho con người bằng các công cụ tốt hơn, tùy thuộc vào cách công nghệ được sử dụng. Sama, một công ty xác thực và dữ liệu đào tạo có trụ sở tại San Francisco, tin rằng AI có thể nâng cao cách chúng ta làm việc và đang ủng hộ cho “con người trong vòng lặp”, một mô hình làm việc đòi hỏi sự tham gia của con người ngay cả với công nghệ tiên tiến. Một trong những lời khuyên của Jason Sudeikis trong Ted Lasso là cho người xem biết rằng "tất cả chúng ta đều có Jekyll bên trong, và điều đó không sao cả.". Trong phần 8, tập 5 của Brooklyn Nine-Nine, Doug Judy tái hợp với Jake Peralta trong một cuộc phiêu lưu cuối cùng. Nhiều người hâm mộ quan tâm đến một số khía cạnh trong cuộc sống của Annabelle Wallis, bao gồm cả giá trị tài sản ròng của cô. Vậy giá trị ròng của Wallis là bao nhiêu?. FDA đã hoàn toàn chấp thuận vắc-xin Pfizer COVID-19 cho những người từ 16 tuổi trở lên, nhưng điều đó vẫn khiến trẻ em dưới 12 tuổi không đủ điều kiện để tiêm chủng. Có nên xem xét việc sử dụng ngoài nhãn để bảo vệ chúng không?. Hai chuyên gia khủng bố cân nhắc về nhóm đứng sau vụ tấn công sân bay Kabul chết người và sự cạnh tranh của lực lượng này với Taliban. Tốt hơn bạn nên đo nó trước khi đeo nhẫn. Ít nhất thì đó là những gì Beyoncé đã nói, và cô ấy đã có cho mình một viên kim cương 18 carat. Nguồn gốc của niềm tin tôn giáo của Taliban - Hồi giáo Deobandi - có thể bắt nguồn từ Ấn Độ thuộc địa thế kỷ 19. Cái tên Nice Price hay No Dodge Challenger SRT-8 ngày nay có một chút gì đó không đúng sự thật vì nó hiện đang thể hiện sự hoán đổi V10, mặc dù chưa hoàn chỉnh. Hãy chỉ xem giá thực tế của dự án tùy chỉnh này hoạt động như thế nào. đã đưa ra một nỗ lực được công bố rộng rãi để tìm người thay thế đã vấp phải nhiều tranh cãi. The Onion xem xét dòng thời gian về những khoảnh khắc lớn nhất trong Jeopardy mới! sự cố máy chủ. Emika Games, nhà phát triển duy nhất đứng sau các trò chơi như Summer of 58 được phát hành gần đây, đã quyết định rời khỏi lĩnh vực phát triển trò chơi "trong thời gian vô thời hạn" sau khi chính sách hoàn lại tiền trong hai giờ của Steam dẫn đến "số lượng lợi nhuận khổng lồ" cho tựa game mới nhất của họ .Summer of 58, được phát hành vào tháng trước, đã được đánh giá tốt trên Steam, với đánh giá tổng thể "Rất tích cực" và vô số người hâm mộ để lại những bình luận tốt đẹp, dành lời khen ngợi đặc biệt cho bầu không khí và sự đáng sợ của nó. Tôi không biết bạn thế nào, nhưng tôi thấy thật nhẹ nhõm khi biết rằng Monica Lewinsky từng là giám đốc sản xuất của American Crime Story: Impeachment, bộ phim sắp tới do Ryan Murphy biên kịch kể lại mối tình của cô với cựu Pres. Mặt trăng có tốc độ vừa phải để không đâm vào Trái đất hoặc thoát ra ngoài không gian.
Hội Tam Điểm
Thuật ngữ Hội Tam Điểm (tiếng Anh: Freemasonry; tiếng Pháp: Franc-maçonnerie, nghĩa là "Nền tảng tự do") dùng để chỉ một tập hợp những hiện tượng lịch sử và xã hội rất khác nhau tạo dựng từ một môi trường hội nhập mà việc tuyển chọn thành viên dựa theo nguyên tắc bổ sung và các nghi lễ gia nhập có liên hệ tới những ẩn dụ về người thợ xây đá. Tên gọi trong tiếng Việt của hội này là "Tam Điểm" được giải thích là do các hội viên người Pháp khi viết thư cho nhau thường gọi nhau là Sư huynh/Sư đệ (frère), hay Đại Sư phụ (maître), viết tắt F hay M và thêm vào phía sau 3 chấm như 3 đỉnh hình tam giác vuông cân. Lịch sử về Hội chưa thật rõ ràng, người ta cho rằng Hội đã xuất hiện vào cuối thế kỷ 16 ở Scotland, sau đó là Anh, rồi lan ra các quốc gia khác. Thay đổi theo từng thời kỳ và theo từng lãnh thổ, Hội Tam điểm tự mô tả mình như một "hiệp hội những người thông thái và bác ái", một "hệ thống luân lý miêu tả bằng các biểu tượng" hay một "bí tích gia nhập".
Diễn viên Xa Thi Mạn tranh thủ gặp gỡ bạn bè, nghỉ ngơi và tập luyện, sau khi từ Đại lục trở về Hong Kong hồi giữa tháng 8. Hôm 18/8, Xa Thi Mạn đăng một bức ảnh chụp trong phòng tập thể hình lên mạng xã hội . Diễn viên để mặt mộc, trang phục tập khỏe khoắn để lộ eo thon, làn da trắng hồng không tỳ vết. Khán giả dành cho Xa Thi Mạn không ít lời khen ngợi về nhan sắc. Vừa từ Đại lục trở về Hong Kong, Xa Thi Mạn tranh thủ giai đoạn “xả hơi” này để thăm mẹ và anh chị em, còn cùng bạn bè tiệc tùng, tổ chức sinh nhật, tâm trạng cô rất vui vẻ. Về Hong Kong lần này, Xa Thi Mạn ở ngôi nhà biệt lập ở Làng Nam Shan, Sai Kung, gần ngay nhà mẹ đẻ. Xa Thi Mạn gắn bó với Hong Kong, dù nhiều năm nay chuyển hướng sang Đại lục làm việc. Diễn viên tiết lộ nơi đó có gia đình, bạn bè cô. Vài năm trước, trả lời phỏng vấn Hiệp hội Nghệ sĩ Biểu diễn Hong Kong, Xa Thi Mạn nói rằng cô từng trải qua tuổi thơ không hạnh phúc: ” Bố đã bỏ chúng tôi đi mãi mãi từ khi tôi còn rất nhỏ. Lúc đó tôi còn bé nên không biết sợ hãi là gì. Tôi không biết rằng cái chết có nghĩa là biến mất vĩnh viễn “. Diễn viên luôn thầm cảm ơn mẹ vì bà mạnh mẽ để gồng gánh nuôi ba con thành người. Vì thế, Xa Thi Mạn thường nói quan trọng nhất với cô là đồng hành bên những người thân yêu trong gia đình và bạn bè. Diễn viên cũng thổ lộ: “Hơn 20 năm ở Hong Kong, bạn bè nơi đây với tôi chiếm vị trí vô cùng quan trọng. Buồn, vui, thăng trầm, hạnh phúc, tôi đều chia sẻ với họ. Họ cùng tôi sống trong từng khoảnh khắc”. Một nguồn tin còn nói diễn viên tranh thủ đợt về Hong Kong này để tìm kiếm bất động sản mới nhằm đầu tư. Xa Thi Mạn hiện nắm giữ 5 bất động sản với tổng giá trị thị trường hơn 120 triệu HKD (15,5 triệu USD). Cô được cho là hai lần mua đi, bán lại các hạng mục bất động sản để kiếm lời và chưa hề thất bại, số tiền thu về ước tính 12 triệu HKD (1,5 triệu USD). Kể từ năm 2003, cô đã nắm giữ tổng cộng 7 bất động sản, một số thuộc sở hữu của chính cô hoặc đứng tên mẹ hay dưới tên công ty. Ngôi nhà đứng tên mẹ Xa Thi Mạn được cho là món quà cô tặng mẹ trong ngày Mothers Day vài năm trước. Ngôi nhà ở gần nhà cô đang ở. Diễn viên từng tiết lộ: ” Hong Kong đất chật, dân số đông. Giá bất động sản tăng sẽ tốt hơn là gửi tiền vào ngân hàng. Tôi mua tài sản như một khoản tiết kiệm” . Cô cũng chia sẻ kinh nghiệm đầu tư bất động sản là không nóng vội: “Tôi sẽ cân nhắc khả năng của mình khi mua mỗi bất động sản. Tôi cũng phải ước tính đến khả năng nếu thị trường bất động sản hoặc giá nhà cho thuê giảm, tôi vẫn có khả năng trang trải tiền thanh toán ngân hàng hàng tháng “. Một nguồn tin cho hay, mỗi tháng cho thuê nhà, Xa Thi Mạn “bỏ túi” 200.000 HKD. Xa Thi Mạn là một trong những ngôi sao có sự nghiệp hoàn hảo, sở hữu khối tài sản khổng lồ và những hợp đồng quảng cáo giá trị, thế nhưng cô vẫn lẻ bóng dù ở tuổi 45. Là một trong những sao Hồng Kông thành công sự nghiệp tại thị trường Trung Quốc, Xa Thi Mạn gần đây ghi dấu liên tiếp trong các bộ phim truyền hình nổi tiếng như "Diên Hi công lược" (2018) và "Yến Vân Đài" (2020). Xa Thi Mạn từng tiết lộ với truyền thông rằng cô làm việc từ 16 đến 18 tiếng mỗi ngày. Lịch làm việc dày đặc cũng là một trong những nguyên nhân khiến việc hẹn hò của cô trở nên khó khăn. Thế nhưng, sao nữ 45 tuổi này vẫn tin tưởng vào hôn nhân và hy vọng sẽ sớm tìm được bạn đời. Mải tập trung cho sự nghiệp, Xa Thi Mạn vẫn độc thân trong nhiều năm. Nữ minh tinh được biết đến là "Nhất tỉ đa tình" bậc nhất TVB, trong khi nhiều người bạn tốt của cô như Văn Tụng Nhàn, Chu Gia Úy, Chung Lệ Kỳ, Diêu Nhạc Di và Angela Tong đã kết hôn và trở thành mẹ. Nhiều người bạn tốt của Xa Thi Mạn đã kết hôn và trở thành mẹ, nhưng cô thì vẫn độc thân. Nhiều lần được hỏi về mẫu người bạn đời, Xa Thi Mạn thường đưa ra câu trả lời giống nhau: " Mọi thứ sẽ phụ thuộc vào duyên số! Tôi hy vọng mình tìm được một người bạn tâm giao thú vị". Mặc dù một số người nổi tiếng đã tìm được đối tác trong các chương trình thực tế về hẹn hò, nhưng Xa Thi Mạn đã từ chối lời mời trước đó. Là một diễn viên, cô chia sẻ bản thân đã từ bỏ một phần lớn cuộc sống của mình cho công chúng và hy vọng sẽ giữ lại một chút riêng tư. Dù chưa có bạn đời nhưng Xa Thi Mạn vẫn hy vọng vào hôn nhân và tin rằng một ngày nào đó cô sẽ tìm thấy người chồng tâm giao. Khi được hỏi chuyện tình trong quá khứ, nữ minh tinh chia sẻ: "Tôi chưa bao giờ cảm thấy mình bỏ lỡ cơ hội kết hôn. Nếu mối quan hệ không suôn sẻ thì có nghĩa là người đó không phù hợp với tôi". Khi ở tuổi 20, Xa Thi Mạn có cơ hội kết hôn trong một gia đình giàu có. Tuy nhiên, cô cảm thấy mình còn quá trẻ vào thời điểm đó và muốn tích lũy kinh nghiệm sống sau khi tốt nghiệp đại học. Sau khi đăng quang Hoa hậu Hồng Kông 1997, cô tích cực nhận mọi cơ hội làm việc dù thời gian quay phim dài. Nhiều năm tích cực làm việc chăm chỉ, Xa Thi Mạn cũng được đền đáp khi có thành quả lớn trong sự nghiệp. Ngoài giành được nhiều giải thưởng diễn xuất ở Hồng Kông, Đông Nam Á và Trung Quốc, Xa Thi Mạn còn gặt hái được nhiều thành công về tài chính và cuộc sống xa hoa. Trong chương trình tạp kỹ "Cuộc sống của tôi", Xa Thi Mạn từng vô tình tiết lộ căn hộ của mình ở dinh thự K11 ARTUS, Tsim Sha Tsui, Hồng Kông. Dinh thự K11 ARTUS có giá cho thuê căn hộ studio khoảng 320.000 đô la Hồng Kông (khoảng hơn 950 triệu đồng). Dinh thự K11 ARTUS - nơi Xa Thi Mạn ở có giá cho thuê căn hộ studio khoảng 320.000 đô la Hồng Kông (khoảng hơn 950 triệu đồng)
Xa Thi Mạn
Xa Thi Mạn (tiếng Anh: Charmaine Sheh Sze Man, sinh ngày 28 tháng 5 năm 1975) là một nữ diễn viên truyền hình - diễn viên điện ảnh, người dẫn chương trình kiêm ca sĩ nổi tiếng người Hồng Kông. Cô từng là diễn viên độc quyền của hãng TVB và được báo giới ca ngợi là Nhất Tỷ của màn ảnh TVB một thời. Xa Thi Mạn lúc nhỏ học trường nữ sinh Hiệp Ân Trung Học, cho đến năm lớp 11 mới đi du học Thụy Sĩ chuyên ngành quản lý khách sạn tại Học viện Quản trị Khách sạn Quốc tế Thụy Sĩ và tốt nghiệp vào năm 1994. Trước đây Xa Thi Mạn từng có ý định làm giáo viên mầm non vì cô rất thích trẻ em, nhưng mẹ đã khuyên cô đi thi Hoa hậu Hồng Kông 1997 và đạt danh hiệu Á hậu 2. Với danh hiệu này, cô đại diện cho Hồng Kông tại cuộc thi Hoa hậu Quốc tế 1997 nhưng không đạt thành tích. Tháng 10 năm 1997, Xa Thi Mạn gia nhập TVB, mở ra một con đường sự nghiệp sáng chói của một Hoa đán xuất sắc nhất. Từ ngày mới vào làng giải trí, Xa Thi Mạn bắt đầu được phân phối làm MC và thực hiện những nghĩa vụ của Á hậu Hồng Kông.
Trong vật lý, photon vừa là hạt cơ bản vừa là hạt lượng tử trong trường điện từ và ánh sáng như nhiều bức xạ điện tử khác. Đồng thời, nó còn là hạt tải lực của lực điện từ. Các hiệu ứng của lực này có thể quan sát dễ dàng ở thang vĩ mô lẫn vi mô bởi photon không có khối lượng nghỉ và cho phép các tương tác cơ bản được xảy ra nơi có khoảng cách rất lớn. Như mọi hạt cơ bản khác, photon được mô tả bởi cơ học lượng tử và biểu hiện lưỡng tính sóng hạt và còn thể hiện tính chất giống với sóng và hạt. Ví dụ, photon có thể bị khúc xạ bởi thấu kính nào đó hay thể hiện sự giao thoa giữa sóng nhưng nó cũng biểu hiện giống như hạt khi thực hiện phép đo định lượng về động lượng của nó. Có thể nói, khái niệm về photo đã dẫn đến những phát triển vượt bậc trong vật lý và được áp dụng trong các lĩnh vực khác như quang hóa học kính hiển vi. Một số ứng dụng trong công nghệ dựa trên tính chất của photo có thể giải thích theo thuyết cổ điển về ánh sáng. Laser được mô tả ở trên với phát xạ kích thích và là ứng dụng cực kỳ quan trọng. Hiệu ứng quang điện là khi photon tiếp xúc với bề mặt kim loại và electron bị bật ra, làm phát ra một luồng các electron khổng lồ trong ống nhân quang điện. Các ống nhân sẽ hoạt động dựa trên hiệu ứng này để xác định phương pháp photon độc thân. Các chip CCD sử dụng hiệu ứng như trên chất bán dẫn khi một photon tới làm sinh ra điện tích trên tụ điện vi mô để từ đó có thể ghi lại. Chẳng hạn như máy đếm Geiger dùng khả năng photon gây ion hóa các phân tử khí, dẫn đến việc hình thành dòng điện mà máy đo được. Nhằm tính toán sự thay đổi năng lượng từ sự hấp thụ một photon hay tiên đoán tần số phát ra trong quá trình dịch chuyển năng lượng cụ thể, các nhà khoa học thường áp dụng công thức: Planck E=nhu. Ví dụ như là phổ phát xạ của đèn huỳnh quang. Để có được kính hiển vi có độ phân giải cao, cần phải có hai photon mới làm xảy ra sự dịch chuyển năng lượng hơn là một. Do các mẫu quan sát chỉ hấp thụ năng lượng trong vùng có hai chùm sáng khác màu chồng lên nhau và cho phép thể tích bị kích thích nhỏ hơn nếu chỉ sử dụng một chùm sáng. Cùng với đó, các photon này sẽ giảm thiểu việc phá hiểu mẫu vật. Hai quá trình chuyển dịch năng lượng có thể xảy ra cho hai hệ khi một hệ hấp thụ một photon và hệ khác sẽ lấy năng lượng kích thích rồi tái phát ra một photon có tần số khác biệt. Có thể nói đây là cơ chế của hiện tượng truyền năng lượng cộng hưởng huỳnh quang. Trong một vài phần cứng sẽ phát số ngẫu nhiên đòi hỏi sự xác định một photon độc thân. Thí dụ, mỗi bit trong dãy ngẫu nhiên được tạo ra bằng cách gửi một photon đến bộ tách chùm. Ở trường hợp này có hai kết quả với xác suất bằng nhau. Trong khi đó, kết quả thực tế sử dụng để xác định bit tiếp theo trong dãy “0” hoặc “1”. Đây được xem là một cuộc nghiên cứu không hề dễ, nhờ các nhà khoa học vật lý mà ánh sáng được biết đến là hạt chứ không phải sóng. Einstein dựa vào Max Planck để đưa ra lý thuyết của mình. Ông đã phải phân tích mọi khía cạnh của ánh sáng và xác định chúng bằng phương trình Maxwell. Đồng thời vấn mà Einstein không thể giải quyết được đó là “Ánh sáng tại sao chiếu vào vật thể lại hình thành được các nhóm năng lượng nhỏ?”. Khi ông đưa ra một lý thuyết khác, nó phải được thử nghiệm và thông qua hiệu ứng Compton để biết rằng giả thuyết ánh sáng gồm có các photon là đúng. Điều này được phát hiện muộn hơn khi nhà vật lý Gilbert Lewis thay đổi giá trị của lượng tử ánh sáng trên mỗi photon vào năm 1926. Sau khi tìm hiểu về “Photon là gì và chúng được ứng dụng như thế nào?” hy vọng đây sẽ là thông tin bổ ích có thể giúp các anh em trong công việc. Nếu còn thắc mắc gì thì đừng ngại bình luận dưới bài viết này nhé.
Photon
Trong vật lý, photon (tiếng Việt đọc là phô tông hay phô tôn, hay quang tử) là một hạt cơ bản, đồng thời là hạt lượng tử của trường điện từ và ánh sáng cũng như mọi dạng bức xạ điện từ khác. Nó cũng là hạt tải lực của lực điện từ. Các hiệu ứng của lực điện từ có thể dễ dàng quan sát ở cả thang vi mô và vĩ mô do photon không có khối lượng nghỉ; và điều này cũng cho phép các tương tác cơ bản xảy ra được ở những khoảng cách rất lớn. Cũng giống như mọi hạt cơ bản khác, photon được miêu tả bởi cơ học lượng tử và biểu hiện lưỡng tính sóng hạt — chúng thể hiện các tính chất giống như của cả sóng và hạt. Ví dụ, một hạt photon có thể bị khúc xạ bởi một thấu kính hoặc thể hiện sự giao thoa giữa các sóng, nhưng nó cũng biểu hiện như một hạt khi chúng ta thực hiện phép đo định lượng về động lượng của nó. Khái niệm hiện đại về photon đã được phát triển dần dần bởi Albert Einstein để giải thích các quan sát thực nghiệm mà không thể được giải thích thỏa đáng bởi mô hình sóng cổ điển của ánh sáng.
Những thực phẩm được chế biến thành những món ăn trong thực đơn hằng ngày của chúng ta, ngoài việc là là món ngon, bổ sung dưỡng chất thiết yếu cho cơ thể, thì nó còn mang đến những tác dụng thần kỳ và thịt dơi, thịt bồ câu cùng không là ngoại lệ. Vậy tại sao chúng lại được sử dụng để chế biến thành những món ăn bởi đơn thuần chúng là ngon miệng hay chúng còn mang những tác dụng nào khác. Chúng ta cùng tìm hiểu những vấn đề này qua bài viết: Ăn thịt dơi, thịt bồ câu có tác dụng gì ? Xem thêm website: cây và lá. Theo ghi chép có trong sách “Nam dược” của thấy thuốc Tuệ Tĩnh, thì thịt dơi hay còn gọi là thịt biên bức, phu dực, phi thử, có thịt vị ngọt, khí bình, không độc.Có tác dụng rất lớn trong việc hỗ trợ điều trị những chứng bệnh như: lợi tiểu, tiêu phù, sáng mắt, trị băng huyết, bạch đới, nhọt lở, hen suyễn, sốt rét. Dưới đây là những công dụng cụ thể của loại thịt này. Trị suy dinh dưỡng cho trẻ em: Đối với những trẻ nhỏ có cơ thể suy nhược, ốm yếu, nhiều đàm và cổ nhiều hạch, thì phương pháp giúp điều trị hiệu quả chính là thịt dơi. Cách làm là bạn lấy thịt dơi băm nhỏ với thịt heo nạc, sao đó thêm tất cả các loại gia vị như nước mắt, bột ngọt, đường và chưng cách thuỷ lên cho trẻ ăn. Hoặc bạn cũng có thể, nấu thành canh và cho bé ăn kết hợp với cơm. Ung nhọt trong bắp thịt: Bạn sử dụng 10 con dơi, sau đó làm thịt và chưng để lấy nước. Dùng phần nước vừa chưng được này uống liên tục cho đến khi bệnh tình dứt hẳn. Bệnh phụ khoa: những chứng bệnh như: thiếu máu sau sinh, bế kinh, bạch đới, tử cung lạnh không sinh đẻ, suy nhược mệt mỏi, phong tê, thì bạn có thể điều trị chúng bằng phương pháp, lấy thịt dơi và thịt heo, gà băm nhỏ với nhau, sau đó cho them những vị thuốc khác như: hoài sơn, kỷ tử rồi chưng lên ăn. Sáng mắt: nếu trường hợp bạn có một thị lực yếu, thì hãy dung thịt dơi cắt nhỏ và xào chung với cà rốt. Chỉ cần thường xuyên sử dụng món ăn này, mắt bạn sẽ năng chóng sáng lên trông thấy. Nhức đầu, chống mặt: Đối với chứng bệnh nhức đầu chóng mặt, bạn hãy áp dụng bí quyết là nấu thịt dơi với bí đỏ và ăn hằng ngày. Trị ho: còn với những ai đnag bị cơn ho có đờm, ho khan hành hạ thì có thể sử dụng thịt dơi nấu cùng của cải và ăn hằng ngày. Theo khoa học, thịt bồ câu chứa khoảng 22,14% protein thô cao hơn 3% so với thịt gà 4% so với thịt bò 13.3% so với thịt dễ, cùng đó chất béo chỉ chiếm khoảng 1% trong đó hàm lượng chất mỡ chỉ có 0.73%. Bên cạnh đó, loại thịt này còn mang đến rất nhiều vitamin như: Vitamin A, vitamin B1, B2, E cùng những nguyên tố vi lượng sản sinh máu và khoáng chất khác như: kali, photpho, sắt, muối khoáng và một ít những acid hữu cơ khác. Vời giá trị dinh dưỡng quá lớn như trên, thì thịt bồ câu chắc chăn sẽ mang lại cho bạn những tác dụng vô cùng hữu ích. Kích thích vị giác: một trong những tác dụng phải kể đến của thịt bồ câu chính là kích thích vị giác. Bởi những ai sử dụng loại thịt này sau đó đó vào những bữa ăn khác sẽ cảm thấy vô cùng ngon miệng. Bên cạnh đó, thịt bồ câu còn giúp cơ thể thúc đẩy quá trình tuần hoàn máu, giúp tinh thần sảng khoái, thể lực sung mãn, da dẻ mịn màng, phòng chống được lão hoá và tóc bạc sớm…. Hỗ trợ điều trị bệnh: Không chỉ có tác dụng kích thích vị giác của người ăn, mà thịt bồ câu còn có tác dụng rất lớn trong việc hỗ trợ điều trị các bệnh lý hiệu quả. Bởi theo Đông y, thịt bồ câu có vị mặn, tính bình, hơi ấm, không độc. Vì vậy, chúng có hiệu quả rất tốt trong việc bổ ngũ tạng, tăng cường khí huyết, mạnh dương, trừ cam tích, kích thích tiêu hoá. Đặc biệt, loại thịt hữu ích này rất phù hợp với những trường hợp như: người lớn tuổi, trẻ em và phụ nữ. ngoài ra, thịt bồ câu còn giúp điều trị cho những bệnh nhân bị mắc các chứng bệnh như: liệt dương, thiếu máu, hoa mắt, hay choáng váng, bạn có thể dùng món ăn bồ câu nấu cùng tổ yến để cải thiện sức khoẻ, sinh tinh. Dưỡng thai và chữa hiếm muộn: Với những người có sức khoẻ yếu ớt, thì điều cần làm chính là bồi bổ dinh dưỡng một cách đầy đủ qua việc sử dụng thịt bồ câu. Đặc biệt với những phụ nữ đang mang thai và nuôi con nhỏ, những đôi vợ chồng trẻ đang tuần trăng mật, những cặp vợ chồng hiếm muộn đang mong có con…thì hãy áp dụng phương pháp là sử dụng đậu xanh, hạt sen, tổ yến nấu cháo với loại thịt bồ câu vừa mới ra ràng. Với những thông tin cụ thể rõ ràng của bài viết: Ăn thịt dơi, thịt bồ câu có tác dụng gì ? thì mong rằng bạn sẽ biết cách ứng dụng hai loại thịt này vào trong cuộc sống của mình để có được một sức khoẻ dồi dào nhé. Theo ghi chép có trong sách “Nam dược” của thấy thuốc Tuệ Tĩnh, thì thịt dơi hay còn gọi là thịt biên bức, phu dực, phi thử, có thịt vị ngọt, khí bình, không độc.Có tác dụng rất lớn trong việc hỗ trợ điều trị những chứng bệnh như: lợi tiểu, tiêu phù, sáng mắt, trị băng huyết, bạch đới, nhọt lở, hen suyễn, sốt rét. Dưới đây là những công dụng cụ thể của loại thịt này. Trị suy dinh dưỡng cho trẻ em: Đối với những trẻ nhỏ có cơ thể suy nhược, ốm yếu, nhiều đàm và cổ nhiều hạch, thì phương pháp giúp điều trị hiệu quả chính là thịt dơi. Cách làm là bạn lấy thịt dơi băm nhỏ với thịt heo nạc, sao đó thêm tất cả các loại gia vị như nước mắt, bột ngọt, đường và chưng cách thuỷ lên cho trẻ ăn. Hoặc bạn cũng có thể, nấu thành canh và cho bé ăn kết hợp với cơm. Ung nhọt trong bắp thịt: Bạn sử dụng 10 con dơi, sau đó làm thịt và chưng để lấy nước. Dùng phần nước vừa chưng được này uống liên tục cho đến khi bệnh tình dứt hẳn. Bệnh phụ khoa: những chứng bệnh như: thiếu máu sau sinh, bế kinh, bạch đới, tử cung lạnh không sinh đẻ, suy nhược mệt mỏi, phong tê, thì bạn có thể điều trị chúng bằng phương pháp, lấy thịt dơi và thịt heo, gà băm nhỏ với nhau, sau đó cho them những vị thuốc khác như: hoài sơn, kỷ tử rồi chưng lên ăn. Sáng mắt: nếu trường hợp bạn có một thị lực yếu, thì hãy dung thịt dơi cắt nhỏ và xào chung với cà rốt. Chỉ cần thường xuyên sử dụng món ăn này, mắt bạn sẽ năng chóng sáng lên trông thấy. Nhức đầu, chống mặt: Đối với chứng bệnh nhức đầu chóng mặt, bạn hãy áp dụng bí quyết là nấu thịt dơi với bí đỏ và ăn hằng ngày. Trị ho: còn với những ai đnag bị cơn ho có đờm, ho khan hành hạ thì có thể sử dụng thịt dơi nấu cùng của cải và ăn hằng ngày. Theo khoa học, thịt bồ câu chứa khoảng 22,14% protein thô cao hơn 3% so với thịt gà 4% so với thịt bò 13.3% so với thịt dễ, cùng đó chất béo chỉ chiếm khoảng 1% trong đó hàm lượng chất mỡ chỉ có 0.73%. Bên cạnh đó, loại thịt này còn mang đến rất nhiều vitamin như: Vitamin A, vitamin B1, B2, E cùng những nguyên tố vi lượng sản sinh máu và khoáng chất khác như: kali, photpho, sắt, muối khoáng và một ít những acid hữu cơ khác. Vời giá trị dinh dưỡng quá lớn như trên, thì thịt bồ câu chắc chăn sẽ mang lại cho bạn những tác dụng vô cùng hữu ích. Kích thích vị giác: một trong những tác dụng phải kể đến của thịt bồ câu chính là kích thích vị giác. Bởi những ai sử dụng loại thịt này sau đó đó vào những bữa ăn khác sẽ cảm thấy vô cùng ngon miệng. Bên cạnh đó, thịt bồ câu còn giúp cơ thể thúc đẩy quá trình tuần hoàn máu, giúp tinh thần sảng khoái, thể lực sung mãn, da dẻ mịn màng, phòng chống được lão hoá và tóc bạc sớm…. Hỗ trợ điều trị bệnh: Không chỉ có tác dụng kích thích vị giác của người ăn, mà thịt bồ câu còn có tác dụng rất lớn trong việc hỗ trợ điều trị các bệnh lý hiệu quả. Bởi theo Đông y, thịt bồ câu có vị mặn, tính bình, hơi ấm, không độc. Vì vậy, chúng có hiệu quả rất tốt trong việc bổ ngũ tạng, tăng cường khí huyết, mạnh dương, trừ cam tích, kích thích tiêu hoá. Đặc biệt, loại thịt hữu ích này rất phù hợp với những trường hợp như: người lớn tuổi, trẻ em và phụ nữ. ngoài ra, thịt bồ câu còn giúp điều trị cho những bệnh nhân bị mắc các chứng bệnh như: liệt dương, thiếu máu, hoa mắt, hay choáng váng, bạn có thể dùng món ăn bồ câu nấu cùng tổ yến để cải thiện sức khoẻ, sinh tinh. Dưỡng thai và chữa hiếm muộn: Với những người có sức khoẻ yếu ớt, thì điều cần làm chính là bồi bổ dinh dưỡng một cách đầy đủ qua việc sử dụng thịt bồ câu. Đặc biệt với những phụ nữ đang mang thai và nuôi con nhỏ, những đôi vợ chồng trẻ đang tuần trăng mật, những cặp vợ chồng hiếm muộn đang mong có con…thì hãy áp dụng phương pháp là sử dụng đậu xanh, hạt sen, tổ yến nấu cháo với loại thịt bồ câu vừa mới ra ràng. Với những thông tin cụ thể rõ ràng của bài viết: Ăn thịt dơi, thịt bồ câu có tác dụng gì ? thì mong rằng bạn sẽ biết cách ứng dụng hai loại thịt này vào trong cuộc sống của mình để có được một sức khoẻ dồi dào nhé.
Thịt bồ câu
Thịt bồ câu là loại thịt của chim bồ câu đặc biệt là loại bồ câu thịt. Nó được mô tả là có vị tương tự như mùi vị của thịt gà. Thịt bồ câu được sử dụng từ lâu ở vùng Bắc Âu, Trung Đông, Ai Cập cổ đại, La Mã và Châu Âu thời Trung Cổ. Tại một số nước Đông Á, theo dân gian thì bồ câu là món ăn được nhiều người biết đến vì chúng dễ tìm, dễ chế biến lại ngon và bổ dưỡng và được sử dụng như những vị thuốc. Bồ câu thịt được dùng phổ biến làm thực phẩm và làm thuốc chữa bệnh ngoài ra dùng để nấu cháo, hầm, nướng. Về phân tích cấu trúc, thịt bồ câu chứa khoảng 22,14% protein thô (đạm) cao hơn 3% so với thịt gà, 4% so với thịt bò, 13.3% so với thịt dê, chất béo (mỡ) khoảng 1% trong đó hàm lượng chất mỡ chỉ có 0.73%. Trong thịt chim bồ câu còn có các loại Vitamin A, Vitamin B1, B2, E và nhiều nguyên tố vi lượng là loại nguyên liệu tạo máu và khoáng chất như calci, phosphor, sắt, muối khoáng và một bộ phận acid hữu cơ khác.
Bản gốc tiếng Nhật được phát hành theo ba phần, tạo nên ba “quyển” trong bản tiếng Việt. Okada Toru: Người kể chuyện và là nhân vật chính, Toru là một mẫu đàn ông trẻ thụ động và thường lãnh đạm sống trong vùng ngoại ô nước Nhật. Anh là chồng của Kumiko và thường xuyên nghe theo những mệnh lệnh hoặc mong muốn của người khác. Hiện đang thất nghiệp, anh là hiện thân của sự thụ động. Okada Kumiko: Kumiko là vợ của Toru, trụ cột về mặt tài chính trong gia đình và là người tự lập. Cô làm việc trong một công ty xuất bản. Anh được giới thiệu là một mẫu người cuốn hút; công chúng yêu anh ta, nhưng Toru thì không thể chịu đựng được. Noboru thoạt đầu xuất hiện như một học giả, rồi theo câu chuyện trở thành một chính trị gia, và không có đời sống cá nhân rõ ràng. Anh được mô tả là một người có bề ngoài giả tạo, và không thực. (“Wataya Noboru” còn là tên mà Toru và Kumiko đã đặt cho con mèo của họ.). Kasahara May: May là một thiếu nữ ở tuổi đi học, nhưng cô không muốn theo học. Toru và May liên lạc thường xuyên với nhau trong suốt cuốn sách; khi May không hiện diện, cô viết thư cho anh (mặc dù sau khi đọc kỹ, người đọc có thể thấy các thư của cô không đến được địa chỉ của anh). Những mẩu đối thoại giữ hai người thường quái dị và đề cập đến cái chết và sự suy đồi của đời sống con người. Quái dị hơn là không khí vui tươi hoàn toàn không nghiêm túc khi miêu tả cuộc đối thoại giữa hai người. Kano Malta: Kano Malta là một nhân vật trung gian đã đổi tên mình thành “Malta” sau khi thực hiện một dạng “tu hành” ở đảo Malta một thời gian. Cô được Kumiko nhờ vả giúp gia đình tìm con mèo bị lạc. Kano Creta: Em gái của Malta và là người học việc, cô được mô tả là “con điếm tinh thần”. Hơi khó hiểu, đối với Toru, Creta có khuôn mặt và thân hình y hệt như Kumiko. Akasaka Nhục đậu khấu: Nhục đậu khấu gặp Toru lần đầu khi anh đang ngồi trên ghế đá để nhìn khuôn mặt của mọi người ngày này qua ngày khác ở Shinjuku. Lần thứ hai họ gặp nhau, bà ta bị thu hút bởi vết bầm trên má trái của anh. Bà và Toru có một sự tình cờ kỳ lạ: chim vặn dây cót trong sân vườn của Toru và vết bầm trên má xuất hiện trong những câu chuyện liên quan đến Thế chiến II của Nhục đậu khấu, cũng như cha của Nhục đậu khấu và Trung úy Mamiya (một người quen của Toru) được liên kết với nhau thông qua Thế chiến II. “Akasaka Nhục đậu khấu” là cái tên giả mà bà đã tự chọn sau khi nói với Toru rằng không thích hợp khi nói tên “thật” của mình. Tên thật của bà không bao giờ được đề cập trong tiểu thuyết. Akasaka Quế: Quế là đứa con trai câm, nhưng cực kỳ của thông minh của Nhục đậu khấu. Anh giao tiếp thông qua hệ thống các dấu hiệu bằng tay vô cùng dễ hiểu và bằng cách nhép miệng. Cũng vậy “Quế” là một cái tên giả do Nhục đậu khấu đặt ra. Tên thật của Quế cũng không được đề cập tới.
Biên niên ký chim vặn dây cót
Biên niên ký chim vặn dây cót (ねじまき鳥クロニクル, Nejimaki-dori Kuronikuru) là một cuốn tiểu thuyết của nhà văn Murakami Haruki. Bản dịch tiếng Việt do Trần Tiễn Cao Đăng dịch dựa theo bản tiếng Anh The Wind-up Bird Chronicle của Jay Rubin và bản dịch tiếng Nga Хроники Заводной Птицы của Sergey Logachev và một số đối chiếu với nguyên tác tiếng Nhật. Bản tiếng Việt được ấn hành lần đầu năm 2007. Bản gốc tiếng Nhật được phát hành theo ba phần, tạo nên ba "quyển" trong bản tiếng Việt. Torisashi otoko hen (鳥刺し男編, Torisashi otoko hen) (Kẻ bắt chim)Với tiểu thuyết này, Murakami nhận được Giải thưởng Văn học Yomiuri, do nhà phê bình khó tính nhất của ông trước đây, Kenzaburo Oe. Phần thứ nhất (Chim ác là ăn cắp), bắt đầu bằng việc Toru Okada, đang thất nghiệp, được vợ là Kumiko lệnh cho phải tìm được con mèo mất tích của họ. Kumiko gợi ý rằng việc tìm kiếm nên bắt đầu ở khu vực hàng xóm xung quanh, nhất là khoảng đất bỏ hoang phía sau nhà anh. Sau nhiều lần thử tìm mà không được, Toru gặp Kasahara May, cô bé đã nhiều lần thấy anh trèo ra trèo vào chỗ đất xung quanh, đâm ra tò mò và đặt cho anh nhiều câu hỏi.
Võ Tắc Thiên (chữ Hán: 武則天, 17 tháng 2, 624 – 16 tháng 12, 705), cũng được đọc là Vũ Tắc Thiên, thường gọi Võ hậu (武后) hoặc Thiên hậu (天后), là một phi tần ở hậu cung của Đường Thái Tông Lý Thế Dân, sau trở thành Hoàng hậu thứ hai của Đường Cao Tông Lý Trị, về sau trở thành Hoàng đế triều đại Võ Chu làm gián đoạn nhà Đường. Bà là mẹ của 2 vị hoàng đế kế tiếp, Đường Trung Tông Lý Hiển và Đường Duệ Tông Lý Đán. Cùng với tôn hiệu Thiên hậu của bà và tôn hiệu Thiên hoàng (天皇) của Đường Cao Tông, 2 người đã đồng trị vì nhà Đường trong một thời gian dài và cùng được gọi là Nhị Thánh (二聖). Sau khi Đường Cao Tông qua đời, Thiên hậu trải qua các đời Đường Trung Tông và Đường Duệ Tông với tư cách Hoàng thái hậu, và cuối cùng trở thành Hoàng đế duy nhất của triều đại Võ Chu, triều đại mà bà sáng lập tồn tại từ năm 690 đến năm 705. Do đó, Võ Tắc Thiên trở thành Nữ hoàng duy nhất được công nhận trong lịch sử Trung Quốc. Dù vậy, Cựu Đường thư và Tân Đường thư vẫn chỉ gọi bà là “Thái hậu” ngay cả sau khi bà tự xưng hoàng đế, đó là vì vấn đề không nhìn nhận địa vị của bà trong thời đại cũ. Trong 15 năm cai trị với tôn hiệu Thánh Thần Hoàng đế (聖神皇帝), Võ Tắc Thiên mở mang lãnh thổ Trung Quốc, vươn sang Trung Á, hoàn thành cuộc chinh phục bán đảo Triều Tiên. Nội địa khuyến khích phát triển Phật giáo, tập trung phát triển kinh tế – xã hội, duy trì sự ổn định trong nước. Tuy nhiên, do tư tưởng nam tôn-nữ ti đã ăn sâu trong lòng xã hội phong kiến, lại thêm tính cách độc ác, hà khắc trong việc cai trị khiến đông đảo cựu thần nhà Đường không phục. Cuối đời, bà có hai nam sủng là anh em họ Trương, Trương Xương Tông và Trương Dịch Chi, cùng họ dâm loạn trong cung, vì sủng ái hai anh em mà bà dung túng cho 2 người chuyên quyền, khiến nhiều quần thần bất bình. Tới năm 705, Tể tướng đương triều là Trương Giản Chi cùng các đại thần phát động binh biến, ép Võ hậu thoái ngôi và đưa Đường Trung Tông lên ngôi lần thứ hai. Bà bị giam lỏng ở Thượng Dương cung tại Lạc Dương cho đến khi qua đời không lâu sau đó, với tuổi thọ là khi 82 tuổi. Bà cũng trở thành 1 trong 3 vị Hoàng đế Trung Hoa có tuổi thọ cao nhất (trên 80 tuổi), bên cạnh Lương Vũ Đế Tiêu Diễn (87 tuổi) và Thanh Cao Tông Càn Long hoàng đế (89 tuổi). Việc bà nổi lên nắm quyền cai trị bị các nhà sử học Khổng giáo chỉ trích mạnh mẽ, thường so sánh bà với Lã hậu nhà Hán bởi sự chuyên quyền và tàn độc, được gọi chung là Lã Võ (吕武). Khi đánh giá khái quát lịch sử Trung Hoa, Võ Tắc Thiên cùng 2 vị “Nữ hoàng không miện” khác là Lã hậu và Từ Hi Thái hậu là 3 phụ nữ nắm quyền lực tối cao nhất từng xuất hiện trong các triều đình phong kiến Trung Hoa, bị dân gian coi là những người phụ nữ tàn ác bất nhân với cả người thân, làm nghiêng đổ xã tắc. Tuy nhiên, các nhà sử học từ sau những năm 1950 đã đánh giá bà cân bằng hơn. Võ Tắc Thiên có những chỗ dở như tàn nhẫn giết hại nhiều người thân, hà khắc làm người dân khiếp sợ, nhưng bà biết trọng dụng người tài, thuởng phạt nghiêm minh, nhân dân sóng dười thời bà được ăn no mặc ấm, an cư lạc nghiệp. Chân dung mô phỏng Võ Tắc Thiên những năm 1690, tức gần 1000 năm sau cái chết của bà. Tên thật của Võ Tắc Thiên không được ghi lại, cái tên Võ Chiếu (武曌) là bà tự sáng tạo ra, ví mình như mặt trời, mặt trăng trên không trung. Năm sinh của bà, căn cứ theo các cuốn Cựu Đường thư, Tân Đường thư lẫn Tư trị thông giám đều có mâu thuẫn. Trong sách Cựu Đường thư, Võ thị được ghi qua đời khi năm 83 tuổi, suy ra bà ra đời ở năm Vũ Đức thứ 7 (624), tuy nhiên Tân Đường thư lại ghi nhận bà qua đời năm 81 tuổi, mà Tư trị thông giám là năm 82 tuổi, đảo suy ra là sinh hạ vào khoảng năm Vũ Đức thứ 8 (625). Bản thân Tư trị thông giám vào năm Trinh Quán thứ 11 (637), ghi chép “Võ thị 14 tuổi nhập cung” là hoàn toàn mâu thuẫn. Một số đưa ra rằng Võ thị sinh ra năm Trinh Quán thứ 2 (628), đến cuối cùng, nhiều nhận định vẫn lấy năm Vũ Đức thứ 7 làm năm sinh của bà. Bà xuất thân từ gia tộc họ Võ có nguồn gốc từ vùng Văn Thủy, Tinh Châu (nay là Thái Nguyên, Sơn Tây, Trung Quốc). Cha bà là Võ Sĩ Hoạch, xuất thân trong một gia đình quý tộc danh tiếng ở Sơn Tây, ông nội Võ Hoa, từng nhậm Quận thừa Lạc Dương giàu có. Trong nhà bà có 2 anh trai là Võ Nguyên Khánh và Võ Nguyên Sảng là con của chính thất Tương Lý thị (相里氏) đã qua đời; 1 người chị cùng mẹ là Võ Thuận và 1 em gái là phu nhân của Quách Hiếu Thuận (郭孝慎). Ban đầu, Võ Sĩ Hoạch làm nghề buôn bán gỗ, cuộc sống gia đình tương đối khá giả, được triều Tùy ban chức “Ưng Dương phủ đội chính”. Những năm Đại Nghiệp thời Tùy Dượng Đế, Đường Cao Tổ Lý Uyên khi ấy giữ tước Đường quốc công, từng nhiều lần đến vùng Phần, Tấn và thăm nhà họ Võ, hai bên có quan hệ thân thiết với nhau. Khi nhà Đường thành lập, nhà họ Võ được Đường Cao Tổ hậu đãi, ban cho bổng lộc, đất đai và trang sức rất nhiều. Về sau, Võ Sĩ Hoạch được ban nhiều chức vị quan trọng, làm đến chức Đô đốc Kinh châu, Thượng thư bộ Công, tước Ứng Quốc công (應國公). Đường huynh của Võ thị là Võ Duy Lương, Võ Hoài Vận cùng anh thứ Võ Nguyên Sảng đối xử với mẹ bà là Dương phu nhân rất vô lễ, từ đó Võ thị và các anh em có hiềm khích. Năm Trinh Quán thứ 11 (637), tháng 11, Đường Thái Tông Lý Thế Dân nghe nói Võ thị có tiếng xinh đẹp nên triệu Võ thị vào cung, phong làm Tài nhân, cấp bậc thứ năm trong chín bậc thuộc hậu cung. Lúc đó, mẹ bà là Dương thị than khóc không thôi, bà cố gắng an ủi mẹ mình: “Cớ chi mẹ lại bảo gặp được Thiên tử không phải là phúc phận của con“. Qua lời an ủi đó, Dương thị đoán ra được chí lớn của con mình, nên thôi không khóc nữa. Khi vào cung, Võ thị được Đường Thái Tông ban cho chữ Mị (媚) làm tên, vì thế người ta cũng thường gọi bà là Võ Mị (武媚), tuy đời sau lại thường gọi thành “Võ Mị Nương” nhưng đương thời không thấy ai gọi như vậy. Sử sách ghi chép rất ít về những hành trạng của bà trong thời gian này. Sách Tư trị thông giám dẫn lời của Võ thị khi về già, kể về một sự tích thuần phục ngựa như sau:. Năm Trinh Quán thứ 17 (643), Đường Thái Tông phế truất Thái tử Lý Thừa Càn, lập Tấn vương Lý Trị làm Thái tử. Từ đây, Võ Tài nhân thường ở bên cạnh phụng dưỡng, hầu thuốc cho Thái Tông, liền bị Thái tử trông thấy mà say mê. Năm thứ 23 (649), Đường Thái Tông qua đời. Trong hơn 10 năm làm tài nhân, Võ thị không hề sinh được một người con nào, vì thế theo di mệnh của tiên hoàng đế, bà và tất cả các phi tần không có con khác phải cạo tóc, xuất gia làm ni cô, vào tu ở Cảm Nghiệp tự (感業寺). Năm Vĩnh Huy nguyên niên (650), tháng 5, nhân ngày giỗ của cha, Cao Tông đến Cảm Nghiệp tự và tình cờ gặp lại bà, hai người ôm nhau mà khóc. Võ thị lúc đó đã cạo đầu song nhan sắc vẫn diễm lệ, nói năng êm tai nên tình cũ trỗi dậy, ông nảy ý rước bà về cung. Khi ấy trong hậu cung, Vương Hoàng hậu và Tiêu Thục phi đấu đá lẫn nhau. Hoàng hậu không có con, nhận nuôi thái tử Lý Trung, còn Thục phi sinh ra hoàng tử Lý Tố Tiết và hai vị công chúa. Trông thấy Thục phi được sủng ái, Hoàng hậu ghen ghét, muốn mượn tay Võ thị giành lấy sự sủng ái của Thục phi, bèn xin lệnh cho Võ thị nuôi tóc, còn thường xuyên nói tốt khiến Cao Tông cho rước về cung. Vào lúc này, Võ thị đang mang thai đứa con đầu lòng, là Lý Hoằng. Thời gian Võ thị chính thức mang thai và hạ sinh Lý Hoằng không được ghi lại tỉ mỉ, thậm chí thời điểm Võ thị trở về cung cũng không rõ ràng, do đó có nhiều giả thiết cho rằng bà mang thai và hạ sinh tại chùa Cảm Nghiệp, và đó là lý do càng khiến Cao Tông muốn đưa bà hồi cung trao danh phận. Tháng 5 năm ấy, gần như ngay lập tức, Võ thị được bái làm Chiêu nghi, tước vị rất cao trong hàng ngũ cung tần. Từ khi về cung, Võ thị ra sức lấy lòng Đường Cao Tông và Vương Hoàng hậu, cả ba người Võ thị, Vương thị cùng Tiêu thị tranh sủng khiến hậu cung không yên, đến Cao Tông cũng không thấy thoải mái. Võ thị biết tính khí Cao Tông, lại biết thông đồng cùng những người hầu không tận tâm của Vương thị và Tiêu thị, vì vậy chỉ có Võ thị có thể tùy cơ hành xử, dần dần được Cao Tông nghe theo. Tuy Võ Chiêu nghi sinh hạ con trai, được nhà vua rất mực yêu quý, song ngôi vị Hoàng thái tử trong cung vẫn đang thuộc về Lý Trung, tuy chỉ là do một tỳ thiếp sinh ra nhưng lại là con trai trưởng của Cao Tông, được Vương Hoàng hậu nhận làm con nuôi. Năm Vĩnh Huy thứ 5 (654), tháng giêng, Võ Chiêu nghi hạ sinh một con gái, An Định Tư Công chúa, tuy nhiên vị công chúa này không bao lâu sau thì mất. Căn cứ theo hai cuốn sách đều được soạn dưới thời nhà Tống là Tân Đường thư và Tư trị thông giám, cả hai đều chỉ ra rõ ràng chính Võ thị đã giết đứa bé để hãm hại Vương Hoàng hậu, trở thành một nguyên do khiến Cao Tông muốn phế hậu và đưa Võ thị lên thay. Theo cách nói của hai cuốn sách này, vào lúc Vương thị đi thăm công chúa và trở về cung, thì Võ Chiêu nghi liền dùng chăn bịt mũi công chúa đến chết, sau đó lại đắp chăn lên che giấu. Khi đó, Cao Tông đến thăm công chúa, Võ thị vui vẻ chào đón, lúc mở chăn ra thì phát hiện công chúa đã chết. Cao Tông buồn bực hỏi người thị nữ, tất cả đều nói “Hoàng hậu từng ở đây“, Võ thị khóc bi thương, còn Cao Tông thì tức giận mắng: “Hoàng hậu giết con gái ta, trước cùng Phi sàm mạo, nay thực có ý tà niệm!“, nước cờ đổ lỗi của Võ Chiêu nghi hoàn thành mỹ mãn. Ngay khi Cao Tông nói lời ấy, Võ thị mới khóc tố tội của Hoàng hậu, trong khi Vương Hoàng hậu không còn cách nào để tự biện minh. Từ đó, Đường Cao Tông nảy ý phế truất Vương thị và đưa Võ Chiêu nghi lên thay. Tuy nhiên, sự việc này có vấn đề về tính chân thật, bởi vì Cựu Đường thư và Đường hội yếu (唐会要) đều chỉ nói qua việc An Định chết đột ngột mà không nói nguyên nhân, sách Cựu Đường thư cũng là sách soạn thời gian sau khi nhà Đường diệt vong chứ không phải là trong triều Đường, nếu có bất kì lời đồn đương thời thì cũng không thể không ghi vào, không cần phải đợi hai sách chính phủ đời Tống soạn mới xuất hiện. Sau sự kiện trên, Đường Cao Tông đã có ý triển khai phế Vương Hoàng hậu mà lập Võ Chiêu nghi, đây được gọi là “Phế Vương lập Võ” (廢王立武). Lúc ấy triều đình lấy Trưởng Tôn Vô Kỵ cùng Chử Toại Lương (褚遂良) là nguyên thủ lĩnh triều, xuất thân đại tộc và huân công thế gia, đương thời có quyền lực cực lớn, mà Đường Cao Tông tuy lên ngôi nhiều năm vẫn luôn bị áp chế. Do vấn đề này, không ít nhận định tin tưởng Cao Tông mượn chuyện phế hậu là nhằm công kích phe cựu thần, chấn chỉnh triều cương. Võ Chiêu nghi từ đấy cũng trở thành “chiến hữu” của Cao Tông. Trong triều, Trung thư xá nhân Lý Nghĩa Phủ (李義府), Lễ bộ Thượng thư Hứa Kính Tông (許敬宗) đều ủng hộ lập Võ thị làm hoàng hậu, tình hình phe phái cũng càng gay gắt hơn. Năm Vĩnh Huy thứ 6 (655), mùa hạ, tháng 6, Võ Chiêu nghi tố cáo mẫu thân của Vương Hoàng hậu là Ngụy Quốc phu nhân Liễu thị đã cùng Hoàng hậu dùng bùa phép hãm hại mình, từ đó Liễu thị không được vào cung nữa. Cậu của hoàng hậu là Trung thư lệnh Liễu Thích (柳奭) bị giáng chức. Trong lúc đó, Trung thư Xá nhân Lý Nghĩa Phủ vốn bị Trưởng Tôn Vô Kỵ ghét, vốn bị Vô Kỵ biếm chức, nhân đó dâng sớ xin phế Hậu lên Cao Tông. Cao Tông vui mừng, bèn cho triệu Lý Nghĩa Phủ vào cung, cho phục chức. Phe cánh của Võ Chiêu nghi ngày càng lớn mạnh. Mùa thu năm ấy, Cao Tông triệu Trưởng Tôn Vô Kỵ, Chử Toại Lương và Lý Thế Tích vào hỏi ý kiến việc phế hậu, Lý Thế Tích cáo ốm không tới.
Võ Tắc Thiên
Võ Tắc Thiên (chữ Hán: 武則天, 17 tháng 2, 624 - 16 tháng 12, 705), cũng được đọc là Vũ Tắc Thiên, thường gọi Võ hậu (武后) hoặc Thiên hậu (天后), là một phi tần ở hậu cung của Đường Thái Tông Lý Thế Dân, sau trở thành Hoàng hậu thứ hai của Đường Cao Tông Lý Trị, về sau trở thành Hoàng đế triều đại Võ Chu làm gián đoạn nhà Đường. Bà là mẹ của 2 vị hoàng đế kế tiếp, Đường Trung Tông Lý Hiển và Đường Duệ Tông Lý Đán. Cùng với tôn hiệu Thiên hậu của bà và tôn hiệu Thiên hoàng (天皇) của Đường Cao Tông, 2 người đã đồng trị vì nhà Đường trong một thời gian dài và cùng được gọi là Nhị Thánh (二聖). Sau khi Đường Cao Tông qua đời, Thiên hậu trải qua các đời Đường Trung Tông và Đường Duệ Tông với tư cách Hoàng thái hậu, và cuối cùng trở thành Hoàng đế duy nhất của triều đại Võ Chu, triều đại mà bà sáng lập tồn tại từ năm 690 đến năm 705. Do đó, Võ Tắc Thiên trở thành Nữ hoàng duy nhất được công nhận trong lịch sử Trung Quốc.
– Chắc hẳn khi học về lập trình C/C++ các bạn đều nghe sự đồn thổi về độ khó của con trỏ rồi nhỉ. Vậy con trỏ là gì? Có ăn được không? Chúng ta sẽ cùng làm sáng tỏ trong series về nó nhé. – Con trỏ là một biến bình thường nhưng có thể trỏ đi lung tung trong bộ nhớ. Và giá trị của nó là địa chỉ của một biến khác (địa chỉ trực tiếp của một ô nhớ trong bộ nhớ). – Về bản chất con trỏ cũng như một biến bình thường: nó cũng có tên biến, giá trị của biến, địa chỉ của biến. Nhưng có điểm khác là:. Những biến bình thường thì nó chỉ nằm cố định trong 1 ô nhớ, còn biến con trỏ thì nó còn có thể trỏ đến các ô nhớ khác nhau. <Kiểu dữ liệu> khi khai báo cho con trỏ không phải là kiểu dữ liệu của nó, mà là kiểu dữ liệu của vùng nhớ mà nó đang trỏ đến. – Vì biến con trỏ có thể trỏ đi lung tung trong bộ nhớ nên việc sử dụng bộ nhớ sẽ linh hoạt hơn. – Áp dụng cho mảng động. Có nghĩa là khi chúng ta sử dụng mảng tĩnh với số lượng phần tử của mảng là cố định, chẳng hạn như mảng có 100 phần tử, thì dù chúng ta chỉ sử dụng 5 – 10 phần tử để thao tác tính toán thôi, thì bộ nhớ cũng sẽ cấp phát 100 ô nhớ, do đó mà sẽ gây ra lãng phí bộ nhớ không đáng có. Còn khi chúng ta sử dụng mảng động dùng con trỏ thì chúng ta sử dụng 5 thì bộ nhớ cấp phát 5 ô nhớ, sử dụng 10 thì bộ nhớ cấp phát 10 ô nhớ. Có thể bạn quan tâm: Cách cấp phát và giải phóng bộ nhớ trong lập trình C. – Sau này khi đến lập trình hướng đối tượng, thì phải có con trỏ mới thực hiện đa hình được. (Chúng ta sẽ đề cập đến vấn đề này ở bài Tính đa hình trong C++). ・Khi khai báo 1 hàm kiểu con trỏ thì dấu * để sát tên kiểu dữ liệu. – Dùng toán tử * để lấy giá trị của một biến con trỏ (và toán tử * cũng thể hiện cho một biến là con trỏ, nên các bạn khi sử dụng cần phân biệt rõ ràng là khi nào *p là con trỏ p, khi nào *p là đang muốn lấy giá trị của con trỏ p). – Con trỏ vô kiểu void* : Có thể nhận được mọi kiểu dữ liệu nhưng khi sử dụng cần phải ép về kiểu dữ liệu muốn sử dụng (Để hiểu hơn thì bạn xem minh họa ở mục Cách sử dụng con trỏ cơ bản). Con trỏ khai báo kiểu int thì chỉ trỏ đến ô nhớ kiểu int, con trỏ khai báo kiểu float thì chỉ trỏ được đến ô nhớ có kiểu là float,… Nếu con trỏ khai báo kiểu int mà chúng ta cho trỏ đến ô nhớ kiểu float hoặc ngược lại thì sẽ lỗi. Nhưng đối với con trỏ vô kiểu void* thì nó có thể trỏ được đến ô nhớ bất kỳ không quan tâm đến kiểu dữ liệu của ô nhớ đó. – Con trỏ null : Một con trỏ được gán giá trị NULL thì được gọi là con trỏ null (giá trị NULL viết IN HOA nhé). Đây là cách tốt nhất và được khuyến cáo là nên sử dụng (good practice) trong trường hợp bạn không biết chính xác địa chỉ để biến con trỏ trỏ đến. Và thường được sử dụng để khởi tạo giá trị cho biến con trỏ ngay sau khi khai báo. Con trỏ null là một hằng số có giá trị là 0. ・Trong hầu hết các hệ điều hành, các chương trình không được phép truy cập bộ nhớ tại địa chỉ 0 vì bộ nhớ đó được dành riêng bởi hệ điều hành. Tuy nhiên, ở đây địa chỉ bộ nhớ 0 có ý nghĩa đặc biệt. Nó báo hiệu rằng con trỏ không nhằm trỏ đến một vị trí bộ nhớ, mà theo quy ước, nếu một con trỏ chứa giá trị NULL (zero), thì có nghĩa là không có gì cả. – Để làm quen với con trỏ vô kiểu void*, bạn thử viết 1 hàm xóa phần mở rộng của 1 tên file(chẳng hạn, input: tailieu.docx => output: tailieu hoặc input: bangtinh.xlsx => output: bangtinh), người dùng có thể truyền vào tên file có thể là kiểu char* hoặc wchart* đều được. Những gì tôi viết trên blog này là những trải nghiệm thực tế tôi đã đúc rút ra được trong cuộc sống, quá trình học tập và làm việc. Các bài viết được biên tập một cách chi tiết, linh hoạt để giúp bạn đọc có thể tiếp cận một cách dễ dàng nhất. Hi vọng nó sẽ có ích hoặc mang lại một góc nhìn khác cho bạn. ・ Cách 2: Truyền tham số cho hàm NhapSoNguyen bằng con trỏ và có kiểu trả về là void. (Xem bài: Con trỏ trong lập trình C)
Con trỏ rỗng
Trong ngành điện toán, khái niệm con trỏ rỗng chỉ một biến con trỏ có một giá trị định sẵn khiến cho nó không trỏ được tới bất kỳ một đối tượng chính tắc nào. Các ngôn ngữ lập trình thường sử dụng con trỏ rỗng trong trường hợp cuối một list không rõ độ dài hoặc một tác vụ nào đó thất bại; cách sử dụng con trỏ rỗng tương đương với các kiểu rỗng và ứng với giá trị Nothing trong kiểu lựa chọn. Không nên nhầm lẫn con trỏ rỗng với một biến con trỏ chưa được khởi tạo giá trị cho nó: mục đích của việc sử dụng con trỏ rỗng là để để bảo đảm phép so sánh không bằng với bất kỳ con trỏ nào trỏ tới một đối tượng chính tắc. Tuy nhiên, tùy vào từng ngôn ngữ và phương pháp lập trình của nó, một biến con trỏ chưa được khởi tạo không chắc chắn sẽ thực hiện được yêu cầu trên. Khi thực hiện phép so sánh, nó có thể cho ra kết quả bằng với một giá trị nào đó, là một con trỏ chính tắc; hoặc có thể bằng với một con trỏ rỗng khác.
Trong tâm lý học lâm sàng có nhiều phương pháp can thiệp khác nhau để điều trị các vấn đề tâm lý và làm tăng sự hạnh phúc của con người. Trong bài viết Tâm lý-Trực tuyến này, Trị liệu hành vi nhận thức: nó là gì và sử dụng những kỹ thuật gì, chúng tôi sẽ tập trung vào điều trị hành vi nhận thức, chúng tôi sẽ giải thích nó là gì, nó được sử dụng như thế nào, ai nên áp dụng nó và chúng tôi sẽ tóm tắt các kỹ thuật tâm lý nhận thức hành vi được sử dụng phổ biến nhất nói chung và đặc biệt để điều trị trầm cảm và lo lắng. Chúng ta cũng sẽ thấy sự khác biệt giữa liệu pháp nhận thức, liệu pháp hành vi và liệu pháp nhận thức. Dòng nhận thức hành vi là một tập hợp các lý thuyết và kỹ thuật thiết lập một hệ thống trị liệu tâm lý. Do đó, liệu pháp nhận thức hành vi là một hình thức trị liệu tâm lý. Trị liệu hành vi nhận thức (CBT) dựa trên mối quan hệ giữa suy nghĩ, cảm xúc, cảm giác và hành vi thể chất. Tất cả các khu vực này được kết nối với nhau và ảnh hưởng lẫn nhau. Bởi ví dụ: bạn đang đối mặt với tình huống bị đình chỉ thi. Bạn có thể nghĩ:. "Tôi đã đình chỉ một kỳ thi, lần sau tôi sẽ phải cố gắng hơn nữa.". Sau khi suy nghĩ 1 chắc chắn sẽ đến một cảm xúc buồn, thất vọng và cam chịu. Suy nghĩ và cảm xúc như vậy sẽ dẫn đến một trạng thái mất bình tĩnh và miễn cưỡng. Từ đó tình trạng, hành động, chắc chắn, sẽ không nghiên cứu. Kết quả là, tình huống có thể sẽ được lặp lại một lần nữa. Mặt khác, sau khi suy nghĩ 2, có thể có một cảm xúc buồn bã nhất định nhưng chấp nhận và hy vọng. Suy nghĩ và cảm xúc như vậy sẽ dẫn đến một trạng thái động lực và ý chí để nỗ lực. Trạng thái đó thúc đẩy hành động học tập, do đó, xác suất vượt qua kỳ thi tiếp theo sẽ lớn hơn. Khác ví dụ nó có thể là của một người nghĩ rằng anh ta không thể chạy 10 km. Hành vi có thể không làm điều đó hoặc nó có thể đang cố gắng. Trong trường hợp cố gắng và đạt được nó, sự thay đổi hành vi sẽ ảnh hưởng đến việc xem xét suy nghĩ. Với các ví dụ trước chúng ta có thể thấy rằng, trong cùng một tình huống, suy nghĩ, trạng thái cảm xúc và hành vi là khác nhau và ảnh hưởng lẫn nhau. các liệu pháp nhận thức hành vi can thiệp ở cấp độ nhận thức, đó là, trong những suy nghĩ, và cũng trong hành vi, đó là, trong các hành động được thực hiện. Nó bao gồm việc thay đổi cách suy nghĩ, thay thế những suy nghĩ dựa trên niềm tin phi lý và những biến dạng nhận thức bằng những suy nghĩ khách quan và thích nghi hơn. Cũng như chuyển đổi các hành vi ít hữu ích thành các hành vi có lợi. Liệu pháp hành vi nhận thức tập trung vào hiện tại và tương lai trước mắt, thường không tìm hiểu về quá khứ. Việc sử dụng liệu pháp tâm lý hành vi nhận thức đã phát triển rất nhiều như một hệ thống trị liệu trong việc thực hiện tâm lý học và tâm thần học. Hiện nay, các can thiệp nhận thức - hành vi Họ có một sự chấp nhận tuyệt vời và hiệu quả của họ đã được công nhận bởi các nghiên cứu thực nghiệm và của các tác giả như Albert Ellis và Aroon Beck. Các quy trình và kỹ thuật của nó đã được nghiên cứu với các phương pháp thử nghiệm nghiêm ngặt, do đó Nó là một liệu pháp khoa học. Cơ sở khoa học của nó không đảm bảo thành công tuyệt đối, nhưng đảm bảo hiệu quả của nó nói chung. Ở nơi đầu tiên nó là một hình thức can thiệp tâm lý, nhưng nó có thể được áp dụng trong nhiều lĩnh vực và cho các vấn đề khác nhau. Nó đã được chứng minh rằng liệu pháp hành vi nhận thức là hữu ích trong điều trị sau đây rối loạn tâm lý:. Trong bối cảnh tâm lý học lâm sàng, liệu pháp nhận thức hành vi nên được được thực hiện bởi một chuyên gia được công nhận, với các chứng nhận và chứng nhận tương ứng. Trị liệu có thể được thực hiện riêng lẻ hoặc theo nhóm. Về thời gian trị liệu, nó không được coi là một liệu pháp dài, nhưng hoàn toàn ngược lại. Số phiên trung bình có thể khác nhau giữa 15 và 20 buổi, trong khoảng thời gian từ 30 đến 60 phút có thể là hàng tuần hoặc hai tuần một lần. Chúng tôi đề nghị rằng vào đầu các phiên nên được hàng tuần để được cách nhau sau. Mặt khác, trị liệu phải được áp dụng trong một không gian vật lý được chuẩn bị cho nó và hoàn toàn bí mật. Cả chế độ áp dụng, thời gian và hiệu quả sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm mức độ phức tạp của vấn đề do bệnh nhân trình bày, sự liên quan của bệnh nhân và sự hợp tác nhận được từ môi trường của họ. Liệu pháp nhận thức hành vi thu thập các phần của liệu pháp nhận thức và các phần của liệu pháp hành vi. Sự khác biệt chính giữa hai là cách tiếp cận lý thuyết về sự khởi hành, nếu đó là nhận thức hoặc là hành vi. Trong khi đó, cách tiếp cận nhận thức - hành vi dựa trên mối quan hệ giữa nhận thức và hành vi. Trên thực tế, nguyên tắc cơ bản của nó là các khía cạnh nhận thức, tình cảm và hành vi có liên quan và sự thay đổi ở một trong các bên sẽ ảnh hưởng đến các bên khác. Liệu pháp nhận thức bắt đầu từ quan điểm tiêm bắp và là tập trung vào nhận thức. Nó dựa trên tiền đề rằng việc giải thích hành vi được tìm thấy trong các quá trình nhận thức và suy nghĩ. Liệu pháp nhận thức can thiệp vào suy nghĩ, xác định và thay thế những suy nghĩ và niềm tin bị bóp méo bằng những diễn giải linh hoạt, thích ứng và chức năng khác. Trong trị liệu hành vi, việc giải thích hành vi mà một người trình bày dựa trên môi trường, về ảnh hưởng của môi trường. Do đó, các kỹ thuật trị liệu hành vi tập trung vào sửa đổi hành vi maladaptive và học các hành vi mới có nhiều chức năng hơn, theo cách này, thay đổi cảm xúc và suy nghĩ. Các kỹ thuật của liệu pháp nhận thức hành vi là những kỹ thuật đã được khoa học chứng minh là có hiệu quả nhất trong tâm lý học lâm sàng. Những kỹ thuật này tập trung vào việc sửa đổi suy nghĩ và hành vi bằng cách học những cách suy nghĩ mới và hành động thích ứng hơn. Kỹ thuật trị liệu hành vi nhận thức tập trung vào hiện tại, mặc dù mục tiêu của nó là tiếp thu thói quen và kỹ năng mang lại hạnh phúc và chất lượng cuộc sống cao hơn và tồn tại theo thời gian. Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý dựa trên tiền đề rằng đau khổ cảm xúc là do sự giải thích của một người về một tình huống và không phải của tình hình. Mục tiêu của liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý là người đó đạt được sự thay đổi các kiểu suy nghĩ để thay đổi cách giải thích tình huống. Đó là, ông tiếp tục đánh giá các tình huống với kết luận dựa trên thực tế chứ không dựa trên các giả định chủ quan. TREC tuân theo sơ đồ sau:. C. Những cảm xúc nảy sinh từ việc giải thích tình huống. Nếu giải thích là tiêu cực, chắc chắn cảm xúc là khó chịu. D. Câu hỏi về tính hợp lệ của việc giải thích tình huống thông qua thảo luận về những suy nghĩ phi lý. E. Thay đổi thuận lợi trong cảm xúc sau khi nhận thức về nhận thức phi lý. Hiểu những biến dạng nhận thức là gì, đó là những suy nghĩ tiêu cực và phi lý ảnh hưởng đến tâm trạng và hành vi. Ghi lại những suy nghĩ: chỉ ra tình huống bạn đang gặp phải, ý nghĩ xuất hiện, cảm xúc và hành vi. Phân tích suy nghĩ. Hãy tự hỏi nếu suy nghĩ đó là đúng và phân tích hợp lý về nó. các Câu hỏi xã hội: tự đặt câu hỏi như "¿Những gì tôi nghĩ là hoàn toàn đúng? "Hoặc"¿Tôi có bằng chứng gì về nó?. Kiểm tra các tiện ích suy nghĩ: "¿Liệu suy nghĩ này có giúp ích gì không? "Hoặc" Ưu và nhược điểm của suy nghĩ ". Vào trong trường hợp xấu nhất: hãy tự hỏi mình "¿Điều gì sẽ xảy ra nếu .? "Hoặc"¿Điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là gì?. Kiểm tra bằng hành động. Kiểm tra nếu những gì tôi nghĩ đã xảy ra. Ví dụ, nếu suy nghĩ phi lý là "Tôi nói tôi hỏi trong lớp họ sẽ nghĩ tôi ngu ngốc và họ sẽ cười tôi", đó là về việc hỏi trong lớp và kiểm tra xem điều đó có xảy ra không. Kỹ thuật tiếp xúc dựa trên hiệu quả của nó Nguyên tắc tập sự, đã chỉ ra rằng tiếp xúc nhiều lần một kích thích tạo ra một phản ứng nhỏ hơn mỗi lần theo chủ đề Ví dụ, nếu một ngày bạn nhìn thấy một con nhện, cơ thể bạn sẽ phản ứng vì hệ thống báo động sẽ kích hoạt. Tuy nhiên, nếu mỗi ngày nhìn thấy một con nhện và nó không có hậu quả, thì mỗi lần giải thích về nguy hiểm sẽ thấp hơn và do đó phản ứng tâm sinh lý ít hơn. Kỹ thuật này được chỉ định đặc biệt cho các vấn đề lo lắng, sợ hãi và ám ảnh và hành vi tránh né. Triển lãm phải có một kế hoạch và hỗ trợ được cung cấp bởi một chuyên gia. Các loại tiếp xúc là: triển lãm trực tiếp hoặc triển lãm một cách tượng trưng thông qua trí tưởng tượng hoặc các thiết bị công nghệ của thực tế ảo. Giải mẫn cảm một cách có hệ thống cũng nhằm mục đích làm giảm phản ứng tâm sinh lý đối với các kích thích gây mê. Phần đầu tiên bao gồm phá vỡ tình hình điều đó tạo ra sự kích hoạt nỗi sợ hãi hoặc lo lắng trong những phần nhỏ và phân cấp chúng từ ít nhất đến đáng sợ nhất. Ví dụ, với nỗi sợ nói trước công chúng, chúng ta có thể đặt, bước đầu tiên, tình huống nói một vài câu trước một người hoàn toàn tin tưởng; Bước thứ hai, hãy nói 2 phút trước hai người đáng tin cậy; Bước thứ ba, hãy thực hiện bài phát biểu dài 4 phút trước một số người thân hoặc người đáng tin cậy. Và cứ như vậy cho đến khi bạn đạt đến tình huống đáng sợ nhất. Chúng tôi đề nghị phân cấp giải mẫn cảm bao gồm từ 20 đến 50 giai đoạn. Tiếp theo, đó là về đối mặt với các tình huống theo hệ thống phân cấp này, chỉ định của nhà tâm lý học và áp dụng các kỹ thuật thư giãn. Hơi thở và thư giãn cơ thể là những khía cạnh cơ bản để học cách quản lý các khía cạnh sinh lý của các phản ứng cảm xúc. Một số ví dụ về kỹ thuật thở và thư giãn là:. các Thở cơ hoành: Bao gồm học tập để thực hiện thở có ý thức bằng cách sử dụng cơ hoành. Hơi thở này cho phép đưa không khí đến khu vực thấp hơn của phổi, đảm bảo sự hấp thụ oxy tốt hơn và kích hoạt phản ứng thư giãn của cơ thể. các thư giãn cơ bắp tiến bộ: nó bao gồm học cách thư giãn tất cả các cơ của cơ thể. Đó là về nhận thức về sự căng cơ và học cách thư giãn thông qua đào tạo. Mục tiêu của kỹ thuật thư giãn cơ tiến bộ là biến nó thành thói quen mà chúng ta có thể sử dụng trong các tình huống căng thẳng. Một trong những cách nổi tiếng và hiệu quả nhất là thư giãn cơ bắp tiến bộ của Jacobson. Các kỹ thuật điều hòa hoạt động của sửa đổi hành vi Họ cho phép có được các hành vi mới, tăng các hành vi và giảm hoặc loại bỏ các hành vi. Chúng rất hiệu quả. Họ dựa trên cách học điều hòa thông qua việc sử dụng cốt thép. Trong bài viết này, chúng tôi giải thích điều hòa hoạt động là gì và cách thức hoạt động với các ví dụ. Kỹ thuật mô hình là một kỹ thuật hành vi bao gồm có được các hành vi thông qua học tập gián tiếp hoặc bắt chước. Họ học hoặc sửa đổi hành vi bằng cách quan sát hành vi của người khác và hậu quả mà họ đòi hỏi. Nó bao gồm 3 bước chính:. Đào tạo các kỹ năng xã hội nhằm cải thiện chất lượng mối quan hệ giữa các cá nhân, để giảm bớt sự khó chịu trong mối quan hệ với người khác và nhận được tất cả các lợi ích của xã hội. Đó là về học tập các chiến lược hành vi cho phép thiết lập các mối quan hệ xã hội một cách hiệu quả. Trong số các thủ tục tiếp thu và duy trì các kỹ năng xã hội là:. Trầm cảm được xác định bởi một tập hợp các triệu chứng nhận thức, tình cảm và hành vi. Nó được đặc trưng chủ yếu bởi những suy nghĩ tiêu cực về bản thân, về môi trường và về tương lai. Có những rối loạn trầm cảm khác nhau được thu thập trong DSM-V với các tiêu chí và đặc điểm tương ứng của chúng, tôi cảm thấy rối loạn trầm cảm phổ biến nhất. Trầm cảm là một rối loạn vô hiệu hóa ảnh hưởng đến nhiều người, do đó, rất nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để điều trị.
Liệu pháp nhận thức
Liệu pháp nhận thức hay trị liệu nhận thức (Cognitive Therapy) là một loại tâm lý trị liệu được phát triển bởi bác sĩ tâm thần người Mỹ Aaron T. Beck. CT là một trong những phương pháp trị liệu trong nhóm lớn hơn các liệu pháp hành vi nhận thức (CBT) và lần đầu tiên được Beck trình bày vào những năm 1960. Trị liệu nhận thức dựa trên mô hình nhận thức, trong đó nêu rõ rằng suy nghĩ, cảm xúc và hành vi đều được kết nối và các cá nhân có thể tiến tới vượt qua khó khăn và đáp ứng mục tiêu của họ bằng cách xác định và thay đổi suy nghĩ không có ích hoặc không chính xác, hành vi có vấn đề và phản ứng cảm xúc đau khổ. Điều này liên quan đến việc cá nhân hợp tác với nhà trị liệu để phát triển các kỹ năng kiểm tra và sửa đổi niềm tin, xác định suy nghĩ lệch lạc, liên quan đến người khác theo những cách khác nhau và thay đổi hành vi. Một khái niệm trường hợp nhận thức phù hợp được nhà trị liệu nhận thức phát triển như một lộ trình để hiểu thực tế bên trong của cá nhân, chọn các biện pháp can thiệp phù hợp và xác định các khu vực căng thẳng.
LGBT chính là cụm viết tắt cho 4 từ đại diện cho 4 nhóm người có sự khác biệt về giới tính. Cụ thể bao gồm có: người đồng tính luyến ái nữ (Lesbian), đồng tính luyến ái nam (Gay), song tính luyến ái (Bisexual) và người chuyển giới (Transgender). Theo đó, chúng ta có thể hiểu LGBT chính là tên gọi của một cộng đồng tập hợp những con người có sự khác biệt về xu hướng giới tính và xu hướng tình dục. Trong đó có những người nữ bị thu hút bởi người nữ khác, người nam bị thu hút bởi người nam khác, người bị thu hút bởi hai giới và những người thực hiện phẫu thuật để chuyển đổi giới tính khác với giới tính ban đầu của mình. Hiện nay, cộng đồng này đang có xu hướng “come out” nhiều hơn trong khi trước đây mọi người hầu như đều không sống thoải mái, không dám sống thật với mình bởi lo sợ bị kỳ thị. Tìm hiểu về LGBT là gì xong, chúng ta sẽ cùng nhau đề cập một số vấn đề xoay quanh cộng đồng này. Như chúng ta vừa đề cập ở trên, LGBT là những người có những sự khác biệt về xu hướng giới tính và tình dục so với những người bình thường. Vậy có phải người trong cộng đồng LGBT là xấu?. Câu trả lời tất nhiên là không. LGBT không hề xấu, họ cũng là những con người bình thường, họ có cảm xúc, có suy nghĩ, có học vấn, có tình cảm. Họ chỉ khác biệt với chúng ta về vấn đề tình dục. Điều này cũng có thể hình dung nôm na như 1 người bình thường và 1 người bị vấn đề về giọng nói vậy. Nhìn theo chiều hướng tích cực này bạn sẽ thấy LGBT chẳng có gì là quá đáng cả. Những người xấu thực sự là những người có tư tưởng lệch lạc, xu hướng tình dục biến thái và những người có hành động trái pháp luật, thiếu tính nhân văn,… Đây mới chính xác là đối tượng cần tẩy chay, cần lên án, cần tránh xa. Còn những người trong cộng động LGBT họ xứng đáng được công nhận, được sống hòa đồng và được cống hiện, được yêu thương. Họ được sinh ra dưới hình hài không đúng với nội tâm của mình. Đó đã là một sự khổ, một sự thiệt thòi mà họ phải gánh chịu. Chúng ta không thể san sẻ thì cũng cần phải cảm thông và thấu hiểu cho điều đó. Hiện nay, không ít những người thuộc cộng đồng LGBT đã mạnh dạn đứng ra, công khai về giới tình của mình. Họ muốn có mọi người biết họ là ai, họ đang gặp vấn đề gì và quan trọng là họ muốn sống thật với chính mình. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có không ít những người vẫn đang “sống trong bóng tối”. Họ chưa dám bước ra để nói về bản thân mình vì họ sợ mất đi nhiều điều. Đó là gia đình, đó là các mối quan hệ, đó là sự tôn trọng hay những điều khác quan trọng nữa. Chính vì những điều có thể mất đi đấy, mà người LGBT luôn băn khoăn không biết họ có nên công khai bản thân mình? Để mà nói 1 cách công bằng, nếu cái gì là của bạn nó sẽ là của bạn. Bạn muốn đạt được cái gì thì bạn cần phải giành lấy. Giống như những thiên tài thường là những người kahcs biệt với đám đông, công động LGBT không thiếu những người tài giỏi. Thậm chí họ còn rất thông minh trong ứng xử, có đời sống tình cảm dồi dào, có tài kinh doanh, ăn nói, và rất nhiều tài năng khác. Sự thật đã chúng minh, rất nhiều người LGBT đã thành công và vẫn đang tiếp tục thành công trong lựa chọn của họ. Chính vì vậy công đồng LGBT xứng đáng nhận được sự tôn trọng cao, sự nhìn nhận, chấp nhận, cảm thông và sẻ chia đến từ công đồng nhân loại của chúng ta. Hiện tại mình là CEO phụ trách phát triển dự án Blog thủ thuật, phần mềm, công nghệ này. Mình có hơn 10 năm kinh nghiệm trong mảng SEO, MMO. Hi vọng nội dung bài viết sẽ mang lại nhiều điều thú vị cho bạn. MissDigitalWorld.com là trang web cung cấp những thông tin hữu ích nhất cho độc giả về công nghệ, thủ thuật, phần mềm, làm đẹp.
Công khai xu hướng tính dục
Công khai tính dục (coming out of the closet, thường được nói ngắn gọn là coming out), là một cụm ẩn dụ cho việc người thuộc cộng đồng LGBT tự tiết lộ về xu hướng tính dục hoặc bản dạng giới của họ. Việc công khai tính dục đã được đóng khung và bàn luận như một vấn đề riêng tư, và được miêu tả và cảm nhận theo nhiều cách khác nhau: một quá trình hoặc hành trình tâm lý học; một sự quyết định hoặc mạo hiểm; một chiến thuật hoặc kế hoạch; một sự kiện đông người hoặc công khai; một hành động diễn thuyết và một vấn đề về danh tính cá nhân, một nghi thức công nhận; một sự giải phóng hoặc tự do khỏi sự áp bức; một thử thách; một cách thức hướng tới niềm tự hào đồng tính thay vì sự hổ thẹn hoặc kỳ thị xã hội; hoặc thậm chí một sự mạo hiểm đối với sự nghiệp. Tác giả Steven Seidman đã viết rằng: “Sự giấu kín xu hướng tính dục có sức mạnh thay đổi cốt lõi cuộc đời của một con người. Chính điều đó đã khiến cho đồng tính luyến ái trở thành một vấn đề nổi cộm về cá nhân, xã hội và chính trị tại nước Mỹ thế kỷ XX.”Cụm coming out of the closet là nguồn gốc của nhiều cụm từ lóng trong cộng đồng LGBT liên quan đến việc tồn tại hay thiếu đi sự công khai tự nguyện.
Trong giới sinh học: Rùa là một loài bò sát, lưỡng cư có tuổi thọ rất cao; và một thân hình vô cùng vững chắc. Rùa có thể nhịn ăn uống mà vẫn có thể sống khỏe mạnh trong một thời gian dài. Hơn nữa trong khi ăn thì chúng cũng ăn không quá nhiều. Rùa là một loài động vật hiền lành, không tấn công, chúng chỉ tự bảo vệ mình bằng cách chui đầu vào lớp mai cứng. Trong văn hóa Việt: Chúng ta có thể thấy hình ảnh rùa qua các câu chuyện cổ tích; qua Truyền thuyết như: “Sự tích Hồ Gươm”. Hay tại các di tích lịch sử văn hóa, hình ảnh Rùa đội bia đá ghi tên các tiến sĩ đỗ đạt tại văn miếu Quốc Tử Giám; Hà Nội là những minh chứng cho sự trường tồn và bất diệt của con vật này. Trong Phật giáo: Mặc dù không phải là con vật của Phật giáo, nhưng rùa vẫn được xem là biểu trưng cho sự trường tồn của Phật giáo. Trên bàn thờ, không gian thờ cúng tại các đền chùa chúng ta vẫn thường thấy hình ảnh đôi hạc đứng trên lưng rùa. Trong giới sinh học: Hạc là một loại chim thuộc họ Sếu. Hạc là loại đứng đầu trong họ lông vũ. Loài hạc có tuổi thọ rất dài; trên chỏm đầu con hạc, có màu đỏ. Theo thuyết ngày xưa chỏm được gọi là “hành hỏa” – nơi tập trung khí dương; tạo nên được sự bền bỉ và sức sống dẻo dai. Ý nghĩa hạc trong tâm linh: Hạc là loại đứng đầu trong họ lông vũ, có tính cách của một người quân tử, thanh cao. Vì vậy, Hạc được đặt trên bàn thờ với ngụ ý tới phẩm chất cao quý, mạnh mẽ và luôn sẵn sàng đối đầu với khó khăn. Loài Hạc có tuổi thọ rất dài, vì vậy mà nó là biểu tượng sự trường tồn, là tuổi thọ và sự bền vững. Với những ý nghĩa của hình ảnh Hạc và Rùa đã được nêu ở trên. Vậy khi hình ảnh Hạc và Rùa được kết hợp với nhau sẽ mang lại những ý nghĩa gì. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu tiếp nhé!. Ý nghĩa thứ nhất: Hình ảnh Hạc và Rùa tượng trưng cho sự gắn kết giữa hai thái cực âm và dương. + Hạc tương trưng cho lực dương bởi vì: Hạc sống trên cao, đầu đội công lý; đôi mắt sắc tương trưng cho mặt trời và mặt trăng, cánh là gió, lông là cỏ cây; còn đôi chân dài có ý nghĩa là đất. Vì vậy hình ảnh Hạc được tượng trưng cho không gian, cho bầu trời. + Rùa: Rùa là động vật sống dưới nước nên tượng trưng cho đất, tức là lực âm. Với ý nghĩa này nó tượng trưng cho sự hòa hợp, cân xứng để giữ cho cuộc sống dương gian được bình yên, không bị quấy phá bởi thế lực âm khí xấu. Ý nghĩa hai: Hình ảnh Hạc và Rùa tượng trưng cho sự trường thọ, bởi vì Hạc và Rùa là hai con vật đều có tuổi tho rất cao. Ý nghĩa thứ ba: Hình ảnh Hạc và Rùa tượng trưng cho lòng chung thủy và sự tương trợ và tình bạn cao đẹp. + Theo truyền thuyết kể lại: Hạc và Rùa vốn là đôi bạn thân; Hạc sống trên cạn, biết bay, còn Rùa sống dưới nước, biết bò. Chính vì vậy khi trời mưa lũ, ngập úng thì Hạc không thể sống được ở dưới nước; Rùa đã giúp Hạc vượt vùng nước ngập úng đến nơi khô ráo. Và ngược lại, khi trời hạn hán thì hạc giúp rùa đi đến vùng có nước. Chính điều này đã nói lên lòng chung thủy và sự tương trợ giúp đỡ nhau trong những lúc khó khăn hoạn nạn giữa những người bạn tốt. Ý nghĩa thứ 4: “Sự trở về”. Hạc tượng trưng cho sự thanh cao thuần khiết; Rùa có ý nghĩa là Quy, tức là quay trở lại, là quy tụ. Điều này nói lên khi hình ảnh hạc và rùa kết hợp thì cũng mang lại ý nghĩa khuyên nhủ con người ta cần phải quay trở về với bản tính lương thiện, sự thanh cao trong sáng ban đầu – đó chính là sự trở về cội nguồn. Với những ý nghĩa sâu sắc, hạc thờ cúng là vật phẩm quan trọng trong bất kì không gian thờ cúng nào và rất quan trọng. Bên cạnh đó, còn có các chi tiết như hạc đội đèn nến nhằm thể hiện sự tôn thờ ánh sáng chân lý, là ngọn đèn soi sáng, giác ngộ, thức tỉnh tâm tính con người hay hạc ngậm ngọc, ngậm sen với các ý nghĩa: hạc ngậm ngọc biểu trưng cho sự cao quý, sang trọng, quyền quý còn hình ảnh hạc ngậm sen thể hiện sự giác ngộ, thức tỉnh những điều xấu để vươn lên trong cuộc sống.
Hình tượng con hạc trong văn hóa
Hình tượng loài chim hạc ảnh hưởng sâu sắc trong văn hóa phương Đông và mang nhiều ý nghĩa biểu tượng thanh cao. Hạc là con vật tượng trưng cho sự tinh tuý, thanh tịnh, thần tiên thoát tục còn gọi là Tiên hạc (仙鶴). Chim hạc là loài đứng đầu trong họ lông vũ còn gọi là đại điểu hay nhất phẩm điểu có tính cách của một người quân tử, là con chim của vũ trụ, của tầng cao, báo hiệu sự chuyển mùa, đại diện cho thế lực thiên nhiên từ trời xanh. Hạc loại linh vật được cho là bất tử của loài chim, là loài chim có phẩm chất cao quý, mạnh mẽ đối đầu với khó khăn, mang lại nhiều may mắn Trong nghệ thuật và hội họa truyền thống, có rất nhiều những bức họa thủy mặc về chim hạc, nó ẩn chứa một tầng ý nghĩa nào đó mà hình ảnh của nó rất được chú trọng. Loài hạc có bộ lông màu đen tuyền hoặc trắng muốt và có tuổi thọ chính vì vậy mà nó có biểu tượng là sự trường tồn, là tuổi thọ và sự bền vững, hạc còn biểu tượng cho sự thanh đạm, thuần khiết nên được đặt trên bàn thờ ngụ ý tới phẩm chất cao quý, mạnh mẽ đối đầu với khó khăn, mang lại may mắn và ấm êm.
Cô Gái Trẻ Hứa Hẹn (Promising Young Woman) xoay quanh cô gái trẻ Cassie (Carey Mulligan) với tương lai đầy hứa hẹn đang đón chờ. Nhưng mọi chuyện bỗng chốc tan tành khi Cassie bất ngờ gặp phải một biến cố. Cô gái xinh đẹp, trẻ trung và cực kì thông minh này bắt đầu lên kế hoạch trả thù cuộc đời về đêm bằng những phương cách không ai tưởng tượng nổi. Đã lâu lắm rồi giới điện ảnh mới có một kịch bản phim ấn tượng như vậy, rất xứng đáng được đề cử 5 giải Quả cầu vàng và 3 giải Oscar. Dạo đầu phim khá là chậm, và cách trả thù “đời” của Cassie cũng không mấy thuyết phục, đó là cô có một hành vi rất kỳ lạ vào buổi tối cuối tuần, cô thường lân la đến các quán bar, giả vờ say xỉn để được các chàng trai “tốt” dẫn về nhà. Khi những gã trai chuẩn bị giở trò thì cô bắt đầu lật mặt, thuyết giảng cho họ một bài học. Cái tên phim Cô Gái Trẻ Hứa Hẹn cũng đã nói lên tương lai đầy tươi sáng của cô gái trong phim nhưng vì biến cố mà ngã sang trang khác. Nội dung phim chắc chắn mang đến sự đồng cảm với đa số khán giả nữ về chủ đề cưỡng bức, là sự tranh cãi về sự đồng thuận giữa hai bên, việc đổ lỗi cho nạn nhân trong xã hội hiện nay, và đạo diễn tài năng Fennell đã mang đến một cái nhìn mới mẻ qua góc kể chuyện của nữ chính. Đan xen với câu chuyện trả thù là câu chuyện về đời sống riêng của Cassie, cô cũng có bố mẹ quan tâm, có người bạn tốt bên cạnh, cũng khao khát được yêu đương như những cô gái bình thường khác. Nhưng những điều đó không thể làm nguôi ngoai ý muốn trả thù của cô. Cô Gái Trẻ Hứa Hẹn là tình huống mà bất cô gái nào cũng có thể phải trải qua, chỉ là dưới con mắt của cánh đàn ông, nó chẳng phải là câu chuyện to tát. Phim không chỉ buộc tội đàn ông, mà còn lên án việc một số người phụ nữ có thể giúp người phụ nữ yếu thế khác, nhưng họ lại không làm. Phải chăng người ta chỉ thấy xót xa khi đó là người thân của họ?. Diễn xuất biến hóa khôn lường của Carey Mulligan đã góp phần lớn cho thành công của Cô Gái Trẻ Hứa Hẹn. Cảnh giả say và bừng tỉnh khiến đàn ông phải khiếp sợ. Những cảnh nội tâm vụn vỡ khi nhìn lại quá khứ, cảnh tức giận vì đám đàn ông xấu xa đề được Mulligan truyền tải rất tốt. Và đặc biệt là nhan sắc của cô quá đỉnh, dù đã 35 tuổi nhưng vẫn có thể cân vai một cô nàng độc thân 30 tuổi trong phim. Các diễn viên còn lại thì chỉ dừng lại ở mức diễn xuất ổn, giúp câu chuyện trở nên hoàn thiện. Âm thanh là một điểm cộng to đùng cho bộ phim. Phần âm nhạc với những ca khúc rất bắt tai của Britney Spears và Spice Girls xuất hiện rất đúng lúc. Và nhờ những âm thanh kịch tính, phim trở nên căng thẳng hơn hẳn cho những phân cảnh trả thù. Bối cảnh phim thì không có gì quá đặc sắc hay ấn tượng. Điểm trừ của Cô Gái Trẻ Hứa Hẹn chính là nó khá nặng nề và đen tối nếu muốn xem chỉ để giải trí. Những bạn trẻ hoặc những người ít đi xem phim sẽ khó cảm được tác phẩm này. Tuy nhiên, với những người hay xem phim điện ảnh thì đây sẽ là một trải nghiệm kịch bản rất tuyệt.
Cô gái trẻ hứa hẹn
Cô gái trẻ hứa hẹn (tên gốc tiếng Anh: Promising Young Woman) là phim điện ảnh hài kịch đen của Mỹ năm 2020 do Emerald Fennell đảm nhiệm vai trò đạo diễn kiêm biên kịch. Nữ diễn viên Carey Mulligan đảm nhiệm vai nữ chính, một người phụ nữ đang tìm cách trả thù cho cái chết của người bạn thân vốn từng là nạn nhân của quấy rối tình dục. Các diễn viên Bo Burnham, Alison Brie, Clancy Brown, Jennifer Coolidge, Laverne Cox và Connie Britton cũng góp mặt trong bộ phim. Cô gái trẻ hứa hẹn khởi chiếu ra mắt tại Liên hoan phim Sundance vào ngày 25 tháng 1 năm 2020 và được Focus Features khởi chiếu tại các rạp chiếu phim của Mỹ vào ngày 25 tháng 12 năm 2020. Tại thị trường Việt Nam, phim khởi chiếu từ ngày 2 tháng 4 năm 2021. Cô gái trẻ hứa hẹn nhận về nhiều phản hồi tích cực từ giới chuyên môn, với nhiều lời khen ngợi cho phần kịch bản, chỉ đạo đạo diễn cũng như phần diễn xuất của Carey Mulligan. Phim nhận được năm đề cử tại Giải Oscar lần thứ 93, bao gồm Phim hay nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất và Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho Mulligan.
Top +99 Những câu nói hay về tình bạn thân và tình bạn rạn nứt/ phản bội/ giả dối/ chơi xấu/ đểu hay nhất 2021. Đối với các chị em phụ nữ thì chắc kem nền đã không còn xa lạ gì nữa. Đây là một loại mỹ phẩm trang điểm cơ bản và thông dụng nhất. Hầu như ai cũng từng sử dụng một lần. Thế nhưng bạn đã từng thắc mắc tại sao có người dùng kem nền nhìn đẹp hơn nhưng cũng có nhiều người lại bị sần da sau khi dùng kem nền chưa? Để giải đáp điều này, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu kỹ hơn xem kem nền là gì và chọn kem nền như thế nào cho đúng cách nhé!. Kem nền là một loại mỹ phẩm trang điểm có màu sắc trùng với da được thoa trên khuôn mặt để tạo nên một màu đồng nhất cho da. Ngoài ra nó còn dùng để che khuyết điểm, giúp da mịn màng và thay đổi tông màu da tự nhiên. Kem nền có nhiều dòng khác nhau để phù hợp với từng đối tượng sử dụng. Bởi thế, khi lựa chọn kem nền, bạn nên chú ý những yếu tố sau:. Kem nền là loại mỹ phẩm rất phổ biến và quan trọngTông màu: Kem nền có cực nhiều màu sắc. Từ đen, nâu đến trắng, hồng, vàng, nhũ… Tùy theo từng màu da và phong cách trang điểm mà bạn nên lựa chọn cho phù hợp. Nhất là phải chú ý để da mặt không bị lệch tông so với da cổ nhé. Công dụng: Kem nền hiện nay còn được trang bị thêm nhiều công dụng như dưỡng ẩm, dưỡng trắng, thay cho lớp lót… Bạn nên chú ý những công dụng này để tăng hiệu quả cho lớp trang điểm.Độ che phủ, độ mỏng nhẹ: Các loại kem nền khác nhau sẽ có kết cấu và thành phần khác nhau. Theo đó, độ che phủ và độ mỏng nhẹ cũng không giống nhau. Bạn nên lựa chọn kem có kết cấu lỏng, nhanh tệp vào da và cảm giác khô thoáng sau khi bôi lên da để tránh bí da, gây mụn nha. Việc lựa chọn kem nền theo từng loại da là rất quan trọng. Mỗi loại da sẽ có một đặc điểm khác nhau, không phải sản phẩm nào cũng có thể dùng cho tất cả loại da. Do đó, khi lựa chọn kem nền, bạn cần hiểu rõ kem nền đó là loại gì, phù hợp cho loại da nào?. Nếu da bạn là da dầu thì bạn nên chọn những loại kem nền có kết cấu mỏng dưới dạng lỏng hoặc dạng kem. Đặc tính của da dầu là thường có lỗ chân lông lớn, dễ bị mụn ẩn dưới da, da tiết dầu nhiều, nhanh bị xuống tone da. Do đó, kem nền phù hợp phải khắc phục được tất cả những đặc điểm đó. Đối với da dầu, bạn không cần tìm loại kem có độ che phủ quá cao. Chỉ cần nó có thể làm đều màu da và mềm nhẹ là được. Một số loại kem nền phù hợp cho da dầu là Wet n wild, Maybelline… Thêm một chú ý nhỏ nữa là khi thoa kem nền bạn nên dùng bông trang điểm hoặc mút để tán đều nhé. Nếu dùng tay thoa thì sẽ dễ khiến kem nền bị bết và kích thích dầu tiết ra nhiều hơn đó. Ngược lại với da dầu, da khô cũng “khó chiều” không kém. Một số triệu chứng thường gặp ở da khô là hay bong tróc, đóng vảy, sần lên khi trang điểm và khó bám nền. Do đó, bạn cần lựa chọn kem nền có thêm khả năng dưỡng ẩm, độ che phủ cao. Một tip khá hay là trước khi trang điểm, bạn nên tẩy da chết sạch, dưỡng da theo các bước cơ bản và xịt khoáng trước khi bắt đầu bôi lớp nền lên nhé. Da hỗn hợp là loại da phổ biến nhất tại Việt Nam. Nó gây bất tiện rất nhiều trong quá trình dưỡng da và trang điểm. Bởi mỗi vùng da lại có đặc tính khác nhau. Vậy cách lựa chọn kem nền cho da hỗn hợp là gì nhỉ?. Với da hỗn hợp, bạn cần lựa chọn các loại sản phẩm mỏng mịn, có độ che phủ vừa phải và có khả năng dưỡng ẩm tốt. Một số loại kem nền phù hợp có thể kể đến là kem nền MAC, kem nền Catrice, kem nền Makeup Forever… Các thương hiệu này đều có những dòng kem nền rất ổn cho da hỗn hợp đấy. Và cuối cùng, tại sao da mụn lại được tách riêng ra 1 loại da? Bởi da mụn là loại da khó chăm sóc nhất. Nó hầu như hội tụ gần hết đặc điểm của các loại da trên. Có vùng thì khô, có vùng thì dầu, có lúc thì lại chuyển thành da thường nhưng có lúc lại thành da hỗn hợp. Không những thế, da mụn còn rất dễ tổn thương và viêm nhiễm. Nếu chọn kem nền không đúng thì có thể sẽ khiến tình trạng mụn nặng hơn. Với loại da này, bạn nên lựa chọn loại kem nền có kết cấu mỏng nhẹ, thông thoáng, có khả năng kiềm dầu tốt. Ngoài ra, trước khi trang điểm, bạn cần có một lớp lót để bảo vệ da nữa nhé! Giờ thì bạn đã biết kem nền là gì chưa nào? Hãy căn cứ vào nhu cầu và loại da của bản thân để có sự lựa chọn cho phù hợp nha.
Kem nền
Kem nền hay phấn nền là mỹ phẩm trang điểm có màu sắc trùng với da được thoa trên khuôn mặt để tạo nên một màu đồng nhất cho da, để che khuyết điểm và đôi khi thay đổi tông màu da tự nhiên. Một số kem nền cũng có chức năng như là kem dưỡng ẩm, kem chống nắng, chất se khít hoặc lớp nền cho những mỹ phẩm phức tạp hơn. Kem nền thoa lên cho cơ thể thường được gọi là "body painting". Sử dụng mỹ phẩm để trang điểm da có từ tận thời cổ đại. "Vẽ khuôn mặt" được đề cập trong kinh Cựu Ước (Ezekiel 23:40). Người Ai Cập cổ đại đã sử dụng kem nền. Vào năm 200 TCN, phụ nữ Hy Lạp cổ sử dụng bột chì trắng và đá phấn để làm sáng da. Nó được xem như mốt thời trang cho phụ nữ Hy Lạp có làn da nhợt nhạt. Phụ nữ La Mã cũng ưa thích làn da nhợt nhạt. Người Lã Mã thượng lưu ưa thích hỗn hợp nhão chì trắng, có thể dẫn đến sự biến dạng và tử vong. Đàn ông trang điểm để làm sáng tông màu da của họ.
Ma thổi đèn (tiếng Trung: 鬼吹灯; bính âm: Guǐ Chuī Dēng, Hán-Việt: Quỷ xuy đăng) là một bộ truyện nhiều tập của Trung Quốc do tác giả Thiên Hạ Bá Xướng (Trương Mục Dã) viết. Tên truyện “Ma thổi đèn” xuất phát từ “Bùa mô kim, ấn quật mộ, dỡ núi dời non tìm quyết chú. Nhân điểm chúc, quỷ xuy đăng, dò mồ đổ đấu kiếm vạn tiền” trong đó “Nhân điểm chúc, quỷ xuy đăng” (Người thắp nến, ma thổi đèn). Đại ý là khi vào hầm mộ, phải thắp một ngọn nến ở phía đông nam, nếu nến tắt thì phải thoát ra ngay và không được lấy vật của người chết. Truyện ban đầu được đăng trên mạng Internet từ năm 2006, gây nên cơn sốt trên mạng và là tác phẩm đứng đầu 10 tiểu thuyết mạng được tìm kiếm nhiều nhất năm 2006. Sau đó truyện được xuất bản thành sách in. Sau Ma thổi đèn, trên mạng lẫn thị trường sách in đã xuất hiện cả một trào lưu sáng tác theo chủ đề “trộm mộ”. Ma thổi đèn gồm hai phần, mỗi phần bốn tập, mỗi tập là một cuộc phiêu lưu ly kỳ, rùng rợn của ba Mô kim hiệu úy – Người trộm mộ Hồ Bát Nhất, Tuyền béo, Shirley Dương. Ngoài những tình tiết dồn dập, Ma thổi đèn còn hấp dẫn ở những kiến thức phong thủy và huyền thuật được đan cài vào một cách vô cùng khéo léo. Năm 2008, Ma thổi đèn tiếp tục lọt vào danh sách 10 tác phẩm được người Trung Quốc tìm đọc nhiều nhất. Thiên Hạ Bá Xướng sau khi nhượng quyền thương hiệu Ma thổi đèn đã viết tiếp câu truyện về ba mô kim hiệu úy trong hệ liệt mới của mình tên Mô Kim Hiệu Úy. Cuốn đầu tiên trong bộ Mô Kim Hiệu Úy được viết vào năm 2015 tên Mô Kim Hiệu Úy – Cửu U Tướng Quân. Hiện tại Thiên Hạ Bá Xướng đã viết tới cuốn thứ hai là Mô Kim Hiệu Úy – Câu Thi Pháp Vương nhưng sau đó đã dừng lại. Một phần khác cũng của tác giả viết. Nội dung kể về những năm 60 của thế kỉ XX, Hồ Bát Nhất và Tuyền béo được phân công về tham gia sản xuất kiến thiết tại Hắc Long Giang, binh đoàn nông khẩn, nông trường số 17 của sư đoàn 3. Trung đội trưởng an bài ba người là Hồ Bát Nhất cùng Tuyền béo và nhân viên liên lạc trực ở lại để trông coi vật tư, còn mình thì dẫn theo những người khác rời khỏi nông trường. Mấy người ở lại trông coi nông trường, phát hiện củi gỗ trong nhà kho ngày càng ít. Thì ra là do một con hồ ly kiếm chuyện báo thù, lén lút lấy đi củi. Ít hôm sau, một trận bão tuyết trước giờ chưa từng thấy ập đến, mấy người dự tính bắt con hồ ly, chẳng ngờ gặp phải một đàn sói từ Siberia tới đang tán loạn chạy bão, vì chạy thoát thân nên đi theo con hồ ly chui vào một cái hang đất, vô tình phát hiện một cổ mộ từ thời nhà Liêu bị che giấu từ vạn năm trước. “Ma Thổi Đèn – Mục Dã Quỷ Sự” là tác phẩm Thiên Hạ Bá Xướng khổ tâm sáng tác trong vòng 4 năm, giải đáp toàn bộ những thắc mắc/mơ hồ trong “Ma Thổi Đèn”! Đây là một cuốn tiểu thuyết hỗn hợp hiện thực & hư cấu, trộm mộ & thám hiểm. Tác phẩm là nơi tác giả tập hợp những câu chuyện ly kỳ thú vị mà bản thân đã trải qua, tràn ngập màu sắc huyễn ảo, thể hiện giá trị văn hoá truyền thống bác đại tinh thâm cùng sức tưởng tượng vô cùng phong phú của tác giả. Năm 2011, nhà sách Kim Thành (Trung Quốc) đã xuất bản bộ Ma Thổi Đèn mới, dưới sự nhượng quyền của tác giả Thiên Hạ Bá Xướng, người viết là Ngự Định Lục Nhâm. Ngự Định Lục Nhâm là một nhóm tác giả viết văn, gồm sáu người. Do được phép của Thiên Hạ Bá Xướng mà nhóm Ngự Định Lục Nhâm đã viết ra bộ Ma Thổi Đèn mới dựa theo 8 cuốn đầu. Cuốn đầu tiên tên Ma Thổi Đèn – Thánh Tuyền Tầm Tung. Không chỉ dừng lại ở 1 cuốn, Ngự Định Lục Nhâm còn viết thêm:. Ông nội của Hồ Bát Nhất vốn xuât thân nhà giàu có sau vì ham mê thuốc phiện mà tán gia bại sản, đi theo quân phiệt một thời gian lại thua trận. Vì túng thiếu đánh liều đi trộm mộ lại tình cờ gặp được một vị đại sư phong thủy, trước khi chết truyền lại cho ông quyển “Thập Lục tự âm dương phong thuỷ bí thuật”, nhưng tiếc rằng sách chỉ có một nửa, nửa còn lại không biết ở đâu. Hồ Bát Nhất cùng với Vương Khải Tuyền (Tuyền béo) sinh ra trong thời loạn, ở Trung Quốc xảy ra chiến tranh, còn có Cách mạng Văn hóa. Thời đó, thanh niên có ba lựa chọn: nhập ngũ, ở lại thành phố làm công nhân hoặc lên vùng núi hoặc về quê lao động. Hai người Hồ Bát Nhất và Tuyền Béo đều là gia đình bị đấu tố, không có người chạy chọt nên bị điều lên vùng hẻo lánh lao động. Hồ Bát Nhất và Tuyền Béo chọn Nội Mông thay vì Thiểm Tây như các thanh niên khác, may mắn tuy nơi đó hẻo lánh nhưng cái ăn cái mặc vẫn đầy đủ. Ngôi làng họ ở gần với núi Tim Trâu ở khe Lạt Ma, nghe đồn gần đó có mộ của Thái Hậu nước Kim hoặc nước Liêu. Một lần, Điền Hiểu Manh vì muốn tìm thuốc chữa bệnh hen suyễn cho mẹ mà lạc vào rừng nguyên sinh, ba người Bát Nhất, Tuyền Béo và Yến Tử đi tìm gặp gấu người. Sau một hồi ác chiến họ trèo lên cây trốn và ngủ quên trên cây. Nửa đêm, Hồ Bát Nhất tỉnh lại đi tìm hai người kia, trong cơn mộng mị anh lạc vào một khung cảnh nửa mơ nửa thật, lầu son gác tía. Tại đó, anh gặp lại Điền Hiểu Manh và được mời vào xem kịch cổ. Nhận thấy nhiều điểm bất thường, Bát Nhất dẫn Điền Hiểu Manh rời khỏi đi lạc và bất tỉnh bên bờ suối. Sau đó, Hồ Bát Nhất được chú Trần, chỗ quen biết cũ của bố giúp đỡ, anh nhập ngũ. Cả hai bán băng cát xét kiếm tiền sống qua ngày. Lại một hôm, tình cờ gặp tên bán đồ cổ Răng Vàng, hắn rất thoải mái tán chuyện với hai người, còn tặng hai người bùa mô kim (bùa của những mô kim hiệu uý – những người đào mộ để trừ tà). Dòng đời xô đẩy, hai người quyết định dấn thân vào nghề đổ đấu (đào mộ), đầu tiên là quay về vùng hẻo lánh họ từng lao động ở đó, đi vào Hắc Phong Khẩu, Dã Nhân Câu, tại đây họ cùng với cô gái người địa phương dẫn đường đã phát hiện căn cứ cũ của quân Nhật, cùng với mộ cổ và xác sống rượt đuổi họ. Sau khi ra ngoài an toàn, Tuyền béo đem hai miếng ngọc mà anh nhặt được trong cổ mộ bán lại cho Răng Vàng, tuy không có giá trị nhiều nhưng nhận ra tài năng của hai người, Răng Vàng quyết định giới thiệu cả hai cho Shirley Dương – một Hoa kiều từ Mỹ, nhiếp ảnh gia của tạp chí National Geographic về đang tuyển người cho chuyến đi thám hiểm thành cổ Tinh Tuyệt ở Sa mạc Taklamakan cũng như tìm hiểu về sự mất tích bí ẩn của cha cô. Nhờ sự hiểu biết về phong thủy, phân kim định huyệt của Hồ Bát Nhất (Vốn dĩ anh giỏi vì anh được ông nội ) và miếng ngọc bội với những chữ Quỷ Động (Quỷ Động là một dân tộc thiểu số ở Tây Vực thời cổ đại, dân tộc này đã diệt vong từ lâu, trong thư tịch cổ khai quật ở Đôn Hoàng có ghi chép, nữ vương nước Tinh Tuyệt chính là người tộc Quỷ Động, mười chữ Quỷ Động trên miếng ngọc này rốt cuộc có ý nghĩa gì, thì còn cần khảo chứng thêm mới biết được) của Tuyền béo mà họ tham gia đoàn thám hiểm bên cạnh các nhà khảo cổ nổi tiếng như giáo sư Trần – chuyên gia về lịch sử Tây Vực, Hách Ái Quốc, và các học trò của giáo sư Trần như Tát Đế Bằng, Sử Kiên và Diệp Diệc Tâm. Thù lao của chuyến đi cũng rất hấp dẫn: 10.000 USD và thêm 10.000 USD nữa nếu tìm được thành cổ Tinh Tuyệt. Trên đường đến Sa mạc Taklamakan, Shirley Dương đột ngột thay đổi quyết định muốn cả đoàn đi về sông băng Côn Luân vì trước khi bố cô mất tích có đến đây để tìm quyển số ghi chép của nhà thám hiểm người Anh Walt – người vào thế kỷ 19 đã có cơ may được đến thành cổ Tinh Tuyệt. Hồ Bát Nhất nhớ lại có lần đơn vị đóng quân ở đây đã gặp nhiều chuyện kỳ là về một loại bọ lửa có khả năng thiêu cháy người khác nên do dự không muốn cả đoàn đi. Sau cùng, Shirley Dương thuyết phục anh thành công. Tại một khe nứt do tuyết lở, đoàn thám hiểm tìm thấy một con đường dẫn đến một khu huyệt mộ cũ treo rất nhiều xác người trên chín tầng yêu tháp (đây là cách an táng cổ), họ đã tìm thấy được quyển số ghi chép của nhà thám hiểm Walt cũng như chạy thoát được bầy bọ lửa nguy hiểm. Có được quyển sổ ghi chép, đoàn thám hiểm tiếp tục hành trình đến Sa mạc Taklamakan. Tại Tân Cương, cả đoàn quyết định nhờ ông già Anliman – một người rất rành đường để dẫn đường vào Sa mạc Taklamakan. Ông Anliman bảo mọi người, mùa này là lúc nguy hiểm nhất trong sa mạc, đường đầu tiên từ hồ Bostan đến di tích Thành Tây Dạ, có sa mạc và có cả hoang mạc, cũng may có sông Khổng Tước cổ nối liền, nên không khó nhận ra, nhưng muốn đi sâu nữa, liệu có tìm thấy sông ngầm Từ Độc hay không, còn phải xem xem ý của Hutai (ông trời) thế nào. Cả đoàn lên đường, trong chuyến đi, họ gặp một trận bão cát sa mạc, may mắn là họ tìm được di tích của một tòa thành cổ cỡ nhỏ trú ẩn. Trong tòa thành này, họ phát hiện một tượng đá mắt to. Trong lúc đoàn khảo cổ trong lúc đang nghiên cứu bức tượng thì đánh động đến bầy kiến lửa sa mạc. Số lượng lũ kiến lửa sa mạc trong thành này đâu chỉ triệu con, dường như cả tòa thành cổ là một tổ kiến khổng lồ. Trong miệng kiến lửa sa mạc có rất nhiều axit sinh học, hàng ngàn hàng vạn con cùng xông lên gặm nhấm, sau khi lũ kiến đi qua, chỉ còn trơ lại một đống xương trắng nhưng rất may cả đoàn khảo cổ đều chạy thoát. Họ đi tiếp khoảng nửa ngày đường thì đến di tích thành cổ Tây Dạ theo như bản đồ của nhà thám hiểm Walt ghi lại. Tại đây cả đoàn dự trữ nước từ giếng cổ và Hồ Bát Nhất phát hiện được dưới giếng có thể có mộ cổ nên cả đoàn quyết định xuống thám hiểm. Giáo sư Trần nhận định đây là mộ hợp táng của hai vợ chồng vương tử nước Cô Mặc, chứng tỏ đã đến rất gần nước Tinh Tuyệt. Trong cuốn sổ ghi rằng, sau khi rời khỏi thành Tây Dạ, các nhà thám hiểm đã phát hiện ra một nơi gần đó có rất nhiều mộ đá, họ định sau khi quay trở lại sẽ tiến hành khai quật, cho nên trong cuốn sổ có vẽ tỉ mỉ đường đi. Đoàn khảo cổ tiến vào sa mạc đen, sau mười mấy ngày đi theo bản đồ trong cuốn sổ, họ đã đến hai ngọn núi Zhaklama, loại đá ở hai ngọn núi này chứa sắt từ, hàm lượng bình quân tuy không cao, nhưng đủ để ảnh hưởng đến các thứ máy móc định vị phương hướng chính xác. Lúc này cả đoàn đang thiếu nước trầm trọng, Diệp Diệc Tâm đang hôn mê do thiếu nước. Cả đoàn phát hiện sáu xác chết nằm la liệt, dưới đất còn vung vãi mấy thanh AK-47 và vài cái ba lô. Hách Ái Quốc đến một cái xác định tìm xem còn nước không cho Diệp Diệc Tâm uống thì không may bị một con rắn quái dị, lớp vảy trên mình lấp lánh, đầu có một cái bướu màu đen cắn chết. Hồ Bát Nhất thì may mắn nhờ đèn flash máy ảnh của Shirley Dương làm lóa mắt con rắn nên thoát chết. Đến sáng thì cả đoàn rời khỏi hẻm núi Zhaklama. Cả đoàn chôn cất Hách Ái Quốc và tiến vào thành cổ Tinh Tuyệt, ông già Anliman quyết định không vào mà đợi cả đoàn ở ngoài thành. Quy mô của thành Tinh Tuyệt đủ có thể cho năm sáu vạn người cư ngụ. Tòa thành này nhìn chung đã bị hủy hoại gần hết, vùi trong cát không dưới ngàn năm, một số chỗ rất khó phân rõ là đồi cát hay thành lũy, đại đa số lầu tháp đều đã bị phong hóa sụt đổ. Cả đoàn tìm đường tiến lên giữa đống phế tích, gặp chỗ nào sụt lở thì vòng đường mà đi mới đến được trung tâm thành cổ. Dựa vào sự hiểu biết về phong thủy của Hồ Bát Nhất và kiến thức của giáo sư Trần, cả đoàn nghĩ rằng hoàng cung và cổ mộ đều nằm cả dưới lòng đất trong thành, nhưng không phải là chụm vào một chỗ, có khả năng là phân làm hai, ba tầng, tầng trên mặt đất này là thành lũy, tầng dưới đất là hoàng cung, sau hơn nữa mới là lăng tẩm của nữ vương Tinh Tuyệt. Họ đi tìm khắp trong thành, cuối cùng phát hiện trong thành có một kiến trúc bằng đá cao hơn so với những gian nhà thông thường nên đào cát ra tiến vào. Dưới đất chỗ sâu nhất trong đền có thờ một hình con mắt bằng ngọc, trong ngọc còn có những vằn đỏ hình thành tự nhiên, tròng mặt màu lam. Shirley Dương phát hiện ra trên con mắt ngọc còn có một cái rãnh, hình dạng kì quặc, nhưng lại rất khớp với miếng ngọc bội của Tuyền béo. Tuyền béo lấy miếng ngọc bội trong người ra nhét miếng ngọc bội vào cái rãnh trên con mắt ngọc thạch thì thấy vừa khít. Trong lúc quan sát, Hồ Bát Nhất vô tình làm vỡ con mắt bằng ngọc đánh động đến lũ rắn bướu màu đen. Nhớ lại lũ rắn này sợ ánh sáng, cả đoàn liền châm lửa đốt. Sau đó chia nhau ra quan sát các cây cột trong thần điện, mười sáu cây cột đá mỗi cột đều có vẽ sáu con mắt, bệ cột hình lục giác, có năm cạnh khắc nhưng phù điêu nhỏ khác nhau, lần lượt là hình quỷ đói, đầu dê, người hổ, người mắt to, thú hộ vệ, cạnh còn lại để trống. Hồ Bát Nhất thấy kiểu bố trí này giống như trận pháp “Thấu địa thập lục long” mà mình từng đọc trong sách.
Ma thổi đèn
Ma thổi đèn (tiếng Trung: 鬼吹灯; bính âm: Guǐ Chuī Dēng, Hán-Việt: Quỷ xuy đăng) là một bộ truyện nhiều tập của Trung Quốc do tác giả Thiên Hạ Bá Xướng (Trương Mục Dã) viết. Tên truyện "Ma thổi đèn" xuất phát từ "Bùa mô kim, ấn quật mộ, dỡ núi dời non tìm quyết chú. Nhân điểm chúc, quỷ xuy đăng, dò mồ đổ đấu kiếm vạn tiền" trong đó "Nhân điểm chúc, quỷ xuy đăng" (Người thắp nến, ma thổi đèn). Đại ý là khi vào hầm mộ, phải thắp một ngọn nến ở phía đông nam, nếu nến tắt thì phải thoát ra ngay và không được lấy vật của người chết. Truyện ban đầu được đăng trên mạng Internet từ năm 2006, gây nên cơn sốt trên mạng và là tác phẩm đứng đầu 10 tiểu thuyết mạng được tìm kiếm nhiều nhất năm 2006. Sau đó truyện được xuất bản thành sách in. Sau Ma thổi đèn, trên mạng lẫn thị trường sách in đã xuất hiện cả một trào lưu sáng tác theo chủ đề "trộm mộ". Ma thổi đèn gồm hai phần, mỗi phần bốn tập, mỗi tập là một cuộc phiêu lưu ly kỳ, rùng rợn của ba Mô kim hiệu úy - Người trộm mộ Hồ Bát Nhất, Tuyền béo, Shirley Dương.
Trong quá trình học tiếng anh, chúng ta đã tiếp xúc với rất nhiều các chủ đề khác nhau với vô vàn các từ vựng mới và chủ đề về các món ăn cũng vậy. Đây là một chủ đề rất thú vị bởi nó có đến hàng ngàn từ vựng khác nhau về các thể loại món ăn. “Trứng ốp la” là một món cực kỳ phổ biến và có mặt ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Vậy “ Trứng ốp la” trong Tiếng Anh là gì? Theo dõi ngay bài viết dưới đây để biết về tên gọi của món ăn này nhé. Loại trứng này được làm bằng cách đập thẳng trứng vào chảo nhưng chỉ chiên một mặt, lòng đỏ vẫn còn lỏng nước, một phần lòng trắng bên ở mặt bên trên quả trứng bao quanh lòng đỏ cũng vẫn còn trong thể lỏng. Trứng ốp la này bao gồm cả Sunny side up, được lật qua lật lại hai mặt để chiên tiếp, lòng đỏ vẫn còn trong thể lỏng, nhưng lòng trắng cả hai mặt đều chiên đặc lại. Trong phần này, thông tin về Fried Egg - Trứng ốp la được chia thành ba phần chính là phát âm, nghĩa tiếng anh và nghĩa tiếng việt. Nghĩa tiếng việt: Trứng ốp la là một món ăn nấu chín được làm từ một hoặc nhiều quả trứng được lấy ra khỏi vỏ và cho vào chảo rán và rán với ít phụ liệu đi kèm. Trứng ốp theo truyền thống được ăn vào bữa sáng ở nhiều quốc gia nhưng cũng có thể được phục vụ vào các thời điểm khác trong ngày. Dưới đây là những ví dụ về cách dùng từ “ Trứng ốp la” trong các câu ví dụ tiếng anh. Thay vì trứng bác ăn liền, trứng ốp la đông lạnh, trứng đóng hộp và nhiều loại thực phẩm trứng tiện lợi khác đang được thử nghiệm trên thị trường. Để có món trứng ốp la ngon, hãy quét một lớp dầu hoặc nước xịt chống dính lên chảo chống dính. Bạn sẽ nhận được các cạnh giòn mà không có nhiều chất béo. Cô ấy gây sự chú ý bằng cách đi tất kỳ quặc, xuất hiện trong bộ phim tại nhà của một người bạn với một quả trứng rán ốp la trên bụng. Bánh mì đầy đủ bao gồm bánh mì nhồi pate, thịt lợn, thịt gà, cà rốt ngâm chua, củ kiệu, dưa chuột và ngò, phủ một lớp trứng chiên, sốt nóng và sốt mayonnaise. Những đốm lửa nhỏ, những quả trứng ốp la đang đập vào mắt, là món ăn kèm cho bữa sáng tuyệt vời. Trong bữa sáng của gia đình tôi, mẹ tôi thường làm món trứng rán cho cả nhà vì nó tốt cho sức khỏe và rất giàu protein. Một chiếc bánh mì với trứng chiên là đủ cho một buổi sáng học tập và làm việc. Như tôi được biết, Một quả trứng rán chứa khoảng 100 calo - tương đương với mức bạn sẽ đốt cháy nếu bạn chạy một dặm. Chúng mình đã tổng hợp lại một số từ vựng liên quan đến các loại trứng ốp la ngay trong bảng dưới đây, các bạn cùng theo dõi nhé. Trên đây là những kiến thức chúng mình chia sẻ về từ vựng cực kỳ hấp dẫn mang tên “Trứng ốp la”, cùng những tổng hợp về vốn từ với các món trứng khác nhau. Chúng mình hy vọng bạn đọc có thể hiểu rõ và mở rộng vốn từ hơn về các món trứng. Chúc các bạn đọc thành công trên con đường chinh phục Tiếng Anh!
Trứng ốp la
Trứng ốp la, tức là trứng rán/chiên để nguyên lòng đỏ (phiên âm tiếng Pháp "Oeufs au plat" hoặc Œuf au plat) là một món thức ăn làm từ trứng gà bằng phương pháp chiên nhanh qua chảo dầu, trứng chiên có tròng đỏ còn trong thể lỏng nằm giữa tròng trắng (lòng đào), khác với trứng ốp lết là trứng đánh lên cho tròng đỏ và tròng trắng lẫn vào với nhau rồi đổ vào chảo chiên. Khi cách thức chiên trứng này du nhập Việt Nam dưới thời Pháp thuộc thì người Việt một thời gọi đó là món "trứng tam tinh". Sau danh từ ốp la được dùng phiên âm thẳng từ tiếng Pháp. Cách chế biến trứng ốp la khá đơn giản và thuận tiện, dễ làm. Trứng ốp la ăn kèm với bánh mì và sữa là đồ ăn sáng phổ biến tại nhiều gia đình trên thế giới cũng như tại các cửa hàng, quán ăn phục vụ cho bữa ăn sáng. Về phương pháp chế biến, trước tiên đặt chảo dầu nóng vừa đủ. Dầu sôi thì có thể bỏ hành củ vào phi thơm rồi đập trứng lên trên chỗ hành đó. Rắc muối, tiêu, hành lá sao cho đẹp và đều.
Hoàng Xuân Vinh (sinh 6 tháng 10 năm 1974 tại Sơn Tây, Hà Nội) là một vận động viên bắn súng của Việt Nam. Nhờ thành tích huy chương vàng ở nội dung 10m súng ngắn hơi nam tại Thế vận hội Mùa hè 2016, anh trở thành vận động viên thể thao Việt Nam đầu tiên và duy nhất tính đến nay giành được huy chương vàng tại đấu trường Thế vận hội. Từ SEA Games 21 cho đến SEA Games 26, không một kỳ SEA Games nào anh không đoạt huy chương. Tại Thế vận hội Mùa hè 2016 tổ chức tại Rio de Janeiro, Brasil, anh là người mang về tấm huy chương vàng đầu tiên cho đoàn thể thao Việt Nam tại một kỳ Thế vận hội với nội dung 10m súng ngắn hơi nam với tổng điểm 202,5 điểm,thiết lập kỷ lục Olympic mới và cũng là kỷ lục đầu tiên cho nội dung 10m súng ngắn hơi nam (nội dung này trước đó chưa có kỷ lục được thiết lập vì Liên đoàn bắn súng quốc tế (ISSF) áp dụng thể thức mới từ năm 2013).Ở nội dung 50m súng ngắn, Hoàng Xuân Vinh cũng giành vé vào loạt bắn chung kết và đạt huy chương bạc với thành tích 191.3 điểm. Do có những thành tích đóng góp vào sự nghiệp thể thao nước nhà, anh được phong cấp bậc quân hàm đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam. Hoàng Xuân Vinh (sinh 6 tháng 10 năm 1974 tại thị xã Sơn Tây, Hà Nội) là một vận động viên bắn súng của Việt Nam. Nhờ thành tích huy chương vàng ở nội dung 10m súng ngắn hơi nam tại Thế vận hội Mùa hè 2016, anh trở thành vận động viên thể thao Việt Nam đầu tiên và duy nhất tính đến nay giành được huy chương vàng tại đấu trường Thế vận hội. Từ SEA Games 21 cho đến SEA Games 28, không một kỳ SEA Games nào anh không đoạt huy chương. Trong kỳ Thế vận hội Mùa hè 2012 tổ chức tại Luân Đôn, tại nội dung 10m súng ngắn hơi nam, anh về thứ 9 còn tại nội dung 50m súng ngắn nam tự chọn, anh lại đáng tiếc để mất huy chương đồng với 0,1 điểm trước người giành Huy chương đồng Olympic nội dung này là Vương Trí Vĩ và chấp nhận đứng vị trí thứ 4. Nhưng ngay sau đó, vào cuối năm 2012, anh vô địch châu Á. Và đến đầu năm 2013, anh vô địch thế giới, đều ở nội dung 10m súng ngắn hơi. Vì hai lần liên tiếp giành chức vô địch đấu trường châu lục và thế giới nên anh là người đầu tiên đã đem về những chức vô địch thế giới và châu Á đầu tiên cho các xạ thủ bắn súng của Việt Nam. Tại Thế vận hội Mùa hè 2016 tổ chức tại Rio de Janeiro, Brasil, anh là người mang về tấm huy chương vàng đầu tiên cho đoàn thể thao Việt Nam tại một kỳ Thế vận hội với nội dung 10m súng ngắn hơi nam với tổng điểm 202,5 điểm, thiết lập kỷ lục Olympic mới và cũng là kỷ lục đầu tiên cho nội dung 10m súng ngắn hơi nam (nội dung này trước đó chưa có kỷ lục được thiết lập vì Liên đoàn bắn súng quốc tế (ISSF) áp dụng thể thức mới từ năm 2013). Ở nội dung 50m súng ngắn, Hoàng Xuân Vinh cũng giành vé vào loạt bắn chung kết và đạt huy chương bạc với thành tích 191.3 điểm. Hoàng Xuân Vinh được bình chọn là "Vận động viên tiêu biểu" năm 2016 của thể thao Việt Nam. Do có những thành tích đóng góp vào sự nghiệp thể thao nước nhà, anh được phong cấp bậc quân hàm đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ SEA Games 21 cho đến SEA Games 26, không một kỳ SEA Games nào anh không đoạt huy chương. Tại Thế vận hội Mùa hè 2016 tổ chức tại Rio de Janeiro, Brasil, anh là người mang về tấm huy chương vàng đầu tiên cho đoàn thể thao Việt Nam tại một kỳ Thế vận hội với nội dung 10m súng ngắn hơi nam với tổng điểm 202,5 điểm,thiết lập kỷ lục Olympic mới và cũng là kỷ lục đầu tiên cho nội dung 10m súng ngắn hơi nam (nội dung này trước đó chưa có kỷ lục được thiết lập vì Liên đoàn bắn súng quốc tế (ISSF) áp dụng thể thức mới từ năm 2013).Ở nội dung 50m súng ngắn, Hoàng Xuân Vinh cũng giành vé vào loạt bắn chung kết và đạt huy chương bạc với thành tích 191.3 điểm. Do có những thành tích đóng góp vào sự nghiệp thể thao nước nhà, anh được phong cấp bậc quân hàm đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam. Hoàng Xuân Vinh (sinh 6 tháng 10 năm 1974 tại thị xã Sơn Tây, Hà Nội) là một vận động viên bắn súng của Việt Nam. Nhờ thành tích huy chương vàng ở nội dung 10m súng ngắn hơi nam tại Thế vận hội Mùa hè 2016, anh trở thành vận động viên thể thao Việt Nam đầu tiên và duy nhất tính đến nay giành được huy chương vàng tại đấu trường Thế vận hội. Từ SEA Games 21 cho đến SEA Games 28, không một kỳ SEA Games nào anh không đoạt huy chương. Trong kỳ Thế vận hội Mùa hè 2012 tổ chức tại Luân Đôn, tại nội dung 10m súng ngắn hơi nam, anh về thứ 9 còn tại nội dung 50m súng ngắn nam tự chọn, anh lại đáng tiếc để mất huy chương đồng với 0,1 điểm trước người giành Huy chương đồng Olympic nội dung này là Vương Trí Vĩ và chấp nhận đứng vị trí thứ 4. Nhưng ngay sau đó, vào cuối năm 2012, anh vô địch châu Á. Và đến đầu năm 2013, anh vô địch thế giới, đều ở nội dung 10m súng ngắn hơi. Vì hai lần liên tiếp giành chức vô địch đấu trường châu lục và thế giới nên anh là người đầu tiên đã đem về những chức vô địch thế giới và châu Á đầu tiên cho các xạ thủ bắn súng của Việt Nam. Tại Thế vận hội Mùa hè 2016 tổ chức tại Rio de Janeiro, Brasil, anh là người mang về tấm huy chương vàng đầu tiên cho đoàn thể thao Việt Nam tại một kỳ Thế vận hội với nội dung 10m súng ngắn hơi nam với tổng điểm 202,5 điểm, thiết lập kỷ lục Olympic mới và cũng là kỷ lục đầu tiên cho nội dung 10m súng ngắn hơi nam (nội dung này trước đó chưa có kỷ lục được thiết lập vì Liên đoàn bắn súng quốc tế (ISSF) áp dụng thể thức mới từ năm 2013). Ở nội dung 50m súng ngắn, Hoàng Xuân Vinh cũng giành vé vào loạt bắn chung kết và đạt huy chương bạc với thành tích 191.3 điểm. Hoàng Xuân Vinh được bình chọn là "Vận động viên tiêu biểu" năm 2016 của thể thao Việt Nam. Do có những thành tích đóng góp vào sự nghiệp thể thao nước nhà, anh được phong cấp bậc quân hàm đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam.
Hoàng Xuân Vinh
Hoàng Xuân Vinh (sinh 6 tháng 10 năm 1974 tại thị xã Sơn Tây, Hà Nội) là một vận động viên bắn súng của Việt Nam. Nhờ thành tích huy chương vàng ở nội dung 10m súng ngắn hơi nam tại Thế vận hội Mùa hè 2016, anh trở thành vận động viên thể thao Việt Nam đầu tiên và duy nhất tính đến nay giành được huy chương vàng tại đấu trường Thế vận hội. Từ SEA Games 21 cho đến SEA Games 28, không một kỳ SEA Games nào anh không đoạt huy chương. Trong kỳ Thế vận hội Mùa hè 2012 tổ chức tại Luân Đôn, tại nội dung 10m súng ngắn hơi nam, anh về thứ 9 còn tại nội dung 50m súng ngắn nam tự chọn, anh lại đáng tiếc để mất huy chương đồng với 0,1 điểm trước người giành Huy chương đồng Olympic nội dung này là Vương Trí Vĩ và chấp nhận đứng vị trí thứ 4. Nhưng ngay sau đó, vào cuối năm 2012, anh vô địch châu Á. Và đến đầu năm 2013, anh vô địch thế giới, đều ở nội dung 10m súng ngắn hơi. Vì hai lần liên tiếp giành chức vô địch đấu trường châu lục và thế giới nên anh là người đầu tiên đã đem về những chức vô địch thế giới và châu Á đầu tiên cho các xạ thủ bắn súng của Việt Nam.
Kẻ mắt đang dần trở thành một bước make up cần thiết giúp cho đôi mắt của bạn được “nhấn nhá” và sắc nét hơn. Tuy nhiên trên thị trường lại có vô vàn kiểu dáng, mẫu mã khiến bạn thật sự choáng ngợp. Vậy làm sao để lựa chọn và sử dụng các loại kẻ mắt đó? Cùng BlogAnChoi tìm hiểu tất tần tần về “thế giới kẻ mắt” nhé. Khái niệm “Eyeliner” chắc hẳn đã không còn quá xa lạ với các cô nàng yêu thích việc trang điểm nữa. Eyeliner chính là một loại dụng cụ make up dùng để vẽ đường viền dọc theo mi mắt của chúng ta. Đường kẻ mắt có thể dày hoặc mỏng tùy theo sở thích và phong cách trang điểm của mỗi người. Những đường kẻ mắt đậm, dày sẽ trông đôi mắt của bạn sắc nét và to hơn. Đường kẻ mắt mỏng thể hiện sự tự nhiên nhưng không kém phần “nhấn nhá” giúp cho đôi mắt của bạn trong thu hút đối phương hơn. Mặc dù xu hướng kẻ mắt đang dần trở nên phổ biến và quen thuộc với mọi cô gái, nhưng việc phân biệt và lựa chọn một sản phẩm thích hợp với mình là điều không hề dễ dàng. Dưới đây là 7 dạng Eyeliner mà bạn có thể tham khảo. Nếu bạn là cô gái đang từng bước làm quen với việc kẻ mắt thì kẻ mắt dạng bút chì chính là sản phẩm bạn nghĩ đến đầu tiên đấy. Loại kẻ mắt này ngoài việc giúp bạn dễ dàng luyện tập và làm quen với các bước, các kiểu kẻ mắt thường thấy, bút chì kẻ mắt còn rất dễ dàng dàng tìm mua với mức giá vô cùng phải chăng của nhiều hãng bình dân nữa đấy. Loại bút chì kẻ mắt này khá phổ biến trong việc trang điểm, lí do đơn giản nó rất dễ sử dụng. Tuy nhiên bạn cũng phải lưu lý một số hạn chế khi sử dụng em này vì có thể chúng sẽ làm tổn thương vùng da mắt của bạn nếu như bạn không hiểu rõ cách sử dụng. Cần gọt đầu chì trước khi sử dụng, không nên gọt chì quá nhọn vì khi vẽ lên mắt sẽ làm tổn thương vùng da quanh mí mắt của bạn. VACOSI là thương hiệu mỹ phẩm nội địa Hàn Quốc được rất nhiều cô gái Châu Á yêu thích bởi các dòng sản phẩm chất lượng. Ra mắt được hơn 6 năm, VACOSI luôn tạo ra sự khác biệt trên thị trường làm đẹp vô cùng khốc liệt, song song với đó là việc không ngừng cải tiến, cập nhật xu hướng mới nhất trên toàn cầu để đáp ứng nhu cầu của khách hàng hiện đại, kể cả những chuyên gia trang điểm “khó tính” nhất. Vacosi Eyeliner Pencil được thiết kế dạng bút kẻ 2 đầu, 1 đầu chì và 1 đầu là mút nhọn dùng để tán khi bạn muốn làm mắt khói cá tính. Chứa các thành phần tự nhiên lành tính nên vô cùng an toàn với những bạn vùng da mắt nhạy cảm. Missha là một trong những nhãn hiệu mỹ phẩm bình dân hàng đầu tại Hàn Quốc thuộc công ty TNHH Able C&C với trụ sở được đặt tại Seoul. Hãng mỹ phẩm drugstore này đã được xây dựng trên triết lý: “Sản phẩm phải chất lượng nhưng giá cả phải hợp lý” và chưa bao giờ làm người dùng thất vọng. Năm 2015, Missha đã chính thức có mặt tại Việt Nam với các hệ thống phủ rộng từ miền Nam ra miền Bắc. Tính đến nay, Missha đã cho ra đời các dòng sản phẩm chăm sóc da và trang điểm đáp ứng tất tần tật nhu cầu làm đẹp của mọi cô gái. Lại là một dạng bút kẻ mắt phù hợp cho các cô nàng mới vừa tập tành kẻ mắt. Khác với dạng bút kẻ mắt bằng chì có khá nhiều khuyết điểm thì kẻ mặt dạng nước lại thân thuộc với các chị em phụ nữ hơn. Với lợi thế là những đầu cọ vẽ siêu mãnh khiến cho dòng eyeliner này được ưu tiên lựa chọn rất nhiều bởi độ tiện dụng của nó. Tuy nhiên, những loại bút này thường khả năng chống nước và mô hôi không quá tốt, vậy nên nếu mắt bạn là mắt ướt thì hãy dùng loại chống thấm nước. Cần sự tỉ mỉ và độ chính xác cao để có được đường vẻ đẹp. Là một thương hiệu mỹ phẩm chất lượng đến từ New York, Maybelline đã “phục “vụ” cho hàng triệu cô gái trên thế giới bởi những sản phẩm make up thời thượng và hữu ích. Có mặt tại thị trường Việt Nam từ năm 2007 hãng mỹ phẩm lừng danh này đã và đang tiếp tục giữ vị trí số 1 ở dòng sản phẩm Mascara và là thương hiệu hàng đầu ở dòng sản phẩm trang điểm dành cho Mặt và Môi. Nếu nhắc đến mascara, Maybelline là thương hiệu đầu tiên mà bạn nghĩ đến thì chắc chắn Eyeliner chính là “người đồng hành” không thể thiếu giúp cho đôi mắt của bạn thêm sắc nét và quyến rũ hơn. Nằm trong “series” kẻ mắt nước Hyper Sharp cực hot, Maybelline đã làm hài lòng mọi cô gái bằng sản phẩm “cực chất” của mình. Maybelline Hyper Sharp Liner là 1 trong 3 bút kẻ mắt nước của hãng mà nhiều cô gái ưu chuộng và tin dùng bởi đường nét sắc mảnh và huyền bí. Đầu cọ sắc nét chỉ 0.01mm, cực kì linh hoạt để vẽ mắt từ nét mỏng đến dày theo mong muốn của bạn. Chứa các thành phần lành tính, an toàn cho những vùng da mắt nhạy cảm. Innisfree là một thương hiệu mỹ phẩm nội địa được thành lập từ năm 2000 tại Hàn Quốc bởi tập đoàn AmorePacific – một trong những tập đoàn lớn nhất trong nền công ngiệp mỹ phẩm thế giới. Innisfree được biết đến là thương hiệu mỹ phẩm được sản xuất bởi những thành phần hoàn toàn từ tự nhiên đầu tiên tại Hàn Quốc. Với nhiều năm kinh nghiệm cũng như luôn “làm mới” mình, Innisfree đã vươn tầm ra khỏi giới hạn của mình để có thể sánh vai với các thương hiệu mỹ phẩm cao cấp khác như Mamonde, Laneige, The Face Shop, …. Innisfree Powerproof Brush Liner có thể nói là “vị cứu tinh” của các cô gái khi đôi mắt không được đẹp và quyến rũ. Chỉ cần kẻ một đường đơn giản, mắt bạn đã có thể trở nên “tỉnh táo”, sắc sảo hơn nhờ sản phẩm best seller suốt nhiều năm qua của Innsfree đấy. Đầu cọ nhọn, màu lên chuẩn nên sẽ cho bạn một đường kẻ mắt vừa ý. Thành phần lành tính, an toàn với những bạn có vùng da mắt nhạy cảm. Khi kẻ xong thì mực của sản phẩm không gây bóng cho mắt làm cho mắt có cái nhìn tự nhiên. Những cô nàng có “hoa tay” trong việc kẻ mắt chắc chắn đều đã từng dùng qua eyeliner dạng gel nổi tiếng này. Bạn có thể vẽ thành nhiều hình dáng chính xác theo phong cách riêng của mình. Thậm chí những kiểu vẽ mắt khó nhằn nhất cũng có thể được “tạo ra” từ hủ gel kẻ mắt “thần thánh” này đấy. Hiện nay thì kẻ mắt dạng gel đang rất được ưa chuộng vì nó cho ra những nét kẻ mảnh, thích hợp với phong cách trang điểm tự nhiên và tối giản đang thịnh hành. Ngoài ra bạn có thể điều chỉnh độ dày của đường kẻ theo sở thích cá nhân của mình chỉ qua vài đường kẻ. Kẻ được cả những đường siêu mảnh, siêu dày tuỳ theo “hoa tay” của mỗi bạn. Đặc biệt phù hợp với kiểu kẻ mắt mèo có độ dài đuôi mắt dài ngắn tuỳ ý. Sử dụng thêm nhiều loại cọ phù hợp để vẽ được nhiều hình dáng khác nhau. Hãng cam kết chỉ dùng những nguyên liệu tự nhiên để chiết xuất ra các dòng mỹ phẩm, vậy nên mọi cô gái đều có thể an tâm khi dùng sản phẩm của Tonymoly. Ngoài các dòng son, mascara, kem dưỡng da vô cùng nổi tiếng, Tonymoly còn được yêu thích với gel kẻ mắt Tonymoly Backstage Gel Eyeliner thời thượng. Đầu cọ nằm ở bên trong thân của lọ gel kẻ mắt nên rất dễ lấy và dễ sử dụng vô cùng tiện lợi. Đầu cọ không quá cứng, cũng không quá mềm, kích thước vừa phải nên rất dễ sử dụng mà không sợ nét vẽ không được theo ý muốn. Thương hiệu Maybelline là thương hiệu mỹ phẩm nổi tiếng đến từ nước Mỹ. Các sản phẩm maybelline luôn hướng tới đối tượng khách hàng bình dân cùng chất lượng được đảm bảo về độ lành tính. Maybelline được ra mắt lần đầu tiên tại Mỹ với sản phẩm mascara “huyền thoại”, ngay lập tức đã tạo nên một “cơn sốt” trong giới mỹ phẩm. Không dừng lại ở đó, các dòng Eyeliner của hãng cũng liên tục gây được tiếng vang lớn trên các diễn đàn làm đẹp nhờ sự đa dạng về mẫu mã, công dụng nhưng vẫn làm hài lòng mọi cô gái trên thế giới. Có thể sử dụng dễ dàng như chì kẻ viền và không sợ lem màu khi chệch tay. Nếu bạn lo sợ những loại kẻ mắt thường bị lên màu không chuẩn, hoặc nét vẽ dễ bị đứt khoảng, chỗ đậm nhạt vì bạn chưa thật sự “cứng cáp” trong việc kẻ mắt thì bút kẻ mắt dạng gel vặn sẽ vô cùng “an toàn” để bạn sử dụng đấy. Không cần phải chuốt đầu sáp như dạng chì thông thường, kẻ mắt dạng sáp vặn này sẽ cho đôi mắt bạn thêm thu hút và sắc sảo. Chất gel mượt nên vô cùng dễ vẽ, cũng thích hợp cho những bạn mới tập kẻ mắt. Nét kẻ thường dày vì đầu bút cố định, không thể chuốt nhọn như dạng chì. Ngày nay, những hãng mỹ phẩm High End nổi tiếng trên thế giới không ngừng cho ra đời các sản phẩm chất lượng để phục vụ cho nhu cầu làm đẹp của chị em phụ nữ, trong đó không thể thiếu Marc Jacobs – một thương hiệu đến từ Mỹ, nơi sản sinh ra của nhiều thương hiệu mỹ phẩm hàng đầu thế giới. Là một thương hiệu “đang lên” tại thị trường Việt Nam với các sản phẩm trang điểm bình dân, Vacosi là một thương hiệu đang dần trở nên quen thuộc với nhiều cô gái Việt Nam. Với hơn 6 năm đồng hành cùng các tín đồ làm đẹp tại Hàn Quốc và nhiều quốc gia khác, Vacosi đã cho ra đời rất nhiều dòng sản phẩm đáp ứng mọi nhu cầu của chị em phụ nữ.
Bút kẻ mắt
Bút kẻ mắt là một loại mỹ phẩm được sử dụng để định hình đôi mắt. Nó dùng để tô vẽ trên đường viền mắt nhằm tạo ra một loạt hiệu ứng thẩm mỹ. Bút kẻ mắt lần đầu tiên được sử dụng vào thời Ai Cập cổ đại và Lưỡng Hà để vẽ đường đen sẫm quanh mắt. Ngay từ năm 10.000 TCN, người Ai Cập đã dùng mỹ phẩm đa dạng không chỉ vì tính thẩm mỹ mà còn để bảo vệ da khỏi ánh nắng mặt trời trên sa mạc. Nghiên cứu cũng đã suy đoán rằng bút kẻ mắt được tô vẽ để bảo vệ người vẽ mắt khỏi ánh mắt ác quỷ. Đặc trưng về đôi mắt kẻ đậm thường xuyên được mô tả trong nghệ thuật Ai Cập cổ đại. Họ chế tạo bút kẻ mắt với nhiều loại vật liệu, bao gồm quặng đồng và antimon. Phấn kohl thời Ai Cập cổ đại chứa galena, được nhập khẩu từ các vùng lân cận như xứ Punt, Coptos và Tây Á. Thời kỳ pharaoh Seti I, cũng như tất cả đàn ông thuộc tầng lớp thượng lưu bấy giờ kẻ viền mắt màu đen bằng mực để bảo vệ mắt khỏi ánh nắng khi phải hoạt động ngoài trời.
Tên đầy đủ của công trình này là Vương cung Thánh đường Tông Tòa Thánh Phêrô, nhưng đôi khi được gọi tắt là Đền thờ Thánh Phêrô hoặc Nhà thờ Thánh Phêrô). Thánh đường này được Donato Bramante, Michelangelo, Carlo Maderno và Gian Lorenzo Bernini, thiết kế, đây là kiệt tác nổi tiếng nhất của kiến trúc Phục Hưng và là một trong những nhà thờ lớn nhất trên thế giới. Tuy nó không phải là nhà thờ mẹ của Giáo hội Công giáo Rôma và cũng không phải là nhà thờ chính tòa của Giáo phận Rôma, Thánh đường thánh Peter được coi như một trong những thánh đường thần thánh nhất của Công giáo. Nó đã được mô tả như một thánh đường “giữ vị trí độc nhất trong thế giới Công giáo” và như là “nhà thờ vĩ đại nhất trong những nhà thờ Công giáo”. Nhà thờ hiện nay được xây dựng từ ngày 18 tháng 4 năm 1506 và hoàn thành ngày 18 tháng 11 năm 1626. Trước đó, vào thế kỷ thứ 4 cũng đã có một nhà thờ được xây dựng trên khu đất hiện tại trong thời đại của Hoàng đế La Mã Constantinus Đại đế. Truyền thống Giáo hội Công giáo Rôma tin rằng, khu vực dưới bàn thờ của vương cung Thánh đường này là phần mộ của Thánh Phêrô – vị giám mục của Rôma và cũng là giáo hoàng đầu tiên. Vì lý do đó, nhiều Giáo hoàng đầu tiên cũng đã được chôn cất trong nhà thờ này trong giai đoạn sơ khai của Công giáo. Thánh đường này là nổi tiếng như là một địa điểm hành hương và cho các mục đích phụng vụ. Giáo hoàng thực hiện một số phụng vụ tại đây hàng năm, thu hút lượng người tham dự từ 15,000 tới 80,000 người, tập trung trong đại thánh đường hoặc Quảng trường Thánh Phêrô bên cạnh. Thánh đường thánh Phêrô có nhiều liên quan lịch sử với nhà thờ Thiên chúa giáo sơ khai, Giáo hoàng, Cải cách Tin Lành, Phong trào Phản Cải cách và nhiều nghệ sĩ, đặc biệt là Michelangelo. Với tư cách là một kiệt tác kiến trúc, nó được coi là một trong những tòa nhà lớn nhất trong thời đại Phục Hưng. Thánh đường thánh Phêrô là một trong bốn nhà thờ xung quanh Rome đạt đẳng cấp Đại thánh đường. Ngược lại với quan niệm sai lầm phổ biến, thánh đường này không phải là một nhà thờ chánh tòa, bởi vì nó không phải là chỗ của một giám mục; ngai tòa của giáo hoàng với tư cách giám mục Roma là ở Vương cung thánh đường Thánh Gioan Latêranô. Hình ảnh kiến trúc vòm biểu tượng của Thánh đường nổi bật trên bầu trời Rome. Thánh đường thánh Phêrô là một nhà thờ theo phong cách Phục Hưng nằm tại thành phố Vatican, phía tây của sông Tiber và gần đồi Janiculum và Lăng Hadrian. Kiến trúc vòm trung tâm của nó nổi bật trên đường chân trời của thành phố Rome. Tới thánh đường phải đi qua Quảng trường Thánh Phêrô, một sân trước có hai phần, cả hai phần được một dãy cột cao bao quanh. Không gian đầu tiên có hình bầu dục và không gian thứ hai có hình thang. Mặt tiền của thánh đường, với một số lượng lớn cột trụ, trải dài trên phần cuối của quảng trường và được nối tiếp bằng các bậc thềm, ở trên đó có hai bức tượng của các tông đồ thế kỷ 1 tới Rome, thánh Peter và Paul cao 5,55 m (18,2 ft). Thánh đường có hình chữ thập, với một gian giữa thon dài dưới dạng thánh giá nhưng những thiết kế ban đầu là một cấu trúc tập trung ở giữa và điều này vẫn còn là bằng chứng trong kiến trúc ngày nay. Các không gian trung tâm chi phối cả bên ngoài và bên trong bằng một trong những mái vòm lớn nhất thế giới. Lối vào thông qua một tiền sảnh kéo dài suốt tòa nhà. Một trong những cánh cửa bằng đồng kéo dài từ tiền sảnh là Cửa Thánh, chỉ mở trong dịp lễ Jubilees. Nội thất của thánh đường này có kích thước rất lớn khi so sánh với các nhà thờ khác. Một tác giả đã viết: “Từ từ chúng ta nhận ra – khi chúng ta thấy mọi người đến gần tượng đài này, điều kỳ lạ xuất hiện khi các khách tham quan có vẻ nhỏ đi, tất nhiên, nhỏ so với quy mô của tất cả mọi thứ trong tòa nhà này. Cảm xúc này đã lấn lướt chúng ta.”. Nhà thờ Thánh Phêrô là nơi có nhiều tác phẩm nghệ thuật, đáng kể nhất là các tác phẩm của Michelangelo. Nhà thờ này được khởi công xây dựng ngày 18 tháng 4 năm 1506 trên nền một nhà thờ khác. Chính Giáo hoàng Giuliô II đã ra lệnh phá bỏ nhà thờ cũ này để xây nhà thờ mới với mong muốn đây sẽ là nơi chôn cất chính mình sau khi mất. Do đó, ông đã chọn họa sĩ nổi tiếng Michelangelo làm người đứng đầu việc xây dựng công trình này. Tuy nhiên, Michelangelo phải nhường vị trí này cho Donato Bramante do một số tranh cãi về việc có nên phá bỏ nhà thờ cũ hay không. Bramante đã cho phá bỏ hầu hết nền nhà thờ 1.200 năm cùng với 4 cây cột. Sau khi Giáo hoàng Giuliô II và Bramante lần lượt mất năm 1513 và 1514, công trình này bị gián đoạn nhiều lần và được chỉ huy bởi nhiều kiến trúc sư khác nhau. Trong đó có Raffaello, người đã thiết kế và xây dựng nhà thờ với hình dáng giống một cây thập tự. Một thời gian sau, lần lượt các kiến trúc sư Sangallo và Michelangelo tiếp tục việc xây dựng. Đối với Michelangelo, đây là lần thứ 2 ông chỉ huy công trình này. Ông đã thiết kế mái vòm nổi tiếng, một kỳ tích của kỹ thuật xây dựng bởi đây là công trình xây bằng gạch có khoảng cách bắc cầu tự do lớn nhất (dài 24 m, ở độ cao 120 m). Tuy nhiên, Michelangelo không thể hoàn thành mái vòm này (ông mất năm 1564) mà phải nhờ đến kiến trúc sư Giacomo della Porta. Năm 1626, tức sau 120 năm xây dựng, nhà thờ được khánh thành với 187 m chiều dài và 45 m chiều cao với sức chứa trên 60.000 người.
Vương cung thánh đường Thánh Gia, Nairobi
Nhà thờ chính tòa Vương cung thánh đường Thánh Gia tại Nairobi hay được biết đến là Nhà thờ chính tòa Nairobi là một nhà thờ Giáo hội Công giáo dành cho Thánh Gia nằm tại Quảng trường thành phố Nairobi, thủ đô của Kenya. Vương cung thánh đường này cũng chính là trụ sở và là ngai tòa giám mục của Tổng giáo phận Nairobi. Giáo đoàn của nhà thờ ban đầu bao gồm cả các công nhân xây dựng đường sắt tại một trại gần đó, khu vực mà sau đó trở thành Ga đường sắt Nairobi, nhà ga đường sắt đầu tiên của Nairobi. Dưới sự quản lý của Cha Josaphat, một nhà thờ đã được giao phó xây dựng vào năm 1904. Với sức chứa 300-400 người, đây là công trình bằng đá đầu tiên của Nairobi. Tổng giám mục đầu tiên của Nairobi là John Joseph McCarthy, ngài được bổ nhiệm vào năm 1953 và phục vụ cho đến năm 1971 khi ngài nghỉ hưu. Dorothy Hughes, một nữ kiến trúc sư người Kenya gốc Anh đã thiết kế tòa nhà hiện đại vào năm 1960 và công trình được xây dựng bởi Mowlem, một trong số những công ty xây dựng dân dụng lớn nhất Anh Quốc.
Năm ánh sáng là đơn vị đo chiều dài sử dụng trong đo khoảng cách thiên văn. Theo những đo lường thực nghiệm, ánh sáng truyền đi trong chân không với vận tốc khoảng 300.000 km/s, do vậy, nó bằng khoảng 9,5 nghìn tỷ km hoặc 5,9 nghìn tỷ dặm. Theo định nghĩa của Hiệp hội Thiên văn Quốc tế (IAU), một năm ánh sáng là khoảng cách ánh sáng truyền trong chân không trong khoảng thời gian một năm Julius (365,25 ngày). Bởi vì nó gồm từ “năm”, thuật ngữ năm ánh sáng đôi khi bị giải thích nhầm thành đơn vị của thời gian. Năm ánh sáng thường hay được sử dụng nhất khi biểu diễn khoảng cách đến các sao hoặc đến những khoảng cách lớn hơn trong phạm vi thiên hà, đặc biệt đối với đại chúng và ở các ấn phẩm phổ biến khoa học. Đơn vị đo thường hay sử dụng trong trắc lượng học thiên thể là parsec (ký hiệu: pc, bằng khoảng 3,26 năm ánh sáng; đây là khoảng cách mà khi nhìn một đơn vị thiên văn dưới góc mở bằng một giây cung). Theo định nghĩa của IAU, năm ánh sáng là khoảng cách tính bằng nhân thời gian một năm Julius (365,25 ngày so với 365,2425 ngày của lịch Gregorius) với tốc độ ánh sáng (&0000000299792458.000000299792458 m/s). Các giá trị này được nêu trong nghị quyết về Hệ thống các hằng số thiên văn IAU (1976), và được sử dụng từ 1984. Từ đây, các chuyển đổi có thể thực hiện như sau. IAU quy định viết tắt cho năm ánh sáng là ly, mặc dù có những chuẩn khác như ISO 80000 sử dụng ký hiệu “l.y.” và những ký hiệu theo tiếng bản ngữ cũng được sử dụng, như “al” trong tiếng Pháp (từ année-lumière) và tiếng Tây Ban Nha (từ año luz), “Lj” trong tiếng Đức (từ Lichtjahr), vv. Trước năm 1984, năm chí tuyến (không phải năm Julius) và một phép đo (không dùng để định nghĩa) tốc độ ánh sáng đã được đưa vào trong Hệ thống hằng số thiên văn của IAU (1964), được sử dụng từ 1968 đến 1983. Tích của năm chí tuyến theo kỷ nguyên J1900.0 của Simon Newcomb là 31556925,9747 giây của lịch thiên văn (ephemeris second) nhân với tốc độ ánh sáng &0000000299792500.000000299792.5 km/s cho kết quả một năm ánh sáng bằng 9,460530 x 1015m (làm tròn đến 7 chữ số thập phân trong năm ánh sáng) có thể tìm thấy ở một số tài liệu hiện đại có lẽ bắt nguồn từ một nguồn cũ như tham khảo công trình Astrophysical Quantities của Clabon Allen năm 1973, mà được cập nhật trong năm 2000, bao gồm giá trị của IAU (1976) như nêu ở trên (lấy đến 10 chữ số thập phân). Những giá trị chính xác cao khác không được tính dựa trên một hệ thống nhất quán của IAU. Giá trị 9,460536207 x 1015m có trong một số cuốn sách hiện đại là tích của trung bình một năm Gregorius (365,2425 ngày hay 31556952 giây) và tốc độ ánh sáng (299792458 m/s). Một giá trị khác, 9,460528405 x 1015m, là tích của trung bình một năm chí tuyến J1900.0 với tốc độ ánh sáng. Đơn vị năm ánh sáng xuất hiện chỉ một vài năm sau khi Friedrich Bessel đo thành công khoảng cách đến một ngôi sao khác ngoài Mặt Trời vào năm 1838. Ngôi sao mà ông sử dụng để đo là 61 Cygni, và dụng cụ đo là một kính thiên văn đo thị sai (heliometer) có độ mở 160mm do Joseph von Fraunhofer thiết kế. Đơn vị lớn nhất biểu diễn khoảng cách vũ trụ ở thời điểm đó là đơn vị thiên văn, bằng bán kính của quỹ đạo Trái Đất 1,50 x 108km. Theo đơn vị này, tính toán lượng giác dựa trên thị sai của sao 61 Cygni bằng 0,314 giây cung, cho kết quả khoảng cách tới ngôi sao bằng 660.000 AU (9,9 x 1013km). Bessel ghi chú thêm rằng ánh sáng mất 10,3 năm để truyền qua quãng đường như vậy. Ông nhận ra rằng độc giả của ông sẽ thấy thích thú khi đưa ra một hình ảnh cho dễ hình dung về thời gian truyền đi xấp xỉ của ánh sáng, nhưng ông đã ngập ngừng khi sử dụng năm ánh sáng làm đơn vị khoảng cách. Theo ông bởi vì khi sử dụng khoảng cách theo năm ánh sáng sẽ làm mất đi độ chính xác trong dữ liệu đo thị sai của ông do nó nhân với một tham số chưa chính xác đó là tốc độ ánh sáng. Vào năm 1838 tốc độ ánh sáng vẫn chưa được đo chính xác; giá trị của nó thay đổi vào năm 1849 (Fizeau) và 1862 (Foucault). Khi ấy các nhà khoa học vẫn chưa coi nó là một hằng số cơ bản của tự nhiên, và sự lan truyền của ánh sáng qua môi trường aether hoặc không gian vẫn còn là điều bí ẩn. Tuy thế, đơn vị năm ánh sáng xuất hiện trong một cuốn sách phổ biến thiên văn học của nhà thiên văn học người Đức Otto Ule. Nghịch lý về đơn vị khoảng cách có từ “năm” trong đó đã được Ule giải thích bằng cách so sánh với khoảng cách giờ đường trượt tuyết (hiking road hour, Wegstunde trong tiếng Đức). Một quyển sách tiếng Đức phổ biến thiên văn cùng thời cũng lưu ý tới độc giả năm ánh sáng là một tên gọi kỳ lạ. Năm 1868 một tạp chí của Anh ghi nhận năm ánh sáng là đơn vị đo khoảng cách được sử dụng bởi các nhà khoa học Đức. Eddington đã gọi năm ánh sáng là một đơn vị không thuận tiện và không thích hợp, mà thỉnh thoảng đi từ các tác phẩm đại chúng vào trong các khảo cứu kỹ thuật. Mặc dù trong thời hiện đại các nhà thiên văn thường sử dụng đơn vị parsec, năm ánh sáng cũng là đơn vị phổ biến sử dụng trong khoảng cách liên sao và liên thiên hà. Khoảng cách tính theo năm ánh sáng bao gồm giữa những ngôi sao trong cùng một khu vực, như chúng cùng thuộc về một nhánh xoắn ốc hoặc cụm sao cầu. Các thiên hà có đường kính từ vài nghìn đến vài trăm nghìn năm ánh sáng, và khoảng cách giữa các thiên hà lân cận hoặc khoảng cách giữa các cụm thiên hà lên tới hàng triệu năm ánh sáng và hàng chục triệu năm ánh sáng. Khoảng cách giữa các quasar và Bức tường lớn Sloan (Sloan Great Wall) lên tới hàng tỷ năm ánh sáng. Khoảng cách giữa các vật thể trong một hệ sao thường bằng phần nhỏ của một năm ánh sáng, và chúng thường được biểu diễn theo đơn vị thiên văn au. Tuy nhiên, đơn vị của những độ dài nhỏ hơn có thể dùng bằng cách nhân thời gian với tốc độ ánh sáng. Ví dụ, giây ánh sáng, mà hay sử dụng trong thiên văn học, vật lý tương đối tính và truyền thông tin, có giá trị bằng &0000000299792458.000000299792458 mét hay 1⁄&0000000031557600.00000031557600 của một năm ánh sáng. Các đơn vị như phút ánh sáng, giờ ánh áng và ngày ánh sáng đôi khi được sử dụng trong các tác phẩm phổ biến khoa học. Tháng ánh sáng, gần bằng một phần mười hai của năm ánh sáng, cũng được sử dụng để đo xấp xỉ khoảng cách. Bảo tàng không gian và Trái Đất Hayden (Hayden Planetarium) xác định tháng ánh sáng bằng chính xác 30 ngày ánh sáng truyền đi. Ánh sáng truyền xấp xỉ qua một foot trong một nano giây; do vậy thuật ngữ “foot ánh sáng” đôi lúc được sử dụng không chính thức để đo thời gian.
Năm Julius (thiên văn)
Bài này nói về khoảng thời gian được sử dụng trong thiên văn. Đối với năm trong lịch Julius, xem bài Lịch Julius. Trong thiên văn học, năm Julius là đơn vị đo thời gian được định nghĩa chính xác bằng 365,25 ngày hay 31.557.600 giây. Tên gọi này có nguồn gốc từ thực tế là nó tương ứng với độ dài trung bình của năm trong lịch Julius đã từng được sử dụng trong cộng đồng thế giới phương Tây trong các thế kỷ trước. Tuy nhiên, về nền tảng thì nó chỉ là cách thức trực giác thuận tiện để đo các khoảng lớn về ngày (không phải các năm "thực sự" như năm chí tuyến hay năm thiên văn), và do vậy nó không có mối liên hệ nào với các kiểu duy trì thời gian theo ngày-tháng-năm trong lịch Julius hay bất kỳ loại lịch nào khác. Năm Julius được sử dụng chủ yếu nhằm mục đích tạo thuận lợi trong các công trình lịch thiên văn, trong đó việc liệt kê số ngày có thể là cồng kềnh và khó nhớ (ví dụ, sẽ dễ dàng/dễ nhớ hơn nếu biểu diễn chu kỳ quỹ đạo của Diêm Vương Tinh là 248 năm Julius thay vì 90.590 ngày).
Có những vấn đề liên quan đến “sức khỏe” của nền kinh tế mà nhất định các chuyên gia kinh tế, những người hoạt động trong lĩnh vực này cần phải quan tâm. Thiểu phát là một trong số đó. Vậy thiểu phát là gì?. Tuy không phải là một người theo đuổi chuyên sâu trong lĩnh vực kinh tế thế nhưng Bích Phượng cũng khá hứng thú khi tìm hiểu về các vấn đề nội tại bên trong nền kinh tế. Khi còn ngồi trên ghế giảng đường, tôi đã có dịp được tìm hiểu đôi nét về thiểu phát và sẽ chia sẻ cùng bạn một vài nội dung cơ bản về khía cạnh này, hãy cùng tìm hiểu với Phượng và có thêm những chia sẻ hay bên dưới bình luận nhé. Xoay quanh việc đi tìm khái niệm thiểu phát là gì, có rất nhiều quan điểm được đưa ra không đồng nhất với nhau. Có nhà phân tích kinh tế thì cho rằng khi không có tiêu chí chính xác nào có thể xác định được tỷ lệ lạm phát bao nhiều phần trăm (%) từ một năm trở lại thì sẽ được gọi là thiểu phát. Trong khi đó, ở một số tài liệu kinh tế lại đưa ra lý luận cho vấn đề thiểu phát như sau: tỷ lệ lạm phát rơi ở mức 3 đến 4 % trong một năm trở lại thì sẽ được gọi là thiểu phát. Ở các quốc gia có ngân hàng trung ương không hề ưa sự lạm phát giống như nước Đức hay Nhật Bản thì con số lạm phát 3 hoặc 4% trong vòng một năm được cho là mức độ quá đỗi trung bình, chưa thấp đến độ được coi là thiểu phát. Còn tại thị trường kinh tế Việt Nam, ngay từ những năm đầu thập kỉ XXI, chỉ cần con số lạm phát ở mức 3-4% thì đã được cho là thiểu phát rồi. Trong hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay, ngân hàng nhà nước là cơ quan có trách nhiệm cao nhất trong việc đảm bảo lưu thông tiền tệ (cash flow) và duy trì sự ổn định của thị trường tiền tệ (money market). Tiền do ngân hàng trung ương phát hành, thông qua hệ thống ngân hàng thương mại, đến tay người cần vốn (doanh nghiệp, hộ gia đình, tổ chức tín dụng, công ty FDI.). Thực hiện các chính sách tiền tệ phù hợp, hiệu quả là cách để kiểm soát tỉ lệ lạm phát của cả nền kinh tế. Thiểu phát có những biểu hiện gif? Nắm bắt những biểu hiện rõ ràng, chính xác của thiểu phát sẽ giúp cho những người theo học chuyên ngành kinh tế phân biệt rõ hơn về sự thiểu phát. Mặc dù thiểu phát có những đặc trưng không định lượng được thế nhưng chính nhờ những đặc trưng ấy mà chúng ta có thể xác định được thiểu phát. Vậy đó là những biểu hiện gì?. - Khi mức giá giảm với cường độ mạnh, liên tục và tăng trưởng GDP rơi vào mức âm thì nền kinh tế khi đó mới rơi vào thiểu phát. - Hệ thống ngân hàng thương mại gặp phải những khó khăn trong quá trình cho vay vốn, lại có chính sách về lãi suất huy động tiết kiệm thấp (tức là thị trường tiền tệ được coi là rơi vào mức trì trệ). Khi mức lạm phát thấp thì sẽ dẫn đến lãi suất thực tế cao, cho nên các nhà đầu tư (investor) khi vay vốn ngân hàng cũng phải dè dặt. Thực tế đó sẽ kéo theo sự ứ đọng tiền tệ của ngân hàng cho nên khiến cho huy động tiết kiệm bị giảm bằng cach hạ mức lãi suất huy động tiết kiệm xuống. - Hoạt động sản xuất bị tác động mạnh trở nên kém sôi động. Thiểu phát sẽ là nguyên nhân làm cho tiền công chi trả thực tế cao hơn. Điều này mang đến lợi ích cho người lao động vì có thể giảm cung lao động và đồng thời được tăng thời gian nghỉ ngơi nhiều hơn. Ở phương diện khác, giá cả của các sản phẩm được sản xuất ra thấp cũng làm giảm đi động lực sản xuất. Tùy vào diễn biến, đôi khi thiểu phát chính là tình trạng trước giảm phát. - Do áp dụng những giải pháp trong hoạt động chống lạm phát quá liều, ví dụ như việc thắt chặt quá mức về tiền tệ, tài khóa và hạn chế cầu. - Do sử dụng những biện pháp nhằm mục đích ngăn ngừa lạm phát nhưng sử dụng một cách quá cứng nhắc, chẳng hạn như trực tiếp kiểm soát giá của một số loại mặt hàng. Nếu bạn đã nghe nhiều đến lạm phát và cũng biết rõ lạm phát để lại những hậu quả nghiêm trọng ra sao thì thiểu phát cũng để lại những hậu quả nghiêm trọng không kém gì. Theo lời chia sẻ của một chuyên gia tài chính ngân hàng: thiểu phát rất nguy hiểm, thiểu phát sẽ khiến cho nền văn minh của nhân loại không lên được. Nó có nghĩa là sang mức suy thoái rồi và không hề có sự tăng trưởng. Đặc biệt nền kinh tế sẽ bị ảnh hưởng lớn nếu lạm phát chuyển thành thiểu phát. Tại thị trường Việt Nam ở giai đoạn hiện tại thì thiểu phát vẫn chưa đáng sợ bằng lạm phát. Từ phía thương mại lo ngại có nên đặt ra vấn đề loại bỏ ưu tiên, “tiếp tục” của sự lạm phát mà chuyển qua chống suy thoái. Khi nền kinh tế thế giới đang suy giảm thì có nghĩa là thiểu phát cũng chính là nguy cơ lớn mà kinh tế Việt Nam sẽ phải đối mặt. Vậy nên khi kinh tế đang ra sức giảm phát nhưng vẫn tích cực cho chính sách chống lạm phát, có thể nền kinh tế với quy mô vĩ mô sẽ trở nên xấu đi, sự tăng trưởng giảm, sự tăng trưởng giảm thì sẽ dẫn tới hậu quả nhiều người đối diện với thất nghiệp. - Gây ra sự ảnh hưởng đối với lĩnh vực xuất khẩu bởi lẽ thiểu phát khiến cho hầu hết các thị trường lớn đều giảm nhu cầu. - Sức tiêu thị trong nội địa không tăng lên lý do xuất phát từ tiền cung tiền tệ giảm đi, trong khi đó hoạt động xuất khẩu lại không có khởi sắc mà còn kém đi. Trường hợp xấu nhất có thể xảy ra đó chính là hàng hóa không thể xuất đi trong khi đó nhu cầu trong nước đã giảm trầm trọng, hàng hóa sẽ không tiêu thụ hết được, dẫn đến giá cả giảm, sản xuất vì thế mà bị đình đốn. Do trong quá trình sử dụng thuật ngữ, nhiều người thường nhầm lẫn giữa ba khái niệm Thiểu phát – Lạm phát – Giảm phát nên dẫn đến sự hiểu sai tính chất. Điều này có thể khiến cho những người hoạt động trong lĩnh vực kinh tế sẽ thực hiện không đúng các phương hướng đầu tư, phát triển. Đối với kinh tế học, lạm phát chính là sự tăng lên của mức giá chung theo thời gian. Ở trong một nền kinh tế, sự lạm phát chính là sự giảm xuống sức mua của đồng tiền hay sự mất đi giá trị của thị trường hàng hóa. Nếu đem lạm phát so sánh với các nền kinh tế khác thì sự lạm phát chính là một cách phá giá tiền tệ của một loại tiền so với những loại tiền khác. Theo nghĩa đầu tiên, lạm phát của tiền tệ ở trong phạm vi quốc gia, theo nghĩa thứ hai, lạm phát tiền tệ ở trong phạm vi thị trường toàn cầu. Ngược lại với lạm phát chính là giảm phát. - Thứ nhất là dựa vào một rổ các hàng hóa trong tiêu dùng (gọi là goods basket) cùng với giá của các loại hàng hóa này ở trong rổ xét ở hai thời điểm khác nhau. - Thứ hai sẽ là dựa theo tất cả khối lượng hàng hóa, dịch vụ cuối cùng đã được sản xuất ở trong thời gian suốt một năm với giá ở hai thời điểm khác nhau. Theo ngôn ngôn thống kê chúng ta sẽ gọi chúng la giá hiện hành và giá cố định. Thực chất ở hai cách tính này không hề có sự khác biệt lớn. Ở phương pháp đo lạm phát thứ nhất tính được chính xác hơn theo đúng như những gì định nghĩa lạm phát đã biểu thị và chỉ chỉ tính trong khoảng thời gian một năm. Còn theo cách thứ hai thì cũng có được những ưu điểm nhất định đó là có thể tính toán được lạm phát ở trong bất kể thơì điểm nào dựa theo rổ hàng hóa. Tình trạng mức giá chung của kinh tế bị giảm xuống một cách liên tục sẽ được gọi là giảm phát, nó trái ngược với lạm phát. Hoặc cách nói khác thú vị hơn về giảm phát: giảm phát chính là lạm phát… nhưng khi lạm phát mang theo giá trị âm. Ở nhiều tài liệu kinh tế, khi các chuyên gia kinh tế đề cập tới sự giảm phát thì hầu hết họ vẫn sẽ đặt trước những con số một dấu âm trong mục tỷ lệ lạm phát. Khi nền kinh tế rơi vào trì trệ, đình đốn và suy thoái thì sẽ xuất hiện giảm phát. Sự giảm phát có nghĩa là sự hạ thấp giá cả. Xét từ góc độ trực giác thì người tiêu dùng vẫn thích giảm phát hơn trong khi đó người sản xuất lại chẳng ưa gì hai chữ ấy. Nếu như giá cả đang có khuynh hướng giảm xuống thì người tiêu thị sẽ ngưng việc chi tiền ra và thực trang mua hàng rơi vào hai chữ “chờ đợi”, có nghĩa là người tiêu dùng sẽ chờ cho đến khi nào giá hàng hóa giảm xuống mới tiếp tục mua sắm. Khi ấy, nhà sản xuất sẽ không bán được hàng và buộc phải giảm giá thành sản phẩm xuống để chiều lòng khách. Hành động giảm giá thành này sẽ kéo theo rất nhiều hệ lụy mà điều đầu tiên đó chính là sự giảm xuống về số nhân công làm việc. Những người thất nghiệp sẽ khó khăn trong chi tiêu nên họ cũng giảm đi nhu cầu mua hàng hóa. Càng như vậy thì hàng hóa sản phẩm càng rơi vào bế tắc, nhà sản xuất rơi vào một vòng luẩn quẩn khó thoát ra được. Điều này nghiễm nhiên sẽ nguy hiểm hơn sự lạm phát. Giải pháp cần thực hiện cho giảm phát đó chính là nới lỏng tiền tệ, giảm múc lãi hoặc thuế suất mới có thể kích thích tiêu dùng. Như vậy, qua hai khái niệm trên, bạn hoàn toàn có thể phân biệt được một cách rõ ràng với thiếu phát. Việc nhận diện rõ thiếu phát là gì hay phân biệt nó với lạm phát và giảm phát sẽ giúp nhà hoạt động kinh tế có thể đưa ra những phương án tối ưu giúp phát triển hoạt động kinh doanh, buôn bán nhằm cân bằng giữa sự tiêu thụ và sản xuất.
Thiểu phát
Thiểu phát trong kinh tế học là lạm phát ở tỷ lệ rất thấp. Đây là một vấn nạn trong quản lý kinh tế vĩ mô. Ở Việt Nam, nhiều người thường nhầm lẫn thiểu phát với giảm phát. Không có tiêu chí chính xác tỷ lệ lạm phát bao nhiêu phần trăm một năm trở xuống thì được coi là thiểu phát. Một số tài liệu kinh tế học cho rằng tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4 phần trăm một năm trở xuống được gọi là thiểu phát. Tuy nhiên, ở những nước mà cơ quan quản lý tiền tệ (ngân hàng trung ương) rất không ưa lạm phát như Đức và Nhật Bản, thì tỷ lệ lạm phát 3-4 phần trăm một năm được cho là hoàn toàn trung bình, chứ chưa phải thấp đến mức được coi là thiểu phát. Ở Việt Nam thời kỳ 2002-2003, tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4 phần trăm một năm, nhưng nhiều nhà kinh tế học Việt Nam cho rằng đây là thiểu phát.
Trong xã hội hiện nay, khi mà sự cạnh tranh trong công việc ngày càng gay gắt và có xu hướng tăng nhanh thì những áp lực từ công việc, gánh ngặng cơm áo gạo tiền cũng từ đó mà ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống hôn nhân của các cặp vợ chồng. Những nguyên nhân trên cũng đã làm cho tình trạng ly thân của các cặp vợ chồng cũng trở nên phổ biến hơn. Mặc dù mỗi chúng ta đã từng nghe và nói nhiều đến cụm từ “ly thân”. Tuy nhiên, không phải tất cả trong chúng ta ai cũng hiểu rõ và hiểu hết về khái niệm cụ thể hay những nội dung liên quan đến vấn đề ly thân này. Do đó, trong bài viết hôm nay của Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6557 chúng tôi sẽ cung cấp những thông tin về định nghĩa ly thân là gì, ly thân có được pháp luật chấp thuận không và giúp bạn phân biệt sự khác nhau giữa ly thân và ly hôn. – Nó có thể được biểu hiện qua việc vợ chồng không chung sống cùng nhau trong cùng một mái nhà, không ngồi cùng ăn trong một mâm cơm, không có những hoạt động sinh hoạt chung hay thậm chí là ngừng chuyện “quan hệ chăn gối” với nhau. – Nguyên nhân của tình trạng ly thân này như ta đã đề cập ở phần mở đầu của bài viết thì có thể là vì áp lực từ công việc, gánh nặng cơm áo gạo tiền, một số mối quan hệ xã hội bên ngoài, v.v … dẫn đến những mâu thuẫn, tình cảm vợ chồng bị rạn nứt. – Mục đích của việc ly thân là tạo ra một khoảng thời gian và không gian riêng cho mỗi người vợ, người chồng tĩnh tâm suy nghĩ, nhìn lại chính bản thân mình. Để từ đó, có thể thay đổi hoàn thiện cuộc sống hôn nhân của mình theo hướng tích cực hoặc không trong trường hợp xấu nhất có thể sẽ dẫn tới ly hôn. – Xét về mặt pháp lý, giấy tờ thủ tục thì ly thân không làm chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng. Chính vì thế, những quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đối với hai vợ chồng về mặt tài sản chung, riêng; về vấn đề chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con cái, v.v … đều vẫn được giữ nguyên và bảo đảm thực hiện. – Về vấn đề ly thân thì trong pháp luật nói chung và pháp luật về hôn nhân và gia đình hiện hành nói riêng thì không có những quy định, chế định cụ thể rõ ràng về khái niệm ly thân là gì hay hệ quả của việc ly thân, v.v …. Tuy nhiên, pháp luật hôn nhân và gia đình hay những văn bản pháp luật liên quan khác tính tới thời điểm hiện tại vẫn chưa có quy định nào có nội dung là cấm việc ly thân. – Mà theo tinh thần Hiến pháp 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì mỗi người dân có quyền thực hiện những hành vi mà pháp luật không cấm. Nên tóm lại là nhà nước cũng như pháp luật không khuyến khích ly thân mà cũng không cấm việc ly thân giữa các cặp vợ chồng. Để phân biệt giữa ly thân và ly hôn, chúng tôi sẽ chỉ ra những điểm khác nhau về khái niệm, hệ quả pháp lý, thủ tục thực hiện, quy định của pháp luật; việc giải quyết quan hệ về tài sản, quyền và nghĩa vụ đối với con cái của vợ và chồng trong hai trường hợp này. Việc ly thân diễn ra được xác lập khi hai vợ chồng không sống chung, không ăn chung, sinh hoạt chung với nhau. Trường hợp không thể thỏa thuận được thì có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ly thân
Ly thân mô tả quan hệ vợ chồng theo đó hai người không còn chung sống, ăn ở với nhau, nhưng vẫn chưa ly hôn. Vợ chồng thường tự thỏa thuận với nhau để sống ly thân chứ không cần phải ra tòa, và trên pháp lý thì họ vẫn là vợ chồng. Ly thân tạo cơ hội cho vợ hay chồng sống riêng biệt mà không phải cần ly dị. Mục đích của ly thân là để giảm thiểu những căng thẳng, xung đột gay gắt giữa vợ và chồng, đồng thời để các bên có thời gian suy ngẫm, ăn năn hối lỗi, khắc phục lỗi lầm, tha thứ cho nhau… để sau đó vợ chồng lại đoàn tụ, tiếp tục chung sống. Ly thân không làm chấm dứt mối quan hệ pháp lý giữa vợ và chồng nên trong thời gian sống ly thân, các bên vẫn có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ đối với con chung và tài sản. Như vậy, ly thân là để hướng đến sự đoàn tụ, chứ không phải để hướng đến ly hôn. Với ý nghĩa đó, ly thân không phải là bước đệm để tiến hành ly hôn mà là cơ hội để tái gắn kết quan hệ vợ chồng.
✍ Hà Nội: Viện Tâm Thần Bạch Mai- Đại Học Quốc Gia (khoa Y) - Đại Học Y Hà Nội. Sảng rượu là biểu hiện nặng nề nhất của Hội chứng cai rượu, thường xuất hiện ở người bệnh nghiện rượu mạn tính khi dừng hoặc giảm lượng rượu uống. Biểu hiện nổi bật của sảng rượu là tình trạng lú lẫn, rối loạn thần kinh thực vật nặng, rối loạn nước điện giải và các rối loạn nghiêm trọng khác gây ảnh hưởng lên toàn bộ cơ thể nói chung và não bộ nói riêng. Sảng rượu có thể diễn ra đột ngột, nhưng thường diễn ra sau 2 đến 4 ngày dừng sử dụng rượu. Triệu chứng báo hiệu ban đầu thường xuất hiện trong vòng 3 ngày sau khi người bệnh ngưng rượu. Trong một số trường hợp, có thể mất cả tuần hoặc hơn sau khi ngưng rượu đột ngột người bệnh mới xuất hiện triệu chứng:. Khi người bệnh có các triệu chứng như trên, cần đưa người bệnh đến gặp bác sĩ ngay để được điều trị bệnh kịp thời. Uống rượu quá nhiều sẽ gây kích thích hệ thần kinh. Khi cơ thể bạn đã quen với việc được nạp nhiều rượu vào mỗi ngày, hệ thần kinh sẽ trở nên phụ thuộc rượu khiến:. Do đó, khi lượng rượu tiêu thụ mỗi ngày bị giảm đột ngột sẽ khiến sẽ khiến giảm kích thích hệ GABA, thiếu ức chế NMDA. Hệ quả là các triệu chứng của Hội chứng cai rượu sẽ xuất hiện. Khi đó, nếu cơ thể vẫn tiếp tục thiếu rượu sẽ dẫn đến sảng rượu. Rối loạn tư duy: hoang tưởng bị hại, bị truy hại hoặc hoang tưởng theo dõi. Rối loạn điện giải và chuyển hóa. : có thể gây ra Hạ đường huyết, Hạ natri máu, Rối loạn Canxi máu. - Cận lâm sàng: Người bệnh sẽ được chỉ định một số xét nghiệm để chấn đoán sản rượu và các biến chứng do nghiện rượu mạn tính gây ra. Glucose, dung dịch điện giải giúp giải quyết tình trạng rối loạn điện giải, đường huyết ở người bị sảng rượu. Người nghiện rượu nặng nên được tầm soát các bệnh lý về gan, tim mạch. Do nghiện rượu sẽ làm tăng nguy cơ xảy ra các biến cố tim mạch như; Đột quị, nhồi máu cơ tim,; và biến chứng lên gan như: tăng men gan, viêm gan do rượu, xơ gan. Ngoài ra, các bệnh lý thần kinh ngoại biên, hội chứng Wernicke- Korsacoff cũng nên được tầm soát ở các bệnh nhân này. Để biết chi tiết về các phương pháp chữa bệnh này, bạn có thể xem tại bài viết "Cách điều trị bệnh sảng rượu". Để hỗ trợ cai 100% bệnh nghiện rượu cần có nhiều kinh nghiệm từ các bác sĩ chuyên khoa tâm thần, Bạn có thể đặt lịch khám dễ dàng với bác sĩ giỏi và chuyên viên chăm sóc nhiệt tình sau khi khám. Liên hệ đến phòng khám Hello Doctor theo số 1900 1246 để trị dứt điểm bệnh nghiện rượu. Nơi làm việc: Trung tâm Pháp Y Tâm thần Khu vực TP. Hồ Chí Minh. Lê Thị HườngBố tôi cũng từng bị sảng rượu sau khi cai rượu 3 ngày. Nhưng lúc đó gia đình không biết nên để mãi mới đưa đi khám. Sau này nếu gia đình ai cũng có người cai rượu mà bị như vậy thì nên đưa đi khám bác sĩ sớm nhé. Bố tôi cũng từng bị sảng rượu sau khi cai rượu 3 ngày. Nhưng lúc đó gia đình không biết nên để mãi mới đưa đi khám. Sau này nếu gia đình ai cũng có người cai rượu mà bị như vậy thì nên đưa đi khám bác sĩ sớm nhé.
Sảng rượu
Mê sảng do nghiện rượu, cuồng sảng rượu cấp, sảng rượu (delirium tremens) là một ca cấp tính mê sảng hay nhầm lẫn thường được gây ra do cai rượu. Khi nó xảy ra, thường là ba ngày tính từ các triệu chứng cai nghiện và kéo dài trong hai đến ba ngày. Các tác động vật lý có thể bao gồm run rẩy, nhịp tim không đều và đổ mồ hôi. Bệnh nhân cũng có thể nhìn thấy hoặc nghe thấy những điều người khác không thấy. Đôi khi, nhiệt độ cơ thể rất cao hoặc co giật có thể dẫn đến tử vong. Rượu là một trong những loại thuốc nguy hiểm nhất gây ra triệu chứng cai nghiện này. Chứng sảng rượu thường chỉ xảy ra ở những người uống nhiều rượu trong hơn một tháng liền. Một hội chứng tương tự có thể xảy ra khi dùng thuốc benzodiazepine và barbiturat. Việc cai nghiện các chất kích thích như cocaine không có biến chứng y tế lớn. Ở một người bị sảng rượu, điều quan trọng là phải loại trừ các vấn đề liên quan khác như bất thường điện giải, viêm tụy và viêm gan do rượu.
Khi nói về kỹ năng có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau, những kỹ năng này thường được bắt nguồn từ những góc nhìn chuyên môn và mỗi người có một quan niệm khác nhau. Nhưng đa phần chung ta đều công nhận rằng các kỹ năng được hình thành khi chúng ta áp dụng kiến thức chuyên môn vào thực tế trong cuộc sống. Kỹ năng là do trong quá trình lặp đi lặp lại một hoặc một nhóm hành động nhất định nào đó có chủ đích và có định hướng rõ ràng. Nói tóm lại kỹ năng chính là khả năng đã được thực hiện nhuần nhuyễn một hay nhiều hành động dựa trên sự hiểu biết, kiến thức và kinh nghiệm đã có để tạo nên một kết quả đáng mong đợi. Dù một kỹ năng nào được hình thành nhanh hay chậm, bền vững hay không đều phụ thuộc vào sự quyết tâm, khát khao, năng lực tiếp nhận chủ thể, cách luyện tập, tính phức tạp của kỹ năng đó. Kỹ năng được hình thành nhanh hay chậm đều phải trải qua những bước sau:. – Hình thành mục đích. Các chủ thể thường sẽ tự trả lời câu hỏi “ Vì sao tôi lại phải sở hữu kỹ năng đó?”, “Có được kỹ năng đó tôi sẽ có được lợi ích gì?”,…. – Lên kế hoạch để có được kỹ năng đó. Hoặc những kế hoạch chi tiết hoặc những kế hoạch khá đơn giản như “bắt đầu ngày mai tôi sẽ luyện kỹ năng đó”. – Cập nhật những kiến thức, lý thuyết liên quan đến kỹ năng đó qua các tài liệu, báo chí, hay buổi thuyết trình. Đa số những kiến thức này đều được học ở trường lớp, thầy cô. – Luyện tập kỹ năng. Bạn có thể luyện tập nó một mình hoặc luyện tập ngay khi làm việc. – Ứng dụng và hiệu chỉnh. Để sở hữu được một kỹ năng thì cần phải ứng dụng nó vào trong cuộc sống, học tập và công việc. Bạn đồng hành với kỹ năng, người ta cũng hay nhắc đến cụm từ kỹ năng sống. Vậy kỹ năng sống là gì?. – Trong thực tế, có rất nhiều những khái niệm khác nhau về kỹ năng sống, nhưng chuẩn nhất chính là khái niệm về kỹ năng sống theo UNESCO: kỹ năng sống là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ những chức năng và tham gia vào cuộc sống hằng ngày. – Những kỹ năng là bao gồm kỹ năng cơ bản và kỹ năng tâm lý xã hội. Những năng lực này để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hằng ngày bao gồm những kỹ năng cơ bản: kỹ năng đọc, viết, tính toán,…. – Trong khi đó, những kỹ năng có tính tâm lý xã hội và kỹ năng giao tiếp để giải quyết có hiệu quả những tình huống trong cuộc sống,… đó là những kỹ năng phức tạp cần phải có tổng hợp của các yếu tố kiến thức, thái độ và hành vi. – Ngoài ra những kỹ năng về tâm lý xã hội thuộc phạm vi hẹp hơn trong số những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống hằng ngày. – Bằng cách truyền đạt những thông điệp của mình một cách thành công (rõ ràng, đúng và đủ ý, gãy gọn), sẽ truyền được suy nghĩ, ý tưởng một cách hiệu quả. – Khi không thành công, những suy nghĩ, ý tưởng này sẽ không phản ánh được năng lực, gây sự sụp đổ trong giao tiếp và những rào cản trên con đường đạt đến mục tiêu trong đời sống và sự nghiệp. Khi rèn luyện được kỹ năng này, cá nhân sẽ tự chăm sóc được cho bản thân của mình và đặc biệt là trong những môi trường sống đặc biệt hoặc cuộc sống xa nhà, không có người chăm sóc. Một người có được kỹ năng này, trước những tình huống bất ngờ, người đó có thể bình tĩnh tìm ra cách giải quyết tốt nhất cho mọi tình huống. Bạn hãy nên tự trang bị cho mình những kỹ năng cần thiết. Để bất cứ kỹ năng nào dù được hình thành nhanh hay chậm, bền vững hay lỏng lẻo thì cũng đều phụ thuộc vào khát khao, quyết tâm, năng lực tiếp nhận của chủ thể; cách luyện tập, tính phức tạp của chính kỹ năng đó. Chúng tôi tin rằng bài viết này đã giải đáp được thắc mắc về khái niệm kỹ năng là gì cho bạn đọc. Mỗi người đều cần các kỹ năng cơ bản để phát triển trong xã hội đang thay đổi từng ngày. Hy vọng bạn sẽ nhận ra được tầm quan trọng của các kỹ năng sống và tự trang bị cho mình ngay từ bây giờ. Chúc các bạn thành công. Trong bộ hồ sơ xin việc không thể không có giấy khám sức khỏe được. Chúng ta đều biết kế toán là một vị trí quan trọng không thể thiếu trong. Ngày nay bộ phận kinh doanh là một trong những bộ phận quen thuộc với bất.
Kỹ năng
Kỹ năng (tiếng Anh: skill) là khả năng thực hiện một hành động với kết quả được xác định thường trong một khoảng thời gian cùng năng lượng nhất định hoặc cả hai. Các kỹ năng thường có thể được chia thành các kỹ năng miền chung và chuyên biệt. Ví dụ: trong lĩnh vực công việc, một số kỹ năng chung sẽ bao gồm quản lý thời gian, làm việc theo nhóm và lãnh đạo, tự tạo động lực và những người khác, trong khi các kỹ năng dành riêng cho miền chỉ được sử dụng cho một công việc nhất định. Kỹ năng thường đòi hỏi các kích thích và tình huống môi trường nhất định để đánh giá mức độ kỹ năng được thể hiện và sử dụng. Con người cần một loạt các kỹ năng để đóng góp cho nền kinh tế hiện đại. Một điểm chung giữa Hiệp hội phát triển tài năng (ASTD) và nghiên cứu của Bộ Lao động Hoa Kỳ cho thấy thông qua công nghệ, nơi làm việc đang thay đổi và xác định 16 kỹ năng cơ bản mà nhân viên phải có để có thay đổi theo. Ba loại kỹ năng được đề xuất và đây là các kỹ thuật, con người và khái niệm.
Tranh ma sơn dầu là trạng rỡ vẽ từ sơn dầu – một nhiều loại họa phđộ ẩm được thiết kế từ bỏ bột màu sắc (nhan sắc tố) kết hợp với dầu để tạo độ dính nối. Các loại dầu thường xuyên được sử dụng là dầu lanh, dầu phân tử anh túc, dầu hạt óc chó. Đôi khi họa sỹ thực hiện cả dầu hồng hoa.Bạn đang xem: Tranh sơn dầu là gì. Mỗi nhiều loại dầu tất cả sự tác động không giống nhau lên color vẽ như thời gian ngả đá quý. Dầu cũng liên quan cho thời gian khô và độ bóng đẹp của Màu sắc. Người họa sĩ rất có thể sử dụng nhiều loại dầu nhằm pha màu khi vẽ một bức ảnh. Điều kia tùy trực thuộc vào một số loại sắc tố và cảm giác ước muốn. Màu sơn dầu cũng biến hóa tùy nằm trong vào hóa học dung môi lúc trộn loãng. Dầu rất có thể được đun sôi với vật liệu nhựa thông hoặc nhũ mùi hương để tạo ra độ bóng. Pha color đánh dầu đòi hỏi đề nghị có kiến thức chuyên môn nhằm rời gây số đông bội phản ứng hóa học. Sắc tố có thể là nguyên liệu khoáng, hữu cơ hoặc nguyên vật liệu chất hóa học. Sơn dầu không thấm nước, có độ dẻo với độ bít che mạnh bạo. Sơn dầu cũng dễ dàng đậy kín đáo lớp đánh khác nghỉ ngơi bên dưới, trừ các màu sắc gồm tính quan trọng. Sơn dầu đã được những họa sĩ sử dụng từ khoảng thời hạn vào giữa thế kỷ 5 với thể kỷ 10. Để vẽ gần như bức tranh Phật giáo sống Tây Afghanistan. Nhưng buộc phải đến tận thế kỷ 15 đánh dầu new trsinh sống đề nghị thông dụng. Có lẽ nó đã có gia nhập về phương thơm Tây trong thời kỳ trung cổ. Với đầy đủ ưu điểm quá trội, tô dầu đã trở thành cấu tạo từ chất thiết yếu để tạo nên những tác phđộ ẩm thẩm mỹ. Điển hình là các bức tranh phong cách Hà Lan new làm việc Bắc Âu cùng sự cải cách và phát triển của chuyên môn vẽ trạng rỡ sơn dầu thời Phục Hưng. Từ đó, đánh dầu đã gần như sửa chữa trọn vẹn những nhiều loại gia công bằng chất liệu khác. Trong trong thời hạn vừa mới đây, sơn dầu trộn nước vẫn trngơi nghỉ đề nghị phổ biến. Chất liệu bắt đầu này phần nào thay thế sửa chữa đánh dầu truyền thống. Sơn dầu trộn nước có chứa một hóa học chuyển thể. Chất này góp rút ngắn thời hạn thô của màu. Hiện chỉ từ từ là một – 3 ngày vắt bởi 1 – 3 tuần như trước đây. Cũng có lúc tín đồ ta cần sử dụng từ “color dầu” vậy đến tự “tô dầu”. Cách Điện thoại tư vấn cùng với dự định chỉ gia công bằng chất liệu cần sử dụng vào tác phẩm. Kỹ thuật vẽ toắt con tô dầu truyền thống lâu đời thường xuyên bắt đầu với vấn đề fan họa sĩ dùng than chì hoặc color mỏng dính tổng quát lên toan vẽ. Bột color thường được trộn với dầu phân tử lanh, khoáng chất hoặc các chất dung môi khác. Cách này để trộn loãng, tăng hoặc bớt thời gian thô color. (Dung môi rất có thể tổng hợp sơn dầu đề xuất cũng khá được dùng làm hóa học tẩy rửa phương pháp vẽ). Một bề ngoài cơ phiên bản của vẽ trỡ ràng tô dầu thời điểm sẽ là lớp màu sắc trên cần đựng nhiều dầu rộng lớp màu bên dưới. Điều này là để những lớp color được khô số đông, nếu như không vận dụng điều này, bức ảnh đang rất có thể bị vỡ lẽ với bong. Yếu tố quyết định sự ổn định cùng bền vững của bức tranh chính là unique với loại dầu. Có những chất hỗ trợ khác có thể được pha cùng rất tô dầu nhỏng sáp giá buốt, vật liệu bằng nhựa cây và véc ni. Những hóa học hỗ trợ này giúp những họa sỹ kiểm soát và điều chỉnh độ mờ, độ bóng đẹp, độ đậm quánh. Nó cũng tăng khả năng kết dính và che phủ hầu hết đường nét vẽ. Đó là hồ hết nhân tố đặc biệt, tác động trực kế tiếp kỹ năng trình bày của sơn dầu. Tranh ma đánh dầu được vẽ bởi cọ mà lại cũng có không ít bí quyết vẽ khác ví như vẽ bởi cất cánh hoặc giẻ. Sơn dầu thọ khô rộng các làm từ chất liệu khác. Điều đó cho phép các họa sỹ có thể sửa đổi màu sắc, bề mặt giỏi đường nét vào bức ảnh. Thông thường, bạn họa sĩ hoàn toàn có thể sa thải cả lớp tô dầu cũ để vẽ lại từ trên đầu. Đơn giản chỉ bằng cách lau bằng giẻ và vật liệu bằng nhựa thông nếu như tô còn ướt. Còn khi sơn vẫn khô thì yêu cầu được cạo. Dựa theo lịch sử hào hùng của màu sắc tempera (bột color trộn cùng với trứng cùng vẽ lên bề mặt thạch cao) và các các loại màu vẽ không giống ngơi nghỉ Châu Âu cho thấy thêm, màu đánh dầu được phạt hiện một bí quyết riêng lẻ. Có mọi vật chứng cho biết thêm tô dầu đã được sử dụng vô cùng sớm ở Afghanisrã. Dễ thấy các bề mặt bên cạnh ttách như tường bên xuất xắc khiên binh sĩ, thứ trang trí… Các mặt phẳng này lúc lấp bằng sơn dầu phần nhiều bền hơn so với các cấu tạo từ chất màu truyền thống lâu đời khác. Thời Phục Hưng, xuất hiện gần như “phát minh” vẽ tnhãi con bằng sơn dầu ở bảng mộc. Trong cuốn sách On Various Arts, Theophilus sẽ bao hàm trả lời rất cụ thể về kiểu cách vẽ ttrẻ ranh bằng sơn dầu. Vào thời kỳ này, tô dầu được sử dụng chủ yếu nhằm vẽ tượng. Kế chính là vẽ tô điểm đồ vật mộc, điêu khắc, nhất là những vật dụng dụng bên cạnh ttách. Phải đến thời bạn bè họa sỹ Van Eyông xã (khoảng chừng 1390 – 1441) bọn họ bắt đầu bao gồm thành công xuất sắc Khủng với đánh dầu. Họ đã đoạt cả đời mình vào Việc hoàn thành xong và cách tân và phát triển chuyên môn vẽ làm từ chất liệu sơn dầu. Màu sắc tô dầu đến thời kỳ này đã vào trẻo sáng chóe rộng. Màu có độ bóng đẹp rất đẹp, ko thấm nước, chắc chắn cùng Chịu được thử thách của thời hạn. Những tác phđộ ẩm đầu tiên vẫn là ttrẻ ranh vẽ nằm trong bảng mộc. Đến trong thời hạn thời điểm cuối thế kỷ 15, vải vóc toan canvas sẽ trngơi nghỉ cần phổ biến hơn. Vải toan tất cả ưu điểm giá tốt, dễ đi lại. Toan rộng phải có thể vẽ các bức tranh phệ. Các họa sỹ tại Venice, địa điểm vải căng buồm cực kỳ sẵn, đã trở thành phần đa họa sỹ đi đầu chuyển sang vẽ trên toan vải canvas. Những bức ảnh kích thước nhỏ tuổi cũng rất được vẽ bên trên kim loại, đặc biệt là bên trên các chiếc đĩa đồng. Dù hầu như vật liệu này đắt hơn nhưng mà bền bỉ theo năm tháng có thể, cho phép vẽ hồ hết chi tiết phức tạp. Người ta thường xuyên tận dụng bạn dạng kẽm đã qua sử dụng tận nhà in vào mục đích này. Trào giữ thực hiện sơn dầu tự Italia lan qua các nước Châu Âu khác. Đến năm 1540, các cấu tạo từ chất vẽ toắt cũ như tempera đang hoàn toàn bị thay thế. Dầu lanh là các loại dầu thường xuyên được sử dụng độc nhất vô nhị nhằm trộn tô dầu. Một điều thú vị là vải lanh cũng được sử dụng trong ttinh ranh vẽ. Dầu phân tử rum, dầu phân tử óc chó tốt dầu hạt anh túc cũng thỉnh thoảng được thực hiện. Các một số loại dầu này dùng để pha chế các Màu sắc sáng như white color. Tuy ít ngả tiến thưởng khi thô, nhưng mà bọn chúng bao gồm yếu điểm là thọ khô với ko được bền vững. Trong lúc ấy, dầu lanh có xu hướng làm Color ngả vàng lúc khô. Những tiến bộ về hóa học ngày nay vẫn cấp dưỡng ra các một số loại tô dầu new. Đó là loại tô có thể trộn loãng cùng rửa sạch mát bởi nước. Có một các loại sơn dầu new tân tiến rộng (thực ra là một trong một số loại hóa học dẻo). Màu này có công dụng chịu nóng rất tốt lên tới 130 – 138 độ C. Có thể nói đó là một số loại dầu không bao giờ khô. Họa sĩ không nhất thiết phải rửa cọ trừ khi hy vọng sử dụng màu khác. Dù rằng một số loại dầu này sẽ không thực sự là sơn dầu. Những tranh ảnh vẽ bằng cấu tạo từ chất mới này vẫn được xếp vào thể loại ttinh quái sơn dầu. Toan vẽ truyền thống lịch sử được thiết kế từ bỏ vải lanh. Sau này vải bông được thực hiện thoáng rộng rộng bởi vì ưu thế giá tốt hơn. hầu hết bề mặt được sử dụng để vẽ trong veo lịch sử vẻ vang hội họa. Phải kể đến: vải vóc đánh, ván gỗ, giấy, đá, gỗ nghiền với bìa cứng. Bề phương diện được thực hiện những độc nhất từ nỗ lực kỷ 16 chính là toan vải canvas. Dù cố gắng, những họa sĩ vẫn đã vẽ trên các tnóng nền cho tới thời nay. Tấm nền đắt hơn, nặng nề, cần thiết gấp gọn, khó khăn vào vận chuyển… Tuy nhiên, tấm nền lại có ích cố Khi vẽ những tranh ảnh đề nghị cụ thể cao. Các size tiêu chuẩn chỉnh mang đến trạng rỡ vẽ được xác lập trên Pháp từ cầm cố kỷ 19. Đây là dựa vào các form size thường xuyên được những họa sĩ áp dụng. Và còn vị những bên cung ứng vật liệu thường sản xuất những cỡ này. Trải sang 1 quá trình dài xuất hiện cùng trở nên tân tiến, thời nay sơn dầu được sử dụng rộng rãi. Trực rỡ sơn dầu là mô hình thẩm mỹ và nghệ thuật phổ cập trên toàn thế giới. Việc phạt hiện với hoàn thành xong gia công bằng chất liệu sơn dầu là một trong cuộc phương pháp mạng phệ của quả đât. Từ đó, tranh tô dầu vẫn có tác dụng biến hóa cùng cải thiện thẩm mỹ hội họa.
Tranh sơn dầu
Tranh sơn dầu là quá trình vẽ bằng bột màu với môi trường dầu khô làm chất kết dính. Các loại dầu sấy thường được sử dụng bao gồm dầu hạt lanh, dầu hạt anh túc, dầu óc chó và dầu cây rum. Sự lựa chọn của dầu tạo ra một loạt các tính chất cho sơn dầu, chẳng hạn như lượng màu vàng hoặc thời gian khô. Một số khác biệt, tùy thuộc vào dầu, cũng có thể nhìn thấy trong ánh sáng của sơn. Một họa sĩ có thể sử dụng một số loại dầu khác nhau trong cùng một bức tranh tùy thuộc vào các sắc tố và hiệu ứng cụ thể mong muốn. Bản thân sơn cũng phát triển một sự nhất quán đặc biệt tùy thuộc vào phương tiện. Dầu có thể được đun sôi với một loại nhựa cây, chẳng hạn như nhựa thông hoặc nhũ hương, để tạo ra một lớp vecni được đánh giá cao vì chất lượng và độ bóng của nó. Mặc dù sơn dầu lần đầu tiên đã được sử dụng cho các bức tranh Phật giáo bởi các họa sĩ ở miền tây Afghanistan vào khoảng giữa thế kỷ 5 và 10, nhưng nó đã không được phổ biến cho đến thế kỷ 15.
Chúng ta thường nghe danh FBI (Federal Bureau of Investigation) tài năng và quyền biến trong việc điều tra các tội phạm trong nước Mỹ, tiếng tăm lừng lẫy vang dội trên thế giới. Bài viết dưới đây nói về quá trình hoạt động và tổ chức của FBI từ khi bắt đầu cho đến nay. Hoa Kỳ có hai ngành tình báo, một đặc trách trong nước và một đặc trách nước ngoài. Trong nước là Cục Điều Tra Liên Bang (Federal Bureau of Investigation) gọi tắt là FBI, và nước ngoài là Trung Tâm Tình Báo Hoa Kỳ (Central Intelegence of America) gọi tắt là CIA . Trong bài này, người viết chỉ trình bày về FBI, còn CIA để một dịp khác. Vậy FBI là gì? nhiệm vụ chức năng của FBI hoạt động ra sao? FBI hoàn thành nhiệm vụ qua những chuyển biến của xã hội Hoa kỳ như thế nào trong 100 năm qua? tất cả những đó sẽ được lần lượt trình bày trong bài này. FBI được điều hành bởi một Giám Đốc (Director), nhiệm kỳ 10 năm (trừ trường hợp đăc biệt của Giám Đốc J.E.Hoover), Giám Đốc FBI do tổng thống bổ nhiệm và phải được quốc hội thông qua, ngoài ra còn có Cố Vấn Giám Đốc và nhiều Phụ Tá Giám Đốc (Assistant Director) để chỉ huy các bộ phận chuyên ngành. Trung tâm đầu não của FBI là nhà lầu 7 tầng, còn gọi là Toà J. Edgar Hoover toạ lạc tại 935 Pennsylvania Avenue, NW Washinton DC. FBI là cánh tay mặt của ngành Tư Pháp Hoa Kỳ. Nhiệm vụ chính của FBI đối với người dân và chính phủ Mỹ như sau:. 2) Bảo vệ nước Mỹ chống lại hoạt động tình báo nước ngoài trên đất Mỹ. 7) Chống lại mọi hình thức lừa gạt, gian lận, hối lộ, biển thủ công quỷ…. 9) Giúp đỡ nhân viên công lực cấp liên bang, tiểu bang, thành phố và đồng nghiệp quốc tế. 10) Cung cấp kỹ thuật tối tân nhất bảo đảm phương tiện cho nhân viên FBI hoàn thành nhiệm vụ. Với 10 nhiệm vụ chính được toàn dân Hoa Kỳ giao phó, nhân viên FBI phải điều tra 200 tội phạm khác nhau, tổ chức FBI chia 5 ngành chính, dưới mỗi ngành có những bộ phận chuyên nghiệp hoạt động, công tác như sau (Sự phân chia này thay đổi tùy từng giai đọan và tùy tình hình an ninh thế giới). Muốn làm việc cho FBI, ứng viên phải có quốc tịch Mỹ, ít nhất 23 tuổi, và không già hơn 37 tuổi, phải có bằng đại học 4 năm tốt nghiệp ở những trường đại học được Bộ Giáo Dục Hoa Kỳ thừa nhận. Ít nhất là có ba năm kinh nghiệm làm việc trong ngành, và sẵn sàng phục vụ bất cứ nơi nào được FBI chỉ định, được điều tra kỹ càng về hạnh kiểm và thử máu xem trong máu có chất ma túy hoặc các bịnh di truyền nào không, phải đủ điều kiện thể chất để tham dự những khóa huấn luyện của FBI. Trước mắt sơ khởi là 17 tuần huấn luyện căn bản. Sau khi trở thành nhân viên FBI, thì ký giấy cho cơ quan an ninh phối kiểm an ninh lý lịch (Security Clearence). Từ ngày khởi đầu thành lập năm 1908, cơ quan FBI chỉ là một Cơ Quan Đặc Biệt hoạt động giới hạn nếu không nói là lu mờ trong Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ, bắt đầu với 34 nhân viên không được trang bị vũ khí, Cơ Quan Đặc Biệt chỉ làm những trách nhiệm điều tra giới hạn như: luật lệ của ngân hàng quốc gia, phá sản, di trú, đầu cơ tích trữ, luật nhân công lao động và chiếm cứ đất đai bất hợp pháp. Đến năm 1910, Cơ Quan Đặc Biệt đổi tên thành Cục Điều Tra (Bureau of Investigation) và cũng là năm ra đời đạo luật Chống Mãi Dâm (White-Slave Act). Cục Điều Tra được giao thêm trách nhiệm điều tra và ngăn chận đàn bà vượt sang những tiểu bang khác làm nghề mãi dâm. Số nhân viên FBI được tăng lên 300 để đáp ứng nhu cầu công tác, đồng thời các chi nhánh văn phòng FBI được thiết lập tại một số thành phố lớn và tiểu bang để trực tiếp báo cáo công tác về Washington DC. Vào thời Đệ I Thế Chiến (1914-1918), tháng 4/1917 Hoa Kỳ tham gia cuộc chiến, trong giai đoạn này có sự xuất hiện của đảng Cộng Sản Quốc Tế ở Liên Xô qua cuộc Cách Mạng Nga năm 1917 của Lenin. Cục Điều Tra nhận lãnh thêm một trách nhiệm nặng nề nhằm chống lại xâm nhập tình báo của nước ngoài. Năm 1919, FBI phải vất vả loại trừ những thành phần gián điệp hoạt động tuyên truyền phá hoại thuộc tình báo Nazi của Hiller và Cộng Sản Nga Xô. Tháng 10/1919 Quốc Hội Hoa Kỳ lại thông qua đạo luật “Trộm Xe Hơi”, vì các tay ăn cắp xe hơi vượt qua các tiểu bang khác để bán hoặc sử dụng, công việc này cũng thuộc trách nhiệm của Cục Điều Tra có tính cách liên bang. Do đó Cục Điều Tra lại thêm một trọng trách nữa. Nói đến FBI mà không nói đến công trạng của John Edgar Hoover là một thiếu sót lớn! bởi vì ông là người lãnh đạo FBI ròng rã 48 năm, là người đưa cơ quan tiền thân của FBI từ một tổ chức lu mờ trở nên một cơ quan điều tra lừng danh thế giới. Tính đến nay FBI hơn một trăm năm, thì giám đốc John Edgar Hoover đã miệt mài bỏ công vun xới cho FBI một nửa chiều dài hoạt động của cơ quan này. Từ bước đầu gập ghềnh muôn vàn khó khăn, được Hoover không ngừng cải cách và đã đạt được những thành tích vẻ vang để ngày hôm nay cả thế giới ai nghe đến FBI phải nể sợ. Vậy John Edgar Hoover là ai?. Người Mỹ có những con người kỳ lạ làm nên một góc lịch sử cho Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, ông John Edgar Hoover là một trong những nhân vật kỳ lạ ấy, FBI là công trình của ông. Ông sinh ngày 1/1/1895 tại Washington DC, ông sống ở Washington DC từ thuở ấu thơ đến khi tốt nghiệp cử nhân luật khoa năm 1917 tại George Washington University. Trong thời gian ở DC, ông vừa học vừa làm việc tại Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ (Library Of Congress). Cuộc đời của Hoover sinh ra, lớn lên, làm việc, và chết chỉ trong trong địa hạt nhỏ bé gọi là District of Columbia (DC). Nhưng tên ông vang dội khắp thế giới, một nhân vật hàng đầu trong ngành điều tra, tình báo và phản tình báo. J. E. Hoover sống cuộc đời độc thân, có tin đồn cho ông đồng tình luyến ái? Nhưng cũng có tin cho rằng vì ông đam mê công việc nên không lập gia đình?. Sau khi tốt nghiệp Đại Học Luật Khoa năm 1917, ông được người cậu giới thiệu vào làm cho Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ. Năm 1919, mới 24 tuổi, Hoover được đề bạt lãnh đạo một bộ phận tình báo mới của Bộ Tư Pháp gọi là General Intelligence Division (GID). GID có nhiệm vụ điều tra Cộng Sản xâm nhập hoạt động tại Mỹ. Ông bắt tay vào việc với cả một lòng nhiệt tình hăng say nghề nghiệp, ông dùng phương pháp phân định bằng cách ghi chép những sự kiện trên những phiếu theo mẫu tự để dễ tra cứu. Trong một năm, GID đã điều tra và ghi nhận sự kiện tình báo trên 450,000 phiếu ghi. Từ đó ông dùng phương pháp suy luận, đánh giá qua sự kiện để tìm ra những người gián điệp hoặc điềm chỉ viên. Vào ngày 02/1/1920, Hoover đã phối hợp với cảnh sát địa phương bắt giữ hàng ngàn tội danh đã tham gia đại hội Đảng Cộng Sản và Đảng Lao Động (trá hình Cộng Sản) trên 33 địa điểm tại Hoa Kỳ. Cuộc bố ráp này là do lệnh của Bộ Trưởng Tư Pháp, ông Palmer, cho nên gọi là “Palmer Raids” (Palmer Đột Kích). Cục Điều Tra và GID đã tạo nhiều thành tích trong việc loại trừ điệp viên và những tổ chức ngoại vi của Cộng Sàn thời bấy giờ. Mặc dù với thành công lớn lao như vậy, nhưng Hoa kỳ là một nước tự do, nên chiến dịch Palmer Đột Kích cũng bị quốc hội và báo chí chỉ trích là “lộng hành”, “không cho luật sư bênh vực phạm nhân” v.v. còn đảng Cộng Sản thì bị một vố đau nên tha hồ mà bới móc tuyên truyền. Dựa vào những thành của GID, ngày 10/05/1924, J. Edgar Hoover, 29 tuổi, được Tổng Thống Kevin Coolidge đề bạt vào Giám Đốc Cục Điều Tra – tiền thân của FBI, lúc đó cơ quan này chỉ có 650 nhân viên. Mục đích để “dọn dẹp” vụ xì-căng-đan của Cục Điều Tra và cải cách cơ quan này. Tân giám đốc trẻ, đầy nhiệt huyết phục vụ, lập tức bắt đầu hàng loạt các cải cách giúp FBI trở nên “chuyên nghiệp”. Ông thay thế những nhân viên không đủ khả năng, chọn lựa kỹ lưỡng những nhân viên mới có tư cách, trách nhiệm và năng lực, tăng cường biện pháp điều tra hữu hiệu, thu thập bằng chứng phạm nhân một cách khoa học v.v. Năm 1932, Hoover đã tăng cường sức mạnh cho FBI, tạo ra một kho lưu trữ quốc gia với các bản thống kê và nhận dạng tội phạm. Xây dựng một phòng thí nghiệm kỹ thuật để nhận dạng phạm nhân qua dấu chỉ tay, phòng thí nghiệm này là tiền thân của phòng Lab tối tân nhất thế giới hiện nay của FBI. Cũng trong năm 1932 cơ quan FBI phổ biến sâu rộng trong quần chúng thông báo bắt người được dán khắp nơi cộng cộng trên toàn nước Mỹ để tìm phạm nhân gọi là “Cảnh Sát Tìm Kẻ Đào Thoát” (Fugitives Wanted by Police), nay chúng ta thường thấy là “Most Wanted” trên có chữ FBI thường hay dán ở bưu điện hoặc các nơi công cộng. Trong thời gian này nhân viên FBI đã mở nhiều khóa huấn luyện kỹ thuật điều tra cho cảnh sát địa phương toàn quốc. Đầu năm 1940, FBI đã mở nhiều khoá huấn luyện kỹ thuật và phương pháp điều tra trên khắp thế giới. Một trong những nét son của giám đốc Hoover là vào thập niên 1930, những năm mà người dân Hoa Kỳ thường gọi là sống “không có pháp luật”, những tay anh chị trong các băng đảng cướp lộng hành, việc bắt cóc đàn bà chở đi xuyên bang làm nghề mãi dâm, trộm xe hơi trốn sang tiểu bang khác, cướp ngân hàng, băng đảng thanh toán nhau xẩy ra như cơm bửa. Các đảng cướp này là những tay thiện nghệ bắn nhanh trúng đích, thích đâu nổ súng đó chẳng xem luật lệ ra gì. Một trong những tay cướp này có một tướng cướp lừng danh tên John H. Dillinger bắn súng giỏi, thành tích vượt tù xuất quỷ nhập thần như ma, có lần tay chân hắn bị còng nhưng hắn tự mở xích rồi đục mái nhà tù và giết luôn cai tù để vượt ngục. Còn cướp nhà băng thì hắn thuộc loại siêu hạng, bất cứ loại cửa sắt kiên cố như thế nào hắn cũng mở được để cướp tiền. Dillinger tung hoành ngang dọc tại các tiểu bang miền Trung và miền Tây Hoa Kỳ, cảnh sát địa phương đành chịu bó tay phải cầu cứu FBI. Giám đốc Edgar Hoover lại bắt tay vào việc với một tinh thần trách nhiệm cao độ, ông đương đầu với hiểm nguy một cách dũng cảm đầy thông minh và sáng tạo, cuộc đời ông lên cao hay bỏ mạng cũng ở giai đoạn thách đố này! Trước hết, bằng mọi cách, giám đốc Hoover phải loại tên đầu đảng Dillinger. Sau một thời gian săn đuổi, FBI cũng bị Dillinger bắn chết mấy nhân viên đặc biệt. Cuộc săn đuổi diễn ra từng giờ, FBI phát hiện Dillinger có một tình nhân trẻ đẹp tên Polly Hamilton, và cô này có người bạn thân tên Ana Sage là người Đông Âu tạm trú ở Hoa Kỳ, nhưng sắp bị trục xuất về nước vì giấy tờ hết hạn, Ana biết được Dillinger nhờ nhận diện hắn qua báo chí. FBI sắp xếp kế hoạch mua chuột cô Ana bằng tiền thưởng và hứa giúp ở lại Hoa Kỳ. Sau khi kế hoạch sắp đặt, vào cuối tháng 7/1934 do tiết lộ của Ana Sage, Dillinger bị nhân viên FBI bắn chết tại chỗ khi hắn vừa rút súng trước rạp hát Biograph Theater tại thành phố Chicago. Rồi thì những tay cướp đồng bọn và các băng đảng cướp khác lần lượt sa lưới FBI không còn một tên, đời sống dân chúng trở lại yên ổn, luật pháp được áp dụng đúng mức để bảo vệ người dân, không còn cảnh sợ hãi bọn găng-tơ trấn lột. Cơ quan FBI được quần chúng ngưỡng mộ và ca ngợi như là một cơ quan tình báo anh hùng. Tiếng tăm của giám đốc Hoover được xem như một trùm tình báo bảo vệ an ninh cho dân chúng Hoa kỳ. Những thử thách cam go của bọn băng đảng cướp vừa mới giải quyết thì bọn gián điệp từ ngoài ập tới trên đầu giám đốc FBI. Đức-Ý-Nhật của đảng Nazi Hitler, Cộng Sản (CS) của Stalin đang xem Mỹ như là một trở ngại cho sự xâm lăng bành trướng của họ, tình báo Nazi, tình báo CS ngày đêm xâm nhập để phá hoại tiềm lực Hoa Kỳ, một quốc gia đang vươn lên rất mạnh trong chế độ tự do dân chủ. Với những khó khăn ấy, trong khi FBI chỉ có trong tay 654 nhân viên đặc biệt, 1141 nhân viên yểm trợ, và 42 chi nhánh lớn nhỏ trên toàn nước Mỹ mà phải gánh vác trọng trách quá lớn lao.
Cục Điều tra Liên bang
Cục Điều tra Liên bang (tên gốc tiếng Anh: Federal Bureau of Investigation viết tắt FBI) là một cơ quan trực thuộc Bộ Tư pháp Hoa Kỳ, có nhiệm vụ thực hiện điều tra tội phạm ở cấp độ liên bang và tình báo nội địa. FBI có quyền hạn điều tra về các vi phạm trong hơn 200 danh mục về tội ác liên bang. Khẩu hiệu của Cục là Trung thành, Quả cảm, Liêm chính. Trụ sở của Cục là Tòa nhà J. Edgar Hoover tọa lạc tại thủ đô Washington, D.C. Còn 56 văn phòng đại diện nằm rải rác và hơn 400 cơ quan địa phương ở các thành phố nhỏ và thị trấn trên khắp các thành phố lớn của Hoa Kỳ. Ngoài ra, Cục còn có hơn 50 văn phòng được gọi là ‘’tùy viên pháp lý’’ bên trong các lãnh sự Hoa Kỳ trên khắp thế giới. Năm 1886, Tòa án Tối cao nhận thấy rằng liên bang không hề có đủ thẩm quyền điều chỉnh một số vấn đề xảy ra ở cùng lúc nhiều tiểu bang, dẫn đến Đạo luật Thương mại Liên bang ra đời năm 1887 nhằm tạo ra một cơ quan thực thi pháp luật có đủ thẩm quyền trong việc giải quyết các vụ việc mang tính chất cấp Liên bang.
X) (2 tháng 6 năm 1835 – 20 tháng 8 năm 1914), tên khai sinh: Melchiorre Giuseppe Sarto là vị Giáo hoàng thứ 257 của Giáo hội Công giáo Rôma từ 1903 đến 1914. Ông là người đầu tiên từ thời giáo hoàng Piô V (1566-1572) được phong thánh. Piô X là Giáo hoàng đóng vai trò quan trọng trong việc cải cách hệ thống Giáo luật Công giáo. Niên giám tòa thánh năm 2003 xác định ông đắc cử Giáo hoàng ngày 4 tháng 8 năm 1903, ngày khai mạc chức vụ mục tử đoàn chiên chúa là ngày 9 tháng 8 và kết thúc triều đại của mình vào ngày 20 tháng 8 năm 1914. Piô X được coi là một vị thánh của phép Thánh thể và là một trong những Giáo hoàng vĩ đại của thế kỷ 20. Ông là biểu tượng cho đức tính bình dị mộc mạc nhưng cương quyết ngay thẳng. Piô X là một người rất thông minh, cần mẫn và sáng trí. Ông xuất thân từ một gia đình bình dân sinh sống tại Venezia nước Ý và là con trai thứ hai trong gia đình gồm mười anh chị em. Cha ông là một nông dân nghèo và đồng thời kiêm thêm nghề đưa thư, và mẹ ông là một thợ may quần áo nữ. Ngay khi còn nhỏ, cũng giống như cha mẹ ông, ông rất đạo đức và luôn ước ao được làm Linh mục. Tuy nhiên, vì hoàn cảnh kinh tế của gia đình quá eo hẹp thiếu thốn, ước muốn thánh thiện đó hầu như chỉ là một giấc mơ bất thành mà thôi. Khi được mười một tuổi, Beppo – cái tên người ta thường gọi ông – hằng ngày phải đi bộ bảy cây số đến học tại trường La-tinh ở Castelfranco hầu để kết thúc được chương trình trung học phổ thông và để theo học triết và thần học, mãi cho tới khi ông được nhận vào Chủng viện ở Padua. Ông học tiểu chủng viện Pađua và thụ phong linh mục vào năm 1858 (23 tuổi). Ông làm cha phó giáo xứ Tomholo. Công việc chính trong ngày của ông chỉ quanh quẩn từ bàn thờ đến toà giảng và toà giải tội. Sau đó, ông được đề cử làm cha quản xứ Salzano. Giám mục (Zinelli de Treviso) đã phê nhận về cha Sarto sau chuyến kinh lý giáo xứ Salzano của ông như sau:. Trong giáo xứ bao trùm một bầu không khí thật đạo đức sốt sắng. Toàn thể giáo dân đều một lòng với cha quản xứ. Việc đón nhận các bí tích rất hồ hởi, số người rước lễ rất cao. Các trẻ em trong giáo xứ được dạy dỗ giáo lý rất chu đáo cẩn thận. Còn tất cả những gì liên quan đến Thánh Lễ thì hoàn toàn không thể chê vào đâu được cả. Sau đó, linh mục Sarto được đề cử làm linh mục quản xứ nhà thờ chính tòa, Tổng đại diện và làm giáo sư tại Đại Chủng viện Treviso. Ông làm kinh sĩ tại nhà thờ chính tòa Treviso năm 1875. Sau 5 năm liền làm cha Tổng Đại diện ở Treviso, Giáo hoàng Lêô XIII tấn phong linh mục Sarto làm Giám mục Mantua vào năm 1884. Giám mục Sarto điều khiển giáo phận Mantua mãi cho tới năm 1893. Trong một lá thư luân lưu gửi các giáo xứ, Giám mục viết là ở đây “các nhà thờ thì giá lạnh hoang tàn, các bàn thờ bị bỏ không, các toà giảng thì câm nín và các toà giải tội thì trống rỗng, bởi vì thiếu các Linh mục để đảm nhận những công việc cao cả đó”. Để cải thiện tình trạng các giáo xứ, nhất là để tìm phương cách cổ vũ và làm sống lại ơn gọi Linh mục đang thiếu thốn trầm trọng, Sarto đã triệu tập một Công nghị giáo phận. Chương trình chầu và tôn thờ Mình Thánh Chúa là trọng tâm mà ông muốn đặt lên hàng đầu trong công cuộc cải thiện tình trạng của giáo phận. Vì thế, Giám mục Sarto đã cho đặt Mình Thánh Chúa trên bàn thờ và ông cùng với toàn thể các Linh mục chầu suốt một tiếng đồng hồ liền. Ông đã giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Giáo Triều Roma. Ông đã chu toàn trách nhiệm chủ chăn, chuyên lo đào tạo hàng giáo sĩ, thương yêu, lưu tâm đến người nghèo và để ý tới phụng vụ. Với những cố gắng phục vụ Giáo hội, lo lắng cho tha nhân, ngày 15 tháng 6 năm 1893, ông được phong làm Hồng y, Giáo chủ Venezia. Triều đình Ý trước tiên đã từ chối chuẩn nhiệm (exequatur) ông với lý do là việc bổ nhiệm ông là việc của triều đình Áo–Hung. Sarto phải đợi đến 18 tháng sau mới nhận được giáo phận mới của mình. Hai năm sau đó xảy ra tại Venezia một sự cố xúc phạm đến Mình Thánh Chúa một cách nặng nề. Số là có kẻ gian phi đã vào nhà thờ ăn trộm chén đựng Mình Thánh Chúa trong Nhà Tạm và mang cả Mình Thánh Chúa ra đổ khắp nơi ngoài đường đi lại. Thượng Phụ Sarto đã kêu mời tất cả mọi tín hữu trong giáo phận làm việc đền bù phạt tạ tội phạm thánh công khai như thế và lời kêu gọi của ông đã được mọi tín hữu khắp nơi hưởng ứng. Tiếp đến, để mọi người sống đức tin Kitô giáo trong cuộc sống cụ thể hằng ngày của mình, Hồng y Sarto đã khuyến khích mọi người hãy siêng năng tham dự Thánh Lễ. Bởi vậy, vào năm 1896, ông đã tổ chức đại hội Thánh Thể toàn giáo phận tại Venezia. Và để ca tụng Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể và để phạt tạ những tội lỗi nhân loại đã xúc phạm đến Bí tích Tình Yêu này, chính ông đã giảng lễ và diễn giải về mầu nhiệm Thánh Thể một cách hùng hồn và đầy ấn tượng. Từ đó đoàn ngũ các tín hữu đã đáp lại lời kêu mời của ông và đã đi tham dự Thánh Lễ rất đông. Tại các giáo xứ các tín hữu còn tổ chức chầu Mình Thánh suốt cả đêm ngày nữa. Tháng 8 năm 1903, 62 vị Hồng y họp để bầu ra người kế vị Giáo hoàng Lêô XIII. Đây là cuộc bầu Giáo hoàng cuối cùng có thế quyền ảnh hưởng vào. Khi đó, các Hoàng đế Áo-Hung, Vua Pháp và Vua Tây Ban Nha còn đang có quyền “veto” (quyền phủ quyết) các ứng cử viên Giáo hoàng. Chính vì thế Hoàng đế Áo-Hung đã dùng quyền này loại trừ một ứng cử viên rất vượt trội là Hồng y Mariano Rampolla – tổng trưởng ngoại giao. Trong Cơ mật viện được mở ra ngày 1 tháng 8 năm 1903, hồng y Puzyna, tổng Giám mục của Cracovie cho biết Hoàng đế Áo-Hung phủ quyết việc bầu ông này. Vậy là Rampolla không được bầu. Sau này người ta không biết rõ ràng Hồng y Rampolla có phải là người mà các vị Hồng y khác chọn làm Giáo hoàng hay không. Thế nhưng trong cuộc bầu này Hồng y Giuseppe Sarto đã trở thành Giáo hoàng, lấy tông hiệu là Piô X. Thời gian Cơ mật viện họp bầu là 4 ngày. Sau khi lên ngôi Giáo hoàng, việc đầu tiên vị Giáo hoàng này làm là viết một sắc lệnh hủy bỏ đặc quyền “veto” của các vị vua. Người ta kể lại rằng trong lần bầu Giáo hoàng này, khi nhận thấy các Hồng y có mặt trong cơ mật viện cứ từ từ dồn phiếu cho mình mỗi lúc mỗi tăng lên, hồng y Giuseppe Sarto, Thượng Phụ thành Venezia/Ý, với thái độ đầy run sợ đã khẩn khoản xin các Hồng y trong cơ mật viện: “Tôi bất lực và không xứng đáng. Xin các Đức Hồng y hãy quên tôi đi!” Cuối cùng 50 trong số 62 vị Hồng y trong cơ mật viện đã bỏ phiếu bầu ông làm Giáo hoàng. Khi nhận rõ được ý Chúa muốn ông gánh vác trách nhiệm của Giáo hội, ông đã nói với cơ mật viện:. Trong lịch sử Giáo hội Công giáo Rôma, Giáo hoàng Piô X là một trong những vị đại Giáo hoàng đã canh tân Giáo hội nhiều nhất, đúng với khẩu hiệu của ông đã chọn khi lên ngôi Giáo hoàng: “Đổi mới tất cả trong Đức Kitô”. Ngay khi vừa lên ngôi Giáo hoàng, việc đầu tiên là ông đã ra tông thư Commissum Nobis để quyết định trong các cuộc bầu trong mật nghị sau này, không ai được dùng chính trị ảnh hưởng. Việc chú giải khẩu hiệu “Thiết lập mọi sự trong Đức Kitô” của ông, qua thông điệp đầu tiên của ông E supremi apostolatus (1903) cho thấy ông xác tín rằng Giáo hội mang trong mình tất cả mọi khả năng thiêng liêng và không cần phải nhận lãnh những khả năng ấy từ bất cứ ai ở bên ngoài. Ông đã không có được những đức tính cần thiết của một nhà ngoại giao. Nhưng ông đã bù lại những điều bất lợi này bằng cách tập họp quanh mình những người có năng lực như hồng y Rafael Merry del Val, 38 tuổi biết nhiều thứ tiếng và là giám đốc Viện hàn lâm các quý tộc giáo hội, mà Giáo hoàng Piô X đã bổ nhiệm làm tổng trưởng ngoại giao. Ông đã tập hợp các lợi tức của đồng tiền thánh Phêrô và các lợi tức của Vatican cho việc mua các căn hộ mới. Vào năm 1905, khi Pháp bất đồng với Tòa Thánh và đe dọa sẽ tịch thu tài sản của Giáo hội nếu không cho phép chính quyền xen vào các vấn đề nội bộ của Giáo hội, Giáo hoàng đã can đảm từ chối thỉnh cầu này. Cuộc đấu tranh chống nhà thờ lại trở lại sau vụ Dreyfus (vụ kết án oan Alfred Dreyfus, sĩ quan Pháp theo Do Thái giáo, làm gián điệp cho Đức). Kết quả là sự cắt đứt giữa các giáo hội và nhà nước vào tháng 12 năm 1905. Giáo hoàng Piô IX cấm giáo dân Ki-tô Pháp tuân theo pháp luật bằng cách lập những hiệp hội thờ cúng. Thông điệp Vehementer Vos của Giáo hoàng (ngày 11 tháng 2 năm 1906) lên án đạo luật “Chính giáp phân ly” đã công bố ở Pháp ngày 9 tháng 12 năm 1905, sự tách biệt Giáo hội và Nhà nước bằng một văn kiện đơn phương. Ngày 10 tháng 8 năm 1906 qua tông thư Gravissimo munere, ông phủ nhận việc thành lập: “Hội đồng Tôn giáo” đồng thời ban phép cho các giám mục đưa ra những biện pháp cần thiết để đối phó với tình thế. Vậy là tại Pháp đã có chế độ tách rời Giáo hội với nhà nước “triệt để nhất trên thế giới”. Giáo hoàng Piô X đã mở đường để việc giao hảo dễ dàng hơn với vương quốc Ý, khuyến khích người Công giáo tham gia chính trị, bỏ phiếu,… Ông chấp nhận việc phân lập giữa Giáo hội và thế quyền và cho rằng một hàng giáo sĩ nghèo, như ở nước Pháp. Năm 1881, ông phải chia lại ranh giới và giảm thiểu số giáo phận ở Bồ Đào Nha còn 3 tổng Giám mục và 9 Giám mục. Năm 1896, ông tuyên bố sự vô hiệu trong việc tấn phong giám mục và linh mục của Anh giáo. Ông cũng thiết lập hàng giáo phẩm Ireland (Ái Nhĩ Lan) với hai tòa tổng Giám mục. Ông tôn phong thánh Curé d’Ars như một biểu tượng và gương mẫu cho các linh mục và hàng giáo sĩ. Ngay từ đầu, Giáo hoàng Piô X đã quan tâm một cách đặc biệt đến chương trình mục vụ trong Giáo hội. Ông tìm cách quân bình giữa thế giới tân tiến và truyền thống Kitô giáo. Nhưng trước hết, ông chăm lo đến việc canh tân nội bộ Giáo hội, đúng với khẩu hiệu của ông: “Đổi mới tất cả trong Đức Kitô”. Theo ông, trước hết các linh mục phải lo sống thế nào để có được Chúa Giêsu trong chính mình, nếu họ muốn mang Chúa đến cho những kẻ khác. Là những Linh mục của Chúa, chúng ta cần phải giới thiệu Đức Kitô cho mọi người và hành động trong tinh thần của Người. Là bạn hữu nghĩa thiết của Người, chúng ta ‘phải có những tâm tình như Đức Kitô’ (Pl 2,5), Đấng hoàn toàn thánh thiện, vô tội và tinh tuyền. Bởi vì tình bạn luôn đòi hỏi phải cùng ước muốn hay không ước muốn như nhau. Năm 1907, Giáo hoàng Piô X trao cho dòng Biển Đức việc in ấn một bản dịch Vulgata dựa theo khoa chú giải (Sáng thế ký phát hành 1926); và sau đó 2 năm, Học viện Thánh kinh Giáo hoàng được thành lập (sau này đã sáp nhập vào đại học Gregorian). Nhiều việc cải cách khác liên quan đến lễ nghi phụng vụ, Hiến chế Divino afflatu vào ngày 1 tháng 11 năm 1911 sửa đổi việc đọc Thánh vịnh trong Kinh Thần Vụ; tự sắc về Thánh nhạc ngày 11 tháng 11 năm 1903 đề cao bình ca Gregorian trong phụng vụ và cấm dùng các bản nhạc đời thường trong thánh đường. Sau cùng nhiều vị Hiển thánh và Chân phước được tuyên phong trong đó có 28 Chân phước tử đạo Việt Nam. Ông đã tái lập Công việc của các Đại hội dưới tên là Hành động đại chúng Kitô giáo (Action populaire chrétienne) và đã thành lập tại Bergame một Trường Khoa học Xã hội. Bằng một bức thư năm 1910 gửi cho hàng Giám mục Pháp, ông đã lên án phong trào Sillon của Marc Sangnier. Năm 1911, ông lên án sự dung hòa tôn giáo trong các nghiệp đoàn Ki-tô giáo nước Đức. Đời sống tôn giáo và xã hội phải luôn là một học hỏi nghiên cứu để đạt đến vẻ cao đẹp của Chúa Kitô, để nâng cao nhân phẩm và đem thế giới trở về khái niệm ban đầu là hòa hợp, hoà giải và hòa bình. Ngày 3 tháng 7 năm 1907, ông ban hành thông điệp Lamentabili kết án 65 mệnh đề duy tân thuyết. Trong đó có đoạn:. Mạc khải là ý thức đắc thủ do con người trong tương quan với Thiên Chúa. Sự Phục Sinh không đúng nghĩa là biến cố lịch sử mà là sự kiện siêu nhiên mà lương tâm Kitô hữu dần dần diễn dịch ra từ những sự kiện khác. Đạo Công giáo ngày nay không thể nào nối kết được với khoa học trừ khi phải biến đổi thành thứ Kitô giáo không còn tính cách tín điều. Ngày 8 tháng 9 năm 1907, Giáo hoàng Piô X ban hành Thông điệp Pascendi lên án những sai lạc của các người theo thuyết Duy Tân. “Nhìn tổng quát cả hệ thống, có ai còn ngạc nhiên khi ta xác định nó là điểm hội ngộ của tất cả mọi lạc thuyết chăng ?… Những nhà duy tân thuyết không những hủy diệt đạo Công giáo mà là mọi tôn giáo, như ta đã từng nhấn mạnh”. Sau đó những ủy ban kiểm soát các thành viên Duy Tân Thuyết được thành lập. Các giáo sĩ làm giáo sư hay nhận chức vụ từ nay phải tuyên thệ chống Duy tân thuyết (1910).
Giáo hoàng
Giáo hoàng (tiếng Latinh: papa, tiếng Hy Lạp: πάππας pappas, chữ Hán: 教皇) là vị giám mục của Giáo phận Rôma, lãnh đạo tối cao của Giáo hội Công giáo toàn thế giới. Theo quan điểm của Giáo hội Công giáo, giáo hoàng là người kế vị Thánh Phêrô - tông đồ trưởng của Chúa Giêsu, với vai trò là người giữ chìa khóa thiên đàng, là "tảng đá" để xây dựng nên giáo hội. Giáo hoàng đương kim là Phanxicô, người được bầu chọn vào ngày 13 tháng 3 năm 2013, kế vị Giáo hoàng Biển Đức XVI thoái vị. Thời gian tại vị của một giáo hoàng được gọi là "triều đại giáo hoàng" và thẩm quyền của ông đối với giáo hội thường được gọi là "quyền Tông Tòa" (tiếng Anh: Papacy) mà thực thể đại diện cho quyền lực đó gọi là Tòa Thánh (tiếng Latinh: Sancta Sedes), dựa trên truyền thống Giáo hội cho rằng đó là "chiếc ngai tòa" của Thánh Phêrô trên cương vị là Giám mục Roma. Giáo hoàng cũng là nguyên thủ quốc gia của Thành Vatican, một thành bang có chủ quyền nằm trong lòng thành phố Roma của nước Ý. Thể chế Giáo hoàng là một trong những cách tổ chức lâu đời nhất trên thế giới và đã đóng một phần nổi bật trong lịch sử nhân loại.