text
stringlengths 100
198k
|
---|
Johnny Paul Koroma (9 tháng 5 năm 1960 – 1 tháng 6 năm 2003/10 tháng 8 năm 2017) là trung tá quân đội, nguyên thủ quốc gia Sierra Leone từ tháng 5 năm 1997 đến tháng 2 năm 1998.
Là người Limba, Koroma bắt đầu binh nghiệp năm 1985 và nhanh chóng thăng tiến. Năm 1991, khi Nội chiến Sierra Leone nổ ra, Koroma chỉ huy quân chính phủ chống lại nhóm nổi dậy Mặt trận Liên minh Cách mạng (RUF). Năm 1996, Koroma bị bắt khi bị tình nghi âm mưu đảo chính Tổng thống Ahmad Tejan Kabbah. Năm 1997, Kabbah bị đảo chính lật đổ, Koroma được thả và trở thành lãnh đạo của chính quyền quân sự Hội đồng Cách mạng Quân lực (AFRC). Koroma liên minh với RUF và gây ra những vu cướp bóc, hãm hiếp, giết hại dân thường, nhân viên cứu trợ và lực lượng gìn giữ hòa bình trong khoảng 9 tháng nắm quyền. Năm 1998, Cộng đồng Kinh tế Tây Phi (ECOWAS) can thiệp lật đổ Koroma.
Năm 2003, Koroma bị Tòa án Đặc biệt Sierra Leone truy tố về tội ác chiến tranh, tội ác chống lại nhân loại và các tội danh khác do vai trò trong chiến tranh. Koroma được cho là đã trốn sang Liberia lưu vong nhưng bị ám sát cùng năm đó. Tuy vậy, nguồn tin khác lại cho rằng Koroma qua đời ở Sierra Leone năm 2017.
Tham khảo
Quân nhân Sierra Leone
Sinh viên tốt nghiệp Học viện Quân sự Hoàng gia Sandhurst
Mất năm 2003
Sinh năm 1960 |
Liên minh miền Trung () là một quốc gia được đề xuất bao gồm các bang của Mỹ nằm ở những bang vùng biên giới và miền trung trước khi Nội chiến Hoa Kỳ bùng nổ vào năm 1861.
Bối cảnh
Vào tháng 12 năm 1860 và tháng 1 năm 1861, bảy bang ở miền nam nước Mỹ tuyên bố ly khai khỏi Hoa Kỳ sau cuộc bầu cử năm 1860 của Abraham Lincoln, vì lo sợ rằng ông này sẽ làm tổn hại đến thể chế nô lệ. Những bang miền nam này lập ra Liên minh miền Nam Hoa Kỳ.
Một số nhân vật nổi bật ở miền Bắc, các bang Biên giới và Thượng Nam đề nghị Mỹ nên cho phép các bang miền nam ly khai một cách hòa bình. Ở các bang Biên giới và Thượng Nam, cũng có những người muốn bang của họ gia nhập Liên minh miền Nam. Cựu Dân biểu John Pendleton Kennedy và Thống đốc Thomas Hicks, cả hai đều thuộc Maryland, đã kêu gọi thành lập một Liên minh miền Trung bao gồm các bang Virginia, Kentucky, Tennessee, Missouri, North Carolina và Maryland.
Kế hoạch
Kennedy từng xuất bản một cuốn sách nhỏ có nhan đề The Border States vào ngày 15 tháng 12 năm 1860, đề xuất sự ly khai và liên minh của sáu bang biên giới: Virginia, Kentucky, Tennessee, Missouri, North Carolina và Maryland. Hicks ủng hộ kế hoạch này trong lá thư ngày 2 tháng 1 năm 1861 gửi Thống đốc Delaware William Burton. Khi Liên minh miền Nam được hình thành một cách hòa bình, tình cảm của báo chí và người dân Maryland, Delaware, New Jersey, Pennsylvania và New York lên đến mức cao nhất đối với việc thành lập Liên minh miền Trung. Tuy nhiên, lời hùng biện này đã bị đảo ngược sau cuộc tấn công của quân miền Nam vào Pháo đài Sumter.
Tham khảo
Nội chiến Hoa Kỳ
Giới thiệu năm 1860
Quốc gia được đề xuất
Chủ nghĩa ly khai ở Hoa Kỳ |
là một khu phố thuộc quận Shibuya, thủ đô Tokyo, Nhật Bản. Với mệnh danh là "Brooklyn của Tokyo", Daikanyama được biết đến là trung tâm thương mại và cửa hàng thời trang nổi tiếng.
Tham khảo |
Maximilian Joseph xứ Bayern (gọi đúng hơn là Maximilian Joseph tại Bayern; tiếng Đức: Maximilian Joseph in Bayern; 4 tháng 12 năm 1808 – 15 tháng 11 năm 1888), thường gọi là Max ở Bayern, là thành viên thuộc dòng nhánh của Vương tộc Wittelsbach vốn là Quốc vương Bayern, và là người quảng bá cho âm nhạc dân gian của Bayern. Maximilian Joseph được biết đến nhiều nhất hiện nay với cách là cha của Hoàng hậu Elisabeth của Áo ("Sisi") và ông cố của Quốc vương Léopold III của Bỉ.
Tiểu sử
Maximilian Joseph sinh ra tại Bamberg, là con trai duy nhất của Pius August xứ Bayern (1786–1837) và Amalie Luise xứ Arenberg (1789–1823). Vào ngày 9 tháng 9 năm 1828, tại Tegernsee, Maximilian Joseph kết hôn với Ludovika Wilhelmine của Bayern, con gái thứ sáu của Quốc vương Maximilian I Joseph của Bayern. Maximilian Joseph và Ludovika Wilhelmine có mười người con.
Hậu duệ
Huân chương
Maximilian Joseph xứ Bayern đã nhận được những huân chương sau:
: Knight of the Order of Saint Hubert
: Grand Cross of the Grand Ducal Hessian Order of Ludwig, 26 November 1849
Kingdom of Prussia: Knight of the Order of the Black Eagle, 20 November 1841
: Knight of the Order of the Rue Crown, 1864
:
Grand Cross of the Royal Hungarian Order of Saint Stephen, 1853
Knight of the Distinguished Huân chương Lông cừu vàng, 1854
Kingdom of Greece: Grand Cross of the Order of the Redeemer
: Grand Cross of the Illustrious Royal Order of Saint Ferdinand and Merit
Gia phả
Tham khảo
Nguồn tài liệu
Dreyer, Aloys. Herzog Maximilian in Bayern, der erlauchte Freund und Förderer des Zitherspiels und der Gebirgspoesie. München: Lindauer, 1909.
Damien Bilteryst, Olivier Defrance, Joseph van Loon: Les Biederstein, cousins oubliés de la reine Élisabeth, années 1875-1906. Museum Dynasticum, Bruxelles, XXXIV/1 2022.
See also parts of Furst und Arzt : Dr. med. Herzog Carl Theodor in Bayern : Schicksal zwischen Wittelsbach und Habsburg by Richard Sexau, a biography of his son Karl Theodor (Styria Verlag, Graz, 1963)
Liên kết ngoài
Vương tộc Wittelsbach
Hiệp sĩ Lông cừu vàng Áo
Người Đức thế kỷ 19
Sinh năm 1808
Mất năm 1888 |
Ludovika Wilhelmine của Bayern (tiếng Đức: Ludovika Wilhelmine von Bayern; tiếng Anh: Louise/Ludovica Wilhelmina of Bavaria; tên đầy đủ: Ludovika WIlhelmine von Wittelsbach; 30 tháng 8 năm 1808 – 25 tháng 1 năm 1892) là con thứ sáu của Maximilian I Joseph của Bavaria và Karoline xứ Baden, đồng thời là mẹ của Hoàng hậu Elisabeth của Áo. Ludovika Wilhelmine sinh ra và mất ở München.
Những năm đầu đời
thế=|trái|nhỏ|292x292px|Luise (ngoài cùng bên trái), Marie và Sophie của Bayern nhảy múa trên đồng cỏ, tranh của Joseph Karl Stieler.
Ludovika Wilhelmine của Bayern là con gái thứ năm và là con thứ sáu của Maximilian I Joseph của Bayern và Karoline xứ Baden. Xét về dòng cha, Ludovika Wilhelmine là cháu nội của Hành cung Bá tước Friedrich Michael I xứ Pfalz-Birkenfeld-Bischweiler và Maria Franziska xứ Pfalz-Sulzbach. Xét theo dòng mẹ, Ludovika Wilhelmine là cháu ngoại của Phiên hầu tước thế tử Karl Ludwig xứ Baden và Amalie xứ Hessen-Darmstadt. Ludovika Wilhelmine thường được gọi là Luise.
Ludovika Wilhelmine còn là em gái của Sophie Friederike của Bayern, vợ của Đại vương công Franz Karl của Áo; Sophie Friederike và Fran Karl chính là song thân của Hoàng đế Franz Joseph I của Áo. Ludovika Wilhelmine còn là em gái khác mẹ của Quốc vương Ludwig I của Bayern.
Ngay từ khi bốn tuổi, các vương tử và vương nữ phải tham gia vào các sinh hoạt trong cung đình, trong đó là đi xem kịch để làm quen với các nghi thức xã giao của triều đình Bayern. Các vương tử và vương nữ được dạy về văn học với các tác phẩm kinh điển, địa lý và lịch sử và được nuôi dạy trong môi trường song ngữ là tiếng Đức và ngôn ngữ của triều đình là tiếng Pháp. Trong số các giáo viên của các Vương nữ Bayern có nhà ngữ học nổi tiếng Friedrich Thiersch, người đã đến München từ Göttingen vào năm 1809.
Hôn nhân
trái|nhỏ|218x218px|Chân dung của Ludovika Wilhelmine của Bayern và Maximilian Joseph xứ Bayern trong khoảng thời gian đính hôn năm 1828.
Ngày 9 tháng 9 năm 1828, tại Tegernsee, Ludovika kết hôn với Maximilian Joseph xứ Bayern, con trai của Pius August xứ Bayern, em họ của Ludovika. Ludovika luôn cảm thấy bất mãn vì trong khi các chị gái kết hôn với các Quốc vương và Đại vương công Áo, Ludovika Wilhelmine lại được gả cho vị công tước kỳ dị và trẻ con, có sự yêu thích với các rạp xiếc. Dù vậy, Ludovika Wilhelmine vẫn quyết tâm thiết lập nên những cuộc hôn nhân mang tính vương giả cho các con gái. Ludovika Wilhelmine và Maximilian Joseph có mười người con, hai người con gái trong số đó là Hoàng hậu Elisabeth của Áo và Vương hậu Maria Sofia của Hai Sicilie.
Hậu duệ
Gia phả
<center>
<center>
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Vương nữ Bayern
Vương tộc Wittelsbach
Vương nữ
Người Đức thế kỷ 19
Sinh năm 1808
Mất năm 1892 |
Maria Anna của Bayern (tiếng Đức: Maria Anna von Bayern; tên đầy đủ: Maria Anna Leopoldine Elisabeth Wilhelmine von Wittelsbach; 27 tháng 1 năm 1805 – 13 tháng 9 năm 1877), thường được gọi là Marie, là con gái của Maximilian I Joseph của Bayern và Karoline xứ Baden và là chị em song sinh của Sophie Friederike của Bayern. Maria Anna là Vương hậu Sachsen từ năm 1836 đến năm 1854 với tư cách là vợ của Friedrich August II của Sachsen.
Tiểu sử
Maria Anna sinh ra ở München, là con gái của Maximilian I Joseph của Bayern và Karoline xứ Baden. Vương nữ là chị em song sinh của Sophie Friederike của Bayern, mẹ của Hoàng đế Franz Joseph I của Áo và Hoàng đế Maximilian I của México. Maria Anna và Sophie Friederike là cặp song sinh thứ hai của Maximilian I Joseph của Bayern và Karoline xứ Baden. Em gái của hai người, Ludovika Wilhelmine, là mẹ của Hoàng hậu Elisabeth của Áo và Vương hậu Maria Sophie của Hai Sicillie.
Hôn nhân
Ngày 24 tháng 4 năm 1833 tại Dresden, Maria Anna kết hôn với Friedrich, Thái tử Sachsen, trong khi đó em trai của Friedrich là Johann của Sachsen kết hôn với chị gái của Maria Anna là Amalie Auguste của Bayern. Năm 1836, Friedrich kế vị người bác Anton I trở thành tân vương Sachsen và Maria Anna trở thành tân hậu. Hai vợ chồng không có con. Friedrich August II qua đời vào năm 1854.
Năm 1836, khi có nạn đói lớn ở Erzgebirge và Vogtland thuộc Sachsen, Maria Anna đã thành lập ủy ban phụ nữ đầu tiên để cứu trợ là "Frauenvereinsanstalt der obererzgebirgischen und vogtländischen Frauenvereine" — ủy ban được đổi tên thành "Zentralausschuß der obererzgebirgischen und vogtländischen Frauenvere" vào năm 1859 và tồn tại cho đến năm 1932. Maria Anna đã cho xây dựng nhà nguyện Gedächtniskapelle vào năm 1855. Bà được biết đến là thông tín viên của nhà văn và được biết đến là thông tín viên của nhà văn Ida Hahn-Hahn (1805–1880).
Maria Ann của Bayern qua đời ở độ tuổi 72 tại Wachwitz, Dresden.
Gia phả
<center>
<center>
Nguồn tài liệu
Martha Schad: Bayerns Königinnen . Piper, 2005
Tham khảo
Liên kết ngoài
|-
Vương nữ Bayern
Vương tộc Wittelsbach
Vương nữ
Sinh năm 1805
Mất năm 1877 |
James Buckley Tapp (6 tháng 12 năm 1920 – 31 tháng 1 năm 2014) là một phi công người Mỹ thuộc Liên đoàn Chiến đấu số 15 trong Thế chiến thứ hai. Trong chiến tranh, Tapp đã thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu tầm xa (VLR) từ Iwo Jima và được công nhận là đã bắn phá hủy 8 máy bay quân địch trong trận không chiến. Ông giải ngũ năm 1970 với quân hàm Đại tá, sau 29 năm phục vụ quân đội.
Đầu đời
Tapp sinh ngày 6 tháng 12 năm 1920 tại Eveleth, Minnesota. Ông theo học và tốt nghiệp Trường cao đẳng Eveleth vào tháng 6 năm 1941. Trong thời gian học cao đẳng, ông tham gia học lái máy bay tại Chương trình Huấn luyện Phi công.
Binh nghiệp
Tapp nhập ngũ vào Quân đoàn Không lực Lục quân Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 1941 và sau khi tham gia Chương trình Học viên Sĩ quan Hàng không Quân đoàn Không lực Lục quân, ông nhận phù hiệu phi công và được phong hàm Thiếu úy vào đầu tháng 6 năm 1942.
Thế chiến II
Sau khi hoàn thành việc chuyển đổi 30 ngày sang P-39 Airacobra, Tapp được phân công vào Phi đoàn Chiến đấu số 78 ở Quần đảo Hawaii và ở lại đơn vị trong ba năm. Năm 1944, phi đoàn chuyển sang chiếc North American P-51 Mustang và vào tháng 1 năm 1945, ông được phân công vào Liên đoàn Chiến đấu số 15 thuộc Bộ Tư lệnh Chiến đấu số VII. Cùng tháng, phi đoàn được cử đến Quần đảo Mariana và thực hiện các nhiệm vụ trong Trận Iwo Jima. Sau khi Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ chiếm được Iwo Jima, Phi đoàn Chiến đấu số 78 đóng quân tại Không trường phía Nam ở Iwo Jima vào tháng 3 năm 1945.
Vào ngày 7 tháng 4 năm 1945, Bộ Tư lệnh Chiến đấu VII dẫn đầu nhiệm vụ tầm xa (VLR) đầu tiên trên Quần đảo Nhật Bản. Nhiệm vụ bao gồm 108 chiếc P-51 từ Liên đoàn Chiến đấu số 15 và 21 hộ tống 107 chiếc B-29 Superfortresses ném bom các nhà máy động cơ của Công ty hàng không Nakajima ở Musashino, Tokyo. Tapp dẫn đầu "Chuyến bay xanh" và lập tức đổ bộ sau khi đến Vịnh Tokyo, Tapp phát hiện một chiếc Kawasaki Ki-45 "Nick" hai động cơ đang cố gắng tấn công một chiếc B-29. Tapp đuổi theo và bắn hạ chiếc Ki-45 bằng cách bắn vào động cơ bên phải chiếc máy bay. Phi công yểm trợ của Tapp cũng bắn vào máy bay nhưng chiếc Ki-45 không bốc cháy hoặc ngoài vòng kiểm soát vì "Chuyến bay xanh" mất liên lạc và bay lên phía trên vị trí các chiếc B-29 ở độ cao 20.000 ft. Tapp sau đó phát hiện một chiếc Kawasaki Ki-61 "Tony" và bắn hạ chiếc máy bay này, đây là chiến công trên không đầu tiên của Tapp. Ông sau đó tấn công một chiếc Mitsubishi Ki-46 "Dinah" đang lao thẳng vào các chiếc B-29. Ông bắn hạ chiếc Ki-46 và người phi công yểm trợ thông báo khi chiếc Ki-46 rơi xuống đất. "Chuyến bay xanh" sau đó chuyển sang vị trí hộ tống và phát hiện bốn chiếc Mitsubishi A6M "Zeros" và Nakajima Ki-44 "Tojos". Tapp bắn hạ một trong số chiếc Ki-44. Sau khi kết thúc nhiệm vụ, Tapp được công nhận là bắn phá hủy 4 máy bay quân địch trong chiến đấu, trong đó ông có thể đã bắn phá hủy chiếc Ki-45, khiến ông trở thành người lập nhiều chiến công nhất trong nhiệm vụ. Ông được trao Huân chương Thập tự Phục vụ Xuất sắc và Phi đoàn Chiến đấu số 78 được trao Biểu dương Đơn vị Tổng thống đối với nhiệm vụ.
Vào ngày 12 tháng 4 năm 1945, các chiếc P-51 của Bộ Tư lệnh Chiến đấu VII tiếp tục dẫn đầu các chiếc B-29 tấn công các nhà máy động cơ của Công ty Hàng không Nakajima ở Tokyo. Tapp dẫn đầu chuyến bay P-51 ở sườn bên phải của đội hình hộ tống, phát hiện một chiếc Ki-61 bay bên dưới và bắn hạ nó. Trong lúc bắn hạ chiếc Ki-61, một số đầu đạn đuối tầm được bắn ra từ súng của chiếc P-51 của Tapp đã bị cuốn vào ống dẫn khí từ chiếc P-51 của phi công yểm trợ và làm hư hại bộ tản nhiệt, hậu quả trục trặc động cơ chiếc P-51. Vì vậy phi công yểm trợ nhảy dù thoát khỏi chiếc P-51 nhưng chiếc dù không mở ra khiến người này rơi xuống đất thiệt mạng. Việc bắn hạ chiếc Ki-61 trong nhiệm vụ là chiến công thứ tư của Tapp, vì một trong những chiến công của ông vào ngày 7 tháng 4 coi như có thể xảy ra. Tuy nhiên, Bộ Tư lệnh Chiến đấu VII đã xét lại những khẳng định của ông và thăng chiến công vào ngày 7 tháng 4 để xác nhận, nâng tổng chiến công của ông lên 5 và khiến ông trở thành phi công đầu tiên thuộc Không lực Lục quân Hoa Kỳ được công nhận là phi công ách khi thực hiện nhiệm vụ tầm xa trên bầu trời Nhật Bản cùng chiếc P-51 trong Thế chiến II.
Tapp sau đó lập chiến công thứ sáu vào ngày 19 tháng 4, khi ông bắn hạ chiếc Mitsubishi J2M "Jack" khi đang che chắn cho các chiếc P-51 của Liên đoàn Chiến đấu số 21 tấn công Không trường Atsugi ở Tokyo. Đến giữa tháng 4, ông kế nhiệm Thiếu tá James M. Vande Hey trở thành chỉ huy trưởng Phi đoàn Chiến đấu số 78.
Ngày 25 tháng 5, Tapp và phi công yểm trợ đã bắn phá hủy hai nhà chứa máy bay tại một không trường ở Matsudo khi dùng tên lửa trang bị cho các chiếc P-51 của họ. Trong cùng nhiệm vụ, ông bắn hạ một chiếc Ki-44, đây là chiến công thứ bảy của ông. Tapp lập chiến công thứ tám và cũng là chiến công cuối cùng vào ngày 29 tháng 5 khi ông bắn hạ một chiếc A6M 'Zero' trên không trường Atsugi. Trong nhiệm vụ này, các chiếc P-51 của Bộ Tư lệnh Chiến đấu VII đã bắn hạ tổng cộng 28 máy bay quân địch và tổn thất 3 chiếc P-51.
Trong Thế chiến thứ hai, Tapp được công nhận khi bắn phá hủy 8 máy bay quân địch và 3 chiếc bị hư hại trong trận không chiến. Khi phục vụ trong Liên đoàn Chiến đấu số 15, chiếc P-51 của Tapp được đặt theo tên người vợ tương lai của ông, mang tên "Margaret".
Hậu chiến
Sau Thế chiến thứ hai, Tapp gia nhập Không quân Hoa Kỳ vừa thành lập và nhận bằng cử nhân về kỹ thuật hàng không từ Viện Công nghệ Không quân và bằng thạc sĩ về kỹ thuật điện từ Đại học Illinois. Ông thực hiện nhiều nghiên cứu và phát triển nhiệm vụ trong Không quân với nhiệm vụ cuối cùng là viên trưởng trường bắn tác chiến tại Căn cứ Không quân Vandenberg ở California, trước khi ông giải ngũ khỏi quân đội vào năm 1970 với quân hàm Đại tá Không quân.
Gia đình
Tapp kết hôn với Margaret Mary Hobyan vào ngày 11 tháng 7 năm 1945. Họ có ba người con và một vài người cháu chắt. Sau khi giải ngũ khỏi Không quân Hoa Kỳ, Tapp sinh sống cùng gia đình ở Lompoc, California, trước khi chuyển đến Fort Collins, Colorado, vào năm 2000. Margaret Tapp qua đời vào ngày 24 tháng 10 năm 2006.
Tapp qua đời vào ngày 31 tháng 1 năm 2014, tại Bệnh viện Poudre Valley ở Fort Collins, ở tuổi 93. Ông được an táng bên cạnh vợ mình tại Nghĩa trang quốc gia Arlington.
Thành tích
Nguồn:
Huân chương
Huân chương của Tapp bao gồm:
Huân chương Chữ thập Phục vụ Xuất sắc
Tapp, James B.
Thiếu tá (Quân đoàn Không quân), Không lực Lục quân Hoa Kỳ
Phi đoàn Chiến đấu số 78, Liên đoàn Chiến đấu số 15, Không quân số 7
Ngày chiến đấu: 7 tháng 4, 1945
Tuyên dương:
Tổng thống Hoa Kỳ, được ủy quyền bởi Đạo luật của Quốc hội, ngày 9 tháng 7 năm 1918, vinh dự trao tặng Huân chương Chữ thập Phục vụ Xuất sắc cho Thiếu tá (Quân đoàn Không quân) James Buckley Tapp, Không lực Lục quân Hoa Kỳ, vì sự dũng cảm phi thường liên quan đến hoạt quân sự chống lại quân địch có vũ trang khi là Phi công Máy bay chiến đấu P-51 thuộc Phi đoàn Chiến đấu số 78, Liên đoàn Chiến đấu số 15, Không quân thứ bảy, trong trận không chiến chống lại quân địch vào ngày 7 tháng 4 năm 1945, trong một cuộc không kích ở Tokyo, Nhật Bản. Vì là phi công của dòng máy bay tiêm kích trong nhiệm vụ B-29 được hộ tống đầu tiên trên bầu trời Đế quốc Nhật Bản, Thiếu tá Tapp đã thể hiện sự dũng cảm khiến ông ấy khác biệt với đồng đội của mình. Khi các máy bay ném bom tiếp cận mục tiêu, một lượng lớn máy bay quân địch xuất hiện để đánh chặn đội hình. Thiếu tá Tapp không do dự giao chiến với một nhóm máy bay tiêm kích của quân địch, bắn phá hủy một chiếc và giải tán những chiếc còn lại. Trở lại vị trí hộ tống, ông ấy phát hiện một chiếc B-29 với hai động cơ bị bắn xa, đang bị máy bay tiêm kích quân địch tấn công. Ngay lập tức, Thiếu tá Tapp tăng tốc tới phòng thủ máy bay ném bom và bắn phá hủy máy bay tấn công. Chiếc máy bay ném bom bị hỏng nặng, cùng với đội hộ tống nhỏ, sau đó bị một chuyến bay gồm 8 máy bay địch tấn công. Thể hiện lòng dũng cảm và kỹ năng lái máy bay điêu luyện, Thiếu tá Tapp giao chiến với quân địch vượt số lượng, tiêu diệt một người và định tuyến những kẻ khác, ngăn thiệt hại cho chiếc máy bay ném bom gặp nạn. Sau khi máy bay B-29 thả bom xuống mục tiêu, Thiếu tá Tapp thấy một máy bay quân địch khác. Đuổi theo, ông ấy tiếp tục giao chiến với quân địch để phá hủy chiếc máy bay địch thứ tư trong khoảng mười hai phút chiến đấu. Thể hiện lòng dũng cảm xuất sắc của Thiếu tá Tapp đã hỗ trợ máy bay B-29 hoàn thành nhiệm vụ. Lòng dũng cảm của ông ấy trong trận không chiến là phù hợp với truyền thống cao nhất của nghĩa vụ quân sự và phản ánh công trạng lớn lao của ông ấy, Không quân thứ 7 và Không lực Lục quân Hoa Kỳ.
Chú thích
Thư mục
Liên kết ngoài
Phi công Không lực Lục quân Hoa Kỳ trong Thế chiến thứ hai
Cựu sinh viên Đại học Illinois |
Sophie Friederike của Bayern (tiếng Đức: Sophie Friederike von Bayern; tên đầy đủ: Sophie Friederike Dorothea Wilhelmine von Wittelsbach; 27 tháng 1 năm 1805 – 28 tháng 5 năm 1872) là con gái của Maximilian I Joseph của Bayern và Karoline xứ Baden và là chị em song sinh của Maria Anna của Bayern, Vương hậu Sachsen. Sophie Friederike trở thành Đại vương công phu nhân Áo thông qua cuộc hôn nhân với Franz Karl của Áo. Con trai cả của Sohpie Friederike là Franz Joseph I là Hoàng đế Áo và Quốc vương Hungary và con trai thứ hai Maximilian I là Hoàng đế Mexico trong khoảng thời gian ngắn.
Thời thơ ấu (1805–1824)
nhỏ|350x350px|Chân dung Vương nữ Sophie Friederike, Maria Anna và Ludovika Wilhelmine của Bayern, họa bởi Karl Joseph Karl Stieler, năm 1822.
Sophie Friederike Dorothea Wilhelmine sinh ngày 27 tháng 1 năm 1805 tại Cung điện Nymphenburg, München, là người con thứ tư của Maximilian I Joseph của Bayern và Karoline xứ Baden. Sophie Friederike đượccho là người con gái Maximilian I Joseph yêu thương nhất dù Vương nữ gắn bó với mẹ hơn. Sophie Friederike rất yêu quý người chị song sinh Maria Anna và rất thân thiết với tất cả các chị em của mình.
Đại vương công phu nhân Áo (1824–1872)
Ngày 4 tháng 11 năm 1824, Sophie Friederike kết hôn với Đại vương công Franz Karl của Áo. Người chị gái cùng cha khác mẹ của Sophie Friderike là Karoline Auguste của Bayern đã kết hôn với người cha góa vợ của Franz Karl là Franz II của Thánh chế La Mã vào năm 1816. Sophie Friderike và Franz Karl có sáu người con. Hoàng đế Franz II rất yêu mến Sophie. Mặc dù Sophie có ít điểm chung với chồng nhưng Vương nữ là một người vợ chu đáo và yêu thương chồng, người cũng luôn yêu thương và tôn trọng vợ.
Không giống như chồng, Sophie Friederike rất gắn bó với tất cả các con, đặc biệt là Franz Joseph, cũng như Ferdinand Maximilian, người con trai Sophie Friederike thương yêu nhất. Đại vương công phu nhân nổi tiếng là người có ý chí mạnh mẽ và độc đoán nhưng cũng là một người gần gũi và hòa đồng, hết lòng vì gia đình và đế chế Habsburg mà Sophie được gả vào. Sophie Friederike yêu thích cuộc sống cung đình, khiêu vũ, nghệ thuật, văn học cũng như cưỡi ngựa.
Tham vọng đưa con trai lớn Franz Joseph lên ngai vàng Áo của Sophie Friderike là chủ đề thường trực trong chính trị Áo. Vào thời điểm đó, Sophie Friederike được gọi là "người đàn ông duy nhất tại triều đình". Trong cuộc Cách mạng năm 1848, Sophie đã thuyết phục người chồng có phần nhu nhược của mình từ bỏ quyền thừa kế ngai vàng để nhường ngôi cho con trai Franz Joseph.
Sau khi con trai Franz Joseph lên ngôi, Sophie trở thành người có quyền lực đằng sau ngai vàng. Sophie Friederike thường được nhớ đến vì mối quan hệ cực kỳ đối địch với Sisi, vợ của Franz Joseph I, cũng là cháu gái gọi bác của mình . Elisabeth căm ghét Sophie vì sự khắt khe và vì Sophie mà Elisabeth không thể nuôi dạy những đứa con của mình, nhưng không có bằng chứng nào cho thấy Sophie Friederike cũng có cảm xúc tương tự như của Elisabeth, vì Elisabeth thường được mô tả khá tốt trong nhật ký và những bức thư của Sophie. Tuy nhiên, Sophie có mối quan hệ tốt đẹp hơn với những người con dâu khác và là rất quan tâm đến con dâu Maria Annunziata của Hai Sicilie.
Sophie Friederike có thói quen ghi nhật ký trong suốt cuộc đời và quyền nhật ký của Sophie tiết lộ nhiều điều về đời sống cung đình Áo. Bà Đại vương công bị ảnh hưởng sâu sắc vào năm 1867 bởi vụ hành quyết con trai thứ hai Maximilian ở México. Sophie không bao giờ hồi phục sau cú sốc đó và rút lui khỏi đời sống cung đình. Năm 1872, Sophie Friederike qua đời vì căn bệnh viêm phổi.
Cáo buộc ngoại tình
Hậu duệ
Khắc họa trên sân khấu và màn ảnh
Loạt phim Sissi (1955–1957), thủ vai bởi Vilma Degischer. Trong phim, Sophie là một người mẹ chồng nghiêm khắc đến mức lạnh lùng của Hoàng hậu trẻ tuổi Elisabeth. Định kiến về Sophie như một nhân vật phản diện cứng rắn và cay nghiệt dường như đã phổ biến từ loạt phim này.
Trong miniseries Fall of Eagles năm 1974, Sophie được thủ vai bởi nữ diễn viên người Anh Pamela Brown.
Mayerling, vở ballet năm 1978 của Kenneth MacMillan, phần nào miêu tả Sophie với góc nhìn đồng cảm hơn.
Elisabeth, một vở nhạc kịch năm 1992 của Michael Kunze kể về cuộc đời của Hoàng hậu Elisabeth, trong đó Sophie được miêu tả là một kẻ mưu mô độc ác, muốn hủy hoại cuộc đời con dâu của mình bằng mọi cách có thể, mặc dù những tác phẩm gần đây hơn đã phần nào làm dịu đi tính cách của Sophie với những phân cảnh bổ sung và một bài hát mang lại cái nhìn sâu sắc hơn về động cơ và tính cách phức tạp của Sophie.
Trong Sissi, l'impératrice Rebelle, một bộ phim truyền hình Pháp năm 2004, Sophie được thủ vai bởi Stéphane Audran.
Trong mini-series Sisi ở châu Âu năm 2009, Martina Gedeck đã khắc họa Sophie theo chiều hướng cân bằng hơn.
Loạt phim Netflix năm 2022 The Empress, nhân vật Sophie được thủ vai bởi Melika Foroutan.
Huân chương
: Dame of the Order of the Starry Cross
Gia phả
<center>
<center>
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Historical Boys' Royal Costume: King Maximilian I Joseph: Second Family
Vương nữ Bayern
Vương nữ
Vương tộc Wittelsbach
Vương tộc Habsburg-Lothringen
Người Đức thế kỷ 19
Sinh năm 1805
Mất năm 1872 |
Tiết độ sứ Nghĩa Vũ () hay Tiết độ sứ Dịch Định () là chức vị tiết độ sứ mà triều đình nhà Đường thiết lập tại khu vực mà ngày nay là Hà Bắc, Trung Quốc. Đây là tuyến đầu trong phòng tuyến ngăn chặn Hà Bắc tam trấn của triều đình trung ương, từ sau loạn Hoàng Sào, khu vực này trở thành một lãnh địa cát cứ, Tiết độ sứ Vương Xử Trực được nhà Hậu Lương phong làm Bắc Bình vương.
Danh sách Tiết độ sứ
Tham khảo
Tiết độ sứ nhà Đường |
Bánh mì và muối được tặng cho vị khách trong một buổi lễ chào mừng ở các nền văn hóa trên thế giới. Cặp thực phẩm này đặc biệt có ý nghĩa ở các quốc gia Slavơ, nhưng cũng đáng chú ý ở Bắc Âu, Baltic, Balkan và các nền văn hóa châu Âu khác, cũng như trong các nền văn hóa Trung Đông. Bánh mì và muối như là biểu tượng của một lời chào mừng truyền thống vẫn phổ biến ở Albania, Armenia và trong Cộng đồng người Do Thái. Truyền thống này đã được mở rộng đến chuyến bay vũ trụ của con người. Năm 2010, một hãng hàng không Hong Kong dùng bánh mì và muối trong lễ mừng đường bay thẳng tới Moskva. Nghi thức chào đón các phi hành gia trở về trái đất cũng không thể thiếu Khleb-sol.
Tổng quan
Từ thời Trung cổ, bánh mì và muối tinh là biểu tượng cho cuộc sống dư dả. Văn hóa Slavơ coi bánh mì là một thứ thiêng liêng. Không có bánh mì trong bếp nghĩa là nhà chẳng còn gì ăn. Trong khi đó, muối là thứ gia vị đắt đỏ và quý hiếm thời trung cổ, tới mức không phải ai cũng có thể bỏ tiền là mua được và nhiều người tin rằng muối thánh có thể xua đuổi quỷ dữ. Không chỉ tại Nga, bánh mì và muối còn xuất hiện trong màn chào đón truyền thống tại nhiều quốc gia châu Âu và Trung Đông. Người dân tại các quốc gia như Albania, Bulgaria, Belarus, Ukraine, Czech, Slovakia, Ba Lan, Macedonia, Romania và Serbia thường mời khách ăn bánh mì và muối. Tại Phần Lan, Estonia, Latvia, Lithuania hay Đức, bánh mì và muối được dùng để mừng lễ tân gia song người dân sẽ làm bánh mì đen. Người Đức còn có tục đặt hai thứ này vào tã của một trẻ sơ sinh. Trong văn hóa Arab, bánh mì và muối không xuất hiện khi nhà đón khách mà trở thành biểu tượng thiết lập tình bằng hữu khăng khít. Người Arab có cách nói "chúng ta như bánh mì và muối" để nhắc đến bạn bè, và "giữa họ là biển muối" để chỉ những người không đội trời chung.
Trong văn hóa, người Nga luôn đề cao việc đón tiếp khách đến nhà một cách ấm áp và hào phóng. Bánh mì và muối luôn xuất hiện trong những dịp đón chính khách tới Nga, bởi đây là một truyền thống quan trọng trong văn hóa xứ sở bạch dương mang tên Khleb-sol. Khi có khách quý, gia chủ sẽ chuẩn bị một ổ bánh mì Karavai đặt trên khăn thêu Rushnyk. Trên bánh đặt một chút muối ăn tinh ở chính giữa. Vào một số dịp đặc biệt, những thiếu nữ mặc váy truyền thống Sarafan và đội mũ Kokoshnik sẽ đem món ăn này mời khách. Từ "mến khách" trong tiếng Nga là "Khlebosolny" có nguồn gốc từ Khleb (bánh mì) và Sol (muối). Người Nga đón khách quý tới nhà bằng món ăn giản dị này thay lời chúc đủ đầy "mong nhà bạn sẽ không bao giờ thiếu bánh mì và muối". Để đáp lại, khách thường xé một miếng bánh mì chấm muối, tươi cười thưởng thức và nói "Khleb da sol!" - cầu chúc những điều tốt lành sẽ đến với gia chủ. Tiếp đãi khách đến nhà bằng bánh mỳ và muối đồng nghĩa với việc mối quan hệ giữa khách và chủ nhà là thân thiện và đầy tin cậy. Nếu khách từ chối thì nó như một sự sỉ nhục với chủ nhà. Trong văn hóa Nga, người ta thường nói về tình bạn thân thiết rằng: “Cùng nhau, họ ăn cả pút muối” (1 pood/pút = 16,38 kg), điều đó có nghĩa là hai người bạn đã cùng nhau trải qua nhiều thăng trầm, chia ngọt sẻ bùi.
Văn hóa Nga
Trong lễ cưới của người Nga, sau khi kết thúc các nghi lễ chính thức, cặp đôi trở về nhà, lúc này, cha mẹ của cặp đôi mới cưới sẽ đưa cho họ bánh mì và muối, hai người sẽ cùng nhau xé bánh, chấm muối và đưa cho nhau ăn, đây là hình ảnh tương trưng cho việc kể từ nay, họ sẵn sàng chia sẻ mọi khó khăn trong cuộc sống và sẽ chăm sóc cho nhau. Với ý nghĩa như vậy, trong lễ cưới truyền thống của người Nga, các bậc cha mẹ sẽ mang bánh mì và muối đến cho các con. Sau lễ thành hôn, cô dâu chú rể sẽ cùng nhau ăn món bánh mì muối này, như một lời hứa từ nay sẽ cùng nhau vượt qua mọi giông bão trong cuộc đời.
Tục lệ đón khách quý bằng bánh mỳ và muối đã quen thuộc với người dân Nga đã từ rất lâu đời. Sự kết hợp của bánh mỳ và muối đóng một vai trò quan trọng đặc biệt về biểu tượng vì bánh mỳ mang ý nghĩa mong muốn giàu có và sung túc, còn muối là sự bảo vệ con người tránh khỏi những ảnh hưởng xấu và sức mạnh của kẻ thù. Vị khách đến phải lấy một mẩu bánh mỳ, chấm muối sau đó ăn nó. Nghi lễ này đã trở thành biểu tượng cho việc làm quen với các giá trị cơ bản cuộc sống của người họ gặp. Điều này đồng thời cũng có ý nghĩa là vị khách đã bắt đầu mối quan hệ hữu nghị, sẵn sàng ăn cùng chủ nhà ăn “một pút muối”, có nghĩa là chia sẻ mọi tai họa và khó khăn.
Trong văn hóa Nga xa xưa, bánh mì và muối tượng trưng cho sự giàu có và khỏe mạnh, vì vậy, chủ nhà thường thể hiện tấm thịnh tình của mình dành cho khách quý bằng cách mặc lên người bộ trang phục đẹp nhất, bày ra những món ngon nhất, trong đó không thể thiếu bánh mì và muối. Trong văn hóa dân gian Nga xa xưa, bánh mì là thứ thiêng liêng. Không có một mẩu bánh mì nào trong nhà nghĩa là nhà chẳng còn gì để ăn, bởi không có bữa ăn nào của người Nga thời ấy không bày bánh mì. Bánh mì là biểu tượng cho sự ổn định trong đời sống. Trong tục ngữ của Nga, bánh mì đen được ví là cha ruột của mỗi người. Ở thời xa xưa, tại Nga, muối là thức xa xỉ và không phải ai cũng đủ tiền mua muối do đó, người Nga từng có thói quen giữ muối chỉ để dùng vào dịp đặc biệt, chẳng hạn như tiếp khách quý. Khi ông Kim Jong-un tới Nga thì đã được chào đón với hoa và quà truyền thống gồm bánh mì và muối.
Người Nga nói rằng “Cả vua cũng không từ chối bánh mỳ và muối”, theo quan niệm dân gian của Nga, sự trách móc lớn nhất có thể làm đối với một kẻ vong ân bội nghĩa đó là nói: “Ты забыл мой хлеб да соль-Ty zabyl moi khleb da sol” nghĩa là "kẻ đã quên bánh mì và muối". Sự hiếu khách, hào phóng được gọi là Хлебосольство- Khlebosolstvo cũng xuất phát chính từ việc tiếp đãi này. Trong thế kỷ XVI, vua chúa Nga trong bữa ăn đã gửi tới những vị khách quý của mình bánh mỳ và muối trong đó bánh mỳ tượng trưng cho sự sủng ái, còn muối là tình yêu. Cách gọi “bánh mỳ – muối” tại Nga cũng là một cách gọi chung cho việc tiếp đãi. Lời mời “bánh mỳ – muối” lại là hình thức mời tới dự tiệc. Ngày nay người Nga thường chúc nhau ở bàn ăn là “приятного аппетита-Priyatnovo appetita!”, còn trước đây người Nga sẽ nói “хлеб да соль-Khleb da sol!”. Trong đó câu chúc này có một ý nghĩa vô cùng đặc biệt, đó là nó sẽ xua đuổi mọi điều xấu. Những chủ nhà hiếu khách trong tiếng Nga được gọi là “khlebosolnye”, trong đó, “khleb” là bánh mì và “sol” là muối.
Theo nghi thức Khleb-sol (trong đó, “khleb” nghĩa là bánh mì và “sol” nghĩa là muối), những thiếu nữ Nga trong trang phục truyền thống mang theo một chiếc bánh mì lớn hình tròn đặt trên một chiếc khăn, đi kèm là một lọ muối đặt trên bánh để mời khách. Khách cẩn thận xé một mẩu bánh, chấm vào muối và ăn. Hành động này mang ý nghĩa khởi đầu cho tình bạn giữa hai bên. Theo truyền thống, khách được đón tiếp bởi những người phụ nữ mặc trang phục truyền thống, trên tay người phụ nữ là chiếc bánh mì lớn hình tròn được đặt trên một chiếc khăn, đi kèm là một lọ muối đặt trên bánh. Khách cẩn thận xé một mẩu bánh, chấm vào muối rồi ăn. Màn ứng xử này là hình ảnh biểu trưng cho một tình bạn bắt đầu giữa hai bên. Người Nga thậm chí tin rằng ngay cả kẻ thù, sau khi ăn bánh mì và muối cùng ta, cũng có thể hàn gắn quan hệ. Ngoài ra, đối với người Nga, muối còn tượng trưng cho sự trong sáng thuần khiết của tâm hồn. Muối có thể để được rất lâu nếu được bảo quản đúng cách. Việc mời khách ăn bánh mì và muối không chỉ là lời chúc, mong khách giàu có, khỏe mạnh, mà còn chúc khách có được tâm hồn minh triết, trong lành, xua đi những gì đen tối, u ám.
Chú thích
Bánh mì
Ẩm thực Nga |
Mặc Môn giáo (Mormonism) hay đạo Mặc Môn hay Giáo hội Mặc Môn là truyền thống tôn giáo và thần học thuộc phong trào Thánh hữu Ngày sau của những người theo chủ nghĩa Phục hồi Cơ Đốc giáo được bắt đầu từ Joseph Smith ở Tây New York vào những năm 1820 và 1830. Mặc Môn giáo đã được áp dụng chỉ về các khía cạnh khác nhau của phong trào Thánh hữu Ngày sau, mặc dù gần đây đã có sự thúc đẩy từ Giáo hội các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kytô (Giáo hội LDS). Một nhà sử học là Sydney E. Ahlstrom đã viết vào năm 1982: “Người ta thậm chí không thể chắc chắn liệu Đạo Mặc Môn là một giáo phái, tà giáo, một giáo phái bí ẩn, một tôn giáo mới, một giáo hội, một dân tộc, một quốc gia hay một Tiểu văn hóa Mỹ; quả thực, ở những thời điểm và địa điểm khác nhau, tất cả đều là như vậy". Một đặc điểm nổi bật của thần học Mặc Môn là Sách Mặc Môn, được mô tả như một biên niên sử về Người bản địa ở Châu Mỹ và cách họ ứng xử với Chúa.
Giáo lý
Thần học Mặc Môn bao gồm các niềm tin Kitô giáo chính thống với những sửa đổi bắt nguồn từ niềm tin vào những điều mặc khải đối với Smith và các nhà lãnh đạo tôn giáo khác. Điều này bao gồm việc sử dụng và tin tưởng vào Kinh thánh và các văn tự tôn giáo khác, bao gồm Giáo lý và Giao ước và Trân châu vô giá. Đạo Mặc Môn bao gồm các giáo lý quan trọng về hôn nhân vĩnh cửu, sự tiến triển vĩnh cửu, rửa tội cho người chết, chế độ đa thê hoặc hôn nhân số nhiều, sự thanh khiết về mặt tình dục, sức khỏe (được nêu rõ trong Lời Thông Sáng), kiêng ăn và Tuân thủ ngày Sa-bát. Bản thân thần học không đồng nhất nên ngay từ năm 1831, và đáng kể nhất là sau cái chết của Smith, nhiều nhóm khác nhau đã tách ra khỏi Giáo hội Chúa Kitô mà Smith thành lập.
Ngoài sự khác biệt về khả năng lãnh đạo, các nhóm này khác biệt đáng kể nhất về quan điểm của họ đối với chế độ đa thê, điều mà Giáo hội LDS có trụ sở tại Utah đã cấm vào năm 1890 và thuyết Ba ngôi, điều mà Giáo hội LDS không khẳng định. Nhánh thần học tìm cách duy trì chế độ đa thê được gọi là Thuyết Mặc Môn chính thống và bao gồm một số giáo hội khác nhau. Các nhóm khác khẳng định thuyết Ba Ngôi, chẳng hạn như Cộng đồng Chúa Kitô (trước đây là Giáo hội được tổ chức lại của Chúa Giêsu Kitô Các Thánh Hữu Ngày Sau), và mô tả học thuyết của họ là Ba Ngôi Nhà phục hồi Cơ đốc giáo.
Mặc Môn giáo được thành lập vào ngày 6 tháng 4 năm 1830 tại thị trấn Fayette thuộc hạt Seneca, bang New York, Mỹ. Người sáng lập Giáo hội này là Giáo chủ Joseph Smith, người về sau được các tín hữu trong Giáo hội xem như một vị tiên tri. Năm 1823, Joseph Smith tuyên bố rằng ông đã được gặp một thiên thần tên là Moroni và được thiên thần tiết lộ về một văn bản cổ đã bị thất lạc suốt 1.500 năm. Vì cuốn sách viết bằng chữ tượng hình (chữ Ai Cập cải cách) nên Smith không đọc được. Sau đó, Chúa cho ông ta một cặp kính để ông ta đọc được quyển sách này. Joseph Smith phải bỏ ra sáu năm để dịch cuốn sách sang tiếng Anh cho vợ và các kinh sư khác chép lại.
Đến năm 1830, sách Mặc Môn một trong những sách thánh của Giáo hội Mặc Môn đã được xuất bản. Đây cũng là năm mà Smith trong một cuộc họp với một nhóm nhỏ các tín đồ đã chính thức thành lập Giáo hội Mặc Môn, còn cuốn sách gốc đã được Thiên sứ Moroni quay lại lấy nên không ai khác nhìn thấy được. Giáo thuyết của hệ phái này dựa trên nền tảng của Kinh thánh, tin có Chúa ba ngôi, tin loài người bị Thiên Chúa phạt vì tội của tổ phụ A Đam và E-Va, cuộc lễ bắt buộc của Giáo hội các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu–Kitô là lễ Bắp têm, tiệc thánh.
Giáo hội Mặc Môn có nhiều biểu tượng như Nhẫn Công lý, Cây sự sống, Giáo hội Mặc Môn lấy sách Kinh Thánh, sách Mặc Môn, sách Giáo lý và Giao ước, sách Trân châu vô giá làm cơ sở và nền tảng của giáo lý. Các tín hữu trong giáo hội này tin rằng đây là những sách Thánh Thư. Giáo lý của giáo hội được tóm tắt trong 13 tín điều căn bản, bao gồm tin Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh tồn tại như ba nhân vật riêng biệt, môn đồ giáo phái này tin ở sự phục tùng các vua chúa, tổng thống, các nhà cai trị và các pháp quan cùng sự tuân theo, tôn trọng và tán trợ luật pháp quốc gia.
Các hoạt động của Giáo hội Mặc Môn về cơ bản giống với giáo phái Tin lành như thánh ca, giảng luận, cầu nguyện. Các tín đồ của Giáo hội Mặc Môn tuân giữ chế độ ăn uống nghiêm ngặt gọi là Lời thông sáng. Trong sinh hoạt đời thường, họ được giảng dạy kiêng rượu bia, thuốc lá, ma túy hoặc các chất gây nghiện làm hại đến sức khỏe. Tín hữu của Giáo hội Mặc Môn cũng được giảng dạy không quan hệ tình dục trước hôn nhân, hay ngoại tình sau khi kết hôn. Ngoài ra, họ còn được khuyên bảo để tóc gọn gàng, tươm tất, ăn mặc trang nhã lịch sự trong mọi tình huống, hoàn cảnh.
Sự tôn cao là niềm tin trong đạo Mặc Môn rằng sau khi chết, một số người sẽ đạt được mức độ cứu rỗi cao nhất trong vương quốc thiên thể và sống vĩnh viễn trước sự hiện diện của Chúa, tiếp tục như những gia đình, trở thành các vị thần, tạo ra thế giới và tạo ra những đứa con tinh thần mà họ sẽ trị vì. Trong giáo phái Mặc Môn lớn nhất là Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô (Nhà thờ LDS), các nhà lãnh đạo hàng đầu đã dạy rằng Chúa muốn toàn thể nhân loại được tôn vinh và rằng con người là "các vị thần trong phôi thai". Một câu trong kinh thánh được phong thánh của Giáo hội LDS nói rằng những người được tôn vinh sẽ trở thành các vị thần và một tuyên bố năm 1925 từ cơ quan quản lý cao nhất của nhà thờ nói rằng "Tất cả đàn ông và phụ nữ đều giống nhau với Cha và Mẹ [và] có khả năng, bằng trải nghiệm qua các thời đại và niên đại, có khả năng tiến hóa thành Thần" Giáo hội LDS dạy rằng thông qua sự tôn cao, các tín đồ có thể trở thành người đồng thừa kế với Chúa Giê-su Christ. Một câu trích dẫn phổ biến của tín nhân Mặc Môn thường được cho là của sứ đồ đầu tiên Lorenzo Snow vào năm 1837 là "Đức Chúa Trời cũng từng là con người như con người ngày nay; vậy nên con người cũng có thể trở thành Đức Chúa Trời.".
Chú thích
Tham khảo
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
Beckwith, Francis J., Carl Mosser, and Paul Owen, jt. eds. (2002). The New Mormon Challenge: Responding to the Latest Defenses of a Fast-Growing Movement. Grand Rapids, Mich.: Zondervan. 535 p.
Brooks, Melvin R. (1960). L.D.S. Reference Encyclopedia. Salt Lake City, Utah: Bookcraft.
McConkie, Bruce R. (1979). Mormon Doctrine. Second ed. Salt Lake City, Utah: Bookcraft. 856 p. N.B.: The contents are brief articles arranged alphabetically in the form of a topical dictionary.
Nelson, Nels L. (1904). Scientific Aspects of Mormonism: or, Religion in Terms of Life. Chicago, Ill.: Press of Hillison & Etten Co., 1904, t.p. 1918. xi, 347 p.
Shields, Steven L. (1990). Divergent Paths of the Restoration: a History of the Latter Day Saint Movement. Fourth ed., rev. and enl. Los Angeles: Restoration Research. 336 p., ill. with b&w photos.
Liên kết ngoài
PBS: Frontline + American Experience: Mormons—PBS special on Mormon belief
Patheos + Mormonism—Patheos.com. Mormonism Origins, Mormonism History, Mormonism Beliefs (archived 29 December 2010)
"Religions: Mormonism"—BBC Religion
The Church of Jesus Christ of Latter-day Saints
Community of Christ (formerly the RLDS church)
The Church of Jesus Christ (Bickertonite)
Church of Christ With the Elijah Message
Mặc Môn giáo |
Trường Trung học Cơ khí Hải quân(tiếng Tây Ban Nha: Escuela Superior de Mecánica de la Armada, thường được gọi bằng từ viết tắt ESMA) là một Di sản thế giới được UNESCO công nhận nằm tại vùng lân cận Núñez, thủ đô Buenos Aires, Argentina. Ban đầu, ESMA phục vụ như một cơ sở giáo dục của Hải quân Argentina và là trụ sở của một đơn vị đặc nhiệm. Nhưng sau đó nó đã hoạt động như là một Trung tâm giam giữ bí mật, bất hợp pháp của những người phản đối Chế độ quân sự độc tài 1976–1983 được gọi là "những kẻ lật đổ" trong khoảng thời gian được gọi là Chiến tranh bẩn thỉu. Quân đội đã tiếp nhận những đứa trẻ do những người phụ nữ bị giam giữ ở đó sinh ra, che giấu danh tính thực sự của chúng và cho phép chúng được các gia đình quân nhân và cộng sự của chế độ nhận nuôi bất hợp pháp. Đơn vị đặc nhiệm (Unidad de Tareas) chịu trách nhiệm về hàng nghìn trường hợp cưỡng bức mất tích, tra tấn và giết hại trong thời gian này. ESMA là trung tâm giam giữ lớn nhất thuộc loại này trong Chiến tranh Bẩn thỉu.
Tòa nhà ESMA đã được chuyển đổi thành bảo tàng tưởng niệm để trưng bày và tưởng nhớ những người đã "mất tích" trong Chiến tranh Bẩn thỉu của Argentina. Quốc hội đã thông qua luật vào ngày 5 tháng 8 năm 2004 để chuyển khu phức hợp ESMA thành bảo tàng, không gian Ký ức, Thúc đẩy và Bảo vệ Nhân quyền. Vào ngày 10 tháng 6 năm 2014, bảo tàng Malvinas đã được khánh thành trong khuôn viên ESMA, một bảo tàng về các hòn đảo đang bị tranh chấp bởi Vương quốc Anh (gọi chúng là Quần đảo Falkland) và Argentina (Quần đảo Malvinas).
Đến năm 2001, nó được đổi tên thành Escuela de Suboficiales de la Armada (ESSA; tiếng Anh: Trường Sĩ quan Hải quân), và sau đó cơ sở này chuyển đến Căn cứ Hải quân Port Belgrano tại Punta Alta, Buenos Aires vào năm 2005. Nơi này cách Bahía Blanca 28 km và cách Buenos Aires khoảng 600 km về phía tây nam. Ngày nay, nó là một Di sản thế giới được UNESCO công nhận từ năm 2023 với tên gọi Bảo tàng ESMA và Địa điểm tưởng niệm cũ Trung tâm Giam cầm, Tra tấn và Hủy diệt Bí mật.
Tham khảo
Liên kết ngoài
ESMA, cho đến năm 2000
ESMA: Not Forgotten: A Photo Journey by Jerry Nelson
Video Report: 'The Prison and Torture Center ESMA: The Trial Begins
Espacio para la memoria (Spanish)
Megacausa ESMA streaming
ESSA, từ năm 2001
Website of Escuela de suboficiales de la Armada
Chiến tranh Bẩn thỉu
Trại tập trung
[[Thể loại:Bảo tàng tại Buenos Aires]
Hải quân Argentina
Di sản thế giới tại Argentina |
La Liga 2 2023–24, còn được gọi là La Liga Hypermotion vì lý do tài trợ, sẽ là mùa giải thứ 93 kể từ khi thành lập ở Tây Ban Nha. Giải bắt đầu vào ngày 11 tháng 8 năm 2023 và dự kiến kết thúc vào tháng 6 năm 2024.
Các đội
Bảng xếp hạng
Kết quả
Vị trí theo vòng
Bảng liệt kê vị trí các đội sau mỗi tuần thi đấu. Để duy trì diễn biến theo trình tự thời gian, bất kỳ trận đấu bị hoãn nào đều không được đưa vào vòng đấu, mà chúng được lên lịch ban đầu, mà được thêm vào vòng đấu đầy đủ mà chúng được diễn ra ngay sau đó.
Thống kê
Tham khảo
Liên kết ngoài |
Lập trình thi đấu () là một môn thể thao trí tuệ trong đó những người tham gia sẽ cố gắng lập trình theo các yêu cầu được cung cấp. Các cuộc thi thường được tổ chức qua Internet hoặc mạng cục bộ. Những người tham gia được gọi là lập trình viên thi đấu (sport programmers). Lập trình thi đấu được công nhận và bảo trợ bởi nhiều công ty phần mềm và Internet đa quốc gia, chẳng hạn như Google và Facebook.
Trong một cuộc thi lập trình, bên tổ chức thường đưa ra một tập hợp các vấn đề logic hoặc toán học, còn được gọi là câu đố hoặc thử thách cho các thí sinh (số lượng thí sinh có thể là vài chục người hoặc thậm chí hàng trăm đến hàng ngàn). Thí sinh được yêu cầu viết các chương trình máy tính có khả năng giải quyết các vấn đề này. Việc đánh giá chủ yếu dựa trên số vấn đề đã giải quyết và thời gian đã bỏ ra để hoàn thành lời giải, nhưng cũng có thể bao gồm các yếu tố khác (chất lượng của kết quả đầu ra, thời gian thực thi, sử dụng bộ nhớ, kích thước chương trình, v.v.).
Lịch sử
Một trong những cuộc thi lâu đời nhất được biết đến là Cuộc thi Lập trình Quốc tế dành cho Sinh viên Đại học (ICPC) bắt đầu từ những năm 1970 và đã mở rộng tới 88 quốc gia trong phiên bản năm 2011.
Từ năm 1990 đến 1994, Owen Astrachan, Vivek Khera và David Kotz đã tổ chức một trong những cuộc thi lập trình phân tán dựa trên Internet đầu tiên, lấy cảm hứng từ ICPC.
Sự quan tâm đến lập trình thi đấu đã phát triển mạnh kể từ năm 2000 với hàng chục nghìn người tham gia (xem Các cuộc thi nổi bật), điều này liên quan chặt chẽ đến sự phát triển của Internet, giúp tổ chức cuộc thi quốc tế trực tuyến và loại bỏ các giới hạn địa lý.
Tổng quan
Mục tiêu của lập trình thi đấu là viết mã nguồn chương trình máy tính để giải quyết các vấn đề được đưa ra. Đa số các vấn đề xuất hiện trong các cuộc thi lập trình liên quan đến toán học hoặc logic. Các vấn đề thường thuộc một trong những loại sau: tổ hợp, lý thuyết số, lý thuyết đồ thị, lý thuyết trò chơi sử dụng thuật toán, hình học tính toán, phân tích chuỗi và cấu trúc dữ liệu. Các vấn đề liên quan đến lập trình ràng buộc và trí tuệ nhân tạo cũng phổ biến trong một số cuộc thi.
Bất kể loại vấn đề, quá trình giải quyết một vấn đề có thể chia thành hai bước chính: xây dựng một thuật toán hiệu quả và triển khai thuật toán bằng một ngôn ngữ lập trình phù hợp (các ngôn ngữ lập trình được phép dùng khác nhau giữa các cuộc thi). Đây là hai kỹ năng thường được kiểm tra nhiều nhất trong các cuộc thi lập trình.
Ở hầu hết cuộc thi, việc đánh giá được thực hiện tự động bởi các máy chủ của bên tổ chức, thường được gọi là trình chấm hay hệ thống chấm bài (judge). Các lời giải được nộp bởi thí sinh sẽ được chạy trên trình chấm với một tập hợp các test case (thường là bí mật). Thông thường, trình chấm sẽ đánh giá theo nguyên tắc "đúng hoặc sai hoàn toàn", có nghĩa rằng một lời giải được chấp nhận ("Accepted") chỉ khi nó đạt kết quả tốt trên tất cả test case được chạy bởi trình chấm, và nếu không sẽ bị từ chối. Tuy nhiên, một số cuộc thi có thể cho phép việc chấm điểm theo phần, dựa trên số lượng test case đúng, chất lượng của kết quả, hoặc một số tiêu chí khác đã được chỉ định. Một số cuộc thi khác chỉ yêu cầu thí sinh nộp kết quả tương ứng với dữ liệu đầu vào đã được cung cấp, trong trường hợp này trình chấm chỉ cần phân tích kết quả được nộp.
Các hệ thống chấm bài trực tuyến (online judge) là môi trường mà ở đó diễn ra quá trình kiểm tra. Các hệ thống chấm bài trực tuyến có danh sách xếp hạng cho thấy người dùng có số lượng lời giải được chấp nhận nhiều nhất và/hoặc thời gian thực thi ngắn nhất cho một vấn đề cụ thể.
Các cuộc thi nổi bật
Cuộc thi thuật toán
Phần lớn cuộc thi ở trên thường được tổ chức thành nhiều vòng. Các cuộc thi thường khởi đầu bằng và kết thúc ở vòng chung kết tại chỗ. Những thí sinh dẫn đầu tại IOI và ICPC sẽ nhận được huy chương vàng, bạc và đồng. Trong các cuộc thi khác, giải thưởng tiền mặt được trao cho những người hoàn thành có thứ hạng cao nhất. Các cuộc thi cũng thu hút sự quan tâm của các nhà tuyển dụng từ nhiều công ty phần mềm và Internet, những công ty này thường chiêu mộ các thí sinh bằng những lời mời làm việc tiềm năng.
Trí tuệ nhân tạo và học máy
Kaggle – cuộc thi về khoa học dữ liệu và học máy.
CodeCup – cuộc thi AI về board game được tổ chức hàng năm kể từ năm 2003. Quy luật của trò chơi được công bố vào tháng 9 và giải đấu cuối cùng được tổ chức vào tháng 2.
Google AI Challenge – cuộc thi dành cho sinh viên diễn ra từ năm 2009 đến 2011.
Halite – Một thử thách lập trình AI được tài trợ bởi Two Sigma, Cornell Tech, and Google.
Russian AI Cup – cuộc thi lập trình trí tuệ nhân tạo mở.
CodinGame – tổ chức các cuộc thi lập trình bot theo mùa.
Cuộc thi tập trung vào công nghệ nguồn mở
Danh sách có thể không đầy đủ
Nền tảng trực tuyến
Cộng đồng lập trình trên khắp thế giới đã xây dựng và duy trì nhiều nguồn tài nguyên trên internet phục vụ cho lập trình thi đấu. Họ cung cấp các cuộc thi độc lập với giải thưởng nhỏ hoặc không. Ngoài ra, các bài toán đã được lưu trữ trước đây cũng là nguồn tài liệu phổ biến để đào tạo về lập trình thi đấu. Một số tổ chức thường xuyên mở các cuộc thi lập trình, bao gồm:
Lợi ích và chỉ trích
Tham gia vào các cuộc thi lập trình có thể tăng sự hứng thú của sinh viên đối với việc nghiên cứu ngành khoa học máy tính. Những kỹ năng mà họ thu được thông qua các cuộc thi lập trình giống như ICPC cũng cải thiện cơ hội nghề nghiệp, bởi vì chúng giúp vượt qua các "cuộc phỏng vấn về kỹ thuật", thường đòi hỏi ứng viên giải quyết các vấn đề lập trình và thuật toán phức tạp ngay tại chỗ.
Tuy vậy cũng có những sự chỉ trích về lập trình thi đấu, đặc biệt từ các nhà phát triển phần mềm chuyên nghiệp. Một điều chỉ trích phổ biến là nhiều cuộc thi lập trình tốc độ nhanh dạy cho các thí sinh các thói quen lập trình và phong cách code không tốt (như sử dụng các macro một cách không cần thiết, thiếu tính trừu tượng của OOP và comment, sử dụng tên biến ngắn, v.v.). Ngoài ra, vì chỉ cung cấp các câu đố thuật toán nhỏ với lời giải tương đối ngắn, các cuộc thi lập trình như ICPC và IOI có thể không dạy mọi người những kỹ năng tốt trong ngành kỹ thuật phần mềm, vì các dự án phần mềm trong thực tế thường có hàng nghìn dòng mã và được phát triển bởi các nhóm lớn trong thời gian dài. Peter Norvig đã đề cập rằng dựa trên dữ liệu có sẵn, việc giành chiến thắng trong các cuộc thi lập trình có mối tương quan tiêu cực với hiệu suất của một lập trình viên trong công việc của họ tại Google (mặc dù các người chiến thắng trong các cuộc thi có cơ hội cao được tuyển dụng). Sau đó, Norvig tuyên bố rằng tương quan này chỉ được quan sát trên một tập dữ liệu nhỏ, nhưng không thể xác minh sau khi xem xét một tập dữ liệu lớn hơn.
Một quan điểm khác là thay vì "lãng phí" thời gian để thi đấu quá nhiều, giải các bài toán đã có lời giải, các lập trình viên có tiếng nên đầu tư thời gian của họ vào việc giải quyết các vấn đề trong thực tế.
Đọc tiếp
Halim, S., Halim, F. (2013). Competitive Programming 3: The New Lower Bound of Programming Contests. Lulu.
Laaksonen, A. (2017). Guide to Competitive Programming (các chủ đề dành cho sinh viên đại học trong ngành khoa học máy tính). Cham: Springer International Publishing.
Xu, X. (2020) The development, prosperity and decline of Olympic in Informatics. Xuất bản trực tuyến.
Kostka, B. (2021). Sports programming in practice. Đại học Wrocław.
Xem thêm
Thể loại:Cuộc thi khoa học máy tính
Hackathon
Tham khảo
Liên kết ngoài
Dự án nguồn mở để tổ chức các cuộc thi
Contest Management System Công cụ mã nguồn mở viết bằng Python để tổ chức và quản lý cuộc thi lập trình trên máy chủ IOI 2012 và IOI 2013 .
Các kỳ thi Tin học
Cuộc thi lập trình |
Stay Up Late là một bức tranh màu nước furry khiêu dâm năm 1992 của Brian Swords. Tác phẩm mô tả hai con chuột trắng được nhân hóa đang ôm nhau trên giường. Từ năm 1988 đến năm 1993, Swords đã tặng tranh trong một cuộc đấu giá nghệ thuật hàng năm cho WITF-TV, một đài truyền hình công cộng ở trung tâm Pennsylvania. Nhiều năm trôi qua, tác phẩm nghệ thuật ngày càng có nội dung kích dục, đỉnh điểm là lúc nhà đài cấm nội dung khiêu dâm vào năm 1993.
Ban đầu nó được bán vào năm 1992 với giá 80 đô la () và trở nên nổi tiếng vào năm 2020 khi người dẫn chương trình truyền hình John Oliver mua bức tranh trên Last Week Tonight. Oliver đã sử dụng tác phẩm này để bình luận về phản ứng của Mỹ đối với đại dịch COVID-19. Hành động gây chú ý này được giới bình luận khen ngợi. Năm tiếp theo, Stay Up Late được đưa vào chuyến đi đến 5 thành phố do chương trình tổ chức để hỗ trợ các bảo tàng đang gặp khó khăn.
Bối cảnh
Brian Swords, còn được gọi là Biohazard, là một nghệ sĩ người Mỹ thuộc cộng đồng furry từ York, Pennsylvania. Anh ta cho rằng "Omaha" the Cat Dancer và The Secret of NIMH có ảnh hưởng đến phong cách nghệ thuật của mình. Swords nổi tiếng với một loạt bức tranh màu nước, bao gồm cả Stay Up Late, mô tả một cặp chuột được nhân hóa tên là Alice và Bob trong tư thế khiêu dâm. Từ năm 1988 đến năm 1993, Swords đã tặng các bức tranh của mình cho cuộc đấu giá hàng năm "Gallery 33" của WITF-TV. Các tác phẩm của ông bán rất chạy, nhưng những bức tranh được tặng dần dần có thêm nội dung kích dục. Năm 1993, WITF-TV đã cấm nội dung khiêu dâm khỏi cuộc đấu giá hàng năm "Gallery 33" do sợ khán giả xa lánh và mất giấy phép FCC.
Miêu tả
Stay Up Late là một bức tranh màu nước trên giấy có kích thước . Nó mô tả hai con chuột trắng được nhân hóa đang ôm nhau trên giường. Phía sau họ, trên đầu giường là một chai K-Y Jelly lớn và một chiếc gạt tàn đã qua sử dụng. Diễn viên hài người Mỹ gốc Anh John Oliver mô tả tác phẩm "như thể Monet từng có một thời kỳ furry".
Xuất xứ
Stay Up Late được Brian Swords vẽ vào năm 1992 và được bán cho một người mua không rõ danh tính với giá $80 ().
Bức tranh xuất hiện trong tập Last Week Tonight ngày 29 tháng 3 năm 2020, khi Oliver đề nghị mua nó với giá 1.000 đô la và quyên góp 20.000 đô la cho một ngân hàng thực phẩm. Bức tranh là một phần trong nỗ lực thể hiện việc mua một bức tranh cụ thể từ một họa sĩ vô danh dễ dàng hơn nhiều so với việc xét nghiệm COVID-19 ở Hoa Kỳ. Hai tuần sau, vào ngày 12 tháng 4 năm 2020, Oliver xuất hiện với bức tranh ở phía sau trong đoạn độc thoại kết thúc tập phim. Emily Chambers, viết cho blog chính trị Pajiba, gọi trò đùa này là "câu chuyện vĩ đại nhất thế kỷ qua". Virginia Streva, trong Philly Voice, gọi cuộc tìm kiếm bức tranh là một "chiến thắng hài hước".
Stay Up Late và hai tác phẩm khác — một bức vẽ trên ván ép của Michael Lee Scot về chân dung Wendy Williams đang ăn sườn cừu và một bức tranh sơn dầu trên canvas của Judith Pond Kudlow về những chiếc cà vạt của Larry Kudlow — đã được đưa vào một chuyến đi xuyên Mỹ từ tháng 10 năm 2021 đến tháng 1 năm 2022. Triển lãm du lịch được Oliver tổ chức để hỗ trợ các bảo tàng chịu ảnh hưởng của đại dịch COVID-19. Bảo tàng Judy Garland, Bảo tàng Truyền thông Phát thanh, Bảo tàng Nghệ thuật Tầm nhìn Hoa Kỳ, Bảo tàng Phát thanh và Trung tâm Truyền thông William V. Banks và Bảo tàng Nghệ thuật Hoạt hình đã trưng bày các tác phẩm trong ba tuần, nhận được khoản quyên góp 10.000 đô la từ Last Week Tonight, và một khoản quyên góp cho một ngân hàng thực phẩm địa phương.
Tham khảo
Tranh vẽ năm 1992
Tranh vẽ Mỹ
Nghệ thuật khiêu dâm
Furry fandom
Màu nước |
Unilever Gloucester là một cơ sở sản xuất thực phẩm lớn tọa lạc ở phía đông bắc Gloucester, Anh, chuyên sản xuất tất cả các loại kem Unilever cho Vương quốc Liên hiệp Anh.
Lịch sử
Cơ sở này được Unilever xây dựng từ năm 1959. Nhà máy công bố chính thức vào thứ Ba ngày 16 tháng 4 năm 1962.
Unilever là nhà sản xuất kem lớn nhất thế giới và cũng có các cơ sở sản xuất lớn ở Hellendoorn tại Hà Lan, Saint-Dizier ở Pháp và Caivano ở Ý. Nestle và Unilever mỗi nước chiếm khoảng 1/3 sản lượng toàn cầu.
Unilever Gloucester được xây dựng để cung cấp điện cho 25 triệu người ở phía tây và phía bắc nước Anh và xứ Wales. Vào thập niên 1960, cơ sở này có hơn 1.000 nhân viên và là nhà máy kem lớn nhất thế giới. Khi đi vào hoạt động, cơ sở này có thể sản xuất 90.000 gallon kem mỗi ngày và 2 triệu kẹo mỗi ngày.
Trong vòng 5 năm vào cuối thập niên 1980, 60 triệu bảng Anh đã được đầu tư vào địa điểm này.
Viếng thăm
Tháng 3 năm 1995, địa điểm này đã được Nữ hoàng và Công tước xứ Edinburgh đến thăm; Nữ hoàng đã đến thăm địa điểm GCHQ gần đó (ở phía tây Cheltenham) lúc 10 giờ 30 phút sáng và bà đã trồng một cây kỷ niệm tại nhà máy Unilever.
Kết cấu
Trong thập niên 1960, có một tòa nhà văn phòng và sản xuất hai tầng, cùng một nhà máy sản xuất bánh quế và bánh wafer tên là Embisco. Địa điểm này được mở với tên Nhà máy Cotswold.
Cơ sở này hoạt động 24 giờ một ngày suốt cả tuần. Nó tọa lạc trên đường A417, phía tây bùng binh A40 lớn. Nó cách ngã ba 11a của M5 khoảng một dặm về phía tây và nằm ở phía đông của tuyến đường sắt xuyên quốc gia chính.
Cơ sở này có hơn 500 người.
Sản xuất
Cơ sở này sản xuất khoảng 5 triệu sản phẩm Cornetto và khoảng 10 triệu sản phẩm Magnum mỗi tuần. Nó sản xuất khoảng 1,5 tỷ sản phẩm kem mỗi năm.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang chủ Unilever UK
Unilever
Kem lạnh
Nhà máy sản xuất ở Anh
Khởi đầu năm 1959 ở Anh
Nhà sản xuất thực phẩm Anh
Công ty có trụ sở tại Gloucester
Công trình xây dựng ở Gloucester
Tòa nhà công nghiệp hoàn thành năm 1962
Công ty sản xuất sữa Vương quốc Liên hiệp Anh |
Chị đẹp đạp gió rẽ sóng là một chương trình truyền hình thực tế về âm nhạc được phát sóng trên kênh VTV3 từ ngày 29 tháng 10 năm 2023. Đây là phiên bản Việt Nam của chương trình truyền hình Trung Quốc Tỷ tỷ đạp gió rẽ sóng của Mango TV. Chương trình bao gồm 30 nữ nghệ sĩ đã ra mắt 30 tuổi trở lên, thông qua huấn luyện và thi đấu khép kín, cuối cùng do người xem bỏ phiếu chọn 7 nữ nghệ sĩ tạo thành nhóm nhạc nữ hoàn toàn mới. Chương trình được phát sóng vào thứ Bảy hàng tuần vào lúc 21:15 trên kênh VTV3.
Định dạng
Chị đẹp đạp gió rẽ sóng gần như giữ nguyên format của bản gốc Tỷ tỷ đạp gió rẽ sóng. Chương trình bao gồm 30 nữ nghệ sĩ (được gọi là các Chị Đẹp) có độ tuổi từ 30 trở lên, đã và đang hoạt động trong giới giải trí như âm nhạc, điện ảnh, người mẫu, diễn viên, doanh nhân...
Mỗi đêm công diễn, sau những buổi luyện tập cả về thanh nhạc lẫn vũ đạo, các chị đẹp sẽ được lập thành các nhóm nhạc 3, 5 hoặc 7 thành viên. Đội nhận về nhiều phiếu bầu chọn trực tiếp sẽ giành chiến thắng và đi tiếp. Sau 5 đêm công diễn, vòng Chung kết sẽ chọn ra 7 chị đẹp xuất sắc nhất dựa trên bình chọn của khán giả để ra mắt với tư cách một nhóm nhạc.
Lịch sử sản xuất
Ngày 8 tháng 6 năm 2023, trên fanpage chính thức của chương trình công bố rằng chương trình Tỷ tỷ đạp gió rẽ sóng chính thức về Việt Nam với tên gọi là Chị đẹp đạp gió rẽ sóng, một format nổi tiếng tại Trung Quốc đã từng có sự xuất hiện của ca sĩ Chi Pu. Ngày 20 tháng 7 năm 2023, chương trình công bố chính thức dàn ekip của chương trình. Ngày 10 tháng 8 năm 2023, fanpage của chương trình đăng tải chính thức bộ 3 ban cố vấn cũng như là bộ 3 host của chương trình.
Từ ngày 23 tháng 8 năm 2023, lần lượt các Chị Đẹp được giới thiệu trên fanpage của chương trình, đầu tiên là 4 Chị Đẹp Thu Phương, Uyên Linh, Hà Kino và Ninh Dương Lan Ngọc. Đến cuối tháng 9 năm 2023, danh sách 30 Chị Đẹp đã được lộ diện hoàn toàn.
Ngày 19 tháng 10 năm 2023, chương trình tổ chức họp báo ra mắt với sự xuất hiện của các Chị Đẹp. Một ngày sau đó, MV ca khúc chủ đề "Nơi bình minh đầy nắng"''' với sự có mặt của các Chị Đẹp tham gia chương trình được đăng tải lên Youtube của YeaH1 Show.
Ban cố vấn và dẫn chương trình
Ban cố vấn của chương trình mùa 1 bao gồm: Phó Trưởng ban Văn nghệ Đài Truyền hình Việt Nam - nhà báo Trần Hồng Hà, Đạo diễn - Nhà sản xuất Trần Thành Trung và Giám đốc sáng tạo Denis Đặng.
Ngày 7, 8, 9 tháng 8 năm 2023, fanpage chương trình đăng tải gợi ý về ba người dẫn chương trình. Và vào ngày 10 tháng 8 năm 2023, ba host của chương trình được chính thức công bố bao gồm: MC Anh Tuấn, diễn viên Quốc Trường và người mẫu Lâm Bảo Châu.
Tổng quan các mùa
Danh sách "Chị Đẹp" *Danh sách tạm sắp xếp theo thứ tự xuất hiện trong tập 1 Nội dung chương trình
Vòng Trình diễn cá nhân
Mỗi Chị Đẹp phải chuẩn bị một tiết mục solo trong 90 phút. 29 Chị Đẹp còn lại sẽ chấm điểm cho người đang biểu diễn. Bên cạnh đó, sau phần trình diễn, mỗi Chị Đẹp sẽ được các cố vấn chấm điểm trên tổng điểm là 90 điểm. Sau vòng này, 3 Chị Đẹp đứng đầu Bảng điểm Chị Đẹp sẽ trở thành trưởng nhóm cho vòng Công diễn 1, và rồi 2 Chị Đẹp đứng đầu Bảng điểm cố vấn sẽ trở thành 2 trưởng nhóm tiếp theo.
Đón nhận
Với sức nóng của sự xuất hiện của Chi Pu tại Tỷ tỷ đạp gió rẽ sóng mùa thứ tư, việc một format như vậy về Việt Nam được rất nhiều người quan tâm và chú ý. Đến tháng 10 năm 2023, theo thông tin đăng tải trên fanpage chương trình, kênh tiktok của chương trình cán mốc 100 triệu views với hashtag #ChiDepDapGioReSong trên mọi nền tảng và 1000 tin bài về chương trình trước khi phát sóng. Sự xuất hiện của đến 30 Chị Đẹp là các tên tuổi nổi tiếng trong showbiz, đặc biệt là sự xuất hiện của những diva nổi tiếng như Mỹ Linh, Hồng Nhung, Lệ Quyên, Thu Phương, hoặc các diễn viên như Diệu Nhi và Ninh Dương Lan Ngọc, đã trở thành chủ đề bàn tán trên mạng xã hội. Bên cạnh đó, MV chủ đề của chương trình "Nơi bình minh đầy nắng"'' cũng sở hữu hơn 20 triệu lượt xem trên các nền tảng mạng xã hội.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Danh sách các chương trình phát sóng của Đài Truyền hình Việt Nam
Chương trình truyền hình Việt Nam
Truyền hình thực tế
Chương trình truyền hình thực tế tại Việt Nam
Chương trình truyền hình trên VTV |
Không lực Lục quân Hoa Kỳ (USAAF hoặc AAF) là đơn vị phục vụ tác chiến trên không chủ yếu trên đất liền của Quân đội Hoa Kỳ và là chi nhánh phục vụ tác chiến trên không trên thực tế của Hoa Kỳ trong và ngay sau Thế chiến II (1941–1947). Đơn vị được thành lập vào ngày 20 tháng 6 năm 1941 với tư cách là đơn vị kế tiếp của Quân đoàn Không quân Lục quân Hoa Kỳ trước đây và là tiền thân của Không quân Hoa Kỳ, ngày nay là một trong sáu lực lượng vũ trang của Hoa Kỳ. AAF là một bộ phận của Quân đội Hoa Kỳ, vào ngày 2 tháng 3 năm 1942.
Chú thích
Liên kết ngoài
Allied Fighter Combat Footage
U.S. Army Air Forces in World War II: Combat Chronology 1941–1945
Air Power: The United States Air Force
Army Air Forces Aircraft: A Definitive Moment
AAFCollection.info
USAAF.net
USAAF in WWII
National WWII Glider Pilots Association, Inc.
Không lực Lục quân Hoa Kỳ
Lịch sử quân sự Hoa Kỳ thế kỷ 20
Đơn vị quân sự thành lập năm 1941
Khởi đầu năm 1941 ở Hoa Kỳ
Không quân bị giải tán |
Nguyễn Trọng Phúc (sinh ngày 11 tháng 12 năm 2002) là một vận động viên Taekwondo Việt Nam. Anh là thành viên đội tuyển Taekwondo Hồ Chí Minh.
Tiểu sử
Sự nghiệp
Thành tích nổi bật
Thể thao
Tham khảo
Sinh năm 2002
Vận động viên Taekwondo Việt Nam
Nhân vật còn sống |
(James) Yahya Kanu (không rõ – 29 tháng 12 năm 1992) là một sĩ quan mang quân hàm đại tá người Sierra Leone và người trung thành với Tổng thống Joseph Saidu Momoh. Ngay khi thông tấn xã Reuters đưa tin Kanu là người cầm đầu đảo chính, ông đã phủ nhận việc này trên chương trình Focus on Africa của đài BBC, mà chỉ cố gắng đàm phán với phe nổi loạn. Valentine Strasser về sau cầm đầu đã cho bắt giữ Kanu. Kanu sau đó bị buộc tội phản đảo chính với nhân vật ủng hộ Đảng Đại hội Toàn dân Bambay Kamara và bị Valentine Strasser, Solomon Musa, Maada Bio và Idriss Kamara hành quyết trên bãi biển gần thủ đô Freetown.
Khi nội chiến bùng nổ năm, trong bối cảnh phiến quân Mặt trận Liên minh Cách mạng của Foday Sankoh tiến vào Sierra Leone từ phía Liberia dưới quyền Charles Taylor, đại tá Kanu được coi là một trong những chỉ huy năng động nhất được huấn luyện dưới thời Anh thuộc. Phiến quân của Foday Sankoh bị tiểu đoàn Cobra của Kanu đẩy lùi tại thành phố Kenema, miền đông Sierra Leone. Quân của đại tá Kanu tập hợp cả thành phần dân thường lẫn quân đội Samuel Doe và nhanh chóng đánh đuổi phiến quân Gandorhun và Zimmi, rồi đến cầu sông Mano nối với Liberia. Nhưng sau đó các thị trấn thường xuyên bị đánh chiếm đổi phe, quân sĩ cho rằng là Freetown thiếu nguồn lực cung ứng. Đây là yếu tố chính góp phần vào cuộc đảo chính năm 1992.
Tham khảo
Quân nhân Sierra Leone
Chính khách Sierra Leone
Mất năm 1992
Năm sinh thiếu |
Cụm từ Bạo lực sinh bạo lực () mang ý nghĩa hành động bạo lực sẽ thúc đẩy hành động bạo lực khác như một hệ quả tất yếu. Cụm từ này đã được sử dụng từ đầu thế kỷ 19.
Bạo lực sinh bạo lực là một khái niệm được mô tả trong Phúc Âm Mátthêu, câu 26:52. Đoạn văn mô tả một sứ đồ (được xác định trong Phúc Âm Gioan là Phêrô) rút kiếm để chống lại việc bắt giữ Giêsu nhưng được yêu cầu tra vũ khí vào lại vỏ:Chúa Giêsu nói với ông: “Hãy trả gươm vào đúng vị trí của nó vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm”.
Lời của Martin Luther King Jr.
Martin Luther King Jr. (1929–1968) từng sử dụng cụm từ này trong câu nói của ông:
Xem thêm
Chủ nghĩa vô chính phủ Kitô giáo
Vòng bạo lực
Quay má bên kia
Tham khảo
Bạo lực
Martin Luther King, Jr. |
Giáo phái Đền Mặt trời (Order of the Solar Temple) hay Dòng Đền thờ Thái dương (Ordre du Temple solaire, viết tắt OTS) được thành lập với tên gọi Dòng Hiệp sĩ Quốc tế của Truyền thống Mặt trời (Ordre International chevaleresque de Tradition solaire, OICTS) là một nhóm tôn giáo bí truyền, thường được mô tả là một dị giáo phái, được cho là dựa trên lý tưởng của Hiệp sĩ Đền thánh (Hiệp sĩ Dòng Đền, Knights Templar). Giáo phái Đền Mặt trời được Luc Jouret và Joseph Di Mambro thành lập vào năm 1984 tại Saconnex d'Arve, Thụy Sĩ. Giáo phái này được biết đến nhiều nhất với một loạt vụ giết người và tự sát hàng loạt cướp đi sinh mạng của 74 người ở Thụy Sĩ, Pháp và Canada vào năm 1994, 1995 và 1997, và tạo ra những tranh cãi kéo theo đó, hoạt động của giáo phái này là nhân tố chính trong việc đẩy mạnh công cuộc đấu tranh chống lại các tà giáo ở nước Pháp.
Lịch sử
Dòng dị giáo phái này được Luc Jouret và Joseph De Mambro thành lập vào đầu những năm 80 của thế kỷ XX, ban đầu, Dòng Đền thờ Thái dương là một tổ chức tôn giáo nhỏ có trụ sở ở Thụy Sĩ. Nhóm này hoạt động khá bí mật, dành nhiều thời gian thực hiện các nghi lễ cổ xưa. Mặc dù Mambro được gia đình định hướng cho theo nghề thợ sửa đồng hồ và kim hoàn nhưng Mambro lại rất quan tâm đến tôn giáo. Năm 1956, Mambro tham gia vào một giáo phái bí mật. Tuy nhiên, không tán thành với những giáo lý của giáo phái này nên năm 1969, Joseph Di Mambro đã tách ra lập riêng cho mình một tôn giáo riêng. Năm 1973, Joseph Di Mambro đã tới sống tại khu vực gần biên giới của Pháp và Thụy Sĩ. Tại đây, Mambro đã lập nên một trung tâm với thuyết lý của giáo phái và kêu gọi mọi người gia nhập. Joseph Di Mambro tuyên bố mình chính là hóa thân của đấng tối cao, chỉ có mình hắn mới có quyền quyết định người nào sẽ kết hôn hoặc sinh con. Mục đích của Joseph Di Mambro là hy vọng có được những đứa trẻ có chất lượng. Sau này, cả con trai và con gái của Joseph Di Mambro đều được xem là những đứa trẻ thần thánh khi người có khả năng mở ra một kỷ nguyên mới, kẻ lại là một trong những đứa con của vũ trụ.
Năm 1978, Joseph Di Mambro đặt tên giáo phái của mình là “Con đường vàng”. Năm 1984 Joseph Di Mambro đổi tên giáo phái thánh “Đền Mặt trời” (Solar Temple). Cũng từ đây, giáo phái này bắt đầu lộng hành. Giáo phái này phát triển rất nhanh, vào năm 1989 số lượng thành viên khoảng 600 người. Joseph Di Mambro đi khắp nơi giao rảng về giáo lý của mình đồng thời kêu gọi quyên góp tiền, tài sản. Theo một số tài liệu, giáo phái này đã quyên góp được khoảng gần 100 triệu đô la Mỹ. Để đổi lại số tiền lớn đã quyên góp, các tín đồ sẽ nhận được lời hứa hẹn về sự giải thoát thông qua con đường lửa khi thế giới đến ngày tận thế. Tuy nhiên, Joseph Di Mambro cũng gặp phải sự phản đối của một số thành viên giáo phái, đặc biệt khi một cựu thành viên phát hiện ra Mambro dùng trò lừa bịp bằng tia lazer trong các buổi họp. Hiện nay, nhiều người tin rằng, Dòng Đền thờ Thái dương đã chấm dứt hoạt động, song giới chuyên gia cho rằng, một số người vẫn đang thực hành giáo phái này.
Giáo lý
Niềm tin và hoạt động của hội bí mật này liên quan đến sự pha trộn giữa Kitô giáo sơ khai, tôn giáo UFO, triết học Thời Đại mới và các nghi lễ Freidiaon. Ban đầu vốn là tổ chức hòa bình nhưng với một số niềm tin khác thường, chẳng hạn như cái chết chỉ là ảo ảnh và cuộc sống vẫn tiếp diễn trên các hành tinh khác. Giống nhiều giáo phái khác, Dòng Đền thờ Thái Dương tin rằng, ngày tận thế đang đến gần và con người cần phải rời bỏ thế giới trần tục này. Đặt niềm tin của mình vào một con đường lửa dẫn đến hành tinh thiêng liêng, hưởng cuộc sống hạnh phúc, rất nhiều tín đồ của giáo phái “Đền mặt trời” (Solar Temple) đã tiến hành tự sát tập thể rồi thiêu đốt cơ thể.
Các vụ án
Hoạt động của giáo phái này gây chuyện chấn động khi con trai 3 tháng tuổi của một trong những thành viên hội tại Canada bị đem làm vật hiến tế vào tháng 10 năm 1994 vì được cho là kẻ chống lại Chúa Trời. Joseph Di Mambro ra lệnh cho vợ của Tony Dutoit, một thành viên của giáo phái không được sinh con và bị phớt lờ và vợ của Tony đã sinh ra một đứa con trai, đặt tên là Christopher Emmanuel. Giáo chủ Joseph Di Mambro lập tức tuyên bố đứa trẻ đó là đứa trẻ chống Chúa. Ngay sau đó, 15 người trong hội đã tự sát hàng loạt và 38 người khác được phát hiện bị bắn hoặc đánh đập đến chết một cách bí ẩn, tất cả đều mặc áo choàng theo nghi lễ. Không dừng lại, tháng 11 năm 1995, cảnh sát Pháp tiếp tục tìm thấy thi thể của 13 người trưởng thành và 3 trẻ em tại một cánh rừng, tất cả đều có mối liên hệ với Hội Đền thờ Mặt trời (Order Of The Solar Temple).
Giữa những năm 1990, thi thể các thành viên giáo phái bắt đầu xuất hiện, trước tiên là ở bang Fribourg của Thụy Sĩ. Đầu tiên người ta tìm thấy 23 xác người trong các vụ cháy, sau đó là 25 thi thể. Tất cả đều bị đánh thuốc cho mê man rồi bị bắn chết. Nhiều nạn nhân được tìm thấy trong một nhà thờ bí mật trong lòng đất, có nhiều gương và các đồ vật mang tính biểu tượng của dòng tu quân đội Kitô giáo Hiệp sĩ Đền Thánh. Các thi thể đều mặc áo choàng mang tính nghi lễ và được đặt theo hình tròn, chân chụm vào nhau, đầu hướng ra ngoài. Hai ngày sau đó, thi thể hai thành viên của giáo phái cùng con trai 3 tháng tuổi của họ được tìm thấy ở tỉnh Quebec của Canada. Cơ quan chức năng xác định đây là vụ giết người rồi tự sát. Xu hướng này tiếp diễn trong vài năm với các thành viên giáo phái bị đánh thuốc, bắn và đốt cháy. Tháng 2 năm 1993, có 84 tín đồ bao gồm cả trẻ em đã tiến hành tự sát tập thể rồi phóng hỏa. Hình ảnh tự sát tập thể này đã được truyền hình khắp thế giới khiến cho uy tín của giáo phái này sụt giảm rõ rệt.
Để cứu vẫn tình thế, Mambro tuyên bố đã đến thời điểm để các thành viên giáo phái rời bỏ trái đất, đi đến một hành tinh thiêng liêng, hạnh phúc hơn. Tất nhiên trước khi thực hiện hành trình này, nhiệm vụ trước hết là phải tiêu diệt kẻ chống Chúa. Ngày 4 tháng 10 năm 1994, một vụ thảm sát kinh hoàng đã diễn ra tại khu trượt tuyết Morin Heights gần Montreal, Canada. Một ngôi nhà bị thiêu rụi. Cảnh sát phát hiện ra hai xác chết cạnh ngôi nhà cháy đen. Sau khi dập tắt ngọn lửa, họ phát hiện thêm 3 xác chết có nhiều vết đâm. Chỉ nửa ngày sau, lại thêm một vụ hỏa hoạn khác tại trang trại của một người có tên Albert Giacobino. Cảnh sát đã phát hiện ra nhiều căn phòng bí mật. Có 20 người tự sát tập thể trong những phòng kín với áo lễ và tư thế như đang thực hiện nghi lễ. Kết quả điều tra cho thấy, gia đình 3 người bị giết hại chính là gia đình Tony. Hai xác chết bên ngoài là hai tín đồ đi thi hành án sau đó tự sát. Còn vụ tự sát tập thể chính là nghi lễ cuối cùng của Joseph Di Mambro và một số thành viên giáo phái. Sau cái chết của Joseph Di Mambro, cảnh sát đã phải đau đầu khi nhiều thành viên của giáo phái này đã cùng thực hiện nghi lễ để đến hành tinh thiêng.
Chú thích
Liên kết ngoài
Cuồng giáo
Tôn giáo UFO |
Nguyễn Anh Tuấn (sinh ngày 19 tháng 10 năm 1966) là một Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Bác sĩ (PGS. TS. BS) chuyên ngành phẫu thuật tiêu hóa tại Việt Nam. Ông giữ chức vụ Phó viện trưởng Viện Phẫu thuật tiêu hóa, Chủ nhiệm khoa Phẫu thuật ống tiêu hóa Bệnh viện Trung ương Quân đội 108.
PGS. TS. BS Nguyễn Anh Tuấn hiện là sĩ quan cao cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam, quân hàm Đại tá.
Tiểu sử
Nguyễn Anh Tuấn được sinh ra và lớn lên tại Thủ đô Hà Nội (Việt Nam)
Ông là Đảng viên
Năm 2015 - Đến nay: Chủ nhiệm khoa Phẫu thuật ống tiêu hóa Bệnh viện Trung ương Quân đội 108.
Học vấn
Năm 1989: Tốt nghiệp bác sĩ đa khoa tại Học viện Quân y.
Năm 2001: Đạt học vị Tiến sĩ y khoa.
Năm 2003 - 2005: Theo học tại Bệnh viện Hôpital d'instruction des armées Desgenettes, Pháp.
Năm 2012: Được công nhận chức danh Phó Giáo sư do Hội đồng Giáo sư Nhà nước.
Năm 2015: Được công nhận chức danh bác sĩ cao cấp.
Thành tựu
Kết quả điều trị ung thư trực tràng được xạ trị ngắn ngày trước mổ kết hợp phẫu thuật nội soi cắt toàn bộ mạc treo trực tràng
New approach in minimally invasive surgery for treatment of rectal cancer: Transanal laparoscopic surgery
Nghiên cứu đặc điểm giai đoạn bệnh của bệnh nhân ung thư trực tràng được chỉ định xạ trị trước mổ ngắn ngày kết hợp phẫu thuật nội soi cắt toàn bộ mạc treo trực tràng
Đánh giá thực trạng dinh dưỡng của người bệnh trước và sau phẫu thuật ung thư dạ dày tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108
Phẫu thuật nội soi hoàn toàn - giải pháp mới cho bệnh nhân ung thư thực quản.
Phẫu thuật nội soi thu nhỏ dạ dày hình ống điều trị béo phì tại Bệnh viện TWQĐ 108
Lịch sử thụ phong quân hàm
Chú thích |
Biển nhân tạo hay còn gọi là bãi biển đô thị (Urban beach) hay bãi biển thành phố (City beach) và đôi khi gọi là câu lạc bộ bãi biển (Beach club) là một môi trường nhân tạo được tạo ra trong bối cảnh đô thị mô phỏng bãi biển công cộng, thông qua việc sử dụng cát, hệ thống ô dù trên bãi biển và các yếu tố thiết kế chỗ ngồi. Các bãi biển đô thị được thiết kế để gây ngạc nhiên và thích thú cho người dân thành phố, công nhân và du khách bằng cách đưa bầu không khí bãi biển vào một khu đô thị mà lẽ ra sẽ là cảnh quan thành phố điển hình. Có rất nhiều biến thể của các bãi biển đô thị. Các bãi biển đô thị thường được tìm thấy dọc theo đường thủy, mặc dù một số được đưa vào quảng trường thị trấn hoặc các không gian khác cách xa nguồn nước. Bãi biển có thể được thiết kế theo mùa trên đường hoặc bãi đậu xe, hoặc có thể là cố định.
Bãi biển đô thị không nhất thiết phải là đất công mặc dù nó luôn mở cửa cho công chúng (đôi khi có một khoản phí vào cửa nho nhỏ). Vì không thể bơi trên sông hoặc biển nên nhiều bãi biển đô thị có các đặc điểm giải trí môi trường nước, ví dụ như đài phun nước, bể lội nước hoặc tháp phun sương để giải nhiệt. Một số bãi biển đô thị có khu vực giải trí hoặc ăn uống. Một số có các tiện nghi thể thao như môn bóng chuyền bãi biển, bóng đá bãi biển. Hầu hết các bãi biển đô thị được thiết kế để thu hút dân chúng nói chung, từ các gia đình, những người trẻ độc thân đến những người lớn tuổi. Mặc dù bãi biển đô thị có thể không có tiện nghi để bơi lội, đồ bơi thường được thấy cùng với trang phục thông thường hơn ở các trung tâm đô thị lớn. Sự phổ biến của các bãi biển đô thị tăng lên vào đầu thế kỷ XXI khi khái niệm này được các nhà quy hoạch đô thị, kiến trúc sư cảnh quan và các chính trị gia địa phương ủng hộ.
Lịch sử
Các bãi biển đô thị tự nhiên nằm trên biển đã thu hút khách du lịch từ lâu, chẳng hạn như Copacabana ở Rio, bãi biển trung tâm của San Sebastián hay Bãi biển thành phố trong khu Stralsund. Tuy nhiên, nhiều bãi biển đô thị được người dân địa phương đặc biệt sử dụng để thư giãn. Một ví dụ điển hình cho điều này là bãi biển Barcola, nơi từng được kết nối với trung tâm Trieste bằng xe điện và bây giờ bằng xe buýt. Mọi người ở mọi lứa tuổi đều có cơ hội dành thời gian rảnh rỗi hoặc nghỉ trưa để tránh xa cái nóng của thành phố trong làn gió biển mát lạnh. Thậm chí còn có những cân nhắc để xây dựng lại bãi biển đầy cát ở Barcola, nơi phần lớn đã được xây dựng quá mức do xây dựng đường bộ vào thế kỷ XIX. Mặc dù nhiều thành phố đã thử nghiệm việc đổ cát tạm thời cho các lễ hội và dự án nghệ thuật khác nhau, khái niệm bãi biển đô thị hiện đại như một tiện nghi công cộng vào mùa hè ở giữa thành phố đã được phổ biến từ Paris-Plages, một chương trình về bãi biển đô thị theo mùa, việc đổ cát dọc theo Seine bắt đầu vào năm 2002 và đã đạt thành công rực rỡ.
Trong khi một số bãi biển đô thị ở châu Âu tuyên bố có trước Paris, tất cả các bãi biển được xây dựng kể từ đó đều chịu ảnh hưởng mạnh mẽ dưới các yếu tố thiết kế và quy hoạch của nó. Có những bãi biển đô thị mở cửa cho công chúng miễn phí hoặc vào cửa, không bao gồm các bãi biển nhân tạo hoàn toàn riêng tư, các bãi biển tự nhiên tồn tại trong khu vực đô thị, sân chơi, công viên nước chuyên dụng hoặc quảng trường đài phun nước có cảnh quan . Ở Việt Nam có nhiều khu vui chơi có bãi biển nhân tạo như Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến có hạng mục biển Đại Nam được xây dựng trên diện tích gần 22 ha, tổng diện tích mặt nước 20.000m², chiều dài bờ biển 1,4 km. Biển có các bãi tắm, hệ thống tạo sóng nhân tạo có thể làm ra những con sóng cao 1,6m. Khu du lịch Văn hóa Suối Tiên có hạng mục biển Tiên Đồng - biển nhân tạo đầu tiên ở Việt Nam. Saigon Water Park (Công viên nước Sài Gòn) sở hữu nhiều hồ bơi chủ đề như biển nhân tạo, dòng sông lười, trượt ống xoắn. The Amazing Bay là công viên nước tọa lạc tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai có hạng mục Bãi biển Thiên đường đạt kỷ lục "biển nhân tạo nước ngọt có diện tích lớn nhất Việt Nam", "biển nước ngọt có cột sóng nhân tạo cao nhất Việt Nam".
Chú thích
Xem thêm
Công viên nước (Water park)
Thuyền tham quan (Boatsnap)
Nhà tắm công cộng (Public bathing)
Bể bơi công cộng
Bãi biển
Công trình |
Jack Frank Porteous Cork (sinh ngày 25 tháng 6 năm 1989) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ phòng ngự cho câu lạc bộ Burnley tại .
Danh hiệu
Burnley
EFL Championship: 2022–23
Cá nhân
Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Scunthorpe United: 2007–08
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ tại trang web Burnley FC
Cầu thủ bóng đá Thế vận hội Mùa hè 2012
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Anh
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Anh
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Swansea City A.F.C.
Cầu thủ bóng đá Burnley F.C.
Cầu thủ bóng đá Coventry City F.C.
Cầu thủ bóng đá Watford F.C.
Cầu thủ bóng đá Southampton F.C.
Cầu thủ bóng đá Scunthorpe United F.C.
Cầu thủ bóng đá A.F.C. Bournemouth
Cầu thủ bóng đá Chelsea F.C.
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1989 |
Oscar Bobb (sinh ngày 12 tháng 7 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Na Uy hiện thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Manchester City tại Premier League và đội tuyển quốc gia Na Uy.
Danh hiệu
Manchester City
Siêu cúp châu Âu: 2023
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ bóng đá nam Na Uy ở nước ngoài
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Na Uy
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Na Uy
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá Manchester City F.C.
Tiền đạo bóng đá nam
Nhân vật còn sống
Sinh năm 2003 |
Conrad Jaden Egan-Riley (sinh ngày 2 tháng 1 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Burnley tại .
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Premier League
Người Anh gốc Ireland
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Cộng hòa Ireland
Hậu vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Burnley F.C.
Cầu thủ bóng đá Manchester City F.C.
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 2003 |
Joshua Brownhill (sinh ngày 19 tháng 12 năm 1995) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Burnley tại .
Danh hiệu
Barnsley
Vòng play-off EFL League One: 2016
EFL Trophy: 2015–16
Burnley
EFL Championship: 2022–23
Cá nhân
Đội hình EFL của mùa giải: 2022–23
Đội hình PFA của năm: Championship 2022-23
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Burnley F.C.
Cầu thủ bóng đá Bristol City F.C.
Cầu thủ bóng đá Barnsley F.C.
Cầu thủ bóng đá Preston North End F.C.
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1995 |
Nathan Daniel Jerome Redmond (sinh ngày 6 tháng 3 năm 1994) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Burnley tại Premier League.
Danh hiệu
Norwich City
Vòng play-off EFL Championship: 2015
Southampton
Á quân Cúp EFL: 2016–17
U16 Anh
Victory Shield: 2009
Á quân Montaigu Tournament: 2010
U17 Anh
Nordic Tournament: 2010
U21 Anh
Toulon Tournament: 2016
Cá nhân
Đội hình tiêu biểu Giải vô địch bóng đá U-21 châu Âu: 2015
Cầu thủ U21 Anh xuất sắc nhất năm: 2016
Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải của Southampton: 2018–19
Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải của Southampton do người hâm mộ bình chọn: 2018–19
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ tại trang web Beşiktaş JK
Người Anh gốc Ireland
Cầu thủ bóng đá Süper Lig
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Burnley F.C.
Cầu thủ bóng đá Beşiktaş J.K.
Cầu thủ bóng đá Southampton F.C.
Cầu thủ bóng đá Norwich City F.C.
Cầu thủ bóng đá Birmingham City F.C.
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Anh
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Anh
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1994 |
Tô Hộ (蘇護) là một nhân vật hư cấu, nhân vật thần thoại Trung Quốc trong tiểu thuyết Trung Quốc thế kỷ 16 Phong Thần Diễn Nghĩa . Ông là một vị tướng của triều đại nhà Thương dưới thời vua Trụ của nhà Thương . Ông là cha của Tô Toàn Trung và Tô Đắc Kỷ . Tô Hộ đã trao Tô Đắc Kỷ cho Vua Trụ của nhà Thương như một lời đề nghị xoa dịu sau khi xung đột vũ trang nổ ra giữa lực lượng quân sự của Tô Hộ và Sùng Hầu Hổ, Sùng Ứng Bưu. Tô Hộ là hầu tước của Kí Châu .
Mặc dù Tô Đắc Kỷ là một nhân vật lịch sử nhưng sự tồn tại của Tô Hộ và Tô Toàn Trung vẫn bị nghi ngờ và họ được cho là những nhân vật bán hư cấu. Không có đề cập đến tên của họ trong các ghi chép hoặc chữ khắc lịch sử cổ đại. Theo các ghi chép lịch sử như Quốc Du và Sử ký vĩ đại , người ta chỉ ghi rằng Đắc Kỷ là con gái của một quý tộc từ gia tộc Tô [ zh ] . Sau khi vua Trụ của nhà Thương chinh phục gia tộc Tô, họ gả cô cho vua Trụ làm vợ lẽ. Không có đề cập đến tên của cha và anh trai của Đắc Kỷ. Tuy nhiên, do nền văn hóa dân gian và truyền thuyết truyền miệng phong phú và ngày càng phát triển ở Trung Quốc, những nhân vật này có thể được coi là những nhân vật thần thoại và lăng mộ của họ có thể được tìm thấy ngoài đời thực.
Truyền thuyết
Là một trong tám trăm hầu tước phục vụ vua Trụ và cai trị Kí Châu, Tô Hộ đã tham gia vào cuộc họp mặt mùa hè theo phong tục để thể hiện lòng trung thành của mình với triều đại nhà Thương. Tuy nhiên, khi đến nơi, ông đã chứng kiến sự tham nhũng và bất công tràn lan trong triều đình của Vua Trụ, khiến anh phải giữ lập trường nguyên tắc và từ chối tuân theo yêu cầu của nó. Quyết định này khiến ông bị Phí Trọng và Vưu Hồn, hai trong số những quan đại thần tham nhũng nhất trong triều đình nhà Thương khinh miệt.
Để đáp lại sự thúc giục của Phí Trọng, vua Trụ đã đưa ra một yêu cầu táo bạo, nhất quyết yêu cầu Tô Hộ dâng con gái của mình cho nhà vua. Tuy nhiên, Tô Hộ từ chối và thách thức nhà vua, quay trở lại hầu tước của mình để củng cố khả năng phòng thủ cho chiến tranh. Một liên minh hùng mạnh nổi lên với mục đích khuất phục Tô Hộ 'nổi loạn'. Dẫn đầu liên minh này là hai nhân vật nổi bật, Công tước Sùng Hầu Hổ và Văn Vương nhà Châu , còn được gọi là Cơ Xương. Cơ Xương tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho cuộc xung đột, nhưng Sùng Hầu Hổ đã phát động một cuộc tấn công nhiệt tình vào lực lượng của Su Hu vì mong muốn giành được sự sủng ái của nhà vua.
Sau khi con trai là Tô Toàn Trung bị bắt, Tô Hổ đã đưa ra một quyết định kiên quyết để bảo toàn danh dự. Anh sẵn sàng tự kết liễu đời mình cùng với vợ và con gái thay vì bị bắt làm tù nhân. Tuy nhiên, Ji Chang đã can thiệp và thuyết phục Su Hu tha cho gia đình anh và thay vào đó dâng con gái mình như một phương tiện để giảm bớt đau khổ cho người dân, từ đó chấm dứt liên minh. Đáng buồn thay, con gái của Su Hu đã mắc phải một linh hồn cáo khi du hành đến triều đình của Vua Chu, điều này cuối cùng góp phần vào sự sụp đổ của nhà Thương. Su Hu, gia nhập quân đội của Vua Wu của Chu , tham gia vào nỗ lực lật đổ nhà Thương của họ. Su Hu tiếp tục tích cực tham gia vào nhiều chiến dịch sau những sự kiện đó, thể hiện cam kết kiên định của mình. Cuối cùng anh ta đã chết tại đèo Tongguan, nơi Yu Zhao đã giết anh ta, chấm dứt cuộc hành trình đáng chú ý của anh ta. Cuối cùng, Jiang Ziya đã bổ nhiệm anh ta làm một trong bốn "Dongdou Xingguan" (Quan chức Sao Đông, 东斗星官) |
Jodensavanne (tiếng Hà Lan, "Người Do Thái Savan") là cộng đồng đồn điền Do Thái ở Suriname, từng là trung tâm đời sống của người Do Thái ở thuộc địa trong một thời gian. Nó được thành lập vào những năm 1600 bởi Người Do Thái Sephardi và trở nên phát triển, giàu có hơn sau khi một nhóm người Do Thái chạy trốn cuộc đàn áp ở Brazil đến định cư ở đó vào những năm 1660. Jodensavanne nằm ở huyện Para ngày nay, cách về phía nam thủ đô Paramaribo, trên sông Suriname. Các đồn điền mía được thành lập và người châu Phi da đen bị sử dụng làm lao động nô lệ. Vào thời kỳ đỉnh cao vào khoảng năm 1700, đây là nơi sinh sống của khoảng 500 chủ đồn điền với 9000 nô lệ. Thuộc địa này thường xuyên phải đối mặt với các cuộc tấn công từ người bản địa, các cuộc nổi dậy của nô lệ và thậm chí cả các cuộc đột kích từ hải quân Pháp. Cộng đồng dân cư cuối cùng đã chuyển đến thủ đô Paramaribo. Việc dọn dẹp các khu mộ và bảo trì tàn tích giáo đường Do Thái đã được thực hiện vào nhiều thời điểm khác nhau từ những năm 1940 đến thế kỷ 21.
Jodensavanne cùng với khe núi nghĩa trang Cassipora được UNESCO công nhận là Di sản thế giới vào tháng 9 năm 2023 với tên gọi Khu khảo cổ Jodensavanne: Khu định cư Jodensavanne và Nghĩa trang thung lũng Cassipora.
Lịch sử
Năm 1639, người Anh kiểm soát Suriname vào thời điểm đó, đã cho phép người Do Thái Sephardi từ Hà Lan, Bồ Đào Nha và Ý đến định cư tại khu vực này. Đầu tiên họ đã đặt chân đến cố đô Torarica. Vào ngày 8 tháng 4 năm 1651, một bản kiến nghị đã được gửi tới Hội đồng Nhà nước Anh bởi Benjamin de Caseras và Jacob Fraso xin phép sống và buôn bán trên các lãnh thổ Suriname và Barbados, đánh dấu cho nguồn gốc của một cộng đồng Do Thái được thành lập trên lãnh thổ. Vào năm 1652, một nhóm gồm khoảng 200 người đã di cư dưới sự lãnh đạo của Francis Willoughby đã định cư tại khu vực mà ngày nay được gọi là Jodensavanne. Nhóm thứ ba xuất hiện vào năm 1664, sau khi bị trục xuất khỏi Brazil và sau đó là Guiana thuộc Pháp, do David Cohen Nassy lãnh đạo. Người Anh đã cố gắng không để họ rời đi bằng cách đảm bảo cho họ những đặc quyền bao gồm quyền điều hành riêng và quyền tự do tôn giáo. Vào khoảng thời gian này, cộng đồng đã lấy tên Savanne theo tên những cánh đồng bao quanh nó. Khu định cư được xây dựng trên một khu đất cao và lần đầu tiên được xây dựng với một con đường chính và bốn con đường nhánh. Một ngôi trường được xây dựng để dạy tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha bên cạnh tiếng Do Thái. Một phần lý do khiến những người Do Thái này định cư lâu dài hơn là vì không giống như những thực dân Thiên chúa giáo thường hy vọng làm giàu bằng cách điều hành một đồn điền và quay trở lại châu Âu, cư dân Jodensavane không có nơi nào ở châu Âu để về.
Cộng đồng Do Thái này đã phát triển nền kinh tế trồng mía sử dụng nô lệ châu Phi làm lao động; theo đó một số gia đình mới định cư đã nhận được 4 hoặc 5 nô lệ như một phần trợ cấp định cư. Khi người Hà Lan giành được quyền kiểm soát Suriname, họ vẫn giữ nguyên các quyền cho cộng đồng Do Thái này và thậm chí còn mở rộng nó theo một số cách, bao gồm quyền vận chuyển hàng hóa vào Chủ nhật và trục xuất người khỏi cộng đồng của họ, hay như cấp đất 100 mẫu đất vào năm 1691 để xây dựng giáo đường Do Thái và nơi chôn cất. Khu định cư đạt quy mô lớn nhất vào khoảng năm 1700 khi ước tính có 570 công dân.
Các công dân sở hữu nô lệ của Jodensavanne cũng thường xuyên xung đột với những người dân bản địa xung quanh và cả với những người nô lệ trong các đồn điền của họ. Vào năm 1670, khoảng 200 người Do Thái đã rời khỏi Suriname. Đến năm 1677, một năm trước cuộc tấn công của người Carib vào Jodensavanne, 10 gia đình Do Thái đã rời đi cùng với nô lệ của họ. Các khu định cư châu Âu bao gồm cả những khu định cư ở Jodensavanne đã bị người Carib tấn công vào cuối năm 1678 cùng với sự nổi dậy của nô lệ cũng. Một lần nữa vào năm 1690 lại xảy ra một cuộc nổi dậy của nô lệ tại đồn điền của một người chủ tên là Immanuel Machado, người đã bị giết và những nô lệ của ông ta đã chạy trốn đến một cộng đồng người Maroon. Các thủy thủ Pháp nhận thức được sự giàu có của cộng đồng dân cư nơi này cũng đã đột kích vào năm 1712. Do bị nhiều cuộc tấn công, đặc biệt là bởi những cựu nô lệ, thực dân đã xây dựng một hệ thống phòng thủ xung quanh khu định cư.
Giáo đoàn Beracha ve Shalom ("Phúc lành và Hòa bình") được thành lập với giáo đường bằng gỗ, là giáo đường Do Thái lâu đời thứ ba ở Nam Mỹ, được xây dựng từ năm 1665 đến 1671 và được cải tạo vào năm 1827. Việc xây dựng giáo đường này được đánh dấu việc di chuyển trung tâm sinh sống của người Do Thái trong vùng từ Torarica đến Jodensavanne. Giáo đường Do Thái đầu tiên này có khu vực riêng dành cho phụ nữ, kho lưu trữ dành cho cộng đồng và các chi tiết bằng bạc trên tòa nhà bằng gỗ. Một giáo đường thứ hai làm bằng gạch nhập khẩu được xây dựng vào năm 1685. Trước khi xây dựng Beracha ve Shalom, không có giáo đường Do Thái nào có ý nghĩa kiến trúc quan trọng ở châu Mỹ. Lễ kỷ niệm 100 năm thành lập Giáo đường Do Thái được tổ chức vào tháng 10 năm 1785 được cho là có hơn 1500 người tham dự, nhiều người trong số họ đã đi thuyền đến từ Paramaribo, vì vào thời điểm đó chỉ có khoảng 20 gia đình Do Thái vẫn còn sống ở Jodensavanne. Những nỗ lực cũng đã được thực hiện trong thế kỷ 20 để dọn sạch và bảo tồn tàn tích giáo đường Do Thái.
Jodensavanne suy tàn vào giữa thế kỷ 18 và phần lớn dân số ở đây chuyển đến Paramaribo. Vào thế kỷ 18, Suriname bị một loạt cuộc khủng hoảng xảy ra với các đồn điền của người Do Thái: chi phí có xu hướng tăng lên do khoản cống nạp khổng lồ cho Đoàn thám hiểm Cassard; sự sụp đổ của một nhà nhập khẩu mía lớn ở Amsterdam năm 1773; và cộng dồn các khoản cho vay bất động sản. Việc trồng củ cải đường ở châu Âu từ năm 1784 và sự cạn kiệt đất ở những đồn điền lâu đời đều làm giảm doanh thu. Điều kiện an ninh ngày càng xấu đi do Chiến tranh Maroon đang diễn ra, trong khi sự phát triển của Paramaribo trở thành cảng thương mại độc quyền của thuộc địa do gần bờ biển hơn đã kéo người Do Thái rời khỏi Jodensavanne. Đến năm 1790, dân số của Jodensavanne xấp xỉ khoảng 22 người, không bao gồm nô lệ. Con số này giảm xuống dưới 10 vào đầu thế kỷ 19. Khu định cư tiếp tục suy giảm cho đến khi bị hỏa hoạn phá hủy nó trong cuộc nổi dậy của nô lệ năm 1832.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, một trại giam được xây dựng gần vị trí khu định cư cũ của người Do Thái và được đặt theo tên cho nó là trại giam Jodensavanne. Nó được xây dựng vào năm 1942 để giam giữ 146 tù nhân chính trị Đông Ấn Hà Lan. Một số người theo chủ nghĩa dân tộc Indonesia cũng bị trục xuất đến Jodensavanne, nổi tiếng nhất là chính trị gia Ernest Douwes Dekker.
Nhà sử học Natalie Zemon Davis đang nghiên cứu lịch sử thế kỷ 18 của Jodensavanne, tập trung vào David Cohen Nassy (sinh năm 1747) và mối quan hệ giữa người da đen và người da trắng trong cộng đồng Do Thái. Một bài báo có tiêu đề "Giành lại Jerusalem" đã được Davis xuất bản vào năm 2016, trình bày chi tiết về việc cử hành Lễ Vượt Qua ở Jodensavanne.
Tất cả những gì còn sót lại ngày nay ở địa điểm Jodensavanne là tàn tích của Giáo đường Do Thái Berache ve Shalom cùng với ba nghĩa trang, trong đó các bia mộ chủ yếu được khắc bằng tiếng Do Thái và tiếng Bồ Đào Nha.
Viện Khảo cổ học Châu Mỹ hợp tác với Đại học Suriname đã tham gia vào một dự án trong đó nỗ lực bảo tồn và lưu trữ hồ sơ đã được thực hiện kể từ năm 2014.
Jodensavanne nằm gần ngôi làng Redi Doti bản địa, trong khu nghỉ dưỡng Carolina và được kết nối với thế giới bên ngoài qua Avobakaweg đến Paramaribo hoặc cao tốc Desiré Delano Bouterse đến Sân bay quốc tế Johan Adolf Pengel.
Tham khảo
Đọc thêm
Remnant Stones. The Jewish Cemeteries of Suriname Ben-Ur, Aviva en Rachel Frankel Epitaphs, 2009 (Hebrew Union College Press)
De groene hel. Een Nederlands concentratiekamp in Suriname A.G. Besier March 1, 1942 to July 15, 1946, Bunne 1994 (Uitg. Servo)
De strafkolonie. Een Nederlands concentratiekamp in Suriname 1942 - 1946 Twan van den Brand Amsterdam 2006 (Uitg. Balans)
Wreedheden in Kamp Jodensavanne. De groene hel Maaike Verschuren, Parbode, nr. 33, januari 2009, pp. 46–48.
Liên kết ngoài
Jodensavanne Foundation
Jews in Suriname
The settlement of Joden Savanne and Cassipora cemetery at UNESCO.org
Penal colony at Jodensavanne at strafkolonie.nl
Lịch sử Do Thái Suriname
Lịch sử Do Thái Hà Lan
Lịch sử Do Thái Bồ Đào Nha
Cộng đồng Do Thái
Di sản thế giới tại Suriname |
Grimace Shake là một loại sữa lắc được bán ra tại các nhà hàng McDonald's ở Hoa Kỳ từ ngày 12 tháng 6 đến ngày 9 tháng 7 năm 2023. Đây là một sản phẩm thuộc chương trình khuyến mãi "Grimace's Birthday Meal".
Bối cảnh
Nhân vật Grimace lần đầu tiên được giới thiệu trong nhượng quyền truyền thông McDonaldland vào năm 1971 với tên gọi "Evil Grimace". Theo McDonald's, nhân vật này ăn trộm sữa lắc và là "hiện thân của sữa lắc hoặc vị giác". Ngày sinh chính xác của nhân vật không chắc chắn, mặc dù trong đợt khuyến mãi Grimace Birthday, nhân vật này được cho là đã 52 tuổi.
Miêu tả sản phẩm
Grimace Shake là một loại sữa lắc màu tím có hương vị làm từ quả mọng. Thức uống này là sự kết hợp giữa kem vani và hương vị quả mọng. Grimace Shake được phát hành dưới dạng một sản phẩm độc lập và là một phần của Grimace's Birthday Meal, bao gồm sữa lắc, khoai tây chiên vừa và 1 lựa chọn giữa Big Mac hoặc Chicken McNuggets 10 miếng.
Triển khai
Tháng 6 năm 2023, McDonald's thông báo ra mắt món thức uống bằng cách thay đổi ảnh đại diện của hãng trên mạng xã hội thành hình ảnh Grimace đang nhìn vào Grimace Shake. Cùng với việc ra mắt bữa ăn, McDonald's đã phát hành trò chơi Grimace's Birthday có chủ đề Game Boy, được phát triển bởi Krool Toys và các hàng hóa lấy cảm hứng từ Grimace khác. McDonald's đã trả tiền cho Fandom để thay thế bài viết về Grimace trên wiki của McDonald's bằng một chương trình khuyến mãi cho hàng hóa Grimace của mình, dẫn đến tranh cãi. McDonald's đề nghị mọi người quyên góp cho Quỹ từ thiện Ronald McDonald House, "thay cho quà tặng" cho Grimace. Sản phẩm Grimace Shake bắt đầu ngừng phục vụ từ ngày 9 tháng 7 năm 2023.
Đón nhận
Đánh giá chuyên môn
Grimace Shake đã nhận được những đánh giá phân cực. Dane Rivera của Uproxx gọi Grimace Shake là hương vị ngon nhất trong dòng sản phẩm sữa lắc của McDonald's. Trang Delishdành lời đánh giá tích cực về sản phẩm khi gọi đây là "món sinh tố quả mọng ngọt ngào nhất trong cuộc đời bạn". Reachel Chapman, viết cho nền tảng Elite Daily, thì "không phải là người yêu thích hương vị này", vì nó "có vị rất trái cây và nhân tạo". Một bài đánh giá của Business Insider mô tả hương vị mịn và không quá ngọt, nhưng cũng nhân tạo và cuối cùng là không ngon. Steven Luna của Mashed.com nói rằng mặc dù cốc sữa lắc trông "đẹp" và "có vẻ kỳ diệu", nhưng nó thật đáng thất vọng và là một "sự tôn vinh đáng lo ngại dành cho một kẻ ngốc nghếch màu nho lắm mồm, người xứng đáng nhận được nhiều điều tốt đẹp hơn".
Từ các phương tiện truyền thông khác
Trước khi được phát hành, người dùng trên mạng xã hội đã bắt đầu đăng tác phẩm nghệ thuật của người hâm mộ và các meme có hình Grimace. Một xu hướng trên nền tảng mạng xã hội TikTok với hashtag #GrimaceShake bắt đầu lưu hành sau khi phát hành sản phẩm, trong đó người dùng ghi lại cảnh mình uống sữa lắc và thấy mình ở những vị trí bất thường và ở những địa điểm xa lạ hoặc được phát hiện đã chết khi đang bao phủ trong đồ uống. Các video được dàn dựng trông giống như một hiện trường vụ án với sự rung chuyển rải rác xung quanh, ngụ ý rằng Grimace chịu trách nhiệm cho sự biến đổi của họ. Xu hướng này bắt nguồn từ một xu hướng tương tự liên quan đến Whopper được phát hành để quảng cáo Spider-Man: Across the Spider-Verse do cả hai sản phẩm đều có màu sắc không tự nhiên. Xu hướng này lan sang các sản phẩm khác, chẳng hạn như các sản phẩm theo chủ đề Barbie của Krispy Kreme và Cold Stone, nơi người tiêu dùng xuất hiện thêm nữ tính hoặc "yassified" sau khi tiêu thụ. Tính đến ngày 12 tháng 7, hashtag này đã có hơn 1 tỷ lượt xem.
Guillaume Huin, giám đốc truyền thông xã hội của McDonald's, cho biết xu hướng Grimace Shake thật bất ngờ và mô tả nó là "sự sáng tạo tuyệt vời, niềm vui không qua lọc, sự hài hước phi lý đỉnh cao của Gen Z". Tuy nhiên, vào thời điểm đó, anh cảm thấy việc thừa nhận xu hướng sẽ có rủi ro, vì anh cảm thấy rằng "chiến dịch đã thành công rực rỡ, cả trên quan điểm xã hội và kinh doanh, vậy tại sao chúng tôi lại mạo hiểm 'rủi ro' để nhảy vào?". McDonald's sau đó đã thừa nhận xu hướng này trên mạng xã hội, nói rõ (với tư cách là Grimace), "tôiii giả vờ như không nhìn thấy cái xu hướng Grimace Shake nàyyy." Xu hướng này đã được ghi nhận như một ví dụ về tiếp thị lan truyền.
Tranh cãi
Vào khoảng thời gian sản phẩm ra mắt vào tháng 6 năm 2023, nhân viên trên dịch vụ lưu trữ wiki Fandom đã thay thế mục nhập cho Grimace trên wiki McDonald's do người hâm mộ điều hành bằng một quảng cáo trả phí từ McDonald's để quảng bá cho Grimace Shake cũng như nhiều phần khác của Grimace, chẳng hạn như trò chơi điện tử. Fandom đã nhận được phản ứng dữ dội trên diện rộng; tác giả Nathan Steinmetz, người đưa ra bài báo của Grimace, nói rằng động thái này sẽ phá vỡ tính độc lập của ban biên tập. Nhân viên Fandom tuyên bố rằng quảng cáo trả phí từ McDonald's sẽ chỉ kéo dài trong thời gian khuyến mãi Grimace Shake; nhân viên tiếp tục chỉnh sửa trang trong thời gian khuyến mãi.
Động thái này của McDonald's đã được trích dẫn bởi cộng đồng wiki Minecraft, được lưu trữ trên Fandom kể từ khi công ty mua lại Gamepedia từ Curse LLC, như một lý do để xem xét việc chuyển khỏi Fandom sang dịch vụ lưu trữ wiki mới. Ngày 24 tháng 9, wiki Minecraft đã chuyển sang một trang web mới.
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức của McDonald's cho khuyến mãi Grimace's Birthday Meal tại Wayback Machine (lưu trữ vào ngày 5 tháng 7 năm 2023)
Xu hướng thập niên 2020
Thức uống
TikTok
Thức uống làm từ sữa
Thức uống không cồn
Hiện tượng Internet |
Người Vũ trụ (Universe People) hay Người vũ trụ có sức mạnh ánh sáng (tiếng Séc: Vesmírní lidé sil světla/Cosmic People of Light Powers) là một tôn giáo UFO của Tiệp Khắc (Séc và Slovakia) được thành lập vào những năm 1990 và tập trung vào Ivo A. Benda. Hệ thống niềm tin của giáo phái này dựa trên sự tồn tại của các nền văn minh ngoài Trái đất giao tiếp với Benda và những người tiếp xúc khác kể từ tháng 10 năm 1997 bằng thần giao cách cảm và sau đó thậm chí bằng tiếp xúc gần trực tiếp với các cá nhân. Giáo phái này được coi là tôn giáo UFO đặc biệt nhất ở Cộng hòa Séc. Các thành viên của giáo phái này gây chú ý khi tuyên bố có khả năng giao tiếp với người ngoài hành tinh qua thần giao cách cảm. Những người phản đối coi Benda và một số tín đồ cộm cán của giáo phái này bị bệnh tâm thần và Người vũ trụ là một tà giáo nguy hiểm tiềm tàng.
Ông Ivo A. Benda thành lập giáo phái Universe People đặt niềm tin vào người ngoài hành tinh tại Séc vào những năm 1990. Giáo phái đặc biệt này cũng tin vào sự tồn tại của thần giao cách cảm. Giáo phái này tin rằng, một phi thuyền (UFO) của người ngoài hành tinh do Bộ chỉ huy thiên hà Ashtar chỉ huy di chuyển quanh Trái đất và quan sát cuộc sống của nhân loại. Dù di chuyển bằng phi thuyền quanh Trái đất nhưng người ngoài hành tinh không bị con người phát hiện. Người ngoài hành tinh giúp đỡ một số người ở Trái đất nếu như họ cho đối phương là xứng đáng. Đặc biệt, giáo phái này quan niệm đến một thời điểm nhất định người ngoài hành tinh sẽ đưa con người đến một chiều không gian khác.
Với quan điểm, tư tưởng này thì giáo pháp Người Vũ trụ trở thành giáo phái đặc biệt ở Séc cũng như trên thế giới và cũng bị cáo buộc vi phạm bản quyền do sao chép ý tưởng. Sau vụ tự sát hàng loạt của các thành viên giáo phái Cổng Thiên Đàng vào năm 1997, giáo phái Người vũ trụ đã thu hút sự chú ý của giới truyền thông Séc như một nhóm có hệ tư tưởng tương tự và có khả năng thực hiện các hành vi tương tự. Xác suất của sự phát triển này đã giảm đi trong những năm sau đó (2004). Trong một số trường hợp, nhóm còn xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng của Séc và Slovakia. Từ năm 1998 đến năm 2000, hệ tư tưởng của giáo phái Con người Vũ trụ gần với chủ nghĩa giáo phái, với ý tưởng trung tâm là thảm họa vũ trụ sắp xảy ra và việc sơ tán con người đến hành tinh khác. Tuy nhiên, những nỗ lực sau đó của họ chuyển sang phòng bị trước các cuộc tấn công của những sinh vật tiêu cực ngoài Trái đất được họ gọi là bò sát giống người hoặc người thằn lằn (tiếng Séc: ještírci).
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
Universe People website
Aštar Šeran (Reflex 2003)
Řídí Daniela Landu mimozemšťané? (Reflex 2005)
Ještírci napadli web Vesmírných lidí (Novinky.cz 2003)
Ufokult Vesmírní lidé v bratislavskej MHD (Dnes.sk, 2008)
Dosáhněte zasvěcení prostřednictvím internetu (tutorial) - Technet.cz (iDnes)
Ivo A. Benda live on Czech TV (video)
Ivo A. Benda live on Slovak TV (video)
Tôn giáo UFO
Cuồng giáo |
Chế độ tổng tài (tiếng Pháp: Le Consulat) là chính phủ cấp cao nhất của Đệ Nhất Cộng hòa Pháp kể từ sự sụp đổ của Chế độ đốc chính trong cuộc Đảo chính ngày 18 tháng Sương mù (tức ngày 10 tháng 11 năm 1799 theo Công lịch) cho đến khi Napoleon Bonaparte thành lập Đệ Nhất Đế chế Pháp vào ngày 18 tháng 5 năm 1804. Nói rộng ra, thuật ngữ Chế độ tổng tài chính là đề cập đến giai đoạn này trong lịch sử nước Pháp.
Trong thời kỳ này, Napoléon Bonaparte, với tư cách là Đệ nhất Tổng tài (Tổng tài quyền lực nhất), tự khẳng định mình là người đứng đầu một chính phủ cộng hòa tập trung, chuyên quyền và độc tài hơn ở Pháp trong khi không tuyên bố mình là người cai trị duy nhất. Do các thể chế lâu đời được thành lập trong những năm này, Robert B. Holtman đã gọi chế độ Tổng tài là "một trong những thời kỳ quan trọng nhất của toàn bộ lịch sử nước Pháp" và đã được xem là một chế độ độc tài quân sự.
Sự sụp đổ của chế độ Đốc chính
Các thảm họa quân sự của Pháp năm 1798 và 1799 đã làm rung chuyển chính phủ Đốc chính, và cuối cùng là phá hủy nó vào tháng 11 năm 1799. Các nhà sử học đôi khi xác định thời điểm bắt đầu sự sụp đổ chính trị của chế độ Đốc chính là ngày 18 tháng 6 năm 1799 (Đảo chính ngày 30 tháng Đồng cỏ VII theo Lịch Cộng hòa Pháp). Đó là khi Đốc chính chống Jacobin Emmanuel Joseph Sieyès, chỉ sau một tháng tại vị, với sự giúp đỡ của thành viên ban đầu duy nhất còn sống của chế độ Đốc chính là Paul Barras, cũng là một người chống Jacobin, đã loại bỏ thành công 3 đốc chính đương nhiệm khác khi đó. Cuộc bầu cử tháng 3-tháng 4 năm 1799 cho hai hội đồng đã tạo ra đa số Neo-Jacobin mới trong hai cơ quan lập pháp, và không hài lòng với chính phủ Đốc chính 5 người hiện có, đến ngày 5 tháng 6 năm 1799, các hội đồng lập pháp này đã phát hiện ra sự bất thường trong cuộc bầu cử Đốc chính Jean Baptiste Treilhard, do đó đã nghỉ hưu để ủng hộ Louis-Jérôme Gohier, một Jacobin 'đồng điệu' hơn với tình cảm trong hai hội đồng lập pháp. Ngay ngày hôm sau, 18 tháng 6 năm 1799, những người chống Jacobin, gồm có Philippe-Antoine Merlin (Merlin de Douai) và Louis-Marie de La Revellière-Lépeaux cũng bị buộc phải từ chức, mặc dù một người chống Jacobin lâu năm, nổi tiếng vì sự xảo quyệt, vẫn sống sót sau cuộc đảo chính ngày hôm đó; họ được thay thế bởi một người Jacobin là Nam tước Jean-François-Auguste Moulin và bởi một Jacobin không phải Jacobin, hay còn gọi là Jacobin 'yếu', Roger Ducos. Ba Đốc chính mới thường được giới thượng lưu chống Jacobin ở Pháp coi là những tổ chức phi thực thể, nhưng chính giới thượng lưu đó có thể cảm thấy an ủi khi biết rằng Ban Đốc chính 5 người vẫn nằm trong tay phe chống Jacobin, nhưng với đa số đã giảm.
Thêm một vài thảm họa quân sự, các cuộc nổi dậy của phe bảo hoàng ở miền Nam, những xáo trộn của Chouannerie ở hàng chục tỉnh phía Tây nước Pháp (chủ yếu ở Brittany, Maine và cuối cùng là Normandy), những âm mưu của phe bảo hoàng, và cái kết đã chắc chắn xảy ra. Để xoa dịu dân chúng và bảo vệ biên giới, các biện pháp khủng bố thông thường của Cách mạng Pháp (chẳng hạn như luật con tin) là cần thiết hơn cả. Chính phủ Đốc chính mới, do phe chống Jacobin Sieyès lãnh đạo, đã quyết định rằng việc sửa đổi hiến pháp sẽ cần có "một người đứng đầu" (của chính ông ta) và "một thanh kiếm" (một vị tướng ủng hộ ông ta). Jean Victor Moreau không thể đạt được vị trí "thanh kiếm" của Đốc chính, Sieyès ưa chuộng Barthélemy Catherine Joubert; nhưng khi Joubert bị giết trong trận Novi (15 tháng 8 năm 1799), ông quay sang cầu cứu Tướng Napoléon Bonaparte.
Mặc dù Guillaume Marie Anne Brune và André Masséna đã giành chiến thắng trong Trận Bergen và Zürich, và mặc dù Đồng minh của Liên minh thứ hai vẫn nán lại biên giới như họ đã làm sau Trận Valmy, nhưng vận may của Chế độ Đốc chính vẫn chưa được khôi phục. Thành công được dành cho Bonaparte, ông bất ngờ đổ bộ vào Fréjus với uy tín nhờ những chiến thắng ở phương Đông, và bây giờ, sau cái chết của Hoche (1797), Napoleon xuất hiện với tư cách là người chỉ huy duy nhất của quân đội.
Trong Đảo chính ngày 18 tháng Sương mù (9 tháng 11 năm 1799), Napoléon đã chiếm quyền lực nghị viện và quân sự của Pháp trong một cuộc đảo chính kép, buộc các Đốc chính đương nhiệm của chính phủ phải từ chức. Vào đêm ngày 19 tháng Sương mù (10 tháng 11 năm 1799), tàn dư của Hội đồng Ancient đã bãi bỏ Hiến pháp năm III, phong chức Tổng tài và hợp pháp hóa cuộc đảo chính ủng hộ Bonaparte bằng Hiến pháp năm VIII.
Chính phủ mới
Cuộc đảo chính Ngày 18 tháng Sương mù ban đầu dường như là một thắng lợi cho Sieyès hơn là cho Bonaparte. Sieyès là người đề xuất một hệ thống chính quyền mới cho nền Cộng hòa, và cuộc đảo chính ban đầu dường như chắc chắn sẽ khiến hệ thống của ông có hiệu lực. Sự thông minh của Bonaparte nằm ở việc đối chiếu kế hoạch của Pierre Claude François Daunou với kế hoạch của Sieyès, và chỉ giữ lại những phần của mỗi kế hoạch có thể phục vụ cho tham vọng của ông.
Chính phủ mới bao gồm ba hội đồng Nghị viện: Hội đồng Nhà nước soạn thảo các dự luật, Hội đồng Tribune không thể bỏ phiếu về các dự luật mà thay vào đó tranh luận về chúng, và Corps législatif, các thành viên của họ không thể thảo luận về các dự luật nhưng có thể bỏ phiếu về số phận chúng sau khi xem xét hồ sơ tranh luận của Tribune. Thượng viện bảo thủ (Sénat conservateur) là cơ quan chính phủ ngang hàng với ba hội đồng lập pháp nói trên và sẽ xác minh các dự thảo luật, đồng thời trực tiếp tư vấn cho Đệ nhất Tổng tài về ý nghĩa của các dự luật đó. Quyền hành pháp cuối cùng được trao cho ba Tổng tài, những người được giữ nhiệm kỳ 10 năm. Quyền bầu cử phổ thông vẫn được giữ lại, mặc dù bị cắt xén do danh sách những người đáng chú ý (dựa vào đó các thành viên của Hội đồng sẽ được Thượng viện lựa chọn). Bốn cơ quan chính phủ nói trên vẫn được giữ lại theo Hiến pháp năm XII, công nhận Napoléon là Hoàng đế có chủ quyền của Pháp, nhưng quyền lực tương ứng của họ đã bị suy giảm đáng kể.
Napoléon phủ quyết ý tưởng ban đầu của Sieyès về việc có một Đại tuyển hầu (Grand Elector) duy nhất làm hành pháp tối cao và Nguyên thủ quốc gia. Sieyès đã có ý định giữ vị trí quan trọng này cho mình, và bằng cách từ chối chiếc ghế này, Napoléon đã giúp củng cố quyền lực của các quan chấp chính, một chức vụ mà ông sẽ đảm nhận. Napoléon cũng không chỉ đơn giản bằng lòng trở thành một phần của một chế độ tam hùng ngang bằng. Theo năm tháng, ông sẽ chuyển sang củng cố quyền lực của mình với tư cách là Đệ nhất Tổng tài, và vẫn để lại hai Tổng tài khác, Jean-Jacques-Régis de Cambacérès và Charles-François Lebrun, cũng như các Hội đồng, yếu đuối và khúm núm.
Bằng cách củng cố quyền lực, Bonaparte đã có thể biến hiến pháp quý tộc của Sieyès thành một chế độ độc tài không công khai.
Vào ngày 7 tháng 2 năm 1800, một cuộc trưng cầu dân ý đã xác nhận hiến pháp mới. Nó trao toàn bộ quyền lực thực sự vào tay Đệ nhất Tổng tài, chỉ để lại vai trò danh nghĩa cho hai Tổng tài còn lại. Theo kết quả được công bố, toàn bộ 99,9% cử tri đã chấp thuận đề xuất này.
Trong khi sự nhất trí này chắc chắn vẫn còn là một câu hỏi, Napoléon thực sự được nhiều cử tri yêu mến, và sau một thời gian xung đột, nhiều người ở Pháp đã yên tâm trước những lời đề nghị hòa bình rực rỡ nhưng không thành công của ông cho Liên minh thứ hai chiến thắng, việc ông nhanh chóng giải giáp La Vendée và bài nói chuyện của ông về sự ổn định của chính phủ, trật tự, công lý và sự điều độ. Ông mang đến cho mọi người cảm giác rằng nước Pháp một lần nữa được cai trị bởi một chính khách thực sự, và cuối cùng một chính phủ có thẩm quyền đã nắm quyền.
Sự củng cố quyền lực của Napoléon
Bonaparte cần phải loại bỏ Sieyès và những người cộng hòa không muốn giao chính phủ cộng hòa cho một người, đặc biệt là Moreau và Masséna, những đối thủ quân sự của ông. Chiến thắng trong Trận Marengo (14 tháng 6 năm 1800) tạm thời ở thế cân bằng, nhưng được đảm bảo bởi Louis Desaix và François Christophe Kellermann, đã mang đến một cơ hội nữa cho tham vọng của ông ấy bằng cách ngày càng nổi tiếng. Âm mưu bảo hoàng ở Rue Saint-Nicaise vào ngày 24 tháng 12 năm 1800 đã cho phép ông ta quét sạch những người cộng hòa dân chủ, những người dù vô tội nhưng vẫn bị trục xuất đến Guiana thuộc Pháp. Ông bãi bỏ các Hội đồng và biến Thượng viện thành toàn quyền trong các vấn đề hiến pháp.
Hiệp ước Lunéville, được ký vào tháng 2 năm 1801 với Áo (đã bị tước khí giới sau chiến thắng của Moreau tại Trận Hohenlinden), khôi phục hòa bình cho châu Âu, trao gần như toàn bộ Bán đảo Ý cho Pháp, và cho phép Bonaparte loại khỏi Hội đồng tất cả những người lãnh đạo phe đối lập trong cuộc thảo luận về Bộ luật Dân sự. Hiệp ước 1801 (Concordat of 1801), được soạn thảo không phải vì lợi ích của Giáo hội và Lãnh địa Giáo hoàng mà vì chính sách của chính ông, bằng cách mang lại sự hài lòng cho tình cảm tôn giáo của đất nước, đã cho phép ông lật đổ Giáo hội dân chủ lập hiến, để tập hợp sự trung thành của nông dân xung quanh mình, và trên hết là tước bỏ vũ khí tốt nhất của những người theo phe bảo hoàng. Các bài viết về luật quản lý việc thờ tự cộng cộng ở Pháp đã khôi phục lại một Giáo hội phục tùng chính phủ, tước đoạt các khoản thu nhập của Giáo hội, vị trí của Giáo hội là tôn giáo của nhà nước.
Hòa ước Amiens (25 tháng 3 năm 1802) với Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland, trong đó các đồng minh của Pháp, Tây Ban Nha và Cộng hòa Batavia, đã trả mọi phí tổn, cuối cùng đã tạo cho người hòa giải một cái cớ để cấp cho mình quyền Tổng tài, không phải 10 năm mà là cả đời, như một sự đền đáp của quốc gia. Rubicon đã bị vượt qua vào ngày hôm đó: Cuộc hành quân đến đế chế của Bonaparte bắt đầu với Hiến pháp của Năm X ngày 16 tháng Thermidor hoặc ngày 4 tháng 8 năm 1802.
Vào ngày 2 tháng 8 năm 1802 (ngày 14 tháng Thermidor, năm X), một cuộc trưng cầu dân ý toàn quốc lần thứ hai được tổ chức, lần này để xác nhận Napoléon là "Đệ nhất Tổng tài suốt đời". Once again, a vote claimed 99.7% approval.
Khi Napoléon tăng cường quyền lực, ông đã mượn nhiều kỹ thuật của Ancien Régime trong hình thức chính phủ một người mới của mình. Giống như chế độ quân chủ cũ, ông tái lập các đặc mệnh toàn quyền (plenipotentiaries); các phương pháp hành chính và quan liêu quá tập trung, thực dụng nghiêm ngặt, và một chính sách mang tính học thuật mang tính mô phạm phụ thuộc đối với các trường đại học của quốc gia. Ông đã xây dựng hoặc củng cố các quỹ cần thiết cho các thể chế quốc gia, chính quyền địa phương, hệ thống tư pháp, các cơ quan tài chính, ngân hàng, bộ luật, truyền thống về lực lượng lao động tận tâm và có kỷ luật.
Pháp được hưởng mức độ hòa bình và trật tự cao dưới thời Napoléon, điều này đã giúp nâng cao tiêu chuẩn thoải mái. Trước đó, Paris thường xuyên phải chịu đói khát, thiếu lửa và ánh sáng, nhưng dưới thời Napoléon, lương thực trở nên rẻ và dồi dào, trong khi thương mại thịnh vượng và tiền lương tăng cao. Sự hào hoa và sang trọng của những người giàu có mới được trưng bày trong các phòng khách của Joséphine tốt bụng, Madame Tallien xinh đẹp và Juliette Récamier "thần thánh".
Để củng cố bộ máy nhà nước, Napoléon đã tạo ra trật tự ưu tú của Légion d'honneur (Quân đoàn danh dự), Concordat, và khôi phục các loại thuế gián tiếp, một hành động được coi là phản bội Cách mạng.
Napoléon phần lớn đã có thể dập tắt sự bất đồng chính kiến trong chính phủ bằng cách trục xuất những người chỉ trích ông mạnh mẽ hơn, chẳng hạn như Benjamin Constant và Madame de Staël. Cuộc Viễn chinh đến Saint-Domingue đã khiến quân đội cộng hòa trở nên vô hiệu hoá. Chiến tranh liên miên đã làm mất tinh thần và phân tán các nhà lãnh đạo quân đội, những người ghen tị với “đồng chí” Bonaparte của họ. Thử thách lớn cuối cùng đối với quyền lực của Napoléon đến từ Moreau, người đã bị tổn hại trong một âm mưu bảo hoàng; ông ấy cũng bị đi đày.
Ngược lại với sự phản đối của các thượng nghị sĩ và các tướng lĩnh cộng hòa, phần lớn dân chúng Pháp vẫn không phê phán quyền lực của Bonaparte. Thời đại Napoléon bắt đầu từ đây khi ông trở thành quan chức của nhà nước Pháp và thành lập chế độ Tổng tài.
Vụ Công tước xứ Enghien
Bởi vì quyền lực chính trị của Napoléon vẫn còn mong manh, những người theo chủ nghĩa Bảo hoàng Pháp đã nghĩ ra một âm mưu liên quan đến việc bắt cóc và ám sát ông ta và mời Louis Antoine de Bourbon, Công tước xứ Enghien, lãnh đạo một cuộc đảo chính trước khi khôi phục chế độ quân chủ Bourbon với Louis XVIII lên ngôi. Chính phủ Anh của Thủ tướng William Pitt the Younger đã góp phần vào âm mưu của phe Bảo hoàng này bằng cách tài trợ 1 triệu bảng Anh và cung cấp vận tải hải quân (với con tàu của Thuyền trưởng John Wesley Wright) cho những kẻ âm mưu Georges Cadoudal và Tướng Jean-Charles Pichegru để họ từ Anh trở về Pháp. Pichegru gặp Jean Victor Marie Moreau, một trong những tướng lĩnh của Napoléon và là người từng được Pichegru bảo trợ, vào ngày 28 tháng 1 năm 1804. Ngày hôm sau, một mật vụ người Anh tên là Courson bị bắt và anh ta, bị tra tấn, đã thú nhận rằng Pichegru, Moreau và Cadoudal đang âm mưu để lật đổ Tổng tài. Chính phủ Pháp tìm kiếm thêm thông tin chi tiết về âm mưu này bằng cách bắt và tra tấn Louis Picot, người hầu của Cadoudal. Joachim Murat ra lệnh đóng cổng thành Paris từ 7 giờ tối đến 6 giờ sáng trong khi Pichegru và Moreau bị bắt trong tháng tiếp theo.
Những vụ bắt giữ tiếp theo này tiết lộ rằng âm mưu của phe Bảo hoàng cuối cùng sẽ có sự tham gia tích cực của Công tước xứ Enghien, một Thân vương của Vương tộc Bourbon tương đối trẻ và do đó có thể là một người thừa kế khác của chế độ quân chủ Bourbon được khôi phục. Vào thời điểm đó, Công tước đang sống như một người Pháp di cư tại Tuyển hầu xứ Baden, nhưng ông cũng có một căn nhà thuê ở Ettenheim, gần biên giới Pháp. Có lẽ trước sự thúc giục của Talleyrand, bộ trưởng ngoại giao của Napoléon và Joseph Fouché, bộ trưởng cảnh sát của Napoléon, người đã cảnh báo rằng "không khí đầy dao găm", Đệ nhất Tổng tài đã đi đến kết luận chính trị rằng Công tước phải bị xử lý. Hai trăm lính Pháp vượt qua biên giới, bao vây nhà Công tước ở Baden và bắt giữ ông.
Trên đường trở về Pháp, d'Enghien tuyên bố rằng "ông ta đã thề căm thù Bonaparte cũng như chống lại chính phủ cộng hoà ở Pháp; ông ta sẽ tận dụng mọi cơ hội để gây chiến với họ."
Sau 3 âm mưu ám sát và tiếp tục tài trợ cho một cuộc nổi dậy được cho là ở Strasbourg, Napoléon đã có đủ bằng chứng. Dựa trên d'Enghien, người đã bị bắt giữ tại nhà riêng ở Đức và tài liệu từ cảnh sát, d'Enghien bị buộc tội là kẻ chủ mưu trong thời chiến. Anh ta bị ra lệnh xét xử bởi toà án binh, một tòa án gồm bảy đại tá ở Château de Vincennes.
D'Enghien trong khi thẩm vấn tại tòa án đã nói với họ rằng anh ta được người Anh trả 4.200 bảng Anh mỗi năm "để chống lại không phải nước Pháp mà là chống lại một chính phủ mà nơi anh sinh ra đã khiến anh trở nên thù địch." Hơn nữa, anh ấy nói rằng "Tôi đã hỏi người Anh liệu tôi có thể phục vụ trong quân đội của họ không, nhưng họ trả lời rằng điều đó là không thể: Tôi phải đợi ở sông Rhine, nơi tôi sẽ có vai trò ngay lập tức, và thực tế là tôi đang chờ đợi."
D'Enghien bị kết tội vi phạm Điều 2 của đạo luật ngày 6 tháng 10 năm 1791, với nội dung: "Bất kỳ âm mưu và mưu đồ nào nhằm gây rối loạn Nhà nước bằng nội chiến và trang bị vũ khí cho công dân chống lại nhau hoặc chống lại chính quyền hợp pháp." , sẽ bị tử hình." Anh ta bị hành quyết trong con mương của pháo đài Vincennes.
Hậu quả của vụ việc hầu như không gây chấn động ở Pháp, nhưng ở nước ngoài, nó tạo ra một cơn bão giận dữ. Nhiều người từng ủng hộ hoặc trung lập với Napoléon giờ đã quay lưng lại với ông. Nhưng Napoléon luôn nhận toàn bộ trách nhiệm trong việc cho phép hành quyết và tiếp tục tin rằng, xét về mặt cân bằng, ông đã làm điều đúng đắn.
Các Tổng tài
Các Bộ trưởng nội các
Các Bộ trưởng trực thuộc Tổng tài, gồm có:
Tham khảo
Thư mục
website (English language version). Accessed October 2006.
Tom Holmberg, "The d'Enghien Affair: Crime or Blunder?" (September 2005), The Napoleonic Series website. Accessed October 2006.
", duke of Enghien"
Tổng tài Pháp
Đệ nhất Đế chế Pháp
Khởi đầu năm 1799 ở Pháp
Chính phủ Pháp |
Phong trào Khôi phục Mười điều răn của Chúa (Movement for the Restoration of the Ten Commandments of God) là một phong trào tôn giáo mới được thành lập do Credonia Mwerinde và Joseph Kibweteere ở phía tây nam Uganda. Phong trào được thành lập vào năm 1989 sau khi Mwerinde và Kibweteere tuyên bố rằng họ đã nhìn thấy Đức Mẹ hiện ra năm 1984 trong hình ảnh của Đức Trinh Nữ Maria. Năm nhà lãnh đạo chính của Phong trào tôn giáo này là Joseph Kibweteere, Joseph Kasapurari, John Kamagara, Dominic Kataribabo và Credonia Mwerinde. Đầu năm 2000, những tín nhân theo phong trào tôn giáo đã bị chết trong một vụ hỏa hoạn và một loạt vụ đầu độc và giết người hàng loạt mà ban đầu được coi là một vụ tự sát tập thể. Sau đó, các thủ lĩnh của nhóm xác định đây là một vụ giết người hàng loạt sau khi những dự đoán của họ về ngày tận thế không thành hiện thực. Khi đưa tin về sự kiện đó, BBC News và The New York Times gọi Phong trào này là một giáo phái Ngày tận thế. Đây là một trong những vụ giết người bi thảm nhất liên quan đến dị giáo phái trong lịch sử nhân loại.
Giáo lý
Đây là một phong trào ly khai từ Giáo hội Công giáo La Mã và được thành lập vào cuối những năm 1980 đầu năm 1990 ở Uganda một nước châu Phi Từ một nhóm linh mục công giáo bị vạ tuyệt thông (khai trừ) lập ra giáo phái này. Đây là một tổ chức Kitô giáo tuân thủ Mười điều răn và lời của chúa Jesus. Giáo lý xoay quanh việc tuân thủ nghiêm ngặt Mười điều răn như một biện pháp để tránh sự nguyền rủa trong ngày tận thế. Các giáo lý có đôi phần kỳ lạ như nhịn ăn hằng tuần (Họ thường xuyên nhịn ăn, vào thứ Hai và thứ Sáu chỉ ăn một bữa ăn), hay họ nghiêm cấm cả xà phòng và tình dục khi quan hệ tình dục bị cấm tiệt. Họ chú trọng tuân thủ mười điều răn nên ít nói chuyện, vào một số ngày chỉ trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ ký hiệu. Giáo phái này có mục tiêu phụng sự cộng đồng, như lập ra các trường học. Giáo phái bắt đầu suy tàn sau khi thế giới không kết thúc vào đầu thiên niên kỷ mới như các nhà lãnh đạo dự đoán, dẫn đến một vụ giết người hàng loạt, bao gồm đầu độc, tấn công bằng dao và một vụ phóng hỏa nhà thờ khiến tổng cộng gần 500 người thiệt mạng.
Vụ án mạng
Năm 2000, chính quyền Uganda bất ngờ phát hiện hố chôn tập thể tại một ngôi làng Kanungu ở miền tây đất nước Uganda. Trong tổng số 153 thi thể được tìm thấy, có khoảng 59 trường hợp là trẻ em, bị siết cổ hoặc chết ngạt. Giống nhiều giáo phái khác, Phong trào khôi phục Mười điều răn bị ám ảnh với ngày tận thế mà họ cho rằng sẽ xảy ra vào ngày 31 tháng 12 năm 1999. Ngày đó đến mà không có chuyện gì xảy ra nên họ lại đoán ngày tận thế sẽ diễn ra vào 17 tháng 3 năm 2000. Hôm ấy, đông đảo thành viên giáo phái tập trung tại một nhà thờ với cửa chính, cửa sổ đóng chặt bằng ván. Lửa bùng lên và sau đó, trong đống tro tàn người ta tìm thấy 924 thi thể. Khám nghiệm tử thi cho thấy hầu hết thành viên giáo phái bị đầu độc trước khi nhà thờ bốc cháy.
Sau khi phỏng vấn và điều tra, cảnh sát Uganda không cho đây là vụ tự tử mà là vụ giết người hàng loạt do lãnh đạo giáo phái thực hiện. Họ tin rằng, việc tiên tri sai về ngày tận thế dẫn tới sự nổi loạn về cấp bậc trong giáo phái và các lãnh đạo đặt ra ngày mới với kế hoạch tiêu diệt các tín đồ, báo Mỹ New York Times đưa tin ngày 26 tháng 3 năm 2000. Thực tế cửa nhà thờ bị đóng chặt bằng ván và đinh, sự hiện diện của chất gây cháy và sự biến mất của các lãnh đạo giáo phái ủng hộ giả thiết của cảnh sát. Ngoài ra, các nhân chứng nói rằng, lãnh đạo giáo phái chưa bao giờ nói đến chuyện tự tử tập thể khi chuẩn bị cho các tín đồ đón ngày tận thế. Một tín đồ sống sót kể rằng, khi rời giáo phái, ông đã gặp một thành viên ngoan đạo cầm búa và đinh, người ta tin rằng, thành viên đó chính là người đóng đinh vào các cửa sổ để ngăn các tín đồ thoát thân trong vụ cháy.
Tổng thống Uganda lúc đó là Yoweri Museveni gọi sự kiện đẫm máu đó là “vụ giết người hàng loạt do các linh mục hám tiền thực hiện”. Phó tổng thống Speciosa Wandira Kazibwe nhận định: “Đây là vụ giết người hàng loạt nhẫn tâm, được dàn xếp kỹ càng do một mạng lưới tội phạm độc ác, nham hiểm giả danh người theo tôn giáo thực hiện”. Ban đầu người ta tin rằng, năm lãnh đạo giáo phái chết trong vụ cháy, nhưng sau đó cảnh sát cho rằng, hai người sáng lập Joseph Kibweteere và Credonia Mwerinde có thể vẫn còn sống và phát lệnh truy nã quốc tế để bắt giữ họ. Năm 2014, lực lượng cảnh sát Uganda thông báo, có thông tin rằng hung thủ Kibweteere đang lẩn trốn ở Malawi, đài truyền hình hàng đầu Uganda NTVUganda đưa tin ngày 3 tháng 4 năm 2014 và chiếu lại cảnh những xác người cháy đen trong vụ cháy nhà thờ Kunungu vào ngày 17 tháng 3 năm 2000.
Chú thích
Liên kết ngoài
The Kanungu Fire (multimedia site by Richard Vokes)
Seven Years Since the Kanungu Massacre
Movement for the Restoration of the Ten Commandments of God
Religious Tolerance.org on the Movement
Books
Ghosts of Kanungu: Fertility, Secrecy & Exchange in the Great Lakes of East Africa
The Uganda Cult Tragedy: A Private Investigation
Ashes of Faith: A Doomsday Cult's Orchestration of Mass Murder in Africa
News
"Religion That Kills", ABC News, 14 February 2001 News story about the phenomenon of cults in Uganda
BBC – Death cult activities 'ignored'
Xem thêm
Mười điều răn của người Hutu (Hutu Ten Commandments) hay "Mười điều răn của người Bahutu"
Giáo phái Shakahola (Good News International Ministries)
Cuồng giáo |
Tabani là một ngôi làng thuộc huyện Briceni, Moldova. Tính đến ngày 12 tháng 5 năm 2014, dân số ước tính ngôi làng là 2.783 người và mật độ dân số là 110 người/km². Tổng diện tích ngôi làng là 25,26 km².
Tham khảo
Làng thuộc huyện Briceni |
Jay Enrique Rodriguez (sinh ngày 29 tháng 7 năm 1989) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Burnley tại .
Danh hiệu
Burnley
EFL Championship: 2022–23
Vòng play-off EFL Championship: 2009
Southampton
Á quân Cúp EFL: 2016–17
Cá nhân
Cầu thủ xuất sắc nhất năm của PFA do người hâm mộ bình chọn: Championship 2011–12
Đội hình PFA của năm: Championship 2011–12
Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Burnley: 2010–11
Cầu thủ xuất sắc nhất năm của cầu thủ Burnley: 2010–11
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ tại trang web Burnley FC
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá Scottish Football League
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá West Bromwich Albion F.C.
Cầu thủ bóng đá Southampton F.C.
Cầu thủ bóng đá Barnsley F.C.
Cầu thủ bóng đá Burnley F.C.
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Anh
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1989 |
Lớp Học Mật Ngữ là bộ truyện tranh thiếu nhi Việt Nam dài tập dựa trên ý tưởng của 12 cung hoàng đạo, với cốt truyện xoay quanh đời sống học đường, tình bạn giữa các thành viên trong lớp học của 26 học sinh của hai lớp Hoàng Đạo và Hoàng Cung, được sáng tác bởi B.R.O Group và được phát hành lần đầu tiên trên báo Thiên Thần Nhỏ vào ngày 23 tháng 1 năm 2014 với chương truyện "Mâm cỗ tất niên".
Phát hành
Chương đầu của bộ truyện - Mâm cỗ tất niên, được phát hành lần đầu tiên trên tập san Thiên Thần Nhỏ truyện tranh số 5 vào số ngày 23 tháng 1 năm 2014, và các chương truyện tiếp sau đó đã được phát hành trên báo cho đến tập cuối "Truy tìm ước mơ" được phát hành trên tập san báo Thiên Thần Nhỏ số 321 vào ngày 20 tháng 12 năm 2017.
Series truyện cùng vào giai đoạn đó cũng đã được phát hành lại dưới định dạng ấn phẩm in riêng kể từ ngày 18 tháng 11 năm 2015 và cho đến nay đã phát hành được 21 tập riêng lẻ, 5 tập đặc biệt, 3 ngoại truyện và 6 tuyển tập đặc biệt.
Vào tháng 2 năm 2023, Lớp Học Mật Ngữ Mini - một phiên bản mới với chỉ một chương truyện cùng vài trang trò chơi mỗi tập, được phát hành lần đầu tiên trên các nhà sách và hiện tại có 5 tập đã được phát hành cho đến tháng 10 năm 2023.
Ảnh hưởng
Bộ board game Lớp Học Mật Ngữ - Cuộc Đua Sao Chổi được chuyển thể từ chương truyện cùng tên, mở bán lần đầu tiên trên nền tảng thương mại điện tử Tiki vào ngày 1 tháng 10 năm 2018, hiện đã được chuyển thể thành phiên bản quốc tế (với các tên trước đó là "Attack of Comet", "Comet Race" tại hội chợ Spiel 2022). và được mở bán chính thức dưới tên gọi "Zodiac Rush" tại hội chợ Spiel 2023 tại Đức.
Ngoài ra, Lớp Học Mật Ngữ đã hợp tác cùng nền tảng học tiếng Anh cho thiếu nhi FLYER để đưa các nhân vật trong truyện vào trong nền tảng của mình.
Chuyển thể
Ngày 24 tháng 12 năm 2020, chương truyện "Để tớ giúp cho" đã được chuyển thể và chiếu tập phim phát hành thí điểm, và vào ngày 26 tháng 11 năm 2021, "Show Your Star" - tuyển tập hoạt hình chuyển thể đã chính thức được phát sóng mùa đầu tiên dài 7 tập trên kênh Youtube của bộ truyện cho đến hết ngày 31 tháng 1 năm 2022.
Đánh giá
Tập 7 thuộc một trong số 10 cuốn sách bán chạy nhất Hội sách TP.HCM năm 2018.
Liên tục nằm trong Top 10 Best Seller Book trên nhà sách FAHASA (2016 - 2021).
Lọt vào Top 10 Giải thưởng FAHASA: Sách được bạn đọc yêu thích bình chọn lần IV năm 2018.
Ghi chú
Xem thêm
Học Sinh Chân Kinh
Báo Thiên Thần Nhỏ
B.R.O Group
BoardGameVN
Zoo E&M
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang Facebook chính thức
Kênh Youtube chính thức
Kênh TikTok chính thức
Trang web chính thức (.vn, .net)
Truyện tranh Việt Nam
Sách thiếu nhi
Truyện tranh dài tập
Truyện tranh thiếu nhi |
Amanda Rachelle Cerny (sinh ngày 26 tháng 6 năm 1991) là một nhân vật internet người Mỹ. Cô được biết đến nhiều nhất qua kênh YouTube và trước đó là dịch vụ Vine với hơn 4 triệu người theo dõi. Cô là Playmate của Tháng vào tháng 10 năm 2011 của tạp chí Playboy.
Cuộc sống ban đầu và nền tảng
Amanda Cerny sinh ngày 26 tháng 6 năm 1991 tại Pittsburgh, Pennsylvania.
Sự nghiệp
Ở tuổi 15, Cerny bắt đầu làm người mẫu. Cô đã được giới thiệu trên tạp chí Playboy với tư cách là Playboy Playmates của tháng trong ấn bản tháng 10 năm 2011. Cerny bắt đầu đăng nội dung lên Vine và có hơn 4,6 triệu người theo dõi. Cô trở thành người nổi tiếng trên YouTube, Instagram, Snapchat, Facebook và Twitter.
Vào tháng 8 năm 2017, Cerny được bổ nhiệm làm người đứng đầu Bộ phận Tài năng Kỹ thuật số (Digital Talent Division) mới thành lập của nền tảng phát nhạc LiveXLive.
Tham gia phim
2019: Airplane Mode vai Cerny
2020: The Babysitter: Killer Queen vai Violet
Chú thích
Liên kết ngoài
Sinh năm 1991
Nhân vật còn sống
YouTuber Mỹ
Người Mỹ gốc Séc
Nữ nghệ sĩ hài Mỹ
Vlogger
Nữ diễn viên truyền hình Mỹ
Nữ diễn viên điện ảnh Mỹ
Nữ diễn viên Mỹ thế kỷ 21 |
Giáo hội Tin mừng Quốc tế (The Good News International Ministries/GNIM) hay Nhà thờ Quốc tế Tin lành (Good News International Church) hay Giáo hội quốc tế và còn được gọi là Giáo phái Shakahola là một phong trào tôn giáo mới có trụ sở tại Shakahola, hạt Kilifi ở Kenya, được Paul Nthenge Mackenzie và người vợ đầu tiên của ông là Joyce Mwikamba thành lập vào năm 2003. Giáo hội Tin mừng Quốc tế đã thu hút sự chú ý của quốc tế vào tháng 4 năm 2023 khi có thông tin tiết lộ rằng Paul Nthenge Mackenzie được cho là đã hướng dẫn các thành viên nhịn đói hàng loạt để "gặp Chúa Giê-su" dẫn đến cái chết của hơn 400 người, giáo phái này được mô tả rộng rãi là cuồng giáo và khơi mào trong việc chống phương Tây một cách kiên quyết, họ quan niệm các tiện ích như chăm sóc sức khỏe, giáo dục và thể thao bị coi là những "tệ nạn của lối sống phương Tây" và Mackenzie đã lên án Hoa Kỳ, Liên Hiệp Quốc và Giáo hội Công giáo là "công cụ của Satan" chho nên giáo phái này đã bị liệt vào danh sách cuồng giáo. Giáo phái của Mackenzie chuẩn bị cho sự kết thúc của thế giới dưới sự hướng dẫn của mục sư này, những tín đồ của giáo phái tin rằng nhin đói sẽ là tấm vé giúp họ được cứu rỗi linh hồn.
Tổng quan
Được thành lập năm 2003 và hoạt động với tư cách là một trung tâm truyền giáo nhỏ, chỉ một thời gian ngắn Giáo hội quốc tế đã thu hút được hàng nghìn tín đồ chỉ dựa vào tuyên bố của Mackenzie, rằng ông ta “có thể nói chuyện với Thượng đế”, cộng với những phát biểu chống Chính phủ Mỹ, Liên hợp quốc và Thiên Chúa giáo La Mã mà theo Mackenzie thì tất cả những thực thể này là “công cụ của quỷ dữ và sẽ bị trừng phạt vào ngày cuối cùng” (ngày tận thế). Ban đầu, chính quyền Kenya không lưu tâm đến Mackenzie và giáo phái này vì ở quốc gia châu Phi này, các bộ lạc thổ dân có những phương pháp hành xử nghi lễ tâm linh của riêng họ với những hình thức kỳ quái, thậm chí là phản khoa học, chẳng hạn như chọc dao vào động mạch của một con bò để máu phun lên người nhằm hóa giải bùa phép của những bộ lạc thù địch đang muốn hãm hại họ. Khi tổ chức bắt đầu phát triển, vợ chồng Mackenzie chuyển đến làng Migingo ở Malindi và thành lập nhà thờ tại đây. Mackenzie thu hút được một lượng lớn tín đồ, chủ yếu nhờ lời tuyên bố rằng ông ta có thể giao tiếp với Chúa.
Trong năm 2017, nhà thuyết giáo Mackenzie bắt đầu nói với tín đồ không nên khám bác sĩ hoặc cho con cái đến trường. Ông ta đã thành lập trường học trả phí (nhưng không có giấy phép) tại nhà thờ và tuyên bố có khả năng chữa bệnh thần thánh. Mackenzie đã yêu cầu các tín đồ cho con cái họ nghỉ học, bỏ căn cước công dân, tránh xa bệnh viện và bắt đầu chuẩn bị cho sự kết thúc của thế giới. Năm 2017, Mackenzie bị cáo buộc "cực đoan hóa" vì ủng hộ nhiều trẻ em không được đến trường với lập luận rằng giáo dục không được công nhận trong Kinh thánh. Cảnh sát thị trấn Malindi nhận được một số thư tố cáo của nhiều bậc cha mẹ là tín đồ của Giáo hội quốc tế, nội dung “Mackenzie bắt con cái họ phải sống tập thể, xúi chúng bỏ học, không cho phép chúng đi chích ngừa các bệnh truyền nhiễm. Khi trẻ đau ốm, thay vì đưa chúng đến các cơ sở y tế thì Mackenzie lại bắt chúng nhịn ăn và cầu nguyện”, đã có khoảng 30 trẻ từ 6 đến 10 tuổi chết vì bệnh sởi, đậu mùa, dịch tả, thương hàn nhưng không đủ chứng cứ để buộc tội Mackenzie. Họ chỉ yêu cầu ông ta phải trả 93 trẻ về cho gia đình.
Năm 2019, khi thấy Mackenzie tiếp tục chiêu mộ tín đồ, cảnh sát Malindi ra lệnh giải tán địa điểm tụ tập của Giáo hội quốc tế. Một tín đồ của Giáo hội quốc tế đã hiến tặng lô đất trên đảo Lamu cho Mackenzie. Sau đó, giáo chủ bán được 20 triệu shilling. Với số tiền này, Mackenzie dùng nó để tài trợ cho một đài truyền hình tư nhân, thường xuyên phát sóng những bài giảng của ông ta. Nhà thuyết giáo này còn mở rộng phạm vi hoạt động ra tận khu vực bờ biển Kenya nhờ thành lập Times TV một kênh phát những bài giảng trên Internet và khắp châu Phi, ông đã sử dụng các linh mục và những bài diễn thuyết tại nhà thờ ở Malindi cũng như qua các hình thức trực tuyến. Động thái ấy đã thuyết phục một số tín đồ đem tài sản dâng cho Mackenzie. Theo ước tính, đến ngày bị bắt, Mackenzie có trong tay khoảng 500 triệu shilling, hầu hết là đất đai, nhà cửa.
Nhận lệnh giải tán Giáo hội quốc tế nhưng thay vì thực hiện, Mackenzie kích động tín đồ biểu tình chống nhà cầm quyền. Tháng 9 năm 2019, Mackenzie bị bắt về tội gây rối trật tự, cưỡng bức tín đồ sống tập trung, xúi bẩy trẻ em bỏ học nhưng trong quá trình xét xử, ông nhận được sự ủng hộ của hàng nghìn người trung thành, trong đó có nhiều luật sư và người đứng đầu các giáo phái của các bộ lạc nên cuối cùng, Mackenzie trắng án. Ông Aisha Jumwa, nghị viên Hội đồng nhân dân thành phố Malindi nói: “Những người đứng đầu giáo phái của các bộ lạc cho rằng nếu hôm nay Giáo hội quốc tế bị đàn áp thì ngày mai sẽ đến lượt họ. Công lý đã bị nhạo báng”. Theo lời khai của tín nhân giáo phái thì giáo chủ Makenzie Nthenge bắt buộc tín đồ phải nhịn đói tuyệt đối 20 ngày mỗi tháng để có thể “gặp được thượng đế”. Makenzie yêu cầu họ phải sống tách biệt với xã hội để tâm hồn được thanh tẩy, hàng ngày, họ chỉ uống nước lã rồi cầu nguyện, một số người đã chết vì kiệt sức, xác của họ được những người khác mang đi nhưng không biết là đi đâu.
Vụ án
Tại châu Phi, quan chức chính quyền khu vực Shakahola của Kenya cho biết họ vừa phát hiện thêm 22 thi thể liên quan tới giáo phái tuyệt thực là Nhà thờ Quốc tế Tin lành (Good News International Church). Lực lượng chức năng đưa một thi thể ra khỏi khu rừng ở Shakahola, gần thị trấn ven biển Malindi, Kenya. Theo giới chức địa phương, có 201 thi thể đã được khai quật kể từ khi phát hiện ra những ngôi mộ tập thể trên một mảnh đất tại rừng Shakahola vào cuối tháng Tư năm 2003. Trong khi đó, số người được báo cáo mất tích đã tăng lên 610 người. Cùng ngày, nhà chức trách đã bắt giữ thêm một nghi phạm liên quan tới vụ việc, nâng tổng số nghi phạm lên 26 người. Năm 2003, mục sư tự xưng Paul Nthenge Mackenzie nhà truyền đạo vốn làm nghề lái taxi đã thành lập giáo phái trên và bị buộc tội xúi giục những tín đồ theo giáo phái bỏ đói con cái và chính bản thân họ cho tới chết để có thể lên thiên đường trước ngày tận thế và "gặp Chúa Jesus". Các bác sĩ giám định pháp y Kenya đã báo cáo việc bị đói khiến nhiều người chết thì một số thi thể có dấu hiệu chết do ngạt thở, bị siết cổ hoặc bị đánh bằng dùi cui, một số người đã bị mổ lấy nội tạng, nhiều người khác vẫn đang mất tích, bị chôn vùi trong những ngôi mộ chưa được phát hiện.
Theo các nhà điều tra, phần lớn nạn nhân là trẻ em nên Paul Mackenzie và 13 người khác đã bị bắt giữ. Tổng thống Kenya là ông William Ruto đã mô tả vụ việc là hành động khủng bố. Paul Mackenzie Nthenge từng bị bắt vào năm 2017 với cáo buộc "cực đoan hóa" vì ủng hộ nhiều trẻ em không được đến trường, với lập luận rằng giáo dục không được công nhận trong Kinh thánh. Vụ "thảm sát Shakahola" này đã làm sống lại cuộc tranh luận về việc kiểm soát các hoạt động tín ngưỡng ở Kenya, một quốc gia chủ yếu là người theo đạo Thiên chúa, nơi "mục sư", "nhà thờ" và các phong trào tôn giáo khác trở thành chủ đề hàng đầu. Những nỗ lực trước đây về quy định hoạt động tôn giáo đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ, đặc biệt là nhân danh sự tách biệt giữa nhà thờ và nhà nước. Đối tượng này sẽ đối mặt với tội danh “khủng bố”, trong vụ án gây chấn động quốc gia Đông Phi, hàng loạt thi thể được khai quật, làm sáng tỏ câu chuyện rùng rợn được gọi là “vụ thảm sát rừng Shakahola". Mackenzie và người vợ thứ ba là Rhoda Mumbua Maweu cùng 16 thành viên chủ chốt của Giáo phái quốc tế bị bắt, trong đó có Ezekiel Odero một mục sư thân cận với Mackenzie là phó giáo chủ và cũng là cánh tay phải của Mackenzie bị điều tra về các tội danh bao gồm giết người, hỗ trợ tự sát, bắt cóc, cực đoan hóa, tội ác chống lại loài người, tàn ác với trẻ em, lừa đảo và rửa tiền. Đến ngày 13, lại có thêm 8 thành viên nữa vào trại giam với những cáo buộc liên quan đến khủng bố, tẩy não, bạo hành và giết người.
Chú thích
Liên kết ngoài
William Branham Historical Research
"Branhamites," by A. Scott Moreau in East Africa Journal of Evangelical Theology
Cuồng giáo |
iPad 10,2 inch (thế hệ thứ 9), hay còn được gọi là iPad Gen 9, là một máy tính bảng được thiết kế và bán ra bởi công ty Apple Inc.. Đây là phiên bản kế nhiệm của iPad thế hệ thứ tám. Mẫu iPad này được ra mắt vào ngày 14 tháng 9 năm 2021.
Tính năng
iPad thế hệ 9 có thiết kế giống hệt hoàn toàn với thế hệ 7 và 8, chỉ khác ở chỗ là lựa chọn màu sắc giờ chỉ còn là màu xám không gian và bạc, lựa chọn màu vàng đã bị loại bỏ. Mẫu iPad này tương thích với Apple Pencil thế hệ đầu tiên, Smart Keyboard và Smart Connector làm phụ kiện bàn phím. Nó sử dụng con chip A13 Bionic từng được dùng trên dòng máy iPhone 11 vào năm 2019, cho thêm 20% hiệu suất trên CPU, GPU và bộ xử lý trí tuệ nhân tạo Neural Engine so với tiền nhiệm. Con chip mới giúp mọi thứ trên iPad thế hệ 9 trở nên nhanh nhạy, từ nhắn tin đến duyệt web hay sử dụng nhiều ứng dụng cùng lúc và GPU tốc độ cao mang đến hiệu năng đồ hoạ hoàn hảo để chơi game đồ họa sống động. Neural Engine mạnh mẽ hơn đem lại các tính năng dựa trên máy học như Văn Bản Trực Tiếp trên iPadOS. iPad thế hệ 9 sử dụng màn hình Retina 10,2 inch tương đương với những mẫu trước, có độ phân giải 1620 x 2160 đạt mật độ điểm ảnh 264 PPI, và được trang bị công nghệ True Tone giúp điều chỉnh màn hình theo nhiệt độ màu của phòng để người dùng xem một cách thoải mái trong mọi điều kiện ánh sáng. Camera trước có độ phân giải 12 MP rộng 122 độ được thế chỗ cho camera độ phân giải 1,2 MP so với thế hệ cũ, đi kèm với công nghệ Trung tâm màn hình nhận diện người dùng và tự động điều chỉnh để giữ người dùng luôn ở giữa khung hình trong lúc quay video và gọi điện thoại. Camera sau 8 MP tuy vẫn được giữ nguyên kể từ đời iPad Air 2, nhưng đi kèm tính năng scan tài liệu và trải nghiệm các ứng dụng AR sống động. Bộ nhớ trong cơ bản được tăng gấp đôi lên 64 GB. iPadOS 15 được cài đặt sẵn lúc xuất xưởng lần đầu.
Tiếp nhận
Tờ báo The New York Times gọi iPad thế hệ 9 là máy tính bảng tốt nhất cho mọi người vào năm 2022, khen ngợi giá thành rẻ, hiệu suất và tính năng tốt.
Dòng thời gian
Ghi chú
Tham khảo
9
IOS
Máy tính bảng
Máy tính bảng ra mắt năm 2021 |
Deivid Washington của Souza Eugênio (sinh ngày 5 tháng 6 năm 2005), đôi khi được gọi là Deivid Washington hoặc Deivid, là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Brasil thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Chelsea tại Premier League.
Danh hiệu
Santos
: 2022
Tham khảo
Thể loại:Cầu thủ bóng đá nam Brasil ở nước ngoài
Thể loại:Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Brasil
Thể loại:Cầu thủ bóng đá Chelsea F.C.
Thể loại:Cầu thủ bóng đá Santos FC
Thể loại:Cầu thủ bóng đá Campeonato Brasileiro Série A
Thể loại:Tiền đạo bóng đá nam
Thể loại:Cầu thủ bóng đá nam Brasil
Thể loại:Nhân vật còn sống
Thể loại:Sinh năm 2005 |
Lucas Carl Edvard Bergström (sinh ngày 5 tháng 9 năm 2002) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Phần Lan thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Chelsea tại Premier League và đội tuyển quốc gia Phần Lan.
Tham khảo
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Phần Lan
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Phần Lan
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Phần Lan
Cầu thủ bóng đá Peterborough United F.C.
Cầu thủ bóng đá Chelsea F.C.
Thủ môn bóng đá nam
Sinh năm 2002 |
là một nữ diễn viên, người mẫu và thần tượng người Nhật. Cô được đại diện bởi công ty quản lý tài năng Amuse Inc. và từ năm 2010 đến năm 2012 là thành viên của nhóm nhạc nữ Sakura Gakuin của công ty này.
Đĩa hát
Đối với đĩa hát của Ayaka Miyoshi với tư cách là thành viên của Sakura Gakuin và nhóm nhỏ Scoopers của nó, hãy xem Danh sách đĩa nhạc của Sakura Gakuin.
Phim
Phim
Phim truyền hình
Khác
(14 tháng 10 năm 2011 – 7 tháng 9 năm 2012, TV Tokyo)
(11 tháng 10 năm 2014 – 14 tháng 10 năm 2017, NTV) — Người dẫn chương trình
Quảng cáo
Xuất hiện trong hơn 20 quảng cáo truyền hình.
Music Video
Kagrra, — (14 tháng 2 năm 2007)
DEPARTURES — của ban nhạc Globe. Video được phát hành vào ngày 3 tháng 5 năm 2016, 20 năm sau khi ban nhạc phát hành bài hát.
Won't Cry - của ca sĩ Châu Kiệt Luân và Ngũ Nguyệt Thiên, Ashin (16 tháng 9 năm 2019)
Giải thưởng
Giải thưởng Điện ảnh Mainichi lần thứ 67 (được trao năm 2013 cho năm 2012) — Giải thưởng Người mới Sponichi Grand Prix (cho Gumo Ebian!)
Liên hoan phim Yokohama lần thứ 35 (được trao năm 2014) — Giải Diễn viên mới xuất sắc nhất (dành cho Tabidachi no Uta: Jugo no Haru và Gumo Ebian!)
Chú thích
Liên kết ngoài
Hồ sơ chính thức Ayaka Miyoshi tại Amuse, Inc.
Blog chính thức Ayaka Miyoshi trên Ameblo
Sinh năm 1996
Nhân vật còn sống
Nữ diễn viên thiếu nhi Nhật Bản
Nữ người mẫu Nhật Bản
Nữ ca sĩ nhạc pop Nhật Bản
Nữ diễn viên điện ảnh Nhật Bản
Nữ diễn viên truyền hình Nhật Bản
Nữ diễn viên Nhật Bản thế kỷ 21 |
Tổng tài (tiếng Pháp: Le Consulat) là chính phủ cấp cao nhất của Đệ Nhất Cộng hòa Pháp kể từ sự sụp đổ của Chế độ đốc chính trong cuộc Đảo chính ngày 18 tháng Sương mù vào ngày 10 tháng 11 năm 1799 cho đến khi Napoleon Bonaparte thành lập Đệ Nhất Đế chế Pháp vào ngày 18 tháng 5 năm 1804. Nói rộng ra, thuật ngữ Tổng tài cũng đề cập đến giai đoạn này của lịch sử nước Pháp.
Trong thời kỳ này, Napoléon Bonaparte, với tư cách là Đệ nhất Tổng tài (Tổng tài quyền lực nhất), tự khẳng định mình là người đứng đầu một chính phủ cộng hòa tập trung, chuyên quyền và độc tài hơn ở Pháp trong khi không tuyên bố mình là người cai trị duy nhất. Do các thể chế lâu đời được thành lập trong những năm này, Robert B. Holtman đã gọi chế độ Tổng tài là "một trong những thời kỳ quan trọng nhất của toàn bộ lịch sử nước Pháp" và đã được xem là một chế độ độc tài quân sự.
Sự sụp đổ của chế độ Đốc chính
Các thảm họa quân sự của Pháp năm 1798 và 1799 đã làm rung chuyển chính phủ Đốc chính, và cuối cùng là phá hủy nó vào tháng 11 năm 1799. Các nhà sử học đôi khi xác định thời điểm bắt đầu sự sụp đổ chính trị của chế độ Đốc chính là ngày 18 tháng 6 năm 1799 (Đảo chính ngày 30 tháng Đồng cỏ VII theo Lịch Cộng hòa Pháp). Đó là khi Đốc chính chống Jacobin Emmanuel Joseph Sieyès, chỉ sau một tháng tại vị, với sự giúp đỡ của thành viên ban đầu duy nhất còn sống của chế độ Đốc chính là Paul Barras, cũng là một người chống Jacobin, đã loại bỏ thành công 3 đốc chính đương nhiệm khác khi đó. Cuộc bầu cử tháng 3-tháng 4 năm 1799 cho hai hội đồng đã tạo ra đa số Neo-Jacobin mới trong hai cơ quan lập pháp, và không hài lòng với chính phủ Đốc chính 5 người hiện có, đến ngày 5 tháng 6 năm 1799, các hội đồng lập pháp này đã phát hiện ra sự bất thường trong cuộc bầu cử Đốc chính Jean Baptiste Treilhard, do đó đã nghỉ hưu để ủng hộ Louis-Jérôme Gohier, một Jacobin 'đồng điệu' hơn với tình cảm trong hai hội đồng lập pháp. Ngay ngày hôm sau, 18 tháng 6 năm 1799, những người chống Jacobin, gồm có Philippe-Antoine Merlin (Merlin de Douai) và Louis-Marie de La Revellière-Lépeaux cũng bị buộc phải từ chức, mặc dù một người chống Jacobin lâu năm, nổi tiếng vì sự xảo quyệt, vẫn sống sót sau cuộc đảo chính ngày hôm đó; họ được thay thế bởi một người Jacobin là Nam tước Jean-François-Auguste Moulin và bởi một Jacobin không phải Jacobin, hay còn gọi là Jacobin 'yếu', Roger Ducos. Ba Đốc chính mới thường được giới thượng lưu chống Jacobin ở Pháp coi là những tổ chức phi thực thể, nhưng chính giới thượng lưu đó có thể cảm thấy an ủi khi biết rằng Ban Đốc chính 5 người vẫn nằm trong tay phe chống Jacobin, nhưng với đa số đã giảm.
Thêm một vài thảm họa quân sự, các cuộc nổi dậy của phe bảo hoàng ở miền Nam, những xáo trộn của Chouannerie ở hàng chục tỉnh phía Tây nước Pháp (chủ yếu ở Brittany, Maine và cuối cùng là Normandy), những âm mưu của phe bảo hoàng, và cái kết đã chắc chắn xảy ra. Để xoa dịu dân chúng và bảo vệ biên giới, các biện pháp khủng bố thông thường của Cách mạng Pháp (chẳng hạn như luật con tin) là cần thiết hơn cả. Chính phủ Đốc chính mới, do phe chống Jacobin Sieyès lãnh đạo, đã quyết định rằng việc sửa đổi hiến pháp sẽ cần có "một người đứng đầu" (của chính ông ta) và "một thanh kiếm" (một vị tướng ủng hộ ông ta). Jean Victor Moreau không thể đạt được vị trí "thanh kiếm" của Đốc chính, Sieyès ưa chuộng Barthélemy Catherine Joubert; nhưng khi Joubert bị giết trong trận Novi (15 tháng 8 năm 1799), ông quay sang cầu cứu Tướng Napoléon Bonaparte.
Mặc dù Guillaume Marie Anne Brune và André Masséna đã giành chiến thắng trong Trận Bergen và Zürich, và mặc dù Đồng minh của Liên minh thứ hai vẫn nán lại biên giới như họ đã làm sau Trận Valmy, nhưng vận may của Chế độ Đốc chính vẫn chưa được khôi phục. Thành công được dành cho Bonaparte, ông bất ngờ đổ bộ vào Fréjus với uy tín nhờ những chiến thắng ở phương Đông, và bây giờ, sau cái chết của Hoche (1797), Napoleon xuất hiện với tư cách là người chỉ huy duy nhất của quân đội.
Trong Đảo chính ngày 18 tháng Sương mù (9 tháng 11 năm 1799), Napoléon đã chiếm quyền lực nghị viện và quân sự của Pháp trong một cuộc đảo chính kép, buộc các Đốc chính đương nhiệm của chính phủ phải từ chức. Vào đêm ngày 19 tháng Sương mù (10 tháng 11 năm 1799), tàn dư của Hội đồng Ancient đã bãi bỏ Hiến pháp năm III, phong chức Tổng tài và hợp pháp hóa cuộc đảo chính ủng hộ Bonaparte bằng Hiến pháp năm VIII.
Chính phủ mới
Cuộc đảo chính Ngày 18 tháng Sương mù ban đầu dường như là một thắng lợi cho Sieyès hơn là cho Bonaparte. Sieyès là người đề xuất một hệ thống chính quyền mới cho nền Cộng hòa, và cuộc đảo chính ban đầu dường như chắc chắn sẽ khiến hệ thống của ông có hiệu lực. Sự thông minh của Bonaparte nằm ở việc đối chiếu kế hoạch của Pierre Claude François Daunou với kế hoạch của Sieyès, và chỉ giữ lại những phần của mỗi kế hoạch có thể phục vụ cho tham vọng của ông.
Chính phủ mới bao gồm ba hội đồng Nghị viện: Hội đồng Nhà nước soạn thảo các dự luật, Hội đồng Tribune không thể bỏ phiếu về các dự luật mà thay vào đó tranh luận về chúng, và Corps législatif, các thành viên của họ không thể thảo luận về các dự luật nhưng có thể bỏ phiếu về số phận chúng sau khi xem xét hồ sơ tranh luận của Tribune. Thượng viện bảo thủ (Sénat conservateur) là cơ quan chính phủ ngang hàng với ba hội đồng lập pháp nói trên và sẽ xác minh các dự thảo luật, đồng thời trực tiếp tư vấn cho Đệ nhất Tổng tài về ý nghĩa của các dự luật đó. Quyền hành pháp cuối cùng được trao cho ba Tổng tài, những người được giữ nhiệm kỳ 10 năm. Quyền bầu cử phổ thông vẫn được giữ lại, mặc dù bị cắt xén do danh sách những người đáng chú ý (dựa vào đó các thành viên của Hội đồng sẽ được Thượng viện lựa chọn). Bốn cơ quan chính phủ nói trên vẫn được giữ lại theo Hiến pháp năm XII, công nhận Napoléon là Hoàng đế có chủ quyền của Pháp, nhưng quyền lực tương ứng của họ đã bị suy giảm đáng kể.
Napoléon phủ quyết ý tưởng ban đầu của Sieyès về việc có một Đại tuyển hầu (Grand Elector) duy nhất làm hành pháp tối cao và Nguyên thủ quốc gia. Sieyès đã có ý định giữ vị trí quan trọng này cho mình, và bằng cách từ chối chiếc ghế này, Napoléon đã giúp củng cố quyền lực của các quan chấp chính, một chức vụ mà ông sẽ đảm nhận. Napoléon cũng không chỉ đơn giản bằng lòng trở thành một phần của một chế độ tam hùng ngang bằng. Theo năm tháng, ông sẽ chuyển sang củng cố quyền lực của mình với tư cách là Đệ nhất Tổng tài, và vẫn để lại hai Tổng tài khác, Jean-Jacques-Régis de Cambacérès và Charles-François Lebrun, cũng như các Hội đồng, yếu đuối và khúm núm.
Bằng cách củng cố quyền lực, Bonaparte đã có thể biến hiến pháp quý tộc của Sieyès thành một chế độ độc tài không công khai.
Vào ngày 7 tháng 2 năm 1800, một cuộc trưng cầu dân ý đã xác nhận hiến pháp mới. Nó trao toàn bộ quyền lực thực sự vào tay Đệ nhất Tổng tài, chỉ để lại vai trò danh nghĩa cho hai Tổng tài còn lại. Theo kết quả được công bố, toàn bộ 99,9% cử tri đã chấp thuận đề xuất này.
Trong khi sự nhất trí này chắc chắn vẫn còn là một câu hỏi, Napoléon thực sự được nhiều cử tri yêu mến, và sau một thời gian xung đột, nhiều người ở Pháp đã yên tâm trước những lời đề nghị hòa bình rực rỡ nhưng không thành công của ông cho Liên minh thứ hai chiến thắng, việc ông nhanh chóng giải giáp La Vendée và bài nói chuyện của ông về sự ổn định của chính phủ, trật tự, công lý và sự điều độ. Ông mang đến cho mọi người cảm giác rằng nước Pháp một lần nữa được cai trị bởi một chính khách thực sự, và cuối cùng một chính phủ có thẩm quyền đã nắm quyền.
Sự củng cố quyền lực của Napoléon
Bonaparte cần phải loại bỏ Sieyès và những người cộng hòa không muốn giao chính phủ cộng hòa cho một người, đặc biệt là Moreau và Masséna, những đối thủ quân sự của ông. Chiến thắng trong Trận Marengo (14 tháng 6 năm 1800) tạm thời ở thế cân bằng, nhưng được đảm bảo bởi Louis Desaix và François Christophe Kellermann, đã mang đến một cơ hội nữa cho tham vọng của ông ấy bằng cách ngày càng nổi tiếng. Âm mưu bảo hoàng ở Rue Saint-Nicaise vào ngày 24 tháng 12 năm 1800 đã cho phép ông ta quét sạch những người cộng hòa dân chủ, những người dù vô tội nhưng vẫn bị trục xuất đến Guiana thuộc Pháp. Ông bãi bỏ các Hội đồng và biến Thượng viện thành toàn quyền trong các vấn đề hiến pháp.
Hiệp ước Lunéville, được ký vào tháng 2 năm 1801 với Áo (đã bị tước khí giới sau chiến thắng của Moreau tại Trận Hohenlinden), khôi phục hòa bình cho châu Âu, trao gần như toàn bộ Bán đảo Ý cho Pháp, và cho phép Bonaparte loại khỏi Hội đồng tất cả những người lãnh đạo phe đối lập trong cuộc thảo luận về Bộ luật Dân sự. Hiệp ước 1801 (Concordat of 1801), được soạn thảo không phải vì lợi ích của Giáo hội và Lãnh địa Giáo hoàng mà vì chính sách của chính ông, bằng cách mang lại sự hài lòng cho tình cảm tôn giáo của đất nước, đã cho phép ông lật đổ Giáo hội dân chủ lập hiến, để tập hợp sự trung thành của nông dân xung quanh mình, và trên hết là tước bỏ vũ khí tốt nhất của những người theo phe bảo hoàng. Các bài viết về luật quản lý việc thờ tự cộng cộng ở Pháp đã khôi phục lại một Giáo hội phục tùng chính phủ, tước đoạt các khoản thu nhập của Giáo hội, vị trí của Giáo hội là tôn giáo của nhà nước.
Hòa ước Amiens (25 tháng 3 năm 1802) với Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland, trong đó các đồng minh của Pháp, Tây Ban Nha và Cộng hòa Batavia, đã trả mọi phí tổn, cuối cùng đã tạo cho người hòa giải một cái cớ để cấp cho mình quyền Tổng tài, không phải 10 năm mà là cả đời, như một sự đền đáp của quốc gia. Rubicon đã bị vượt qua vào ngày hôm đó: Cuộc hành quân đến đế chế của Bonaparte bắt đầu với Hiến pháp của Năm X ngày 16 tháng Thermidor hoặc ngày 4 tháng 8 năm 1802.
Vào ngày 2 tháng 8 năm 1802 (ngày 14 tháng Thermidor, năm X), một cuộc trưng cầu dân ý toàn quốc lần thứ hai được tổ chức, lần này để xác nhận Napoléon là "Đệ nhất Tổng tài suốt đời". Once again, a vote claimed 99.7% approval.
Khi Napoléon tăng cường quyền lực, ông đã mượn nhiều kỹ thuật của Ancien Régime trong hình thức chính phủ một người mới của mình. Giống như chế độ quân chủ cũ, ông tái lập các đặc quyền toàn quyền (plenipotentiaries); các phương pháp hành chính và quan liêu quá tập trung, thực dụng nghiêm ngặt, và một chính sách mang tính học thuật mang tính mô phạm phụ thuộc đối với các trường đại học của quốc gia. Ông đã xây dựng hoặc củng cố các quỹ cần thiết cho các thể chế quốc gia, chính quyền địa phương, hệ thống tư pháp, các cơ quan tài chính, ngân hàng, bộ luật, truyền thống về lực lượng lao động tận tâm và có kỷ luật.
Pháp được hưởng mức độ hòa bình và trật tự cao dưới thời Napoléon, điều này đã giúp nâng cao tiêu chuẩn thoải mái. Trước đó, Paris thường xuyên phải chịu đói khát, thiếu lửa và ánh sáng, nhưng dưới thời Napoléon, lương thực trở nên rẻ và dồi dào, trong khi thương mại thịnh vượng và tiền lương tăng cao. Sự hào hoa và sang trọng của những người giàu có mới được trưng bày trong các phòng khách của Joséphine tốt bụng, Madame Tallien xinh đẹp và Juliette Récamier "thần thánh".
Để củng cố bộ máy nhà nước, Napoléon đã tạo ra trật tự ưu tú của Légion d'honneur (Quân đoàn danh dự), Concordat, và khôi phục các loại thuế gián tiếp, một hành động được coi là phản bội Cách mạng.
Napoléon phần lớn đã có thể dập tắt sự bất đồng chính kiến trong chính phủ bằng cách trục xuất những người chỉ trích ông mạnh mẽ hơn, chẳng hạn như Benjamin Constant và Madame de Staël. Cuộc Viễn chinh đến Saint-Domingue đã khiến quân đội cộng hòa trở nên vô hiệu hoá. Chiến tranh liên miên đã làm mất tinh thần và phân tán các nhà lãnh đạo quân đội, những người ghen tị với “đồng chí” Bonaparte của họ. Thử thách lớn cuối cùng đối với quyền lực của Napoléon đến từ Moreau, người đã bị tổn hại trong một âm mưu bảo hoàng; ông ấy cũng bị đi đày.
Ngược lại với sự phản đối của các thượng nghị sĩ và các tướng lĩnh cộng hòa, phần lớn dân chúng Pháp vẫn không phê phán quyền lực của Bonaparte. Thời đại Napoléon bắt đầu từ đây khi ông trở thành quan chức của nhà nước Pháp và thành lập chế độ Tổng tài.
Tham khảo
Thư mục
website (English language version). Accessed October 2006.
Tom Holmberg, "The d'Enghien Affair: Crime or Blunder?" (September 2005), The Napoleonic Series website. Accessed October 2006.
", duke of Enghien"
Tổng tài Pháp
Đệ nhất Đế chế Pháp
Khởi đầu năm 1799 ở Pháp
Chính phủ Pháp |
Cuộc thi áo tắm (Swimsuit competition) ngày nay thường được gọi là Phần thi bikini là một cuộc thi sắc đẹp được đánh giá và xếp hạng theo đề tài khi các thí sinh mặc áo tắm, điển hình là bikini. Một trong những tiêu chí đánh giá là sức hấp dẫn hình thể với cơ thể khỏe khoắn, gợi cảm của các thí sinh. Các cuộc thi sắc đẹp quốc tế Big Four (Tứ đại Hoa hậu) là những ví dụ minh chứng về một cuộc thi như vậy. Các cuộc thi áo tắm đôi khi được các công ty tổ chức hoặc tài trợ cho mục đích tiếp thị hoặc để tìm người mẫu mới cho sản phẩm của các công ty, với các cuộc thi được trình diễn như một loại hình giải trí dành cho người lớn. Các cuộc thi đồ bơi đã trở thành một phần của các cuộc thi sắc đẹp gọi là phần thi áo tắm, chẳng hạn như cuộc thi Hoa hậu Trái đất và Hoa hậu Thế giới, và các nhà tài trợ đã bao gồm các thương hiệu thương mại như Hawaiian Tropic.
Các cuộc thi cũng được tổ chức tại các quán bar và hộp đêm, trong thời gian tạm nghỉ của các trận đấu quyền anh hoặc đấu vật và tại các triển lãm ô tô. Các cuộc thi thể hình và thể vóc đã phát triển để bao gồm cả phần thi bikini. Những người tham gia các cuộc thi như vậy có thể cạnh tranh để giành các giải thưởng bao gồm cúp, tiền thưởng và những hợp đồng làm người mẫu. Bất chấp sự nổi tiếng và sự tham gia tự nguyện của các nữ thí sinh thì các cuộc thi áo tắm, đặc biệt là phần thi bikini đôi khi vẫn gây tranh cãi. Các nhà phê bình cho rằng các cuộc thi sắc đẹp củng cố ý tưởng rằng các cô gái và phụ nữ chủ yếu được đánh giá cao về ngoại hình và điều này gây áp lực buộc phụ nữ phải tuân theo các tiêu chuẩn sắc đẹp thông thường. Cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump còn được biết đến là người sở hữu cuộc thi sắc đẹp Hoa hậu Hoàn vũ cho đến khi nó được William Morris Endeavour mua lại đã từ nói với Fox News: "Chà, tôi thực sự rất vui về điều đó và bởi vì nếu cuộc thi Hoa hậu Thế giới mà không có phần thi bikini thì cuộc thi sẽ bị tụt hạng ngay"
Tổng quan
Yêu cầu thí sinh mặc áo tắm tại phần thi áo tắm là một khía cạnh gây tranh cãi trong các cuộc thi khác nhau. Tranh cãi càng dâng cao khi bikini ngày càng phổ biến sau khi được giới thiệu vào năm 1946. Trang phục bikini bị cấm tham gia cuộc thi Hoa hậu Mỹ năm 1947 vì những người phản đối Công giáo La Mã. Khi cuộc thi Hoa hậu Thế giới bắt đầu vào năm 1951, đã có một làn sóng phản đối kịch liệt khi người chiến thắng đăng quang trong trang phục bikini Giáo hoàng Pius XII lên án việc trình diễn trang phụ hở hang như bikini là một tội lỗi rất nghiêm trọng và là sự hủy hoại các giá trị đạo đức Ki-tô giáo, và các quốc gia có truyền thống tôn giáo đe dọa rút các đại diện. Bộ bikini đã bị cấm cho các cuộc thi trong tương lai và các cuộc thi khác..
Mãi cho đến cuối những năm 1990, chúng mới được phép trở lại, nhưng vẫn gây ra tranh cãi khi các trận chung kết được tổ chức ở những quốc gia mà bikini (hay đồ bơi nói chung) bị xã hội phản đối. Ví dụ, vào năm 2003, Vida Samadzai đến từ Afghanistan đã gây náo động ở quê nhà khi cô tham gia cuộc thi Hoa hậu Trái Đất trong bộ bikini màu đỏ. Cô bị Tòa án Tối cao Afghanistan lên án, cho rằng việc phô bày cơ thể phụ nữ như vậy là vi phạm luật Hồi giáo và văn hóa Afghanistan. Năm 2012, ban tổ chức cuộc thi Hoa hậu Italia thông báo cấm thí sinh mặc bikini dự thi. Họ chỉ chấp nhận những bộ áo tắm một mảnh hoặc áo tắm kiểu cổ điển, kín đáo như ở thập niên 1950. Patrizia Mirigliani - nhà tổ chức Miss Italia - cho hay quyết định này nằm trong nỗ lực nhằm đưa cuộc thi về với "vẻ đẹp cổ điển". Việc loại bỏ bikini cũng đồng thời mang lại "yếu tố tao nhã" cho sàn đấu sắc đẹp này.
Năm 2013, vòng thi áo tắm của cuộc thi Hoa hậu Thế giới đã phải chuyển thành trang phục đi biển sarong vì các cuộc biểu tình của người Hồi giáo ở Bali (Indonesia), nơi diễn ra cuộc thi. Năm 2015, cuộc thi Hoa hậu Thế giới đã chính thức loại bỏ phần thi áo tắm khỏi cuộc thi của mình. Năm 2016, Hoa hậu Tuổi Teen Mỹ (Miss Teen USA) chuyển phần thi áo tắm thành phần thi trang phục thể thao. Năm 2018, Hoa hậu Mỹ (Miss America) loại bỏ phần thi áo tắm sau 97 năm. Năm 2019, lần đầu tiên cuộc thi Hoa hậu Venezuela sẽ không công bố số đo 3 vòng (vòng ngực, vòng eo, vòng hông) của 24 thí sinh tham dự nữa, dù đây là quốc gia nổi tiếng về thi hoa hậu. Quyết định này được đưa ra do các cuộc thi nhan sắc đang đối mặt với những chỉ trích của công luận vì quá chú trọng tới vẻ đẹp hình thể. Cô Gabriela Isler, người phát ngôn của cuộc thi Hoa hậu Venezuela và cũng là Hoa hậu Hoàn vũ 2013, nói: "Vẻ đẹp của một phụ nữ không phải là 90, 60, 90… Nó được đo bằng tài năng của mỗi người". Năm 2017, Carousel Productions bị chỉ trích vì tổ chức phần thi phản cảm với phụ nữ trong cuộc thi Hoa hậu Trái Đất 2017, nơi các thí sinh mặc đồ bơi trong sự kiện với tấm màn che mặt trong Người đẹp Hình thể, một phân đoạn được giới thiệu lần đầu tiên trong cuộc thi Hoa hậu Trái Đất Philippines 2017.
Các tổ chức đấu tranh vì quyền phụ nữ trên thế giới đã phê phán phần thi bikini trong các cuộc thi sắc đẹp, vì ở đó công chúng thoải mái buông ra những lời nhận xét khiếm nhã (dù vô tình hay cố tình) có thể làm tổn thương phụ nữ. Màn thi bikini đã trực tiếp cổ vũ tâm lý coi cơ thể phụ nữ là vật trưng bày mua vui, hạ thấp nhân phẩm phụ nữ, nhiều cô gái tham dự đã trở thành đối tượng bị chê bai, xúc phạm nặng nề chỉ vì cơ thể họ có khiếm khuyết Có người đã chỉ ra rằng: nhiều người cổ vũ màn thi bikini vì nó khiến họ có thể được săm xoi cơ thể hở hang của các người đẹp, nhưng "nếu đặt mình vào vị trí phụ huynh hoặc người thân của thí sinh, liệu họ sẽ cảm thấy thế nào khi chứng kiến cô con gái non nớt của mình phô bày thân thể trước hàng triệu người xa lạ như vậy?" Có quan điểm còn cho rằng màn thi bikini là tàn tích xa xưa của việc mua bán nô lệ, tại đó nữ nô lệ bị lột trần trên sân khấu để hàng nghìn người định giá thông qua việc xăm soi cơ thể trần trụi của họ.
Cuộc đấu tranh lâu dài của các nhóm nữ quyền đã bước đầu có kết quả và làm ban tổ chức các cuộc thi hoa hậu ở các quốc gia khác phải suy nghĩ lại. Đến đầu thập niên 2010, nhiều cuộc thi hoa hậu trên thế giới bắt đầu loại bỏ phần thi trang phục bikini do những chỉ trích về văn hóa và đạo đức. Các cuộc thi này nhận thấy việc buộc thí sinh mặc trang phục bikini diễu qua lại trước đông đảo người xem không phải là "tôn vinh nét đẹp", mà là sự thiếu tôn trọng đối với phụ nữ, đó là một dạng lợi dụng cơ thể hở hang, thiếu vải của phụ nữ để câu khách. Một xã hội văn minh, coi trọng nhân phẩm phụ nữ cần phải chấm dứt những màn thi buộc phụ nữ phải mặc trang phục hở hang, thiếu vải, chịu sự săm xoi của khán giả về những ưu khuyết điểm trên cơ thể họ. Trong xã hội hiện nay, vấn đề bình đẳng giới, quyền phụ nữ ngày càng được coi trọng, nâng cao thì việc thi bikini bị loại bỏ ở các cuộc thi nhan sắc được coi là chuyện sớm muộn sẽ xảy ra.. Năm 2007, các thí sinh lọt vào vòng chung kết phần thi áo tắm Hoa hậu Trái đất 2007 đến từ Georgia, Canada, Venezuela, Tây Ban Nha, Thái Lan, Thụy Sĩ và Ấn Độ. Mặc dù nhiều cuộc thi đang hạ thấp phần thi bikini những người tham gia một số cuộc thi sắc đẹp như cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ, Hoa hậu Quốc tế, Hoa hậu Trái đất hoặc Hoa hậu Mỹ, được yêu cầu mặc bikini như một phần của cuộc thi. Bắt đầu từ năm 2016, cuộc thi Miss Teen USA đã loại bỏ phần thi áo tắm và thay thế bằng vòng thi trang phục thể thao.
Chú thích
Tham khảo
Banet‐Weiser, Sarah. "The Most Beautiful Girl in the World: Beauty Pageants and National Identity". (Berkeley: University of California Press, 1999)
Bell, Myrtle P., Mary E. McLaughlin, and Jennifer M. Sequeira. "Discrimination, Harassment, and the Glass Ceiling: Women Executives as Change Agents". Journal of Business Ethics. 37.1 (2002): 65–76. Print.
Burgess, Zena, and Phyllis Tharenou. "Women Board Directors: Characteristics of the Few". Journal of Business Ethics. 37.1 (2002): 39–49. Print.
Ciborra, Claudio U. "The Platform Organization: Recombining Strategies, Structures, and Surprises". Organization Science. 7.2 (1996): 103–118. Print.
Harvey, Adia M. "Becoming Entrepreneurs: Intersections of Race, Class, and Gender at the Black Beauty Salon". Gender and Society. 19.6 (2005): 789–808. Print.
Huffman, Matt L., and Philip N. Cohen. "Occupational Segregation and the Gender Gap in Workplace Authority: National versus Local Labor Markets". Sociological Forum. 19.1 (2004): 121–147. Print.
Lamsa, Anna-Maija, and Teppo Sintonen. "A Discursive Approach to Understanding Women Leaders in Working Life". Journal of Business Ethics. 34.3/4 (2001): 255–267. Print.
Liben, Lynn S., Rebecca Bigler, Diane N Ruble, Carol Lynn Martin, and Kimberly K. Powlishta. "Conceptualizing, Measuring, and Evaluating Constructs and Pathways". Developmental Course of Gender Differentiation. 67.2 i-183. Print.
Sones, Michael. "History of the Beauty Pageant". Beauty Worlds: The Culture of Beauty (2003): n. pag. Web. 4 November 2009.
Wilk, Richard. "The Local and the Global in the Political Economy of Beauty: From Miss Belize to Miss World". Review of International Political Economy. 2.1 (1995): 117–134. Print.
Xem thêm
Cuộc thi sắc đẹp
Trò áo thun ướt
Bikini
Áo tắm
Quần lót
Chứng phô dâm
Thị dâm
Tôn sùng bộ phận
Tôn sùng bộ ngực
Tôn sùng mông
Áo tắm
Cuộc thi sắc đẹp |
Adam Harry Webster (sinh ngày 4 tháng 1 năm 1995) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Brighton & Hove Albion tại .
Danh hiệu
Cá nhân
Cầu thủ xuất sắc nhất năm Bristol City F.C.: 2018–19
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá National League (bóng đá Anh)
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Brighton & Hove Albion F.C.
Cầu thủ bóng đá Bristol City F.C.
Cầu thủ bóng đá Ipswich Town F.C.
Cầu thủ bóng đá Aldershot Town F.C.
Cầu thủ bóng đá Portsmouth F.C.
Hậu vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1995 |
Solomon Benjamin March (sinh ngày 20 tháng 7 năm 1994) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Brighton & Hove Albion tại .
Danh hiệu
Brighton & Hove Albion
Á quân EFL Championship: 2016–17
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ tại trang web Brighton & Hove Albion FC
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Brighton & Hove Albion F.C.
Cầu thủ bóng đá Lewes F.C.
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Anh
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1994 |
Pascal Gross (, đôi khi được gọi là Gross; sinh ngày 15 tháng 6 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đức hiện thi đấu cho câu lạc bộ Brighton & Hove Albion tại và đội tuyển quốc gia Đức.
Danh hiệu
FC Ingolstadt 04
2. Bundesliga: 2014–15
Cá nhân
Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Brighton & Hove Albion: 2017–18
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ bóng đá nam Đức ở nước ngoài
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Đức
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Đức
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá 2. Bundesliga
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ bóng đá Brighton & Hove Albion F.C.
Cầu thủ bóng đá Karlsruher SC
Cầu thủ bóng đá TSG 1899 Hoffenheim
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Đức
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1991 |
Jason Sean Steele (sinh ngày 18 tháng 8 năm 1990) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Brighton & Hove Albion tại .
Danh hiệu
U-19 Anh
Á quân Giải vô địch bóng đá U-19 châu Âu: 2009
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ bóng đá Thế vận hội Mùa hè 2012
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Brighton & Hove Albion F.C.
Cầu thủ bóng đá Sunderland A.F.C.
Cầu thủ bóng đá Blackburn Rovers F.C.
Cầu thủ bóng đá Northampton Town F.C.
Cầu thủ bóng đá Middlesbrough F.C.
Thủ môn bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Anh
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1990 |
Người Mỹ gốc Albania (, ) là người Mỹ có một phần hoặc toàn bộ di sản và tổ tiên từ người Albania sống ở Hoa Kỳ. Họ có nguồn gốc từ các vùng lãnh thổ có dân số Albania lớn ở Balkan bao gồm những vùng lãnh thổ Albania, Ý, Kosovo, Bắc Macedonia và Montenegro. Họ là tín đồ của các tôn giáo khác nhau và chủ yếu theo Hồi giáo và Kitô giáo, một số khác không tôn giáo.
Năm 2012, có 203.600 công dân Mỹ gốc Albania sống ở Hoa Kỳ, chủ yếu ở vùng Đông Bắc và Vùng Ngũ Đại Hồ. Năm 1990, có 47.710 người Albania. Con số này bao gồm tất cả những công dân Hoa Kỳ tuyên bố có tổ tiên là người Albania, bao gồm những người được sinh ra trong nước và công dân nhập tịch, và bao gồm cả những người có hai quốc tịch liên kết với cả hai nền văn hóa. Theo dữ liệu từ cuộc khảo sát của chính phủ Hoa Kỳ vào năm 2008, có 201.118 người Mỹ gốc Albania.
Người gốc Albania thường tập trung ở Vùng Đại Boston, Vùng Đại Cleveland, Ohio; Metro Detroit, Michigan; Jacksonville, Florida; các khu vực như Thành phố New York và Waterbury, Connecticut.
Lịch sử
Người Albania đầu tiên di cư sang Hoa Kỳ được ghi nhận là Kolë Kristofori (), người đã đến Boston vào đầu những năm 1880 và được nhớ đến là người tiên phong của dân tộc Albania tại Hoa Kỳ. Mãi đến những năm 1900, một số lượng lớn người Albania mới đến định cư ở Bờ Đông Hoa Kỳ: hầu hết trong số họ là cư dân trẻ đến từ miền nam Albania.
Phần lớn làn sóng di cư đầu tiên này, khoảng 10.000 người, không có ý định định cư lâu dài ở Hoa Kỳ và sẽ quay trở lại Albania sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong khi đó, một nhóm người di cư khác từ Albania đến Hoa Kỳ. Nhóm mới này kết hôn và định cư ở đất nước mới này. Số người nói tiếng Albani như tiếng mẹ đẻ vào năm 1920 khoảng 6.000 người.
Ngoài New York, Connecticut, Florida và Michigan có phần lớn dân số gốc Albania sinh sống, một nhóm người Albania khá lớn định cư ở Quận San Diego, California, với khoảng 1.000 người, bộ phận khác sống ở Santee, hoặc ở khu vực Quận Đông San Diego. Ngoài ra còn có hàng trăm người Mỹ gốc Albania ở Thung lũng Sacramento, đặc biệt là vùng ngoại ô Carmichael. Pasadena, Los Angeles, cũng có hàng trăm người Albania. Một cộng đồng người Albania khác sinh sống ở bang Washington, tập trung tại đảo Mercer và trong vùng Seattle.
Vùng Dallas, Texas cũng có cộng đồng người Albania; một nhà hàng Balkan/Albania là trung tâm văn hóa của họ ở Lewisville, và một nghìn đến hai nghìn người Albania cư trú tại khu vực Dallas.
Jacksonville có nhiều người Mỹ gốc Albania nhất ở Florida với 3.812 người Albania, chiếm gần 1/4 tổng số người Mỹ gốc Albania ở Florida và 1,76% tổng số người Mỹ gốc Albania.
Hậu Chiến tranh thế giới thứ hai
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai người Albania di cư sang Hoa Kỳ hầu hết là những người di cư chính trị, và đến năm 1970, con số này đã tăng lên khoảng 17.000 người.
Nối tiếp theo sau cuộc Trục xuất người Cham Albania khỏi Hy Lạp, từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai nhiều người Albania đã di cư sang Hoa Kỳ, khẳng định rằng chính quyền Cộng sản ở Albania đã phân biệt đối xử và đàn áp họ. Họ đã cố gắng duy trì việc truyền bá hệ thống và ngôn ngữ của mình, và thành lập Hiệp hội Nhân quyền Chameria vào năm 1973, sau này sáp nhập và trở thành Tổ chức Người Mỹ gốc Albania Chameria nhằm bảo vệ quyền lợi của họ..
Tính cả những gia đình đã từ bỏ tiếng mẹ đẻ, ước tính có khoảng 70.000 công dân Mỹ gốc Albania sống ở Mỹ vào năm 1980.
Vào những năm 1990, nhiều người Albania từ Albania, Montenegro, Serbia và Cộng hòa Bắc Macedonia đã di cư đến Hoa Kỳ với tư cách là người tị nạn chiến tranh. Một cộng đồng người Mỹ gốc Albania khác (người Mỹ gốc Kosovo) ở khu vực Riverside/San Bernardino ở California bao gồm những người Kosovo đã nhập cư vào Hoa Kỳ tại Căn cứ Không quân dự bị chung March ở Riverside.
Người Mỹ gốc Arbëreshë
Một số người Albania đầu tiên đến Hoa Kỳ là những người nhập cư từ Ý, xuất thân từ một nhóm người Albania được gọi là người Arbëreshë. Người Arbëreshë là một nhóm người Albania chạy trốn đến Vương quốc Napoli và đến Vương quốc Sicilia vào thế kỷ 15 để tránh sự xâm lược của Đế quốc Ottoman.
Nhóm người Albania này có thể được phân biệt với những người Mỹ gốc Albania khác do tên Ý hóa của họ, cũng như tôn giáo Công giáo Hy Lạp Albania của họ. Tuy nhiên, Arbëreshë có ý thức nhận dạng mạnh mẽ và độc đáo ở chỗ họ nói một phương ngữ cổ của tiếng Albania Tosk được gọi là tiếng Arbëresh, không có bất kỳ ảnh hưởng nào của Ottoman.
Vùng Đại New Orleans có cộng đồng người Arbëreshë lớn, hầu hết là hậu duệ của những người nhập cư Sicilia thế kỷ 19. Thông thường, ở đâu có người Ý thì ở đó có một ít người Arbëreshë trộn lẫn với họ. Do đó, người Mỹ gốc Arbëreshë thường không thể phân biệt được với người Mỹ gốc Ý do đã hòa nhập vào cộng đồng người Mỹ gốc Ý.
Dân số
Nhân khẩu học
10 thành phố hàng đầu ở Hoa Kỳ có nhiều người Mỹ gốc Albania đông nhất.
Người Albania có xu hướng sống ở vùng Thượng Nam, Trung Tây và Đông Bắc. Một tỷ lệ đáng kể người Mỹ gốc Albania sống ở Bắc Carolina, Kentucky, Michigan và khu vực New York. Ngoài ra còn có một số vùng đất của người Albania ở California.
Theo Khảo sát Cộng đồng Hoa Kỳ (ACS) năm 2012, số người Albania ở Hoa Kỳ đã tăng lên 214.300. Dân số người Albania ở Mỹ tập trung đông đúc ở một số nơi. Với hơn 60.000 người Mỹ gốc Albania, cộng đồng lớn nhất sống ở New York, nơi chiếm ưu thế như một trung tâm của cộng đồng người Albania. Có một cộng đồng người Albania khá lớn xung quanh Bronx, đặc biệt là xung quanh Belmont và Bedford Park cũng như các khu vực của hạt Westchester như Yonkers. Khoảng 43.400 người sống ở Michigan, khoảng 21.300 người sống ở Massachusetts, khoảng 20.000 người sống ở Ohio (ở Vùng Đại Cleveland, đặc biệt là Lakewood và Bờ Tây của Cleveland), 15.300 người sống ở Illinois và khoảng 12.000 người sống ở Connecticut. Ba cộng đồng lớn nhất (New York, Michigan và Massachusetts) chiếm 58% tổng dân số người Mỹ gốc Albania.
Người Mỹ gốc Albania trung bình trẻ hơn những người Mỹ không phải gốc Albania, có độ tuổi trung bình là 33,5 so với mức trung bình toàn quốc của Mỹ là 37,7. Người Mỹ gốc Albania cũng có tỷ lệ nam giới cao hơn người Mỹ không phải gốc Albania với 52,1% cộng đồng là nam giới so với mức trung bình toàn quốc của Mỹ là 49,2%.
Theo Điều tra dân số năm 2000, Fairview, Bắc Carolina có tỷ lệ người nói rằng họ có tổ tiên là người Albania cao nhất, tiếp theo là Hamtramck, Michigan ở mức 2,8%.
Dân số người sinh ra ở Albania
Dân số người sinh ra ở Albania ở Hoa Kỳ kể từ năm 2010: (không bao gồm người Albania sinh ra ở Kosovo, Bắc Macedonia, Montenegro)
Nhân vật nổi tiếng
Những nhân vật nổi bật:
Xem thêm
Người Mỹ gốc Âu
Người Albania hải ngoại
Quan hệ Hoa Kỳ-Albania
Tham khảo
Đọc thêm
Federal Writers' Project, Works Project Administration (WPA) of Massachusetts. The Albanian Struggle in the Old World and New (1939).
Fischer, Bernd J. “Albanian Refugees Seeking Political Asylum in the United States: Process and Problems.” Journal of Ethnic and Migration Studies 31#1 (2005): 193–208.
Jurgens, Jane. "Albanian Americans." in Gale Encyclopedia of Multicultural America, edited by Thomas Riggs, (3rd ed., vol. 1, Gale, 2014), pp. 61–73. Online
Ragaru, Nadège, and Amilda Dymi. “The Albanian-American Community in the United States: A Diaspora Coming to Visibility.” Canadian Review of Studies in Nationalism 31, nos. 1–2 (2004): 45–63.
Thernstrom, Stephan; Orlov, Ann; Handlin, Oscar, eds. Harvard Encyclopedia of American Ethnic Groups, Harvard University Press, , pp 23–28 Online free to borrow
Trix, Frances. The Albanians in Michigan: A Proud People from Southeast Europe (Michigan State University Press, 2001).
Trang web
Người Mỹ gốc Albania
Xã hội người Mỹ gốc Âu
Người Albania hải ngoại theo quốc gia
Nhóm sắc tộc ở Hoa Kỳ |
Julio César Enciso Espínola (sinh ngày 23 tháng 1 năm 2004) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Paraguay thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Brighton & Hove Albion tại và đội tuyển quốc gia Paraguay.
Danh hiệu
Club Libertad
Primera División: 2021 Apertura, 2022 Apertura
Copa Paraguay: 2019
Cá nhân
Bàn thắng đẹp nhất mùa giải của BBC: 2022–23
Bàn thắng đẹp nhất mùa giải Premier League: 2022–23
Bàn thắng đẹp nhất mùa giải của Brighton & Hove Albion: 2022–23
Tham khảo
Liên kết ngoài
Julio Enciso tại Soccerway
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Paraguay
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá Brighton & Hove Albion F.C.
Tiền đạo bóng đá nam
Nhân vật còn sống
Sinh năm 2004
Cầu thủ bóng đá nam Paraguay |
Thợ săn nói dối (tên gốc tiếng Hàn: 소용없어 거짓말, còn được biết đến với tên tiếng Anh: My Lovely Liar) là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc năm 2023 do Nam Sung-woo đạo diễn, với sự tham gia diễn xuất của Kim So-hyun và Hwang Min-hyun. Bộ phim được phát sóng trên tvN từ ngày 31 tháng 7 đến ngày 19 tháng 9 năm 2023, thứ Hai và thứ Ba hàng tuần lúc 20:50 với 16 tập..
Nội dung
Bộ phim kể về câu chuyện của Mok Sol-hee – một người không thể tin tưởng người khác vì khả năng nhận biết thấy lời nói dối.
Diễn viên
Chính
Kim So-hyun vai Mok Sol-hee: một người đã từ bỏ hạnh phúc đời thường khi còn trẻ vì khả năng nhận ra những lời nói dối khi cô ấy nghe chúng trực tiếp.
Hwang Min-hyun vai Kim Do-ha / Kim Seung-joo: một nhà soạn nhạc và nhà sản xuất nổi tiếng ở Hàn Quốc với nghệ danh "Kim Doha". Anh ấy đã đổi tên và lẩn trốn vì một sự cố trong quá khứ.
Seo Ji-hoon trong vai Lee Kang-min: người yêu cũ của Sol-he, một cảnh sát được chẩn đoán mắc bệnh ung thư dạ dày ngay trước khi nói lời cầu hôn với Mok Sol-hee, người mà anh ấy đã yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên.
Lee Si-woo vai Sha On/Sa Ji On: một ca sĩ solo hàng đầu và là em gái quốc dân.
Phụ
J Entertainment
Yoon Ji-on vai Cho Deuk-chan: Giám đốc điều hành của J Entertainment, người biết danh tính của Do-ha.
Nam Hyun-woo trong vai Cho Jae-chan: Em trai của Deuk-chan, giám đốc kế hoạch của J Entertainment.
Song Jin-woo trong vai Park Moo-jin: đạo diễn và nhà soạn nhạc của J Entertainment và là đối thủ của Do-ha.
Baek Seung-do vai Ethan: giọng ca chính của Atlantis.
Những người xung quanh Sol-hee
Ha Jong-woo vai Baek Chi-hoon: Vệ sĩ của Sol-hee.
Park Kyung-hye vai Cassandra / Yoon Ye-seul: một ảo thuật gia tarot và nhân viên pha cà phê.
Jin Kyung vai Cha Hyang-suk: mẹ của Sol-hee's .
Ahn Nae-sang vai Mok Tae-seop: bố của Sol-hee's .
Mọi người xung quanh Do-ha
Seo Jeong-yeon vai Jung Yeon-mi: Mẹ của Do-ha là thành viên Quốc hội.
Kwon Dong-ho vai Choi Eom-ho: Anh trai của Um-ji .
Seo Hyun-chul vai Jang Joong-gyu: chủ sở hữu và là tay trống của Oasis Live Jazz Bar .
Cư dân ở Yonso-dong
Cho Jin-se vai So Bo-ro: chủ tiệm bánh Yonso.
Kim Won-hun vai Oh O-baek: chủ quán Boo Boo, một quán bia thủ công trong một con hẻm.
Eom Ji-yoon vai Hwang Cho-rok: chủ quán Chorok Salad.
Seo Jae-woo vai Lee Young-jae: nhân viên bán thời gian tại một chi nhánh ở Seoul.
Nhân vật khác
Baek Min-hyun vai Oh Ki-ja: một thành viên kỳ cựu của câu lạc bộ cố gắng tiết lộ khuôn mặt của Do-ha.
Song Ji-hyun vai Choi Eom-ji: bạn gái cũ của Do-ha.
Khách mời
Kim Sun-young vai Choi Ji-hye
Han Ji-eun
Sản xuất
Phim được chỉ đạo bởi đạo diễn Nam Sung-woo, người từng chỉ đạo các tác phẩm khác như Thực tập sinh cổ hủ (2020) và Bạn cùng phòng của tôi là Gumiho (2021). Vào ngày 21 tháng 9 năm 2022, có thông tin cho rằng Hwang Min-hyun và Kim So-hyun đang đàm phán về vai nam và nữ chính trong bộ phim Thợ săn nói dối, and was later confirmed for the role in November. Quá trình quay phim bắt đầu vào tháng 2 năm 2023.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Chương trình truyền hình tiếng Triều Tiên
Phim truyền hình Hàn Quốc ra mắt năm 2023
Phim truyền hình Hàn Quốc kết thúc năm 2023
Phim truyền hình tvN (Hàn Quốc) |
là một nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô thuộc về công ti Funstar Promotion và là nữ diễn viên độc quyền của SOD Create.
Sự nghiệp
Hoạt động trong ngành giải trí của cô bắt đầu khi cô nhận giải Grand Prix tại "Buổi thử việc Cinderella kỉ niệm 25 năm Magic Mirror". Trước khi phim ra mắt ngành của cô được phát hành, ảnh khỏa thân của cô đã được đăng tải lần đầu trên tạp chí FLASH của Kōbunsha số ngày 22/3/2022.
Tháng 4/2022 cô ra mắt ngành phim khiêu dâm (dưới tên "Shiori" (しおり) mà cô đã sử dụng từ khi nhận giải). Về lí do quyết định vào ngành, cô đã nói rằng "Tôi đang làm việc tại một công ti làm đẹp và có mong muốn tiết kiệm tiền để mở cửa hàng của riêng mình".
Vào tháng 5, cô đã đổi tên thành Kamiki Rei. Cô thích các tên có 2 âm tiết, vì thế cô đã tự nghĩ ra tên Rei (麗/れい). Phần họ được đặt bởi nhà sản xuất phụ trách hãng SOD. Khi ghép lại, tên cô giống như một câu chơi chữ "Kami kirei" (髪きれい) nghĩa là mái tóc đẹp".
Vào tháng 9, cô đã xếp thứ 1 trong hạng mục Tân binh trong thông cáo hàng tháng của FANZA "Diễn viên khiêu dâm này thật tuyệt! Mùa hè 2022".
23/4/2023, để kỉ niệm 1 năm ra mắt ngành, một buổi chụp ảnh của cô đã được tổ chức tại một khách sạn tình yêu, mô phỏng lại cảnh phim Magic Mirror.
Vào ngày 19/5, SOD Star thành lập nhóm "4star X sister" gồm 4 nữ diễn viên ra mắt ngành vào năm 2022 (Kamiki Rei, Koibuchi Momona, Kominato Yotsuha, Hoshino Riko). Nhóm đã lập kênh YouTube vào cùng ngày.
Trong tuần ngày 31/7, phim của cô "【Nhắc đến mùa hè là nhắc đến áo tắm! Lễ hội Bikini tập thể SODstar】 THE Lễ hội Bikini dành cho phụ nữ Hai người bạn thân nhất với cơ thể tuyệt hảo nhận được creampie đôi tuyệt vời! Kamiki Rei Koibuchi Momona" (【夏といえば水着!SODstar全員ビキニ祭】THE ビキニ女子会 グラマスボディの仲良しツートップが豪華W中出し! 神木麗 恋渕ももな) đã xếp thứ nhất trên bảng xếp hạng sàn bán hàng qua bưu điện của FANZA.
Đời tư
Cô có bạn trai đầu tiên vào năm hai trung học.。Cô nhớ lại rằng khi họ đang quan hệ khỏa thân tại nhà anh ấy, mẹ của anh ấy đã chạy vội vào cửa và nói "Mẹ đã mua taiyaki rồi đây~" trong khi anh ấy đang liếm âm hộ cô. Sau đó, mẹ anh ấy đã trở nên cực kì giận dữ.
Cô đã quan hệ tình dục với 5 người trước khi vào ngành.
Trước khi ra mắt ngành, cô đã biết mình bị thừa cân với bộ ngực lớn.
Nền tảng thể thao của cô là chạy điền kinh và nhảy cao khi học cấp hai.
Tham khảo
Liên kết ngoài
神木麗 (Kamiki Rei) SODstar
Sinh năm 1999
Nhân vật còn sống
Nữ diễn viên phim khiêu dâm Nhật Bản |
Briceni là một thành phố nằm ở phía Bắc Moldova. Tính đến ngày 12 tháng 5 năm 2014, dân số ước tính thành phố là 7.314 người và mật độ dân số là 730 người/km². Tổng diện tích thành phố là 10 km².
Địa lý
Khí hậu
Tham khảo |
Sir Maurice Henry Dorman (7 tháng 8 năm 1912 – 26 tháng 10 năm 1993) là đại diện Vương quyền tại Vương quốc Thịnh vượng chung đương thời gồm Tanganyika, Trinidad và Tobago, Sierra Leone và Malta.
Dorman sinh năm 1912, là trưởng nam của John Ehrenfried Dorman và Madeleine Louise Bostock. Hai bên nội ngoại đều là các gia tộc công nghiệp lớn ở thị trấn Stafford. Bà Bostock là thẩm phán tiểu hình và là một trong những nữ nha sĩ đầu tiên.
Dorman theo học tại Trường Sedbergh và Cao đẳng Magdalene, Cambridge. Ông phục vụ tại Sierra Leone năm 1956-1962 và được phong tước hiệp sĩ năm 1957. Khi Sierra Leone độc lập ngày 27 tháng 4 năm 1961 đến ngày 27 tháng 4 năm 1962, Dorman giữ chức Toàn quyền Sierra Leone. Năm 1962-1964, ông là Thống đốc Thuộc địa Malta. Từ tháng 9 năm 1964 đến tháng 7 năm 1971, Dorman là Toàn quyền Malta cho đến khi được Anthony Mamo thay thế. Năm 1971–1972, ông là phó chủ tịch Ủy ban Pearce.
Dorman là Deputy Lieutenant hạt Wiltshire và là Hiệp sĩ Đại Thập tự Huân chương Công trạng Malta. Năm 1969-1992, ông từng là thành viên hội đồng quản trị Trường Monkton Combe.
Xem thêm
Danh sách nguyên thủ quốc gia Sierra Leone
Tham khảo
Liên kết ngoài
Danh sách đại diện của Anh tại Sierra Leone
|-
|-
Chính khách Tanzania
Mất năm 1993
Sinh năm 1912 |
Biểu tượng Cộng sản đã bị một số quốc gia trên thế giới cấm, một phần hoặc toàn bộ. Là một phần của quá trình Giải trừ cộng sản rộng hơn, những lệnh cấm này hầu hết được đề xuất hoặc thực hiện ở các quốc gia thuộc Khối phía Đông trong Chiến tranh Lạnh, bao gồm một số Các quốc gia hậu Xô viết. Ở một số quốc gia, lệnh cấm còn mở rộng để cấm truyền bá Chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thức, với các hình phạt khác nhau được áp dụng cho những người vi phạm. Mặc dù các lệnh cấm do các quốc gia này áp đặt trên danh nghĩa nhắm vào hệ tư tưởng cộng sản, chúng có thể đi kèm với tình cảm chống cánh tả phổ biến và do đó lệnh cấm trên thực tế đối với tất cả các triết lý cánh tả, chẳng hạn như Chủ nghĩa xã hội, trong khi không thông qua luật cấm họ một cách rõ ràng.
Lệnh cấm chung
Indonesia
"Chủ nghĩa Cộng sản / Chủ nghĩa Mác-Lênin" (thuật ngữ chính thức) đã bị cấm ở Indonesia sau hậu quả của âm mưu đảo chính 30 tháng 9 và vụ chính quyền Indonesia đàn áp những người cộng sản, bằng cách thông qua TAP MPRS số. 25/1966 tại Phiên họp chung của MPRS năm 1966và Undang Undang không. 27/1999 năm 1999 (các bản ghi nhớ giải thích tương ứng trong đó giải thích rằng "[Chủ nghĩa Cộng sản / chủ nghĩa Mác-Lênin bao gồm] những nền tảng và chiến thuật đấu tranh được dạy bởi... Stalin, Mao Trạch Đông, Et cetera..."), vẫn còn hiệu lực. Luật pháp không tuyên bố rõ ràng lệnh cấm các biểu tượng của chủ nghĩa cộng sản, nhưng cảnh sát Indonesia thường xuyên sử dụng luật để bắt giữ những người trưng bày chúng. Một số người vi phạm là những người không biết gì về các biểu tượng của chủ nghĩa cộng sản, trong những trường hợp đó chính quyền thường trả tự do cho họ chỉ với hình phạt nhẹ hoặc phạt tiền nhỏ. Việc trưng bày những biểu tượng như vậy nhằm mục đích tuyên truyền lý tưởng "Cộng sản / Chủ nghĩa Mác-Lênin" bị coi là tội phản quốc và có thể bị phạt tù lên tới 20 năm.
Các biểu tượng Xã hội chủ nghĩa và cánh tả, mặc dù không bị luật pháp chính thức cấm (vì bản thân chủ nghĩa xã hội dân chủ vẫn được chấp nhận ở trong nước) vẫn bị chính phủ Indonesia lên án rộng rãi và bị coi là có hành vi chặt chẽ. liên quan đến chủ nghĩa cộng sản. Những biểu tượng như vậy bao gồm Sao đỏ, cờ đỏ, Huy hiệu học xã hội chủ nghĩa và các bài quốc ca hoặc khẩu hiệu như Quốc tế ca và " Vô sản toàn thế giới, đoàn kết lại!". Mặc dù vậy, Quốc tế ca vẫn được sử dụng trong Ngày Quốc tế Lao động.
Ngoài ra, kể từ khi Chế độ Trật tự Mới lên nắm quyền vào năm 1967, búa liềm đã bị kỳ thị cao trong nước, tương tự như kỳ thị xung quanh biểu tượng của Đức Quốc xã ở thế giới phương Tây và Húc Nhật Kỳ ở Hàn Quốc. Do đó, việc trưng bày biểu tượng ở nơi công cộng, ngay cả khi không có bất kỳ mục đích chính trị nào, vẫn bị coi là rất xúc phạm, đặc biệt là đối với Người theo đạo Hồi và Hồi giáo chính trị.
Vào tháng 4 năm 2017, cảnh sát Indonesia đã bắt giữ một khách du lịch Malaysia tại một khách sạn ở Mataram vì mặc áo phông có hình biểu tượng búa liềm. Khách du lịch không biết rằng các biểu tượng cộng sản bị cấm ở Indonesia. Cảnh sát đã thu giữ chiếc áo phông và thả du khách sau khi cảnh cáo anh ta. Vào tháng 5 năm 2018, một khách du lịch Nga cũng bị cảnh sát giam giữ ở Bali vì trưng bày Biểu ngữ chiến thắng của Liên Xô, trong đó cũng có biểu tượng.
Ukraina
Vào tháng 4 năm 2015, Verkhovna Rada đã thông qua luật cấm các biểu tượng cộng sản và Đức Quốc xã, sau Cách mạng Nhân phẩm và bắt đầu xung đột với Nga trong năm 2014. Trước đó, vào năm 2012, thành phố Lviv ở Tây Ukraina đã cấm trưng bày công khai các biểu tượng cộng sản. Vào ngày 17 tháng 12 năm 2015, tất cả các đảng cộng sản chính thức bị cấm ở Ukraine. Hát hoặc chơi bài quốc ca trước đây của Liên Xô, bất kỳ bài quốc ca nào trước đây của các nước cộng hòa thuộc Liên Xô, hoặc Quốc tế ca đều bị phạt tù lên tới 5 năm. Vào tháng 7 năm 2019, Tòa án Hiến pháp đã giữ nguyên luật, coi chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa Quốc xã.
Cấm một số biểu tượng nhất định
Gruzia
Tại Gruzia việc sử dụng các biểu tượng thời Xô Viết trên các tòa nhà chính phủ đều bị cấm, cũng như việc trưng bày chúng ở không gian công cộng, mặc dù luật này hiếm khi được chính quyền thực thi. Lệnh cấm các biểu tượng cộng sản lần đầu tiên được đề xuất vào năm 2010, but it failed to define the applicable sanctions. Năm 2014, đã có đề xuất sửa đổi lệnh cấm để đưa ra các thông số rõ ràng hơn.
Đức
Cờ của Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức) đã bị đặt ngoài vòng pháp luật vì là biểu tượng vi hiến và tội phạm ở Tây Đức và Tây Berlin, nơi nó tồn tại được gọi là (cờ ly khai) cho đến cuối những năm 1960, khi lệnh cấm được dỡ bỏ. Cờ và biểu tượng của Đảng Cộng sản Đức (KPD) không còn tồn tại vẫn bị cấm ở quốc gia này theo phần 86a của bộ luật hình sự Đức, trong khi búa liềm được coi là biểu tượng phổ quát và được sử dụng hợp pháp bởi Đảng Cộng sản Đức (DKP) đương thời cũng như nhiều tổ chức và phương tiện truyền thông khác.
Latvia
Ở Latvia, nhận thức về Liên Xô rất tiêu cực do Liên Xô chiếm đóng các quốc gia vùng Baltic. Vào tháng 6 năm 2013, quốc hội Latvia đã thông qua lệnh cấm trưng bày các biểu tượng của Liên Xô và Đức Quốc xã tại tất cả các sự kiện công cộng. Lệnh cấm liên quan đến cờ, quốc ca, đồng phục và búa liềm của Liên Xô.
Lituania
Lithuania, tương tự như Latvia, đã cấm các biểu tượng của Liên Xô và Đức Quốc xã vào năm 2008 (Điều 18818 của Bộ luật Vi phạm Hành chính) với lý do đe dọa phạt tiền. Các hoạt động sưu tầm, buôn bán đồ cổ và giáo dục được miễn lệnh cấm. Điều 5 của Luật Hội họp nghiêm cấm các cuộc họp có hình ảnh của Đức Quốc xã và Liên Xô.
Hàn Quốc
Tương tự như lệnh cấm của Tây Đức đối với quốc kỳ Đông Đức, Quốc kỳ của Bắc Triều Tiên và cờ của Đảng Lao động Triều Tiên bị cấm ở Hàn Quốc vì vi hiến biểu tượng mặc dù vẫn tồn tại một số ngoại lệ.
Lệnh cấm không còn hiệu lực
Hungary
Hungary có luật (Điều 269/B Bộ luật Hình sự (2000)) cấm sử dụng các biểu tượng của chế độ độc tài phát xít và cộng sản. Cùng năm đó, Tòa án Hiến pháp đã giữ nguyên luật khi nó bị phản đối, tuyên bố rằng việc hạn chế liên quan đến quyền tự do ngôn luận là chính đáng. Vào tháng 7 năm 2008, Tòa án Nhân quyền Châu Âu đã xem xét đơn kiện Attila Vajnai, người bị buộc tội nhẹ vì sử dụng Sao đỏ và tuyên bố luật pháp Hungary vi phạm quyền tự do ngôn luận. Tòa án đã công nhận những vi phạm trắng trợn của chế độ Đức Quốc xã và cộng sản; tuy nhiên, nó lưu ý rằng Hungary hiện đại là một nền dân chủ ổn định với khả năng xảy ra chế độ độc tài là không đáng kể, do đó, những hạn chế đối với quyền tự do ngôn luận không có lý do chính đáng ở quốc gia này dưới hình thức "nhu cầu xã hội rõ ràng, cấp bách và cụ thể". Eventually the law was annulled in 2013 by the Constitutional Court, citing the lack of precise definition and the European Court of Human Rights. Vào tháng 3 năm 2017, Thủ tướng Viktor Orbán đã đưa ra dự thảo luật cấm hàng hóa có "biểu tượng toàn trị", bao gồm các biểu tượng như hình chữ vạn của Đức Quốc xã hoặc ngôi sao đỏ năm cánh của cộng sản. Điều này bao gồm ngôi sao đỏ trên logo của công ty sản xuất bia Hà Lan Heineken, công ty tuyên bố không có nguồn gốc cộng sản hoặc hàm ý chính trị và công ty sẽ bảo vệ giống như tất cả các nhãn hiệu khác.
Moldova
Năm 2009, lệnh cấm như vậy đã được đề xuất tại Moldova bởi nghị sĩ Oleg Serebrian, và luật này có hiệu lực vào năm 2012. Tòa án Hiến pháp Moldova nhận thấy đạo luật này vi hiến và hủy bỏ nó vào năm 2013.
Ba Lan
Năm 2009, Ba Lan đã sửa đổi Điều 256 trong hiến pháp của mình, cấm trưng bày "các biểu tượng phát xít, cộng sản [và] các biểu tượng toàn trị khác" trừ khi chúng được sử dụng "như một phần của hoạt động nghệ thuật, giáo dục, sưu tập hoặc học thuật." Vào ngày 19 tháng 7 năm 2011, Tòa án Hiến pháp Ba Lan nhận thấy việc sửa đổi có phần vi hiến vì nó hạn chế quyền tự do ngôn luận. Vào tháng 6 năm 2017, Ba Lan đã cập nhật luật "Phi cộng sản hóa" để bao gồm các tượng đài tuyên truyền của Liên Xô, gây ra phản ứng tiêu cực từ chính phủ Nga. Trong khi việc "quảng bá tư tưởng cộng sản" vẫn là bất hợp pháp ở Ba Lan, việc trưng bày các biểu tượng cộng sản không còn bị cấm rõ ràng nữa.
Đài Loan
Chính phủ Kuomintang ở Đài Loan đã đặt Lá cờ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào vòng pháp luật vào năm 1952, theo Các điều khoản tạm thời chống lại cuộc nổi dậy của Cộng sản trong hiến pháp của đất nước. Các điều khoản tạm thời đã bị bãi bỏ vào năm 1991, nhưng lệnh cấm chung đối với hệ tư tưởng và biểu tượng cộng sản trong Luật An ninh Quốc gia của Trung Hoa Dân Quốc, ban hành năm 1976, thì không bãi bỏ cho đến năm 2011.
Vào cuối năm 2020, một nhà lập pháp của Đảng Dân chủ Tiến bộ đã đề xuất sửa đổi Luật An ninh Quốc gia nhằm cấm trưng bày công khai lá cờ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tuy nhiên,, không có đạo luật nào như vậy được thông qua.
Hoa Kỳ
Ở Mỹ thì lần đầu thì một số biểu tượng liên quan đến Lenin sau Cách mạng Tháng Mười ngay lập tức chỉ bị cấm hoặc hạn chế kể từ tháng 12 năm 1917 tại Washington, tuy nhiên trong Nỗi sợ hãi đỏ năm 1919–20 ở Hoa Kỳ, nhiều tiểu bang đã thông qua luật cấm hiển thị Cờ đỏ, bao gồm Minnesota, Nam Dakota, Oklahoma, và California. Trong Vụ Stromberg kiện California 1931, Tòa án tối cao Hoa Kỳ cho rằng những luật như vậy là vi hiến.
Đề xuất luật chống cộng
Albania
Viện Tội phạm Cộng sản (ICC) của Albania đề xuất lệnh cấm phim thời cộng sản, gây ra phản ứng thù địch từ công chúng.
Brasil
Vào năm 2016, Eduardo Bolsonaro, phó liên bang của São Paulo và là con trai của phó tổng thống tương lai Jair Bolsonaro, đã đề xuất một dự luật hình sự hóa việc thúc đẩy chủ nghĩa cộng sản. Dự thảo đề xuất rằng những người phạm tội sẽ bị phạt tù từ hai đến năm năm và phạt tiền nếu họ sản xuất, thương mại hóa, phân phối hoặc truyền tải các biểu tượng hoặc tuyên truyền sử dụng búa liềm hoặc bất kỳ phương tiện phổ biến nào khác có lợi cho chủ nghĩa cộng sản. , dự luật được đưa vào Ủy ban Hiến pháp và Tư pháp của Hạ viện Brazil.
Bulgaria
Tại Bulgaria, các nhà lập pháp đã bỏ phiếu trong lần đọc đầu tiên một dự luật được đề xuất vào ngày 24 tháng 11 năm 2016 nhằm quy định việc trưng bày công khai các biểu tượng cộng sản là bất hợp pháp. Đạo luật, được gọi là "Bản chất tội phạm của chế độ Cộng sản", yêu cầu các biển hiệu và đồ vật được tạo ra dưới thời chế độ cộng sản nhằm tôn vinh đảng cộng sản cũ và các nhà lãnh đạo của đảng này phải bị dỡ bỏ khỏi những nơi công cộng. Tuy nhiên, đề xuất này chưa bao giờ được xem xét lần thứ hai, chưa bao giờ được ký bởi Tổng thống Bulgaria cũng như không được công bố trên State Gazette của Bulgaria và do đó không bao giờ trở thành luật. Cả phiên họp quốc hội và cuộc triệu tập trong đó luật được đề xuất sau đó đều kết thúc, do đó khiến đề xuất này trở nên vô hiệu.
Croatia
Tính đến năm 2017, việc sử dụng các biểu tượng phát xít và cộng sản đang được xem xét ở Croatia. Một trong những cuộc thảo luận tập trung vào việc cấm Sao đỏbiểu tượng của Đảng phái Nam Tư, những người đã lãnh đạo cuộc kháng chiến Chống phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ haicũng như cờ của CHLBXHCN Nam Tư và biểu tượng của Quân đội Nhân dân Nam Tư.
Séc
Năm 1991, tại Tiệp Khắc bộ luật hình sự đã được sửa đổi với w § 260 cấm tuyên truyền các phong trào hạn chế nhân quyền và tự do, viện dẫn chủ nghĩa Quốc xã và chủ nghĩa cộng sản. Sau đó, những đề cập cụ thể về những điều này đã bị xóa với lý do chúng thiếu định nghĩa pháp lý rõ ràng. Tuy nhiên, bản thân luật đã được công nhận là hợp hiến.Tuy nhiên, vào năm 2005, đã có một kiến nghị ở Séc cấm quảng bá chủ nghĩa cộng sản và vào năm 2007, đã có đề xuất sửa đổi luật để cấm các biểu tượng cộng sản. Cả hai lần thử đều thất bại.
Estonia
Vào đầu năm 2007, Riigikogu đang tiến hành một dự thảo luật sửa đổi Bộ luật Hình sự để quy định việc sử dụng công khai các biểu tượng của Liên Xô và Đức Quốc xã sẽ bị trừng phạt nếu sử dụng theo cách gây rối trật tự công cộng hoặc kích động hận thù. Dự luật không có hiệu lực vì nó chỉ được thông qua trong lần đọc đầu tiên ở Riigikogu.
Liên minh Châu Âu
Vào tháng 1 năm 2005, Vytautas Landsbergis, được ủng hộ bởi các Thành viên khác của Nghị viện Châu Âu, chẳng hạn như József Szájer từ Hungary, đã kêu gọi lệnh cấm các biểu tượng cộng sản ở EU, ngoài biểu tượng của Đức Quốc xã.
Vào tháng 2 năm 2005, Ủy ban châu Âu bác bỏ lời kêu gọi mở rộng lệnh cấm trên toàn châu Âu đối với các biểu tượng của Đức Quốc xã để bao gồm cả các biểu tượng cộng sản trên cơ sở rằng việc giải quyết vấn đề này trong các quy tắc nhằm chống lại sự phản đối là không phù hợp. phân biệt chủng tộc. Tuy nhiên, sự từ chối này không loại trừ các quốc gia thành viên riêng lẻ có luật riêng về mặt này.
Vào tháng 12 năm 2010, Ủy ban Châu Âu đã công bố một báo cáo có tựa đề "Ký ức về tội ác của các chế độ toàn trị ở Châu Âu" gửi tới Nghị viện Châu Âu và Hội đồng Liên minh châu Âu, trong đó đề cập đến việc cấm các biểu tượng cộng sản bởi một số Quốc gia Thành viên (Cộng hòa Séc, Ba Lan, Hungary và Litva) và kết luận rằng "Liên minh Châu Âu có vai trò, trong phạm vi quyền hạn của mình trong lĩnh vực này, để đóng góp vào các quá trình mà các Quốc gia Thành viên tham gia nhằm đối mặt với cho đến di sản của tội ác toàn trị".
Vào tháng 9 năm 2019, Nghị viện Châu Âu đã thông qua một kiến nghị chung về "Nghị quyết về tầm quan trọng của sự tưởng nhớ của Châu Âu đối với tương lai của Châu Âu" với 535 phiếu ủng hộ, 66 phiếu chống và 52 phiếu trắng. Cụ thể, tại điểm 17 và 18 của nghị quyết "bày tỏ mối quan ngại về việc tiếp tục sử dụng các biểu tượng thuộc hệ thống toàn trị trong phạm vi công cộng và cho mục đích thương mại", cũng như lưu ý "sự tồn tại liên tục của các di tích trong không gian công cộng ở một số Quốc gia Thành viên". và các đài tưởng niệm (công viên, quảng trường, đường phố, v.v.) tôn vinh các chế độ toàn trị, mở đường cho việc bóp méo sự thật lịch sử về hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ hai và cho việc truyền bá hệ thống chính trị toàn trị".
Romania
Luật 51/1991, (điều 3. h) về An ninh Quốc gia Romania coi những điều sau đây là mối đe dọa đối với an ninh quốc gia: "việc khởi xướng, tổ chức, thực hiện hoặc hỗ trợ dưới bất kỳ hình thức nào các hành động toàn trị hoặc cực đoan của một người cộng sản, phát xít, người bảo vệ sắt, hoặc bất kỳ nguồn gốc nào khác, của các hành động chủng tộc, bài Do Thái, chủ nghĩa xét lại, ly khai có thể gây nguy hiểm dưới bất kỳ hình thức nào cho sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Romania, cũng như xúi giục thực hiện các hành động có thể gây nguy hiểm trật tự nhà nước được quản lý bởi pháp luật”. Tuy nhiên, các biểu tượng không được đề cập cụ thể trong luật.
Tham khảo
Kiểm duyệt
Phi cộng sản hóa
Cộng sản
Chủ nghĩa chống cộng |
Victor Okoh Boniface (sinh ngày 23 tháng 12 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Nigeria, chơi ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Bundesliga Bayer Leverkusen và Đội tuyển bóng đá quốc gia Nigeria .
Chú thích |
Kouakou Odilon Dorgeless Kossounou (; sinh ngày 4 tháng 1 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Bờ Biển Ngà thi đấu ở vị trí hậu vệ cánh phải hoặc trung vệ cho câu lạc bộ Bundesliga Bayer Leverkusen và Đội tuyển bóng đá quốc gia Bờ Biển Ngà .
Tham khảo |
Fabio Miretti (sinh ngày 3 tháng 8 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý chơi ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Serie A Juventus và Đội tuyển bóng đá quốc gia Ý .
Miretti gia nhập đội trẻ của Auxilium Saluzzo vào năm 2007 và chuyển sang đội Cuneo vào năm sau. Năm 2011, Miretti được Juventus mua lại và anh đã thi đấu ở các cấp độ trẻ . Vào tháng 2 năm 2021, anh có trận ra mắt chuyên nghiệp với đội U23 , ở tuổi 17. Mùa giải tiếp theo, anh trở thành cầu thủ thường xuyên của U23 Juventus, đồng thời có trận ra mắt Serie A và UEFA Champions League với đội một và giúp đội U19 lọt vào danh sách Bán kết giải trẻ UEFA . Trong mùa giải 2022–23, anh được đôn lên đội một vĩnh viễn.
Miretti cũng đã đại diện cho Ý ở các cấp độ trẻ kể từ năm 2018. Anh đã ghi 9 bàn sau 40 lần ra sân ở các cấp độ của Ý.
Tham khảo |
Iyenoma Destiny Udogie (; sinh ngày 28 tháng 11 năm 2002) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý chơi ở vị trí hậu vệ trái cho câu lạc bộ Premier League Tottenham Hotspur và Đội tuyển bóng đá quốc gia Ý .
Tham khảo
Cầu thủ bóng đá Tottenham Hotspur F.C.
Cầu thủ bóng đá Ý ở nước ngoài
Nhân vật còn sống
Sinh năm 2002 |
Little Saigon là vùng bao bọc sắc tộc người Việt nằm trong khu phố Clarendon thuộc Arlington, Virginia, nơi phục vụ số lượng lớn người tị nạn di cư sau khi Sài Gòn thất thủ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Một trong nhiều Little Saigon ở Mỹ, khu phố này gần thủ đô Washington, D.C., trở thành trung tâm thương mại và hoạt động xã hội của người Mỹ gốc Việt và đạt đến đỉnh cao vào cuối thập niên 1970 đến đầu thập niên 1980. Việc mở ga Clarendon trên Tuyến Orange của Tàu điện ngầm Washington đã dẫn đến sự phát triển mới và giá thuê cao hơn; nhiều cơ sở kinh doanh đóng cửa hoặc chuyển đi, đặc biệt là đến Trung tâm Eden gần đó.
Làn sóng người Việt
Đến cuối chiến tranh Việt Nam vào thập niên 1970, số người nhập cư từ Việt Nam vào Hoa Kỳ tăng lên đáng kể. Trước năm 1975, chỉ có khoảng 15.000 người Việt nhập cư sinh sống ở Mỹ. Đến năm 1980, có khoảng 245.000 người Việt sống ở Mỹ, với khoảng 91% dân số đến trong 5 năm trước đó.
Những người nhập cư Việt Nam rời bỏ đất nước của mình theo hai làn sóng riêng biệt. Làn sóng nhập cư lớn đầu tiên xảy ra vào năm 1975 và bao gồm giới thượng lưu và cư dân có trình độ học vấn cao đã rời đi sau khi Sài Gòn thất thủ. Nhiều người lo sợ cho mạng sống của mình hoặc trốn thoát khỏi cảnh tù đày vì họ từng làm việc cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa hoặc ủng hộ chế độ cũ. Đối với những người Việt Nam sống qua chiến tranh và dưới sự kiểm soát của Cộng sản, nhiều ngân hàng không đáng tin cậy và lo sợ sự biến động của tiền giấy; việc giữ tiền dưới dạng vàng hoặc đồ trang sức là điều phổ biến.
Từ giữa những năm 1970 đến đầu những năm 1990, hầu hết người tị nạn rời khỏi Việt Nam bằng thuyền. Những người tị nạn này, thường được gọi là "thuyền nhân", nhìn chung có trình độ học vấn thấp hơn làn sóng người nhập cư trước đây có quan hệ với chính phủ Mỹ hoặc là giới thượng lưu Việt Nam. Ước tính có khoảng 800.000 người trốn khỏi Việt Nam bằng thuyền từ năm 1975 đến năm 1995 và theo Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn, có khoảng 200.000 đến 400.000 thuyền nhân chết trên biển.
Vùng đô thị Washington là một lựa chọn lý tưởng cho những di dân Việt Nam đến định cư vì nhiều lý do. Nhiều người Việt Nam nhập cư thuộc làn sóng đầu tiên có mối quan hệ với chính phủ hoặc đại sứ quán Mỹ. Bắc Virginia nổi lên như một địa điểm thích hợp trong khu vực để tái định cư vì nhiều lý do. Các quan chức Đại sứ quán hướng những người tị nạn về phía Bắc Virginia, và Arlington đề nghị sẵn sàng giúp đỡ các nhà tài trợ như Giáo hội Công giáo. Sau khi làn sóng người nhập cư đầu tiên định cư ở Arlington, các mối quan hệ gia đình và xã hội hiện có đã thiết lập mạng lưới cho những người nhập cư trong tương lai tham gia vào nhóm dân số này. Vào cuối chiến tranh Việt Nam, 15%, hay 3.000, dân số Việt Nam trên toàn quốc cư trú tại khu vực Washington, D.C., và nhiều người khác đã gia nhập theo. Những khu vực được người Việt định cư đông đúc nhất ở Bắc Virginia nằm dọc theo Đại lộ Wilson và Columbia Pike, kéo dài về phía tây tới Falls Church và Annandale.
Phát triển tại Clarendon
Cho đến giữa những năm 1900, Clarendon là khu mua sắm trung tâm thành phố hàng đầu của Quận Arlington và là vùng ngoại ô nhộn nhịp dành cho xe điện. Tuy nhiên, trong thập niên 1960 và 1970, sự cạnh tranh từ các trung tâm mua sắm trong khu vực và trung tâm mua sắm quy mô nhỏ đã khiến khu trung tâm thành phố Clarendon sa sút. Nhiều doanh nghiệp di dời, để lại những mặt tiền cửa hàng trống trơn. Kho tòa nhà lịch sử bị bỏ quên và đến giữa thập niên 1970, việc xây dựng ga tàu điện ngầm WMATA Clarendon bắt đầu phá bỏ đường phố và vỉa hè. Tình trạng này tạo điều kiện cho các hợp đồng thuê thương mại ngắn hạn, giá rẻ mà người tị nạn Việt Nam nắm bắt như một cơ hội để mở doanh nghiệp và hỗ trợ gia đình họ. Do việc xây dựng Tàu điện ngầm, giá thuê giảm xuống mức thấp từ 1,50 USD đến 5 USD một foot vuông ở một số tòa nhà, khiến khu vực này trở nên hấp dẫn về mặt kinh tế đối với những người mới nhập cư.
Cơ sở kinh doanh đầu tiên của người Việt là cửa hàng tạp hóa Saigon Market do cựu nhân viên Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ khai trương năm 1972, và cửa hàng tạp hóa thứ hai mang tên Vietnam Center do vợ người Việt của một nhân viên CIA mở. Chẳng bao lâu sau, nhiều người Việt bắt đầu mở cửa hàng và nhà hàng ở Clarendon, và khu vực này trở thành trung tâm của cộng đồng người Việt ở Bờ Đông. Các nhóm hỗ trợ dân tị nạn và nhà thờ tổ chức các chuyến đi đưa người nhập cư từ Alexandria và những nơi khác đến Clarendon để mua sắm.
Những cửa tiệm này mở bán các mặt hàng đặc sản cho cộng đồng người Việt. Điểm thu hút chính là mấy tiệm tạp hóa Việt Nam chuyên bày bán những nguyên liệu không có ở thị trường Mỹ. Little Saigon cung cấp nhiều loại hình và phong cách kinh doanh khác nhau. Một số doanh nghiệp đã phát triển bầu không khí của chợ trời vì thông thường nhiều doanh nghiệp hoạt động trong một tòa nhà. Cửa hàng My An Fabric có nhiều cơ sở kinh doanh trong cùng một tòa nhà, bao gồm phòng chơi bida và arcade game cũng như một quán cà phê nhỏ Priest. Các lễ hội và sự kiện được tổ chức quanh năm để kỷ niệm các ngày lễ, chẳng hạn như Tết Trung Thu hàng năm. Trong 19 năm, chủ nhà hàng thành công Nguyen Van Thoi đã tổ chức tiệc Tết hàng năm tại quán cà phê Nam Việt và Mỹ An cho các tù binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Kim Cook thành lập Hiệp hội Tái định cư Việt Nam tại Falls Church và Khúc Minh Thọ cho lập Hiệp hội Gia đình Tù nhân Chính trị Việt Nam.
Doanh nhân Việt gặp nhiều trở ngại khi cố gắng đạt được thành công ở Clarendon. Vì ngân hàng không cho họ vay nên giới doanh nhân gốc Việt đều phải vay tiền từ bạn bè và gia đình để bắt đầu kinh doanh, thường với lãi suất cao hơn lãi suất thương mại. Một số chủ doanh nghiệp gặp phải rào cản pháp lý vì họ không hiểu rõ các quy định và giấy phép kinh doanh nên đã bị phạt. Để huy động vốn, một số người nhập cư đã phải bán đi phần lớn vàng bạc và đồ trang sức của gia đình họ. Một hoạt động cho vay truyền thống của người Việt được gọi là "hoi" là một công cụ tài trợ phổ biến. Hoi gom tiền từ các doanh nhân trong cộng đồng và phân phối cho một thành viên của cộng đồng trong quy trình đấu thầu hàng tháng. Người cho vay trả giá cao nhất cho toàn bộ số tiền sẽ nhận được tiền.
Theo thời gian, cộng đồng doanh nghiệp người Mỹ gốc Việt ngày càng hoạt động hiệu quả. Ví dụ, Toa Do, người đã thăng tiến từ công việc đầu tiên ở Mỹ với tư cách là người đưa tin cho nhà phân tích hệ thống và sau đó là nhà tư vấn độc lập, đã trở thành người Việt Nam đầu tiên có ghế trong Phòng Thương mại Arlington. Hiệp hội Doanh nghiệp Bán lẻ Người Việt Nam Clarendon được Kham Dinh Do thành lập, vốn là chủ sở hữu cửa hàng trang sức Dat Hung, đã cố gắng tổ chức cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam và vận động thay mặt cho lợi ích của họ khi chính quyền Quận Arlington đang lên kế hoạch phát triển Clarendon.
Suy thoái
Khu phố này suy thoái vì nhiều lý do. Nhiều chủ sở hữu tòa nhà không chi tiền để bảo trì hoặc nâng cấp tòa nhà của họ vì họ đang chờ ga tàu điện ngầm mở cửa và các cơ hội kinh tế mới được hiện thực hóa thông qua việc tái phát triển Clarendon. Sự phát triển không tăng đáng kể ở Clarendon trong vài năm đầu tiên sau khi Tàu điện ngầm này mở cửa vào năm 1979. Có nhiều lô đất nhỏ do chủ sở hữu vắng mặt nắm giữ khiến các nhà phát triển gặp khó khăn trong việc mua những khu đất đủ lớn cho các dự án to lớn, mới mẻ như đã hình dung. Ngày 18 tháng 11 năm 1989, Hội đồng Quận Arlington nhất trí thông qua kế hoạch tái phát triển của Clarendon, trong đó hình dung ra các công trình thương mại cao tầng, các tòa nhà dân cư trung tầng, công viên và lối đi dành cho người đi bộ. Kế hoạch này cũng đề xuất các biện pháp khuyến khích xây dựng các tòa nhà thấp hơn mức quy hoạch cho phép và dành không gian thương mại quy mô nhỏ hơn cho các doanh nghiệp quy mô nhỏ hơn.
Cuối cùng, giá thuê bắt đầu tăng ở Clarendon (lên tới 25–30 USD một foot vuông ở một số tòa nhà thương mại), và người Việt Nam phải di dời khỏi Arlington. Người Việt định cư tại các căn hộ sân vườn ở Arlington đã di chuyển về phía tây, với nhiều người định cư xung quanh Seven Corners, cũng như Falls Church gần giao lộ giữa Đường Graham và Đại lộ Arlington. Cư dân người Mỹ gốc Việt đã phân tán khỏi Arlington cùng với các doanh nghiệp người Mỹ gốc Việt. Đến năm 1984, 60% người Mỹ gốc Việt sống trong phạm vi ba dặm quanh Seven Corners.
Dần dần, số lượng doanh nghiệp Việt ở Little Saigon dần thu hẹp lại. Năm 1989, Clarendon Alliance, một hiệp hội doanh nghiệp, lưu ý rằng trong số 76 doanh nghiệp ở Clarendon, có từ 30 đến 35 doanh nghiệp thuộc sở hữu của người châu Á và trong số đó, hầu hết là do người Việt Nam sở hữu. Các cơ sở này bao gồm từ chợ thực phẩm, đại lý bất động sản và bảo hiểm, công ty luật và kế toán, nhà hàng và nhà bán lẻ. Cùng năm đó, cửa hàng tạp hóa Mekong Center, cửa hàng bách hóa Pacific Oriental, nhà hàng Mỹ An 1 và tiệm sửa chữa Alpha Camera rời khỏi Tòa nhà Hartford mà về sau đã bị phá bỏ. Cửa hàng vải Mỹ An di dời khỏi tòa nhà trước khi bị phá bỏ do chủ sở hữu đã lường trước những thay đổi ở Clarendon với quy hoạch phát triển mật độ cao.
Hoạt động kinh doanh vẫn ổn định đối với các cơ sở còn tồn tại, mặc dù lượng khách hàng Việt Nam từng đông đảo đã giảm dần và giá trị của khu phố này đóng vai trò như một nơi gặp gỡ cộng đồng đã tiêu tan. Tác giả Alan Ehrenhalt chỉ ra rằng đối với Clarendon đang gặp khó khăn về kinh tế vào những năm 1960, "chính sự nhập cư đã khiến những tòa nhà cũ đó trở nên sống động... Những mặt tiền cửa hàng trống trơn đã đưa người Việt Nam vào và bắt đầu toàn bộ quá trình. Điều này có vẻ hơi mỉa mai rằng cách để thu hút những người da trắng mới đến giàu có hơn là tạo cơ sở cho những người nghèo hơn từ các quốc gia khác. Nhưng đó chính xác là những gì đã xảy ra ở Arlington".
Sự suy tàn của Little Saigon là điều dễ nhận thấy. Một lá thư gửi biên tập viên tờ Washington Post than thở về văn hóa kinh doanh nhỏ đang lụi tàn ở Clarendon. Người viết ghi nhận những đóng góp của người Việt Nam và sự đa dạng mà họ mang lại cho Arlington. Các nhà quy hoạch của quận giải thích rằng chính phủ đã thảo luận về những kế hoạch trong nhiều năm nhằm biến Clarendon thành một hành lang phức hợp, mật độ cao hơn, nơi có các dự án phát triển lớn hơn và không gian bán lẻ to hơn. Giới quy hoạch lưu ý đến sự thay đổi hiện tại và tính tất yếu của áp lực phát triển lên các doanh nghiệp nhỏ. Khách hàng lâu năm và chủ doanh nghiệp có nhiều ý kiến trái chiều về sự kết thúc của Little Saigon. Một số chủ doanh nghiệp bày tỏ sự bất bình và thất vọng vì bị đẩy ra ngoài. Các chủ doanh nghiệp khác có thể chuyển đến những trung tâm mua sắm có bãi đậu xe tốt hơn và tài sản được bảo đảm tốt hơn.
Những nỗ lực đã được thực hiện nhằm giữ lại cộng đồng doanh nghiệp sắc tộc nhỏ, mặc dù họ không nỗ lực cho đến sau sự suy tàn chủ yếu của Little Saigon. Năm 1993, Quận Arlington xuất bản cuốn hướng dẫn song ngữ (tiếng Anh và tiếng Việt) về khởi nghiệp tại Arlington, hướng tới các doanh nhân Việt Nam. Quận Arlington kể từ đó đã bắt đầu hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ liên tục thông qua Cơ quan Phát triển Kinh tế, đây là một khuyến nghị trong Kế hoạch Khu vực Clarendon năm 2006.
Khu phố Clarendon vào năm 2014 chủ yếu trở thành nơi kết hợp giữa bán lẻ, quán bar và nhà hàng, tăng cường sử dụng cho khu dân cư và văn phòng. Sự phát triển sau sự suy tàn của Little Saigon thường có diện tích lớn hơn, chẳng hạn như 3.000 feet vuông, thường không phù hợp với giới doanh nghiệp nhỏ, thuộc sở hữu độc lập. Tính đến năm 2014, nhà hàng Nam Việt là doanh nghiệp Việt Nam duy nhất còn sót lại từ cộng đồng Little Saigon ban đầu và Four Sisters là nhà hàng Việt Nam mở cửa kể từ khi Little Saigon suy tàn.
Trung tâm Eden
Năm 1984, trung tâm mua sắm Eden ở khu vực Seven Corners của Falls Church được khai trương, mang lại không gian bán lẻ giá cả phải chăng rộng 20.000 feet vuông cho khu vực. Năm 1997, Trung tâm Mua sắm Eden rộng 32.400 feet vuông cũng như tháp đồng hồ mang tính biểu tượng đã được bổ sung và vào thời điểm đó, đây là khu mua sắm lớn nhất của người Việt tại Mỹ. Trung tâm Eden trở thành trung tâm thương mại và hoạt động của người Việt. Năm 2007, triển lãm "Exit Saigon, Enter Little Saigon", một triển lãm du lịch của Trung tâm Người Mỹ gốc Á Thái Bình Dương Smithsonian được tạm thời đặt tại Trung tâm Eden để kể câu chuyện về trải nghiệm thích nghi và nhập cư của người Mỹ gốc Việt ở Mỹ. Trung tâm Eden hiện được coi là trung tâm dịch vụ và hàng hóa của người Việt ở Bắc Virginia cũng như toàn bộ Bờ Đông. Năm 2014, Trung tâm Eden có 120 cửa hàng và nhà hàng, hầu hết đều là của người Việt.
Công việc bảo tồn
Năm 2014, Thư viện Công cộng Quận Arlington, giới sử gia địa phương và sinh viên thạc sĩ từ Chương trình Quy hoạch và Vấn đề Đô thị của Virginia Tech (Vùng Thủ đô Quốc gia) đã hợp tác trong một dự án thu thập những câu chuyện của cộng đồng người Việt di cư đến, mua sắm tại hoặc sở hữu các cơ sở kinh doanh ở khu Clarendon của Arlington khi nơi này được gọi là "Little Saigon" vào cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980. Dưới sự chỉ đạo của Tiến sĩ Elizabeth Morton, một nhóm sinh viên đã tiến hành sử liệu truyền miệng và những người tham gia trao tặng các bức ảnh và sản phẩm truyền thông đa phương tiện, những bức ảnh này được lưu trữ tại Trung tâm Lịch sử Địa phương của Thư viện Quận Arlington. Nhiều thành viên cộng đồng người Mỹ gốc Việt đã tham gia vào dự án này để chia sẻ những kỷ niệm và ý kiến của họ về vùng bao bọc sắc tộc có ý nghĩa văn hóa này. Nhóm sinh viên đề nghị tạo ra một điểm mốc hoặc tượng đài lịch sử để tưởng nhớ Little Saigon và ghi nhận những đóng góp của người tị nạn Việt Nam đối với cộng đồng doanh nghiệp và di sản của Arlington.
Tham khảo
Little Saigon
Phố mua sắm tại Hoa Kỳ
Lịch sử người Mỹ gốc Việt
Đại học Bách khoa Virginia
Vùng bao bọc sắc tộc ở Hoa Kỳ
Khu phố quận Arlington, Virginia
Văn hóa người Mỹ gốc Á ở Virginia |
Little Saigon là một trong những khu phố người Việt lớn nhất ở Philadelphia tọa lạc tại Passyunk Square vùng Nam Philadelphia.
Tổng quan
Trung tâm cộng đồng người Việt đang phát triển nhanh chóng của khu đô thị Philadelphia tập trung ở giao lộ Đường số 8 và Đại lộ Washington ở Nam Philadelphia, với "một trong những cộng đồng người Việt lớn nhất ở bờ biển phía đông", và là một quận nơi "... bảng hiệu đèn neon thu hút người mua sắm vào các cửa hàng tạp hóa, nhà hàng và quán karaoke nằm cách xa đường phố trong các trung tâm thương mại quy mô nhỏ xây bằng bê tông thấp tầng. Người mua hàng đẩy những chiếc xe chở đầy bún, bánh đậu cùng các loại gia vị và nước sốt nhập khẩu đóng gói đến các bãi đậu xe kiểu ngoại ô phía sau khu phức hợp". Tác giả nói thêm rằng người Việt hiện nay (tính đến năm 2013) là cộng đồng sắc tộc lớn nhất ở khu vực Đại lộ Washington/Passyunk Square của thành phố và toàn bộ người Việt ở Philadelphia lớn hơn Thành phố New York.
Tây Nam Philadelphia và Đông Bắc Philadelphia cũng có các khu phố người Mỹ gốc Việt. Bắt chước Little Saigon là Baby Saigon, một khu phố nhỏ của người Việt nằm trong khu Whitman, Nam Philadelphia. Trong khi đó, cộng đồng người Việt đã mở rộng thêm về phía đông qua sông Delaware đến Camden, Cherry Hill, Woodlynne, và xa đến tận Thành phố Atlantic ở bang New Jersey lân cận.
Bối cảnh
Theo Ariel Diliberto, một học giả nhân chủng học của Đại học Temple, "... các trung tâm thương mại quy mô nhỏ là điển hình của cộng đồng doanh nghiệp người Việt trên khắp nước Mỹ." Diliberto chỉ ra rằng kiến trúc này"... là sự lý tưởng hóa doanh nghiệp Mỹ của những người miền Nam Việt Nam thất vọng dưới chủ nghĩa cộng sản và được lấy cảm hứng từ 'những tòa nhà cao tầng hình học đơn giản' được xây dựng tại các thị trấn và thành phố của Việt Nam trong chiến tranh Việt Nam". Không giống như những vùng bao bọc sắc tộc người Việt khác ở Mỹ, "... không có cổng vòm kiểu 'châu Á' lòe loẹt nào thu hút người qua đường khám phá, chỉ có một chuỗi các trung tâm mua sắm không được báo trước và một số cơ sở kinh doanh lân cận được tích hợp vào lãnh thổ nhập cư ngày càng phát triển của Italian Market và chợ vật liệu xây dựng dọc theo Đại lộ Washington".
Lịch sử
Bắt đầu từ thập niên 1990, các khu mua sắm của người Việt bắt đầu với Hoa Binh Plaza, tiếp theo là Wing Phat Plaza, cả hai đều bị thu hẹp vào năm 1998 với việc xây dựng New World Plaza và 1st Oriental Market. Theo Dilberto, người đã trích dẫn Pappas rằng nguồn gốc của Little Saigon bám sát các mô hình thường thấy ở "... Westminster (vùng ngoại ô của LA) và Falls Church (vùng ngoại ô của DC)."
Tham khảo
Little Saigon
Khu phố Philadelphia
Lịch sử người Mỹ gốc Việt
Vùng bao bọc sắc tộc ở Hoa Kỳ
Văn hóa người Mỹ gốc Á ở Pennsylvania |
Little Saigon, còn được biết đến qua tên gọi phổ biến Vietnamtown hay đơn giản là Viet-Town, là một khu phố ở Houston, Texas tập trung trên Đại lộ Bellaire phía tây Chinatown. Đây là một trong những cộng đồng người Việt lớn nhất ở Mỹ.
Nó nằm trong Khu Quản lý Quốc tế. Vì khu phố này tiếp giáp với Chinatown nên có quan niệm sai lầm rằng đây là sự tiếp nối của Chinatown. Thế nhưng Little Saigon là khu phố đặc biệt của riêng mình. Đoạn Đại lộ Bellaire được Thành phố Houston chính thức đặt tên là Đại lộ Sài Gòn và các con phố giao nhau cũng được đặt tên tiếng Việt. Tại Thành phố Houston vào năm 2016, đã có kế hoạch chính thức định danh khu vực này là quận riêng của mình. Tuy nhiên, việc này đã bị người dân trong khu vực Alief bác bỏ. Đài phát thanh AM của người Mỹ gốc Việt Radio Saigon Houston được truyền đi trong khu vực lân cận.
Lịch sử
Trước khi giới doanh nghiệp châu Á thành lập cửa hàng ở Tây Nam Houston, nhiều người trong số họ có trụ sở tại khu vực mà ngày nay gọi là East Downtown (EaDo). Khu vực này đã trải qua quá trình đô thị hóa vào đầu thập niên 1990 đến năm 2010, khiến những gì còn sót lại của giới doanh nghiệp châu Á bị lụi tàn. Kể từ thập niên 1990, các nhà phát triển châu Á bắt đầu định cư ở Tây Nam Houston, khu vực bị ảnh hưởng nặng nề bởi tình trạng dư thừa dầu mỏ trong suốt thập niên 1980. Giới doanh nghiệp gốc Việt đã thống trị khu vực dọc theo Đại lộ Bellaire phía tây Vành đai 8. Năm 2003, thiết kế của kiến trúc sư Nghiệp Nguyễn cho Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam đã nhận được tài trợ và sau đó ra mắt cư dân vào năm 2005. Đây từng là một trong những địa danh nổi bật nhất của Little Saigon.
Năm 2015, các thành viên hội đồng thành phố dưới sự lãnh đạo của Richard Nguyễn đã đặt tên đường xá Việt Nam trong khu phố này và bổ sung thêm biển báo tiếng Việt. Đoạn Đại lộ Bellaire giữa Vành đai 8 và Eldridge Parkway được định danh là Đại lộ Sài Gòn (Saigon Blvd). Ngoài ra, các con phố giao nhau và biển báo đường phố cũng được đặt tên tiếng Việt . Ngày nay, Little Saigon được biết đến với những lựa chọn ẩm thực chất lượng. Nhà hàng nổi tiếng Crawfish and Noodles đã xuất hiện trên nhiều chương trình của Travel Channel bao gồm Bizarre Foods America của Andrew Zimmern.
Kinh tế
Đại lộ Bellaire bị giới doanh nghiệp Việt Nam và biển hiệu đường phố tiếng Việt chi phối. Kể từ thập niên 1980, giới doanh nghiệp châu Á không ngừng phát triển ở vùng Tây Nam Houston. Từ thập niên 2000, khu vực này đã trở thành điểm đến hàng đầu trong ngành nhà hàng. Thành viên Hội đồng Thành phố Houston người Mỹ gốc Việt là Steve Lê đã nỗ lực quảng bá khu vực này và tăng cường du lịch. Các biển hiệu đường phố tiếng Việt trong khu phố đã được thêm vào một phần do nỗ lực phát triển ngành du lịch. Nhiều nhà hàng Việt Nam mang tính biểu tượng nhất của Houston nằm trong khu vực này như Crawfish and Noodles, Pho Binh và Lee's Sandwiches. Đài phát thanh Radio Saigon Houston của người Mỹ gốc Việt được truyền tại Saigon Plaza.
Tham khảo
Little Saigon
Khu phố Houston
Vùng bao bọc sắc tộc ở Texas |
Persimmon regiment () là thuật ngữ được sử dụng trong Nội chiến Hoa Kỳ nhằm mô tả một trung đoàn xuyên suốt lịch sử đã ngừng hành quân trong thời gian ngắn để tiêu thụ quả hồng, một loại trái cây phổ biến ở miền Nam nước Mỹ. Ba trung đoàn khác nhau trong quân đội Liên bang cũng có được biệt danh này.
Trung đoàn 73 Bộ binh Illinois mang biệt danh này vào năm 1862. Trong lúc hành quân từ Crab Orchard, Kentucky, khi trung đoàn vừa tiến đến Nashville, Tennessee, Nhiều binh lính trong đoàn quân này thực hiện hành động đầu tiên sau khi cắm trại qua đêm để tìm kiếm một lùm hồng và cướp lấy mang về, ngay cả trước khi pha cà phê hoặc dựng lều. Tập tục này cũng xảy ra xung quanh trận Mill Springs. Đại tá Bernard Laiboldt, sau khi chứng kiến hành động này xảy ra quá thường xuyên so với sở thích của mình, đã nói rằng với sở thích ăn hồng của người lính Illinois số 73 và niềm yêu thích đường ray của người lính Missouri số 2, ông có thể chiếm được thủ đô Richmond, Virginia của Liên minh miền Nam chỉ với hai trung đoàn đó, nếu một đống cây hồng và đường ray được tìm thấy trên quảng trường công cộng của Richmond.
Trung đoàn 35 Bộ binh Ohio có biệt danh này do 15 người lính trong số họ bị quân đội Liên minh miền Nam bắt giữ vào tháng 12 năm 1861 trong một trận giao tranh mà thay vì chiến đấu với quân miền Nam, người lính Ohio lại chọn đi tìm quả hồng.
Trung đoàn 100 Indiana có biệt danh này khi tham gia chiến dịch Vicksburg của Tướng Ulysses S. Grant. Vào ngày đầu tiên hành quân từ Memphis, Tennessee đến Vicksburg, Mississippi, trung đoàn đã coi thường vai trò hậu tập của mình và khi tìm thấy một vườn hồng chín, họ bỏ mất một thời gian dài để thu hoạch quả hồng và bị quân địch bắt giữ vì đi lạc. Sau vụ này, quân đội Liên minh miền Nam đã ngăn chặn thành công việc tiếp tế lương thực cho đoàn quân của Grant, khiến Trung đoàn 100 Indiana thường lấy quả hồng làm thực phẩm duy nhất của mình. Lúc đầu, biệt danh này được sử dụng mang tính "chế nhạo", nhưng sau khi Trung đoàn 100 Indiana thể hiện nhiều lòng dũng cảm trong chiến đấu, biệt danh này đã trở thành niềm tự hào rất lâu sau chiến tranh.
Chú thích
Tham khảo
Hồng (quả)
Nội chiến Hoa Kỳ
Biệt hiệu của quân nhân |
Trần Chánh Thành (9 tháng 7 năm 1917 – 3 tháng 5 năm 1975) là nhà ngoại giao và chính khách Việt Nam Cộng hòa, từng giữ chức Bộ trưởng tại Phủ Thủ tướng Quốc gia Việt Nam dưới thời Thủ tướng Ngô Đình Diệm từ năm 1954 cho đến năm 1955. Ông đóng vai trò quan trọng với tư cách là Tổng trưởng Bộ Thông tin, góp phần vào việc lật đổ Quốc trưởng Bảo Đại trong cuộc trưng cầu dân ý năm 1955. Sau khi thành lập Việt Nam Cộng hòa, ông vẫn tiếp tục phục vụ trong chính phủ đầu tiên của Tổng thống Ngô Đình Diệm trên cương vị là Bộ trưởng Bộ Thông tin và Tổng trưởng Bộ Ngoại giao dưới thời nội các Trần Văn Hương.
Trong lịch sử Việt Nam, hiếm có nhân vật chính trị nào được giao nhiệm vụ liên tiếp qua nhiều thời kỳ, trải qua nhiều chế độ có khi lập trường mâu thuẫn, đối nghịch nhau. Như trường hợp Trần Chánh Thành được giao phó những trọng trách dưới thời Pháp thuộc, thời Nhật đảo chính Pháp, thời toàn quốc kháng chiến chống Pháp trở lại Việt Nam, thời Quốc gia Việt Nam của Cựu hoàng Bảo Đại và thời Việt Nam Cộng hòa với hai giai đoạn Đệ Nhất Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm và Đệ Nhị Cộng hòa của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Thân thế và học vấn
Trần Chánh Thành chào đời tại Hà Nội, Bắc Kỳ, Liên bang Đông Dương, và lớn lên ở miền Trung Việt Nam tại Huế, con trai của quan Hồng lô Tự khanh Trần Đức, giữ nhiệm vụ Bí thư của Khâm sứ Pháp ở Trung Kỳ, đồng thời làm thông ngôn bên cạnh vua Khải Định. Do cha làm việc ở triều đình nên lúc đó ông theo học xong bậc Trung học ở Huế, sau đó trở ra Hà Nội nhập học Viện Đại học Đông Dương và tốt nghiệp Cử nhân Luật. Dưới thời Pháp thuộc, ông đã đỗ đầu kỳ thi ngạch Tri huyện Tư pháp cho toàn cõi Bắc và Trung Kỳ, rồi được bổ làm Chưởng lý các tòa án ở Trung Kỳ.
Sự nghiệp chính trị
Kháng chiến chống Pháp (1945–1952)
Tháng 4 năm 1945, chính phủ Trần Trọng Kim thân Nhật được thành lập ở Huế, ông được cử làm Chánh văn phòng Bộ Tư Pháp, dưới quyền Bộ trưởng Bộ Tư pháp Trịnh Đình Thảo. Tháng 8 năm 1945, sau Cách mạng tháng Tám, ông được Việt Minh mời ra Hà Nội giữ chức vụ Giám đốc Tư pháp Liên khu 3 và sau đó làm Giám đốc Kinh tế Liên khu 3. Tháng 12 năm 1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông đi theo hàng ngũ kháng chiến được gần 5 năm thì mới phát hiện bộ mặt thật của Việt Minh là cộng sản, nên ông cáo bệnh từ chức, trở về Nghệ An thuộc Liên khu 4, trú ngụ tại nhà ông Cao Xuân Vỹ để tìm cách ra vùng quốc gia. Vài tháng sau khi đến Hà Nội, ông vào Sài Gòn hành nghề luật sư trong văn phòng của Luật sư Trương Đình Dzu.
Quốc gia Việt Nam (1952–1955)
Tháng 10 năm 1952, Ngô Đình Nhu chủ trương tạp chí Xã Hội, ông và người em chú bác tên là Mạc Kinh trở thành cộng tác viên với tờ tạp chí này và từ đó ông có mối giao tình với ông Nhu. Mối giao tình này đánh dấu một khúc rẽ quan trọng trong cuộc đời chính trị của ông. Giữa năm 1954, Ngô Đình Diệm về nước nhậm chức Thủ tướng Chính phủ Quốc gia Việt Nam. Ông được Ngô Đình Diệm tin dùng và bổ nhiệm vào chức vụ Bộ trưởng tại Phủ Thủ tướng vào tháng 7 năm 1954. Tháng 5 năm 1955, ông trở thành thành Tổng trưởng Bộ Thông tin của Chính phủ Quốc gia Việt Nam do Thủ tướng Ngô Đình Diệm đứng đầu, Quốc trưởng Bảo Đại lãnh đạo.
Đệ Nhất Cộng hòa (1955–1963)
Từ khi làm Tổng trưởng Bộ Thông tin của chính phủ Quốc gia Việt Nam, sau đó chuyển thành Bộ trưởng Bộ Thông tin và Tâm lý chiến của chính phủ Việt Nam Cộng hòa, ông đã trở thành một khuôn mặt chính trị nổi bật dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa để phát động và thực hiện quốc sách "bài phong,đả thực, diệt cộng" ở miền Nam lúc này. Ông đứng đầu Bộ Thông tin và Thanh niên kiêm nhiệm chức vụ Chủ tịch Hội đồng Liên Bộ tố Cộng gồm các Bộ Thông tin, Tư pháp, Quốc phòng và Nội vụ. Ngoài chức vụ Bộ trưởng Bộ Thông tin và Thanh niên, ông còn là Dân biểu Quốc hội Lập hiến, thành viên Ủy ban soạn thảo Hiến Pháp khai sinh nền Đệ Nhất Cộng hòa; được giao quyền lãnh đạo Phong trào Cách mạng Quốc gia trên cương vị Chủ tịch Liên đoàn Công chức Cách mạng Quốc gia.
Hai anh em Diệm và Nhu còn giao cho ông nhiệm vụ sử dụng các phương tiện truyền thông hòng ngụy tạo tờ rơi tuyên truyền nhằm gầy dựng sự ủng hộ giúp lật đổ Quốc trưởng Bảo Đại trong cuộc trưng cầu dân ý năm 1955 và phản đối Cộng sản. Sau khi phế truất Bảo Đại, Diệm tuyên bố thành lập Việt Nam Cộng hòa vào ngày 26 tháng 10 năm 1955 và tự xưng là Tổng thống. Đích thân Tổng thống Diệm mời Trần Chánh Thành tiếp tục giữ chức Bộ trưởng Bộ Thông tin mà ông đảm đương cho đến tận năm 1962 thì đổi sang làm đại sứ tại Tunisie, Bắc Phi. Mặc dù ông được Tổng thống Diệm rất mực tin dùng song đâu đó vẫn có dư luận nghi kỵ rằng: "Ông Thành là cộng sản cao cấp mai phục trong chính quyền quốc gia".
Quân nhân cầm quyền (1963–1967)
Ngày 1 tháng 11 năm 1963, Tướng Dương Văn Minh phát động cuộc đảo chính lật đổ và sát hại Ngô Đình Diệm. Ngày 18 tháng 12 năm 1963, ông được Thủ tướng Chính phủ Lâm thời Nguyễn Ngọc Thơ giao nhiệm vụ cầm đầu phái đoàn đi sang Phnôm Pênh tiếp xúc thiện chí với Quốc vương Sihanouk của Campuchia. Trong những năm chính trường miền Nam rối ren khi quân đội lên cầm quyền, ông lui về sống ẩn dật, kiên quyết từ chối mọi lời mời tham chính từ phe quân nhân.
Đệ Nhị Cộng hòa (1967–1975)
Khi Hiến pháp ngày 1 tháng 4 năm 1967 được ban hành, nền Đệ Nhị Cộng hòa ra đời. Ngày 3 tháng 9 năm 1967, miền Nam Việt Nam tổ chức cuộc bầu cử Thượng nghị viện. Thượng nghị viện gồm 60 thượng nghị sĩ, bầu theo liên danh (mỗi liên danh gồm 10 người). Ông ra ứng cử trong Liên danh "Đoàn kết để Tiến bộ" với dấu hiệu Con Voi Trắng (Bạch Tượng) do Trần Văn Lắm làm Thụ ủy Liên danh. Liên danh Bạch Tượng đắc cử với 550.157 phiếu.
Sau Tết Mậu Thân năm 1968, Thủ tướng Trần Văn Hương thành lập chính phủ mới thay thế chính phủ của Luật sư Nguyễn Văn Lộc. Đây là giai đoạn hòa đàm Paris khởi sự, sắp bước sang giai đoạn công khai. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã mời ông giữ chức vụ Tổng trưởng Bộ Ngoại giao. Khi chính phủ Trần Thiện Khiêm trình diện nội các mới vào ngày 1 tháng 9 năm 1969 thì chức vụ Ngoại trưởng được chuyển sang cho Thượng nghị sĩ Trần Văn Lắm. Sau đó, ông quyết định rút lui khỏi chính trường trở về tham gia giảng dạy tại Khoa Luật Viện Đại học Sài Gòn và Trường École des Dessins cho đến khi Sài Gòn thất thủ.
Sài Gòn thất thủ và cái chết
Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông và gia đình được người Pháp hứa sẽ sơ tán thế nhưng việc sơ tán gặp thất bại vì tình hình đã quá muộn khi Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang tiến vào Sài Gòn. Khi Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa buông súng, ông vào bệnh viện Grall của Pháp lánh mặt. Ngày hôm sau, bệnh viện yêu cầu ông rời khỏi nơi này, ông được nhà báo Mạc Kinh đón về nhà trên đường Duy Tân cùng trút hết nỗi niềm tâm sự trước cả hai người khi chia tay. Kết quả là ba ngày sau, Mạc Kinh đến nơi ông cư trú thì được hung tin ông tự sát tại phòng riêng bằng cách uống thuốc ngủ quá liều.
Đời tư
Trần Chánh Thành đã kết hôn và có bốn người con.
Tác phẩm
Le Statut Politique des Hauts Plateaux, 1942
Les Juridictions mandarinales, 1943
Kỹ Thuật Thông Tin, 1957
Les Problemes de l'Information dans les pays sous-developpes, 1962
Mở Mang Quốc Gia Chậm Tiến
Xây Dựng Dân Chủ Trong Hoàn Cảnh Chiến Tranh Và Chậm Tiến
Các Mục Tiêu Đối Ngoại Căn Bản Của Việt Nam Cộng Hòa
Tham khảo
Sinh năm 1917
Mất năm 1975
Người Hà Nội
Người tự sát ở Việt Nam
Dân biểu Việt Nam Cộng hòa
Bộ trưởng Việt Nam Cộng hòa
Chính khách Việt Nam Cộng hòa
Thượng nghị sĩ Việt Nam Cộng hòa |
Trần Hữu Phương (ngày 24 tháng 12 năm 1916 – ?) là chính khách Việt Nam Cộng hòa, từng giữ chức Tổng trưởng Bộ Tài chánh Quốc gia Việt Nam và Bộ trưởng Bộ Tài chánh Việt Nam Cộng hòa Thống đốc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam và Nghị sĩ Thượng nghị viện Việt Nam Cộng hòa.
Tiểu sử
Trần Hữu Phương quê quán xã Phước Thạnh, tỉnh Tây Ninh, Liên bang Đông Dương, sinh ngày 24 tháng 12 năm 1916
(có thuyết nói ngày 12 tháng 12 năm 1916).
Khi Ngô Đình Diệm về nước chấp chính, ông được mời giữ chức Tổng trưởng Bộ Tài chánh Quốc gia Việt Nam và Bộ trưởng Bộ Tài chánh Việt Nam Cộng hòa (năm 1955, Việt Nam Cộng hòa thay thế Quốc gia Việt Nam, chức vụ Tổng trưởng đổi thành Bộ trưởng) từ năm 1954 cho đến năm 1956. Năm 1955, ông còn kiêm nhiệm chức Bộ trưởng Bộ Kinh tế Việt Nam Cộng hòa.
Từ năm 1956 cho đến năm 1960, ông được bổ nhiệm làm Thống đốc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam.
Dưới thời Đệ Nhị Cộng hòa, ông lên làm Chủ tịch Ủy ban Kinh tế Quốc hội Việt Nam Cộng hòa trong năm 1968–1969. Khoảng thời gian năm 1970–1971 và năm 1971–1972, ông là Chủ tịch Ủy ban Ngân sách, Tài chính và Thuế vụ Quốc hội Việt Nam Cộng hòa.
Ông từng là Nghị sĩ Thượng nghị viện nhiệm kỳ thứ nhất năm 1967–1970 và nhiệm kỳ thứ hai năm 1970–1975.
Từ sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, không rõ tung tích sau này của ông ra sao nữa.
Đời tư
Trần Hữu Phương là người Công giáo, ông kết hôn năm 1974 và có hai đứa con.
Tham khảo
Sinh năm 1916
Không rõ năm mất
Họ Trần
Người Tây Ninh
Bộ trưởng Tài chính
Tín hữu Công giáo Việt Nam
Bộ trưởng Việt Nam Cộng hòa
Chính khách Việt Nam Cộng hòa
Bộ Tài chánh Việt Nam Cộng hòa |
Trần Quốc Bửu (13 tháng 5 năm 1912 – 19 tháng 11 năm 1976) là chính khách Việt Nam Cộng hòa, nguyên Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao công Việt Nam và Phó Chủ tịch Tổng Công đoàn Công giáo Quốc tế, thời trẻ từng bị bắt bỏ tù vì tham gia hoạt động chống thực dân Pháp và phản đối chủ nghĩa cộng sản.
Tiểu sử
Trần Quốc Bửu sinh ngày 13 tháng 5 năm 1912 tại Tân Nghi, tỉnh Bình Định, miền Trung Việt Nam.
Dưới thời Pháp thuộc, ông bị thực dân Pháp đày ra Côn Sơn trong thập niên 1940 vì dám tranh đấu cho lý tưởng quốc gia và hoạt động công đoàn, tại đó ông từng ở chung phòng giam với Lê Duẩn, về sau là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam. Ít lâu sau, ông vượt ngục thành công và trở về đất liền nắm quyền chỉ huy toán Đặc công 25 nổi danh của mình trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Trung tướng Nguyễn Bình và đội an ninh chính trị hăm dọa tử hình Trần Quốc Bửu vì không ông chịu gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Do mâu thuẫn này mà ông quyết định bỏ trốn về Sài Gòn năm 1951 và qua Pháp theo học khóa công đoàn từ năm 1952 đến năm 1954 thuộc Tổng Liên đoàn Lao công Pháp (CFTC) có trụ sở tại đường Montholon, Paris. Học xong trở về nước, ông chính thức thành lập Tổng Liên đoàn Lao công Việt Nam (CTV), nơi tập trung 85% lao công Việt Nam.
Dưới thời Đệ Nhị Cộng hòa, ông liên kết với Nguyễn Bá Cẩn và Nghị sĩ Đặng Văn Sung để lập ra Đảng Công Nông Việt Nam vào năm 1969. Ông làm Chủ tịch Đảng, còn Nguyễn Bá Cẩn giữ chức vụ Tổng Bí thư Đảng Công Nông Việt Nam.
Tổ chức công đoàn của ông rất vững mạnh, uy tín và đức tính bình dân của ông trong giới cần lao đã giúp ông có nhiều sự nâng đỡ từ giới công đoàn Hoa Kỳ. Cả phía cộng sản cũng muốn chiêu dụ ông nhưng ông kiên quyết từ chối đứng về phía họ. Do đó cộng sản đã nhiều lần mưu sát ông nhưng không thành. Trước khi xảy ra biến cố 30 tháng 4 năm 1975, ông kịp thời di tản sang Pháp sống nốt phần đời còn lại.
Ông qua đời ngày 19 tháng 11 năm 1976 tại Paris, Pháp.
Tham khảo
Sinh năm 1912
Mất năm 1976
Họ Trần
Người Bình Định
Người chống cộng Việt Nam
Chính khách Việt Nam Cộng hòa
Nhà dân tộc chủ nghĩa Việt Nam |
Khoai tây kem () là món tráng miệng kem độc đáo giống như một củ khoai tây nướng. Món ăn không hề chứa khoai tây. Lou Aaron, chủ quán Westside Drive In ở Boise, Idaho, đã sáng tạo ra món ăn này. Nó có thể được tìm thấy ở đó quanh năm và có nhiều hội chợ cũng như sự kiện ngoài trời khác nhau theo mùa. Rất khó để mua được bên ngoài Idaho.
Món ăn này là sự thừa nhận tầm quan trọng của khoai tây trong văn hóa Idaho, vì nó cũng là loại rau của bang.
Người sáng tạo Lou Aaron được cho là đã dành 40 năm để hoàn thiện công thức nấu món này. Người ta ước tính Westside Drive In bán được hơn 1.000 cái mỗi tháng và 10.000 cái trong chín ngày tại Hội chợ Tây Idaho.
Kem vani được nặn thành hình củ khoai tây và phủ một lớp bột cacao để mô phỏng lớp vỏ màu nâu. Sau đó phủ thêm lớp kem tươi, sô-cô-la bào và xi-rô sô-cô-la lên trên khoai tây kem. Một số nhà cung cấp đưa ra các biến thể với lớp phủ màu vàng là "bơ" và lớp rắc màu xanh lá cây là "hẹ".
Nó cũng có thể được tìm thấy dưới dạng đóng gói sẵn ở các cửa hàng tiện lợi.
Westside Drive-In và món khoai tây kem của tiệm này từng được giới thiệu trong một tập tập trung vào Boise của chương trình Man v. Food chiếu trên kênh Travel Channel năm 2018.
Tham khảo
Kem lạnh
Idaho |
Khái niệm "Thương mại điện tử xanh"
Thương mại điện tử xanh (Green E-commerce) là một thuật ngữ được sử dụng để mô tả các hoạt động thương mại điện tử (e-commerce) có ảnh hưởng tích cực đối với môi trường và xã hội. Thuật ngữ này kết hợp giữa hai khái niệm chính: "thương mại điện tử" - việc mua bán hàng hóa và dịch vụ qua internet, và "xanh" - đề cập đến các phương pháp và hành động hướng tới bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên.
Thương mại điện tử xanh là một hình thức thương mại điện tử được thiết kế và triển khai với mục tiêu giảm thiểu tác động tiêu cực đối với môi trường và xã hội. Nó không chỉ tập trung vào việc tối ưu hóa quy trình kinh doanh và tăng cường lợi nhuận, mà còn chú trọng đến các yếu tố như bảo vệ môi trường, giảm lượng rác thải và khí thải, sử dụng nguồn năng lượng tái tạo, tối ưu hóa quá trình sản xuất và vận chuyển để giảm lượng khí nhà kính, thúc đẩy việc tái chế và sử dụng nguyên liệu tái chế. Đồng thời, họ cũng chú trọng đến việc nâng cao đối thoại với khách hàng và giáo dục họ về việc mua sắm có trách nhiệm và thiết thực, tăng cường trách nhiệm xã hội.
Các đặc điểm chính của Thương mại điện tử xanh
Sử Dụng Nguồn Năng Lượng Tái Tạo: Doanh nghiệp thương mại điện tử xanh thường chuyển sang sử dụng nguồn năng lượng tái tạo như điện mặt trời hoặc gió để giảm lượng khí thải từ các nguồn năng lượng truyền thống.
Tối Ưu Hóa Quy Trình Sản Xuất và Vận Chuyển: Các doanh nghiệp này tập trung vào việc giảm lượng chất thải và khí thải trong quy trình sản xuất và vận chuyển hàng hóa. Điều này có thể bao gồm việc sử dụng vật liệu thân thiện với môi trường và giảm thiểu hải quan.
Khuyến Khích Tái Chế và Tái Sử Dụng: Thương mại điện tử xanh thúc đẩy việc tái chế và tái sử dụng hàng hóa để giảm lượng rác thải và tác động tiêu cực đối với môi trường.
Xây Dựng Nhận Thức Cộng Đồng: Công ty thương mại điện tử xanh thường giáo dục khách hàng và cộng đồng về việc mua sắm có trách nhiệm, giúp họ hiểu rõ về lợi ích của việc hỗ trợ các doanh nghiệp xanh.
Lịch sử hình thành và xu hướng phát triển của "thương mại điện tử xanh"
Thương mại điện tử xanh không có một nguồn gốc chính xác hay thời điểm cụ thể. Thay vào đó, nó là một phần của sự tiến triển tự nhiên của ngành công nghiệp thương mại điện tử trong ngữ cảnh của sự tăng cường ý thức về môi trường và trách nhiệm xã hội. Cụ thể, các doanh nghiệp bắt đầu nhận thức được tác động tiêu cực của hoạt động kinh doanh đối với môi trường và xã hội và bắt đầu triển khai các chiến lược và hành động để giảm thiểu những tác động này.
Lịch sử hình thành của thương mại điện tử xanh
Thập kỷ 1990: Xuất hiện của thương mại điện tử: Thương mại điện tử chính thức xuất hiện vào thập kỷ 1990 với sự phát triển của internet và công nghệ truyền thông.
Thập kỷ 2000: Nhận thức về môi trường: Do tăng nhanh về tốc độ và quy mô của thương mại điện tử, các doanh nghiệp bắt đầu nhận ra tác động tiêu cực của họ đối với môi trường. Chiến lược xanh đầu tiên: Một số công ty lớn bắt đầu triển khai các chiến lược "xanh" đầu tiên, tập trung vào việc giảm lượng rác thải và sử dụng nguồn năng lượng tái tạo.
Thập kỷ 2010: Tăng cường trách nhiệm xã hội: Xu hướng tăng cường trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp bao gồm cả việc giảm tác động tiêu cực đối với môi trường. Sự chú ý đến việc xây dựng cộng đồng và bảo vệ môi trường ngày càng gia tăng. Sự đa dạng của sản phẩm xanh: Sự đa dạng của sản phẩm xanh trong lĩnh vực thương mại điện tử bắt đầu nổi bật. Các sản phẩm từ nguyên liệu tái chế và sản xuất bằng phương pháp thân thiện với môi trường được quảng cáo rộng rãi.
Hiện nay: Sử dụng nguồn năng lượng tái tạo: Các doanh nghiệp ngày nay thường sử dụng nguồn năng lượng tái tạo như điện mặt trời và gió để vận hành trang web và các hệ thống thương mại điện tử của họ. Tối ưu hóa quy trình sản xuất và vận chuyển: Công nghệ hiện đại giúp doanh nghiệp tối ưu hóa quy trình sản xuất và vận chuyển, giảm lượng chất thải và khí thải. Chứng nhận và đánh giá xanh: Xu hướng chứng nhận và đánh giá xanh của các trang web và các sản phẩm trên thị trường ngày càng trở nên quan trọng. Các công ty đang chú trọng vào việc đạt được các chuẩn chứng nhận môi trường và xã hội.
Xu hướng phát triển của thương mại điện tử xanh
Nguồn gốc đạo đức và xã hội: Người tiêu dùng ngày nay ngày càng chú trọng đến việc mua sắm từ các doanh nghiệp có trách nhiệm đạo đức và xã hội. Họ ủng hộ các doanh nghiệp xanh và thúc đẩy xu hướng thương mại điện tử xanh bằng cách mua sắm từ các trang web xanh.
Chính sách quốc gia và quốc tế: Chính phủ và tổ chức quốc tế đang đẩy mạnh việc thiết lập các chính sách hỗ trợ và khuyến khích thương mại điện tử xanh. Các ưu đãi và chính sách thuế động viên doanh nghiệp thực hiện các biện pháp xanh.
Innovative Technologies: Công nghệ như trí tuệ nhân tạo (AI) và Internet of Things (IoT) đang được tích hợp vào thương mại điện tử xanh, giúp tối ưu hóa quy trình và giảm thiểu lãng phí năng lượng và tài nguyên.
Tăng cường trách nhiệm đối tác cung ứng: Doanh nghiệp không chỉ tập trung vào việc tự mình giảm tác động môi trường, mà còn tăng cường trách nhiệm đối với các đối tác cung ứng của họ, khuyến khích họ thực hiện các biện pháp xanh.
Giáo dục và nhận thức: Giáo dục khách hàng và người làm kinh doanh về lợi ích của thương mại điện tử xanh đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển xu hướng này. Các chiến dịch quảng cáo và giáo dục đang giúp tăng nhận thức của người tiêu dùng.
Ưu điểm của thương mại điện tử xanh
Bảo vệ môi trường
Giảm lượng rác thải: Thương mại điện tử xanh giúp giảm lượng rác thải bằng cách khuyến khích tái chế, tái sử dụng và giảm lượng bao bì không cần thiết.
Sử dụng nguồn năng lượng tái tạo: Doanh nghiệp thương mại điện tử xanh thường chuyển sang sử dụng nguồn năng lượng tái tạo, giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính.
Tiết kiệm năng lượng và nguyên liệu
Quy trình sản xuất hiệu quả: Công nghệ hiện đại giúp tối ưu hóa quy trình sản xuất, giảm lãng phí nguyên liệu và năng lượng.
Giảm thất thoát năng lượng trong vận chuyển: Ưu tiên việc giảm thất thoát năng lượng trong quá trình vận chuyển hàng hóa.
Tăng nhận thức và giáo dục
Giáo dục khách hàng: Thương mại điện tử xanh giúp tăng cường nhận thức của khách hàng về việc mua sắm có trách nhiệm và ủng hộ các doanh nghiệp xanh.
Chứng nhận và đánh giá xanh: Các hệ thống chứng nhận và đánh giá xanh giúp tạo niềm tin và tin tưởng từ phía khách hàng.
Tạo ra cơ hội kinh doanh
Thị trường đang tăng: Ngày càng nhiều người tiêu dùng chú ý đến sản phẩm và dịch vụ xanh, tạo ra cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp thương mại điện tử xanh.
Thách thức của thương mại điện tử xanh
Chi phí đầu tư ban đầu: Cần đầu tư lớn ban đầu, vì chuyển đổi sang hệ thống thương mại điện tử xanh đôi khi đòi hỏi chi phí đầu tư lớn trong việc thay đổi cơ sở hạ tầng và quy trình kinh doanh.
Thách thức về công nghệ: Đòi hỏi công nghệ cao, sử dụng công nghệ xanh đòi hỏi kiến thức và tài nguyên công nghệ cao, điều này có thể là thách thức đối với các doanh nghiệp nhỏ.
Yêu cầu sự hợp tác từ tất cả đối tác: Chuỗi cung ứng phức tạp trong thương mại điện tử đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ từ tất cả các đối tác để đảm bảo các tiêu chuẩn xanh.
Giảm tác động tài chính đối với khách hàng: Giá cả có thể cao hơn, các sản phẩm và dịch vụ xanh có thể có giá cao hơn, điều này có thể làm giảm sự quan tâm từ phía khách hàng.
Các doanh nghiệp và tổ chức đã và đang thực hiện các hành động thương mại điện tử xanh
Có nhiều doanh nghiệp và tổ chức trên thế giới đã và đang thực hiện các hành động thương mại điện tử xanh. Dưới đây là một số ví dụ về các doanh nghiệp và tổ chức nổi tiếng đã thực hiện các hành động thương mại điện tử xanh:
Doanh nghiệp thương mại điện tử
Amazon: Amazon cam kết đạt carbon neutrality vào năm 2040 và sử dụng 100% năng lượng tái tạo cho các hoạt động của mình. Họ cũng hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ để thực hiện các hành động xanh.
Alibaba Group: Alibaba đã triển khai chương trình "Green Alliance" để tăng cường sự hợp tác giữa các nhà cung ứng và giảm lượng rác thải.
eBay: eBay đã triển khai các chương trình như "eBay for Charity" để khuyến khích bán hàng hóa tái chế và giảm lượng rác thải.
Etsy: Etsy chủ trương việc bán các sản phẩm thủ công và tái chế, giúp tăng cường nhận thức về việc mua sắm có trách nhiệm.
Patagonia: Một thương hiệu quần áo nổi tiếng, Patagonia chú trọng vào việc sử dụng vật liệu tái chế và hỗ trợ các dự án bảo vệ môi trường.
Tổ chức không chính lợi nhuận và quốc tế
Greenpeace: Greenpeace tập trung vào việc tạo ra ý thức về các vấn đề môi trường và giám sát các doanh nghiệp để đảm bảo họ tuân thủ các tiêu chuẩn xanh.
The World Wildlife Fund (WWF): WWF hợp tác với các doanh nghiệp để giảm khí thải, sử dụng nguồn năng lượng tái tạo và bảo vệ các loài động vật.
United Nations Global Compact: Một sáng kiến của Liên Hợp Quốc, United Nations Global Compact kêu gọi các doanh nghiệp tham gia vào các hoạt động xã hội và môi trường, bao gồm thương mại điện tử xanh.
The Ellen MacArthur Foundation: Tổ chức này chú trọng vào việc thúc đẩy việc sử dụng và tái chế nguyên liệu, giúp giảm lượng rác thải từ các doanh nghiệp.
Các hành động xanh không chỉ nằm ở việc giảm lượng rác thải và sử dụng nguồn năng lượng tái tạo mà còn bao gồm việc giáo dục và tăng cường nhận thức của người tiêu dùng. Các tổ chức và doanh nghiệp này đều đang làm việc để thúc đẩy sự ý thức xanh và tạo ra các sản phẩm và dịch vụ thương mại điện tử xanh hơn.
Chính sách và quy định hỗ trợ phát triển của thương mại điện tử xanh
Chính sách và quy định hỗ trợ phát triển của thương mại điện tử xanh đang ngày càng trở nên quan trọng để thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện các hành động xanh và giảm tác động tiêu cực đối với môi trường. Dưới đây là một số chính sách và quy định được áp dụng để hỗ trợ và khuyến khích thương mại điện tử xanh:
Chính sách thuế và ưu đãi tài chính
Thuế giảm gián đoạn: Một số quốc gia áp dụng các chính sách thuế giảm gián đoạn cho các doanh nghiệp thương mại điện tử xanh, giúp giảm chi phí cho việc sử dụng nguồn năng lượng tái tạo và kỹ thuật thân thiện với môi trường.
Ưu đãi thuế và hỗ trợ tài chính: Các chính phủ có thể cung cấp ưu đãi thuế và hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp thương mại điện tử xanh để giúp họ đầu tư vào công nghệ và quy trình xanh.
Chính sách năng lượng và môi trường
Hỗ trợ sử dụng năng lượng tái tạo: Chính phủ có thể cung cấp ưu đãi và khuyến khích sử dụng nguồn năng lượng tái tạo bằng cách giảm giá điện hoặc cung cấp các chính sách khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo cho doanh nghiệp thương mại điện tử xanh.
Quy định về khí thải và tiêu chuẩn môi trường: Các quy định và tiêu chuẩn môi trường nghiêm ngặt có thể thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện các biện pháp giảm khí thải và lợi ích môi trường.
Chính sách về tái chế và quản lý chất thải
Hỗ trợ tài chính cho tái chế: Chính phủ có thể cung cấp tài chính và hỗ trợ cho các doanh nghiệp thực hiện các chương trình tái chế và quản lý chất thải hiệu quả.
Ưu đãi thuế cho sản phẩm tái chế: Các sản phẩm được tái chế có thể được hưởng các ưu đãi thuế, khuyến khích việc sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm xanh.
Chính sách về giáo dục và nhận thức cộng đồng
Chính sách giáo dục người tiêu dùng: Chính phủ có thể tài trợ cho các chiến dịch giáo dục và quảng cáo để tăng cường nhận thức của người tiêu dùng về việc mua sắm có trách nhiệm và thương mại điện tử xanh.
Khuyến khích sự hợp tác cộng đồng: Các chính phủ và tổ chức có thể hỗ trợ các dự án cộng đồng thương mại điện tử xanh để kích thích sự hợp tác giữa các doanh nghiệp và cộng đồng địa phương.
Các chính sách và quy định này cần được thiết lập và thực hiện cùng nhau để tạo ra một môi trường kinh doanh hỗ trợ và khuyến khích thương mại điện tử xanh. |
Thế hệ im lặng hay Silent generation là thế hệ những người được sinh ra vào khoảng thời gian từ những năm 1928 đến 1945. Thế hệ im lặng còn có tên gọi khác là Thế hệ truyền thống nhất (Traditionalist generation) hoặc “Radio Babies”.
Thuật ngữ “silent generation” chủ yếu dành cho người Mỹ. Tuy nhiên, hậu quả của chiến tranh và suy thoái kinh tế hình thành nên tính cách chung của những người sinh ra vào thời điểm đó trên toàn thế giới.
Đây cũng là thế hệ phải chịu nhiều thiệt thòi và khó khăn do được sinh ra và trưởng thành trong thời kỳ bắt đầu của cuộc Đại suy thoái và sau khi chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt.
Nhìn vào các thế hệ qua dòng thời gian, thế hệ im lặng ra đời sau thế hệ vĩ đại nhất (greatest generation) và trước thế hệ Baby Boomers. Cùng thế hệ vĩ đại nhất, thế hệ im lặng sinh ra Baby Boomers. Quy mô của thế hệ này cũng nhỏ hơn so với các thế hệ khác do tỷ lệ sinh thấp. Nguyên nhân được cho là do điều kiện khó khăn, người ta không đủ chắc chắn để lập gia đình và nuôi dạy con cái.
Tên gọi
Thuật ngữ “Silent Generation” lần đầu tiên xuất hiện trên thời báo Time vào năm 1951. Viết về silent generation, tạp chí đã khẳng định rằng sự thật đáng chú ý nhất của thế hệ này chính là “sự im lặng” của họ.
Nguyên văn lời nhận xét trong Time về thế hệ im lặng: “By comparison with the Flaming Youth of their fathers and mothers, today’s younger generation, is a till, small flame.” (tạm dịch: So sánh với Tuổi Trẻ Rực Lửa của cha mẹ họ, thế hệ trẻ ngày nay vẫn chỉ là một ngọn lửa nhỏ.
Bối cảnh xã hội và cuộc sống khó khăn đã hình thành nên “sự im lặng” trong tính cách, ứng xử, và lối sống của thế hệ này.
Đặc điểm
Thế hệ im lặng được sinh ra và lớn lên trong điều kiện khó khăn nhất. Họ phải chịu ảnh hưởng nghiêm trọng từ bất ổn kinh tế và chính trị như cuộc Đại suy thoái, hay thậm chí là thiên tai (Dust Bowl – Cơn Bão Đen).
Nỗi thống khổ chồng chất khiến nhiều người thuộc silent generation dần dần trở nên thận trọng, dè chừng hơn đối với xã hội sau khủng hoảng. Họ cũng tận tâm hơn trong bất cứ việc gì họ làm.
Sau đây là 4 đặc điểm tính cách nổi bật của thế hệ im lặng.
Tiết kiệm
Chiến tranh và kinh tế bất ổn khiến nhiều ra đình thuộc thể hệ này rơi vào cảnh khốn khổ, túng thiếu. Cha mẹ thậm chí khó có thể đảm bảo cho con cái mình những bữa ăn đầy đủ. Sống trong tình cảnh như vậy, những đứa trẻ thuộc thể hệ im lặng nhận thức rằng chúng được dạy dỗ phải tiết kiệm.
Đề cao sự tôn kính
Khác với greatest generation (G.I), thế hệ im lặng hiếm khi nói về việc thay đổi hệ thống. Thay vào đó họ bận tâm nhiều hơn về làm việc trong hệ thống. Có thể nói đây là thế hệ ngại thay đổi.
Tuy nhiên điều đó còn thể hiện được xu hướng tôn kính quyền lực của silent generation. Họ thường gắn bó với một công việc hoặc một tổ chức rất lâu, thậm chí cống hiến cả đời.
Trung thành
Không chỉ đối với nghề nghiệp, thế hệ này còn vô cùng trung thành với đức tin tôn giáo, các mối quan hệ, và gia đình. Họ rất coi trọng sự ổn định. Chính vì vậy tính cách của những người thuộc thế hệ này cũng kiên định và đáng tin cậy.
Chú thích |
Người Mỹ gốc Faroe (, ) là người Mỹ gốc Faroe hoặc người gốc Quần đảo Faroe cư trú tại Hoa Kỳ. Quần đảo Faroe là một nhóm gồm mười tám hòn đảo nằm giữa Iceland và Na Uy, và chúng là một phần của Vương quốc Đan Mạch. Bởi vì nhiều người nhập cư được xác định là có quốc tịch Đan Mạch nên không biết có bao nhiêu người Mỹ gốc Faroe.
Xem thêm
Người Faroe
Người Canada gốc Faroe
Người Úc gốc Faroe
Người Mỹ gốc Âu
Tham khảo
Người Mỹ gốc Faroe
Người Faroe hải ngoại
Xã hội người Mỹ gốc Âu |
Chế độ Đốc chính hay Hội đồng Đốc chính () là ủy ban điều hành gồm 5 thành viên của Đệ Nhất Cộng hòa Pháp từ ngày 26 tháng 10 năm 1795 (ngày 4 tháng Sương mù, năm IV) cho đến ngày 10 tháng 11 năm 1799, khi nó bị lật đổ bởi Napoléon Bonaparte trong Cuộc Đảo chính ngày 18 tháng Sương mù và chế độ Đốc chính được thay thế bởi Chế độ Tổng tài. Hội đồng Đốc chính là tên của 4 năm cuối cùng của Cách mạng Pháp. Lịch sử chính thống cũng sử dụng thuật ngữ này để chỉ khoảng thời gian từ khi giải thể Quốc ước vào ngày 26 tháng 10 năm 1795 cho đến cuộc đảo chính của Napoléon.
Chế độ Đốc chính liên tục có chiến tranh với các liên minh nước ngoài, bao gồm Vương quốc Đại Anh, Quân chủ Habsburg, Vương quốc Phổ, Vương quốc Napoli, Đế quốc Nga và Đế quốc Ottoman. Nó sáp nhập Bỉ và tả ngạn sông Rhine, trong khi Napoleon Bonaparte chinh phục một phần lớn Bán đảo Ý. Đốc chính đã thành lập 29 nước cộng hòa chị em tồn tại trong thời gian ngắn ở Ý, Thụy Sĩ và Hà Lan. Các thành phố và nhà nước bị chinh phục được yêu cầu gửi cho Pháp số tiền khổng lồ cũng như các kho tàng nghệ thuật để lấp đầy Bảo tàng Louvre mới ở Paris. Một đội quân do tướng Napoleon chỉ huy đã cố gắng chinh phục Ai Cập và hành quân đến tận Saint-Jean-d'Acre ở Syria. Chế độ Đốc chính đã đánh bại sự trỗi dậy của Chiến tranh ở Vendée, cuộc nội chiến do phe bảo hoàng lãnh đạo ở vùng Vendée, nhưng đã thất bại trong nỗ lực hỗ trợ Cuộc nổi dậy của người Ireland năm 1798 và thành lập Cộng hòa Ireland.
Nền kinh tế Pháp liên tục gặp khủng hoảng trong thời kỳ Đốc chính. Lúc đầu, kho bạc trống rỗng; tiền giấy, assignat, đã giảm giá trị một phần và giá cả tăng vọt. Chính phủ Đốc chính đã ngừng in ấn định và khôi phục giá trị của đồng tiền, nhưng điều này gây ra một cuộc khủng hoảng mới; giá cả và tiền lương giảm, hoạt động kinh tế chậm lại và dừng lại.
Trong hai năm đầu tiên, Ban chỉ đạo tập trung vào việc chấm dứt sự thái quá của Triều đại Khủng bố Jacobin; các cuộc hành quyết hàng loạt chấm dứt và các biện pháp chống lại các linh mục và những người theo chủ nghĩa bảo hoàng bị lưu đày cũng được nới lỏng. Câu lạc bộ chính trị Jacobin bị đóng cửa vào ngày 12 tháng 11 năm 1794 và chính phủ đã dẹp tan một cuộc nổi dậy vũ trang do phái Jacobin và một nhà cách mạng xã hội chủ nghĩa đầu tiên lên kế hoạch, François-Noël Babeuf, được gọi là "Gracchus Babeuf". Nhưng sau khi phát hiện ra một âm mưu của phe bảo hoàng bao gồm một vị tướng nổi tiếng, Jean-Charles Pichegru, phái Jacobin đã phụ trách các Hội đồng mới và tăng cường các biện pháp chống lại Giáo hội và những người nhập cư. Họ chiếm thêm hai ghế trong Hội đồng Đốc chính, chia rẽ nó một cách vô vọng.
Năm 1799, sau nhiều lần thất bại, các chiến thắng của Pháp ở Hà Lan và Thụy Sĩ đã khôi phục lại vị thế quân sự của Pháp, nhưng Hội đồng Đốc chính đã mất hết sự ủng hộ của các phe phái chính trị, trong đó có một số Đốc chính của nó. Napoleon trở về từ Ai Cập vào tháng 10, và được Emmanuel Joseph Sieyès và những người khác mời thực hiện một cuộc đảo chính nghị viện vào ngày 9–10 tháng 11 năm 1799. Cuộc đảo chính đã bãi bỏ Chế độ Đốc chính và thay thế nó bằng Chế độ Tổng tài Pháp do Napoleon Bonaparte lãnh đạo với vai trò là Đệ Nhất Tổng tài.
Tham khảo
Thư mục
Church, Clive H., The Social Basis of the French Central Bureaucracy under the Directory 1795–1799, in Past & Present No. 36, April 1967, pp. 59–72 in JSTOR.
Goodwin, A., The French Executive Directory – A Revaluation, in History, 1937, 22.87 pp. 201–218
Gottschalk, Louis R., The Era of the French Revolution (1715–1815), Houghton Mifflin Company, 1929, pp. 280–306
Hunt, Lynn, David Lansky and Paul Hanson, The Failure of the Liberal Republic in France, 1795–1799: The Road to Brumaire, in Journal of Modern History (1979) 51#4, pp. 734–759 in JSTOR; statistical profile of the different factions
Jainchill, Andrew, The Constitution of the Year III and the Persistence of Classical Republicanism, in French Historical Studies, 2003, 26#3 pp, 399–435
Lefebvre, Georges, French Revolution from 1793–1799, Columbia University, 1964, pp. 171–211
Lyon, E. Wilson, The Directory and the United States, in American Historical Review, 1938, 43#3, pp. 514–532. in JSTOR
Palmer, Robert R, The Age of the Democratic Revolution: A Political History of Europe and America, 1760–1800, vol 2: The Struggle, 1964, pp. 211–262, 549–576.
Ross, Steven T, The Military Strategy of the Directory: The Campaigns of 1799, in French Historical Studies, 1967, 5#2 pp. 170–187 in JSTOR.
Sutherland, D.M.G., The French Revolution and Empire: The Quest for a Civic Order, 2nd ed. 2003, 430 pages, excerpts and text search pp. 263–301.
Nguồn sơ cấp
Stewart, John Hall, ed. A Documentary Survey of the French Revolution (1951), pp. 654–766
Chế độ đốc chính Pháp
Đệ nhất Cộng hòa Pháp
Chính phủ Pháp
Tập thể nguyên thủ quốc gia
Khởi đầu năm 1795 ở Pháp |
Faceless Love (; ) là một bộ phim truyền hình Thái Lan sắp phát sóng năm 2023 với sự tham gia của Jirawat Sutivanichsak (Dew), Supassara Thanachart (Kao) và Ishikawa Plowden (Luke). Bộ phim được chuyển thể từ bộ phim truyền hình Rich Man, Poor Woman (2012) của Nhật Bản.
Bộ phim được đạo diễn bởi Ekkasit Trakulkasemsuk và Pantip Vibultham và sản xuất bởi GMMTV cùng với Keng Kwang Kang Waisai. Đây là một trong 19 dự án phim truyền hình cho năm 2023 được GMMTV giới thiệu trong sự kiện "GMMTV 2023 Diversely Yours," vào ngày 22 tháng 11 năm 2022. Bộ phim sẽ được phát sóng vào thứ Tư và thứ Năm trên nền tảng trực tuyến Prime Video, bắt đầu từ ngày 8 tháng 11 năm 2023.
Diễn viên
Diễn viên chính
Jirawat Sutivanichsak (Dew) vai Veekit
Supassara Thanachart (Kao) vai Mirin
Ishikawa Plowden (Luke) vai Chanon
Diễn viên phụ
Phatchatorn Thanawat (Ployphach) vai Ewes
Wanwimol Jaenasavamethee (June) vai Thanya
Phanuroj Chalermkijporntavee (Pepper) vai Manit
Chayakorn Jutamas (JJ) vai Maew Kwak
Sarocha Watittapan (Tao) vai Soiphet
Kevlin Kotland (Aon) vai Neeraamphan
Narinthorn Na Bangchang (Aey) vai Noi
Sản xuất
Ban đầu, vai diễn Chanon sẽ do nam diễn viên Pachara Chirathivat (Peach) thủ vai theo thông báo tại buổi họp báo GMMTV 2023 Diversely Yours,. Tuy nhiên, vào ngày 14 tháng 6 năm 2023, GMMTV đưa ra thông báo thay đổi diễn viên thành Ishikawa Plowden (Luke) do lịch trình bận rộn của các diễn viên.
Tham khảo
Liên kết ngoài
GMMTV |
Người Mỹ gốc Pháp-Canada (, , ) hay chỉ gọi là Người Mỹ gốc Canada (, ) là người Mỹ có nguồn gốc từ người Pháp-Canada. Khoảng 2,1 triệu cư dân Hoa Kỳ đã trích dẫn tổ tiên này trong Điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2010; phần lớn họ nói tiếng Pháp ở nhà.
Người Mỹ gốc Pháp-Canada tập trung nhiều nhất ở New England, bang New York, Louisiana và Trung Tây. Tổ tiên của họ hầu hết đến Hoa Kỳ từ Quebéc trong khoảng thời gian từ 1840 đến 1930, mặc dù một số gia đình đã được thành lập ngay từ thế kỷ 17 và 18.
Thuật ngữ Canadien (tiếng Pháp nghĩa là "người Canada") có thể được sử dụng để chỉ quốc tịch hoặc sắc tộc liên quan đến nhóm dân số này. Người Mỹ gốc Canada gốc Pháp, vì gần Canada và Quebéc, nên ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo của họ tồn tại lâu hơn bất kỳ nhóm dân tộc nào khác ở Hoa Kỳ ngoại trừ người Mỹ gốc México. Nhiều khu dân cư "Tiểu Canada" phát triển ở các thành phố New England, nhưng dần dần biến mất khi cư dân của họ cuối cùng hòa nhập vào dòng chính của Mỹ. Sự hồi sinh bản sắc Canada đã diễn ra ở các bang miền Trung Tây, nơi một số gia đình gốc Pháp đã sống qua nhiều thế hệ. Những bang này từng được coi là một phần của Canada cho đến năm 1783. Sự trở lại cội nguồn của họ dường như đang diễn ra, với sự quan tâm nhiều hơn đến tất cả những thứ thuộc về người Canada hoặc Québécois (người Quebéc).
Xem thêm
Người Mỹ gốc Pháp
Người Mỹ gốc Canada
Người Canada gốc Pháp
Tham khảo
Liên kết ngoài
American-French Genealogical Society A genealogical and historical organization for French-Canadian research
Xã hội người Mỹ gốc Âu
Mỹ gốc Pháp-Canada
Người Mỹ gốc Pháp-Canada
Mỹ gốc Pháp |
Nicole Yance Borromeo là một người mẫu Philippines. Cô đại diện cho Philippines tại cuộc thi Hoa hậu Quốc tế 2023 ở Shibuya, Tokyo, Nhật Bản và giành vị trí Á hậu 3.
Cuộc sống
Nicole Yance Borromeo sinh ngày 9 tháng 12 năm 2000 tại Cebu, Philippines. Cô là người gốc Guadalupe, thành phố Cebu.
Borromeo đã hoàn thành chương trình giáo dục trung học tại Đại học Bác sĩ Cebu ở Mandaue. Cô theo học tại Đại học San Carlos để lấy bằng thiết kế nội thất.
Tham gia cuộc thi sắc đẹp
Hoa hậu Silka Cebu 2017
Vào ngày 14 tháng 10 năm 2017, cô đăng quang Hoa hậu Silka Cebu 2017 tại Trung tâm hoạt động Robinsons Galleria Cebu ở Cebu, Philippines
Hoa hậu Mandaue 2018
Vào ngày 16 tháng 5 năm 2018, cô giành vị trí Á hậu 1 cho Gabriella Carballo tại cuộc thi Hoa hậu Mandaue 2018 tại Khu liên hợp văn hóa và thể thao Mandaue ở Mandaue, Cebu, Philippines.
Nữ hoàng Lễ hội Sinulog 2019
Vào ngày 18 tháng 1 năm 2019, cô đã đăng quang Nữ hoàng Lễ hội Sinulog 2019 tại Trung tâm Thể thao Thành phố Cebu ở Cebu, Philippines.
Nữ hoàng Giải trí 2019
Borromeo đã đăng quang Nữ hoàng Giải trí 2019 tại Khu phức hợp Trung tâm Văn hóa Philippines ở Pasay, Metro Manila. Sau đó cô đã từ bỏ danh hiệu do xung đột lợi ích.
Hoa hậu Tuổi Teen Philippines 2019
Vào ngày 8 tháng 5 năm 2019, cô đại diện cho Carcar, Cebu tại cuộc thi Hoa hậu Tuổi Teen Philippines 2019 và giành vị trí á hậu 2 sau Nikki De Moura của Cagayan de Oro.
Hoa hậu Thiên niên kỷ Philippines 2019
Vào ngày 26 tháng 10 năm 2019, Borromeo đã đăng quang Hoa hậu Thiên niên kỷ Philippines 2019, một phần cuộc thi sắc đẹp du lịch của chương trình tạp kỹ dài nhất Philippines là Eat Bulaga! tại Nhà hát Meralco ở Pasig, Metro Manila, Philippines.
Hoa hậu Philippines 2022
Vào ngày 31 tháng 7 năm 2022, cô đại diện cho Cebu tại cuộc thi Hoa hậu Philippines 2022 và đăng quang Hoa hậu Quốc tế Philippines 2022, kế nhiệm Hannah Arnold của Masbate.
Hoa hậu Quốc tế 2023
Borromeo đại diện cho Philippines tại cuộc thi Hoa hậu Quốc tế 2023 vào ngày 26 tháng 10 năm 2023 tại Shibuya, Tokyo, Nhật Bản. Cô giành vị trí á hậu 3.
Tham khảo |
Tiếng Anh Bắc Mỹ ( còn được viết tắt là NAmE, NAE) là là dạng tiếng Anh tổng quát nhất được nói ở Hoa Kỳ và Canada. Bởi vì lịch sử và văn hóa liên quan của họ, cộng với sự tương đồng giữa cách phát âm (giọng), từ vựng và ngữ pháp của tiếng Anh Mỹ và tiếng Anh Canada, hai dạng nói này thường được nhóm lại với nhau dưới một thể loại duy nhất. Người Canada nói chung chấp nhận cả cách viết của cả người Anh và người Mỹ, với cách viết kiểu Anh của một số từ nhất định (ví dụ: colour màu sắc) được ưa chuộng trong các môi trường trang trọng hơn và trên các phương tiện truyền thông in ấn của Canada; đối với một số từ khác, cách viết của người Mỹ chiếm ưu thế hơn cách viết của người Anh (ví dụ: tire - lốp thay vì tyre).
Các phương ngữ tiếng Anh Mỹ được sử dụng bởi Những người trung thành với Đế chế thống nhất chạy trốn khỏi Cách mạng Mỹ (1775–1783) đã có ảnh hưởng lớn đến tiếng Anh Canada ngay từ những cội nguồn ban đầu của nó. Một số thuật ngữ trong tiếng Anh Bắc Mỹ hầu như chỉ được sử dụng ở Canada và Hoa Kỳ (ví dụ: các thuật ngữ diaper - tã và gasoline xăng được sử dụng rộng rãi thay vì nappy và petrol). Mặc dù nhiều người nói tiếng Anh từ bên ngoài Bắc Mỹ coi những thuật ngữ đó là chủ nghĩa Mỹ riêng biệt, nhưng chúng cũng phổ biến ở Canada, chủ yếu là do ảnh hưởng của thương mại xuyên biên giới và sự thâm nhập văn hóa của các phương tiện thông tin đại chúng Mỹ.. Danh sách các từ khác nhau sẽ dài hơn nếu xem xét các phương ngữ khu vực của Canada, đặc biệt là khi được nói ở các tỉnh Đại Tây Dương và một phần của Đảo Vancouver nơi vẫn còn tồn tại những vùng văn hóa Anh đáng kể.
Có một số lượng đáng kể các giọng khác nhau trong khu vực của cả Hoa Kỳ và Canada. Ở Bắc Mỹ, các phương ngữ tiếng Anh khác nhau của những người nhập cư từ Anh, Scotland, Ireland và các vùng khác của Quần đảo Anh đã trộn lẫn với nhau trong thế kỷ 17 và 18. Chúng được phát triển, xây dựng và hòa trộn với nhau như những làn sóng nhập cư và di cư mới trên khắp lục địa Bắc Mỹ, phát triển phương ngữ mới ở các khu vực mới và khi những cách nói này hòa nhập và đồng hóa với hỗn hợp phương ngữ Mỹ lớn hơn được củng cố bởi giữa thế kỷ 18.
Xem thêm
Tiếng Anh Belize
Tiếng Anh Caribe
Tham khảo
Tiếng Anh Bắc Mỹ
Phương ngữ tiếng Anh |
Internationale Spieltage SPIEL, thường được gọi là Hội chợ trò chơi Essen (Essen Game Fair) theo tên thành phố nơi nó được tổ chức, là hội chợ thương mại boardgame kéo dài bốn ngày hàng năm cho công chúng được tổ chức vào tháng 10 (từ thứ năm cho tới chủ nhật tuần đó) tại trung tâm triển lãm Messe Essen tại Essen, Đức; được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1983. Với 1.021 bên cung cấp từ 50 quốc gia vào năm 2016, SPIEL được xem là hội chợ board game lớn nhất trên thế giới.
Các board game được mở bán tại sự kiện này thường rất khó để tìm ngoài thị trường do có nhiều nhà cung cấp lớn nhỏ tới từ nhiều quốc gia chào bán sản phẩm của họ. Bất chấp việc các trò chơi được mua tại đây không rẻ hơn so với bên ngoài thị trường, chúng lại thường có mặt sớm hơn trước khi có sẵn tại các cửa hàng tại địa phương, và cũng thường bao gồm một số vật phẩm giới hạn (như các loại bài hoặc nhân vật mới với một số cơ chế bổ sung, áo phông và một số các vật phẩm khác). Sự kiện này cũng được xem là nơi các tín đồ board game có thể gặp gỡ và trò chuyện với các nhà thiết kế, họa sĩ, cũng như các reviewer nổi tiếng.
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Website chính thức |
Tiếng Anh Caribe ( hay còn được viết tắt là CE, CarE) là một tập hợp phương ngữ của tiếng Anh được nói ở Caribe và hầu hết các quốc gia trên bờ biển Caribe ở Trung Mỹ và Nam Mỹ. Tiếng Anh Caribe chịu ảnh hưởng nhưng khác biệt với tiếng creole dựa trên tiếng Anh được nói trong khu vực. Mặc dù các phương ngữ của tiếng Anh Caribe khác nhau về mặt cấu trúc và ngữ âm trong khu vực, nhưng tất cả đều chủ yếu bắt nguồn từ tiếng Anh-Anh và các ngôn ngữ Tây Phi. Ở các quốc gia có đa số dân là người Ấn, chẳng hạn như Trinidad và Tobago và Guyana, tiếng Anh Caribe còn bị ảnh hưởng bởi tiếng Hindusta và các ngôn ngữ Nam Á khác.
Lịch sử
Sự phát triển của tiếng Anh Caribe bắt nguồn từ việc khai thác Chó biển Elizabeth ở Tây Ấn Độ, được cho là đã giới thiệu tên Anh cho hệ động thực vật mới được tìm thấy thông qua, ví dụ, tác phẩm Principall Navigations - "Điều hướng chính" của Hakluyt năm 1589 và tác phẩm Discoverie of the Empyre of Guiana - "Khám phá Đế chế Guiana" của Raleigh năm 1596. Khi các khu định cư của người Anh diễn ra ngay sau đó, tiếng Anh Caribe được coi là "ngôn ngữ xuất khẩu lâu đời nhất từ quê hương Anh".
Hai loại người nhập cư nói tiếng Anh đến Tây Ấn thế kỷ 17 đã được mô tả trong văn học – loại thứ nhất, bao gồm những người nô lệ theo khế ước và những người định cư chủ yếu từ South West England, chủ yếu nói các ngôn ngữ không phải tiếng bản ngữ tiêu chuẩn của tiếng Anh; nhóm thứ hai, bao gồm các nhà quản lý thuộc địa, các nhà truyền giáo và các nhà giáo dục, chủ yếu nói các dạng ngôn ngữ chuẩn hơn. Những người trước đây, cùng với những nô lệ châu Phi, được ghi nhận là người có công phát triển và truyền bá các ngôn ngữ creole (không chuẩn) có nguồn gốc từ tiếng Anh, trong khi những ngôn ngữ sau được coi là nguồn thường xuyên chế nhạo lối nói như vậy.
Xem thêm
Tiếng Anh Bahamas
Tiếng Anh Barbados
Tiếng Anh Đảo Bahia
Tiếng Anh Belize
Tiếng Anh Quần đảo Cayman
Tiếng Anh Creole Grenada
Tiếng Anh Jamaica
Tiếng Anh Puerto Rico
Tiếng Anh Trinidad và Tobago
Tiếng Anh Samaná
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Linguistic map of Caribbean English dialects from Muturzikin.com
Cross-Referencing West Indian Dictionary |
Quả bóng vàng châu Âu 2019 (tiếng Pháp: Ballon d'Or) là buổi lễ thường niên lần thứ 64 của Ballon d'Or, do France Football tổ chức, và vinh danh những cầu thủ xuất sắc nhất thế giới năm 2019. Lionel Messi đã giành được giải thưởng nam lần thứ sáu kỷ lục trong sự nghiệp.
Danh sách đề cử rút gọn của Nam
Các đề cử cho giải thưởng được công bố vào ngày 6 tháng 11 năm 2019.
Danh sách đề cử rút gọn của Nữ
Megan Rapinoe giành Quả bóng Vàng Féminin 2019 cho cầu thủ nữ xuất sắc nhất thế giới.
Cúp Kopa
Matthijs de Ligt giành Cúp Kopa 2019 dành cho cầu thủ dưới 21 tuổi xuất sắc nhất thế giới.
Cúp Yashin
Alisson đã giành được Yashin Trophy lần đầu tiên với tư cách là thủ môn xuất sắc nhất thế giới năm 2019.
{| class="wikitable plainrowheaders sortable
!Thứ tự
!Cầu thủ
!Câu lạc bộ
!Điểm
|- style="background-color: #FFF68F; font-weight: bold;"
|1
| Alisson
| Liverpool
|795
|-
|2
| Marc-André ter Stegen
| Barcelona
|284
|-
|3
| Ederson
| Manchester City
|142
|-
|4
| Jan Oblak
| Atlético Madrid
|131
|-
|5
| Hugo Lloris
| Tottenham Hotspur
|80
|-
|6
| Manuel Neuer
| Bayern Munich
|52
|-
|7
| André Onana
| Ajax
|41
|-
|8
| Kepa Arrizabalaga
| Chelsea
|29
|-
|9
| Wojciech Szczęsny
| Juventus
|24
|-
|10
| Samir Handanović
| Inter Milan
|6
Tham khảo
2019
Ballon d'Or
Ballon d'Or |
Tiểu Đinh (Hán phồn thể: 小丁, bính âm: Xiao Ding) là một nữ người mẫu và cosplayer người Đài Loan. Cô được mệnh danh là "thiên thần mông béo".
Công việc
Từ năm 2018, cô bắt đầu công việc của một người mẫu ảnh, bao gồm ảnh cosplay, ảnh nude, hoặc kết hợp cả hai loại hình này. Cô thành lập website và bán những bức ảnh của mình, các gói ảnh có giá 100 USD. Tiểu Đinh và nhiếp ảnh gia của cô vướn vào một vụ kiện khiêu dâm kéo dài 2 năm. Trong quá trình hầu tòa, cô xác nhận chỉ bán ảnh cho người trên 18 tuổi. Tiểu Đinh cũng đã có báo cáo cảnh sát can thiệp hoạt động của những người nước ngoài phát tán ảnh nude của cô lên internet, nhưng quá muộn. Ít nhất 88 người nước ngoài có liên quan việc phát tán này. Tòa án tại Đài Trung sau đó đã ra phán quyết cuối cùng cô vô tội.
Vào tháng 5 năm 2021, cô xuất bản cuốn sách ảnh kỹ thuật số "白色原味 小丁日常原創數位寫真" ("White Original Flavor: Xiaoding's Daily Original Digital Photos" (Cutting Edge Publishing)).
Đời tư
Năm 2022, cô chuyển đến Nhật Bản sau khi kết hôn với nhiếp ảnh gia Kiệt Lộ (Jie Lu). Đến năm 2023, chồng cô suy sụp sức khỏe vì phát hiện cô ngoại tình.
Chú thích
Liên kết ngoài
Người mẫu Đài Loan
Cosplayer |
Manchester City Women's Football Club (tên ngắn gọn Manchester City W.F.C.; tên cũ Manchester City Ladies F.C.) là một câu lạc bộ bóng đá nữ Anh được thành lập vào năm 1988 trực thuộc Manchester City F.C. tại Manchester. Họ hiện giờ đang thi đấu tại FA Women's Super League.
Cầu thủ
thế=|nhỏ|380x380px|Hình ảnh đội một trước trận đấu tại Champions League với SKN St. Pölten vào ngày 4 tháng 10 năm 2017
Đội hình hiện tại
Cho mượn
Điều hành CLB
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức
Manchester City F.C.
Câu lạc bộ bóng đá nữ Anh
Câu lạc bộ bóng đá nữ Manchester
Câu lạc bộ bóng đá thành lập năm 1988
Câu lạc bộ FA WSL 1
Câu lạc bộ FA Women's Premier League
Khởi đầu năm 1988 ở Anh |
Abdul-Nasir Oluwatosin Oluwadoyinsolami Adarabioyo (sinh ngày 24 tháng 9 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Fulham tại .
Danh hiệu
Fulham
EFL Championship: 2021–22
Cá nhân
Đội hình PFA của năm: Championship 2021–22
Đội hình EFL Championship của mùa giải: Championship 2021–22
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ tại trang web Fulham FC
Hồ sơ tại trang web Hiệp hội bóng đá
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá Fulham F.C.
Cầu thủ bóng đá Blackburn Rovers F.C.
Cầu thủ bóng đá West Bromwich Albion F.C.
Cầu thủ bóng đá Manchester City F.C.
Hậu vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1997 |
Việt Nam bồi đắp đảo nhân tạo ở Trường Sa là sự kiện diễn ra từ tháng 10 năm 2021 đến nay nhằm mở rộng trên quy mô lớn một số đảo và đá tại quần đảo Trường Sa hiện đang được quân đội nước này chiếm đóng.
Diễn biến
Từ tháng 10 năm 2021, Việt Nam bắt đầu bồi đắp và mở rộng tại ba đảo Nam Yết, Sơn Ca và Phan Vinh.
Từ tháng 11 năm 2021, Việt nam bắt đầu nạo vét mở luồng vào ở bãi Thuyền Chài và sau đó từ tháng 5 năm 2022 tiến hành bồi đắp để xây một đảo nhân tạo mới trên bãi đá san hô này.
Từ tháng 12 năm 2021, Việt Nam bồi đắp xây một đảo nhân tạo mới ở đá Tiên Nữ.Tiếp đó trong năm 2022, Việt Nam tiến bồi đắp điểm Đá Lớn A vào tháng 10, bồi đắp các đảo nhận tạo ở đá Núi Le và đá Lát vào tháng 11 và đá Tốc Tan vào tháng 12. Tính đến cuối năm 2022 Việt Nam đã bồi đắp thêm 1,7 km2 đất nổi ở các thực thể của quần đảo Trường Sa mà nước này chiếm giữ.
Phản ứng
Philippines
Ngày 1 tháng 8 năm 2023, khoảng 50 người tụ tập trước đại sứ quán Việt Nam tại Manila, Philippines biểu tình, xé cờ Việt Nam nhằm phản đối Việt Nam quân sự hóa các đảo ở Biển Đông.
Chú thích
Tranh chấp chủ quyền Biển Đông
Quần đảo Trường Sa |
Joel Edward Philip Ward (sinh ngày 29 tháng 10 năm 1989) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí hậu vệ hoặc tiền vệ phòng ngự cho câu lạc bộ Crystal Palace tại .
Danh hiệu
Crystal Palace
Vòng play-off EFL Championship: 2013
Á quân Cúp FA: 2015–16
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ của Joel Ward tại Crystal Palace
Hồ sơ của Joel Ward tại AFCB.co.uk
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá Crystal Palace F.C.
Cầu thủ bóng đá A.F.C. Bournemouth
Cầu thủ bóng đá Portsmouth F.C.
Hậu vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1989 |
My People, My Country () là một bộ phim truyện ngắn của Trung Quốc năm 2019, gồm bảy phân đoạn do bảy đạo diễn là Trần Khải Ca, Trương Nhất Bạch, Quan Hổ, Tiết Tiểu Lộ, Từ Tranh, Ninh Hạo và Văn Mục Dã.. Phim có sự tham gia của nhiều diễn viên hàng đầu Trung Quốc, nhiều trong vai phụ và khách mời. My People, My Country được sản xuất chung bởi Nhà phân phối phim Hoa Hạ, Bona Film Group và Alibaba Pictures. Phim được ra mắt tại Trung Quốc vào ngày 30 tháng 9 năm 2019, để kỷ niệm 70 năm thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.. Phim có hai phần tiếp theo là My People, My Homeland (2020) và My Country, My Parents (2021).
Kịch bản
Đêm Giao thừa
Cậu chuyện thứ nhất, Đêm Giao thừa (), kể về một kỹ sư, Lâm Chi Nguyên (do Hoàng Bột đóng), đang đua với thời gian để hoàn thiện cơ chế tự động nâng cờ trước Lễ khánh thành Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào ngày 1 tháng 10 năm 1949.
Đi ngang qua
Câu chuyện thứ hai, Đi ngang qua (相遇), kể về nhà khoa học Cao Viên (do Trương Dịch đóng), làm việc trong dự án phát triển bom nguyên tử đầu tiên của Trung Quốc, và phải từ biệt người yêu mãi mãi trong những năm 1960.
Nhà vô địch
Câu chuyện thứ ba, Nhà vô địch (夺冠), kể về cách một cậu bé trai từ Thượng Hải tên là Đông Đông (do Hàn Hạo Lâm đóng) giúp hàng xóm xem TV khi đội tuyển bóng chuyền nữ quốc gia Trung Quốc giành huy chương vàng Olympic năm 1984.
Về nhà
Câu chuyện thứ tư, Về nhà (), kể về một đoàn đại biểu điều hành Trung Quốc và cảnh sát địa phương chuẩn bị cho việc trao lại Hồng Kông từ Anh Quốc cho Trung Quốc vào năm 1997. Khoảng im lặng 12 giây giữa quốc ca Anh và quốc ca Trung Quốc trong buổi lễ chuyển giao Hồng Kông cũng được thể hiện trong phần này.
Xin chào Bắc Kinh
Câu chuyện thứ năm, Xin chào Bắc Kinh (), kể về một tài xế taxi cho một chiếc vé dự lễ khai mạc Thế vận hội Bắc Kinh 2008 cho một cậu bé từ vùng động đất Tứ Xuyên mặc dù nó ban đầu là một món quà sinh nhật dành cho con trai xa lạ của ông.
Sao chỉ đường
Cuốn truyện thứ sáu, Sao Chỉ Đường (), kể về cặp anh em lang thang chứng kiến tàu vũ trụ có người lái Thần Châu 11 hạ cánh vào ngày 18 tháng 11 năm 2016, một khoảnh khắc tự hào quốc gia được ghi dấu trong tâm hồn họ.
Một người vì mọi người
Câu chuyện thứ bảy, Một người vì mọi người (), kể về câu chuyện của Lữ Tiểu Nhiễm - một phi công nữ hàng đầu cùng đồng đội của cô hoàn thành một buổi biểu diễn trên không trơn tru, trong Lễ diễu binh kỷ niệm 70 năm Chiến thắng trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai vào năm 1945.
Phát hành
Ngày 20 tháng 3 năm 2019, nhà sản xuất thông báo rằng bộ phim sẽ được phát hành vào ngày 1 tháng 10 năm 2019, trong thời gian Quốc khánh. Ngày 6 tháng 9 năm 2019, đã thông báo rằng bộ phim bị dời lịch chiếu tới ngày 30 tháng 9 năm 2019.
My People, My Country được phân phối bởi China Media Capital, một nhà phân phối phim và truyền hình lớn của Trung Quốc, tại Anh Quốc, Hoa Kỳ, Canada, Úc và New Zealand."
Đón nhận
Doanh thu phòng vé
Với tổng doanh thu hơn 474 triệu đô la, My People, My Country hiện đứng thứ 15 trong danh sách đứng thứ 15 trong danh sách phim ngoại ngữ có doanh thu cao nhất từ trước đến nay. Phim thu được khoảng 369 triệu nhân dân tệ (51.62 triệu đô la Mỹ) trong ngày thứ hai công chiếu. Bộ phim thu về 1 tỷ nhân dân tệ sau ba ngày.
Bộ phim đã kiếm được hơn 2 tỷ nhân dân tệ vào cuối tuần công chiếu.
Phê bình
Douban, một trang web đánh giá truyền thông lớn của Trung Quốc, đánh giá phim này 8.1 trên 10.
Chú thích |
Addji Keaninkin Marc-Israel Guéhi ( ; sinh ngày 13 tháng 7 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh hiện thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Crystal Palace tại và đội tuyển quốc gia Anh.
Danh hiệu
U-17 Anh
Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới: 2017
Á quân Giải vô địch bóng đá U-17 châu Âu: 2017
Cá nhân
Đội hình tiêu biểu Giải vô địch bóng đá U-17 châu Âu: 2017
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ tại website Crystal Palace FC
Hồ sơ tại trang web Hiệp hội bóng đá
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Anh
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Anh
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Crystal Palace F.C.
Cầu thủ bóng đá Swansea City A.F.C.
Cầu thủ bóng đá Chelsea F.C.
Cầu thủ bóng đá Cray Wanderers F.C.
Hậu vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 2000 |
James Oliver Charles Tomkins (sinh ngày 29 tháng 3 năm 1989) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Crystal Palace tại .
Danh hiệu
West Ham United
Vòng play-off EFL Championship: 2012
Cá nhân
Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất năm của West Ham United: 2007–08
Đội hình PFA của năm: Championship 2011–12
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ West Ham United tại whufc.com
Hồ sơ Crystal Palace tại cpfc.co.uk
Hồ sơ giải Ngoại hạng
Cầu thủ bóng đá Thế vận hội Mùa hè 2012
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá Crystal Palace F.C.
Cầu thủ bóng đá Derby County F.C.
Cầu thủ bóng đá West Ham United F.C.
Hậu vệ bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Anh
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1989 |
Sáng ngày 28 tháng 10 năm 2023, một vụ hỏa hoạn đã bùng phát tại mỏ Kostenko ở tỉnh Karaganda của Kazakhstan. Vụ hỏa hoạn đã khiến 45 người thợ mỏ thiệt mạng, còn 4 người thợ mỏ khác mất tích vẫn đang được tìm kiếm. 20 người bị thương. Người ta cho rằng nguyên nhân vụ hỏa hoạn là do vụ nổ khí mê tan ở dưới lòng đất. Tổng thống Kazakhstan, Kassym-Jomart Tokayev, đã ra lệnh dừng tất cả các khoản đầu tư đối với công ty ArcelorMittal Temirtau, đơn vị sở hữu mỏ than này. ngày 29 tháng 10 đã được công bố là ngày quốc tang ở Kazakhstan.
Tham khảo
Hỏa hoạn năm 2023
kk:Костенко шахтасындағы апат |
Bellagio ( ) là một khu nghỉ dưỡng, khách sạn và sòng bạc sang trọng nằm trên Las Vegas Strip ở Paradise, Nevada. Nó được sở hữu bởi Blackstone Inc. và vận hành bởi MGM Resorts International.
Bellagio được khai trương vào ngày 15 tháng 10 năm 1998, với 3.005 phòng trong một tòa tháp 36 tầng. Đây là khu nghỉ dưỡng đắt nhất thế giới tính đến thời điểm đó, với chi phí xây dựng 1,6 tỷ đô la.
Lịch sử
Bối cảnh và phát triển
Trước đây, khu đất của Bellagio là khách sạn-casino Dunes, mở cửa từ năm 1955. Steve Wynn đã mua Dunes vào năm 1992 và có ý định xây dựng một khu nghỉ dưỡng mới. Khi Dunes đóng cửa vào năm 1993, Wynn đã đề xuất thêm một hồ nhân tạo vào dự án mới của mình. Tuy nhiên, sau khi thông qua sắc lệnh về nước năm 1990, các quan chức quận đã đặt câu hỏi liệu tính năng này có thể được bao gồm hay không. Quận đã sửa đổi sắc lệnh vào năm 1994, cho phép Wynn tiếp tục với hồ nhân tạo.
Vào năm 1994, Mirage Resorts đã công bố kế hoạch xây dựng khu nghỉ dưỡng Beau Rivage trên khu đất này. Tuy nhiên, sau chuyến du lịch tại Hồ Como, nhà thiết kế Jon Jerde đã thuyết phục Wynn đổi hướng dự án, lấy cảm hứng từ làng Bellagio ở miền bắc Ý. Do đó, Wynn đã quyết định thay đổi tên khu nghỉ dưỡng thành Bellagio và loại bỏ 10 tháng công việc thiết kế cho Beau Rivage . Sau này, Wynn đã sử dụng tên Beau Rivage cho một khu nghỉ dưỡng khác ở Mississippi.
Việc xây dựng Bellagio đã bắt đầu từ ngày 1 tháng 11 năm 1995, với kế hoạch khai trương vào tháng 3 năm 1998. Marnell Corrao Associates là nhà thầu chính cho dự án. Chi phí của dự án đã tăng lên nhiều lần, một phần do việc thêm các tính năng mới. Sự thiếu hụt lao động có kỹ năng cũng đã làm tăng chi phí lao động. Dự án được tài trợ thông qua nhiều nguồn vốn. Với tổng chi phí hoàn thành là 1,6 tỷ đô la, Bellagio trở thành khu nghỉ dưỡng đắt nhất từng được xây dựng.
Mở cửa
Sự kiện khai trương Bellagio đã được mong đợi rất nhiều, và các biện pháp kiểm soát đám đông đã được triển khai từ nhiều tháng trước. Mirage Resorts đã tiến hành một chiến dịch quảng cáo trị giá 10 triệu đô la, bao gồm các quảng cáo truyền hình kéo dài 60 giây với sự tham gia của ca sĩ opera nổi tiếng Andrea Bocelli.
Một bữa tiệc dành cho khách mời VIP đã được tổ chức vào tối ngày 15 tháng 10 năm 1998, thu hút 1.800 khách tham dự, trong đó có thống đốc Nevada Bob Miller. Chỉ trong ngày đầu tiên, khu nghỉ dưỡng đã chào đón hơn 80.000 lượt khách. Khu nghỉ dưỡng Bellagio bao gồm 3.005 phòng khách sạn, một sòng bạc, cùng với các cửa hàng và nhà hàng cao cấp.
Thay đổi quyền sở hữu và mở rộng
Khi mới mở cửa, giá phòng tại Bellagio trung bình là 200 đô la mỗi đêm, cao hơn nhiều so với mức giá 81 đô la của các khu nghỉ dưỡng khác ở Strip. Kế hoạch mở rộng thêm 1.300 phòng đã bị tạm dừng vào tháng 3 năm 2000 để hoàn thiện việc sáp nhập với MGM Grand Inc. hỏa thuận này đã hoàn tất vào tháng 5 năm 2000, khiến MGM Grand trở thành chủ sở hữu của Bellagio. Công ty đã đổi tên thành MGM Mirage vào cuối năm đó, và lưu chuyển tiền mặt của Bellagio đã cải thiện dưới sở hữu mới, khiến cho việc xem xét lại kế hoạch mở rộng khách sạn.
Việc xây dựng tòa tháp Spa bắt đầu vào tháng 4 năm 2003. Nó đã được hoàn thiện một năm sau đó, và khai trương vào ngày 23 tháng 12 năm 2004. Nó đã thêm 928 phòng, tổng cộng là 3.933 phòng.
Đến năm 2004, Bellagio đã trở thành khách sạn-sòng bạc có lợi nhuận nhất ở Las Vegas. Vào năm 2012, MGM và Suning Real Estate đã công bố kế hoạch mở rộng thương hiệu Bellagio với một khách sạn 200 phòng ở Thượng Hải, khách sạn này cuối cùng đã được khai trương vào năm 2018. Hai mươi năm sau khi khai trương, Bellagio vẫn là một trong những khu nghỉ dưỡng nổi tiếng nhất trên Las Vegas Strip.
Vào tháng 10 năm 2019, MGM Resorts đã bán Bellagio cho Blackstone Inc. với giá 4,25 tỷ đô la Mỹ. Theo thỏa thuận, MGM Resorts và Blackstone Inc. đã thành lập một liên doanh. Liên doanh này sẽ cho thuê Bellagio trở lại MGM Resorts với giá thuê hàng năm là 245 triệu đô la Mỹ. Việc bán đã được hoàn thành vào tháng 11 năm 2019. Theo thỏa thuận, MGM Resorts đã mua lại 5% cổ phần sở hữu trong liên doanh và tiếp tục vận hành khu nghỉ dưỡng thông qua hợp đồng thuê.
Vào tháng 7 năm 2023, MGM Resorts và Marriott International đã ký thỏa thuận hợp tác. Theo thỏa thuận này, MGM Resorts sẽ đưa các bất động sản của mình vào hệ thống đặt phòng quốc tế của Marriott và chương trình khách hàng thân thiết Bonvoy. Mối quan hệ đối tác mới này sẽ bắt đầu vào cuối năm nay. Bellagio, một trong những khu nghỉ dưỡng nổi tiếng nhất ở Las Vegas, sẽ được tiếp thị trong phân khúc The Luxury Collection của Marriott. Ngoài ra, Blackstone cũng công bố vào năm 2023 rằng họ sẽ bán 22% cổ phần tại Bellagio cho Realty Income với giá 950 triệu đô la.
Sự cố
Cướp bóc
Sòng bạc Bellagio đã từng bị cướp nhiều lần. Vào tháng 6 năm 2000, ba người đàn ông đã cướp được 160.000 đô la tiền mặt và chip sòng bạc. Sau đó, họ đã bị bắt giữ. Vụ cướp này là một trong một loạt các vụ cướp sòng bạc do những người đàn ông này thực hiện.
ào tháng 12 năm 2010, một người đàn ông đội mũ bảo hiểm đã cướp 1,5 triệu đô la tiền chip từ bàn craps của sòng bạc MGM Grand ở Las Vegas. Các biện pháp bảo vệ bí mật khiến tên trộm khó có thể đổi tiền chip mà không bị bắt.. Sau đó, MGM thông báo sẽ ngừng sử dụng chip 25.000 đô la trong vòng bốn tháng. Tên trộm, con trai của một thẩm phán ở Las Vegas, đã bị bắt vào tháng 2 năm 2011, sau khi sắp xếp bán chip 25.000 đô la cho một cảnh sát chìm. Khoảng 793.000 đô la tiền chip vẫn chưa được tìm thấy. Tên trộm đã nhận tội và bị kết án từ 3 đến 11 năm tù.
Vào tháng 7 năm 2014, một người đàn ông đã cướp 43.500 đô la từ quầy thu ngân của sòng bạc Bellagio bằng súng BB. Anh ta bị bắt vào ngày hôm sau, sau khi tiêu một nửa số tiền vào gái mại dâm và mua sắm. Anh ta được tuyên bố là không đủ năng lực để hầu tòa.
Vào sáng sớm tháng 3 năm 2017, một nhóm người đàn ông đeo mặt nạ động vật đã đột nhập vào cửa hàng trang sức trong sòng bạc Bellagio. Cảnh sát đã phong tỏa sòng bạc và bãi đỗ xe. Một trong những nghi phạm đã bị bắt giữ, ba người khác vẫn bỏ trốn.
Vào cuối năm 2017, một người đàn ông đã cướp tiền từ quầy thu ngân của sòng bạc Bellagio. Anh ta quay lại cướp quầy thu ngân vào tháng 3 năm 2019. Một cuộc đấu súng đã xảy ra bên ngoài sòng bạc giữa anh ta và cảnh sát khi anh ta cố gắng trốn thoát. Anh ta đã bị bắn và giết chết.
Hỏa hoạn
Vào sáng ngày 23 tháng 9 năm 2008, một vụ cháy nệm đã xảy ra tại tầng 26 của khách sạn Bellagio. Vụ cháy đã khiến một khách trọ bị bỏng nhẹ và một số người khác bị sặc khói. Phần còn lại của khách sạn không bị ảnh hưởng và đám cháy đã được dập tắt trong vòng nửa giờ.
Vào đêm ngày 13 tháng 4 năm 2017, mái của khu bán lẻ tại khách sạn Bellagio đã bốc cháy. Vụ cháy đã buộc khách sạn phải sơ tán khu vực này và gây thiệt hại lên tới 450.000 đô la, chủ yếu ở khu vực trên quán cà phê Starbucks. Nguyên nhân vụ cháy là do một thiết bị chiếu sáng bên ngoài bị lỗi.
Tiện nghi
Sòng bạc
Sòng bạc Bellagio có diện tích 156.000 foot vuông (14.500 mét vuông). Khi khai trương, sòng bạc có 2.700 máy đánh bạc và 173 trò chơi bàn. Các biển hiệu trên máy đánh bạc được giữ ở mức tối thiểu để tôn lên kiến trúc của khu nghỉ dưỡng. Đến năm 2003, trò chơi chỉ chiếm dưới một nửa doanh thu của khu nghỉ dưỡng. Phòng chơi poker đã được mở rộng vào năm 2004 để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng.
Sòng bạc Bellagio sở hữu một khu vực chơi poker dành cho những người chơi với mức cược cao, ban đầu được đặt tên là Bobby’s Room. Khu vực này được đặt theo tên của Bobby Baldwin, người từng là chủ tịch của Bellagio và là giám đốc lâu năm của MGM. Đến năm 2018, mức mua vào tối thiểu ở đây là $20.000. Bobby’s Room từng là phòng chơi poker có hạn mức cược cao nổi tiếng nhất ở Las Vegas cho đến khi khu nghỉ dưỡng Aria gần đó khai trương vào năm 2009. Phòng chơi poker của Aria mang đến cho người chơi một lựa chọn thay thế cao cấp hơn so với Bobby’s Room. Vào tháng 10 năm 2020, sau hai năm Baldwin rời công ty, MGM đã lặng lẽ đổi tên khu vực này thành Legends Room.
Vào năm 2002, sòng bạc đã khởi xướng một chuỗi giải đấu poker. Ngoài ra, sòng bạc cũng đăng cai hàng năm cho giải đấu WPT Five Diamond World Poker Classic và Five-Star World Poker Classic. Vào năm 2013, Bellagio đã ra mắt một khu vực sòng bạc riêng tư với diện tích 2.600 foot vuông (khoảng 240 m2) được gọi là Villa Privé, dành riêng cho những người chơi có mức cược cao.
Khách sạn
Khách sạn Bellagio có 3.933 phòng. Ban đầu, khách sạn mở cửa với 3.005 phòng, trong đó có 401 phòng suite. Năm 2003, khách sạn đã tiến hành cải tạo các phòng ở tòa tháp chính. Năm 2004, tháp Spa được hoàn thành, bổ sung thêm 928 phòng, nâng tổng số phòng của khách sạn lên 3.933 phòng. Tòa tháp ban đầu có 36 tầng, trong khi Tháp Spa có 33 tầng.
Khách sạn đã trải qua nhiều đợt tân trang trong những năm qua. Các dãy phòng và phòng Spa Tower được tân trang vào năm 2007. Các phòng trong tòa tháp chính được tân trang lại trong sáu tháng, trị giá 70 triệu đô la vào năm 2011. Các phòng Spa Tower được tân trang lại trị giá 40 triệu đô la vào năm 2012. ác phòng suite trong tòa tháp chính được tân trang lại từ năm 2014 đến năm 2015, là giai đoạn cuối cùng của dự án nâng cấp trị giá 165 triệu đô la. Một đợt tân trang khác các phòng tòa tháp chính diễn ra vào năm 2021. Việc tân trang Spa Tower trị giá 110 triệu đô la dự kiến hoàn thành vào tháng 10 năm 2023.
Phòng Chairman Suite của khách sạn The Ritz-Carlton, Millenia Singapore rộng 4.000 foot vuông (370 mét vuông) và được trang bị đầy đủ tiện nghi, bao gồm một khu vườn trong nhà, một hệ thống rạp chiếu phim tại nhà, một số lò sưởi, một quầy bar và dịch vụ quản gia toàn thời gian.
Trong sảnh khách sạn, gần Conservatory, có một đài phun nước thế kỷ 19 đã được phục hồi. Năm 2015, một tác phẩm điêu khắc đại diện cho các yếu tố của Trái đất đã được đặt bên ngoài lối vào chính của khách sạn. Tác phẩm này được tạo ra bởi nghệ sĩ Masatoshi Izumi, người đã tự tay chạm khắc nó từ bốn viên đá bazan, mỗi viên nặng ít nhất 17.000 pound.
Các câu lạc bộ đêm và quán bar
Khách sạn Bellagio có hai câu lạc bộ đêm cao cấp, Light và The Bank. Light được khai trương vào năm 2001 và được lấy cảm hứng từ một câu lạc bộ đêm ở New York. Nó đã trở nên phổ biến trong số những người nổi tiếng, nhưng đã đóng cửa vào năm 2007. The Bank được khai trương vào năm 2007 để thay thế Light. Nó có diện tích 600 m2, bao gồm hai quầy bar và ba DJ thường trú. Nó được du khách và người dân địa phương yêu thích, nhưng đã đóng cửa vào năm 2018.
Vào tháng 3 năm 2011, SBE Entertainment Group thông báo sẽ mở hộp đêm Hyde Lounge tại Bellagio, thay thế cho quán bar Fontana. Hyde Bellagio khai trương vào ngày 31 tháng 12 năm 2011, có diện tích 930 m2, sức chứa 714 người, bao gồm chỗ ngồi ngoài trời nhìn ra đài phun nước. Hyde Bellagio đóng cửa vào tháng 7 năm 2019 và được thay thế bởi Mayfair Supper Club.
Vào tháng 2 năm 2012, The Light Group đã mở Lily Bar & Lounge tại Bellagio, cũng hoạt động như một hộp đêm. Các quầy bar của khu nghỉ dưỡng được phục vụ bởi một phòng bơm chứa 1.800 chai rượu. Rượu được bơm qua một đường ống dài từ 300 đến 3.000 mét trước khi đến bất kỳ trong số 53 quầy bar của khu nghỉ dưỡng.
Nhà hàng
Khi khai trương, Bellagio có 16 nhà hàng, một số trong số đó được giám sát bởi các đầu bếp từng đoạt giải thưởng. Picasso là một nhà hàng Pháp của đầu bếp Julian Serrano. Các bức tranh của Pablo Picasso tô điểm cho các bức tường của nhà hàng. Đầu bếp Todd English mở nhà hàng Olives, phục vụ đồ ăn Địa Trung Hải và được đặt tên theo một nhà hàng nổi tiếng mà ông mở ở Boston. Khu nghỉ dưỡng cũng bao gồm Circo và Le Cirque, cả hai đều thuộc sở hữu của gia đình Maccioni và được lấy cảm hứng từ các nhà hàng cùng tên ở New York. Circo là một nhà hàng Ý, trong khi Le Cirque phục vụ đồ ăn Pháp và có chủ đề rạp xiếc cao cấp.
Các nhà hàng khác tại Bellagio bao gồm nhà hàng Buffet với sức chứa lên đến 500 khách; Prime, một nhà hàng chuyên về thịt bò do đầu bếp nổi tiếng Jean-Georges Vongerichten điều hành; Aqua, một nhà hàng hải sản có 150 chỗ ngồi, ban đầu từ San Francisco, do đầu bếp Michael Mina quản lý;, và Bellagio Cafe, một quán cà phê hoạt động 24/24; Một số nhà hàng còn có sân hiên nhìn ra hồ Bellagio.
In 2004, Aqua was renamed Michael Mina after its chefNăm 2004, nhà hàng Aqua ở Bellagio được đổi tên thành Michael Mina, theo tên của đầu bếp chính. Cùng năm đó, một nhà hàng mới tên Sensi cũng được khai trương, nằm trong Tháp Spa. Ngoài ra, Jean-Philippe Maury cũng đã mở một tiệm bánh ngọt có đài phun sô-cô-la lớn nhất thế giới, cao 8,2 mét.
Sau 15 năm hoạt động, các nhà hàng ban đầu ở khách sạn Bellagio vẫn được yêu thích. Nhà hàng Circo đóng cửa vào năm 2014, và được thay thế bởi nhà hàng Lago, một nhà hàng Ý mới của đầu bếp Serrano. Nhà hàng Snacks, một nhà hàng nổi tiếng trong số các tay cờ bạc, đã được tân trang lại vào năm 2015.
Đầu bếp Roy Ellamar đã tiếp quản nhà hàng Sensi từ năm 2011. Tuy nhiên, vào năm 2015, nhà hàng này đã đóng cửa và thay vào đó là nhà hàng mới của Ellamar - Harvest, một nhà hàng chú trọng đến sức khỏe với sự tập trung vào nguyên liệu tươi mới. Nhà hàng Olives đã đóng cửa vào đầu năm 2018, và thay thế cho nó là Spago, một nhà hàng do Wolfgang Puck sáng lập. Sadelle’s, một nhà hàng được yêu thích ở Manhattan, đã mở chi nhánh tại Las Vegas trong khuôn viên Bellagio vào năm 2019, thay thế cho quán cà phê trước đó.
Mayfair Supper Club, một nhà hàng có nhạc sống nhìn ra đài phun nước Bellagio, đã khai trương vào ngày 31 tháng 12 năm 2019. Le Cirque đã đóng cửa vào tháng 3 năm 2020 trong thời kỳ đại dịch COVID-19 và cuối cùng đã mở cửa trở lại vào tháng 10 năm 2021.
Khách sạn Bellagio có một nhà ăn dành cho nhân viên tên là Mangia, hoạt động như một nhà hàng buffet và phục vụ hàng nghìn nhân viên mỗi ngày. Một vườn thảo mộc trên mái nhà của khách sạn cung cấp rau thơm cho các nhà hàng của Bellagio.
Khu mua sắm
Kể từ khi mở cửa, khu nghỉ dưỡng đã bao gồm một khu vực bán lẻ cao cấp được gọi là Via Bellagio. Đây là khu mua sắm cao cấp đầu tiên ở Las Vegas, và là nơi tập trung của các thương hiệu xa xỉ hàng đầu thế giới, bao gồm Armani, Chanel, Fred Leighton, Gucci, Hermès, Prada và Tiffany & Co.
Giải thưởng
Bellagio là thành viên của The Leading Hotels of the World, và được nhiều tổ chức đánh giá cao. Đến năm 2001, Bellagio đã đạt được xếp hạng bốn sao từ Mobil Travel Guide. Cùng năm đó, Bellagio trở thành khách sạn-sòng bạc đầu tiên giành được giải thưởng AAA Five Diamond Award, và là khách sạn thứ hai ở Las Vegas giành được giải thưởng này, sau Four Seasons vào năm 1999. Năm 2010, Bellagio đã giành được giải thưởng Five Diamond Award thứ 10 liên tiếp, khu nghỉ dưỡng đầu tiên trên phố Strip làm được điều này. Tính đến năm 2020, Bellagio đã giành được giải thưởng Five Diamond 18 năm liên tiếp.
Bellagio đứng thứ tám trong Bảng xếp hạng khách sạn nghỉ dưỡng của Hoa Kỳ của Zagat Survey năm 2003, trong khi các nhà hàng của khách sạn đứng thứ 12 trong hạng mục ăn uống hàng đầu. Bellagio cũng đã lọt vào Danh sách vàng của Condé Nast Traveler nhiều lần, bắt đầu từ năm 2005. Một nghiên cứu năm 2005 của Majestic Research, thăm dò ý kiến hơn 400 cư dân ngoại bang, cho thấy Bellagio là khu nghỉ dưỡng được yêu thích nhất trong số khách du lịch, với 18% ủng hộ. Một nghiên cứu khác thăm dò ý kiến khách du lịch đến thăm Las Vegas vào năm 2005 và Bellagio được mệnh danh là khu nghỉ dưỡng "phải xem" hàng đầu của thành phố, trong khi các đài phun nước được mệnh danh là điểm thu hút "phải xem" tốt nhất. Năm 2010, Travel + Leisure xếp Bellagio ở vị trí thứ 31 trong danh sách các khách sạn hàng đầu ở các thành phố lớn của Hoa Kỳ và Canada. Travelocity xếp Bellagio ở vị trí thứ sáu trong danh sách 10 khách sạn hàng đầu ở Las Vegas năm 2011, dựa trên đánh giá của khách hàng.
Nhà hàng Picasso của khu nghỉ dưỡng cũng được đánh giá cao từ giới phê bình, nhận được giải thưởng AAA Five Diamond và Mobil Five-Star vào cuối năm 2001. Năm 2010, nhà hàng đã giành được giải thưởng Five Diamond thứ 10, trong khi Le Cirque giành được giải thưởng thứ 8. Bellagio là khách sạn duy nhất ở Hoa Kỳ có hai nhà hàng Five Diamond.
Trong văn hóa đại chúng
Khách sạn Bellagio ở Las Vegas là một địa điểm nổi tiếng trong các bộ phim Hollywood. Nó là bối cảnh chính cho bộ phim Ocean's Eleven năm 2001, trong đó một nhóm trộm cắp âm mưu cướp kho tiền của khách sạn. Bộ phim có nhiều cảnh quay ở các khu vực khác nhau của khách sạn, bao gồm sảnh, sòng bạc, và đài phun nước. Sau này, cầu thang mà nhân vật Tess Ocean (do Julia Roberts thủ vai) đi xuống đã bị phá bỏ để nhường chỗ cho Tháp Spa.
Khách sạn Bellagio cũng được miêu tả trong bộ phim Lucky You năm 2007. Bộ phim được lấy bối cảnh năm 2003, nhưng phòng poker của khách sạn đã được cải tạo kể từ đó. Các nhà làm phim đã xây dựng một bản sao của căn phòng ban đầu trên một sân khấu ở Los Angeles để quay phim. Các đài phun nước của khách sạn Bellagio cũng xuất hiện trong nhiều bộ phim khác, bao gồm Ba chàng ngự lâm, Người khổng lồ xanh phi thường, và Người Nhện siêu đẳng 2: Sự trỗi dậy của Người Điện.
Chú thích
Liên kết ngoài
Official website
Khách sạn sòng bạc
Las Vegas Strip |
TG1 () là chương trình thời sự do đài truyền hình công cộng RAI sản xuất. Phát sóng lần đầu tiên vào ngày 10 tháng 9 năm 1952.
Trong suốt quá trình phát sóng, TG1 được đánh giá là chương trình lâu đời nhất về lĩnh vực tin tức trong lịch sử truyền hình nước Ý. Tuy nhiên, TG1 cũng không ít nhận nhiều lời chỉ trích từ khán giả và chính trị gia do có liên quan đến thiên vị chính phủ. Cựu Bộ trưởng Bộ Phát triển Kinh tế Ý Paolo Romani khẳng định TG1 có dấu hiệu liên kết chính trị với phe trung tả.
Tham khảo |
Neumayer-Station III, còn được gọi là Neumayer III theo tên nhà địa vật lý Georg von Neumayer, là trạm nghiên cứu Nam Cực của Đức thuộc Viện Alfred-Wegener. Trạm này nằm trên thềm băng Ekström dày khoảng 200 mét cách Neumayer-Station II vài km về phía nam. Trạm lắp ráp sẵn đã được vận chuyển đến vị trí hiện tại vào đầu tháng 11 năm 2007. Trạm này đang di chuyển cùng với thềm băng với tốc độ khoảng 157 mét (515 ft) mỗi năm về phía biển khơi.
Sau gần mười năm thực hiện dự án, bắt đầu từ tháng 10 năm 1999, bao gồm các giai đoạn lên ý tưởng dự án, đánh giá tác động môi trường, lập kế hoạch và xây dựng, hoạt động thường xuyên của trạm bắt đầu vào ngày 20 tháng 2 năm 2009. Trạm thay thế Neumayer-Station II và Georg- von-Neumayer-Station trước đó. Tuổi thọ dự kiến của trạm nghiên cứu này là 25 đến 30 năm và kinh phí cho toàn bộ dự án ước tính khoảng 39 tỷ Euro.
Tham khảo
Liên kết ngoài
The New Centre of German Research in Antarctica - Neumayer Station III
realnature.tv Video-, Foto-, und Textberichte über den Aufbau der Station in der Antarktis
A 2019 episode of Tomorrow Today, the English-language science programme of Deutsche Welle Television, which depicts the station and interviews residents
Video über die Station im Planet-Erde-Blog
Animierte Infografik zur deutschen Antarktisstation Neumayer III, Tagesschau, 20. February 2009
Neumayer III Station Webcam
COMNAP Antarctic Facilities Map
Trạm nghiên cứu Nam Cực
de:Neumayer-Station III |
Nhiều chính phủ đã thành lập các trạm nghiên cứu ở Nam Cực. Chúng được phần bố rộng rãi trên khắp lục địa. Không giống như trạm băng trôi được thiết lập ở Bắc Cực, trạm nghiên cứu ở Nam Cực được xây dựng cố định trên đá hoặc trên băng.
Nhiều trạm nghiên cứu có có nhân viên quanh năm. Trong số 56 bên ký kết Hiệp ước Nam Cực, tổng cộng có 55 quốc gia (tính đến năm 2023) vận hành các trạm nghiên cứu theo mùa (mùa hè) và quanh năm trên châu Nam Cực. Số lượng người tham gia thực hiện và hỗ trợ nghiên cứu khoa học trên lục địa và các đảo lân cận dao động từ khoảng 4.800 người (mùa hè) đến 1.200 người (mùa đông) Ngoài các trạm cố định này, khoảng 30 trại dã chiến được thành lập vào mỗi mùa hè để hỗ trợ các dự án cụ thể.
Trạm hoạt động thường trực
Hoa Kỳ duy trì căn cứ ở cực nam, Trạm Nam Cực Amundsen–Scott, và căn cứ và trạm nghiên cứu lớn nhất ở Nam Cực, Trạm McMurdo. Căn cứ ở cực nam thứ hai là Trạm Kunlun của Trung Quốc tại 80°25′2″S trong mùa Hè và Trạm Vostok của Nga tại 78°27′50″S trong mùa Đông.
Các trạm cận Nam Cực
Chú thích
Tham khảo
Trạm nghiên cứu Nam Cực
Khoa học và công nghệ Nam Cực
Nghiên cứu chính phủ
Nghiên cứu Nam Cực |
Giải đua ô tô Công thức 1 São Paulo 2023 (tên chính thức là Formula 1 Rolex Grande Prêmio de São Paulo 2023) là một chặng đua Công thức 1 dự kiến được tổ chức vào ngày 5 tháng 11 năm 2023 tại trường đua José Carlos Pace, São Paulo, Brazil và là chặng đua thứ 20 của giải đua xe Công thức 1 2023.
Bối cảnh
Tại giải đua ô tô Công thức 1 São Paulo, cuộc đua sprint thứ sáu và cuối cùng của mùa giải sẽ được tổ chức với tư cách là một phần của sự kiện này. Sprint shootout và cuộc đua sprint sẽ diễn ra vào thứ Bảy. Vòng phân hạng cho cuộc đua chính sẽ diễn ra vào thứ Sáu và cuộc đua chính vào ngày Chủ nhật.
Bảng xếp hạng trước cuộc đua
Sau giải đua ô tô Công thức 1 Thành phố Mexico, Max Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua trước Sergio Pérez (240 điểm) và Lewis Hamilton (220 điểm) với 491 điểm. Tại bảng xếp hạng các đội đua, Red Bull Racing dẫn đầu Mercedes (371 điểm) và Ferrari (349 điểm) với 731 điểm.
Lựa chọn bộ lốp
Nhà cung cấp lốp xe Pirelli cung cấp các bộ lốp hạng C2, C3 và C4 (được chỉ định lần lượt là cứng, trung bình và mềm) để các đội sử dụng tại sự kiện này.
Bảng xếp hạng trước cuộc đua
Bảng xếp hạng các tay đua
Lưu ý: Chỉ có mười vị trí đứng đầu được liệt kê trong bảng xếp hạng này.
Các tay đua/đội đua được in đậm và đánh dấu hoa thị là nhà vô địch Giải đua xe Công thức 1 2023.
Bảng xếp hạng các đội đua
Tham khảo
Chặng đua Công thức 1 năm 2023
Giải đua ô tô Công thức 1 São Paulo
Giải đua ô tô Công thức 1 Brazil |
Dưới đây là sự kiện trong năm tại Kazakhstan 2023.
Đương nhiệm
Sự kiện
Đang diễn ra
Đại dịch COVID-19 tại Kazakhstan
Tháng 10
28 tháng 10: Ít nhất 46 người chết trong vụ nổ khí methan xảy ra tại mỏ Kostenko, tỉnh Karaganda.
Mất
Xem thêm
Tham khảo |
Ngôn ngữ tại Phần Lan bao gồm hai ngôn ngữ chính thức (tiếng Phần Lan và tiếng Thụy Điển) cùng với một vài ngôn ngữ thiểu số như tiếng Sami, tiếng Di-gan, tiếng Karelia và ngôn ngữ ký hiệu Phần Lan.
Tại Phần Lan, cư dân có quyền khai báo tiếng mẹ đẻ của mình cách tự do trên Hệ thống dữ liệu về dân cư.
Tiếng Phần Lan
phải|nhỏ|348x348px|Bản đồ các khu tự quản của Phần Lan, được ký hiệu như sau:
Phần lớn dân số Phần Lan nói tiếng Phần Lan, với tỷ trọng người dùng ngôn ngữ này trong tổng dân số là 85,7% (2022). Đây là một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Phần Lan, có mối tương quan mật thiết với tiếng Estonia và ít mật thiết hơn với tiếng Sami.
Tiếng Thụy Điển
Tỷ trọng người Phần Lan sử dụng tiếng Thụy Điển làm ngôn ngữ chính trong tổng dân số Phần Lan vào năm 2022 là 5.2% (92,4% ở vùng tự trị Åland), thấp hơn so với đầu thế kỷ 20 (14%). Vào năm 2012, 44% dân số Phần Lan với ngôn ngữ chính, được khai báo trên Hệ thống thông tin dân cư, không phải là tiếng Thụy Điển có thể sử dụng ngôn ngữ này trong giao tiếp hằng ngày. Tiếng Thụy Điển là ngôn ngữ hành chính của Phần Lan từ cuối thế kỷ 19 trở về trước. Hiện nay nó là một trong số hai ngôn ngữ chính thức của Phần Lan, với vị thế ngang bằng với tiếng Phần Lan trong hầu hết các văn bản luật. Mặc dù vậy ngôn ngữ chính được sử dụng trong các cơ quan nhà nước là tiếng Phần Lan. Trong các trường học, hai môn tiếng Phần Lan và tiếng Thụy Điển là bắt buộc đối với tất cả học sinh ngoại trừ các em có tiếng mẹ đẻ là một ngôn ngữ thứ ba. Các ứng viên thi tuyển vào vị trí công chức yêu cầu nhân sự trình độ đại học bắt buộc phải có chứng chỉ ngôn ngữ.
Các cộng đồng người Phần Lan nói tiếng Thụy Điển lớn nhất thuộc bốn thành phố Helsinki, Espoo, Porvoo và Vaasa, nơi tiếng Thụy Điển là ngôn ngữ thiểu số. Hiện nay, tại thành phố Helsinki có đến 5.5% cư dân dùng tiếng Thụy Điển làm tiếng mẹ đẻ và 18,3% cư dân dùng ngôn ngữ thứ ba làm tiếng mẹ đẻ.
Phương ngữ Thụy Điển được sử dụng tại vùng Phần Lan lục địa được gọi là tiếng Thụy Điển Phần Lan. Nền văn học tiếng Thụy Điển Phần Lan là rất phong phú, với các nhà văn, nhà thơ lớn như Tove Jansson, Johan Ludvig Runeberg, Edith Södergran và Zacharias Topelius. Riêng ông Johan Ludvig Runeberg được mệnh danh là nhà thơ lớn của dân tộc Phần Lan, tác giả bản quốc ca mang tên “Vårt land” mà về sau được dịch sang tiếng Phần Lan.
Trong công tác hoạch định chính sách ngôn ngữ tại Phần Lan, nhà khoa học Christoffer Taxell đã phát biểu một nghịch lý mang tên ông, cho rằng các giải pháp đơn ngữ góp phần quan trọng trong việc hiện thực hóa nền song ngữ hữu hiệu, trong khi đó các giải pháp đa ngữ rốt cuộc lại hình thành một nền đơn ngữ. Quan điểm này được đưa ra dựa trên quan sát của ông về sự phụ thuộc của tiếng Thụy Điển đối với ngôn ngữ đa số là tiếng Phần Lan tại nhiều môi trường (chẳng hạn như trường học) vì một số nguyên nhân thực tế và nguyên nhân xã hội, bất kể các ưu điểm của hiện tượng học tập ngôn ngữ qua lại giữa các cá nhân.
Tiếng Anh
Phần lớn người dân Phần Lan dùng tiếng Anh làm ngôn ngữ thứ hai của mình. Số liệu chính thức của năm 2012 cho thấy có ít nhất 70% người dân Phần Lan có thể nói tiếng Anh. Nó là ngôn ngữ mẹ đẻ của khoảng 0.5% dân cư Phần Lan.
Tiếng Sami
Ngữ chi Sami là một nhóm các ngôn ngữ có mối tương quan với nhau và được dùng rải rác tại vùng Lapland. Các ngôn ngữ này có mối liên hệ xa với tiếng Phần Lan. Trong ngữ chi Sami, chỉ có ba ngôn ngữ được sử dụng tại Phần Lan: tiếng Sami Bắc, tiếng Sami Inari và tiếng Sami Skolt, với tổng số người dùng những ngôn ngữ này làm tiếng mẹ đẻ là 2.035 người.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hình ảnh và phương tiện truyền tải về Ngôn ngữ tại Phần Lan trong Wikimedia Commons.
Ngôn ngữ tại Phần Lan |
Sự cố đập giày xảy ra khi Nikita Khrushchev, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, đập giày lên bàn đại biểu để phản đối bài phát biểu của đại biểu Philippines Lorenzo Sumulong trong Phiên họp toàn thể lần thứ 902 Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc ở Thành phố New York, vào ngày 12 tháng 10 năm 1960.
Năm 2003, học giả người Mỹ William Taubman báo cáo rằng ông đã phỏng vấn một số nhân chứng, và họ nói rằng Khrushchev chỉ khua giày chứ không đập nó. Ông cũng báo cáo rằng không có bức ảnh hoặc video nào về vụ đập giày được tìm thấy. Tuy nhiên, trong cuốn tiểu sử về Khrushchev, ông viết rằng ông thừa nhận đã đập giày. Có ít nhất một bức ảnh giả, trong đó một chiếc giày đã được thêm vào một bức ảnh gốc.
Diễn biến
Ngày 12 tháng 10 năm 1960, trưởng phái đoàn Philippines Lorenzo Sumulong đề cập đến "các dân tộc Đông Âu và các nơi khác đã bị tước đoạt quyền tự do dân sự và chính trị, và đã bị Liên Xô nuốt chửng". Khi nghe điều này, Khrushchev nhanh chóng bước lên bục phát biểu. Ở đó, anh ta phản đối, theo kiểu sân khấu, rồi gạt Sumulong sang một bên bằng cách đưa tay phải lên mà không chạm vào anh ta, và bắt đầu tố cáo Sumulong một cách dài dòng. Khrushchev gọi anh ta (trong số những điều khác) là "một tên khốn, một tên bù nhìn, và một tay sai”, đồng thời là một "kẻ nịnh hót của chủ nghĩa đế quốc Mỹ" và yêu cầu Chủ tịch Đại Hội đồng Frederick Boland (Ireland) ra lệnh đối với Sumulong. Boland cảnh báo Sumulong "tránh sa vào một cuộc tranh cãi chắc chắn sẽ gây ra sự can thiệp sâu hơn", nhưng vẫn cho phép anh ta tiếp tục nói và đuổi Khrushchev trở lại chỗ ngồi của mình.
Theo một số nguồn tin, Khrushchev đã đập tay xuống bàn để phản đối khi Sumulong tiếp tục nói, và có lúc đã nhặt chiếc giày của mình lên và đập nó vào bàn. Một số nguồn tin khác tường thuật một trình tự sự kiện khác: Khrushchev đầu tiên đập giày rồi lên bục để phản đối. Bài phát biểu của Sumulong lại bị gián đoạn. Một điểm chú ý khác là Thứ trưởng Ngoại giao Românian , một thành viên của Khối phía Đông. Mezincescu giận dữ tố cáo Sumulong, rồi sau đó chuyển sự tức giận sang Boland. Hành vi khiêu khích, xúc phạm và phớt lờ Chủ tịch Đại Hội đồng của anh ta dẫn đến việc micro của anh ta cuối cùng bị tắt. Điều này đã dẫn đến một loạt tiếng la hét và chế nhạo từ các phái đoàn Khối phía Đông. Khung cảnh hỗn loạn cuối cùng cũng kết thúc khi Boland, với mặt đỏ bừng vì thất vọng, đột ngột tuyên bố hoãn cuộc họp và đập mạnh chiếc búa của mình, được gọi là Búa Thor (Thor's gavel), mạnh đến mức làm gãy nó, khiến cái đầu búa bay tung. Khi quan sát vụ đập giày, Thủ tướng Anh Harold Macmillan được cho là đã châm biếm "Chúng tôi có thể vui lòng có bản dịch chính thức về việc này không?" ("Could we please have an official translation of this?").
Vụ việc này đã được một số tờ báo đưa tin vào thời điểm đó, trong đó có The New York Times, The Washington Post, The Guardian, The Times và Le Monde. The New York Times có một bức ảnh chụp Khrushchev và Andrei Gromyko, với một chiếc giày trên bàn làm việc của Khrushchev.
Sau vụ việc
Khrushchev được cho là rất vui mừng với màn trình diễn của ông, nhưng các thành viên của các phái đoàn Khối phía Đông khác tại Liên Hợp Quốc lại tỏ ra xấu hổ hoặc không hài lòng. Khrushchev bị cách chức lãnh đạo vào năm 1964, và ông bị chỉ trích vì vụ việc: "một tình tiết đáng xấu hổ mà ông vẫn hành xử như thể đó là hành động dũng cảm".
Năm 1961, nhà triết học chủ nghĩa Marx Frantz Fanon nhận xét: "Khi ông Khrushchev khua giày tại Liên Hợp Quốc và đập nó lên bàn, không một cá nhân nước thuộc địa nào, không một đại diện nào của các nước kém phát triển cười. Vì những gì ông Khrushchev đang thể hiện về các nước thuộc địa đang quan sát ông, một tác điền vác tên lửa, đang đối xử với những nhà tư bản khốn khổ này theo cách mà họ đáng phải chịu."
Khrushchev đề cập đến vụ đập giày trong hồi ký của mình, viết rằng ông đang lên tiếng phản đối mạnh mẽ chế độ Franco ở Tây Ban Nha. Một đại diện của Tây Ban Nha lên phát biểu, và sau bài phát biểu của ông, các đại diện của các quốc gia xã hội chủ nghĩa đã ồn ào phản đối. Khrushchev viết: "Nhớ lại những báo cáo mà tôi đã đọc về các phiên họp của Duma Quốc gia ở Nga, tôi quyết định tăng thêm chút nhiệt. Tôi cởi giày và đập nó lên bàn để cuộc phản đối của chúng tôi to hơn." Chú thích cuối trang của văn bản này nói rằng hồi ức của Khrushchev là sai lầm. Ngày 3 tháng 10 năm 1960, The Times đưa tin rằng Khrushchev đã phát động một "cuộc tấn công giận dữ" chống lại Franco vào ngày 1 tháng 10, và bài báo không đề cập đến vụ đập giày.
Chắt gái của Khrushchev, Nina L. Khrushcheva, viết rằng, sau nhiều năm im lặng xấu hổ, gia đình bà đã giải thích hồi ức của họ về sự kiện này. Theo Nina, Khrushchev đang đi một đôi giày mới và chật nên đã cởi chúng ra khi đang ngồi. Ông bắt đầu dùng nắm đấm đập xuống bàn trong lúc phản ứng giận dữ, và đồng hồ của ông rơi ra. Khi ông đang nhặt nó lên, đôi giày trống rỗng lọt vào mắt ông và ông nhân cơ hội nhặt một chiếc lên và đập nó xuống bàn. Cô cũng ho biết rằng nhiều phiên bản của vụ việc đã được lưu truyền với nhiều ngày và dịp khác nhau.
Lời kể của Nina rất giống với lời kể của Viktor Sukhodrev, thông dịch viên lâu năm của Khrushchev, người đã ngồi cùng ông trong suốt phiên họp và báo cáo rằng sếp của anh đã đập mạnh vào bàn đại biểu đến nỗi đồng hồ của ông ngừng hoạt động. Điều này chỉ khiến ông thêm tức giận và chuyển sự chú ý tới chiếc giày.
Sergei Khrushchev (con trai Nikita) cho biết ông không tìm thấy bất kỳ hình ảnh hoặc video bằng chứng nào về vụ việc. Cả NBC và CBC đều tiến hành tìm kiếm trong kho lưu trữ của họ nhưng không thể tìm thấy đoạn băng ghi lại sự kiện này.
Theo ý kiến của Sergei, rất khó tồn tại khả năng Nikita Khrushchev cố tình cởi giày của mình. Có rất ít không gian dưới bàn làm việc, và nhà lãnh đạo Liên Xô lại hơi béo nên không thể chạm tới chân. Vấn đề cụ thể này đã được một cựu nhân viên Liên Hợp Quốc giải quyết vào năm 2002, khi người này nói rằng Khrushchev không thể tự ý tháo giày ở bàn làm việc của mình mà vốn trước đó đã làm mất nó sau khi bị một nhà báo giẫm phải. Nhân viên LHQ sau đó lấy chiếc giày, gói vào khăn ăn rồi đưa lại cho Khrushchev, nhưng ông không thể mang nó lại và phải để nó trên sàn cạnh bàn làm việc của mình. Nhân viên này cũng xác nhận rằng cô ấy đã nhìn thấy ông sau đó đập chiếc giày xuống bàn, do đó tin cậy vào các báo cáo của Nina Khrushcheva và Viktor Sukhodrev.
Theo nhà báo người Đức , một nhà sản xuất giày ở Pirmasens cho biết ông đã nhìn thấy hình ảnh chiếc giày trên một tờ báo và nhận ra nó là của công ty ông. Bộ Kinh tế Liên bang giải thích Tây Đức đã xuất 30.000 đôi giày sang Liên Xô. Trong số đó có 2.000 đôi giày đế thấp loại tốt, và một trong số đó có thể đã đến tay Khrushchev.
Xem thêm
We will bury you
Kuzma's mother
Vụ ném giày vào George W. Bush
Tham khảo
Để có phân tích học thuật chi tiết về sự việc này với bối cảnh đầy đủ, xem Thomas M. Prymak, "Cold War Clash, New York City, September-October 1960: Comrade Khrushchev vs 'Dief the Chief'," International History Review vol. 45, no. 1 (2023), 134-51.
Hoa Kỳ năm 1960
Quan hệ quốc tế năm 1960
Lịch sử quân sự năm 1960
Lịch sử Liên Hợp Quốc
Quan hệ ngoại giao của Liên Xô
Sự kiện ngoại giao
Nikita Khrushchev
Giày
Diễn văn trong Chiến tranh Lạnh
Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc |
Dương Tư Công chúa(chữ Hán :陽滋公主) , tính Doanh (嬴) , thị Tần (秦) , tên đầy đủ là Dương Tư (陽滋) , là một công chúa nhà Tần trong lịch sử Trung Quốc. Bà là con gái của Tần Thủy Hoàng , người đầu tiên thống nhất Trung Hoa , song bị chính anh em ruột là Doanh Hồ Hợi giết chết một cách dã man.
Cuộc đời
Dương Tư Công chúa là một trong số các cô con gái của Tần Thủy Hoàng , mẹ của cô cũng như nhiều người con khác không rõ là ai , cô thường được cho là con gái thứ hai của ông.
Khi còn sống , công chúa được hưởng vinh hoa đầy đủ , tuy nhiên đến lúc chiến loạn , Thừa tướng Triệu Cao xúi giục anh em ruột của công chúa , tức Tần Nhị Thế trừng phạt những người không trung thành với các hình phạt nặng nề hơn , bao gồm việc xử tử toàn bộ anh chị em ruột của ông : Mười hai vị công tử bị xử tử giữa chợ Hàm Dương. Mười vị công chúa cũng bị xử tử và bị xé xác , bao gồm cả Dương Tư Công chúa.
Khai quật
Tháng 10 năm 1976 , ở làng Thượng Giao nằm ở phía đông lăng mộ Tần Thủy Hoàng , người ta phát hiện một nhóm gồm 17 ngôi mộ chôn cất từ thời nhà Tần. Các nhà khảo cổ đã khai quật được 8 ngôi mộ trong số đó, mỗi ngôi mộ trong số 8 ngôi mộ có một quan tài , 7 ngôi mộ chứa. Trong một ngôi mộ, trong quan tài chỉ có một thanh kiếm đồng và không có xương người.
Điều đáng kinh ngạc ở đây là xương trong quan tài nằm rất rải rác , một số di thể tách rời khỏi tứ chi , một số họp sọ tách khỏi thân thể , một số họp sổ lại có mũi tên , chứng tỏ chủ nhân của các bộ xương chết một cách bất thường. Điều khó tin ở đây là đồ vật an táng trong lăng mộ lại rất phong phú, bao gồm hơn 200 miếng vàng, bạc, đồng, sắt, gốm, ngọc, trai, vỏ sò, xương, đồ sơn mài và các mảnh lụa , cho thấy ngôi mộ chủ nhân có một địa vị nhất định. Dựa trên một chiếc nhẫn trong một lăng mộ nữ , tên của một công chúa được cho là Dương Tư.
Chú thích |
Nhà thờ của Chúa Kitô và Đức Mẹ Lộ Đức () còn được gọi đơn giản là Nhà thờ của Estación Atlántida là một nhà thờ giáo xứ Giáo hội Công giáo, đồng thời là một Di sản thế giới được UNESCO công nhận nằm ở vùng ngoại ô Estación Atlántida, thuộc thành phố Atlántida, tỉnh Canelones, miền nam Uruguay.
Mô tả
Nhà thờ là nơi dành riêng cho Chúa Kitô và Đức Mẹ Lộ Đức. Đây là một công trình bằng gạch rất đơn giản, phù hợp với việc sử dụng gạch lộ thiên, không có cột hoặc dầm, thêm vật liệu gốm gia cố. Nó là một công trình kiến trúc nổi tiếng, được thiết kế vào năm 1952 bởi kỹ sư Eladio Dieste và bắt đầu được xây dựng từ năm 1959. Điểm nổi bật của nó ở mặt kiến trúc, với một hình chữ nhật 16 x 30 mét đơn giản với tường bên cao 7 mét nhô lên theo những biên độ đường cong nhấp nhô đạt tối đa của vòm quấn. Những bức tường này hỗ trợ một mái nhà nhấp nhô tương tự, bao gồm một chuỗi các mái vòm Gaussia bằng gạch.
Gian giữa đơn nhất, không gian bên trong nhấp nhô do trần và tường tạo ra, bên cạnh là có các cửa lấy sáng. Tại đây có tượng Chúa Kitô được chạm khắc bằng gỗ do nhà điêu khắc gốc Tây Ban Nha Eduardo Yepes thực hiện và một bàn thờ làm bằng khối đá granit xanh thô. Ở lối vào là dàn hợp xướng nằm trên một căn gác xép được làm bằng gốm sứ
Tháp chuông hình trụ có đường kính 3 mét, cao 15 mét được xây bằng gạch dày 0,3 mét nằm nổi bật bên phải mặt tiền của nhà thờ chính, trong khi nhà rửa tội nằm ngầm dưới lòng đất phía bên trái của sân trước nhà thờ, có thể vào từ lối vào hình lăng trụ tam giác, được chiếu sáng bởi một lỗ tròn đỉnh vòm.
Nhà thờ là một ví dụ nổi bật về những thành tựu không gian và hình thức đáng chú ý của kiến trúc hiện đại ở Châu Mỹ Latinh trong nửa sau của thế kỷ 20, thể hiện sự phù hợp với các giá trị xã hội với việc sử dụng tài nguyên một cách tiết kiệm, đáp ứng các yêu cầu về cấu trúc để đạt được hiệu quả thẩm mỹ cao.
Công trình này là một Di sản lịch sử quốc gia Uruguay được UNESCO công nhận là Di sản thế giới vào năm 2021 với tên gọi "Công trình của kỹ sư Eladio Dieste: Nhà thờ của Atlántida".
Hình ảnh
Tham khảo
Liên kết ngoài
Pictures of "Cristo Obrero"
Di sản thế giới tại Uruguay
Công trình của Eladio Dieste
Kiến trúc Hiện đại tại Uruguay |
FL Studio Mobile là một máy trạm âm thanh kỹ thuật số khả dụng cho Android, iOS và Windows UWP.
Phần mềm này cho phép người dùng tạo các dự án âm nhạc được kết hợp từ những âm thanh của các nhạc cụ khác nhau để tạo thành bản nhạc hoàn chỉnh, sau đó nó có thể được xuất sang các định dạng WAV, MP3 và MIDI để hoạt động với các máy trạm âm thanh kỹ thuật số khác hoặc ở định dạng dự án FLM (có sẵn đối với FL Studio 10.0.5 trở lên). Nhiều tính năng khác nhau bao gồm step sequencer, piano roll, keyboard, drum pad, trình chỉnh sửa bản nhạc, các bộ xử lý âm thanh và 133 âm thanh từ các nhạc cụ khác nhau bao gồm synths và bộ trống. Các công cụ âm thanh cũng có thể được thêm dưới dạng tệp .zip hoặc .instr.
Phát hành
Ngày 21 tháng 6 năm 2011, Image-Line đã phát hành FL Studio Mobile và FL Studio Mobile HD cùng các phiên bản của Windows máy trạm âm thanh kỹ thuật số FL Studio. FL Studio Mobile được Artua thiết kế và phát triển với sự hợp tác của các nhà sản xuất Music Studio. Image-Line đã phát hành phần mềm với mức giá khởi điểm là 15,99 USD (19,99 USD cho phiên bản HD), và cả hai phiên bản đều có sẵn để tải xuống tại App Store.Tháng 11/tháng 12 năm 2016 Image-Line đã phát hành FL Studio Mobile 3 trên Android (Google Play Store), sau đó là iOS (Apple App Store) và cuối cùng là Windows (Windows App Store). FL Studio Mobile 3 là một ứng dụng hoàn toàn mới được phát triển nội bộ tại Image-Line, thay thế FL Studio Mobile 2 hiện có, phiên bản do Artua phát triển. Giá đã được điều chỉnh giảm xuống còn 14,99 USD. FL Studio Mobile 1.0 tương thích với các thiết bị chạy iOS 3.1.3 trở lên, cụ thể là tất cả các dòng iPhones và iPod Touch. iPad 1 và iPad 2 có thể chạy FL Studio Mobile hoặc FL Studio Mobile HD , với phiên bản HD yêu cầu từ iOS 4.2 trở lên. Phiên bản iPhone 4 hỗ trợ Màn hình Retina.
Tham khảo
Trình chỉnh sửa âm thanh
Phần mềm máy trạm âm thanh kỹ thuật số
Vòng lặp âm nhạc
Phần mềm 2011
Phần mềm sản xuất âm nhạc
Phần mềm tạo nhạc phim
Phần mềm iOS
FL Studio |