text
stringlengths
465
7.22k
Cùng lúc ấy, Quân đoàn VII Hoa Kỳ tung ra cuộc tấn công ồ ạt bằng xe bọc thép vào Iraq, từ phía tây Kuwait, khiến quân Iraq hoàn toàn bất ngờ. Sườn trái của đội quân này được Sư đoàn bọc thép hạng nhẹ số 6 của Pháp bảo vệ (gồm cả các đơn vị của Tiểu đoàn Lê dương Pháp), và sườn phải bởi Sư đoàn thiết giáp số 1 Hoàng gia Anh. Khi liên quân đã thâm nhập sâu vào lãnh thổ Iraq, họ quay sang phía đông, tung ra những cuộc tấn công vào lực lượng Vệ binh cộng hoà Iraq. Những trận chiến xe tăng nổ ra khi Vệ binh cộng hòa tìm cách rút lui, khiến cho liên quân chiến thắng mà chỉ bị thương vong ở mức thấp nhất.
Khi Iraq đã quyết định rằng họ sẽ không tiến về phía các giếng dầu phía đông của Ả Rập Xê Út, thì không có lý do gì để các lực lượng Iraq triển khai xa hơn nữa về phía nam Thành phố Kuwait với số lượng lớn. Quyết định triển khai một lực lượng khá đông đảo quân dọc theo biên giới Kuwait càng làm tăng khoảng cách tiếp tế của quân Iraq một cách không cần thiết. Thứ hai, khi đã quyết định triển khai quân dọc biên giới, việc mở rộng nó ra càng khiến nguy cơ bị tấn công ồ ạt vào sườn. Quả thực người Iraq không có đủ lực lượng để giữ một mặt trận đủ dài dọc theo biên giới Kuwait và tây nam Iraq. Vì thế việc cấp thiết là việc triển khai quân và thu hẹp mặt trận chỉ ở phía nam Thành phố Kuwait và mở rộng tới vùng ngoại ô Basra. Iraq chỉ có một lợi thế tuyệt đối trước lực lượng liên quân ở số lượng và chất lượng pháo binh. Đa số các đơn vị pháp binh Iraq được kéo bằng xe và vì thế không thích ứng tốt với việc phát triển mở rộng. Điều này cũng có nghĩa là Iraq muốn làm chậm sự di chuyển của quân địch và giao chiến dọc theo các giới tuyến không dễ dàng bị chọc thủng hay đánh ngang sườn.
Điều ngạc nhiên nhất của chiến dịch trên bộ là tỷ lệ thương vong thấp của liên quân. Điều này vì quân Iraq không thể tìm ra một biện pháp phản công thích hợp đối với những ống nhòm hồng ngoại và loại đạn năng lượng động lực từ các xe M1 Abrams. Phương tiện này cho phép những chiếc xe tăng liên quân chiến đấu và tiêu diệt một cách hiệu quả các xe tăng Iraq từ khoảng cách xa gấp ba lần khoảng cách có thể tác chiến của xe tăng Iraq. Các lực lượng Iraq cũng không thể lợi dụng ưu thế có thể có từ việc sử dụng chiến thuật chiến tranh đô thị - chiến đấu bên trong Thành phố Kuwait, có thể gây ra những thương vong đáng kể đối với các lực lượng tấn công. Chiến tranh trong thành phố làm giảm tầm chiến đấu và vì thế giảm bớt ưu thế công nghệ của liên quân. Điều này đã được chứng minh gần đây trong những trận đánh giữa các lực lượng Mỹ và những kẻ nổi dậy Iraq trong môi trường đô thị sau Cuộc xâm lược Iraq năm 2003. Các ranh giới của địa lý đô thị, và sự hiểu biết mà những kẻ tấn công không thể có được, sẽ làm giảm lợi thế của liên quân và khả năng tiêu diệt ở tầm xa của họ.
Một hội nghị hòa bình đã được Liên quân tổ chức trên vùng lãnh thổ Iraq bị chiếm đóng. Tại hội nghị, Iraq được phép sử dụng các máy bay trực thăng vũ trang trong phía biên giới lãnh thổ nước mình, bề ngoài là để vận chuyển các quan chức chính phủ do những thiệt hại đã phải hứng chịu của hệ thống vận chuyển công cộng. Một thời gian ngắn sau, những chiếc trực thăng đó - và đa số các lực lượng vũ trang Iraq - lại quay sang phục vụ mục tiêu chiến đấu chống lại cuộc nổi dậy của người Shiite ở phía nam. Tại phía bắc, các lãnh đạo người Kurd tin tưởng vào những lời tuyên bố của Hoa Kỳ rằng họ sẽ ủng hộ một cuộc nổi dậy và bắt đầu chiến đấu, với hy vọng thực hiện được một cuộc đảo chính. Tuy nhiên, khi những giúp đỡ của Mỹ còn chưa tới nơi, các tướng lĩnh Iraq còn trung thành đã đàn áp dã man quân đội người Kurd. Hàng triệu người Kurd đã phải chạy qua các vùng núi để đến những vùng người Kurd tại Thổ Nhĩ Kỳ và Iran. Những vụ xung đột đó sau này đã dẫn tới việc thành lập những vùng cấm bay ở cả phía bắc và phía nam Iraq. Tại Kuwait, gia đình Emir được tái lập và những kẻ bị cho là cộng tác với Iraq bị đàn áp. Cuối cùng, hơn 400.000 người đã bị trục xuất khỏi đất nước, gồm một số lượng lớn người Palestine (vì sự ủng hộ và hợp tác của họ với Saddam Hussein).
Chi phí chiến tranh của Hoa Kỳ do Hạ viện tính toán là $61,1 tỷ. Các nguồn khác ước tính lên tới $71 tỷ. Khoảng $53 tỷ trong số đó do các nước khác chi trả: $36 tỷ do Kuwait, Ả Rập Xê Út và các nước Vùng Vịnh khác; $16 tỷ bởi Đức và Nhật Bản (hai nước này không gửi lực lượng chiến đấu vì các điều khoản trong các hiệp ước chấm dứt Chiến tranh thế giới thứ hai). Khoảng 25% số đóng góp của Ả Rập Xê Út được thanh toán dưới hình thức các dịch vụ cung cấp cho lực lượng liên quân như thực phẩm và vận chuyển. Nhiều lý lẽ cho rằng Ả Rập Xê Út còn cung cấp cả gái mại dâm sau này đã được chứng minh là không chính xác.
Tại Hoa Kỳ, nhóm "bộ ba lớn" điều hành mạng lưới tin tức đưa tin về cuộc chiến: Peter Jennings của ABC, Dan Rather của CBS và Tom Brokaw của NBC dẫn các chương trình thông tin buổi tối của họ khi các cuộc tấn công đã bắt đầu ngày 16 tháng 1 năm 1991. Phóng viên của ABC News Gary Shepard, bình luật trực tiếp từ Baghdad, nói với Jennings về sự tĩnh lặng của thành phố. Nhưng nhiều tháng sau, Shepard đã tái xuất hiện với những ánh chớp có thể được nhìn thấy ở chân trời và những vạch lửa đạn xung quanh trên mặt đất. Trên kênh CBS, khán giả có thể theo dõi bản tin của phóng viên Allen Pizzey, cũng đưa tin từ Baghdad, khi cuộc chiến bắt đầu. Sau khi bản tin kết thúc lại có tin rằng có những tin tức chưa được kiểm chứng về những vụ nổ tại Baghdad hoạt động không quân mạnh tại các căn cứ ở Ả Rập Xê Út. Trong bản tin "NBC Nightly News", phóng viên Mike Boettcher thông báo về những hoạt động không quân không thường xuyên ở Dhahran. Vài phút sau, Brokaw nói với khán giả rằng cuộc tấn công không quân đã bắt đầu. Nhưng chính kênh CNN được nhiều người theo dõi nhất. Các phóng viên CNN, John Holliman và Peter Arnett cùng CNN phóng viên thường trú Bernard Shaw đã thông báo qua điện thoại từ Khách sạn Al-Rashid khi những cuộc không kích bắt đầu. Báo chí khắp thế giới đều đưa tin về cuộc chiến và Tạp chí TIME đã xuất bản một số đặc biệt ngày 28 tháng 1 năm 1991, dòng tít "CHIẾN TRANH VÙNG VỊNH" nổi bật ngoài trang bìa với bức ảnh chụp Baghdad khi cuộc chiến bắt đầu.
Chính sách của Hoa Kỳ về tự do báo chí có hạn chế hơn so với ở Chiến tranh Việt Nam. Chính sách này đã được giải thích rõ trong một tài liệu của Lầu Năm Góc tên là Annex Foxtrot. Đa số những thông tin báo chí có được đều từ những cuộc họp báo ngắn của quân đội. Chỉ những nhà báo được lựa chọn mới được phép tới mặt trận hay tiến hành các cuộc phỏng vấn binh sĩ. Những cuộc viếng thăm đó luôn được tiến hành với sự hiện diện của các sĩ quan, và sau đó đều phải được sự cho phép của quân đội và bộ phận kiểm duyệt. Điều này bề ngoài là để bảo vệ các thông tin nhạy cảm khỏi bị tiết lộ cho Iraq nhưng trên thực tế là để ngăn chặn tiết lộ các thông tin gây rắc rối về chính trị. Chính sách này bị ảnh hưởng nhiều từ những kinh nghiệm sau Chiến tranh Việt Nam, được cho rằng đã gây ra nhiều rò rỉ dẫn tới sự chống đối từ bên trong nước Mỹ.
Cùng lúc ấy, việc đưa tin nhanh nhạy về cuộc chiến là rất mới mẻ. Nhiều nhà báo Mỹ vẫn ở lại thủ đô Baghdad của Iraq trong suốt cuộc chiến, và cảnh tên lửa bay đến được chiếu ngay lập tức trên những bản tin vô tuyến buổi tối và trên các kênh tin tức qua truyền hình cáp như CNN. Một đoàn phóng viên của kênh CBS News (David Green và Andy Thompson), được trang bị thiết bị truyền thông tin vệ tinh đã tới mặt trận và truyền trực tiếp những hình ảnh cuộc chiến đang diễn ra. Họ tới Thành phố Kuwait một ngày trước khi các lực lượng liên quân tiến vào và truyền trực tiếp những hình ảnh các lực lượng Ả Rập (và các nhà báo khác!) tiến vào đó trong ngày hôm sau.
Theo sau những cuộc nổi dậy ở miền Nam và miền Bắc, các vùng cấm bay đã được thiết lập để bảo vệ người Shi'ite ở miền Nam và người Kurd ở miền Bắc. Những vùng cấm bay này (bắt đầu từ vĩ tuyến 36 Bắc và vĩ tuyến 32 Nam) chủ yếu do Mỹ và Anh kiểm soát, mặc dù Pháp cũng có tham gia ít nhiều. Cấu kết với nhau, họ đã thực hiện những chuyến bay thanh sát trong vòng 11 năm sau khi kết thúc chiến sự còn nhiều hơn cả trong thời kỳ chiến tranh. Những chuyến thanh sát này đã dội bom gần như mỗi ngày vào tên lửa đất đối không và súng cao xạ được dùng để bắn hạ máy bay. Tuy nhiên, lượng bom lớn nhất đã được sử dụng trong hai chiến dịch kéo dài: Chiến dịch Tấn công sa mạc, kéo dài trong nhiều tuần từ tháng 9 năm 1996, và Chiến dịch Con cáo sa mạc, tháng 12 năm 1998. Chiến dịch Kiểm soát miền Bắc, vùng cấm bay trong khu vực người Kurd, đã cho phép người dân tập trung vào tăng cường an ninh và phát triển cơ sở hạ tầng, điều này đã được phản ánh sau sự sụp đổ của chế độ Saddam Hussein năm 2003, khu vực này đã phát triển và ổn định hơn (khi so sánh với các vùng khác của Iraq trong Chiến dịch Giải phóng Iraq). Trái lại, Chiến dịch Kiểm soát miền Nam, đã không thành công trong việc tạo cho người Shi'ite cơ hội xây dựng và kiến thiết như vậy.
Cơ sở hạ tầng bị tàn phá nặng nề trên diện rộng trong suốt thời kỳ chiến sự đã gây mất mát cho người dân Iraq. Nhiều năm sau chiến tranh lượng điện sản xuất ra vẫn chỉ đạt một phần tư mức trước cuộc chiến. Việc phá hủy các nhà máy xử lý nước khiến nước thải bị đổ trực tiếp xuống sông Tigris, và dân cư lại lấy nước ở đây để sinh hoạt dẫn tới sự phát sinh dịch bệnh trên diện rộng. Những khoản vốn tài trợ từ phía các nước phương Tây nhằm giải quyết vấn đề này bị chính quyền Saddam sử dụng để duy trì quyền kiểm soát quân sự của mình.
Trừng phạt kinh tế vẫn được duy trì nhiều năm sau chiến tranh vì lý do từ những cuộc thanh sát vũ khí mà Iraq chưa bao giờ hợp tác đầy đủ. Sau này Iraq được Liên Hiệp Quốc cho phép nhập khẩu một số hàng hóa theo chương trình Đổi dầu lấy lương thực. A 1998 bản báo cáo của UNICEF cho thấy những biện pháp trừng phạt khiến con số tử vong ở nước này tăng thêm 90.000 người mỗi năm. Nhiều người cho rằng các biện pháp trừng phạt Iraq và sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Ả Rập Xê Út góp phần làm xấu đi hình ảnh của Mỹ trong thế giới Ả Rập.
Năm 1997, Iraq trục xuất toàn bộ các thành viên người Mỹ bên trong phái đoàn thanh sát vũ khí, cáo buộc rằng Hoa Kỳ đã lợi dụng họ làm gián điệp; các thành viên của UNSCOM thường có những cuộc tiếp xúc với các cơ quan tình báo để cung cấp các thông tin về các địa điểm tàng trữ vũ khí. Đội thanh sát vũ khí tiếp tục quay lại Iraq trong giai đoạn 1997 và 1999 và còn gặp nhiều rắc rối hơn nữa; một thành viên trong đội thanh sát, Scott Ritter thuộc Hải quân Hoa Kỳ đã từ chức năm 1998, cho rằng chính quyền Clinton đang cản trở các cuộc thanh sát vì họ không muốn đối đầu thực sự với Iraq. Năm 1999, đội thanh sát được thay thế bởi UNMOVIC, cơ quan này bắt đầu tiến hành công việc từ năm 2002. Năm 2002, Iraq - và đặc biệt là Saddam Hussein - trở thành mục tiêu trong Cuộc chiến chống khủng bố của Hoa Kỳ, dẫn tới cuộc xâm lược Iraq năm 2003, do Hoa Kỳ và, ở tầm vóc thấp hơn, Anh lãnh đạo.
Một hậu quả chủ chốt của Chiến tranh Vùng Vịnh, theo Gilles Kepel, là sự hồi sinh rõ rệt của chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan. Việc chế độ Saddam bị lật đổ không khiến các nhóm Hồi giáo ủng hộ nhiều. Tuy nhiên, việc này, cùng với liên minh giữa Ả Rập Xê Út và Hoa Kỳ, bị coi là cùng phía với Israel càng làm chính phủ Ả Rập Xê Út mất uy tín trong nước. Hoạt động của các nhóm Hồi giáo chống lại chính quyền Ả Rập Xê Út tăng lên dữ dội. Trong một nỗ lực nhằm lấy lại hình ảnh của mình, Ả Rập Xê Út đã chi thêm tiền cho những nhóm ủng hộ chính phủ. Chính phủ Ả Rập Xê Út đã chi tiền phát hàng triệu cuốn Qur'an cho dân các nước mới độc lập ở vùng Trung Á và xây dựng hàng trăm thánh đường Hồi giáo cho những nhóm cực đoan. Tại Afghanistan chính quyền Ả Rập Xê Út trở thành người bảo trợ hàng đầu cho Taliban trong cuộc nội chiến ở nước này, và là một trong những quốc gia duy nhất chính thức công nhận chính phủ đó.
Nhiều binh sĩ liên quân quay trở về từ chiến trường thông báo về các loại bệnh gặp phải sau khi tham chiến, một hiện tượng được gọi là Hội chứng Vùng Vịnh. Có nhiều nghiên cứu và bất đồng về các nguyên nhân gây ra hội chứng đó cũng như những ảnh hưởng của nó đối với trẻ sơ sinh (số lượng trẻ sinh ra trong các gia đình binh lính với các khiếm khuyết tương tự nhau hay những bệnh tật nghiêm trọng lên tới 67%, theo một cuộc nghiên cứu do Sở Cựu chiến binh Hoa Kỳ tiến hành). Một báo cáo xuất bản năm 1994 của Văn phòng Giải trình Chính phủ cho rằng quân đội Mỹ đã đối diện với 21 loại "chất độc liên quan tới sinh sản" tiềm tàng. Một số nguyên nhân bị chỉ ra là tiếp xúc với các vật liệu phóng xạ, khói dầu, và các loại vắc xin bệnh than sản xuất quá nhanh dùng cho binh sĩ (các loại vắc xin thường cần phải trải qua quá trình sản xuất vài tháng).
Năm 1998, các bác sĩ của chính phủ Iraq đã báo cáo rằng việc liên quân sử dụng urani nghèo đã gây ra hàng loạt vụ khuyết tật ở trẻ sơ sinh và ung thư trong dân chúng Iraq, đặc biệt là bệnh bạch cầu. Các bác sĩ của chính phủ cho rằng họ không có đủ bằng chứng cho thấy có mối quan hệ giữa urani nghèo với những vụ khuyết tận trẻ sơ sinh bởi vì những biện pháp trừng phạt đã khiến họ không thể có được các thiết bị thử nghiệm cần thiết. Vì thế, một đội bác sĩ của Tổ chức sức khỏe thế giới đã tới Basra và đề xuất một cuộc nghiên cứu để điều tra lý do gây ra tỷ lệ ung thư cao ở miền nam Iraq, nhưng Saddam đã từ chối.
Tuy nhiên, Tổ chức sức khỏe thế giới đã có thể tiếp cận với những nguy cơ đối với sức khỏe của urani nghèo tại những địa điểm đã xảy ra chiến tranh nhờ một phái đoàn năm 2001 tới Kosovo. Một báo cáo năm 2001 của WHO về urani nghèo đã kết luận: "bởi vì urani nghèo chỉ là phóng xạ yếu, cần phải hít vào những khối lượng rất lớn bụi (ở mức độ gam) để có thể tăng nguy cơ ung thư phổi ở mức độ có thể nhận thấy trong một nhóm nguy cơ. Những nguy cơ về ung thư phóng xạ khác gồm bệnh bạch cầu, được coi là thấp hơn rất nhiều so với ung thư phổi." Hơn nữa, "không có những tác động liên tục hay tiến triển đã được báo cáo ở người" vì lý do chịu tác động của urani nghèo.
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cũng đã xuất bản một cuốn sách về urani nghèo. Nó tuyên bố: "Tổ chức sức khỏe thế giới và các nghiên cứu khoa học khác đã cho thấy urani nghèo không gây ra những nguy cơ nghiêm trọng đối với sức khoẻ" và "urani nghèo không gây ra khuyết tật ở trẻ sơ sinh. Quân đội Iraq sử dụng các vũ khí hóa học và thần kinh trong thập kỷ 1980 và 1990 có thể là nguyên nhân gây ra cái gọi là khuyết tật ở trẻ em Iraq." Về những buộc tội gây ra ung thư, cuốn sách của Hoa Kỳ cho rằng "theo những chuyên gia về sức khỏe môi trường, về mặt y tế không thể coi việc nhiễm bệnh bạch cầu như là kết quả của việc chịu tác động của urani hay urani nghèo", và "tỷ lệ ung thư trong số 19.000 công nhân công nghiệp tiếp xúc với urani nghèo ở mức độ cao tại các dự án ở Phòng thí nghiệm quốc gia Oak Ridge trong giai đoạn 1943 và 1947 đã được xem xét, và việc tăng tỷ lệ ung thư không hề được quan sát thấy cho tới tận năm 1974. Các nghiên cứu dịch tễ học khác về ung thư phổi tại các công nhân làm việc tại nhà máy urani và nhà máy gia công thép không cho thấy tỷ lệ tăng bất thường hay sự liên quan tới những chất sinh ung thư khác đã được biết ngoài urani, như radon."
Các loại vũ khí dẫn đường chính xác (PGMs, cũng được gọi là "bom thông minh"), như tên lửa AGM-130 của Không lực Hoa Kỳ được dự đoán sẽ trở thành các vũ khí chính cho phép các cuộc tấn công quân sự diễn ra với những tổn thất dân sự nhỏ nhất so với các cuộc chiến trước đó. Những căn nhà cụ thể ở các khu đông dân tại Baghdad có thể bị tấn công trong khi các nhà báo quan sát các tên lửa hành trình lao tới mục tiêu đó từ khách sạn của họ. Các vũ khí dẫn đường chính xác chiếm gần 7.4% toàn thể số bom liên minh sử dụng. Các loại bom khác gồm bom chùm có thể vỡ ra thành nhiều quả bom nhỏ, và những quả bom BLU-82 nặng 15.000 pound có thể phá hủy mọi vật trong bán kính hàng trăm yard.
Tên lửa Scud là tên lửa đạn đạo chiến thuật do Liên bang xô viết phát triển và từng triển khai cho những sư đoàn Hồng Quân tại Đông Đức. Vai trò của các tên lửa Scud được trang bị đầu đạn hạt nhân và đầu đạn hoá học là tiêu diệt các cơ sở thông tin, trung tâm chỉ huy và làm trì hoãn quá trình động viên quân đội của Tây Đức cũng như các lực lượng Đồng Minh tại Đức. Nó cũng được sử dụng để tiêu diệt trực tiếp các lực lượng mặt đất. Các tên lửa Scud sử dụng hệ thống dẫn đường quán tính, còn hoạt động khi động cơ còn hoạt động. Iraq đã sử dụng các tên lửa Scud, phóng chúng tới cả Ả rập Xê út và Israel. Một số quả gây ra nhiều thương vong, số còn lại không gây hậu quả nặng nề. Đã có lo ngại việc Iraq có thể lắp các đầu đạn hoá học hay sinh học lên các tên lửa đó, nhưng nếu các đầu đạn đó có tồn tại, chúng cũng chưa từng được sử dụng. Mọi người tin rằng các tên lửa Scud không hữu dụng khi mang các đầu đạn hoá học bởi nhiệt độ cao trong quá trình bay ở tốc độ gần Mach 5 làm biến tính đa số các chất hoá học mang theo. Các vũ khí hoá học vốn thích hợp hơn khi được vận chuyển bằng máy bay ném bom hoặc các tên lửa hành trình. Tên lửa Scud thích hợp để mang các đầu đạn hạt nhân, một vai trò nó vẫn còn đảm nhận tới tận ngày nay, như mục tiêu thiết kế ban đầu.
Hệ thống phòng thủ tên lửa Patriot của Hoa Kỳ lần đầu tiên được sử dụng trong chiến đấu. Thời điểm ấy, quân đội Hoa Kỳ tuyên bố hệ thống phòng thủ tên lửa này có hiệu suất thành công rất cao chống lại tên lửa Scud, đảm bảo an toàn cho liên quân. Nhưng những ước tính sau này về tính hiệu quả của Patriot rất khác biệt, thấp nhất có thể ở mức 0%. Hơn nữa, ít nhất đã xảy ra một vụ lỗi phần mềm gây tổn thất nhân mạng. Những bằng chứng giải mật về hiệu quả ngăn chặn tên lửa Scud còn thiếu nhiều. Các con số ước tính hiệu quả cao dựa trên phần trăm số đầu đạn tên lửa Scud được biết đã tới mục tiêu hoặc đã nổ so với số lượng tên lửa Scud được bắn đi, nhưng các yếu tố khác như đầu đạn không nổ, bắn trượt vân vân không được tính vào đó. Một số phiên bản tên lửa Scud được sửa đổi động cơ vượt trên mức chịu đựng thiết kế thường bị cho là trượt mục tiêu hoặc nổ tung khi đang bay. Những ước tính thấp nhất thường dựa trên số lượng những lần bắn chặn và có bằng chứng cho thấy đầu đạn đã bị ít nhất một tên lửa bắn trúng, nhưng vì cách thức các tên lửa Al-Hussein (gốc từ Scud) nổ khi đang bay đến mục tiêu rất khó giải thích vì khó có thể biết đâu là mảnh đầu đạn và có ít dữ liệu ghi lại những lần dò tìm radar còn được lưu trữ cho phép phân tích về sau này. Thực tế hiệu lực thật sự của hệ thống còn là một bí mật trong nhiều năm nữa. Quân đội Hoa Kỳ và các nhà sản xuất vẫn cho rằng hệ thống Patriot đã "hoạt động tuyệt diệu" trong Chiến tranh Vùng Vịnh.
Nước biển có độ mặn không đồng đều trên toàn thế giới mặc dù phần lớn có độ mặn nằm trong khoảng từ 3,1% tới 3,8%. Khi sự pha trộn với nước ngọt đổ ra từ các con sông hay gần các sông băng đang tan chảy thì nước biển nhạt hơn một cách đáng kể. Nước biển nhạt nhất có tại vịnh Phần Lan, một phần của biển Baltic. Biển hở mặn nhất (nồng độ muối cao nhất) là biển Đỏ (Hồng Hải), do nhiệt độ cao và sự tuần hoàn bị hạn chế đã tạo ra tỷ lệ bốc hơi cao của nước bề mặt cũng như có rất ít nước ngọt từ các cửa sông đổ vào và lượng giáng thủy nhỏ. Độ mặn cao nhất của nước biển trong các biển cô lập (biển kín) như biển Chết cao hơn một cách đáng kể.
Tỷ trọng của nước biển nằm trong khoảng 1.020 tới 1.030 kg/m³ tại bề mặt còn sâu trong lòng đại dương, dưới áp suất cao, nước biển có thể đạt tỷ trọng riêng tới 1.050 kg/m³hay cao hơn. Như thế nước biển nặng hơn nước ngọt (nước ngọt tinh khiết đạt tỷ trọng riêng tối đa là 1.000 g/ml ở nhiệt độ 4 °C) do trọng lượng bổ sung của các muối và hiện tượng điện giảo. Điểm đóng băng của nước biển giảm xuống khi độ mặn tăng lên và nó là khoảng -2 °C (28,4 °F) ở nồng độ 35‰. Do đệm hóa học, độ pH của nước biển bị giới hạn trong khoảng 7,5 tới 8,4. Vận tốc âm thanh trong nước biển là khoảng 1.500 m•s−1 và dao động theo nhiệt độ của nước cùng áp suất.
Nước biển giàu các ion hơn so với nước ngọt. Tuy nhiên, tỷ lệ các chất hòa tan khác nhau rất lớn. Chẳng hạn, mặc dầu nước biển khoảng 2,8 lần nhiều các bicacbonat hơn so với nước sông dựa trên nồng độ phân tử gam, nhưng tỷ lệ phần trăm của bicacbonat trong nước biển trên tỷ lệ toàn bộ các ion lại thấp hơn so với tỷ lệ phần trăm tương ứng của nước sông do các ion bicacbonat chiếm tới 48% các ion có trong nước sông trong khi chỉ chiếm khoảng 0,41% các ion của nước biển. Các khác biệt như vậy là do thời gian cư trú khác nhau của các chất hòa tan trong nước biển; các ion natri và clorua có thời gian cư trú lâu hơn, trong khi các ion canxi (thiết yếu cho sự hình thành cacbonat) có xu hướng trầm lắng nhanh hơn.
Các giả thuyết khoa học về nguồn gốc của muối trong nước biển đã bắt đầu có từ thời Edmond Halley vào năm 1715, người cho rằng muối và các khoáng chất khác đã được đưa ra biển bởi các con sông, do chúng được lọc qua các lớp đất nhờ mưa. Khi ra tới biển, các muối này có thể được giữ lại và cô đặc hơn nhờ quá trình bay hơi của nước (xem Chu trình thủy học). Halley cũng lưu ý rằng một lượng nhỏ các hồ trên thế giới mà không có các lối thoát ra đại dương (như biển Chết và biển Caspi) phần lớn đều có độ chứa muối cao. Halley đặt tên cho quá trình này là "phong hóa lục địa".
Độ mặn của nước biển đã ổn định trong nhiều triệu năm, phần lớn có lẽ là do hệ quả của các hệ thống hóa học/kiến tạo làm cho muối bị trầm lắng, chẳng hạn các trầm lắng natri và clorua bao gồm các trầm tích evaporit và các phản ứng với bazan đáy biển. Kể từ khi các đại dương hình thành thì natri không còn được lọc ra từ đáy đại dương mà nó bị giữ lại trong các lớp trầm tích che phủ lên trên đáy đại dương. Một giả thuyết khác cho rằng các mảng kiến tạo đã làm cho muối bị giam hãm phía dưới các khối đất của lục địa và ở đó nó một lần nữa lại được thấm lọc dần tới bề mặt.
Điều này xảy ra do lượng clorua natri trong máu người luôn được thận điều tiết và duy trì trong một khoảng hẹp chỉ khoảng 9 g/L (0,9% theo trọng lượng). Uống nước biển với nồng độ khoảng 3,5% các ion clorua và natri hòa tan) nhất thời gia tăng nồng độ các ion này trong máu. Điều này kích thích thận gia tăng hoạt động bài tiết natri, nhưng nồng độ natri của nước biển là cao hơn khả năng cô tối đa của thận. Cuối cùng, với lượng gia tăng thêm nữa của nước biển thì nồng độ natri trong máu sẽ vượt ngưỡng gây ngộ độc, nó loại bỏ nước từ mọi tế bào và gây trở ngại cho truyền dẫn tín hiệu thần kinh; gây ra ngập máu và loạn nhịp tim, có thể gây tử vong.
Hồng Kông đang sử dụng một cách tích cực nước biển để dội rửa nhà vệ sinh trên phạm vi cả thành phố. Hơn 90% các nhà vệ sinh ở Hồng Kông được dội rửa bằng nước biển, như là một biện pháp để bảo tồn các nguồn nước ngọt. Sự phát triển của ý tưởng này đã bắt đầu từ những năm thập niên 1960 và 1970 khi sự thiếu nước ngọt đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng do dân số của thuộc địa này của Anh (thời điểm đó) tăng lên. Một khía cạnh thú vị của ý tưởng này là xử lý nước thải như thế nào. Nước mặn không thể xử lý (trong các xí nghiệp xử lý nước thải) bằng các phương pháp thông thường.
Thậm chí trên tàu thuyền hay đảo ở giữa đại dương vẫn có hiện tượng "thiếu nước", Tất nhiên, ở đây là thiếu nước ngọt. Nước biển chỉ có thể trở thành nước uống được nhờ các quy trình khử muối như sử dụng các công nghệ của thiết bị bốc hơi chân không, thiết bị bốc hơi flash hay công nghệ thẩm thấu ngược. Tuy nhiên, các công nghệ đó rất tiêu tốn năng lượng và nó gần như không thực tế và không thể trong thời đại thuyền buồm trong giai đoạn thế kỷ 16 tới thế kỷ 19. Ngoài ra, nó không thể dùng để uống do nồng độ của các khoáng chất hòa tan trong nó là rất cao.
Mặc dù một điều rõ ràng là con người không thể sống sót chỉ dựa vào mỗi nước biển, nhưng một số người lại tuyên bố rằng người ta có thể uống tới 2 cốc mỗi ngày, nếu trộn nó với nước ngọt theo tỷ lệ 2:3, mà không thấy xuất hiện các triệu chứng bệnh tật. Bác sĩ người Pháp Alain Bombard (1924-2005) tuyên bố rằng ông đã sống sót sau chuyến vượt đại dương trên một bè mảng nhỏ chỉ sử dụng nước biển và các sản vật khác thu được từ đại dương, nhưng tính chân thực trong các khám phá của ông là đáng ngờ. Trên bè Kon-Tiki năm 1947, Thor Heyerdahl (1914-2002) thông báo rằng việc uống nước biển trộn lẫn với nước ngọt theo tỷ lệ 40/60%. Năm 1954, một nhà thám hiểm khác là William Willis (1897-1968) đã tuyên bố rằng ông đã uống 2 cốc nước biển và một cốc nước ngọt mỗi ngày trong vòng 70 ngày mà không thấy các triệu chứng bệnh tật khi ông mất nguồn cung cấp nước ngọt.
Puerto Rico (phiên âm tiếng Việt: Pu-éc-tô Ri-cô), tên gọi chính thức là Thịnh vượng chung Puerto Rico (tiếng Tây Ban Nha: Estado Libre Asociado de Puerto Rico) là một vùng quốc hải thuộc chủ quyền của Hoa Kỳ nhưng chưa được hợp nhất vào Hoa Kỳ. Puerto Rico nằm ở phía đông bắc vùng biển Caribbean, phía đông nước Cộng hòa Dominicana và phía tây Quần đảo Virgin. Lãnh thổ Puerto Rico bao gồm một quần đảo trong đó bao gồm đảo chính Puerto Rico và nhiều đảo nhỏ hơn xung quanh, lớn nhất là các đảo Vieques, Culebra và Mona. Trong nhóm 4 đảo Đại Antilles (bao gồm các đảo Cuba, Hispaniola, Jamaica và Puerto Rico), Puerto Rico là hòn đảo có diện tích nhỏ nhất nhưng lại đứng thứ ba về dân số. Tính đến năm 2008, dân số của Puerto Rico ước tính khoảng gần 4 triệu người.
Lịch sử của đất nước Puerto Rico bắt đầu với những cộng đồng da đỏ bản địa, trong đó người Taino có một nền văn hóa khá phát triển và chiếm ưu thế tại hòn đảo trong thời gian dài. Năm 1493, Christopher Columbus đặt chân đến Puerto Rico trong chuyến hành trình thứ hai đến Tân thế giới. Hòn đảo này nhanh chóng được sáp nhập thành một thuộc địa của Đế chế Tây Ban Nha và những người dân da đỏ Taino dần dần bị tiêu diệt và thay thế bởi người châu Âu da trắng và các nô lệ da đen đến từ châu Phi. Trong cuộc chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha 1898, Mỹ chiếm đảo Puerto Rico làm thuộc địa. Ngày nay Puerto Rico là một nhà nước cộng hòa tồn tại dưới hình thức lãnh thổ thịnh vượng chung và chưa được hợp nhất chính thức vào nước Mỹ. Người dân Puerto Rico có chính phủ riêng và có một ủy viên cư dân không có quyền biểu quyết (non-voting resident commissioner) tại Quốc hội Hoa Kỳ. Tất cả người Puerto Rico đều là công dân Hoa Kỳ. Tuy nhiên người Puerto Rico không được tham gia bầu cử tổng thống Hoa Kỳ tại chính Puerto Rico nhưng họ có quyền bầu cử hay tranh cử tại bất cứ tiểu bang nào của Hoa Kỳ mà họ đến cư ngụ.
Tình trạng chính trị hiện nay của hòn đảo, bao gồm khả năng trở thành một tiểu bang của Hoa Kỳ hay được độc lập, đang được bàn cãi rất nhiều tại Puerto Rico. Từ năm 1967, cử tri Puerto Rico đã bốn lần tham gia trưng cầu dân ý để xác định tình trạng của nó, nhưng đều với kết quả là giữ tình trạng như cũ cho đến cuộc trưng cầu dân ý năm 2012. Cuộc trưng cầu dân ý không có tính ràng buộc về mật pháp lý về tình trạng chính trị của hòn đảo mới nhất đã được tổ chức vào ngày 6 tháng 11 năm 2012. Kết quả là cử tri Puerto Rico đã bác bỏ sít sao tình trạng chính trị hiện tại (câu hỏi thứ nhất) và chấp thuận áp đảo việc trở thành tiểu bang của Hoa Kỳ như là một chọn lựa ưng ý (câu hỏi thứ hai).
Những cư dân đầu tiên của đảo Puerto Rico là những thổ dân da đỏ thuộc bộ lạc Ortoiroid làm nghề sắn bắt và đánh cá. Những di chỉ tìm được về người Ortoiroid, hay người Arcaico được phát hiện năm 1990 được xác định có niên đại 2000 năm trước công nguyên. Trong khoảng giữa năm 120 và 400 sau công nguyên, người Igneri, một bộ lạc xuất xứ từ vùng châu thổ sông Orinoco, nơi ngày nay là Venezuela đã đến hòn đảo này. Giữa thế kỉ 4 và thế kỉ 10, người Arcaico và người Igneri đã cũng tồn tại trên hòn đảo, nhưng cũng có lẽ đã xung đột với nhau. Trong khoảng giữa thế kỉ 7 và thế kỉ 10, nền văn hóa Taino bắt đầu phát triển mạnh mẽ trên hòn đảo và đến khoảng năm 1000 thì lấn át hoàn toàn các nền văn hóa trước đó. Giai đoạn phát triển thịnh vượng của người Taino kéo dài cho đến khi người châu Âu phát kiến ra châu Mỹ năm 1492.
Ngày 19 tháng 11 năm 1493, Christopher Columbus trong chuyến thám hiểm lần thứ hai của mình đã phát hiện ra đảo Puerto Rico. Lúc này, cư dân của hòn đảo là những người da đỏ châu Mỹ thuộc nền văn hóa Taino và họ gọi hòn đảo của mình là "Borikén", hay trong tiếng Tây Ban Nha là "Boriquen". Columbus đã đặt cái tên mới cho hòn đảo là San Juan Bautista để tưởng niệm thánh John Baptist. Sau đó, hòn đảo được đổi tiên thành Puerto Rico còn San Juan thì trở thành tên thủ phủ của hòn đảo. Năm 1508, Juan Ponce de Leon trở thành thống đốc đầu tiên của đảo Puerto Rico.
Người Tây Ban Nha nhanh chóng chiếm toàn bộ đảo Puerto Rico làm thuộc địa. Những người thổ dân Taino hoặc bị giết trong những trận chiếm đẫm máu mà ưu thế thuộc về người Tây Ban Nha hay những bệnh dịch chết người từ châu Âu mà họ chưa tiếp xúc bao giờ, hoặc bị người Tây Ban Nha bắt làm nô lệ. Dân số Taino sụt giảm nhanh chóng đã buộc người Tây Ban Nha phải buôn nô lệ da đen từ châu Phi sang làm việc. Puerto Rico do vị trí địa lý chiến lược của mình trở thành một pháo đài phòng thủ quan trọng cho hệ thống thuộc địa to lớn của Tây Ban Nha tại Mỹ Latinh. Nhiều đồn lũy và các bức tường thành lớn được xây dựng như La Fortaleza, El Castillo, San Felipe del Morro hay El Castillo de San Cristobal để bảo vệ Puerto Rico khỏi sự dòm ngó của các cường quốc thù địch như Pháp, Hà Lan và Anh. Những nước này cũng từng cố chiếm Puerto Rico những đều không thành công. Tuy nhiên, sự giàu có tài nguyên của Puerto Rico chủ yếu mang lại sự thịnh vượng cho chính quốc chứ cư dân hòn đảo thì sống trong tình trạng nghèo khó.
Cuộc chiến tranh Iberia nổ ra giữa Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Anh với quân Pháp đã tạo điều kiện cho nhiều thuộc địa của Tây Ban Nha ly khai đòi độc lập. Năm 1809, Ủy ban Trung ương Tối cao tại Cadiz ra quyết định công nhận Puerto Rico là một tỉnh hải ngoại của Tây Ban Nha và đảo này có quyền gửi đại diện đến quốc hội Tây Ban Nha. Tuy nhiên chính sách tiến bộ này chỉ được thực thi trong khoảng các năm 1810-1814 và 1820-1823 rồi bãi bỏ do sự trở lại nắm quyền của triều đình quân chủ của vua Ferdinand VII. Tuy nhiên nó cũng đã góp phần nâng cao tính dân tộc của người dân hòn đảo.
Cuối thế kỉ 19, Puerto Rico và Cuba là hai thuộc địa cuối cùng còn ở lại với Tây Ban Nha tại châu Mỹ. Tuy nhiên, mâu thuẫn chính trị và sự nghèo đói của hòn đảo đã càng làm căng thẳng thêm mối quan hệ với chính quốc Tây Ban Nha. Năm 1868, cuộc nổi dậy "Grito de Lares" nổ ra tại thị trấn Lares, được lãnh đạo bởi người anh hùng Ramon Emeterio Betances, "người cha" của phong trào độc lập cho Puerto Rico. Nhưng khi tiến sang thị trấn San Sebatian, cuộc khởi nghĩa nhanh chóng bị dập tắt. Năm 1897, Luis Munoz Rivera cùng một số người khác đã thuyết phục thành công chính phủ Tây Ban Nha trao quy chế tự trị cho người dân Cuba và Puerto Rico. Ngày 17 tháng 7 năm 1898, chính phủ tự trị đầu tiên của Puerto Rico nhậm chức nhưng chỉ tồn tại được một thời gian ngắn ngủi.
Đầu thế kỉ 20, Puerto Rico nằm dưới sự cai trị của quân đội Mỹ và thống đốc Puerto Rico đều là người được Tổng thống Mỹ chỉ định. Năm 1900, Đạo luật Foraker cho phép Puerto Rico có một số quyền lập chính phủ dân sự gồm có hạ viện do dân bầu. Đến năm 1917, Đạo luật Jones-Shafroth trao quyền công dân Mỹ cho người Puerto Rico cũng như cho phép lập ra thượng viện do dân bầu để Puerto Rico có đầy đủ một quốc hội lưỡng viện của riêng mình. Với quyền công dân Mỹ, nhiều thanh niên Puerto Rico đã tham gia quân đội Mỹ trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và những cuộc chiến của Mỹ sau đó nữa.
Những thập niên đầu tiên dưới sự cai trị của Mỹ, nhiều thảm họa tự nhiên liên tiếp xảy ra như động đất, sóng thần, các cơn bão nhiệt đới cũng như cuộc Đại khủng hoảng 1929 đã tàn phá nền kinh tế của đảo Puerto Rico. Trong nhân dân bắt đầu xuất hiện tư tưởng chống lại sự cai trị của Mỹ. Ngày 30 tháng 10 năm 1950, Pedro Albizu Campos, lãnh đạo Đảng Dân tộc Puerto Rico đã phát động cuộc khởi nghĩa Jayuya chống Mỹ. Hoa Kỳ tuyên bố tình trạng thiết quân luật và chấm dứt cuộc khởi nghĩa sau 3 ngày với việc sử dụng nhiều bộ binh, pháo binh và máy bay ném bom vào thị trấn Jayuya. Pedro Albizu Campos sau đó bị bắt giam vì tội âm mưu phản loạn nhằm lật độ chính phủ Mỹ tại Puerto Rico. Bên cạnh đó, những âm mưu ám sát tổng thống Harry Truman trong cùng năm 1950 cũng được những người dân tộc chủ nghĩa Puerto Rico thực hiện nhưng thất bại.
Năm 1947 đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử Puerto Rico khi chính phủ Mỹ trao quyền bầu cử thống đốc cho người dân hòn đảo. Luis Munoz Marin, người có công trong việc đàm phán với Mỹ trước đó đắc cử và trở thành thống đốc dân cử đầu tiên của Puerto Rico vào năm 1948. Năm 1950, tổng thống Truman cho phép Puerto Rico tổ chức cuộc trưng cầu ý dân về quyền thành lập hiến pháp riêng của nước này. Hiến pháp địa phương của Puerto Rico chính thức được chính phủ Mỹ phê chuẩn vào ngày 6 tháng 2 năm 1952. Tổng thống Truman cũng thông qua hiến pháp này vào ngày 3 tháng 7 rồi được tuyên bố chính thức bởi thống đốc Munoz Marin vào ngày 25 tháng 7 cùng năm đó. Như vậy, Puerto Rico chính thức có bản hiến pháp của riêng mình và nước này phê chuẩn tên gọi Estado Libre Asociado, tạm dịch là "Thịnh vượng chung".
Puerto Rico là một lãnh thổ chưa hợp nhất của Hoa Kỳ theo thể chế cộng hòa. Tất cả các quyền lực hiện tại của Puerto Rico là do Quốc hội Hoa Kỳ ủy quyền. Puerto Rico thiếu sự bảo vệ toàn phần từ Hiến pháp Hoa Kỳ vì không phải là một tiểu bang của Hoa Kỳ. Người đứng đầu nhà nước của Puerto Rico là tổng thống Mỹ. Chính quyền Puerto Rico theo chế độ cộng hòa, được tổ chức theo hệ thống tam quyền phân lập gồm ba nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhánh hành pháp được đứng đầu bởi thống đốc Puerto Rico, hiện nay là ngài Anibal Acevedo Vila. Nhánh lập pháp bao gồm Quốc hội Puerto Rico được chia làm hai viện: Thượng viện và Hạ viện. Người đứng đầu Thượng viện Puerto Rico là Chủ tịch Thượng viện, còn người đứng đầu Hạ viện là Chủ tịch Hạ viện (Speaker of the House) Puerto Rico. Nhánh tư pháp đứng đầu bởi Thấm phán trưởng Tòa án Tối cao Puerto Rico. Chức thống đốc và các đại biểu quốc hội được nhân dân bầu ra bốn năm một lần. Những thành viên của tòa án tối cao được thống đốc chỉ định với sự thông qua của Thượng viện.
Từ năm 1952 đến này, chính trường Puerto Rico có sự phân chia giữa 3 đảng phái chính đại diện cho ba xu hướng chính trị khác nhau của đất nước này. Đảng Dân chủ Nhân dân Puerto Rico (PPD) muốn duy trì hiện trạng Puerto Rico với vai trò hiện nay là một lãnh thổ thịnh vượng chung thuộc Hoa Kỳ. Đảng thứ hai, Đảng Cấp tiến Mới Puerto Rico (PNP) muốn đưa Puerto Rico trở thành một tiểu bang của Hoa Kỳ còn trong khi đó, Đảng Độc lập Puerto Rico (PIP) lại muốn vùng đất này tách ra và trở thành một quốc gia độc lập. Năm 2007, một đảng thứ tư nữa là Đảng Puerto Rico cho người Puerto Rico (PPR) xuất hiện trên chính trường. Trải qua nhiều cuộc trưng cầu dân ý trong suốt 6 thập kỉ qua, người dân Puerto Rico chọn lựa giữ nguyên hiện trạng chính trị như hiện nay như một vùng lãnh thổ quốc hải của Hoa Kỳ.
Nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới, Puerto Rico có khí hậu ấm áp quanh năm với nhiệt độ trung bình năm khoảng 26 °C (80 °F). Sự khác biệt về nhiệt độ giữa các tháng trong năm thường không lớn. Miền nam Puerto Rico có nhiệt độ cao hơn vài độ so với miền bắc, trong khi đó vùng cao nguyên và đồi núi trung tâm Puerto Rico thường có khí hậu mát mẻ hơn so với những vùng còn lại. Mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 5 còn mùa mưa diễn ra trong khoảng tháng 6 đến tháng 10, trùng với thời điểm hoạt động mạnh của những cơn bão từ Đại Tây Dương đổ vào, mang theo một lượng mưa lớn cho Puerto Rico.
Cho đến tận đầu thế kỉ 20, nguồn lợi kinh tế chủ yếu của Puerto Rico vẫn chủ yếu xoay quanh ngành trồng và xuất khẩu mía đường. Thế nhưng đến thập niên 1940, một chính sách kinh tế mới đã được ban hành nhằm thay đổi hoàn toàn cục diện nền kinh tế hòn đảo với sự chuyển mình mạnh mẽ từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp đa dạng và được chính phủ Mỹ miễn thuế. Kinh tế Puerto Rico thời gian đầu tuy chịu nhiều biến động lớn, đặc biệt là cuộc Đại Khủng hoảng 1929 từ nước Mỹ nhưng sau đó đã phục hồi rất nhanh và hiện là một trong các nước có thu nhập bình quân đầu người cao nhất châu Mỹ.
Tuy nhiên càng về sau, những điểm yếu của nền kinh tế Puerto Rico cũng dần bộc lộ và gây ra nhiều biến động khá lớn. Puerto Rico phải đối mặt với việc các doanh nghiệp chuyển địa điểm sang các nước Mỹ Latinh khác có giá nhân công rẻ hơn. Tình trạng kinh tế khó khăn giữa các cuộc khủng hoảng kinh tế khiến người dân Puerto Rico có chiều hướng di dân ra nước ngoài, đặc biệt là tới Mỹ để tìm kiếm công việc tốt hơn. Đặc biệt vào năm 2006, Puerto Rico diễn ra cuộc khủng hoảng ngân quỹ trầm trọng khiến nhiều cơ quan chính phủ và 1536 trường công phải đóng cửa, gần 96 000 người bị cho nghỉ việc. Những chính sách thuế mới sau đó đã giẩi quyết cuộc khủng hoảng này nhưng vẫn còn nhiều thách thức khó khắc phục. Vài năm trở lại đây, Puerto Rico rơi vào tình trạng suy giảm kinh tế. Nếu như năm 2006, mức tăng GDP còn ở mức 0,5% thì đến năm 2007 xuống còn -1,8%, năm 2008 xuống đến -2%.
Ngày nay Puerto Rico là một quốc gia có nền kinh tế cơ cấu hiện đại với nông nghiệp chỉ chiếm 1%, công nghiệp chiếm 45% và dịch vụ chiếm 54%. Ngành trồng mía đường nay đã nhường lại cho ngành chăn nuôi lấy sản phẩm từ thịt và sữa. Công nghiệp của Puerto Rico phát triển đa dạng và nhấn mạnh các ngành hóa dầu, dược phẩm và khoa học công nghệ. Du lịch là một trong những ngành dịch vụ chủ đạo của Puerto Rico với việc nước này đón tiếp 5,9 triệu lượt du khách vào năm 2007, đem lại một nguồn doanh thu lớn cho hòn đảo. Nhiều khách sạn, các khu nghỉ dưỡng, trung tâm hội thảo lớn như Trung tâm Hội nghị Puerto Rico được xây dựng đã tận dụng triệt để ưu thế du lịch của đất nước tươi đẹp này.
Tuy gặp nhiều khó khăn trong những năm gần đây, song Puerto Rico vẫn là một trong những nền kinh tế phát triển nhất khu vực Mỹ Latinh. Puerto Rico là một trong những đầu tàu kinh tế vùng Caribbean cùng với Cuba và Cộng hòa Dominicana, và Ngân hàng Thế giới xếp Puerto Rico vào nhóm các nước có thu nhập bình quân cao. Năm 2007, thu nhập bình quân của nước này là 19.600 USD, tuy nhiên vẫn còn thua nếu so với bang nghèo nhất của nước Mỹ là Mississippi với thu nhập 24.062 USD. Tỉ lệ thất nghiệp của Puerto Rico cũng ở mức khá cao 11,7%, trong khi bang thất nghiệp nhiều nhất nước Mỹ là Michigan có tỉ lệ 7,7% và mức trung bình của nước Mỹ là 4,4%. Năm 1998, Chỉ số Phát triển Con người của Puerto Rico đạt 0,942 điểm, con số cao nhất vùng Mỹ Latinh.
Những cư dân đầu tiên sinh sống tại Puerto Rico là người da đỏ châu Mỹ, sau đó được tiếp nối bởi người da trắng gốc châu Âu và người da đen gốc châu Phi. Thế kỉ 19 đánh dấu một giai đoạn bùng nổ dân nhập cư vào Puerto Rico khi hàng trăm gia đình đổ vào đất nước này để được cấp đất theo Sắc lệnh năm 1815, theo đó cung cấp một lượng đất đai cho những người dân gốc châu Âu theo Công giáo Rôma. Chủ yếu người da trắng tại Puerto Rico có tổ tiên là người Tây Ban Nha, bên cạnh đó cũng có một số dân tộc khác như Bồ Đào Nha, Ý, Scotland, Ireland, Đức... Người da đen đến Puerto Rico trên những con tàu buôn nô lệ đã góp phần làm nên sự đa dạng chủng tộc tại hòn đảo này. Bên cạnh đó, Puerto Rico còn có một cộng đồng người gốc châu Á với các sắc dân Trung Quốc, Liban. Người dân các nước Mỹ Latinh cũng góp thêm vào các dòng người nhập cư từ Colombia, Venezuela, Argentina, Cuba và Cộng hòa Dominicana. Tình trạng nhập cư vào thế kỉ 19 này đã khiến dân số Puerto Rico tăng nhanh, từ 155.000 người vào năm 1800 đến gần 1 triệu người vào cuối thể kỉ 19. Cuộc thống kê điều tra dân số năm 1858 đã cho thấy tỉ lệ chủng tộc tại Puerto Rico như sau: 300.430 người da trắng, 341.015 người da màu tự do và 41.736 nô lệ.
Công giáo Rôma là tôn giáo lớn lâu đời nhất tại Puerto Rico (nếu không kể những tôn giáo bản địa) và cho đến ngày nay vẫn là tôn giáo chủ yếu tại nước này. Mỗi thành phố tự trị của Puerto Rico đều có ít nhất một nhà thờ tại khu trung tâm, hay được gọi là plaza. Dưới sự cai trị của người Tây Ban Nha, Đạo Tin lành bị đàn áp nhưng lại được khuyến khích khi gia nhập nước Mỹ. Người Taino bản địa gần đây đang khôi phục lại một số truyền thống tôn giáo của họ, trong khi một số người châu Phi cũng gìn giữ những tôn giáo xa xưa của tổ tiên.
Văn hóa Puerto Rico là sự hòa trộn giữa bốn dòng văn hóa: văn hóa Taino bản địa, văn hóa Tây Ban Nha, văn hóa Châu Phi và văn hóa Mỹ. Người Taino ngày nay tuy chỉ chiếm một tỉ lệ dân số nhỏ bé song họ vẫn giữ một số tên gọi truyền thống về địa danh, các món ăn, nhạc cụ và một số lượng từ vựng trong tiếng Tây Ban Nha ngày nay của Puerto Rico. Người da đen gốc châu Phi lại có ảnh hưởng trong lĩnh vực âm nhạc với "bomba và plena", một thể loại loại âm nhạc và nhảy múa với các nhạc cụ bộ gõ và maraca. Người Tây Ban Nha mang đến tiếng Tây Ban Nha, đạo Thiên chúa và những giá trị tinh thần và văn hóa của châu Âu cổ kính. Dòng văn hóa thứ tư đến từ nước Mỹ với tiếng Anh, hệ thống giáo dục đại học và các giá trị văn hóa hiện đại thể hiện trong điện ảnh, âm nhạc. Năm 1903, Trường Đại học Puerto Rico được chính quyền Mỹ thành lập, 5 năm sau khi Puerto Rico trở thành một bộ phần của nước này.
Bóng chày là môn thể thao phổ biến nhất tại Puerto Rico và nước này có hẳn một mùa giải bóng chày chuyên nghiệp riêng được tổ chức vào mùa đông. Quyền anh, bóng rổ và bóng chuyền cũng là những môn thể thao rất phổ biến tại đất nước này. Puerto Rico tham dự hầu hết các giải thi đấu thể thao quốc tế như Thế vận hội Mùa hè, Thế vận hội Mùa đông, Đại hội Thể thao châu Mỹ (Pan American Games), Đại hội Thể thao Trung Mỹ và Caribbean. Puerto Rico đã từng giành được 6 huy chương (1 bạc, 5 đồng) trong lịch sử tham dự các kỳ Thế vận hội, lần đầu tiên vào năm 1948 với chiếc huy chương đồng môn quyền anh của Juan Evangelista Venegas.
Nam Ossetia (tiếng Ossetia: Хуссар Ирыстон, Khussar Iryston; tiếng Gruzia: სამხრეთ ოსეთი, Samkhret Oseti; tiếng Nga: Южная Осетия, Yuzhnaya Osetiya) là một vùng ở Nam Kavkaz, nguyên là tỉnh tự trị Ossetia bên trong Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Gruzia, một phần lãnh thổ này đã độc lập trên thực tế khỏi Gruzia kể từ khi lãnh thổ này tuyên bố độc lập thành Cộng hòa Nam Ossetia trong cuộc xung đột Gruzia-Ossetia đầu thập niên 1990. Chính phủ Gruzia phản ứng lại bằng cách bãi bỏ quyền tự trị của Nam Ossetia và cố gắng chiếm lại khu vực bằng vũ lực, điều này đã dẫn đến chiến tranh Nam Ossetia 1991-1992. Có thêm hai cuộc xung đột để cố gắng chiếm lại Nam Ossetia năm 2004 và 2008. Cuộc xung đột cuối cùng đã dẫn đến chiến tranh Nam Ossetia 2008, kết quả là Nga công nhận độc lập cho Nam Ossetia và Abkhazia.
Về mặt ngoại giao, 189 trên tổng số 193 quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc (ngoại trừ Nga, Venezuela, Nicaragua, và Nauru) không công nhận Nam Ossetia mà vẫn tiếp tục xem lãnh thổ này là một bộ phận của Gruzia. Gruzia vẫn giữ quyền kiểm soát với các khu vực phía đông và phía nam của vùng này, nơi mà vào tháng 4 năm 2007, họ đã lập ra một Cơ quan hành chính lâm thời thực thể Nam Ossetia) đứng đầu bởi người Ossetia (các thành viên cũ của chính phủ ly khai) có thể đàm phán với các chính quyền trung ương Gruzia về tình trạng cuối cùng của vùng cũng như giải pháp cho cuộc xung đột.
Liên hiệp quốc, Liên minh châu Âu, Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE), Hội đồng Liên minh châu Âu, Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và tất cả các quốc gia khác trên thế giới công nhận Nam Ossetia là một phần lãnh thổ Gruzia. Tuy nhiên, trên thực tế nước cộng hòa độc lập này, được cai quản bởi một chính phủ ly khai, đã tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý về độc lập vào ngày 12 tháng 11 năm 2006, sau cuộc trưng cầu dân ý đầu tiên vào năm 1992 không được cộng đồng quốc tế coi là hợp pháp. Theo cơ quan bầu cử của Tskhinvali, cuộc trưng cầu dân ý kết thúc với đa số người đồng ý giành độc lập từ Gruzia với 99% người dân Nam Ossetian ủng hộ trong số 95% người đi bầu và cuộc trưng cầu này đã được giám sát bởi một đội 34 quan sát viên từ Đức, Áo, Ba Lan, Thụy Điển và các quốc gia khác tại 78 điểm bầu cử. Tuy nhiên, cuộc trưng cầu này không được Liên hiệp quốc, Liên minh châu Âu, OSCE, NATO và Liên bang Nga công nhận, vì thiếu sự tham gia của cộng đồng người Gruzia và cũng không được chính phủ tại Tbilisi công nhận. Liên minh châu Âu, OSCE và NATO lên án cuộc trưng cầu dân ý. Song song với cuộc trưng cầu này, những người ly khai cũng tổ chức một cuộc bầu cử, phong trào đối lập Ossetia (Liên minh Bảo vệ Nam Ossetia) tại Kokoity, tự tổ chức cuộc bầu cử của riêng mình, trong đó cả người Gruzia và một số người Ossetia trong vùng ủng hộ Dmitri Sanakoev lên làm tổng thống Nam Ossetia. Cuộc bầu cử ủng hộ Sanakoev được tuyên bố là có sự ủng hộ hoàn toàn của sắc tộc Gruzia. Năm 2007, Dmitri Sanakoev trở thành lãnh đạo của Cơ quan quản lý lâm thời Nam Ossetia.
Người Ossetia ban đầu là hậu duệ của Alans, một nhóm bộ tộc Sarmatia. Họ đã trở thành tín đồ Thiên chúa giáo thời đầu Trung Cổ dưới những ảnh hưởng của Gruzia và Đế quốc Đông La Mã. Trong thời kỳ cai trị của Mông Cổ, họ bị đẩy khỏi quê hương và phải di cư về phía nam sông Đông tại vùng ngày nay thuộc nước Nga và một phần phải di cư về phía vùng đồi núi Kavkaz, tới Gruzia nơi họ lập lên ba thực thể lãnh thổ riêng biệt. Digor ở phía tây rơi vào vùng ảnh hưởng của người Kabard láng giềng, và theo Đạo Hồi. Tualläg ở phía nam ngày nay trở thành Nam Ossetia, một phần của công quốc lịch sử Samachablo thuộc Gruzia nơi người Ossetia lánh lạn trước quân xâm lược Mông Cổ. Iron ở phía bắc ngày nay trở thành Bắc Ossetia, dưới quyền cai quản của Nga từ năm 1767. Đa số người dân Ossetia hiện là tín đồ Thiên chúa giáo (xấp xỉ 61%); cũng có một thiểu số khá đông người Hồi giáo.
Nam Ossetia ngày nay đã bị Nga sáp nhập năm 1801, cùng với Gruzia, và trở thành một phần của Đế quốc Nga. Sau cuộc Cách mạng tháng 10, Nam Ossetia trở thành một phần của nước Cộng hòa Dân chủ Gruzia Menshevik, trong khi miền bắc thành một phần của nước Cộng hòa Xô viết Terek. Vùng này đã trải qua một loạt các cuộc nổi dậy Ossetia với nhiều lần tuyên bố độc lập. Chính phủ Gruzia đã buộc tội người dân Ossetia hợp tác với những người Bolshevik. Theo các nguồn tin của Ossetia khoảng 5.000 người Ossetia đã bị giết hại và hơn 13.000 người sau đó đã chết vì đói khát và bệnh dịch.
Xô viết Tối cao Gruzia đã thông qua một luật ngăn cấm các đảng khu vực vào mùa hè năm 1990. Hành động này bị người Ossetia coi là một động thái chống lại Ademon Nykhas và khiến người dân Ossetia tuyên bố thành lập Cộng hòa Dân chủ Xô viết, với đầy đủ chủ quyền bên trong Liên bang các nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết. Người dân Ossetia đã tẩy chay cuộc bầu cử nghị viện Gruzia sau đó và tổ chức cuộc bầu cử của riêng mình vào tháng 12. Chính phủ Gruzia dưới sự lãnh đạo của Zviad Gamsakhurdia đã tuyên bố cuộc bầu cử này là bất hợp pháp và xóa bỏ vị thế tự trị của nó vào ngày 11 tháng 12 năm 1990.
Xung đột vũ trang bùng phát hồi cuối năm 1991 trong đó nhiều làng mạc Nam Ossetia đã bị tấn công và đốt phá tương tự như nhiều ngôi nhà và trường học của người Gruzia tại Tskhinvali, thủ đô của Nam Ossetia. Hậu quả, xấp xỉ 1.000 người chết và khoảng 100.000 người Ossetia đã phải bỏ chạy khỏi lãnh thổ Gruzia, đa số qua biên giới vào Bắc Ossetia. Khoảng 23.000 người Gruzia khác cũng đã phải rời bỏ Nam Ossetia và định cư tại những khu vực khác ở Gruzia. Nhiều người dân Nam Ossetia đã tái định cư tại những vùng không có người sinh sống ở Bắc Ossetia nơi người Ingush đã bị Stalin trục xuất năm 1944, dẫn tới những cuộc xung đột giữa người Ossetia và người Ingush về quyền sinh sống tại lãnh thổ cũ của người Ingush.
Khi Liên bang Xô viết giải tán, chính phủ Hoa Kỳ công nhận các biên giới thời trước Hiệp ước Molotov-Ribbentrop năm 1933 của nước này (chính phủ Franklin D. Roosevelt đã thiết lập các quan hệ ngoại giao với Kremlin ở thời điểm cuối năm đó). Vì điều này, chính quyền George H. W. Bush công khai ủng hộ sự ly khai của các nước vùng Baltic, nhưng coi các vấn đề liên quan tới các cuộc xung đột giành độc lập và lãnh thổ của Gruzia, Armenia, Azerbaijan và phần còn lại của Transcaucasus — là phần không thể tách rời của Liên bang Xô viết với các biên giới quốc tế không hề thay đổi từ thập niên 1920 — là vấn đề nội bộ của Liên Xô.
Năm 1992, Gruzia bị buộc phải chấp nhận ngừng bắn để tránh sự leo thang xung đột với Nga. Chính phủ Gruzia và những người ly khai Nam Ossetia đã đạt được một thỏa thuận ngừng sử dụng vũ lực chống lẫn nhau, và Gruzia cam kết không sử dụng các biện pháp trừng phạt chống Nam Ossetia. Tuy nhiên, chính phủ Gruzia vẫn giữ quyền kiểm soát với những phần nhỏ bên trong Nam Ossetia, gồm cả thị trấn Akhalgori. Một lực lượng gìn giữ hòa bình gồm người Ossetia, người Nga và người Gruzia được thành lập. Ngày 6 tháng 11 năm 1992, Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE) thành lập một phái bộ ở Gruzia để giám sát chiến dịch gìn giữ hòa bình. Từ đó, cho tới giữa năm 2004 Nam Ossetia nói chung ở trong cảnh hòa bình. Vào tháng 6 năm 2004, căng thẳng bắt đầu tăng lên khi chính quyền Gruzia tăng cường các nỗ lực chống lại nạn buôn lậu trong vùng. Những vụ bắt cóc con tin, bắn giết và thỉnh thoảng cả đánh bom đã khiến hàng chục người thiệt mạng và bị thương. Một thỏa thuận ngừng bắn được ký ngày 13 tháng 8 dù nó liên tục bị vi phạm. Tình hình trở nên rất căng thẳng với mối đe dọa chiến tranh. Moskva và Tskhinvali tỏ ra thận trọng trước những hành động tăng cường binh lực của Gruzia.
Chính phủ Gruzia phản đối sự liên tục tăng cường hiện diện về kinh tế và chính trị của Nga trong vùng và phản đối quân đội không bị kiểm soát của phía Nam Ossetia. Nước này cũng coi lực lượng gìn giữ hòa bình là không trung lập và yêu cầu thay thế. Lời chỉ trích này đã được một số người ủng hộ, như Richard Lugar, tuy nhiên vào ngày 5 tháng 10 năm 2006, Javier Solana, Cao ủy về Đối ngoại và Chính sách An ninh của Liên minh châu Âu, đã bác bỏ khả năng thay thế binh lính gìn giữ hòa bình Nga bằng lực lượng của Liên minh châu Âu. Phái viên của Liên minh châu Âu về Nam Kavkaz Peter Semneby sau đó đã nói rằng "các hành động của Nga trong cuộc tranh cãi gián điệp Gruzia đã gây phương hại tới lòng tin cũng như tính trung lập của lực lượng gìn giữ hòa bình Nga ở các nước láng giềng vùng Biển Đen."
Cộng hòa Nam Ossetia là sự pha trộn của những thị trấn và làng mạc nơi sinh sống của người Gruzia và người Ossetia. Thành phố thủ đô Tskhinvali với đa số dân là người Ossetia cùng các cộng đồng người Ossetia khác do chính phủ ly khai quản lý, trong khi các làng và thị trấn của người Gruzia do chính phủ Gruzia quản lý. Sự gẫn gũi và tương tác giữa hai cộng đồng đã khiến cuộc xung đột ở Nam Ossetia trở nên đặc biệt nguy hiểm, bởi bất kỳ nỗ lực nào nhằm thanh lọc sắc tộc đều có thể dẫn tới một cuộc di dân ở quy mô lớn.
Tranh cãi chính trị vẫn chưa được giải quyết và chính quyền ly khai Nam Ossetia vẫn cai quản vùng này với sự độc lập thực sự khỏi Tbilisi. Dù những cuộc đàm phán đã được tổ chức định kỳ giữa hai phía, ít có tiến bộ đạt được dưới thời chính phủ Eduard Shevardnadze (1993–2003). Người kế nhiệm ông ta Mikheil Saakashvili (được bầu năm 2004) đã coi việc đòi lại Nam Osseatia là nhiệm vụ chính trị ưu tiên. Sau thành công chấm dứt nền độc lập trên thực tế của tỉnh phía tây Ajaria vào tháng 5 năm 2004, ông đã hứa thực hiện điều tương tự với Nam Ossetia. Sau những cuộc xung đột năm 2004, chính phủ Gruzia đã tăng cường nỗ lực nhằm thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế với vấn đề. Ngày 25 tháng 1 năm 2005, Tổng thống Saakashvili đã đệ trình một đề xuất của Gruzia nhằm giải quyết vấn đề Nam Ossetian ra trước kỳ họp của Ủy ban Nghị viện châu Âu (PACE) ở Strasbourg. Cuối tháng 10, Chính phủ Mỹ và OSCE bày tỏ sự ủng hộ với kế hoạch hành động của Gruzia được Thủ tướng Zurab Noghaideli đệ trình tại Ủy ban Thường trực OSCE ở Viên ngày 27 tháng 10 năm 2005. Ngày 6 tháng 10, Ủy ban Bộ trưởng OSCE tại Ljubljana thông qua một nghị quyết ủng hộ kế hoạch hòa bình của Gruzia nghị quyết này đã bị chính quyền Nam Ossetia bác bỏ.
Ngày 11 tháng 9 năm 2006, Ủy ban Thông tin và Báo chí Nam Ossetia thông báo rằng nước cộng hòa này sẽ tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý về độc lập (cuộc trưng cầu dân ý đầu tiên vào năm 1992 đã không được cộng đồng quốc tế coi là hợp pháp) vào ngày 12 tháng 11 năm 2006. Các cử tri sẽ quyết định việc Nam Ossetia "sẽ duy trì tình trạng hiện tại hay trở thành một nhà nước độc lập". Gruzia lên án hành động này như một "điều ngớ ngẩn chính trị". Tuy nhiên, ngày 13 tháng 9 năm 2006, Tổng thư ký Hội đồng châu Âu (CoE) Terry Davis đã bình luận về vấn đề, nói rằng có lẽ không ai sẽ chấp nhận các kết của cuộc trưng cầu dân ý này và hối thúc chính phủ Nam Ossetia tham gia các cuộc đàm phán với Gruzia. Ngày 13 tháng 9 năm 2006 Đại diện Đặc biệt của Liên minh châu Âu tại Nam Caucasus, Peter Semneby, khi viếng thăm Moskva, đã nói: "Các kết quả của cuộc trưng cầu dân ý về độc lập tại Nam Ossetia sẽ không có ý nghĩa với Cộng đồng châu Âu". Peter Semneby cũng thêm rằng cuộc trưng cầu dân ý này sẽ không góp phần giải quyết cuộc xung đột ở Nam Ossetia.
Nhóm này được lãnh đạo bởi cựu bộ trưởng quốc phòng và khi ấy đang giữ chức thủ tướng chính phủ ly khai Dmitri Sanakoev đã tổ chức cái gọi là cuộc bầu cử thay thế, ngày 12 tháng 11 năm 2006 song song với cuộc bầu cử do chính quyền ly khai tại Tskhinvali tổ chức. Hội đồng bầu cử cũng đã đưa ra một kết quả rất cao, với ước tính hơn 42.000 cử tri cả người Ossetia (quận Java và Tskhinvali) và người Gruzia (Eredvi, Tamarasheni, vân vân) trong các cộng đồng Nam Ossetia và Sanakoev được thông báo đã nhận được 96% phiếu bầu. Một cuộc trưng cầu dân ý khác cũng đã được tổ chức ngay sau khi một yêu cầu khởi động các cuộc đàm phán với Gruzia về một thỏa thuận liên bang cho Nam Ossetia nhận được 94% phiếu ủng hộ. Tuy nhiên Liên minh Bảo vệ Nam Ossetia đã bác bỏ một yêu cầu từ một tổ chức phi chính phủ của Gruzia, "Gruzia Đa quốc gia", để giám sát cuộc trưng cầu này và những kết quả được đưa ra dường như đã bị thổi phồng.
Nam Ossetia bao phủ khoảng 3.900 km² ở phần phía nam Kavkaz, bị chia cắt bởi những dãy núi với vùng Bắc Ossetia (một phần của Nga) đông đúc dân cư và trải dài về phía nam đến tận cong sông Mtkvari bên trong Gruzia. Vùng này đặc biệt nhiều núi non, đa số diện tích nằm ở độ cao 1.000 m (3.300 ft) trên mực nước biển. Kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, dù chưa tới 10% đất đai Nam Ossetia có thể canh tác. Ngũ cốc, hoa quả, rượu là các sản phẩm chủ yếu. Công nghiệp rừng và gia súc cũng tồn tại, đặc biệt xung quanh thủ đô Tskhinvali.
Họ Formicidae thuộc bộ Hymenoptera, bộ này cũng bao gồm sawfly, ong và tò vò Kiến nằm cùng nhánh với ong Vò vẽ. Phân tích phát sinh loài cho thấy kiến tách ra từ Kỷ Creta-giữa cách đây khoảng 110 đến 130 triệu năm. Sau khi thực vật có hoa tách ra cách đây khoảng 100 triệu năm kiến đã đa dạng hóa và được cho là thống trị chủ yếu vào khoảng cách đây 60 triệu năm. Năm 1966, E. O. Wilson và đồng sự của ông đã xác định các hóa thạch kiến (loài Sphecomyrma freyi) sống trong kỷ Creta. Tiêu bản này nằm trong hổ phách được định tuổi là hơn 80 triệu năm và mang các đặc điểm của kiến và wasp. Sphecomyrma có thể kiếm ăn trên mặt đất nhưng một số tác giả dựa trên các nhóm nguyên thủy Leptanillinae và Martialinae nên các loài kiến nguyên thủy có thể là các loài săn mồi dưới mặt đất.
Trong suốt kỷ Creta, một vài loài kiến nguyên thủy phân bố rộng khắp trên siêu lục địa Laurasia (bán cầu bắc). Chúng hiếm gặp so với các loài côn trùng khác, và chỉ chiếm 1% trong tổng các cá thể côn trùng. Kiến trở nên phổ biến sau sự kiện tỏa nhánh thích nghi vào đầu kỷ Paleogen. Vao Oligocene và Miocene kiến chiếm 20-40% tất cả các côn trùng được tìm thấy trong hầu hết các trầm tích hóa thạch chính. Một trong số các loài sống trong Eocene thì còn khoảng 1/10 các chi hiện còn tồn tại đến ngày nay. Các chi còn tồn tại đến ngày nay chiếm 56% trong các chi được phát hiện trong hổ phách vùng Baltic (đầu Oligocene), và 92% các chi trong hổ phách ở Dominica (xuất hiện đầu Miocene).
Kiến được tìm thấy trên tất cả các lục địa trừ Nam Cực, và chỉ có một vài quần đảo lớn như Greenland, Iceland, các phần của Polynesia và Hawaii thì không có các loài kiến bản địa. Kiến chiếm một dải các hốc sinh thái rộng, và có thể khai thác một dải rộng các nguồn thực phẩm hoặc trực tiếp hoặc là các động vật ăn cỏ, săn mồi và ăn xác chết gián tiếp. Hầu hết các loài kiến là động vật ăn tạp nhưng một vài loài chỉ ăn một thứ đặc trưng. Sự thống trị sinh thái của chúng có thể đo đạc thông qua sinh khối của chúng, và theo ước tính trong các môi trường khác nhau cho thấy rằng chúng đóng góp khoảng 15-20% (trung bình gần 25% ở các vùng nhiệt đới) trong tổng sinh khối động vật đất liền, cao hơn cả sinh khối của động vật có xương sống.
Kiến có kích thước thay đổi từ 0,75 đến 52 milimét (0,030 đến 2,0 in), loài lớn nhất là hóa thạch của Titanomyrma giganteum, kiến chúa có chiều dài 6 xentimét (2,4 in) với sải cách 15 xentimét (5,9 in). Kiến có nhiều màu sắc khác nhau, hầu hết chúng có màu đỏ hoặc đen, nhưng một vài loài có màu lục và các loài ở vùng nhiệt đới có ánh kim loại. Hơn 15.000 loài kiến hiện đã được phát hiện (với ước tính vào khoảng 22.000 loài) (xem danh sách các chi kiến), trong đó đa dạng hóa lớn nhất là ở các vùng nhiệt đới. Các nghiên cứu về phân loại học vẫn đang tiến hành để giải quyết những tồn tại liên quan đến họ kiến. Cơ sở dữ liệu các loài kiến như "AntBase" và "Hymenoptera Name Server" giúp theo dõi các loài kiến đã biết và các loài mới được miêu tả. Việc dễ dàng nghiên cứu các loài kiến như là một loài chỉ thị trong các hệ sinh thái là một thuận lợi cho nghiên cứu đa dạng sinh học.
Thông thường có khoảng 100.000 con kiến trong một đàn nhưng tất cả chúng chỉ có một kiến chúa. Những con kiến mà mắt thường chúng ta thường hay nhìn thấy là kiến thợ. Công việc của chúng là chăm sóc kiến chúa, ấp trứng, chuyển trứng, nuôi kiến con, tìm kiếm thức ăn, đào đất xây dựng tổ, canh gác tổ (kiến lính)...Tất cả những con kiến thợ này đều là kiến cái nhưng chúng không thể sinh sản được vì cơ cấu giới tính của chúng chưa phát triển đầy đủ. Các con kiến trong mỗi tổ phân biệt với những con cùng loài khác tổ bằng mùi.
Hầu hết kiến đều không có cánh, khi chúng sống trong tổ trong thời gian dài và được che chở, nơi này sẽ tạo ra cánh cho chúng. Trong một khoảng thời gian ngắn mỗi năm, thường là vào những mùa ấm áp hay oi bức, kiến bay đầy trời. Đó chính là những con kiến đực và cái (đã trưởng thành, có thể sinh sản được) đang phối giống. Phối giống xong, con đực chết, cánh của những con đực rụng xuống cộng với phần cơ bắp của chúng chính là thức ăn duy trì sự sống cho con cái để sản sinh ra những con kiến thợ đầu tiên. Những con kiến thợ này đi kiếm ăn cho các con đẻ sau và cho kiến chúa.
Kiến ăn nhiều loại thức ăn. Một số ăn hạt giống, săn động vật khác và có cả loài ăn nấm... nhưng hầu hết chúng thích đồ ngọt & mật của rệp vừng. Hầu hết những gì chúng làm được là do bản năng (nghĩa là chúng không phải nghĩ hay tập làm những công việc này để làm như thế nào?). Các con kiến tìm mồi ở khắp mọi nơi, đôi khi lấy của các tổ khác. Việc di chuyển thức ăn của chúng tương đối thuận lợi do có tính tập thể cao, chúng cùng nhau rìu thức ăn về tổ thành từng đàn, theo từng hàng lối nghiêm chỉnh.
Mitterrand sinh tại Jarnac, Charente, và được rửa tội với tên gọi François Maurice Adrien Marie Mitterrand. Gia đình ông nhiệt tâm theo Cơ đốc giáo La Mã và rất bảo thủ. Cha ông, Joseph Gilbert Félix, làm kỹ sư cho la Compagnie Paris Orléans, cha dượng của ông là một người làm dấm và sau này làm chủ tịch liên đoàn những người làm dấm (Fédération des syndicats de fabricants de vinaigre). Bà ngoại của Joseph là một phụ nữ quý tộc, hậu duệ của cả Fernando III của Castile và Jean de Brienne của Jerusalem. Mẹ Mitterrand là Marie Gabrielle Yvonne Lorrain, một cháu họ xa của Giáo hoàng John XXII. Ông có ba người anh em trai (Robert, Jacques và Philippe) và bốn chị em gái. Vợ ông, Danielle Mitterrand tên khi sinh Gouze, là người xã hội và đã tham gia nhiều phong trào cánh tả. Họ cưới ngày 24 tháng 10 năm 1944 và có ba con trai: Pascal (10 tháng 6 năm 1945 – 17 tháng 9 năm 1945), Jean-Christophe, sinh năm 1946, và Gilbert Mitterrand, sinh ngày 4 tháng 2 năm 1949. Ông cũng có một con gái Mazarine sinh năm 1974 với Anne Pingeot. Cháu trai của ông Frédéric Mitterrand là một nhà báo, hiện là "Bộ trưởng Văn hoá và Viễn thông" (và là một người ủng hộ Jacques Chirac, cựu tổng thống Pháp), và Roger Hanin anh rể của ông là một diễn viên nổi tiếng. Theo tin của hãng thông tấn AFP, một chính trị gia trẻ tuổi người Thuy Điển (Hravn Forsne, 25 tuổi) đang ứng cử cho đảng bảo thủ vào Quốc hội, trong một cuộc phỏng vấn với một tờ báo địa phương cho biết mình là con trai của François Mitterrand, và có gặp ông ta 5, 6 lần. Mẹ ông, một đặc phái viên cho tờ báo „Aftonbladet" và cho đài truyền hình Thụy Điển ở Pháp, có thú nhận là có quan hệ tình dục nhiều năm với Mitterand, nhưng im lặng không cho biết ai là cha của con trai mình.
Mitterrand học tập từ năm 1925 đến năm 1934 tại collège Saint-Paul ở Angoulême, nơi ông trở thành một thành viên của JEC (Jeunesse étudiante chrétienne), tổ chức sinh viên của Action catholique. Tới Paris vào mùa thu năm 1934, sau đó ông vào École Libre des Sciences Politiques cho tới năm 1937, và nhận được bằng vào tháng 7 năm đó. Mitterrand trở thành thành viên của Volontaires nationaux (Người tình nguyện Quốc gia) trong vòng một năm, đây là một tổ chức liên quan tới liên đoàn cực hữu của François de la Rocque, Croix de Feu; liên đoàn vừa tham gia vào những cuộc bạo loạn ngày 6 tháng 2 năm 1934 dẫn tới sự sụp đổ của Cartel des Gauches (Liên minh cánh Tả) thứ hai.. Trái ngược với điều ông vẫn thường nói, ông không bao giờ tham gia vào Đảng Xã hội PHáp (PSF) là tổ chức kế tục Croix de Feu và có thể được coi là đảng đa số cánh hữu đầu tiên của Pháp. Tuy nhiên, ông có viết các bài báo trên tờ L'Echo de Paris, gần gũi với PSF. Ông tham gia vào các cuộc tuần hành bài ngoại chống lại "sự xâm lăng métèque" vào tháng 2 năm 1935 và sau đó vào những cuộc tuần hành phản đối giáo sư luật Gaston Jèze, người từng được chỉ định làm cố vấn pháp lý của Negus tại Ethiopia tháng 1 năm 1936. Khi việc ông tham gia vào các phong trào quốc gia đó bị tiết lộ trong thập niên 1990, ông đã coi những hành động đó là sự bồng bột tuổi trẻ. Mitterrand còn có một số mối quan hệ gia đình và cá nhân với các thành viên của Cagoule, một nhóm khủng bố cực hữu trong thập niên 1930. Theo một cách logic cho những ý tưởng quốc gia của ông khi ấy, ông đã lo âu trước chủ nghĩa bành trướng của Phát xít trong thời Anschluss.
Mitterrand sau đó đăng ký nghĩa vụ quân sự từ năm 1937 tới năm 1939 tại trung đoàn bộ binh thuộc địa số 23. Năm 1938, ông trở thành người bạn thân của Georges Dayan, một người Do Thái theo chủ nghĩa xã hội, và cũng là người được ông cứu giú khỏi những hành động quá khích của phong trào bảo hoàng quốc gia chống Do Thái Action française. Tình bạn của ông với Dayan khiến Mitterrand bắt đầu nghi ngờ các lý tưởng quốc gia của mình. Khi thôi học luật, ông được gửi tới giới tuyến Maginot vào tháng 9 năm 1939, với cấp bậc trung sĩ (trung sĩ bộ binh), gần Montmédy. Ông đính hôn với Marie-Louise Terrasse (nghệ sĩ Catherine Langeais tương lai) tháng 5 năm 1940 (nhưng bà huỷ bỏ nó năm 1942).
Mitterrand ở cuối thời hạn phục vụ quân sự khi chiến tranh bùng nổ. Ông chiến đấu như một trung sĩ bộ binh và bị thương và bị quân Đức bắt giữ ngày 14 tháng 6 năm 1940. Ông bị giam tại Stalag IXA gần Ziegenhain (ngày nay được gọi là Trutzhain, một làng gần Kassel ở Hesse). Mitterrand bắt đầu tham gia vào một tổ chứ xã hội cho các tù binh chiến tranh trong trại. Ông tuyên bố điều này, và sự ảnh hưởng của những người ông đã gặp ở đó, bắt đầu thay đổi các tư tưởng chính trị của ông, khiến ông nghiêng sang phe tả. Ông đã hai lần âm mưu vượt ngục không thành công vào tháng 3 và tháng 11 năm 1941 trước khi thoát được ngày 10 tháng 12 năm 1941, đi bộ quay trở lại Pháp. Tháng 12 năm 1941 ông về nhà ở khu vực không bị chiếm đóng do người Pháp quản lý. Với sự giúp đỡ từ một người bạn của mẹ ông, ông kiếm được công việc làm công chức hạng trung trong chính phủ Vichy, chịu trách nhiệm về các quyền lợi của tù binh chiến tranh. Đây là một sự việc rất không bình thường với một tù nhân đã bỏ trốn, và ông tuyên bố đã làm một điệp viên cho Các lực lượng Tự do Pháp.
Mitterrand làm việc từ tháng 1 tới tháng 4 năm 1942 cho Légion française des combattants et des volontaires de la révolution nationale (Quân đoàn chiến binh và tình nguyện Pháp cho cuộc cách mạng quốc gia) với tư cách một nhân viên dân sự theo hợp đồng tạm thời. Ông làm việc dưới quyền Favre de Thierrens, là một điệp viên cho tình báo Anh. Sau đó ông chuyển tới Commissariat au reclassement des prisonniers de guerre (Sở hướng nghiệp cho tù binh chiến trah). Trong giai đoạn này, Mitterrand biết được những hoạt động của Thierrens và có thể đã giúp đỡ trong chiến dịch đánh lạc hướng của ông[cần dẫn nguồn]. Cùng lúc ấy, ông xuất bản một bài viết chi tiết về thời gian là tù binh chiến tranh của mình trên tạp chí France, revue de l'État nouveau (tạp chí được xuất bản với mục đích tuyên truyền của Chế độ Vichy).
Từ mùa xuân năm 1942, ông gặp các tù nhân chiến tranh bỏ trốn khác Jean Roussel, Max Varenne, và tiến sĩ Guy Fric, dưới ảnh hưởng của họ ông dần tham gia vào cuộc kháng chiến. Tháng 4, Mitterrand và Fric gây ra một vụ hỗn loạn lớn trong một cuộc tụ họp công cộng do người hợp tác Georges Claude tổ chức. Từ giữa năm 1942, ông gửi những giấy tờ giả tới các tù binh chiến tranh tại Đức và ngày 12 tháng 6 và 15 tháng 8 năm 1942, ông tham gia các cuộc gặp gỡ tại Château de Montmaur hình thành nên cơ sở cho mạng lưới kháng chiến tương lai của ông. Từ tháng 9, ông tiếp xúc với France libre, nhưng không thể hoà thuận với Michel Cailliau, cháu của Tướng Charles de Gaulle. Ngày 15 tháng 10 năm 1942, Mitterrand và Marcel Barrois (một thành viên của phong trào kháng chiến bị trục xuất năm 1944) gặp Maréchal Philippe Pétain cùng với các thành viên khác của Comité d'entraide aux prisonniers rapatriés de l'Allier (Nhóm trợ giúp hồi hương cho các tù binh chiến tranh tại Allier). Tới cuối năm 1942, Mitterrand gặp một người bạn cũ từ thời ông còn với "Cagoule" Pierre Guillain de Bénouville. Bénouville là một thành viên của các nhóm kháng chiến Combat và Noyautage des administrations publiques (NAP).
Cuối năm 1942, vùng không bị chiếm đóng bị người Đức chiếm. Mitterrand rời ban thư ký tháng 1 năm 1943, khi người lãnh đạo của ông Maurice Pinot, một vichysto-résistant khác, bị thay thế bởi cộng tác viên André Masson, nhưng ông vẫn chịu trách nhiệm về centres d'entraides. Mùa xuân năm 1943, cùng với Gabriel Jeantet, một thành viên của nội các Maréchal Pétain, và Simon Arbellot (cả hai đều là thành viên cũ của "la Cagoule"), Mitterrand được nhận Ordre de la francisque (danh hiệu danh dự của Chế độ Vichy). Tranh cãi nổ ra dữ dội tại Pháp về ý nghĩa của việc này. Khi quá khứ Vichy của Mitterrand được tiết lộ trong thập niên 1950, ban đầu ông bác bỏ việc đã nhận Francisque (một số nguồn nói ông được chỉ định để nhận giải thưởng, nhưng thực tế không bao giờ nhận nó bởi ông đã đi trốn trước khi buổi lễ diễn ra) Một số người nói ông đã bị ra lệnh phải nhận huy chương để che giấu công việc trong nhóm kháng chiến. Những người khác, như Pierre Moscovici và Jacques Attali vẫn hoài nghi về niềm tin thực sự của Mitterrand ở thời điểm đó, buộc tội ông đã có "một chân trong mỗi phe" cho tới khi chắc chắn ai sẽ là người chiến thắng, nêu ra tình bạn của Mitterrand với René Bousquet và những vòng hoa ông đã đặt trên mộ của Pétain như những dấu hiệu của thái độ nước đôi của ông.
Mitterrand dự định xây dựng một mạng lưới kháng chiến, chủ yếu gồm các cựu tù binh chiến tranh như mình. Tập hợp tù binh chiến tranh Quốc gia (Rassemblement national des prisonniers de guerre hay RNPG) đã liên kết với Tướng Henri Giraud, một cựu tù binh chiến tranh đã bỏ trốn khỏi nhà tù Đức và đi xuyên qua nước Đức để về với các lực lượng Đồng Minh. Giraud sau đó đã tranh chấp vai trò lãnh đạo Kháng chiến Pháp với Tướng Charles de Gaulle. Từ đầu năm 1943, Mitterrand bắt đầu tham gia vào việc lập ra một nhóm kháng chiến mạnh gọi là Organisation de résistance de l'armée (ORA). Ông thu thập tài chính cho mạng lưới RNPG của riêng mình, mà ông lập ra cùng Pinot vào tháng 2. Từ thời điểm đó trở về sau, Mitterrand là một thành viên của ORA . Tháng 3, Mitterrand gặp Henri Frenay, người khuyến khích phong trào kháng chiến Pháp ủng hộ Mitterrand thay vì Michel Cailliau, nhưng ngày 28 tháng 5 năm 1943, khi Mitterrand gặp gỡ với Philippe Dechartre, người theo phái de Gaulle, thường được coi là ngày ly khai của Mitterrand với Vichy.
Trong năm 1943, RNPG dần thay đổi hoạt động không còn chỉ cung cấp giấy tờ giả hay thu thập thông tin cho Pháp tự do. Pierre de Bénouville đã nói, " Mitterrand đã tạo ra một mạng lưới điệp viên thực sự tại các trại tù binh chiến tranh để cung cấp thông tin cho chúng tôi, thường là những thông tin có tính chất quyết định, về sự thực đang diễn ra phía sau biên giới nước Đức.". Ngày 10 tháng 7 Mitterrand và Piatzook (một du kích cộng sản) ngừng một cuộc tụ họp công khai tại Salle Wagram ở Paris. Cuộc gặp có dự tính cho phép những tù binh chiến tranh Pháp quay trở về nhà nếu họ được thay thế bởi những thanh niên Pháp bị buộc phải tới làm việc ở Đức" (trong tiếng Pháp điều này được gọi là "la relève"). Khi André Masson bắt đầu nói về "la trahison des gaullistes" (sự phản bội de Gaulle), Mitterrand đứng dậy trước thính giả và bác bỏ ông ta, nói rằng Masson không có quyền tuyên bố thay mặt các tù binh chiến tranh và gọi "la relève" là một trò bịp. Mitterrand thoát được không bị bắt giữ nhờ Piatzook đã yểm trợ cho ông chạy trốn..
Tháng 11 năm 1943 Sicherheitsdienst (SD) lục soát một căn hộ tại Vichy nơi họ hy vọng bắt giữ được François Morland, một thành viên kháng chiến.. "Morland" là tên vỏ bọc của Mitterrand. Ông cũng sử dụng các tên vỏ bọc khác như Purgon, Monnier, Laroche, đại uý François, Arnaud et Albre. Người đàn ông bị bắt giữ là Pol Pilven, một thành viên kháng chiến đã sống sót qua cuộc chiến tranh trong một trại tập trung. Thời điểm đó Mitterrand đang ở Paris. Được những người bạn cảnh báo, ông bỏ trốn tới London trên chiếc máy bay Lysander ngày 15 tháng 11 năm 1943. Từ đó ông tới Algiers, nơi ông gặp gỡ Charles de Gaulle, người lúc ấy đã là một lãnh đạo đương nhiên của Pháp Tự do. Hai người không hợp tác cùng nhau. Mitterrand từ chối sáp nhập nhóm của ông với các phong trào tù binh chiến tranh khác nếu Cailliau sẽ là người lãnh đạo. Dưới ảnh hưởng của Henri Frenay, de Gaulle cuối cùng đồng ý sáp nhập mạng lưới của cháu mình và RNPG với Mitterrand là người lãnh đạo. Sau đó ông qua Anh về Pháp trên một chiếc tàu thuỷ. Tại Paris, ba nhóm kháng chiến của người tù binh chiến tranh (cộng sản, de Gaulle, RNPG) cuối cùng sáp nhập trở thành Phong trào Quốc gia của các Tù binh chiến tranh và Người bị trục xuất (Mouvement national des prisonniers de guerre et déportés hay MNPGD) và Mitterrand là người lãnh đạo. Trong hồi ký ông nói rằng ông đã bắt đầu tổ chức này khi vẫn đang làm việc chính thức cho Chế độ Vichy. Từ ngày 27 tháng 113 năm 1943 Mitterrand điều hành Bureau central de renseignements et d'action .. Tháng 12 năm 1943 Mitterrand ra lệnh xử tử Henri Marlin (người định ra lệnh tấn công vào "maquis") bởi Jacques Paris et Jean Munier người sau này bỏ trốn với cha của Mitterrand. Sau một chuyến viếng thăm thứ hai tới London trong tháng 2 năm 1944 Mitterrand tham gia vào việc giải phóng Paris. Khi de Gaulle tiến vào Paris sau sự Liberation, ông được giới thiệu với nhiều người từng là một phần của chính phủ lâm thời. Trong số đó có Mitterrand, với tư cách tổng thư ký tù binh chiến tranh. Khi họ đối mặt, de Gaulle được cho là đã thì thầm: "Lại ông à!" Mitterrand bị bãi chức 2 tuần sau đó.
Tháng 10 năm 1944 Mitterrand và Jacques Foccart cùng đặt một kế hoạch giải phóng các tù binh chiến tranh và các trại tập trung. Nó được gọi là chiến dịch Viacarage và vào tháng 4 năm 1945 Mitterrand tháp tùng General Lewis như đại diện của Pháp giải phóng các trại tù binh tại Kaufering và Dachau theo lệnh của de Gaulle. Mitterrand đã may mắn tìm thấy người bạn và là thành viên trong mạng lưới của ông Robert Antelme đang bị sốt Rickettsia. Antelme được ra lệnh ở lại trong trại để ngăn ngừa bệnh lây truyền vì thế Mitterrand đã thu xếp để ông "bỏ trốn" và gửi ông về Pháp để điều trị.,.
Sau cuộc thế chiến ông nhanh chóng quay lại với chính trị. Tại cuộc cuộc bầu cử lập pháp tháng 6 năm 1946, ông lãnh đạo phái Tập hợp những người Cộng hoà cánh Tả (Rassemblement des gauches républicaines hay RGR) ở ngoại ô phía tây Paris, nhưng không được bầu. RGR là một thực thể bầu cử gồm Đảng cấp tiến, Liên minh Kháng chiến Dân chủ Xã hội (Union démocratique et socialiste de la Résistance hay UDSR) trung dung và nhiều nhóm bảo thủ. Nó đối lập với chính sách của "liên minh ba đảng" (Cộng sản, Xã hội và Dân chủ Thiên chúa giáo).
Trong cuộc bầu cử lập pháp tháng 11 năm 1946, ông giành được một ghế đại biểu tại Nièvre département. Để được bầu, ông phải giành một ghế với cái giá là Đảng Cộng sản Pháp (PCF). Với tư cách lãnh đạo phái bầu cử RGR, ông thực hiện một chiến dịch tranh cử rất chống cộng. Sau đó ông trở thành một thành viên của đảng UDSR. Tháng 1 năm 1947, ông gia nhập nội các với chức vụ Bộ trưởng cựu chiến binh chiến tranh. Ông giữ nhiều chức vụ trong Đệ tứ cộng hoà với tư cách Đại biểu và Bộ trưởng (tổng cộng giữ 11 chức vụ bộ trưởng).
Năm 1958, Mitterrand là một trong số ít ứng cử viên để Charles de Gaulle chỉ định làm lãnh đạo chính phủ, và cho kế hoạch của de Gaulle về một nền Đệ ngũ Cộng hoà. Ông đã thay đổi sự đối lập của mình trong hoàn cảnh de Gaulle quay trở lại: cuộc khủng hoảng tháng 5 năm 1958 và áp lực quân đội. Tháng 9 năm 1958, quyết định đối đầu với Charles de Gaulle, Mitterrand đưa ra một lời kêu gọi bỏ phiếu "phản đối" trong cuộc trưng cầu dân ý về hiến pháp, tuy nhiên nó vẫn được thông qua ngày 4 tháng 10 năm 1958. Liên minh thất bại gồm PCF và một số nhà chính trị cộng hoà cánh tả (như Mendès-France và Mitterrand).
Thái độ này có thể là một yếu tố khiến Mitterrand mất ghế trong cuộc bầu cử lập pháp năm 1958, bắt đầu một chiến dịch "vượt sa mạc" lâu dài (thuật ngữ này thường được áp dụng cho sự suy tàn ảnh hưởng của de Gaulle trong một giai đoạn tương tự). Quả thực, ở vòng hai cuộc bầu cử lập pháp, Mitterrand được những người Cộng sản ủng hộ tuy nhiên Nhóm Công nhân Quốc tế Pháp (SFIO) từ chối rút lui ứng cử viên của họ. Sự chia rẽ này khiến ứng cử viên phe phe de Gaulle được bầu. Một năm sau, ông trúng cử làm đại diện cho Nièvre trong Thượng viện, nơi ông là một phần của Nhóm Dân chủ cánh Tả. Cùng lúc ấy, ông không được chấp nhận vào bộ máy của Đảng Xã hội Thống nhất (Parti socialiste unifié, PSU) do Mendès-France, cựu đối thủ bên trong của Molletvà là cựu thành viên có tư tưởng cải cách của Đảng Cộng sản, lập ra. Các lãnh đạo PSU đưa ra quyết định của mình dựa trên việc ông không từ chức khỏi nội các của Mollet và quá khứ Vichy của ông.
Cũng trong năm ây, trên Đại lộ de l'Observatoire ở Paris, Mitterrand tuyên bố đã thoát khỏi những viên đạn ám sát bằng cách nấp phía sau một hàng rào, Vụ Observatory. Vụ việc khiến ông trở nên rất nổi tiếng, lần đầu khuyến khích những tham vọng chính trị của ông. Một số người chỉ trích ông tuyên bố rằng chính ông dựng lên vụ ám sát, dẫn tới một phản ứng dữ dội chống Mitterrand. Sau này ông nói rằng trước đó ông đã được đại biểu cánh hữu Pesquet cảnh báo rằng ông đang là mục tiêu của một đơn vị ám sát Algérie française và buộc tội Thủ tướng Michel Debré là người đứng sau. Trước khi biến mất, Pesquet tuyên bố rằng Mitterrand đã lập ra một nỗ lực giả về cuộc đời ông. Một vụ khởi tố đã được thực hiện chống lại Mitterrand nhưng sau đó nó đã bị huỷ bỏ.
Trong cuộc bầu cử năm 1962, ông giành lại ghế trong Quốc hội với sự ủng hộ của PCF và SFIO. Hoạt động trong cánh tả thống nhất ở Nièvre, ông ủng hộ việc tập hợp các lực lượng cánh tả ở mức độ quốc gia, gồm cả PCF, nhằm thách thức sự thống trị của phái de Gaulle. Hai năm sau, ông trở thành chủ tịch của Đại hội đồng Nièvre. Tuy những người đối lập với De Gaulle tự tổ chức thành các câu lạc bộ, ông thành lập nhóm riêng của mình, Hội nghị các định chế cộng hoà (Convention des institutions républicaines hay CIR). Ông tăng cường vị thế của mình như một người đối lập cánh tả với Charles de Gaulle bằng cách xuất bản Le Coup d'État permanent (Cuộc đảo chính thường trực, 1964), chỉ trích quyền lực cá nhân của de Gaulle, sự suy yếu của nghị viện và chính phủ, việc tổng thống có quyền tối cao với các công việc ngoại giao và quốc phòng, vân vân.
Năm 1965, Mitterrand là chính trị gia cánh tả đầu tiên coi cuộc bầu cử tổng thống theo phổ thông đầu phiếu là một cách thức để đánh bại lãnh đạo đối lập. Không phải là một thành viên của bất kỳ một đảng chính trị rõ ràng nào, tư cách ứng viên tổng thống của ông được mọi đảng cánh tả chấp nhận (Quốc tế Công nhân Pháp (SFIO), Đảng Cộng sản Pháp (PCF), Đảng Xã hội cấp tiến (PR) và Đảng Xã hội Thống nhất (PSU)). Ông chấm dứt cordon sanitaire của PCF mà đảng là một đối tượng từ năm 1947. Với lãnh đạo SFIO Guy Mollet, tư cách ứng cử viên tổng thống của Mitterrand đã ngăn cản được Gaston Defferre, đối thủ của ông trong SFIO, khỏi chạy đua chức tổng thống. Hơn nữa, Mitterrand là một nhân vật đơn độc nên ông không có vẻ là một mối đe doạ với các thành viên của các đảng cánh tả.
Trong cuộc bầu cử lập pháp tháng 3 năm 1967, hệ thống theo đó mọi ứng cử viên không vượt quá 10% phiếu ở vòng thứ nhất không được tham gia vào vòng hai tạo thuận lợi để phe ủng hộ de Gaulle đạt đa số, và chỉ phải đối mặt với một phe đối lập chia rẽ (PCF, FGDS và phái trung dung của Jacques Duhamel). Tuy vậy, các đảng cánh tả vẫn xoay xở để giành được 63 ghế nhiều hơn trước với tổng cộng 194 ghế. Những người Cộng sản vẫn là nhóm cánh tả lớn nhất với 22.5% số phiếu. Liên minh cầm quyền giành đa số nhưng bị giảm một ghế (247 ghế trong số 487).
Sau thất bại của FGDS, Mitterrand quay sang Đảng Xã hội (Parti socialiste hay "PS"). Tháng 6 năm 1971, ở thời điểm Đại hội Epinay, CIR gia nhập với "PS", vốn đã thay thế SFIO năm 1969. Phe hành pháp của "PS" khi ấy bị thống trị bởi những người ủng hộ Guy Mollet. Họ đề xuất một cuộc "đối thoại lý tưởng" với những người Cộng sản. Với Mitterrand, một liên minh bầu cử là tối cần thiết để vươn tới quyền lực. Với dự án này, ông đã có được sự ủng hộ của toàn bộ các thành phần phản đối bên trong chống phe của Mollet và ông được bầu làm thư ký thứ nhất của "PS".
Năm 1977, các đảng Cộng sản và Xã hội không thể nâng cấp Chương trình Chung, sau đó thua trong cuộc bầu cử lập pháp năm 1978. Tuy những người Xã hội đảm nhận vai trò lãnh đạo cánh tả, để lần đầu tiên có nhiều phiếu hơn nhữn người Cộng sản từ năm 1936, vai trò lãnh đạo của Mitterrand bị thách thức bởi một nhóm đối lập trong nội bộ, dẫn đầu là Michel Rocard, ông chỉ trích chương trình của PS là "cổ lỗ" và "không thực tế". Những cuộc điều tra cho thấy Rocard được ủng hộ hơn Mitterrand. Tuy nhiên, Mitterrand đã giành chiến thắng tại Đại hội Metz (1979) của đảng và Rocard rút lui tư cách ứng viên cho cuộc bầu cử tổng thống năm 1981.
Lần thứ ba là ứng cử viên tổng thống, Mitterrand không được PCF ủng hộ mà chỉ có PS. Ông đưa ra một hình ảnh làm vững lòng mọi người với khẩu hiệu "lực im lặng". Ông kêu gọi một "chính trị khác", dựa trên chương trình Xã hội 110 Đề xuất cho nước Pháp, và lên án hoạt động của tổng thống đương nhiệm. Hơn nữa, ông còn được lợi từ cuộc xung đột trong cánh hữu đa số. Ông giành được 25.85% phiếu bầu ở vòng một (so với 15% của ứng cử viên PCF Georges Marchais) sau đó đánh bại tổng thống Giscard d'Estaing ở vòng hai với, 51.76% phiếu. Ông trở thành chính trị gia đầu tiên của cánh tả được bầu làm Tổng thống Pháp theo phổ thông đầu phiếu.
Sự khởi đầu nhiệm kỳ đầu tiên của ông được đánh dấu bởi một chính sách kinh tế cánh tả dựa trên 110 Đề xuất cho Pháp và Common Program năm 1972 giữa Đảng Xã hội, Đảng Cộng sản và Đảng Cấp tiến cánh Tả. Nó gồm nhiều kế hoạch quốc hữu hoá, tăng 10% lương tối thiểu (SMIC), làm việc 39 giờ mỗi tuần, 5 tuần nghỉ mỗi năm, việc tạo lập thuế đoàn kết trên tài sản, tăng phúc lợi xã hội, và mở rộng quyền được tư vấn và thông tin của công nhân về công việc của họ (thông qua Đạo luật Auroux). Mục tiêu là khuyến khích bùng nổ nhu cầu và vì thế là cả hoạt động kinh tế (Keynesianism). Tuy nhiên, thất nghiệp tiếp tục gia tăng và ba lần phá giá đồng franc diễn ra sau đó. Chính sách này ít nhiều đã chấm dứt vớisự chuyển hướng sang tự do năm 1983. Ưu tiên được dành cho cuộc chiến chống lạm phát để duy trì tính cạnh tranh trong Hệ thống Tiền tệ châu Âu.
Với sự chú trọng tới các chính sách văn hoá và xã hội, Mitterrand đã bãi bỏ hình phạt tử hình ngay khi lên nhậm chức (thông qua Đạo luật Badinter), cũng như "Đạo luật anti-casseurs" quy định việc quy trách nhiệm cho các hành động bạo lực trong các cuộc biểu tình. Ông cũng giải tán Cour de sûreté, một toà án cấp cao đặc biệt và thực hiện việc pháp chế hoá hàng loạt cho người nhập cư bất hợp pháp. Mitterrand đã thông qua những bộ luật phi tập trung đầu tiên (Đạo luật Defferre) và tự do hoá truyền thông, lập ra CSA cơ quan quản lý truyền thông, và cho phép đài truyền thanh tư nhân và kênh truyền hình tư nhân đầu tiên (Canal+), khiến lĩnh vực phát thanh truyền hình tư nhân phát triển. Năm 1983, Mitterrand trở thành một công dân danh dự của Belgrade.
Chirac xử lý hầu hết các chính sách trong nước trong khi Mitterrand tập trung vào "lĩnh vực dành riêng" của ông: quan hệ nước ngoài và quốc phòng. Tuy nhiên, nhiều cuộc xung đột giữa hai người lãnh đạo nhánh hành pháp đã diễn ra. Trong đó Mitterrand từ chối ký các nghị định tự do hoá, buộc Chirac phải để nó được thông qua theo đường nghị viện. Hông ngầm ủng hộ các phong trào xã hội, đáng chú ý là cuộc nổi loạn của sinh viên chống cuộc cải cách trường đại học (Luật Devaquet) [cần dẫn nguồn]. Lợi dụng những khó khăn của nội các Chirac, danh tiếng của ông tăng lên.
Nhiệm kỳ thứ hai của ông được ghi dấu bởi Thoả thuận Matignon về New Caledonia, việc thành lập Bù đắp Thu nhập Tối thiểu (RMI), đảm bảo một mức độ thu nhập tối thiểu cho những người bị tước đoạt bất kỳ hình thức thu nhập nào, việc tái lập thuế đoàn kết vào tài sản, đã từng bị xoá bỏ dưới thời chính phủ Chirac, việc thể chế thuế xã hội chung, cải cách Chính sách Nông nghiệp Chung, Đạo luật Gayssot năm 1990 về tuyên bố hận thù và bác bỏ Holocaust, Đạo luật Arpaillange về cung cấp tài chính cho các đảng chính trị, cải cách luật hình sự và Đạo luật Evin về những địa điểm hút thuốc nơi công cộng. Nhiều công trình kiến trúc lớn được tiếp tục, với việc xây dựng Kim tự tháp Louvre, Đường hầm eo biển Manche, Grande Arche tại La Défense, Bastille Opera, Bộ Tài chính tại Bercy, Thư viện Quốc gia Pháp.
Bất bình với thất bại của Rocard trong việc thực hiện các chương trình xã hội, Mitterrand bãi chức Rocard năm 1991 và chỉ định Edith Cresson thay thế ông. Bà là người phụ nữ đầu tiên làm Thủ tướng Pháp, nhưng đã bị buộc phải từ chức sau thảm hoạ của cuộc bầu cử cấp vùng năm 1992. Người kế nhiệm bà Pierre Bérégovoy hứa hẹn chiến đấu chống nạn thất nghiệp và tham nhũng nhưng ông không thể ngăn được thất bại cay đắng của phái Tả trong cuộc bầu cử lập pháp năm 1993. Ông tự sát ngày 1 tháng 5 năm 1993.