en
stringlengths
1
8.65k
vi
stringlengths
1
3.03k
Conditioned media (MCM) of cloned thymic myoid cells (IT45R92, R613Ad, and R615B2) were used to investigate their possible involvement in thymic biological events. Those myoid cells produced in a culture medium biological activities capable of stimulating the growth of thymocytes, spleen cells, and bone marrow cells of mice and rats. Surface markers detected on spleen cells proliferating in MCM were characteristic of monocyte-macrophage lineages (C3R, Fc gamma R, asialo GM1) and T-cell lineages (Thy 1) but not B cells (sIgG). Chromatographic studies also suggested that the biological activities of MCM could be separated into two different molecular entities, such as a colony-stimulating activity and an interleukin 1-like activity which supported the growth of monocyte-macrophage lineages and T-cell lineages, respectively. These results indicate that thymic myoid cells produce cytokines important for the regulation of intrathymic interleukin cascade by which clonally differentiated thymic lymphocytes may be expanded into a sizable pool.
Điều kiện hóa các tế bào myoid tuyến ức (MCM) nhân bản vô tính (IT45R92, R613Ad và R615B2) đã được sử dụng để khảo sát sự liên quan của chúng với các sự kiện sinh học tuyến ức. Các tế bào myoid được sản xuất trong môi trường nuôi cấy có khả năng kích thích sự phát triển của tế bào tuyến ức, tế bào lách và tế bào tủy xương của chuột nhắt trắng và chuột cống. Các marker bề mặt được phát hiện trên tế bào lách sinh sôi nảy nở trong MC
Delivery of the lethal hit signal to target cells (TC) by cytolytic T lymphocyte (CTL) has traditionally been considered strictly dependent upon the presence of external Ca2+ [( Ca2+]ext) in the medium, but neither the role of Ca2+ nor its site of action (effector or target) have been known. We have observed that in different CTL/TC systems the requirement for [Ca2+]ext varies, depending on the target. Some TC, like leukemia L1210, are strictly dependent on [Ca2+]ext for lysis while others, like EL4 (and P815), are not. It is therefore suggested that, where required, [Ca2+]ext exerts its effect(s) on the TC and not the CTL. In support of this conclusion are experiments showing that effector cells cytolytic to certain TC in the absence of [Ca2+]ext, require [Ca2+]ext when used themselves as TC of other effectors. Verapamil, a Ca2+-channel blocker, inhibits the lysis of L1210 but not of EL4 cells, suggesting involvement of Ca2+ flux into L1210 target cells and, if at all involved, Ca2+ mobilization from internal stores in EL4. The different lytic susceptibility of the two TC to the Ca2+ ionophore A23187, in the presence and absence of [Ca2+]ext, correlated with their responses to CTL. It suggests Ca2+ influx into both types of TC in the presence of [Ca2+]ext and its release from internal stores in the lysis of EL4 but not L1210 in the absence of [Ca2+]ext. In view of these results indicating that the target is the site of Ca2+ action, we propose that CTL induce a Ca2+-regulated activation of the TC leading to its lysis.
Sự phân phối tín hiệu trúng đích gây chết người đến tế bào đích (TC) bằng tế bào lympho T phân giải tế bào (CTL) theo truyền thống được coi là hoàn toàn phụ thuộc vào sự hiện diện của Ca2+ bên ngoài (( Ca2+)ext) trong môi trường, nhưng vai trò của Ca2+ cũng như vị trí tác động của nó (tác nhân hoặc đích) chưa được biết đến. Chúng tôi đã quan sát thấy rằng trong các hệ thống CTL/TC khác nhau, yêu cầu về [Ca2+]ext thay đổi tùy
We describe some aspects of the biology of a suppressor factor (SF) secreted by actively metabolizing and dividing alloantigen-primed T cells which functions by regulating human cytotoxic T-lymphocyte (CTL) activation. The SF functions most effectively during the first 24 hr of CTL activation, while it does not function at the CTL effector stage. Both T cells and adherent cells are capable of absorbing out the biological activity from suppressor factor supernatants. Experiments demonstrated that either fresh adherent cells or the addition of interleukin 2 (IL-2) into the test system could reverse the effects of the SF on CTL activation. These data suggest that the SF could be acting by either indirectly restricting IL-2 availability to proliferating CTLs by limiting adherent cell interleukin 1 (IL-1) secretion or, alternatively, SF acting directly on the IL-2-producing T cells.
Chúng tôi mô tả một số khía cạnh sinh học của yếu tố ức chế tiết ra bằng cách chủ động chuyển hóa và phân chia tế bào T kích thích tế bào lympho (T-lymphocyte) có chức năng điều hòa hoạt hóa tế bào T gây độc tế bào (CTL ). Chức năng của T-lymphocyte hoạt động hiệu quả nhất trong 24 giờ đầu tiên khi kích hoạt CTL, trong khi nó không hoạt động ở giai đoạn tác động của CTL. Cả tế bào T và tế bào bám dính đều có khả năng hấp thụ hoạt động sinh học
Human T cells, when activated by antigen or mitogen, express Ia antigens. We have examined the capacity of activated T cells to stimulate autologous and allogeneic T cells and their ability to present soluble antigen. Interleukin 2-dependent T-cell lines (TCL), free of accessory cells, were used for antigen-presenting cells. These activated T cells were potent stimulators in an autologous mixed lymphocyte reaction (AMLR), more so than autologous irradiated non-T mononuclear cells. Activated T cells were also able to stimulate proliferation of allogeneic T cells in the absence of any other accessory cells, and this stimulation was blocked by anti-Ia antibodies. Resting unstimulated T cells were unable to stimulate autologous or allogeneic responses. Thus, activated T cells were able to present self antigens and alloantigens. However, activated T cells could not present soluble antigens to autologous T cells or to antigen-specific TCL even if exogenous interleukin 1 was added to cultures. The ability of activated T cells to stimulate an AMLR in vitro may reflect an important immunologic amplification mechanism in vivo. The ability of activated T cells to present alloantigens but not soluble antigens suggests an inability to process antigen, and this may provide further insights into the complexities of antigen presentation.
Tế bào T ở người khi được kích hoạt bởi kháng nguyên hoặc mitogen, biểu hiện kháng nguyên Ia. Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu khả năng kích thích và khả năng biểu hiện kháng nguyên hòa tan của tế bào T tự thân và allogeneic. Dòng tế bào T phụ thuộc Interleukin 2 (TCL) không có tế bào phụ được sử dụng để trình kháng nguyên. Các tế bào T hoạt hóa này là các chất kích thích mạnh trong phản ứng tế bào lympho hỗn hợp tự thân (AMLR) hơn so với các tế bào đơn nhân không phải T được chiếu xạ
Rats with DMBA-induced mammary tumors were treated for 30 days i.m. with medroxyprogesterone acetate (MPA) at doses of 7.5, 15 or 75 mg/kg. Complete regression (disappearance of tumor) was observed in 60% and 20% of tumors from rats treated with 75 or 15 mg/kg MPA respectively. Partial regression (50% decrease in tumor area) was found in the remaining 20% of tumors from rats treated with 15 mg/kg MPA. The dose of 7.5 mg/kg MPA resulted in being devoid of effectiveness. Estrogen receptor (ER) levels were significantly reduced at all doses of MPA injected both in responsive and non-responsive tumors. However, only tumors with ER levels above 15 fmol/mg before therapy resulted in being responsive to MPA treatment. Progesterone receptors were so reduced at the end of the experiment as to not be detectable in all treated groups. It was concluded that MPA is effective as an antitumoral drug also in DMBA-induced mammary tumors and that this effect is at least in part related to ER levels before treatment.
Chuột nhắt trắng có khối u vú do DMBA được điều trị 30 ngày bằng medroxyprogesterone acetate (MPA) liều 7,5,15 hoặc 75 mg/kg thể trọng/ngày. 60% và 20% số chuột được điều trị bằng 75 mg/kg thể trọng/ngày có u tái phát hoàn toàn. 20% còn lại được điều trị bằng 15 mg/kg thể trọng/ngày có u tái phát một phần (giảm 50% diện tích u ). Liều 7,5 mg/kg thể trọng/ngày không có hiệu quả. Nồng độ thụ thể estrogen (ER) giảm rõ rệt ở tất cả các liều tiêm MPA ở cả hai nhóm đáp ứng và không đáp ứng. Tuy nhiên, chỉ có khối u có nồng độ ER trên 15 fmol/mg trước khi điều trị đáp ứng với điều trị bằng MPA. Thụ thể progesterone giảm đến mức không phát hiện được ở tất cả các nhóm được điều trị. Kết luận MPA có hiệu quả như một thuốc chống ung thư cũng như ở các khối u vú do DMBA gây ra và tác dụng này ít nhất một phần liên quan đến nồng độ ER trước khi điều trị.
Twelve patients affected by hemolymphoblastosis were treated with lithium carbonate in order to attenuate neutropenia induced by anticancer drugs. Controls were chosen among patients who had not received lithium treatment after cytostatic therapy. We estimated plasmatic and erythrocyte lithium levels and determined the Erythrocyte lithium rate (ER), i.e., erythrocyte lithium levels expressed as a percentage of plasmatic levels. A significant correlation was found between granulocyte increase at one week (GIW) and ER. No significant correlation was found between GIW and the other two estimation procedures. Therefore, ER seems to be a reliable index of the efficacy of the treatment, and could be used to monitor lithium administration.
12 bệnh nhân bị bệnh nguyên bào máu được điều trị bằng lithium carbonate để giảm giảm bạch cầu do thuốc chống ung thư. Các bệnh nhân không được điều trị bằng lithium sau điều trị kìm hãm tế bào được lựa chọn kiểm soát. Chúng tôi ước tính nồng độ liti huyết tương và hồng cầu và xác định tỷ lệ liti hồng cầu (ER) tức là nồng độ liti hồng cầu được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm của nồng độ liti. Có mối tương quan có ý nghĩa giữa sự gia tăng bạch cầu hạt sau 1 tuần (GIW) và ER. Không có
The South American continent has been connected to Africa over millions of centuries. In prehistorical time, the filling of the Bering strait allowed passage on firm ground between Asia and North America. South American peopling has thus occurred from North America, through the Pacific sea and, from the 15th century A.C., through the Atlantic. Necator americanus was present in South America prior to the arrival of black slaves and its African origin is probably related to contacts between Africa and South America; the same applies to Leishmania donovani and Biom-Phalaria glabrata. Ankylostoma duodenale originates from Asia as well as Plasmodium falciparum which was brought by man at time of his migration. To the contrary, muco-cutaneous Leishmaniasis stem (or have a South American origin) from South America. Finally, it is difficult to understand for which reasons Loa loa has not established itself in South America as did Schistosoma mansoni.
Lục địa Nam Mỹ đã kết nối với châu Phi qua hàng triệu thế kỷ. Vào thời tiền sử, eo biển Bering đầy người nên đã cho phép người ta đi lại trên một vùng đất vững chắc giữa châu Á và Bắc Mỹ. Do đó, dân cư Nam Mỹ đã xuất hiện từ Bắc Mỹ, qua biển Thái Bình Dương, và từ thế kỷ 15 qua Đại Tây Dương. Loài Necator americanus đã có mặt ở Nam Mỹ trước khi những nô lệ da đen đến và nguồn gốc châu Phi của nó hẳn phải liên quan đến những tiếp xúc giữa châu Phi và Nam Mỹ; điều tương tự cũng xảy ra với Leishmania donovani và Biom-Phalaria glabrata. Ankylostoma duodenale có nguồn gốc từ châu Á cũng như Plasmodium falciparum do con người mang đến vào thời điểm di cư. Ngược lại, gốc Leishmania dưới da (hoặc có nguồn gốc Nam Mỹ) có nguồn gốc từ Nam Mỹ. Cuối cùng, thật khó hiểu vì sao Loa loa không tự hình thành ở Nam Mỹ như Schistosoma mansoni.
Intercellular gap-junctional communication was measured using [14C]citrulline incorporation in co-cultures of argininosuccinate lyase-deficient human fibroblasts and argininosuccinate synthetase-deficient Chinese Hamster V79 cells. As previously shown, in this system junctional communication is completely inhibited by the tumor promoting phorbol ester 12-O-tetradecanoylphorbol-13-acetate (TPA). In the absence of extracellular calcium, TPA inhibition was less pronounced. However, synergism with calcium ionophore A23187 could not be demonstrated. Chlorpromazine, trifluoperazine and 3,4,5-trimethoxybenzoic acid 8-(diethylamino)octyl ester partially antagonised the effect of TPA. No antagonism was demonstrable between calmidazolium and TPA. Treatment of co-cultures with exogenous phospholipase C or 1-oleoyl-2-acetylglycerol (OAG) resulted in communication inhibition, suggesting that protein kinase C activation is involved in the mechanism of phorbol ester-mediated communication inhibition. However co-cultures which had been made refractory to TPA by prolonged exposure to high concentrations remained sensitive to inhibition by phospholipase C and OAG. These results suggest either that diacylglycerol can produce other effects independent of protein kinase C activation, or that refractoriness to phorbol esters is not simply due to a decrease in the amount of protein kinase C.
Sự kết hợp giữa các tế bào với nhau trong giao tiếp liên bào được đo bằng cách sử dụng kết hợp citrulline [14C] trong các tế bào đồng loại của nguyên bào sợi người thiếu argininosuccine lyase và tế bào chuột hamster Trung Quốc thiếu argininosuccine synthetase. Như đã chỉ ra trước đây, trong hệ thống liên kết này sự giao tiếp bị ức chế hoàn toàn bởi khối u thúc đẩy phorbol ester 12-O-tetradecanoylphorbol-13-acetate (TPA ).
The postoperative effect of infusion of nitroglycerin on pulmonary vasomotor dynamics was studied in 28 patients undergoing valve replacement for mitral valve stenosis. A 30% reduction in mean pulmonary arterial pressure (38.74 +/- 8.3 to 26.92 +/- 7.72 mm Hg, p less than .001) and a 48.4% reduction in pulmonary vascular resistance index (12.08 +/- 4.19 to 5.61 +/- 1.61 U/m2, p less than .001) were observed after nitroglycerin. While pulmonary driving pressure (mean pulmonary arterial pressure minus left atrial pressure) dropped by 50.8%, cardiac and stroke volume indexes increased by 25.5% and 24.2%, respectively. The ratio pulmonary/systemic vascular resistance decreased from 34.14% to 20.9% (p less than .001). There were no significant changes in mean systemic arterial pressure (86.89 +/- 13.5 to 83.5 +/- 9.3 mm Hg, p = NS) or heart rate (97.43 +/- 20.45 to 99.36 +/- 20.9 beats/min, p = NS); left and right atrial pressures decreased by 19.5% and 9.5%, respectively. Systemic vascular resistance index decreased by 18.8%. We conclude that low-dose infusion of nitroglycerin reduces the pulmonary vascular resistance in patients with pulmonary hypertension, and consequently results in improvement in immediate postoperative hemodynamics after replacement of a stenotic mitral valve.
Đánh giá tác dụng của NOGEROGINE trên động lực học mạch phổi ở 28 bệnh nhân bị hẹp van hai lá sau phẫu thuật thay van. Sau NOGEROGINE, áp lực động mạch phổi trung bình giảm 30% ( 38,74 +/- 8,3 xuống 26,92 +/- 7,72 mm Hg, p < 0,001) và chỉ số sức cản mạch phổi (12,08 +/- 4,19 xuống 5,61 +/- 1,61 U/m2, p < 0,001) giảm 48,4 %. Áp lực dẫn truyền giảm 50,8% ( áp lực động mạch phổi trung bình trừ áp lực nhĩ trái ), chỉ số tim và thể tích tim tăng 25,5% và 24,2 %. Tỷ lệ sức cản động mạch phổi/hệ thống giảm từ 34,14% xuống 20,9% ( p < 0,001 ). Không có sự thay đổi đáng kể áp lực động mạch toàn thân trung bình (86,89 +/- 13,5 xuống 83,5 +/- 9,3 mm Hg, p = NS) và nhịp tim (97,43 +/- 20,45 xuống 99,36 +/- 20,9 nhịp/phút, p = NS); áp lực nhĩ trái giảm 19,5% và nhĩ phải giảm 9,5 %. Chỉ số sức cản mạch toàn thân giảm 18,8 %. Chúng tôi kết luận nOGEROGINE giảm sức cản động mạch phổi ở bệnh nhân tăng áp phổi, do đó cải thiện huyết động ngay sau phẫu thuật thay van hai lá.
A total of 135 survivors of surgical treatment of aortic dissection was followed for up to 15 years after surgery. Actuarial survival rates were 82 +/- 4% at 5 years and 64 +/- 6% at 10 years. There were no significant differences in long-term survival rates of patients in four subsets based on type and acuity of dissections. The incidence of late reoperation (dissection-related) was 13 +/- 4% at 5 years and 23 +/- 6% at 10 years; again, there was no significant difference among patients with different types or acuity of dissection. Multiple variables were investigated by multivariate discriminant analysis. Significant independent risk factors for late death included stroke, chronic renal dysfunction, remote myocardial infarction, and operation in the early years of this study. Younger age, site of intimal tear (arch), and cardiac tamponade portended a significantly higher likelihood of late reoperation. Except for stroke, no complication of the dissection or intraoperative factor significantly influenced late survival. Patients in whom the intimal tear was located in the aortic arch had the highest probability of late reoperation. Thus, dissection type, acuity, and distal extent, whether or not the tear was resected or concomitant aortic valve replacement performed, and a host of patient-related characteristics had no significant influence on the generally excellent long-term prognosis after surgical treatment. Indefinite surveillance of the remaining natural aorta is imperative (with reoperation when indicated) to attain such results.
135 bệnh nhân sống sót sau phẫu thuật bóc tách ĐMC được theo dõi đến 15 năm sau phẫu thuật. Tỷ lệ sống sau phẫu thuật tính toán là 82 +/- 4% sau 5 năm và 64 +/- 6% sau 10 năm. Không có sự khác biệt về tỷ lệ sống lâu dài của bệnh nhân trong 4 nhóm bệnh nhân dựa vào thể loại và tốc độ phẫu tích. Tỷ lệ tái mổ muộn (liên quan đến phẫu tích) là 13 +/- 4% sau 5 năm và 23 +/- 6% sau 10 năm; cũng không có sự khác biệt giữa các bệnh nhân có thể loại và tốc độ phẫu tích khác nhau. Nhiều biến số được khảo sát bằng phân tích chẩn đoán đa biến. Các yếu tố nguy cơ độc lập với tử vong muộn bao gồm đột quỵ, rối loạn chức năng thận mạn, nhồi máu cơ tim từ xa và phẫu thuật trong những năm đầu của nghiên cứu. Tuổi trẻ hơn, vị trí rách nội mạc và chèn ép tim là các yếu tố có nguy cơ tái mổ muộn cao hơn. Ngoại trừ đột quỵ, không có biến chứng của phẫu tích hay các yếu tố trong phẫu tích ảnh hưởng đến thời gian sống thêm muộn. Bệnh nhân có vị trí rách nội mạc nằm trong cung động mạch chủ có nguy cơ tái mổ muộn cao nhất. Do đó, thể loại phẫu tích, tốc độ và mức độ rách, có hay không phẫu tích hay thay van đồng thời và một loạt các đặc điểm liên quan đến bệnh nhân không có ảnh hưởng đáng kể đến tiên lượng chung tốt về lâu dài sau phẫu thuật. Cần theo dõi vô thời hạn các động mạch chủ tự nhiên còn lại (theo chỉ định phẫu tích lại) để đạt được kết quả này.
Reperfusion of the globally ischemic myocardium with mannitol has been shown to preserve myocardial function. However, it remains unclear whether the mechanism of mannitol protection relates to its hyperosmolar or free radical scavenging properties. Three groups of isolated, perfused rabbit hearts underwent 45 min of normothermic ischemia without cardioplegia in an experimental paradigm analogous to the clinical situation of coronary artery thrombosis with subsequent reperfusion. Six hearts were reperfused with an isosmolar solution, eight hearts were reperfused with a mannitol-containing solution (20 mOsm/liter), and five hearts were reperfused with a solution containing additional sodium chloride (10 meq/liter, 20 mOsm/liter) to control for the hyperosmotic effects of mannitol. Left ventricular developed pressure, its derivative dP/dt, and diastolic compliance were all significantly improved in the mannitol-reperfused hearts when compared with the hypertonic saline and control groups (p less than .05). There were no intergroup differences in myocardial edema formation, oxygen consumption, or lactate production. These data indicate that mannitol reperfusion offers significant myocardial protection independent of hyperosmolar properties. Free radical scavenging activity appears to be the most credible explanation for these observations, although confirmation of this mechanism awaits further biochemical and cellular investigation.
Tái tưới máu cơ tim thiếu máu cục bộ toàn cầu bằng mannitol đã được chứng minh là bảo tồn được chức năng cơ tim. Tuy nhiên, cơ chế bảo vệ mannitol liên quan đến tính chất tăng thân nhiệt hay nhặt gốc tự do của nó vẫn chưa rõ ràng. Ba nhóm tim thỏ được truyền máu đã trải qua 45 phút thiếu máu cục bộ bình thường mà không bị liệt tim theo mô hình thực nghiệm tương tự như tình trạng lâm sàng của huyết khối động mạch vành với tái tưới máu sau đó. Sáu tim được tái tưới máu bằng dung dịch isosmolar, tám tim được tái
Incubation of cultured human umbilical vein endothelial cells with [1-14C]-arachidonic acid, followed by RP-HPLC analysis, resulted in the appearance of two principal radioactive products besides 6-keto-PGF1 alpha. The first peak was HHT, a hydrolysis product of the prostaglandin endoperoxide. The second peak was esterified, converted to the trimethylsilyl ether derivative, and analyzed by GC/MS and was shown to be the lipoxygenase product 15-HETE. Stimulation of endothelial cells with thrombin enhanced 15-HETE synthesis from arachidonate. Subsequent experiments showed that 5-HETE and 12-HETE were also synthesized by endothelial cells, but no evidence of leukotriene synthesis was found. Incubation of the 15-HETE precursor 15-HPETE with endothelial cells resulted in the formation of four distinct ultraviolet light-absorbing peaks. Ultraviolet and GC/MS analysis showed these peaks to be 8,15-diHETEs that differed only in their hydroxyl configuration and cis-trans double-bond geometry. Formation of 8,15-diHETE molecules suggests the prior formation of the unstable epoxide molecule 14,15-LTA4 or an attack at C-10 of 15-HPETE by an enzyme with mechanistic features in common with a 12-lipoxygenase. The observation that endothelial cells can synthesize both 15-HETE and 8,15-diHETE molecules suggest that this cell type contains both a 15-lipoxygenase and a system that can synthesize 14,15-LTA4.
Phản ứng kích thích tế bào nội mô bằng acid (1-14C) - amino acid nuôi cấy trên tĩnh mạch rốn người, sau đó phân tích RP-HPLC, cho kết quả xuất hiện hai sản phẩm phóng xạ chính bên cạnh 6-keto-PGF1 alpha. Đỉnh đầu tiên là HHT, một sản phẩm thủy phân của endoperoxid tuyến tiền liệt. Đỉnh thứ hai được este hóa, chuyển hóa thành dẫn xuất trimethylsilyl ether, được phân tích bằng GC/MS và được chứng minh là sản phẩm lipoxygenase 15-HET
Platelets-isolated or in conjunction with leukocytes-interact with vessel walls in many experimental and human diseases. Several mediators are held responsible for platelet activation and interaction with leukocytes, among which PAF-acether (platelet-activating factor) is a prime candidate. This phospholipid mediator is released by most inflammatory cells, including neutrophils, by isolated organs such as kidney and heart, is a potent platelet and neutrophil agonist, and exerts major vasoactive properties. Its biosynthesis involves a two-step enzymatic process yielding the active molecule from the membrane alkyl-ether choline-containing phospholipids. The first step implicates a phospholipase A2 that hydrolyzes a long-chain fatty acid (which can be arachidonic acid) from membrane phospholipids, leaving the intermediate compound lyso PAF-acether, a PAF-acether precursor that is acetylated by an acetyltransferase in a second step. It can also result from deacetylation of PAF-acether by an acetylhydrolase. PAF-acether release might explain the intervention of platelets in diseases such as glomerulonephritis and allergic vasculitis, in which the involvement of neutrophils and platelets is frequently noted. The end result of these complex sets of cell-to-cell interactions is the release of most known inflammatory mediators, influencing vascular permeability, cell infiltration, and smooth muscle contraction. Nevertheless, direct evidence for the implication of these rather well-defined cellular and molecular interactions in human pathologic states remains to be obtained.
Tiểu cầu-hay còn gọi là tiểu cầu kết hợp với bạch cầu-tương tác với thành mạch trong nhiều bệnh lý ở người và thực nghiệm. Một số nhân tố trung gian chịu trách nhiệm cho sự hoạt hóa và tương tác tiểu cầu với bạch cầu, trong đó PAF-acether (yếu tố hoạt hóa tiểu cầu) là một ứng cử viên hàng đầu. Chất trung gian phospholipid này được giải phóng bởi hầu hết các tế bào viêm, bao gồm cả bạch cầu trung tính, bởi các cơ quan biệt lập như thận và tim, là một chất chủ vận tiểu cầu và bạch cầu trung tính mạnh, có tác dụng vận mạch chính. Quá trình sinh tổng hợp của nó bao gồm một quá trình enzyme hai bước, tạo ra phân tử hoạt tính từ các phospholipid màng chứa alkyl-ether. Bước đầu tiên liên quan đến một phospholipase A2 thủy phân một acid béo chuỗi dài (có thể là acid arachidonic) từ phospholipid màng, để lại hợp chất trung gian lyso PAF-acether, một tiền chất PAF-acether được acetyl hóa bởi acetyltransferase ở bước thứ hai. Nó cũng có thể là kết quả của quá trình khử acetyl của PAF-acether bằng acetylhydrolase. Sự giải phóng PAF-acether có thể giải thích sự can thiệp của tiểu cầu vào các bệnh lý như viêm cầu thận và viêm mạch dị ứng, trong đó sự tham gia của bạch cầu trung tính và tiểu cầu thường được ghi nhận. Kết quả cuối cùng của các tập hợp tương tác tế bào và phân tử khá rõ ràng này trong các tình trạng bệnh lý ở người vẫn còn cần được làm rõ.
Primary cultures of confluent endothelial cells derived from human umbilical veins produce platelet-activating factor (PAF) (1-alkyl-2-acetyl-sn-glycero-3-phosphocholine) when stimulated with appropriate agonists. Highly purified human thrombin and calcium ionophore A23187 stimulate the incorporation of [3H] acetate into a lipid product that has been identified as PAF by its behavior in thin-layer chromatographic and high-performance liquid chromatographic systems, the presence of characteristic biologic activity, and appropriate response to phospholipases. A number of other humoral mediators, examined because they directly influence the activity of vascular cells or because they may mediate endothelial injury, do not stimulate PAF production by endothelial cells. This indicates that the synthesis of PAF by cultured human endothelial cells is a response to specific agonists and is not an unregulated event that occurs as a result of nonspecific cellular perturbation. The PAF produced by thrombin-treated endothelial cells is a potent stimulus for platelet activation, as assayed by the aggregation of human platelets in autologous plasma. The production of PAF by endothelial monolayers is attenuated by prostacyclin, another product of stimulated endothelial cells. Conversely, PAF production is enhanced by treatment of the endothelial cells with indomethacin, an inhibitor of prostacyclin synthesis from arachidonic acid, indicating that endogenously generated prostacyclin may modulate PAF synthesis. The potential to synthesize PAF, a unique lipid autocoid that stimulates the activation of both platelets and polymorphonuclear leukocytes, suggests that endothelial cells can directly influence the activity of these circulating effector cells. This biologic potential may be important in the interaction of the endothelium with circulating blood cells in physiologic conditions and in syndromes of vascular injury.
Nuôi cấy tế bào nội mô hợp lưu có nguồn gốc từ tĩnh mạch rốn người tạo ra yếu tố kích hoạt tiểu cầu (PAF) ( 1-alkyl-2-acetyl-sn-glycero-3-phosphocholine) khi được kích thích bằng chất chủ vận thích hợp. Thrombin và canxi ionophore A23187 tinh khiết cao ở người kích thích sự kết hợp của acetate vào sản phẩm lipid đã được xác định là PAF thông qua hoạt động của nó trong các hệ thống sắc ký lớp mỏng và sắc ký lỏng hiệu năng cao, sự hiện diện của hoạt tính sinh học đặc trưng và đáp ứng thích hợp với phospholipase. Một số chất trung gian dịch thể khác, được kiểm tra vì chúng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các tế bào mạch máu hoặc vì chúng có thể làm trung gian cho tổn thương nội mô, không kích thích sản xuất PAF bởi các tế bào nội mô. Điều này chỉ ra rằng việc tổng hợp PAF bằng các tế bào nội mô nuôi cấy là một phản ứng với các chất chủ vận đặc hiệu và không phải là một sự kiện không được kiểm soát xảy ra do sự xáo trộn của tế bào không đặc hiệu. PAF được sản xuất bởi các tế bào nội mô được xử lý bằng thrombin là một chất kích thích mạnh cho hoạt hóa tiểu cầu, như đã được thử nghiệm bằng cách tập hợp tiểu cầu của người trong huyết tương tự thân. Việc sản xuất PAF bằng các đơn lớp nội mô bị suy yếu bởi prostacyclin, một sản phẩm khác của các tế bào nội mô bị kích thích. Ngược lại, việc sản xuất PAF được tăng cường bằng cách điều trị các tế bào nội mô bằng indomethacin, một chất ức chế tổng hợp prostacyclin từ acid arachidonic, cho thấy các tế bào nội mô tạo ra nội sinh có thể điều chỉnh tổng hợp PAF. Tiềm năng tổng hợp PAF, một loại lipid tự thân đặc biệt kích thích hoạt hóa tiểu cầu và bạch cầu đa nhân, cho thấy các tế bào nội mô có thể ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các tế bào tác động lưu thông này. Tiềm năng sinh học này có thể quan trọng trong sự tương tác của nội mô với các tế bào máu lưu thông trong điều kiện sinh lý và trong các hội chứng tổn thương mạch máu.
This study examined the effects of sublingually administered nitroglycerin on forearm resistance vessels in normal subjects (n = 9) and in patients with congestive heart failure (n = 8). Forearm blood flow was measured with a strain-gauge plethysmograph and forearm vascular resistance was calculated. To assess the magnitude of reflex forearm vasoconstriction triggered by decreased central venous pressure after sublingual nitroglycerin, lower body negative pressure (LBNP) was applied to produce a comparable decrease in central venous pressure to that after nitroglycerin. The change in forearm vascular resistance during LBNP was compared with that after nitroglycerin. In normal subjects, LBNP increased but nitroglycerin did not change forearm vascular resistance. In patients with congestive heart failure neither nitroglycerin nor LBNP changed forearm vascular resistance. The direct vasodilator effect of nitroglycerin on forearm resistance vessels assessed by the difference between the change in forearm vascular resistance produced by nitroglycerin and that during LBNP tended to be less in patients with congestive heart failure than in normal subjects, which might have resulted from decreased vasodilator capacity of resistance vessels in patients with congestive heart failure. Changes in forearm vascular resistance with a cold pressor test were not different between normal subjects and patients with congestive heart failure. These data suggest that in normal subjects, nitroglycerin does not alter forearm vascular resistance because its dilator effect is offset by reflex vasoconstriction. In patients with congestive heart failure, reflex vasoconstriction is impaired but the direct vasodilator effect of nitroglycerin also tends to be reduced, so that as a net effect forearm vascular resistance is not altered.
Nghiên cứu này khảo sát tác dụng của thuốc nitroglycerin dưới lưỡi lên các mạch máu kháng thuốc ở bệnh nhân suy tim sung huyết (n = 9) và bệnh nhân suy tim (n = 8 ). Lưu lượng máu đến các mạch máu cẳng tay được đo bằng máy đo huyết áp (PMX) có kích thước đường kính (r) và tính toán sức cản mạch máu cẳng tay. Đánh giá độ co mạch phản xạ cẳng tay gây ra bởi giảm áp lực tĩnh mạch trung tâm sau khi dùng nitroglycerin dưới lưỡi, áp lực âm cơ thể (LBNP) được dùng để giảm tương đương với áp lực tĩnh mạch trung tâm sau khi dùng nitroglycerin. Sự thay đổi sức cản mạch máu cẳng tay trong quá trình sử dụng LBNP được so sánh với sau khi dùng nitroglycerin. Ở bệnh nhân suy tim sung huyết, LBNP tăng nhưng nitroglycerin không làm thay đổi sức cản mạch máu cẳng tay. Ở bệnh nhân suy tim sung huyết, cả hai thuốc nitroglycerin và LBNP đều không làm thay đổi sức cản mạch máu cẳng tay. Tác dụng giãn mạch trực tiếp của nitroglycerin lên mạch máu kháng thuốc được đánh giá bằng sự khác biệt giữa sự thay đổi sức cản mạch máu cẳng tay tạo bởi nitroglycerin và sự thay đổi sức cản mạch máu trong quá trình sử dụng LBNP có xu hướng ít hơn ở bệnh nhân suy tim sung huyết, điều này có thể là kết quả của sự giảm dung tích thuốc giãn mạch máu của các mạch máu kháng thuốc ở bệnh nhân suy tim sung huyết. Sự thay đổi sức cản mạch máu cẳng tay bằng test áp lực lạnh không có sự khác biệt giữa bệnh nhân bình thường và bệnh nhân suy tim sung huyết. Những số liệu này cho thấy ở bệnh nhân bình thường, nitroglycerin không làm thay đổi sức cản mạch máu cẳng tay vì tác dụng giãn của nó được bù bởi tác dụng giãn mạch máu phản xạ. Ở bệnh nhân suy tim sung huyết, co mạch phản xạ bị làm giảm nhưng tác dụng giãn mạch máu trực tiếp của nitroglycerin cũng có xu hướng giảm, do đó hiệu quả thuần của sức cản mạch máu cẳng tay không bị thay đổi.
We used an efficient method having general applicability to couple N6-aminohexyl-flavin adenine dinucleotide (AHFAD) to several proteins for use in an apoenzyme reactivation immunoassay system (ARIS). AHFAD is first activated with 40-fold molar excess of dimethyladipimidate, excess imidate is removed rapidly by gel filtration, the activated product is incubated with the protein, and the conjugate formed is purified. This labeling technique permits incorporation of a controlled amount of amino-label into a protein, and eliminates the possibility of self-crosslinking, which would reduce the immunoreactivity of the conjugate. Here we demonstrate the utility of such a conjugate in a totally automated ARIS assay for thyroxin-binding globulin (TBG). After a competitive protein-binding reaction, apoglucose oxidase is added to combine with free TBG-AHFAD conjugate and produce active glucose oxidase, which is measured colorimetrically in a peroxidase-linked reaction. The assay covers the clinically significant range for TBG from 0 to 60 mg/L and has a throughput of 60 reactions in 75 min. Comparison with an RIA method (x) by regression analysis yielded the equation y = 0.890x + 1.217 (r = 0.975, n = 47, Syx = 1.906 mg/L).
Chúng tôi sử dụng phương pháp có ứng dụng chung cho cặp N6-aminohexyl-flavin adenine dinucleotide (AHFAD) với một số protein để sử dụng trong hệ thống miễn dịch kích hoạt lại apoenzyme (ARIS ). AHFAD được hoạt hóa lần đầu tiên bằng cách cho thêm 40 lần mol dimethyladipimidate, imidate dư thừa được loại bỏ nhanh chóng bằng cách lọc gel, sản phẩm hoạt hóa được ủ với protein và liên hợp hình thành được tinh sạch. Kỹ thuật ghi nhãn này
We describe an amperometric technique for quantification of an enzyme immunoassay in which we use a magnetic working electrode, both to separate bound and free analyte and to monitor the electrochemical response. We used a "two-site" immunometric assay with monoclonal antibodies for human choriogonadotropin (hCG) as a model system in which magnetic particles were used as the solid phase. Separation of bound and free label is readily achieved by localizing the particles at the electrode. Activity of the bound enzyme in the environment of the electrode is determined electrochemically, permitting rapid quantification of the analyte without the need for a separate incubation step to measure enzyme activity. The sensitivity of the system is 150 int. units of hCG per litre (1st Int. Ref. Preparation). Correlation between the amperometric measurement of urinary hCG and data for an immunoradiometric assay was r = 0.9. The assay is rapid, requiring a total assay time for each sample of 20 min, which includes 15 min for antibody/antigen binding.
Chúng tôi mô tả kỹ thuật đo amperometric để định lượng enzyme miễn dịch, trong đó sử dụng điện cực làm việc từ tính để tách phân tích liên kết và tự do, đồng thời theo dõi phản ứng điện hoá. Chúng tôi sử dụng hệ thống mô hình đo miễn dịch "hai điểm" với kháng thể đơn dòng cho choriogonadotropin ở người. Việc tách nhãn liên kết và tự do dễ dàng đạt được bằng cách định vị các hạt tại điện cực. Hoạt tính của enzyme liên kết trong môi trường điện cực được xác định bằng điện hoá, cho phép định lượng nhanh phân tích mà
We describe a clinically useful ligand displacement immunoassay for the measurement of serum or plasma phenobarbital and phenytoin. A conjugate of drug-specific antiserum covalently bound to micro-crystalline cellulose and a beta-galactosidase-labelled drug derivative is prepared as a lyophilized reagent. Sample is added to the conjugate and, after 5-min incubation at room temperature, the bound and displaced enzyme-ligand are separated by brief centrifugation. The enzyme activity of the displaced enzyme-ligand is measured on a spectrophotometer or centrifugal analyser. Linear calibration curves are obtained with appropriate sample dilution, allowing generation of the standard curve with a saline zero reference and a single calibrator. The performance of the assay compared favourably with other immunoassays; comparison studies with clinical specimens gave a correlation with EMIT of 0.96 (n = 122) for phenobarbital and 0.95 (n = 96) for phenytoin.
Chúng tôi mô tả một phương pháp miễn dịch dịch chuyển phối tử hữu ích trên lâm sàng để đo phenobarbital và phenytoin huyết thanh hoặc huyết tương. Một liên hợp kháng huyết thanh đặc hiệu liên kết cộng hóa trị với cellulose vi tinh thể và một dẫn xuất thuốc có nhãn beta-galactosidase được chế tạo dưới dạng thuốc đông khô. Mẫu được thêm vào liên hợp, sau 5 phút ủ ở nhiệt độ phòng, enzyme bị liên kết và enzyme bị dịch chuyển được tách ra bằng ly tâm ngắn. Hoạt tính của enzyme bị dịch chuyển được đo trên quang phổ kế hoặc máy
In the search for an effective neonatal screening programme for familial type II hypercholesterolaemia, we have developed and validated a radial immunodiffusion assay for measuring, in dried blood spots, the concentration of apolipoprotein B. The method has advantages over previously described methods, being cheaper, more robust, and suitable for partial automation. In 34 adults there was a close linear relationship between capillary and venous blood spot apolipoprotein B concentrations (r = 0.94), between capillary blood spot and serum apolipoprotein B also measured by radial immunodiffusion (r = 0.90), and between capillary blood spot apolipoprotein B and LDL cholesterol measured by ultracentrifugation (r = 0.85). Apolipoprotein B levels in serum and LDL cholesterol also correlated closely (r = 0.95, n = 40). In 30 normal 3- to 5-day old babies, heel prick blood spot apolipoprotein B levels were 280 +/- 70 mg/l (mean +/- SD) and 790 mg/l in one presumed heterozygote for familial hypercholesterolaemia. We conclude that serum apolipoprotein B measured by radial immunodiffusion accurately reflects adult LDL cholesterol levels, and that the assay, using dried blood spots on filter paper should permit both neonatal and adult screening programmes to detect familial hypercholesterolaemia.
Trong nghiên cứu chương trình sàng lọc tăng cholesterol máu gia đình type II hiệu quả, chúng tôi đã xây dựng và thẩm định phương pháp khuếch tán miễn dịch xuyên tâm để đo nồng độ apolipoprotein B trong các đốm máu khô. Phương pháp này có ưu điểm so với các phương pháp đã mô tả trước đây, rẻ hơn, mạnh hơn và phù hợp với tự động hóa từng phần. Ở 34 trẻ trưởng thành có mối liên quan tuyến tính chặt chẽ giữa nồng độ apolipoprotein B trong máu mao mạch và tĩnh mạch (r = 0,94); giữa điểm
The lipoprotein profile of patients with primary biliary cirrhosis (PBC) has been assessed by high performance liquid chromatography (HPLC). Without exception, all subjects with PBC had an abnormal high density lipoprotein (HDL), which was larger than normal HDL. The elution time from an HPLC column of the abnormal HDL separated it clearly from normal HDL. The HDL of subjects with asymptomatic and symptomatic PBC could also be distinguished. The HDL of asymptomatic subjects was eluted between that of normal and symptomatic subjects. The lipid and protein composition of abnormal HDL was characterized by an increase in phospholipid and a decrease in protein, resulting in an increase in the ratio of phospholipid/protein. This ratio was higher in symptomatic than in asymptomatic PBC. Incubation of dimyristoyl phosphatidylcholine liposomes with normal serum resulted in the formation of an altered high density lipoprotein. These findings suggest that an overload of phospholipid may play a role in the formation of the abnormal HDL in primary biliary cirrhosis.
Nồng độ lipoprotein huyết tương của bệnh nhân xơ gan mật nguyên phát được đánh giá bằng sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC ). Không có ngoại lệ, tất cả các đối tượng có bệnh xơ gan mật đều có nồng độ lipoprotein mật độ cao bất thường (HDL) lớn hơn bình thường. Thời gian tách HDL từ cột HPLC tách rõ ràng với HDL bình thường. HDL của các đối tượng xơ gan mật không triệu chứng và có triệu chứng cũng có thể được phân biệt. HDL của các đối tượng không
The International Classification of the Epilepsies defines two types of generalized epilepsies: primary (mainly functional) and secondary (organic) and only one type of partial epilepsy, (organic). Recent studies show the existence of a group of "functional" or "mostly functional" partial epilepsies. Among these, a particular place is occupied by the benign infantile epilepsies "with evoked spikes," described during the last 10 years. These are forms with a very particular development, characterized in all cases by 4 typical phases; the last one is the clinical phase with epileptic seizures. The prognosis is very good. The discussion concerns the similarities and the differences between these epilepsies versus the other partial benign epilepsies.
Bảng phân loại động kinh quốc tế định nghĩa hai loại động kinh tổng quát: nguyên phát (chủ yếu là chức năng) và thứ phát (hữu cơ) và chỉ một loại động kinh một phần (hữu cơ).
Clinical, electrophysiological and CT findings of a patient with epilepsia partialis continua following pertussis infection are presented. The EEG showed lateralized abnormal slow waves and CT revealed global atrophy around the Sylvian fissure. The findings favor the primary role of the cerebral cortex in EPC.
Mô tả đặc điểm lâm sàng, điện sinh lý và CLVT của bệnh nhân động kinh một phần liên tục sau ho gà. Điện não đồ cho thấy có sóng chậm bất thường bên và CLVT cho thấy teo toàn bộ xung quanh khe Sylvian. Các kết quả nghiên cứu ủng hộ vai trò chính của vỏ não trong động kinh một phần liên tục.
The effects of subcutaneous administration of three doses of human growth hormone-releasing factor (hGRF-44 NH2 or hGRF) at doses of 100, 300 and 600 micrograms were studied in six normal young men. GH responses obtained with 100 and 300 micrograms were negligible. In contrast, the 600 micrograms dose gave a profile of response comparable in timing and magnitude to that obtained with i.v. hGRF at maximal effect doses (20, 80, 100 micrograms). Plasma immunoreactive hGRF levels (IR-hGRF) were compared after s.c. and i.v. hGRF. Mean maximal plasma concentrations were comparable with s.c. 600 micrograms and i.v. 20 micrograms. Peaks occurred earlier with i.v. hGRF (5 min as opposed to 15 min): however, return to undetectable values was obtained between 90 and 120 min after s.c. or i.v. injections. These data suggest a great loss of the peptide between the subcutaneous space and blood, without delayed absorption. High variability in plasma IR-hGRF concentrations between the subjects after the same s.c. doses was observed.
Ảnh hưởng của 3 liều yếu tố giải phóng hGRF (hGRF-44 NH2 hoặc hGRF) dưới da ở liều 100,300 và 600 microgram trên 6 nam giới bình thường. Phản ứng GH ở liều 100 và 300 microgram không đáng kể. Ngược lại, liều 600 microgram cho kết quả tương đương về thời gian và cường độ với liều i.v. hGRF ở liều hiệu quả tối đa (20,80,100 micrograms ). Nồng
Prolactin secretion in response to TRH has been assessed in six patients with isolated gonadotrophin deficiency (IGD) and in eight normal controls. In all six subjects with IGD, serum oestradiol was below the detection limit of the method. There was no statistical difference between either the basal or maximum increment of serum prolactin between the two groups. Recent claims that prolactin responses to TRH distinguish constitutional delay of puberty from IGD have therefore not been supported.
Bài tiết prolactin đáp ứng với TRH đã được đánh giá ở 6 bệnh nhân thiếu hụt gonadotrophin đơn độc và 8 nhóm chứng bình thường. Oestradiol huyết thanh ở cả 6 nhóm đều dưới giới hạn phát hiện của phương pháp. Không có sự khác biệt về nồng độ prolactin huyết thanh giữa 2 nhóm. Những tuyên bố gần đây cho rằng prolactin đáp ứng với TRH phân biệt chậm dậy thì với thiếu hụt gonadotrophin đơn độc do thiếu hụt gonadotrophin đơn độc chưa được hỗ trợ.
No appreciable changes in plasma GH levels after TRH stimulation have been observed in normal subjects, whereas acute GH release has been reported in primary hypothyroidism and other pathophysiological states. To evaluate the effect of the T4 replacement therapy on TRH-induced GH release, 28 patient volunteers with primary congenital hypothyroidism (PCH), were studied before (11 subjects), after 1 month (nine subjects) and after long-term T4 replacement therapy (eight subjects). All patients underwent a TRH test with measurement of TSH, PRL and GH levels, and were compared to 28 age-matched normal subjects. An increase of plasma GH after TRH was found in 46% of patients without any therapy, in 67% of patients after one month of T4 administration and in 75% of patients after long-term therapy. No changes were observed in plasma GH levels in controls. The TSH response to TRH was inhibited and the response of PRL was reduced step by step by T4 replacement therapy in our patients with PCH. Our results suggest that: (i) Replacement T4 therapy in PCH does not abolish the paradoxical GH response to TRH, in spite of inhibiting the TSH response and reducing the exaggerated PRL response; (ii) the GH response to TRH in PCH seems to be unrelated to low thyroid hormone levels and/or to high TSH levels, but it could be due to changes in hypothalamic-pituitary regulation which are not improved by T4 replacement therapy.
Chưa thấy sự thay đổi đáng kể nồng độ GH huyết tương sau kích thích TRH ở các đối tượng bình thường, trong khi đó giải phóng GH cấp tính đã được báo cáo ở các bệnh nhân suy giáp nguyên phát và các tình trạng sinh lý bệnh khác. Để đánh giá hiệu quả của liệu pháp thay thế T4 trên giải phóng GH do TRH, 28 bệnh nhân tình nguyện bị suy giáp bẩm sinh nguyên phát (SGBS) được nghiên cứu trước (11 đối tượng) và sau 1 tháng (9 đối tượng) và sau điều trị thay thế T4 dài hạn (8 đối tượng ). Tất cả các bệnh nhân đều được xét nghiệm TRH có đo nồng độ TSH, PRL và GH, so sánh với 28 đối tượng bình thường tương ứng tuổi. Có sự gia tăng nồng độ GH huyết tương sau TRH ở 46% bệnh nhân không điều trị, 67% bệnh nhân sau 1 tháng dùng T4 và 75% bệnh nhân sau điều trị dài hạn. Không có sự thay đổi nồng độ GH huyết tương ở nhóm chứng. Đáp ứng TSH với TRH bị ức chế và đáp ứng PRL bị giảm dần khi điều trị thay thế T4 ở bệnh nhân SGBS. Kết quả nghiên cứu cho thấy: ( i) Liệu pháp thay thế T4 trong PCH không làm mất đi đáp ứng nghịch lý với TRH mặc dù đã ức chế đáp ứng TSH và làm giảm đáp ứng PRL phóng đại; ( ii) đáp ứng TRH với PCH dường như không liên quan đến mức độ thấp hormone tuyến giáp và/hoặc mức độ cao TSH, nhưng có thể do sự thay đổi điều hòa vùng dưới đồi-tuyến yên mà liệu pháp thay thế T4 không cải thiện.
The results of treating 86 patients with sudden deafness are reviewed in this paper. They were treated with intravenous ATP-2Na, Vitamin B1, B6, B12 and C, stellate ganglion block, peroral steroids, cyclandelate and Kallidinogenase. Fifty-one of 86 patients were additionally treated with carbon dioxide and oxygen inhalation. The first 35 patients (no gas inhalation group) and the latter 51 patients (gas inhalation group) were compared with each other concerning hearing improvement, and recovery rate associated with age of the patients, untreated period and effect of steroids. There was no statistical difference between the two groups with regard to these parameters.
Nghiên cứu này đánh giá kết quả điều trị 86 bệnh nhân điếc đột ngột. Các bệnh nhân được điều trị bằng ATP-2Na đường tĩnh mạch, Vitamin B1, B6, B12 và C, gây tê hạch cổ, steroid đường miệng, thuốc cường dương và Kallidinogenase. 51/86 bệnh nhân được điều trị bổ sung bằng khí carbon dioxide và hít ô xy. 35 bệnh nhân đầu tiên (nhóm không hít khí) và 51 bệnh nhân sau (nhóm hít khí) được so sánh với nhau về sự cải thiện thính
A sequential double blind cross-over trial of tocainide hydrochloride, an oral analogue of lignocaine, is reported. The dosage of tocainide hydrochloride ranged from 200-600 mg daily. Of the 32 patients who completed the trial, 1 had complete relief and 2 had partial relief of their tinnitus whilst taking tocainide. An increased incidence of side-effects in patients taking tocainide was noted, in particular, headache, dizziness, nausea and skin rashes.
Một thử nghiệm lâm sàng liên tiếp mù đôi trên đối tượng là tocainide hydrochloride, một chất tương tự của lignocain, đã được công bố. Liều lượng tocainide hydrochloride dao động từ 200-600 mg/ngày. Trong số 32 bệnh nhân hoàn thành thử nghiệm, 1 bệnh nhân giảm hoàn toàn và 2 bệnh nhân giảm một phần chứng ù tai khi dùng tocainide. Tác dụng phụ tăng cao ở bệnh nhân dùng tocainide, đặc biệt là đau đầu, chóng mặt, buồn nôn và phát ban da.
The unique structure and function of the pediatric patient lends them to patterns of osseous trauma not found in their adult counterparts. Epiphyseal anatomy, epidemiology, and classic fracture patterns are reviewed. Early restoration of joint and epiphyseal plate congruity is the objective with a goal of complete functional return and structural integrity at skeletal maturity.
Cấu trúc và chức năng đặc trưng của bệnh nhi cho phép bệnh nhân có các kiểu chấn thương osseous không tìm thấy ở bệnh nhi trưởng thành. Các kiểu gãy xương cổ điển và giải phẫu xương khớp được xem xét. Phục hồi chức năng khớp và xương khớp sớm là mục tiêu với mục tiêu phục hồi chức năng hoàn toàn và toàn vẹn cấu trúc ở tuổi trưởng thành của xương.
The CO2 laser has several distinct advantages in its application to soft tissue lesions of the foot. A dry field is obtained with good hemostasis and clear vision, with easy access in confined areas. The laser beam sterilizes as it cuts, reducing the incidence of infection. In sealing lymphatic channels, it may theoretically diminish the risk of metastasis in malignant lesions. Healing occurs with minimal postoperative swelling, scarring, or pain, leading to increased patient comfort. Other areas in which the laser can be helpful are porokeratosis, keloids, spider web varicosities, and tattoos.
Laser CO2 có nhiều ưu điểm riêng trong việc điều trị các tổn thương mô mềm vùng bàn chân. Vùng da khô có thể được cầm máu tốt, tầm nhìn rõ ràng, dễ tiếp cận ở những vùng hạn chế. Tia laser khử trùng khi cắt, giảm tỷ lệ nhiễm trùng. Trong việc bịt kín các kênh bạch huyết, về mặt lý thuyết tia laser có thể làm giảm nguy cơ di căn ở các tổn thương ác tính. Quá trình phục hồi diễn ra với ít sưng, sẹo hoặc đau sau mổ, giúp bệnh nhân cảm thấy dễ chịu hơn. Các vùng khác có thể được sử dụng tia laser là
Cord blood lymphocytes from premature and stressed term infants were phenotyped and contrasted with T and B lymphocytes from healthy newborns at term. Cytofluorometric analysis shows that in the early third trimester, 80-85% of fetal T cells belong to the T4+ inducer population, and 10% to the T8+ suppressor/cytotoxic subset. As gestation progresses, the T4:T8 ratio shifts toward adult values and there is an increase in expression of the mature antigen, T12. The B-cell-differentiation antigens B1, B2, and B4 do not appear to change during gestation in healthy infants. Antenatal stress which threatens fetal survival, however, leads to circulating cells of both lineages which are phenotypically less mature than expected for gestational age. Most notably, in response to severe antenatal hypoxic stress, cells expressing the very early B-cell markers B2 and B4 increase and exceed the numbers of more mature B1+ cells in cord blood.
Tế bào lympho máu dây rốn của trẻ sơ sinh đẻ non và căng thẳng có kiểu hình và tương phản với tế bào lympho T và B của trẻ sơ sinh khỏe mạnh ở kỳ đầu. Phân tích tế bào học cho thấy, trong ba tháng đầu của thai kỳ, 80-85% tế bào T thuộc nhóm tế bào cảm ứng T4+ và 10% thuộc nhóm tế bào ức chế/tác hại T8+. Theo tiến trình thai kỳ, tỷ lệ T4: T8 chuyển sang giá trị trưởng thành và có sự gia tăng biểu hiện của kháng nguyên trưởng thành T1
The frequency of monoclonal gammapathies (MG) and their possible origin were investigated in renal graft recipients undergoing immunosuppressive treatment. In a cross-sectional study, homogeneous immunoglobulins were found in 30% of the patients investigated. This incidence was 10-times higher than that in a control group of patients with chronic renal failure on dialysis treatment. The increase in the frequency of homogeneous immunoglobulins in the renal transplant recipients was related to the age of the patients but not to the duration of the immunosuppressive treatment. A longitudinal study in 55 patients demonstrated that most of the MG reflected transient B-cell monoclonal proliferations, probably due to an immunodeficiency; however, the incidence of benign and malignant B-cell neoplasias seemed also to be unusually high. These findings indicate that the immunosuppressive treatment enhances and accelerates an immunodeficiency which develops spontaneously with aging of the immune system; it also may contribute to the development of other age-related, both benign and malignant monoclonal B-cell proliferative disorders.
Tần suất và nguồn gốc của các bệnh lý tăng sinh đơn dòng (MG) được khảo sát ở bệnh nhân được điều trị ức chế miễn dịch. Trong một nghiên cứu cắt ngang, 30% bệnh nhân được khảo sát có nhiễm sắc thể đồng nhất. Tỷ lệ nhiễm sắc thể đồng nhất cao gấp 10 lần so với nhóm bệnh nhân suy thận mạn lọc máu chu kỳ. Sự gia tăng tần suất nhiễm sắc thể đồng nhất ở bệnh nhân được ghép thận có liên quan đến tuổi của bệnh nhân nhưng không liên quan đến thời gian điều trị ức chế miễn dịch. Nghiên cứu theo dõi dọc trên 55 bệnh
Twenty-five consecutive primary ligament repairs and 40 delayed reconstructions for lateral collateral ankle ligament injuries were studied. Response to a questionnaire provided a 94% subjective evaluation at a mean of 9.5 years after surgery; 97% of patients were satisfied with the surgical result. Clinical examination, stress radiography, and biomechanical gait analysis studies were performed on 39 patients at four years or more after surgery (mean, 9.6 years). In 14% of those with ligament repair and 41% of those with reconstructive procedures, mean residual talar tilt with stress testing was 3.2 degrees and 5.2 degrees, respectively. Gait studies did not demonstrate a consistent abnormal gait pattern, even with side slope walking, and did not correlate with the talar tilt values. There was no significant measurable difference between the results of repair and reconstruction. Thus, most severe Grade III sprains can be managed nonoperatively, and if late residual instability occurs, a reconstructive procedure can be offered with confidence that the result will be equivalent subjectively and roughly comparable objectively to that of the immediate repair.
Nghiên cứu được tiến hành trên 39 bệnh nhân sau phẫu thuật từ 4 năm trở lên có tổn thương dây chằng bên ngoài khớp gối do chấn thương. Kết quả đáp ứng với bộ câu hỏi cho thấy 94% chủ quan sau phẫu thuật; 97% bệnh nhân hài lòng với kết quả phẫu thuật. Các nghiên cứu lâm sàng, X quang, phân tích dáng đi bằng cơ sinh học được thực hiện trên 39 bệnh nhân sau phẫu thuật từ 4 năm trở lên (trung bình 9,6 năm ). 14% bệnh nhân có dây chằng sửa chữa và 41% bệnh nhân có phương pháp tái
The gastric emptying study using Tc-99m triethylene tetramine polystyrene resin with or without metoclopramide hydrochloride was used in six patients with different disease entities: achalasia, gastric lymphoma, primary amyloidosis, Zollinger-Ellison syndrome, duodenal diverticulum, and short bowel syndrome. All patients had abnormally prolonged gastric emptying times. The patient with gastric lymphoma and the patient with Zollinger-Ellison syndrome had virtually no effect from metoclopramide. The patient with a duodenal diverticulum and the patient with short bowel syndrome had partial and good response to metoclopramide, respectively. Endoscopic and/or autopsy examinations in patients with achalasia, Zollinger-Ellison syndrome, primary amyloidosis, and duodenal diverticulum proved the patency of the pyloric canal. The patient with gastric lymphoma had a mass associated with marked pyloric narrowing and lymphoma cell infiltration of the gastric wall, to explain the abnormal gastric emptying. The gastric emptying study with or without metoclopramide may be used noninvasively to measure gastric function, to determine the nature of gastric outlet obstruction, and to evaluate therapy with metoclopramide.
Nghiên cứu làm rỗng dạ dày bằng nhựa tetramine triethylene tetramine Tc-99m có hoặc không có metoclopramide hydrochloride được sử dụng trên 6 bệnh nhân có các thực thể bệnh khác nhau: achalasia, u lymphô ác tính dạ dày, amyloidosis nguyên phát, hội chứng Zollinger-Ellison, túi thừa tá tràng và hội chứng ruột ngắn. Tất cả các bệnh nhân đều có thời gian làm rỗng dạ dày kéo dài bất thường. Bệnh nhân u lymphô ác tính dạ dày và hội chứng Zollinger-
A case of acute tentorial subdural hematoma detected by In-111 leukocyte scintigraphy and confirmed by CT brain scan is herein described. White blood cells are an integral part of the blood pool and labeled white cells freely leave the intravascular space in case of active bleeding. Acute hemorrhage and hematoma can thus be a cause of a false-positive study.
Mô tả một trường hợp máu tụ dưới màng cứng cấp tính được phát hiện bằng xạ hình bạch cầu In-111 và xác nhận bằng chụp cắt lớp vi tính sọ não. Bạch cầu là một phần không thể thiếu của nhóm máu và bạch cầu được đánh dấu tự do rời khỏi khoang nội mạch trong trường hợp chảy máu hoạt động. Xuất huyết cấp tính và máu tụ có thể là nguyên nhân gây ra nghiên cứu dương tính giả.
A computer program, run on a hand-held printing pocket computer, that simplifies routine calorie and fluid calculations on high-risk neonates in the intensive care nursery is described. It is useful in performing these calculations on patients with parenteral nutrition, diluted feedings, other intravenous fluids, and medium-chain triglyceride oil supplements, all of which make calorie and fluid calculations by hand very difficult. Both physician and nonphysician personnel can be taught to use this program, allowing them to quickly and easily perform the otherwise laborious fluid and calorie calculations, even on complicated patients.
Mô tả chương trình máy tính chạy trên máy tính bỏ túi in cầm tay giúp đơn giản hóa việc tính toán calo và dịch truyền thông thường quy ở trẻ sơ sinh có nguy cơ cao tại khoa Hồi sức tích cực. Chương trình này rất hữu ích trong việc thực hiện các tính toán này trên bệnh nhân được nuôi dưỡng đường tĩnh mạch, cho ăn pha loãng, các dịch truyền tĩnh mạch khác và bổ sung dầu triglyceride chuỗi trung bình, tất cả đều gây khó khăn cho việc tính toán calo và dịch truyền bằng tay. Cả bác sĩ và nhân viên không phải bác sĩ đều có thể được hướng dẫn sử dụng
To determine the incidence and clinical characteristics of Pseudomonas aeruginosa osteomyelitis in children, the records of 144 hospitalized patients under 19 years of age were reviewed; 104 fulfilled the study criteria for the diagnosis of acute or chronic osteomyelitis. Pseudomonas aeruginosa was recovered from 10.6 percent of the children and was the second most common pathogen isolated. In comparison to children with staphylococcal infections, patients with pseudomonal osteomyelitis were significantly older, gave an antecedent history of penetrating trauma, and lacked clinical and laboratory evidence of systemic illness. The data collected in this study suggest that osteomyelitis due to Pseudomonas aeruginosa is a distinct entity with clinical features differing from those of Staphylococcus aureus. Management should be directed at adequate surgical debridement followed by 10 to 21 days of antimicrobial therapy.
Nhằm xác định tỷ lệ mắc và đặc điểm lâm sàng của viêm xương tuỷ xương do Pseudomonas aeruginosa ở trẻ em, hồ sơ bệnh án của 144 bệnh nhân dưới 19 tuổi nhập viện đã được xem xét; 104 bệnh nhân đáp ứng các tiêu chí nghiên cứu để chẩn đoán viêm xương tuỷ xương cấp tính hoặc mãn tính. Pseudomonas aeruginosa đã khỏi bệnh ở 10,6% trẻ em và là tác nhân gây bệnh phổ biến thứ hai được phân lập. So với trẻ em nhiễm tụ cầu khuẩn, bệnh nhân viêm xương tuỷ xương giả
There is a clinical impression among physicians that puberty may prompt growth of hemangiomas. We observed significant growth of a large cavernous hemangioma in a patient at the onset of puberty despite absent estrogen and progesterone receptors in the hemangioma tissue.
U mạch máu lớn thể hang xuất hiện ở bệnh nhân dậy thì mặc dù không có thụ thể estrogen và progesterone trong mô u mạch máu.
Risk- and cost benefit analyses for breast screening programs are being performed, employing the risk-factors for induction of breast cancer from six extensive follow-up studies. For women of the age group above 35 years and for a risk period of 30 years after a 10-year latency period, a factor of extra cases of 20 X 10(-6) mGy-1 can be estimated. This factor is by coincidence the same as the factor estimated by the Committee on the Biological Effects of Ionizing Radiations and by United Nations Scientific Committee on the Effects of Atomic Radiation for women above 20 years, and would have been about a factor 2 lower for the category older than 35 years. Measurements are being performed in Dutch hospitals to determine the mean absorbed tissue dose. These doses vary from 0.6 to 4.4 mGy per radiograph. For a dose of 1 mGy per radiograph (which can easily be achieved) and yearly screening of women between 35 and 75 years, the risk of radiogenic breast cancer is about 1% of the natural incidence (85,000 per 10(6) women) in this group. A recommended frequency of screening has to be based on medical, social and financial considerations. The gain in woman years and in completely cured women is being estimated for screening with intervals of 12 instead of 24 months. This estimation is based on the frequencies of the tumour diameters after 12 and 24 months intervals and the survival percentages for these tumour diameters. The medical and social benefit is 1,520 years life-time and 69 more cases completely cured per 1,000 breast cancer patients. The financial profit of a completely cured instead of an ultimately fatal cancer can be roughly estimated at 55,000 guilders. In addition the costs per gained woman-year are about 5,000 guilders (1 US $ = 3.60 guilders). In consequence, the extra costs of annual additional rounds of mammographic screening are balanced by the benefit.
Các phân tích về nguy cơ và chi phí cho các chương trình khám sàng lọc ung thư vú đang được thực hiện, sử dụng các yếu tố nguy cơ gây ung thư vú từ sáu nghiên cứu theo dõi sâu rộng. Đối với phụ nữ ở độ tuổi trên 35 và trong thời gian 30 năm sau thời gian tiềm ẩn 10 năm, có thể ước tính được yếu tố nguy cơ tăng thêm là 20 X 10 (- 6) mGy-1. Yếu tố nguy cơ này trùng khớp với yếu tố nguy cơ ung thư vú do bức xạ ion hóa của Ủy ban về ảnh hưởng sinh học và do Ủy ban khoa học Liên hợp quốc về ảnh hưởng của bức xạ nguyên tử ước tính cho phụ nữ trên 20 tuổi và sẽ thấp hơn 2 yếu tố đối với nhóm trên 35 tuổi. Các phép đo đang được thực hiện tại các bệnh viện Hà Lan để xác định liều mô hấp thụ trung bình. Các liều này thay đổi từ 0,6 đến 4,4 mGy mỗi phim X quang. Đối với liều 1 mGy mỗi phim X quang (có thể dễ dàng đạt được) và sàng lọc hàng năm cho phụ nữ từ 35 đến 75 tuổi, nguy cơ ung thư vú do chụp X quang chiếm khoảng 1% tỷ lệ mắc bệnh tự nhiên (85.000 trên 10 (6) phụ nữ) ở nhóm này. Tần suất khám sàng lọc được khuyến cáo phải dựa trên các cân nhắc về y tế, xã hội và tài chính. Ước tính tỷ lệ tăng theo năm tuổi của phụ nữ và tỷ lệ hoàn toàn khỏi bệnh của phụ nữ được sàng lọc theo các khoảng thời gian 12 tháng thay vì 24 tháng. Ước tính này dựa trên tần suất đường kính khối u sau các khoảng thời gian 12 và 24 tháng và tỷ lệ sống sót của các đường kính khối u. Lợi ích về y tế và xã hội là 1.520 năm tuổi đời và có thêm 69 trường hợp hoàn toàn khỏi bệnh trên 1.000 bệnh nhân ung thư vú. Lợi ích tài chính của một bệnh nhân được hoàn toàn chữa khỏi thay vì một căn bệnh ung thư có thể gây tử vong có thể ước tính khoảng 55.000 đô la. Ngoài ra, chi phí cho mỗi người phụ nữ tăng thêm là khoảng 5.000 đô la (1 US $ = 3,60 đô la ). Kết quả là, chi phí cho các đợt khám sàng lọc tăng thêm hàng năm
The characteristics of the principal lasers used in surgery are summarized in Table 1. Their diverse effects on biologic tissues permit the following generalizations: The CO2 laser is best suited for precise, visually controllable tissue removal by vaporization with minimal marginal damage. Hemostasis is excellent for bleeding from capillary vessels, but difficult for larger ones. The Nd:YAG laser is best suited for the coagulation of larger tissue volumes of the order of 10 mm3 or more. Tissue heating inherently extends for several millimeters, leading to excellent hemostasis. Radiation from this laser is well transmitted through flexible optical fibers and clear fluids. The argon ion laser emits radiation in the visible range and is ideally suited for treating the retina and other tissues in the eye without damage to its transparent structures. Radiation of this laser is strongly absorbed by pigmented tissues, scattered and reflected by others, and transmitted by fluids. Its radiation can be focused to very small spot sizes, leading to high precision and high-power densities. It has hemostatic properties intermediate between those of the CO2 and of the Nd:YAG laser radiations. It is well transmitted through optical fibers and clear fluids. It is used extensively in ophthalmology and dermatology. Selected applications to neurosurgery and otology are being investigated. These lasers have become indispensable adjuncts to the surgical armamentarium of several specialties. The very success of these lasers is leading to a critical examination of their shortcomings and to a search for improved systems. Examples are (1) the ongoing search for optical fibers to transmit the radiation of the CO2 laser; (2) the development of systems for the sequential delivery to tissues of several wavelengths from a single unit (Fig. 14); and (3) investigations of tissue effects of laser beams in the ultraviolet and in the infrared at wavelengths intermediate between those of the Nd:YAG and CO2 lasers. The use of lasers has already contributed to improved medical care in many surgical disciplines. Additional areas of application can be confidently anticipated.
Các laser chủ yếu được sử dụng trong phẫu thuật được tổng kết trong Bảng 1. Hiệu quả đa dạng của chúng đối với mô sinh học cho phép khái quát hóa như sau: Laser CO2 thích hợp nhất để có thể loại bỏ mô một cách chính xác, bằng mắt thường với tổn thương biên tối thiểu. Cầm máu rất tốt đối với chảy máu từ mạch máu, nhưng khó đối với các mạch máu lớn hơn. Laser Nd: YAG thích hợp nhất cho việc đông máu với thể tích mô lớn hơn từ 10mm3 trở lên. Việc đốt nóng mô đã kéo dài đến vài milimet, dẫn đến cầm máu tốt. Bức xạ từ laser này được truyền tốt qua các sợi quang linh hoạt và dịch trong. Tia laser ion argon phát ra bức xạ trong phạm vi nhìn thấy được và lý tưởng để điều trị võng mạc và các mô khác trong mắt mà không làm tổn thương cấu trúc trong suốt của nó. Bức xạ của laser này được hấp thụ mạnh bởi các mô sắc tố, bị tán xạ và phản xạ bởi các mô khác và truyền qua dịch. Bức xạ của nó có thể tập trung vào các điểm rất nhỏ, dẫn đến mật độ chính xác và công suất cao. Nó có tính chất cầm máu trung gian giữa tia CO2 và tia laser Nd: YAG. Nó được truyền tốt qua các sợi quang và dịch trong suốt. Nó được sử dụng rộng rãi trong các ngành khoa học như khoa mắt và da liễu. Các ứng dụng được lựa chọn trong phẫu thuật thần kinh và khoa tai mũi họng đang được nghiên cứu. Các laser này đã trở thành những phụ trợ không thể thiếu cho trang thiết bị phẫu thuật của một số chuyên ngành. Sự thành công của các laser này đã dẫn đến việc xem xét kỹ lưỡng những thiếu sót của chúng và tìm kiếm các hệ thống cải tiến. Ví dụ: ( 1) việc tìm kiếm các sợi quang để truyền bức xạ của laser CO2; ( 2) sự phát triển của các hệ thống liên tiếp truyền đến các mô có nhiều bước sóng từ một đơn vị duy nhất (Hình 14); ( 3) nghiên cứu ảnh hưởng của các tia laser trong tia cực tím và tia hồng ngoại ở các bước sóng trung gian giữa laser Nd: YAG và laser CO2. Việc sử dụng laser đã góp phần cải thiện chăm sóc y tế trong nhiều lĩnh vực phẫu thuật. Có thể dự đoán thêm các lĩnh vực ứng dụng mới.
A review of the operation principles of lasers and the various types used in chest medicine is given. This includes CO2, Nd:YAG, argon, krypton, and dye lasers. Safety considerations in the use of lasers are also outlined.
Nghiên cứu các nguyên lý hoạt động của laser và các loại laser sử dụng trong y học cổ truyền. Các nguyên lý này bao gồm laser CO2, Nd: YAG, argon, krypton và laser nhuộm. Các yếu tố an toàn trong sử dụng laser cũng được đề cập.
A carbon dioxide laser coupled with a ventilating bronchoscope has been used to treat 135 patients with symptomatic obstruction of the trachea and main stem bronchi. This laser has the advantages of being controllable and hemostatic, and can be used repetitively. It does not interfere with other modes of treatment such as radiation therapy or chemotherapy.
Đã có 135 bệnh nhân tắc phế quản và phế quản gốc chính được điều trị bằng laser CO2 kết hợp nội soi thông khí. Laser CO2 có ưu điểm là có thể kiểm soát, cầm máu và có thể sử dụng lặp lại nhiều lần. Nó không can thiệp vào các phương pháp điều trị khác như xạ trị hoặc hóa trị.
The two-hour Rapid SST strip (DMS Laboratories, Inc.) was compared with our standard screening system (triple sugar iron agar, lysine iron agar, and urea) for enteric pathogens. We tested 50 stock cultures of enteric pathogens and 213 stool cultures received in the Barnes Hospital Clinical Microbiology Laboratory over a two-month period. All enteric pathogens from the stock cultures and clinical specimens were identified correctly with the Rapid SST system. More false-positive reactions were observed with the Rapid SST system (34%) than with the conventional system (23%). However, the costs associated with using both systems were equivalent and the test results were available one day faster with the Rapid SST system. Thus, the Rapid SST is a rapid, accurate, and cost-effective method for screening stool specimens for enteric pathogens.
Dải SST Rapid kéo dài 2 giờ được so sánh với hệ thống sàng lọc tiêu chuẩn của chúng tôi (gồm 3 loại thạch sắt đường, thạch sắt lysine và ure) đối với mầm bệnh đường ruột. Chúng tôi tiến hành thử nghiệm trên 50 mẫu cấy mầm bệnh đường ruột và 213 mẫu cấy phân tại Phòng thí nghiệm Vi sinh lâm sàng Bệnh viện Barnes trong thời gian 2 tháng. Tất cả mầm bệnh đường ruột từ mẫu cấy và mẫu bệnh phẩm được xác định chính xác bằng hệ thống SST Rapid. Phản ứng dương tính giả được quan sát thấy với hệ thống S
A case of coccidioidomycosis is described which was caused by a pigmented fungus that failed to produce arthroconidia. Exoantigen testing showed that the isolate produced an antigen that gave a line of identity with Coccidioides (C.) immitis. The formation of spherules in a guinea pig testis confirmed the identity of the isolate as C. immitis. The patient's serum was found to have antibodies that reacted in complement fixation and immunodiffusion tests to C. immitis antigens. The exoantigen test results were responsible for the diagnosis of coccidioidomycosis in this case.
Một trường hợp bệnh nấm cầu khuẩn do một loại nấm sắc tố không tạo ra arthroconidia gây ra. Xét nghiệm EXETON cho thấy chủng vi khuẩn này tạo ra một kháng nguyên có dòng giống với Coccidioides (C.) immitis. Sự hình thành các tiểu cầu trong tinh hoàn chuột lang đã xác nhận chủng vi khuẩn này là C. immitis. Huyết thanh của bệnh nhân có kháng thể phản ứng trong các xét nghiệm cố định bổ sung và khuếch tán miễn dịch với kháng nguyên C. immitis. Kết quả xét nghiệm exoantigen
Goat beta 2-microglobulin was isolated and purified from colostrum. Comparisons of the amino acid composition and amino-terminal sequence of the goat protein with the bovine and human homologues, indicates a high degree of similarity. Both goat and bovine beta 2-microglobulins differ slightly in composition from the human molecule, most notably in threonine and proline values. For the first 32 residues, bovine and goat differ only at two positions, one of which is a valyl/isoleucyl substitution consistent with the amino acid compositions. The equivalent goat/human sequence comparison shows seven differences. Immunological studies, using the ELISA method, also confirm the close relatedness of goat and bovine beta 2-microglobulin and their more distant relatedness to the human homologue.
Protein beta 2-microglobulin của dê được phân lập và tinh sạch từ niêm mạc đại tràng. So sánh thành phần acid amin và trình tự amino-terminal của protein dê với protein của bò và người cho thấy mức độ tương đồng cao. Cả dê và bò beta 2-microglobulins đều khác nhau đôi chút về thành phần so với phân tử người, đáng chú ý nhất là giá trị threonine và proline. Đối với 32 phần còn lại đầu tiên, bò và dê chỉ khác nhau ở hai vị trí, một trong số đó là thay thế valyl
Urate oxidase activity is not detectable in liver homogenates from the gibbon, orangutan, chimpanzee, gorilla and human. Liver homogenates from five genera of Old World and two genera of New World monkeys have easily detectable levels of urate oxidase activity. There is no evidence for extant detectable intermediate steps in the loss of urate oxidase activity in the hominoids. Urate oxidase activity from Old World and New World monkeys is stable, a simple observation which debunks a long-standing myth. Urate oxidase activity was silenced in an ancestor to the five living genera of hominoids after divergence from the Old World monkeys.
Hoạt tính của Urate oxidase không thể phát hiện được ở các loài đồng nhất ở gan từ vượn, đười ươi, tinh tinh, khỉ đột và người. Các loài đồng nhất ở gan từ năm chi của Cựu Thế giới và hai chi của khỉ Tân Thế giới có mức độ hoạt tính của urate oxidase dễ dàng phát hiện. Không có bằng chứng cho thấy các bước trung gian còn tồn tại có thể phát hiện được trong sự mất hoạt tính của urate oxidase ở các loài đồng nhất. Hoạt tính của Urate oxidase từ các loài khỉ Cựu Thế giới và Tân Thế giới là
Testicular metabolism of radiolabelled substrates (pregnenolone, progesterone and androstenedione) was examined in two species of turtles, Pseudemys scripta and Sternotherus odoratus. Chemical methods (chromatography, derivative formation and crystallization) identified testosterone (in both species) and 5 alpha-androstane-3 beta,17 beta-diol (in S. odoratus) as products. Tentative identifications were also made of 20 beta-hydroxypregn-4-en-3-one in both turtles. Chromatographic profiles indicated the presence of several other C19- and C21-steroids. In S. odoratus, changes in proportions of the two major C19-compounds (testosterone and the 5 alpha-androstanediol) suggest a "switch" in the enzymatic pathways which resembles that associated with maturation in the rat. This enzymatic switch may be associated with the annual testicular cycle of the adult turtle.
Chuyển hoá tinh hoàn của các chất phóng xạ (pregnenolone, progesterone và androstenedione) được khảo sát trên hai loài rùa nước Pseudemys scripta và Sternotherus odoratus. Các phương pháp hóa học (chromatography, hình thành dẫn xuất và kết tinh) đã xác định được sản phẩm là testosterone (ở cả hai loài) và 5 alpha-androstane-3 beta, 17 beta-diol (ở S. odoratus ). Các kết quả nhận dạng cũng được dự kiến là 20 beta-hydroxypregn-4-en
A pharmacokinetic program that allows individualization of drug dosage regimens through the Bayesian method is described. The program, which is designed for the Hewlett-Packard HP-41 CV calculator, is based upon the one-compartment open model with either instantaneous or zero-order absorption. Individualized estimation of the patient's kinetic parameters (clearance and volume of distribution) is performed by analyzing the plasma levels measured in the patient as well as considering the population data of the drug. After estimating the individual kinetic parameters by the Bayesian method, the program predicts the dosage regimen that will elicit the desired peak and trough plasma levels at steady state. For comparison purposes, the least-squares estimates for clearance and volume of distribution are calculated, and dosage prediction can also be made on the basis of the least-squares estimates. The least-squares estimates can be used to calculate population pharmacokinetic parameters according to the Standard Two-Stage method. Several examples of clinical use of the program are presented. The examples refer to patients with classic hemophilia who were treated with Factor VIII concentrates. In these patients, the Bayesian kinetic parameters of Factor VIII have been estimated through the calculator program. The Bayesian parameter estimates generated by the HP-41 have been compared with those determined by a Bayesian program (ADVISE) designed for microcomputers.
Mô tả một chương trình dược động học cho phép cá thể hóa các chế độ liều thuốc thông qua phương pháp Bayes. Chương trình được thiết kế cho máy tính Hewlett-Packard HP-41 CV, dựa trên mô hình mở một ngăn có khả năng hấp thu tức thời hoặc không. Đánh giá cá nhân các thông số động học của bệnh nhân (độ thanh thải và thể tích phân phối) được thực hiện bằng cách phân tích nồng độ huyết tương đo được ở bệnh nhân cũng như xem xét dữ liệu dân số của thuốc. Sau khi ước tính các thông số động học cá
There was an epidemic of chronic pulmonary hypertension in Austria, the Federal Republic of Germany and Switzerland, starting in 1967, peaking in 1968/69, and disappearing after 1972. The mechanism leading to pulmonary hypertension was chronic precapillary vascular obstruction due to plexogenic pulmonary arteriopathy. There was a close geographic as well as temporal relation of the epidemic to the marketing and intake of the appetite depressing drug aminorex fumarate (Menocil). 10 years after the epidemic, half of the patients have died, usually of right heart failure. Of those surviving, half present a definite regression of the pulmonary vascular obstruction. Average survival after the initial diagnosis was 3.5 years in those patients who died. Their PA pressure (+22%) and pulmonary arteriolar resistance (+40%) was higher at the onset of the observation period if compared with the corresponding values of the survivors; also the incidence of right heart failure was significantly higher (84 vs. 58%). Among the surviving patients, the only difference between those with an improved and those with a worsened haemodynamic situation was the age at the beginning of the weight-reducing treatment, those with a progression being 10 years older. The probability of survival after 10 years is considerably higher in chronic pulmonary hypertension of vascular origin (CPHVO) after aminorex than in "classical" primary pulmonary hypertension (CPHVO of unknown cause) and in CPHVO due to recurrent silent pulmonary thromboembolism. This difference in prognosis is an argument in favour of the identity of chronic pulmonary hypertension developing after the intake of the appetite depressing drug aminorex.
Có một dịch tăng huyết áp phổi mạn tính tại Áo, Cộng hoà Liên bang Đức và Thuỵ Sĩ, bắt đầu từ năm 1967, đạt đỉnh vào năm 1968/69 và biến mất sau năm 1972. Cơ chế dẫn đến tăng huyết áp phổi là tắc nghẽn mạch máu phổi trước mao mạch mạn tính do bệnh lý động mạch phổi do đám rối. Có mối liên quan chặt chẽ về địa lý cũng như thời gian của dịch bệnh với việc tiếp thị và hấp thu thuốc gây ức chế sự thèm ăn aminorex fumarate (Menocil). 10 năm sau dịch bệnh, một nửa số bệnh nhân đã chết, thường là suy tim phải. Trong số những người sống sót, một nửa đã hồi phục rõ ràng về tắc nghẽn mạch máu phổi. Thời gian sống trung bình sau chẩn đoán ban đầu ở những bệnh nhân tử vong là 3,5 năm. Áp lực PA (+22% ) và sức đề kháng động mạch phổi (+40% ) ở thời điểm bắt đầu thời gian quan sát cao hơn so với các giá trị tương ứng của những người sống sót; tỷ lệ suy tim phải cũng cao hơn có ý nghĩa thống kê (84 so với 58% ). Trong số những bệnh nhân sống sót, sự khác biệt duy nhất giữa những người có tình trạng huyết động cải thiện và những người có tiến triển lớn hơn 10 tuổi là tuổi bắt đầu điều trị giảm cân, tuổi bắt đầu tiến triển lớn hơn 10 tuổi. Xác suất sống sau 10 năm cao hơn đáng kể ở những bệnh nhân tăng huyết áp phổi mạn tính có nguồn gốc mạch máu (CPHVO) sau aminorex so với những bệnh nhân tăng huyết áp phổi nguyên phát "không rõ nguyên nhân" và ở những bệnh nhân tăng huyết áp phổi lặng do thuyên tắc huyết khối phổi tái phát. Sự khác biệt về tiên lượng này là một lập luận có lợi cho việc xác định bệnh tăng huyết áp phổi mạn tính phát triển sau khi uống thuốc gây ức chế sự thèm ăn aminorex.
An influential view of amnesia is that the recognition and recall failure is a consequence of a selective loss of memory for contextual, rather than target, information. The various forms of this viewpoint are outlined and one is considered in more detail. This hypothesis claims that amnesics suffer from a selective inability to remember background context i.e. spatiotemporal or extrinsic context. The evidence cited in support of this hypothesis is then critically reviewed and assessed in relation to two methodological problems. The first problem shows that when weak amnesic memory is compared with good normal memory qualitative differences in contextual memory may arise artefactually. The second problem is that contextual memory deficits, found in amnesics, may be incidental consequences of frontal cortex damage rather than essential to the core memory deficit. In the light of these problems it is concluded that currently there is no convincing support for the contextual memory deficit hypothesis of amnesia. Finally, guidelines are laid down which should enable the hypothesis to be more appropriately assessed, and an alternative kind of hypothesis is briefly outlined.
Một quan điểm có ảnh hưởng về chứng mất trí nhớ là sự thất bại trong việc nhận diện và nhớ lại là hậu quả của việc mất trí nhớ có chọn lọc để lấy thông tin theo bối cảnh chứ không phải theo mục tiêu. Các dạng khác nhau của quan điểm này được phác thảo và xem xét chi tiết hơn. Giả thuyết này cho rằng người mất trí nhớ bị thiếu khả năng nhớ có chọn lọc bối cảnh nền, tức là bối cảnh không gian-thời gian hoặc bên ngoài. Bằng chứng được trích dẫn để ủng hộ giả thuyết này sau đó được xem xét và đánh giá một cách phê phán trong mối quan
Arterial to end-tidal CO2 tension gradients were measured in 18 dogs during spontaneous breathing (SB), intermittent positive-pressure ventilation (IPPV), and both low-frequency and high-frequency jet ventilation (LFJV and HFJV). The dogs were anesthetized with nembutal and permitted to breathe spontaneously through an 8-mm internal diameter endotracheal tube; blood gas tensions, cardiac output, and end-tidal CO2 partial pressure (PetCO2) were measured. IPPV, LFJV, and HFJV were then instituted in a random sequence and measurements repeated. PaO2, PaCO2 and cardiac output were similar during all four ventilatory modes. The mean PaCO2 differed significantly (p less than .001) from PetCO2 during IPPV, LFJV, and HFJV but not during SB. The mean PaCO2-PetCO2 gradient was 3.7 +/- 1 (SD), 12.6 +/- 5.0, and 24.3 +/- 8 torr during IPPV, LFJV and HFJV, respectively. The large gradients during LFJV and HFJV were not produced by dilution of tracheal CO2 by entrained air or by oxygen delivered by the jet. These results suggest that both LFJV and HFJV may be associated with a large PaCO2-PetCO2 gradient.
Độ dốc sức căng CO2 động mạch đến cuối khí quản được đo trên 18 con chó trong quá trình thở tự phát (SB ), thở áp lực dương gián đoạn (IPPV) và thở máy tần số thấp (LFJV) và tần số cao (HFJV ). Các con chó được gây mê bằng đường nội khí quản và thở tự phát thông qua đường kính nội khí quản 8mm; đo áp lực khí máu, cung lượng tim và áp suất riêng phần CO2 cuối khí quản (PetCO2 ). Sau đó, IPP
This paper presents the form and validation results of APACHE II, a severity of disease classification system. APACHE II uses a point score based upon initial values of 12 routine physiologic measurements, age, and previous health status to provide a general measure of severity of disease. An increasing score (range 0 to 71) was closely correlated with the subsequent risk of hospital death for 5815 intensive care admissions from 13 hospitals. This relationship was also found for many common diseases. When APACHE II scores are combined with an accurate description of disease, they can prognostically stratify acutely ill patients and assist investigators comparing the success of new or differing forms of therapy. This scoring index can be used to evaluate the use of hospital resources and compare the efficacy of intensive care in different hospitals or over time.
Bài báo trình bày các kết quả về hình thức và kết quả thẩm định APACHE II, một hệ thống phân loại mức độ nặng của bệnh. APACHE II sử dụng thang điểm dựa trên các giá trị ban đầu của 12 chỉ số sinh lý thường quy, tuổi và tình trạng sức khỏe trước đây để đưa ra một thước đo chung về mức độ nặng của bệnh. Điểm số tăng dần (từ 0 đến 71) có mối tương quan chặt chẽ với nguy cơ tử vong sau đó ở 5815 ca nhập viện điều trị tích cực từ 13
A new iridium/iridium-oxide electrode heated to 42 degrees C was used to monitor transcutaneous carbon dioxide levels during surgery in 27 adult patients. The purpose of this study was to compare arterial and transcutaneous CO2 values. This metal electrode performed similarly to glass CO2 electrodes. In addition, its lower operating temperature may reduce the risk of skin injury and more quickly reflect changes in local tissue perfusion.
27 bệnh nhân người lớn được sử dụng điện cực iridi/iridi-oxit mới được nung nóng đến 42 độ C để theo dõi nồng độ CO2 qua da trong phẫu thuật. Mục đích của nghiên cứu này là so sánh giá trị CO2 qua động mạch và qua da. Điện cực kim loại này hoạt động tương tự như điện cực CO2 thủy tinh. Ngoài ra, nhiệt độ phẫu thuật thấp hơn có thể làm giảm nguy cơ tổn thương da và phản ánh nhanh hơn sự thay đổi tưới máu tại chỗ.
Critically injured patients were identified by a CRAMS (circulation, respiration, abdomen, motor, speech) score of 6 or less while still in the field. They were prospectively followed as they received their care at the nearest medical facility according to the then-existing district Emergency Medical Services protocols. Those cared for by Level I trauma centers had a significantly reduced mortality rate compared to those treated at the other large full-service community hospitals. The commitment to Level I trauma care improves outcome of the critically injured, and field triage of the critically injured patient to these centers is indicated.
Bệnh nhân chấn thương nặng được xác định bằng thang điểm CRAMS (tính tuần hoàn, hô hấp, bụng, vận động, nói) từ 6 điểm trở xuống trong thời gian nằm viện. Bệnh nhân được theo dõi và chăm sóc tại cơ sở y tế gần nhất theo quy trình của Trung tâm cấp cứu huyện. Tỷ lệ tử vong của bệnh nhân chấn thương cấp độ I giảm đáng kể so với các bệnh viện cộng đồng lớn khác. Cam kết chăm sóc chấn thương cấp độ I giúp cải thiện kết quả điều trị cho bệnh nhân chấn thương nặng và chỉ định phân loại bệnh nhân chấn thương nặng
Nitroglycerin therapy can cause dose-related increases in intracranial pressure. Rare cases of neurologic sequelae attributed to nitroglycerin have appeared in the literature. We report such a case, in which symptoms completely resolved after cessation of nitroglycerin therapy. Widespread use of high-dose iv nitroglycerin makes knowledge of this effect important for all practitioners.
Liệu pháp nitroglycerin có thể làm tăng áp lực nội sọ liên quan đến liều. Các trường hợp hiếm gặp có di chứng thần kinh do nitroglycerin xuất hiện trên các tài liệu. Chúng tôi báo cáo một trường hợp như vậy, các triệu chứng hoàn toàn được giải quyết sau khi ngừng điều trị bằng nitroglycerin. Việc sử dụng rộng rãi nitroglycerin liều cao làm cho kiến thức về tác dụng này trở nên quan trọng đối với tất cả các nhà thực hành.
It is important for the clinician who is hyperventilating infants with persistent pulmonary hypertension (PPHN) to recognize a transition phase during therapy when pulmonary hypertension is no longer the primary cause of hypoxemia, because infants who are hyperventilated develop parenchymal lung disease after 2 to 3 days. This study reports ten infants who showed PaO2 lability early in the course of PPHN, with an inverse relationship between PaO2 and PaCO2. At a mean age of 79 +/- 14 (SEM) there was a transition phase, after which PaO2 lability decreased and the infants did not require hyperventilation. The mean change in PaO2 per change in PaCO2 was significantly (p less than .05) higher pretransition (22.4 +/- 5.2) compared to during transition (5.1 +/- 1.4) or post-transition (1.9 +/- 1.2). Mean alveolar-arterial oxygen gradient was higher (p less than .05) pretransition (495 +/- 36) vs. post-transition (405 +/- 52) and was more labile relative to PaCO2 change pretransition (20.3 +/- 5.9) compared to post-transition (.3 +/- 2.4). When ventilator settings were reduced after the transition phase, PaCO2 rose by 12.2 torr.
Cần nhận biết giai đoạn chuyển tiếp trong quá trình điều trị khi tăng áp phổi dai dẳng (TAPPHN) là nguyên nhân chính gây giảm oxy máu, vì trẻ thở nhanh phát triển bệnh phổi nhu mô sau 2-3 ngày. Nghiên cứu báo cáo 10 trẻ có khả năng phát triển sớm về PaO2 trong quá trình điều trị TAPPHN, có mối tương quan nghịch giữa PaO2 và PaCO2. Ở tuổi trung bình 79 +/- 14 (SEM) có giai đoạn chuyển tiếp, sau đó khả năng phát triển PaO
Hyperventilation therapy is often recommended after an episode of global cerebral ischemia (cardiac arrest), even though several workers have shown that under such circumstances the cerebral vasculature is unresponsive to changing PaCO2. However, no study has examined the effects of prolonged PaCO2 changes. We therefore studied the cerebrovascular effects of a 3-h period of continuous hypercarbia (40 to 45 torr) or hypocarbia (15 to 20 torr) in cats resuscitated from 12 min of electrically induced ventricular fibrillation. There were no differences in postresuscitation cerebral blood flow (CBF) or EEG, but intracranial pressure was lower in the hypocapnic animals. Furthermore, hypocapnic cats retained some CBF responsiveness to varying PaCO2 levels, while no such response was noted in previously hypercapnic animals. These findings suggest that some measurable changes in postarrest cerebrovascular behavior can result from prolonged hypocapnia (possibly related to tissue pH alterations). Whether such changes will have clinical utility is unclear.
Liệu pháp tăng thông khí thường được khuyến cáo sau một đợt thiếu máu não toàn cầu (ngừng tim) mặc dù một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng trong những trường hợp như vậy, mạch máu não không đáp ứng với sự thay đổi PaCO2. Tuy nhiên, không có nghiên cứu nào khảo sát ảnh hưởng của sự thay đổi PaCO2 kéo dài. Do đó, chúng tôi đã nghiên cứu ảnh hưởng của mạch máu não trong thời gian 3 giờ của chứng tăng khí áp liên tục (40 đến 45 torr) hoặc hypocarbia (15 đến 20 torr)
High-frequency oscillation (HFO) appears to be an alternate, less traumatic mode of ventilating surfactant-deficient patients, because conventional (mechanical) pressure-limited ventilation (CMV) compromises cardiac function at high mean airway pressures. We compared systemic cardiac output and its distribution during HFO and CMV in ten adult rabbits rendered surfactant deficient by repeated pulmonary saline lavage. Cardiac output and organ blood flow were measured using the radionucleotide-labeled microsphere technique during ventilation at a mean airway pressure of 15 cm H2O and an inspired oxygen concentration of 100%. Both cardiac output and organ perfusion were similar during both modes of ventilation.
Dao động tần số cao dường như là một phương thức thay thế ít chấn thương hơn ở những bệnh nhân suy hoạt chất hoạt động bề mặt thở, bởi vì thông khí giới hạn áp suất thông thường (cơ học) làm tổn thương chức năng tim ở áp suất đường thở trung bình cao. Chúng tôi so sánh cung lượng tim và phân bố của nó trong quá trình thở HFO và CMV ở 10 thỏ trưởng thành bị suy hoạt chất hoạt động bề mặt bằng cách rửa nước muối phổi lặp lại nhiều lần. Cung lượng tim và lưu lượng máu nội tạng được đo bằng kỹ thuật microsphere được
The effects of driving pressure (DP) and respiratory rate (RR) on mean airway pressure (Paw), PaCO2, and other respiratory variables were studied during high-frequency jet ventilation (HFJV) in anesthetized rabbits. The animals were tracheotomized and paralyzed, and various combinations of RR (4, 8, 12, and 16 Hz) and DP (0.5, 1.0, and 2.0 kg/cm2) were applied randomly with an inspiratory/expiratory ratio of 1.0. HFJV was delivered via a 2.5-Fr catheter through a T-attachment, using 100% oxygen, and a hot-wire flowmeter was connected to the outlet of the T-attachment for measurement of the minute volume (MV). Heart rate, arterial BP and CVP, respiratory variables, and arterial blood gases were monitored during the study. There were no direct correlations between PaCO2 and DP, MV, or RR. However, there was an inverse correlation between PaCO2 and tidal volume, and linear correlations were found between Paw and DP, and between DP and MV. It is concluded that HFJV over an RR range of 4 to 16 Hz depends mainly upon tidal volume. When the desired PaCO2 and Paw are determined, DP and RR can be calculated following the equations established in this study.
Ảnh hưởng của áp lực đường thở (DP) và tần số hô hấp (RR) lên áp lực đường thở trung bình (Paw ), PaCO2 và các biến số hô hấp khác được nghiên cứu trong thông khí dung tần cao (HFJV) trên thỏ gây mê. Các thông số được sử dụng để đo áp lực đường thở (4, 8, 12,16 Hz) và DP (0,5, 1,0,2,0 kg/cm2) là: hô hấp/hô hấp 1,0. HFJV được truyền qua catheter 2,5-Fr thông qua một ống T, sử dụng 100% oxy, và một máy đo lưu lượng bằng dây nóng nối với đầu ra của ống T để đo thể tích phút (MV ). Theo dõi nhịp tim, huyết áp động mạch, huyết áp động mạch và khí máu động mạch (HFJV) trong quá trình nghiên cứu. Không có mối tương quan trực tiếp giữa PaCO2 và DP, MV và RR. Tuy nhiên, có mối tương quan nghịch giữa PaCO2 và thể tích thủy triều, và có mối tương quan tuyến tính giữa DP và MV. Kết luận rằng HFJV trong khoảng RR 4 đến 16 Hz phụ thuộc chủ yếu vào thể tích thủy triều. Khi xác định được PaCO2 và Paw, có thể tính được DP và RR theo các phương trình được thiết lập trong nghiên cứu này.
We studied the intrapleural and hemodynamic effects of positive end-expiratory pressure (PEEP) during high-frequency ventilation (HFV) with a Venturi high-frequency ventilator (Bird). Ten healthy mongrel dogs were anesthetized with sodium pentobarbital, catheterized with intrapleural and thermodilution pulmonary artery lines, and subjected to oleic acid-induced pulmonary edema. A mean PEEP of 16 +/- 6 (SD) cm H2O restored venous admixture to baseline in nine animals. Both mean airway pressure (Paw) and mean intrapleural pressure (Ppl) increased significantly with each increment of PEEP during HFV. Approximately 50% of Paw was transmitted to the intrapleural space. Cardiac index (CI) decreased with increments of PEEP in spite of constant transmural central venous and pulmonary capillary wedge pressures, so that oxygen delivery decreased despite increased PaO2. Possible mechanisms of PEEP-induced depression of CI during HFV are discussed. We conclude that both hemodynamic and intrapleural effects of PEEP during HFV are similar to those during conventional mechanical ventilation.
Nghiên cứu ảnh hưởng huyết động và nội nhãn của áp lực nội hô hấp dương (PEEP) trong thở máy tần số cao (HFV) bằng máy thở cao tần Venturi (Bird ). Mười con chó lai khỏe mạnh được gây mê bằng natri pentobarbital, đặt thông động mạch phổi nội nhãn và động mạch phổi điều chế, phù phổi do acid oleic. Áp lực trung bình PEEP 16 +/- 6 (SD) cm H2O phục hồi sự pha trộn tĩnh mạch ở 9 con chó. Áp lực đường thở trung bình (Paw
The effects of hydrochloric acid (HCl) administration were studied in 15 critically ill patients whose metabolic alkalosis caused a significant alkalemia (pH 7.50 to 7.58) unresponsive to sodium and potassium chloride administration. Arterial pH and bicarbonate and chloride concentrations normalized after a 6- to 12-h mean infusion of 200 +/- 54 mmol of .25 N HCl. There were no deleterious vascular, hematologic, or metabolic side-effects. HCl administration was associated with an increase in mean PaO2 from 94 +/- 21 to 121 +/- 31 torr (p less than .001). This increase was comparable in patients breathing spontaneously and those treated with controlled mechanical ventilation, and was attributed at least in part to a decrease in pulmonary shunt. These results indicate that .25 N HCl, infused at the rate of 100 ml/h into the superior vena cava, can correct metabolic alkalosis safely and rapidly. The persistence of the beneficial effects of this treatment on arterial oxygenation remains to be confirmed.
Nghiên cứu tác dụng điều trị của acid clohydric (HCl) trên 15 bệnh nhân nặng có nhiễm kiềm chuyển hóa gây nhiễm kiềm máu đáng kể (pH 7,50-7,58) không đáp ứng với điều trị natri và kali clorua. Nồng độ pH động mạch và bicarbonate và clorua bình thường sau 6-12h truyền trung bình 200 +/- 54 mmol 0,25 N HCl. Không có tác dụng phụ về mạch máu, huyết học hoặc chuyển hóa. Việc sử dụng HCl có
In order to define the contribution of wedge blood composition to pulmonary artery wedge pressure (WP) measurement, we made 28 comparisons of WP and left atrial pressure (LAP) in 16 stable patients with pulmonary or cardiac failure after cardiac surgery. All technical problems associated with initial WP measurements were eliminated before simultaneously recording WP and LAP. Wedge blood samples (w), withdrawn from the distal pulmonary artery catheter port in the balloon occlusion position, were compared with paired arterial (a) blood samples. Wedge blood was defined as pulmonary capillary blood when the following three wedge-arterial gradient criteria were satisfied: (PwO2 - PaO2) greater than or equal to 19 torr; (PaCO2 - PwCO2) greater than or equal to 11 torr; and (pHw-pHa) greater than or equal to 0.08. When capillary blood was withdrawn from the wedge position, there was no difference between WP and LAP measurements. When wedge blood failed to satisfy capillary criteria, WP was significantly (p less than .05) different from LAP. Aspiration of capillary blood from the wedge position in ICU patients confirms that WP faithfully reflects LAP. It identifies those differences between WP and LAP which remain after technical problems are eliminated.
Để xác định sự đóng góp của thành phần máu chêm vào đo áp lực động mạch phổi (ĐMP) và áp lực nhĩ trái (NMT) ở 16 bệnh nhân ổn định có suy tim hoặc phổi sau phẫu thuật tim. Tất cả các vấn đề kỹ thuật liên quan đến số đo áp lực động mạch phổi ban đầu đã được loại bỏ trước khi ghi nhận đồng thời áp lực động mạch phổi và áp lực nhĩ trái. Mẫu máu chêm (w) rút ra từ cổng động mạch phổi ở vị trí tắc bóng được so sánh với các mẫu máu ghép đôi (a). Máu chêm được định nghĩa là máu mao mạch phổi khi đáp ứng ba tiêu chí độ dốc động mạch-động mạch phổi: (PwO2 - PaO2) lớn hơn hoặc bằng 19 torr; (PaCO2 - PwCO2) lớn hơn hoặc bằng 11 torr; và (pHw-pHa) lớn hơn hoặc bằng 0,08. Khi rút máu mao mạch từ vị trí chêm, không có sự khác biệt giữa các số đo áp lực động mạch phổi và áp lực nhĩ trái. Khi chọc hút máu từ vị trí chêm ở bệnh nhân hồi sức cấp cứu, kết quả cho thấy huyết áp động mạch phổi phản ánh trung thực (p < 0,05) so với huyết áp động mạch phổi. Kết quả này cho thấy những khác biệt giữa huyết áp động mạch phổi và áp lực nhĩ trái còn lại sau khi đã loại bỏ các tiêu chí kỹ thuật.
Bacteria and green plants use the diaminopimelate pathway for the biosynthesis of the essential amino acid, lysine; however, yeast and other higher fungi use the alpha-aminoadipate (AA) pathway. The AA pathway has been investigated in detail biochemically, genetically, and in terms of regulatory mechanisms in the baker's yeast Saccharomyces cerevisiae. The genetic analysis of lysine auxotrophs of S. cerevisiae revealed that there are more than 12 lysine genes for 8 enzyme-catalyzed steps. Lysine genes are not linked to each other and seven of the genes are mapped on six different linkage groups (chromosomes). The gene-enzyme relationships have been determined for ten of the lysine loci which include two unlinked gene functions required for each of AA reductase (LYS2 and LYS5) and Saccharopine reductase (LYS9 and LYS14). Five of the lysine enzymes are localized in mitochondria and three in cytosol. The lysine pathway of S. cerevisiae is regulated by feedback inhibition and end product repression. Two, and possibly three, of the enzymes exhibit general control of amino acid biosynthesis and at least five of the enzymes coded for, by unlinked genes, are simultaneously depressed in a regulatory (repressor) gene-mutant.
Vi khuẩn và thực vật xanh sử dụng con đường diaminopimelat để sinh tổng hợp các amino acid thiết yếu là lysine; tuy nhiên, nấm men và các loại nấm bậc cao khác lại sử dụng con đường alpha-aminoadipate (AA ). Con đường AA đã được nghiên cứu chi tiết về mặt hóa sinh, di truyền và cơ chế điều hòa ở nấm men bánh mì Saccharomyces cerevisiae. Phân tích di truyền của các gen lysine auxotrophs của S. cerevisiae cho thấy có hơn 12 gen lys
Antioxidants belong to a class of compounds used to retard oxidation of chemicals in foods. These compounds, such as BHA, BHT, TBHQ, PG, etc. are approved to be used in foods by government agencies. In the past 10 years considerable interest has been directed to the antimicrobial properties of these compounds due to the observations by various scientists that many of these compounds can suppress the growth of viruses, protozoa, bacteria, yeast, and molds and their subsequent production of toxic materials in foods. Thus, the dual purpose usage of these compounds (i.e., antioxidation and antimicrobial) has been the subject of many research papers. This review is designed to summarize major publications on this subject as well as present some detailed studies on the effect of major antioxidants on bacteria and mold generated in the laboratory of the author in recent years.
Chất chống oxi hóa thuộc nhóm các hợp chất được sử dụng để làm chậm quá trình oxy hóa các hóa chất trong thực phẩm. Các hợp chất này như BHA, BHT, TBHQ, PG, v. v...được các cơ quan chính phủ cho phép sử dụng trong thực phẩm. Trong 10 năm qua, người ta đã quan tâm đáng kể đến đặc tính kháng khuẩn của các hợp chất này do các nhà khoa học đã quan sát thấy nhiều hợp chất trong số này có thể ức chế sự phát triển của virus, động vật nguyên sinh, vi khuẩn, nấm men, nấm
Histopathologic and histochemical changes in experimental carcinomas following cryotreatment were observed to detect alkaline phosphatase (ALP) activity and UEA-1 lectin binding. Experimental carcinomas were induced in the hamster cheek pouch by topical application of 0.5% DMBA acetone solution twice a week. The cryoprobe at -60 degrees C was directly attached to the tumor surface for 90 sec. Histochemically, the tumor tissue following cryotreatment was completely destroyed in the surface area by the direct freezing and such cryonecrotic tumor tissue lacks stainability. Soon after cryotreatment and before cryonecrosis takes place, it has been observed that there is an intense dilatation of capillary vessels. Histochemically, high ALP activity was limited to capillary endothelium and to inflammatory cells. Lectin UEA-1 staining was usually found in both normal and neoplastic epithelial cells which were confined to capillary vessels. At 1 to 3 hr after cryotreatment, lectin UEA-1 binding was also positive in dilated endothelial cells of the frozen tissue as well as viable remaining neoplastic epithelia by freezing. ALP activity and UEA-1 binding disappeared in capillaries of cryonecrotic area in tumor tissues. Those findings suggest that biologic membrane changes in capillary endothelium of tumor stroma occur following cryotreatment.
Nghiên cứu đã phát hiện sự thay đổi về mô bệnh học và mô hóa của ung thư biểu mô thực nghiệm sau điều trị lạnh. Kết quả cho thấy hoạt tính kiềm phosphatase (ALP) và liên kết lectin UEA-1 trong tế bào ung thư biểu mô thực nghiệm. Ung thư biểu mô thực nghiệm được gây ra trong túi má chuột hamster bằng cách sử dụng dung dịch acetone DMBA 0,5% bôi tại chỗ hai lần một tuần. Thiết bị toả lạnh ở -60 độ C được gắn trực tiếp vào bề mặt khối u trong 90 giây. Về mặt mô học, mô khối u sau điều trị lạnh đã bị phá hủy hoàn toàn trên bề mặt bằng cách đóng băng trực tiếp và mô ung thư sau khi đông lạnh không còn khả năng bị bám dính. Ngay sau khi được đông lạnh và trước khi bị hoại tử, người ta đã quan sát thấy sự giãn nở mạnh mẽ của các mạch máu. Về mặt mô học, hoạt tính ALP cao bị giới hạn trong các tế bào nội mô mao mạch và các tế bào viêm. Nhuộm Lectin UEA-1 thường được tìm thấy trong cả tế bào biểu mô bình thường và tân sinh giới hạn trong các mạch máu. Vào khoảng 1 đến 3 giờ sau khi đông lạnh, liên kết lectin UEA-1 cũng dương tính ở các tế bào nội mô giãn của mô đông lạnh cũng như các tế bào tân sinh còn lại bằng cách đóng băng. Hoạt tính ALP và liên kết UEA-1 biến mất trong các mao mạch của vùng hoại tử bằng phương pháp đông lạnh. Những phát hiện này cho thấy sự thay đổi về màng sinh học trong nội mô mao mạch của khối u sau điều trị lạnh.
In a double-blind trial, 60 patients with biliary colic were allocated at random to receive 200 mg ketoprofen, 1.8 g lysine acetylsalicylate or placebo by intravenous bolus. The patients were asked to rate their pain at intervals within 3 hours of injection and to indicate their overall pain experience on a visual analogue scale. Both ketoprofen and lysine acetylsalicylate proved significantly more effective than placebo in relieving pain, with no significant difference between them. A good analgesic response, reflected by complete or almost complete relief of pain within 30 minutes of injection, was recorded in 4, 17, and 16 patients, respectively, in the placebo, ketoprofen, and lysine acetylsalicylate treatment groups. All drugs were well tolerated. It is concluded that the results provide further evidence for a useful therapeutic role of prostaglandin inhibitors in the treatment of biliary colic.
Trong một thử nghiệm mù đôi, 60 bệnh nhân đau bụng mật được phân bổ ngẫu nhiên 200mg ketoprofen, 1,8 g lysine acetylsalicylate hoặc giả dược bằng tiêm bolus đường tĩnh mạch. Các bệnh nhân được yêu cầu đánh giá cơn đau của họ theo khoảng thời gian trong vòng 3 giờ sau tiêm và chỉ ra kinh nghiệm đau tổng thể của họ trên thang điểm tương tự trực quan. Cả ketoprofen và lysine acetylsalicylate đều tỏ ra hiệu quả hơn giả dược trong giảm đau, không có sự khác biệt đáng kể giữa
The results of a large three centre co-ordinated study into the in vitro susceptibility of bacterial clinical pathogens showed no significant evidence of regional variation within the U.K. towards the 10 antibiotics examined. The newer cephalosporins were highly potent and superior to other antibiotics against the Enterobacteriaceae, with ceftriaxone and cefotaxime the most potent. Against Pseudomonas aeruginosa, gentamicin was the most active, followed by ceftazidime, piperacillin and ceftriaxone; cefotetan was the least active. Staphylococcus aureus and Staphylococcus albus were most susceptible to cefuroxime and gentamicin, though most were also susceptible to ceftriaxone, cefotaxime and cefoxitin. Streptococcus (Groups A and B), Streptococcus pneumoniae and Neisseria spp. were susceptible to most agents other than gentamicin, but ceftriaxone and cefotaxime were overall the most potent. Ceftriaxone was the most active agent against Haemophilus influenzae. The newer agents were variable and relatively poor against anaerobes and only amoxycillin and piperacillin were significantly active against Streptococcus faecalis. The overall resistance level to the third generation cephalosporins was low.
Kết quả của 3 nhóm nghiên cứu lớn phối hợp với nhau về tính nhạy cảm in vitro của các tác nhân gây bệnh trên lâm sàng cho thấy không có bằng chứng đáng kể về sự biến đổi khu vực ở Anh đối với 10 loại kháng sinh được khảo sát. Các cephalosporin mới có hiệu lực cao và vượt trội so với các kháng sinh khác chống lại vi khuẩn đường ruột, trong đó ceftriaxone và cefotaxime là mạnh nhất. Chống Pseudomonas aeruginosa, gentamicin là mạnh nhất, tiếp theo là ceftazidime, piperacillin và ceftriaxone; cefotetan là ít hoạt động nhất. Staphylococcus aureus và Staphylococcus albus nhạy cảm nhất với cefuroxime và gentamicin, mặc dù hầu hết cũng nhạy cảm với ceftriaxone, cefotaxime và cefoxitin. Streptococcus (nhóm A và B), Streptococcus pneumoniae và Neisseria spp. nhạy cảm với hầu hết các tác nhân khác ngoài gentamicin, nhưng ceftriaxone và cefotaxime nói chung là mạnh nhất. Ceftriaxone là tác nhân hoạt động mạnh nhất chống lại Haemophilus influenzae. Các tác nhân mới có sự biến đổi và tương đối kém đối với vi khuẩn kỵ khí và chỉ có amoxycillin và piperacillin hoạt động có ý nghĩa đối với Streptococcus faecalis. Mức độ đề kháng chung đối với các cephalosporin thế hệ thứ ba là thấp.
Preputial abscesses occurred in three men who had had sexual intercourse with prostitutes in Thailand. Neisseria gonorrhoeae could be grown from the lesions. Two of the strains were tested for beta-lactamase production and proved positive. While all three patients showed no clinical signs of urethritis, urethral swabs were positive for gonococci in two.
Áp xe tiền sản xuất xảy ra ở 3 nam giới quan hệ tình dục với gái mại dâm tại Thái Lan. Neisseria gonorrhoeae có thể phát triển từ các tổn thương. 2 chủng đã được xét nghiệm sản xuất beta-lactamase và cho kết quả dương tính. Trong khi cả 3 bệnh nhân đều không có dấu hiệu lâm sàng của viêm niệu đạo, mẫu dịch niệu đạo dương tính với bệnh lậu ở 2 chủng.
Quantitative cytochemical determinations were made of the DNA of zygotes formed from myxamoebae and swarm cells of Didymium iridis. The nuclear and cytoplasmic RNA and lysine bound protein of these cells were also measured. Significant zygote formation in myxamoebae crosses began at 20-30 min, while swarmers required 35-40 min. Myxamoebae, however, demonstrated a greater ability to form zygotes. The total cytoplasmic RNA and protein bound lysine for myxamoebae was higher than that of the swarmer cells. This observed decrease in swarmers may be due to reduced protein synthesis. Values for nuclear RNA were higher in the myxamoebae, but nuclear lysine bound protein was higher in the swarmers. The data presented suggest that prefusion swarmers, after replicating their DNA, go into a period of G2 arrest and remain in this condition postfusion. In contrast, prefusion myxamoebae readily divide after DNA replication, and continue to synthesize nuclear DNA, and to divide after fusion.
Các kết quả định lượng hóa học được thực hiện trên DNA của các hợp tử hình thành từ myxamoebae và các tế bào bầy đàn của Didymium iridis. Các RNA nhân, tế bào chất và protein liên kết lysine của các tế bào này cũng được đo. Sự hình thành hợp tử đáng kể trong các myxamoebae bắt đầu trong 20-30 phút, trong khi các bầy đàn cần 35-40 phút. Tuy nhiên, myxamoebae thể hiện khả năng hình thành hợp tử cao hơn. R
Enzyme-linked immunosorbent assays (ELISA) of immunoglobulin G antibody to Mycobacterium tuberculosis antigen 5 and tuberculin purified protein derivative (PPD) were assessed for the serodiagnosis of tuberculosis in 41 patients with active tuberculosis, 19 patients with inactive tuberculosis, and 59 healthy control subjects. Patients with active tuberculosis were studied serially at monthly intervals following the initiation of therapy. When contrasted with our earlier studies of sera from patients in Bolivia and Argentina, serum titers in Cleveland patients with active tuberculosis were somewhat lower. Geometric mean titer in patients with active tuberculosis was 1:68 with antigen 5 and 1:46 with PPD. Titer was correlated with patient age, male sex, extent of tuberculosis, and history of prior tuberculosis. However, these associations were not statistically significant. During monthly follow-up for 16 months after the initiation of therapy, ELISA titers remained essentially stable. Thus, no convincing evidence was acquired to support the hypothesis that higher titers in sera from South American patients related to more chronic or more extensive disease. Receiver operating characteristics of ELISA with antigen 5 were better than those obtained using PPD and were similar to those reported by others for sputum smear. In a situation where tuberculosis screening is warranted, ELISA with antigen 5 might have a place if it recognizes a different population than does sputum smear.
Các xét nghiệm ELISA (Enzym-linked immunosorbent assay) của kháng thể IgG kháng Mycobacterium tuberculosis 5 và dẫn xuất protein tinh khiết tuberculin (PPD) được đánh giá trong chẩn đoán huyết thanh lao ở 41 bệnh nhân lao hoạt động, 19 bệnh nhân lao không hoạt động và 59 đối tượng khỏe mạnh đối chứng. Các bệnh nhân lao hoạt động được nghiên cứu huyết thanh học theo chu kỳ hàng tháng sau khi bắt đầu điều trị. Khi so sánh với các nghiên cứu trước đây của chúng tôi về huyết thanh của bệnh nhân lao hoạt động ở Bolivia và Argentina, giá trị chuẩn huyết thanh ở bệnh nhân lao hoạt động Cleveland thấp hơn một chút. Titer trung bình ở bệnh nhân lao hoạt động là 1: 68 với kháng nguyên 5 và 1: 46 với PPD. Titer có mối tương quan với tuổi bệnh nhân, giới nam, mức độ bệnh lao và tiền sử bệnh lao trước đó. Tuy nhiên, các mối tương quan này không có ý nghĩa thống kê. Trong thời gian theo dõi hàng tháng trong 16 tháng sau khi bắt đầu điều trị, giá trị chuẩn huyết thanh ELISA về cơ bản vẫn ổn định. Như vậy, không có bằng chứng thuyết phục nào ủng hộ giả thuyết rằng giá trị chuẩn cao hơn trong huyết thanh của bệnh nhân Nam Mỹ có liên quan đến bệnh mạn tính hoặc bệnh diện rộng hơn. Đặc điểm nhận của ELISA với kháng nguyên 5 tốt hơn so với PPD và tương tự như các đặc điểm nhận của người khác đối với mẫu đờm. Trong trường hợp cần sàng lọc lao, ELISA với kháng nguyên 5 có thể có vị trí nếu nhận ra một quần thể khác với mẫu đờm.
Direct labeling experiments with [14C]-carumonam as well as competition binding assays with [14C]-benzylpenicillin and [14C]-ceftriaxone have demonstrated that penicillin-binding protein (PBP) 3 of Escherichia coli, Enterobacter cloacae and Pseudomonas aeruginosa has the highest affinity for carumonam (Ro 17-2301, AMA-1080). PBP 1a is inhibited only at significantly higher concentration whereas other PBPs display poor affinity. The IC50 values for binding to PBP 3 in E. coli and E. cloacae are in the range of the MIC-values (0.1-0.4 micrograms/ml), whereas those for P. aeruginosa are much lower than the MIC obtained in vitro. In accordance with the PBP affinity pattern observed for carumonam, filament formation resulted after exposure to concentrations greater than 1/2 MIC. Although PBP 1 and 2 of Staphylococcus aureus could be titrated with radioactive carumonam, very high concentrations were required and in line with the poor affinity for all four PBPs in S. aureus, this organism is resistant to carumonam.
Các thí nghiệm dán nhãn trực tiếp với [14C]-carumonam cũng như các thử nghiệm liên kết cạnh tranh với [14C]-benzylpenicillin và [14C]-ceftriaxone đã chứng minh rằng protein liên kết penicillin (PBP) 3 của Escherichia coli, Enterobacter cloacae và Pseudomonas aeruginosa có ái lực cao nhất với carumonam (Ro 17-2301, AMA-1080 ). Giá trị IC50
Concentrations of latamoxef, cefoperazone and piperacillin, administered intravenously, were measured in serum and sputum of cystic fibrosis patients with recurrent pulmonary infections, chronically colonized with Pseudomonas aeruginosa. Serum pharmacokinetic data were consistent with prior reports. Peak sputum to peak serum concentrations were approximately 3% for each antimicrobial. However, the more prolonged sputum concentrations of piperacillin were reflected in greater areas under the sputum concentration-time curve and a longer duration above the MIC50 of tested P. aeruginosa strains for that drug.
Nồng độ latamoxef, cefoperazone và piperacillin, dùng đường tiêm tĩnh mạch, được đo trên bệnh nhân xơ nang có nhiễm trùng phổi tái phát, nhiễm Pseudomonas aeruginosa mãn tính. Các số liệu dược động học trong huyết thanh phù hợp với các báo cáo trước. Mỗi loại kháng sinh có nồng độ đỉnh đờm đến đỉnh huyết thanh khoảng 3 %. Tuy nhiên, nồng độ piperacillin kéo dài hơn ở vùng dưới đường cong nồng độ đờm và thời gian sử dụng dài hơn MIC50 của các chủng P.aeruginosa được
The in vitro activity of the novel monobactam antibiotic, Ro 17-2301 has been compared with those of aztreonam, imipenem, ceftazidime, cefotaxime and netilmicin. A total of 438 clinical isolates of aerobic gram-negative rods were employed and an agar dilution method was used for measurement of MIC. Ro 17-2301 was highly active against a wide variety of Enterobacteriaceae species (MIC range less than or equal to 0.03-8, MIC50 less than or equal to 0.03, MIC90 0.06 mg/l). The activity of aztreonam parallelled that of Ro 17-2301 although the latter seemed to have more uniformly high activity against Klebsiella sp. The other agents showed generally high activity against Enterobacteriaceae except netilmicin against Providencia stuartii (MIC50 4, MIC90 greater than or equal to 16 mg/l). Activity against Pseudomonas aeruginosa. was more variable. Ro 17-2301 and aztreonam were moderately active (MIC50 2, MIC90 8 and 16 mg/l, respectively). Imipenem was the most active agent against Acinetobacter, whereas Ro 17-2301 was moderately active. In conclusion, Ro 17-2301 shows impressive activity against Enterobacteriaceae and moderate activity against Acinetobacter and P. aeruginosa. Ro 17-2301 may well prove to be a useful agent in the treatment of gram-negative infections.
Hoạt tính in vitro của kháng sinh mới monobactam, Ro 17-2301 được so sánh với hoạt tính in vitro của các nhóm aztreonam, imipenem, ceftazidime, cefotaxime và netilmicin. Ro 17-2301 có hoạt tính cao đối với nhiều loài vi khuẩn đường ruột (MIC < 0,03-8, MIC50 < 0,03, MIC90 < 0,06 mg/l ). Hoạt tính của aztreonam tương đương với hoạt tính của Ro 17-2301 (Ro 17-2301 có hoạt tính tương đương với MIC50 4, MIC90 > = 16 mg/l ). Hoạt tính đối với Pseudomonas aeruginosa. Hoạt tính đối với Acinetobacter là khác nhau. Ro 17-2301 và aztreonam có hoạt tính tương đương (MIC50 2, MIC90 8 và 16 mg/l). Imipenem có hoạt tính mạnh nhất đối với Acinetobacter, trong khi Ro 17-2301 hoạt tính tương đương. Ro 17-2301 có hoạt tính tương đương với Acinetobacteriaceae và hoạt tính tương đương với P.aeruginosa. Ro 17-2301 có thể được chứng minh là một chất hữu ích trong điều trị các bệnh nhiễm trùng đường ruột.
In vitro activity of nine new cephalosporins and penicillins was determined against 417 isolates of Pseudomonas aeruginosa. Carbenicillin, ticarcillin, gentamicin, tobramycin and netilmicin were also included in the study. Imipenem showed highest activity. More than 90% of the isolates were susceptible to ticarcillin, piperacillin, azlocillin, cefoperazone, cefsulodin and to tobramycin. 57 isolates included in the study were resistant to gentamicin (MIC greater than 4 mg/l); of these, none were resistant to imipenem, and more than 80% were susceptible to piperacillin, azlocillin, cefoperazone and cefsulodin.
Hoạt tính in vitro của 9 cephalosporin và penicillin mới được xác định với 417 chủng Pseudomonas aeruginosa. Carbenicillin, ticarcillin, gentamicin, tobramycin và netilmicin cũng được đưa vào nghiên cứu. Imipenem có hoạt tính cao nhất. Hơn 90% các chủng nhạy cảm với ticarcillin, piperacillin, azlocillin, cefoperazone, cefsulodin và tobramycin. 57 chủng trong nghiên cứu kháng với gentamicin (
Large populations of rifampicin-sensitive strains of Mycobacterium tuberculosis have been exposed in vitro to changing concentrations of rifampicin (RIF) in line with changes in the blood level of the drug observed during treatment, and to much lower concentrations. Experiments in which the organism was exposed to either 7 or 14 days of cyclically-changing rifampicin concentrations have resulted in the elimination of the M. tuberculosis test strains without the emergence of RIF resistance. The significance of these laboratory findings is discussed in relation to the debate as to whether rifampicin should be used in short courses for the treatment of non-tuberculous infections or whether it should be withheld for fear of inadvertently generating rifampicin-resistant strains of tubercle bacilli. It is argued that the evidence for withholding rifampicin from use in short courses against non-tuberculous infections is slight.
Các chủng vi khuẩn lao nhạy cảm với rifampicin đã được tiếp xúc với nồng độ thay đổi rifampicin (RIF) trong ống nghiệm phù hợp với sự thay đổi nồng độ thuốc trong máu trong quá trình điều trị, và nồng độ thấp hơn nhiều. Các thí nghiệm trong đó sinh vật tiếp xúc với nồng độ thay đổi theo chu kỳ rifampicin trong 7 hoặc 14 ngày đã giúp loại bỏ các chủng xét nghiệm lao mà không xuất hiện tình trạng kháng RIF. Ý nghĩa của các phát hiện trong phòng thí nghiệm được thảo luận liên quan đến cuộc tranh
Twenty-eight patients with histologically confirmed cirrhosis were followed for up to 3.8 years after [14C]aminopyrine breath analysis. Survival rates were calculated by life-table method and outcome analyzed by log rank test. A normal breath test score was associated with a higher probability of survival than a low score, although the difference was not statistically significant. A normal serum albumin was a better predictor of outcome. Survival curves constructed according to the results of breath analysis and serum albumin differed in that the former appeared to predict early survival and the latter late survival. For this reason, data were reanalyzed by subjects' results for both tests. A normal breath test score and a normal serum albumin was associated with a significantly higher probability of survival than an abnormal result for either test.
28 bệnh nhân xơ gan được theo dõi đến 3,8 năm sau khi phân tích hơi thở bằng amoniac. Tỷ lệ sống còn được tính theo phương pháp bảng sống và kết cục được phân tích bằng test log rank. Điểm kiểm tra hơi thở bình thường có liên quan đến xác suất sống còn cao hơn điểm thấp, mặc dù sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Albumin huyết thanh bình thường là yếu tố dự báo kết cục tốt hơn. Các đường cong sống còn được xây dựng theo kết quả phân tích hơi thở và albumin huyết thanh khác nhau ở chỗ albumin huyết thanh có thể
Hemoccult screening for colorectal carcinoma was begun in 1979 at the Kaiser Permanente Medical Center, Oakland, California, as part of a program for periodic health examinations. A concomitant cost-benefit analysis was conducted to determine the long-term medical care costs and survival benefits of this procedure. Of 14,041 patients greater than or equal to 45 years of age mailed hemoccult slides, 10,255 (70.3%) returned them at the time of their examination. One hundred twelve (1.1%) were positive, and 12 colorectal carcinomas were detected. Additionally, 13 patients with one or more polyps greater than or equal to 1 cm and 45 patients with other gastrointestinal sources of blood were found. Of the screened cases of colorectal carcinoma, 50% were in Dukes' stage A compared with 25% found in this stage in our institution in 1974, when screening was not done. Five-year Dukes' stage-specific medical care costs and mortality rates were developed from the 1974 cases and were then applied to the screened cases of colorectal cancer. A savings in medical care costs of +14,685 and a projected increase of 22 years in life expectancy was found.
CHẨN ĐOÁN HUYẾT TƯƠNG ĐƯỜNG ĐƯỜNG TRUNG TÂM THỰC NGHIỆM CỦA CHUỘT UNG THƯ TRUYỀN TRUYỀN TRUYỀN TRUYỀN TRUYỀN TRUYỀN TRUYỀN TRUYỀN TRUYỀN TRUYỀN TRUYỀ
A humoral gastrin potentiating mechanism was previously demonstrated in the upper intestine of cats. The present study was carried out on 10 cats with a gastric fistula (GF) and a Heidenhain pouch (HP). In five of the cats the duodenum and proximal jejunum were excluded as a Roux-en-Y loop, and the other cats were provided with an isolated jejunal Thirty-Vella loop. In the Roux-en-Y loop cats, a protein-rich oral meal augmented the maximal HP acid response to pentagastrin but not the pepsin response. Protein-rich food in the Thirty-Vella loop did not stimulate acid secretion, nor did it augment the maximal GF or HP acid response to pentagastrin. Previous and present results suggest that an unknown humoral gastrin-potentiating mechanism is activated by a protein-rich meal in the stomach and the duodenum but not in the jejunum. The mechanism potentiates pentagastrin-induced acid, but not pepsin, secretion.
Cơ chế tăng cường dịch vị dạ dày của mèo trước đây đã được chứng minh ở ruột trên. Nghiên cứu này được thực hiện trên 10 con mèo có rò dạ dày (GF) và túi Heidenhain (HP ). Năm con mèo có tá tràng và gần hậu môn được loại trừ như một vòng Roux-en-Y, và những con mèo khác được cung cấp một vòng 30Vella cách ly. Ở mèo vòng Roux-en-Y, một bữa ăn giàu protein làm tăng phản ứng axit HP tối đa đối với pentagastrin nhưng không làm tăng phản
The effect of a single instillation of acid and pepsin on the cell proliferation in the distal esophageal mucosa was investigated in four dogs. The doses of acid and pepsin used were lower than those provoking acute esophagitis and erosions. Using in vitro labeling with [3H]thymidine and autoradiography, the epithelial mitotic and DNA synthesis indices were determined at 0, 4, 8, 12, 16, 20, and 24 hr after instillation of saline, of, acid alone, or of acid with pepsin. Instillation of acid alone was followed, 16 hr later, by an increase (P less than 0.01) in DNA synthetic activity in the proliferative area. A mitotic peak (P less than 0.01) started from the 20th hour. After instillation of acid with pepsin in the same animals, a similar sequence of kinetic phenomena was observed, suggesting that the concentration of pepsin used did not potentiate the stimulating effect of acid on the cell proliferation in this epithelium. Our data indicate that hydrochloric acid stimulates the proliferative activity in the normal esophageal epithelium.
Nghiên cứu tác dụng của một lần trộn acid và pepsin lên sự tăng sinh tế bào ở phần xa niêm mạc thực quản trên 4 con chó. Liều dùng acid và pepsin thấp hơn liều gây viêm thực quản cấp và ăn mòn thực quản. Sử dụng in vitro dán nhãn với thymidine và autoradiography, các chỉ số tổng hợp DNA và biểu mô được xác định ở 0,4,8,12,16,20 và 24 giờ sau khi trộn dung dịch muối, acid đơn độc hoặc acid với pepsin. Sau 16 giờ,
Glucuronide and glutathione conjugation reactions were studied in rats with varying degrees of diet restriction over a period of 15 weeks. No significant change in the UDP glucuronyl transferase activity with para-nitrophenol and chloramphenicol was observed under both native state and stimulated conditions. On the other hand, there was a progressive decrease in the glutathione S transferase activity with bromosulphthalein and chlorodinitrobenzene. The decrease in the glutathione S transferase activity was more pronounced with chlorodinitrobenzene and was due more to the diminished apparent Vmax than to any change in the Km values. The results suggest that there might be an overall decrease in the conjugation reactions in food restriction.
Phản ứng liên hợp Glucuronide và glutathione được nghiên cứu trên chuột cống trắng với mức độ hạn chế ăn khác nhau trong 15 tuần. Không có sự thay đổi đáng kể hoạt tính của glutathione S transferase với para-nitrophenol và chloramphenicol trong cả hai điều kiện tự nhiên và kích thích. Mặt khác, có sự giảm dần hoạt tính của glutathione S transferase với bromosulphthalein và chlorodinitrobenzene. Sự giảm hoạt tính của glutathione S transferase rõ rệt hơn với chlorodinit
Tocainide is an orally active lidocaine analog indicated for the suppression of ventricular arrhythmias. It is electrophysiologically similar to lidocaine and produces minimal hemodynamic and electrocardiographic changes. Oral bioavailability is virtually complete, elimination half-life is 11-15 hours, and 40 percent of a dose is excreted unchanged in urine. Tocainide therapy is commonly associated with gastrointestinal and neurologic side effects that generally are well tolerated. Rash, aggravation of arrhythmias, and worsening of heart failure may also occur. While tocainide does not consistently suppress arrhythmias following myocardial infarction, it does control chronic ventricular arrhythmias, being particularly effective in patients responsive to lidocaine. Tocainide has not been shown to be more effective than quinidine or procainamide. Tocainide should be a useful agent in patients who are unable to tolerate other antiarrhythmics, who are responsive to lidocaine, or who have been troubled with Q-T prolongation with or without torsade de pointes.
Tocainide là một chất tương tự hoạt động bằng đường uống được chỉ định để ức chế rối loạn nhịp thất. Về mặt điện sinh lý, nó tương tự với lidocain và tạo ra những thay đổi tối thiểu về huyết động và điện tâm đồ. Sinh khả dụng đường uống hầu như hoàn toàn, thời gian bán thải là 11-15 giờ, và 40% liều được bài tiết không thay đổi qua nước tiểu. Liệu pháp Tocainide thường liên quan đến tác dụng phụ đường tiêu hóa và thần kinh thường được dung nạp tốt. Phát ban, nặng hơn rối loạn nhịp tim và suy
The effectiveness of short-term peri-operative prophylaxis with cefotaxim (Claforan) in gynaecological and obstetric operations was prospectively tested in 764 women (randomized by day of week). The incidence of postoperative infectious complications after vaginal or abdominal hysterectomy was significantly lower in the cefotaxim group than the control group. The rate was also clearly lower after laparotomy without hysterectomy and after abdominal section, but the differences were not statistically significant. In the patients with risk factors, i.e. obesity, cardiopulmonary disease or after laparotomy, which in the control group were correlated with a significantly higher rate of infectious complications, cefotaxim prophylaxis significantly reduced the rate of complications too. There were no side-effects from cefotaxim.
Hiệu quả dự phòng trong phẫu thuật phụ khoa và sản khoa ngắn hạn bằng cefotaxim (Claforan) được khảo sát trên 764 bệnh nhân (ngẫu nhiên theo ngày trong tuần ). Tỷ lệ biến chứng nhiễm khuẩn sau mổ sau cắt tử cung âm đạo hoặc bụng thấp hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm sử dụng cefotaxim so với nhóm chứng. Tỷ lệ biến chứng sau mổ mở bụng mà không cần cắt tử cung và sau mổ lấy thai cũng thấp hơn rõ rệt nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Ở những bệnh nhân có yếu tố nguy
Loss of nitroglycerin (NTG) from intravenous solutions to intravenous bags and administration sets has been well documented. This study was designed to examine a commercially available low adsorption administration set that was compatible with a volumetric infusion pump. A solution of NTG 100 micrograms/ml in dextrose 5% in glass bottles was used. Six study administration sets were tested. The infusion sets were connected to the NTG-containing glass bottles, filled as rapidly as possible, placed in the infusion pump, and set at the appropriate rate. Effluent was collected for NTG assay initially, and at 20 and 40 minutes, and 1, 1.5, 2, 3, 6, and 24 hours. The effects of flow rate were studied at 0.2 and 1.0 ml/min. The tubing performed similarly to other polyvinyl chloride (PVC)-containing sets at 0.2 ml/min and similar to non-PVC sets at 1.0 ml/min. The effect of an initial flush with 20-100 ml of 100 micrograms/ml NTG was also examined. An initial flush of 20 ml of 100 micrograms/ml NTG solution was found to enhance delivery of NTG immediately. NTG aliquots were stored frozen in glass vials prior to assay by high performance liquid chromatography.
Lượng nitroglycerin (NTG) từ dung dịch truyền tĩnh mạch được thu hồi về các túi và bộ quản lý truyền dịch đã được ghi chép đầy đủ. Nghiên cứu này được thiết kế để kiểm tra một bộ quản lý hấp phụ thấp có bán trên thị trường và tương thích với một máy bơm truyền thể tích. Dung dịch NTG 100 microgram/ml dextrose 5% đựng trong chai thủy tinh được sử dụng. Sáu bộ quản lý được thử nghiệm. Các bộ quản lý truyền dịch được kết nối với chai thủy tinh chứa NTG, được đổ đầy nhanh nhất có thể, đặt vào máy bơm truyền và được đặt ở tốc độ thích hợp. Nước thải được thu thập cho xét nghiệm NTG ban đầu, ở các thời điểm 20 và 40 phút, và 1,1,5,2,3,6 và 24 giờ. Hiệu quả của lưu lượng được nghiên cứu ở các thời điểm 0,2 và 1,0 ml/phút. Ống truyền được thực hiện tương tự như các bộ chứa polyvinyl clorua (PVC) khác ở các mức 0,2 ml/phút và tương tự như các bộ không chứa PVC ở mức 1,0 ml/phút. Hiệu quả của việc truyền 20-100 ml dung dịch NTG 100 microgam/ml cũng được kiểm tra. Việc truyền 20 ml dung dịch NTG 100 microgam/ml ban đầu được thực hiện để tăng khả năng truyền NTG ngay lập tức. Các lọ NTG được bảo quản đông lạnh trong lọ thủy tinh trước khi xét nghiệm bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao.
UNLABELLED Faecal excretion of bile acids was investigated using 75Se-homotaurocholic acid (75SeHCAT) in a total of 75 patients: 9 with irritable colon, 58 with Crohn's disease and 8 with small-bowel resection due to various indications but without Crohn's disease. Bile acid malabsorption, taken as a pathological bile acid retention of less than 19%, was found present in 43 patients with diseased terminal ileum or with more than 20 cm resection of this organ, except in one case (12 cm). On the other hand a normal bile acid retention (21 to 27%) was found in 29 of 72 patients (including 9 patients with irritable colon) who showed either no radiologically detectable lesion of the ileum (n = 21) or changes involving an extension of up to 30 cm (inflammation or resection) in the terminal ileum (n = 8), with the exception of one case (50 cm). Three patients had a raised bile acid excretion contrary to clinical expectation: they had colitis Crohn without radiologically detectable involvement of the small intestine. Thus using the 75SeHCAT-retention test it seems possible to recognize functional disorders in diseased segments of the bowel before the appearance of radiologically detectable changes. CONCLUSION 75SeHCAT is a suitable substance for investigations on the function of the lower small intestine.
Bài tiết acid mật không rõ ràng bằng 75Se-homotaurocholic acid (75SeHCAT) trên tổng số 75 bệnh nhân: 9 đại tràng kích ứng, 58 bệnh nhân Crohn và 8 bệnh nhân cắt đại tràng nhỏ do nhiều chỉ định khác nhau nhưng không có bệnh Crohn. Acid mật kém hấp thu, được xem là bệnh lý ứ đọng acid mật dưới 19 %, được tìm thấy ở 43 bệnh nhân bị bệnh lý hồi tràng hoặc cắt đại tràng dài trên 20 cm, ngoại trừ 1 trường hợp (12 cm ).
A cost-benefit evaluation of a clinical pharmacist-managed anticoagulation clinic (AC) was performed. Outpatient and hospital records were examined for 26 patients in the treatment group with an AC clinic and 26 patients in the control group. Therapeutic prothrombin times were maintained within the treatment group to a significantly greater extent than within the control group (p less than 0.001). The AC was successful in preventing hospitalizations resulting from hemorrhage or thromboembolism (p less than 0.01). The abnormal prothrombin times on admission in the control group correlated with hemorrhagic and thromboembolic admissions (p less than 0.05, p less than 0.005, respectively). Patients were hospitalized 3.22 days and .048 days per patient-treatment-year in the control and treatment groups, respectively. The net savings in reduced hospitalization costs per year in the treatment group was $211776. The benefit:cost ratio (B:C) was 6.55, suggesting the program is socially valuable. This clinical pharmacist-managed AC was effective in maintaining therapeutic prothrombin times, and reducing the incidence of hospitalization resulting from anticoagulation complications, and can be cost-justified based on a cost-benefit analysis.
Đánh giá chi phí-lợi ích của phòng khám chống đông do dược sĩ quản lý. Bệnh án ngoại trú và bệnh viện được khám cho 26 bệnh nhân ở nhóm điều trị tại phòng khám và 26 bệnh nhân ở nhóm chứng. Thời gian điều trị prothrombin ở nhóm điều trị được duy trì ở mức độ cao hơn đáng kể so với nhóm chứng (p < 0,001 ). Phòng khám chống đông thành công trong việc ngăn ngừa nhập viện do xuất huyết hoặc huyết khối (p < 0,01 ). Thời gian prothrombin bất thường khi nhập viện ở nhóm
Inherited deficiency of the 5th complement component (C5) was the cause of recurrent meningococcal meningitis in a woman aged 20 years. Familial investigations confirmed an autosomal co-dominant type of inheritance for the defect. Whereas additional loss of chemotaxis only exists with a genetic defect in C5 complement, bacteriolytic activity of serum is lacking in all genetic defects of the terminal complement components C5 to C8. An intact bacteriolysis, however, is necessary for resistance against Neisseria meningitidis and Neisseria gonorrhoeae. Neisseria infections, particularly recurrent meningococcal meningitis or disseminated gonococcal infections, suggest the presence of a congenital or acquired deficiency in one of the complement components C5 to C8.
Thiếu thành phần bổ thể 5 (C5) được thừa kế là nguyên nhân gây viêm màng não mô cầu tái phát ở phụ nữ 20 tuổi. Các nghiên cứu gia đình đã xác nhận một dạng di truyền đồng trội của nhiễm sắc thể thường (NST) đối với khuyết hổng. Trong khi mất thêm hóa trị chỉ tồn tại với một khiếm khuyết di truyền trong bổ thể C5, hoạt tính tiêu vi khuẩn huyết thanh thiếu trong tất cả các khiếm khuyết di truyền của các thành phần bổ thể cuối C5 đến C8. Tuy nhiên, cần phải có sự tiêu diệt vi khuẩn nguyên vẹn để đề
67 samples of 15 different tissues were obtained from 26 patients who were given an intravenous bolus dose of temocillin approximately 3 to 4 hours prior to surgery. 50 tissue samples were obtained from 19 patients who received 1g temocillin and 17 tissue samples were obtained from 7 patients who received 2g temocillin. The majority of tissue samples were removed 3 to 4 hours after administration of the drug and, at this time, group mean serum concentrations were 53.5 mg/L (1g doses) and 117.3 mg/L (2g doses). Mean tissue concentrations of 8 to 10 mg/kg were seen in muscle, liver and skin samples after 1g doses, and 18, 34 and 9 mg/kg, respectively, after 2g doses. Temocillin concentrations seen in the gallbladder were considerably higher than those in other tissues.
67 mẫu của 15 mô khác nhau thu được từ 26 bệnh nhân được tiêm temocillin đường tĩnh mạch trước phẫu thuật 3-4 giờ. 50 mẫu mô thu được từ 19 bệnh nhân tiêm temocillin 1g và 17 mẫu mô thu được từ 7 bệnh nhân tiêm temocillin 2g. Phần lớn các mẫu mô được lấy sau 3-4 giờ sau khi tiêm thuốc, tại thời điểm này nồng độ trung bình trong huyết thanh nhóm là 53,5 mg/L (liều 1g) và 117,3 mg/L (liều 2g ). Nồng độ trung bình 8-10 mg/kg ở các mẫu cơ, gan và da sau khi tiêm 1g, và 18,34 và 9 mg/kg tương ứng sau khi tiêm 2g. Nồng độ temocillin trong túi mật cao hơn đáng kể so với các mô khác.
During 1980-1984, 51 patients with enteric fever (typhoid/paratyphoid fever and salmonellosis) biliary tract sepsis, and other Gram-negative infections were treated with temocillin at 3 medical centres in Bangkok, Thailand. This article summarises the results in the 42 evaluable patients (14 males, 28 females); 10 patients with enteric fever, 2 patients with salmonellosis; 12 patients with biliary tract sepsis, and 18 patients with other Gram-negative infections. Overall, 86% of the patients were clinically cured or improved. Bacteriological eradication or marked reduction in the number of organisms was achieved in 95% of the patients. In 10 cases of enteric fever and 2 cases of salmonellosis all bacterial pathogens were eradicated, but 1 case of Salmonella paratyphi infection failed clinically. Eleven of 12 biliary tract infections were clinically cured or improved, and organisms were eliminated from all 10 bacteriologically assessable patients. The majority of patients received 1 to 2g of temocillin given by intravenous infusion twice daily for 5 to 14 days. Temocillin was well tolerated by all patients.
Trong thời gian 1980-1984,51 bệnh nhân nhiễm khuẩn đường mật do sốt tiêu hóa (typhoid/paratyphoid và nhiễm khuẩn salmonella) và các nhiễm khuẩn Gram âm khác đã được điều trị bằng temocillin tại 3 trung tâm y tế ở Bangkok, Thái Lan. Bài báo này tóm tắt kết quả trên 42 bệnh nhân có chẩn đoán nhiễm khuẩn đường mật (14 nam, 28 nữ); 10 bệnh nhân nhiễm khuẩn đường ruột, 2 bệnh nhân nhiễm khuẩn salmonella; 12 bệnh nhân nhiễm khuẩn đường mật và 18
The antibacterial interactions of temocillin with other beta-lactam antibiotics were tested by the checkerboard combination method in Mueller-Hinton agar against 146 strains of Enterobacteriaceae, 35 Pseudomonas aeruginosa strains, and 35 Staphylococcus aureus strains. Most combinations showed either a moderate degree of synergism or indifference. Strains showing occasional antagonism at a particular proportion of concentrations of the test combination, were found to only be indifferent when the mean index of the fractional inhibition concentration of all checkerboard combinations was calculated.
Tương tác kháng khuẩn của temocillin với các kháng sinh nhóm beta-lactam khác được thử nghiệm bằng phương pháp kết hợp bàn cờ trên môi trường thạch Mueller-Hinton với 146 chủng Enterobacteriaceae, 35 chủng Pseudomonas aeruginosa và 35 chủng Staphylococcus aureus. Hầu hết các kết hợp đều cho thấy mức độ hiệp đồng hoặc không hiệp đồng. Các chủng có sự đối kháng không thường xuyên ở một tỷ lệ nồng độ cụ thể của kết hợp bàn cờ chỉ khác biệt khi tính chỉ số trung bình nồng độ ức chế
The essential requirement for effective treatment of Paget's disease of bone is that the characteristic abnormality of bone remodelling is predictably corrected without the occurrence of significant side effects. Although the ideal agent is not currently available, appropriate use of the calcitonins or diphosphonates goes a long way to achieving this goal. Calcitonin (50 to 100 MRC units subcutaneously daily or 3 times weekly) will generally reduce bone turnover by approximately 50% within 6 months. However, very active disease will not be controlled and bone turnover will generally increase once treatment is withdrawn. Calcitonin is without significant side effects, although some patients will develop antibody-mediated resistance to the exogenous calcitonin species. An advantage of calcitonin is that there is radiographic evidence of a return to normal bone remodeling during treatment. Although a number of diphosphonates (now more correctly termed bisphosphonates) are available for experimental use, only the first generation compound, disodium etidronate (EHDP) is commercially available. It too will reduce bone turnover by about 50% within 6 months when given in a dose of 5 mg/kg daily. Unlike calcitonin, it results in a more sustained control of bone turnover while having the additional advantage that it can be given by mouth. Although larger doses are more effective in controlling very active disease, there is a real risk of causing defective bone mineralisation which may result in the development of atraumatic long bone fractures or diffuse bone pains. Combinations of calcitonin and disodium etidronate in conventional dosage seem to result in an additive suppressant effect on bone turnover and may be indicated for more active disease. Advances in treatment are progressing rapidly and it seems likely that in the next few years the introduction of new agents for the control of Paget's disease will more nearly approach the ideal goal of treatment.
Điều kiện thiết yếu để điều trị hiệu quả bệnh xương khớp Paget là những bất thường đặc trưng của việc tạo hình lại xương có thể được dự đoán trước mà không xảy ra các tác dụng phụ đáng kể. Mặc dù chưa có thuốc lý tưởng, việc sử dụng calcitonin hoặc diphosphonates thích hợp là một chặng đường dài để đạt được mục tiêu này. Calcitonin (50 đến 100 đơn vị MRC tiêm dưới da hàng ngày hoặc 3 lần mỗi tuần) thường sẽ làm giảm sự luân chuyển xương khoảng 50% trong vòng 6 tháng. Tuy nhiên, bệnh rất tích cực sẽ không được kiểm soát và sự luân chuyển xương nói chung sẽ tăng lên khi rút khỏi điều trị. Calcitonin không có tác dụng phụ đáng kể, mặc dù một số bệnh nhân sẽ phát triển kháng thể kháng các loài calcitonin ngoại sinh. Một lợi thế của calcitonin là có bằng chứng X quang cho thấy sự tái tạo xương bình thường trong quá trình điều trị. Mặc dù có sẵn một số diphosphonates (bisphosphonates) được sử dụng trong thực nghiệm, nhưng chỉ có hợp chất thế hệ đầu tiên, disodium etidronate (EHDP) được thương mại hóa. Nó cũng sẽ làm giảm sự luân chuyển xương khoảng 50% trong vòng 6 tháng khi dùng với liều 5 mg/kg/ngày. Không giống calcitonin, nó giúp kiểm soát sự luân chuyển xương bền vững hơn trong khi có thêm lợi thế là có thể dùng đường uống. Mặc dù liều lớn hơn có hiệu quả hơn trong việc kiểm soát bệnh rất tích cực, nhưng có nguy cơ thực sự gây ra sự khoáng hóa xương kém có thể dẫn đến gãy xương dài do chấn thương hoặc đau lan tỏa. Sự kết hợp của calcitonin và disodium etidronate trong liều thông thường dường như dẫn đến tác dụng ức chế sự luân chuyển xương và có thể được chỉ định cho bệnh tích cực hơn. Những tiến bộ trong điều trị đang tiến triển nhanh chóng và có vẻ như trong vài năm tới việc giới thiệu các thuốc mới để kiểm soát bệnh Paget sẽ gần đạt được mục tiêu điều trị lý tưởng hơn.
73 (34%) of 213 inborn, long term survivors with a birthweight less than 1500 g showed characteristics of Attention Deficit Disorder (ADD) during psychological testing at 2 years of age corrected for prematurity. Agreement on the diagnosis of ADD made by the paediatrician and psychologist in separate examinations was statistically significant. Children with ADD differed from those with normal behaviour on a large number of neonatal variables which were reduced to the following five on stepwise discriminant function analysis: necrotizing enterocolitis, bronchopulmonary dysplasia, major apnoeas requiring bag and mask resuscitation, duration of feeding on intravenous fat and weight percentile at discharge. These neonatal variables correctly classified 69% of children into their actual behaviour group at 2 years. On psychological testing, children with ADD had a significantly lower mental score on the Bayley Scales of Infant Development and were found on their paediatric/neurological examination at 2 years to have a significantly smaller head circumference, more tone disorders, poorer visual tracking and visual motor co-ordination, poorer gross and fine motor co-ordination and significantly more minor physical and neurological disabilities than normally behaved children. The behaviour of very low birthweight infants during formal psychological testing at 2 years is a potent indicator of past neonatal experience and current neurodevelopmental status.
73 (34% ) trong số 213 trẻ sơ sinh, trẻ sống sót lâu dài với cân nặng lúc sinh dưới 1500g cho thấy các đặc điểm của rối loạn giảm chú ý (ADD) trong quá trình khảo sát tâm lý ở trẻ 2 tuổi đã điều chỉnh được tình trạng sinh non. Sự thống nhất về chẩn đoán ADD của bác sĩ nhi khoa và nhà tâm lý học trong các lần khảo sát riêng biệt có ý nghĩa thống kê. Trẻ bị ADD khác với trẻ có hành vi bình thường ở một số lượng lớn các biến số sơ sinh được giảm
A total of 29 human adipose tissue samples from autopsies of nonaccidental death victims from across Canada were analyzed for polychlorinated biphenyls and organochlorine pesticides. The residue levels of nonaccidental death victims were compared to those obtained earlier for samples of accidental death victims, collected during the same time period. A statistically significant difference was observed for hexachloro-1,3-butadiene (P less than 0.005) between the two sampling procedures. No statistically significant differences were found for other residues, although residue levels of hexachlorobenzene and p,p'-DDE were numerically higher in nonaccident than accident victims. Samples of nonaccidental deaths were subdivided into "sudden" and "other" death groups. Residue levels according to sex were statistically not related to the cause of death, although numerically the average p,p'-DDE level in male adipose tissue was higher in the "other" than "sudden" death group. The average p,p'-DDT levels in female adipose tissue of nonaccident victims were numerically at least twice those of accident victims, but were not statistically different.
29 mẫu mô mỡ người từ các ca khám nghiệm tử vong không do tai nạn trên khắp Canada được phân tích các chất diệt côn trùng polyclobiphenyl và clo hữu cơ. Nồng độ tồn dư của các mẫu mô tử vong không do tai nạn được so sánh với nồng độ tồn dư của các mẫu mô tử vong do tai nạn thu thập trong cùng thời gian. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê đối với các chất tồn dư hexachloro-1,3-butadiene (P < 0,005) giữa hai quy trình lấy mẫu. Không có sự khác
Pirenzepine is a 'selective' antimuscarinic agent which, unlike classic anticholinergic agents, inhibits gastric acid secretion at lower doses than are required to affect gastrointestinal motility, salivary, central nervous system, cardiovascular, ocular and urinary functions. On a weight basis, pirenzepine has one-tenth to one-eighth the potency of atropine in inhibiting stimulated gastric acid secretion in humans. Extensive controlled trials utilising endoscopy in outpatients with duodenal ulcers indicate that patient response to pirenzepine is dose related. Doses of 100 to 150 mg/day are superior to placebo in promoting duodenal ulcer healing and in diminishing day and night pain and supplementary antacid consumption. At such doses, the efficacy of pirenzepine appears to be superior to that of gefarnate 300 mg/day and generally not significantly different from that of cimetidine 1 g/day in treating duodenal ulcers. A beneficial effect of pirenzepine in the prevention of duodenal ulcer recurrence was apparent in preliminary studies in small numbers of patients, but its efficacy in this regard needs further confirmation and the optimum dosage determined. Less extensive data on the treatment of benign gastric ulcers suggest that pirenzepine 100 to 150 mg/day is superior to placebo and gefarnate 300 mg/day and does not differ significantly from cimetidine 1 g/day promoting gastric ulcer healing. Pirenzepine is well tolerated by most patients, with a low incidence of typical antimuscarinic effects on the gastrointestinal tract, genitourinary system or heart being reported in clinical studies. However, dry mouth and blurred vision are the more common side effects with clinically effective doses. Thus, pirenzepine appears to have relatively selective antimuscarinic activity, although controlled studies comparing pirenzepine and conventional antimuscarinics in patients with peptic ulcer disease have not been reported.
Pirenzepine là một thuốc kháng muscarinic " chọn lọc ", không giống như các thuốc kháng cholinergic kinh điển, nó ức chế tiết acid dạ dày ở liều thấp hơn mức cần thiết để tác động đến nhu động đường tiêu hóa, nước bọt, hệ thần kinh trung ương, tim mạch, mắt và tiết niệu. Về cân nặng, pirenzepine có hiệu lực gấp 1/10 đến 1/8 lần so với atropin trong ức chế tiết acid dạ dày kích thích ở người. Thử nghiệm mở rộng có kiểm soát sử dụng nội soi với loét tá tràng cho thấy đáp ứng của bệnh nhân với pirenzepine có liên quan đến liều. Liều 100 đến 150 mg/ngày vượt trội so với giả dược và gefarnate 300 mg/ngày và nói chung không khác biệt đáng kể so với cimetidine 1 g/ngày trong điều trị loét tá tràng. Pirenzepine được sử dụng trong dự phòng loét tá tràng tái phát đã được báo cáo trong các nghiên cứu ban đầu ở một số ít bệnh nhân, nhưng hiệu quả của nó về mặt này cần được xác nhận thêm và liều tối ưu được xác định. Các dữ liệu ít rộng hơn về điều trị loét dạ dày lành tính cho thấy pirenzepine 100 đến 150 mg/ngày vượt trội so với giả dược và gefarnate 300 mg/ngày và không khác biệt đáng kể so với cimetidine 1 g/ngày trong việc thúc đẩy vết loét lành. Pirenzepine được dung nạp tốt ở hầu hết các bệnh nhân, với tỷ lệ tác dụng kháng muscarinic điển hình thấp trên đường tiêu hóa, hệ sinh dục hoặc tim được báo cáo trong các nghiên cứu lâm sàng. Tuy nhiên, khô miệng và mờ mắt là những tác dụng phụ thường gặp hơn với liều hiệu quả lâm sàng. Như vậy, pirenzepine dường như có hoạt tính kháng muscarinic tương đối chọn lọc, mặc dù các nghiên cứu có kiểm soát so sánh pirenzepine và thuốc kháng muscarin thông thường ở bệnh nhân loét dạ dày chưa được báo cáo.
Twenty-nine compounds, including amino and nitro derivatives of aromatic hydrocarbons as well as azaarenes and indole analogs, were assayed. The biological activity was monitored as population growth to axenic cultures of the ciliate Tetrahymena pyriformis. Structure-activity relationships were examined by linear regression analysis of log biological activity (Y) and log 1-octanol/water partition coefficient (X). Partition coefficients were determined by linear regression analysis of the retention time index of HPLC data. Attempts to generate linear predictive correlations for all the test compounds (n = 29; r2 = 0.325; P greater than 0.0013) and groups, subdivided based on the following chemical classes: aromatic hydrocarbons (n = 13; r2 = 0.122; P greater than 0.2417), azaarenes (n = 9; r2 = 0.348; P greater than 0.0946) and indole analogs (n = 7; r2 = 0.743; P greater than 0.0126), met with little success. Similarly, subdivisions based on the presence of a single (n = 14; r2 = 0.514; P greater than 0.0039) or multiple H-polar groups, i.e., NO2, NH2 (n = 15; r2 = 0.195; P greater than 0.0996), met with little success also. However, if one segregates the compounds which have para oriented H-polar substituents one gets a strong linear predictive correlation (n = 11; r2 = 0.889; P greater than 0.0001). A subdivision of the remaining data set leads to two models (n = 11; r2 = 0.845; P greater than 0.0001) and (n = 7; r2 = 0.965; P greater than 0.0001). An examination of the toxicity partitioning product values suggests the three-line predictive correlation model of these data is valid.
29 hợp chất, bao gồm dẫn xuất amino và nitro của các hydrocacbon thơm cũng như azaarenes và indole tương tự, đã được khảo sát. Hoạt tính sinh học được theo dõi khi tăng trưởng dân số theo nuôi cấy sợi trục của Tetrahymena pyriformis. Mối quan hệ hoạt tính cấu trúc được khảo sát bằng phân tích hồi quy tuyến tính của hoạt tính sinh học log (Y) và hệ số phân chia nước log 1-octanol (X).
Twenty-two four-position derivatives of pyridine (C5H5N) were tested following an acute static regime with biological response being monitored as population growth of Tetrahymena pyriformis. The vinyl derivative was the most active and the hydroxy derivative was the least active. Structure-activity relationships were examined using substituent constants as molecular descriptors. Size/shape parameters and hydrophobic/hydrophilic parameters were found to be more important descriptors than electronic parameters. Following the deletion of the outliers, 4-vinylpyridine and 4-nitropyridine, molar refractivity was found to be the best single descriptor explaining 62.5% of the variability in biological response. Based on highest adjusted r2 value the best model is log BR = 0.0055 (MR) - 0.3699 (Ha) - 1.0124, r2 = 0.709 (BR, biological response; MR, molar refractivity; Ha, hydrogen acceptance). Models using Pi (hydrophobic substituent constant) as the descriptor and comparisons with previously assayed naphthalenes are discussed.
22 dẫn chất pyridin (C5H5N) 4 vị trí được thử nghiệm theo chế độ tĩnh cấp với phản ứng sinh học được theo dõi khi tăng trưởng dân số của Tetrahymena pyriformis. Dẫn chất vinyl hoạt động mạnh nhất và dẫn chất hydroxy hoạt động kém nhất. Các mối quan hệ hoạt tính cấu trúc được khảo sát bằng các hằng số nhóm thế làm mô tả phân tử. Các thông số kích thước/hình dạng và các thông số kỵ nước/hấp nước là các mô tả quan trọng hơn các thông số điện tử. Sau khi loại bỏ các
This paper offers a quantitative evaluation of the scientific information produced in Brazil on several endemic diseases: Chagas' disease, schistosomiasis, leishmaniasis, leprosy, malaria and filariasis. The source of data was the Index Medicus Latino Americano (IMLA), and the published scientific information was analyzed in general and specifically, by type of disease and year of publication. The indexed production of articles on the material of the Latin American countries as a whole increased from 3,506 articles in 1978 to 5,528 in 1982 (for an increase of 52.7%), whereas that of Brazil alone rose from 1,781 to 2,531 (an increase of 42.1%) during the same period. The output of articles on endemic diseases totaled 703 papers (6.3% of the total indexed production). Of this total, 441 (62.7%) was on applied research and 262 (37.3%) were on basic research, and these proportions held relatively constant. Chagas' disease and schistosomiasis accounted for 75.2% of that total over the period considered. The production of papers on the diseases of interest grew 79.2%, at the same rate as that of all biomedical information published in Brazil over the period. An equilibrium was reached between the numbers of basic and applied papers. The analysis also identified the core of Brazilian periodicals that most frequently publish information on those endemics. It was also found that a large proportion of articles by Brazilian authors are published in journals of international circulation, and the foreign journals that publish papers by researchers in Brazil were identified.
Bài báo này đánh giá định lượng thông tin khoa học của Brazil về một số bệnh đặc hữu: Bệnh Chagas, sán máng, leishmaniasis, phong, sốt rét và giun chỉ. Nguồn số liệu là Index Medicus Latino Americano (IMLA) và các thông tin khoa học được công bố được phân tích tổng quát và cụ thể theo loại bệnh và năm xuất bản. Tổng số bài viết về các bệnh đặc hữu của các nước Mỹ Latinh tăng từ 3.506 bài năm 1978 lên 5.528 bài năm 1982 (tăng 52,7% ), trong khi đó riêng Brazil tăng từ 1.781 bài lên 2.531 bài (tăng 42,1% ) trong cùng thời kỳ. Tổng số bài viết về các bệnh đặc hữu đạt 703 bài (6,3% tổng số bài viết được công bố) trong đó 441 bài (62,7% ) là nghiên cứu ứng dụng và 262 bài (37,3% ) là nghiên cứu cơ bản, và tỷ lệ này không đổi. Trong thời kỳ được xem xét, bệnh Chagas và sán máng chiếm 75,2% tổng số bài viết. Tổng số bài viết về các bệnh được quan tâm tăng 79,2 %, bằng với tổng số bài viết y sinh được công bố tại Brazil trong cùng thời kỳ. Kết quả đã đạt được sự cân bằng giữa số bài viết cơ bản và số bài viết ứng dụng. Bài phân tích cũng xác định được các tạp chí thường xuyên công bố thông tin về các bệnh đặc hữu này. Một tỷ lệ lớn các bài viết của các tác giả Brazil được xuất bản trên các tạp chí lưu hành quốc tế, và các tạp chí nước ngoài xuất bản bài viết của các nhà nghiên cứu tại Brazil cũng được xác định.
We have demonstrated that 17 beta-estradiol (E2) administered to monkeys for 24 or 48 h from day 6 of the menstrual cycle results consistently in degeneration of the preovulatory follicle. The present experiments were conducted to determine the strength-duration characteristics of this effect and to evaluate the occurrence of partial atresia together with subsequent effects on luteal function. Square wave increments in circulating amounts of estrogen were achieved by varying the number and size of Silastic capsules containing E2. Treatments included 0.5, 1, 2, 4, or 10 capsules placed sc for 6, 12, or 24 h. Forty-six menstrual cycles were studied in 33 animals. Increments in serum concentrations of estrogen approximating 300-400 pg/ml and sustained for 24 h or those greater than 600 pg/ml for only 6 h were maximally effective, while 300-400 pg/ml for 12 h or 100 pg/ml for 24 h were almost as effective. Increments less than about 60 pg/ml were essentially ineffective in inducing atresia. After induced atresia, follicular phases were extended by about 8 days, permitting a substitute follicle to develop. Partial atresia, represented by delayed ovulation of the original follicle, was noted in only three cycles. However, another apparent effect of estrogen on follicular development was evident in the form of luteal phase defects which occurred with high incidence in all groups, whether the corpus luteum resulted from the original or substitute follicle. Thus, full atresia induced by estrogen is largely an all or none phenomenon, but lesser effects may be manifested as deficient luteal function. This atretogenic effect of estrogen may be exerted at the ovarian level or may be mediated by the transient suppression of FSH. On the other hand, increases in FSH after treatment may stimulate development of a substitute follicle or maintain follicles not undergoing full atresia.
Chúng tôi đã chứng minh rằng 17 viên beta-estradiol (E2) dùng cho khỉ trong 24 hoặc 48 giờ từ ngày thứ 6 của chu kỳ kinh nguyệt có tác dụng ổn định nang noãn trước rụng. Các thử nghiệm được tiến hành nhằm xác định đặc điểm về độ bền-thời gian tác dụng và đánh giá sự xuất hiện của rụng từng phần nang cùng với các tác động tiếp theo lên chức năng hoàng thể. Sự gia tăng sóng vuông của lượng estrogen lưu thông đạt được bằng cách thay đổi số lượng và kích thước viên nang silicastic chứa E2. Các phương pháp điều trị bao gồm 0,5,1,2,4, hoặc 10 viên nang đặt sc cho 6,12, hoặc 24 giờ. 33 con khỉ được nghiên cứu chu kỳ kinh nguyệt. Gia tăng nồng độ estrogen trong huyết thanh đạt xấp xỉ 300-400 pg/ml và duy trì trong 24 giờ hoặc cao hơn 600 pg/ml trong 6 giờ cũng đạt hiệu quả tối đa, trong khi đó gia tăng nồng độ estrogen 300-400 pg/ml trong 12 giờ hoặc 100 pg/ml trong 24 giờ cũng đạt hiệu quả tương tự. Gia tăng nồng độ dưới 60 pg/ml về cơ bản là không có hiệu quả trong việc gây rụng trứng. Sau khi gây rụng trứng, các giai đoạn nang trứng được kéo dài thêm khoảng 8 ngày, cho phép nang trứng thay thế phát triển. Rụng trứng một phần do estrogen chủ yếu là do rụng trứng muộn nang trứng ban đầu, chỉ được ghi nhận trong ba chu kỳ. Tuy nhiên, một tác dụng rõ ràng khác của estrogen lên sự phát triển nang trứng là khiếm khuyết giai đoạn hoàng thể xảy ra với tỷ lệ mắc cao ở tất cả các nhóm, cho dù hoàng thể là kết quả của rụng trứng ban đầu hay do nang trứng thay thế. Như vậy, rụng trứng hoàn toàn do estrogen phần lớn là hiện tượng có hay không có, nhưng ít có thể biểu hiện là suy chức năng hoàng thể. Tác dụng gây rụng trứng này của estrogen có thể được thực hiện ở mức độ buồng trứng hoặc qua trung gian là ức chế thoáng qua FSH. Mặt khác, tăng FSH sau điều trị có thể kích thích nang trứng thay thế hoặc duy trì nang trứng không rụng hoàn toàn.
We have recently reported on the isolation and characterization of the predominant protein of canine prostatic fluid and the subsequent identification of this protein as a proteolytic enzyme. In this report, we described the preparation and characterization of a rabbit antiserum against this secretory protease which was purified from canine prostatic fluid by preparative sodium dodecyl sulfate-polyacrylamide gel electrophoresis. Specificity of the antiserum has been established by immunoblot analysis and immunoprecipitation of the secretory protease present in canine prostatic fluid and tissue homogenates. The antiserum was used to localize (by immunofluorescence) and quantitate (by single radial immunodiffusion) the secretory protease in prostatic tissue obtained from intact and castrated dogs. These analyses can be summarized as follows: the secretory protease is strictly localized in the apical portions of the columnar epithelial cells in prostates of intact dogs, where it comprises almost 60% of the total Triton X-100-soluble protein; and the level of secretory protease decreases at least 500-fold in prostates of castrated dogs, demonstrating the androgen-dependent nature of this enzyme. Proteins immunologically related to the secretory protease were detected at low levels in the pancreas and salivary glands of the dog. Such proteins were not detectable in canine liver, kidney, vas deferens, testis, epididymis, lung, spleen, skin, small intestine, or sartorius muscle, suggesting a high degree of prostatic specificity for the secretory protease. These results demonstrate that the canine prostate is highly specialized with respect to its androgen-dependent synthesis and secretion of this secretory protease and that the antiserum specific for this protein can be used to assess canine prostatic function under varying hormonal conditions.
Gần đây chúng tôi đã báo cáo về sự phân lập và đặc tính của protein tiết protease chủ yếu ở dịch tuyến tiền liệt và sau đó đã xác định protein này là một enzyme phân giải protein. Trong báo cáo này, chúng tôi mô tả quá trình chuẩn bị và đặc tính của kháng huyết thanh thỏ chống lại protease tiết này được tinh sạch từ dịch tuyến tiền liệt bằng phương pháp điện di gel natri dodecyl sulfate-polyacrylamide. Tính đặc hiệu của kháng huyết thanh thỏ đã được xác định bằng phân tích immunoblot và tiêm chủng miễn dịch của protease tiết có trong dịch tuyến tiền liệt và các chất đồng nhất mô. Kháng huyết thanh được sử dụng để định vị (bằng immunofluorescence) và định lượng (bằng immunodiffusion single radial) protease trong mô tuyến tiền liệt thu được từ các con chó bị thiến và bị tiêu xương. Các phân tích này có thể được tóm tắt như sau: protease tiết được định vị chặt chẽ ở các phần đỉnh của các tế bào biểu mô cột ở tuyến tiền liệt của những con chó nguyên vẹn, trong đó nó chiếm gần 60% tổng lượng protein hòa tan Triton X-100; và mức độ của protease tiết giảm ít nhất 500 lần ở tuyến tiền liệt của những con chó bị thiến, chứng tỏ bản chất phụ thuộc androgen của enzyme này. Protein liên quan đến miễn dịch với protease tiết được phát hiện ở mức thấp ở tuyến tụy và tuyến nước bọt của chó. Những protein này không thể phát hiện được ở gan, thận, ống dẫn tinh, tinh hoàn, mào tinh hoàn, phổi, lá lách, da, ruột non, hoặc cơ sartorius, cho thấy mức độ đặc hiệu tuyến tiền liệt cao đối với protease tiết. Kết quả này cho thấy tuyến tiền liệt của chó có tính chuyên biệt cao về sự tổng hợp và bài tiết phụ thuộc androgen của protease tiết và kháng huyết thanh đặc hiệu cho protein này có thể được sử dụng để đánh giá chức năng tuyến tiền liệt trong các điều kiện nội tiết tố khác nhau.
Rat placentas from fetuses of 18 and 20 days of gestation were collected, extracted, and examined for their capacity to stimulate GH release in vitro. The crude extract stimulated, in a dose-dependent fashion, GH release by rat anterior pituitary cells in monolayer culture. The biological and immunological activities retained on antirat GH-releasing factor immunoaffinity columns eluted on Sephadex G-75 (fine) columns with an estimated mol wt of 5000 daltons. Reverse phase HPLC of this material revealed the presence of two forms of GRF activity that eluted with retention times identical to those of synthetic rat GRF and its methionine sulfoxide counterpart [Met(O)27]GRF. The results demonstrate the presence of an immunoreactive and biologically active GRF in the rat placenta that is indistinguishable from rat hypothalamic GRF.
Các nhau thai chuột từ thai 18 và 20 ngày tuổi được thu thập, chiết tách và kiểm tra khả năng kích thích giải phóng GH in vitro. Cao chiết nguyên khai này đã kích thích giải phóng GH bằng cách phụ thuộc liều vào tế bào tuyến yên trước của chuột trong nuôi cấy đơn lớp. Hoạt tính sinh học và miễn dịch giữ lại trên các cột ái lực phóng thích GH antirat được rửa sạch trên cột Sephadex G-75 (tốt) với wt mol ước tính là 5000 dalton. HPLC pha đảo của vật
Prepubertal (16 weeks old) ram lambs were used to investigate the effects of hyperthyroidism and hypothyroidism on development of reproductive endocrine function. Over a period of 8 weeks, ram lambs were made hypothyroid (serum T4 less than or equal to 3 ng/ml compared with controls congruent to 30 ng/ml) by daily oral administration of methyl thiouracil or hyperthyroid (serum T4 congruent to 135 ng/ml) by daily sc injection of T4. Hyperthyroidism was associated with decreases in LH pulse frequency (2.25 +/- 0.75/12 h compared with controls 5.75 +/- 0.48/12 h), basal LH, and mean LH concentrations, together with arrested testicular growth and aspermatogenesis. Hypothyroid rams showed normal pubertal development. After iv injection of LHRH, hyperthyroid ram lambs showed similar LH responses to control and hypothyroid rams. Basal testosterone production (5.6 +/- 1.0 ng/min) and plasma testosterone concentrations after human CG (2.0 +/- 0.7 ng/ml) in hyperthyroid rams were significantly lower than in controls (67.5 +/- 24.0 ng/min and 5.2 +/- 1.0 ng/ml, respectively). It is concluded that retarded testicular development in hyperthyroid ram lambs results from changes in hypothalamo-pituitary activity manifested in a decreased LH pulse frequency.
Cừu đực non 16 tuần tuổi được sử dụng để khảo sát ảnh hưởng của cường giáp và suy giáp lên sự phát triển chức năng nội tiết sinh sản. Trong thời gian 8 tuần, cừu đực bị suy giáp (huyết thanh T4 nhỏ hơn hoặc bằng 3 ng/ml so với nhóm chứng đồng dạng 30 ng/ml) bằng cách uống methyl thiouracil hoặc cừu đực non (huyết thanh T4 đồng dạng 135 ng/ml) bằng cách tiêm sc4 hàng ngày. Cường giáp có liên quan với sự giảm tần số mạch LH (2,25 +/
[3H]Guanidinoethylmercaptosuccinic acid (GEMSA) autoradiography demonstrates the particulate form of a carboxypeptidase B-like peptide processing enzyme, enkephalin convertase (EC 3.4.17.10), in the rat pituitary and adrenal glands. The maximal number of binding sites (Bmax) for [3H]GEMSA is 20 pmol/mg protein in the intermediate lobe of the pituitary, 12.0 pmol/mg protein in the posterior pituitary lobe, 15 pmol/mg protein in the anterior pituitary lobe, 5.8 pmol/mg protein in the adrenal medulla, and less than 0.3 pmol/mg protein in the adrenal cortex. The labeling pattern is homogeneous within each of these regions. Subcellular fractionation of the bovine adrenal medulla demonstrates that [3H] GEMSA-binding sites are localized to chromaffin granules. In Brattleboro rats and dehydrated rats, the level of posterior pituitary [3H]GEMSA binding is less than 25% of that in control animals. This decrease is abolished by arginine vasopressin treatment of Brattleboro rats or rehydration of dehydrated rats. There are no changes in [3H] GEMSA binding in the supraoptic nucleus or magnocellular portion of the paraventricular nucleus of the hypothalamus under any of these conditions, suggesting that the alterations observed in the neurohypophysis result from an increased rate of loss of enkephalin convertase. The level of anterior pituitary enkephalin convertase is unchanged by dehydration, adrenalectomy, or dexamethasone or in Brattleboro rats. [3H]GEMSA labeling in the intermediate pituitary lobe is unaffected by dehydration and haloperidol treatment and in Brattleboro rats. The adrenal medullary enzyme is not altered by reserpine, hypophysectomy, or splanchnic denervation or in Brattleboro rats.
[3H] Phương pháp ghi nhãn GEMSA trên chuột cống trắng cho thấy dạng hạt của enzyme xử lý peptide giống carboxypeptidase B, enkephalin convertase (EC 3.4.17.10) ở tuyến yên và tuyến thượng thận. Số lượng vị trí gắn kết tối đa (Bmax) đối với GEMSA là 20 pmol/mg protein ở thùy trung gian của tuyến yên, 12,0 pmol/mg protein ở thùy sau, 15 pmol/mg protein ở thùy trước, 5,8 pm