question
stringlengths
31
360
answer
stringlengths
0
39.1k
Quan điểm của viện kiểm sát Bản án số: 37/2023/DS-PT Ngày: 09-02-2023 V/v “Tranh chấp về quyền đòi lại tài sản”
Nhận định của hội đồng xét xử Bản án số: 37/2023/DS-PT Ngày: 09-02-2023 V/v “Tranh chấp về quyền đòi lại tài sản”
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN: [1] Đơn kháng cáo của ông Võ Hoàng P và bà Trần Ngọc M được làm đúng theo quy định tại các điều 272, 273 và 276 Bộ luật Tố tụng Dân sự nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm. [2] Xét yêu cầu khởi kiện của ông Đ yêu cầu ông P và bà M trả tổng cộng 109.146.666 đồng gồm 100.000.000 đồng tiền gốc và 9.146.666 đồng tiền lãi, thấy rằng: [3] Theo các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa phúc thẩm, có căn cứ xác định như sau: Ông Đ là người mua lúa của các hộ dân, ông P là người được ông Đ giao tiền đặt cọc và tiền để trả cho các hộ dân bán lúa. Ông P là người trực tiếp thanh toán tiền mua lúa với các hộ dân và được hưởng tiền huê hồng trên đầu tấn từ ông Đ (20.000 đồng/1tấn lúa), thỏa thuận này đã được ông Đ và ông P thực hiện trong một thời gian dài khoảng 6 đến 7 năm. [4] Tại Biên bản ghi lời khai ngày 05-10-2021 (bút lục số 113) ông Đ trình báo về việc bị ông P chiếm đoạt tài sản với số tiền 100.000.000 đồng tiền mua lúa do ông Đ giao nhầm cho ông P. Nhưng khi khởi kiện vụ án dân sự, ông Đ cho rằng có cho ông P vay 100.000.000 đồng, ông P không thừa nhận và ông Đ không có chứng cứ gì chứng minh đây là số tiền cho vay. Từ các tài liệu, chứng cứ trên, có cơ sở xác định việc ông Đ giao cho ông P 100.000.000 đồng là số tiền để trả tiền mua lúa nên quan hệ pháp luật cần giải quyết là “Quyền đòi lại tài sản” theo quy định tại Điều 166 Bộ luật Dân sự năm 2015. Tòa án cấp sơ thẩm xác định và giải quyết quan hệ pháp luật “Tranh chấp về hợp đồng dân sự vay tài sản” là không đúng. [5] Ông Đ và ông P đều thống nhất số lúa đã mua là 68.129kg, giá 4.520 đồng/kg, thành tiền 307.943.080 đồng. Trước đó ông Đ có giao cho ông P 66.000.000 đồng tiền đặt cọc và ngày 10-9-2021, ông P có nhận 100.000.000 đồng tại nhà ông Đ. [6] Phần không thống nhất: ông Đ cho rằng tại chốt cầu Đ Huệ khi giao tiền cho ông P, ông có giao cho P số tiền 241.943.080 đồng và biên nhận có ghi số tiền 307.943.080 đồng trừ 66.000.000 đồng tiền cọc. Ông Đ không có trừ số tiền 100.000.000 đồng. Ông P cho rằng có trừ tổng cộng 166.000.000 đồng nên ông chỉ nhận 141.943.080 đồng, biên nhận thì đã thất lạc. [7] Thấy rằng, việc ông Đ giao tiền và biên nhận cho ông P tại chốt cầu Đức Huệ là việc tất toán quá trình mua lúa giữa ông Đ và ông P. Ông Đ cho rằng đã giao cho ông P số tiền 241.943.080 đồng (chưa trừ 100.000.000 đồng) nhưng ông P không thừa nhận, ông P chỉ thừa nhận có nhận của ông Đ 141.943.080 đồng. Ông Đ không có chứng cứ gì để chứng minh ông P có nhận 241.943.080 đồng nên yêu cầu khởi kiện của ông Đ đòi ông P trả 100.000.000 đồng và tiền lãi là không có căn cứ chấp nhận. [8] Ông Đ có cung cấp người làm chứng là bà Nguyễn Thị B nhưng bà B cũng là người mua lúa làm ăn chung với ông Đ và lời khai của bà B tại Công an xã Mỹ Thạnh Đông trước đây mâu thuẫn với các lời khai tại Tòa án cấp sơ thẩm nên không đáng tin cậy. Các chứng cứ do ông Đ cung cấp như trích xuất camera và đoạn ghi âm cũng chỉ chứng minh được việc ông P có nhận 100.000.000 đồng, không có thể hiện việc ông P thừa nhận số tiền 100.000.000 đồng chưa khấu trừ khi tất toán quá trình mua lúa. [9] Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đ là chưa xem xét toàn diện vụ án dẫn đến xác định không đúng quan hệ pháp luật cần giải quyết. Với các nhận định nêu trên, không có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đ. Kháng cáo của ông P và bà M là có cơ sở chấp nhận, cần sửa toàn bộ bản án sơ thẩm, chấp nhận kháng cáo của ông P và bà M, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đ. [10] Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông P, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đ là có căn cứ. [11] Phát biểu của Kiểm sát viên đề nghị không chấp nhận kháng cáo của ông Võ Hoàng P và bà Trần Ngọc M là chưa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án. [12] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do sửa toàn bộ bản án sơ thẩm nên ông Võ Hoàng P và bà Trần Ngọc M không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Quyết định của hội đồng xét xử Bản án số: 37/2023/DS-PT Ngày: 09-02-2023 V/v “Tranh chấp về quyền đòi lại tài sản”
QUYẾT ĐỊNH: Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Chấp nhận kháng cáo của ông Võ Hoàng P và bà Trần Ngọc M; Sửa toàn bộ Bản án sơ thẩm số 13/2022/DS-ST ngày 23 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Đức Huệ; Căn cứ khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147 và Điều 266 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Căn cứ Điều 166 Bộ luật Dân sự năm 2015; Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Công Đ về việc yêu cầu ông Võ Hoàng P và bà Trần Ngọc M trả số tiền 109.146.666 đồng, gồm 100.000.000 đồng tiền vay và 9.146.666 đồng tiền lãi. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Trần Công Đ phải chịu 5.458.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Khấu trừ số tiền 2.538.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0005172 ngày 13-5-2021 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Đức Huệ để thi hành án phí, ông Đ còn phải chịu 2.920.000 án phí dân sự sơ thẩm. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Võ Hoàng P và bà Trần Ngọc M không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả số tiền 600.000 đồng theo các biên lai thu tạm ứng án phí phúc thẩm số 0005294, số 0005295 cùng ngày 31-8-2022 của của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Đức Huệ cho ông Võ Hoàng P và bà Trần Ngọc M. Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Tên bản án là gì Bản án số: 403/2022/DS-PT Ngày: 19-12-2022 V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản
Bản án số: 403/2022/DS-PT Ngày: 19-12-2022 V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản
Hội đồng xét xử gồm những ai Bản án số: 403/2022/DS-PT Ngày: 19-12-2022 V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:Bà Trịnh Thị Phúc Các Thẩm phán: Bà Lê Thị Kim Nga Bà Phùng Thị Cẩm Hồng
Ai là nguyên đơn Bản án số: 403/2022/DS-PT Ngày: 19-12-2022 V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản
Nguyên đơn: Bà Lê Thị H1, sinh năm 1959; Đăng ký hộ khẩu: 495/36 Dương Bá T, Phường Q, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh. Chỗ ở hiện nay: 769/2A Phạm Thế H2, Phường Y, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo ủy quyền của bà H1: Ông Huỳnh Tuấn K, sinh năm 1981. Địa chỉ: Ấp 3, xã Long A, huyện Cần Đ, tỉnh Long A. Giấy ủy quyền ngày 19/11/2021.
Ai là bị đơn Bản án số: 403/2022/DS-PT Ngày: 19-12-2022 V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản
Bị đơn: 1. Ông Mai Văn L, sinh năm 1963; 2. Bà Lê Thị H3, sinh năm 1964; Cùng địa chỉ: ấp 4, xã Hựu T1, huyện Đức H, tỉnh Long A. Người đại diện theo ủy quyền của ông L, bà H3: Bà Nguyễn Thị Ngọc S, sinh năm 1995. Địa chỉ: ấp 2, xã Thạnh H4, huyện Bến L1, tỉnh Long A. Giấy ủy quyền ngày 20/6/2022.
Ai là đại diện Viện kiểm sát Bản án số: 403/2022/DS-PT Ngày: 19-12-2022 V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long A tham gia phiên tòa: Bà Trần Thị Thùy Dung - Kiểm sát viên.
Ai là thư ký toà Bản án số: 403/2022/DS-PT Ngày: 19-12-2022 V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản
Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Thành Nam - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Long An.
Nội dung vụ án theo trình bày của nguyên đơn Bản án số: 403/2022/DS-PT Ngày: 19-12-2022 V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản
Nguyên đơn: Bà Lê Thị H1, sinh năm 1959; Đăng ký hộ khẩu: 495/36 Dương Bá T, Phường Q, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh. Chỗ ở hiện nay: 769/2A Phạm Thế H2, Phường Y, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo ủy quyền của bà H1: Ông Huỳnh Tuấn K, sinh năm 1981. Địa chỉ: Ấp 3, xã Long A, huyện Cần Đ, tỉnh Long A. Giấy ủy quyền ngày 19/11/2021.
Nội dung vụ án theo trình bày của bị đơn Bản án số: 403/2022/DS-PT Ngày: 19-12-2022 V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản
Bị đơn: 1. Ông Mai Văn L, sinh năm 1963; 2. Bà Lê Thị H3, sinh năm 1964; Cùng địa chỉ: ấp 4, xã Hựu T1, huyện Đức H, tỉnh Long A. Người đại diện theo ủy quyền của ông L, bà H3: Bà Nguyễn Thị Ngọc S, sinh năm 1995. Địa chỉ: ấp 2, xã Thạnh H4, huyện Bến L1, tỉnh Long A. Giấy ủy quyền ngày 20/6/2022.
Lập luận của luật sư bảo vệ quyền lợi của bị đơn Bản án số: 403/2022/DS-PT Ngày: 19-12-2022 V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản
Quyết định của toà sơ thẩm Bản án số: 403/2022/DS-PT Ngày: 19-12-2022 V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Lê Thị H1; Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3; Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 126/QĐ-VKS-DS ngày 07/9/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long A. Sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số: 118/2022/DS-ST ngày 10 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Đức H, tỉnh Long A. Căn cứ vào các điều 26, 35, 39, 147, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015; các điều 166, 275, 280, 468 của Bộ luật Dân sự; các điều 26, 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử: 1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị H1 về việc đòi tài sản đối với ông Mai Văn L và Lê Thị H3. 2. Buộc ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3 phải liên đới hoàn trả cho bà Lê Thị H1 số tiền 80.716.800đồng. 3. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự. 4. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị H1 về việc buộc ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3 phải liên đới hoàn trả cho bà Lê Thị H1 số tiền 119.283.200đồng. 5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lê Thị H1 được miễn án phí do thuộc diện người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí. Buộc ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3 phải liên đới chịu 4.035.800đồng án phí dân sự sơ thẩm. 6. Về án phí dân sự phúc thẩm: ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3 mỗi người phải chịu 300.000đồng án phí dân sự phúc thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đồng tạm ứng án phí phúc thẩm ông L và bà H3 nộp theo các biên lai thu tạm ứng án phí số 0011611, ngày 16/8/2022 và biên lai thu số 0007086 ngày 27/10/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức H, tỉnh Long A. 7. Về hiệu lực của bản án: Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 8. Về hướng dẫn thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Quan điểm của viện kiểm sát Bản án số: 403/2022/DS-PT Ngày: 19-12-2022 V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Lê Thị H1; Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3; Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 126/QĐ-VKS-DS ngày 07/9/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long A. Sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số: 118/2022/DS-ST ngày 10 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Đức H, tỉnh Long A. Căn cứ vào các điều 26, 35, 39, 147, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015; các điều 166, 275, 280, 468 của Bộ luật Dân sự; các điều 26, 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử: 1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị H1 về việc đòi tài sản đối với ông Mai Văn L và Lê Thị H3. 2. Buộc ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3 phải liên đới hoàn trả cho bà Lê Thị H1 số tiền 80.716.800đồng. 3. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự. 4. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị H1 về việc buộc ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3 phải liên đới hoàn trả cho bà Lê Thị H1 số tiền 119.283.200đồng. 5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lê Thị H1 được miễn án phí do thuộc diện người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí. Buộc ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3 phải liên đới chịu 4.035.800đồng án phí dân sự sơ thẩm. 6. Về án phí dân sự phúc thẩm: ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3 mỗi người phải chịu 300.000đồng án phí dân sự phúc thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đồng tạm ứng án phí phúc thẩm ông L và bà H3 nộp theo các biên lai thu tạm ứng án phí số 0011611, ngày 16/8/2022 và biên lai thu số 0007086 ngày 27/10/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức H, tỉnh Long A. 7. Về hiệu lực của bản án: Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 8. Về hướng dẫn thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nhận định của hội đồng xét xử Bản án số: 403/2022/DS-PT Ngày: 19-12-2022 V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản
[1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn và Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long A đúng quy định của pháp luật nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm. [2] Về việc giải quyết yêu cầu kháng cáo và Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long A. [3] Các đương sự trình bày thống nhất về việc ông L, bà H3 bán cho bà H1 01 nền tái định cư ở dự án Tân Tạo với giá 60.000.000đồng, việc mua bán nền tái định cư chỉ thỏa thuận miệng, không lập văn bản. Hai bên thống nhất thời gian bà H1 đã giao cho vợ chồng ông L, bà H3 số tiền 60.000.000đồng là ngày 01/02/2008. [4] bà H1 và ông L bà H3 xác định tại thời điểm hai bên thỏa thuận mua bán lô nền tái định cư thì lúc đó bên ông L, bà H3 chưa được cấp lô nền tái định cư. bà H1 là bên mua cũng không tìm hiểu kỹ lô nền cần mua, do đó hai bên đều có lỗi ngang nhau. Bên ông L, bà H3 trình bày hiện nay vẫn chưa được cấp lô nền tái định cư. Do đó, hợp đồng mua bán lô nền tái định cư giữa bà H1 với bên ông L, bà H3 vô hiệu về hình thức và nội dung. bà H1 cho rằng ông L đồng ý trả cho bà 200.000.000đồng theo biên bản hòa giải ngày 02/7/2019 của Ủy ban nhân xã Hựu T1 xã Hựu T1. Xét thấy, tại Biên bản hòa giải ngày 02/7/2019 của Ủy ban nhân xã Hựu T1 thể hiện nội dung ông L đồng ý trả cho bà H1 số tiền 200.000.000đồng nếu không đồng ý thì đề nghị chuyển về trên xem xét giải quyết, bà H3 chỉ đồng ý trả lại cho bà H1 số tiền 60.000.000đồng. Tuy nhiên, cả ông L và bà H3 đều không ký tên xác nhận trong biên bản này. Do đó, không có cơ sở xác định ông L đồng ý trả cho bà H1 200.000.000đồng. Mặc dù, ông L, bà H3 thừa nhận có nhận của bà H1 60.000.000đồng vào ngày 01/02/2008, nhưng đây không phải là tiền vay, các bên đều xác định đây là tiền mua bán lô nền tái định cư. Như đã nhận định tại phần trên, việc chuyển nhượng đất (lô nền tái định cư) bị vô hiệu về hình thức và nội dung nên không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên tại thời điểm giao kết. ông L, bà H3 thừa nhận có nhận của bà H1 60.000.000đồng nên phải hoàn trả lại cho bà H1. Do đó, án sơ thẩm buộc ông L và bà H3 phải hoàn trả cho bà H1 60.000.000đồng là có căn cứ. Do ông L và bà H3 không được cấp lô nền tái định cư nên không thể định giá đất để tính thiệt hại. [5] bà H1 trình bày đã nhiều lần yêu cầu ông L bà H3 trả tiền nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh thời gian bà yêu câu trả tiền là ngày nào. Căn cứ vào biên bản hòa giải ngày 02/7/2019 thể hiện bà H1 có yêu cầu ông L bà H3 trả tiền nhưng đến nay ông L bà H3 không trả. Như vậy, ngày 02/7/2019 được xác định là ngày bà H1 yêu cầu nhưng ông L bà H3 không thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Do đó, tiền lãi chậm trả được tính từ ngày 02/7/2019 theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 là 0,83%/tháng. Từ ngày 02/7/2019 đến ngày Tòa án xét xử phúc thẩm là 05/12/2022 là 3 năm 5 tháng 3 ngày. Tiền lãi được tính như sau: 60.000.000đ x 0,83% x 3 năm 5 tháng 3 ngày = 20.716.800đồng. Tổng cộng buộc ông L bà H3 phải trả cho bà H1 số tiền: 60.000.000đồng + 20.716.800đồng = 80.716.800đồng. [6] Từ những nhận định trên, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà H1, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông L bà H3, chấp nhận Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long A, sửa một phần bản án sơ thẩm. [7] Về án phí dân sự phúc thẩm: bà H1, ông L và bà H3 mỗi người phải chịu 300.000đồng án phí dân sự phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận theo Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuy nhiên, bà H1 được miễn án phí theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326.
Quyết định của hội đồng xét xử Bản án số: 403/2022/DS-PT Ngày: 19-12-2022 V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Lê Thị H1; Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3; Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 126/QĐ-VKS-DS ngày 07/9/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long A. Sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số: 118/2022/DS-ST ngày 10 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Đức H, tỉnh Long A. Căn cứ vào các điều 26, 35, 39, 147, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015; các điều 166, 275, 280, 468 của Bộ luật Dân sự; các điều 26, 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử: 1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị H1 về việc đòi tài sản đối với ông Mai Văn L và Lê Thị H3. 2. Buộc ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3 phải liên đới hoàn trả cho bà Lê Thị H1 số tiền 80.716.800đồng. 3. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự. 4. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị H1 về việc buộc ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3 phải liên đới hoàn trả cho bà Lê Thị H1 số tiền 119.283.200đồng. 5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lê Thị H1 được miễn án phí do thuộc diện người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí. Buộc ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3 phải liên đới chịu 4.035.800đồng án phí dân sự sơ thẩm. 6. Về án phí dân sự phúc thẩm: ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3 mỗi người phải chịu 300.000đồng án phí dân sự phúc thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đồng tạm ứng án phí phúc thẩm ông L và bà H3 nộp theo các biên lai thu tạm ứng án phí số 0011611, ngày 16/8/2022 và biên lai thu số 0007086 ngày 27/10/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức H, tỉnh Long A. 7. Về hiệu lực của bản án: Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 8. Về hướng dẫn thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Tên bản án là gì Bản án số: 120/2022/DS-PT Ngày: 29 - 12 - 2022 V/v: Tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
Bản án số: 120/2022/DS-PT Ngày: 29 - 12 - 2022 V/v: Tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
Hội đồng xét xử gồm những ai Bản án số: 120/2022/DS-PT Ngày: 29 - 12 - 2022 V/v: Tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Trương Văn Tâm Các Thẩm phán: Ông Cao Xuân Long Ông Trịnh Hoàng Anh
Ai là nguyên đơn Bản án số: 120/2022/DS-PT Ngày: 29 - 12 - 2022 V/v: Tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
- Nguyên đơn: Ông T.H.L, sinh năm 1952, địa chỉ: Số 336 đường H.V, tổ 1, khu phố 1, phường L.T, thành phố B.R, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. (Có mặt).
Ai là bị đơn Bản án số: 120/2022/DS-PT Ngày: 29 - 12 - 2022 V/v: Tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
- Bị đơn: Ông B.V.T, sinh năm 1956; hộ khẩu thường trú: Tổ 1, ấp Bắc 1, xã H.L, thành phố B.R, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Hiện đang chấp hành án tại Trại giam C.B, tỉnh Bến Tre – Bộ Công an. (Vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
Ai là đại diện Viện kiểm sát Bản án số: 120/2022/DS-PT Ngày: 29 - 12 - 2022 V/v: Tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu: Bà Thành Thị Linh - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa
Ai là thư ký toà Bản án số: 120/2022/DS-PT Ngày: 29 - 12 - 2022 V/v: Tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
- Thư ký phiên tòa: Bà Hoàng Lê Thanh Hà – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Nội dung vụ án theo trình bày của nguyên đơn Bản án số: 120/2022/DS-PT Ngày: 29 - 12 - 2022 V/v: Tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
Theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng giải quyết vụ án, nguyên đơn ông T.H.L trình bày: Căn cứ Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2014/HSST ngày 28/3/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và Bản án hình sự phúc thẩm số 649/2015/HSPT ngày 25/11/2015 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh; Quyết định thi hành án theo yêu cầu số 134/QĐ-CTHA ngày 18/01/2016 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, ông T.H.L là người được thi hành án, theo đó, ông B.V.T có nghĩa vụ bồi thường cho ông L số tiền 500.000.000 (năm trăm triệu) đồng và tiền lãi theo lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên đến nay ông T vẫn chưa thực hiện bồi thường cho ông L.
Nội dung vụ án theo trình bày của bị đơn Bản án số: 120/2022/DS-PT Ngày: 29 - 12 - 2022 V/v: Tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
Quá trình tố tụng giải quyết vụ án, bị đơn ông B.V.T trình bày: Tại bản tự khai ngày 03/11/2020, ông T trình bày: Ông và bà V.T.Th chung sống với nhau từ trước năm 1987 đến năm 2010 thì đồng tình ly hôn và có 02 (hai) người con chung là B.V.T.N, sinh năm 1979, B.V.M.T, sinh năm 1985. Tài sản chung để phân chia trong thời kỳ hôn nhân ông bà đã tự thỏa thuận, cụ thể ông bà có một mảnh đất diện tích khoảng 28.000m2 , tại xã S.R, huyện C.Đ nhưng sau đó đã thống nhất bán được 03 (ba) tỷ đồng và phần của ông T là 1,4 tỷ đồng. Số tiền này ông đã xài hết. Ngoài ra, ông bà không có tài sản chung nào khác. Còn mảnh đất 750,3m2 và hai căn nhà trên đất là do tiền cá nhân của em gái bà Th đang định cư tại Mỹ gửi về cho để xây dựng. Bản thân ông không có đóng góp gì trên mảnh đất và nhà nêu trên. Bởi lẽ đó nên vào ngày 28/02/2011, ông có viết một tờ giấy tay với nội 3 dung là căn nhà và đất ở H.L là ông không liên quan gì, ông để lại cho con trai là B.V.M.T và bà V.T.Th. Tờ giấy có tựa “Bản thỏa thuận” được ông tự nguyện viết và ký tên vào ngày 28/02/2011. Việc thỏa thuận và tự nguyện cho tài sản này, hai bên không ra công chứng vì nghĩ không cần thiết. Tại bản tự khai ngày 22/6/2021, ông T trình bày: Trong thời kỳ hôn nhân, đến khi ly hôn vào tháng 10/2010, số tài sản chung của ông bà gồm có: 02 (hai) căn nhà được xây dựng trên diện tích 750,3m2 tại xã H.L, thành phố B.R, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; 01 (một) trang trại chăn nuôi trên diện tích 28.000m2 tại xã S.R, huyện C.Đ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; 01 (một) xe ô tô hiệu Suzuki – Vitara và một số vật chất khác (bút lục số 61). Tại thời điểm ly hôn, ông, bà đã tự thỏa thuận phân chia tài sản, cụ thể: Ông T được hưởng 1,4 tỷ đồng là tiền bán trang trại ở xã S.R, huyện C.Đ và 01 xe ô tô; còn bà Th được hưởng những tài sản còn lại trong đó có nhà đất tại xã H.L. Sau đó, ông có viết một tờ giấy tự nguyện cho tài sản và đã ký tên vào ngày 28/02/2011. Văn bản này là chứng cứ thể hiện số tài sản mà bà Th và con trai đang đứng chủ sở hữu là tài sản riêng, bản thân ông không có liên quan gì đến tài sản đó. Việc tại sao ông có tên trong hồ sơ cấp giấy là do thủ tục hành chính yêu cầu theo đúng quy định thời điểm lúc bấy giờ.
Lập luận của luật sư bảo vệ quyền lợi của bị đơn Bản án số: 120/2022/DS-PT Ngày: 29 - 12 - 2022 V/v: Tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
Quyết định của toà sơ thẩm Bản án số: 120/2022/DS-PT Ngày: 29 - 12 - 2022 V/v: Tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
Quan điểm của viện kiểm sát Bản án số: 120/2022/DS-PT Ngày: 29 - 12 - 2022 V/v: Tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Qua tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có căn cứ xác định thửa đất số 48, tờ bản đồ 10, xã H.L, thành phố B.R, diện tích 750,3m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X540788 cấp ngày 16/4/2004 là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân của ông T và bà Th. Căn cứ quy định điểm b, khoản 2, Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì “khi chia tài sản chung nguyên tắc là chia đôi, nhưng có T đến các yếu tố sau: công sức đóng góp của vợ (chồng) vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung”. Theo lời khai của bà Th và được ông T, bà N, ông M.T thừa nhận từ việc tạo lập, phát triển khối tài sản là thửa đất số 48, tờ bản đồ 10, xã H.L và tài sản gắn liền với đất thì bà Th có công sức đóng góp nhiều hơn vào khối tài sản chung so với ông T. Do đó, khi chia tài sản chung, bà 5 Th được hưởng 60% giá trị tài sản; ông T được hưởng 40% giá trị tài sản. Bản án sơ thẩm tuyên xử chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông T, bà Th. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Nhận định của hội đồng xét xử Bản án số: 120/2022/DS-PT Ngày: 29 - 12 - 2022 V/v: Tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN: Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định: [1] Xét kháng cáo của ông B.V.T và bà V.T.Th: [1.1] Diện tích đất 4.790m2 thửa 42, tờ bản đồ số 31, xã H.L, thành phố B.R có nguồn gốc của bà B.T.B được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng số B 541096 ngày 10/12/1992. Sau đó, bà B chiết một phần đất diện tích 712m2 thuộc thửa 631/42, tờ bản đồ số 31, chuyển nhượng cho bà V.T.Th và ông B.V.T thể hiện tại hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có xác nhận của UBND xã Hòa Long, thị xã Bà Rịa và xác nhận của phòng địa chính thị xã Bà Rịa ngày 29/4/1997. Năm 2002, bà Th lập thủ tục cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất trên và được UBND thị xã Bà Rịa cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 540789 ngày 16/4/2004, thửa đất đổi thành thửa 48, tờ bản đồ số 10, diện tích 750,3m2. Tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới, đất được công nhận quyền sử dụng cho “hộ ông (bà) V.T.Th”. Công văn số 668/TN-MT ngày 28/11/2019 của Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Bà Rịa xác định “diện tích đất thửa số 48, tờ bản đồ số 10, xã Hòa Long theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 540789 ngày 16/4/2004 được cấp có nguồn gốc là do ông B.V.T và bà V.T.Th nhận chuyển nhượng của bà B.T.B. Do đó, “hộ ông (bà) V.T.Th” tại Giấy chứng nhận nêu trên được xác định bao gồm ông B.V.T và bà V.T.Th”. Qua đo đạc thực tế theo Mảnh trích đo địa chính do Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố Bà Rịa lập, duyệt ngày 20/01/2021, diện tích đất còn lại là 616,8m2. Qua xác minh, thể hiện vào năm 2004, UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã thu hồi một phần diện tích đất để “Mở rộng Hương lộ 2 tại xã H.L, thành phố B.R”. Bà Th xác nhận đã nhận đủ tiền bồi thường, không khiếu nại gì nhưng chưa làm thủ tục chỉnh lý diện tích đất trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà Th cho rằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất là tài sản riêng của bà Th, thời điểm bà nhận chuyển nhượng đất của bà B khoảng năm 1993 - 1994, hai bên không lập giấy chuyển nhượng. Ny sau khi nhận chuyển nhượng, bà Th xây căn nhà diện tích khoảng 120m2 để ở, đến năm 2008 bà Th xây thêm căn nhà phía sau diện tích khoảng 30m2 và giữ nguyên hiện trạng từ đó đến nay, toàn bộ nguồn tiền để mua đất, xây nhà đều do gia đình bà Th hỗ trợ, chồng bà Th khi đó là ông B.V.T và con bà Th là chị B.V.T.N và anh B.V.M.T không đóng góp công sức gì vào khối tài sản này, nhưng bà Th không có tài liệu, chứng cứ chứng minh nội dung này mà chỉ được ông T, chị N và anh M.T xác nhận. Việc xây dựng nhà cũng không được chính quyền địa phương cấp giấy phép nên địa phương không nắm được thời gian xây dựng. 6 Bà Th và ông T cho rằng ông T có tên trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là do thủ tục hành chính thời điểm đó yêu cầu và do mẫu của cơ quan Nhà nước quy định nên bà Th, ông T phải chấp hành. Lời trình bày này của bà Th và ông T là không hợp lý, vì nếu ông T thừa nhận là tài sản riêng của bà Th thì bà Th có quyền không đưa ông T vào tham gia ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc hai bên có quyền lập thủ tục xác định nhà và đất này là tài sản riêng của bà Th khi thực hiện giao dịch, nhưng ông T cùng đứng tên trong hợp đồng. Tại biên bản lời khai ngày 08/12/2020, bà Th trình bày khi biết giấy chứng nhận quyên sử dụng đất mới cấp cho hộ gia đình, bà đã có ý kiến với Ủy ban cấp giấy về hai vấn đề: Thứ nhất là giấy chứng nhận cấp cho hộ gia đình là không đúng, thứ hai là diện tích đất có sự chênh lệch, nhưng bà Th không cung cấp được tài liệu, chứng cứ về nội dung trình bày này; còn ông T cho rằng đây là mẫu chung của giấy chứng nhận, tuy nhiên, trong suốt quá trình từ năm 2004 (thời điểm được cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) đến nay, bà Th không liên hệ cơ quan có thẩm quyền để thực hiện chỉnh lý về quyền sử dụng đất. Theo Điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình 1986, Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 “Tài sản chung của vợ chồng là tài sản do vợ (chồng) tạo lập trong thời kì hôn nhân”; Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Điều 34 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 “Tài sản chung thuộc sở hữu chung của vợ chồng là tài sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng kí quyền sở hữu thì giấy đăng ký phải ghi tên cả hai vợ chồng”; các Điều 44, 46 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt về tài sản riêng của mình “Có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung”, “Việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung được thực hiện theo thỏa thuận”. Như vậy, căn cứ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ông B.V.T có tên bên nhận chuyển nhượng, căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp cho hộ bà V.T.Th gồm cả ông B.V.T, và thực tế từ năm 2004 bà Th biết quyền sử dụng đất được cấp cho hộ gia đình trong đó có ông T nhưng bà Th không có ý kiến, không khiếu nại, như vậy đã thể hiện bà Th và ông T mặc nhiên thừa nhận nhà và đất thửa số 48, tờ bản đồ số 10, xã H.L, thành phố B.R là tài sản chung của vợ chồng ông T và bà Th. Chị B.V.T.N và anh B.V.M.T xác nhận không liên quan gì đến tài sản này nên không xét. Ông T và bà Th cho rằng tài sản này đã được phân chia năm 2011 thể hiện tại “Bản thỏa thuận”, thấy: Tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 108/2010/QĐST-HNGĐ ngày 25/11/2010 của Tòa án nhân dân thị xã Bà Rịa, ông T và bà Th tự thỏa thuận về tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Sau đó, ông T và bà Th đã lập “Bản thỏa thuận” viết tay đề ngày 28/02/2011 nội dung: “Ông T tự nguyện không chia căn nhà tại Ô2, ấp Bắc, xã H.L, Bà Rịa Vũng Tàu ...” và “Tôi B.V.T tự nguyện không tranh chấp tài sản với vợ + con trai tôi, những tài sản mà họ đã đứng tên chủ quyền độc lập là của họ vĩnh viễn, không liên quan tới tôi.” Bản thỏa thuận không được cơ quan nhà nước xác nhận và sau khi hai bên thỏa thuận, ông T và bà Th cũng không thực hiện thủ tục chỉnh lý về quyền sử dụng đất. Căn cứ Điều 46 Luật Đất đai năm 2003 và khoản 4 Điều 146 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/11/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất 7
Quyết định của hội đồng xét xử Bản án số: 120/2022/DS-PT Ngày: 29 - 12 - 2022 V/v: Tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
QUYẾT ĐỊNH: Không chấp nhận kháng cáo của ông B.V.T và bà V.T.Th. Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 07/2022/DS-ST ngày 09 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố B.R, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu như sau: Căn cứ các Điều 227, 228, 147, 157, 165, 166, khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 102, 212, 213 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986; các Điều 27, 29 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000; các Điều 33, 44, 46, 59 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 46 Luật Đất đai năm 2003; các Điều 12, 26, 27, 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử: 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T.H.L về yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung của vợ chồng để thi hành án đối với ông B.V.T. Xác định phần quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của ông B.V.T như sau: Ông B.V.T có quyền hưởng 30% giá trị quyền sử dụng đất thửa số 48, tờ bản đồ số 10, xã H.L, thành phố B.R, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 540789 do Ủy ban nhân dân thị xã B.R cấp ngày 16/4/2004 cho hộ ông (bà) V.T.Th; ông B.V.T có quyền sở hữu 30% giá trị tài sản gắn liền với đất thửa số 48, tờ bản đồ số 10, xã H.L, thành phố B.R, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 540789 do Ủy ban nhân dân thị xã B.R cấp ngày 16/4/2004 cho hộ ông (bà) V.T.Th nêu trên. 2. Chi phí định giá, đo vẽ, xem xét thẩm định tại chỗ và sao lục hồ sơ là 10.000.000 (mười triệu) đồng: Ông T.H.L tự nguyện chịu. Đã nộp xong. 3. Án phí dân sự sơ thẩm: Ông B.V.T phải chịu 300.000 đồng nhưng được miễn do là người cao tuổi. 4. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông B.V.T và bà V.T.Th mỗi người phải chịu 300.000 đồng nhưng được miễn do là người cao tuổi. 5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 6. Bản án có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Tên bản án là gì Bản án số: 120/2022/DS-PT Ngày: 29 - 12 - 2022 V/v: Tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
Bản án số: 120/2022/DS-PT Ngày: 29 - 12 - 2022 V/v: Tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
Hội đồng xét xử gồm những ai Bản án số: 120/2022/DS-PT Ngày: 29 - 12 - 2022 V/v: Tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Trương Văn Tâm Các Thẩm phán: Ông Cao Xuân Long Ông Trịnh Hoàng Anh
Ai là nguyên đơn Bản án số: 120/2022/DS-PT Ngày: 29 - 12 - 2022 V/v: Tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
- Nguyên đơn: Ông T.H.L, sinh năm 1952, địa chỉ: Số 336 đường H.V, tổ 1, khu phố 1, phường L.T, thành phố B.R, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. (Có mặt).
Ai là bị đơn Bản án số: 120/2022/DS-PT Ngày: 29 - 12 - 2022 V/v: Tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
- Bị đơn: Ông B.V.T, sinh năm 1956; hộ khẩu thường trú: Tổ 1, ấp Bắc 1, xã H.L, thành phố B.R, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Hiện đang chấp hành án tại Trại giam C.B, tỉnh Bến Tre – Bộ Công an. (Vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
Ai là đại diện Viện kiểm sát Bản án số: 120/2022/DS-PT Ngày: 29 - 12 - 2022 V/v: Tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu: Bà Thành Thị Linh - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa
Ai là thư ký toà Bản án số: 120/2022/DS-PT Ngày: 29 - 12 - 2022 V/v: Tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
- Thư ký phiên tòa: Bà Hoàng Lê Thanh Hà – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Nội dung vụ án theo trình bày của nguyên đơn Bản án số: 120/2022/DS-PT Ngày: 29 - 12 - 2022 V/v: Tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
Theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng giải quyết vụ án, nguyên đơn ông T.H.L trình bày: Căn cứ Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2014/HSST ngày 28/3/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và Bản án hình sự phúc thẩm số 649/2015/HSPT ngày 25/11/2015 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh; Quyết định thi hành án theo yêu cầu số 134/QĐ-CTHA ngày 18/01/2016 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, ông T.H.L là người được thi hành án, theo đó, ông B.V.T có nghĩa vụ bồi thường cho ông L số tiền 500.000.000 (năm trăm triệu) đồng và tiền lãi theo lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên đến nay ông T vẫn chưa thực hiện bồi thường cho ông L.
Nội dung vụ án theo trình bày của bị đơn Bản án số: 120/2022/DS-PT Ngày: 29 - 12 - 2022 V/v: Tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
Quá trình tố tụng giải quyết vụ án, bị đơn ông B.V.T trình bày: Tại bản tự khai ngày 03/11/2020, ông T trình bày: Ông và bà V.T.Th chung sống với nhau từ trước năm 1987 đến năm 2010 thì đồng tình ly hôn và có 02 (hai) người con chung là B.V.T.N, sinh năm 1979, B.V.M.T, sinh năm 1985. Tài sản chung để phân chia trong thời kỳ hôn nhân ông bà đã tự thỏa thuận, cụ thể ông bà có một mảnh đất diện tích khoảng 28.000m2 , tại xã S.R, huyện C.Đ nhưng sau đó đã thống nhất bán được 03 (ba) tỷ đồng và phần của ông T là 1,4 tỷ đồng. Số tiền này ông đã xài hết. Ngoài ra, ông bà không có tài sản chung nào khác. Còn mảnh đất 750,3m2 và hai căn nhà trên đất là do tiền cá nhân của em gái bà Th đang định cư tại Mỹ gửi về cho để xây dựng. Bản thân ông không có đóng góp gì trên mảnh đất và nhà nêu trên. Bởi lẽ đó nên vào ngày 28/02/2011, ông có viết một tờ giấy tay với nội 3 dung là căn nhà và đất ở H.L là ông không liên quan gì, ông để lại cho con trai là B.V.M.T và bà V.T.Th. Tờ giấy có tựa “Bản thỏa thuận” được ông tự nguyện viết và ký tên vào ngày 28/02/2011. Việc thỏa thuận và tự nguyện cho tài sản này, hai bên không ra công chứng vì nghĩ không cần thiết. Tại bản tự khai ngày 22/6/2021, ông T trình bày: Trong thời kỳ hôn nhân, đến khi ly hôn vào tháng 10/2010, số tài sản chung của ông bà gồm có: 02 (hai) căn nhà được xây dựng trên diện tích 750,3m2 tại xã H.L, thành phố B.R, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; 01 (một) trang trại chăn nuôi trên diện tích 28.000m2 tại xã S.R, huyện C.Đ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; 01 (một) xe ô tô hiệu Suzuki – Vitara và một số vật chất khác (bút lục số 61). Tại thời điểm ly hôn, ông, bà đã tự thỏa thuận phân chia tài sản, cụ thể: Ông T được hưởng 1,4 tỷ đồng là tiền bán trang trại ở xã S.R, huyện C.Đ và 01 xe ô tô; còn bà Th được hưởng những tài sản còn lại trong đó có nhà đất tại xã H.L. Sau đó, ông có viết một tờ giấy tự nguyện cho tài sản và đã ký tên vào ngày 28/02/2011. Văn bản này là chứng cứ thể hiện số tài sản mà bà Th và con trai đang đứng chủ sở hữu là tài sản riêng, bản thân ông không có liên quan gì đến tài sản đó. Việc tại sao ông có tên trong hồ sơ cấp giấy là do thủ tục hành chính yêu cầu theo đúng quy định thời điểm lúc bấy giờ.
Lập luận của luật sư bảo vệ quyền lợi của bị đơn Bản án số: 120/2022/DS-PT Ngày: 29 - 12 - 2022 V/v: Tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
Quyết định của toà sơ thẩm Bản án số: 120/2022/DS-PT Ngày: 29 - 12 - 2022 V/v: Tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
Quan điểm của viện kiểm sát Bản án số: 120/2022/DS-PT Ngày: 29 - 12 - 2022 V/v: Tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Qua tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có căn cứ xác định thửa đất số 48, tờ bản đồ 10, xã H.L, thành phố B.R, diện tích 750,3m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X540788 cấp ngày 16/4/2004 là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân của ông T và bà Th. Căn cứ quy định điểm b, khoản 2, Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì “khi chia tài sản chung nguyên tắc là chia đôi, nhưng có T đến các yếu tố sau: công sức đóng góp của vợ (chồng) vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung”. Theo lời khai của bà Th và được ông T, bà N, ông M.T thừa nhận từ việc tạo lập, phát triển khối tài sản là thửa đất số 48, tờ bản đồ 10, xã H.L và tài sản gắn liền với đất thì bà Th có công sức đóng góp nhiều hơn vào khối tài sản chung so với ông T. Do đó, khi chia tài sản chung, bà 5 Th được hưởng 60% giá trị tài sản; ông T được hưởng 40% giá trị tài sản. Bản án sơ thẩm tuyên xử chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông T, bà Th. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Nhận định của hội đồng xét xử Bản án số: 120/2022/DS-PT Ngày: 29 - 12 - 2022 V/v: Tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN: Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định: [1] Xét kháng cáo của ông B.V.T và bà V.T.Th: [1.1] Diện tích đất 4.790m2 thửa 42, tờ bản đồ số 31, xã H.L, thành phố B.R có nguồn gốc của bà B.T.B được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng số B 541096 ngày 10/12/1992. Sau đó, bà B chiết một phần đất diện tích 712m2 thuộc thửa 631/42, tờ bản đồ số 31, chuyển nhượng cho bà V.T.Th và ông B.V.T thể hiện tại hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có xác nhận của UBND xã Hòa Long, thị xã Bà Rịa và xác nhận của phòng địa chính thị xã Bà Rịa ngày 29/4/1997. Năm 2002, bà Th lập thủ tục cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất trên và được UBND thị xã Bà Rịa cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 540789 ngày 16/4/2004, thửa đất đổi thành thửa 48, tờ bản đồ số 10, diện tích 750,3m2. Tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới, đất được công nhận quyền sử dụng cho “hộ ông (bà) V.T.Th”. Công văn số 668/TN-MT ngày 28/11/2019 của Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Bà Rịa xác định “diện tích đất thửa số 48, tờ bản đồ số 10, xã Hòa Long theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 540789 ngày 16/4/2004 được cấp có nguồn gốc là do ông B.V.T và bà V.T.Th nhận chuyển nhượng của bà B.T.B. Do đó, “hộ ông (bà) V.T.Th” tại Giấy chứng nhận nêu trên được xác định bao gồm ông B.V.T và bà V.T.Th”. Qua đo đạc thực tế theo Mảnh trích đo địa chính do Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố Bà Rịa lập, duyệt ngày 20/01/2021, diện tích đất còn lại là 616,8m2. Qua xác minh, thể hiện vào năm 2004, UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã thu hồi một phần diện tích đất để “Mở rộng Hương lộ 2 tại xã H.L, thành phố B.R”. Bà Th xác nhận đã nhận đủ tiền bồi thường, không khiếu nại gì nhưng chưa làm thủ tục chỉnh lý diện tích đất trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà Th cho rằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất là tài sản riêng của bà Th, thời điểm bà nhận chuyển nhượng đất của bà B khoảng năm 1993 - 1994, hai bên không lập giấy chuyển nhượng. Ny sau khi nhận chuyển nhượng, bà Th xây căn nhà diện tích khoảng 120m2 để ở, đến năm 2008 bà Th xây thêm căn nhà phía sau diện tích khoảng 30m2 và giữ nguyên hiện trạng từ đó đến nay, toàn bộ nguồn tiền để mua đất, xây nhà đều do gia đình bà Th hỗ trợ, chồng bà Th khi đó là ông B.V.T và con bà Th là chị B.V.T.N và anh B.V.M.T không đóng góp công sức gì vào khối tài sản này, nhưng bà Th không có tài liệu, chứng cứ chứng minh nội dung này mà chỉ được ông T, chị N và anh M.T xác nhận. Việc xây dựng nhà cũng không được chính quyền địa phương cấp giấy phép nên địa phương không nắm được thời gian xây dựng. 6 Bà Th và ông T cho rằng ông T có tên trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là do thủ tục hành chính thời điểm đó yêu cầu và do mẫu của cơ quan Nhà nước quy định nên bà Th, ông T phải chấp hành. Lời trình bày này của bà Th và ông T là không hợp lý, vì nếu ông T thừa nhận là tài sản riêng của bà Th thì bà Th có quyền không đưa ông T vào tham gia ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc hai bên có quyền lập thủ tục xác định nhà và đất này là tài sản riêng của bà Th khi thực hiện giao dịch, nhưng ông T cùng đứng tên trong hợp đồng. Tại biên bản lời khai ngày 08/12/2020, bà Th trình bày khi biết giấy chứng nhận quyên sử dụng đất mới cấp cho hộ gia đình, bà đã có ý kiến với Ủy ban cấp giấy về hai vấn đề: Thứ nhất là giấy chứng nhận cấp cho hộ gia đình là không đúng, thứ hai là diện tích đất có sự chênh lệch, nhưng bà Th không cung cấp được tài liệu, chứng cứ về nội dung trình bày này; còn ông T cho rằng đây là mẫu chung của giấy chứng nhận, tuy nhiên, trong suốt quá trình từ năm 2004 (thời điểm được cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) đến nay, bà Th không liên hệ cơ quan có thẩm quyền để thực hiện chỉnh lý về quyền sử dụng đất. Theo Điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình 1986, Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 “Tài sản chung của vợ chồng là tài sản do vợ (chồng) tạo lập trong thời kì hôn nhân”; Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Điều 34 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 “Tài sản chung thuộc sở hữu chung của vợ chồng là tài sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng kí quyền sở hữu thì giấy đăng ký phải ghi tên cả hai vợ chồng”; các Điều 44, 46 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt về tài sản riêng của mình “Có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung”, “Việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung được thực hiện theo thỏa thuận”. Như vậy, căn cứ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ông B.V.T có tên bên nhận chuyển nhượng, căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp cho hộ bà V.T.Th gồm cả ông B.V.T, và thực tế từ năm 2004 bà Th biết quyền sử dụng đất được cấp cho hộ gia đình trong đó có ông T nhưng bà Th không có ý kiến, không khiếu nại, như vậy đã thể hiện bà Th và ông T mặc nhiên thừa nhận nhà và đất thửa số 48, tờ bản đồ số 10, xã H.L, thành phố B.R là tài sản chung của vợ chồng ông T và bà Th. Chị B.V.T.N và anh B.V.M.T xác nhận không liên quan gì đến tài sản này nên không xét. Ông T và bà Th cho rằng tài sản này đã được phân chia năm 2011 thể hiện tại “Bản thỏa thuận”, thấy: Tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 108/2010/QĐST-HNGĐ ngày 25/11/2010 của Tòa án nhân dân thị xã Bà Rịa, ông T và bà Th tự thỏa thuận về tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Sau đó, ông T và bà Th đã lập “Bản thỏa thuận” viết tay đề ngày 28/02/2011 nội dung: “Ông T tự nguyện không chia căn nhà tại Ô2, ấp Bắc, xã H.L, Bà Rịa Vũng Tàu ...” và “Tôi B.V.T tự nguyện không tranh chấp tài sản với vợ + con trai tôi, những tài sản mà họ đã đứng tên chủ quyền độc lập là của họ vĩnh viễn, không liên quan tới tôi.” Bản thỏa thuận không được cơ quan nhà nước xác nhận và sau khi hai bên thỏa thuận, ông T và bà Th cũng không thực hiện thủ tục chỉnh lý về quyền sử dụng đất. Căn cứ Điều 46 Luật Đất đai năm 2003 và khoản 4 Điều 146 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/11/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất 7
Quyết định của hội đồng xét xử Bản án số: 120/2022/DS-PT Ngày: 29 - 12 - 2022 V/v: Tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
QUYẾT ĐỊNH: Không chấp nhận kháng cáo của ông B.V.T và bà V.T.Th. Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 07/2022/DS-ST ngày 09 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố B.R, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu như sau: Căn cứ các Điều 227, 228, 147, 157, 165, 166, khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 102, 212, 213 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986; các Điều 27, 29 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000; các Điều 33, 44, 46, 59 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 46 Luật Đất đai năm 2003; các Điều 12, 26, 27, 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử: 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T.H.L về yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung của vợ chồng để thi hành án đối với ông B.V.T. Xác định phần quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của ông B.V.T như sau: Ông B.V.T có quyền hưởng 30% giá trị quyền sử dụng đất thửa số 48, tờ bản đồ số 10, xã H.L, thành phố B.R, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 540789 do Ủy ban nhân dân thị xã B.R cấp ngày 16/4/2004 cho hộ ông (bà) V.T.Th; ông B.V.T có quyền sở hữu 30% giá trị tài sản gắn liền với đất thửa số 48, tờ bản đồ số 10, xã H.L, thành phố B.R, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 540789 do Ủy ban nhân dân thị xã B.R cấp ngày 16/4/2004 cho hộ ông (bà) V.T.Th nêu trên. 2. Chi phí định giá, đo vẽ, xem xét thẩm định tại chỗ và sao lục hồ sơ là 10.000.000 (mười triệu) đồng: Ông T.H.L tự nguyện chịu. Đã nộp xong. 3. Án phí dân sự sơ thẩm: Ông B.V.T phải chịu 300.000 đồng nhưng được miễn do là người cao tuổi. 4. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông B.V.T và bà V.T.Th mỗi người phải chịu 300.000 đồng nhưng được miễn do là người cao tuổi. 5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 6. Bản án có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Tên bản án là gì Bản án số: 01/2023/DS-PT Ngày: 05 - 01 - 2023. V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Bản án số: 01/2023/DS-PT Ngày: 05 - 01 - 2023. V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Hội đồng xét xử gồm những ai Bản án số: 01/2023/DS-PT Ngày: 05 - 01 - 2023. V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Trương Văn Tâm Các Thẩm phán: Ông Cao Minh Vỹ Ông Đặng Đức Hào
Ai là nguyên đơn Bản án số: 01/2023/DS-PT Ngày: 05 - 01 - 2023. V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Nguyên đơn: Bà V.T.T.H, sinh năm 1960; địa chỉ: 459/25 T.C.Đ, phường 7, thành phố V.T, tỉnh tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. (Có mặt). Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà L.H.T, sinh năm 1987; địa chỉ: 154/21A T.C.Đ, phường 7, thành phố V.T, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. (Có mặt). Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Đ.T.T – Công ty Luật TNHH MTV Đ.T – Đoàn luật sư tỉnh tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. (Có mặt).
Ai là bị đơn Bản án số: 01/2023/DS-PT Ngày: 05 - 01 - 2023. V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Bị đơn: Ông T.V.T, sinh năm 1973; địa chỉ: 447 T.C.Đ, phường 7, thành phố V.T, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (Có mặt). 2 Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông N.V.N, sinh năm 1985; bà N.T.Tr, sinh năm 1987; cùng địa chỉ: 427/3 N.A.N, phường 9, thành phố V.T, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. (Có mặt).
Ai là đại diện Viện kiểm sát Bản án số: 01/2023/DS-PT Ngày: 05 - 01 - 2023. V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa- V.T: Bà Thành Thị Linh - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ai là thư ký toà Bản án số: 01/2023/DS-PT Ngày: 05 - 01 - 2023. V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Thư ký phiên tòa: Bà Hoàng Lê Thanh Hà – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Nội dung vụ án theo trình bày của nguyên đơn Bản án số: 01/2023/DS-PT Ngày: 05 - 01 - 2023. V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà V.T.T.H và người đại diện hợp pháp của bà T.H trình bày: Năm 1991, bà T.H và chồng là ông L.Q.Đ nhận chuyển nhượng của ông K.T.C một mảnh đất diện tích 1174m2 thuộc thửa đất số 49 (cũ 177), tờ bản đồ số 36 (cũ 07) tại địa chỉ số 459/25 T.C.Đ, phường 7, thành phố V.T (gọi tắt là thửa đất số 49). Khi nhận chuyển nhượng hai bên lập đơn xin chuyển nhượng thành quả lao động, kết quả đầu tư có gắn liền việc sử dụng đất; có đo đạc, cắm mốc bằng cọc tre và được Sở Thủy sản xác nhận đơn, cấp sơ đồ vị trí cùng ngày 04-10-1991. Sau khi nhận chuyển nhượng, gia đình bà T.H chưa có nhu cầu sử dụng đất nên đến năm 1993 mới xây dựng tường rào, nhà và ở trên đất cho đến nay. Khi xây dựng tường rào, bà không đo lại diện tích đất. Ngày 18-9-1997, phần đất trên được Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ngày 22-11-1999, bị thu hồi giấy chứng nhận và được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O 898427 cho hộ ông L.Q.Đ với cùng diện tích 1.174m2 đất gồm 230m2 đất ở và 944m2 đất nông nghiệp (gọi tắt là giấy chứng nhận số O 898427). Năm 2004, bà T.H và ông Đ chuyển nhượng 171,8m2 đất gồm 40m2 đất ở và 131,8m2 đất nông nghiệp cho ông L.V.H, bà N.T.L. Sau khi chuyển nhượng, bà T.H và ông Đ làm thủ tục chuyển mục đích 40m2 đất nông nghiệp sang đất xây dựng nhà ở nên diện tích đất còn lại hiện nay của bà T.H và ông Đ là 1002,2m2 gồm 230m2 đất ở và 772,2m2 đất nông nghiệp. Năm 2019, ông T.V.T, bà P.T.H1 nhận chuyển nhượng thửa đất số 50 cũ, tờ bản đồ số 36 (gọi tắt là thửa 50 cũ) của ông N.T.Th, bà Đ.T.K.V thì bà T.H được bà Thanh H1 cho biết chiều ngang thửa đất số 50 cũ là 15m, trong khi bà T.H biết thửa
Nội dung vụ án theo trình bày của bị đơn Bản án số: 01/2023/DS-PT Ngày: 05 - 01 - 2023. V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Quá trình tố tụng giải quyết vụ án, bị đơn ông T.V.T và người đại diện hợp pháp của ông T.V.T trình bày: Ngày 19-3-2019, ông T và vợ là bà P.T.H1 nhận chuyển nhượng 577,2m2 đất thuộc thửa đất số 50 cũ theo giấy chứng nhận số CP 931896, được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố V.T điều chỉnh qua tên chủ sử dụng vợ chồng ông T, bà Thanh H1 ngày 25-3-2019. Đất có nguồn gốc và thay đổi diện tích như bà T.H trình bày, tuy nhiên việc bà T.H cho rằng diện tích đất bà T.H thiếu nằm trong thửa đất số 50 là không đúng bởi vì khi bà T.H, ông Đ nhận chuyển nhượng đất từ ông C thì không thể hiện rõ kích thước các cạnh, đường hẻm lúc đó rộng 3,2m. Khi ông Đ, bà T.H làm thủ tục chuyển mục đích sử dụng 40m2 đất thì đường hẻm 459 tiếp giáp thửa đất số 49 của ông Đ bà T.H rộng 4,5m và chiều ngang thửa đất số 49 vẫn là 24,40m như hiện nay. Mặt khác, tường rào ranh giới giữa
Lập luận của luật sư bảo vệ quyền lợi của bị đơn Bản án số: 01/2023/DS-PT Ngày: 05 - 01 - 2023. V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Quá trình tố tụng giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông L.Q.Đ trình bày: Ông đồng ý với toàn bộ ý kiến và yêu cầu khởi kiện của bà T.H, ông Đ không có yêu cầu nào khác.
Quyết định của toà sơ thẩm Bản án số: 01/2023/DS-PT Ngày: 05 - 01 - 2023. V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 42/2022/DS-ST ngày 28 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố V.T đã quyết định như sau: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà V.T.T.H về việc buộc ông T.V.T trả lại cho bà T.H diện tích 36,9m2 đất, gồm: 21,7m2 , thuộc thửa đất số 454, tờ bản đồ số 36 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR949339 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cấp ngày 19-7-2019 cho ông T.V.T, bà P.T.H1 và 15,2m2 đất thuộc thửa đất số 463, tờ bản đồ số 36 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS 801127 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cấp ngày 10-9-2019 cho ông T.V.T, bà P.T.H1; hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR949339, số CS 801127 tương ứng với diện tích 36,9m2 đất nói trên. Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về chi phí sao lục hồ sơ, thẩm định, định giá Tài sản, án phí, nghĩa vụ do chậm thi hành án và quyền kháng cáo. - Ngày 11/7/2022 bà V.T.T.H kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết: Buộc gia đình ông T.V.T trả lại cho gia đình bà T.H 30,2m2 đất mà gia đình ông T đã chiếm của bà T.H
Quan điểm của viện kiểm sát Bản án số: 01/2023/DS-PT Ngày: 05 - 01 - 2023. V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Có căn cứ xác định tường rào nguyên đơn xây dựng từ năm 1993 là xây đúng ranh giới và các bên đã sử dụng đất ổn định ranh giới từ năm 1993 đến nay. Phần diện tích đất thiếu của thửa 49, tờ bản đồ số 36 không nằm trong thửa 50 (nay là một phần thửa 454, 463, tờ bản đồ số 36). Do đó, yêu cầu của bà V.T.T.H buộc ông T.V.T trả lại diện tích đất 36,9m2 theo sơ đồ vị trí ngày 29/3/2022 của Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất CR949339 cấp ngày 19/7/2019, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất CS801127 cấp ngày 10/9/2019 cho ông T.V.T, bà P.T.H1 là không có cơ sở chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm. 6 NHẬN ĐỊNH
Nhận định của hội đồng xét xử Bản án số: 01/2023/DS-PT Ngày: 05 - 01 - 2023. V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN: Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định: [1] Xét kháng cáo của bà V.T.T.H: [1.1] Về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất thửa số 49 (cũ 177), tờ bản đồ số 36 (cũ 07), phường 7, thành phố V.T, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu: Theo sự xác nhận của nguyên đơn và tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án thể hiện: Năm 1991, bà V.T.T.H và ông L.Q.Đ nhận chuyển nhượng của ông K.T.C diện tích đất 1174m2 theo “đơn xin chuyển nhượng thành quả lao động, kết quả đầu tư có gắn liền việc sử dụng đất” (BL 128). Ngày 18-9-1997 Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H 099304 (gọi tắt là giấy chứng nhận H 099304) diện tích 1.174m2 cho ông L.Q.Đ (BL137). Khi đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông Đ không nộp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, đất nên ngày 22-11-1999, Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ban hành Quyết định số 6019/QĐ-UB thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận H 099304 và cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O 898427 (gọi tắt là giấy chứng nhận O898427) cho hộ ông L.Q.Đ với diện tích 1.174m2, gồm 230m2 đất ở và 944m2 đất nông nghiệp (BL 56, 57). Năm 2003, bà T.H và ông Đ chuyển nhượng 171,8m2 đất, gồm 40m2 đất ở và 131,8m2 đất nông nghiệp cho ông L.V.H, bà N.T.L được Ủy ban nhân dân thành phố V.T xác nhận ngày 10-3-2004 tại trang 4 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O 898427, diện tích đất còn lại 1002,2m2, gồm 190m2 đất ở và 812,2m2 đất nông nghiệp (BL 56). Sơ đồ vị trí do Trung tâm kỹ thuật T nguyên môi trường tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cấp ngày 10-5-2004 (viết tắt là Sơ đồ ngày 10-5-2004) (BL 143) kèm biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất theo hiện trạng sử dụng đất ngày 23-4-2004 thể hiện phần đất thực tế còn lại của ông Đ, bà T.H là 972m2. Ngày 30-6-2004, Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ban hành Quyết định số 4457/QĐ-UB kèm sơ đồ vị trí đất cùng ngày của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh cho phép ông (bà) L.Q.Đ được chuyển mục đích 40m2 đất nông nghiệp sang xây dựng nhà ở, được điều chỉnh tại trang 4 giấy chứng nhận số O 898427 (BL 56). Diện tích đất còn lại theo giấy chứng nhận số O 898427 là 1002,2m2, gồm 230m2 đất ở và 772,2m2 đất nông nghiệp; Sơ đồ ngày 30-6-2004 kèm Quyết định trên được can vẽ theo sơ đồ ngày 10-5-2004. Tòa án đã yêu cầu Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường tỉnh đo vẽ thửa đất số 49 đồng thời lồng ghép giấy chứng nhận O 898427 vào Sơ đồ ngày 04- 10-1991 với sơ đồ vị trí sử dụng hiện nay nhưng Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường tỉnh không thực hiện được do không có tọa độ nền nên không có cơ sở lồng ghép (BL 114). Sơ đồ ngày 04-10-1991 thể hiện phần đất nguyên đơn có đặc điểm: Cạnh giáp tường rào khu 5 tầng gồm 02 đoạn ngang là 17,5m và 11,9m; 01 đoạn gấp khúc dài 06m; cạnh giáp đường hẻm gồm một đoạn thẳng và một đoạn lồi lõm không có so liệu; cạnh giáp đất ông C (thửa đất số 50 cũ) dài 40,8m; cạnh giáp đất ông Tr không có số liệu độ dài; đường đi chung (nay là hẻm 459) đoạn giáp thửa đất số 49 rộng 3,2m. So sánh các đoạn (17,5m; 6,0m) vị trí cạnh giáp khu 5 tầng tại sơ đồ ngày 04- 10-1991 với các đoạn gồm điểm 9, 10, 11, 12 (9,89m; 7,62m; 6,03m) sơ đồ ngày 16- 6-2022 và các đoạn gồm điểm 285, 292, 269, 291 (9,88; 7,62m; 6,03m) sơ đồ ngày 10-5-2004 thì hình thể giống nhau và độ dài cạnh thực tế sử dụng hiện nay dài hơn cạnh tương ứng tại sơ đồ ngày 04-10-1991 khoảng 0,01m đến 0,03m (9,89m + 7,62m so với 17,5 và 6,03m so với 6,0m). Do đó, xác định kích thước vị trí đất của nguyên đơn phần giáp khu 5 tầng giữa sơ đồ ngày 16-6-2022 và sơ đồ ngày 04-10-1991 là không thay đổi. So sánh đoạn giáp đất ông Cỏn tại sơ đồ ngày 04-10-1991 là 40,8m và đoạn 7, 8 và 9 sơ đồ ngày 16-6-2022 là 39,66m. Như vậy cạnh này hiện nay ngắn hơn cạnh theo sơ đồ ngày 04-01-1991 là 1,14m. Sơ đồ ngày 04-10-1991 có 02 cạnh không thể hiện kích thước. Tòa án đã yêu cầu cơ quan chuyên môn tiến hành phục dựng sơ đồ này nhưng không thực hiện được vì không đủ cơ sở kỹ thuật (BL 559). Tại sơ họa mốc ranh giới thửa đất trong biên bản xác định ranh giới mốc thửa đất ngày 23-4-2004 xác định ranh giới thửa đất ở thực địa theo sự chỉ ranh và mốc ranh giới của ông Đ, do Trung tâm kỹ thuật cung cấp (BL 558), biên bản này là cơ sở cấp sơ đồ ngày 10-5-2004. So sánh số liệu này với Sơ đồ ngày 16-6-2022 thì độ dài cạnh giáp đường hẻm 459 (điểm 6, 7) không đổi là 24,46m, độ dài cạnh giáp thửa 50 cũ (điểm 9, 8, 7) dài hơn 0,09m (22,81m + 16,85m - 39,57m); độ dài cạnh giáp nhà ông H (điểm 1, 2, 3, 4, 5, 6) ngắn hơn 0,037m (7,8m + 7,8m + 7,8m + 12,78m + 0,47m - 36,687m). Như vậy các cạnh nêu trên có độ dài chênh lệch rất nhỏ hoặc không đổi. Tại bản kê khai đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Đ ngày 09-9-1992 (BL 123, 150), chiều dài các cạnh của thửa đất ông Đ đăng ký là: Bắc giáp đất ông C dài 40,8m; Nam giáp L.H.Tr dài 32m; Đông giáp đất bà S.C dài 29,5m; Tây giáp bờ rào 5 tầng dài 29,5m. So sánh kích thước các cạnh thửa đất theo Bản kê khai đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Đ ngày 09-9-1992 với kích thước đất hiện nay theo sơ đồ vị trí ngày 16-6-2022, thể hiện: - Đoạn phía Đông giáp bà S.C là 29,5m theo Bản kê khai đăng ký cấp giấy của ông Đ ngày 09-9-1992, tương ứng với đoạn giáp đường hẻm hiện nay có kích thước 29,58m (gồm đoạn từ điểm 7 đến điểm 6 và phần đất đã chuyển nhượng cho ông H, bà L có chiều ngang là 5,12m theo sơ đồ vị trí ngày 16-6-2022), chênh lệch rất nhỏ là 0,08m. - Đoạn phía Bắc giáp đất ông C là 40,8m theo Bản kê khai đăng ký cấp giấy của ông Đ ngày 09-9-1992 (phù hợp sơ đồ ngày 04-01-1991 thể hiện đoạn này là 40,8m) và đoạn 7, 8 và 9 theo sơ đồ vị trí ngày 16-6-2022 là 39,66m, đoạn này hiện nay ngắn hơn đoạn theo bản kê khai đăng ký cấp giấy của ông Đ ngày 09-9-1992 là 1,14m. - Đoạn phía Nam giáp L.H.Tr là 32m theo Bản kê khai đăng ký cấp giấy của ông Đ ngày 09-9-1992, tương ứng hiện nay là đoạn 8,97m + 7,80m + 7,80m + 5,23m = 29,8m theo sơ đồ vị trí ngày 16-6-2022. Đoạn này hiện nay ngắn hơn so với bản kê khai đăng ký của ông Đ ngày 09-9-1992 là 2,2m . - Đoạn phía Tây giáp bờ rào 5 tầng là 29,5m theo Bản kê khai đăng ký cấp giấy của ông Đ ngày 09-9-1992, tương ứng hiện nay là đoạn 9,10,11,12 và 1 (sơ đồ vị trí ngày 16-6-2022) là 29,32m. Đoạn này hiện nay ngắn hơn theo Bản kê khai đăng ký cấp giấy của ông Đ ngày 09-9-1992 là 0,18m. Qua việc so sánh trên cho thấy diện tích đất thửa 49 cũ của nguyên đơn giảm so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho nguyên đơn trước đây là do biến động giảm kích thước chiều dài của thửa đất đoạn từ đường hẻm hiện nay đến giáp khu 5 tầng như nêu trên. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà T.H, ông Đ xác nhận kích thước thửa đất của bà T.H, ông Đ phía giáp khu 5 tầng hiện nay không thay đổi so với Sơ đồ ngày 04-10- 1991, bị đơn chỉ lấn phần đất phía trước; bà T.H kháng cáo yêu cầu bị đơn trả lại cho bà T.H 30,2m2 đất trong phần đất tranh chấp 36,9m2. Bà T.H và ông Đ cũng xác nhận tường rào do bà T.H và ông Đ xây dựng năm 1993 là để xác định ranh giới sử dụng đất của mình, từ trước đến nay bà T.H, ông Đ không sử dụng phần đất tranh chấp. [1.2] Về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất thửa số 50 cũ, tờ bản đồ số 36, phường 7, thành phố V.T: Ông T.V.K, bà P.T.Q nhận chuyển nhượng diện tích đất 549m2 của ông K.T.C (BL 200), được Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H 099301 (gọi tắt là giấy chứng nhận H 099301) ngày 18-9-1997. Ngày 20-01-1998 được điều chỉnh diện tích là 596m2 theo thực tế sử dụng được Sở địa chính tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xác nhận tại trang 4 giấy chứng nhận H 099301 (BL 187). Ông K, bà Q chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất trên cho ông N.T.Th, bà Đ.T.K.V, được Sở Địa chính tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xác nhận tại hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông K, bà Q với ông Th, bà V kèm sơ đồ vị trí và xác nhận tại trang 4 giấy chứng nhận H 099301 cùng ngày 21-01-1998 (BL 187, 194, 197). Ngày 12-3-2019, ông Th, bà V được Sở T nguyên và Môi trường tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cấp lại giấy chứng nhận số CP 931896, diện tích 577,2m2 đất, gồm 150m2 đất ở và 427,2m2 đất trồng cây lâu năm. Ngày 19-3-2019, ông Th, bà V chuyển nhượng toàn bộ 577,2m2 đất trên cho ông T.V.T và bà P.T.H1 được Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố V.T điều chỉnh sang tên ông T và bà Thanh H1 ngày 25-3-2019 tại trang 4 giấy chứng nhận số CP 931896 (BL 180). Ngày 10-4-2019, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hợp 03 thửa đất số 449, 450, 50 thành thửa đất số 451, tiếp theo tách thửa 451 thành 4 thửa 452, 453, 454, 455; ngày 19-7-2019 cấp lại giấy chứng nhận đất thửa số 454, 455 do xác định lại diện tích đất ở; ngày 10-9-2019, tách thửa đất số 455 thành 02 thửa 463, 464 và cấp 02 giấy chứng nhận cho chủ sử dụng đất là ông T.V.T và bà P.T.H1. Như vậy, thửa đất số 50 mà ông T, bà Thanh H1 nhận chuyển nhượng của ông Th, bà V nay được điều chỉnh thành thửa 453/1 diện tích 37,9m2 nằm trong thửa đất số 453 diện tích 144,6m2, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CQ 685434 cấp ngày 10-4-2019; thửa 454 diện tích 385,9m2, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR 949339 cấp ngày 19-7-2019; thửa 463 diện tích 76,3m2, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS 801127 và thửa đất 464, diện tích 77,3m2, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS 801128 cấp cùng ngày 10-9-2019. Đối chiếu với hồ sơ Tòa án thu thập và ý kiến của Sở T nguyên và môi trường tỉnh cho thấy việc ông T, bà Thanh H1 nhận chuyển nhượng, tách, hợp thửa đất 50 cũ được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh thực hiện đúng quy định pháp luật. Đối với việc biến động diện tích đất thửa 50 cũ: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh xác nhận tại thời điểm điều chỉnh tăng diện tích từ 549m2 sang 596m2 thì ông K sử dụng hợp pháp, ổn định về ranh giới, không tranh chấp. Bản đồ địa chính trước năm 2002 đo vẽ bằng phương pháp thủ công, không có độ chính xác cao nên dẫn đến việc diện tích đã cấp giấy chênh lệch so với diện tích thực tế sử dụng và không xác định được diện tích tăng tại vị trí nào của thửa đất. Việc xác nhận điều chỉnh tăng diện tích theo Hướng dẫn số 777/HD-ĐC ngày 03-10-1997 của Sở Địa chính đối với trường hợp có diện tích chênh lệch nhỏ hơn 10% đất nông nghiệp sử dụng ổn định (không phải đất do Nhà nước giao) (BL 340, 470). Việc cấp lại giấy chứng nhận số CP 931896 là do ông Th, bà V có đơn đề nghị cấp lại vì mất giấy chứng nhận được quy định tại Điều 77 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15-5-2014 của Chính Phủ (BL 497). Diện tích đất giảm 18,8m2 từ 596m2 xuống 577,2m2 được xác định theo thực tế sử dụng, thửa đất được xây dựng tường rào cố định, có ranh giới rõ ràng. Việc điều chỉnh giảm 18,8m2 đất trồng cây lâu năm do có đơn ngày 28-02-2019 của bà V cam kết giảm diện tích, chấp nhận diện tích theo số liệu đo đạc thực tế và không ghi nhận tài sản trên đất, được căn cứ tại điểm k khoản 1 Điều 99, khoản 5 Điều 98 Luật Đất đai năm 2013 (BL 246). Qua xem xét thẩm định tại chỗ và sự thừa nhận của các bên đương sự, xác định ranh giới giữa thửa đất số 50 cũ và 49 cũ có chung tường rào do bà T.H xây dựng khoảng năm 1993 và các bên căn cứ ranh giới này sử dụng từ đó cho đến nay. Tại thời điểm tăng diện tích đất thửa 50 cũ thì chủ sử dụng các thửa đất số 49 và 50 cũ không có tranh chấp. Việc điều chỉnh tăng diện tích đất có đơn “xem xét lại diện tích đất đang sử dụng” của bà Q, được Ủy ban nhân dân phường 7 xác nhận, được Sở Địa chính xác nhận trang 4 giấy chứng nhận H 099301. Điều này phù hợp với ý kiến của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh về việc thời điểm điều chỉnh tăng diện tích từ 549m2 sang 596m2 thì ông K, Q sử dụng hợp pháp, ổn định về ranh giới, không tranh chấp. Về việc điều chỉnh giảm diện tích từ 596m2 thành 577,2m2 do cấp lại giấy chứng nhận do giấy chứng nhận số H 099301 bị mất bản chính và đơn cam kết giảm diện tích và không ghi nhận tài sản trên đất của bà V ngày 28-02-2019 (BL 204, 209, 210). Như vậy việc tăng, giảm diện tích thửa đất số 50 cũ được thực hiện đúng quy định pháp luật. Ranh giới giữa thửa đất số 49, 50 cũ không thay đổi trong các lần điều chỉnh tăng, giảm diện tích thửa đất số 50 cũ cho đến nay. Diện tích đất tranh chấp 36,9m2 thuộc lô B diện tích 21,7m2 và lô D diện tích 15,2m2 thửa 454 và 463, tờ bản đồ số 36 (theo sơ đồ vị trí ngày 16-6-2022) được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho ông T.V.T, bà P.T.H1, hiện do ông T, bà Thanh H1 đang quản lý sử dụng. [1.3] Sơ đồ vị trí ngày 16-6-2022 của Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu là sơ đồ vị trí ngày 29-3-2022 của Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nhưng có chỉnh sửa nội dung ghi chú và bảng kê tọa độ do bị nhầm lẫn, do vậy căn cứ sơ đồ vị trí ngày 16-6-2022 để giải quyết. [1.4] Tại Tòa án cấp phúc thẩm, ông T.V.K, bà P.T.Q xác nhận ông, bà mua nhà và đất khoảng năm 1991 – 1992, đất đã được cắm mốc từ trước, có ranh giới rõ ràng với tứ cận. Trong suốt quá trình ông K, bà Q sử dụng ổn định theo ranh giới có sẵn không tranh chấp với ai. Khoảng năm 1997 ông K, bà Q bán lại nhà và đất cho ông Th và bà V. Từ khi mua đến khi bán hiện trạng đất không thay đổi, ông K, bà Q đã bàn giao nhà và đất đúng khuôn viên ranh giới đã nhận từ ông Cỏn. Việc mua bán đã xong, hiện nay ông K, bà Q không còn quyền lợi gì và không liên quan gì đến đất tranh chấp. [1.5] Bà V.T.T.H cho rằng thửa đất số 50 cũ có nguồn gốc do ông K.T.C chuyển nhượng cho ông T.V.K, bà P.T.Q, khi chuyển nhượng, mặt tiếp giáp đường hẻm và mặt tiếp giáp khu 5 tầng đều có chiều ngang đất dài 14m, phía bị đơn không thừa nhận nội dung trình bày này của bà T.H, bà T.H không có chứng cứ chứng minh về nội dung trình bày này của mình nên không có căn cứ chấp nhận. [1.6] Ông P.X.Đg là người làm chứng theo đề nghị của nguyên đơn xác nhận đường hẻm giáp đất bà T.H rộng ra do các hộ đối diện đất bà T.H sử dụng lùi vào và không ảnh hưởng diện tích đất của bà T.H. Nhận thấy: Sự biến động của đường hẻm không là căn cứ để giải quyết vụ án như nhận định ở phần trên nên không xét nội dung trình bày này của ông Đg. [1.7] Từ phân tích và nhận định trên, có căn cứ xác định bà T.H xây dựng tường rào ranh giới giữa thửa đất số 49, 50 cũ là đúng ranh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Đ, bà T.H. Không có căn cứ xác định phần diện tích đất của bà T.H và ông Đ thiếu so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O 898427 cấp cho ông Đ, bà T.H là thuộc phần đất lô B sơ đồ vị trí ngày 16-6-2022 thuộc thửa số 454, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR 949339 cấp ngày 19-7-2019 và lô D sơ đồ vị trí ngày 16-6-2022 thuộc thửa đất số 463, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS801127 cấp ngày 10-9-2019 cấp cho ông T, bà Thanh H1; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR 949339 và số CS 801127 cấp cho ông T, bà Thanh H1 đúng quy định pháp luật. Việc bà T.H yêu cầu ông T.V.T trả lại cho bà diện tích 36,9m2 đất thuộc thửa số 454, 463, tờ bản đồ số 36 và hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR 949339, số CS 801127 tương ứng với diện tích đất 36,9m2 nêu trên là không có căn cứ chấp nhận. Không chấp nhận kháng cáo của bà V.T.T.H. Giữ nguyên bản án sơ thẩm. [2] Chi phí đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản, sao lục hồ sơ là 15.169.000 đồng: Bà V.T.T.H phải chịu. Đã nộp xong. [3] Án phí dân sự sơ thẩm: Bà V.T.T.H phải chịu nhưng được miễn do là người cao tuổi; Ông T.V.T không phải chịu. [4] Án phí dân sự phúc thẩm: Bà V.T.T.H phải chịu nhưng được miễn do là người cao tuổi. Vì các lẽ trên,
Quyết định của hội đồng xét xử Bản án số: 01/2023/DS-PT Ngày: 05 - 01 - 2023. V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
QUYẾT ĐỊNH: Không chấp nhận kháng cáo của bà V.T.T.H. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 42/2022/DS-ST ngày 28 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố V.T, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu như sau: Căn cứ vào các Điều 147, 157, 165, 227, 228, 229, khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 166, 167, 170 của Luật đất đai năm 2013; các Điều 12, 26, 27, 29 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử: 1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà V.T.T.H về việc: Buộc ông T.V.T trả lại cho bà V.T.T.H diện tích đất 36,9m2, gồm: 21,7m2 đất thuộc thửa số 454, tờ bản đồ số 36, phường 7, thành phố V.T theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR 949339 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cấp ngày 19-7- 2019 cho ông T.V.T, bà P.T.H1 và 15,2m2 đất thuộc thửa số 463, tờ bản đồ số 36, phường 7, thành phố V.T theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS 801127 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cấp ngày 10-9-2019 cho ông T.V.T, bà P.T.H1, và không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà V.T.T.H về hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR 949339 và số CS 801127 tương ứng với diện tích 36,9m2 đất nêu trên. 2. Chi phí đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản, sao lục hồ sơ là 15.169.000 đồng (mười lăm triệu một trăm sáu mươi chín nghìn đồng): Bà V.T.T.H phải chịu. Đã nộp xong. 3. Án phí dân sự sơ thẩm: Bà V.T.T.H phải chịu 300.000 đồng nhưng được miễn do là người cao tuổi. 4. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà V.T.T.H phải chịu 300.000 đồng nhưng được miễn do là người cao tuổi. 5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi 11 hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”. 6. Bản án có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Tên bản án là gì Bản án số: 54/2022/DS-PT Ngày 01 - 8 - 2022 V/v: “Tranh chấp khoản tiền bồi thường do quyền sử dụng đất bị thu hồi”
Bản án số: 54/2022/DS-PT Ngày 01 - 8 - 2022 V/v: “Tranh chấp khoản tiền bồi thường do quyền sử dụng đất bị thu hồi”
Hội đồng xét xử gồm những ai Bản án số: 54/2022/DS-PT Ngày 01 - 8 - 2022 V/v: “Tranh chấp khoản tiền bồi thường do quyền sử dụng đất bị thu hồi”
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Cao Xuân Long Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Minh Châu Ông Đặng Đức Hào
Ai là nguyên đơn Bản án số: 54/2022/DS-PT Ngày 01 - 8 - 2022 V/v: “Tranh chấp khoản tiền bồi thường do quyền sử dụng đất bị thu hồi”
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1945; địa chỉ: Tổ X, khu phố Y, phường L, thành phố B, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (đã chết). Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông B: Nguyễn Hữu Đ, sinh năm 1971; địa chỉ số X, khu phố Y, phường L, thành phố B, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có mặt).
Ai là bị đơn Bản án số: 54/2022/DS-PT Ngày 01 - 8 - 2022 V/v: “Tranh chấp khoản tiền bồi thường do quyền sử dụng đất bị thu hồi”
Bị đơn: - Ông Lê Văn L, sinh năm 1929 và bà Ngô Thị C, sinh năm 1933; HKTT: số X, khu phố L, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (ông L, bà C đã chết). Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông L, bà C: Ông Lê Duy H, sinh năm 1975 (vắng mặt) và Lê Thị Thu B, sinh năm 1960 (vắng mặt); cùng trú tại khu phố L, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Ai là đại diện Viện kiểm sát Bản án số: 54/2022/DS-PT Ngày 01 - 8 - 2022 V/v: “Tranh chấp khoản tiền bồi thường do quyền sử dụng đất bị thu hồi”
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thanh Thủy - Kiểm sát viên
Ai là thư ký toà Bản án số: 54/2022/DS-PT Ngày 01 - 8 - 2022 V/v: “Tranh chấp khoản tiền bồi thường do quyền sử dụng đất bị thu hồi”
Thư ký phiên tòa: Bà Hồ Thị Hồng Hạnh - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Nội dung vụ án theo trình bày của nguyên đơn Bản án số: 54/2022/DS-PT Ngày 01 - 8 - 2022 V/v: “Tranh chấp khoản tiền bồi thường do quyền sử dụng đất bị thu hồi”
Tại Đơn khởi kiện ngày 31-7-2018; ngày 03-5-2019 và quá trình tố tụng tại Tòa ông Nguyễn Văn B, ông Nguyễn Hữu Đ đều trình bày: Nguyên từ năm 1972, ông B có nhận chuyển nhượng của ông H (nay đã chết) phần đất đùng ước tính diện tích khoảng 1,5ha để nuôi thủy sản (tôm, cá) và cũng để chứa nước làm ruộng muối. Trong quá trình sử dụng ông B có cải tạo mở rộng thêm phần diện tích khoảng 01 ha nữa, tổng cộng 2,5ha. Đến năm 1998 Nhà nước thu hồi 2.082m2 đất để làm công trình nhà máy sản xuất muối công nghiệp và bồi thường cho ông B số tiền 52.618.000 đồng. Phần diện tích còn lại hiện nay là thửa số 112, tờ bản đồ số 35, diện tích 23.902,4m2 tọa lạc tại phường Long Toàn thành phố B. Trong quá trình canh tác, sử dụng hơn 40 năm chỉ có gia đình ông B bỏ công sức, tiền của để nạo vét, làm bờ đùng nhưng xét thấy bà con xóm giềng 5 làm muối gần nhau nên ông B có cho 05 hộ như: ông Lê Văn L, Trần Văn L6, Nguyễn Văn B1, Nguyễn Văn H2, Nguyễn Văn L1 lấy nước từ đùng của ông B để dẫn vào ruộng muối của họ. Nhưng khi UBND thành phố B thu hồi 1.046m2 (thuộc một phần thửa 112, tờ bản đồ số 35, tọa lạc tại phường Long Toàn) và bồi thường số tiền 1.173.179.000 đồng để đầu tư xây dựng trụ sở làm việc Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu thì 05 hộ trên và các hộ nữa (nhưng ông B không biết họ là ai) xin đăng ký nhận tiền bồi thường và xảy ra tranh chấp. Việc mua đất của ông B và ông H có lập giấy tờ tay nhưng nay đã thất lạc. Tuy nhiên, ông B còn lưu giữ những giấy tờ khác để chứng minh ông B là chủ sử dụng hợp pháp thửa đất này như:
Nội dung vụ án theo trình bày của bị đơn Bản án số: 54/2022/DS-PT Ngày 01 - 8 - 2022 V/v: “Tranh chấp khoản tiền bồi thường do quyền sử dụng đất bị thu hồi”
Đơn xin vay kiêm khế ước ngày 10-9-1976 (tại đơn vay thể hiện rõ là ông B vay vốn để thuê 250 công lao động và làm đùng và sửa ruộng muối; - Biên bản giao nhận tiền đền bù ngày 25-5-1998 (ông B được UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đền bù 52.618.000 đồng khi thu hồi 2.082m2 đất đùng để xây dựng nhà máy sản xuất muối công nghiệp phường Long Toàn); - Tại biên bản hòa giải ngày 23-8-2017 của UBND phường Long Toàn thì chính các hộ dân tranh chấp đùng với ông B thừa nhận ông B đắp bờ, canh tác, sử dụng và hưởng sản lượng tôm, cá trên đùng này. Tại phiên tòa, ông Đ yêu cầu tuyên công nhận cho các ông (bà) Nguyễn Hữu Đ, Nguyễn Thu T8, Nguyễn Thị Thu V, Nguyễn Hữu T7, Nguyễn Thị S, Nguyễn Hữu P, Nguyễn Thị L5, Nguyễn Thị Thu N5 (là con ruột của ông Nguyễn Văn B và bà Hồ Thị S1 đều đã chết) được nhận số tiền bồi thường 1.173.179.000 đồng đối với phần đất 1.046,5m2 bị thu hồi trong quyết định số 2880/QĐ-UBND ngày 29-6-2017 và việc bồi thường, hỗ trợ trong quyết định số 2887/QĐ-UBND ngày 29-6-2017 của UBND thành phố B. Ngoài yêu cầu trên nguyên đơn không yêu cầu nào khác. Tại bản tự khai ngày 29-9-2018 và quá trình tố tụng tại tòa ông Lý Mộng K1 - đại diện theo ủy quyền của các bị đơn đều xác nhận: Ngày 18-6-2018, Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã thụ lý hồ sơ dân sự số 167/2018/TLST-DS, về tranh chấp “Đòi tài sản”theo đơn khởi kiện của ông Nguyễn Văn B đối với 22 bị đơn bị thu hồi 1.046,5m2 đất tọa lạc tại phường Long Toàn, thành phố B để đầu tư dự án: trụ sở làm việc Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu theo Quyết định số 2880/QĐUBND ngày 29-6-2017. Nay ông K1 được nhận ủy quyền của những bị đơn nêu trên có ý kiến như sau: - Diện tích 23.904,2m2 do tập thể bà con Diêm dân khai phá trước năm 1975 để lấy nước làm muối thuộc thửa 112, tờ bản đồ số 35 tọa lạc tại phường Long Toàn, thành phố B và hàng năm đều sử dụng lấy nước mặn để làm muối. - Ngày 15-3-2017, Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố B ra Thông báo số 435/TB-TTPTQĐ công khai phương án bồi thường hỗ trợ tái định cư đối
Lập luận của luật sư bảo vệ quyền lợi của bị đơn Bản án số: 54/2022/DS-PT Ngày 01 - 8 - 2022 V/v: “Tranh chấp khoản tiền bồi thường do quyền sử dụng đất bị thu hồi”
Các ông(bà) Nguyễn Hữu Đ, Nguyễn Thu T8, Nguyễn Thị Thu V, Nguyễn Hữu T7, Nguyễn Thị S, Nguyễn Hữu P đều trình bày: Nguyên từ năm 1972, ông B có nhận chuyển nhượng của ông H (nay đã chết) phần đất đùng ước tính diện tích khoảng 1,5ha để nuôi thủy sản (tôm, cá) và cũng để chứa nước làm ruộng muối. Trong quá trình sử dụng ông B có cải tạo mở rộng thêm phần diện tích khoảng 01 ha nữa, tổng cộng 2,5ha. Đến năm 1998 Nhà nước thu hồi 2.082m2 đất để làm công trình nhà máy sản xuất muối công nghiệp và bồi thường cho ông B số tiền 52.618.000 đồng. Phần diện tích còn lại hiện nay là thửa số 112, tờ bản đồ số 35, diện tích 2.3902,4m2 tọa lạc tại phường Long Toàn thành phố B.
Quyết định của toà sơ thẩm Bản án số: 54/2022/DS-PT Ngày 01 - 8 - 2022 V/v: “Tranh chấp khoản tiền bồi thường do quyền sử dụng đất bị thu hồi”
Đối với bà Nguyễn Thị Thu N5, sinh ngày 06-6-1977, có đăng ký lại giấy khai sinh tại UBND phường Long Toàn ngày 02-11-2000. Theo đơn cung cấp địa chỉ của ông Nguyễn Hữu Đ ngày 14-8-2020, thì bà Nguyệt đang sinh sống tại địa chỉ: 5 Floor, Room No 5, 5 Alley, 531 lane, quarter 2, Thong Shan Street, 10 Commue, Then Xing Waed, Ban Town, Xin Bei City, Taiwan. Ngày 19-9-2020, Tòa án nhân dân huyện Long Điền đã gửi các tài liệu giấy tờ đồng thời hướng dẫn ghi ý kiến(theo phiếu chuyển phát số 794600 ngày 19-9-2020) nhưng đến nay đã quá 4 tháng bà N5 không phản hồi nên không ghi nhận được lời khai của bà N5. Theo giấy ủy quyền ngày 04-6-2021, bà Nguyễn Thị Thu N5 ủy quyền cho ông Nguyễn Hữu Đ thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà trong vụ án. Tại các phiên tòa, ông Đ đều trình bày ý kiến thay bà N5 là bà N5 có cùng yêu cầu với các ông bà như: Đ, P, T7, T8, và V “Yêu cầu được nhận chung toàn bộ số tiền bồi thường 1.173.179.000 đồng, do đất bị thu hồi đầu tư xây dựng trụ sở làm việc của Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Quan điểm của viện kiểm sát Bản án số: 54/2022/DS-PT Ngày 01 - 8 - 2022 V/v: “Tranh chấp khoản tiền bồi thường do quyền sử dụng đất bị thu hồi”
Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hữu Đ (người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Văn B) đối với các bị đơn: Ông Lê Văn L, ông Nguyễn Văn L1, ông Nguyễn Thành N, ông Bùi Văn N1, ông Thái Văn T1, ông Nguyễn Văn H1, bà Nguyễn Thị D, ông Nguyễn Văn B1, ông Nguyễn Văn H2, ông Châu Ngọc M1, bà Nguyễn Thị Ánh T2, ông Nguyễn Tấn T3, ông Bùi Văn L2, ông Phạm Quốc T4, bà Võ Thị T5, ông Trần Văn L6, ông Nguyễn Thanh S, bà Nguyễn Thị Thu T5, ông Trần Thế H5, bà Đặng Thị Mai H6, ông Võ Phúc K và bà Lê Thị T7, về việc: “Đòi nhận tiền bồi thường do đất bị thu hồi”.
Nhận định của hội đồng xét xử Bản án số: 54/2022/DS-PT Ngày 01 - 8 - 2022 V/v: “Tranh chấp khoản tiền bồi thường do quyền sử dụng đất bị thu hồi”
Tại công văn số: 3957 ngày 25-5-2020, của UBND thành phố B như sau: UBND thành phố B nhận được công văn số 60/CV-TA ngày 11-3-2020 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền đề nghị cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ có liên quan trong vụ án ông Nguyễn Văn B khởi kiện. Qua rà sót hồ sơ về các nội dung mà Tòa án yêu cầu, UBND thành phố B có ý kiến như sau: Khi thực hiện công trình trụ sở làm việc Cục Hải quan tỉnh, phường Long Toàn, thành phố B, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; UBND thành phố đã ban hành quyết định số 2880/QĐ-UBND ngày 29-6-2017 và quyết định số 2887/QĐ-UBND ngày 29-6-2017 v/v thu hồi đất và bồi thường cho tập thể 22 hộ tại phường Long Toàn. Trong danh sách đối tượng bồi thường của công trình không có tên ông Nguyễn Văn B. Ngày 23-8-2017, UBND phường Long Toàn có mời ông B và 22 hộ dân lên làm việc hòa giải, kết quả hòa giải không thành (có biên bản hòa giải). Sau buổi hòa giải, ông B không có đơn khiếu nại gửi UBND phường Long Toàn, UBND thành phố B. UBND thành phố chỉ nhận được đơn khiếu nại ngày 10-8-2018 của ông Nguyễn Văn L1 là 1 trong 22 hộ dân thuộc công trình trụ sở làm việc Cục Hải quan Tỉnh. Qua quá trình làm việc giải quyết khiếu nại ngày 11-12-2018, ông Lịnh có đơn xin rút khiếu nại và đã được UBND thành phố ban hành Thông báo không thụ lý giải quyết đơn số 04/TB-UBND ngày 03-01-2019. Về số tiền bồi thường:
Quyết định của hội đồng xét xử
Tên bản án là gì Bản án số: 46/2020/DS-PT Ngày: 14 - 5 - 2020 V/v: Tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
Bản án số: 46/2020/DS-PT Ngày: 14 - 5 - 2020 V/v: Tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
Hội đồng xét xử gồm những ai Bản án số: 46/2020/DS-PT Ngày: 14 - 5 - 2020 V/v: Tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
Thành phần hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Trương Văn Tâm Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Thành Hiếu Ông Cao Xuân Long
Ai là nguyên đơn Bản án số: 46/2020/DS-PT Ngày: 14 - 5 - 2020 V/v: Tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Minh M, sinh năm 1962; địa chỉ: 70 T, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông. (Có mặt).
Ai là bị đơn Bản án số: 46/2020/DS-PT Ngày: 14 - 5 - 2020 V/v: Tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
Bị đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần Q; địa chỉ: 21 C, phường L, quận Đ, thành phố Hà Nội.
Ai là đại diện Viện kiểm sát Bản án số: 46/2020/DS-PT Ngày: 14 - 5 - 2020 V/v: Tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu: Ông Lê Văn Thiên - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ai là thư ký toà Bản án số: 46/2020/DS-PT Ngày: 14 - 5 - 2020 V/v: Tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
Thư ký phiên tòa: Bà Lê Thị Thúy – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Nội dung vụ án theo trình bày của nguyên đơn Bản án số: 46/2020/DS-PT Ngày: 14 - 5 - 2020 V/v: Tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
Theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Nguyễn Minh M trình bày: Ông và bà Lê Thị Z là vợ chồng. Ông và bà Z có tài sản chung là quyền sử dụng đất diện tích 1.829m2 thửa số 115 tờ bản đồ 38 xã Kim Long (nay là xã Bàu Chinh), huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Bà Z đã ủy quyền cho ông thửa đất nêu trên để vay vốn làm ăn nhưng bà Z lại ký hợp đồng thế chấp tài sản bảo lãnh cho Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất thương mại dịch vụ Phượng Lvay vốn của Ngân hàng TMCP Q. Ông không biết số tiền vay là bao nhiêu, không rõ vì sao Ngân hàng và Văn phòng công chứng Vì Dân lại chấp nhận cho bà Z đơn phương ký hợp đồng. Sau đó Ngân hàng ký hợp đồng bán đấu giá tài sản và hiện nay tài sản này đã chuyển sang tên người mua là ông Tô Hoài Đức. Ông đã liên hệ Ngân hàng TMCP Q để yêu cầu giải quyết nhưng không được giải quyết. Nay ông yêu cầu giải quyết nội dung sau:
Nội dung vụ án theo trình bày của bị đơn Bản án số: 46/2020/DS-PT Ngày: 14 - 5 - 2020 V/v: Tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
Ngân hàng TMCP Q có yêu cầu như sau: + Ngân hàng TMCP Q cho vay và nhận thế chấp tài sản theo quy định, được công chứng và đăng ký. Do khách hàng vay vốn đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng TMCP Q xử lý tài sản bảo đảm để thu nợ. Việc xử lý tài sản bảo đảm được thực hiện đúng theo thoả thuận tại hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp và 4 quy định của pháp luật, tài sản đã sang tên cho người mua được tài sản đấu giá, đề nghị Toà án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; + Nếu toà án xác định việc ký kết hợp đồng thế chấp có sai sót do thiếu chủ thể Bên thế chấp thì yêu cầu Toà án xác định phần giá trị tài sản thuộc quyền của bà Z và công nhận hiệu lực hợp đồng với phần tài sản đó, đồng thời công nhận hợp đồng mua bán tài sản đấu giá có hiệu lực, không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc đòi lại tài sản, bà Z có trách nhiệm trả cho ông M phần giá trị thuộc quyền sở hữu của ông trong khối tài sản chung nếu ông M có yêu cầu; + Trường hợp Toà án tuyên hợp đồng thế chấp vô hiệu (một phần hoặc toàn bộ) mà dẫn đến Ngân hàng TMCP Q phải trả lại một phần hoặc toàn bộ số tiền đã thu thì buộc công ty TNHH Sản xuất Thương Mại Dịch vụ Phượng Lphải thanh toán toàn bộ số tiền còn nợ tương ứng; buộc Văn phòng Công chứng đã chứng nhận hợp đồng phải bồi thường toàn bộ các chi phí xử lý nợ, bán đấu giá tài sản và bồi thường thiệt hại cho Ngân hàng TMCP Q.
Lập luận của luật sư bảo vệ quyền lợi của bị đơn Bản án số: 46/2020/DS-PT Ngày: 14 - 5 - 2020 V/v: Tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
- Người có quyền và nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị Z trình bày: Bà là vợ ông Nguyễn Minh M, kết hôn năm 1986. Trong thời gian chung sống vợ chồng bà mua được diện tích đất 1829m2 , thửa số 115, tờ bản đồ 38, xã Kim Long (nay là xã Bàu chinh), huyện Châu Đức. Ngày 18/4/2011, bà ký ủy quyền cho ông M thửa đất để tiện việc làm ăn. Khi ký ủy quyền tại văn phòng công chứng Vì Dân, bà không đọc nội dung, cán bộ văn phòng đưa giấy tờ thì bà ký tên, không biết là đã ký thế chấp tài sản cho công ty TNHH Sản xuất Thương Mại Dịch vụ Phượng L vay vốn. Khi ông M biết việc đã giận bà và bỏ đi Đăknông. Năm 2017 bà mới đi theo ông M đến Đăknông. Năm 2018 bà biết được đất của gia đình bà bị Ngân hàng bán cho ông Tô Hoài Đức. Ông M đã làm đơn khởi kiện, bà cũng đề nghị Tòa án giải quyết cho gia đình bà được giữ lại thửa đất của gia đình. - Văn phòng công chứng Nguyễn Duy Thành, tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu trình bày: Ngày 18/4/2011, công chứng viên Trần Văn Phúc, Văn phòng công chứng Vì Dân (nay là văn phòng công chứng Nguyễn Duy Thành) có tiếp nhận yêu cầu và xử lý hồ sơ công chứng của bà Lê Thị Z cùng chồng là ông Nguyễn Minh M và công ty TNHH Sản xuất Thương mại Dịch vụ Phượng Ldo ông Nguyễn Trí Phượng làm đại diện, cùng Ngân hàng TMCP Q – phòng giao dịch Cái Mép do ông Nguyễn Hữu Tuấn làm đại diện. Nội dung yêu cầu:
Quyết định của toà sơ thẩm Bản án số: 46/2020/DS-PT Ngày: 14 - 5 - 2020 V/v: Tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Tô Hoài Đức do ông Đỗ Hoài P là người đại diện trình bày: Nguồn gốc thửa đất số 115, tờ bản đồ số 38, xã Kim Long, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu có diện tích 1.829m2 là của hộ bà Lê Thị Z, được Ủy ban nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ 027997 ngày 30/11/2014.
Quan điểm của viện kiểm sát Bản án số: 46/2020/DS-PT Ngày: 14 - 5 - 2020 V/v: Tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
Ngày 03/12/2019 Ngân hàng TMCP Q kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết: Sửa một phần bản án sơ thẩm. Công nhận một phần hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba số 86.11.553.836227.DB ký ngày 18/4/2011 đối với quyền sử dụng đất 1.829m2 thửa 115 tờ bản đồ số 38 xã Kim Long, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu giữa bà Lê Thị Z là bên thế chấp và Công ty TNHH SX TMDV Phượng Llà bên vay với bên nhận thế chấp là Ngân hàng TMCP Q. Yêu cầu Công ty TNHH SX TMDV Phượng Lphải thanh toán 2.605.375.000
Nhận định của hội đồng xét xử Bản án số: 46/2020/DS-PT Ngày: 14 - 5 - 2020 V/v: Tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
Quyền sử dụng đất diện tích 1.829m2 thửa số 115, tờ bản đồ số 38, xã Kim Long (nay là xã Bàu Chinh), huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu là tài sản chung của ông Nguyễn Minh M và bà Lê Thị Z. Ngày 18/4/2011 bà Lê Thị Z ký hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất nêu trên để bảo đảm cho Công ty TNHH SX TMDV Phượng Lvay vốn Ngân hàng TMCP Q. Ông Nguyễn Minh M không ký hợp đồng thế chấp và không ủy quyền cho bà Lê Thị Z thế chấp quyền sử dụng đất nêu trên, cũng không có căn cứ xác định tại thời điểm bà Lê Thị Z ký hợp đồng thế chấp nêu trên thì ông Nguyễn Minh M có biết việc bà Z ký hợp đồng thế chấp này. Do vậy hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất diện tích 1.829m2 thửa số 115 tờ bản đồ 38 xã Kim Long (nay là xã Bàu Chinh), huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu giữa bà Lê Thị Z với Ngân hàng TMCP Q ngày 18/4/2011 là vô hiệu và cần tuyên hủy hợp đồng thế chấp này. Tuy nhiên, tài sản thế chấp đã bán đấu giá hợp pháp cho ông Tô Hoài Đức nên Công nhận hợp đồng mua tài sản đấu giá của ông Tô Hoài Đức để bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự. Án sơ thẩm Hủy hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất 1.829m2 thửa số 115, tờ bản đồ 38, xã Kim Long (nay là xã Bàu Chinh), huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu giữa bà Lê Thị Z với Ngân hàng TMCP Q, đồng thời không chấp nhận yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá tài sản là có căn cứ.
Quyết định của hội đồng xét xử Bản án số: 46/2020/DS-PT Ngày: 14 - 5 - 2020 V/v: Tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
Án phí dân sự phúc thẩm: Ngân hàng TMCP Q không phải chịu. Hoàn lại cho Ngân hàng TMCP Q 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số 0003134 ngày 09/12/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Bản án có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Tên bản án là gì Bản án số: 88/2020/DS-PT Ngày 3 tháng 7 năm 2020 “V/v: Tranh chấp Đòi lại tài sản; Hợp đồng cung ứng dịch vụ và đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”
Bản án số: 88/2020/DS-PT Ngày 3 tháng 7 năm 2020 “V/v: Tranh chấp Đòi lại tài sản; Hợp đồng cung ứng dịch vụ và đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”
Hội đồng xét xử gồm những ai Bản án số: 88/2020/DS-PT Ngày 3 tháng 7 năm 2020 “V/v: Tranh chấp Đòi lại tài sản; Hợp đồng cung ứng dịch vụ và đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Trịnh Hoàng Anh Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Phương Bắc Ông Trương Văn Tâm
Ai là nguyên đơn Bản án số: 88/2020/DS-PT Ngày 3 tháng 7 năm 2020 “V/v: Tranh chấp Đòi lại tài sản; Hợp đồng cung ứng dịch vụ và đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”
Nguyên đơn: Tổng công ty B; Địa chỉ trụ sở: Số 5, đường P, phường M, quận N, thành phố Hà Nội. +Người đại diện theo pháp luật: Ông Chu Quang H – Chức vụ: Tổng giám đốc (Vắng mặt). +Người đại diện theo ủy quyền: Ông Dương Minh C – Chức vụ: Phó giám đốc B tỉnh B. (Văn bản ủy quyền ngày 20/6/2019). Có mặt + Người đại diện theo ủy quyền lại: Bà Lê Thị G, sinh năm 1989; Địa chỉ: Số 557, đường P, phường P, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. (Văn bản ủy quyền ngày 24/6/2019). Có mặt
Ai là bị đơn Bản án số: 88/2020/DS-PT Ngày 3 tháng 7 năm 2020 “V/v: Tranh chấp Đòi lại tài sản; Hợp đồng cung ứng dịch vụ và đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”
Bị đơn: Bà Đoàn Thị L, sinh năm 1974; Địa chỉ: Ấp 3, xã T, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (Có mặt). 2 +Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Huỳnh Ngọc H, Luật sư – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh B (Có mặt).
Ai là đại diện Viện kiểm sát Bản án số: 88/2020/DS-PT Ngày 3 tháng 7 năm 2020 “V/v: Tranh chấp Đòi lại tài sản; Hợp đồng cung ứng dịch vụ và đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”
-Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu tham gia phiên toà: Bà Bùi Thị Doan - Kiểm sát viên.
Ai là thư ký toà Bản án số: 88/2020/DS-PT Ngày 3 tháng 7 năm 2020 “V/v: Tranh chấp Đòi lại tài sản; Hợp đồng cung ứng dịch vụ và đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”
Thư ký phiên tòa: Bà Lê Thị Ngân –Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Nội dung vụ án theo trình bày của nguyên đơn Bản án số: 88/2020/DS-PT Ngày 3 tháng 7 năm 2020 “V/v: Tranh chấp Đòi lại tài sản; Hợp đồng cung ứng dịch vụ và đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”
Theo đơn khởi kiện và tại các bản khai nguyên đơn ông Dương Minh C trình bày:Nhà đất của B Văn hóa xã T (sau đây gọi tắt là B T), cụ thể ở thửa đất số 161B, tờ bản đồ số 14, diện tích khoảng 700m2 tọa lạc tại ấp 3, xã T, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là của Tổng Công ty B Việt Nam (sau đây gọi tắt là B Việt Nam) giao cho B tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (sau đây gọi tắt là B tỉnh) quản lý, sử dụng để sản xuất kinh doanh, cung cấp các dịch vụ công ích và phục vụ nhiệm vụ C trị và kinh tế xã hội tại địa phương. Thời gian từ năm 2009 đến tháng 3/2018, B tỉnh đã ủy quyền cho B huyện Tân Thành (sau đây gọi tắt là B huyện) ký các hợp đồng đại lý cung cấp dịch vụ Bưu C viễn thông và các hợp đồng thuê khoán với bà Đoàn Thị L để thực hiện công việc bưu C chuyển phát, tài C bưu C, phân phối truyền thông, phục vụ hoạt động văn hóa xã tại B T. Theo nội dung hợp đồng: Bà L được giao sử dụng, bảo quản tài sản tại trụ sở B T bao gồm Nhà B văn hóa xã T và các tài sản khác phục vụ cho hoạt động cung cấp các dịch vụ Bưu C, Viễn thông và phục vụ hoạt động văn hóa xã. Đồng thời do bà L có hoàn cảnh khó khăn, không có nơi ở ổn định nên B đã cho bà L sinh sống ở tại trụ sở B T. B xác định các hợp đồng đã ký với bà L đều là Hợp đồng dân sự, không phải hợp đồng lao động, không có mức tiền lương mà căn cứ vào hiệu quả công việc của bà L để chi trả thù lao hoa hồng. Hợp đồng cuối cùng B ký kết với bà L là hợp đồng Đại lý số 49/HĐTK-2017 ngày 01/9/2017 (gọi tắt là hợp đồng 49) với thời hạn từ 01/9/2017 đến hết 31/12/2017. Từ ngày 01/01/2018, B không tiếp tục ký hợp đồng với bà L nữa, với lý do: Bà L không có trình độ tin học để cập nhật dữ liệu và làm việc trên máy tính, đồng thời trong thời gian 3 tháng đảm nhiệm Trưởng B T, bà L đã không hoàn thành các chỉ tiêu doanh thu hàng tháng của ngành B. Căn cứ điểm b, Khoản 10.1 và 10.3 Điều 10 Hợp đồng 49 quy định Hợp đồng hết hạn mà không gia hạn đồng; B không còn nhu cầu thuê bà L nữa và trong trường hợp bà L không hoàn thành nhiệm vụ thì B có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng là đúng theo nội dung các bên đã thỏa thuận, phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên do bà L không có công việc và đợi giải quyết chế độ cho bà L nên từ tháng 01/2018 đến tháng 3/2018, B vẫn để cho bà L được tiếp tục làm việc. Đến ngày 31/3/2018, B đã gặp trực tiếp bà L thông báo chấm dứt hợp đồng yêu cầu bà L bàn giao công việc và trụ sở B T vào ngày 01/4/2018 nhưng bà L không đồng ý. Sau đó B cũng như UBND xã T có nhiều thông báo yêu cầu bà L di dời nhà tạm và tài sản riêng của bà L trả lại trụ sở cho B nhưng bà L không chấp hành. Do đó để bảo đảm cho việc hoạt động của B T, Nay, B khởi kiện yêu cầu Tòa án: +Buộc bà L di dời tài sản và trả lại trụ sở B T cho B Việt Nam. Trường hợp bà L di dời thì B Việt Nam sẽ hỗ trợ cho bà L số tiền 42.000.000 đồng để tìm nơi ở mới. 3 Buộc bà L phải bàn giao sổ sách, tài sản liên quan đến công việc B. Buộc bà L thanh toán số tiền 10.913.168 đồng, từ việc bán hàng BTCOM cho B. Buộc bà L bồi thường thiệt hại số tiền 56.808.000 đồng, là tiền mất doanh thu trong thời gian B ngừng hoạt động. Đối với yêu cầu của bà L, thì B có ý kiến như sau: Đối với yêu cầu trả tiền thưởng tết và tiền lương tháng 2, 3/2018: B đã tính toán số tiền chưa thanh toán cho bà L bao gồm tiền thưởng tết và tiền lương tháng 2, 3/2018 là 5.643.510 đồng nhưng bà L từ chối không nhận, vì cho rằng đây chỉ là tiền Thù lao tháng 2, 3/2018 và chưa có tiền thưởng tết năm 2018. Nay B đồng ý thanh toán số tiền 5.643.510 đồng cho bà L. Đối với yêu cầu tiếp tục ký hợp đồng đại lý dịch vụ B với bà L; yêu cầu bổ nhiệm bà L Làm trưởng B điểm B văn hóa xã T: B không đồng ý vì bà L không có trình độ tin học nên không đáp ứng được nhu cầu công việc của B hiện nay. Đối với yêu cầu bổ nhiệm lại chức vụ trưởng B điểm B văn hóa xã T thì: B không đồng ý vì Năm 2017 đã bổ nhiệm nhưng bà L không hoàn thành nhiệm vụ trưởng B T đã không bổ nhiệm lại. Đối với việc bà L yêu cầu tiền sửa chữa trụ sở B văn hóa xã T là 309.000.000 đồng: B không đồng ý, vì bà L tự ý sửa chữa, không được phép của B và việc sửa chữa trụ sở là để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt cá nhân của gia đình bà L. Đối với việc bà L yêu cầu bồi thường do không được làm việc trong thời gian 19 tháng từ tháng 4/2018 đến nay (tháng 10/2019) theo mức lương tối thiểu vùng: 3.670.000 đồng x 19 tháng = 69.730.000 đồng thì B không đồng ý, vì hợp đồng B ký kết với bà L được xác định đây là hợp đồng dân sự, việc chấm dứt hợp đồng đã thực hiện đúng quy định. */ Tại các bản khai bị đơn bà Đoàn Thị L và Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày: Ngày 01/3/2009 bà L và B Tân Thành ký kết hợp đồng làm đại lý cung cấp dịch vụ Bưu C viễn thông và phục vụ hoạt động văn hóa tại địa điểm B – văn hóa xã T; sau đó mỗi năm các bên sẽ ký lại hợp đồng mới. Đồng thời do bà L không có chỗ ở, nên đã được B tạo điều kiện cho ở tại trụ sở B T. Quá trình thực hiện hợp đồng, bà L đã hoàn thành tốt các công việc được giao và không tranh chấp gì.
Nội dung vụ án theo trình bày của bị đơn Bản án số: 88/2020/DS-PT Ngày 3 tháng 7 năm 2020 “V/v: Tranh chấp Đòi lại tài sản; Hợp đồng cung ứng dịch vụ và đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”
Tại phiên tòa phúc thẩm: +Một số đương sự vắng mặt, Tòa án đã tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa, giấy triệu tập đến tham gia phiên tòa xét xử hợp lệ. +Nguyên đơn B giữ nguyên nội dung rút một phần yêu cầu khởi kiện là không buộc bà L phải bồi thường thiệt hại số tiền 56.808.000 đồng do mất doanh thu trong thời gian B ngừng hoạt động. Còn các yêu cầu khởi kiện khác vẫn giữ nguyên. Bị đơn bà L giữ nguyên yêu cầu phản tố và kháng cáo. +Các bên đương sự không thỏa thuận được việc giải quyết vụ án và không cung cấp tài liệu, chứng cứ mới. Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng, các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung: Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xét xử công khai tại phiên tòa, nhận thấy: Nội dung kháng cáo của bà L có căn cứ để chấp nhận một phần. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo, sửa bản án dân sự sơ thẩm.
Lập luận của luật sư bảo vệ quyền lợi của bị đơn Bản án số: 88/2020/DS-PT Ngày 3 tháng 7 năm 2020 “V/v: Tranh chấp Đòi lại tài sản; Hợp đồng cung ứng dịch vụ và đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”
Quyết định của toà sơ thẩm Bản án số: 88/2020/DS-PT Ngày 3 tháng 7 năm 2020 “V/v: Tranh chấp Đòi lại tài sản; Hợp đồng cung ứng dịch vụ và đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định: [1]Đơn kháng cáo của bà Đoàn Thị L trong hạn luật định và đúng trình tự thủ tục mà pháp luật quy định nên Hội đồng xét xử chấp nhận, xem xét lại bản án sơ thẩm theo trình tự phúc thẩm. [2] Xét việc B rút một phần yêu cầu khởi kiện là không buộc bà L phải bồi thường thiệt hại số tiền 56.808.000 đồng do mất doanh thu trong thời gian B ngừng hoạt động. Việc rút yêu cầu này là tự nguyện. Căn cứ Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu đã rút này. [3]Xét nội dung kháng cáo, Hội đồng xét xử thấy: [3.1] Về thủ tục tố tụng: Bà L cho rằng, Tòa án cấp sơ thẩm nhập vụ án và xác định bà L là bị đơn là không đúng quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy:
Quan điểm của viện kiểm sát Bản án số: 88/2020/DS-PT Ngày 3 tháng 7 năm 2020 “V/v: Tranh chấp Đòi lại tài sản; Hợp đồng cung ứng dịch vụ và đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng, các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung: Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xét xử công khai tại phiên tòa, nhận thấy: Nội dung kháng cáo của bà L có căn cứ để chấp nhận một phần. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo, sửa bản án dân sự sơ thẩm.
Nhận định của hội đồng xét xử Bản án số: 88/2020/DS-PT Ngày 3 tháng 7 năm 2020 “V/v: Tranh chấp Đòi lại tài sản; Hợp đồng cung ứng dịch vụ và đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN: Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định: [1]Đơn kháng cáo của bà Đoàn Thị L trong hạn luật định và đúng trình tự thủ tục mà pháp luật quy định nên Hội đồng xét xử chấp nhận, xem xét lại bản án sơ thẩm theo trình tự phúc thẩm. [2] Xét việc B rút một phần yêu cầu khởi kiện là không buộc bà L phải bồi thường thiệt hại số tiền 56.808.000 đồng do mất doanh thu trong thời gian B ngừng hoạt động. Việc rút yêu cầu này là tự nguyện. Căn cứ Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu đã rút này. [3]Xét nội dung kháng cáo, Hội đồng xét xử thấy: [3.1] Về thủ tục tố tụng: Bà L cho rằng, Tòa án cấp sơ thẩm nhập vụ án và xác định bà L là bị đơn là không đúng quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy: Ngày 15/7/2019 Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ thụ lý vụ án dân sự sơ thẩm số 85/2019/TLST-DS, giữa nguyên đơn là bà Đoàn Thị L với bị đơn là Tổng công ty B việt Nam, về việc Tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ. Ngày 16/7/2019 Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ thụ lý vụ án dân sự sơ thẩm số 87/2019/TLST-DS, giữa nguyên đơn Tổng công ty B việt Nam với bị đơn là bà Đoàn Thị L, về việc Tranh chấp Đòi lại tài sản. Cả 2 vụ án có cùng đương sự và có các quan hệ tranh chấp liên quan đến nhau. Căn cứ khoản 1 Điều 42 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ đã ra quyết định số 01/2019/QĐST-DS ngày 15/10/2019 nhập vụ án thụ lý số 85/TLST-DS vào vụ án thụ lý số 87/2019/TLST-DS. Thành một vụ án số 87/2019/TLST-DS ngày 16/7/2019, về tranh chấp “ Hợp đồng cung ứng dịch vụ; Đòi lại tài sản và đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” Giữa: nguyên đơn Tổng công ty B việt Nam với bị đơn là bà Đoàn Thị L. Các yêu cầu của nguyên đơn và bị đơn đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét đầy đủ, đảm bảo đúng pháp luật. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm nhập 2 vụ án thành 1 vụ án và xác định tư cách của các đương sự trong vụ án là đúng quy định của pháp luật. [3.2] Về nội dung kháng cáo của bà L: Yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi cho bà L. Bà L yêu cầu Quyền lợi: + Buộc B phải trả cho bà L: Tiền Thù lao tháng 2 và tháng 3 năm 2018 với số tiền là 5.643.510 đồng; Tiền tết năm 2018 số tiền 14.000.000 đồng (mười bốn triệu đồng); +Tiếp tục thực hiện, ký kết hợp đồng số 49 và bổ nhiệm bà L giữ chức vụ Trưởng B xã T tính từ tháng 01/2018 cho đến nay. +Yêu cầu B thanh toán các khoản tiền mà bà L đã bỏ ra để sửa chữa trụ sở B (Bao gồm tiền thay các tấm kính, tiền làm nhà tạm, tiền thay trần nhà, tiền thay ống nước, tiền thay dây điện, tiền bảo trì, gia trát nhà khỏi dột vào mùa mưa) với tổng số tiền 309.000.000 đồng. 6 +Trường hợp, B không đồng ý tiếp tục ký hợp đồng và nhận bà L trở lại làm việc thì bà L yêu cầu B phải thanh toán các khoản tiền lương trong thời gian B đơn phương chấm dứt hợp đồng với bà L (tạm tính từ tháng 4/2018 đến nay theo mức lương tối thiểu vùng là 3.670.000đ x 19 tháng = 69.730.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy: Từ năm 2009 đến năm 2017 B và bà L ký kết các hợp đồng dân sự về việc thuê khoán, làm đại lý cung ứng dịch vụ bưu C chuyển phát, tài C bưu C, phân phối truyền thông, phục vụ hoạt động văn hóa tại B văn hóa xã T. Sau mỗi lần hết thời hạn thì ký kết hợp đồng khác và Hợp đồng cuối cùng ký kết là hợp đồng số 49/HĐKT-2017 vào ngày 1/9/2017, thời hạn kết thúc là ngày 31/12/2017. Đến ngày 27/3/2018, B báo cho bà L biết đến ngày 1/4/2018 bà L phải bàn giao công việc và chấm dứt hợp đồng, không ký lại hợp đồng với bà L nữa, vì bà L không đáp ứng được công việc hiện nay. Do vậy: + Bà L yêu cầu B trả tiền thù lao tháng 2 và tháng 3 năm 2018 với số tiền 5.643.510 đồng và tiền thù lao chưa trả cho ông Đinh Văn Thêm (chồng bà L) là 5.600.000 đồng. Tổng cộng là 11.244.218 đồng, B thừa nhận đúng nên đồng ý trả số tiền này cho bà L. Đối với yêu cầu trả tiền thưởng tết năm 2018 với số tiền 14.000.000 đồng (mười bốn triệu đồng): Căn cứ thông báo số 76 /TB- BĐBRVT ngày 5/2/2018 của B tỉnh thì tiền thưởng tết cho đối tượng lao động hợp đồng thuê khoán thì mỗi người là 1.000.000 đồng (Một triệu đồng). Do đó yêu cầu của bà L yêu cầu B trả tiền thưởng tết năm 2018 số tiền 14.000.000 đồng là không có căn cứ, nên chỉ chấp nhận một phần yêu cầu là tiền thưởng tết 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) (BL106 ); Số tiền B phải trả cho bà L là 12.244.218 đồng. Tại phiên tòa phúc thẩm bà L đã xác nhận bà L đã nhận tiền Thù lao của ông Thêm là 5.600.000 đồng và tiền thưởng tết 1.000.000 đồng = 6.600.000 đồng. Tổng số tiền B còn nợ bà L là 5.644.218 đồng (12.244.218 đồng - 6.600.000 đồng = 5.644.218 đồng). Tổng số tiền bán hàng bà L chưa nộp cho B là 10.913.168 đồng và ông Thêm chưa nộp là 1.466.000 đồng = 12.379.168 đồng. (BL 109-110) Khấu trừ 12.379.168 đồng - 5.644.218 đồng = 6.734.950 đồng (Bà L có nghĩa vụ trả cho B) + Về việc bà L yêu cầu được tiếp tục thực hiện hoặc ký kết hợp đồng mới nội dung ký như hợp đồng 49 và bổ nhiệm bà L giữ chức vụ Trưởng B T tính từ tháng 01/2018 cho đến nay. Hội đồng xét xử thấy: Hợp đồng số 49 là hợp đồng dân sự, Bà L với B đã ký kết các điều khoản quy định rõ ràng về thời hạn và việc hai bên chấm dứt hợp đồng được thể hiện tại Điều 10, 11 Hợp đồng 49: “Có thời hạn từ ngày 01/9/2017 đến hết ngày 31/12/2017”. Chấm dứt hợp đồng trong các trường hợp, tại điểm a, mục 10.1; điểm g, e mục 10.3, quy định: Hợp đồng hết hạn mà không được gia hạn; Bên B không hoàn thành nhiệm vụ; Bên A không còn nhu cầu thuê bên B” Như vậy, Hợp đồng 49 đã chấm dứt từ thời gian hết ngày 31/12/2017. Do bà L không có trình độ cơ bản tin học, không biết sử dụng máy vi tính nên không đáp ứng 7 được công việc của B (được thể hiện bà L không có chứng chỉ hoặc bằng cấp tin học), không hoàn thành nhiệm vụ. Bà L đã tự đóng cửa, cho ngừng hoạt động công việc của B T từ tháng 4/2018 cho đến nay; B không có nhu cầu ký kết thuê bà L làm đại lý nữa nên không thực hiện hoặc tiếp tục ký kết hợp đồng như nội dung hợp đồng số 49 với bà L nữa. Do đó B chấm dứt hợp đồng số 49 với bà L là có căn cứ. Nên không chấp nhận yêu cầu này của bà L. Tuy nhiên về thời hạn thông báo chấm dứt hợp đồng: Theo Bộ luật dân sự, quy định “Trường hợp việc tiếp tục thực hiện công việc không có lợi cho bên sử dụng dịch vụ thì bên sử dụng dịch vụ có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng, nhưng phải báo cho bên cung ứng dịch vụ biết trước một thời gian hợp lý; bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền công theo phần dịch vụ mà bên cung ứng dịch vụ đã thực hiện và bồi thường thiệt hại”; Theo Điều 8.6, Điều 10 của Hợp đồng 49 quy định “Hai bên có quyền đơn Khoản 1 Điều 520 phương chấm dứt hợp đồng nhưng phải báo cho bên kia biết trước ít nhất 30 ngày” Nhận thấy thời điểm B thông báo chấm dứt hợp đồng với bà L vào ngày 27/3/2018 sẽ chấm dứt hợp đồng với bà L từ ngày 01/4/2018 được coi là đơn phương chấm dứt hợp đồng; Như vậy thời hạn thông báo chấm dứt hợp đồng chưa đủ 30 ngày là chưa đúng thỏa thuận đã ký kết giữa hai bên. Do đó xét việc B đã đơn phương chấm dứt hợp đồng thông báo không đúng về thời hạn, đã gây thiệt hại làm ảnh hưởng công việc của bà L trong tháng 4/2018, nên buộc B phải bồi thường thiệt hại 01 tháng thu nhập cho bà L. B và bà L đều xác nhận bà L có mức thu nhập bình quân khi ký hợp đồng làm Đại lý với B là từ 3.000.000đồng đến 6.000.000 đồng/tháng, do đó cần buộc B bồi thường cho bà L 1 tháng tiền thù lao tương đương số tiền 5.000.000 đồng. Khấu trừ 6.734.950 đồng - 5.000.000 đồng = 1.734.950 đồng (Bà L có nghĩa vụ trả cho B). + Về việc bà L yêu cầu B bổ nhiệm bà L tiếp tục giữ chức vụ Trưởng B xã tính từ tháng 01/2018 cho đến nay. Hội đồng xét xử thấy: Năm 2017 bà L được giao nhiệm vụ giữ chức Trưởng B T, với thời gian là 3 tháng (Quyết định số 327/QĐ-BĐBRVT ngày 24/7/2017 từ ngày 1/7/2017 đến ngày 1/10/2017). Trong 3 tháng này bà L làm trưởng B xã nhưng không hoàn thành nhiệm vụ, không đạt chỉ tiêu doanh thu mà ngành đề ra (Theo quy định của ngành B tại văn bản số 2861/BĐVN ngày 12/7/2017 thì doanh thu năm 2017 tối thiểu là 20.00.000 đồng/ tháng, nhưng bà L doanh thu tháng 7 đạt 20.178.297 đồng; Tháng 8: 8.487.538 đồng; Tháng 9: 16.593.242 đồng; Nên khi hết hạn 3 tháng B đã không tiếp tục ký quyết định giao nhiệm vụ lại cho bà L làm trưởng B xã T nữa. Do đó đương nhiên bà L không còn là Trưởng B T nữa và hiện nay B không còn nhu cầu ký hợp đồng hợp tác làm đại lý dịch vụ với bà L nữa do bà L không đáp ứng được công việc. Nên yêu cầu này của bà L là không có cơ sở nên không được chấp nhận. +Về việc bà L yêu cầu B thanh toán các khoản tiền mà bà L đã bỏ ra để sửa chữa trụ sở B (Bao gồm tiền thay các tấm kính, tiền làm nhà tạm, tiền thay trần nhà, tiền thay ống nước, tiền thay dây điện, tiền bảo trì, gia trát nhà khỏi dột vào mùa mưa) với tổng số tiền 309.000.000 đồng. 8 Hội đồng xét xử thấy: Đối với yêu cầu này thì bà L không đưa ra được tài liệu chứng cứ việc sửa chữa là do yêu cầu của B và bà L cũng thừa nhận bà L tự sửa chữa do trụ sở bị hư hỏng. Việc bà L tự sửa chữa trụ sở, làm nhà tạm không được phép của B mà bà L sửa chữa để sử dụng riêng; Nên yêu cầu này không được chấp nhận. + Về yêu cầu của bà L: Trường hợp, B không đồng ý tiếp tục ký hợp đồng và nhận bà L trở lại làm việc thì bà L yêu cầu B phải thanh toán các khoản tiền lương trong thời gian B đơn phương chấm dứt hợp đồng với bà L tạm tính từ tháng 4/2018 đến nay (tháng 10/2019) theo mức lương tối thiểu vùng là 3.670.000đ x 19 tháng = 69.730.000 đồng. Hội đồng xét xử thấy: Việc bà L ký hợp đồng số 49 với B là hợp đồng làm đại lý cung ứng dịch vụ B là hợp đồng dân sự, nên khi chấm dứt hợp đồng không phải trợ cấp mất việc, trợ cấp thôi việc như chấm dứt hợp đồng lao động. Mà tại phiên tòa B tự nguyện hỗ trợ một khoản tiền cho bà L tìm công việc khác là 2 tháng lương tương đương với số tiền 10.000.000 đồng, nên hội đồng xét xử ghi nhận. [3.3] Về yêu cầu khởi kiện của B: Buộc bà L di dời tài sản và trả lại trụ sở B T cho B Việt Nam. B Việt Nam sẽ hỗ trợ cho bà L số tiền 42.000.000 đồng để di dời và tìm nơi ở mới. Buộc bà L phải bàn giao sổ sách, tài sản liên quan đến công việc B. Buộc bà L thanh toán số tiền 10.913.168 đồng, từ việc bán hàng BTCOM cho B. Hội đồng xét xử thấy: + Xét việc B cho phép bà L ở tại trụ sở B T thì thấy: Theo Khoản 2 Điều 202 Bộ luật Dân sự, quy định “ xác định mục đích Nhà nước giao thửa đất số 4 (cũ161B) cho B tỉnh Bà Rịa–Vũng Tàu để làm địa điểm kinh doanh phục vụ cho công tác C trị, kinh tế, văn hóa xã hội tại địa phương và B tỉnh có trách nhiệm quản lý, sử dụng cơ sở nhà đất đúng mục đích sử dụng đất được Nhà nước giao theo quy định pháp luật. Do đó có căn cứ xác định việc B cho bà L ở nhờ tại trụ sở B là không đúng quy định. Để bảo đảm cho hoạt động của B T, buộc bà L có nghĩa vụ di dời tài sản riêng và trả lại trụ sở B T, thuộc thửa số 04 (Thửa cũ 161B), tờ bản đồ số 10 (tờ bản đồ cũ là 14), tọa lạc tại Ấp 3, xã T, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; và toàn bộ thiết bị tài sản của B mà bà L đang quản lý theo biên bản thẩm định tài sản ngày 04/9/2019, cho B. - xã hội, tổ chức C trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp thực hiện việc quản lý, sử dụng tài sản được Nhà nước giao đúng mục đích, phạm vi, theo cách thức, trình tự do pháp luật quy định, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được quy định trong điều lệ.”. Theo Khoản 2 Điều 2 Quyết định số 1531/QĐ – BTTTT ngày 20/9/2018 của Bộ trưởng Bộ Thông tin và truyền thông, Tổ chức C trị, tổ chức C trị Điều 2 Quyết định 199/QĐ – BĐVN-HĐTV ngày 11/10/2018, Điều lệ, Căn cứ khoản 1 Điều 166, 202 Bộ luật dân sự, việc B khởi kiện đòi bà L phải di dời tài sản riêng của bà L ra khỏi trụ sở B và trả lại trụ sở B T cho B Việt Nam là có căn cứ. 9 + Về việc B buộc bà L phải thanh toán số tiền 10.913.168 đồng, từ việc bán hàng BTCOM cho B. Như đã phân tích ở trên: Tổng số tiền bán hàng bà L chưa nộp cho B là 10.913.168 đồng và ông Thêm (chồng bà L) chưa nộp tiền phát COD cho B là 1.466.000 đồng = 12.379.168 đồng. (BL 109- 110). Sau khi đã khấu trừ các khoản tiền mà B có nghĩa vụ trả cho bà L và bà L có nghĩa vụ trả cho B thì bà L còn phải trả lại cho B số tiền là 1.734.950 đồng {12.379.168 đồng (Số tiền bà L phải cho B) – 10.644.218 đồng (Số tiền B phải trả cho bà L) = 1.734.950 đồng} [4] Xét việc B hỗ trợ tiền cho bà L: B tự nguyện hỗ trợ cho bà L số tiền 42.000.000 đồng để di dời nhà, tài sản riêng của bà L ra khỏi trụ sở B T và để bà L tìm nơi ở mới, đồng thời hỗ trợ 10.000.000 đồng để tìm công việc mới. Đây hoàn toàn là sự tự nguyện của B, nên Hội đồng xét xử ghi nhận. [6] Về án phí sơ thẩm, phúc thẩm: Căn cứ Điều 12, 26, 27, 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bà Đoàn Thị L thuộc trường hợp hộ nghèo được miễn án phí dân sự nên không phải chịu án phí và được hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí phúc thẩm. B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng nộp theo Biên lai thu tiền số 0010094 ngày 15/7/2019 và 1.551.000 đồng (một triệu năm trăm năm mươi mốt nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền số 0001684 ngày 15/10/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Tổng công ty B Việt Nam được hoàn trả 1.551.000 đồng (một triệu năm trăm năm mươi mốt nghìn đồng). [5] Về chi phí thẩm định, định giá: Căn cứ Điều 157, 165 Bộ luật tố tụng dân sự. Chi phí hết 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) Các đương sự tự nguyện nộp và đã nộp đủ. B nộp 3.000.000 đồng; bà L nộp 2.000.000 đồng. Từ những phân tích và nhận định trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ, chấp nhận một phần kháng cáo của bà Đoàn Thị L, sửa bản án sơ thẩm. Vì các lẽ trên,
Quyết định của hội đồng xét xử Bản án số: 88/2020/DS-PT Ngày 3 tháng 7 năm 2020 “V/v: Tranh chấp Đòi lại tài sản; Hợp đồng cung ứng dịch vụ và đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; QUYẾT ĐỊNH: Chấp nhận một phần kháng cáo của bà Đoàn Thị L. Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 40/2019/DS-ST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ, như sau: Áp dụng: Điều 26, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a, c Khoản 1 Điều 39, Điều 273, khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 166, Điều 202, Điều 203; Điều 513, Điều 514, Điều 520, Điều 688 Bộ luật dân sự; Điều 12, 26, 27, 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về án phí lệ phí. Tuyên xử: 10 1. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của Tổng công ty B Việt Nam về việc buộc bà Đoàn Thị L phải bồi thường số tiền 56.808.000 đồng (Năm mươi sáu triệu, tám trăm lẻ tám ngàn đồng). 2.Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Tổng công ty B Việt Nam và Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bà Đoàn Thị L. +Tuyên bố hợp đồng số 49/HĐKT-2017 ngày 1/9/2017 về việc làm Đại lý cung cấp dịch vụ Bưu C chuyển phát, Tài C bưu C, phân phối truyền thông, phục vụ hoạt động văn hóa tại B văn hóa xã, giữa B huyện Tân Thành – B tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (bên A) và bà Đoàn Thị L (bên B) chấm dứt kể từ ngày 31/3/2018. +Buộc bà Đoàn Thị L phải tháo dỡ di dời nhà tạm, tài sản riêng của bà Đoàn Thị L trên đất trả lại diện tích đất 446 m2 thuộc thửa 04, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp 3, xã T, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; Diện tích đất 446 m2 có các điểm góc cạnh tọa độ 1, 2, 3, 4 theo Sơ đồ vị trí đất lập ngày 28/10/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã Phú Mỹ. Và Bà Đoàn Thị L phải trả lại trụ sở B xã T và toàn bộ sổ sách, tài sản thiết bị của B mà bà L đang quản lý cho Tổng công ty B Việt Nam. + Bà Đoàn Thị L có nghĩa vụ trả số tiền 1.734.950đ (Một triệu, bảy trăm ba mươi bốn ngàn, chín trăm năm mươi đồng) cho Tổng công ty B Việt Nam. +Ghi nhận sự tự nguyện hỗ trợ của Tổng công ty B Việt Nam: Tổng công ty B Việt Nam hỗ trợ cho bà Đoàn Thị L số tiền 52.000.000 đồng (Năm mươi hai triệu đồng). {Trong đó tiền chi phí di dời tài sản và thuê nơi ở mới là 42.000.000 đồng và tiền sắp xếp tìm công việc mới với số tiền 10.000.000 đồng} 3. Chi phí tố tụng thẩm định, định giá tài sản: Chi phí hết số tiền 5.000.000 đồng (năm triệu đồng). Các đương sự đã nộp đủ. 4. Về án phí dân sự sơ, phúc thẩm: + Về án phí sơ thẩm: Bà Đoàn Thị L được hoàn trả số tiền 300.000 đồng ( Ba trăm ngàn) theo biên lai thu tiền số 0010085 ngày 10/7/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thi xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Tổng công ty B Việt Nam được hoàn trả 1.551.000 đồng (một triệu năm trăm năm mươi mốt nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền số 0001684 ngày 15/10/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. + Về án phí phúc thẩm: Bà L không phải nộp. Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành nếu bên phải thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 luật Thi 11 hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 5.Bản án có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án, ngày 3/7/2020.
Tên bản án là gì Bản án số: 52/2023/DS-PT, Ngày: 17/02/2023, TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
V/v Tranh chấp quyền sở hữu, tài sản, tranh chấp thừa kế
Hội đồng xét xử gồm những ai Bản án số: 52/2023/DS-PT, Ngày: 17/02/2023, TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Phan Tô Ngọc, Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Minh, Bà Hồ Thị Thanh Thúy
Ai là nguyên đơn Bản án số: 52/2023/DS-PT, Ngày: 17/02/2023, TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyên đơn: Ông LBP, sinh năm 1947 (có mặt) Địa chỉ: Số 637A Âu Cơ, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ai là bị đơn Bản án số: 52/2023/DS-PT, Ngày: 17/02/2023, TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1 Ông LVB, sinh năm 1959 (có mặt) Địa chỉ: Số 635 Âu Cơ, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện hợp pháp của ông Bạch: Ông Nguyễn Hồng Hải, sinh năm 1961, là đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền số 004902 ngày 19/4/2017 tại Văn phòng Công chứng Chợ Lớn); địa chỉ: số 820 Nguyễn Trãi, Phường 14, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt). 2.2 Ông Lê Thanh Dũng, sinh năm 1964 Địa chỉ: Số 637A Âu Cơ, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện ủy quyền: Ông LVB, sinh năm 1959, Văn bản ủy quyền số 008673 ngày 08/12/2017 2 Địa chỉ: Số 635 Âu Cơ, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt). 2.3 Bà LTL, sinh năm 1949 Đại diện ủy quyền: ông NHC, Hợp đồng ủy quyền ngày 24/5/2022. Cùng địa chỉ: Số 371/4/5 Nguyễn Văn Quá, phường Đông Hưng Thuận, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. 2.4 Bà Lê Thị Nga, sinh năm 1956 Địa chỉ: 16/3 Trung Chánh 2, xã Trung Chánh, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện ủy quyền: Ông LVB, sinh năm 1959, Văn bản ủy quyền số 008673 ngày 08/12/2017 Địa chỉ: 635 Âu Cơ, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt). Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bị đơn: Luật sư Đỗ Khắc Dũng- thuộc Văn phòng Luật sư Phạm Quang Bình, Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt). 3. Người có quyền lợi, nghĩ a vụ liên quan: 3.1 Ông VHT, sinh năm 1965 (vắng mặt) Địa chỉ: Số 637C Âu Cơ, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. 3.2 Bà PTH, sinh năm 1956. Địa chỉ: Số 637A Âu Cơ, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện ủy quyền: bà Lê Thị Phương Dung, Giấy Ủy quyền ngày 06/10/2022 3.3 Bà Lê Thị Đặng, sinh năm 1943 (chết ngày 27/8/2021) Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Lê Thị Đặng: 3.3.1 Ông VHT Địa chỉ: Số 637C Âu Cơ, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt). 3.3.2 Ông VHN Địa chỉ: 637C Âu Cơ, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt). 3.3.3 Bà VTT Tr Địa chỉ: 172/194/2B An Dương Vương, phường 16, quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt). 3.3.4. Ông VTTh Địa chỉ: 637C Âu Cơ, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt). 3.4 Bà Nguyễn L T H, sinh năm 1981 (có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: 183 ấp Hưng Thọ, xã Hưng Thịnh, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương. 3.5 Ông Nguyễn Lê Tùng, sinh năm 1983 (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: 168/2 khu phố Thạnh Hòa B, phường An Thạnh, Thuận An, tỉnh Bình Dương. 3 3.6 Ông Nguyễn L T2, sinh năm 1974 (có đơn xin xét xử vắng mặt) 3.7 Bà Nguyễn LT Th, sinh năm 1978 (có đơn xin xét xử vắng mặt) Cùng địa chỉ: Bình Hòa, Bình Nhâm, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương. 3.8 Văn phòng Đăng ký đất đai Thành phố Hồ Chí Minh Địa chỉ: Số 12 Phan Đăng Lưu, Phường 7, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện hợp pháp: Bà Phạm NTT3 (xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Số 70A Thoại Ngọc Hầu, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. 3.9 Ủy ban nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh Đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền số 08/GUQ-UBND ngày 19/4/2021) - Bà Trần Thị Thanh Thảo - Phó trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường quận Tân Phú (xin xét xử vắng mặt) Cùng địa chỉ: Số 70A Thoại Ngọc Hầu, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh
Ai là đại diện Viện kiểm sát Bản án số: 52/2023/DS-PT, Ngày: 17/02/2023, TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ông Đỗ Thành Đạt, Kiểm sát viên
Ai là thư ký toà Bản án số: 52/2023/DS-PT, Ngày: 17/02/2023, TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Thư ký phiên toà: Bà Đinh Hồng Vân -Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh